"
Say Ngủ - Rachel Abbott full mobi pdf epub azw3 [Trinh Thám]
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Say Ngủ - Rachel Abbott full mobi pdf epub azw3 [Trinh Thám]
Ebooks
Nhóm Zalo
SAY NGỦ
(DCI Tom Douglas #3)
Tác giả: Rachel Abbott
Người dịch: Nguyễn Xuân Hồng Phát hành: Văn Việt
Nhà xuất bản Văn Học 2016 —★—
ebook©vctvegroup
Mở đầu
C
ô gái mỉm cười lúc rời khỏi quán rượu đông nghẹt, ồn ào, những tiếng cười vẫn văng vẳng bên tai khi cô chật vật mở cánh cửa nặng trịch, để một luồng khí lạnh buốt ùa vào. Cô quay người và hét lên, “Đêm!” với bất kỳ ai có thể đang dõi theo mình, một vài cánh tay giơ lên chào tạm biệt, nhưng hầu hết còn đang bận giữ những ly bia, hoặc khua múa loạn xạ để nhấn mạnh một phần nào đó trong câu chuyện thú vị mới nhất đang được chia sẻ với bất kỳ ai sẵn sàng lắng nghe.
Cánh cửa đóng sầm lại sau lưng cô, chặn hết thứ ánh sáng màu vàng ấm áp cùng những âm thanh hân hoan của đám người trẻ tuổi đang vui thú. Đêm đen bủa xuống xung quanh cô và sự im lặng đột ngột ập tới như một cú đòn hiện hữu. Trong khoảnh khắc, cô đứng im bất động.
Rùng mình trước cái rét đầu đông, cô siết chặt khăn quàng xung quanh cổ và khoanh hai cánh tay, co ro ôm lấy mình tìm hơi ấm. Cô thật sự sẽ phải tìm lấy một chiếc áo choàng mình thấy đủ ưa thích để mặc trong những dịp ra ngoài buổi tối. Mỉm cười trước ý nghĩ phù phiếm đó, cô tự nhủ chỉ mất có mười lăm phút đi bộ để về đến căn hộ của họ, cho nên nếu rảo bước thì chẳng mấy chốc cô sẽ được ấm áp.
Không gian im lặng tạm thời bị gián đoạn khi cánh cửa quán rượu bật mở một lần nữa, ánh đèn từ phía trong hắt quầng sáng màu hổ phách ngang qua vỉa hè ẩm ướt. Cô nghĩ mình đã nghe
thấy tiếng ai đó hét gọi tên cô, át cả tiếng nhạc ầm ĩ phát ra từ quán rượu ấm áp, nhưng cánh cửa đã đóng sập, tất cả lại chìm vào im lặng.
Tại khu vực này của Manchester, vẫn còn vài người đang vội vã rảo chân, mất hút theo những con đường nhánh dẫn về nhà họ. Thời tiết khốn khổ và cái lạnh tê tái đầu mùa có vẻ đã giữ chân mọi người trong nhà tối nay, ai có thể oán trách họ được chứ?
Phía trước cô vài thước, một cặp đôi đang dừng lại hôn nhau, cô gái choàng cánh tay quanh cổ chàng trai, đứng kiễng mũi chân lên, áp toàn bộ cơ thể mình vào người yêu, đêm tối dường như ấm áp hơn. Cô lại mỉm cười khi nhìn họ, nghĩ rằng khi yêu cảm giác thật tuyệt vời làm sao. Cô và bạn trai chỉ mới dọn về ở với nhau gần đây, cô chưa bao giờ hạnh phúc được như vậy.
Cô đi đến chỗ giao với con đường chính, đợi ở chỗ băng qua đường. Không có nhiều xe cộ, nhưng đây là một trong những trục đường chính ra vào Manchester nên nó chẳng bao giờ hoàn toàn yên ắng cả.
Cô hối hả băng qua khi đường phố quang hẳn, tiến về phía những con phố yên ắng hơn ở mé bên kia, rời xa dần những khu nhà cùng căn hộ hiện đại. Cô đã mừng run lên khi họ tìm được một căn hộ trong một ngôi nhà kiểu Victoria thời xưa - toàn bộ tầng trệt là của họ, mặc dù vẫn còn hơi nhếch nhác, song họ đang thu vén dần. Tuyệt vời nhất là nó lại nằm trên một trục đường có hàng cây xanh rất thanh bình, nhờ thế mà từng ngôi nhà đều trông có vẻ rất riêng tư.
Cô rẽ vào con đường đầu tiên. Khu công viên nhỏ bên tay phải
thường rất đông trẻ con chơi đùa, nhưng lại vắng tanh vào giờ này buổi tối, chuyển động duy nhất là từ một chiếc xích đu lẻ loi đang đung đưa nhè nhẹ, không hề phát ra tiếng.
Đôi giày đế bằng của cô gõ nhè nhẹ trên vỉa hè, cô có cảm giác rất lạ như thể mình đang bị tách ra khỏi phần còn lại của thế giới. Cô liếc về phía ô cửa sổ của những ngôi nhà mình đi qua, nhưng hầu hết trong số chúng đều đã bị những bờ giậu cao chắn khỏi tầm nhìn, còn những chỗ cô có thể thấy được đều tối đen, chỉ có hình phản chiếu vô hồn của những ngọn đèn đường làm cho những căn phòng phía sau dường như vắng vẻ một cách kỳ quái.
Cái cảm giác rằng mình không hề một mình len đến trong cô. Không phải một khoảnh khắc riêng rẽ - tiếng lẹt xẹt của một chiếc giày, thấp thoáng một bóng đen - khiến cô có cảm giác ấy. Mà là một thứ gì đấy hoàn toàn khác. Là cảm giác đôi mắt ai đó đang xoáy vào lưng mình. Cô chỉ biết như vậy.
Người cô cứng đờ, mọi đầu dây thần kinh đều râm ran. Cô có nên vùng chạy không? Hay như thế sẽ là tín hiệu cho kẻ kia đuổi theo, tóm lấy cô? Cô có nên rẽ vào lối chạy xe của nhà ai đó? Nhưng gã có thể bắt kịp cô trước khi cô đến được cửa nhà.
Hay sẽ tốt hơn nếu gã biết cô đã nhận ra gã? Nếu cô quay lại nhìn, liệu có thôi thúc hắn phản ứng lại hay không? Cô không biết nữa.
Nhưng gã ở đó. Chỉ là cô không biết gã đang ở gần cô đến mức nào.
Không hề suy nghĩ, cô xoay đầu thật nhanh. Đường phố vắng tanh. Gã không ở phía sau cô ư? Nhưng gã đang ở đâu đó, cô chắc
chắn là vậy. Cô liếc nhìn qua bên kia công viên và nghĩ đến chiếc xích đu đung đưa. Gã có thể đang đi sát bên cô, nấp sau những bụi cây dọc vỉa hè tối om, không một ánh sáng.
Tâm trí cô vụt nhớ đến một chuyện đã xảy ra lúc trước, cũng trong buổi tối nay. Xen giữa tất cả những tiếng cười và không khí vui vẻ ở quán rượu, có một khoảnh khắc cô đã cảm thấy không thoải mái. Cô đã xoay tròn rất nhanh trên chiếc ghế đẩu ở quầy rượu, gần như mong chờ sẽ nhìn thấy sự hiện diện của một gã đàn ông không quen biết đứng cách sau lưng cô chỉ vài phân. Nhưng chẳng hề có ai cả; thậm chí không có ai đang nhìn cô. Cô cố xua cái cảm giác đó đi, để cho sự vui vẻ của buổi tối lấn át cơn rùng mình ớn lạnh vì bất an và rồi dập tắt nó. Nhưng nó vẫn như vậy. Chính xác thì đó là những gì cô đang cảm thấy lúc này.
Ngay phía trước là một lối vào công viên. Nếu gã ở trong đó và đang tới gần để tóm lấy cô thì đây chính là chỗ gã sẽ ra tay. Cô có vài giây để đưa ra một kế hoạch. Cô sẽ hành động như thể chẳng có gì phải lo lắng, đến khi tới ngang với cổng vào, cô sẽ bỏ chạy. Và nếu phải làm như vậy, cô sẽ hét thật to.
Chỉ hai bước nữa thôi, cô sẽ đến được chỗ đó. Cô buông thõng hai tay, thả xuống hai bên sườn. Cô có thể nhìn thấy góc đường nhà mình ngay phía trước, nhưng thậm chí chỗ đó còn tối hơn, những thân cây đan kết dày kịt vốn rất được yêu thích hắt bóng đen xuống vỉa hè chật hẹp, mớ cành cây đen đúa trơ trụi của chúng lẫn vào bầu trời đêm.
Một, hai - và chạy.
Cô không dám liều liếc nhìn cánh cổng mở toang của công viên,
cũng không thể nghe thấy tiếng ai đang bám đuổi theo mình do tiếng bàn chân giậm thình thịch cùng tiếng thở hổn hển của cô. Nhưng khi cô chỉ còn cách góc phố mười mét thì mọi chuyện xảy ra. Cô đã gần tới được đó, gần như đã về được đến nhà, gần như đã an toàn.
Một bóng đen trồi ra từ phía sau cái cây đen đúa cuối cùng, đứng im bất động, hai chân xoạc rộng ra, đang chờ đợi để tóm lấy cô.
PHẦN MỘT Olivia
T
1
iếng chuông cửa ầm ĩ đổ từng hồi phá tan bầu không khí im lặng rầu rĩ của căn nhà, tôi ngừng đi đi lại lại.
Tôi cảm thấy niềm hy vọng phi lý đang dâng lên. Liệu đó có phải là Robert? Anh ấy quên mang chìa khóa chăng? Nhưng tôi biết là không phải. Tôi biết chính xác đó là ai.
Đấy là cảnh sát, họ đến đây vì tôi đã gọi điện báo cho họ. Lẽ ra tôi nên biết chuyện gì có thể xảy ra. Lẽ ra tôi nên hiểu rõ hơn những gì Robert đang muốn nói cho tôi biết, thông qua tất cả mọi thứ dù chẳng phải ngôn từ. Đã ba tiếng đồng hồ trôi qua kể từ lúc anh ấy ra đi cùng các con của tôi, từng khớp xương, sợi cơ trong người tôi đều đang đau đớn vì mất chúng.
Các con của tôi đâu?
Phải chăng đã có một vụ tại nạn? Làm ơn không phải vậy. Ý nghĩ ấy ập vào tôi như một cú đánh, những hình ảnh sống động hiện ra trong lớp màn đen bên dưới mí mắt đang khép chặt của tôi. Tôi mở mắt ra, nhưng vẫn hình dung được chúng ở phía sau xe Robert trong một cái rãnh dưới một ngõ hẻm tối tăm, bị húc văng ra khỏi đường bởi một gã tài xế điên rồ nào đó, nằm đấy chờ được người ta phát hiện. Tôi nhìn thấy máu trên trán chúng và nghe ngóng tiếng gào khóc của chúng trong tâm trí, chỉ để biết rằng chúng còn sống. Nhưng tôi chẳng thể nghe thấy gì ngoài tiếng chim hót vọng qua cửa xe để mở. Cũng không thể nhìn thấy Robert trong
khung cảnh này.
Những hình ảnh ấy thật đáng sợ và khủng khiếp, tôi thật sự không tin họ đã gặp tai nạn. Trong tâm khảm, tôi biết có thể đó là chuyện gì khác. Chuyện gì đấy còn hung hiểm hơn nhiều.
Khi tôi ra mở cửa, một viên cảnh sát còn trẻ với bờ vai rộng đang đứng đó, trông thật đường bệ và uy quyền trong chiếc áo giáp gi lê cùng sơ mi ngắn tay. Tôi biết anh ta sẽ hỏi gì, và biết rõ thủ tục. Giống y hệt lần trước.
Tôi tự hỏi không biết anh ta có biết tôi là ai hay không. Liệu anh ta có biết Olivia Brookes gọi điện tối nay cũng chính là Liv Hunt gọi đến bảy năm trước vì bạn trai của cô ta mất tích không? Liệu điều đó có tạo ra khác biệt gì hay không?
Thậm chí sau ngần đấy năm, tôi vẫn còn gặp ác mộng về cái đêm khủng khiếp ấy, lần nào cũng choàng tỉnh với mồ hôi ướt sũng và lạnh toát. Bạn trai tôi đã gọi tới báo rằng anh ấy đang rời thư viện đại học và sẽ sớm gặp tôi. Đi bộ về nhà không mất quá nhiều thời gian, nhưng hai tiếng sau anh ấy vẫn không về. Tôi đã như phát điên. Tôi nhớ mình ôm ghì lấy đứa con gái bé bỏng, thì thầm với nó, “Ba sắp về nhà rồi, con yêu,” Jasmine không hiểu được điều đó. Khi ấy, nó mới có hai tuổi. Nhưng đó vẫn là lời nói dối. Dan không bao giờ trở về nhà, tôi cũng chẳng bao giờ gặp lại anh ấy nữa.
Tôi đã tưởng không có gì tồi tệ hơn nỗi sợ hãi mình cảm thấy đêm hôm đó, hàng tiếng chờ đợi đằng đẵng, tự hỏi chuyện gì có thể xảy ra với Dan yêu dấu của tôi.
Nhưng tôi đã nhầm, bởi vì lần này còn tồi tệ hơn nhiều. Lần này, nỗi sợ hãi giống như trái bóng mạnh, nện rất đau vào ngực, đầu và
ruột gan của tôi.
Viên cảnh sát muốn biết được chi tiết, dĩ nhiên rồi. Anh ấy muốn biết tại sao tôi lại lo lắng tới vậy. Bọn trẻ đi cùng cha của chúng, nên chắc chắn chẳng có gì phải lo lắng đến thế? Tôi đã thử gọi di động cho anh ấy chưa? Tôi không nghĩ mình cần trả lời câu hỏi đó.
Robert rời đi lúc sáu giờ. Anh ấy nói muốn đưa bọn trẻ ra ngoài ăn pizza. Lẽ ra tôi nên đi cùng họ, nhưng anh ấy dứt khoát nói rằng muốn dành thời gian một mình với các con. Lạy Chúa, tôi căm ghét phải thừa nhận việc này, nhưng tôi đã thấy rất vui sướng. Xét từ cảm nhận của tôi về anh ấy, tôi nghĩ đây sẽ là một thói quen tốt khi chúng tôi không còn sống cùng nhau. Vậy là tôi để họ đi.
Tiếng đồng hồ đầu tiên trôi qua, mọi việc vẫn ổn. Tôi không mong họ quay về, cũng đã tìm được những công việc khiến mình bận rộn. Tôi biết Robert sẽ không ăn pizza; anh ấy muốn ăn tối một mình với tôi sau khi các con đi ngủ. Vậy là tôi bắt đầu làm món ớt - một trong những món yêu thích của anh ấy - như một lời cảm ơn vì đã đưa các con ra ngoài.
Sau khi làm xong mọi thứ mình có thể nghĩ ra, tôi quay trở vào phòng khách nhưng có cảm giác thật trống trải. Ít nhất tôi chưa bao giờ không có lấy một đứa con bên mình, ngoại trừ lúc chúng đi ngủ. Jasmine đang ở trường, dĩ nhiên rồi, song Freddie chỉ mới hai tuổi nên nó ở bên tôi suốt ngày, Billy thì ở trong phòng dành riêng cho em bé, nhưng chỉ vào buổi sáng.
Căn nhà có cảm giác trống rỗng, như thể không khí đã bị hút cạn, bỏ lại một khoảng không im ắng và lạnh lẽo. Nhìn gian phòng khách bằng một nhãn quan mới - nhãn quan của cái tôi mới không
còn thân thiện - tôi nhận ra rằng chúng tôi đã tạo ra một không gian cằn cỗi làm sao. Chúng tôi tiếp nhận ý tưởng về một bảng màu trung tính ở cấp độ hoàn toàn mới, không hề trông thấy một mảng màu hoặc một món đồ cá nhân nào; chẳng có lấy một bức ảnh trẻ con hay một thứ đồ trang trí ngẫu nhiên được mua do ý thích bất chợt. Mỗi bức tranh đều được lựa chọn không phải vì cảm xúc nó mang lại, mà là sự trung tính tuyệt đối của nó hòa hợp hoàn toàn với những gì vô thưởng vô phạt xung quanh. Mọi thứ đồ trang trí đều được lựa chọn vì kích cỡ của chúng, nhằm tạo ra sự cân đối hoàn hảo. Dĩ nhiên, Robert không thích sự hiện diện của những món đồ chơi trong căn phòng này.
Ai sống ở đây?
Có thể là bất cứ ai. Có lẽ, với Robert, nội thất trang trí là kết quả tất yếu của việc sống trong căn hộ của tôi quá lâu, nơi những bức tường màu cam và vải phủ màu xanh ngọc có vẻ kết hợp rất tài tình với nhau. Nhưng những sắc màu đó toát lên vẻ hân hoan. Còn căn phòng này nói với bạn điều gì?
Chẳng gì cả.
Tôi đã trả lời tất cả các câu hỏi mà viên cảnh sát đặt ra. Chúng tôi đã quyết định rằng Robert sẽ không đưa bọn trẻ tới thăm gia đình hay bè bạn sau bữa ăn. Cả Robert và tôi đều không có gia đình. Cha mẹ tôi đã mất nhiều năm trước, khi Jaz vẫn còn bé, còn Robert thì chưa bao giờ biết mặt cha mình. Mẹ anh ấy mất khi anh ấy còn nhỏ, chúng tôi đều không có anh chị em. Đó là sự thật nghiệt ngã, lạnh lùng, không có sự lựa chọn nào cả.
Nhưng làm sao tôi có thể giải thích được rằng tôi không thể nghĩ
ra người bạn nào mà anh ấy có thể tới thăm cùng với bọn trẻ? Tại sao chúng tôi lại đơn độc đến vậy? Cô đơn đến vậy? Nhưng tôi biết tại sao. Robert muốn tôi là của riêng anh ấy. Tôi không phải là để đem chia sẻ.
Lẽ ra tôi nên biết có gì đó không ổn khi anh ấy muốn đưa bọn trẻ ra ngoài mà không có tôi. Đó là việc anh ấy chưa bao giờ làm. Giá như tôi lắng nghe, thật sự lắng nghe, những gì anh ấy nói, tôi đã có thể ngăn chặn được việc này trước khi quá muộn.
“Olivia.” Anh ấy nói, “Một người cha đưa con mình ra ngoài ăn pizza chẳng có gì lạ lùng cả, phải không? Nói cho cùng, một số ông bố đã từng tự mình chăm nom con cái mà.”
Có phải Robert đã cố gắng nói cho tôi biết gì đó? Có phải anh ấy đã đoán ra được cảm giác của tôi? Nếu là ai khác không phải Robert, tôi đã nghĩ rằng rất có thể - chỉ là có thể thôi - anh ấy đã chấp nhận chuyện tôi có thể rời bỏ anh ấy và anh ấy sẽ cố chứng minh mình có thể tự xoay xở được. Nhưng đây không phải là ai khác. Mà đó là Robert, chẳng có gì thẳng băng cả.
Trong đầu tôi đã dượt qua mọi kịch bản có thể nhằm lý giải xem họ hẳn đã đi đâu, từng kịch bản đều khiến tôi khiếp sợ. Tôi không biết hình ảnh nào tồi tệ hơn: Hình ảnh các con tôi đang bị tổn hại nằm đâu đó, hay một nỗi sợ khác của tôi. Cái nỗi sợ tôi không dám thốt nên thành lời.
•••
Giờ đã mười một giờ. Năm tiếng đồng hồ đã trôi qua kể từ lúc tôi
ôm thân hình ấm nóng của Freddie trong vòng tay và hít lấy mùi hương ngọt ngào của nó. Tôi không sao chịu đựng được cái ý nghĩ thằng bé đang cảm thấy hoang mang. Và Billy, thằng bé cần phải ngủ. Nó sẽ trở nên cáu bẳn khi bị mệt. Còn Jasmine đáng yêu của tôi sẽ muốn được ở nhà với mẹ lúc này; nó chưa bao giờ thích tôi ở xa nó và thường suy nghĩ quá nhiều so với một đứa trẻ bảy tuổi.
Nếu Robert mang chúng trở về nhà an toàn, tôi sẽ quên hết những ý tưởng ra đi ngu ngốc của anh ấy. Tôi sẽ học cách sống với việc xem xét thật thấu đáo, chừng nào các con tôi không bị làm hại. Hãy mang chúng trở về đi, Robert.
Cảnh sát đã lục soát toàn bộ căn nhà giống như lần trước khi tôi mất đi Dan, như thể tôi đang giấu con mình đâu đó. Họ còn ra ngoài, gõ cửa và đánh thức hàng xóm dậy. Họ đã nhìn thấy gì? Họ biết được những gì?
Giờ đang có thêm nhiều cảnh sát đến hơn nữa. Lần này là các thám tử.
“Chị Brookes?” Mạch suy nghĩ của tôi bị gián đoạn bởi một giọng nói. Tôi ngước lên nhìn vào đôi mắt dịu dàng của một phụ nữ trông không già hơn tôi là mấy, nhưng chắc lớn tuổi hơn vì tất cả mọi người đều gọi cô ấy là bà.
“Chị có phiền nếu tôi gọi chị là Olivia không? Tên tôi là Philippa. Tôi e rằng chúng tôi đã gọi tới tất cả các quán pizza trong vùng, không ai nhớ ra đã từng nhìn thấy chồng và các con chị.”
“Có khi họ đã thay đổi ý định và chuyên sang ăn burger. Họ có thể đã làm thế, phải không?” Tôi cố tìm lời giải, tất cả chúng tôi đều biết là như vậy.
“Tại sao chị không đi cùng họ, Olivia?”
Tôi biết trả lời câu đó thế nào đây? Tôi không biết. Anh ấy chưa bao giờ làm như thế này trước đó cả. Tôi cảm thấy mình phải nghĩ ra chuyện gì đấy, mặc dù tôi không biết tại sao.
“Robert nghĩ tôi bị mệt, sẽ tốt hơn nếu nghỉ ngơi một chút. Anh ấy đang cố gắng giúp tôi.”
“Công việc của chị rất căng thẳng phải không? Đó có phải là lý do khiến chị mệt mỏi không? Hay lũ trẻ quấy chị chăng?” Cô ấy nghĩ tôi làm hại con mình sao?
“Chúng là những đứa trẻ ngoan - tôi đảm bảo với chị điều đó. Và tôi không làm việc. Chăm sóc lũ trẻ và Robert đã là quá đủ rồi.” Tôi chưa bao giờ thật sự làm việc, ngoài vài tháng trước khi có Jasmine. Khi kỳ nghỉ thai sản của tôi kết thúc, Robert đã ngỏ lời cầu hôn với tôi và anh ấy không muốn tôi đi làm tí nào. Anh ấy muốn tôi ở nhà, chăm sóc anh ấy, việc đó rất phù hợp với tôi. Nhưng giờ tôi không biết tại sao mình lại đồng tình với quyết định đó. Đồng ý trở thành một kẻ vô danh tiểu tốt theo đúng khả năng của mình. Những câu hỏi cứ liên tiếp xuất hiện, nhưng tất cả những gì tôi muốn làm lúc này là hét vào mặt họ. Hãy thôi đặt ra những câu hỏi ngớ ngẩn. Mà hãy tập trung vào tìm các con của tôi đi. “Tôi rất tiếc phải hỏi chị, Olivia - nhưng chị có phiền khi đi lên gác cùng với một sĩ quan của tôi không? Chúng tôi muốn chị kiểm tra xem liệu có gì đó của bọn trẻ bị mất không. Quần áo, đồ chơi yêu thích, sách vở. Chị biết những loại đó mà.”
Sao cơ? Tôi trân trối nhìn cô ấy hồi lâu, không thốt nên lời. Tại
sao lại có gì đó bị mất chứ?
Tôi gượng đứng lên khỏi sô pha, cảm thấy mình như một phụ nữ già gấp ba lần tuổi thật trong khi đôi chân căng cứng đang cố chống đỡ trọng lượng của mình. Tôi không biết họ đang nghĩ gì, nhưng chuyện này thật nực cười. Tại sao lại có gì đó bị mất chứ? Cái ý nghĩ ấy quay cuồng trong đầu tôi như cuộn băng giấy của máy in điện báo.
Một thám tử theo tôi lên gác, tôi nhận ra anh ta nhưng không nghĩ được là tại sao. Chuyện đó cũng chẳng thành vấn đề. Tôi quyết định bắt đầu từ phòng của Jasmine, chỗ mà tôi biết là sẽ rất gọn gàng nên sẽ dễ nhìn ra liệu mọi thứ có đâu vào đấy như thường lệ hay không.
Tôi bước tới bên giường và nhấc chăn phủ lên, chắc mẩm sẽ nhìn thấy Lottie - con búp bê vải của Jaz - đang nằm trên gối. Nhưng nó không ở đó. Tôi hất ngược chiếc chăn lông vịt.
Lottie đâu rồi? Dù đã bảy tuổi, Jaz vẫn rất thích để Lottie trên giường, song giờ đây không hề có dấu hiệu gì của nó. Tôi nhìn viên cảnh sát đầy đau khổ, nhưng anh ta chỉ nhìn tôi và chẳng nói gì cả.
Tôi chậm rãi đi tới tủ quần áo, gần như không muốn mở nó ra. Nhưng anh ta vẫn nhìn theo tôi. Tôi kéo nhẹ tay cầm, như thể nếu làm việc đó thật chậm thì sẽ thay đổi được kết quả. Cái ba lô màu hồng của Jasmine không còn nằm trên ngăn. Đột nhiên tôi giống như nổi điên, gạt hết những chiếc mắc áo choàng tới lui và mở tung mọi ngăn kéo.
“Khôoooong!” Tôi rên lên, kéo dài từ đơn đó thành chuỗi dài. Quần áo của con gái tôi đâu?
Tôi nghe tiếng chân rầm rập đi lên gác, Philippa xuất hiện ở cửa. Cô ấy đi tới chỗ tôi, nắm lấy cánh tay tôi. Cô ấy không cần phải đặt ra câu hỏi - bởi từ nét mặt của tôi, cô ấy đã có thể nói được chuyện gì xảy ra. Tôi cố gắng không thừa nhận điều đó với bản thân, nhưng giờ tôi phải đối diện với sự thật.
Anh ấy đã lấy mất các con của tôi.
T
2
om Douglas uể oải đứng lên khỏi bàn làm việc và duỗi hai cánh tay trên đầu. Kể từ khi sếp của anh, Chánh Thanh tra hình sự* James Sinclair, về hưu sớm vì lý do sức khỏe, thì chuyện làm việc ở Sở Cảnh sát Thủ đô* cũng không còn như trước. Sếp mới rất tốt, nhưng có quá nhiều điều ở ông ấy mà Tom không thích. Và vấn đề không chỉ là ông ấy kiểm soát lương bổng bằng một cây gậy sắt. Mà là công việc của ông ấy. Đối với Tom, có vẻ ngài tân Chánh Thanh tra hình sự muốn giải quyết tội phạm bằng quân số, tựa hồ có thể áp dụng một công thức kỳ diệu theo một bộ tiêu chí đã định trước vậy.
Lúc đầu, Tom nhận một công việc ở Sở Cảnh sát để được gần cạnh con gái mình, Lucy. Vợ cũ của anh, Kate, đã chuyển lên London sau khi họ ly hôn, anh đã làm theo. Theo nhiều khía cạnh, đây là công việc mà anh hằng mơ ước, nhưng với anh, cuộc sống ở London không còn nhiều điều hấp dẫn nữa. Kate đã mang Lucy trở lại vùng Tây Bắc sau khi mối quan hệ mới của cô ấy đổ vỡ, vậy nên chẳng còn gì giữ chân Tom ở đây và lại một lần nữa, anh để mất Lucy.
Anh vớ lấy chiếc áo khoác da vắt ở lưng ghế và nhặt chùm chìa khóa của mình. Chỉ còn vài dấu hiệu của sự sống vào cái giờ muộn màng như thế này, mặc dù sức cám dỗ từ căn hộ vô hồn của anh hoàn toàn chẳng hấp dẫn nhưng anh thật sự cần ngủ một chút. Và chút thức ăn nữa; ít nhất anh có lẽ vẫn yêu thích nấu nướng. Anh
bắt đầu nghĩ xem mình có thể chuẩn bị gì cho bữa khuya muộn. Khi đưa tay tắt công tắc đèn bàn, thì điện thoại của Tom bắt đầu đổ chuông. Anh trân trối nhìn ống nghe một lúc đầy do dự, nhưng anh biết mình phải trả lời cuộc gọi kia - bởi anh chưa bao giờ từ chối nổi một chiếc điện thoại đang đổ chuông.
“Đội trưởng điều tra hình sự* Douglas đây.”
“Tom, thật mừng khi gọi được cho anh. Philippa Stanley đây. Tôi có thể trao đổi chút thông tin không, nếu như anh có một phút.” Ngay khi cô ấy nhắc đến tên mình, Tom đã biết anh sẽ có một cuộc trò chuyện dài đằng đẵng, vậy nên anh kéo ghế và ngồi xuống, thảy áo khoác lẫn chìa khóa trở lại bàn. Philippa từng là một điều tra viên trong đội của anh trước lúc anh rời khỏi Manchester, cô ấy đã leo được lên đứng ngang hàng với cấp bậc Đội trưởng điều tra hình sự của anh. Chẳng có gì ngăn cản được cô ây. Cô ấy đang thênh thang tiến lên dần tới đỉnh.
“Chào Philippa. Rất vui khi nhận được tin tức từ cô. Tôi có thể làm gì cho cô?” Anh hỏi.
“Tôi cần đánh thức não bộ của anh về một vụ án ngày trước - thực tế là bảy năm rồi. Hẳn nhiên lúc đó anh đang đi nhờ xe cảnh sát Ryan Tippetts về nhà, nhưng anh ta đã phải chuyển hướng đi giải quyết chuyện của một phụ nữ tên là Olivia Hunt, người đã từng thông báo bạn trai của mình bị mất tích.”
Tom biết với Philippa sẽ không có chuyện gọi điện tâm sự thân mật - cô ấy chỉ toàn nói về công việc. Anh có thể hình dung ra cô ấy rõ mồn một. Cô ấy sẽ mặc đúng bộ “đồng phục” như thường lệ: Một chiếc áo choàng trắng hở cổ, không để lộ khe ngực quá nhiều, một
chiếc váy màu xanh hải quân suôn và đôi giày thanh lịch nhưng thời thượng - loại mẹ anh sẽ gọi là giày cao gót. Mái tóc đen cắt ngắn của cô ấy sẽ bóng láng và được vén ra sau tai, không hề trang điểm ngoài chút son môi phơn phớt. Trông cô ấy luôn gọn gàng và nữ tính đến hoàn hảo, nhưng bất kỳ sức hấp dẫn giới tính nào cô ấy có thể có đều bị lấn át bởi thái độ độc đoán của cô ấy.
“Thật lạ là tôi vẫn còn nhớ rõ. Phải. Tôi quên mất tên rồi, nhưng nếu đúng là vụ tôi đang nghĩ đến thì cô ta có một đứa con nhỏ khóc nhèo nhẽo, cô ta cứ khăng khăng rằng có chuyện gì đó đã xảy ra với bạn trai của mình. Khi Ryan biết anh chàng bị mất tích là một tín đồ Hồi giáo, anh ấy coi như đây chính là lời đáp cho mọi chuyện. Theo quan điểm của anh ấy, chúng ta buộc phải tìm kiếm một gã bị nện ở một ngõ phố nào đó - dĩ nhiên chúng ta không làm vậy. Tôi đã mắng cho anh ta một trận nên thân vì thái độ của anh ta, xin lỗi cô gái kia. Cô cần biết gì nào?”
“Tôi cần biết ấn tượng của anh về cô ta - cô gái ấy.” Philippa trả lời.
“Tại sao thế? Có chuyện gì vậy?” Tom hỏi. Chuyện xảy ra cách đây đã lâu và hồ sơ còn lưu giữ tất cả mọi chi tiết, nhưng Philippa sẽ chẳng hỏi gì mà không có lý do.
“Tôi sẽ nói rõ - tôi không muốn làm rối nhận định của anh. Cứ nói cho tôi biết những gì anh còn nhớ, rồi tôi sẽ giải thích tại sao mình muốn biết. Tôi đã tìm cách nói chuyện với Ryan về vụ này. Giờ anh ta là một cảnh sát hình sự, mặc dù có Chúa mới biết ai đưa ra cái quyết định lạ lùng đó. Anh chàng có quan điểm thổi phồng quá đáng về sự xuất chúng chưa hề được thừa nhận của mình, thế nhưng
anh ta vẫn vô dụng một cách tệ hại như xưa. Tôi nghĩ có lẽ tôi muốn nghe một chút phán đoán từ anh hơn.”
Tom không chắc liệu đây có phải là Philippa đang phê bình anh bằng lời khen nhẹ nhàng hay không, nhưng anh quyết định bỏ qua bởi vì đây không phải vụ việc Tom có thể quên được một cách nhanh chóng. Không phải vì đêm đó rất khác biệt - mà bởi những gì đã xảy ra sau đấy.
“Như tôi đã nói, lần đầu tiên tôi gặp cô ấy là khi cô ấy gọi điện tới vì bạn trai cô ấy - một anh chàng người Iran, tôi nghĩ vậy - không thấy trở về nhà. Dù lúc đó vẫn còn chưa muộn, nên chúng tôi nghĩ rằng có thể anh ta chỉ mò tới quán rượu và sẽ xuất hiện khi đã sang ngày mới với vẻ bẽn lẽn và hối lỗi. Nhưng anh chàng bạn trai rất nghiêm túc với các quy định cấm uống rượu theo tôn giáo của mình, đương nhiên rồi, vậy nên cô gái vốn đã biết không thể có chuyện này. Chúng tôi vào sổ trường hợp của anh ta là mất tích, nhưng sau khi tìm hiểu, chúng tôi thấy có một số giao dịch trên thẻ tín dụng của anh ta. Anh ta đã mua một vé tàu hỏa từ Manchester đi London, đặt chuyến bay đi Úc vào tối muộn hôm đó. Anh ta cũng gửi cho cô ấy một tin nhắn mà tôi nghĩ là để nói rằng mình xin lỗi. Tin nhắn được chuyển từ đâu đó quanh Heathrow. Cô có thể kiểm tra chi tiết ấy. Hình như tôi nhớ anh ta đã không lên chuyến bay đã đặt - nhưng anh ta mua một vé mở nên có thể đi bất kỳ lúc nào, một khi Olivia nghe tin từ anh ta, chẳng còn lý do gì để theo đuổi vụ việc nữa.”
“Tất cả đều khớp với những gì chúng ta có trong hồ sơ. Trí nhớ tốt đấy, Tom.”
“Chà.” Tom cười trả lời, “Tôi không nghĩ mình nhớ được vụ đó
rành rẽ nếu như vài tháng sau cô ấy không trở thành vụ án của tôi lần nữa. Tôi chắc là cô đã biết chuyện gì xảy ra tiếp theo rồi nhỉ?” “Tôi đã đọc hồ sơ, nhưng anh cứ kể tôi nghe đi.”
Tom ngừng lại. Giờ anh có thể hình dung ra Olivia Hunt - vẻ sầu não trên gương mặt lấm lem nước mắt của cô ấy khiến toàn bộ ý tưởng điều tra cô ấy dường như trở nên thật kỳ quặc, nhưng cũng là việc tất yếu.
“Cô ấy đã bán căn hộ của mình và định chuyển đến sống cùng cha mẹ - bởi vì cần phải thế theo tôi nghĩ, chứ không phải muốn vậy. Nhưng tới ngày chuyển nhà, cô ấy đã phải lái xe tới nhà cha mẹ nhằm tìm hiểu xem tại sao cha và chiếc xe tải mà họ thuê để chuyển đồ đạc cho cô ấy lại chậm trễ như vậy, để rồi phát hiện ra cả cha và mẹ đều đã chết trên giường. Hóa ra là nhiễm độc khí carbon monoxide từ một cái nồi hơi bị lỗi và đường ống khí bị tắc. Chúng tôi đã điều tra vụ việc, theo dõi Olivia rất kỹ. Có vẻ như việc mất đi bạn trai và cả cha mẹ trong khoảng thời gian chỉ vài tháng không phải chuyện bình thường - đặc biệt khi người bạn trai đã trả một khoản đặt cọc lớn cho căn hộ và để nó mang tên cô ấy, đồng thời cô ấy lại là người duy nhất thừa hưởng di chúc của cha mẹ. Văn phòng Ngoại giao đã cố lần ra dấu vết gia đình anh bạn trai - tôi nghĩ tên anh ta là Dan nhỉ?”
“Danush Jahander.” Philippa ngắt lời.
“Phải, đúng rồi. Họ muốn tìm hiểu xem liệu gia đình có nghe tin tức gì về anh ta hay không. Việc này chẳng hề dễ dàng đối với mối quan hệ giữa Anh và Iran thời điểm ấy, nên tôi không nghĩ họ tìm được gì cả. Olivia đã rất sốc vì bạn trai đá cô ấy, để lại cô ấy cùng
với đứa con nhỏ, nhưng cô ấy chỉ hoàn toàn suy sụp khi cha mẹ qua đời. Cô ấy nói cha mình mắc chứng hoang tưởng về vấn đề an toàn, một tai nạn như thế thật vô lý.”
“Nhưng có chứng minh được gì đâu - cho dù là chống lại cô ta hay bất kỳ ai khác.”
“Đúng vậy.” Tom nói. “Đó dường như chỉ là một tai nạn thảm khốc. Olivia cực kỳ đau khổ. Cô ấy đã hoàn tất việc bán căn hộ của mình ngay buổi sáng hôm đó, nhưng cũng không thể ở lại nhà cha mẹ - cô ấy không muốn thế. Cô ấy còn phải lo cho đứa bé, tôi nhớ rằng người mua căn hộ của cô ấy đã đề xuất cho cô ấy ở lại. Anh ta có một chỗ khác để ở, nên tôi nghĩ anh ta đã cho cô ấy chuyển vào ở như cũ. Nhưng tôi không nhớ được gì nhiều về anh ta.”
“Tên anh ta là Robert Brookes. Cuối cùng thì anh ta đã cưới cô ta.”
“Ái chà, vậy chuyện cũng có kết cục tốt đẹp đấy chứ.” Tom mỉm cười nói. “Nhưng tất cả những thông tin này đều nằm trong hồ sơ. Tôi có thể giúp gì được nhỉ?”
“Tôi cần biết anh nghĩ gì. Không phải những điều bằng chứng gợi ra, mà là anh nghĩ gì về Olivia - anh tin cô ta được bao nhiêu, anh nghĩ cô ta có thể diễn đạt đến mức nào.”
“Được thôi, nhưng cô sẽ phải nói cho tôi biết lý do tại sao.” Tom trả lời.
“Bởi vì giờ tôi đang ở chỗ cô ta. Lần này là chồng cô ta - Robert Brookes - biệt tăm, ba đứa con của cô ta cũng vậy.”
H
3
ọ muốn biết về Robert, để hiểu rõ mối quan hệ của chúng tôi. Tôi biết giải thích với họ như thế nào khi mà chính tôi còn không hình dung nổi? Tất cả những gì tôi biết là Robert đã giải cứu tôi khỏi mọi chuyện vào đúng thời điểm khủng khiếp nhất trong đời. Đầu tiên tôi mất Dan, chỉ hai tháng sau đó, tôi mất đi cha mẹ của mình. Họ đã qua đời.
Cả hai người.
Tôi không biết mình sẽ làm gì nếu lúc đó, Robert không bước vào cuộc đời tôi. Anh ấy là một người thực sự xa lạ đối với tôi khi đấy. Anh ấy chỉ là người mua căn hộ của tôi, nhưng bằng cách nào đó dường như anh ấy hiểu được những gì tôi cần và dẫn dắt tôi vượt qua quãng thời gian tồi tệ nhất đời mình.
Khi Robert chuyển đến căn hộ vào một ngày lạnh cóng, tôi vẫn đang ở đó, đứng trong sảnh với Jaz nằm trong xe đẩy, hòm xiểng đầy xung quanh, chờ cha tôi đến đón. Nhưng hóa ra tôi sẽ chẳng bao giờ còn được gặp lại cha mình nữa.
Robert là người duy nhất dường như biết cần phải làm gì sau đó. Anh ấy cho tôi ở lại trong căn hộ, còn anh ấy thì ở chỗ cũ thêm vài tháng. Anh ấy không hề biết chuyện tôi đang cố gắng tìm một chỗ ở khác, khi cuối cùng cũng phải chuyển đến, anh ấy để chúng tôi sử dụng gian phòng trống trong nhà. Thậm chí anh ấy còn thu xếp lễ tang và việc bán căn nhà gỗ của cha mẹ giúp tôi.
Tôi biết mình cần phải biết ơn, tôi đã làm vậy. Tôi không biết sẽ
xoay xở ra sao nếu không có sự giúp đỡ của anh ấy khi đó, nhưng những yêu cầu thầm lặng và liên tục nhằm được công nhận và tôn vinh vì tất cả những gì anh ấy đã làm cho chúng tôi đã dần dần cạn kiệt.
Anh ấy luôn luôn quan sát và nhìn tôi. Thậm chí khi bọn trẻ bày trò và làm cho tôi cười, anh ấy cũng không hề nhìn chúng. Mắt anh ấy luôn dán vào tôi, anh ấy mỉm cười khi tôi mỉm cười. Nếu tôi ra khỏi phòng, anh ấy sẽ dõi theo tôi lúc tôi đi. Tôi có thể cảm nhận được anh ấy đang chăm chú nhìn. Và khi tôi quay lại, anh ấy vẫn đang nhìn cánh cửa như thể đôi mắt anh ấy chưa hề rời khỏi đó.
Đó là lý do tại sao chúng tôi không có bạn bè. Có vài dịp tôi cố gắng giao thiệp với những cặp vợ chồng khác, nhưng ánh mắt Robert chẳng bao giờ rời tôi. Nếu tôi nói chuyện với một phụ nữ, anh ấy sẽ thắc mắc tôi nói những gì và tôi sẽ phải chịu đựng bị thẩm vấn trên đường về nhà cho tới khi thuật lại từng câu từng chữ. Nếu tôi nói chuyện với một người đàn ông, anh ấy sẽ tới bên tôi chỉ trong khoảnh khắc.
Lần đầu tiên sau rất nhiều năm trời, tôi đã mong mỏi được gặp lại Sophie. Cô ấy là người chị em thân thiết nhất mà tôi có, cái kỷ niệm sống động về đôi mắt của cô ấy, tràn đầy nét cười, vụt lóe lên trong tâm trí tôi như một ngọn đèn sáng trắng - hiện ra và tan biến chỉ trong giây lát.
Khi tôi gặp Sophie, cô ấy cuốn tôi vào thế giới của mình và mọi thứ trở nên vui vẻ hơn; cuộc sống chính là cuộc phiêu lưu của chúng tôi. Tôi từng rất nghiêm túc tin tưởng rằng chúng tôi sẽ là bạn bè mãi mãi, nhưng Sophie lại tha thiết muốn gia nhập quân đội, chỉ
vài tuần sau khi rời đại học, cô ấy đã lên đường tới Sandhurst để bắt đầu chương trình huấn luyện. Cô ấy đột nhiên không còn là một phần trong cuộc sống hằng ngày của tôi nữa, chẳng ai có thể lấp đầy vị trí của cô ấy.
Vậy là tôi ở đây, một mình, chỉ với một ý nghĩ duy nhất. Các con tôi đâu rồi?
•••
Tôi có thể cảm nhận được rằng đám cảnh sát đang ngày càng trở nên lo lắng. Giờ là giữa buổi sáng, dường như chẳng có gì tiến triển kể từ tối hôm qua. Tôi không làm sao hết run được. Hai tay tôi ướt lạnh và lóng ngóng, mỗi lần ai đó tìm cách mời tôi cà phê hay trà, tôi đều phải từ chối bởi vì tôi không nghĩ mình cầm nổi cốc. Không khí đã có sự thay đổi. Khẩn trương hơn nhiều, tôi biết họ thật sự lo lắng về các con của tôi.
Philippa đã nói với tôi họ đang kiểm tra máy quay trên các trục đường chính. Tôi cũng biết hai mươi tư tiếng đầu tiên quan trọng như thế nào, mặc dù cô ấy rất tế nhị không gợi nhắc cho tôi.
Khi phát hiện một số quần áo của bọn trẻ đã biến mất, họ bắt đầu hỏi tôi về hộ chiếu. Tôi tin chắc họ nghĩ anh ấy đã bắt cóc và đem chúng ra nước ngoài như một phần của trận chiến giành quyền giám hộ kỳ quặc nào đó. Nhưng chúng không có hộ chiếu, tôi cũng vậy. Chúng tôi không có những kỳ nghỉ nước ngoài. Chúng tôi thích Anglesey, một hòn đảo ngoài khơi bờ biển Bắc Wales. Chỉ mất có vài giờ lái xe, chúng tôi biết rõ đường đi.
Philippa lại đến ngồi xuống bên cạnh tôi. Tôi thấy lo lắng khi cô ấy làm vậy và luôn nghĩ rằng đó sẽ là tin xấu.
“Chị Olivia, tôi nghĩ đã đến lúc cho thông cáo báo chí về các con của chị. Tôi biết chúng đang ở với cha, nhưng chúng ta không có cách gì theo dấu anh ấy được. Chị đã đưa cho chúng tôi tấm ảnh cả ba người tối qua rồi, nhưng chị có thể tìm thêm vài tấm ảnh nữa cho chúng tôi được không? Có thể sẽ hữu ích nếu có vài tấm ảnh cá nhân cũng như ảnh chụp chung.”
Tôi đứng lên, hy vọng đôi chân vẫn chống đỡ nổi mình, đi tới chỗ tủ đựng ly và lôi hộp đựng ảnh ra. Tôi không dám chắc mình có thể chịu đựng được việc nhìn thấy họ, bởi vì tất cả những gì tôi thấy khi xem ảnh các con mình chỉ là nỗi đau đớn. Chắc chắn nếu có tai nạn xảy ra thì đến giờ phải có ai đó tìm thấy họ rồi chứ? Có lẽ các con tôi đang ở trong một bệnh viện nào đấy, khóc đòi mẹ và thắc mắc tại sao tôi không có ở đó. Nhưng tại sao tôi lại nghĩ thế nhỉ? Tôi biết đây không phải là tai nạn.
Tôi đem chiếc hộp đến bàn ăn, nhưng có ai đó đã bỏ một chiếc áo khoác vò nhàu ngay trên sàn, trong lúc lóng ngóng, không chú ý, tôi đã vấp phải nó. Tôi được đỡ vừa kịp lúc, nhưng số ảnh bay tung tóe khắp nơi.
Giờ tôi đã nhận ra người đang tóm lấy cánh tay của mình. Tôi đã không nhận ra ngay lúc trước, nhưng anh ta là một trong những cảnh sát đến gặp tôi khi Dan không về nhà vào đêm nọ. Người tôi không thấy ưa; người đã lục soát dưới gầm giường và trong các tủ quần áo như thể Dan có lẽ đang núp ở đó. Tôi đã cho rằng đây chỉ là một phần quy trình của họ. Tôi không sao nhớ được tên anh ta là
gì cho tới khi nghe thấy Philippa nói, “Áo của cậu đây à, sĩ quan cảnh sát Tippetts?”
Tippetts. Khớp đấy. Có gì đó khá kêu ở cái tên này, anh ta có gương mặt chuột với cái mũi nhọn cùng cặp mắt tựa như hai hòn bi. Tôi không khỏi thấy mừng là anh ta chẳng hề có phận sự ở đây.
Tôi rời mắt khỏi gương mặt anh ta và nhìn xuống đống lộn xộn vung vãi khắp sàn. Theo một lẽ đương nhiên, việc đó gần như đủ để khiến tôi sụp xuống và phải nắm lấy lưng ghế sô pha làm chỗ dựa. Những tấm ảnh của các con đang mỉm cười nhìn lên tôi trong đống lộn xộn ấy.
Trên cùng là tấm ảnh Danush. Tôi đã cố gắng không nhìn ảnh anh ấy một lúc lâu, nén tiếng thở mạnh khi nhìn như nuốt lấy từng đường nét. Mái tóc đen loăn quăn xòa xuống tận cổ, chải ngược ra phía sau, đôi mắt nâu sẫm của anh ấy lấp lánh ánh cười, khuôn miệng tươi tắn đang mỉm cười nhìn xuống, với một cô gái trẻ đáng yêu có mái tóc dài vàng óng và đôi mắt biếc sáng ngời, đội chiếc mũ lưỡi trai màu kem có khóa sáng loáng đứng bên cạnh.
Philippa nhìn tôi, rồi đưa mắt trở lại tấm ảnh.
“Là chị phải không?” Cô ấy nói, gần như không nén được sắc thái không tin nổi trong giọng nói.
Thời đó tôi hơi bị ám ảnh về mũ mão, thường tìm cách thuyết phục Sophie cùng đội mũ - thậm chí còn đề nghị cho cô ấy mượn cái mũ mềm màu đen ưa thích của mình, nhưng cô ấy nói loại mũ duy nhất cô ấy từng đội, thậm chí chỉ vì bị ép buộc, là cái mũ lưỡi trai sĩ quan của cô ấy.
Đột nhiên tôi vụt nhớ ra rằng Robert không chỉ chưa từng gặp
Sophie, mà còn chưa hề gặp Liv - anh ấy chỉ mới gặp Olivia - cái phiên bản nhạy cảm của chính tôi mà thôi.
Tôi nhìn bức ảnh của Dan. Anh ấy sẽ nghĩ sao về cái người đang đứng trước mặt anh ấy lúc này đây? Tóc tôi vẫn dài, mặc dù màu vàng bắt mắt đã phai thành màu nâu sáng dịu dàng. Sự ám ảnh ngày xưa của tôi trong việc chọn lựa những sắc màu ấn tượng nhất, tươi tắn nhất đã tan biến, cùng với đó là tình yêu đối với hiểm nguy và sự phấn khích của tôi. Sophie và tôi đã cùng nhau làm những điều điên rồ, với Dan thường reo hò bên cạnh - mọi việc từ nhảy tự do khỏi máy bay để làm từ thiện đến nhảy cầu dùng đai cao su an toàn. Nhưng giờ đây tôi nhận ra rằng mình đã ổn định để làm một người bình thường. Làm thế nào tôi lại để việc đó xảy ra nhỉ? Làm thế nào tôi lại đánh mất mình cơ chứ?
Sâu thẳm trong tâm trí tôi có một giọng nói khẽ khàng, bảo tôi rằng nếu các con trở về - không, khi chúng trở về - tôi sẽ phải trở lại làm con người trước đó. Tôi phải tìm cách khám phá lại chính mình. Nói cho cùng, có lẽ Robert không phải là một người tẻ ngắt.
Tôi nhét tấm ảnh Danush vào túi quần, không nghĩ rằng đó là bức ảnh Robert muốn nhìn thấy khi anh ấy trở về. Bởi vì anh ấy sẽ về nhà - anh ấy phải về.
•••
Tôi không thể tin mình có thể ngủ được. Tôi đã không chịu về phòng để nằm xuống, mặc dù phòng khách đầy người đang nói chuyện. Nhưng tôi nghĩ chắc là do kiệt sức - hoặc có lẽ cơ thể tôi không còn chịu đựng nổi sự căng thẳng thêm nữa.
Tôi choàng tỉnh vì tiếng hướng dẫn cho tất cả mọi người trong phòng. Đột nhiên, thay vì ngữ điệu lo lắng cố ghìm nén, nặng nề và chậm rãi, là sự sốt sắng rất rõ ràng.
“Hủy cuộc họp báo. Đừng cho họ biết gì cả, chúng ta sẽ cung cấp thông tin cho họ sau.”
Tôi không nghĩ họ nhận ra tôi đã thức, nhưng vẻ cấp bách khiến tôi rũ bỏ nốt những tàn tích cuối cùng của giấc ngủ. Sự trống rỗng trong tôi bắt đầu dâng đầy một cảm giác rất lạ mà tôi chỉ có thể tin là hy vọng, tôi gượng ngồi dậy. Philippa đã để ý thấy, đưa mắt khắp phòng ra hiệu im lặng. Họ nhận được ám hiệu của cô ấy và rời đi trong khi cô ấy ngồi xuống bên cạnh tôi.
“Olivia, chúng tôi vừa có vài tin tốt. Các máy quay ở Bắc Wales đã bắt được hình ảnh xe của chồng chị, có vẻ như bọn trẻ đang ở trên xe cùng anh ấy. Mới chỉ mấy tiếng trước thôi, từ lúc đấy chúng tôi không còn nhìn thấy anh ấy nữa, nhưng chúng tôi đã nhờ cảnh sát địa phương tìm kiếm anh ấy.”
Ý nghĩ đầu tiên của tôi là cảm giác nhẹ nhõm. Họ còn sống. Ơn Chúa. Nhưng rồi đột nhiên tôi cảm thấy chóng mặt. Ôi không - không phải thế, Robert.
“Anh ấy ở đâu cơ? Ở chỗ nào Bắc Wales? Các chị có chắc là anh ấy không?” Tôi biết Philippa nghe được sự hoảng hốt trong giọng nói của tôi, nhưng cô ấy vẫn bình tĩnh.
“Anh ấy qua cầu Menai vào Anglesey. Chắc chắn đó là xe của anh ấy. Chị có biết anh ấy có thể đi đâu không? Từ lúc đấy không máy quay nào bắt được anh ấy nữa, điều đó rất bất thường.” Cô ấy nhìn tôi đầy quan tâm.
“Anh ấy đã đi đường nhánh rồi.” Tôi bảo cô ấy. “Anh ấy luôn nói thật sai lầm khi cứ bám lấy những con đường hạng A trong khi những đường khác thú vị hơn rất nhiều.” Tôi phải hỏi vì không sao kìm được. “Các chị có nghĩ anh ấy có thể đi đến tận Holyhead mà không bị nhìn thấy lần nữa không?”
“Tôi biết chị đang nghĩ gì. Chị đang nghĩ đến bến phà phải không?” Philippa nhổm tới và với lấy tay tôi. “Xin đừng lo. Chúng tôi có người đang kiểm tra mọi chi tiết của tất cả các tàu thuyền. Anh ấy không cần hộ chiếu để tới Ireland, nhưng anh ấy cần một bản khai nhân thân nào đó. Chưa có ai đăng ký gì bằng tên anh ấy cả.”
Cô ấy xoay người 45 độ để phần nào đối diện với tôi, tôi chăm chú nhìn cô ấy, chỉ nghĩ đến những gì có thể nhìn thấy trước mặt mình, mà không phải những gì đang tìm cách phát đi hồi chuông cảnh báo lanh lảnh xuyên qua não bộ tôi.
“Còn gì chị không nói với tôi không, Olivia?” Cô ấy hỏi. “Chị có biết địa điểm anh ấy có thể đến không?”
Sẽ an toàn hơn nếu tôi chặn được những suy nghĩ của mình, nhưng giờ tôi phải đối diện với hồi ức về lần đầu tiên chúng tôi tới Anglesey. Robert đã đưa tất cả chúng tôi tới ngọn hải đăng South Stack, về phía tây Holyhead. Chúng tôi đứng đó nhìn ra biển, một cơn gió lạnh thổi tung mái tóc đen của tôi. Tôi thích điều đó. Nó làm tôi cảm thấy sôi động. Tôi chăm chú nhìn những con sóng vỗ bờ, nghe tiếng chúng đập mạnh vào những ghềnh đá bên dưới, những ý nghĩ của tôi trôi xa cả triệu dặm, trong khi Robert bảo tôi rằng hồi đầu năm đã có một người đàn ông nhảy khỏi chính những vách đá này tự tử.
“Đây là chỗ lý tưởng để chết đấy.” Anh ấy nói.
Tôi còn nhớ rất rõ. Tôi quay sang nhìn anh ấy với vẻ ngơ ngác trên gương mặt, nhưng anh ấy vẫn đăm đăm nhìn xuống làn nước xao động xa tít phía bên dưới.
“Nếu anh mất em trong cuộc đời, thì đây sẽ là nơi anh tìm đến.” Anh ấy nói. “Nó sẽ là một nơi tuyệt đẹp để nhớ về em. Em biết anh không thể sống nổi nếu thiếu em phải không?” Anh ấy nói.
Nhưng tôi vẫn ở đây. Phải chăng anh ấy đã đoán được tôi đang suy tính việc rời bỏ anh ấy? Không thể nào - ít nhất, tôi không thấy được bằng cách nào. Tôi nhắm mắt lại và cố gắng ngăn chặn cơn hoảng loạn.
Một tiếng thổn thức bật ra từ cổ họng, tôi co tròn người lại trên sô pha, gắng hết sức làm dịu cơn đau và xua cái ký ức kia ra khỏi tâm trí mình.
•••
Thật quá sức chịu đựng khi phải chờ đợi, mà không hề chắc chắn và hoàn toàn thất vọng vì chẳng thể làm gì được. Tôi đã nài nỉ Philippa cho tôi đi tới Anglesey, thậm chí nếu cô ấy không sẵn lòng đưa tôi đi, nhưng cô ấy kiên quyết nói rằng cảnh sát địa phương là lực lượng tốt nhất để tiến hành điều tra lúc này. Họ biết rõ khu vực ấy. Chẳng điều gì tôi nói hay làm dường như có thể thay đổi được ý kiến của cô ấy và những giọt nước mắt giận dữ, thất bại tiếp tục lăn trào xuống má tôi. Giữ chặt chiếc khăn tay ướt sũng nơi đôi mắt, tôi cố ngăn lại mọi âm thanh vang lên trong căn phòng và tập trung vào
gương mặt các con, mong chúng trở về với mình, thì thầm những lời an ủi và trấn an mà chúng không thể nghe thấy.
Qua những tiếng thổn thức cố nén lại của mình, tôi mơ hồ nghe thấy có sự thay đổi trong những giọng nói một lần nữa. Nhưng lần này khác hẳn. Không còn những hướng dẫn giật cục hay chủ đích. Gần như có cảm giác tựa hồ sinh khí đã thoát ra khỏi căn phòng qua tiếng thở dài thườn thượt. Tôi không biết liệu đó có phải tiếng thở dài phiền não và đau đớn, hay là gì đó hoàn toàn khác.
Tôi cảm nhận được đầu kia của sô pha đang bị nén xuống. Có ai đó đang gạt mớ tóc ẩm ướt ra khỏi gương mặt tôi. Tôi có thể nghe thấy được giọng nói, nhưng những từ ngữ thốt ra thì không mấy rõ ràng.
“Chúng tôi vừa tìm thấy họ, Olivia à. Họ an toàn. Chồng chị và lũ trẻ đều an toàn, họ đang trên đường trở về nhà. Họ đều ổn cả.” Tôi có thể nghe thấy nụ cười trong giọng nói của Philippa, tôi thấy vui vì có gì đó làm cô ấy hài lòng, nhưng phải mất một lúc những lời của cô ấy mới thấm vào đầu tôi.
“Sao cơ?” Tôi run run hỏi. “Họ ở đâu cơ? Chị có chắc họ đều ổn cả không?”
Philippa chìa tay ra nắm lấy tay tôi, siết một cái để trấn an. “Người ta tìm thấy họ ở một nhà nghỉ tại Anglesey - nơi anh chị thường tới đó, theo như lời chồng chị.” Philippa nhìn tôi chăm chú. “Và họ đều rất ổn. Chị chẳng có gì phải lo lắng cả.”
Tôi chưa kịp có cơ hội thẩm thấu bất kỳ chi tiết nào hơn là thực tế rằng các con tôi không sao và đang trên đường trở về với mình thì nhận thấy viên cảnh sát Tippetts đang thu dọn hành trang của
anh ta. Những người khác dường như đã đi hết, chỉ còn Philippa và Tippetts ở đây.
Họ sắp đi rồi chăng? Tôi không nghĩ mình có thể ở một mình khi Robert trở về và nhìn quanh hoảng hốt. Dường như Philippa đọc được ý nghĩ của tôi.
“Đừng lo, Olivia. Cảnh sát Tippetts sẽ ở lại đây với chị cho tới khi chồng chị trở về nhà.”
Tôi trân trối nhìn cô ấy hoảng hốt. Tôi không hề có tí cảm tình nào với người đàn ông này, tôi không muốn anh ta ở lại đây. “Chị không thể ở lại hay sao?” Tôi hỏi, giọng khá cầu khẩn. Cô ấy nhìn từ tôi sang cảnh sát Tippetts. Tôi có thể thấy cô ấy rất bối rối và hiểu rằng đây là công việc của một cảnh sát cấp thấp, nhưng lúc này tôi cảm thấy như thể Philippa là điều gần gụi với một người bạn nhất mà tôi có được. Cô ấy khẽ thở dài, gần như không dễ thấy.
“Chà, tôi chỉ định về nhà thăm con mèo của tôi và chợp mắt vài tiếng. Nào Ryan. Anh được tha.” Cô ấy quay sang tôi. “Được rồi, Olivia. Tôi sẽ không đi đâu cả. Tôi sẽ ở đây với chị.”
Tôi nhìn cô ấy, biết mắt mình hẳn trông rất hoang dại. Tôi bối rối, mất phương hướng, nhưng quá ư nhẹ nhõm vì họ đều đã được an toàn.
“Sao chị không lên gác rửa qua mặt mũi đi, để bọn trẻ không nhận ra chị đang rất không ổn nhỉ.” Cô ấy khẽ gợi ý. Chúa ơi, trông tôi chắc hẳn rất đáng sợ, cảm giác tóc tôi như một búi rơm vậy.
Hai chân tôi vẫn còn run rẩy, Philippa giúp tôi đứng lên và dẫn tôi ra đến chân cầu thang.
“Chị ổn chứ?” Cô ấy hỏi. Nhưng tôi phải ổn. Tôi cần lấy lại sức lực của mình trước khi bọn trẻ về đến nhà.
Tôi lê bước lên gác vào phòng ngủ, liếc nhanh gương mặt mình trong gương. Mắt đỏ quạch, lớp phấn màu đen nhòe nhoẹt quanh mắt, hai má sưng lên.
Cơn nức nở vẫn chưa dứt. Tôi ngồi xuống bồn vệ sinh và thổn thức vì nhẹ nhõm, ơn Chúa.
Anh ấy đã làm gì nhỉ? Anh ấy đang nghĩ gì vậy?
Nước mắt cuối cùng cũng nguôi dần và tôi đứng lên, cố gắng chỉnh trang lại. Tôi đánh răng, chải đầu, thoa một chút kem nền hiếm khi dùng đến để che bớt những chỗ sưng tấy tệ nhất. Chẳng gì khắc phục được đôi mắt đỏ ngầu, nhưng có lẽ bọn trẻ sẽ không nhận ra.
Trong một tiếng tiếp theo, tôi chỉ ngồi trên mép ghế sô pha, hai đầu gối ép sát nhau và đôi tay đan lại, vặn vẹo, xoa xuýt. Tôi không tài nào để chúng nằm yên được.
Rồi chúng tôi nghe thấy thanh âm đó. Tiếng một chiếc xe hơi lăn bánh trên lối đi, ánh đèn pha quét một vệt sáng nhạt ngang qua bức tường khi chiếc xe rẽ vào.
Tôi vọt ra khỏi ghế rất nhanh, đẩy cửa mở bung ra.
Robert đang chạy theo lối lái xe về phía tôi với hai cánh tay dang rộng, tôi mơ hồ nghe thấy tiếng anh ấy gọi tôi. Nhưng tôi né khỏi anh ấy. Lúc này tôi không có thời gian cho anh ấy.
Tôi chỉ muốn đến chỗ các con tôi.
•••
Tôi không muốn rời lũ trẻ. Tôi muốn tất cả các con ở trong một phòng, còn tôi nằm trên sàn, chắn ngang cửa để không một ai có thể đến gần chúng.
Tôi nhìn hai cậu con trai mình lần cuối và khẽ đặt một nụ hôn dịu dàng lên từng vầng trán ấm nóng, đầy kính cẩn trước vẻ đẹp vô tự lự của chúng lúc say ngủ. Tôi khẽ khàng đi tới phòng Jasmine. Con bé đã biết có gì đó không ổn, bởi vì dù rất cố gắng nhưng tôi không tài nào ngăn được nước mắt mình tuôn rơi khi chạy vội tới chiếc xe và ôm ghì lấy thân hình bé bỏng của các con. Nhưng thật may tôi có thể thấy con bé rất buồn ngủ, Lottie đang áp chặt vào má nó.
Tôi quỳ xuống bên giường Jasmine và nhẹ nhàng vuốt tóc con bé ra sau. “Ngủ ngon nhé, con yêu của mẹ.” Tôi thì thầm. Tôi không nghe thấy tiếng động gì, nhưng tôi biết mình đang bị theo dõi. Tôi ngoảnh đầu, nhận ra bóng Robert đang được ánh đèn ở chiếu nghỉ hắt ngược lại. Gương mặt anh ấy chìm khuất trong bóng tối, nhưng tôi biết anh ấy đang mỉm cười. Anh ấy quay đi và tôi nghe thấy anh ấy đi xuống cầu thang tới chỗ Philippa vẫn đang ngồi chờ đợi. Không hề muốn chút nào, nhưng tôi biết mình phải đi theo anh ấy.
Philippa thật tốt, cô ấy vẫn đang đặt ra những câu hỏi nhằm tìm hiểu sự việc - và hầu hết những câu hỏi ấy đều là dành cho tôi. “Chị Olivia, chồng chị nói chị biết anh ấy sẽ đưa các cháu đi xa
dịp cuối tuần. Có phải chị đã quên mất không?”
Robert đang mang bộ mặt lo lắng, như thể anh ấy rất lo cho tình trạng sức khỏe của tôi. Anh ấy tìm cách ngồi cạnh tôi trên sô pha, nhưng tôi đứng lên và tránh đi. Tôi không thể chịu được việc phải nhìn anh ấy.
Anh ấy đã nói với Philippa những lời lẽ có thể mô tả như một lời xin lỗi, như thể anh ấy cần thanh minh cho cách hành xử kinh khủng của tôi vậy.
“Tôi không hề quên. Anh ấy đã nói mình sẽ mang bọn trẻ đi ăn pizza.” Tôi nói rành rọt từng từ từng chữ qua hàm răng nghiến chặt. “Em yêu.” Robert nói, bước lại và ngồi trên tay ghế của tôi rồi đưa tay vuốt tóc tôi. Tôi muốn hất bàn tay anh ấy ra, nhưng lại sợ việc này sẽ làm mình trông thêm cuồng loạn. “Chính em gói ghém hành trang cho chúng mà. Em không nhớ hay sao? Làm thế nào anh biết được một đứa trẻ hai tuổi cần đến những gì chứ?” Tôi không thể đẩy Robert ra xa, nhưng đứng bật dậy và đi tới trước lò sưởi giả mà chúng tôi chẳng bao giờ sử dụng. Nỗi sợ hãi và hoảng loạn trước đó của tôi đã biến thành cơn phẫn nộ. Tôi xoay người và nhìn xoáy vào anh ta, vung vẩy bàn tay về phía mặt anh ta và làm động tác xỉa xói bằng ngón trỏ của mình để nhấn mạnh từng từ.
“Em cứ nghĩ cha con anh đều đã chết hết rồi.” Giọng tôi vỡ òa, thốt ra yếu ớt hơn hẳn so với mình mong muốn. “Làm sao anh có thể làm vậy chứ, Robert? Sao anh có thể làm vậy hả?”
Robert quay sang Philippa và nhún vai với cô ấy - hai bàn tay xòe ra, ngửa lên trên, như thể nói, “Chị có thấy những gì tôi đang
phải chịu đựng không?”
Không lâu sau khi tôi thể hiện thái độ bồng bột này, Philippa đã quyết định ra về. Trong lúc Robert đi lấy áo khoác cho cô ấy, cô ấy nói rất khẽ và siết lấy bàn tay tôi.
“Nếu chị cảm thấy lo lắng về bất kỳ chuyện gì, Olivia, thì chị có thể liên lạc với tôi theo địa chỉ này. Hãy gọi cho tôi nếu như chị thấy cần.” Cô ấy đưa cho tôi một tấm danh thiếp, tôi nhét nhanh vào túi lúc chồng tôi quay trở lại phòng. Nếu anh ta nhìn thấy, tôi biết chắc anh ta sẽ đoạt nó khỏi tôi.
Robert tiễn Philippa ra ngoài, khi quay lại phòng khách, anh ta mỉm cười, vẻ rất hài lòng với chính mình.
Tôi luôn nghĩ mình khôn ngoan, nhưng rõ ràng tôi chưa đủ khôn ngoan. Robert là bậc thầy, cơn giận thoáng bùng lên của tôi chợt bay biến, thay thế bởi nỗi sợ hãi. Tôi thấy sợ chính chồng mình - sợ những gì anh ta có thể làm.
“Sao anh lại làm như vậy chứ, Robert?” Tôi hỏi, dù đã đoán được câu trả lời. Tôi có thể nghe thấy sự run rẩy trong giọng nói của mình, Robert sẽ biết rằng nỗi hoảng hốt đã qua đi - và cùng với nó là cơn cuồng nộ của tôi.
Tôi sợ, có thể thấy được sự thỏa mãn trong đôi mắt anh ta. “Làm gì cơ? Anh chỉ đưa các con của chúng ta đi xa có vài ngày thôi mà. Anh không biết làm sao em có thể quên được.” Anh ta cố trưng ra vẻ mặt ngơ ngác, nhưng anh ta vẫn biết tôi không ngu. Tôi ngoảnh đi chỗ khác, không thể chịu nổi khi nhìn thấy anh ta. Và khi tôi nói, những lời của tôi bật ra chỉ như tiếng thì thầm.
“Anh biết tôi không hề quên mà. Đó hoàn toàn không phải những gì anh định làm. Anh định có một bữa pizza chết tiệt kia.” Tôi nhìn anh ta qua gương và thấy khóe miệng anh ta hơi nhếch lên. Bản chất của tôi không hề bạo lực, nhưng nếu có vũ khí trong tay, tôi thề sẽ giết anh ta ngay lúc này.
Anh ta chìa tay ra đặt lên vai tôi, tôi cố ngăn mình không né tránh cái đụng chạm của anh ta. Rồi anh ta xoay người tôi lại, nhìn vào mắt tôi, như thể điều đó sẽ làm cho tôi tin những lời dối trá của anh ta.
“Anh không hề đi ăn pizza. Em biết thế mà.” Robert nghiêng đầu sang một bên và nhìn tôi. “Anh tự hỏi không biết đó có phải là cách cảm nhận của một phụ nữ đã ly hôn hay không. Mỗi lần các con đi cùng với cha chúng, cô ấy lại không biết được họ sẽ làm gì hay đi đâu. Họ có thể ở bất kỳ đâu. Chỉ cần hình dung thôi.”
Tôi đưa hai tay bịt lấy tai mình giống như một đứa trẻ. Tôi không muốn nghe những gì anh ta nói. Tôi muốn ra khỏi phòng, nhưng anh ta đứng chắn giữa tôi và cửa, vẫn đang tiếp tục nói. Vẫn đang nói với tôi rằng tôi là điều duy nhất có ý nghĩa trong cuộc đời anh ta.
Anh ta tiến lại chỗ tôi, đưa tay tóm lấy hai tay tôi rồi kéo chúng xuống hông. Tôi không cố kháng cự. Anh ta đứng rất gần - gần đến mức tôi có thể trông thấy từng lỗ chân lông trên da của anh ta.
Anh ta nhoài tới thì thầm vào tai tôi và tôi có thể cảm nhận rõ hơi thở của anh ta, nóng rực trên má tôi. “Nếu cô rời bỏ tôi, Olivia...”
PHẦN HAI Hai năm sau
4
T
hứ Sáu
Có tiếng o o trong không khí lúc Tom Douglas bước vào quán rượu, nơi các thành viên trong đội của anh đang ăn mừng thành công mới nhất của họ. Không tài nào nhận diện từng giọng nói trong cảnh huyên náo này, nhưng chẳng hiểu sao sự ồn ào kia có cảm giác khác hẳn lúc ăn mừng. Những giọng nói đều cao hơn, mọi người nói nhanh hơn, những tràng cười bật ra chìm nghỉm trong không khí náo loạn bao bọc xung quanh. Tuy nhiên, đây vẫn là một buổi tối ăn mừng cuồng nhiệt.
Tom đã trở lại Manchester được vài tháng sau kỳ nghỉ phép ngắn tại Cheshire sau khi anh rút khỏi Sở Cảnh sát, anh yêu thích công việc mới của mình. Anh tiếp nhận một đội rất ổn, chỉ với một, hai ngoại lệ trứ danh mà anh biết mình cần giải quyết. Anh không thể trì hoãn lâu hơn được nữa, nhưng sẽ là một sai lầm nếu tạo ra bất kỳ chia rẽ nào khi họ đang sắp phá xong một vụ án lớn. Và hôm nay đây, tất cả đều đã được đáp đền. Hai năm trời làm việc vất vả - đa phần là trước khi anh tham gia vào đội - cuối cùng cũng đem lại thành quả là có được bằng chứng không thể chối cãi họ cần có để bắt giữ một tên hiếp dâm hàng loạt.
Tom len lỏi đi tới chỗ quầy rượu, giơ tay chào các thành viên của đội và huơ huơ nắm tay để mở tới lui trong không khí, đúng động tác mà ai cũng hiểu là nó ám chỉ rằng “Các cậu có muốn một ly không?” Vài chiếc ly được giơ lên, ngón tay trỏ chỉ tới, hàm ý được
rót đầy thì tốt quá. Tom hướng về phía nhân viên quầy rượu. “Tôi đưa anh thẻ tín dụng được không, anh cứ để cho họ tiếp tục nhé?” Anh hỏi.
Việc Tom có tiền chẳng có gì là bí mật, mặc dù hầu hết mọi người đều không biết anh được thừa hưởng tất cả từ anh trai. Đội của anh xứng đáng được uống, Tom rất vui rằng anh có khả năng chi trả vài chầu. Họ đã làm việc rất tích cực, tên khốn chuyên gí mũi dao bắt các cô gái, rồi ve vẩy hai ngón tay trêu ngươi cảnh sát vì họ không tài nào tìm ra nổi một mẩu bằng chứng cuối cùng cũng sắp bị tóm sau một thời gian dài. Anh rất vui khi nghĩ Manchester giờ đã là một nơi an toàn hơn. Và đúng là như vậy - nhưng anh không hề nông nổi nghĩ rằng trong tổng thể mọi thứ, việc này sẽ tạo ra một khác biệt lớn. Vẫn còn quá nhiều tội ác, luôn có nhiều việc phải làm hơn nữa.
Anh đã quyết định ở lại khoảng một tiếng, sau đó sẽ rời đi. Hầu hết các thành viên trong đội đều cảm thấy rất thoải mái khi có mặt anh ở đó, nhưng những người trẻ hơn và cấp bậc thấp hơn - có lẽ ngoại trừ anh chàng Ryan tự mãn - đều bị anh át vía, họ sẽ có được khoảng thời gian dễ chịu hơn nhiều khi anh đã rời khỏi.
Dù sao đi chăng nữa, anh đang cân nhắc xem có nên gọi điện hẹn gặp Leo không. Chuyện xảy ra đã được một thời gian và không ai trong hai người có vẻ sẵn sàng phá bỏ thế bế tắc rành rành trong mối quan hệ của họ - nếu đó là những gì các bạn có thể gọi. Xem ra anh sẽ là kẻ thua cuộc, đó cũng không phải là lần đầu.
Leonora Harris. Niềm vui và nỗi đau trong cuộc đời anh. Đã gần một năm trôi qua kể từ khi anh gặp cô, anh đã từng hy vọng rằng họ
sẽ trở nên thân thiết. Khi lần đầu tiên mua căn nhà ở Cheshire cạnh chị gái Leo, anh chẳng hề nghĩ tới chuyện bắt đầu một mối quan hệ mới. Thực tế, có lẽ nó thuộc phần cuối trong danh sách những công việc ưu tiên của anh. Nhưng Leo không giống với những phụ nữ khác. Tính cô vốn thẳng như ruột ngựa và thành thực đến nhói lòng, cô từng có một tuổi thơ nhọc nhằn và mang trên mình những vết sẹo do sự thờ ơ của cha. Cô từng nói rõ rằng mình luôn giữ khoảng cách với tất cả cánh đàn ông, nhưng Tom hy vọng anh sẽ trở thành ngoại lệ trong cái nguyên tắc ấy.
Có nét gì đó rất đặc biệt ở Leo. Cô có một phong cách riêng, mang vẻ duyên dáng rất tự nhiên trên thân hình mảnh mai và cao ráo. Cô đã rất cố gắng giấu đi sự mong manh của mình bên dưới một phong thái có phần hơi cay nghiệt, nhưng Tom chưa bao giờ bị nó đánh lừa cả.
Anh biết sẽ không dễ dàng gì để gần gũi với cô, nhưng vẫn hy vọng mình có thể phá vỡ những rào cản chắn ngang trước cánh nam giới mà cô dựng lên cho mình bằng việc luôn luôn đối xử với cô một cách thành thực và tôn trọng. Nhưng cô đúng là một ca khó. Trường hợp này chính là tiến hai lùi một - mặc dù nhiều lúc anh cảm thấy hoàn toàn khác và rằng anh liên tục phải thúc thủ. Dường như cô muốn gặp anh, ở bên anh; nhưng rồi đột nhiên các rào cản trỗi dậy và cô lại đẩy anh ra xa, nhiều lúc biến mất hàng tuần liền. Anh không biết liệu có phải cô đang thử thách mình hay không, nhưng anh ngờ là vậy. Việc này sẽ còn kéo dài bao lâu nữa?
Leo rất rõ ràng ngay từ đầu rằng cô “không muốn có quan hệ tình cảm”. Tình dục là một chuyện - nhưng anh không được phép cho
rằng việc đó sẽ giúp họ thành một cặp. Và anh cũng không được cho rằng nếu chuyện ấy xảy ra một lần thì sẽ có lần nữa. Tom thở hắt ra một tiếng dài. Anh không thể sống như thế được, không biết liệu mình có đang trong một mối quan hệ tình cảm hay không và luôn phải sống theo những quy tắc của cô. Không phải lúc nào cô cũng tuân theo cách của mình, nhưng anh biết một khi họ làm tình, thì anh sẽ thất bại. Anh chỉ đang ngấp nghé ở rìa sự minh mẫn mà Leo rất chú ý, quá gần gũi với cô sẽ khiến anh ngã nhào. “Sếp!” Một tiếng gọi lớn từ phía sau kéo anh choàng khỏi cơn mơ màng. Anh xoay lại, thấy đội của mình đang nâng ly về phía anh để chúc tụng. Anh vớ lấy ly của mình trên mặt quầy và đáp lại họ. “Dzô!” Tất cả cùng đồng thanh hét to, Thật tuyệt. Anh sẽ gạt Leo ra khỏi tâm trí, có thể không đi gặp cô ấy tối nay. Anh không muốn chơi trò chơi - đó không phải phong cách của anh. Nhưng nếu anh gọi điện để báo rằng mình đang ra ngoài ăn mừng, cô sẽ rất vui vẻ. “Anh không cần phải gọi đâu. Nếu anh không đến, em sẽ xem như anh đang bận.” Cô ấy sẽ nói vậy, chỉ để anh biết không bên nào phải có nghĩa vụ gì. Cô nàng quái quỷ.
Anh cảm thấy điện thoại của mình rung lên trong túi. Nói về đám phụ nữ quái quỷ thì đây lại là một cô nàng nữa - sếp của anh, điều tra viên hình sự Philippa Stanley. Cô ấy thậm chí còn nghiêm trọng hơn nhiều, gần như là nhiễu sự, trong mấy năm liền kể từ khi cô ấy làm việc dưới quyền anh, rồi được thăng tiến hết lần này đến lần khác. Anh thấy thích thú khi nghĩ rằng giờ cô ấy gọi đến để chúc mừng đội vì một nhiệm vụ vừa hoàn thành, nhưng không chắc là vậy. Cô ấy sẽ làm việc đấy một cách chính thức, sẽ không bao giờ
gọi anh ở quán rượu vì mục đích đó cả.
Anh nhấc điện thoại đưa lên tai, và biết rằng mình sẽ không thể nghe được một lời nào từ miệng cô ấy nói.
“Đợi chút, Philippa, tôi sẽ ra ngoài. Ở trong này hơi ồn.” Tom đặt cốc của mình trở lại quầy. Anh không phải tay bợm uống nên cũng không thiệt lắm, nhưng anh không nghĩ tín nhiệm của anh sẽ tốt lên nhiều nhờ việc gọi một ly vang đỏ. Tom len lách quay trở lại qua cả nhóm đang chen về phía quầy rượu để lấy thêm đồ uống miễn phí, cuối cùng cũng ra đến hành lang.
“Xin lỗi cô, Philippa. Đang có vụ ăn mừng và tôi không nghe được dù chỉ một từ.”
“Giờ anh nghe được tôi rồi chứ?” Cô ấy nói, hoàn toàn chẳng màng đến chuyện tiệc tùng.
“Rồi - rất to và rõ. Tôi có thể làm gì cho cô đây?”
“Tôi nghĩ anh cần biết rằng chúng tôi đã được gọi tới xử lý một vụ mất tích không trở về nhà. Chúng tôi đã cử người đi đánh giá mức độ rủi ro, nhưng một cái lợi của việc có một hạ sĩ quan làm nhiệm vụ, người trông như thể nên đem nhồi bông và đặt đứng một góc, là anh ta có trí nhớ dài bằng cánh tay tôi. Cho nên anh ta đã lưu ý với tôi vụ này thậm chí còn trước cả khi vụ việc được nhập vào hệ thống.” Philippa ngừng lời và Tom chờ đợi, biết rằng cô ấy vẫn chưa kết thúc. “Anh có còn nhớ tôi đã gọi anh lúc ở London vài năm trước về một cô gái trên đường trở về nhà không - cô gái có cậu bạn trai người Iran bị mất tích, sau đó cha mẹ cô ta cũng qua đời ấy?”
“Vâng, tôi vẫn còn nhớ. Người chồng đưa lũ trẻ đi đâu đó và
không trở về nhà. Có phải vậy không? Hình như tôi nhớ cô đã gửi cho tôi một email nói rằng tất cả bọn họ đều trở về an toàn và khỏe mạnh. Giờ lại có chuyện gì sao?” Tom hỏi, biết rằng cô ấy sẽ không gọi anh đột ngột chỉ vì một vụ việc đã cũ.
“Lần này người chồng về nhà sau một chuyến công tác và nói rằng cô ấy đã biến mất. Cô vợ ấy, Olivia. Và lũ trẻ cũng vậy.” Chết tiệt. Có chuyện gì với cái gia đình này vậy? Tom đưa tay lùa qua mái tóc ngắn của mình.
“Lần này có thật sự như vậy hay lại thêm một lần lãng phí công sức nữa, bởi vì trước kia đâu thực sự có ai biến mất đâu, phải không? Tất cả chúng ta đều chạy nháo cả lên như lũ kiến ngu ngốc chỉ để tìm thấy một lời giải thích rất hoàn hảo.” Tom nói. “Hình như cuộc sống của Olivia chẳng là gì ngoài một chuỗi những vụ mất tích, nhưng tôi có cảm giác nó giống như một chuỗi những vấn đề về liên lạc. Lần này cô nghĩ sao? Tôi cho rằng cô không tin đây chỉ là một trò ngu ngốc khác, nếu không, cô đã chẳng gọi. Nghe giọng cô rất lo lắng.”
Anh nghe rõ tiếng thở dài từ đầu máy bên kia. Ở thời điểm này trong quá trình điều tra, đó chưa phải là thứ khiến một điều tra viên hình sự phải lo lắng, nhưng anh có thể nói rằng cô ấy đang bồn chồn không yên.
“Philippa?” Anh nói, thúc giục cô trả lời.
“Theo nhân viên cảnh sát đến kiểm tra tình hình, đây là một tình huống rất kỳ cục. Xe cô ấy vẫn còn trong nhà, túi xách ở trong bếp. Nếu ngẫu hứng bỏ đi, thì cô ấy đã không cầm theo ví, quần áo, hay bất kỳ đồ đạc gì của bọn trẻ. Chẳng ai bỏ đi mà không mang theo
gì, nên tôi không chắc phải nghĩ sao. Người của chúng ta - sĩ quan cảnh sát Mitchell, tôi tin là vậy - vẫn đang ở hiện trường, dĩ nhiên rồi. Đã làm xong khâu tìm kiếm cơ bản, nhưng chúng ta cần ai đó lão luyện hơn để đến đây đánh giá tình hình.”
“Cô ấy mất tích bao lâu rồi?”
“Anh chồng không biết. Anh ta nói anh ta biết chắc cô vợ vẫn còn đó lúc sáng sớm hôm nay, nhưng khi anh ta trở về nhà chiều nay, họ đã đi cả rồi. Bây giờ là mười giờ, anh ta gọi tới báo lúc khoảng tám giờ. Cậu con út mới chỉ bốn tuổi, nên anh ta không thể tin cô vợ lại để thằng bé ở ngoài muộn đến vậy. Nhưng cô ấy không xác định chồng mình sẽ về nhà cho tới ngày mai, nên có thể cũng chẳng có chuyện gì xảy ra đâu.”
“Nhưng cô không nghĩ như vậy.” Đây không phải một câu hỏi. Tom có thể nghe được điều đó trong giọng của cô ấy. “Có một chuyện cô ấy đã từng nói khi anh ta - chồng cô ấy - cùng lũ trẻ không quay trở về nhà lần trước. Chính vì chuyện này mà tôi bận tâm, tôi đã từng đích thân nói chuyện với cô ấy. Cô ấy cứ nhắc đi nhắc lại những lời này: “Anh ấy sẽ không làm thế. Hãy nói với tôi là anh ấy sẽ không làm thế.”
“Sẽ không làm gì cơ?” Tom hỏi.
“Tôi không biết. Cô ấy không nói với tôi. Nhưng cho dù đó là gì thì nó cũng khiến cô ấy sợ hãi đến thất thần. Tôi sẽ thành thật với anh, Tom à, cái vẻ khiếp sợ trên gương mặt cô ấy khi cô ấy nói ra điều đó cứ ám ảnh tôi suốt từ bấy đến giờ.”
•••
Tom lại len trở vào quán rượu đông nghẹt, mắt anh tìm kiếm Becky Robinson. Anh thấy rất vui khi phát hiện ra vài ngày trước cô đã làm đơn xin được thăng lên ngạch Điều tra viên hình sự thuộc lực lượng ở Greater Manchester, nhưng lại thấy kém vui khi gặp cô. Cô quá gầy gò, đôi mắt như trũng sâu vào gương mặt. Anh băn khoăn không biết liệu mình có cơ hội tìm hiểu xem chuyện gì đã xảy ra với cô hôm nay không, bởi vì cho dù đó là chuyện gì đi chăng nữa thì chắc chắn nó cũng tác động đến cô ghê gớm.
Anh từng rất thích khi làm việc với Becky tại London lúc cô là hạ sĩ cảnh sát của anh, nhận thấy cô rất thông minh và mẫn cảm - đúng là tuýp người anh cần trong vụ này. Nhưng anh phải chắc chắn rằng cô sẵn sàng làm thế.
Becky đang đứng cùng những người còn lại trong đội, tay cầm chiếc ly đựng một thứ trông như là nước cam, nhưng cho dù đang mỉm cười thì đôi mắt cô trông vẫn trống rỗng và vô hồn. Tom giơ tay lên, khiến Becky cùng vài người nữa ngoảnh nhìn anh. Anh vẫy gọi Becky lại chỗ mình, cô xoay sang như thể cảm thấy nhẹ nhõm vì được đặt ly của mình xuống chiếc bàn gần nhất. Không ai tỏ ra thất vọng vì anh không ra hiệu với họ.
“Sếp?” Cô nói, hướng đôi mắt đen về phía anh.
“Chúng ta có việc rồi, Becky. Một phụ nữ cùng ba đứa trẻ mất tích khỏi nhà. Tôi sẽ thanh toán đồ uống và kể với cô trên đường đi. Cô thấy ổn chứ?”
“Không hề gì. Sếp có muốn tôi lái xe không?” Becky hỏi, trong khi Tom ra hiệu với người phục vụ quầy rượu, đưa tay làm động tác ký giấy.
“Lời đề nghị được đấy, nhưng thôi, cảm ơn cô.” Tom đáp, nhớ lại vài chuyến đi ê ẩm cả người mình từng có với Becky khi cô cầm lái ở London. “Đi xe tôi đi, sẽ có người đưa cô về khi chúng ta xong việc.”
Họ im lặng băng qua đường về phía bãi đỗ xe. Tom bấm điều khiển xe, đợi cho tới khi cả hai đều đã thắt đai an toàn và động cơ khởi động mới lên tiếng. Anh liếc sang phía cô nhưng cô đang nhìn thẳng về phía trước, rõ ràng đang cố tránh tiếp xúc bằng mắt. Thế này rất khác thường.
“Becky, cô biết là tôi đã rất vui khi cô nộp đơn xin đến làm ở Manchester, càng vui hơn khi cô được tiếp nhận. Đã có sự phản đối quyết liệt, như chúng ta đều biết thì dạo này, không phải lúc nào cũng dễ xin chuyển được. Nhưng thật sự có chuyện gì vậy? Cô không còn là cô trước đây nữa, trông cô như thể đã bị ai đó ngược đãi, nếu cô không cảm thấy phật ý khi tôi nói như vậy.”
“Rất cảm ơn sếp.” Becky nói, ít nhất vẫn thấp thoáng một nụ cười, Tom cảm nhận được một chút căng thẳng dọc theo sống lưng cô đã dịu đi. “Nhưng tôi ổn. Rất mừng được rời khỏi London, tôi thật sự không muốn nói về chuyện đó. Kể cả với anh. Nếu có ảnh hưởng đến công việc của tôi, xin anh cứ nói, sếp à, còn không chúng ta không cần đề cập đến chuyện này nữa. Chẳng ai khác biết được tôi trước kia ra sao, nên có lẽ họ nghĩ tôi vẫn luôn là kẻ khốn khổ như thế này. Tôi thấy cứ nên để vậy đi.”
Tom chậm rãi gật đầu, cho xe ra khỏi bãi đậu, hướng về phía nhà của gia đình Brookes. Anh biết cái cảm giác ấy, nếu cô không muốn kể với anh, anh sẽ để yên như vậy.
“Được rồi, tôi hy vọng cô nhận ra mình có thể kể với tôi bất kỳ lúc nào cô muốn. Cô biết tôi sẽ chẳng bao giờ nhắc lại một lời mà. Mà nhân thể, khi chỉ có riêng chúng ta với nhau, cứ gọi tôi là Tom được rồi. Cô không cần phải trịnh trọng với tôi làm gì.”
“Vâng, tôi hiểu. Giờ anh sẽ kể với tôi về vụ việc chứ?” Cô ấy hỏi, cái phần bản ngã hơi có phần xấc xược xưa kia của cô ấy thoáng hiện trở lại.
Trong lúc lái xe, Tom kể cho cô ấy mọi điều Philippa nói với mình về việc Robert Brookes biến mất hai năm trước, sau đó kể một lượt với cô tất cả những gì anh nhớ được về cuộc gặp mặt đầu tiên với Olivia Brookes gần chín năm về trước.
“Tôi biết lúc đó trực giác còn nói với tôi một chuyện gì đó nữa, nhưng tôi không thể nhớ chính xác nó là gì. Tôi đi cùng Ryan và cậu ta chỉ thẩm vấn qua một lượt như học vẹt, thậm chí còn không cố gắng đào sâu hơn khi có cơ hội nữa.”
“Anh nói Ryan, có phải muốn nhắc đến Ryan của chúng ta - Ryan Tippetts phải không?”
Tom gật đầu một cái.
“Ôi, chết tiệt. Cô gái tội nghiệp.”
Rõ ràng Becky không mất nhiều thời gian để đánh giá về Ryan. “Vậy anh nghĩ chuyện gì đã xảy ra với anh chàng bạn trai khi đó?” Becky hỏi.
“Tôi không biết. Lần cuối cùng chúng tôi nghe được tin tức là có bằng chứng rằng anh ta đã đặt vé một chuyến bay, cho nên chúng tôi chỉ có thể giả định anh ta đã rời khỏi đất nước.”
Cả hai người cùng im lặng một lúc. Nói Olivia quẫn trí trước việc bạn trai mình biến mất sẽ không hoàn toàn truyền tải hết được cú sốc và nỗi sợ hãi mà cô gái kia dường như đã phải trải qua. Bất kỳ người phụ nữ nào bị bạn trai bỏ roi, để lại cô ấy cùng một đứa bé mới sinh, đều rất có thể bị quẫn trí, nhưng với Tom dường như còn hơn thế.
“Đó chỉ là khởi đầu thôi.” Anh nói tiếp. “Hai tháng sau, cả cha mẹ cô ấy cũng qua đời, cô ấy chính là người phát hiện ra họ.” Tom còn nhớ y nguyên hình ảnh một Olivia cuồng loạn khi cô gào thét nhắc đi nhắc lại rằng đó không thể là một tai nạn được. Nhưng cho dù rất cố gắng, họ vẫn không sao tìm thấy bằng chứng về một vụ án nào cả. Họ thậm chí còn nghi ngờ cả anh chàng bạn trai đã mất tích. Anh ta đang theo học một bằng Tiến sĩ về công trình, có lẽ - chỉ là có lẽ thôi - tất cả đều là một âm mưu tinh quái nhằm chiếm đoạt tiền bảo hiểm.
“Như vậy, nếu tôi hiểu đúng vụ này thì anh chàng bạn trai kia đã bỏ trốn. Cha mẹ được phát hiện là đã chết. Người chồng tương lai xuất hiện giải cứu. Bảy năm sau anh ta bỏ đi cùng lũ trẻ. Cô ấy bảo anh ta đã nói dối về nơi họ sẽ đến - vậy cô ấy nghĩ gì? Rằng anh ta định bắt cóc chúng à?”
“Tôi không biết. Philippa nghĩ trong chuyện này, có gì đó rất kỳ cục.”
“Vậy nếu âm mưu bắt cóc của anh ta không thành hai năm trước, thì liệu đây có phải lần thứ hai anh ta ra tay không, chỉ cần thêm một chút mánh lới thôi?”
Tom liếc nhìn Becky, hai mày nhướng lên. “Tiếp tục đi.” Anh nói.
“Chậc, nếu thật sự anh ta rất muốn bọn trẻ hai năm trước, lần này anh ta có thể tiễn cô ấy đi chơi, bắt cóc bọn trẻ lần nữa - đem giấu chúng đâu đó. Anh ta có hai năm để lên kế hoạch cơ mà.”
Điện thoại của Tom ngắt ngang họ vừa đúng lúc, trước khi lời nhận định hoàn chỉnh, anh bấm màn hình trên bảng điều khiển để trả lời. Một giọng nói vang khắp xe qua hệ thống loa kết nối Bluetooth.
“Đội trưởng Douglas phải không?” Đó là giọng nói cộc lốc của viên hạ sĩ cảnh sát trực ban.
“Tôi đây.” Tom trả lời.
“Vừa có một cuộc gọi từ cảnh sát Mitchell, đang ở nhà Brookes cùng với ông bố Robert Brookes. Tôi đoán lúc này sếp đang trên đường tới đó?”
“Đúng vậy. Chúng tôi sẽ tới đó trong khoảng 10 phút nữa. Có chuyện gì à?”
“Chà, có lẽ vậy. Rất kỳ quặc. Cảnh sát Mitchell đang tiến hành lấy thông tin vào bản khai báo mất tích, anh ấy hỏi xin ông bố vài cái ảnh của bọn trẻ. Việc thường tình thôi. Anh ấy nói tay Brookes đi đến chỗ tủ lấy vài tấm, nhưng hộp ảnh trống không. Anh ta nghĩ rằng vợ mình có lẽ đã chuyển đi, nhưng để cho thuận tiện, anh ta nói sẽ in một tấm từ máy tính. Nhưng cũng không hề có, chẳng có chút dấu vết gì rằng từng có tấm ảnh nào trong đó - kể cả trong thùng rác. Chẳng có gì cả. Điện thoại của anh ta cũng vậy. Điện thoại của vợ anh ta cũng thế, dù nó vẫn còn trong túi xách cô ấy. Theo lời tay Brookes này thì, không hề có lấy một tấm hình vợ anh ta và bất kỳ đứa con nào trong nhà anh ta cả.”
•••
Becky thấy vui vì Tom đã đề nghị cô đi cùng anh tối nay. Hoàn toàn không phải bẩm sinh cô đã có thái độ phản xã hội, nhưng cô đang cố tỏ ra bình thường với bất kỳ ai ở thời điểm này, ít nhất Tom đã biết cô “từ trước”, như cô nghĩ vậy. Giờ đây, cô luôn hình dung mọi người cứ nhìn cô và chỉ trỏ, che miệng cười cợt như một lũ học sinh.
Cô lại không hề có bằng chứng về kiểu hành xử đó kể từ lúc đến Manchester, nhưng cuộc sống thì đúng là như vậy suốt nhiều tuần liền trước khi cô rời khỏi Sở Cảnh sát, bất kỳ lúc nào bước vào một căn phòng, cô đều cho rằng mọi người ngừng nói chuyện, hoặc thay đổi chủ để bởi vì họ đang xì xầm về cô.
Đúng là dị hợm, cô không sao kìm được ý nghĩ như thế. Tại sao bất kỳ ai cũng phải quan tâm đến mình thế nhỉ? Nhưng cô biết tại sao.
Khi họ đến bên ngoài căn nhà của gia đình Brookes, Becky không thấy có nhiều chi tiết về căn nhà. Mặc dù sắp đến ngày dài nhất trong năm và mặt trời đã lặn được khoảng một tiếng trước nhưng trời vẫn còn đủ sáng để cô nhận ra đó là một cơ ngơi hoành tráng trên một con đường quyến rũ có hàng cây hai bên. Lần đầu khi mới gia nhập ngành cảnh sát, cô đã rất sốc khi biết rằng rắc rối vẫn tìm đến với những người sống trong những ngôi nhà như thế này. Là một cô gái đến từ một khu bình dân của London, cô từng sống với sự hiểu nhầm rằng chỉ có những người nghèo mới gặp vấn đề mà thôi. Cô đã sai lầm biết bao? Phải mất một thời gian cô
mới nhận ra rằng khác biệt duy nhất là những người có tiền có xu hướng che giấu các vấn đề của họ để tránh cảm giác xấu hổ không đúng chỗ.
Thế nhưng, khi con cái biến mất, thì nỗi xấu hổ không còn thăng bằng trên cán cân được nữa. Becky biết rằng tất cả mọi cảnh sát đều ghét bất kỳ vụ án nào có liên quan đến nguy cơ tổn hại đến trẻ em, cô cũng không phải ngoại lệ. Cô chưa bao giờ theo tôn giáo, nhưng trong tâm trí cô lặp đi lặp lại dấu thánh giá kết hợp giữa lời khấn nguyện cùng lời hứa. Các cháu đang ở đâu - cô chú sẽ tìm ra các cháu. Cô chỉ hy vọng điều ấy sẽ trở thành sự thật.
Tom xen vào mạch suy nghĩ của cô.
“Được rồi, Becky. Chúng ta đã tra hỏi đủ để biết kết quả. Tôi sẽ đảm nhận phần giới thiệu, sau đó lùi lại và quan sát. Cô có thể tiếp quản phần thẩm vấn. Có thể thực tế sẽ không như tình hình lúc này, đây có thể chỉ là một anh chàng có vợ đem con cái đến chỗ bạn bè mà thôi, nhưng dựa theo những gì từng xảy ra với họ, tôi muốn bảo đảm rằng chúng ta không bỏ sót gì cả.”
Becky gật đầu và mở cửa xe, khẽ khàng đóng lại để không thu hút quá mức sự chú ý cho việc họ xuất hiện trên con đường yên tĩnh này. Chiếc xe cảnh sát đỗ ở lối xe chạy không hề lọt vào tầm nhìn của bất kỳ ai trừ những người hàng xóm đối diện, nhưng Becky không muốn phải tiếp những vị khách đầy thiện ý lúc này. Mà cụm từ “thiện ý” có phần hơi thanh tao; lúc nào chẳng vậy, những người đến thăm hỏi để xem liệu mình có thể “giúp đỡ” gì không thực ra chỉ đến tìm hiểu xem đang có chuyện gì xảy ra thôi.
Khi họ đi về phía cửa trước, một ngọn đèn an ninh sáng quắc bật
lên nhưng quầng sáng của nó không trúng họ. Becky quay sang Tom và nhún vai, tỏ ra vui mừng vì không bị lóa mắt bởi ngọn đèn nhưng cũng thắc mắc về hiệu quả của nó.
Tom nhấn chuông cửa, họ nghe thấy âm thanh chói lói của nó vang vọng khắp nhà. Một viên cảnh sát mà Becky không quen mở cửa, cô thấy được vẻ nhẹ nhõm vụt hiện trên gương mặt còn trẻ của anh ta, rõ ràng tỏ ra vui mừng khi thấy các sĩ quan cấp cao đến nhấc gánh nặng ra khỏi đôi vai còn thiếu kinh nghiệm của mình. Anh ta có dáng vẻ trẻ măng, non nớt và gầy gò - tứ chi lòng khòng dài thườn thượt, hoàn toàn không biết nên đặt chúng vào đâu.
Họ được dẫn vào phòng khách, một người đàn ông đứng lên khỏi sô pha, chỉ nhìn họ mà không nói gì. Dường như anh ta đang chăm chú nhìn gương mặt của Tom, đôi mắt hơi nheo lại.
“Anh Brookes phải không? Tôi là đội trưởng điều tra hình sự Tom Douglas, còn đây là đồng nghiệp của tôi, điều tra viên hình sự Becky Robinson. Có lẽ anh không nhớ, nhưng chúng ta đã từng gặp nhau rồi, lúc cha mẹ vợ anh mất. Khi đó tôi là một điều tra viên.”
Becky nhận thấy có sự giật mình nhẹ khi mắt Robert Brookes mở to hơn. Anh ta chìa tay ra, Tom bắt lấy bàn tay đó. Anh ta quay sang Becky, gật đầu nhanh với cô, nhưng không buồn bắt tay. Rõ ràng cô không đủ quan trọng để thực hiện một cử chỉ xã giao phổ thông như thế.
Brookes trông có vẻ nhỏ con và tầm thường khi đứng bên cạnh Tom. Anh ta thấp hơn sếp của cô vài phân, bờ vai cũng hẹp hơn nhiều. Đôi mắt sụp mí của anh ta nằm bên dưới cặp lông mày rậm
rịt, khi ánh mắt anh ta lia đi lia lại từ cô sang Tom, phần tròng trắng bắt quầng sáng dịu của mấy ngọn đèn bàn bố trí rải rác quanh phòng, biến chúng thành những chùm sáng vàng trên gương mặt u tối. Cô cảm thấy như thể mình đang bị một con cú đêm soi mói, chực chờ lao bổ xuống con mồi của nó.
“Cảm ơn các vị đã đến.” Brookes nói. Anh ta có vẻ mất phương hướng, như thể đang cần một ai đó nói cho mình biết phải làm gì tiếp theo.
“Anh có thể ngồi xuống được không?” Tom chỉ chiếc sô pha, Robert buông mình ngồi xuống đệm như thể sợ đôi chân sẽ không giữ nổi anh ta lâu hơn nữa. Becky chọn một chỗ trên chiếc sô pha đối diện, còn Tom ngồi xuống chiếc ghế tựa lưng thẳng hơi chếch về một bên.
“Tôi biết anh đã kể với cảnh sát Mitchell hầu hết mọi chi tiết của sự việc.” Tom nói, gật đầu với viên cảnh sát trẻ đã chìm nghỉm vào không gian đâu đó phía sau lưng Brookes, “Nhưng nếu anh thấy ổn, điều tra viên Robinson và tôi muốn rà hết mọi việc với anh một lần nữa, để chúng tôi hiểu được những lo lắng của anh.”
Robert Brookes gật đầu mà không nói gì, còn Tom thì liếc nhìn Becky.
“Anh có hoàn toàn chắc rằng vợ mình không mang lũ trẻ đi đâu vài ngày, vì chị ấy không nghĩ anh sẽ về nhà cho tới ngày mai?” Cô hỏi, bắt đầu phần thẩm vấn rất nuột.
“Cô ấy không đời nào làm vậy mà không báo với tôi, ngày nào tôi cũng nói chuyện với cô ấy, ít nhất là một lần và thường là hai lần. Cô ấy đã ở đây. Tôi chí mới nói chuyện với cô ấy sáng nay thôi.”
“Chính xác thì anh đã ở đâu và đi vắng bao lâu?”
“Tôi tới dự một hội nghị tại Newcastle trong hai tuần. Olivia đã đưa lũ trẻ đi nghỉ tuần đầu tiên, nhưng cô ấy không ở nhà suốt từ thứ Bảy trước. Tôi không có lịch về cho tới ngày mai, nhưng tôi nghĩ mình nên về nhà sớm một ngày để khiến cô ấy ngạc nhiên. Thậm chí tôi còn dừng lại ở thị trấn để mua hoa và rượu vang. Tôi cứ đinh ninh cô ấy đang ở đây.”
Becky có thể thấy Tom đang quan sát Robert Brookes từ phía bên kia, băn khoăn không rõ anh có nhận thấy điều gì không. Cô chắc chắn là không. Brookes chưa hề nhìn vào mắt cô, ánh mắt anh ta dường như liên tục di chuyển khắp phòng.
“Như vậy chị ấy không biết anh về nhà hôm nay? Chắc anh rất bất ngờ là chị ấy lại có thể đi tới nhà một người bạn, trong khi anh đi vắng. Tôi cho là anh đã kiểm tra với tất cả những người anh biết rồi phải không?” Becky nhận thấy ngay một thoáng bồn chồn trên gương mặt Robert Brookes.
“Chúng tôi không làm thế. Chúng tôi không bao giờ đến chơi và ở lại nhà người khác. Chúng tôi không có những bạn bè như vậy. Và lẽ ra lúc này cô ấy đã gọi cho tôi rồi. Theo lịch của chúng tôi thì đã quá thời gian để gọi điện. Cứ chín giờ mỗi tối. Và bảy giờ hầu hết các buổi sáng, trước khi cô ấy đánh thức bọn trẻ dậy. Chỉ để chào nhau thôi.”
“Làm sao anh biết chị ấy đang ở đây? Anh đã gọi về bằng điện thoại nhà hay di động của chị ấy?”
“Không hề. Chúng tôi dùng FaceTime trên máy tính Mac của chúng tôi. Khá giống Skype. Cả hai chúng tôi đều có máy tính xách
tay, nói chuyện trực diện với nhau tốt hơn là chỉ nghe một giọng nói rất nhiều. Cô ấy luôn gọi từ phòng ngủ của chúng tôi - nên tôi có thể nhìn thấy cô ấy đang dựa lưng vào gối và hình dung ra cô ấy ở trên giường của chúng tôi. Việc đó khiến tôi cảm thấy nhớ nhà. Cô ấy chưa bao giờ quên gọi điện khi tôi đi vắng suốt hai năm qua cả.”
Becky nhận thấy Brookes liếc sang Tom. Hẳn anh ta đã nhận ra mọi biểu hiện của mình đều đang bị theo dõi, điều đó làm anh ta không thoải mái. Cô luôn cảm thấy hơi khó chịu về điều này. Anh chàng này có thể sẽ mất bình tĩnh vì lo lắng. Mặt khác...
“Kia là máy tính xách tay của anh phải không?” Cô hỏi, chỉ một bao da mỏng trên chiếc sô pha cạnh anh ta.
“Vâng. Tôi mang nó vào đây phòng khi cô ấy gọi. Tôi đã thử gọi đi gọi lại nhiều lần. Nhưng cô ấy sẽ không gọi vào lúc này.” Tom Douglas xen vào mạch thẩm vấn.
“Điều gì khiến anh chắc chắn chị ấy sẽ không gọi cho mình, anh Brookes?”
Robert Brookes ngả đầu ra sau và nhắm mắt lại. “Bởi vì máy tính của cô ấy ở đây. Tôi thấy nó dưới đáy tủ quần áo trên gác.” “Và anh đã làm gì với nó?” Becky hỏi.
“Tôi cắm điện sạc. Pin đã cạn rồi. Tôi làm việc đó rất tự động thôi, bởi tôi vẫn thường phải nhắc cô ấy làm những việc đơn giản như thế.” Ánh mắt anh ta dừng lại ngay phía trên đầu Becky, nhưng cô có thể nói được rằng anh ta đang nhìn ra tít xa phía đó, tới một hình ảnh mà không ai có thể nhìn thấy. Cô sẽ rất thích được biết nó là gì.
“Được rồi, chúng ta tiếp tục. Theo như chúng tôi hiểu, vợ anh và lũ trẻ đã đi mất, nhưng lại chẳng có bất cứ thứ gì của họ thiếu mất cả. Đồ chơi ưa thích không, tiền bạc bí mật không, điện thoại dự trữ không, hay một thẻ tín dụng hiếm khi dùng đến - chẳng có gì cả phải không?”
“Lạy Chúa!” Robert bật lên. “Tôi sẽ còn phải nhắc lại chuyện này bao nhiêu lần nữa đây? Các vị cần ra ngoài kia tìm cô ấy, chứ không phải hỏi đi hỏi lại tôi chuyện này. Hoàn toàn chẳng có gì mất mát cả. Cô ấy không hề có khoản tiền bí mật nào - cô ấy không kiếm được gì, tôi biết rõ từng đồng xu được tiêu pha vào đâu. Đồ đạc của bọn trẻ đều ở đây cả và chiếc điện thoại duy nhất của cô ấy vẫn nằm trong cái túi xách chết tiệt của cô ấy. Không mất mát gì cả. Không gì hết.”
Dĩ nhiên ngoại trừ một người phụ nữ và ba đứa trẻ. Nhưng Becky không nói vậy.
“Tôi rất xin lỗi nếu chuyện này khiến anh thấy khó chịu, anh Brookes, nhưng tôi cần kiểm tra mọi chi tiết. Theo anh, vợ anh biến mất vào khoảng giữa cuộc trò chuyện sáng nay của hai người và bốn giờ chiều nay phải không?”
“Đúng vậy.” Hàm răng Robert nghiến chặt, nên âm thanh khó khăn lắm mới bật thốt ra được.
“Vợ anh có kể lại bất cứ chuyện gì lạ lùng xảy ra với cô ấy gần đây hay không? Cô ấy có cảm thấy mình đang bị ai đó đe dọa không? Hay lũ trẻ có đề cập đến điều gì khác thường - chúng bị bám theo hay có nói tới ai đó mình không biết hay không?”
Robert nhìn từ Becky sang Tom, rồi trở lại nhìn Becky.
“Cô ấy chẳng nói gì với tôi cả, nhưng rất có thể đã có chuyện gì đó. Có thể cô ấy đã quyết định không nói với tôi, bởi vì cô ấy biết tôi sẽ lo lắng khi đang đi vắng.”
“Ý anh là gì?” Becky hỏi.
“Chẳng có gì cụ thể, nhưng dạo gần đây cô ấy dường như không còn là mình nữa. Cô ấy hơi nhấp nhổm, bồn chồn. Và tôi nghe cô ấy thì thầm với Jasmine một vài lần. Tôi không cho phép được thì thầm to nhỏ trong nhà. Tôi nghĩ việc đó dễ gây chia rẽ. Tôi đã phải giao hẹn với cô ấy về chuyện đó.”
Chết tiệt, Becky nghĩ. Nghe như thể anh ta đã khiển trách vợ mình. Và anh ta thực hiện việc đó bằng cách nào nhỉ? Anh ta trừng phạt ư? Hay anh ta tát cô ấy?
“Vậy anh nghĩ cô ấy có bí mật gì chăng?”
“Không, dĩ nhiên đó không phải là bí mật. Xin đừng bẻ quặt mọi việc thế. Tôi nghĩ có lẽ cô ấy đang lo lắng về một chuyện gì đó, có lẽ Jasmine cũng vậy. Cô ấy không muốn tôi biết nếu như tôi đi vắng, bởi vì cô ấy hiểu rằng hội nghị này quan trọng đến nhường nào, biết rõ là tôi sẽ không đi nếu thấy lo lắng cho cô ấy. Nhưng trước khi chị hỏi câu hỏi tiếp theo, tôi không hề biết cô ấy đang lo lắng gì cả.”
Cùng với sự bực bội của Becky, là chiếc điện thoại bắt đầu rung đúng vào lúc dó, cô đứng lên cáo lỗi.
•••
Tom vẫn chưa quyết định phải nghĩ thế nào về tình huống này. Olivia không nghĩ chồng cô ấy về nhà cho tới ngày mai, nếu xét đến
những gì từng xảy ra với họ thì có vẻ nhiều khả năng cô ấy chỉ đơn thuần mang bọn trẻ đi đâu đó mà không nói cho Robert biết. Có lẽ một người bạn đã tới đón cô ấy, mặc dù mọi tư trang của cô ấy vẫn đang còn ở nhà, nhưng Tom không tin là không có nổi một lời giải thích hợp lý. Nhưng phiền phức dường như cứ đeo bám cặp vợ chồng này, theo kinh nghiệm của anh thì đó hiếm khi là một sự trùng hợp.
Nếu Olivia bị bắt cóc, theo phản hồi ban đầu từ cảnh sát Mitchell thì cô ấy chắc chắn phải để kẻ bắt cóc vào được nhà, bởi vì không hề có dấu hiệu đột nhập, cũng chẳng có bằng chứng của một cuộc vật lộn.
“Được rồi anh Brookes, nếu anh không biết được liệu có ai hay điều gì đang làm phiền vợ anh hay không thì chúng ta hãy lần trở lại một chút. Hãy truy ngược mọi việc xảy ra kể từ lần cuối anh nói chuyện với chị ấy. Anh chỉ cần nói một lượt tất cả với tôi thôi. Cảnh sát Mitchell có thể ghi chép lại.”
Robert Brookes ngả đầu ra phần đệm của sô pha và trân trân nhìn bức tranh tĩnh vật trên bức tường đối diện, như thể đang tìm cảm hứng. Tom thấy anh ta hơi lắc đầu và sau đó ngồi thẳng người lên, hơi nhổm về phía trước để đặt hai cánh tay lên đùi.
“Tôi đã nói chuyện với vợ mình sáng nay, như thường lệ. Tôi thậm chí còn không hé răng nói cho cô ấy biết rằng mình sẽ trở về nhà sớm nhằm gây bất ngờ cho cô ấy. Tôi rời Newcastle vào khoảng một giờ chiều và lái thẳng về nhà. Tôi dừng lại đổ xăng, nếu các vị thật sự muốn biết tường tận đến mức ấy, sau đó ghé vào một cửa hàng hoa tươi trên phố cùng vài cửa hàng khác để lựa mua vài
thứ quà mừng - một chai rượu vang, vài cuốn truyện tranh cho bọn trẻ.”
Robert đưa những ngón tay phải lùa vào tóc, khiến mái tóc dựng lên tua tủa.
“Tôi trở về đây ngay sau bốn giờ chiều - và các vị có thể hỏi mụ già tọc mạch bên kia đường nếu các vị không tin tôi, bởi vì mụ ấy đã nhìn thấy tôi khi trở về. Lúc nào mụ ấy cũng nhìn ra ngoài cửa sổ. Bà Preston, người ta gọi mụ ấy như thế. Chẳng bao giờ bỏ lỡ sự vụ gì.”
Tom không thể không chú ý đến đôi môi Robert cong lên khi anh ta nói về người hàng xóm của mình. Chắc chắn bà ấy là người họ sẽ cần nói chuyện.
“Tiếp tục đi. Anh thấy gì khi vào tới trong nhà?”
Robert nhìn anh ngơ ngác. “Ý anh là sao?”
“Chậc, tôi cho rằng vợ anh không ở đây. Anh đã làm gì? Anh có gọi cho ai không? Có kiểm tra gì không? Xin hãy kể một lượt cho tôi.”
Gương mặt Robert đỏ bầm lên khi nghe thấy vậy. “Vì Chúa - tôi đã kể tất cả mọi chuyện với đồng nghiệp của anh đây.” Anh ta đưa ngón tay cái qua vai ra dấu đầy khinh bỉ. “Tại sao tôi phải nhắc lại cơ chứ? Sao các vị không ra ngoài tìm kiếm cô ấy đi?”
“Lẽ ra chúng tôi đã ra ngoài tìm kiếm nếu có được ý niệm đầu tiên xem phải bắt đầu từ đâu. Đó là lý do tại sao tôi chỉ cần anh kể cho tôi nghe mọi việc một lần nữa, nếu anh không thấy phiền.” Robert nhắm mắt lại và mím chặt môi vài giây trước khi tiếp tục
kể.
“Tôi vào nhà, gọi to và không nghe thấy tiếng ai trả lời. Rõ ràng...” Anh ta nói với sự nhấn mạnh hơi lớn hơn mức cần thiết. Anh ta dừng lại, nhưng khi Tom chưa kịp phản ứng trước sự kích động đó thì anh ta đã tiếp tục. “Túi xách của Olivia nằm trên bàn. Tôi dốc hết ra, mọi thứ vẫn y nguyên ở đó. Ví, thẻ chi tiêu, điện thoại của cô ấy - thậm chí chùm chìa khóa nhà chết tiệt của cô ấy vẫn còn đây. Tôi kiểm tra gara. Xe cô ấy ở đó. Cô ấy rất thích chiếc xe, tôi không thể hình dung được rằng cô ấy thậm chí dám nghĩ đến chuyện đi đâu đấy mà không có nó. Và rồi, cuối cùng khi nhớ ra việc lấy cặp xách để trong xe và mang lên gác, tôi đã trông thấy máy tính của cô ấy. Đó là tất cả những gì tôi biết. Cô ấy vẫn còn ở đây sáng nay, nhưng giờ cô ấy đã biến mất.”
Và không hề thấy anh nhắc đến lũ trẻ một lần nào, Tom nghĩ. “Thường chị ấy làm gì vào buổi chiều thứ Sáu? Có lệ thường gì không? Chị ấy có đi mua sắm không? Hay gặp bạn bè uống cà phê? Và còn lũ trẻ thì sao?”
“Bọn trẻ sẽ ở trường. Chúng tan học lúc ba rưỡi và Olivia sẽ lái xe hoặc đi bộ tới đón chúng. Cô ấy không hẹn hò bất kỳ ai cả.” Lúc Robert Brookes vừa nói xong, thì cánh cửa phòng ăn mở ra. Dường như Becky đã nắm được mấy lời nhận xét cuối cùng của anh ta. Cô liếc nhìn Tom và anh hơi gật đầu với cô.
“Anh Brookes, khi trẻ con mất tích, một trong những việc đầu tiên chúng ta làm là liên hệ với trường học. Chúng tôi không nghĩ việc này cần đợi tới thứ Hai, cho nên chúng tôi đã liên hệ ngay với hiệu trưởng và trao đổi với bà ấy. Các con anh không đến trường hôm
nay, phải không anh Brookes?”
Tom quan sát Robert thật chăm chú. Anh không biết chắc việc này sẽ đi đến đâu, nhưng gương mặt Brookes đúng là một bức tranh. Một thớ cơ vặn vẹo trên má anh ta, anh ta đưa một bàn tay xoa xoa chỗ đó, nhưng tình trạng vặn vẹo vẫn không hết.
“Theo lời bà hiệu trưởng Stokes, anh và vợ anh đã quyết định cho lũ trẻ nghỉ học chính khóa từ vài tuần trước. Anh chị đã quyết định cho chúng học tại nhà kể từ nay trở đi. Ngày cuối cùng chúng ở trường là thứ Sáu trước đợt nghỉ giữa học kỳ - chính xác là hai tuần trước. Và không ai nhìn thấy hay nghe nói về chúng kể từ đó.”
•••
Sau phần tiết lộ của Becky, Robert Brookes đưa mắt nhìn họ từ người này sang người kia, rồi anh ta đứng lên và rời khỏi phòng mà không nói một lời.
Tom nhìn anh ta rời đi, nhưng quyết định cứ để anh ta ở riêng một lúc. Anh cần nói chuyện với Becky.
“Cô nghĩ sao?” Tom hỏi.
Becky lắc đầu. “Khá kỳ lạ. Theo lời bà Stokes, Olivia Brookes gần như đã phát khóc khi kéo lũ trẻ ra khỏi trường, bà ấy - bà Stokes, đúng vậy - đã cố hết sức thuyết phục cô ấy thay đổi suy nghĩ. Nhưng Olivia nói chồng cô ấy rất cương quyết, tất cả giấy tờ đều được ký hết rồi.”
“Bà ấy có nói gì về lũ trẻ như cách hành xử của chúng, hay bất kỳ dấu hiệu nào của việc bị lạm dụng, bất kỳ điều gì mà chúng ta có
thể lần theo không?”
“Không, bà ấy nói chúng là những đứa trẻ ngoan. Jasmine khá kín tiếng, nhưng hai thằng bé thì đúng như bất kỳ thằng bé nào ở độ tuổi của chúng - hoạt bát, không thể ngồi yên một chỗ, vụng về - tôi nghĩ từ bà ấy muốn dùng là hiếu động.”
“Thế còn cha mẹ chúng thì sao? Bà ấy nghĩ gì về họ?” “Đó lại là câu chuyện khác, tôi e rằng vậy. Rõ ràng Olivia Brookes đã tìm cách xoay xở hơi muộn màng. Có vài lần cô ấy đã quên đến trường đón bọn trẻ. Mỗi lần chuyện đó xảy ra, họ đều cố gắng gọi điện cho cô ấy, nhưng không bao giờ có người nhấc máy, vì thế họ phải gọi cho Robert. Anh ta luôn bỏ hết mọi công việc và chạy vội đến đón bọn trẻ, bà Stokes nói rằng anh ta đã hết lời xin lỗi thay vợ mình, nhưng không lời nào thật lòng cả.”
“Thế còn lý do xin lỗi của Olivia là gì?”
“Cô ấy không hề có. Chỉ nói rằng cô ấy bị nhầm lẫn và nghĩ chồng mình sẽ đến đón bọn trẻ. Nhưng đó lại là việc anh ta không bao giờ làm, bởi anh ta làm việc toàn thời gian, cho nên có vẻ hơi lạ lùng.”
Tom không thấy thích thú hơi hướng vụ này lắm. Tại sao Robert Brookes lại muốn bọn trẻ rời khỏi trường học? Có phải như thế thì chúng sẽ không mất tích không? Và phải chăng Olivia có một số vấn đề nào đó về khả năng ổn định tinh thần chăng?
“Tốt rồi, Becky, chúng ta cần đưa anh ta trở lại đây.” “Được - nhưng trước khi làm việc đó, bà Stokes có nói với tôi vài việc khác. Trong tuần qua, bà ấy có mang tới một cái hộp đựng mấy cuốn vở của bọn trẻ để Olivia có thể biết được chuyện học hành
của chúng tới đâu. Nhưng không có ai ở nhà, nên bà ấy đã kết luận, “Học tại nhà nghĩa là học hành ngay tại nhà, không phải rong chơi cả ngày, hay đại loại như thế.”
Becky nói bằng tông giọng rất cao mà Tom cho rằng chính là đang bắt chước bà hiệu trưởng. “Nhưng bà ấy đã bỏ lại hộp sách vở ở chỗ người hàng xóm bên kia đường.”
“Thú vị đấy, nhưng có thể Olivia đã đi chợ, hay thậm chí đưa bọn trẻ tới bảo tàng nào đó để thực hiện một chuyến đi học tập theo như tất cả những gì chúng ta biết.”
“Đúng, nhưng bà cụ mà bà ấy gửi nhờ sách có nói với bà Stokes rằng cụ ấy không nhìn thấy bất kỳ ai ở đây nhiều ngày rồi. Còn một chuyện khác tôi đã hỏi bà ấy là về những bức ảnh. Tôi nghĩ bà ấy có thể cung cấp cho mình vài chi tiết về thợ chụp ảnh ở trường để chúng ta có thể kiếm được vài tấm ảnh khi rõ ràng họ đang không có mặt ở đây.”
“Ý tưởng hay ho đấy.” Tom nói. Anh rất mừng khi thấy đôi mắt Becky lấy lại được sự tinh anh thường lệ.
“Chậc, có thể đó là ý tưởng hay - nhưng chẳng vì mục đích gì cả. Rõ ràng, Olivia Brookes đã đề nghị bọn trẻ không được chụp bất cứ một bức ảnh nào tại trường trong vòng hai năm qua. Chẳng có lời giải thích nào hết. Cô ấy chỉ không muốn vậy thôi. Vậy nên, chúng ta vẫn không có bức ảnh nào cả.”
•••
Becky đã bảo cảnh sát Mitchell đi tìm Robert Brookes, viên cảnh
sát trẻ báo cáo lại rằng Robert đang nằm trên giường. “Anh ta nói rằng sẽ trở xuống sau một phút nữa, thưa sếp, nhưng anh ta cứ lẩm ba lẩm bẩm về trường học - bảo mình chẳng biết gì về việc chúng được nghỉ học và dạy dỗ ở nhà cả.”
“Anh có tin anh ta không?” Becky hỏi.
“Tôi không biết. Anh ta không hề nhìn thẳng vào mắt sếp phải không? Tôi chẳng tài nào hiểu được anh ta. Rất xin lỗi, thưa sếp.” “Tôi e là cả anh và tôi đều thế.”
Họ nghe tiếng đóng cửa trên gác và đoán chắc Robert đang trên đường trở xuống, vậy nên họ ngồi vào chỗ của mình và chờ đợi. Anh ta bước vào phòng và di chuyển trở lại phía sô pha, khuôn mặt nhợt nhạt nhưng có vệt đỏ vương lại trên hai gò má giống như bốc hỏa vì giận dữ.
“Xin lỗi, nhưng tôi chỉ cần nghỉ ngơi một chút thôi. Tôi không biết phải nói gì trước cái tin nghi học kia. Tôi...”
“Không sao, anh Brookes. Chúng ta sẽ còn quay trở lại chuyện đó, tôi tin chắc là vậy. Nhưng lúc này chúng ta cần nghĩ xem phải làm cách nào để có thể tìm được vợ con anh. Anh có chắc họ không hề có tấm ảnh nào không?”
Becky chăm chú nhìn Robert Brookes. Anh ta lắc lắc đầu như thể hoàn toàn bối rối. Cô không sao quyết định được liệu đó là thật hay anh ta chỉ là đang diễn kịch.
“Tôi không hề thích ảnh ót quanh nhà. Tôi thích một vài tác phẩm nghệ thuật trang nhã hơn.” Robert chỉ những bức vẽ trang trí các bức tường, mặc dù Becky hoàn toàn không tán thành mấy từ “trang
nhã” với những gì cô đang nhìn thấy. Dù đó không phải ấn tượng đầu tiên của cô, cô phải thừa nhận với chính mình như vậy. “Tôi đã từng chụp ảnh Olivia, nhưng cô ấy không thích. Cô ấy ghét ảnh chụp chính mình, mặc dù tôi không biết tại sao. Vợ tôi rất xinh đẹp.”
Becky im lặng nhưng cô đánh bạo liếc nhìn Tom. Anh ấy có nhận ra vẫn cái vẻ căng thẳng đáng chú ý ấy không nhỉ? Cả hai người đều đang đợi Robert nói tiếp.
“Tôi nghĩ chúng tôi có mấy bức ảnh trên điện thoại và trên máy tính. Cũng có một hộp ảnh trong ngăn kéo, nhưng tôi chẳng tìm thấy gì hết. Tôi rất tiếc, tôi không biết chuyện gì đã xảy ra với chúng. Chắc chắn Olivia đã bỏ hết chúng đi rồi.”
Tuy muốn tiếp tục khai thác chuyện ảnh chụp, nhưng Tom có thể thấy rằng anh sẽ chẳng khai thác được gì thêm về chủ đề đó từ Robert, vậy nên anh đã quyết định đổi hướng.
“Anh nói vợ mình gần đây có đi nghỉ, phải không anh Brookes - trong tuần đầu tiên anh đi dự hội nghị ở Newcastle.” “Đúng vậy. Một năm chúng tôi đi vài lần, luôn tới cùng một chỗ ở Anglesey. Chà, như thế cũng không hoàn toàn đúng. Chúng tôi luôn ở cùng một chỗ, nhưng khi Olivia định đặt chỗ hồi tháng Mười năm ngoái, nơi đó đã bị đóng cửa, nên cô ấy đã tìm một nơi khác. Tôi đã tìm hiểu về chỗ mới trên mạng, theo như những gì tôi thấy thì nó cũng rất ổn. Tôi đã trao đổi với bà chủ nhà, để bảo đảm rằng bà ấy đúng là tuýp người có trách nhiệm. Do những gì đã xảy đến với cha mẹ Olivia, chúng tôi khá thận trọng khi đến ở trong nhà của người khác, cho nên tôi muốn rõ ràng về chuyện an ninh, chuông báo
động, những thứ như thế. Bản thân tôi không có thời gian đến đó, nhưng chúng tôi đã định đi lại vào tháng Bảy, ngay khi học kỳ kết thúc.”
“Anh có thể cho chúng tôi biết chi tiết và ngày giờ được không, để chúng tôi có thể nhờ ai đó kết nối điện thoại với bà chủ nhà và kiểm tra xem vợ anh có từng ở đó không?”
Robert bĩu môi vẻ bồn chồn thấy rõ. “Dĩ nhiên cô ấy đã ở đó. Tôi đã nói chuyện với cô ấy. Cô ấy còn xoay máy tính quanh phòng để tôi có thể nhìn xem nó ra sao. Cô ấy thậm chí còn cho tôi thấy bãi biển bên ngoài cửa sổ. Đương nhiên rất rõ là cô ấy đã ở đó.”
Trông Tom hoàn toàn bình thản trước sự bộc phát của anh ta và Becky nhớ anh đã dặn cô rất kỹ rằng cách tốt nhất để vô hiệu hóa những cơn thịnh nộ là cứ phớt lờ chúng đi.
“Tôi tin chắc là anh nói đúng, anh Brookes, nhưng xin hãy cung cấp cho tôi các chi tiết. Cảnh sát Mitchell sẽ ghi chép lại, chúng tôi sẽ liên lạc với bà chủ nhà để kiểm tra lại vài việc.”
Robert Brookes miễn cưỡng nhắc lại thông tin, cảnh sát Mitchell đóng cuốn sổ của mình rồi đi vào bếp.
Tom nhổm tới trước. “Anh Brookes, khi điều tra viên Robinson nói chuyện với bà Stokes, bà ấy có nói thỉnh thoảng vợ anh có một vài vấn đề, chẳng hạn như quên đến trường đón bọn trẻ. Và anh thì nói mình không biết chị ấy đã cho chúng nghỉ học. Tôi rất xin lỗi phải hỏi chi tiết này - nhưng theo tất cả những gì nghe được tối nay, tôi cần biết liệu vợ anh có vấn đề gì về sức khỏe tâm thần hay không. Xin hãy thành thật với chúng tôi. Chuyện này có thể rất quan trọng.”
Robert gục đầu vào hai tay, nhưng Becky chưa kịp nhận ra thì đôi mắt anh ta đã cụp xuống và hai vai trùng xuống đúng tư thế xấu hổ thường thấy.
•••
Tom không sao tảng lờ những hồi chuông báo động kêu inh ỏi trong đầu. Anh biết chắc Robert không đời nào thừa nhận có điều gì đấy không ổn trong cuộc hôn nhân của anh ta với Olivia - dù đó có phải chính là vụ việc này hay không - nhưng Tom phải cố gắng hiểu được trạng thái tâm lý của cô ấy, đánh giá xem liệu cô ấy có tự nguyện ra đi hay chỉ là nạn nhân của một tội ác nào đó.
Cuối cùng Robert cũng bừng tỉnh lại và trả lời câu hỏi liên quan đến sức khỏe tâm thần của Olivia bằng việc nói rằng anh ta có dăm ba điều lo lắng, chỉ là thỉnh thoảng cô ấy hơi đãng trí. Anh ta nói họ đã tìm cách đặt ra những chiến lược nhằm giúp cô ấy dễ dàng ghi nhớ được những gì cần phải làm. Liệu thế có đồng nghĩa là cô ấy đã đưa lũ trẻ đi đâu đó và rồi bị lạc, hoặc quên mất mình định đi đâu không? Tom biết rằng cả cảnh sát Manchester và Cheshire đều đang để mắt coi chừng và tất cả các bệnh viện đều đã được kiểm tra, nên rất hy vọng nếu đúng như vậy thì tất cả bọn họ đều sẽ sớm được tìm thấy.
Tom có thể nhận ra việc thăm dò nhẹ nhàng của Becky đang bị phớt lờ khi cặp mắt của Robert dần trở nên đờ đẫn, rõ ràng đầu óc anh ta hoàn toàn đang ở đâu đó khác.
Còn một chuyện nữa khiến Tom thấy băn khoăn. Ngôi nhà rất ngăn nắp. Căn cứ vào thực tế là có trẻ con sinh sống ở đây, thì ít
nhiều nó có phần hơi gọn ghẽ. Mọi thứ dường như có thể định nghĩa bằng từ “trang nhã”, có gì đó lạnh lẽo trong cái vẻ hoàn hảo này. Vậy tại sao lại có một lớp bụi mỏng bao phủ trên mọi món đồ đạc nếu Olivia từng ở đây cho tới tận sáng nay?
Không có bức ảnh nào trong nhà thực sự là một mối băn khoăn trầm trọng. Nếu họ vốn là một gia đình không bao giờ chụp ảnh thì còn thấy dễ hiểu. Đằng này, thực tế là thỉnh thoảng họ vẫn có chụp và giờ tất cả mọi bức ảnh đều biến mất thì thật khó giải thích. Tom cần ai đó xem qua hai chiếc máy tính, ngay khi cảnh sát Mitchell nói chuyện với bà chủ nhà xong xuôi, thì anh sẽ có thể tiếp tục thu xếp việc đó.
Ý nghĩ này còn chưa trôi qua trong đầu Tom thì cánh cửa bật mở và viên cảnh sát gật đầu ra hiệu cho anh vào bếp. Có vẻ anh ta hơi lo lắng, Tom đoán có lẽ là đã lâu anh ta không được phép tự ý ra ngoài. Anh chàng tội nghiệp. Tuy đây không phải trường hợp dễ hiểu nhất.
“Thưa sếp, tôi đã nói chuyện với bà chủ nhà ở Wales. Bà ấy xác nhận rằng cô Brookes và ba đứa con cô ấy đã ở đấy suốt một tuần, ra về vào thứ Bảy tuần trước. Bà ấy nói có vẻ tất cả bọn họ đều ổn, đang rất ngóng đợi đến kỳ nghỉ tiếp theo vào dịp hè.”
“Được rồi, cảm ơn cậu.” Tom đáp lại, sự chú ý của anh bị thay đổi vì một cái bảng thông báo cắm ghim rất lớn trên tường. Nó dài đến vài mét, và hoàn toàn trống trơn, ngoài mấy cái đinh ghim.
Cảnh sát Mitchell lại lên tiếng, Tom quay về phía anh ta. “Xin lỗi cậu, cậu đang nói gì nhỉ?”
“Tôi nói rằng, theo lời bà chủ nhà, anh Brookes có tới thăm vợ
trong lúc cô ấy đang ở đó. Bà ấy còn nói...” Anh ta ngó cuốn sổ tay của mình. “Tôi rất tiếc không gặp được anh Brookes khi anh ấy tới thăm trong tuần này. Dĩ nhiên, chúng tôi có nói chuyện trên điện thoại, nhưng tôi cảm thấy thất vọng vì anh ấy không ghé qua chào tôi lấy một câu. Lúc tôi thức dậy vào buổi sáng thì anh ấy đã đi rồi.”
Tom nhìn viên cảnh sát. “Cậu có chắc đó là những gì bà ấy nói không?” Anh ta lập tức cảm thấy như có lỗi, bởi vì viên cảnh sát trẻ trông có vẻ thảng thốt và hơi đứng thẳng lên một chút, đôi tay lòng khòng dài thườn thượt của anh ta thẳng đơ hai bên sườn.
“Vâng thưa sếp, tôi chắc vậy. Tôi viết tất cả xuống đây rồi.” “Vậy thì có chuyện quái gì nào?” Tom hỏi, một câu hỏi tu từ chẳng nhằm vào ai ngoài chính anh. “Phải, chúng ta cần liên hệ với cảnh sát địa phương ở Anglesey để ghé thăm bà chủ nhà, sáng mai là được, nhưng việc đầu tiên là chúng ta cần họ thẩm vấn bà ấy. Bảo họ gợi nhắc cho bà ấy nhớ và khai thác được càng nhiều chi tiết càng tốt, dù vặt vãnh thế nào cũng không thành vấn đề. Tôi sẽ trở vào kia nói chuyện với tay Brookes; tìm hiểu xem tại sao anh ta lại nói dối chúng ta. Chúng ta cần vận động hàng xóm láng giềng bắt đầu từ sáng sớm mai, trước khi bọn họ bỏ đi làm những việc định làm trong dịp nghỉ cuối tuần. Anh biết quy trình rồi chứ?” Cảnh sát Mitchell chậm rãi gật đầu.
“Cừ lắm, nhưng nếu cậu bị tắc ở khâu nào thì cứ hỏi chúng tôi. Được chứ? Tất cả chúng ta đều mới mà, cậu biết đấy. Và hỏi vẫn tốt hơn là làm rối tinh mọi chuyện.”
Tom bước ngang qua bảng thông báo và chăm chú nhìn nó, rồi ngoảnh đầu.
“Đến xem thứ này đi, nói cho tôi xem cậu thấy gì.” Anh nói. Cảnh sát Mitchell trông có vẻ bối rối một lúc, rồi anh ta chỉ tay lên góc trên bên trái chiếc bảng.
“Một cái đinh ghim có dính một mẩu giấy. Nhìn có vẻ thứ gì đó đã bị giật đi mất.”
“Khá lắm.” Tom nhìn xuống và chỉ tay. “Trên sàn cũng có một cái đinh ghim. Ở đây có gì đó. Vậy cậu sẽ làm gì tiếp theo?” “Kiểm tra các thùng rác?” Cảnh sát Mitchell đề xuất. Tom gật đầu.
“Đeo găng tay vào, hãy xem cậu tìm được gì nhé. Tôi cũng quan tâm đến mấy cái thùng rác. Nếu Olivia Brookes và lũ trẻ đã ở đây cả tuần ít nhất cho tới sáng nay, thì tôi rất muốn biết cậu sẽ tìm được gì.”
Tom gật đầu động viên chàng cảnh sát, xoay gót và đẩy mở cánh cửa từ bếp vào phòng khách.
Becky vẫn đang đặt câu hỏi, nhưng cô ấy đang dần dần cạn vốn. Và giờ đến lượt Tom thay thế. Anh không định hỏi Robert về chuyến đi của anh ta tới Anglesey vội, bởi anh có cảm giác Robert sẽ im bặt một khi anh ta nhận ra rằng họ đã biết khá nhiều.
“Anh Brookes, chúng tôi thật sự cần mang máy tính của vợ anh đi kiểm tra. Việc đó anh thấy có ổn không? Chúng tôi có thể sẽ tìm được gì đấy trên máy tính và có được manh mối để xem chị ấy có thể đã đi đâu. Chúng tôi cũng sẽ cần tới máy tính của anh, để kiểm tra dữ liệu FaceTime của anh.”
“Để làm gì cơ chứ? Nó sẽ chỉ cho các vị biết tôi gọi cô ấy khi nào
thôi. Tôi đâu có ghi lại nội dung cuộc trò chuyện.”
“Chúng tôi có thể kiểm tra xem chị ấy nói chuyện với anh từ đâu.” Robert lắc đầu quầy quậy.
“Cô ấy đã ở đây chứ đâu. Các vị không nghĩ tôi nhận ra được phòng ngủ của chính mình khi nhìn trên màn hình ư?” “Chà, việc đó sẽ giúp chúng tôi xác định khung thời gian. Theo người hàng xóm từng trò chuyện với cô giáo hiệu trưởng, thì bà ta đã không nhìn thấy chị Olivia suốt cả tuần nay rồi. Khi anh trò chuyện với chị nhà, chính xác anh đã nhìn thấy những gì trong khuôn hình - chỉ một cái gối phía sau đầu, hay hơn thế?” Robert giơ hai tay đặt lên đầu mình. Trong con mắt của Tom, có vẻ anh ta đang cố gắng níu giữ không để hơi sức thoát ra ngoài. “Tôi không biết mình cần nhắc lại việc này bao nhiêu lần nữa. Cô ấy đã ở đây, nói chuyện từ phòng ngủ của chúng tôi với những cái đệm của chúng tôi đỡ sau lưng cô ấy. Ở đây. Trong chính căn nhà này.” Robert nói từng từ thật chậm rãi và rành rọt, nhấn nhá bằng ngón tay xỉa mạnh. “Và không phải chỉ hôm nay, mà tất cả các ngày trong tuần này. Chỉ vì cái mụ khọm già tọc mạch bên kia đường không nhìn thấy cô ấy không có nghĩa cô ấy không ở đây. Con mụ đó có thể dành kha khá thời gian trong ngày ngồi bên ô cửa sổ, nhưng mụ ta không có mặt ở đó hai tư giờ trên bảy.” “Được rồi. Anh có thể cho chúng tôi biết còn máy tính nào khác mà chị Olivia truy cập được không? Có lẽ một chiếc máy tính gia đình chẳng hạn? Hay bọn trẻ có bất kỳ thứ gì kết nối Internet không?”
Robert lắc đầu. “Đó là cái máy tính duy nhất cô ấy sử dụng,
chúng tôi không đồng ý cho trẻ con tiếp cận Internet. Chúng không được phép lại gần máy tính của chúng tôi.”
Tom cố ghìm sự phản ứng về nhà trường và bài tập về nhà. Đây không phải công việc của anh, nhưng cô con gái Lucy của anh, chỉ nhỉnh hơn con gái lớn của nhà Brookes một chút, lại sử dụng máy tính suốt cả ngày. Anh hy vọng mình và vợ cũ đã thấm nhuần cho con gái nhận thức về tất cả những biện pháp an toàn, nhưng nếu cấm con bé sử dụng chắc chắn sẽ khiến nó tụt hậu so với bạn bè ở trường.
“Vậy là trong nhà không còn chiếc máy tính nào nữa?” Tom hỏi. “Chỉ còn chiếc trong phòng làm việc của tôi, nhưng cô ấy sẽ không sử dụng nó, bởi nó đã được đặt mật khẩu bảo vệ.” “Anh chỉ cho tôi xem được chứ?” Tom hỏi.
Robert thở dài khi gượng đứng lên khỏi sô pha. Anh ta cúi xuống nhặt một chùm chìa khóa trên chiếc bàn uống nước và dẫn đường ra khỏi phòng. Khi anh ta tra chìa vào ổ khóa, Tom liếc nhìn Becky và thấy lông mày cô cau lại đầy thắc mắc.
“Tại sao anh lại phải khóa cửa này, anh Brookes?” Becky hỏi. Robert tặc lưỡi, như thể câu trả lời rất rõ ràng.
“Bởi vì tôi làm việc trong này. Tôi không muốn bọn trẻ vào, không muốn chúng sờ mó vào máy tính. Tôi đã mở cửa cho viên cảnh sát của các vị, nhưng luôn khóa cửa lại sau khi ra khỏi phòng vì đã thành thói quen rồi.”
“Vợ anh có chìa khóa phòng này không?” Tom hỏi, ngờ rằng mình đã biết câu trả lời trước cả khi đặt câu hỏi.
“Không, cô ấy không cần đến. Cô ấy dọn dẹp trong này khi tôi ở nhà, không phải khi tôi đi vắng.”
Tom gật đầu, như thể đây là một việc rất đỗi bình thường. “Chỉ một câu hỏi cuối cùng thôi, anh Brookes. Anh nói anh ở Newcastle suốt hai tuần qua - có phải không nhỉ?”
“Vâng, dĩ nhiên là đúng. Tôi đã nói với các vị rồi.”
“Vậy thì anh có thể giải thích xem - theo lời bà chủ nhà trọ ở Anglesey - anh đã tới thăm vợ mình vào giữa tuần trước như thế nào được không?”
Robert Brookes xoay gót lại.
“Anh vừa nói gì cơ?”
“Tôi hỏi rằng có phải, thực tế, anh đã tới thăm vợ mình ở Anglesey trong dịp nghỉ của cô ấy cùng lũ trẻ tuần trước hay không.”
“Không. Tôi đã nói với các vị rồi. Tôi không hề rời khỏi khách sạn ở Newcastle trong suốt hai tuần liền. Tôi vướng công việc lút đầu, không có cách nào đi được cả. Hãy hỏi bất kỳ ai về điều đó.” “Chúng tôi sẽ hỏi, anh Brookes. Cảm ơn anh.”
•••
Với Becky, có vẻ như họ đã biết được rất nhiều, đồng thời cũng chẳng biết gì cả. Họ đã hỏi Robert Brookes thêm nửa tiếng đồng hồ nữa về mọi việc từ địa điểm hội nghị cho tới cuộc trò chuyện của anh ta với Olivia sáng hôm đó, chẳng còn gì ngoài một danh sách những người có thể xác thực rằng Robert có mặt tại Newcastle.
Cô ngó sang Tom khi anh đang trao đổi các thông tin liên hệ với Robert Brookes, không thể không so sánh hai người đàn ông kia với nhau. Phong thái điềm tĩnh và thư thái của Tom càng tương phản hơn với hành vi nhấp nhổm của Robert. Ánh mắt bồn chồn và chấp chới, anh ta liên tục nhìn từ người này sang người kia mà không nhìn vào mắt họ, lộ rõ vẻ đang rất mất bình tĩnh.
Cảnh sát Mitchell thò đầu vào cửa và vì không muốn làm phiền Tom, Becky đi tới để xem anh ta đã tìm thấy những gì. “Đội trưởng Douglas giao cho tôi kiểm tra các thùng rác.” Anh ta giải thích. “Sọt rác trong bếp không có gì, có vẻ đã được dọn sạch và tẩy uế, căn cứ vào mùi của nó. Cho nên tôi đã phải ngó vào thùng rác. Nhưng cũng chẳng có gì cả, ngoại trừ hai thứ. Một túi giấy hiệu John Lewis, hoàn toàn trống rỗng bên trong, nó đây.” Cảnh sát Mitchell giở một cuộn giấy rộng và trải ra trên bàn bếp. “Tôi nghĩ nó từng ở trên tường, bởi vì chỗ rách ở góc khớp với mẩu giấy dính trên chiếc đinh ghim.”
Becky nhìn biểu đồ và móc điện thoại ra, nghĩ rằng chụp vài tấm ảnh có thể là một ý tưởng hay ho.
“Giống như một kế hoạch gì đó.” Cảnh sát Mitchell nói. Một kế hoạch gì đó còn là nói bớt so với thực tế. Diện tích hai mét rộng nhân một mét cao, đây là thời gian biểu với tần suất nửa tiếng một cho tất cả các ngày trong tháng qua, một bảng còn trống cho tháng tới, Becky cúi xuống, chăm chú xem thật kỹ. Mức độ chi tiết có dao động. “3.20 chiều - đi đón các con ở trường. 3.40 chiều - từ trường về nhà cùng các con.” Đây là đầu mục cuối cùng, cho chính ngày hôm ấy. Từng sự kiện trong ngày của Olivia đều được
vạch ra trên bảng này. Không phải thời gian biểu của trẻ con - cô nhận thấy có một bảng đen nhỏ tách riêng cho việc đó, với các mẩu giấy nhắc được ghim gọn dưới cùng. Nhưng mảnh giấy này ghi chép lại chi tiết mỗi lần Olivia rời khỏi nhà và mỗi lần cô ấy trở về. Nó cũng liệt kê bất kỳ cuộc điện thoại nào cô ấy nhận, cho dù rất bình thường. “Gọi điện lúc 10.13 sáng. Nhầm số.” Tất cả những thứ đó là gì vậy?
Khi được hỏi về các vấn đề sức khỏe tâm thần của vợ mình, Robert có nói rằng họ đã đặt ra giải pháp nhằm giúp đỡ Olivia gợi ý một kế hoạch dự liệu cho tương lai để cô ấy làm theo. Bản kế hoạch này có vẻ được viết thông qua hồi tưởng - hoặc những gì cô ấy sắp làm hoặc những gì thực tế cô ấy đã làm, chứ không phải những gì cô ấy có kế hoạch thực hiện. Thỉnh thoảng lại có những nhận xét kiểu “Trở lại Sainsbury - quên trứng. Quay lại sau hai mươi phút” như thể đây là lời nhắn cho ai đó. Và cô ấy đã viết trên bảng ngày hôm nay - hoặc hôm qua, vì giờ đã là quá nửa đêm - rằng cô ấy từ trường trở về cùng bọn trẻ. Nhưng bọn trẻ đâu có đến trường.
Cô nhìn kỹ hơn biểu đồ. Hầu hết các đầu mục ghi chép đều dùng bút chì, bút đỏ, bút xanh - thậm chí cả sáp màu của trẻ con. Nhưng các đầu mục mấy ngày qua đều được ghi bằng cùng một chiếc bút, cô không hoàn toàn chắc chắn chúng là cùng một dạng chữ viết tay như những mục trước đó. Cô cần bảo một ai đấy khác xem xét chi tiết này. Nếu như không phải vậy thì nó có thể mang một ý nghĩa nào đó. Olivia có thể đã viết những mục này từ nhiều ngày trước. Và chính Robert cũng có thể làm vậy, đó mới là vấn đề.
5
T
hứ Bảy
Robert đã chờ mười lăm phút qua đi sau khi căn nhà đã vãn lũ người với màn chất vấn bất tận cùng những tiếng bíp bíp từ điện thoại di động của họ. Anh ta vớ lấy một chai nước, chìa khóa xe và ví, rồi đi lần ra cửa trước. Đèn an ninh đã bật, nhưng quầng sáng không chiếu lên lối đi dành cho xe, vẫn như thường lệ. Nó đang chiếu thẳng qua đường đúng vào cửa sổ nhà bà Preston. Bằng cách nào đó nó đã bị làm lệch đi, anh ta có thể nhìn thấy một cái bóng đứng phía sau ô cửa sổ phòng ngủ đối diện. Anh ta biết ánh sáng sẽ khiến người hàng xóm của mình chú ý và bà ta sẽ quan sát đầy hứng thú. Chà, rõ ràng bà ta sẽ có cơ hội lên tiếng, bởi vì anh ta tin chắc cả con phố này sẽ được hỏi thăm ngay sau khi thức dậy.
Anh ta dự định sẽ lặng lẽ rời đi, nhưng khi mụ quạ già kia cứ theo dõi, anh ta liền cho xe rồ lên và định lao vọt xuống đường với tiếng rít của lốp xe, chỉ để chọc tức mụ già ngu ngốc, thì nhận ra có một chiếc xe đậu xa hơn dưới phố. Không phải là loại xe bình thường vẫn thấy trên con đường này. Không mất nhiều thời gian để anh ta nghĩ ra đó là gì. Lũ cảnh sát khốn kiếp. Anh ta nới lỏng chân ga, chiếc xe phát ra tiếng ầm ì khe khẽ của động cơ đắt tiền, rồi anh ta từ tốn và gần như lặng lẽ rời khỏi lối chạy xe. Nếu như bị bám theo, anh ta sẽ phải nghĩ kế khác.
Thật đáng ngạc nhiên, anh ta đã đi hết đoạn đường thẳng khá dài về phía xa lộ M56, nhưng chẳng có ai phía sau anh ta cả. Hẳn là
những ngờ vực của anh ta không đúng. Các con đường đều vắng vẻ vào lúc một giờ sáng thứ Bảy, nên sẽ rất dễ dàng phát hiện ra nếu có một chiếc xe bám đuôi mình.
Anh ta sẽ còn phải lái xe thêm vài tiếng nữa, bất chấp tình trạng kiệt sức, lúc này anh ta vẫn cảm thấy hoàn toàn tỉnh táo. Đó là cả một sự cố gắng, nhưng anh ta buộc bản thân mình phải giữ đúng giới hạn tốc độ. Tối nay anh ta không muốn bị chú ý một cách không đáng. Anh ta không rõ toàn bộ các hệ thống của cảnh sát phối hợp với nhau như thế nào, nhưng anh ta không muốn bị để mắt tí nào nếu tên mình chẳng may bị lọt vào danh sách “những cá nhân đáng chú ý” nào đấy. Dẫu vậy, đó vẫn là một buổi tối xấu trời. Sau một ngày nắng ráo, gió mạnh bất ngờ nổi lên, cây cối nghiêng ngả dữ dội hết từ bên này sang bên kia.
Sau một tiếng năm mươi phút đồng hồ, Robert đã đến được đích của mình vì hoàn toàn chẳng có xe cộ lưu thông trên đường vào cái giờ bất tiện này. Ngay trước ba giờ sáng, hoàn toàn không hợp để đi bấm chuông cửa - ít nhất là nếu anh ta muốn có được kết quả như ý. Việc này phải được giải quyết ổn thỏa, anh ta sẽ phải chờ cơ hội và giữ bình tĩnh. Anh ta hình dung rằng những người điều hành các nhà trọ đều phải thức giấc vào một thời điểm hợp lý để bắt đầu chuẩn bị bữa sáng cho khách khứa, nên anh ta chỉ việc chờ đợi thôi. Có lẽ thật hấp tấp khi quyết định đến đây lúc nửa đêm, nhưng anh ta cần biết chắc mình là người đầu tiên nói chuyện với bà chủ nhà trong ngày hôm nay.
Nhà nghỉ vẫn chìm trong bóng tối vào cái giờ này của buổi sáng. Một lối chạy xe rộng rãi dẫn tới cửa trước ngôi nhà, ngọn đèn ngoài
"""