"
Săn Kẻ Giết Người - Joe Kenda & Hoàng Minh Hùng (dịch) full mobi pdf epub azw3 [Trinh Thám]
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Săn Kẻ Giết Người - Joe Kenda & Hoàng Minh Hùng (dịch) full mobi pdf epub azw3 [Trinh Thám]
Ebooks
Nhóm Zalo
SĂN KẺ GIẾT NGƯỜI ———★———
Tác giả
JOE KENDA
Người dịch
HOÀNG MINH HÙNG
Đơn vị phát hành
SAIGONBOOKS
Nhà xuất bản
HỒNG ĐỨC
ebook♥vctvegroup
20-05-2022
PHẦN MỞ ĐẦU
Thời gian trôi qua trong một vụ án giết người cũng tựa như khi ta xoay một vòng quay may mắn. Chiếc vòng ấy sinh ra là để quay. Một vòng quay hoàn hảo. Bạn, một thám tử, nên cảm ơn vì nó quay đủ chậm để bạn xác định các dữ kiện của vụ án. Cái vòng quay đó, nếu lỡ chạm vào quá sớm hoặc cho dừng không đúng chỗ, ô manh mối sẽ vuột qua và biến mất. Quan trọng hơn, mọi thứ sẽ không bao giờ quay lại vị trí ban đầu. Bạn chỉ có duy nhất một cơ hội để quay đúng. Thậm chí bạn có thể khiến vụ án rơi vào bế tắc nếu như không biết bản thân đang làm gì ngay từ lần chạm đầu tiên.
- CỰU CẢNH SÁT ĐIỀU TRA JOE KENDA
Nhà tôi thật ra giống gia đình quái gở Addams* hơn là gia đình tài phiệt Walton*. Ôm dường như là hành động vô nghĩa với mọi người trong nhà, đến khi tôi lớn lên vẫn thế. Những chuyến đi chơi lễ cũng hết sức hiếm, vậy nên chuyện bố mẹ quyết định đưa anh trai và tôi đến Sở thú Pittsburgh có thể coi là một sự kiện lớn.
Điểm dừng chân đầu tiên của chúng tôi tại vườn thú là Nhà Linh trưởng. Khi đến gần, tôi chợt phát hiện ra một tấm biển với dòng chú thích: “Quanh góc này, bạn sẽ nhìn thấy loài vật nguy hiểm nhất hành tinh”.
Cảm thấy khá ngạc nhiên, tôi chạy vòng quanh cái góc ấy và dừng chân trước một chiếc gương, một chiếc gương to tướng cao từ trần đến sàn phản chiếu hình ảnh của toàn bộ những người đang dạo quanh sở thú, kể cả tôi. Tôi đứng lại và nhìn vào trong gương một lúc lâu, đủ lâu để suy nghĩ về thông điệp của tấm biển.
Khái niệm con người là loài thú nguy hiểm thực sự tác động mạnh đến tôi. Tôi tự hỏi liệu đây có phải là sự thật. Chúng ta có thể là những sinh vật nguy hiểm nhất hành tinh ư?
Tôi suy tư về câu hỏi đó lâu đến nỗi mẹ phải hét toáng lên thì tôi mới tiếp tục di chuyển cùng dòng người ở đấy. Ý nghĩ về việc xem con người như những kẻ săn mồi khát máu cứ bám víu lấy tâm trí tôi.
Suốt 23 năm rưỡi làm công tác phòng chống tội phạm, tôi xác nhận rằng đó thật sự là sự thật, trong mọi trường hợp. Tôi thấy hầu hết các động vật khác chỉ săn giết vì nhu cầu, trong khi con người có thể và sẽ xuống tay để được thỏa mãn hay vì các lý do bẩn thỉu khác.
Tôi trở thành thám tử điều tra trong các vụ giết người vì tôi muốn tìm hiểu tại sao con người lại sát hại lẫn nhau, và cũng vì tôi muốn loại bỏ những điều xấu xa nhất đến từ tội ác xấu xa nhất này. Những kẻ giết người sẽ phải chịu án chung thân hoặc tử hình, vì vậy, tôi đã lý luận rằng giết người phải là hành vi phạm tội tồi tệ nhất, và tôi muốn gột bỏ điều tồi tệ nhất này ra khỏi xã hội của chúng ta. Trong
suốt quãng đời hai mươi mấy năm ấy, tôi đã trấn áp không ít hành vi phạm tội, không dám nhận là nhiều, nhưng cũng khá nhiều. Nếu bạn muốn biết điều gì xảy ra khi điều tra các vụ giết người, hãy theo chân tôi trong những trang sách tiếp theo và tôi sẽ cho bạn thấy. Tuy nhiên, hãy luôn lưu ý: Bạn có thể không muốn nhìn thấy thực tế gây ra bởi những kẻ sát nhân đáng sợ nhất trong thế giới của chúng ta. Nếu bạn không nghĩ mình có thể đi sâu vào những khía cạnh đen tối nhất của bản chất con người, hãy cân nhắc việc đặt cuốn sách này xuống, bởi vì nó có thể đả kích bạn. Nhưng nếu bạn quan tâm đến sự thật, thì bạn đang đọc đúng sách rồi đấy. Có thể bạn đã biết hoặc không, tôi là một sĩ quan cảnh sát ở thành phố Colorado Springs, bang Colorado, Hoa Kỳ. Trong 19 năm sự nghiệp tại đây, tôi đảm nhận vai trò thám tử trong các vụ trọng án. Tôi đã tham gia điều tra tổng cộng 387 vụ án giết người và tìm ra kẻ thủ ác trong 92% số vụ đó. Vì vậy, bạn có thể nói tôi đã hoàn thành tốt 92% công việc, hoặc bạn có thể nhận định tôi là tên gà mờ không thể tìm ra lời giải cho 8% các vụ án còn lại của mình.
Tôi vẫn luôn day dứt về những vụ án mà mình chưa phá được, nhưng tôi yêu công việc này, và tôi muốn nói rõ rằng tôi chưa bao giờ là gã kỵ sĩ cô độc khi giải quyết các vụ án. Sát cánh bên tôi luôn có những nhóm chuyên gia thực thi pháp luật, bao gồm các giám sát viên, đồng nghiệp thám tử và các nhân viên tuần tra, những người đã đóng góp mọi kỹ năng cùng sự hỗ trợ trong mọi vụ án mà tôi góp mặt. Tôi sẽ không bao giờ có thể giải quyết bất kỳ vụ án nào nếu thiếu đi sự trợ giúp và động viên của họ.
Cũng như mọi cơ quan thực thi pháp luật khác trên toàn nước Mỹ, chỗ chúng tôi có nhiều nhân viên với những điểm độc đáo riêng. Chúng tôi có một chàng trai có thể mở bất kỳ loại khóa nào, một người khác có thể gắn và theo dõi cá nhân (dưới sự cho phép của tòa án) bằng các thiết bị ghi hình, điện thoại, và cả trên màn hình máy tính, và còn nhiều người khác khi truy tìm dấu tích và điều tra nghi phạm thì cứ phải gọi là xuất quỷ nhập thần. Khi tôi cần các thông tin trong chiếc máy tính vừa được thu giữ, tôi sẽ gọi cho vị thiên tài công nghệ của cơ quan, một điều tra viên giỏi như Sherlock Holmes chỉ với bàn phím máy tính. Bất cứ lúc nào chúng tôi có một nhiệm vụ bí mật khó khăn đòi hỏi cả tinh thần minh mẫn lẫn thể chất tráng kiện, những người anh em luôn sẵn sàng ở đó. Họ là những người đóng góp to lớn cho các cuộc điều tra của chúng tôi.
Nhiều năm trôi qua, tôi cũng học được kha khá kinh nghiệm từ các đồng nghiệp của mình. Khi mới bước chân vào nghề, các vị sếp thường xuyên hét lớn vào mặt và gọi tôi là một thằng ngốc, nhưng họ đã đúng. Khi học hỏi từ những người biết rõ mình đang làm gì, kỹ năng của bạn sẽ càng ngày được cải thiện. Đó là cách bạn trở thành một chuyên gia.
Trong suốt sự nghiệp của mình, tôi đã phục vụ năm nhiệm kỳ cảnh sát trưởng khác nhau. Mỗi người đều có phong cách lãnh đạo riêng, nhưng tất cả đều là những chuyên gia tuyệt vời và tôi đã học hỏi được rất nhiều từ họ. Tất cả những người tôi làm việc cùng đều xứng đáng được vinh danh long trọng vì những gì họ đã đóng góp cho các cuộc điều tra được đề cập trong cuốn sách này, chứ không chỉ đơn thuần là cảm ơn.
Tôi thích cùng họ giải quyết và truy bắt bọn tội phạm đường phố. Dù không được trả công và vợ tôi có thể phản đối, có lẽ tôi vẫn sẽ làm. Với tôi, nó như một sứ mệnh. Khi một con quái vật đang gieo rắc nỗi kinh hoàng cho người khác, bạn có thể đứng lên hoặc vẫn tiếp tục ngồi đó. Tôi thì sẽ luôn vùng dậy vì những nạn nhân của các vụ giết người. Và tôi tự hào về điều đó.
Càng yêu thích công việc đối đầu với những tên giết người xấu xa nhất, thì những góc tối của nghề này càng gây hại cho tôi và gia đình. Tôi đã từ chức vào một ngày mà tôi thực sự mất kiểm soát với cảm xúc và cảm thấy bản thân đang dần biến thành chính những kẻ mà tôi vẫn luôn truy đuổi. Sau khi ổn định tinh thần, tôi nghĩ mình đã đến lúc nghỉ hưu. Tôi nghĩ mình đã có thể khép chặt những cánh cửa ký ức và chặn chúng lại bằng một bức trường thành. Tôi cũng nghĩ rằng, sau ngần ấy thời gian, giờ tôi có thể bỏ lại phía sau những nỗi kinh hoàng mà mình từng chứng kiến.
Nhưng tôi đã sai.
Rồi may mắn thay, tôi tìm ra một con đường khác để gầy dựng lại cuộc sống và sự tỉnh táo trong tôi. Hoặc, tôi nên nói rằng, chính con đường ấy đã tìm đến tôi.
Đến thời điểm viết cuốn sách này, chúng tôi đã bắt đầu bấm máy mùa thứ bảy của Homicide Hunter*(Tạm dịch: Thợ săn kẻ giết người) cho kênh truyền hình Investigation Discovery, thu hút khoảng 30 triệu người xem ở Hoa Kỳ, và phát sóng rộng rãi khắp gần 200 vùng lãnh thổ trên thế giới. Ý tôi là là việc thuật lại những câu chuyện của tôi như một liều thuốc. Nó là một cách giải phóng nỗi đau và sự kinh hoàng tích lũy trong suốt sự nghiệp làm cảnh sát kiêm thám tử
điều tra các vụ sát nhân. Giờ tôi viết cuốn sách này cũng với lý do đó: chia sẻ những câu chuyện này sẽ làm giảm gánh nặng tôi đang mang.
Việc công bố những câu chuyện này đã tạo ra sức ảnh hưởng vô cùng bất ngờ. Bây giờ, mọi người dường như tương tác tích cực với tôi hơn, chứ khi còn là một nhân viên cảnh sát, chẳng mấy khi tôi nhận được sự yêu mến hay tôn trọng từ mọi người. Tôi tận dụng sự thù hận trên đường phố để điều khiển bản thân mình, để hoàn thành công việc. Trước đó, tôi chỉ biết đến sự khinh miệt mà những kẻ giết người, gia đình của họ, và những người sợ hãi tôi ném vào mình. Mạng sống của tôi đã từng bị đe dọa vô số lần. Họ cũng đe dọa giết vợ con tôi, và cả chú chó của tôi. Lòng tôi đã chất đầy hận thù như vậy đấy. Nhưng khi tôi lên sóng truyền hình, mọi thứ bỗng nhiên đảo lộn. Tôi thực sự cảm thấy được tôn trọng. Những người lạ mặt muốn nói chuyện với tôi tại các sân bay, trung tâm mua sắm và trên sân golf.
Tôi không phải là người nổi bật nhất trên các phương tiện truyền thông xã hội, nhưng có ít nhất sáu trang hâm mộ chương trình Homicide Hunter trên Facebook, bao gồm cả một trang với tên gọi “Con Quái vật Kenda”.
Sau 23 năm lặn ngụp trong bóng tối của bản chất con người, giờ đây tôi đang tận hưởng ánh sáng, và tôi thích chia sẻ những câu chuyện của mình. Tôi không biết lý do tại sao điều này lại thành ra đúng đắn, hoặc cũng chẳng rõ cái khiếu kể chuyện đến từ đâu. Nhưng hẳn là chẳng có chuyên gia kể chuyện nào lớn lên trong một gia đình toàn cáu gắt và cãi vã như tôi (haha).
*
Bây giờ, tôi xin phép được bắt đầu.
Rất nhiều người quá bận để cố gắng giết hại nhau, hoặc đe dọa giết nhau. Vì vậy, trở thành một thám tử điều tra án mạng như một cái nghiệp đến với tôi.
Phần I
NẾM TRẢI NHỮNG NGANG TRÁI, VẤP NGÃ VÀ NHỮNG CƠN ÁC MỘNG ĐỜI TÔI
Thứ nhất
THỎI NAM CHÂM XUI XẺO
Năm 1973, khi tôi vừa mới gia nhập Sở Cảnh sát Colorado Springs, nơi đây vẫn còn là một lực lượng chưa được đào tạo và tuyển chọn bài bản. Hầu hết các sĩ quan đều là cựu chiến binh quân đội với ít nhất 10 năm làm việc trong ngành. Người có bằng đại học rất hiếm. Vai u thịt bắp, nắm đấm nhanh nhẹn và sự nhạy bén mới là những đặc điểm ban đầu cần thiết để được thăng cấp.
Những tân binh ngày trước không được tham dự các khóa huấn luyện kéo dài nhiều tuần để sẵn sàng ra phố chiến đấu giống như bây giờ. Thay vào đó, họ để bạn cộng tác với một cựu chiến binh - người sẽ giúp bạn học cách giải quyết vấn đề. Lính mới sẽ lái xe đi cùng cộng sự lớn tuổi của mình trong chừng hai hoặc ba tuần cho đến khi chúng tôi biết được những quy trình, thủ tục và mọi thứ trong thành phố. Hầu hết các nhân viên tuần tra đều đi một mình, nhưng là lính mới thì chúng tôi không được phép đi xe tuần tra riêng, trừ khi chúng tôi chứng minh được rằng mình có thể sống sót trên đường phố. Không có một bài kiểm tra hay tập dợt trước nào cả. Cho nên trong đa số trường hợp, điều đó có nghĩa là phải đổ máu.
Tôi đã lái chiếc xe tuần tra của mình được khoảng hai tuần từ khi nhận việc. Chúng tôi được điều động đến White Spot, một nhà hàng drive-in* mở suốt 24 giờ nằm ở phía Tây thành phố, nơi mọi rắc rối luôn có khả năng diễn ra, thường là những băng nhóm say xỉn và
gây rối trật tự công cộng. Kể từ sau nửa đêm, tất cả sẽ bắt đầu đổ đốn.
Người cộng sự và tôi nhận nhiệm vụ vào khoảng 1 giờ sáng sau khi nhận cuộc gọi từ một người đầu bếp thông báo rằng, “Một cảnh sát sắp bị giết đến nơi rồi”. Khi đến nơi, tôi tức tốc chạy vào bên trong và nhìn thấy một gã cao to đang vật lộn với người đồng nghiệp của chúng tôi ở quầy thức ăn. Gương mặt của viên cảnh sát ấy đang tím dần.
Tôi lao vào can ngăn trong trạng thái kích động bởi nỗi sợ và sự tức giận. Tôi nắm chặt lấy tóc của kẻ xấu xa kia và dộng mạnh mặt anh ta vào mặt bàn quầy thức ăn bằng toàn bộ trọng lượng của mình. Trong cơn thịnh nộ, tôi đã không để ý đến chiếc máy làm kem bằng inox trên quầy phục vụ. Tôi không cố ý “là phẳng” chiếc máy làm kem bằng khuôn mặt của anh ta, nhưng chuyện đó đã xảy ra.
Xương mặt và sụn bị vỡ nát. Máu tràn ra khắp nơi. Tôi nghĩ tôi đã giết anh ta. Mọi người cũng nghĩ như vậy.
Tôi bước lùi lại. Nhà hàng dần rơi vào sự tĩnh lặng. Người cộng sự của tôi gọi xe cứu thương đến. Tôi kiểm tra người cảnh sát đồng nghiệp vừa xô xát với tên kia. Viên cảnh sát bị đánh đập đang thở hổn hển vì thiếu không khí, nhưng anh ấy sẽ ổn thôi.
Kẻ tấn công sẽ cần phải thực hiện một cuộc đại phẫu để chỉnh hình lại toàn bộ khuôn mặt. Mai này khi anh ta nhìn vào gương và thấy những vết sẹo, chắc hẳn anh ta sẽ thiết tha nhớ đến tôi.
Liệu tôi đã đưa sự việc đi quá xa? Tôi tự hỏi có khi nào tôi kết thúc sự nghiệp của mình trước khi nó chính thức bắt đầu. Có lẽ tôi đã lo lắng quá. Viên trưởng cảnh sát tuần tra thì nghĩ rằng tân binh mà đã
dũng cảm lao vào trợ giúp một sĩ quan khác thật tuyệt vời. Việc tôi đập vỡ mặt tên xấu kia hóa ra lại là một điểm cộng quý giá. Ngày hôm sau, không những không bị khiển trách, tôi còn được giao hẳn một chiếc xe hơi tuần tra riêng. Danh tiếng của tôi - một viên cảnh sát chuyên dẹp loạn các băng nhóm giang hồ - bắt đầu được tạo dựng. Sự kiện xảy ra ở White Spot trở thành một huyền thoại đô thành. Nghe có vẻ ngầu đấy, nhưng nó cũng khiến tôi mang thêm cái danh khác: kẻ chuyên thu hút rắc rối. Danh tiếng này được duy trì suốt cả 23 năm và 6 tháng làm việc trong ngành.
Ngay từ khi còn là một tân binh, tôi luôn bị những kẻ say xỉn nhắm bắn hoặc tấn công. Không viên cảnh sát nào muốn ở quanh tôi. Họ bảo rằng: “Anh là thỏi nam châm chuyên hút những điều xui xẻo”, và họ đã đúng. Đơn cử là cuộc gọi yêu cầu hỗ trợ đầu tiên của tôi đến quán bar Fred’s, một thế giới ngầm khác nằm ở phía Tây thành phố.
Fred’s, nơi bây giờ may thay không còn kinh doanh nữa, chuyên phục vụ thứ bia rẻ nhất cho tầng lớp người thấp kém nhất. Bãi chứa này như đưa ta trở lại thời Chiến tranh Thế giới II. Tôi đồ rằng họ đã không quét dọn quán bar từ Ngày chiến thắng 15 tháng Tám*. Các khách quen thường nốc những cốc bia rồi tiểu tiện ngay trong quán (nhưng ngoài toilet). Tôi nói thật đấy. Những người thường lui tới quán này chẳng thèm bận tâm đến lối trang trí bẩn thỉu hay mùi hôi thối vì đơn giản là họ đã “đóng góp” thứ đó cho nơi này mà.
Tôi đã được điều động đến Fred’s sau khi nhận được một cuộc gọi trong ca trực. Đáng ra theo đúng trình tự thủ tục, tôi còn phải đợi lệnh để có người hỗ trợ, lên phương án tác chiến, nhưng hiện tại thì bàn ghế đang bay tứ tung trong quán và tình huống này đang nằm
ngoài tầm kiểm soát. Vì vậy, tôi đã hùng dũng bước vào như một vị thần. Và đoán xem ai là kẻ quấy nhiễu những người trong quán bar? Một gã người Mỹ bản địa cao to như cầu thủ bóng bầu dục, đi một đôi giày da họa tiết màu đỏ đang ném phịch mọi người xung quanh xuống đất nhẹ như ném những con búp bê đồ chơi.
Gã ta như một con quái thú.
“Anh đã bị bao vây!”, tôi thông báo.
Gã quái vật to khỏe đáp lại theo cách ngoài mong đợi của tôi. Một bàn tay khổng lồ túm lấy đáy quần của tôi, tay còn lại quấn quanh cổ tôi. Sau đó, gã ta ném tôi nhẹ hẫng như ném một cái túi khoai tây qua cửa sổ trước quán với một lực đủ mạnh khiến tôi bay vụt qua vỉa hè và nằm lăn quay ngay cạnh chiếc xe tuần tra của mình đang đậu bên kia đường.
Tôi nằm trên vỉa hè một hồi, kiểm tra vết thương của mình thì vừa kịp lúc viên sĩ quan hỗ trợ đã đến. Anh ta xem xét hiện trường, cười khúc khích và hỏi, “Anh có nghĩ mình cần giúp đỡ ở đây không?”. “Có chứ, tôi nghĩ là cần đấy”, tôi lầm bầm.
Thật chẳng may là lúc ấy chúng tôi không được trang bị sẵn súng điện Tasers. Thay vào đó, chúng tôi tiến vào quán Fred’s với cây dùi cui chuyên dụng dùng trong bóng tối. Theo ước tính của mình, chúng tôi ập vào rồi lại bay ra khỏi quán rồi lại ập vào, choảng nhau với tên quái vật ít nhất năm mươi lần.
Chúng tôi không hề làm đau anh ta. Chỉ là anh ta đã mệt dần và đầu hàng.
Vài tháng sau, tôi gặp được một người anh em song sinh còn hung ác hơn cả gã ấy. Tổng đài viên vô tuyến thông báo có một cuộc ẩu đả trong nhà vệ sinh nam ở trạm xe buýt. Nhưng lần này tôi đã khôn ngoan hơn và chờ đợi thêm tiếp viện.
Một lần nữa, chúng tôi lại đối đầu với một gã người Mỹ bản địa có vóc dáng vô cùng ấn tượng, cao tầm một mét chín và nặng khoảng 130 ký lô. Khi chúng tôi bước vào, gã đó đang lặng lẽ chăm chú nhìn mình trong gương. Dưới chân gã là ba người đàn ông đang chảy máu và nằm bất tỉnh.
Gã ta đã không nhận ra sự có mặt của chúng tôi cho đến khi chúng tôi rút dùi cui ra.
Rồi gã nhìn lên và bảo, “Mẹ chúng mày không biết lũ nhóc chúng mày trốn ra ngoài đây chơi à?”.
Câu nói đó đã khẳng định rằng chúng tôi vừa mới bước chân vào một cuộc chiến sống còn. Trước khi tra được còng vào tay gã ta, chiếc áo sơ mi đồng phục của tôi đã bị xé toạc và tôi đã mất khoảng ba nắm tóc. Chúng tôi đã hạ gục được gã, nhưng đổi lại chúng tôi đã phải trả cái giá khá đắt.
Sau một thời gian, danh tiếng “thỏi nam châm xui xẻo” của tôi đã lan rộng ra cả ngoài Sở cảnh sát và phủ rộng khắp cộng đồng. Một buổi tối nọ, một người hàng xóm và cũng là giáo dân gõ cửa nhà tôi. Tôi mở cửa và rồi ông ấy đưa cho tôi một gói đồ.
“Mọi người trong nhà thờ đã tụ họp nhau và mua tặng anh cái này”, ông nói.
Đó là một chiếc áo khoác chống đạn, một trong những công cụ hỗ trợ đắc lực cho bất cứ viên cảnh sát nào. Những người hàng xóm và đồng hương của tôi thật tử tế. Họ không muốn tôi bỏ mạng vì công việc này. Dù khá nặng và không thoải mái, tôi vẫn thường mặc bộ áo khoác đó khi đi làm. Tôi không muốn làm thất vọng những mạnh thường quân của mình.
PHÍA TÂY HỖN LOẠN
Khu vực tuần tra mà tôi được giao nhiệm vụ, khu phía Tây, là một địa bàn nóng về tội phạm. Thường bạn sẽ tìm thấy trên các tờ quảng cáo rằng phía Tây Colorado Springs là ngọn núi Pike hùng vĩ, Công viên Garden of Gods (Khu vườn của các Vị thần), hay kỳ quan Red Rock Canyon. Mặc dù đúng là có rất nhiều cảnh đẹp tự nhiên, xung quanh khu vực thành phố này cũng có một lượng đáng kể tội phạm và số vụ bạo lực. Đặc biệt là ngày đó, Colorado Springs vẫn giữ lại một số di sản của bờ Tây hoang dã, nhờ vào lượng dân số đa dạng và trang bị đầy đủ vũ trang, bao gồm cư dân của một căn cứ quân đội, hai căn cứ không quân, Học viện Không lực Hoa Kỳ, Hầm hạt nhân quân sự Cheyenne, Trung tâm đào tạo Thế vận hội Hoa Kỳ và vô vàn các nhà thờ Tin Lành bảo thủ.
Trong khu vực tuần tra đầu tiên của tôi, khu phía Tây, quán bar còn nhiều hơn cả nhà thờ. Tượng đồng các vị thần Olympia và những người anh hùng oai phong sáng loáng không phải là thứ thường thấy ở đây. Đa số dân cư phía Tây sinh ra ở đây cũng sẽ qua đời tại nơi này, và thường là khá sớm. Có những người tốt bụng, chăm chỉ trong phố, nhưng vì nghề nghiệp của mình nên tôi chẳng mấy khi gặp họ, trừ khi họ trở thành nạn nhân của một vụ án. Ngược
lại, tôi chỉ toàn gặp phải những người vô gia cư, những kẻ điên cuồng, bọn say rượu và gây rối.
Có một đợt tôi làm trinh sát điều tra cả thảy mười ngày sau khi nhận được một cuộc gọi nội bộ đột xuất lúc 2 giờ sáng. Như thường lệ, đó là một tình huống bất ổn. Bạn không bao giờ biết được bản thân sa lầy thế nào khi say xỉn, sử dụng ma túy và vũ khí. Ban đầu thì nó giống như một cuộc cãi vã nhỏ, mặc dù sự hiện diện của một con chó giống Great Dane đi loanh quanh sân trước đã thu hút sự chú ý của tôi.
Người vợ nói vọng ra từ hiên nhà trước rằng cô ấy muốn cảnh sát bắt chồng mình đi. Tôi yêu cầu cô ấy cần đưa ra một lý do cụ thể, khi ấy mới có thể áp dụng chế tài theo luật định.
“Chúng tôi đang chuẩn bị ly hôn. Đó là con chó của tôi. Anh ấy muốn nuôi nó, nhưng nó là con chó của tôi. Anh ta sẽ không để tôi mang nó đi”.
Khi cô ấy thấy tôi trông có vẻ không quan tâm lắm đến kịch bản này, cô ấy nhanh chóng đưa ra một lý do khác: “Anh ta có súng”. Tôi liền gọi tiếp viện.
Ngay sau đó, người chồng bước ra hiên nhà và đứng cạnh chúng tôi. Anh ta không có súng, nhưng anh và người-vợ-cũ-tương-lai vẫn tiếp tục lớn tiếng cãi nhau. Chú chó Great Dane nằm im thin thít với vẻ rối bời hiện rõ trước màn quát tháo nảy lửa của các chủ nhân.
Rồi một người cộng sự nữa của tôi lái xe đến. Bất thình lình, chú chó lao ra giữa đường, đâm thẳng vào chiếc xe tuần tra đang chuẩn bị dừng bánh.
Cú va chạm mạnh đã khiến chú chó chết ngay tại chỗ. “Tôi rất xin lỗi về chú chó của cô”, viên sĩ quan hỗ trợ thể hiện sự hối tiếc khi bước ra khỏi chiếc xe của mình.
Cái chết của chú chó Great Dane đã tạo ra một nút thắt trong cuộc cãi vã hôn nhân của đôi vợ chồng, khiến họ im lặng. Đó là cuộc sống ở phía Tây. Hầu hết người dân đã từ bỏ hy vọng trước khi hy vọng bỏ rơi họ. Colorado Springs vốn là trung tâm của đợt bùng nổ Cơn sốt vàng (Gold Rush) cũ, khu phía Tây từng mang tên là thành phố Colorado kiêm thủ phủ bang Colorado. Tiếc thay thời hoàng kim của khu phố này kéo dài chưa đầy một tuần. Tại đây, trong một cuộc họp vào tháng 11 năm 1861, các nhà lập pháp nhận thấy đầu tư vào thành phố tồi tàn này là sai lầm. Họ đã rất nản lòng, nên dọn đồ đạc và bỏ đi. Năm ngày sau, các nhà lập pháp lấy Denver làm thủ phủ của tiểu bang, bỏ lại thành phố này chơ vơ. XÔ XÁT VỚI THI HÀI
Trước thời điểm tôi đến đây làm việc, phần khu phố thuộc của thành phố Colorado cũ đã sáp nhập với Colorado Springs và trở thành một khu phía Tây tồi tệ. Bạn có thể nghĩ rằng tôi đang nói quá về chất lượng cuộc sống thấp kém của nơi này, nhưng bạn đã bao giờ có mặt trong một cuộc xô xát ở nhà tang lễ chưa?
Đó là một buổi sáng thứ Bảy. Tôi đang đi loanh quanh tuần tra vào khoảng 10 giờ sáng và nghĩ rằng buổi sáng này sẽ thật yên bình, ít nhất là trước khi mấy gã say xỉn lại mò ra đường. Nhưng tôi đã sai.
Tôi được phái đi cùng với một nhân viên tuần tra phía Tây khác, chính anh này đã thông báo cho tôi về một vụ “lộn xộn” tại nhà xác
của địa phương. Tôi dừng xe ngay phía sau chiếc xe tuần của anh ta. Anh đang đứng chờ sẵn bên ngoài nhà tang lễ.
Không có gì xảy ra cả.
Chúng tôi bước đến cửa chính, mở ra và nhìn chăm chăm vào một đám tang đang diễn ra chẳng như bao đám tang khác. Khoảng hai mươi người đàn ông và đàn bà trong buổi lễ tay không lao vào đánh đấm nhau như một bầy chó dại. Những chiếc cổ áo rách tả tơi. Cà vạt thì ném ngổn ngang. Quai túi xách chờ được chủ nhân tận dụng để siết cổ người ta.
Sau khi nhìn quanh rồi nháy mắt ra hiệu, sĩ quan đồng nghiệp của tôi hướng ánh nhìn về khu trung tâm nhà tang lễ, nơi có một cái hòm mở nắp, không phải một, mà là hai người gác hòm. Một người đang quỳ xuống cạnh thi hài của người-quá-cố-không-đáng-tiếc-thương, giáng những cú đấm vào khuôn mặt xanh tái ấy. Bam! Bam! Bam!
Phải chăng kẻ tấn công nghĩ rằng không có máu thì sẽ không bốc mùi? Dĩ nhiên trong hoàn cảnh như vậy, chẳng người đã khuất nào có thể yên nghỉ nổi. Tôi không thể nhịn cười đến lộn ruột trong vài giây, sau đó chúng tôi vội vã tiến vào trong để giúp đỡ người chết kia tránh khỏi đòn tấn công. Trước khi chúng tôi còng tay tên phá hoại này, xương hàm của người chết đã vỡ nát và một nhãn cầu đã trồi ra khỏi hốc mắt. Lớp trang điểm được chuẩn bị kỹ càng bởi nhân viên nhà tang lễ đã bị làm cho lấm len dưới nắm đấm của kẻ xâm phạm thi hài.
Chúng tôi đã đưa ra quyết định hành pháp và túc trực trong lễ khâm liệm và nhập quan kể từ thời điểm đó. Đội viện trợ của chúng tôi sau đó đã đến và cảnh sát canh gác tại các cửa ra vào nhà tang
lễ. Chúng tôi trấn áp tất cả những người bạn buồn đau và các thành viên trong gia đình đang cố gắng giết hại lẫn nhau. Một trong số họ đã bị chấn thương sọ não do bị một chiếc ghế kim loại đánh trúng vào đầu.
Trong các cuộc thẩm vấn tiếp theo, chúng tôi biết được một vài người đưa đám đã hét lên những lời nguyền rủa người quá cố bằng những từ ngữ xúc phạm vô cùng nặng nề. Hắn gợi ý về điểm đến cuối cùng - địa ngục, và kết quả là địa ngục đã được mở lối. Ngay cả các cảnh sát đồng nghiệp là cựu chiến binh của tôi cũng nói rằng họ chưa bao giờ nhìn thấy bất cứ cảnh tượng nào như thế. Nói đi cũng phải nói lại, những người dự tang lễ ầm ĩ kia đã nhắc nhớ tôi về chính gia đình mình tại Pennsylvania.
CUỘC CHIẾN GIA ĐÌNH TẠI VƯƠNG QUỐC THAN ĐÁ Thời thơ ấu, tôi sinh ra và lớn lên trong ngôi nhà tại Herminie, Pennsylvania. Lúc bấy giờ, vùng này là một trại than nhỏ nằm ở ngoại ô thành phố Pittsburgh, nơi mà nhiều thành viên trong gia đình tôi làm việc và đôi khi bỏ mạng trong những hầm mỏ sâu dưới lòng đất. Công ty Than Đá Đại Dương sở hữu hai mỏ than địa phương, tôi tự đặt tên cho chúng là Herminie 1 và Herminie 2.
Xung quanh lối vào mỗi hầm than là khu nhà ở do công ty dựng lên một cách cẩu thả và rẻ tiền. Nếu bạn làm việc tại Than Đá Đại Dương, bạn sẽ được đãi ngộ sống trong khu nhà ấy. Tiền thuê nhà sẽ được trừ thẳng vào lương, các hóa đơn tạp hóa từ cửa hàng do công ty sở hữu cũng thế. Họ sẽ chiếm hữu toàn bộ linh hồn của bạn.
Con đường chính ở Herminie nối liền với các quán rượu. Tổng cộng có mười ba quán trong thị trấn phục vụ cho hai ngàn linh hồn
nhuốm toàn màu than khoáng. Khi công nhân rời khỏi hầm mỏ và người ngợm thì lấm lem toàn bụi than, họ sẽ ưu tiên đến các quán rượu trước nhất. Cuối cùng họ về nhà để tắm rửa và ngủ. Hầu hết các thợ mỏ đều là dân di cư có ít lựa chọn khác về công việc.
Ông bà tôi chuyển từ quê hương Slovenia đến Hoa Kỳ vào năm 1913 để thoát khỏi những hỗn loạn trước Thế chiến Thứ nhất. Họ là một trong số ít gia đình họ Kenda còn sống sót, bởi Đức Quốc xã đã giết gần hết những người họ Kenda trong Thế chiến Thứ hai. Ở làng quê của ông nội tôi - Čezsoča, - có một đài tưởng niệm chiến tranh được xây dựng để tưởng nhớ đồng bào đã bị Đức Quốc xã giết chết trong cuộc kháng chiến bảo vệ quê hương. Lính Đức đã xếp họ thành hàng và nổ súng. Có bảy người đàn ông mang họ Kenda hiện đang sống trên tháp tưởng niệm đó.
Nội tôi là một trong số nhiều người Slovenia nhập cư kéo đến khu vực Pittsburgh và sống bằng nghề làm than. Tôi chưa bao giờ biết mặt ông nội Josef của mình, bởi ông đã bỏ mạng trong một hầm mỏ vào năm 1933. Ông là một thợ mỏ dày dặn kinh nghiệm và chuyện cứ thế trôi qua, cho đến một ngày ông cảm nhận được rằng hầm mỏ dường như sắp sập trong lúc đang làm việc. Lẽ ra ông đã có thể tự cứu được mình, nhưng ông đã chạy về phía các con - là cha và chú tôi - và đẩy họ ra khỏi hầm mỏ. Sau đó, các bức tường đổ sụp lên người ông nội. Ông qua đời vì cứu các con mình.
Bất cứ khi nào được nghe kể về cái chết của ông, tôi luôn cảm nhận rằng ông nội biết rất rõ điều kiện trong hầm mỏ nên cũng chỉ mỗi mình ông mới cảm thấy được rằng hầm sắp sụp. Là fan hâm mộ từ bé của thám tử Sherlock Holmes, tôi ý thức được tầm quan trọng
của việc quan sát môi trường xung quanh. Câu chuyện thường được kể trong gia đình càng khắc sâu thêm trong tâm trí tôi về phương châm ấy. Tôi đã rèn luyện từ sớm việc ghi chép mọi thứ cần lưu ý xung quanh, giống như người ông Kenda đáng kính của tôi, và nhờ đó trở thành một thám tử giỏi hơn sau này.
Tôi cá là bạn sẽ muốn nói gì đó tích cực để động viên tôi trước sự kiện bi thảm của gia đình. Nhưng cha tôi, mặt khác, lại thường áp đặt những suy nghĩ đen tối và tiêu cực. Cha luôn đổ lỗi cho chú Joe vì cái chết của ông nội. Cha nói rằng em trai ông rất lười biếng và bố của họ luôn cảm thấy cần phải để tâm đến người em. Cha tôi khăng khăng rằng ông nội đã rơi vào khu vực nguy hiểm vào ngày ông qua đời vì ông phải động viên người chú “lười biếng” của tôi.
Kết quả là, cha và chú tôi không bao giờ nói chuyện với nhau sau khi ông tôi mất. Chú Joe cũng không được phép xuất hiện trong nhà chúng tôi. Khi tôi đủ lớn để nhận ra rằng tôi có một người chú chưa bao giờ gặp mặt cũng đang sống trong thị trấn, tôi bắt đầu ghé thăm chú ấy. Chú chào đón tôi, nhưng cũng chia sẻ rằng cha tôi sẽ không đồng ý để chú hiện diện trước mặt chúng tôi.
Cha tôi là người cứng rắn, bướng bỉnh, cứ dai dẳng rầu rĩ và không vị tha. Mẹ tôi là người Ireland, sinh ra ở Virginia Morrissey, vùng đất khiến bạn nghĩ rằng sẽ cho bà ấy chút khiếu hài hước, nhưng ở bà ấy cũng xuất hiện tâm lý thù ghét sau khi kết hôn với cha tôi. Bà trở nên không hề khoan dung và đầy hận thù hệt như cha.
Mẹ tôi đặc biệt căm thù sâu nặng hai người phụ nữ dám kết hôn với hai con trai của bà và cướp họ khỏi tay bà ấy. Về phần vợ tôi, Kathy, cô ấy đã bắt đầu hứng chịu sự ghẻ lạnh của mẹ tôi ngay sau
khi chúng tôi hẹn hò. Bạn biết đấy, mẹ không bao giờ chọn Kathy làm con dâu. Nhưng tôi đã chọn cô ấy, và đó là sự xúc phạm đối với bà đến hết cuộc đời.
Tôi không hề nghĩ có thể gặp được người vợ tương lai của mình trong một buổi hẹn hò do mẹ tôi và bạn thân của bà sắp đặt. Khi mẹ cố ép tôi đưa con gái của bạn bà đi xem một trận bóng rổ, bất kể tôi chả thích cô ấy hay cả trận bóng, tôi đang là một sinh viên năm hai tại Trường trung học Công giáo Greensburg Central.
Cô gái tôi phải đi cùng khá xinh xắn với mái tóc đỏ, cũng là một người nhập cư như tôi. Tôi thực sự không có lý do để không thích cô ấy, nhưng tâm trí và đôi mắt của tôi cứ lang thang chốn nào trong ngày chúng tôi gặp gỡ hẹn hò. Lúc đang ngồi trên khán đài xem bóng rổ cùng cô ấy, tôi bất giác nhìn lên và phát hiện ra cô gái trẻ xinh đẹp nhất trên cõi đời này mà tôi từng gặp.
Khoảnh khắc ấy như mới diễn ra ngày hôm qua. Mái tóc vàng và đôi mắt màu xanh, cô ấy mặc một chiếc váy màu lông lạc đà, áo vest cùng tông và áo choàng trắng bên ngoài. Tôi thoáng nghĩ, Wow, đó là ai? Và trước khi tôi kịp biết mình đang làm gì, tôi đã lãng quên cuộc hẹn trên băng ghế và tiến về phía đối diện.
Sau đó, tôi bắt chuyện với tình yêu của đời mình, Mary Kathleen Mohler. Chúng tôi vẫn trò chuyện với nhau, hầu như mỗi ngày. Chúng tôi đã hẹn hò nhau đến hết quãng thời gian trung học và sau đó kết hôn khi nàng tốt nghiệp đại học với tấm bằng điều dưỡng vào ngày 26 tháng 12 năm 1967. Mẹ tôi không bao giờ chấp nhận chuyện này.
Bà giữ mãi mối hận thù cho đến tận ngày qua đời - bốn mươi năm sau đám cưới của chúng tôi. Khi chúng tôi rời khỏi tang lễ của mẹ, tôi nhìn vợ và nói, “Giờ thì ổn rồi, mẹ chồng của em sẽ không còn ghét bỏ em nữa”.
KẾ HOẠCH TRỞ THÀNH NHÀ NGOẠI GIAO
Việc thường xuyên phải thỏa thuận với nhiều người có tính hiếu chiến và hung hăng quanh mình chính là yếu tố để tôi chọn ngoại giao quốc tế là nghề nghiệp đầu đời. Điều này dường như là một lựa chọn hợp lý vào thời điểm đó. Tôi học chuyên ngành Khoa học Chính trị tại Đại học Pittsburgh. Sau đó, tôi theo học tại Đại học bang Ohio để lấy bằng thạc sĩ ngành Quan hệ Quốc tế. Tôi cũng có ý tưởng lãng mạn rằng mình sẽ trở thành Đại biện lâm thời*tại Đại sứ quán Hoa Kỳ ở Paris, nhưng Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đã có những ý tưởng khác khi tôi nộp đơn xin việc vào đây. Họ nói với tôi rằng nhiều khả năng tôi sẽ được đảm nhiệm một công việc bàn giấy tại một nơi hoang dã nào đó ở châu Phi. Tệ hơn là, họ không để tôi đưa Kathy theo vì việc này rất nguy hiểm.
Tôi vốn đã rất bối rối trước tư duy thi hành nhiệm vụ quốc tế mà tôi được truyền đạt từ cuộc tập huấn của Bộ Ngoại giao dành cho các ứng cử viên nộp đơn xin việc. Cuộc tập huấn được chủ trì bởi một nhân viên tiêu cực đến từ Cơ quan tình báo Trung ương (CIA). Thế giới quan của ông ta tăm tối hơn tôi rất nhiều vào thời điểm đó. Tôi đã phục vụ trong Lực lượng Không quân Trù bị thời đại học và tôi đã vững lòng với quan điểm yêu nước của mình. Tôi nghĩ Hoa Kỳ là người bảo vệ cho tự do và nhân đạo trên toàn thế giới.
Nhưng viên mật vụ CIA ấy đã biến đất nước tôi trông như một kẻ chuyên lôi kéo và bắt nạt. Tất cả những gì ông ta có thể nói đều là về việc lật đổ các chính phủ, bảo vệ nguồn dầu mỏ của chúng ta, và xuống tay với bất cứ ai cản chân tham vọng thống trị toàn cầu của Hoa Kỳ. Quan điểm của ông về Hợp chủng quốc Hoa Kỳ không giống của tôi. Tôi là một người phân biệt rõ ràng đúng-sai, trắng-đen. Tôi không muốn phải chấp nhận bất cứ phần nào trong quan điểm thù địch của ông ta.
Tôi trở về trường với tâm trạng chán chường, và chỉ còn vài tiết học cần lên lớp là tôi sẽ hoàn thành bằng Thạc sĩ nhưng giờ đây tôi chẳng còn muốn nó nữa. Cú sốc cuối cùng xảy ra vào một ngày khi chúng tôi chờ giáo sư xuất hiện trong phòng học lớn. Tôi nhìn vào anh chàng đang ngồi bên cạnh và lần đầu tiên, tôi nhận ra anh ta có vẻ già hơn mình rất nhiều. Vì vậy, tôi đã hỏi tuổi người đàn ông ấy.
“Tôi ba mươi chín tuổi”, anh ta đáp
Tôi sốc.
“Anh vẫn đi học ở tuổi này sao? Anh có đi làm gì không?” “Không”. Anh nói. “Tôi đi học toàn thời gian”.
Tôi đóng tập, đứng lên, và bước ra ngoài. Tôi đã lập gia đình và có đứa con đầu lòng. Đã đến lúc tôi gác lại việc nghiên cứu và tìm lấy một công việc thực sự. Vấn đề là tôi không có một kế hoạch B nào sau khi rời Đại học Ohio. Vì vậy, tôi đã phạm phải sai lầm: đi theo nghiệp kinh doanh của cha mình. Tôi biết bạn đang nghĩ gì: Trường đại học không dạy ta những lẽ thường ở đời.
XUNG ĐỘT NHÀ KENDA
Cha tôi không phải là một hình mẫu tính cách tốt đẹp để noi theo, nhưng ông khá thành công trong sự nghiệp, một người đàn ông đường phố thông minh. Cha tôi không dành suốt cuộc đời để làm việc trong hầm mỏ như hầu hết những người đàn ông trong thị trấn. Cha biết nói nhiều ngôn ngữ và vào thời chiến, ông là sĩ quan tình báo chuyên theo dõi các gián điệp nước ngoài ở Hoa Kỳ. Ông bị thương nặng trong một tai nạn xe lửa khi theo dõi một tên gián điệp đáng ngờ trên tàu. Cổ và lưng của ông bị gãy và một bên chân bị xé nát. Điều này đã khiến ông phải trải qua nhiều năm trong các bệnh viện quân đội để chữa trị.
Ban đầu bác sĩ nghĩ rằng ông sẽ không bao giờ đi lại được nữa, nhưng cha đã chứng minh rằng họ sai với sự bình tĩnh và điềm đạm của mình. Loại giày cố định xương do Chính phủ cấp phát đã làm bước đi của ông loạng choạng mãi mãi. Nhưng rồi ông vẫn có thể đi
vòng quanh và cuối cùng đã lấy lại sức mạnh thể chất của mình. Khuyết tật ở chân không cho phép ông quay lại làm việc tại hầm mỏ được nữa, thế là cha tôi đã đi vay và mua quyền phân phối sỉ báo giấy ở địa phương. Công ty Tin tức Herminie giữ quyền giao phát tờ Pittsburgh Press, Pittsburgh Gazette và Tribune Review. Đây là một ngành kinh doanh cần nhiều sức lao động với guồng công việc kéo dài bất tận.
Cha có hai xe tải. Một chiếc dùng để giao tới các sạp báo và các điểm nhận báo (drop-off) của những thợ giao báo. Chiếc kia giao báo tới những khách hàng ở vùng ngoại ô. Tôi làm việc cho cha trên xe tải từ lúc lên tám, bắt đầu bằng việc ôm khệ nệ mớ giấy khổng lồ. Lúc
mười bốn tuổi, tôi đã lái xe trên các con đường ngoại ô mặc dù tôi chưa đủ tuổi để được phép cầm lái.
Ngày cha yêu cầu tôi gia nhập vào công ty, tôi nghĩ ông muốn tôi giúp ông mở rộng và sau đó, tôi sẽ tiếp quản nó để ông ấy có thể nghỉ hưu. Nhưng không, ông ấy chưa bao giờ xem tôi là người kế thừa tập sự. Ông ấy chỉ coi tôi là một “người giúp việc”.
Cha tôi yêu cầu tôi làm việc hai mươi chín giờ một ngày, tám ngày một tuần, làm bao nhiêu trả tiền bấy nhiêu. Tôi gần như đã làm việc liên tục hoặc đến kiệt sức, thời gian cho vợ và các con chẳng còn lại bao nhiêu. Những đứa trẻ đã lần lượt đến bên đời tôi. Con trai của chúng tôi, Daniel, chào đời vào tháng 2 năm 1970 và con gái Kristin, sinh vào tháng 10 năm 1971.
Tôi rất ít khi san sẻ phận sự chăm lo con cái cùng Kathy trong những ngày đầu bởi vì tôi đã làm việc rất nhiều, và sự thật này sẽ vẫn còn tiếp tục trong suốt cuộc hôn nhân của chúng tôi phía trước. Bên cạnh nỗi thất vọng, nàng còn rất xấu hổ khi phải mượn tiền bố mẹ đẻ để chi trả sinh hoạt bởi đồng lương còm cõi của tôi không đủ cho cả gia đình. Vợ tôi chịu đựng tình cảnh này trong khoảng hai năm trước khi cô ấy bộc bạch tất cả sau khi nốc sạch chai vodka pha nước cam. Chuyện này thật chẳng đáng tự hào, cô ấy tự thừa nhận điều đó, và tôi sẽ để cô ấy tự chia sẻ đến bạn.
Tôi rất giỏi trong việc tằn tiện chi tiêu, nhưng thật là xấu hổ khi chúng tôi không thể trả hết chi phí vào cuối tháng mà không phải vay mượn từ bố mẹ. Joe thì một là làm việc hai là ngủ. Hoặc nếu anh tỉnh, anh ấy không muốn trò chuyện với con cái hay cả tôi. Thay vào đó, anh sẽ cà kê với bè bạn của mình. Tôi không muốn một cuộc
sống như thế này. Một đêm, tôi vỗ về các con ngủ trong khi anh ấy đi chơi với bạn bè chưa về. Trong khi chờ đợi anh ấy, tôi tự pha vodka và nước cam, sau đó cứ uống mãi. Khi anh ấy về nhà, tôi đã hoàn toàn bí tỉ.
Khi anh bước vào cửa, tôi bảo rằng hai đứa cần nói chuyện. Biểu hiện của anh ấy là “Mẹ kiếp!”.
Tôi nói hết những suy nghĩ về công việc của anh ở nhà bố mẹ chồng và những gì họ đã trả cho anh, và tôi có thể đã tuồn ra một vài điều khác. Về cơ bản, tôi khuyên anh rằng đây không phải là lao động và anh ấy cần phải tìm một công việc khác hoặc tôi và các con sẽ dọn ra ngoài.
Sáng hôm sau, tôi thức dậy mà đầu đau kinh khủng. Joe đang nhìn châm châm vào tôi.
“Em có nhớ gì về đêm qua không?”, anh hỏi.
Tôi đáp: “Anh có muốn một bài ca không hồi kết không?” Một lần nữa, biểu hiện của anh ấy là “Mẹ kiếp!”.
Joe đã nói chuyện rất lâu về việc có thể trở thành một cảnh sát. Anh nghĩ nghề này sẽ hợp với anh, qua những câu chuyện anh vẫn nghe từ người cậu yêu quý của mình, một cảnh sát tuần tra bang Colorado. Anh cũng đã nói về một ngày quanh ở Colorado Springs, nơi anh thường hay đến để thăm ông bà ngoại lúc còn nhỏ. Tôi cho anh ấy một năm để nộp đơn làm việc tại đó và một số nơi khác. Tôi không quan tâm anh ấy làm gì trong một năm, tôi chỉ muốn anh thực hiện hết sức. Chúng tôi cần phải thay đổi hiện tại của mình.
CHUYẾN BAY CỦA NHÀ KENDA
Kathy đã rất nghiêm túc. Tôi đồng ý với Kathy rằng làm việc cho cha tôi chẳng mang lại chút ích lợi về mặt tài chính hoặc bất kỳ khía cạnh nào. Chúng tôi cần gác lại chuyện về cha mẹ tôi hay nơi mà họ thuộc về. Vợ chồng tôi nói chuyện trong nhiều đêm về những địa điểm chúng tôi mong muốn lập nghiệp và Colorado Springs nằm trong danh sách đó. Chúng tôi đã ghé thăm em vợ và vài gia đình khác ở đó. Chúng tôi yêu núi rừng và không khí trong lành, chúng tôi đặc biệt thích Colorado Springs hơn nữa vì khoảng cách xa xôi với Pennsylvania.
Việc chuyển đến Colorado cứ mãi là một giấc mơ trong vài tuần sau cuộc trò chuyện đầu tiên của chúng tôi, cho đến khi một người bạn phi công hỏi tôi có muốn cùng tạt ngang Colorado Springs trên chiếc máy bay trị giá 3 triệu đô la của chủ anh ấy. Tôi cũng có giấy phép lái máy bay, vì vậy đây là một lời mời không thể bỏ qua.
Anh bạn phi công đến Colorado để đưa con trai của ông chủ đến Học viện Không quân Hoa Kỳ, đủ thời gian để tôi có thể nộp hồ sơ ứng tuyển tại Sở cảnh sát Colorado Springs. Khi máy bay vừa đáp đất, tôi mượn một chiếc xe hơi và lái xe đến Phòng tổ chức cán bộ thành phố Colorado Springs. Ở đó tôi đã gặp giám đốc nhân sự, Norman Gieseker, một người đàn ông thân thiện sẵn sàng hoãn kế hoạch ăn trưa của mình để trò chuyện và chia sẻ cùng tôi.
Ông đã rất ấn tượng khi biết tôi là một sinh viên tốt nghiệp đại học đang muốn ứng tuyển làm cảnh sát, bởi vì không có mấy ai có bằng đại học trong sở. Cũng khá thuận lợi khi tôi nói với ông ấy rằng tôi chỉ ở lại trong thị trấn trong một vài giờ vì tôi bay từ Pennsylvania bằng máy bay riêng để đưa một đứa trẻ đến Học viện Không quân.
Norman cho phép tôi làm bài kiểm tra dành cho cảnh sát ngay tại bàn làm việc của mình trong khi ông đi ăn trưa. Thậm chí ông còn hứa rằng sẽ kiểm tra bài làm của tôi khi ông ấy quay lại. Colorado Springs dường như là một thành phố tươi đẹp để lập nghiệp.
Bài kiểm tra cũng khá vừa sức. Tôi để nó trên bàn của Norman và trở lại sân bay. Tôi bay về nhà và trong vài tuần tiếp theo, trong khi tôi đợi tin từ Colorado Springs, tôi cũng trầy vi tróc vảy xin một chân làm cảnh sát ở Pittsburgh và gần Greensburg, bang Pennsylvania quê nhà.
Phải mất một khoảng thời gian dài để cơ quan cảnh sát kiểm tra lý lịch ứng viên, vì vậy phải mất vài tháng trước khi tôi nghe kết quả từ bất cứ ai. May mắn thay, cuộc gọi đầu tiên đến từ Norman, giám đốc nhân sự của Colorado Springs. Ông ấy đã phân công tôi làm nhân viên tuần tra thành phố và tôi nhận việc không chút do dự. Norman bảo rằng tôi bắt đầu báo cáo công việc kể từ ngày 6 tháng 3 năm 1973.
Sau đó, tôi báo với vợ rằng cả nhà sẽ chuyển đến Colorado và sống xa gia đình tôi, để cô ấy không còn bất cứ lý do gì mà ly hôn tôi nữa. Sau đó, tôi sẽ cho cô ấy vô vàn lý do khác để “đá” tôi vào lễ.
Thứ hai
VỤ ÁN DÀNH RIÊNG CHO CHÀNG CỬ NHÂN
Nhìn chung thì mọi người đều sợ khiếp vía với những khẩu súng nòng cỡ lớn. Điều đó dễ hiểu thôi, nhưng đôi lúc không phải như vậy. Bạn biết đấy, một khẩu súng nhỏ bắn ra những viên đạn nhỏ lại có thể gây ra nhiều nguy hại về thể chất nhiều hơn một khẩu súng lục Dirty Harry .44 Magnum, con quái vật với những viên đạn thần công. Khi một viên đạn lớn đi xuyên qua thân thể, nếu nó không trúng vào những phần quan trọng, bạn chỉ cần đặt một miếng băng cá nhân bịt kỹ lỗ vào và lỗ ra của viên đạn, và yên tâm rằng mình đã thoát khỏi bàn tay tử thần.
Những viên đạn cỡ nhỏ có thể gây nhiều thương tích hơn bởi nó sẽ làm rách hoặt nát phần cơ thể tiếp xúc với viên đạn, tạo ra một vùng thương tích rộng. Điều này làm tăng nguy cơ tổn thương các cơ quan quan trọng và động mạch chủ. Hãy hình dung nó như một cái chết bởi hàng ngàn vết cắt. Nạn nhân có thể sống sót trong một hoặc hai ngày, nhưng thường họ sẽ sớm đi về thế giới bên kia thôi.
Các điều tra viên biết rất rõ tất cả điều này vì những vụ án họ tham gia luôn tồn tại ít nhất một viên đạn hay một loại hung khí gây chết người. Đó là lý do tại sao tôi đã dấn thân vào một vụ án nhỏ nhưng có thể tạo ra một tác động lớn đến sự nghiệp của mình.
TRUY TÌM MANH MỐI TẠI CỬA HÀNG 7-ELEVEN
Sau ba năm làm nhân viên tuần tra, tôi đã được thăng tiến thành trinh sát điều tra tội phạm trộm cắp, một bước đi đúng hướng, nhưng chỉ là một bước nhỏ thôi. Tôi muốn đeo huy hiệu cảnh sát điều tra trong các vụ giết người cơ. Điều tra viên các vụ trộm cắp sẽ được cấp một huy hiệu kim loại mỏng. Khi tôi nhận được tấm huy hiệu của mình, anh em trong đội nâng cấp tôi từ nhà tuần tra “Nam châm xui xẻo” thành cái tên “Huy hiệu đồng” của đội chống trộm cắp.
Tôi cũng thấy vinh dự, nhưng không thể gọi là nhiều lắm. Tôi vẫn muốn tham gia vào cuộc chơi lớn hơn. Trong tâm trí tôi, việc điều tra các vụ trộm giống như chơi trò Ai là triệu phú. Hầu hết nạn nhân bị trộm cắp đều có bảo hiểm mất mát tài sản. Tôi không quên rằng họ là nạn nhân của tội phạm. Nhưng để một người lạ mặt xâm phạm các vật dụng riêng tư của mình thật sự rất phiền phức. Họ có thể cảm thấy bị xâm phạm và sợ hãi vì mất tự do, nhưng thật sự thì chẳng có ai mất mạng cả.
Quan trọng hơn hết, tội phạm trộm cắp thường chỉ bị quản chế. Vì hệ thống các trại giam không còn đủ chỗ cho chúng, vậy nên ngay cả khi bạn bắt được thủ phạm, bạn sẽ chẳng cảm thấy thỏa đáng do không thể tống hắn vào tù trong một thời gian đủ dài. Tôi muốn tống hết những kẻ giết người vào nhà giam vĩnh viễn. Vậy mới thỏa.
May mắn thay, sau khi tôi điều tra các vụ trộm cắp khoảng gần một năm, một vụ án đã mang lại cho tôi chiếc huy hiệu tôi vẫn hằng khao khát. Vụ án làm thay đổi cục diện này là một vụ cướp có vũ trang, hai nạn nhân bị thương nặng nhưng may mắn được các bác sĩ nhanh chóng hỗ trợ. Dù vậy, họ vẫn đang cận kề lưỡi hái tử thần,
vụ án này có nhiều khả năng trở thành một vụ án giết người, đồng thời là một vụ án với vô vàn thử thách đặc biệt.
Tôi được điều động đến hiện trường chỉ vì tình huống cực kỳ khẩn cấp. Một nữ nhân viên và một khách hàng nam giới đã bị bắn bằng một khẩu súng ngắn cỡ nhỏ. Hung thủ là một tay cướp có vũ trang. Địa điểm xảy ra vụ án: cửa hàng tiện lợi 7-Eleven trong một khu dân cư đông đúc.
Kẻ thủ ác đã rời khỏi hiện trường. Chúng tôi không có bất cứ đầu mối nào để nhận dạng hắn ta. Xung quanh cửa hàng là các tòa nhà chung cư, do đó có rất nhiều nhân chứng cần phải phỏng vấn. Thế nên tất cả nhân viên cảnh sát, kể cả các thám tử chống trộm cắp, đã được triệu tập khẩn đến hiện trường.
Khi tôi đến, cửa chính phía trước mở toang để tiện cho các nhân viên y tế di chuyển cáng cứu thương. Không có ai bảo vệ hiện trường nên tôi tiến vào trong như thể đây chính là công việc của mình. Đây là một hành động liều lĩnh, tôi biết, nhưng hiện trường các vụ án hình sự vô cùng cuốn hút. Tôi nhận ra rằng một cái nhìn tổng thể sẽ giúp ích cho mình khi đặt câu hỏi với những người liên quan. Bên cạnh đó, tôi là một kẻ thích cạnh tranh và đang bừng bừng nhiệt huyết. Tôi muốn giải quyết vụ án này. Tôi luôn luôn muốn phá án.
Đảo một vòng quanh cửa hàng 7-Eleven nơi xảy ra vụ án, tôi cố gắng hình dung lại những gì đã xảy ra, giải đáp câu hỏi liệu một kẻ cướp có vũ khí cùng con mồi của mình đã hành xử như thế nào. Tôi chìm sâu vào luồng suy nghĩ của mình.
Ngay khi vừa bước vào một khu vực, tôi bất ngờ bị cắt ngang “Này, Kenda, cậu đang làm cái quái gì ở đó vậy? Ra ngoài mau!” La
hét vào tôi không thực sự hiệu quả khi tôi đang bị cuốn trong dòng chảy suy luận của mình. Não và tất cả các giác quan của tôi đang tập trung vào việc phân tích hoàn cảnh phạm tội. Tôi bị yêu cầu di tản khỏi hiện trường, nhưng đã kịp đảo mắt vòng quanh một lần cuối, đủ lâu để khi rời khỏi đây, hiện trường vẫn còn khắc sâu trong trí não của tôi.
Cửa hàng vô cùng hỗn độn. Có dấu hiệu của một trận ẩu đả, cãi vã. Máu trên sàn. Màn hình máy tính bị xô ngã. Đồ hộp, những gói ngũ cốc, và các mặt hàng khác rơi vãi khắp nơi. Tất cả điều này hẳn là kết quả của vụ án đã xảy ra tại đây.
Có thương tích xảy ra, nhiều khả năng là chết người. Cửa hàng tiện lợi này chỉ bán các mặt hàng thông thường. Ngoại trừ một thứ. Một kệ kim loại treo các túi khoai tây chiên cỡ lớn đã bị đổ ngã xuống. Các túi khoai đổ ra sàn, và giữa đám đó, nằm bên dưới tầng thấp nhất của một cái kệ gần tủ trưng bày hàng hóa, là một chiếc vòng tay với mặt kim loại không sáng bóng mà đã ngả màu khói cũ.
Những vòng tay kim loại để khắc tên này rất phổ biến vào cuối những năm 70 ở Mỹ. Các chàng trai thường tặng chúng cho bạn gái. Các cô gái đưa vòng cho bạn trai. Một kiểu lãng mạn rẻ tiền.
Tôi không biết liệu chiếc vòng này có phải của một khách hàng đã đánh rơi hay của một trong những nạn nhân vụ xả súng, hay nó thuộc về kẻ tấn công họ. Món đồ trang sức rẻ tiền nằm lẫn lộn giữa đống hàng hóa khiến tôi tò mò vô cùng. Tôi không nhặt lên vì nó chính là một loại tang chứng cần được giữ nguyên tại hiện trường để hỗ trợ cho việc kiểm tra, thu thập, và ghi chép. Tôi đã kịp lưu giữ hình
ảnh về chiếc vòng tay trong tủ chứa bằng chứng của chính khối óc mình, sau khi dán nhãn đóng dấu “có nhiều tiềm năng hữu ích”. VỤ ÁN CHẲNG AI THÈM NHẬN
Tôi bước ra ngoài. Một trung sĩ béo lùn chuyên điều tra về các vụ án giết người đang cẩn thận ghi chú các địa chỉ trong khu vực xung quanh, rồi giao cho chúng tôi nhiệm vụ gõ cửa từng nhà để thu thập thông tin. Vào một buổi sáng tinh mơ ngày Chúa nhật, hầu hết cư dân, trừ những con chiên ngoan đạo, vẫn ngủ nướng trên giường. Dường như chẳng có ai thức giấc vì tiếng nổ của một khẩu súng ngắn cỡ nhỏ phát ra trong một tòa nhà.
Tuy nhiên, có rất nhiều người sống gần đó nên vẫn có khả năng một số người sẽ tỉnh giấc nhờ thính giác cực nhạy, hoặc ai đó tò mò nhìn ra ngoài cửa sổ vào đúng thời điểm vụ án diễn ra. Tôi bắt tay vào việc, giúp dân chúng cảnh giác với một loại hành vi bạo lực đang diễn ra quanh đây. Tất cả mọi người vô cùng bất ngờ. Không ai nghe thấy tiếng súng nổ. Không ai nhìn thấy nghi phạm đi vào hoặc bỏ chạy.
Sau vài giờ đồng hồ vắt óc suy nghĩ, tôi quay lại hỗ trợ các đồng nghiệp của mình và báo cáo để cấp trên loại trừ các địa chỉ nhà đã hoàn thành việc dò hỏi. Tôi đứng vào hàng, vừa chờ tới lượt báo cáo kết quả kém thành công của mình vừa nghe những tiếng cằn nhằn và thở dài của các vị trinh sát cựu binh quá cân. Một vài người ủ rũ và than vãn rằng vụ án 7-Eleven là một ca thất bại. Không ai muốn đảm nhận vụ này cả.
Báo cáo tổng kết chuyên môn: một vụ cướp có xả súng, hung thủ bỏ trốn, không có manh mối liên kết giữa các nạn nhân và kẻ phạm
tội. Họ cũng lưu ý rằng vì cả hai nạn nhân vẫn còn sống, nên đây không xem là vụ giết người. Họ đã lảng tránh vụ án như thể né xa một con chồn hôi.
Ngài trung sĩ không phải là không hiểu, nhưng dường như ông ấy cũng nghĩ ca này sẽ đi vào bế tắc và trở thành bằng chứng về một lần bất lực của cảnh sát.
Khi ý thức được điều này, mong muốn phá án trong tôi lại trào dâng. Tôi còn trẻ, giàu lòng nhiệt thành và (bạn có thể nghi ngờ một chút) tôi không giỏi trong việc giữ cái miệng im lặng.
“Này, tôi sẵn sàng nhận vụ án này nếu không có ai muốn nhận”. Chúa ơi, tôi vừa thốt ra câu đó ư?
Trung sĩ lườm tôi ngay tắp lự. Sau đó ông cười nhếch mép trong khi những điều tra viên ngớ ngẩn kia chế nhạo tôi: “Đúng rồi trung sĩ, giao cho cậu bé cử nhân này đi. Anh ta sẽ giải quyết nó trước khi bị tạm đình chỉ!”.
Tôi chờ vị lãnh đạo chế nhạo và bảo rằng tôi nên coi lại vị trí của mình. Nhưng rồi ông ấy đã làm tôi ngạc nhiên.
“Để tôi xem trung sĩ cấp trên của anh có chấp nhận không nhé Kenda. Nếu được đồng ý, anh có thể nhận vụ này”, ông ấy nói, rồi cả nhóm người cấp dưới kia lặng im.
Có thể ngài trung sĩ muốn thấy tôi sẽ thất bại ê chề. Có thể ông ta âm thầm hy vọng tôi sẽ tìm ra cách giải quyết. Nhiều khả năng hơn, ông ấy chỉ không muốn có thêm một vụ án thất bại nào khi vẫn còn có thể.
Ngày hôm sau, ông ấy đặt xấp hồ sơ lên bàn và nói rằng nó là của tôi. Cả hai nạn nhân vẫn còn trong quá trình theo dõi nên vụ án vẫn còn đang dang dở. Suy nghĩ đầu tiên thoáng qua đầu tôi đó là, Trời đất ơi, tôi đã làm gì vậy? Tôi vừa đặt cược vào một ván bài lớn bằng sự nghiệp của mình. Nếu không xử được vụ này chắc tôi sẽ phải điều tra án trộm cắp đến hết đời mất.
Rồi tôi lại có ngay một suy nghĩ khác: Không mạo hiểm, chắc chắn không đạt được gì.
VỤ NÀY KHÓ NUỐT ĐÂY
Khi họ giao cho tôi vụ án 7-Eleven, tôi trở thành người mang đầy trọng trách. Thức ăn, nước uống và ngủ nghỉ là những phiền nhiễu không cần thiết. Tay súng này là con mồi của tôi, mà hắn thì chưa biết về điều đó.
Điểm dừng chân đầu tiên của tôi là bệnh viện. Nhân viên cửa hàng Susan Irving, người bị bắn vào trán, tính mạng đang bị đe dọa lúc chỉ mới 19 tuổi đời. Thông thường thì cảnh sát không được phép phỏng vấn nạn nhân khi họ vẫn đang được chăm sóc đặc biệt. Vì vậy, tôi đã cố gắng trông không giống như một viên cảnh sát. Tôi mặc một bộ vest đẹp mua vào dịp giảm giá, bước đi và làm ra vẻ tự nhiên như một bác sĩ. Rõ ràng ngay từ lúc đó tôi đã có khả năng diễn xuất rồi.
“Chào buổi sáng bác sĩ”, một cô y tá cất lời.
Thế là tôi diễn luôn.
“Chào buổi sáng”, tôi đáp lại với cô y tá. Tôi không nói tôi là bác sĩ. Chỉ có cô ấy nói thôi.
Đầu của Susan Irving vẫn còn quấn băng. Chiếc mặt nạ thở đang cố gắng hỗ trợ cho cô. Trông cô thật tệ. Tôi vừa thấy buồn cho cô ấy vừa giận dữ, rồi hóa hận thù trong lòng.
Không ai trong số các y tá chú ý đến tôi. Họ có mặt xung quanh nhưng đều nghĩ rằng tôi là một nhân viên trong bệnh viện. Tôi bước đến giường bệnh. Khi tôi nhìn xuống Irving, cô ấy ngồi bật dậy, gỡ vội chiếc mặt nạ hô hấp ra, và hét lên như nhìn thấy ma quỷ.
Tôi sững người lại. Ai đó đã đóng băng toàn bộ nội tạng bên trong của tôi. Tim tôi đập loạn xạ. Một y tá đến gần khi tôi dơ ra như tượng. Lúc này trông tôi chẳng phải như một chuyên gia y tế được đào tạo bài bản.
“Mời ra ngoài, cho dù anh là ai”, cô y tá ra lệnh.
Cô Irving không sẵn sàng cho việc thẩm vấn, mặc dù đã có một bác sĩ thực thụ xác nhận rằng cô ấy khá tỉnh táo. Cũng may là tôi vẫn chưa làm nguy hại gì đến nhân chứng đầu tiên của mình. Lúc này, tôi bước xuống dưới đại sảnh để đến khu hậu phẫu, tìm kiếm một nạn nhân khác của vụ 7-Eleven: một lão nông dân sáu mươi ba tuổi lẽ ra phải nhận được một tờ báo vào sáng Chủ nhật thì thay vào đó lại nhận được một viên đạn.
Lần này tôi không cố đóng vai bác sĩ nữa. Tôi tìm một vị bác sĩ thật, tự giới thiệu mình là thám tử điều tra, hỏi rằng liệu tôi có thể nói chuyện với ông Fred Howard, nạn nhân của vụ xả súng đang hồi phục sau phẫu thuật hay không.
Bác sĩ bảo rằng ông ấy vẫn còn yếu và có lẽ không mấy tỉnh táo, nhưng vị bác sĩ vẫn cho tôi chút ít thời gian làm nhiệm vụ.
“Đừng ở lại quá lâu nhé!”, vị bác sĩ yêu cầu.
Fred Howard đã tỉnh lại nhưng còn choáng, chỉ vừa đủ sức để thuật lại cho tôi chuyện gì đã xảy ra. Ông ấy đi đến 7-Eleven để mua tờ Rocky Mountain News lúc 7 giờ sáng. Ông không có ý định vào trong, vì có một máy bán báo tự động trước cửa hàng.
Khi đang thanh toán tại máy, ông thấy một gã đàn ông mở cửa trước của cửa hàng và ra hiệu kêu ông vào trong. “Này ông, vào đây. Có một cô gái bị thương.”
Tôi đoán rằng kẻ xấu đã dụ ông Howard vào vì hắn ta nghĩ ông ấy đã nhìn thấy hắn qua cửa sổ. Nhưng không, ông đang bận mua báo.
Rồi ông Howard đi vào, định bụng sẽ giúp đỡ nếu có ai gặp khó khăn. Gã kia chỉ tay về phía sau quầy bán hàng, nơi Susan Irving tội nghiệp đang nằm trên vũng máu.
“Đó là khi tôi có cảm giác thực sự xấu”, ông Howard chia sẻ với tôi nơi giường bệnh.
Anh ta quay người để tìm khẩu súng ngắn, nhắm giữa hai mắt Howard ở cự ly gần. Ông lão đưa tay lên đầu hàng khi kẻ xấu chuẩn bị bóp cò. Một con chiên ngoan đạo có thể tin chắc rằng thánh thần đã chở che cho ông ngay vào thời khắc ấy. Viên đạn trúng vào chiếc nhẫn cưới trên ngón tay, làm cho chiếc nhẫn và ngón tay ông bị thương, nhưng chính điều này đã cứu sống ông khỏi một phát súng chết người vào đầu.
Lão nông dân ngay sau đó đã chiến đấu cho mạng sống của mình. Ông ấy và gã cướp có súng kia xô xát nhau, xáo tung cả cửa
hàng lên. Tên cướp trẻ khỏe và cơ bắp hơn, nhưng ông Howard cũng rắn rỏi và bền bỉ không kém. Cuộc vật lộn diễn ra cho đến khi tên cướp bắn thêm bốn phát súng nữa vào ngực của đối phương. Ông lão ngã gục xuống.
Hung thủ chạy trốn, lấy hết cả thảy ba mươi mốt đô la tiền mặt. Cả hai nạn nhân đều may mắn sống sót khi nhân viên y tế đến kịp lúc. Tôi vô cùng ngưỡng mộ sự kiên trì của ông lão và việc ông ấy cung cấp thêm một ít thông tin càng khiến tôi thấy ấn tượng hơn. “Trong khi đánh nhau, tôi đã giật một chiếc vòng ra khỏi cổ tay hắn ta”, ông ấy nói. “Tôi không nhớ rõ lúc đó chúng tôi ở vị trí nào, nhưng tôi đã gạt nó ra khỏi tay hắn và nó văng mất”.
Tôi bảo với ông rằng đã nhìn thấy nó trên sàn cửa hàng và chắc chắn sẽ kiểm tra lại.
Sau đó, tôi yêu cầu ông có thể tả sơ lược về tên cướp. “Tôi nghĩ gã ấy là một anh chàng da trắng,” ông nói.
Giọng ông yếu xuống. Howard thở từng hơi chậm rãi mỏi mệt. Tôi cám ơn ông và nói rằng tôi sẽ trở lại. Trước khi rời đi, ông mở mắt và thều thào: “Hãy tìm ra hắn”.
“Chắc chắn”, tôi hứa.
Có chết tôi cũng sẽ tìm cho ra tên chó đó, tôi nghĩ thầm. CHIẾC VÒNG TAY HỮU DỤNG
Điểm dừng tiếp theo của tôi là phòng lưu trữ bằng chứng của sở. Tôi yêu cầu xem mọi thứ có được từ hiện trường 7-Eleven. Có một hộp đựng vỏ bọc khẩu súng ngắn .25. Tôi không ngạc nhiên mấy.
Đây có lẽ là Raven P25, thứ vũ khí rẻ tiền của các tên tội phạm nghiệp dư khắp đất nước.
Được sản xuất bởi công ty Raven Arms ở miền Nam California, khẩu súng này nhỏ và dễ giấu, sức chứa bảy viên đạn. Giá một khẩu súng mới chưa tới một trăm đô la nên ngoài kia chắc chắn có cả đống người sở hữu. Cỡ đạn .25 chỉ có thể cho tôi chừng đấy thông tin.
Vòng đeo tay nhận dạng (vòng tay ID) hy vọng sẽ hữu ích hơn. Tôi tìm thấy nó bên trong một phong bì màu nâu và ngay lập tức mang vào văn phòng để nghiên cứu kỹ hơn.
Khi kiểm tra kỹ hơn, điều đầu tiên tôi thấy là một cái tên trên mặt vòng: “Ingrid”. Tên của người Đức. Điều này không mấy bất ngờ. Người ta hay nói đùa rằng người Đức ở Colorado Springs còn nhiều hơn ở Berlin. Thị trấn có ba căn cứ quân đội lớn. Những người lính thường thao diễn quân sự ở Đức. Nhiều người trong số họ kết hôn với phụ nữ Đức, đó là lý do tại sao ở Colorado Springs có rất nhiều quán bar kiểu Đức, món khai vị xúc xích Đức và những cô gái tóc vàng mắt xanh nồng nhiệt, nóng bỏng.
Việc tay súng của tôi đeo vòng tay khắc tên cô gái họ Ingrid thật hợp lý. Có lẽ cô ấy đã mua nó cho hắn ta tại thành phố xinh đẹp của chúng tôi. Tôi dợm nghĩ hắn ta hoàn toàn có thể mua nó một cách dễ dàng ở thành phố Denver hoặc thậm chí hồi còn ở Đức, nhưng dù thế nào tôi cũng sẽ bắt đầu tìm kiếm quanh khu vực Colorado. Sở cảnh sát của chúng tôi cũng không có nhiều ngân sách cho việc công tác xa. Tôi nhìn chằm chằm vào chiếc vòng tay, mân mê nó bằng cây bút bi. Nói đi. Hãy cho tao biết những bí mật về mày.
Không một lời đáp. Tôi lại nhìn chằm chằm vào dòng khắc “Ingrid”. Vòng đeo tay trông có vẻ rẻ tiền, nhưng chữ khắc tỉ mỉ, gần như ba chiều. Tôi cho rằng nó tinh xảo hơn bất cứ dòng chữ nào trên các vòng tay tôi đã thấy trước đó, và có thể là duy nhất.
Tôi lấy chiếc vòng tay và đi đến tiệm kim hoàn Bowie, một cửa hàng lâu đời ở Colorado Springs từ đầu những năm 60. Ông Bowie đã giúp tôi trong nhiều vụ trộm khác nhau liên quan đến đồ trang sức bị đánh cắp. Ông ta hiếm khi thắc mắc, lại làm việc vô cùng có tâm.
Ông cũng rất thẳng thắn trong các đánh giá của mình. “Cái vòng này chỉ là món đồ chơi chẳng có tí giá trị gì”, ông ấy nhận xét. “Một món đồ giá bốn đô la. Tôi không bán mấy loại như thế này”.
Tôi nghiêng chiếc vòng tay để ông ấy có thể thấy chữ khắc. “Kiểu khắc này có gì khác lạ không?”, tôi thắc mắc.
Ông ấy đặt nó lên chiếc kính lúp kim hoàn đủ dày để có thể quan sát rõ hơn.
“Đúng vậy”, ông ấy đáp, thỏa mãn sự tò mò trong tôi. “Chỉ có một chiếc máy có thể tạo ra dòng khắc đôi ấy, nó là sản phẩm của hãng Hermes Engraving ở Connecticut. Tôi từng nghĩ sẽ sắm một cái. Hiện nay rất nhiều cửa hàng có loại máy này”. Cuối cùng cũng có một chỉ dẫn đáng kỳ vọng. Tôi gọi cho trụ sở Hermes và hỏi tên của những nơi ở Colorado Springs đã mua máy khắc chữ đôi của họ. Họ vẫn giữ hồ sơ mua bán vì máy của họ có kèm chính sách bảo hành. Hermes nói rằng họ sẽ kiểm tra và báo lại cho tôi. Ngày hôm sau, họ cung cấp cho tôi một danh sách năm mươi
chín địa điểm quanh thành phố. Tôi yêu cầu họ gửi bằng giấy danh sách này. Thời đó chúng tôi không có email hoặc máy fax nên mọi thứ tốn nhiều thời gian hơn.
Phải mất ba tuần để tôi có được danh sách trong tay. Rồi tôi đánh dấu các con đường, đầu tiên là kiểm tra các cửa hàng gần cửa hàng 7-Eleven nhất. Không có tiến triển gì khả quan. Vì vậy, tôi đã làm việc theo cách của mình: thông qua những người xung quanh. Tôi hy vọng rằng người bán và khắc chữ chiếc vòng tay này sẽ nhớ về vị khách hàng “Ingrid” và vẫn giữ biên lai có in địa chỉ nhà.
TINH THẦN CÓ-THỂ-LÀM-ĐƯỢC
May sao tôi là mẫu người nhẫn nại và kiên trì. Hai mươi sáu nơi đầu tiên không mang lại bất cứ thông tin gì cho tôi. Tôi muốn phát điên vì cái danh sách quái quỷ này và tôi đã cạn sức. Điểm dừng thứ 27 của tôi là một gian hàng nhỏ xíu tên là Có-Thể-Làm-Được nằm trong Trung tâm mua sắm Citadel. Gian hàng trưng bày và chuyên bán các loại đồng hồ, trang sức giá rẻ cho đối tượng khách hàng có thu nhập thấp.
Cô nhân viên bán hàng cho biết cô làm việc hầu hết các ngày trong tuần. Cô nhận ra chiếc vòng đeo tay ID là một trong những món đồ của tiệm. Tôi lật nó lên và đưa cô ấy xem dòng khắc “Ingrid”. “Cô có thấy dòng chữ này quen không?”
“Ồ có chứ!”, cô đáp lời.
Tôi gần như đã đánh rơi sổ ghi chép của mình.
“Thật vậy chứ?”
“Vâng, và anh ta là một thằng khốn!”
Ừ, tôi đang định tìm kiếm một trong số họ đây.
“Cô có thể cho tôi biết tên của anh ấy không?”
“Tôi chẳng biết tên anh ta”, cô nói. “Anh ta là một gã da đen đi cùng với một cô gái người Đức. Cô này muốn anh ta mua vòng tay ID và đeo nó, nhưng tất cả những gì anh ta làm chỉ là lời phàn nàn nó quá đắt. Vòng đeo tay có giá bốn đô la. Phí khắc là hai đô la. Nhưng rồi gã ấy vẫn càm ràm và yêu cầu giảm giá.”
Cô nhân viên bán hàng bảo rằng cô thật không hiểu sao một cô gái người Đức xinh đẹp như thế kia lại đi cặp kè với một tên khốn lắm mồm. “Cứ như thể anh ta là một vị thần với cô ấy vậy”, cô nhân viên nói.
Sau một hồi thương thảo, gã trai đã thanh toán bằng tiền mặt. Nhân viên bán hàng đã viết biên lai với tên và địa chỉ của cô gái. Cô nhân viên đưa nó cho Ingrid, với phiếu bảo hành ba mươi ngày. Cô bán hàng sau đó lưu lại một bản sao biên nhận bằng giấy than trong ngăn kéo.
Chuyện này chỉ mới xảy ra một vài tuần trước đó. Tôi hỏi nhân viên bán hàng liệu cô ấy vẫn còn giữ biên nhận không. Cô rút chiếc hộp lớn ra với một xấp các hóa đơn bán hàng trong tháng. Có ít nhất chín trăm miếng giấy sao biên lai. Mỗi tờ dài ba inch và rộng bốn inch.
MẤU CHỐT MỞ RA NHIỄU CÁNH CỬA
Chính sách của cửa hàng trên không cho phép tôi mang nguyên xấp hóa đơn về văn phòng, nên tôi ngồi kiểm tra chúng tại một hành lang vắng người trong trung tâm mua sắm. Tôi ngồi trên bậc cầu
thang và lặng lẽ xem qua các nội dung. Chữ in trên các hóa đơn bản giấy than màu hồng ít nhiều phai màu nên không dễ dàng xem lướt qua. Tôi phải kiểm tra từng cái một, cẩn thận, chớp mắt liên tục để tỉnh táo hơn, hy vọng rằng cái tên Ingrid sẽ hiện ra.
Khi gần đến giờ đóng cửa trung tâm, tôi chỉ mới xem được hai phần ba các tờ biên nhận. Cô bán hàng nhìn tôi lo lắng. Tôi cảm thấy có một chút e ngại, cho đến khi tôi tìm ra nó. Đây rồi, Ingrid!
Biên nhận có ghi tên và địa chỉ căn hộ của cô ấy ở khu phía Tây, cách trung tâm mua sắm này khoảng mười dặm, nhưng không quá xa cửa hàng 7-Eleven. Tôi cho rằng gã bạn trai khốn nạn của cô sống gần cửa hàng tiện lợi. Đây là kiểu vụ án do một kẻ gian nghiệp dư gây ra. Chúng thực hiện vụ cướp ở gần nơi ở để ít có khả năng bị phát hiện trên đường trong lúc bán sống bán chết chạy về nhà. Hiếm khi chúng dùng xe hơi. Hầu hết trong số đó đi bộ nhanh hoặc bỏ chạy.
Địa chỉ của Ingrid là một đầu mối vô cùng quan trọng, nhưng tôi không nói chuyện với cô ấy ngay. Tôi không muốn manh động và làm gã bạn trai kia khiếp sợ. Thay vào đó, tôi đã lái một chiếc xe bình thường đến đó. Cô ấy sống ở tầng trệt của một tòa nhà trông giống như một khách sạn nhỏ cũ kỹ được cải tạo thành khu căn hộ. Đó là một tòa nhà dài, thẳng với sân và vỉa hè.
Tôi gõ cửa ngẫu nhiên một trong số rất nhiều những ngôi nhà bên kia đường. Mặc một chiếc áo khoác, cà vạt và quần dài, tôi nhìn không khác gì một nhân viên bán bảo hiểm tận nhà, Ingrid sẽ khó phát hiện ra tôi thực sự là ai nếu có nhìn thấy tôi từ trong nhà.
Tôi kín đáo trưng ra huy hiệu của mình, và một người phụ nữ ở căn nhà đối diện nhà Ingrid trả lời tôi.
“Chào bà, bà có biết ai sống trong căn hộ ngay kia không?”. “Đó là Ingrid”, bà ta đáp. “Cô ấy rất thân thiện và đi làm cả ngày.” “Có ai khác sống ở đó không? Một người bạn trai chẳng hạn?”, tôi hỏi.
“Tôi nghĩ cô ấy đang hẹn hò, nhưng tôi chưa từng thấy ai ở đó với cô ấy cả.”
Tất cả đều có vẻ khả quan. Ingrid vẫn sống tại địa chỉ này, có lẽ là sống một mình. Cô làm việc ban ngày, vậy nên cô ấy sẽ về nhà vào ban đêm. Có thể gã bạn trai sẽ ghé vào thời điểm này, vậy nên bà hàng xóm đã không nhìn thấy anh ta.
Tôi dự định sẽ giám sát căn hộ của Ingrid vào buổi tối, nhưng trước hết, tôi muốn tìm hiểu thêm về Ingrid và gã bạn trai của cô. Tôi quay lại sở cảnh sát, nhờ một nhân viên hành chính, một cựu cảnh sát tuần tra cáu kỉnh, cung cấp thông tin về các sự cố tại khu vực tòa nhà nơi Ingrid sống trong vài tháng trở lại đây.
“Anh muốn cái quái gì thế? Anh có biết mất bao lâu không?”, nhân viên hành chính than phiền.
“Vậy anh có phải làm gì khác nữa không?” Tôi hỏi.
Anh nhân viên này là một ví dụ về lý do tại sao có những cảnh sát được giao cho các công việc giấy tờ - bởi vì họ đáng bị như vậy. Lý do tôi yêu cầu xem qua các báo cáo về sự cố trong khu vực rất đơn giản: Người mà tôi đang tìm kiếm là một gã khốn nạn từ đầu tới cuối. Điều này đã được khẳng định tại cửa hàng tiện lợi và cả tại trung tâm
mua sắm. Anh ta cũng là một tên tội phạm bạo lực. Quy định pháp luật không có ý nghĩa gì đối với anh ta. Có khả năng anh ta đã bước ra khỏi vòng pháp luật nhiều hơn một lần. Tôi hy vọng gã ta đã thực hiện hành vi vi phạm gần nơi ở của Ingrid.
Có thể là một vé phạt tại chỗ. Có thể là một cuộc xung đột tại bãi đậu xe. Có thể là một cuộc ẩu đả trên vỉa hè. Tôi tìm kiếm bất kỳ hồ sơ nào có thể cho tôi một cái tên. Việc tìm kiếm các hồ sơ làm cho ngày dài trôi qua trong nháy mắt.
TỪ VÉ PHẠT ĐẬU XE ĐẾN TRẠI GIAM
Cuối cùng, tôi nhận được một bản in dài mờ chữ và khó đọc. Điều duy nhất thu hút ánh mắt của tôi là một vé phạt đậu xe trên đường ngay phía trước căn hộ của Ingrid. Người nào đó đã đậu một chiếc xe Oldsmobile rẻ tiền hai cửa màu trắng, đầu xe đậu sai hướng, chặn lối dòng xe chạy, chỉ có một người có thể làm điều quái gở đó: Một tên khốn.
Có phải là kẻ tình nghi khốn khiếp của tôi.
Vé phạt được phát ra lúc 1 giờ sáng. Người phải nộp phạt vẫn chưa đóng tiền. Nhân viên viết tờ vé phạt đậu xe đã kiểm tra đăng ký của chiếc xe. Là một cảnh sát trách nhiệm, anh ấy đã viết tên của chủ nhân chiếc xe: Fred Henry Swain.
Haha, mày đây rồi, Freddy. Tao đã tóm được mày! Thằng khốn nạn.
Xin lỗi, tôi không có ý viết ra như vậy.
Tôi kiểm tra lý lịch tư pháp của Freddy. Không có gì ngạc nhiên: Các trang dữ liệu ghi nhận hắn ta từng tham gia các vụ cướp có sử
dụng vũ trang và bị khiếu nại về vũ khí. Freddy đã phải chịu chế tài cho cả hai tội trên và chỉ vừa được thả tự do sau một thời gian ở tù. Freddy trông giống y như những gì tôi mường tượng. Lý lịch hình sự cũng cung cấp các bức ảnh anh ta mặc đồ tù nhân, mặt trước và mặt bên. Hắn là một người có ngoại hình ưa nhìn, một tù nhân chăm chỉ tập thể hình nên nhìn săn chắc. Tôi chắc rằng Ingrid nghĩ hắn ta thật tuyệt vời.
Tôi cũng tổng hợp một loạt ảnh của Freddy và một vài nghi phạm khác mà hắn chẳng hề quen biết. Bạn sẽ thực hiện thủ tục tổng hợp hình ảnh nhận dạng của những cá nhân có chung đặc điểm bề ngoài để các nhân chứng xem xét, và thường một trong số đó sẽ là nghi phạm chính.
Việc tổng hợp ảnh không mất nhiều thời gian. Bạn chỉ cần đưa ra cùng lúc sáu bức ảnh nghi phạm, rồi cho các nhân chứng ký vào một tờ đơn xác định nghi can có thể hoặc không nằm trong số các bức ảnh. Sau đó, bạn sẽ hỏi liệu nhân chứng có nhận ra bất cứ ai không.
“Chính là cái thằng khốn đó”, cô nhân viên ở cửa hàng Có-Thể Làm-Được khăng khăng.
“Cô chắc không?”
“Chắc như đinh đóng cột. Có trời đất làm chứng”, cô nói. “Đó là anh ta!”
Sau một khoảnh khắc mừng rỡ ngắn ngủi, tôi đã kiềm chế sự hưng phấn của mình. Đừng quá vội vàng. Tốt hơn là nên tìm thêm xác nhận từ một nhân chứng khác. Tôi quay lại gặp Howard, vẫn còn nằm trong bệnh viện nhưng tình hình đã khá hơn. Tôi cho ông ấy
xem cùng một tệp ảnh với cô nhân viên cửa hàng. Ông cũng đã chọn ra được Fred Swain.
Tuy nhiên, đi kèm đó là một vấn đề nảy sinh.
“Khi tôi nói chuyện với ông vào buổi hôm trước, ông bảo rằng hắn là người da trắng mà”, tôi nói.
“Chà, tôi đã quá hoảng loạn trong buổi hôm ấy”, ông ấy bảo. “Chính anh ta.”
HẠ MÀN
Tôi đã viết đơn yêu cầu ban hành lệnh bắt giữ và được thẩm phán thông qua. Đêm đó, tôi mang theo lệnh đã ký, cùng với một điều tra viên và hai sĩ quan tuần tra đến khám xét căn hộ của Ingrid. Chúng tôi muốn tóm gọn Freddy trong khu vực đã bị cô lập mà không phải nổ súng. Vậy nên kế hoạch là sẽ bắt gã ta khi gã ta vừa bước vào xe, chặn hết mọi lối thoát.
Chúng tôi đã dàn sẵn đội hình và chờ đợi. Đó là khoảng thời gian dài nhất đời tôi. Tôi hút hết vài điếu thuốc lá trong lúc chờ chiếc xe phế liệu của Freddy tấp vào góc đường. Một phụ nữ ngồi ở băng ghế sau. Chúng tôi đoán rằng đó là Ingrid đáng yêu.
Freddy lần này đậu xe đúng chỗ. Cũng chả quan trọng lắm. Hai chiếc xe cảnh sát tiến lên và bao vây chiếc Olds khiến nó không thể nhúc nhích được. Chúng tôi ở phía trước đầu xe gã ấy, chĩa súng nhắm về phía hắn đề phòng hắn có bất cứ hành động nguy hiểm nào, đồng thời ra lệnh cho hắn ra khỏi xe.
Đây không phải là lần đầu tiên Freddy bị bắt giữ. Một nhiếp ảnh gia của tờ báo địa phương, người bị cuốn hút bởi vụ án này, và
hướng ống kính về phía kẻ vừa bị bắt gọn, nháy máy liên hồi. Bức ảnh ấn tượng về vị thám tử trẻ tuổi Kenda còng tay tên cướp ở cửa hàng 7-Eleven cùng một cảnh sát tuần tra đang nhắm súng vào kẻ phạm tội được đăng trên trang nhất. Người thợ chụp ảnh đã giành được một giải thưởng ảnh tin tức cho bức hình này.
Ingrid, một người phụ nữ trẻ trung xinh đẹp với mái tóc xoăn màu vàng, tỏ vẻ lo âu khi gã ta bị bắt giữ, nhưng chúng tôi không mấy để ý. Cô ấy không nằm trong tầm ngắm của chúng tôi. Sau đó tôi biết được, đúng như tôi đã nghi ngờ, cô ấy không biết về vụ cướp 7- Eleven hay nhiều tội ác khác của Freddy. Cô gặp hắn trong một quán bar và bắt đầu quan hệ với tên ấy dẫu không hề biết họ tên anh ta là gì. Chỗ ở riêng của gã cách cửa hàng tiện lợi hai dãy nhà. Chúng tôi đã tìm ra căn hộ của hắn và tìm thấy khẩu Raven P25 được giấu ở dưới nệm, nơi không ai có thể nhìn thấy.
Năm ngày sau khi tôi tìm thấy tên Freddy từ chiếc vé phạt đậu xe, tôi giải hắn về trụ sở để điều tra xét hỏi. Các điều tra viên đã trốn tránh vụ này không thể tin rằng tôi đã tóm gọn được tên tội phạm kia. Với sự tôn trọng, một trong số người đã không ngừng trêu chọc tôi trước đó đã nói: “Làm tốt lắm, nhóc cử nhân”.
Thế là, ở tuổi hai mươi chín, tôi lại có được một nickname mới và một công việc mới với chiếc huy hiệu cảnh sát thám tử cho các vụ giết người. Tôi cảm thấy mình đã lựa chọn được nghề nghiệp rất phù hợp với mình. Tôi cảm thấy mình có thể thành công. Tôi đã chứng minh rằng bản năng của mình đúng đắn, đó là điều quan trọng. Chắc chắn, đã có những lúc tôi phải dừng lại và cố giữ bản thân tránh cảm thấy bị choáng ngợp. Nhưng tôi kiểm soát cảm xúc và dựa trên sự
hiểu biết của mình về bản chất con người. Tôi đã đoán gã bắn súng là một người nghĩ rằng các quy tắc, quy định của pháp luật không áp dụng cho hắn, và tôi đã đúng.
Trong suốt sự nghiệp đời mình, tôi luôn theo các phương thức tư duy cơ bản tương tự như khi quan sát hiện trường phạm tội. Tôi đặt mình vào trong tâm trí của thủ phạm và tự đặt ra câu hỏi: Kẻ phạm tội đã làm gì ở đây? Tại sao lại hành động như vậy? Động thái đầu tiên của tên ấy là gì? Bước tiếp theo là gì? Tôi luôn luôn cố hình dung ra con người và cả hành vi của hắn, rồi sau đó tôi cố gắng dự cảm về tính cách và kiểu người của kẻ mà tôi đang tìm kiếm. Phấn khích là thứ không bao giờ có tác dụng. Vậy nên tôi giữ bình tĩnh, cho tay vào túi quần, và thư giãn. Hãy xem những gì đang diễn ra tại đây.
Sau này tôi cũng huấn luyện các thám tử điều tra đàn em thực hiện điều tương tự. Có lần một trong những thám tử trẻ tuổi đã chạy về phía tôi khi đang ở tại hiện trường vụ án. Tôi gọi anh ta, “Lại đây!”. Anh ta hoảng hốt. Mọi người đều hoảng hốt.
“Anh thực hiện hành vi phạm tội à?”, tôi hỏi anh ta. “Anh giết nạn nhân hả?”
“Ơ, không ạ”, anh ta nói.
“Vậy tại sao anh lại hốt hoảng vậy? Chườm đá lên đầu và thở đều cho đến khi anh lấy lại bình tĩnh đi. Tôi cần bộ não của anh để phục vụ cho việc điều tra”.
SỰ TRẢ THÙ CỦA NGƯỜI NÔNG DÂN
Tất nhiên, một khi lệnh bắt giữ đã được ban hành và các báo cáo đã được đưa ra, Tòa án sẽ xét xử kẻ phạm tội. Freddy, từng là một
công dân tốt, đã biện hộ mình không có tội và mong muốn một phiên tòa chủ trì bởi những người đồng tuế*, bên cạnh thẩm phán. Mặc dù đã cố giết hai người vô tội, nhưng anh ta không phải đối mặt với tội giết người. Susan Irving và Fred Howard vẫn sống sót, vì vậy hắn phải đối mặt với nhiều cáo buộc bao gồm cả tội cố ý giết người giai đoạn chưa hoàn thành.
Tên khốn đã có một ngày dài ở tòa án. Có một khe hở đáng lưu ý trong vụ án hình sự này. Báo cáo đầu tiên của tôi khi phỏng vấn Howard ghi rằng ông xác định tay súng là một người đàn ông da trắng.
Đúng như dự đoán, luật sư bào chữa đã lưu tâm đến chi tiết đó. Vâng, đó là công việc của anh ta. Gần như là vậy. Bạn thấy đấy, anh ta đã bỏ lỡ chuyện phỏng vấn Fred Howard trước lúc phiên tòa diễn ra. Anh ta không biết anh ta đang làm việc cho ai, hay những điều mà một lão già gân sành sỏi cuộc đời này sẽ nói ra khi đã từng trải qua quá nhiều biến cố.
Đó là một sai lầm khủng khiếp.
“Ông Howard, có đúng là lúc trước khi cảnh sát Kenda phỏng vấn ông, ông đã nói với anh ta rằng người bắn ông là một người đàn ông da trắng?”.
“Vâng, có thể tôi đã nói với anh ta như vậy”, ông Howard trả lời. tiếp tục thể hiện với phòng xử án.
“Chà, như mọi người có thể thấy, thưa ngài, thân chủ của tôi là người da màu!”
hồ hởi quan sát bồi thẩm đoàn, chắc mẩm rằng anh ta sẽ thắng vụ này.
Nhưng ông Howard vẫn đứng trên bục nhân chứng và tiếp tục nói.
“Thưa luật sư, để tôi nói với anh điều này. Tôi không biết tôi đã nói gì với thám tử trong lần phỏng vấn đầu tiên vì lúc ấy tôi đang bị thương. Nhưng khi ai đó cố giết ta, thì ta sẽ nhớ kẻ ấy - và đó chính là gã đàn ông [da đen] ở ngay kia!”.
Cụm từ da đen trong ngoặc có thể hiện chút phân biệt chủng tộc nên tôi muốn tránh nó đi. Khuôn mặt của ban bồi thẩm đoàn thể hiện rõ rằng họ tin ông Howard.
Thẩm phán đã tuyên án Freddy chín mươi chín năm tù không miễn hạn. Anh ta sẽ chết mòn trong tù giam. Fred Howard, chủ trang trại, đã sống thêm mười năm nữa sau khi bị bắn năm viên đạn. Susan Irving thì bị liệt và, thật đáng buồn, chỉ sống thêm được vài năm sau khi bị bắn trong vụ cướp.
Tôi sẽ không bao giờ quên cô ấy, hay ông Howard, hay bất kỳ nạn nhân nào trong các vụ sát hại. Họ sẽ luôn ở bên tôi.
Thứ ba
SHOW TRUYỀN HÌNH THỰC TẾ QUÁ CHÂN THẬT
Hãy hình dung mình đang đứng trên một vách đá nhìn ra đồng bằng Serengeti của châu Phi gần hai triệu năm trước. Từng đàn thú hoang và các loài động vật có vú thuộc tất cả các loài đang chung sống trên đồng cỏ. Có nhiều loài động vật ăn thịt khổng lồ với móng vuốt sắc bén và hàm răng khỏe mạnh. Bạn, theo bản năng tự nhiên, hiểu rằng mình cần trốn chạy khỏi chúng.
Loài sinh vật ít đáng sợ nhất trong tầm nhìn của bạn là một con Homo erectus nhỏ bé, cao khoảng một mét rưỡi, lông lá bao phủ khắp cơ thể và có dáng đi khép nép, chưa đứng thẳng được trên hai chân. Đây là con người nguyên thủy, một động vật ăn thịt xảo quyệt biết sử dụng công cụ đồ đá thô sơ và tạo ra âm thanh từ yết hầu để giao tiếp với các thành viên trong bộ tộc của mình.
Đầu tiên bạn tự hỏi làm thế nào loài động vật có vú tương đối yếu ớt này sống sót giữa những con thú lớn hơn, mạnh hơn và nhanh hơn. Sau đó, bạn nhận ra rằng giống loài này sống và đi săn theo bầy, có trang bị vũ khí, và dường như dùng mưu mẹo để bắt và giết con mồi lớn hơn nhiều. Điều này khiến bạn dần dần ngộ ra rằng con người nguy hiểm hơn cả những động vật săn mồi có kích thước to gấp ba hoặc bốn lần.
Hầu hết các động vật khác đã học cách giữ khoảng cách an toàn với con người nguyên thủy vì những lý do đó. Thậm chí ngày nay,
con người là loài tàn nhẫn, hung dữ và nguy hiểm nhất. Nhiều người không thể kiềm chế được bản thân khi lên cơn thịnh nộ. Con người hiện tại đã tiến hóa thêm qua nhiều thế kỷ, nhưng những bản năng nguyên thủy nhất vẫn còn lưu giữ trong bộ gen của mình. Những bậc làm cha làm mẹ đôi khi đánh mất tình yêu thương tự nhiên và bản năng che chở dành cho con cái của mình.
Tôi đang trong ca làm việc ban ngày khi một cư dân ở khu phía Tây gọi đến để báo cáo về một vụ lạm dụng trẻ em ở nhà bên cạnh. Người mẹ đơn thân đã bỏ đứa con sáu tuổi một mình trong nhà khi cô đi làm mỗi ngày. Không có ai từng xuất hiện để chăm sóc đứa trẻ.
Dù có huy hiệu thám tử điều tra các vụ giết người, tôi vẫn là một cảnh sát tuần tra trên chiếc xe của mình. Tôi đến căn nhà theo địa chỉ được cung cấp. Đó là một ngôi nhà nhỏ tồi tàn, rộng khoảng chừng tám mươi mét vuông, rất cần được sơn sửa lại. Thời điểm ấy đang mùa hè. Cửa trước không khóa, nhưng tấm màn cửa đằng sau lại phủ kín mít.
Tôi gõ cửa. Không ai trả lời. Sau đó tôi gõ dùi cui vào tường bên cạnh ngôi nhà. Hành động này được gọi là “gõ cửa kiểu cớm” và nó có thể khiến người chết cũng phải tỉnh giấc.
Từ trong ngôi nhà, một giọng nói yếu ớt vang lên: “Dạ?” “Xin chào, chú là cảnh sát. Cháu có thể mở cửa được không?” “Không được ạ.”
“Tại sao vậy?”
“Mẹ đã xích cháu vào giường”. Tôi đá vào cánh cửa, tung cả bản lề sau khi nghe câu nói đó. Bên trong phòng ngủ, tôi tìm thấy một đứa
trẻ sáu tuổi gầy gò với chi chít sẹo quanh cổ sau lớp áo. Đứa trẻ bị xích chặt vào chân giường.
Cậu bé vội xoa xoa cổ khi tôi giúp cậu thoát ra được, và tôi ôm lấy đứa nhỏ vào lòng. Sau đó, tôi gọi mọi người cùng bộ phận dịch vụ xã hội đến đón đứa trẻ và chăm sóc cậu bé.
Rồi tôi tức tốc đến nơi làm việc của người mẹ. Tôi xoay người cô ta lại, còng tay, và bắt cô vì tội lạm dụng trẻ em. Khi cô quay người lại, tôi nói với cô ấy rằng tôi đã hy vọng cô ấy sẽ chống trả việc bắt giữ, nhưng cô ấy đã không cố gắng kháng cự người có thể ra đòn với cô.
Tôi nói với cô ấy rằng nếu có thể, tôi sẽ vui vẻ rút một khẩu súng, cho vào miệng cô và bóp cò vì những gì cô đã làm với đứa con của mình, nhưng vì những người giám sát của tôi cau mày, nên tôi đã hộ tống cô ta vào nhà tù.
Người mẹ gầy gò này đã khóc rất nhiều. Cô làm công việc chân tay và không có đủ khả năng tài chính để chăm sóc đứa trẻ, vậy nên ngoài cách xích con vào giường, cô dường như không có sự lựa chọn nào khác.
Sau khi bạn gặp phải một vài trường hợp tương tự như thế này, bạn sẽ nhận ra bản năng của người mẹ cũng có thể trở nên tha hóa. Làm mẹ không có nghĩa là có quyền làm những việc tàn nhẫn mà mình cho là đúng với con cái. Tôi biết chuyện này rất đáng thất vọng, nhưng thực tế là nó vẫn quá phổ biến.
KHÔNG THỂ CHO LÊN SÓNG
Những vụ án tàn ác hoặc gây ra thương vong cho trẻ em là những thứ tôi không thể nói trên sóng truyền hình vì đơn giản chúng quá ghê tởm và sẽ khiến rất nhiều khán giả cảm thấy đau đớn. Thẳng thắn mà nói, trẻ em luôn tác động lớn đến tôi. Trẻ em rất dễ bị tổn thương. Hầu hết những vụ án vẫn còn khiến tôi day dứt đều liên quan đến trẻ em. Những hậu quả để lại từ các vụ án liên quan đến trẻ em luôn để lại tổn thương trong tôi lâu hơn các vụ án khác.
Chúng tôi nhận được điện thoại từ Sở cảnh sát Los Angeles, báo rằng họ đang truy tìm một tội nhân thực hiện một thỏa thuận giết người. Họ nói hắn ta có bạn gái ở Colorado Springs và có thể gã đang lẩn khuất trong thành phố của chúng tôi. Họ gửi ảnh của gã và cho chúng tôi địa chỉ của cô bạn gái. chúng tôi lắp camera giám sát trong căn hộ bé nhỏ của cô gái, và gã bạn trai của cô đã xuất hiện. Nhưng chúng tôi không vội vã ập vào.
Sở cảnh sát Los Angeles đã cảnh báo chúng tôi rằng gã có vũ khí và rất manh động. Tôi đã nhờ thẩm phán ban hành lệnh xâm nhập gia cư hợp pháp, điều này sẽ cho phép đội chúng tôi bước qua cánh cửa căn hộ với một lực lượng áp đảo. Chúng tôi thổi tung cánh cửa bằng một lượng thuốc nổ nhỏ. Tiếp theo, chúng tôi ném lựu đạn “lóe sáng” (flash-bang grenade). Hãy tưởng tượng âm thanh pháo hoa ngày Quốc khánh 4 tháng Bảy cực kỳ lớn trong phòng khách của bạn. Nó được thiết kế để làm tội phạm mù tạm thời, giúp bắt gọn gã ấy.
Hỗn loạn xảy ra, đúng theo kế hoạch. Tiếng ồn, đèn flash và khói khiến cho gã tội phạm mất phương hướng, hắn ta không thể rút khẩu súng trong túi quần ra. Chúng tôi đè hắn ta xuống trong khi hắn ta
vùng vẫy đe dọa sẽ giết tất cả chúng tôi và cả cô bạn gái nặng gần một tạ rưỡi đang la hét về phía chúng tôi. Tôi bắt đầu lục soát căn hộ khi khói đã vơi bớt. Rồi tôi thấy một cậu bé.
Cậu bé chỉ chừng bốn hay năm tuổi đổ lại, đứng trên cầu thang, run lẩy bẩy. Cậu ấy ướt sũng cả quần. Tôi đi lên cầu thang và ngồi xuống trước mặt đứa bé.
“Được rồi, con trai, sẽ không ai làm đau con cả”, tôi nói. “Kể từ giờ, con sẽ được an toàn.”
Cậu ôm chầm lấy tôi và siết chặt với lực như của một người lớn. Tay cậu vẫn còn vòng vào người tôi khi mẹ cậu tiến lên cầu thang. “Bỏ bàn tay kinh tởm của mày ra khỏi con tao!”, cô ta hét lên. Một thành viên của đội phục kích chạy lên cầu thang để trấn áp và kéo cô ta đi. Người phụ nữ này đang bao che cho một tên tội phạm bị truy nã nên chắc chắn sẽ phải vào tù vì hành động này. Đứa con trai tội nghiệp của cô sẽ được đưa đến trung tâm dịch vụ xã hội. Tôi ôm cậu bé một cái cuối cùng rồi dọn dẹp hiện trường.
Đến giờ tôi vẫn có thể cảm nhận cánh tay run rẩy của cậu bé quanh người tôi, mỗi khi tôi ngồi trong xe. Đứa trẻ ngây thơ tội nghiệp hẳn đã luôn sống trong sợ hãi và bây giờ tiếp tục cô đơn vì những người lớn trong cuộc đời cậu đã thất bại thảm hại.
Tia X Một nghe rõ trả lời! Tia X Một nghe rõ trả lời!
Một điều phối viên đang gọi tôi trên tổng đài cảnh sát. Nhưng tôi phớt lờ cô ấy bởi vẫn còn đang chìm trong nỗi đau buồn vì đứa trẻ kia, vì tương lai đáng sợ và vô vọng mà cậu bé sẽ phải đối mặt. Tia X Một nghe rõ trả lời! Tia X Một nghe rõ trả lời!
Giọng người điều phối nghe có vẻ giận dỗi, giống như cơn bực của một người vợ bị chồng bỏ lơ. Cô ấy biết tôi đang ở trong xe vì tôi vừa rời khỏi căn hộ.
Tia X Một. Báo cáo có một thi thể được tìm thấy tại...
Cái chết không chờ đợi ai bao giờ. Người gặp nguy hiểm đang chất đống trên đường phố. Đã đến lúc phải khép lại nỗi đau về đứa trẻ.
Trở lại với công việc thôi.
Tia X Một nghe rõ...
GÂY BÃO DƯ LUẬN
Vì chương trình Homicide Hunter của chúng tôi được phát sóng trên các kênh giải trí, nên dù có thể gây sốc cho người xem ở một mức độ nhất định, tất cả chúng tôi đều thống nhất rằng không cần phải làm khán giả cảm thấy sợ hãi, không cần gây ra những cơn ác mộng, hay khiến họ bỏ dở những tập phim hành động kinh dị trên các kênh khác. Thỉnh thoảng chương trình của chúng tôi hơi đi quá giới hạn, khiến người xem góp ý.
Một trong những tập phim nhận được nhiều sự phản hồi từ khán giả là tập phim kể một nạn nhân “mắt xanh” chết ngạt dưới bàn tay của chính người bạn say rượu của ông ấy: một phụ nữ trẻ hơn ông ta tận 40 tuổi. Cả hai đã đều say mèm khi gặp nhau trong một công trình bỏ hoang và đánh nhau để giành một chai vodka. Cô gái đã vô cùng tức giận và mất kiểm soát. Người bạn già của cô phải nói là kém may mắn, bởi những gì cô ta đã áp dụng - những kỹ năng chiến
đấu đã học ở đâu đó - trong một số trường hợp sẽ được coi là động thái tự vệ cuối cùng.
Cô gái hẳn đã học rất giỏi.
Một nhân viên bảo vệ nhìn thấy họ ở cạnh nhau trong một khu vực tối tăm và hỗn độn, rồi anh ta gọi cho chúng tôi. Cô ấy đã hết say. Người đàn ông cũng vừa trút hơi thở cuối cùng. Kỳ lạ thay, không có vết thương rõ ràng nào trên cơ thể ông ấy. Không có hung khí quanh khu vực. Trong cơn bối rối, tôi phải mất một lúc lâu mới để ý có điều bất ổn với đôi mắt của ông ta.
Tôi lật một mí mắt lên, không có nhãn cầu. Mắt kia cũng vậy. Một nghi thức kỳ cục của tà đạo Voodoo chăng? Hay là tà phái Santeria? Dòng suy nghĩ phân tích vấn đề của tôi bị gián đoạn khi tôi nhận thấy có gì đó bị kẹt trong miệng của nạn nhân. Tôi cạy miệng của ông ấy và thấy một nhãn cầu màu xanh nhìn tôi chằm chằm. Ồ, xin chào! Cậu đang nằm sai chỗ rồi đấy, thưa quý ngài Nhãn cầu.
Cô ấy đã móc nhãn cầu của người đàn ông bằng ngón cái và rồi thực hiện bước tiếp theo, đó là đẩy cả hai vào miệng ông ấy. Nhẫn cầu thứ hai bị kẹt vào khí quản của ông ta. Nạn nhân chết ngạt vì con mắt của mình.
Vâng, cách truyền tải câu chuyện trên trong tập phim đã mang về không ít những lá thư cho đội làm phim. Tôi thấy một bình luận, viết rằng tập phim đã khiến một người phụ nữ khó thở, mặc dù cô ấy đã là y tá trong ba mươi năm. Tôi khá chắc rằng người viết bình luận đó không phải vợ tôi, nhưng hẳn cô ấy cũng sẽ có phản ứng tương tự.
Một tập phim khác tạo nên sự phản đối giận dữ từ bộ phận Bảo toàn Đoan chính thuộc Giáo hội Công giáo Hoa Kỳ (National Legions of Decency) là tập phim liên quan đến một người phụ nữ, chồng cô ấy đã đến đồn cảnh sát và thông báo rằng cô ấy đã mất tích.
Người cảnh sát kỳ cựu nhận thông báo trên đã đến chỗ tôi với câu cửa miệng quen thuộc của cảnh sát CGĐKĐ - Có Gì Đó Không Đúng. Chúng tôi đã phỏng vấn người chồng và tôi cũng đồng ý rằng có điều gì đó bất thường trong lời khai của anh ta. Anh ta khai rằng vợ chồng họ đều làm nhiều công việc và một ngày nọ, cô ấy không trở về nhà nữa. Anh tìm được chiếc xe của vợ đậu ở chỗ làm việc của cô ấy, nhưng người thì không thấy đâu.
Chúng tôi nhìn vào chiếc xe. Ví, tiền mặt, thẻ tín dụng, và thẻ công dân của cô đều nằm trong đó. Chúng tôi thẩm vấn người chồng lần nữa. Lần này chúng tôi không cảm thấy muốn thông cảm cho anh ta như trước. Anh ta có vẻ ủ rũ rồi sau đó khoanh tay trăn trở.
Anh ta nói đã bóp cổ cô ấy trong chuyến đi câu tại một trại giống quốc doanh trên núi ở Colorado Springs. Người vợ nghĩ rằng anh nên nhận làm thêm một công việc gì đó để giúp đỡ cha mẹ cô thay vì lãng phí thời gian để đi câu cá. Anh ta không đồng ý.
Hận thù tích tụ lâu dài. Anh kết liễu đời vợ mình bằng cách bóp cổ cô ấy.
Đến đây thì nhìn chung, không có gì quá sốc, nhưng trong thực tế, chúng tôi vấp phải một vướng mắc - điều mà chúng tôi không đề cập trên sóng truyền hình, chúng tôi có lời thú tội của người chồng, nhưng không tìm thấy thi thể của người vợ - yếu tố tiên quyết để truy
tố anh ta vì tội giết người. Lời thú nhận không đủ để trở thành bằng chứng buộc tội anh ta. Chúng tôi cần thi thể.
Kẻ giết người giờ đây đã ăn năn thú nhận vào đêm muộn. Chúng tôi nói với anh ta rằng anh ta cần phải đưa chúng tôi đến chỗ bỏ xác nạn nhân. Anh ta mô tả đó là một nơi khá xa vắng, vì vậy chúng tôi đã trưng dụng chiếc xe có trang bị đèn pha của Sở cứu hỏa. Người chồng đã dẫn chúng tôi đến một vùng hẻo lánh trên Quốc lộ 115, nằm giữa Căn cứ không quân Cheyenne và doanh trại Fort Carson. Anh ta nói đã quẳng xác cô ấy xuống một con mương dọc theo hai làn đường đến thị trấn Cañon.
Chúng tôi đi đến khu vực thưa thớt hơn và rọi đèn pha. Đêm khuya sáng rực như giữa trưa chỉ với một nút bấm. Chúng tôi chẳng thấy ngoài mấy bụi cây ngải trắng.
Không thấy xác. Không có máu. Không có quần áo hay giày. “Tôi mệt và đói rã rời rồi, đừng có đùa nữa”, tôi cau có. “ Vợ của anh đâu?”
“Tôi không biết. Tôi khai với các anh rồi đó, tôi đã bỏ cô ấy ở đây hai ngày trước”, anh ta trả lời.
Anh ta trông có vẻ rất bất ngờ. Tôi thì thực sự tức giận, chúng tôi quay lại trụ sở mà không có bằng chứng về cái chết.
Sáng hôm sau, qua một báo cáo gửi về sở, chúng tôi được biết rằng cư dân của một khu giàu có ở ven rìa phía Tây nam thành phố đã gọi đến cảnh sát khu vực. Anh ta đi dạo cùng chú chó săn Labrador vào buổi sáng và con chó đã làm những gì mà bản năng của một loài săn mồi mách bảo. Chỉ là, thứ mà nó tha về không phải
là vịt hay ngỗng. Đó là cái đầu xù xì nặng nể của một phụ nữ châu Á, đặc điểm nhận dạng chung trùng khớp với nữ nạn nhân mất tích. Một đội cảnh sát được cử đi thu thập cái đầu và mang nó đến nhà xác, sau khi thưởng cho chú chó Labrador vài cái xoa đầu. Đầu nạn nhân đã bị phân hủy đến mức khó nhận dạng, nhưng phần răng vẫn còn nguyên vẹn. Sau đó, chúng tôi nhận được các đặc điểm khả quan từ các hồ sơ nha khoa của nạn nhân.
Vì người chồng không thú nhận là có chặt đầu vợ, tuy nhiên tổn thương quá nghiêm trọng, chúng tôi cho rằng “có sự tác động của yếu tố hoang dã”. Labrador không được xem là loài chó có hàm răng sắc bén, vì vậy chú chó nọ không thể gây ra tình trạng thực tế của thi thể. Chúng tôi đã gọi một chuyên gia về động vật hoang dã, nói với ông ta rằng đây không phải là một trải nghiệm dễ chịu.
Ông ấy nhìn thoáng một cái và rơi vào trạng thái thở gấp. Chúng tôi đã kịp đỡ ông ngồi vào ghế trước khi ông ngất xỉu. Sau khi chúng tôi hỗ trợ ông ấy giữ bình tĩnh bằng hai tách cà phê, ông đã đưa ra đánh giá chuyên môn.
“Tổn thương này gây ra do một con gấu”, ông kết luận. “Chắc chắn là như vậy”.
Vâng, những chú gấu đen vùng núi Rocky thường xuất hiện dày đặc ở khu vực này. Chúng là những kẻ ăn tạp. Con gấu thoát tội. Người chồng lãnh bốn mươi tám năm.
LÒNG LANG DẠ SÓI
Tôi không bao giờ ngạc nhiên, nhưng lại thường thất vọng. Mải quẩn quanh những điều xấu xa mà con người có thể làm với vợ,
chồng, con cái, bạn bè và người lạ khiến tôi băn khoăn về bản chất thật của loài người. Chúng ta cho rằng khả năng lý giải là điều khiến ta vượt trội hơn các động vật có vú khác. Tôi không nghĩ vậy. Không có lời giải thích nào trong rất nhiều vụ giết người mà tôi đã chứng kiến.
Bối cảnh phạm tội thường là những gia đình trông bình thường, hạnh phúc. Chúng ta đi vào một căn nhà và bước qua các bức tường treo đầy những bức ảnh kỷ niệm, nào là tiệc kết hôn, tiệc sinh nhật, dã ngoại. Mọi người đều hạnh phúc. Hai vợ chồng ôm nhau, hôn, rồi nhìn nhau trìu mến.
Khi tiến đến cửa phòng sinh hoạt chung, chúng ta bắt gặp cảnh tượng hỗn độn và đẫm máu. Nếu bạn từng có suy nghĩ cực đoan về việc giết hôn thê bởi vì cô ấy không chấp nhận sở thích câu cá của bạn, hãy suy nghĩ lại. Theo kinh nghiệm của tôi, những trận cãi vã vặt vãnh trong hôn nhân thường là nguyên nhân dẫn đến những vụ án giết người đáng sợ nhất. Còn khoảng một tiếng đồng hồ nữa là hết ca làm việc đêm, chuông điện thoại thình lình reo lên, làm gián đoạn sự tập trung của tôi trên bàn giấy.
“Sở cảnh sát phải không?”
“Vâng, đúng vậy. Tôi có thể giúp gì?”
“Anh nên đến nhà tôi.”
“Tại sao vậy, thưa anh?”
“Bởi vì tôi đã giết vợ mình.”
Tôi điều động ba thám tử khác hỗ trợ và đến ngay địa chỉ mà anh ta đã tường tận cung cấp. Chúng tôi tìm thấy vợ của anh ta với một
vết thương trên ngực gây ra bởi đầu đạn cỡ nòng .30-06. Máu từ khoang ngực của cô ấy văng tung tóe trên bức tường phía sau. Một cảnh sát đường phố mô tả về loại vết thương này là, “Nhét một đồng xu vào lỗ trước, cả cái máy tính tiền bung ra đằng sau”.
Vũ khí được sử dụng là súng trường săn hươu. Người phụ nữ có vẻ đã tử vong ba hoặc bốn giờ trước, một khoảng thời gian đáng kể trước khi người chồng gọi điện thoại khai báo. Anh ta bình tĩnh thừa nhận rằng anh cố ý không khai báo ngay.
“Là vầy, tôi thích xem chương trình Bóng bầu dục đêm thứ Hai. Vợ tôi ghét bóng bầu dục. Cô ta muốn xem mấy cái chương trình ngu ngốc mà cô ta thích. Chúng tôi đã gây gổ về chuyện này trong nhiều năm qua. Tối nay cô ta đã lớn tiếng trước và chúng tôi đã xô xát. Tôi hét lớn, “Chết tiệt”, rồi chộp lấy khẩu súng trường và giết chết con mụ ấy. Sau đó, tôi xem hết trận đấu trước khi gọi cho các anh”.
Bằng chứng cho thấy rằng anh ta không tìm cách đơn giản hơn, đó là đi đến quán bar có trình chiếu các trận đấu thể thao - nơi có bia, bánh mì kẹp thịt, cánh gà rán nóng giòn và các cô phục vụ bàn xinh tươi. Anh ta cũng không lựa chọn thực hiện quyền dân sự bằng cách thuê một luật sư chuyên ly hôn. Tôi cam đoan rằng anh ta sẽ thấy các lựa chọn đó sẽ trở nên hấp dẫn hơn một khi người bạn cùng phòng giam của anh ta thông báo rằng không có Bóng bầu dục đêm thứ Hai trong nhà tù.
NGƯỢC ĐÃI NHỮNG ĐỨA TRẺ
Người khôn ngoan thường bảo rằng, bản chất của hành vi con người là không thể đoán trước được. Tôi đồng ý với ý kiến trên. Con người có khả năng nhẫn tâm tàn sát đồng loại một cách đáng kinh
ngạc, ngay cả với đứa con của họ. Nếu bạn làm việc trong lĩnh vực thực thi pháp luật, y tế hay các lĩnh vực cho phép bạn nhìn thấy những khía cạnh khắc nghiệt nhất giữa sự sống và cái chết, không gì trong số những câu chuyện sau có thể làm bạn ngạc nhiên.
Ngay cả khi là những cảnh sát, các nhân viên cấp cứu, nhân viên bảo trợ xã hội và các chuyên gia y tế dày dạn nhất, họ cũng sẽ nói với bạn rằng việc chứng kiến đứa trẻ vô tội bị ngược đãi có lẽ là điều khó khăn nhất trong cuộc đời làm việc của họ. Đó là hành vi vô cùng độc ác, ít nhất là đối với tôi. Tôi muốn làm tổn thương những kẻ lạm dụng giống như cách họ đã làm tổn thương những đứa trẻ, cũng trạc tuổi với con trai và con gái của tôi.
Nhiều đêm tôi về nhà sau giờ làm việc và ôm các con. Chúng không hiểu tại sao.
“Chuyện gì thế, bố ơi?”
Kathy thì không hề thắc mắc. Là một y tá, cô ấy rất hiểu. Tiếng khóc của một đứa bé sẽ làm rung động lòng trắc ẩn của hầu hết mọi người, đặc biệt nếu đứa trẻ là con của ta. Dẫu vậy, có những người không hề biết động lòng yêu thương hoặc trái tim của họ đã chết rồi. Thay vào đó họ cảm thấy căm ghét hoặc thậm chí thực hiện những hành vi bạo hành khi nghe thấy tiếng khóc ngây thơ của con trẻ.
Tôi đã bắt giữ một gãcó phản ứng cực đoan như vậy. Gã không phải là cha ruột. Đứa bé là con của bạn gái hắn. Nhưng cho dù như vậy thì hắn cũng không có quyền lấy lý do đó để giải thích cho cơn thịnh nộ khiến hắn nắm lấy mắt cá chân, nhấc bé gái hai tuổi lên và rồi phang đứa bé vào tường như thể đó là một cây gậy bóng chày.
Khi tôi đến, hắn ta đã cố gắng thuyết phục tôi rằng cháu bé bị chấn thương nặng do rơi khỏi ghế sofa.
“Chỉ khi chiếc ghế sofa đang nằm ở ngoài rìa đài quan sát của tòa nhà Empire State thôi”, tôi nói.
Thông thường những kẻ lạm dụng trẻ em đánh mất khả năng đánh giá về hành động của mình. Ví dụ, một người mẹ đã xích con trai mình trên giường, cậu bé không thể phát triển bình thường khi phải chịu những bi kịch như vậy. Đứa trẻ bị bỏ rơi này phải trải qua các đợt điều trị đặc biệt trong một thời gian dài trước khi vào viện nuôi dưỡng. Đứa bé sẽ không bao giờ trở về sống cùng với người mẹ vô nhân đạo của mình nữa. Ả ta đã đi tù vì tội hành hạ trẻ em.
Người mẹ trên là một trong vô vàn phụ nữ không bao giờ nên có quyền mang thai, bởi vì họ không có bản năng làm mẹ, khiếm khuyết tinh thần, và, có thể là cả linh hồn. Điều này đúng với một cư dân mười chín tuổi sống trong nhà ở xã hội ở Colorado Springs. Cô gái này đi làm tại một cửa hàng đồ ăn nhanh và để lại đứa con trai mười ba tháng tuổi của mình cho một gã đàn ông ba chục tuổi với năng lực hành vi hạn chế, nhưng được cái là sống cùng khu căn hộ.
Dù vậy, kế hoạch chăm sóc đứa trẻ với chi phí rẻ vẫn có thể nói là ổn trong một vài tháng. Chúng tôi không nhận được cuộc gọi cấp báo nào cho đến một ngày, người mẹ trẻ kém cỏi vội vã trở về nhà và thấy người chăm sóc con mình đang rất tức giận. Đứa trẻ ngồi trên chiếc ghế như mọi lần, nhưng không chịu ăn thức ăn từ người trông trẻ.
Khi cô lại gần kiểm tra, cô thấy con trai mình bị đâm chết bằng một con dao bếp.
KHÔNG XỨNG ĐÁNG LÀM CHA MẸ
Nhiều người, nhiều gia đình nói họ mong muốn và sẵn sàng nuôi dưỡng và chở che cho mọi đứa trẻ sinh ra ngoài mong muốn trên đời này. Sau đó, họ về nhà, sắp xếp lịch trình cho thuận tiện với bản thân, để lại mọi thứ cho cảnh sát dàn xếp. Tôi hy vọng tất cả những đứa trẻ sinh ra ngoài mong muốn của cha mẹ chúng đều được đưa đến vòng tay của những người mà chúng xứng đáng được sống cùng. Chúng tôi sẽ trao bạn 1.200 em bé vào thứ Hai này. Bạn có thể nuôi nấng, dưỡng dục, và rồi chúng vào đại học. Tuần tới chúng tôi sẽ mang thêm 1.200 đứa bé khác. Quá nhiều đúng không? Không ai muốn nghĩ như vậy, nhưng cuộc sống là thế đó. Nói cho cùng, người chịu nhiều khổ đau nhất rốt cuộc vẫn là những đứa trẻ.
Nhiều người cư xử tồi tệ, và điều này bao gồm cả những người bạn từng nghĩ là hiểu biết hơn ai hết. Đồng nghiệp của vợ tôi là một y tá có học thức và có công việc tốt. Công việc của cô ấy là chăm sóc cho trẻ mới sinh trong phòng trẻ sơ sinh bệnh viện, nhưng cô lại để con của mình ở nhà trong một cái cũi suốt ca làm việc tám giờ của mình. Cô không muốn trả tiền cho người giữ trẻ. Đứa trẻ may thay sống sót, mà không cần nhờ vào người mẹ. Thật mỉa mai.
Người điên không biết tốt xấu, nhưng hai bà mẹ vừa rồi là hai trong số những người lẽ ra nên tỉnh táo nhất. Họ chọn cách “dễ dàng” để tránh những rắc rối trong cuộc sống của họ, vì vậy họ đối xử với con cái của mình như súc vật. Người mẹ nghĩ rằng một đứa trẻ bị xích vào giường và bị bỏ rơi sẽ lớn khôn bình thường? Tôi không nghĩ vậy. Một đứa trẻ bị bạo hành và bỏ rơi khi lớn sẽ trở
thành một kẻ lạm dụng. Chúng sẽ đối xử với con cái của chúng giống như cách mà chúng đã từng bị đối xử.
Nhiều vụ giết trẻ em xuất phát từ việc những người làm cha làm mẹ hoặc người giám hộ đã quá “kỷ luật” với đứa trẻ đến mức tiêu cực. Họ đấm quá mạnh, bóp cổ đến nghẹt thở, ném đứa trẻ xuống đất hoặc giam cầm chúng đến chết. Có thể họ không có ý định giết người, nhưng đó là hậu quả thực sự đã xảy ra.
Tôi đã nghe được nhiều lời thú tội từ những kẻ sát hại trẻ em trong phòng thẩm vấn sau khi đặt một tay lên vai họ và thì thầm vào tai họ: “Tôi biết anh/chị không có ý định giết đứa trẻ này. Hãy nói cho tôi biết chuyện gì đã xảy ra”.
TƯỞNG LÀ MỘT MÁI ẤM
Trong một số vụ án, ta không có nghi phạm để thẩm vấn vì kẻ giết người đó tự sát sau khi ra tay với người vô tội. Tôi đã gặp vài trường hợp như vậy, và một trong số đó đã giáng một đòn mạnh vào tâm trí tôi. Đến giờ nó vẫn tiếp tục ám ảnh tôi.
Điều phối viên trên vô tuyến đã truyền tin cho chúng tôi sau khi nhận cuộc gọi về một vụ giết người. Theo chỉ thị, tôi lái xe đến một bãi đậu cho nhà di động. Lúc ấy là ba giờ chiều. Có rất nhiều trẻ em ở đó, vui vẻ chơi đùa trên bãi sân nhỏ, đạp xe cùng nhau cho đến khi bị hàng xe cứu thương, xe cứu hỏa và xe cảnh sát chắn hết mọi ngả đường.
Một cảnh sát mặc quân phục đứng trên hiên trước của một căn nhà di động có lẽ đã quá hạn bảo hành hơn hai mươi năm. Khi tôi bước ra từ xe, tiến về phía hiện trường vụ án, viên cảnh sát tuần tra thả bàn tay phải của mình xuống cạnh người và ra hiệu ba ngón tay.
Ba người chết.
Tôi gật đầu báo rằng mình đã rõ và đeo chiếc găng cao su vào. Tôi giữ một hộp 500 bao tay trong xe và thường bắt đầu tuần mới bằng việc cho năm mươi đôi trong hai túi áo khoác. Găng tay dùng nhanh hết lắm.
Nạn nhân đầu tiên ở ngay phía sau cửa, trên sàn nhà bếp. Một phụ nữ trong tư thế ngồi dựa vào tủ. Cô ấy mặc quần đùi và chiếc áo yếm. Không đi giày.
Có nhiều vết thương do đạn bắn vào ngực cô. Một viên khác xuyên qua mặt. Miệng cô mở ra. Mắt cô nhắm lại. Hai lòng bàn tay của cô ấy úp vào nhau như thể cô đã cầu xin phép màu, hoặc một chút bình yên cuối đời.
Trên sàn bên cạnh xác người phụ nữ là một số vỏ đạn từ một khẩu súng lục bán tự động. Điều này cho thấy tay súng đã nạp lại đạn. Người này không thể xác nhận điều đó, bởi vì anh ta đã chết và nằm cách xác người phụ nữ khoảng sáu bước chân. Anh ấy trạc tuổi cô, với một vết thương tự bắn vào đầu.
Khẩu súng cách tay anh ta một vài inch, tôi nghĩ ngay đây là một vụ giết người rồi tự tử. Đừng hỏi sao không giống như trong phim Hollywood, sau khi ai đó tự bắn mình, các cơ bắp sẽ giãn ra và súng sẽ rơi ra khỏi tay. Rất hiếm khi vũ khí vẫn còn ở trong tay.
Vùng thái dương bên phải của kẻ tự sát có vết cháy do thịt bị miệng súng nóng đốt cháy ở cự ly gần. Và chắc là đạn xuyên cả vào thịt và xương.
Tôi nhìn quanh, thế là xong chuyện với anh ta.
Viên cảnh sát tuần tra trực ở trước hiên nhà lúc nãy đến và đang đứng ngay đằng sau tôi.
“Anh nói có ba thi thể.”
“Đến phòng ngủ đi”, anh ấy đáp.
Giọng của anh ta đặc biệt trở nên u ám hơn, dường như muốn nói tôi hãy chuẩn bị để giáp mặt với điều tồi tệ nhất. Anh ta không cần nói gì thêm nữa, anh ấy biết tôi đã có con.
“Đó là một đứa trẻ”.
Tôi làm cảnh sát đã khá lâu, nhưng nghe đến đây, lòng tôi vẫn cứ quặn thắt lại.
“Bao nhiêu tuổi?”, tôi hỏi.
“Cậu bé còn rất nhỏ.”
Khốn nạn.
Tôi không muốn đi tới hành lang đó, nhưng tôi vẫn đi. Cậu bé khoảng độ năm tuổi, mặc bộ đồ ngủ Chuột Mickey, tay vẫn siết chặt con thú nhồi bông nơi ngực. Đứa trẻ tử vong do bị bắn bốn phát vào đầu ở cự ly gần, khiến đầu bị biến dạng. Súng nổ làm mắt trái của đứa trẻ văng lên tấm nệm, ngập trong máu. Ruồi nhặng bu đầy giường.
Sao tên chó má đó có thể làm vậy với một đứa trẻ cơ chứ? Làm sao ta có thể đối xử như vậy với chính đứa con máu mủ của ta? Một đứa trẻ lên năm có thể nói hay làm gì để phải gánh lấy một cái chết bạo tàn như vậy?
Không. Không hề.
Người cha ruột của cậu bé đã nhẫn tâm xuống tay. Chúng tôi tìm thấy một mẩu giấy ghi chú nhúm nhó viết tay trên bàn bếp của “người hùng” quá cố trên sàn nhà cạnh đó. Không thể tiếp tục. Cuộc sống rất khó khăn. Vài lời trích dẫn từ Kinh Thánh. Anh ta muốn đưa họ lên thiên đường cùng anh.
Tôi đã đọc rất nhiều tờ giấy tương tự. Giống như cùng một người viết lại cùng một nội dung.
Tuy nhiên, vụ án này và hình ảnh cậu bé nơi phòng ngủ vẩn cứ bám chặt tâm trí tôi. Bất kể là ngày hay đêm, tôi vẫn có thể thấy rõ cậu trên chiếc nệm đẫm máu. Tôi vẫn còn ngửi được mùi máu tươi.
Con trai tôi có những bộ đồ ngủ Chuột Mickey giống y hệt. Nó mặc vì rất yêu thích những bộ đồ này.
Tôi đặc biệt để tâm đến những nạn nhân là trẻ em. Những đứa trẻ ấy dường như luôn trạc tuổi với các con tôi. Phòng của bọn trẻ lúc nào cũng có dán những tấm áp phích. Tủ quần áo của chúng thường có những bộ quần áo giống nhau. Các con mang cùng một đôi giày thể thao, đeo những chiếc ba lô, có các cuộn băng hoặc đĩa nhạc thiếu nhi y hệt.
Con trai và con gái tôi hôm nay sẽ nói với bạn rằng tôi là một người cha rất yêu thương và thường xuyên ôm hôn các con rất nhiều, không vì bất cứ lý do nào cả. Chúng cũng sẽ nói với bạn rằng tôi là người khá lặng lẽ - được rồi, ảm đạm, - nên các con và bạn bè của chúng thường giữ khoảng cách với tôi. Chúng không dám tiếp xúc trực diện với tôi. Tôi không bao giờ đánh mắng các con, nhưng chúng hiểu được mức độ bạo lực trong công việc của tôi và nó tác động thế nào với cuộc sống của tôi.
Tôi đã thích nghi, hoặc tự cho rằng mình đã quen, nhưng hầu hết các khán giả xem chương trình truyền hình của chúng tôi đều không muốn chứng kiến điều tồi tệ nhất mà tôi đã trực tiếp nhìn thấy. Đúng, họ không nên. Nó có thể ép bạn phải thấy những thứ mà con người có thể làm với đồng loại và với chính họ, đặc biệt là đối với những người tin tưởng họ và yêu thương họ.
LẠM DỤNG MỘT ĐỨA TRẺ TO XÁC
Đứa trẻ to xác là những đứa trẻ chỉ lớn lên về mặt thể chất, chứ không trưởng thành về mặt tinh thần. Tôi thường xuyên được lệnh để hỗ trợ các bậc cha mẹ giải quyết sự mất kiểm soát của những đứa con khiếm khuyết tinh thần của họ.
Tôi cho rằng người mẹ này nghĩ rằng bà ấy đang làm điều đúng đắn khi gửi cậu con trai bốn mươi tuổi, cao khoảng một mét tám mươi lăm, nặng gần 140 ký, để cậu tìm việc làm trong khu phố của mình. Anh con trai chưa bao giờ có biểu hiện bạo lực. Thực tế, anh ta được xem là một người cao to hiền lành, đã từng làm vài công việc lặt vặt giúp cho hàng xóm trước đây. Nếu một cái cây nào đó ngã xuống, anh ta có thể nhặt nó lên chỉ bằng một tay.
Anh ta tìm được một công việc ổn định hơn tại một nhà làm vườn ngay gần nhà. Chủ thuê đã bắt anh ấy lao động theo kiểu khổ sai, lệnh cho anh ta mang vác những túi phân bón rất nặng, những chậu cây cảnh và cả những viên gạch lớn. Thế nhưng người đàn ông cao lớn không hề than phiền. Anh ấy vẫn chăm chỉ làm lụng dẫu cho công việc vất vả, và anh ấy rất mong đợi được nhận một phần lương xứng đáng.
Người chủ vườn lại có ý khác. Khi ngày trả lương đến, lão ta đã bịa rằng mình mất tiền và từ chối trả lương cho anh. Anh chàng tội nghiệp về nhà và kể cho mẹ nghe. Bà bảo anh ta quay lại và yêu cầu người chủ vườn phải thanh toán.
Anh quay trở lại khu vườn. Lão chủ đang ở trong văn phòng của ông ta, nơi được trang trí bằng các kỷ vật thể thao từ các đội bóng yêu thích của ông.
Trong số các kỷ vật có một cây gậy bóng chày bằng nhôm mang logo của một đội bóng đại học. Khi lão chủ một lần nữa từ chối trả tiền cũng là lúc chàng trai cao to kia lầm đường lạc lối.
Anh ta chộp lấy cây gậy bóng chày và vung lên, đập nát từng cái xương của người chủ vườn. Ông chủ xấu số cố bò đến hiên nhà, nhưng không xa hơn được bao nhiêu.
Khi tôi đến, máu nhỏ giọt từ trần nhà. Bạn có thể hình dung sức mạnh của những cú đánh đến thế nào rồi đây. Sàn nhà đầy máu, vương vãi xuống cả mặt đất phía dưới.
Cơ thể của ông chủ vườn giống như một chiếc túi vải thô tơi tả bị dập hết xương thịt. Đầu ông ta như một cái lon bị nghiền nát. Não văng khắp cửa trước. Các nhân viên làm vườn khác nhận dạng ông bằng đôi giày quen thuộc, ngoài ra không gì có thể giúp nhận ra được ông ấy. Nhân viên khám nghiệm ước tính có hơn hai trăm cú đánh.
Người thực hiện hành vi, một “đứa con” ngọt ngào, thân thiện mang hình hài của “một bậc cha chú” vừa mới vượt quá bản năng hiền lành vốn dĩ, vẫn còn đang ở hiện trường, người đầy máu, và vẫn lẩm bẩm: “Ông ấy không trả tiền cho tôi”.
Đôi khi cha mẹ giết chính con cái của họ bằng sự ngược đãi và bỏ bê, hoặc đôi khi đơn thuần là chối bỏ. Tôi đã đi tìm một đứa trẻ mười một tuổi - đứa trẻ bỏ đi cùng với khẩu súng trường .22 của ông nội mình. Chúng tôi tìm thấy thi thể của cậu không xa nhà, trên một đường ray bị bỏ hoang. Cậu bé đã tự kết liễu cuộc đời bằng cách đưa nòng súng vào miệng và sau đó bóp cò bằng ngón chân.
Chúng tôi đã thẩm vấn gia đình và biết rằng cậu ấy là đứa trẻ sáng sủa, là một học sinh xuất sắc. Bên cạnh đó, cậu còn có một người cha luôn đòi hỏi và độc đoán. Ông ta đã phát điên lên vì cậu mang về nhà một điểm B trong sổ học bạ. Các môn còn lại khác đều là A.
Phản ứng của người cha là, “Mày làm sao đừng để điều này diễn ra nữa!”.
Con trai của ông chắc chắn sẽ không bao giờ để chuyện này xảy ra một lần nữa. Ồng đã vừa lòng chưa? Đó là điểm B cuối cùng mà cậu bé mang về nhà.
TÍNH HÀI HƯỚC CỦA NGƯỜI CẢNH SÁT
Tôi nghĩ bạn sẽ cần thư giãn sau một loạt những câu chuyện ác mộng của tôi, nên sau đây tôi xin phép được đổi chủ đề. Có một điều khác mà bạn chưa bao giờ thấy trên chương trình Homicide Hunter, đó là nụ cười của tôi. Bạn có thể cho rằng đó là một nét đặc trưng của chương trình, ở một mức độ nào đó thì khá đúng đấy. Đây không phải là một bộ phim hài về cảnh sát như Barney Miller hay Brooklyn Nine-Nine. Chúng tôi không cố gắng khiến khán giả bật cười. Đây là một chương trình thực tế và thực tế thì công việc của tôi là một viên cảnh sát, chuyên điều tra hết vụ án mạng này đến vụ án mạng khác.
Sự nghiệp của tôi không hẳn là tràng cười. Kathy và những đứa trẻ sẽ bật mí với bạn rằng ở nhà, không phải lúc nào tôi cũng cười. Tuy nhiên, trái với một số nhận định, tôi thấy mình có khiếu hài hước. Bất cứ ai làm việc trong ngành thực thi pháp luật sẽ cho bạn biết, chúng tôi có sự hài hước riêng của mình, đấy chỉ là cơ chế tự vệ để chống lại những điều xấu xa chúng tôi gặp phải. Hoặc là chúng tôi cười, hoặc là khóc.
Thương hiệu hài hước của tôi sẽ không thể hiện tốt trên chương trình truyền hình của mình, nhưng tôi sẽ chia sẻ một vài ví dụ trong cuốn sách này.
Có một vụ, tôi từng bước vào hiện trường và thấy một thi thể phụ nữ không đầu trên sàn nhà. Cái đầu không có ở quanh đấy. Trước khi chúng tôi có thể bắt đầu tìm kiếm, một người trong đội hỏi: “Anh nghĩ nguyên nhân cái chết là gì?”
Thật kỳ lạ và kinh hoàng, phải không? Bạn cười hay khóc? Câu trả lời của tôi: “Tôi không phải là bác sĩ, nhưng tôi nghĩ cô ấy đã bị lạc mất cái đầu”.
Tôi không cho sự hài hước của cảnh sát là sự hài hước hay ho. Chúng tôi thực sự không biết cô ấy chết như thế nào tại thời điểm đó mặc dù chúng tôi đã tạm giữ người chồng vì cái chết của cô. Anh ấy thừa nhận đã giết vợ mình trong tình trạng rối loạn tâm thần. Anh ta đã mất trí, chỉ nói về Kinh Thánh, tự gọi mình là con quỷ tên “Legion”, lẩm bẩm về một đám người ác hiểm nào đó. Về cơ bản thì vụ án đã được sáng tỏ. Dù vậy, việc xác chết không hoàn chỉnh sẽ khiến thấm phán chần chừ hơn khi xem xét khép tội
sát nhân cho thủ phạm.
Người chồng khai rằng anh ta không hề nhớ một điều gì, ngay cả khi người anh ta dính đầy máu. Chúng tôi biết anh ta đã không rời khỏi nhà, vì vậy chúng tôi bắt đầu tìm kiếm phần mất tích của người vợ. Hãy tưởng tượng việc tìm kiếm một cái đầu bị chặt được giấu dưới ghế sofa, dưới đệm sofa, trong phòng ngủ, tất cả các tủ quần áo và ngăn kéo. Phòng ngủ, phòng tắm, tầng hầm, phòng khách, phòng ăn,... nhà bếp.
Này, không phải nhà bếp đầy chứ? Vì hết ý tưởng hay ho hơn, tôi đã mở tủ lạnh. Không có gì bất thường, cho đến khi tôi nhìn xuống ngăn kéo phía dưới. Thông thường đầy là nơi bạn lưu trữ thực phẩm như táo, đào, dưa đỏ, dưa gang, dưa hấu, và bắp cải.
Hoặc đầu người vợ bị sát hại của bạn, nếu bạn là một người chồng sát nhân bị tâm thần. Tôi phải thừa nhận, cô ấy được bảo quản tốt, tất cả đều được cân nhắc kỹ. Thực ra, mắt và miệng cô vẫn mở đủ cả.
“Tại sao anh ta lại đặt cái đầu vào đó?” Một người đồng nghiệp của tôi thắc mắc.
“Chả biết, hay là anh ta định chế biến vợ mình thành món salad nhỉ?”
KHỎI DÃ NGOẠI
Truyền hình là một phương tiện truyền thông bằng hình ảnh. Các nhà sản xuất chương trình của tôi nghiên cứu kỹ lưỡng các bối cảnh để tạo cảm giác chân thật cho người xem, tăng hiệu quả giải trí. Dù đây là một chương trình truyền hình thực tế, nhưng đôi khi thực tế
thứ thiệt còn có những thứ kỳ quặc mà chúng tôi không có cách nào để trình bày cho khán giả. Chương trình của tôi không có những chuyến dã ngoại, đặc biệt là chuyến dã ngoại đầy máu.
Thông thường, công viên Khu vườn của các vị thần (Garden of the Gods), nằm ở ngoại ô Colorado Springs, sẽ là một vị trí tuyệt vời để ghi hình. Đó là một nơi tuyệt đẹp để thưởng ngoạn sự hùng vĩ của những chóp núi đá đỏ và đỉnh Pikes. Công viên rộng 1.300 ha này hoàn toàn miễn phí, trừ một bàn ăn ngoài trời trong một hẻm núi, một khu vực đặc biệt để ngắm cảnh. Chỗ này là nơi các du khách rất mong muốn ghé đến và cần phải đặt trước cả nhiều tháng trời.
Vụ án của chúng tôi bắt đầu khi cuối cùng cũng tới lúc một gia đình nọ được đến đây dã ngoại sau hàng tháng trời đặt trước. Họ đã đến đó, thưởng thức một bữa ăn và chiêm ngưỡng cảnh đẹp. Họ đã có một khoảng thời gian tuyệt vời, hòa mình trong vẻ đẹp thiên nhiên lộng lẫy, cho đến khi họ nhìn thấy một cây thông cao chót vót với những nhánh cây nhỏ máu từng giọt trên mặt đất.
Công tác khám nghiệm hiện trường ban đầu cho thấy có một thi thể không đầu treo ngược xuống gần đỉnh của cái cây cao khoảng hai mươi mét, giống như một vật trang trí Giáng sinh rùng rợn. Thi thể chảy máu, mất khoảng bốn đến năm lít, nhỏ giọt qua cành thông.
Không cần phải nói, bữa ăn ngoài trời của gia đình họ kết thúc. Chúng tôi được gọi đến hiện trường. Phải mất một lúc để tìm hiểu xem điều gì đã xảy ra và di dời thi thể kia từ ngọn cây. Đây không phải là một vụ giết người. Đây là một vụ tự sát, một thực tế kỳ quặc rất phổ biến ở Colorado xinh đẹp trong quá khứ. Lần cuối tôi đọc báo, Colorado xếp hạng thứ sáu trong số tất cả các tiểu bang ở Mỹ về sổ
vụ tự sát. Không ai biết tại sao tỷ lệ này lại quá cao. Tôi thường xử lý ba hoặc bốn vụ mỗi tháng. Có ngày hồ sơ của tôi ghi nhận tới bốn vụ. Cảnh sát khám nghiệm tử thi được lệnh điều động bất cứ khi nào có cái chết xảy ra bên ngoài môi trường y tế. Chúng tôi phải xác định phương pháp và cách thức tử vong. Chắc chắn không phải là sốc thuốc, treo cổ, hoặc nghẹt khí. Anh chàng này trèo lên một vách đá phía trên cây thông, và thổi tung đầu mình bằng một viên đạn từ khẩu
súng lục Magnum .41. Tiếp theo, các quy luật vật lý diễn ra. Người của anh ta ngã xuống, rơi khỏi vách đá và vướng vào cây thông, treo trên những cành cây cao và rồi nằm trong tầm nhìn từ chiếc bàn dã ngoại. Chúng tôi đã đi đến vách đá để quan sát thêm. Các thành viên có cánh và móng vuốt của đội dọn dẹp tự nhiên đang làm việc chăm chỉ tại hiện trường. Một chú chim ác là đang rỉa lấy rỉa để vài mẩu xương sọ còn vương ít não.
Di dời thi thể từ cành cây xuống quả là một thách thức lớn. Bạn không thể chặt đổ một cây thông trong một công viên mà không có chấp thuận của cơ quan có thẩm quyền. Chúng tôi không có nhiều thời gian để chờ đợi phương án này, vì vậy chúng tôi mang theo một chiếc cần cẩu từ Sở cứu hỏa. Bụng dạ của người điều khiển cần cẩu dường như khá yếu vì sau khi nhìn thấy cái xác trên cây, anh đã nôn mửa và ngất xỉu.
Tôi quyết định tự làm. Tôi leo lên chiếc xe cẩu và nghiên cứu cơ chế của nó, và trong một thời gian ngắn, chúng tôi đã mang cái xác ra khỏi nhánh cây cao, cho vào một cái túi, và đưa đến nhà xác.
Khi tôi về nhà tối hôm đó, Kathy gan lì đã hỏi: “Anh thấy ngày hôm nay thế nào?”
“Rất thú vị. Anh đã học được một kỹ năng mới”, tôi đáp. “Nếu em cần đưa một cái xác xuống đất từ ngọn cây cao, anh rất sẵn lòng giúp”.
"""