"Sài Gòn Tạp Pín Lù - Vương Hồng Sển full mobi pdf epub azw3 [Địa Lý] 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Sài Gòn Tạp Pín Lù - Vương Hồng Sển full mobi pdf epub azw3 [Địa Lý] Ebooks Nhóm Zalo Sài Gòn Tạp Pín Lù Vương Hồng Sển vietmessenger.com LỜI GIỚI THIỆU Cụ Vương Hồng Sến (1902-1996) là một nhà văn đặc biệt Nam bộ mà cũng là một học giả, một nhà cổ ngoạn có một không hai Việt Nam. Ông có một bút pháp độc đáo, duyên dáng... mà vài thập kỉ của thế kỉ XX chưa có nhà văn nào có thể so sánh được. Vào buổi vãn niên, ông có mấy tác phẩm mà ông cho là "tâm đắc" của mình được xuất bản, trong đó có cuốn Sài Gòn tạp pín lù (tức Sài Gòn năm xưa II, III) nối tiếp Sài Gòn năm xưa I xuất bản từ năm 1962 tại Sài Gòn. Nói như tác giả (VHS), Sài Gòn tạp pín lù là ông nhớ đâu viết đó và viết bằng máy chữ nên rất tự do, tự nhiên, chân thành và không kém thân tình. Sài Gòn tạp pín lù đến với chúng ta tuy trẻ, nhưng vẫn được độc giả say sưa đọc bởi vì bút pháp cùng với văn phong cố hữu có một không hai của nhà cổ ngoạn họ Vương. Có thể nói Sài Sài Gòn tạp pín lù như là một thứ Sài Gòn vang bóng của tác giả và của cả dân Sài Gòn từng vui buồn với đất Bến Nghé từ bao giờ cho đến bây giờ. Đã lâu lắm chúng ta mới được thưởng thức một bữa Tạp pín lù đặc biệt. Nói là đặc biệt bởi vì người nấu và dọn cho chúng ta bữa ăn này là nhà văn, nhà học giả kiêm nhà chơi cổ ngoạn Vương Hồng Sển lão thành. Sài Gòn tuy không có một quá khứ "nghìn năm văn vật" như Hà Nội, Huế; nhưng nơi đây lại có những "nam thanh nữ tú", nhứt là có một cái duyên ngầm tạo được những sợi dây tình cảm cắt không đứt bứt không rời. Trong số những người nặng tình với Sài Gòn, chúng tôi biết có nhà văn Vương Hồng Sển. Từ năm 1962, ông có cuốn Sài Gòn năm xưa (1962) mà trong bản in đầu ông từng viết: "Đối với các bạn nhỏ, tôi (VHS) xin nói lớn: 1- Chỗ nào các bạn thấy mới, đừng sợ, ấy là tôi đã cân nhắc kĩ càng, cứ tin, cứ dùng: "coi vậy mà xài được". 2- Chỗ nào chưa "êm" nhờ cóc bạn chỉ giùm, nếu tìm cách bổ khuyết càng tốt, gọi giúp lẫn nhau, già thua trẻ không xấu, mác cỡ bậy, hay gì?. Vây Sài Còn năm xưa I là phần nói về nguồn gốc và vị trí của thành phố Sài Gòn. Còn Sài Gòn tạp pín lù (II, III) là phần nói tiếp để nói về "nam thanh nữ tú", về cảnh sinh hoạt của Sài Gòn khoảng 70, 80 năm về kỉ niệm xưa, về những mối vương vân tưởng là tầm thường, nhưng đã để lại trong lòng người với những rung động còn kéo dài mãi đến bây giờ và có thể tận mai sau. Tác giả gọi là "Tạp pin lù" là để nói về mọi việc, để không bị gò bó bởi thứ tự thời gian, để "nhớ đâu nói đó", để mở rộng giới hạn cho câu chuyện của mình. Cái duyên riêng của "cụ Năm Sển" là ở đó. Nói "cu cu chằng chằng" nhưng không lạc đề mà lại rất giàu nghệ thuật. Xã hội miền Nam thời Pháp thuộc - mà nay cũng gần như vậy - là một xã hội "tứ chiếng", một xã hội có tính cách "siêu quốc gia" (cosmopolite) với đông đủ các mặt "Tây, Chệt, Chà Maní"; với những nhân vật có nhiều khía cạnh lạ lùng mà ngày nay trong mắt chúng ta, những người miền Nam không thuộc hàng những người cố cựu, có vẻ như bị bao phủ trong một không khí huyền thoại. Cô Ba Trà, cô Tư Nhị, cô Sáu Ngọc Anh, cô Năm Pho, cô Bảy Hột Điều... bao nhiêu người đẹp của một thời mà tác giả Sài Gòn tạp pín lù đã nhắc lại, gợi lại làm chúng ta khi nghe, cảm thấy bồi hồi khi nghe như thi sĩ Villon ngày xưa của Pháp đã ngâm "Đâu rồi những vần tuyết cũ" (Mais òu sont les neiges d'antan?) mà cứ mãi vương vấn bên mình! Sài Gòn tạp pín lù còn là một thứ "đi tìm thời gian đã mất" (à la recherche du temps perdu), một thứ hành hương về quá khứ để hồi tưởng về những thú vui, những cảm xúc, những mùi vị nay không còn nữa! Tô cháo cá chợ Củ, bát phở đường Turc (nay là đường Hồ Huân Nghiệp), món bò bung, bánh hỏi của ông già Thủ Đức... cũng tạo được sự kì diệu của chiếc banh Madeleine nhúng vào tách nước trà tilleul đối với Marcel Proust năm nào ở trời Âu. "Javais vingt ans et c'etait le printemps" câu hát của Vương Hồng Sển trong Sài Gòn tạp pín lù mà chúng tôi xin phép được đổi từ thì hiện tại ra thì quá khứ để cùng nhau tiếc cái tuổi Hai mươi và mùa xuân rực rỡ của mình. Cái thú đọc Sài Gòn tạp pín lù là ở đó, mà cũng tại văn phong cụ Sển nữa. Nguyễn Q. Thắng PHẦN I Sài Gòn "tạp pín lù" là gì? Nếu dịch đúng ra Hán Việt, là "Sài Gòn đã biên lô" vẫn chưa ai hiểu là gì? Tả, tạp là "đả", đánh; Pín - có hai nghĩa: "pín" là đuôi sam thằng Chệc đời Mãn Thanh, nhưng đây pín có nghĩa là "biên" (Hán tự) và "bên, gần bên" (Nôm). Lù là lò, lò lửa. Tạp pín lù, là "đả biên lô", tức là món ăn nấu chín gần bên lò lửa; cũng như "ăn sán lẩu" là ăn thịt sống nhúng vào nước sôi bắt trên lò lửa nóng. Số là người Tây bày ra một từ khí làm bằng chì, thiếc, vật kim khí có chân cao giữa khoét lỗ đặt vài cục than cháy, chung quanh là nồi chứa nước thịt ngọt, khách ăn tự lựa từng món ngon: mề gà, lòng heo, ruột già, ruột non, dồi trường, tự gắp bằng đũa và nhúng vào nước thịt đang sôi, rồi tự gắp qua chén và không cần biết món nhúng đã chín hay còn sống sượng. Rồi thì rượu cay, rau sống ngốn nghiến chàm ngoàm cả miệng không thốt ra lời được, món ăn ấy gọi "ăn sán lẩu", dịch ra Hán tự là sán - sanh (thức ăn còn sống, chưa chín), "lẩu": lò (lô), ăn Sanh lô, nhưng nếu nói: "sanh lô" ba Tàu không hiểu, phải nói theo họ "ăn sán lẩu", hoặc ăn "cù lao" vân vân. Tiếng miền Nam rắc rối pha chè, người ngoài vô đây, xin khuyên đừng ham "nói chữ". Sài Gòn tạp pín lù, nôm na là Sài Gòn thập cẩm, Sài Gòn tào lao, Sài Gòn ba lăng nhăng, ai muốn hiểu sao thì hiểu. Sài Gòn sán lẩu cũng được, nhưng tạm dùng danh từ tạp pín lù. Nếu nói theo Bắc thì "Sài Gòn thập cẩm; nếu nói theo Trung thì "Sài Gòn tào lao", nhưng tác giả sanh tại Sóc Trăng (Nam Kỳ) nên: tập nầy danh gọi Sài Gòn tạp pín lù là vì vậy. Thay lời tựa Thư một người chửa quen biết, gởi cho tác giá "Sài Gòn năm xưa" Thưa ông, Tôi là V.A. hiện ở Paris chưa tiện nói danh tánh và địa chỉ, thơ từ xin dùng lối poste réstante, hộp thơ số... Đời nầy không nên thấy sang vội bắt quàng làm họ. Về sang, đúng ra ông chưa có, duy có nhà còn y như cũ, đồ ngoạn hào không hảo hớt, văn viết còn có người đọc. Quyển "Sài Gòn năm xưa" còn người tìm mua vởi giá cao, quả ít ai được như vậy, tạm gọi rằng sang. Tôi nay, quê quán Mỹ Tho (Rạch Gầm), chồng chẳng may sớm thất lộc, cùng quê vởi quê vởi ông ở Sốc Trăng, bắt quàng được chứ? Giũ lời tiên phu ký thác, nay tôi nhờ người thân tín nầy cầm bức thơ và luôn tập nhật ký cuộc đời cửa hai tôi, nhờ ông điểm xuyết, tôi đàn bà viết còn vụng về, sau nầy có dịp tiện tưởng ông nên cho vào "Sài Gòn năm xưa" gọi bổ túc. Ông viết "Sài Gòn năm xưa", xuất bản đã hai lần, sách biên khảo được vậy là khá, nhưng tại sao ông bỏ sót không viết đầy đủ về nhóm chị em chúng tôi. Trong sách ông kể đủ, nào Trần Bá Lộc bợ Tây, bạo tàn, nào Đỗ Hữu Phước bán đứng liệt sĩ Thủ Khoa Huân, làm giàu trên xương máu đồng bào, nào Sáu Ngọ vua cờ bạc... nhưng vì sao ông chừa giới ăn chơi, đám công tứ bột, và nhóm giang hồ lưu lạc, mượn yên hoa son phấn hành nghề? Vâng, nhóm son phấn ẩy, cứ gọi đúng tên, có chi rằng nhục, có tên để gọi. có chữ để đọc, kêu xách mé hại gì? Hay vì yêu hoa nhắc đến truỵ lạc, ông sợ nên né tránh? Miệng tụng kinh Di Đà, lòng chứa sẵn một bồ dao găm. Ấy là quân giấu hình, giấu dạng. Ban ngày ăn tương chao niệm Phật, trời sắp tối, tay cầm chuỗi, tay gõ mõ, mắt láo liếng xanh khách. Khách xuống xe đi lỏn nhà, nhè nhà kế bên cũng thờ thần mày trắng bước vô, kinh đọc chữ cà lăm, chữ vấp váp, thà làm nghề nằm ngửa như bọn tôi mà ít tội hơn. Thế gian truỵ lạc còn nhiều làm sao kể xiết? Xã hội ngày nay đã dường thế, ông có giấu cũng không xong. Phàm xấu che tốt khoe là thường lệ, thơm gì đời con đĩ mà thuật ra đây. Nhưng xin chớ quên chút công của chị em chúng tôi mới phải. Những năm 1920 đến 1945, ruộng Hậu Giang nhờ kinh xáng khai thông mà phát, mùa trúng liên tiếp, lúa lại được giá, con cháu các địa điền chủ lớn đua nhau giỡn với tiền rừng, bạc biển. Có thằng, cha chết chưa kịp chôn, đã ăn cáp bằng khoán, ôm đi cố cho chà setty (chetty) lấy bạc cho kịp mua xe chở em đi ăn nem hứng gió. Các chủ ruộng có con trai đều háo hức cho sang Pháp, thi đậu bằng trung cấp thứ thiệt làm nghề thầy cãi, thày thuốc, thầy nhổ răng, nay thảy đều già cóp. Đám khác không biết học chữ, thì lại học khiêu vũ, nhiếp ảnh, cắt may về xứ mở phòng chụp hình (Antoine Giàu", lập nhà may Âu phục (Nguyễn Phong Tân), đồng bào hại đồng bào, thời Nam kỳ quốc, bắt nói cho sửa "Tân Sơn Nhứt’ hễ nói "nhất’ thì a-lê hấp cho chầu Diêm Vương, tưởng hưởng lộc Tây lâu dài, té ra vẫn đền mạng bên Pháp vì tội bán nước, chạy trời không khỏi nắng. Có nhóm ít tiền, cho con ra học trường cao đẳng ở Hà nội để làm đốc phủ, đốc sự, mộng Huỳnh lương chưa tỉnh, sự nghiệp đã đi đời, kẻ đau tim chết sớm, kẻ chờ con lãnh sang nước ngoài chở thời, các con chủ điền muốn xứng danh "công tử bột, phá gia chi tử", nếu không có chị em chúng tôi tiếp tay, xô đẩy làm cho cái xã hội ăn chơi đàn đúm trào Pháp mau sụp đổ. Có thế ấy thì cái xã hội này mới có chỗ mọc lên. Ông không viết trong "Sài Gòn năm xưa" nên chị em chúng tôi phải nhắc. Đừng gọi là phá gia chi tử, họ không hư hơn ai kia đâu. Họ có quyền tung vãi đồng tiền của ông cha họ làm giàu bằng mồ hồi nước măt tá điền, nay bọn con tá điền trở về báo thù, ấy là quả báoo nhãn tiền, chớ đâu phải thiên đao bất công. Nếu không có chị em chúng tôi hốt vãi quăng bừa thì đồng tiền thất đức của chủ điền chủ ruộng vẫn khoá chặt trong tủ sắt hiện Bauche, hiệu Fichet, làm sao lọt tới tay bác lái xe, chú thổi bếp. Gánh nước làm chi cho đau vai, ở trong làng lấy một chồng làm chi để sanh con lũ khủ cực thân, sức đàn bà có bao lăm và chỉ có làm nghề không vốn nầy, ủa quên, vốn là nhan sắc trời dành, hoạ may mới cất đầu lên được, không chi cũng ăn mặc sung sương trong một thời gian. Không bán dạng thuyền quyên. không xuống đường làm đĩ để chết rục trong xó hè à? Làm đĩ có ba bốn đường vả lại có chồng mà còn ăn vụng lại thúi hơn là làm đĩ công khai. Chúng tôi sanh sống trong những năm 1920-1945, thò bốc trong túi công tử bột, ăn to xài lớn, tung vãi: đục, khoét, gặm, nhấm, làm đủ mọi cách, xã hội như nay mới có. Tưởng không nên cười con đĩ và nên chấm công cho gái giang hồ. Bao nhiêu nước mắt của chị em chúng tôi, nếu có phép nào gom lại được thì sẽ biến thành "khổ hải" bao la. Bao nhiêu nỗi oan khúc bất công của xã hội đối với chị em chúng tôi, nếu có phép quy tụ lại thì ắt hoá ra lửa, lửa nầy đủ để đốt bầu trời nầy tan ra mây khói, và khói nầy sẽ là thiên hồn địa ám, mù mịt còn dày hơn bên Anh quốc những tháng sa mù, đèn Diogène đâu dễ rọi thấy đường Chúng tui nào muốn phơi hày sự tích không thơm tho cho công chúng biết. Riêng tôi nay đã yên thân chốn nầy, không khác kẻ dưới sông đã lội được lên bờ, bụi trần gội sạch, há vạch lưng cho khách qua đường như ông đếm thẹo hay sao. Có chị nào lớp nhỏ, lên chưn quá, ông nên đốt bớt cho vừa. Vừa tập tành, chân chưa sạch phèn, đã tưởng mình khôn hơn thiên hạ! Cái kiếp má hồng, sớm tươi bao nhiêu, chiều càng lợt bấy nhiêu, chị em bạn gái chở ỷ tài và chớ quên điều ấy. Lòng chai dạ đá là lòng con đĩ ít học rnhư tôi, ăn cháo đá bát là bụng con đĩ giận đời bỏ rơi thành ra bất mãn (như tôi). Lúc còn son sắt, những ham bay nhảy đua đòi, khác nào chim non vừa lìa ổ mẹ đang tập bay, và khi lông cánh đầy đủ, máu tham hơi đồng càng hăng, nào còn hiêt trởi kia có mắt. Đến khi chung cuộc ai từng đọc truyện Tây Du ắt nhớ lúc lão Tôn Ngộ Không thi tài cùng hư Lai. Tôn dùng cân đẩu vân nhảy một nhảy tưởng đụng nóc trời. Khi gíác ngộ, xem lại: mình vẫn đứng lé đé dưới chân Phật tổ và vũng nước dơ để làm dấu, nay lớn không hơn bọt miếng con thằn lằn. Chuông chùa cảnh tỉnh đêm khuya, Nam Mô A Di Đà Phật, thanh dơ văn chung càng tỏ. Viết được thì nên viết để răn hờ đám chị em, nhưng xin khuyên ông nơi nới tay, vì "gở cho hết nợ, còn gì là duyên". Còn sống đây, tôi còn đi đây đi đó, không muốn có người chỉ trỏ, chúng tôi chết rồi, mặc tình ông muốn hỏi tên tôi. Chúc ông giai lão và mong sớm đọc những gì ông viết. Ký tên: Quả phụ V.A. Paris, ngày... tháng... năm... ° ° ° Dẫn Bức thơ của bà V.A. và tập bồi ký viết tay nầy, do một tiến sĩ nguyên tử học từ bên Pháp nhân về thăm gia đình, ghé trao tôi vào buổi sáng ngày 14 tháng tám dương lịch 1979, là ngày 22 tháng 6 nhuận năm Kỷ Mùi. Thú thật, hôm đó lòng tôi đang ngổn ngang rối rắm vì còn phải chạy vô Chợ Lớn, cho kịp trước giờ cất đám anh Lê Ngọc Trụ (mất vào chiều thứ bảy 11-8-1979, (tức 19 tháng sáu nhuận Kỷ Mùi) khiến nên tôi chỉ nói vắn tắt vài lời xã giao cùng cô ấy, rồi cáo lỗi để lo làm phận sự đối với anh bạn chí thân Lê Ngọc Trụ. Mãi đến tháng ba năm 1982 nầy, tôi xán cảm nặng đến lo sợ không còn viết lách chi được nữa, khi ấy tôi mới hồi tâm lấy tập hồi ký của bà V.A. ra đọc và ra công đánh máy lại sạch sẽ, hầu giữ lời với bà V.A., nếu có dịp thuận tiện sẽ tự xuất bản, bổ túc quyển "Sài Gòn năm xưa" như lời bà đã khuyên. Hoặc giả chưa xuất bán được thì cũng cứ sắp xếp cho sẵn sàng. Dẫu có ra đi theo ông bà cũng mặc kệ, phú cho người đi sau, muốn sử dụng cách nào cũng tốt, vì tôi nào còn ở đây mà cản trở hoặc cho ý kiến kiếu thọc gậy bánh xe. Ngày 9 tháng sáu Dương lịch 1982 ° ° ° I. Chuyện thứ nhứt. - Chuyện một cô lưu lạc (nhan nầy do bà V.A. chọn như vậy). Nếu tôi cứ ăn ở theo sách, cứ lấy chồng trong làng, cứ an phận tuỳ duyên, cui lục làm ăn, gánh nước nấu cơm giũ mùng giặt áo, thì bất quá về già trở nên một mụ trầu, nếu may mắn lắm, chồng là con thây Cai tổng, thì nay lên mặt bà xã, bà hương, tốt phúc hơn nữa, ông Cai có đất điền, thì tôi sẽ nối giữ ruộng vườn, làm bà chủ điền, rồi con bầy cháu lũ, sáng trông nom quết chuối nuôi heo, chạng vạng tối coi trẻ tắt bếp đóng cửa, rồi thỏn mỏn chết rụi trong bóng tối, rồi đời một kiếp hoa. Tột bực đi nữa, chồng là học trò giỏi, thi đậu làm ông nầy ông kia, lên đến tột phẩm nhơn thần trong nầy là đốc phủ, chú quận. Chi cho bằng trốn cha trốn mẹ, một khi sấn bước giang hồ, thế mà được ăn sung mặc sướng, lên xe xuống ngựa một lúc, nay chễm chệ trời Tây một ghế, hỏi ai hơn ai? Tôi không dám khuyên lấy gương tôi mà bắt chước, cũng không biểu đừng noi dấu tôi mà bước theo. Đèn nhà ai, nấy sáng. Và đại phàm, "Mỹ nhơn tự cổ như danh tướng, Bất hứa nhơn gian kiến bạch đầu" (cổ thi). (Tôi dịch theo tôi: "Ngàn xưa người đẹp như danh tướng, không hẹn cho ai thấy bạc đầu" (Xin giữ y nguyên văn cho tôi, - ý muốn của đàn bà). ° ° ° Kể trong Nam người biết dùng son phấn kiểu đàn bà Tây phương, thì nghe nói lại ở Chợ Lớn năm xưa có nhà ông Đốc phủ Sư, bà dùng nhan sắc chiêu dụ các quan Tây, quan An nam còn danh từ "bằng cấp da" vì đã lấy cái da bì bạch trong thơ bà Đoàn Thị Điểm để thực hành, mảnh bằng ngày xưa bên Pháp viết trên da thú thuộc chế cho da còn đời đời; sao bằng da người thêm tươi mát, nõn nà, chồng mau thăng cấp. Bà chế ra son để vẽ môi, chế ra phấn đê tô mặt, giấy nhang phấn chì bà đâu thèm xài, và các có con bà, mặc áo mong mời cháo đêm khuya, các tay bài, mê cái trắng hở hang, khách quên nước bài, bổ khạp bổ đôi, càng mau sạt nghiệp. Nhà của bà, nay dấu tích còn trên đại lộ Hồng Bàng, chỗ có mấy cái tháp giữa lộ, vì khu đất là một ngôi chùa cổ, ông châm một câu tiếng Pháp, Tây dẹp chùa thưởng đất cho ông làm chủ. Kể về người đẹp trong Nam, xưa hơn hết, có có Ba, con thầy bông Chánh - thông Chánh dám xách súng bắn biện lý Táy Jabouin ở Trà Vinh, năm xửa năm xưa, con là cô Ba được hãng xà bông Việt Nam in lại hình trên mỗi viên xà bông bán chạy vo vo, không lửa sao có khói, và cũng vì bóng sắc sa mê mà tên giữ công lý kia đến quên đường đạo đức: chết cũng đáng. Xứ xứ hữu giai nhân kỳ nữ: Đất Bắc thơm tho, đại biểu là cô Tư Hồng, với càu: Ngũ phẩm sắc phong hàm cụ lớn Trăm năm danh giá của bà to. Một câu lơ thơ có 14 chữ, nghe rất nôm na; có người vội vàng tưởng "hàm cụ lớn" đối với 'của bà to", thì chữ "của" nghe không được chỉnh, ấy chết, có ngờ đâu chính chữ "của" mới là đắc thế nhất của nhà nghĩ ra chữ nầy. Nối bật lên, có thể làm rung động cám giác người già nua có lẽ là tiếng trống ngũ liên giữa khoảng làng đêm vắng. Có chữ "của" câu đối mới hay: một mình nó ký thác cá hai ý muốn: vừa khen tâng bốc, vừa xỏ ngấm ngầm. Khi moi được chữ "của" đế gieo vào câu văn, giá ai gạ đổi chữ "của" lấy một xe hơi Hoa Kỳ, đám chắc nhà nho kia nào ưng đổi chác. Nhứt là cụ Tam nguyên Yên Đổ, cha sanh chữ nầy, lúc ấy đã loà hai mắt, còn thiết tha gì ô tô xe Mỹ quốc? Nhưng kể về văn chương cụ còn giàu sụ, chưa hết tứ, cụ còn hạ thêm câu: Có tàn, có tán, có hương án thờ vua, danh giá vang lừng băm sáu tỉnh, Này biển, nầy cờ, nầy sắc phong cho cụ, chị em hồ dễ mấy lăm người. Tiện đây đế ghi lại những danh hoa đởi trước, tuy chưa phải hoa khôi, nhưng đã làm tiền phong cho chị em lưu lạc sau nầy. Đó là: - Cô Chánh Bẹt-tăng, ở Sốc Trăng, chồng là tham biện Pháp, nhìn một người con sau làm thanh tra Sở mật thám, nhưng được chữ hiền, không làm hại ai, tên Gaston Bertin, em ông nầy, học lớp nhứt trường tỉnh cùng tôi đồng trang lứa, vì không có khai sanh nên không thi tiểu học được và mất tích luôn, là anh Jean Tình. Ở Sóc Trăng, lối 1918, có cô Hai Đẩu, chồng lập nhà hàng bán những món ngoại hoá âu châu: đèn man chon, sa von thơm, phấn chà răng v.v..., nhưng dân trong xứ còn quê mùa, thấy cách trưng bày quá sang, y như nhà hàng Tây, nên không dám vào mua chác, sau phải dẹp quán, lui về sinh sống ở Sài Gòn. Đời nầy không dùng chữ Bà, dùng chữ cô (cô Chánh Bẹt-tăng, cô Hai Đẩu, v.v...) là đã nể nang lắm rồi. Sau cô Bẹt-tăng ở Sốc Trăng, có cô Ba Thọ, nhà ở xóm nhà thờ. Tuy rỗ hoa mè, nhưng cô Ba rất có duyên ngầm, cô không dùng son phấn, để mặt tự nhiên mà lại quyến khách hơn ai, cô dong dảy người, cao ráo, cô đáng hàng cô bác, nhưng lối năm 1933, mỗi lần cô ngồi xe kéo tay, xe đi ngang nhà, để vô đinh ông chủ tỉnh, tôi ngó quên thôi, tuy vẫn biết đó là món hàng của ông bô mình. Chủ tỉnh ở Sốc Trăng những năm ấy là Giudicelli, nhất hạng tham biện, vì có bịnh hút nên đường công danh không leo đến ghế thống đốc Nam Kỳ, nhưng các thống đốc, khâm sứ đều kiên tài viết văn, cô Ba như cây kiểng xinh xinh để gần bàn đèn cho ông ngắm, chồng ngày vợ tháng, hai người không xơ múi gì, cô nhờ ông như chùm gởi đóng nhành me, ông bám cô như thằn lằn ôm cột cầu, tuy vậy mà mối tình tương đắc. Chép đến đây, tôi xin nối lời bà V.A., vì là trang khai màu, kể tiếp luôn nhũng danh kỵ lừng danh thôi Pháp thuộc, lắm cô chỉ "văn kỳ thinh", vài cô vẫn được diễm phúc "kiến kỳ hình" và xin đừng hỏi tôi thêm, tội lắm. Đó là: không sắp theo thứ tự, vả lại mỗi cô có một sắc thái riêng biệt, biết làm sao sắp xếp cho vừa lòng cả chị lẫn em, chị tuy lé nhưng răng đều đều như hạt dưa, nào thua em, tuy tươi tốt mới mười tám thanh xuân, nhưng phải nỗi khi đến gần, phảng phất mùi ni chà, mất hứng. Thôi thì, xin lỗi nhé, đành dành riêng mỗi người một chiếu, và lần hồi sẽ kể sau đây, cũng không dám đi quá sâu vào đề, e đụng chạm làm chinh lòng người còn sống, đã là nhắc lại đây như điểm binh ai còn ai mất, hà tất tranh luận ngôi thứ cho thêm phiền. Chuyện đã lui vào dĩ vãng, nay nhớ chừng để tưởng niệm các cô: - Cô Ba Pho, tộc danh là Lê Thị Ngọc, thánh danh là Rosalie, từng làm chủ một nhà may, náo nức yến anh, đường Sabourain (Tạ Thu Thâu - nay là Lưu Văn Lạng) buổi trước; - Cô Tư Ăng lê, không rõ tên gì cho hản, tay bài kéo xệp câu tôm của bà nhạc, mỗi lần đến nhà để "câu cá", vẫn sóng thu mắt liếc như dao; Cô Marie Huê, ngồi kết nhà bán cơm Việt "Đông Pháp lữ quán" đường Espagne cũ; - Cô Ba Cù là, có giọng khao khao, mỗi lần hỏi tôi mượn tiền, dầu không có, mắt cô ướt ướt, mũi cô đo đỏ, dẫu tiền không một xu dính túi, cũng phải đào cho ra. - Cô Hai Thời, nhà ở ngang nhà hàng cơm Tây ở đất Hộ (Dakao), cùng một dãy với rạp chớp bóng nay gọi Rạp Cầu Bông; tôi nhớ địa chỉ rõ, vì cô là kế thất của ông Bô, thông ngôn toà án Sài Gòn, nhiều người còn nhớ danh, ông Trần Văn Kính; - Cô Lucie Bandeau, gọi làm vậy là cô bị đế dấu tích trên trán, nhỏ thôi, nhưng đế che vết nầy, cô thường lấy một băng màu che khuất mà thành danh luôn; Cô Chapuis, gọi theo tên chồng, trước ở Cần Thơ, sau lên Sài Gòn, khiêu vũ nghề riêng ăn đứt không nhường cô gái nhảy Cẩm Nhung sau nầy. - Cô Năm Cần Thơ, kết bạn với một vị luật sư quê ở Châu Đốc, cùng đi kháng chiến, không hiểu vì sao keo tan hồ rã, cô bỏ về và biệt tích luôn ở Sài Gòn. Cô Sáu Hương, em công tứ Bích, cả hai vốn con nhà giàu lớn xứ Trà Vinh, đi ăn chơi theo tiếng gọi trái tim chớ không vì sinh kế. - Cô Tư Nhị, trẻ trung và đang độ xuân thì, quê ở Nam Vang xuống. - Cô Ba Trà, nõn nà lấn hơn Tư Nhị, và vẫn là địch thủ, giành riêng một công tử sẽ nói nơi sau; - Cô Bảy Hột Điều, vì khuôn mặt chữ điền, y như "Hột Điều" nay đã khoát áo nâu sồng, sắp như vầy, vì cô có một sự tích ly kỳ, hồi sau phân giải; Và còn nữa, nào Sáu Én, Chín Én, Mười Tóc Đỏ, làm sao kể đủ, mỗi cô như hoa riêng mỗi sắc, chỉ thua các chị về bề thẻ, vè địa vị, chớ kể về nhan sắc há thua ai. Đến đây xin tạm ngừng, nếu sơ sót sẽ thêm sau, và chép tiếp chuyện theo bà V.A. đã viết: Chịu trách nhiệm xuất bản: Nguyễn Kiên Chịu trách nhiệm bản thảo: Ngô Văn Phú Sửa bản in: Nguyễn Xanh Vàng Bìa: Nguyễn Đức Nhu 1. V.A. tự thuật Trước khi lạc bước giang hồ, nhớ khi tôi vẫn là con nhà gia giáo, tía má tôi lấy nho phong, đạo đức làm nề. Có ngờ đâu khi trái thân lưu lạc, xã hội ăn chơi đã biến tôi quá mau, trở nên gian ngoan gần như "bán trời không chứng", việc gì cũng dám làm, và vạn sự khởi đầu chỉ vì lòng ham muốn không dằn và vì mê có một cây kiềng vàng chạm như đã thấy trên cổ cô chủ sự vợ Tây đoan mà ra cớ đỗi như vầy. Hỏi: Đàn bà đẹp là cái thá gì? Thưa: Đó là con vật có hai chân, khi bất đầu làm quen, thích xưng em ngọt xớt, nhưng khi bắt hồn sanh người quân tử được rồi, lại chỉ mong trèo lên đầu lên cổ, ngồi chềm chệ trên chóp bu, làm ông làm cha chưa đã và cái sở thích ngày xưa là tiếng xé lụa của nàng Bao Tỉ, ngày nay là toan đập đổ bất cứ cái gì trước mắt, dẫu chắc như xi măng cốt sắt nhà lầu, bền dẻo sắt thép như ô tô kiểu Mỹ, hoặc sơn son thếp vàng tưởng là thiên niên như ngôi vua ngoài ấy: "Hai quả núi vàng pha núm tuyết, một khe hang nước nức mùi hương" chỉ bao nhiêu ấy đủ khuynh gia bại sản. Tâm hồn của tôi ngày nay tuy còn đục xà ngầu như lu nước sông chưa lóng phèn, nhưng sao lại khắc khoải vẫn nhớ cánh u tịch nơi nhà tía má tôi năm xưa ở Rạch Gầm. Nhà là lá, cột là cột tràm, nhưng nay tôi quý hơn góc lầu Paris tráng lệ nầy. Ba căn không lớn, căn giữa chừa làm nơi thờ phượng ông bà, giang san sự nghiệp chỉ có cái tủ thờ bằng gõ mật, để trơn bén không chạm trổ nhưng bóng láng như gương soi, và một bộ ván ba, nghe nói ông nội tôi đi làm rừng trên Tánh Linh, thả bè theo sông đem về một súc, cưa rả ra nhờ tay khéo của bạn, đóng được hai món nầy truyền lại tía tôi, nâng niu hơn châu ngọc. Chái bên đông bốn mùa mát mẻ, chiếu lác vạt tre thông thoáng là chỗ nghỉ lưng của gia đình; chái hướng Tây, chiều trời nóng hực thì lấy làm bếp nấu ăn. Nhưng tôi thích nhất, không phải phía mặt tiền day ra Sầm giang; sông sâu nước chảy, mà lại thích mặt háu, ngó ra đồng ruộng bao la. Nhà tía tôi ở gần nhà ông Cả Tâm, bà con với ông Chủ Trước có trường gà nức tiếng Sông Tiền, tỏi nay vẫn thỉnh thoảng bồi hồi nhớ chái nhà sau cách nhà độ một dặm hú là một ngôi chùa cố, cứ chiều chiều ngồi canh nồi cơm lửa rơm, tôi thường dựa lưng vào vách thả hồn lâng lâng. Ngoài xa kia chì nghe văng vẳng tiếng chó báo khách, bỗng đâu một hôi chuông chẫm rãi đưa đến lỗ nhĩ. Ban đầu là mấy tiếng trong trẻo như xé phanh buổi hoàng hôn tịch mịch, tiếp theo là một khoảng lặng lẽ đến nghe được tiếng ruồi muỗi bay, kế đến là một hồi não bạt tiếng mất tiếng còn y như tiếng nhạc nghe trong giấc chiêm bao, rồi khởi sự là một tiếng gõ trong vắt bắt qua những tiếng gõ khác dập dồn. Giọng kinh đều đều, phát âm nghe thật não nuột khi hạ xuống khi cất lên, không khác tiếng gọi thiêng liêng từ non Bồng nước Nhược nào đưa đến, như nước chay trong suối mơ, không còn gì là dục vọng, nhục tình, một giọng kinh thật ru hồn êm dịu. Bao nhiêu niềm đau thương trên thế, bao nhiêu khổ cực dưới trần, đều quên mất, chỉ còn lại một niềm bác ái vô biên, dẹp hết phong trần đấu tranh, miên được tịnh tâm giữ bồn xa cõi tục. Không van xin, không ham muốn, chỉ còn sức chịu đựng và một niềm thứ tha. Khi ấy tôi nửa say nửa tỉnh, ai dám nói xứ mình không nên thơ, và tại sao tôi không tiếp tục ở nhà tía má tôi, để nửa đời phiêu bạt, chưa biết bờ bến là đâu như hôm nay vầy? Ấy cũng chỉ vì mê một cây kiềng vàng chạm. Hôm ấy, tôi đang ngồi giặt áo mé sông trước nhà. Bỗng một chiếc ghe có mui như ghe thầy cai tổng dùng đi hầu lệ và sơn trắng phếu, chèo ngay lại gần chỗ tôi ngồi và cặp bến. Vừa ghé xong, thấy hai người lính với một ông Tây nhảy lên bờ và xăm xăm hưởng nhả chú Phó lý, ở thân trên nhà tía tôi một đỗi. Thôi rồi, tôi biết nhà chú Phó lý thường đặt rượu lậu, vì tía tôi hay sai tôi đến đó mua rượu đem về, nay có ai mách, nên Tây đoan lại xét bắt chớ không có chuyện gì khác. tôi đang nhìn xem sửng sốt, kế thấy trong mui ghe chun ra một cô dong dảy người, mặc áo bà ba trắng vải ba-tích (batiste) bó sát da, dưới mặc quần lãnh Tàu láng mượt, mặt mày cô trắng như bột, trông lịch sự quá chừng quá đỗi, mà hấp dẫn nhứt là chiếc kiềng vàng cô đeo nơi cổ. Cha chả! Cấy kiềng nó chói mắt làm sao? Tôi nhìn cô trân trân... Đã ngót mấy tháng nay, tôi to nhỏ nài nỉ má tôi, đòi chằng chằng ngày đêm mà chưa có cây kiềng vàng chạm. Nội làng tôi chỉ thấy con gái thầy cai có một cây, nên tôi muốn lắm, đêm nào tôi cũng chiêm bao cứ thấy cây kiềng hoài, nhưng kiềng của con ông cai, tuy vẫn chạm nhưng nào có khéo như cây kiềng trên cổ cô nầy? Nhắm không đeo bàng phân nửa. Cây nầy chẳng biết chạm kiểu gì mà nó sáng rơ, chói loà, ngó vô thật là choá mắt. Tôi đang nhìn và suy nghĩ vẩn vơ, bỗng nghe tiếng cô phát lên cưởi mà khen tôi rằng: "Con nhà ai, khéo đẻ, dễ thương quá! Em lại đây cho qua hỏi thăm đôi chút". Nghe mà mừng quýnh, tôi không đợi cô nhắc hai lần. Cô mời tôi xuống ghe kẻo nắng. Tuy gái vườn, chớ thuở nay tôi không nhát như chị em bạn gái khác. Thêm cây kiềng nó xúi giục, tôi hết biết sợ là gì. Tôi cố ý ngồi khít bên cô để xem cho mãn nhãn. Vừa nước vô tới khoang, cô lấy nước trà nóng ra mời và lấy bánh Tây ra ép tôi ăn. Song trong bụng hơi khớp, tôi không nuốt vô, chỉ thấy cô sờ soạng vuốt ve tôi làm nổi ốc cùng mình... Mùi dầu thơm cô xức thật là bát ngát, nó nhẹ nhàng, làm cho tôi càng mê mẩn tâm thần. Cô thấy tôi ngó sửng cây kiềng, vụt hỏi: "Bộ em muốn lắm sao?" Tôi bèn thú thật: "Đã mấy tháng nay, tôi xin mãi mà má tôi chưa cho". Cô mới hỏi tôi con của ai, cha mẹ làm nghề gì. Rồi cô cởi cây kiềng đang đeo nơi cổ, cô choàng tay lấy đeo vào cổ tôi, lại lấy gương soi nhỏ trong xách tay cho tôi mặc tình ngắm nhìn. Bây giờ tôi mới rõ vì sao mỗi lần tôi đi chợ, Hai Truyện, Ba Sách liếc ngó thì thầm, và đám đàn em Năm Xuân, Sáu Đồng buông lời chọc ghẹo. Nhớ tía má tuy nhà nghèo nhưng không thiếu nợ, tía má cưng, khỏi dang nắng cấy gặt, chỉ cho làm việc vặt trong nhà, da tôi thẳng, không dồi phấn mà hơn xa da cô nầy đã quá nửa chừng xuân, ngực tôi không độn mà no tròn đẩy áo nịt gần muốn đứt, không như ngực cô đã xệ quả mướp, tôi mảng tưởng tượng chỉ thấy cây kiềng vàng chạm trên cổ, mơ màng nhớ đâu mình đã thành tiên, bỗng nhớ lại không phải được đeo cây kiềng nầy mãi mãi, từ tiên hoá ra con nhỏ giặt áo: cho em nó, thau đồ giặt còn tươm bọt xà bông, nhớ đến đó, vụt nước mắt từ đâu sa ròng ròng giọt giọt. Cô chủ sự, cô xưng như vậy, không ngớt lời khuyên giải: "Em đừng buồn. Nếu em muốn, hãy tìm qua qua tính cho. Vậy bữa nào, em đi chợ, hãy ghé nhà, đừng ngại. Nhan sắc em như vầy, lo chi không có đồ bắc kế. Thật tình mới biết mà qua thương em lắm. Nhà qua ở gần công-xi (công ti) rượu, qua khỏi nhà lồng chợ một đỗi. Để bữa em ghé, qua sẽ tính cho". Thiệt là lời ăn tiếng nói của cô nó ngọt ngào làm sao. Trong bụng tôi mừng đến đánh trống chiến, trông ngày trông đêm, trông cho mẹ mau mau sai đi chợ Mỹ (Mỹ Tho), để ghé nhà cô nầy xem cô tính chuyện gì. Chuyện trò chưa dứt, bỗng nhớ ba đồ giặt, phần sợ má tôi thình lình kiếm tôi ra đây bất tử, thì không xong. Tôi lật đật nói ba câu từ giã leo lên bờ, bươn bả ôm thau đồ không cần sạch, bước lên nhà thoát thoát. 2. Một bước sấn vào đường đời: đến nhà cô chủ sự Chưa đầy ba bữa, má tôi sai cầm mười đồng bạc ra chợ Mỹ, cụ bị mua đồ bôi kim châm hủ ki (đậu hủ phơi khô như bánh tráng), dọn lần cho kịp ngày giỗ ông nội. Từ chợ Giữa, Kim Sơn ra đến thị thành Mỹ Tho, vẫn còn đường đá đỏ Biên Hoà, đi lại bằng xe kiềng có hai ngựa kéo, xe hơi, ô tô lúc đó chưa chạy trên đường nầy. Chuyến nầy vừa ra tới chợ cũ, xuống đậu nơi đầu cầu sắt, tôi mua hốt mớ cho rồi, đem xuống xuồng giao hết con nhỏ đi theo, dặn nó cứ bơi về giao cho má tôi, vì tôi gạt nó đừng chờ, dối rằng còn mua vài món nữa rồi sẽ quá giang xe kiếng về sau. Tôi ngó chừng cho nó bơi ra sông, chưa tới khúc quanh, tôi đã bỏ đó, lo đi tìm nhà cô chủ sự. Lúc ấy mặt trời đà cao mú, mà cô chưa thức và còn phải đợi cô rửa mặt chải gỡ trót canh. Thiệt nhắc lại cái cách cô gặp tôi cô mừng, tưởng gặp mặt bà con ruột rà cũng không hơn đặng. Cô chủ vừa cười vừa nói: "Ủa nầy, em. Tội nghiệp thì thôi. Mắc hồi hôm lỡ thức chơi bài..., phải qua ngủ nướng thêm chút nữa chắc nhọc lòng em chờ đợi, hoặc qua đã mất dịp gặp em mà qua hằng trông đợi". Cô nầy nói làm sao, tôi nghe hay quá, mà cơ khổ tôi còn khờ ịch, nào biết tiếng gì đáp lại cho trôi. Thứ đi rửa mặt mà cô cũng dắt tôi theo. Phòng tắm, cầu tiêu, bồn rửa mặt gì sang quá, thấy mà ngốt con mắt. Chỗ nào cũng sạch, không một chút mùi hôi. Ý cái cô làm sao mà rửa cho rồi nội cái mặt, thô; hết sức là lâu. Nào xà bông cung thơm, phấn giồi cũng thơm, dầu xức tóc thì khỏi nói, đến nước súc miệng cũng thơm, mà thấy cổ xài không biết tiếc mà ngán cách ăn xài nầy. Tôi nghĩ dại trong bụng: "Người ta cũng thì người ta như mình, mà người sao ăn sung mặc sướng đủ điều, đã chẳng làm gì cho đụng móng tay, mà chuỗi kiềng đeo không hết, quần áo chẳng thiếu gì. Lại còn bài bạc thâu đêm, rồi ngủ cho trưa trờ trưa trật. Còn mình đây, sao lại cực khổ mãn đời: nồi cơm, trách cá, xắt chuối nuôi heo, một ngày chí tối làm không hở tay, xin có một cây kiềng, mà mấy tháng nay xin hoài không được". Nghĩ như vậy rồi lại thầm ước: "Chớ chi mình được như cô nầy, thì có phước biết chừng nào?" Khỏi nói, cô chủ sự bữa đó, thôi mời ăn cái nầy, uống thử cái kia, bụng đâu mà chứa, mà món nào cũng lạ miệng. Tới món phô mát, tôi vừa nếm bỗng vùng mình nó muốn vọt ra, nhưng vừa nuốt khỏi cổ, lại thấy ngon ngon, và qua miếng sau là tôi đã bủa sua bắt tay làm bạn như quen từ hổm. Rượu chát mới hớp một hớp, tôi đã xây bồ bồ. Cô chủ sự kéo tay tôi lại ngay tủ kiếng, mở ra một mở áo quần, thứ nào cũng thơm tho đẹp tốt hẳn hoi, dẫu con ông cả ông cai trong tổng cũng chưa sắm nổi và so bì cho đặng. Cổ thấy tôi coi không nháy mắt, cổ lại lựa một mở xinh nhứt mà mặc vào cho tôi. Cổ lại mấy nào vòng vàng, chuỗi hột, dây chuyền xà tích đeo vào cổ tay. Cổ lại bày, nói để cho cổ gỡ đầu, bởi tóc lại và xức dầu thơm cho tôi, nhưng tôi từ chối vì sợ má tôi hay, và một hai miệng nói không dám mà cổ muốn làm tôi ra sao thì làm. Đoạn cô khép cánh tủ, kéo tôi đứng ngay thắng trước tấm gương lớn đầy mặt tủ. Cô lại òn ĩ nỉ non như mật ngọt rót tai: "Đó! Em có thấy không? Em mà có đồ ăn mặc, đồ bắc kế, thì qua đây thua xa lắc. Chớ chi em để cho qua giồi phấn thoa son và bới lại mở tóc cho tân thời, thì em là tiên nga trên thế!". Tôi không nhịn được, vụt nói hớt: "Ước chừng có cây kiềng vàng hôm trước đeo nữa, tôi coi được không cô?". Cô chủ sự chúm chím cười lòi ra hai cái răng vàng duyên đến, và nói: "Sao lại không được? Mà tuỳ em, sau nầy em muốn mấy cái lại không có? Vậy thôi, em cứ nghe lời qua, về đừng cho ai hay, lo tom góp áo quần cho sẵn. Bất kỳ là ngày nào, hễ em lên tới đây, thì qua sẵn có thế tiện giúp em lập cuộc đời như qua đây không khác". Được lời như cởi tấm lòng, mừng khấp khởi lật đật giao đồ đạc, từ giã, ra xe vừa kịp chuyến chót. 3. Cách lập thân kiểu mới Về chưa tới nhà, vừa bước chân vô cổng, nghe tử trong dội ra tiếng má tôi chửi có dây có nhợ, không thua các bà các chị chuyên môn ngoài Bắc. Tôi nói bây giờ vẫn không mọt ai tin, nhưng ngày nay nhớ lại biết thương má tôi thì đã quá muộn, và trong máu huyết tôi biết đâu không có tiêm nhiễm vưởng víu của nỗi oan nghiệt cũ, tôi để má tôi mặc tình kể lể, nào đồ gì đồ gì đủ thứ, hỏi: "Sao bữa nay là ngày mấy, chớ mốt nầy là mùng bảy tháng mười ta là ngày giỗ ông nội mày, mà hồi sớm mới nầy vừa thoát ra khỏi nhà, mày đã te te mất dạng, tao vừa trực nhớ cho trẻ chạy theo kêu, thì nó nói mày đã đi xa lắc xa lơ, vậy chớ mày đi rượt ai đâu mà te rẹt như vậy hử?" Tôi không trả lời, đưa tay nhận thêm sáu đồng bạc dặn mua bột mua đường thêm mua mấy món đồ nấu. Tôi đi thẳng vào trong lục ba hột cơm nguội dằn bụng, chờ má tôi bớt giận đi ngủ, sẽ lén tom góp áo quần cần thiết, gói làm một gói chờ canh khuya sẽ đem trước xuống xuồng, kẻo sáng ôm ra, kẻ ăn người ở thấy, thì lộ hành tung, hư chè hư xôi việc lớn. Trời vừa hé mắt bửng tưng, tiếng gà gáy còn nhựa, tôi đã thức dậy, chải gỡ gọn ghẽ, hối con nhỏ lấy xuồng đưa tôi ra chợ. Tới nơi, tôi để nó ở lại coi xuồng, lo lót nó một đồng xu xôi nếp than đỡ dạ, còn tôi thì đi tuột một mạch vô nhà cô chủ sự. Cô lật đật biểu tôi vào phòng của cô ngồi đó chờ cô sửa soạn bươn bả, chờ tàu lục tỉnh đến thì chị em cùng đi với nhau. tôi hỏi đi đâu, cô đáp đi Sài Gòn chớ đi đâu mà hỏi. Cha chả, lo quá, từ đó đến giờ tôi lên có một lên khi được bảy tám tuổi, năm ấy (1913) vừa xây cất xong Chợ Mới Bến Thành, có ăn lễ khai thị lớn lắm, năm đó tía tôi trúng mùa dư được mấy chục giạ, ao ước sắm một bộ đồ trà hiệu Đào Ngọc, trong Chợ Lớn, nên thừa dịp cho mẹ con tôi đi theo cho biết đèn dầu, đèn khí đá ra sao, và thứ đèn mới có, không tim mà vẫn sáng hơn hai thứ đèn kia, duy dùng điện lực mà sao gọi lả "đèn khí" là khí gì, ác thật. Tôi nhớ thấy chưng cô Bảy Bang bắt từ miếu ông Quan Đế (Thất phủ miếu) kéo ra, hình bát tiên là nhi đồng bảy tám tuổi như tôi, cho ăn mặc như hát bội và cột ghịt cả ngày trối kệ nắng mưa, lúc đó ghe tía tôi đậu ở gần nhà ông Tổng Đốc Phương, nay kinh đã lấp trở nên chỗ Bưu diện Chợ Lớn bây giờ, cha chả, nhớ Sài Gòn rộng lớn bằng mấy chục lần cái làng Kim Sơn của mình, mình đến đó có một lần hồi nhỏ tối ba chớp ba sáng, thấy được sao chổi (sau biết tên gọi sao Halley) mọc năm đó, năm sau xảy ra trận giặc Đức 1(1914-1918). Tôi chỉ lo chân ướt chân ráo cô nầy đưa mình lên trển, dấn thân sấn bước giang hồ, phó thác cho vận mạng và cho cô chủ sự định đoạt. Duy vững bụng vì năm còn nhỏ, đi Chợ Lớn năm đó tía tôi có bắt đến ông thầy Vi Kỉnh Trang, ở một gác nhỏ đường Jaccaréo (nay là Tản Đà, ổng ăn có năm cắc bạc mà vừa coi tướng vừa coi chỉ tay, nói trúng phong phóc, biểu tôi bước đi vài bước rồi ông đoán sau nầy số tôi ở lầu các, có người phục hạ, nhứt hô bá ứng, nhớ vậy nên cũng vững bụng phần nào. Rồi nhớ bâng quơ qua câu "đi lang thang trên đường phiêu bạt, vái Phật trời phò hộ lưu ly", câu nầy của ai và chữ Tây viết ra sao, mà ông cử Pháp Diệp Văn Kỳ, con ông Diệp Văn Cương, dịch lại làm vậy mà trúng vào bộ vận và tâm sự mình hôm nay quá đỗi. Ờ mà phải, phải lên đó trốn ít ngày cho tía má tôi tìm kiếm không ra, rồi cô nầy hứa sẽ lựa chỗ giàu mà gả tôi, cho tôi nhờ tấm thân, rồi sẽ trở về thú phạt thì tía tôi cũng bỏ qua và má tôi hết giận chớ gì. Nghe hai tiếng Sài Gòn thì muốn thật, mà mãi còn lo cha mẹ bà con ở đâu trên ấy, một thân cô độc rồi mới làm sao đây? Nghĩ gần nghĩ xa, trong bụng đang bấn loạn bỗng nghe tiếng cô dứt "lo cái gì mà lo, trước lạ sau quen chớ lo gì!" Thấy cô nầy hứa chắc ăn, thêm cô lấy chiếc kiềng ao ước cho đeo, thì trăm phần lo cũng đổ sông hết sợ! Tảu lục tỉnh cặp bến, bộ hành lên hết, cô chủ sự biểu theo cô xuống tảu, dặn ban bù đưa hành lý lại ca bin hạng nhì. Tôi bước chân vô cái buồng gì sang quá, thấy mà ngợp! Giường sắt lót hai bên, tuy không rộng mà nệm gòn rất êm, trải ra trắng phếu, nào chậu rửa mặt, nào quạt máy đèn điện có đủ rồi để nữa đây tiền tàu phỏng độ là bao, sang chi lắm, liệu cô chủ sự có đem theo đủ mà bao bọc cho mình, sao không ở nhà cho yên thân, trăm mối ngổn ngang, rối ôi là rối. Mặt trời đã chênh chênh ngã bóng, kiến đã cắn bụng, bụng càng bào chọt, phải bậm môi ma chịu, nghĩ dại rằng tàu lo chạy cho mau tới, ai đâu dưới nầy lo bán cơm, bán cháo cho mình nhờ. Nhưng cô chủ sự đi guốc trong bụng mình mà mình không hay, cô kéo tay tôi qua phòng kế bên, rộng gần bằng một căn phố, giữa phòng bày sẵn một bàn đủ sáu người, nắp bàn rất sạch, có đủ dao nĩa và ly đĩa trong ngần trắng tinh, thêm một bình hoa hông đỏ chói làm trung tim chứng giám. Cô chủ sự và tôi vừa bước vào, kế ông cò tàu, có hai dòng máu Tây Nam đề huề, cùng đi với ba ông Tây viên chức đi công cán, da đỏ như tôm luộc lông mọc-xù xì đen cá cổ tay vả cườm tay, trông như ba con dã nhơn sở thú đi lạc. Sau mấy cái bắt tay giới thiệu, họ ép cô chủ sự ngồi giữa tôi ngồi đối diện, hai bên chúng tôi là bốn ông giống đực, tuy ngôn ngữ bất đồng nhưng nhờ giàu máu 35 cho nên cái gì cũng qua, duy chữ tình khó lọt. Họ châm nhau những gì tôi không hiểu, nhưng cả thảy đều vồn vã lo cho tôi tứ chút, khiến tôi ngượng nghịu, còn cô chủ sự thì ba xí ba tú, họ cười giòn như nắc nẻ, không biết châm biếm hay phục tài. Tôi nào biết tiếng Tây tiếng u gì phòng tiếp chuyện, đành đánh chữ làm thinh. Lát lát liếc đưa tình, lâu lâu nhé răng cười nụ. May nhờ tía má không bịnh tật nên sanh tôi lành lẽ, răng trắng và đều như hột bắp non, môi đỏ tươi đến son còn kém, gẫm lại gái có sắc như con sóng lượn, đứa trai nào cũng không khác chiếc thuyền nan, dầu ông Tây nào làm tới thống đốc, cũng chứa một nòi tình, ba thằng nầy mà sức mấy, đỏng đưa chơi mày hay chúng bay cung cheo. Họ luân phiên dành rót rượu mời, cô chủ sự bẻ bánh mì giúp tôi, tôi gượng gạo nâng ly, vừa nuốt chưa qua khỏi cổ, lửa từ đâu bừng bừng cháy dỏ, đỏ từ môi đến cặp chân mày, đôi má hồng hồng chứa chan tình tứ ở nhả má tôi nào có dạy, mà nói xin lỗi má, con đã hư làm vầy? Từ đó tôi không còn biết gì nữa, nhưng càng làm thinh họ càng chiều chuộng, định cho tôi, đẹp như vầy ắt tiếng Tây sạch lắm, chẳng qua sầu tình hay chúng đang làm trái ý điểu gì nên tôi làm thái đó thôi. Bữa tiệc mãn, lui về phòng, lên giường nằm sang tàu Nam Vang lần thứ nhứt, phần sóng đánh tàu lắc lư, phần rượu ngà ngà say tôi mơ màng chiêm bao quyết ra đi phen nầy quyết làm sao có tên có tiền có sóng có gió như vầy mới chịu về cùng tía má, nhưng giấc mộng chưa nghĩ trọn tôi đã đánh một giấc quên đầu quên đuôi, trời sáng bét, tôi mở mắt ra đã đến bến Sài Gòn hồi tang tảng sáng. Bước lên bở, cô chủ sự kêu xe kéo tay, hai đứa ngồi chung xe, chúng tôi vòng vo tới chợ nào không rõ, ghé một nhà trông quả là nhà có của, bàn ghế cẩn, ngựa gõ, tu bàn đều bằng cây danh mộc bóng láng. Bà chủ nhà đã già nên cô chủ sự gọi bằng "má" và ép tôi cũng gọi theo. Cổ để tôi ngồi đàng nhà trước một mình, còn hai người đưa nhau vào trong nói chi không rõ, giây lát trở ra căn dặn tôi hãy ở lại đây với má Tư Hớn ít ngày, chẳng hề gì đâu mà sợ rằng đã gởi gấm yên bài, ở đây với má, má sẽ thương như qua đây thương em vậy, lời lời ngọt lịm như đường phèn. Bà già ấy cũng tiếp đưa lời, "chị em với con Bảy Chủ sự thì cũng như con ruột một nhà, vậy con cứ ở, đừng ngại ngùng chi cả". Rồi đó bả biểu dọn cơm nước cho hai tôi ăn, trong bữa cơm, cô chủ sự dặn dò tôi mọi việc ráng sao sao cũng phải tin cậy và nghe lời má Tư, thì mới hòng nên thân đặng. Nội Sài Gòn đây có ai lanh lợi và quen lớn với nhiều ông nhiều thầy cho bằng má Tư, như chị đây năm xưa cũng xuất thân cũng nhờ má Tư sắp đặt cho nên ngày nay mới rỡ ràng sung sướng và có địa vị như ngày hôm nay làm vậy. Nói ba điều bốn chuyện cho qua tang lề, rồi cô chủ sự hôn vào hai má tôi mà tử giã, rằng hãy để cô vô Chợ Lớn mua vài món, và ở luôn nơi nhà quen trong ấy cho đặng sáng sớm đáp tàu về cho tiện và đỡ tiền xe. Cô chủ sự ra về, Má Tư Hớn lấy trong tủ ra một chiếc kiềng vàng chạm kiểu khác và hai chiếc vàng dạy tôi đeo vào thử, xem có vừa vặn không. Đôi vàng quả có rộng một tí, tôi không dám nói: thì má Tư đã bảo cái cô sáu nào đó ở trong buồng, hãy đổi đôi vàng cho tôi, cũng y đồng cân đồng lượng và cùng một kiểu chạm "nhứt cách nhứt chiếu", một khúc tám bông hoa kế tiếp một khúc chạm câu thi văn vận với đoá hoa (lan cúc trúc mai) đã chạm nơi khúc trước. Má rằng: "Con đã lớn rồi, đeo dầu có rộng chút ít cũng không sao, thêm cổ tay của con nhiều xương, đeo rộng ít thấy, phải để cho em của con đây, đeo cho vừa khít cho thấy cổ tay tròn ống chỉ, vừa khéo vừa đẹp, vừa xứng với vóc đạc, cho má xem cho mãn nhãn thêm vui lòng già". Y cái bà, trông cục mịch mà lời nói ngọt tợ mía rim! Tôi đang ngồi ngắm nghía mấy món nữ trang mới, không làm gan xa tía xa má làm gì có như vầy, bỗng có một tốp mấy ông mấy thầy kéo nào nhà, ông nào ông nấy xem đã ba ngù, nói với nhau tiếng Tây bốp thiên, kẻ kêu "dì", người gọi "má", om sòm bát nhã. Má Tư lật đật biểu chị Sáu dắt tôi theo vòng cửa sau bước qua nhà kế cận mà gởi tôi ngồi chút chơi, vì má nói tôi còn như nai không nên cho lũ say nầy thấy, và dặn tôi chờ giây lát chúng về sẽ lại về nhà. Ở đây chưa được đúng tuần, vừa quen nước quen cái, một hôm cơm rồi má Tư gọi tôi lại gần rồi nói nhỏ: "Nay có thằng Hạch, quản gia trong nhà máy xay lúa lớn trong Chợ Lớn, giàu lắm, nó muốn cưới con về làm vợ, với một cây kiềng đúng một lượng và hai lượng chuỗi hột quấn tay, con nên ưng nó đi mà lập thân, chỗ nầy được lắm, nên nghe lời má, thuở nay má ăn chay niệm Phật, tạo lập không biết bao nhiêu gia đình như vầy, tụ thiểu thành đa, không nên già kén, mà bỏ qua dịp tốt". Tôi lúc nầy tứ cố vô thân, bụng đều không muốn cũng chẳng dám nói không. Huống chi mụ nầy, giọng kèn tiếng quyển, thật dễ xiêu lòng, lại nghe có kiềng có chuỗi thì còn chê bai gì nữa. Vậy nên tôi cũng đánh liều gật đầu ưng đại. 4. Lấy chồng là hạch gác cửa Trời đất ôi! Ở trong làng, con thầy cai tổng đến hỏi, cùng trang lứa, cùng học lớp nhứt một thầy, tôi chê "dài lưng tốn vải", tuy nhà giàu thật, nhưng ăn nói không chọc tôi cười được, một mối khác, Năm Xuân, con bác Cả, đậu bằng thành chung thật, nhưng làm thơ ký cho trường máy Đỗ Hữu Vị, khoe rằng thực là "thơ ký chánh phủ", tôi không tin, thêm ốm tong teo, e bị lao chăng, mất công đeo khăn tang sớm, mất đẹp! Nay về với anh hạch nầy. Tưởng rằng làm quản gia, một chức khác cho là trọng, ngờ đâu đó là gác cửa ban đêm, và hạch là phiên âm tiếng Ả-rập Hadj, bên xứ họ nghĩa là gì, tôi thật không biết, duy nghe hạch hạch, tưởng đâu là tiếng hắt hơi "hách xì".Đêm tân hôn, nay nhớ lại còn rùng mình. Đúng là thuyền nan lâm bão lớn, tấm thân trong ngọc trắng ngà, giá kể ngàn vàng, nói theo văn Kiều, đành để "hồng ngâm chuột vọc". Mà con chuột nầy nó không vọc, nó nghiến răng xàm xạp. Hạch tuy không thương được nhưng ở rất biết điều. Va mướn cho tôi một căn phố không xa nhà má Tư Hớn là mấy, cái nầy là tại tôi đòi y theo lời má Tư căn dặn, y mua bàn mua ghế và tập tôi ăn cà ri, chu choa, ban đầu cay xé miệng, mà nay gặp không cay tôi không thèm rớ, mới kỳ! Nghe tôi đòi muốn ở gần má, ban đầu anh hạch vùng vằng, song thét rồi cũng ưng, vì anh mê tôi như điếu đổ, muốn gì được nấy. Quả lả anh hạch thương tôi một cách thật tình, và nói nhỏ mà nghe, ban đầu tôi không cảm, nhưng chưa đầy bốn tháng, anh sắm cho tôi áo quần chật tủ, vàng, chuỗi có rồi. Má bày cho tui òn ĩ xin nào neo đạc, dứa nghiêng trong có đồ để cho đeo đừng móp, thêm cà rá đeo đủ ngón, mặt chữ "ngẫu" (ngũ), mặt nhận xoàn Xiêm, và cà rá liên hoàn, đeo vỏ ngón tay, thấy liền lạc, khi cởi ra vòng nầy treo lủng lẳng tòn ten, trông ngộ lắm. Đêm nằm tôi cũng mừng thầm. Từ cảm vừa vừa đến mến, rồi qua thương, tình Hạch - Việt cà ri thịt kho, tôi tập ảnh ăn nước mắm, ảnh nín mũi queo râu, thấy dễ tức cười, vợ chồng cách nhau hơn hai con giáp tôi mười tám xuân, ảnh tròm trèm bốn chục, tôi bắt mùi quen ăn nị tưởng cùng nhau sẽ nối tóc đến già. Ảnh lảm việc trong nhà máy xay lúa trong Chợ Lớn Bình Tây, tử ngày đụng tôi, ảnh xin đổi phiên gác không gác tối nữa và làm việc ban ngày đêm nào cũng về, vì vậy ban ngày ở nhà một mình buồn, tôi thường lại nhà má Tư để giải khuây, ngờ đâu má cò máy với mấy chị trong nhà ra ngón độc bày đặt rủ ren cờ bạc. Ban đầu đánh nhỏ thì tôi ăn, gọi là chơi vị tình, sau lần hồi gầy sòng đánh lớn, tôi bị gài vào bẫy, dính ăn dính thua, say máu ngà, bữa nào chiều về nhà cũng sạch túi. Cái nghề cờ bạc, nóng mũi nên phái gỡ, gỡ đâu không thấy, ngày càng lậm, hết chục nầy tới bạc trăm kia thét rồi tới cầm đồ, cứ nay một chiếc, mai mốt cầm một đôi, không đầy hai tháng trời, bao nhiêu chuỗi vàng kiềng chạm đều ton ráo, hoá ra giấy biên lai cầm đồ chú Hoả, ráo nạo. Nói thì nói vậy chớ làm sao tôi đám thả ra chiếc kiềng vàng đeo cổ và đôi neo vòng tay là vật thường ngày không rời mình tôi, há dám gởi tiệm, cho anh hạch ảnh biết. Một bữa nọ, thình lình chưa bốn giờ chiều, ảnh về sớm hơn mọi bữa định thúc hối tôi ăn mặc cho chiếng, vòng vàng đeo đủ, để cùng anh vào Chợ Lớn ăn tiệc đầy tháng nhà bạn hữu, luôn dịp trình diện tôi cho người đồng hương ảnh hay. Mà nào có mặt tôi tại nhà! Nhân diện bất tri hà xứ khứ, đáo hoa y cựu, mãi câu tôm. Cơ khổ, anh Hạch lả Chà đứt đuôi mà nhè thơ Đường tôi kể, ảnh đi miết lại nhà má Tư, bắt tại trận tôi đang ngồi sòng. Nói chí tình, ảnh vẫn giữ lễ độ, nhỏ nhẹ biểu tôi. Anh biểu tôi mau mau sửa soạn để kịp đi ăn tiệc, mà trời đất ôi, còn gì mà bắc kế hay sửa soạn. Tôi vô buồng làm bộ chải đầu gỡ tóc, rồi y theo kế mụ bà không dạy mà biết, là nhào lên giường nhào lăn hô đau bụng. Mà làm sao qua mặt được anh chà ba da nầy. Ảnh không tin, cạch hỏi tôi đủ điều, hỏi thật lòi chánh, mặt mày ảnh từ đen hoá xanh, ảnh muốn đánh tôi, nhưng nghĩ sao anh không nỡ, tôi khóc lóc xin tha, rằng lỡ dại một lần thứ nhứt. Anh hạch không nói, bước trái ra ngoài buồng suy nghĩ, giây lát trở vô, xem bộ bớt giận vì cặp râu trái ấu không giựt lia như ban nãy, ảnh cầm tay tôi vuốt ve và khuyên như lần đầu, tôi khờ dại nên ảnh bỏ qua, duy tôi phải giấu nhẹm đừng cho má Tư hay và nhứt định dời chỗ ở cứ việc thay đồ đi dự tiệc cái đã, bao nhiêu đồ đạc thua lận má Tư, ảnh sẽ sắm lại còn nhiều hơn nữa, duy ảnh yêu cầu tôi đừng đánh đôi đánh đọ, chị em cũ luôn và má Tư là bầy quỷ, là chằng tinh, gấu ngựa, càng xa càng tốt, gần làm chi cho vấy mực hôi. 5. Về Chợ Lớn Anh hạch nói không suông sẻ như vậy đâu, nhưng ở đời dây tình cảm đâu phải ở đầu môi, chót lưỡi, tôi nghe ảnh nói mà độ được tấc lòng. Bụng định lòng chai dạ đá mới sau nầy qua mặt bọn đàn ông được, nhưng mới nghe có mấy câu rao Nam nầy mà nước mắt muốn trào, tâm can mềm èo như bún thiu, tôi muốn nhảy lại cắn môi anh hạch để tỏ dấu tri ân, nhưng tôi cố dằn với lấy cái khăn quấn đầu của ảnh vừa chùi nước mắt vừa ngã đầu vào vai ảnh, cho hay giọt nước mắt đàn bà, nước nào như nước nấy. Nhan sắc không phải còn hoài, tuổi thanh xuân đi rồi không trở lại, muốn cự nổi với bọn đàn ông mau quên mau chán, phải học cho đủ nghề, đủ bài bản, cho nên buổi tập sự với anh nầy tôi không tiếc, duy nghe nói hạch tàu đò còn cao đệ hơn nữa, duy chưa gặp nên chưa dám viết, cái gì có nếm mới nên thuật lại cho chị em tường, muốn lấy chút kinh nghiệm làm đuốc soi đường, soi không khéo, đám hậu sanh sẽ cười cho là hủ lậu. Sáng ngày, chồng tôi vừa ra khỏi cửa, một lát chưa giập bã trầu, má Tư mon men cho chị Sáu qua lấy tin tức, hỏi thăm anh tôi đã hay mất hết đồ chưa, tôi dối rằng chưa. Đến nửa đêm, anh hạch về, và nói với tôi làm vầy: "Em còn thơ ngây quá! Cái mặt non nhớt, rồi tưởng má Tư mập mạp như Phật bà rồi lòng hiền như Bụt hay sao? Thuở nay ai chẳng nghe danh bà Tư Hớn đường Bồ-rệt (Boresse, nay là đường Calmette). Bả định bắt hồn sanh ông cò Chapuis ở bót quận Nhì, không ngờ cô Cá Hấp cao tay ấn hơn nên thộp trước. Bà day qua anh đây toan gỡ, mà anh trót thương em nên phải ra tay, không để em trong vòng tay Dì Tư mãi mãi. Mặc cho dì bứt râu ông tổng nầy tổng nọ. Dì Tư máng coi em như cái vú sữa, còn sữa còn cần dùng, cho nên dì phớm phỉnh đong đưa, ngày nào em cạn sữa, dì hất chơn em cái một. Anh đây là thân chủ thuở nay của dì. Hôm em mới lên dì biết anh là thằng nhiều lúi, nên dì cột cho anh phá lòng trinh em mà lấy ba trăm bạc lớn. Đến khi anh gặp mặt em lần đầu thấy còn non nớt quá, anh không đành lòng, hoặc là nói không nỡ. Anh bàn qua việc cưới làm vợ thiệt thọ, dì lên giá năm trăm bạc chẵn chòi. Đồ mập thây, chuyên nghề bán máu con em mà mập vóc! Ban đầu anh không chịu, nhưng sau anh nghĩ lại, trong năm trăm nầy, chẳng những anh có được người vợ trong trắng mà anh còn làm được một việc phước bằng đi hành hương La Mếc (La Mecque, thánh địa của người Hồi giáo, suốt đời phải có một phen đến đó mới đáng là người). Cứu được em ra khỏi lưới dì Tư Hớn, dầu sau nầy em có phụ anh, anh cũng vui lòng cam chịu. Em nghĩ coi chớ chi em gặp thằng khác, thì phải khốn nạn vô cùng chăng? Trong nhà máy thiếu chi gái đẹp mà anh không thương, rõ thật đôi ta có duyên nợ trước. Em mà được như vầy có phải công của dì Tư chút nào đâu? Khi khổng khi không, không đẻ không nuôi, dì ăn đứt năm trăm, lẽ đáng dì cám ơn mình mới phải? Ơn ấy dì không trả, ngày nay dì còn dụ dỗ bài bạc, tính lột da hay rúc rỉa ăn tận xương tuỷ mới nghe, như vậy mà ăn chay niệm Phật. Để anh đem em về trong Chợ lớn cho xa tầm tay với của con mụ nầy mới được. Anh phải chạy nước rút, kiếm cho ra một căn phố thuận tiện, và từ đây tới đó cấm em cho dì hay". Qua ngày sau, ảnh trở về cho hay phố đã có rồi, và hôm kế đó, có xe cá thắng hai ngựa dọn đồ đi sạch. Đang dọn, má Tư đến, nhưng thấy mặt ảnh hầm hầm. Má ra về, tưởng rằng êm, không dè má lanh trí, lo lót thằng đánh xe, dọn về đâu má biết hết và nhắn tôi: "Thằng điếm ba da nó không vừa, nó muốn lìa mẹ con mình đặng xui mưu làm loạn chi đây nhưng qua mặt mụ Tư Hớn nầy sao nổi?" 6. Hết vàng lần thứ hai Vừa dọn về nhà mới trong Chợ Lớn đâu được vài ngày, kế má Tư tọt tét vô thăm. Má căn dặn một hai chớ có tin mà mắc điếm thằng ba da trời đánh nầy. Nghe vậy hay vậy, tội nghiệp nói có trời làm chứng, tôi ở cửa giữa, nắng bề nào che bề nấy, biết làm sao bây giờ. Má, tôi cũng thương; mà ảnh, ảnh muốn gì, tôi cũng chịu. Chưa đầy một tháng, chồng tôi sắm lại cho tôi chuỗi và vàng tay đủ hết, con người làm sao mà rộng rãi với vợ con quá, chỉ tiếc không phải một màu da. Bữa nọ, không có anh ấy ở nhà, má Tư vô, biếu tôi lấy cho mượn năm trăm đồng, vì má có chuyện cần kíp lắm. Tôi than năm trăm không có, tiền chồng cho để xài vặt, tôi tiện cặn vừa hơn tám chục, chớ một trăm cũng không có đú, má tạm đỡ về mà xài. Má mới biểu thôi thì cho má mượn đỡ vàng đem về cầm, rồi nội trong hai ngày, má chuộc lại liền, thẳng không hay đâu mà sợ. Tôi nghĩ đầu dây môi nhợ cũng nhỏ người ta mà mình nay được no cơm ấm áo như vầy, không lẽ mình nói không cho thì cũng ngặt. Tiếng má Tư ở Sài Gòn phải vừa või gì, nếu chọc cho bả giận và mếch lòng thì dễ gì sống trên đất nầy với bả hay sao? Nghĩ vầy rồi, tôi tuôn hết vòng vàng của cái cho má mượn, chỉ chừa mấy nhón thường đeo hàng ngày mà thôi. Bả về rồi, tôi ăn ngủ không được, lo lắng trông mau đúng hai ngày, kẻo phen nầy, chồng tôi hay đặng việc nầy, thì có nước chết. Té ra đúng hai ngày mà trông hoài không thấy tăm dạng, qua ngày thứ ba, anh vừa bước ra, tôi vội khoá cửa, tuột ra nhà má. Tới nơi thấy má nằm xuôi xị. Vừa thấy mặt, má nói cho một hơi: "Ác nghiệt hôn. Làm cho con tôi phải ra đến đây làm vậy! Con ơi! Thiệt là rui cho má quá? Hôm má mượn đồ của con, là má tính còn hai kỳ góp nữa thì hết thiếu thằng Annamalê. Cho nên má định mình làm tốt đem góp tất cho nó một lần để rút giây nợ cho nó có cảm giác là mình là người tốt rồi vài hôm sau mình giả bộ dắt con Bảy ra hỏi, rồi mình ký tên xa-nhe (signer) bảo lãnh, vay lại năm ngàn đồng bạc mới mà xài. Mình nghĩ bề thế con Bảy chị con như vậy và mình lại vừa mới trả hai ngàn đồng cũ rất tử tế chưa đợi đúng kỳ, đã vậy thằng Annamalê nó có dặn má coi chỗ nào chắc chắn chỉ cho nó để nó cho vay bạc, như vậy đó lẽ nào phen nầy nó từ chối. Ai dè xui quá là xui? Rủi ôi là rủi! Đồ đạc của con đem về, má cầm chưa đầy ba trăm. Má phải mót thêm đồ nhà nhập vô cầm được một trăm ngoài nữa. Rồi lại mượn thêm năm chục đồng của cô Sáu Sửu, nhập vào mới đủ hai tháng tiền cho nó. Ra lấy giấy nợ cũ xong xuôi, hôm qua nầy dợm ra nói chuyện với nó về vụ hỏi năm ngàn đồng mới, ngờ đâu có tin nó đau. Hồi sớm mai nầy, má mới ra ngoài, thì nó chưa mạnh. Con nghĩ mà coi má sai lời với con, có chết được không? Làm má buồn quá. Đi mới về, mới liệng cái khăn, vừa nghỉ lưng kế con ra đây làm vầy. Tội quá!" Thôi? Má đã nói như vậy, phép mình nói sao bây giờ? Ra về tay không, chỉ xin má một điều phải lo phải chạy làm sao, kẻo để lâu, chồng hay đang phen nầy việc tác tệ dường nầy, ảnh đánh cho ắt là nhứt sanh nhứt tử. Được hai bữa tôi ra, thì má kêu trời cho hay Annamalê vừa đem đi chôn. Và má bây giờ quả tận lương vô kế. Tôi nghe vậy thì hai hàng nước mắt chảy ròng ròng. Cô bác phải ai gặp tôi lúc đó, chắc là tưởng thằng Annamalê nầy là tình nhơn của tôi nên nghe tin chết tôi mủi lòng như vậy. Kỳ thật tôi khóc mấy lượng vàng của tôi không cánh mà bay. Tôi khóc cho bản thân tôi, phen nầy làm sao biết đào đất mà trốn, mà trốn sao được với anh hạch nhà tôi dẫu xương đồng da sắt cũng phải mềm? Tôi ngồi khóc nỉ non nỉ nọt. Má an ủi: "Tuy vậy mặc lòng, con chớ có rầu buồn làm chi cho hao tốn nhan sắc. Má còn tính toán. Con chớ tưởng tiếng Tư Hớn đất Sài Gòn nầy, đành khoanh tay ngồi coi con mang hại hay sao? Còn nước còn tát mà. Trời sanh voi, phải sanh có chớ?" Tôi lau nước mắt ra về, lòng nặng trĩu. Ngày sau, lối ba giờ chiều, má ngồi xe kéo tay vô... Má bệu bạo: "Con ôi! Cứu má phen nầy, không thì mẹ con mình chết chùm với nhau đó. Mấy ngày rày má chạy đã cùng phương, mà lo không ra kế. Má lại e phen nầy chồng con nó hay đồ đạc mất nữa thì nó không dung, mà chẳng lẽ má để cho vợ chồng con rời rã vì má hay sao? Đã biết, với thằng điếm ba da đó thì có kế chi tình nghĩa vợ chồng. Tuy vậy, đây cũng là chỗ nhờ cậy của con, tưởng mất rồi khó kiếm. Chớ má biết rõ bụng nó không quyết chí lâu dài với con đâu. Thứ quân..." Má nói đến đó rồi thở ra không nói dứt câu... Tôi hỏi: "Vậy bây giờ má tính sao?". Má Tư tiếp: "Có một chước nầy là vẹn toàn, ngặt nỗi con bây giờ, đâu có nghe lời má". Tôi hỏi phăng tới: "Chước gì má cứ nói, con nào dám chẳng nghe lời má hay sao". Má đáp nho nhỏ: "Nề! Có một thầy cai ở Trà Vinh, người giàu có lớn lắm, thêm dám ăn xài. Thầy lên đây bán lúa mà má biết tánh thầy, hễ thấy con ắt quít đít liền. Vậy chiều mai con hãy bắc kế cho thật bảnh, lối gần năm giờ con ngồi xe tay cho kéo ngang nhà má mà đừng ghé. Má có chào hỏi, con cứ trả lời cầm chừng rồi chạy luôn; còn chi nữa, mọi việc để đây cho má lo liệu. Vái trời cho con lọt mắt thầy thì không khác chuột vào thúng nếp. Ở đời phải biết phòng xa. Nói cho cùng, rủi thằng ba da nầy có sa thải con ra, thì sẵn còn thầy cai đó. Chớ bằng không, thì một mai rồi trở tay không kịp. Mà con phải nhớ cái thằng điếm chó ở nhà đây nó buông con nầy bắt con kia, xưa nay ai cũng biết trừ có mình con. Ngây thơ quá thì lầm to. Đừng chắc con ăn đời ở kiếp mãi mãi với thằng hạch nầy. Nó thuở nay, hễ con nào còn mới thì nó tâng tiu, chớ ít ngày xài đã, nó đạp đầu ra cửa, lại còn kiếm cách lột đồ sạch bách. Hôm nọ vì thấy con bơ vơ nên má gả đỡ chớ xong xảy gì đâu! Má ỷ có má đây, ắt nó không làm gì con đặng nên má gả phứt cho con tạm an thân, nay nếu con chẳng biết nghe lời thì sau nầy dừng trách. Ý cái con, sao mà khờ quá!" Ban đầu tôi còn bần dùng, còn chút lương tâm nên không nhứt quyết e làm vậy khó coi. Thà chừng nào chồng bỏ sẽ hay, chớ nay chồng đang âu yếm không tỏ chút gì lầm lỗi cho mình đành bạc bẽo, huống chi vòng vàng người ta cho không tiếc, mình ăn ở vô nghì, trời đất nào dung. Nhưng sau rốt má Tư òn ỉ êm tai, rồi tôi ưng chịu hết. Má ra về hẹn đi mướn đồ bắc kế, sẽ cho chị Sáu cần vô phải chưng diện làm sao cho thầy cai bị thâu hồn thâu vía. 7. Thôi anh hạch, ngang xương Qua ngay sau, đúng giở hẹn, tôi y kế má dặn rắc rắc làm theo. Xe chạy ngang nhà má, thấy má đang trò chuyện với một đàn ông, râu cá chốt, áo dài bông gấm, đi giày ếch-cạc-panh (escarpin), khăn Lái Thiêu, ngậm xì gà: nửa quê nửa tỉnh, nửa mấy thầy, nửa làng xã. Má vừa thấy tôi, đã bước ra chào niềm nỡ: "Cô Hai đi dạo mát hả? Xin cô ngửng, tôi có chút chuyện". Má day lại nói với người kia giống chi nhỏ quá nghe không rõ, rồi lật đật chạy ra, móc túi áo khỉ đưa cho tôi xem hai hột kim cương đã nhận làm cà rá và nói nho nhỏ đủ nghe: "Con giả bộ cầm coi và nhìn kỹ một hồi rồi lắc đầu như chưa bằng lòng, làm bao nhiêu ấy rồi trả lại má để cho má tính". Tôi có hiểu ất giáp gì đâu nhưng cũng làm y như lời má biểu. Bỗng nghe má nói lớn: "Thấy không? Quả y như tôi tiên liệu. Hai hột không đều, một hột màu dầu lửa, hột kia sáng thật nhưng có chút than, thôi để rồi kiếm cái khác". Xe tôi cứ đường thẳng chạy luôn, má trở vô, trong lúc nói chuyện liếc thấy gã kia ngó tôi trân trân, gần rớt tròng con mắt. Sáng hôm sau má vô nhà, miệng tích toát hỏi: "Con muốn hai hột xoàn nầy chớ?". Tôi vội đáp: "Bộ má giả ngộ? Vàng kia không có tiền chuộc. Nay muốn mấy thứ nầy, rồi tiền đào đâu ra?" Má không dứt tiếng cười háy tôi "Của nầy là của con đây chớ của ai? Lúc nầy con mua gì mà không được, lo gì chuộc mấy món vàng nhẹ xều kia?" Thử bây giở con ước má Tư nầy về làm con mọi già để chơi ắt cũng có người ra tiền cho con sắm! Cá cắn câu rơi con ơi!". Tôi nghe bây nhiêu, đà hiểu hết, đây là thầy cai đã lọt vào mê hồn trận của má, nói cách khác, má đã thổi bùa mê bắt hồn thầy cai, chuyện hai hột xoàn nầy cũng là tại má bày, nói tôi đang muốn sắm kim cương, nên thầy mới mua để làm nghĩa cho tôi mau cảm, và lễ ra mắt như vầy cũng là xứng đáng. Nghĩ lại tôi thật là con đoản hậu. Anh hạch không làm chi cho phật lòng, nói chí tình tôi cũng thương ảnh lắm chớ, nghĩ dại muốn có được một thằng Tambi con để đánh dấu bước đầu buổi sấn thân cùng gió bụi, vợ chồng mới quen hơi, tình nghĩa gần gắn bó, không biết vì mụ nầy là quỷ sứ đầu thai, hay vì mình có cái tật ham đồ bắc kế, ác nhứt là hai cái hột nầy làm choá mắt, nên rốt rồi còn biết phải quấy con nhà gia giáo hoá ra tàn ác, lửa đang nồng, hương đang đượm, má đành phá gia cang hai đứa tôi làm vầy, má Tư ôi là má! Chẳng những vậy, má còn căn dặn, chiều nay hễ anh hạch ra đi, là phải ra nói đôi lời cám ơn người ta. Mà trước khi, phải đem hai hột xoàn nầy ra giả bộ trả lại cho thầy, và nói rằng mình không dám thọ của quý như vậy, đợi cho thầy năn nỉ đôi ba lần rồi sẽ tạm nhận. Trời đất ôi, mấy lời nghe chó má quá mà tôi mãi mê hai hột nầy nên bất chấp phải trái, khi tôi còn ở nhà tía má tôi đâu có như vầy? Nhưng rồi tôi cũng y theo kế ấy. Xong rồi má Tư nói: "Nay con đem hai hột nầy về trong, bất tiện lắm. Thằng ba da nó thấy thì khó lòng. Vậy con để lại đây cho má giữ giùm là hay hơn". Nghe cũng phải, tôi giao hai hột kim cương cho má, lật đật ra về. Bữa sau má nhắn nữa, biểu tôi xẻ thầy cai tiền chuộc đồ. Trời đất, thuở nay nào biết xẻ ai mổ ai, thầy cai đâu phải gà vịt mà hòng xẻ mổ? Huống chi người ta vừa ở ngọt quá, mới cho mình hai hột xoàn kia, nay mặt mũi nào xử sự với người ta dường ấy. Cũng vi còn chưa dứt khoát cách ăn thói ở "quân tử Tàu" cho nên tôi đã cụp hàm thiếc với thầy cai mà ba cái đô kia vẫn còn nằm ì ở đợ nơi tiệm cầm đồ chưa chuộc. Cách vài hôm, bữa nọ, chẳng biết ai mách mà tôi vừa ra nhà má ngồi nói chuyện với thầy cai chưa nóng đít, kế anh hạch hầm hầm hừ hừ ra bắt gặp, lôi tuốt tôi ra xe chở về. Má Tư có nói với: "Đứng đi! Mày vô phen nầy là chết" Nhưng mà tôi nghĩ mình làm mình chịu, dẫu có bề nào cũng chẳng oan ức gì. Chớ nghe lời má, ở lại luôn không về thì cũng đặng, nhưng như vậy thì đoản hậu quá không đành? Khỏi nói về tới nhà, anh hạch khảo tra tôi, còn dữ hơn chị Hoạn vấn tội nàng Kiều, hỏi vàng vàng cũng sạch, hỏi chuỗi, chuỗi cũng tiêu, hỏi chi tôi nói thiệt hết, nhắm chối, chối cũng không được. Anh hạch lột trần tôi như nhộng, cho tôi ăn một trận đòn đáng kiếp, còn lại bao nhiêu đồ đeo trong mình, ảnh lột hết, lấy lại hết rồi tống tôi ra cửa. Ảnh mắng nhiếc má Tư Hớn và tôi không còn một chỗ mẹ đẻ. 8. Lo đòi hột xoàn Mà sướng thật? Bây giờ mới là chinh chông, không nhà không chỗ ở; Thầy cai đưa tôi về khách lầu Nam Việt, đầu đường Sạt-ne (Charner, nay là đường Nguyễn Huệ) tận bờ sông Sài Gòn nên mát mẻ lắm. Ở đặng hai tuần thì thầy cai tính về Trà Vinh, vì đã mãn phép. Thầy mời tôi về theo, bụng tôi cũng muốn như vậy lắm, nhưng Má Tư làm kỳ đà, cản rằng thầy có vợ lớn, có tiếng là dữ, về dưới như "nhục huyền hổ khẩu". Trong làng vợ thầy cai Phó, không khác trên nầy là bà Nguyên soái, bà Phó soái chớ không chơi, và bộ hạ của chúng, tôi làm sao lại. Nghe vậy hồn vía tôi lên mây nên đòi ở lại, túng thế thầy phải dọn phố cho tôi hẹn đến lễ Chánh chung (chánh trung) cách-to ru-dết (14 juillet) sẽ lên thăm. Lúc ở khách sạn với thầy cai, bụng tôi đang bấn loạn lo việc anh Hạch dầu sao cũng là mối tình đầu, tôi rầu rĩ cả ngày, bỏ hết mọi việc, việc âu yếm với thầy cai tôi cũng bơ phờ, mặc cho duyên mới mảng sầu tình xưa, tóc biếng chai gương biếng soi, nghĩ mình đoản hậu quá, nhưng giữa cơn cụp lạc, thầy cai khen nét tôi ủ dột bằng mười điếm trang. Trong trí nhớ hai cái hột kia còn gởi Má Tư mà tôi cũng không lo đòi. Thầy cai dỗ tôi cách nầy cách nọ đủ thứ, tôi được trớn lại càng nhõng nhẽo. Giá thử má tôi lên gặp tôi lúc nầy thì xấu hổ cho con biết mấy. Ai tập tành mà tám nghề bảy ngón như vầy? Nay thầy cai về dưới rồi, tôi rảnh tay rảnh chân, sực nhớ hai hột kim cương tôi qua đòi má thì hỡi ôi, má nói đã cầm rồi, chờ vài tháng có tiền sẽ chuộc. Cha chả? Nghe mà tức ói máu! Té ra nào là vàng chuỗi neo kiến gì của tôi, má đã lấy một bận rồi, cái tấm trinh của tôi má cũng bán đứng ăn rồi, nay đến lượt hai hột xoàn nầy, má cũng toan giựt nữa. Của người ta cho tôi bao nhiêu, một mình má ăn hết ráo trọi. Vừa vừa vậy chớ. Công má tôi mang nặng đẻ đau, công tía tôi dạy dỗ nên người, sanh ra tôi nuôi cho lớn khôn nên vai nên vế rồi để cho má một mình lợi dụng. Càng nghĩ càng thấm mật, tức tối vô cùng, nhưng thân phận đàn bà vô thân, nhè đưa cán cho má cầm, lưỡi dao bàn về mình nắm, biết làm sao đây. Một bữa nọ tôi ngồi chơi trước phố đang rầu buồn, bỗng thấy đàng xa đi lại là thầy thông ở căn bên cạnh. Vừa thấy tôi, thầy đã dở nón cúi đầu chào lễ phép. Mà tôi đã có ý xem, từ hôm tôi dọn về đây cho đến nay, mỗi lần thầy gặp tôi là khúm núm ké né xem tôi như là một bà thần sống. Mà coi bộ người nầy thật là nết na đằm thắm, mặt mày thêm hiền hậu không láo nhao như mấy cậu trai lơ kia. Tôi nghĩ trong bụng để mình làm quen và hỏi thăm thầy nầy xem có thể chi kiện má ra toà đòi hai hột xoàn kia được chăng. Người nầy xem bộ đàng hoàng phúc hậu không ba que xỏ lá, ắt tin cậy được. Chờ cho thầy vừa đi ngang nhà, tôi cung kính mời: "Xin lỗi, em mời thầy vào nhà chơi cho em hỏi chút việc". Thầy lật đật bước vào, nỗi mừng hai đứa đứa nào hơn? Thầy tươi cười bắt chuyện: "Có việc chi cần dùng đến tôi, xin cô cứ nói, chớ ngại". Tôi mới thuật nửa úp nửa mở rằng tôi có gởi hột xoàn cho một người, nay họ muốn giựt vậy mình có thể kiện đòi lại được hay không? Thầy hỏi tôi khi gởi có biên lai gì hay chăng. Tôi trả lời rằng không. Tôi thấy mặt thầy có vẻ buồn lo. Thầy hỏi tiếp: "Lúc gởi có ai ngó thấy hay không?". Tôi lắc đầu. Thầy cũng lắc đầu theo và chắt lưỡi: "Chà! Vậy lấy chứng cớ đâu mà kiện!". Rồi thầy hỏi dồn: "Mà người ấy có bà con thân thích chi với cô mà cô tin người ta như vậy?". Tôi đáp cũng mới quen có ít tháng nảy mà thôi. Thầy ngó tôi và chậm rãi nói: "Thưa cô, chuyện nầy thiệt khó hiểu. Nói thiệt, nếu cô muốn cậy tôi thì tôi rất sẵn lòng vừa giúp cô dầu khó nhọc cách mấy tôi cũng không câu nệ, vì thấy cô coi bộ ít quen biết với ai ở đây. Song cô phải tin tôi, mà đọc lại cho rõ ràng mọi sự, thì hoạ may tôi có thế toan tính gỡ rối cho ra, nếu thưa kiện không xong, thì có thế khác. Chớ cô nói không cặn kẽ thì tôi biết mối đâu mà gỡ". Thấy tôi do dự, thầy lại tiếp: "Có lẽ cô mới biết tôi lần thứ nhứt mà đem tâm sự giải bày thì cũng ngỡ ngàng cho cô đó chút. Cô cho tôi hỏi: Vậy chớ cái người cô gởi hột xoàn đó, cái thế họ còn ở đây lâu dài, hay họ là người trôi nổi bình bồng, nghĩa là cô có sợ nó bỏ đất Sài Gòn mà đi mất biệt hay không?". Tôi cười liếc mắt tình tứ mà rằng: "Không, dạ thưa thầy không. Người ấy ở đây hoài hoài, hổng có đi đâu hết. Cái sự người ấy trốn, thiệt tôi không sợ". Thầy mừng mà rằng: "Như vậy thiệt là may. Việc đâu còn có đó. Cô với tôi nay ở gần nhà, thủng thẳng đây sẽ biết thêm nhiều và quen lớn thêm nhiều. Ngày nào cô đủ sức tin tôi thì cô sẽ nói, cung chẳng muộn chi!". Chẳng biết sao nghe lời thầy nói một cách hiền từ thành thiệt quá, làm cho tôi hết e lệ hổ ngươi, lúc ấy tôi coi thầy thư là người anh ruột hay là một người thân thích đã quen biết từ chín mười năm rồi vậy, nên tôi bèn thuật lại đâu đuôi gốc ngọn, các sự việc ra sao, không sót một điều, một mảy may. Tôi lại ráng đem hết cái tài văn hoa ăn nói của cái xứ Kim sơn, Xoài hột ra mà dùng, không câu người nầy bang bằng sắc nàng Thuyền, mà phải câu bằng đầu môi chót lưỡi của nàng Điêu trong Tam quốc chí. Duy khi nghe tôi dùng chữ "diếm" thay vì nói "dám", thầy cười mà hỏi tôi có phải người gốc gác Sầm giang Rạch ông Hổ chăng. Tôi hỏi tại sao thầy biết. Thầy cười nói tiếp: "Thưa cô, vì cô không dám phạm huý chữ "dám" trùng âm với "giám, thái giám" đụng chạm đến cái tiêu tật hay ấn tật của ngài Tả quan Lê. Tôi cũng là người Chợ Giữa, vì sinh nhai trôi nổi lên đây, như đã nói, càng biết càng thân ấy mà!". Thầy cười lỏn lẻn nói: "Chuyện nghe đã rõ, thôi cô cứ yên tâm, để tôi về tôi lo kế". Cách ba bữa sau, thấy trở lại, dặn tôi: "Con mẹ Tư Hớn đó không phải vừa. Nếu chẳng làm cho nó trúng kế thì dẫu trời đánh nó cung không nhả hai cái hột xoàn kia ra đâu.". Chừng, thầy kê sát tai tôi nói nhỏ rằng phải làm như vầy, như vầy, và căn dặn tôi đây tới đó phải giấu nhẹm, người khác biết được thì hư chè hư xôi hết. 9. Má Tư trúng kế Hai ngày kế đó, thầy dắt lại tôi một ông già trông đạo mạo ra phết, và nói: "Ông lão nầy sẽ giả làm ông thân của cô. Vậy khi cô thấy mặt ông tại nhà con mẹ Tư Hớn đó, cô phải làm bộ như cô gặp ông già ruột của cô vậy, nên cô sợ mà chạy trốn vào trong. Còn ổng, ổng làm bộ giận dữ, mắng cô ít tiếng, thì công việc sẽ xong". Tôi nghe theo lời thầy dặn, nên nói với Má Tư, tôi ở một mình buồn, muốn về ở chung với má cho vui. Má nghe tôi nói thì mừng lắm, biểu tôi bán bớt những gì không cần dùng, rồi dọn về. Tôi kêu lối xóm bán đồ, mà kỳ thật mấy người nầy vâng lời thầy thông dặn trước nên họ giả đò mua rồi chở đi hết, chờ xong việc sẽ trả lại cho tôi. Xong xuôi, tôi xách hoa ly áo quần, về nhà Má Tư. Ở chưa đặng bốn năm ngày chi đó, kế thấy thầy thông nọ đi với ông già, xăm xúi bước vô nhà Má Tư mà hỏi lớn: "Phải nhà bà Tư Hớn đây không?". Chưa ai kịp nói gì, kế ông già ngó trực thấy tôi thì a lại hét rằng: "Con chó chết!". Tôi la hoảng: "Uý! Trời? Tía tôi!" Vừa la tôi vừa chạy vô buồng để trốn, nhưng ông già nầy còn khoẻ quá áp chạy theo toan đánh. Má Tư đứng cản nơi cửa buồng, ổng vụt la lớn tỏ ra giận dữ: "Còn con mẹ nầy nữa! Bộ muốn chết hay sao? Diếm cản cửa tao? Tao có giấy Biện lý cho tao đi bắt con tao, chớ phải không sao? Nè! Giấy Biện lý đây nè, thấy không?". Đưa ra thấy một miếng giấy có con dấu đóng đỏ lòm, rồi ông điểm mặt Má Tư mà rằng: "Tội mấy đụ dỗ con gái tao chưa đúng tuổi thành nhơn, bắt về rước khách, ở tù không sợ; mà mấy còn cả gan diếm cản trở tao à? Nè thầy Sáu Hãy để đó, chạy lại bót ông Cò, kêu lính lại đây tức thì, coi con mẹ nầy còn diếm cứng đầu cứng cổ hay không?". Thầy Sáu vội vã đứng dậy... nhưng Má Tư sợ đã khiếp vía, nên cầm tay xin thầy khoan đi, để cho má đọc rõ đầu đuôi, oan má lắm!". Thầy Sáu nạt: "Oan ức gì? Tang tích đã rõ ràng, dụ dỗ gái tơ hành nghề mãi dâm, tội đại hình chạy trời không khỏi?". Má xuống nước, năn nỉ khẩn cầu, xin tía tôi với thầy nọ ngồi nghe má đọc công chuyện tôi, không phải má dỗ dành, vì tại thấy tôi bơ vơ nên làm phước nuôi tôi vậy thôi. Tía tôi không tin, biểu má kêu tôi ra giáp mặt cho ổng hỏi. Đó rồi, tôi bước ra, ổng bắt tôi thuật lại rõ ràng tự sự, từ hồi ở nhà bước ra, vân vân. Tôi giả bộ run sợ, đọc lại hết mà không quên chuyện má mượn vàng chuỗi, lại với chuyện tôi gởi má hai hột xoàn mà má chưa trả. Nghe tôi thuật ra đến đó, má thất kinh: lật đật nói hớt rằng: "Vàng chuỗi với hột xoàn còn đủ đây, tôi có cầm bán gì đâu! Chẳng qua tôi sợ nó khờ, đeo trong mình, chúng gạt lấy hết, nên tôi lập thế cất giùm cho nó, chớ có mất mát món nào đâu!". Nói rồi vô mở tủ lấy đủ vàng và hột xoàn ra để trước mặt tía tôi và nói rằng: "Đó! Ông coi. Có phải tôi lo lắng yêu thương nó tư chút hay không". Tía tôi thấy vậy, làm bộ kéo tôi ra đàng trước mà tra gạn tôi song nói nho nhỏ, tuồng như hỏi riêng không cho má biết. Lúc nầy, còn một mình thầy Sáu trong nhà. Má mới lại òn ỉ, lòi cho thầy năm chục đồng bạc uống trà, xin thầy can gián giùm. Thầy chộp năm chục đồng bạc bỏ túi, rồi giả bộ bước ra to nhỏ gì đó với tía tôi. Tía tôi dùng dằng hồi lâu, mới bước vào hốt đống đồ của má đem ra để trên bàn, đưa hết cho tôi mà rằng: "Nè! Đồ đạc của mầy, thì mấy lấy đi. Rồi vô lấy áo quần cho mau, đi theo tao lập tức còn chần chờ thì chết với tao bây giờ!". Rồi day lại nói với má Tư: "Thím phải biết, con tôi nó hư cũng vì thím. Làm cho tôi tốn hao tìm kiếm nó mấy tháng nay. Vậy thím phải tính sao, chớ việc này khó nín". Má Tư chẳng biết làm sao, phải đem ra hai trăm đồng, nài nỉ xin bồi thường sở tổn cho tía và xin tía tôi đừng thưa kiện lòng dòng tội nghiệp. Vì trót thương tôi mà má mang hoạ, chớ má nào có dụ dỗ chi tôi. Má thề thôi bán mạng, chửng tía tôi mới nguôi cơn giận, bỏ túi hai trăm bạc và dắt tôi ra cửa. Xong việc tôi dọn nhà lại y như cũ, chừng ấy Má Tư hay đặng mới biết trúng kế, má oán tôi khắc cốt và nghiến răng nghe trèo trẹo. Nhớ lại thầy Sáu nghĩ công khó của thầy, tôi lấy hai trăm bạc của ông già đem về, tôi đền ơn thầy nhưng thầy một hai không chịu lấy. "Tôi lấy năm chục đồng của Má Tư lo cũng đủ. Nhưng tôi đã cho hết ông già kia, thế là vẹn toàn rồi. Còn phần riêng của thầy, miễn đặng giúp ích cho tôi là đủ mừng lòng. Lối xóm với nhau, chút công ty tiểu, nào đáng kể chi". Tôi ép thế nào, thầy cũng không chịu lấy phải đành cất đó, oan gia hay duyên nghiệp gì đây? 10. Bị đánh ghen Cách đâu mấy ngày thì thầy cai lên. Nghe nói kỳ nầy, thầy ở lối một tuần nhựt mà thôi, chớ không ở lâu đặng vì tới mùa thúc thuế. Lại biểu tôi sửa soạn để theo về dưới ở cho gần, chớ một kiểng hai quê như vầy đã tốn hao thêm rất là bất tiện. Nhưng ngày trước Má Tư có nói vợ thầy dữ lắm, có lẽ ấy là lời Má nói để mình ở lại Sài Gòn cho Má khai thác. Chớ thiếu chi người vợ một vợ hai, nếu mình ở nhỏ nhoi chiều lòn, thì ai đâu nỡ làm hung, - chèo xuôi mát mái đó mà! Lại nữa từ ngày Má Tư trúng kế đến giờ Má oán mình thâm xương, ở đây có ngày không khỏi bị tay Má trả thù, chi bằng để cái đất Sài Gòn nầy cho Má ở mới xong. Vì nghĩ vậy nên tôi bằng lòng ưng theo thầy cai xuống Trà Vinh. Mãi còn đang sắp đặt trong nhà, bữa kia lối năm giờ chiều, còn sớm bửng, tôi đang ngồi nơi bộ ván trò chuyện với thầy cai, thình lình có lũ đàn bà năm đứa, ào vô kéo tôi vừa đánh đập vừa chửa nhiều lời thô tục tôi không dám viết lại đây. Thêm có mặt mụ chúa đàn đi sau, bước vào xỉ mặt thầy cai, kêu bằng thằng, và vả mắng thậm tệ không còn thể diện gì hết. Cơ khổ! Như vậy mà thầy cai cứ ngồi chịu trận, không nẻ tránh cũng không một lời tranh biện, tôi mới thấy lần thứ nhứt một thằng cha uý phụ không ai hơn. Trong lúc ấy năm con quỉ sống nó kéo đầu, xé áo, giựt gãy lọi cây kiềng vàng chạm, và đánh tôi thất quốc tha bang. May thay, đang cơn nguy cấp, bỗng đâu thầy Sáu chạy qua, xách roi mây quất bổ mấy con đó bất kể đầu cổ, hét lớn biểu phải buông tôi ra, bằng chẳng vậy, thầy sẽ kêu lính phú-lít (police) đến còng đầu bắt cả phồn, vì chúng bây có phép nào xâm nhập gia cư người lương thiện mà hành hạ người ta như vầy. Thấy thầy bộ quyết liệt quá, mấy con chằng tinh mới chịu buông tôi ra, thầy xách roi rượt chúng ra tới đường, chúng nó tuy chạy mà còn chửi rán. Thầy Sáu biểu tôi nơi ngả sau bước qua nhà thầy ngồi đỡ, còn đám nầy để đó cho thầy. Tôi đi rồi, thầy day lại cay đắng với thầy cai, bảo đã sợ bà như vậy thì đừng có vợ một vợ hai, lại còn khéo dụ dỗ người ta đem về xứ cho bị hại. May mà tôi chưa đi. chứ phải tôi xuống dưới rồi thì ba mạng của tôi cũng chẳng còn. Hú hồn? Ấy cũng nhờ có thầy Sáu hết lòng che chở, cho nên vợ thầy cai không dám đập phá đồ đạc nhà tôi, vì thầy Sáu hăm kêu lính bắt. Nói chí đáng, mụ nầy tuy dữ, nhưng cũng gốc ở vườn mới lên, nên không dám ỷ thị cho lắm. Con mẽ bắt thầy cai lập tức lấy áo quần đi theo mụ ta vô Chợ lớn rồi sáng ngày về dưới mất dạng. 11. Có chồng khác Xong cuộc rồi, thầy Sáu mới nói tôi rằng: "Cô có biết làm sao vợ thầy hay mà lên làm hùm hổ như vậy không? Ấu là mưu độc của má Tư Hớn. Thầy biết chắc như vậy, vì lúc hai đàng ấu đả, có Má Tư đứng ngoài xa thị thiềng nhưng không lọt qua mắt thầy. Còn năm con chết bằm vào ăn xía đánh tôi là năm con ở lậu em út của Má, chớ không ai xa lạ. Đây chắc là Má dò biết thày cai lên với tôi lại sẵn biết thầy có tánh thờ bà sợ vợ nên Má tuốt xuống Trà Vinh trục vợ thầy cai lên đánh tôi bỏ ghét, và trả thù luôn thể. Thầy Sáu tiếp: - Chẳng phải tôi dám xúi cô chia uyên rẽ thuý, thôi lấy thầy cai, song cô suy nghĩ lại coi, cô chọn người như vậy mà trao thân gởi phận, thì sao yên? Phận cô thì mảnh mai bồ liễu, thêm tứ cố vô thân. Chuyến nầy con mẹ cai giữ chặt thì trông mong gì thẩy thoát được mà lên trên nầy, vả lại chàng va bị bắt tại trận, phen nầy ắt thề bán mạng không tới lui với cô nữa, thì không bỏ mà cũng như bỏ, thêm nữa ở đây con yêu già kia còn, không biết nó sẽ bày mưu thiết kế gì nữa để hại cô. Đã biết cái sự binh vực cô, thì tôi đây sẵn lòng luôn luôn, dầu cho sẽ bị hại khốn khổ cách mấy, tôi cũng chẳng từ nan, ngặt một điều, tôi với cô bất quá là người hàng xóm, anh em với nhau mà thôi, nhưng ở đởi có nhiều khi gặp cơn hoạn nạn, anh em cũng phải cua tay không phép gì cứu đặng. Vậy cô nên suy nghĩ kỹ mà sớm liệu chọn đôi bạn khác thì mới tiện cho. Thầy nói cũng có lý, mà hiện nay tôi biết ai đâu mà chọn lựa bây giờ? Lại nữa ơn thầy hổm rày che chở, tôi biết lấy chi mà trả? Xem chửng coi bộ thầy ta thương tôi lắm, song thầy lấy lòng quân tử ngay thẳng, chẳng muốn thừa cái sự tôi mang ơn mà ép tôi vầy duyên nhưng tôi coi bộ không có cái chi làm cho thầy có phước và vui lòng bằng được lấy tôi làm vợ. Suy xét kỹ càng rồi, tôi mới vừa cười vừa nói với thầy như vầy: - Thầy nói nghe rất phải, nhưng tôi có thấy ai thương tôi thiệt tình đâu mà hòng trao tơ kết tóc. Ngay bây giờ tôi thấy có một mình thầy hết lòng giúp đỡ tôi. Vậy nếu thầy không chê, tôi xin gá nghĩa cùng thầy, trước đền ơn che chở, sau có chỗ dựa nương. Tôi nói chưa dứt lời, thầy mừng thôi quýnh quýn, chạy a lại hôn tôi và ôm tôi vào lòng, mà nước mắt chảy đầy má không hay. Từ đó vợ chồng tôi ở với nhau hết sức thuận hoà vui vẻ. Thầy Sáu đối xử theo cách Tây, nên dịu ngọt với tôi lắm. Đi chơi chỗ nào, hai đứa nắm tay nhau không rời. Nhờ vậy tôi mới biết mấy cuộc vui nhã thú ở Sài Gòn nầy, chớ từ lên trên nầy hết cô chủ sự thì lọt vào tay Má Tư, tôi chỉ biết ăn chơi đàn đúm, vày vò xác thịt cũng chỉ vì ba đồng tiền hôi hám. Nhờ thầy Sáu tôi mới làm quen được với các tay văn vật phong lưu, mà toàn là các tay viết báo hay chủ bút đang thời, như: các ông Nguyên Tử Thức, chủ bút tờ Nam Trung tuần báo, Lê Sum tự là Trường Mậu, bỉnh bút Công luận báo, Lão Ngạc Nguyễn viên Kiều, cựu hội đồng địa hạt ở Trà Vinh, Dủ Thúc Lương Khắc Ninh, cựu hội quản hạt, chủ bút tờ Nông cổ Mín đàm, dịch giả Tam Quốc Chí, từ 1904, trước Phan Kế Bính những bốn năm (bản Phan Kế Bính Hà nội xuất bản năm 1909), thêm làm chủ bầu gánh hát bội ở Cầu Muối (chỗ rạp Rex đường Hồ Văn Ngà cũ) (nhờ xem hát và đọc truyện Tàu mà tôi biết quẹt quẹt ba chữ quốc ngữ và viết lách chút đỉnh như hôm nay). Thầy Sáu lại dắt tôi đến khách sạn nào Nam Đồng Hương, Lục tỉnh khách lầu, Đỗ văn Bính Hôtel Confortable ở đường Carabelli của thầy Bảy Phương vừa yến ẩm nhậu nhẹt, vừa nghe ca lúc hát cải lương còn chập chúm "ca ra bộ" bản Tứ đại (Bùi Kiệm ngộ Nguyệt Nga), bản Bình bán (Bùi Kiệm thi rớt). Tôi cũng quen gần đủ mặt các kỳ cựu như Nguyễn Chánh Sắt (Tân Châu) bố vợ ông Trọng Bổn, Trần Thái Nguyên, làm bút toán cho nhà sách Nguyễn văn Của, tuổi nay trên chín chục mà còn mạnh khoẻ và hiện ngụ gần nhà ông, ở Gia Định, đường Bạch Đằng, từng xuất bản bộ truyện "Càn Long hạ Giang nam" từ 1900; ông Hội đồng kiêm Phó tổng Nguyễn Thành Phương, cha chị Nguyệt Hồng, tức ông ngoại tướng Nguyễn Khánh râu Charlot, chụp giựt một lúc rồi chạy qua bên nầy nhưng tôi không gặp; báo Đông Pháp thời báo, tôi biết ông Diệp văn Kỳ, báo Nữ giới chung, khi tôi biết thì bà Sương Nguyệt Anh (con gái ông Đồ Chiểu), đã nhường bút cho ông Thiệu Huy (Nguyễn Thành Út), tính lý lắt, viết bài xã luận thì không ra gì, nhưng làm thơ có hạng lắm. Quên nói, thầy Sáu làm nơi phòng luật sư Jacquemart (chết xin đốt xác, lấy tro chôn sông Sài Gòn, vì ông nói sự nghiệp ở đây và xin chôn ở đây để nhớ đất đai thuỷ thổ): Cái nghề làm việc thầy kiện, mà lương bổng có là bao, không đủ cho tôi mua son phấn, nhưng tôi trọng là tình nồng nghĩa mặn, cách đối đãi cư xử của anh Sáu tôi, nay nhớ tới còn sa nước mắt. Vợ chồng thương nhau hết tình, lúc ươn yếu lòng lo lắng cho nhau, đến quên ăn quên ngủ. Thầy Sáu dắt tôi về lạy cha mẹ thầy ở Rạch ông Hổ, thì ổng bả cũng bằng lòng. Tôi cũng đưa thầy về Rạch Gầm lạy tía má tôi, mở tiệc vật bò vật heo đãi đằng bà con làng xóm, rồi hai đứa tôi làm hôn thơ tử tế. Thiệt thầy Sáu vẽ mặt vẽ mày cho tôi và làm rỡ ràng cho tía má tôi quá đỗi. Nay nhắc lại khôn cầm giọt luỵ, và thầy Sáu ôi, biết ngày nào đôi ta lại gặp nhau? Lúc đó tôi lấy làm có phước quá chừng, tưởng đâu kiếp đoạ đày của mình đến đây là mãn hạn. Nào ngờ đâu số Đạm Tiên chưa hết. Qua năm sau, tía tôi mất vì rầu buồn mấy năm khía thất mùa, ruộng tuy không bao nhiêu nhưng đủ nuôi gia đình bỗng về tay người khác, tía thất tình mà chết. Vợ chồng tôi khi ấy, đem má tôi về ở chung chưa đầy bốn tháng má tôi đụng giặc trời mà chết theo tía tôi. Vừa chôn má chưa kịp mở cửa mả, chồng tôi bị truyền nhiễm ỉa mửa tưng bừng. Thôi. Một ngày đó, tôi chạy khắp phương, nào rước thầy, nào vái ông làng ông Địa, nhưng tôi còn tức buổi ấy nghề y dược chưa giỏi, hay là để an ủi, tôi cho người ta vẫn có số mạng, và kiếp phong trần khó tránh. Qua bữa sau, anh Sáu tôi khuất. Trời ôi! Lúc đó tôi không còn muốn sống trong giây phút nào, ngặt số chưa phải chết, thì chết cũng không rồi! Tống táng xong xuôi, tôi mới về dưới nhà ông già bà già chồng tôi mà ở. Tội nghiệp! Thấy hai ông bà thiếu trước hụt sau, tôi cầm lòng không đậu bèn bán phứt hai cái hột xoàn, lấy tiền sửa nhà cửa lại chắc chắn, lại mua được một miếng đất đem cốt chồng tôi về nằm đó, chừa chỗ nữa hai ông bà về nằm chung với con, làm mồ mả xong thì trong mình còn được ít trăm. Tôi tính cho tiền lúa rồi lấy lời đó mà xài, ngờ đâu vận kiến thời quai, cho đâu mất đó, mấy năm ấy thất mùa, mấy ông tá điền ở "nhà đá" (là đá một cái mạnh, nhà sập tuốt họ hỏi bạc lúa rồi trốn mất, khiến vốn tôi thâm thủng hao mòn còn hơn nước đá để trong mùa nóng. Vừa đúng một năm, làm tuần cho chồng rồi trong túi chỉ còn độ trăm ngoài. Không đợi xả tang, trong lưng còn có hai mươi tám đồng bạc, nhắm ở nữa không tiện, phần yếu đuối, phần khung vốn, tính làm ruộng làm nương gì cũng không đủ sức, tôi bèn lạy cha mẹ chồng xin để lại phân nửa, còn bao nhiêu tôi lên xe một mất một còn với Sài Gòn cho biết mặt. 12. Mắc mưu lọt nhà số Vi kiếng không bao lăm, tánh kiêu không bỏ, không muốn nương dựa vào ai cho phải mang ơn, vả lại giới ăn chơi khách yên hùng rất hiếm, hồ dễ gì gặp người hảo tâm hào hiệp, tôi bèn cầm hai tay chuỗi vàng, nhưng năm thất mùa vàng còn hai mươi ngoài một lượng, cầm được năm mươi lăm đồng bạc cũng đã khá khủm, lấy đó sắm ít món cần thiết, mà cũng may, tôi kiếm được một căn phố rất gần chợ, tuy trong hẻm, đó là phố của họ Huỳnh tay giàu lớn ở Gò công, ở ném về khu Trưởng tiền, đường Pellerin, giao cho ông Huỳnh Đình Điển làm quản lý. Mấy người ở lầu trên Sài Gòn đều biết ông già kỳ khôi nầy, dám chứa làm ma chay cho Phan Chu Trinh, và ông chuyên môn nghề thuộc da nhồi thú rừng, nơi sa long ông trải một chiếc chiếu để cho bốn con khỉ ngồi đánh tứ sắc có hai con mèo ngồi ngay rổ lấy xâu, con mang kiếng cận thị, con liếc coi bài con kia, trong giống hệt ngoài đời không sai một mảy. Định bụng chim bằng nghỉ cánh, mình tạm như vầy một đôi tháng cho nguôi cơn buồn mất chồng đang yêu đương rồi sẽ kiến cơ nhi tác! Ngày chí tối, tôi thơ thẩn ra vào, không lo đánh áo đánh quần, cũng không cần phấn son trang điểm, một mình một bóng, thậm chí mỗi chiều thứ tư cữ nhạc Tây đến thổi ở Bồn kèn, trước hãng Sạt ne (Charner), hơi kèn lồng lộng bên tai mà tôi cũng không màng đến và không bước ra khỏi nhà. Ba hột cơm dằn bụng, ăn quấy quá cho xong, rồi thì leo võng đánh đòng đưa, hồi tưởng từ lúc trốn tía má cất bước ra đi, cuộc an nhàn sung sướng nào có mấy phút, còn bể lận đận lao đao nó ê chề làm sao, đắng cay chua xót đã từng, vui với anh Sáu chưa dập bã trầu thì đã keo tan hồ rã. Ông cao xanh ở trên kia, bởi sao có người kêu là "con Tạo", cũng vừa! Tôi nghĩ tới anh Sáu của tôi mà cầm lòng không đậu, nước mắt từ đâu tới chan hoà trên đôi má, mà mềm lòng như vậy làm sao cự lại bọn đàn ông. Một bữa nọ, mắc chứng gì lại thèm ăn sò huyết quá, nên tôi xách rổ đi chợ. Tôi rảo khắp trong ngoài mà gặp toàn sò huyết lớn con là sò ở Ô cấp đem về, tuy lớn mà thịt dai và không ngon. Đến một chỗ nọ tôi gặp thứ sò nhỏ con mà đó là sò biển Bạc Liêu, thịt ngọt, nếu nấu cháo thì là tuyệt. Tôi mừng quá mua cho một rổ đầy xong rồi tôi bưng rổ trở về nhà, nhưng vừa đến đầu đường, ngã tư Mặc Má Hồng - Đỗ Hữu Vị, bỗng có một người trai lối ngoài ba mươi, mình mặc áo Tây bố Shanghai sáu nút, vận quần nhiểu trắng, chắn đi giày escarpin da láng đen, thứ giày nầy người Pháp chỉ dùng đi Ban (bai) yến tiệc hay đại lễ, và nếu ngày nay thì tôi biết người nầy ăn vận nữa xạc làm vầy, nếu không phải dọn bàn hay nấu bếp cho quan thì ắt lính mật thám hay lính kiểm tục, nôm na là lính bắt con gái, thì tôi nào dám động tới, đàng nầy nhơn ướt nhơn ráo vừa lên Sài Gòn còn quê trân mà bụng lại muốn làm tàng, tôi liếc thấy người ấy đi theo sau lưng tôi mỗi lúc mỗi gần, trong bụng tôi tưởng có khi cậu nầy lầm tôi là tình nhân của va cho nên mới dong ruổi theo tôi như sam làm vầy, khi ấy tôi mới giả đò ngó ngoái lại cho cậu ta nhìn mặt và biết mình lầm, kẻo thất công theo mãi, có ngờ đâu tôi vừa đay lại, thì người ấy cũng vừa đi chờm tới lại cả gan nắm cánh tay tôi, làm cho tôi hồn bất phụ thể, tôi hoảng kinh buông rổ, đồ ăn đổ hết, nào sò nào rau văng tứ tung đầy đất. Cậu ta thấy vậy, không tỏ dấu gì ăn năn, chịu lỗi, lại nhả nhớn và trây trưa cười lớn lên mà rằng: "Cô bỏ đi, bao nhiêu tôi thưởng cho". Vừa nói vừa lắm tay biểu tôi lên xe kéo cùng đi với va. Tôi thấy người gì mà mất dạy quá, vừa lỗ mãng võ phu vừa ngang tàng thiếu lễ độ với đàn bà, tôi nhịn không được và quên rằng mình đang hồi vận thời đen tối, sẵn vừa lượm cái rổ, tôi bèn vụt đại lên đầu chú chàng, làm cho cái nón Fléchet mới tinh hảo văng xuống lề đường lấm lem. Thiên hạ lối đó cười rộ, trẻ nít bu lại càng đông. Con người khiếm nhã ấy, chăng lành mà chớ, lật đật lượm nón, nhảy lên xe kéo, xe vừa cất bước, va day đầu lại ngó mặt tôi nói cho đỡ mất cỡ: "Để rồi sẽ biết! Tao biết ổ mầy rồi!" Tôi về nhà, ăn không biết mùi vị chi cả, suy tới xét lui, có lẽ người nầy biết mình cô thế nên mới hành động như vậy, lại càng quyết tâm tìm một người nào biết thương tưởng đến phần lạc loài của tôi mà ra tay đùm bọc chớ che, thì tôi ưng liền, dầu cực nhọc thế mấy cũng chẳng phiền, miễn sao tránh khỏi gặp chuyện trở trêu tức tưới như ngày hôm nay làm vầy. Đây là một ngày xui xẻo, nghĩ tới đó rồi ngủ một giấc thẳng ống, không dè chuyện chẳng phải đến đó rồi thôi. Ngày lụn tháng qua, đến bữa chủ phố lại thâu tiền, tôi xin hẹn hôm sau. Ngồi than dài thở vắn, đây phải đem một chiếc vàng cho vô tiệm cầm đồ mới có tiền trả cho người ta. Đương buồn nghiến, bỗng cố một đứa nhỏ bước vào tay cầm một phong thơ và hỏi tôi trước có phải vợ thầy Sáu không, tôi gật đầu, nó liền trao thơ cho tôi rồi bước ra cửa thoát chạy mất. Lạ quá, tôi cầm cái thơ mà ngẫm nghĩ không ra, làm sao người nầy biết tôi ở đây và rõ cặn kẽ việc nhà tôi làm vầy? Trong thơ thì lời nói thân mật lắm, xưng rằng trước có thọ ơn của tôi, ngặt vì nghèo nên không báo đáp được nay có chồng sang và giàu, duy ghen lắm không đi đâu được, nên yêu cầu tôi nội tôi nay, lối mười một giờ chịu khó lại ngồi nơi băng cây gần nhà hát Tây đường Catinat, phía bên hông nhà hàng Continental, hễ vãng nơi rạp chớp bóng Eden thì người nầy đi với chồng sẽ đón tôi về nhà, sẽ cùng biết nhau thêm và cho y được thoả tình hoài vọng. Dưới thơ, ký tên ngoằn ngoèo: Cô Năm ký. Đọc thơ rồi, trọn buổi tối tôi ngồi suy nghĩ, đầu óc không biết Cô Năm nào kỳ lạ làm vậy, bí mật quá, và có lòng tốt với tôi như vậy? Xưa nay tôi có quen nhiều, hay là vì lâu ngày tôi quên cô nầy chăng? Trông cho mau tới giờ hẹn đặng coi thử là ai cho hắn. Đồng hồ vừa gõ mười giờ, tôi lật đật khoá cửa, đi bộ từ nhà lại tìm băng xanh bên hông nhà hát Tây mà ngồi đợi. Thấy xe hơi xe song mã còn đậu đông đầy trước nhà hát, đèn đuốc ngoài đường sáng trưng, thì tôi biết chắc hát chưa vãn. Ngồi đợi hơi lâu lâu, vì mình nóng biết nên đi sớm quá, gió hiu hiu thổi, nó bắt buồn ngủ quá chừng. Tôi mơ màng hồi tưởng thân phận hôm nay sao mà linh chinh quá và hối tiếc cảnh an nhàn lúc ở nhà tía má và lúc hạnh phúc không bao lâu. Tới thầy Sáu mà cho đến nay tôi vẫn chưa quên. Rồi xét qua mấy lời trong thơ, lại có ý mừng thầm: Có lẽ trời đạt đoái thương đến chút phận nổi trôi dày dạn, nay xui khiến quái nhân nào đây muốn độ mình khỏi bước lạc loài? Lại nhớ lời thầy số Vi Kỉnh Trang năm trước rằng mình số có kẻ hầu người hạ, không nghèo khổ như vầy mãi đâu mảng suy nghĩ dông dài bỗng giựt mình như từ trên mây rớt xuống và rùng mình rởn ốc, vì có một người đàn ông lạ mặt ngồi sát bên tôi, lại lấy tay choàng qua cổ tôi. Tôi đứng phắt dậy, muốn mắng người nầy một trận cho bỏ thói sỗ sàng, song tôi ngó thấy tư bề vắng hoe, sự mình xỉ mạ, gặp đứa không biết điều, nó hành hung lại thì mình mang khổ, vì nghĩ vầy nên tôi bèn dằn lòng bỏ đi một nước và không thốt một lời. Ông ta vẫn theo kế bên tôi òn ỉ nào ông tơ xui khiến, nào tri âm tri kỷ gì đủ thứ... Tôi vội bước hăng nhắm hẻm Trưởng tiền lầm lủi phăng phăng mà trống ngực đổi ra trống chiến, tim nhảy thình thịch gần lọt ra ngoài. Lúc nầy trời đã khuya, đường phố vắng teo, không có một cái xe lên xuống. Thời may nơi đàng trước thấy một chị đàn bà sồn sồn đàng kia đi tới và khi đi ngang tôi thì dừng lại hỏi tôi có phải ở hẻm Trường tiền? Tôi gật đầu đáp phải, còn cái anh Bùi Kiệm nãy giờ thì đã cút từ hồi nào mất dạng. Đêm khuya thân gái dặm trưởng, tôi gặp chị nầy như thằng chết trôi vở được bặp chuối thúi, tôi mừng quá, mạnh dạn thêm lên và quên hết chuyện nãy giờ, tôi vội hỏi lẹ "Sao chị biết tôi?", thì người ấy nói tỉnh bơ: "Dạ, cô Năm nhờ tôi đón mời cô tới trước kia, không xa, để cùng nhau nói chuyện". Vừa nói vừa nắm tay tôi hối đi cho mau. Tôi lúc ấy như xác không hồn, hay là có cái gì ám ảnh, không kịp suy nghĩ, tôi vội bước theo bén gót người nầy. Quí vị đọc lần tới sẽ biết đây là ma dắt lối hay quỉ đem đường, chớ thuở nay tôi không ngu dại gì đến nghe lời một người lạ mặt như vầy, hai là làm ác gặp ác, ông trời cảnh cáo tôi đây. Người đàn bà nầy dắt tôi đi vòng vo Tam quốc gần hai mươi phút đồng hồ mới dừng lại lối đầu đường Bồ-rệt (Boresse) là đường xóm điếm, có mấy nhà số công khai mà nào tôi có biết. Người ấy bỗng nói: - Lạ dữ chưa? Cô Năm dặn đến chốn nầy mà nay cổ biến đâu mất? Tôi thấy chuyện trớ trêu như vậy cũng đố quạu, quảy quả trở về nhà, không cần hỏi và biết đến con mẹ nầy nữa. Nhưng trời đất ôi! Đất bằng song dậy! Tôi bước chưa được hai mươi bước, thì trong bóng tối có một ông Tây cao lớn và một người An-nam mặc đồ lính kaki, gọi mụ đó và tôi dừng bước lại. Hai người nầy hỏi giấy tờ chi không biết mà mụ ấy móc túi đưa ra trình, xong xả rồi te te đi mất. Đến phiên tôi đang đứng sửng sốt không hiểu chuyện chi, tôi vừa bước đi, kế hai người nầy biểu tôi đi theo về bót. Tía má ôi? Nghe hai chữ "về bót" mà hồn vía lên mây, chừng ấy tôi mới hiểu đây là ai vu oan giá hoạ cho mình! Tôi khóc lớn và năn nỉ xin tha, quả quyết mình vô tội. Ông Tây xem tuồng giận dữ, giơ tay giơ chân, trăm bốp bốp tiếng tây bốp bốp, tôi không hiểu ất giáp là gì nhưng người mặc đồ kaki thông ngôn lại tôi mới ro: "Mầy làm ở lậu, đã bị xên (signaler) ba lần rồi. Mấy có nhà riêng, rước mối lậu, lại không có giấy tờ cho phép thì bị bắt như vầy, tại trận như vầy, là đành rồi, còn oan ức nỗi gì mà la và khóc". Tôi nghe bao nhiêu ấy mà nghẹn ngào, bây giờ hiểu lại cũng vì rổ sò đánh lên đầu tên nọ mà ra cớ đỗi. Nó là lính kiểm tục, chọc mình không được bèn lập kế gài bầy, toa rập một phe với nhau mà buộc tội mình hành nghề mãi dâm vi pháp, lại dựng chứng cớ mình đã bà phen rước khách, thêm tội đi khuya cùng một con điếm có giấy, tang tích ràng ràng, dẫu ông Bao Công tái sanh cũng không cứu gỡ được. Lối 1925, cò bót làm việc tắc trách như vậy đó, gái quê lở quơ đều ở trong tay bọn lính vô lương tâm, muốn khỏi bị quở trách bèn khuấy bột nên hồ, bày điều bịa chuyện, chuyện không có nói có chuyện có nói không, thông dịch nói bừa mà cò cẩm vẫn tin bằng lời, vì chúng cũng là quân hung tợn mới chọn nghề nầy, chuyên đánh đập cho nạn nhơn khai bửa rồi làm vi bằng dối trá mà qua mặt kẻ bề trên, nay mình đã lọt vào vòng, thì dẫu có ba đầu sáu tay, cũng không thoát khỏi. Tới bót, họ tống tôi vô phòng giam sau khi hỏi danh tánh qua loa lấy lệ sáng ngày sẽ hay. Phòng giam lúc ấy vắng hoe, chỉ có tôi là tân chủ với một chiếc chiếu dơ và rách trải trên nền gạch chưa từng lau rửa lần nào. Trọn một đêm đó, tôi mới biết đêm là dài, khi một mình với một lương tâm, nhớ lại tuy mình không làm ác nhưng đã giúp người khác làm điều không thiện, trong tay mụ chủ sự, mình bị bán đứng cho Má Tư Hớn, gạt mới anh Hạch Ả-rập cướp ngon vòng vàng chuỗi hột, ăn trên đầu thầy Cai hai hột xoàn, lấy thầy Sáu chưa nát một chiếc chiếu, v.v... nay sa vào cảnh ngộ éo le này, nhục nhã thật - một địa ngục giữa trần gian không khác, nhưng cũng may, trời sanh ra tôi phú cho một can đảm phi thường, đêm ấy tôi khóc hết nước mắt mà bao nhiêu nỗi buồn cũng theo nước mắt trôi đi đâu mất. Tôi suy nghĩ nếu nay tôi cắn lưỡi chết lại càng thêm nhục, khi bằng đạp gai bất công nầy thì mới phải là người. Trông mau sáng để mình bày tỏ trần tình, may nhớ lượng trên minh xét tha về bằng không đi nữa, nói ví dầu có xảy ra chuyện gì oan ức cách mấy cũng rán chịu, và làm cho lại gan mới nghe, chớ chết lúc này là dại dột. Trời sáng trắng, mặt trời đã chói vào lỗ cửa có song trên cao, lính mới vào phòng giam đưa tôi ra. Cha chả là xấu hổ! Xấu hổ biết chừng nào và biết rửa mấy sông mới sạch? Tuy không phải nhành vàng lá ngọc, nhưng dầu sao cũng con nhà lương thiện, đến nước nầy nhớ đến nhà ở Rạch Gầm, đến tía má tôi mà ê chề ngổn ngang trăm mối. Những người có mặt nơi bót ra, vô cửa nầy, thấy tôi đều xầm xì, tôi không nghe được nhưng đoán cũng biết họ nói gì về mình, nhục ôi là nhục! Lính dẫn tôi đến ông cò chánh, sau nầy rõ lại, ông tên chi không biết duy biết bọn du đãng lọt vào đây, khi bị hành hạ đau quá, gọi ông là Tử Hải, thì ông nới tay cho liền, Từ Hải là gì, đố ông ấy biết, duy khi nghe thây thông ngôn cắt nghĩa Từ Hải là bậc anh hùng, tế khốn phò nguy, hay làm việc nghĩa hiệp, thì cò ta khoái mà nhận mình là Từ Hải tái sanh và nới tay với du côn du đảng cũng nhờ danh Từ Hải. Tôi ngó ngay mặt ông tỏ sự oan khúc, nhưng mặt ông lạnh như đồng tiền Vạn Lịch. Thầy thông ngôn, một phán già hút á phiện, nói gì với ông nho nhỏ, ông nạt tôi: - Đừng có già hàm nói láo! Theo rap-bo (tờ phúc trình) mấy mướn phố riêng, không làm nghề gì cả, ở một mình... Lính xên đã bắt gặp đàn ông ra vô nhà mầy ba lần, đêm rồi mầy cặp kè với gái có giấy, nếu mầy là con nhà tử tế sao lại đi khuya? Tôi tức nghẹn, té ra Tử Hải nầy chỉ biết đọc theo giấy tờ bọn bộ hạ rồi chúng muốn gì, làm theo nấy như cái máy không khác, vì chúng đã xỏ mũi cho ăn ngập mặt rồi. Lính kéo tay tôi ra, dạy bắt cặp với mấy cô bị bắt cũ, đặng đi "lục-xì" (khám bịnh). Lục-xì, nghe chữa "lục xì" tuy chưa biết là gì, nhưng mình mẩy mọc ốc, nổi da gà, ước đất nẻ ra hai cho mình trốn cho đỡ xấu. Đương lúc khốn đốn như vậy, bỗng thấy bên lề có tiếng cười lớn, coi lại, đó là thằng ăn rổ sò hôm trước, nó hư cái nón Fiéchet mới, mình hự cả một đời mình. Thiệt là ghê gớm cho cái mưu sâu chước quỉ của thằng nầy, xã hội có bao nhiêu thằng như nó, thì càng mau sụp đổ bấy nhiêu. Đất Sài Gòn có bao nhiêu bót, trọn Đông dương có bao nhiêu gái hàm oan như mình? Khổ hải, bất công, oan tình, lầm than, cũng vì bày ra có thám tử, lính rờ-sẹt (agent de recherche), lính bắt con gái, lính kiểm tục (agent de moeurs) và bao nhiêu cò chánh ưa xưng mình là Từ Hải! Từ Hải ngày xưa hiên ngang một cõi biên thuỳ, có đâu làm việc chiếu lệ, không kiểm tra. Tôi bắt cặp với một ả ăn sương chưa đầy hai mươi tuổi nhưng trơ trẽn lì lợm không ai bằng. Chị ta thản nhiên vì bị như vầy đã nhiều lần nên quen. Chị dạy tôi trước lát nữa phải làm sao và làm sao, nghe mà mất cỡ lên tận chưn tóc và mỏ ác. Chị ra mặt thành thạo, cho biết trước đây khám bịnh là một bác sĩ Pháp, nhưng từ ngày hết trận đệ nhứt chiến tranh bên Pháp, có một ông An-nam con nhà thế tộc sang Pháp học nghề y, nhờ đánh giặc có công, được vô Pháp tịch, cho đậu bác sĩ, và bổ về đây, nhưng tuy lên đến thiếu tá bác sĩ bốn lon, tên là ông L.Q.T., nhưng nghề còn non nớt. Thầy thuốc gì mà giác hơi làm phỏng cháy lưng bịnh nhơn không biết đã mấy lần, chỉ giỏi tài thức khuya đánh phè và đào mỏ, vợ là Cô Bảy Trà Ôn, con nhà giàu gộc xứ ấy, về đây Sở Y tế giao trọng trách đều làm hư, nên nay bổ qua Sở khám bịnh gái điếm. Đến phiên tôi, bác sĩ cho tôi nếm mỏ vịt, chàng hãng dang bẹt ra, nhưng ông nói tôi không có bịnh. Tôi ngỡ như vậy là vô tội, được phép ra về. Nào ngờ tôi còn trăm nỗi đắng cay nhuốc hổ. Chị Kiều ngày xưa có sông Tiền Đường, ấy tôi ngày nay có Tiền giang, sông Tiền, quả là số kiếp, không hẹn mà nên Nhà thương Chợ Mới Bến Thành vừa mở hoạt cửa, cho phép thân nhơn vào thăm kẻ có bịnh, tôi thấy một tốp đàn bà phấn son lòe loẹt bưng xách đồ ăn vô, người nào người nấy chen lấn nói chuyện ồn ào, mắt kiếm người quen để gặp. Tôi nào có ai đoái tưởng lúc nầy? Bỗng có một cô xem bộ người cũng phải thế đến, bước lại ngồi gần bên tôi, ôn tồn hỏi thăm duyên cớ vì sao phải chuyện rủi làm vậy? Tôi bèn thuật hết tự sự, thổ lộ hết tâm tình. Cô ấy vừa nghe vua chắt lưỡi, kêu trời, nguyền rủa quân độc ác, quân khốn nạn, nhẫn tâm hại người hiền lương tâm tốt. Đoạn cô lấy khăn sạch nhúng nước lau mặt cho tôi, lấy cái lạp xường cho tôi ăn lót dạ, ép tôi ăn hết một ổ bánh ngon và rót trà nóng cho tôi uống, đối xử thật là trọng hậu. Trong cơn hoạn nạn, gặp người như vầy, cũng an ủi phần nào. Lúc ấy tôi thấy bọn bị bắt như tôi lần lượt ra về, thì tôi đứng dậy cám ơn cô đã đãi đằng tôi nãy giờ, và tôi tỏ ý muốn về ngay nhà mình kẻo bỏ hoang đã mấy bữa nay không biết ra sao. Nhưng cô ấy nghe vậy chúm chím ngó tôi cười mà rằng: "Bộ em chưa biết sao? Hễ lọt vào vòng khốn nạn nầy rồi, muốn về trơn sao đặng". Nghe vậy tôi cũng chưa hiểu chi cho lắm, khi ấy cô mới cắt nghĩa, phải có người bảo lãnh nhận làm vợ thì cho về, lấy giấy riêng, bằng không ai bảo lãnh, thì chỉ còn nước lãnh giấy ở nhà số, tùng quyền tàu kê, má nuôi, má cho ăn mặc, nhưng mình phải trải thân rước khách, nếu đắt hàng, má trọng đãi, cho ăn tiền đầu, và đối xử tử tế, bằng hết thời lâm bịnh hay vắng khách thì xuống hàng làm đày tớ, "sớm khuya quét tước con hầu, phận làm đày tớ con hầu dám sai" (nhại K.). Nghe vậy tôi nhào lăn khóc than chẳng ngớt. Cô ấy lấy khăn lau nước mắt cho tôi và dỗ dành tôi đủ mọi lẽ. Rằng chớ nên buồn rầu mà sanh bịnh, vì may phước lắm tôi mới gặp cô đây là người từng chung cảnh ngộ và biết phải chăng lắm. Cô hay thương người hoạn nạn như tôi, nếu chịu về với cô, cô sẽ trọng đãi lừa dịp kiếm thế xé giấy sớm cho tôi nhờ. Song việc xé giấy ấy cũng phải đợi một ít lâu cho hết hạn, chớ không lý lãnh giấy nay rồi mai xé giấy thì đâu còn là trả nợ với luật lệ xưa nay. Vả chăng đức Phật còn mang tám nạn, người đời sao khỏi ba tai, ấy mà? Nay thời vận bất tề, biết đâu ngày mai lại sáng? Phải cắn răng mà chịu chớ! Can đảm lên em? Đừng ngã lòng. Phải sắt đá chanh chua thêm lên, mới làm lại với bọn đã hại em, bọn đàn ông chó má cỡ thằng lính kiểm tục. Thiệt cô này có tài, nhè gãi ngay chỗ ngứa của mình, cô đờn bản gì nghe hay quá, trúng phong phóc vào những gì mình suy nghĩ đêm hôm, và giọng kèn tiếng quyển của cô làm cho tôi nguôi ngoai đôi phần, chí quyết ẩn nhẫn để sau nầy trả thù càng mạnh lên. Chừng tôi vui lòng chịu làm thủ tục và bước lên xe tay cùng cô nọ về nhà của cổ. Nói cho phải, cổ cũng chịu khó với tôi đủ điều. Mấy ngày đầu, tôi bỏ cơm bỏ cháo, năm khóc mãi, khóc thét đến sưng vù hai mắt, nhưng tôi có cái tật đã nói, hễ khóc được thì nỗi buồn cũng theo nước mắt trôi đi mau lắm. Cổ dụ ngon tôi, ép tôi ăn món nầy món nọ gánh nào gánh ngang cổ cũng mới tôi không sót, lại khéo đưa tiền biểu tôi đánh bài cho giải khuây. Như vậy mới biết trong nghề nầy, ngón dụ dỗ thì họ là số một. Họ làm sao không rõ, mà nay một chút, mai một chút, cái gọi là "thành sầu" chỉ sáu bảy ngày mà đã tiêu tan mất tích! Và sáu bảy ngày gì đó, tôi đã hết nói đến chuyện huỷ mình liều mạng. Nhưng vậy, con người chớ phải chó trâu gì mà không biết rầu buồn. Thỉnh thoảng, đôi ba bữa tôi khóc cho một trận, và làm cho cổ thất công dỗ mãi. 13. Lấy chồng là thằng điếm, nó dạy cách lột da thằng Chệc Cũng chưa tởn. Người ta nói chơi dao có ngày đứt tay. Tôi tay đứt đã một lần, ngủ bót, lục-xì đã trải, nay lại làm nghề xấu hổ nầy đã đặng năm tháng. Bữa kia có cậu nọ ăn mặc cũng bảnh tỏn, đến đôi ba lần xử sự khá ngọt, mau được lòng tin cô chủ và xin phép cô chủ, dắt tôi vô trong Chợ lớn, coi hát Quảng Đông, tuy không hiểu tiếng nhưng họ múa men bộ tịch xem không khác hát bội nhà ta. Hát vãn đi ăn chào Tiều, đến sáng mới đưa tôi về nhà cô chủ. Chuyến về, dọc đường hắn hỏi tôi giọng anh chị: "Mấy muốn tao xé giấy cho nầy không?". Phải nói lúc nầy tôi đã cùng đường hay đang chới với như kẻ không biết lội ở dưới nước, lòng ngày ngày chỉ muốn mau mau thoát khỏi chốn nhơ nhuốc sa lầy nầy, dẫu ai đui điếc ngọng líu tôi cũng không chê và chẳng từ, khiến nên tôi vừa nghe hỏi, đã liền ưng chịu. Hắn giao kết hễ về với hắn rồi, thì nhứt nhứt phải nghe theo lời hết. Tôi hứa chắc mọi lẽ, nên hắn vội lo làm thủ tục xé giấy. Xong rồi, tôi từ giã cô chủ, ngỏ lời cám ơn mấy tháng đùm bọc, và theo hắn vô Chợ lớn. Hắn mướn một căn phố có lầu, ở gần cột đèn Năm ngọn, chỗ thị tứ khá. Không biết tiền lưng hắn có bao nhiêu, nhưng hắn mua và dọn có đủ ghế bàn - tượng cẩn ốc xà cử gọi "tể tướng ỷ", tủ kiếng hột vịt (tủ áo có gương soi lớn hình bầu dục), giường Hồng kông bằng thau vàng lườm, bàn mặt đá vân thạch trắng vân khói đèn vằn vện như chấm san thuỷ kiểu siêu hình, nhứt là có một tủ sắt hiệu Fichet rất to, không biết đựng gì ở trong. Xong rồi, nó biểu tôi ở đó lên mặt làm bà chủ, và cứ kêu nó là thằng Tư, tức như thằng ở, và, đừng xem nó là chồng. Trời ôi! Hết trong tay con mẹ chủ sự, về Má Tư Hớn lấy Hạch kế, lọt vòng tay thầy cai tổng, vừa ấm thân với anh Sáu kế chia tay, rớt vào nhà số làm ở có giấy, rồi được xé giấy gởi thân cho hắn mà hắn giao kết không cho gọi là chồng, ông cao xanh ôi, lòng ông ác vừa vừa, thân đàn bà yếu đuối ông vày vò thử thách quá chịu sao kham. Trong bụng vẫn lấy làm lạ, nhưng đã giao kết rồi, hắn biểu thì mình phải nghe theo, cãi sao nên. Hắn có hứa xong việc nầy thì hắn sẽ cho tôi một số tiền làm vốn rồi hai đứa chia tay, đường ai nấy đi, chớ hắn không buộc ràng đeo đuổi nữa: tự do mà! Song phải tận tâm giúp nó cho thành công, bằng không vậy chớ trách nó ra tay độc ác. Cho hay như con chim bị đạn, tôi bị hoạn nạn đủ thứ, nên dễ hoảng hồn, nghe hắn hâm doạ đã chết điếng trong thâm tâm, song nghe nó hứa phóng sanh bụng lại thấy nhen chút hi vọng thoát lồng sổ cũi. Nhứt là khi nhìn mặt hắn thấy sát khí đằng đằng, trừ phi biểu cầm dao giết người ắt tôi không dám chớ hắn biểu gì dễ dễ tôi đều chịu hết. Đó rồi hắn đi mướn đồ, nào vòng vàng chuỗi hột đủ bộ vận, căn dặn tôi phải bắc kế cho thiệt sang trọng, rồi lối năm giờ chiều, mướn xe song mã, ngồi lên cho chạy vào chợ Bình Tây và cho xe chạy dài dọc theo mé sông, chỗ có ghe chài lúa đậu đông nghẹt ấy đảo một vòng như vậy rồi về, chỉ làm có bấy nhiêu việc là xong, kỳ dư về phần hắn lo liệu và tôi không cần hỏi cùng tìm hiểu làm chi, vô ích. Lúc xe đi ngang đám ghe đậu đông ken, tôi liếc mắt thì thấy quả hắn đang ngồi ngoài mũi nói chuyện chi với một thằng Tiều châu ở trần trụi trụi. Thấy xe tôi chạy ngang qua thì thấy nó lấy tay chỉ chỏ và nói cái gì với chú chác nọ mà vì cách xa quá tôi không nghe được tiếng nào. Đến tối hắn về, nói với tôi rằng: - Công việc êm ái cả. Tao nhử thằng Tiều châu đó, nó thấy mầy, nó mê như chết. Cá đã ăn câu, chỉ còn một chút xíu nữa là trúng mối to. Rán nghe! Tao nói với thằng chệc ấy rằng mầy là vợ ông chúa tàu Vạn Phước Nguyên, giàu nhứt nhì ở Chợ lớn, chỉ thua Chú Hoả Hứa Bổn Hoà ở Sài Gòn mà thôi. Nay ổng đã về bên Tàu, để hết của cải gia tài trên bá vạn cho mầy làm chủ. Thằng Tiều nầy quê ở Bạc Liêu, mua bán lúa vừa phát mấy năm nay và giàu lắm. Nó là thằng hảo ngọt, lại tham của nữa. Nội cái nhan sắc của mầy cũng đủ cho nó chết cha, huống chi nó nghe mầy giầu có nữa thì nó tán gia bại sản như chơi. Vậy ngày mai nầy tao dắt nó lại đây. Tao nói mầy coi tao như em út trong nhà, và như vậy mầy phải làm cho ra mặt. Tao giả bộ xin mầy hai mươi lăm đồng bạc, mầy cho, mà phải la lối một hồi, phải có giọng mụ chị cho hay. Còn đối với nó, thì mầy hỏi lơ là vậy thôi, rồi sai tao đi lấy nước lấy thuốc đãi nó, chớ mầy đừng có nhẹ thể rót nước dâng thuốc chi đa? Mấy cứ ngồi yên trên bộ ván nầy mà sai cắt, cứ bỏ nó ngồi dưới ghế nầy với tao. Mấy phải làm điệu cho hung mới đặng. Sắp đặt xong xuôi, sáng ra nó đi mất. Lối chín giờ ngoài, nó dắt thằng Tiều châu lại. Cái thằng cha gì, coi bộ khốn khó quá vậy mà nói nó có nhiều bạc nỗi gì! Bận áo quần xung xình như đồ chín, may bằng lụa nhúng dầu bên Tàu đem qua, mưa không thấm ướt và khỏi giặt vì nước có thấm đâu mà giặt. Đi đôi giày Tàu cũ mèm, đạp gót cho thành giày hàm ếch, kéo sát đất nghe xẹp xẹp. Đặc biệt nhứt là miệng xỉa một cục thuốc Gò to bằng ngón chơn cái, làm cho môi phồng lên như cục bướu. Hai người vô tới nhà, tôi vừa hất hàm như chào, miệng hỏi to: "Ủa! Tư! Chớ mấy hôm nay đi đâu mất, không thấy mặt mày? Nay mới trôi về đây hả?". Thằng tình trời đánh làm bộ xá tôi và nói: "Thưa chị, hổm rày em thua quá, nên đi bậy bạ kiếm chác tính gỡ, mà nó vẫn còn xui hoài?". Tôi vụt mắng nó" "Đồ hết! Chồng ngồng cái đầu mà không nên thân. Biểu mầy tu tỉnh đặng tao giúp vốn, cưới vợ lo làm ăn, mà mầy không biết lo gì hết! Ủa? Còn người nào đi với mầy đó?". Khi ấy hắn lễ phép thưa: "Dạ thưa chị, đây là ông Bang ở Bạc Liêu mới lên. Ông thấy em ổng thương, muốn đem em về dưới làm tài phú coi sổ sách giùm cho ổng.". Tôi làm bộ tin và gởi gấm vài lời, nhưng tôi chỉ nói lơ là, tuồng như chú chàng không đáng mặt cho tôi nói chuyện. Kể từ hôm ấy, mỗi ngày tôi đều thấy chú Tiều nầy đảo qua đảo lại trước nhà mà không dám bước vô. Khi nào tôi đang đứng trước cửa mà thấy lão đi ngang thì tôi cũng chào sơ một tiếng rồi bước vô nhà, chớ không mời thỉnh chi ráo, như vậy đặng một tuần. Bữa kia thằng trời đánh nó nói với tôi: - Thằng chệc nó mê mầy như chết? Nó muốn cưới mầy hai ngàn đồng bạc mà tao nói với nó: "Tánh chị tôi không cần tiền, vì của cải của chỉ có đến chín mười muôn, xài không hết. Chỉ từng nói: Từng tuổi nầy không lẽ không đôi bạn, ở đặng cho đến già. Phần sự nghiệp chỉ to mà không có đàn ông thì sao được? Song chỉ muốn lựa người nào biết làm ăn, nhứt là tin cậy được, thì chỉ giao hết sự nghiệp cho mà coi sóc, chẳng luận giàu nghèo, hay xấu tốt chi cũng không cần. Hổm rày chỉ có ý khen chú là người thiệt thà. Thôi để tôi liều mạng ướm thử coi đặng cùng chăng. Nếu chỉ không nghe, bất quá chỉ mắng ít tiếng rồi thôi, chớ chết chóc gì? Vậy để vài ngày nữa, tao sẽ nói với va rằng: "Tao nói rồi, chỉ chịu không chịu, mà không cũng không không. Chỉ cứ nói để thủng thẳng, dò xem tình ý cho chắc đã. Nên chỉ mời chú mai lên nhà dùng một bữa cơm thường. Trong lúc ăn, mầy phải giữ bộ tịch cho nghiêm trang; cơm rồi mầy sẽ mời nó từ rày lên xuống chơi cho nó dạn lần. Nhớ đừng mơn trớn và cũng đừng lả lơi. Tụi Ba Tàu ưa nghiêm chớ không ưa trây trưa. Quả ba ngày sau, hắn dắt chú nọ lên nhà dùng bữa. Trong nhà lúc nầy rần rộ hai ba đứa ở, coi thật là nhà có của muôn. Và từ ấy "hia" (tức anh theo giọng Triều châu) tối lên xuống thường hơn trước. Mấy lần như vậy, hia đều gặp khi thì chúng tới trả tiền lời, khi thì lại khẩn cầu thay giấy nợ hoặc xin cho hẹn qua vài tháng sẽ trả tất, mỗi mỗi đều là kế của thằng trời đánh, và hắn khéo làm tuồng, lựa toàn những kép thiện nghệ, người nào người nấy đến nhà gặp tôi đều còm róm làm bộ sợ sệt như thiệt, còn tôi thì mặc sức lên giọng, rầy rà, giận giũi, mắng nhiếc người ta ra mặt, cho thằng chệc thấy rõ ràng là nhà hào hộ, có tiền cho vay đặt nợ huyên thiên, một đôi khi hia gặp tại trận người nầy đến cầm bán hột xoàn, người khác đến cầm cố, treo ruộng treo đất, hoặc hỏi tôi xin mướn phố lầu, thiệt là mưu của thằng trời đánh sâu quá, hia tôi mắt thấy tai nghe rõ ràng: tôi quả là tay cự phú, son vá, một ngày tới tối, tôi mở tủ sắt ra; đóng tủ sắt lại tở mở, mà chớ chi lúc ấy hia dòm đặng trong tủ thì mới biết là tủ không với mở giấy vô dụng chớ có đồng xu nào ở trỏng. Chú chệc lên xuống cũng gần trót tháng, thì khi một chút, khi một ít, lần lần coi chú đã gần cụp với tôi. Tuy vậy mặc dầu, nhớ tôi khéo giữ lèo lái nên chệc ta chưa rờ tới mình tôi đặng. Một bữa nọ, Tư nhà ta đi mướn một miếng đất hoang, rồi mua đâu cũng độ vài trăm bạc cát để trộn hồ và một đống xà bần gạch vụn, thứ để xây nền nhà, nó lại chớ từ đâu đem lại một mở tre hè, y như sắp sửa soạn cột giá cái hay giàn trò đặng xây dựng phố lầu gì đây xong xui nó biểu tôi dắt anh Tiều lại xem. Nó khoe có mặt tôi đứng đó, với anh Tiều rằng: - Tôi mới mua miếng đất nầy, mua rồi định cất tạo phạo vài căn phố trệt để cho mướn cầm chừng vậy thôi, chớ lóng nầy bị tôi mới mót máy cho thầy ban biện dưới Bãi Xàu (Sốc trăng) vay chín ngàn, khiến nên không dư tiền mà cất phố cho tốt. Có ngờ đâu khi đến xin phép ở Xã Tây, họ nói chỗ nầy thị tứ lắm, chánh phủ chỉ cho phép cất phố lầu mà thôi, và mấy dãy phố cũ đều phải cơi lầu lên hết. Và hiện nay tôi đang hụt tiền, vậy chú có lòng tốt, hãy thừa dịp nầy cho tôi mượn đỡ một muôn, rồi bốn tháng nữa, đến kỳ lúa chín mấy chỗ khác trả cho tôi thì tôi sẽ hoàn lại cho chú, được không? Nguyên thằng trời đánh nầy, lúc ở nhà, nó có nói nhỏ với anh Tiều rằng tôi đương dò ý tứ ảnh, đọ xem có của cải gì không, lại nữa muốn biết coi ảnh có thiệt tình thương tôi hay không. Nên hay hỏi đột ngột làm vầy đây, trong bụng anh Ba Tàu định cho tôi làm bộ túng bấn mà dọ lòng và bề thế ảnh, chớ tôi mà thiếu gì tiền. Vả lại, dầu cho tôi thiệt túng đi nữa, thì sự nghiệp tôi như vậy, có mất mát đi đâu mà phòng sợ? Còn thêm một nỗi hiện ảnh đương mê cái nhan sắc của tôi gần muốn chết, thì sao mà chẳng ừ cho đặng. Bởi vậy hia Tiều gật đầu chịu liền, và hứa để về dưới lấy tiền lên. Năm bữa sau, quả nhiêu Tiều ta đem lại một muôn chẵn, toàn là giấy xăng (một trăm đồng: cent piastres). Va đưa tiền, tôi đòi làm giấy, nhưng anh Tiều lên mặt cao thượng, ngó tôi mà rằng: - Thôi! Cần gì! 14. Chia tay chạy trốn Thộp ngon lành đặng một muôn đồng bạc của anh Tiều châu hảo ngọt, thằng Tư ấy mới cầm một ngàn rưỡi cho tôi mà rằng: - Thôi hai đứa mình ô-rơ-hoa (au revoir!). Tao phóng xả cho mầy đó hãy tìm chồng khác lo làm ăn. Nay để tao cút trước, còn mày cũng phải thu xếp mà cao chạy xa bay cho lẹ lẹ, đừng để đổ bể việc nầy mà chết chùm cả đám. Tuy không giấy không tờ, nhưng tao thì có tiền án, mầy vừa xé giấy không lâu, hễ thằng chệc nó thưa thì lính tới nắm đầu lập tức. Như vậy kế đã thành, ta phải làm theo hát bội, hát bài tẩu mã, và dĩ đào vi thượng! Nói rồi nó cuốn gói đi biệt. Cho đến nay tôi không biết tên họ nó là gì, luôn danh tánh cô Sáu chủ cũ của tôi cũng vậy. Trọn ngày đó, tôi sợ hết hồn, ngồi tính nát óc, muốn chờ hia nọ về mà lạy dài, tỏ thiệt đầu đuôi, năn nỉ xin trả một ngàn rưỡi bạc đó cho hia, rồi tình nguyện về làm mọi cho hia mãn đời là trừ nợ. Tính vậy rồi lại sợ: không phải sợ anh Tiều nầy không dung, rồi bỏ tù bỏ rạc gì. Nói chí đáng: gian hùng tới nước, cho ở tù cũng không oan. Song sợ nhứt là bể chuyện ra, nếu tôi khai thiệt, thì thằng Tư sao khỏi bị bắt. Ý cái thằng trời đánh, coi vậy mà oai ghê. Không biết nó phù phép gì, mà trong tháng tôi ở với nó, nói tình tội tôi sợ nó như sợ cha, nó biểu chi tôi nghe nấy. Nay nếu tôi khai thiệt, quan bắt nó đặng, thì chẳng lẽ tội như vầy, mà ai đi chém giết gì nó, bất quá kêu án nó đôi ba năm, cha chả! Rồi chừng nó mãn tù, thì tôi có chạy đường trời cũng không khỏi tay nó. Tính nát trí khôn, rồi tôi cũng cho duy có kế trốn là hay. Bữa đó lại là ngày thứ sáu, tôi mới gạt hia Tiều rằng tối mai thứ bảy, có chị em rủ đi ăn cơm Tây và xem hát sáng đêm, như vậy đừng có lại, vì tôi đi khỏi. Sắp đặt xong, đồ đạc vòng vàng bao nhiêu tôi đeo hết vào mình, lộn lưng một ngàn rưỡi bạc, ghịt mấy lần chắc chắn, còn lại gia dư tôi không dám lấy một món gì ở trong nhà đều bỏ lại hết. Bữa cơm chiều, trẻ nó dọn, bưng tới miệng cũng không kịp ăn, nuốt không vô, lật đật xuống tàu chạy đường Nam vang mà ẩn mặt. Đi đường chuyến nầy tôi cẩn thận lắm, chẳng phải vì có tiền mà se sua lòe loẹt tôi mua giấy đi Phnom-penh hạng chót, rồi mướn một chiếc chiếu trải ngủ chen chúc giữa đám bộ hành đàn bà. Sáng ra tàu tới chợ Mỹ Tho, cặp bến. Tôi thấy lính xét giấy thuế thân, mà vì sẵn có tịch nên bịnh đa nghi của Tào Tháo hoành hành. Thế khi động ổ, có ai mạch cho hia Tiều, va đi cớ bót nên quan mới sai lính đón tra xét lung tung. Lúc đó trong bụng đánh trống chiến loạn đả. Liệu bề đi luôn lên xứ Chùa Tháp bất tiện, vì nghĩ dại rằng ắt có dây thép lục tống, và chỗ nào tàu ghé chắc là đêu có lính tráng kiểm tra. Muốn lên bờ tại đây đặng tánh đi ngả khác, ngặt sợ hai cậu bếp đứng chần ngần dường như tìm kiếm bắt cho được ai đó vậy. Trong cơn bối rối, trực nhớ lại chú mái chính răng bịt vàng cả hàm trên, trông dị hợm, nghe lỏm được biết chú lên ở Mỹ Tho, mà thiệt từ hồi tàu chạy cho tới bây giờ, mình thì lo buồn, mà chú cứ theo tấn ơn ve vãn, giận tức gần nứt bong bóng nay thấy chú đang dọn dẹp hành lý sửa soạn lên bờ, tôi bèn lại gần thỏ thẻ mượn chú chỉ giùm một khách sạn nào cho gần ga xe lửa, của Tàu hay của ta bất chấp, miễn sạch sẽ, vì thuở nay tôi chưa biết và quen thuộc đường xá xứ nầy. Hia ta nghe tôi ướm hỏi, coi bộ mừng quýnh quýu trông tức cười nhưng tôi rán nín. Hia ta lật đật giành xách cái quả cẩn đựng chút quần áo và hai tôi cặp kè đưa nhau lên bờ, coi tuồng như vợ chồng lâu năm gắn bó. Hai cậu bếp có lẽ quen mặt, nên chào chú mái chính mà không xét giấy. Tới khách sạn ở mé sông gần ga xe lửa, do người Quảng Đông làm chủ, tôi nghe chú mái chính biểu dọn phòng thượng hạng, đế dắt tôi lên lầu nghỉ ngơi cho mát mẻ. Tôi cười thầm thằng Ba Tàu nầy muốn sanh bụng tẹo, cho nên một hai tôi nài ở phòng khách từng dưới, vì tôi còn đi kiếm thăm bà con, có lẽ ngày mai hay ngày mốt tôi mới trở về đây. Mái chính răng vàng cười bày đủ bộ răng gần nửa lượng, cho tôi rồi ra về, lại hứa để chiều mát trời, y sẽ đem xe nhà rước tôi qua xóm chợ cũ dùng cơm Quảng, có món hủ tíu đặc biệt tiếng đồn đến khách phong lưu Sài Gòn đều xuống đây thưởng thức, luôn dịp y sẽ mua giấy trước xem hát của gánh thầy Năm Tú nào đó diễn tuồng Kim Vân Kiều theo lối hát mới, gọi cải lương lại, vai Kim Trọng do thầy Bảy Thông đóng, và vai Thuý Kiều do cô Kim Cúc thủ đứng cặp với cô Thoàn 1trong vai Thuý Vân, cả ba đều xuất sắc vả hát cụp lạc lắm. Tôi cũng ừ hữ cho có chừng, trong bụng cười thầm: "Mái chính ơi! Con nầy không vừa đâu, nó nhai tươi nuốt sống (nhĩ, mầy, anh) và ăn gỏi nị cái một, nhưng nó đang chạy trốn nên không dám trổ tài đó chớ, khuyên nị cứ ăn cơm Quảng Đông và ngủ với xẩm Tàu, đồng bào nị, là chắc ăn hơn. Nhưng đây là tôi nói thầm, mình nói mình nghe, chớ đâu dám bĩ hơi cho lậu sự. Chú mái chính đi về rồi, cũng vừa buổi trưa kiến cắn bụng, tôi lận lưng lấy ra một đồng bạc, nhờ anh chệc bồi phòng đi mua cho tôi một mâm cơm: hai chén cơm thật trắng thật ngon, còn thức ăn thì một tô canh câu kỹ, một đĩa thịt vịt quay lựa khúc đùi, một đĩa cua xào giấm và đừng quên cho tôi một đĩa thịt xá xíu, vì từ ngày làm quen với hia Tiều, tôi đã ghiền món nầy và nhớ hoài không bỏ qua được. Cơm rồi tôi đánh một giấc để lấy sức, nhưng trời đất ôi, có ngủ nghê gì được với ba con rệp của phòng ngủ Tàu, thêm cái mùng dơ hầy, tuy mùng lưới thứ đắt tiền, nhưng khói thuốc phiện đóng ám đến trỗ màu vàng, còn dưới chưn mùng, nói mà phát gớm, lốm đốm những cụp lạc 2thành tích mấy trận chiến đấu không thôi giữa gái làng chơi và trai tứ chiếng. Ai bày đặt khách sạn là "nhà ngủ" đáng gọi là "nhà thức" mới phải, vì khách đến đây, nếu không đi gái, thì đến để gầy sòng bài bạc hút xách, nhậu nhẹt, đĩ điếm, thức sáng đêm, tàng tịch ăn chơi chớ ít khi ngủ, bằng có ngủ thật thì lăn chiêng sau trận chiến đấu săn vi trùng, chớ gọi nhà ngủ nỗi gì, trớ trêu đi thật? Vừa ba giờ chiều tôi đã rửa mặt, trả phòng, leo chuyến xe lửa bốn giờ rưỡi chạy, trực chỉ Sài Gòn, nơi quen biết cũ. Nhắc tới xe lửa thuở ấy mà tức cười, hèn gì Pháp đặt tên "le tortillard" (xe cong queo), thật ra xe nào cong queo nhưng đầu máy yếu quá, bữa nào kéo nhiều toa, thì xe lên dốc cầu Tân An và cầu Bến Lức không nổi, còn cách dốc cầu độ nửa cây số ngàn, thì xả hết tốc lực, giựt dây thổi xúp-lê (sinet) nghè rậm đám lắm, nhưng khi tới dốc thì xe từ từ chậm lại, rồi lúc nào gặp trời mưa, đường rầy trơn, thì tuột dốc thụt lùi trở lại, mới là báo đời chưa? Chừng ấy nào người coi máy xổ chữ Nho nghe không hết, nào thầy xệp (chef de train) đổ thửa và quở trách om sòm, bóng đổ thầy, thầy đổ bóng rồi xe ngưng lại, chụm củi thêm, chờ cho máy nóng rồi ạch đụi lấy trớn chạy nữa, như được qua dốc cầu thì bữa ấy chuyến xe tới sớm hoặc đúng giờ, bằng không thì ngày ấy xe chịu tới trễ. Tức cười là bộ hành làm như con ruồi trong bài ngụ ngôn của Lã Phụng Tiên (La Fontaine), xe thở hào hển rán sức lên dốc, còn bộ hành ai nấy đều nín hơi rặn phụ lực y như thuở xưa gặp đẻ khó, người thân quyến phải rặn giúp sức người sản phụ sanh thằng nghịch tử! Bữa tôi đi, may quá, xe tới nhà ga chợ Bến Thành thì trời chật vật nhưng chưa tối lắm, tuy vậy mà tôi cũng sợ, đội khăn sùm sụp (đây là tôi sơ ý vì lính thấy bộ tịch khả nghi càng mau gọi và xét giấy hơn là để đầu trần). Tôi kêu xe kéo tuốt lại khách sạn của thầy Bảy Phương đường Carabelli, vì thầy Bảy là người biết điệu lo lót đủ mặt cò bót và lính tráng, thêm nhà ngủ nầy ở gần đường Catinat, yên tĩnh lắm. Chỗ nầy người quen biết ít lại lắm, tuy vậy tôi cứ phập phòng, ngủ không yên giấc. Trời vừa rực sáng, tôi đã trả phòng, đi bộ lại chợ cũ, ních hai tô cháo cá ngon lành, vì đêm rồi nhịn đói bỏ cơm, và tiệm Quảng Đông bán cháo cá nầy nấu ngon lắm, ai ai đất Sài Gòn nầy đều quen biết thuở nay. Xong rồi tôi kêu xe kéo đến ngôi nơi bồn bông trước nhà thờ Đức Bà, ngang nhà dây thép chánh chờ chuyến xe đò chạy lên Tây Ninh, rủi bữa đó không có xe, tôi phải trở lại mướn phòng nơi khách sạn Nam Đồng Hưng, số 74 đường d’Espagne, ẩn mặt đến sáng thứ ba mới lên tới Tây Ninh, ẩn thân cửa Phật. -------------------------------- 1Cô đào Thoàn, mới đây có người gặp ở Rạch Gầm, tuổi lên tám chục 2 Do kịch liệt nói trại, có nghĩa là mê ly, hấp dẫn lắm 15. Xuất gia đầu Phật Đến xứ Phật, miệng phải niệm Di Đà, lòng thành thật cùng chăng, có trời Phật chứng giám. Tây Ninh và núi Điện Bà, tôi đã biết từ năm mười hai tuổi, khi theo chưn bà nội tôi hành hương năm ấy: Nay cũng còn nhớ mài mại đường đi và cách thức lên đến Điện Bà. Đầu tiên, tôi theo mấy bà đi chùa, nhưng tôi phải mấy lần dừng bước đợi mấy lão phụ nầy. Tội nghiệp mấy bà nầy, kẻ thì nằm võng lần chuỗi bồ đề, người thì ngồi xe đôi ba người cho bò nó kéo, võng thì hai người khiêng kẽo kẹt xốc lên xốc xuống muốn lộn mề gà, nhưng chưa đáng tội bằng ngồi xe, đường núi gập ghềnh toàn gốc cây hố đá, xe lại không nhíp, mỗi khi bánh xe trèo lên gốc cây rồi rớt kẹt đá, tiếng nghe "cà rịch" rồi "cà tang" đến thành thành ngữ "cà rịch cà tang" của người Tây Ninh để ám chỉ đường lên núi cam go khúc mắc, và điệu đờn sơn dã nầy nghe thét quen tai lại thấy như ru hồn người phải dày lòng nhẫn nại bất cứ ở đâu không phải đợi đăng sơn mới biết. Riêng tôi, tôi đã tiên liệu. Khi xuống xe đò, đi bộ đến quán dưới chơn núi, tôi đã ních một bụng cơm chay lại mua thêm một ổ bánh mì lớn và một gói đường cát trắng. Đến chùa gọi chùa ông Trưởng tử, tôi vào bạch cùng ông giữ chùa rằng tôi là bổn đạo ở phương xa, nay lên cúng Điện Bà, ghé lễ chùa ít đồng bạc nhang đèn và xin một chỗ nghỉ lưng đêm nay. Qua bữa sau, trời vừa rực sáng, tôi đã có mặt theo tốp thứ nhứt leo núi, noi theo đường đá sắp sẵn, nhưng mặc dầu hăng hái và sức thanh xuân mà cũng phải trưa trờ trưa trật mới đến Chùa Trung, cũng gọi là Điện Bà hay Chùa Lớn, vì còn một chùa nửa ở tận gần chót núi, nhưng ít ai đến vì ông hổ và gấu ngựa gấu heo, nếu gặp thì khỏi lạy chầu Bà. Nơi Điện tôi gặp nào xẩm già, vợ mấy ông Bang nào mấy ỷ, vợ mấy ông chủ chành (vựa) mua bán ở Chợ lớn, nào vợ mấy ông mấy thầy đất Sài Gòn có lòng mộ đạo đến đây từ hôm trước, vì nhớ đâu năm tôi trốn lên đây là lối ngày rằm tháng giêng thì phải. Tới điện, tôi chờ thiện bà, tín nữ hành lễ rồi về bớt, khi ấy tôi mới vào lạy ông hoà thượng, bạch rằng tôi có lời nguyện, xin hoà thượng mai nầy cúng cho tôi một ngọ và cho phép tôi để tóc, chụp mủ ni, ăn chay niệm Phật, tu tại đây và tôi đặt tiên cúng là năm trăm đồng bạc, xin hoà thượng nhận dùng vào hương khói cho Bà, cho tôi qui y, ở đây, quyết làm tôi Phật cho tới răng long tóc bạc. Hoà thượng chấp tay nhậm lời, tôi mừng lòng một đỗi. Thiệt khen ai đầu tiên khéo chọn cánh trí nầy mà lập nơi thờ Phật Bà và đặt tên là Điện. Nguyên cốt Bà là một tượng đá cổ, nhỏ thôi, vừa cao bằng hai gang tay, Bà ngồi tham thiền và tượng đặt trong một hóc đá thật sâu, lúc tôi lên chùa, vẫn còn thấy hiện hiện, nhưng sau nầy nghe lại thì bọn tu sĩ chùa Bà Đen đường Trương Định Sài Gòn, vì muốn dụ thiện nam tín nữ qui tụ nơi chùa Chà nầy, nên đã lén lấy mất tượng Bà ở chùa Tây Ninh, việc ấy chưa biết ắt chất ra thể nào, tôi cứ thuật lại đây, riêng ông tác giả "Sài Gòn năm xưa", ông ở tại chỗ, tưởng nên điều tra và ghi lại vào sách cho người sau được rõ, cũng là một sự hữu ích. Điện không phải chùa nhơn tạo xây cất bằng gạch, đây là một hang đá khá rộng, khá sâu, có một mái thiên nhiên gie ra tựa như cái nóc nhà đồ sộ, và công của tay người chỉ là tiếp xây một bức vách có chửa cửa là biến thành một ngôi chùa hùng tráng tôn nghiêm đứng trên núi cao, ngó mặt ra một cảnh rộng bao la bát ngát, cây cối trùng trùng điệp điệp đêm nghe tiếng cọp gầm ngoài xa, ngày nghe tiếng chim cao cát hồng hoàng hót tan bầu trời tịch mịch, và chiều chiều, lúc trong Điện tụng kinh lại có tiếng khua lộp cộp ngoài vách, xem lại ấy là những con qui, có con lớn bằng thúng giạ, ngày ẩn gốc cây kẹt đá, về chiều nghe tiếng chuông tiếng mõ thì bò lần về để đợi nắm cơm cửa Phật. Người sơ khởi lựa chỗ nầy để lập chùa có lẽ cũng là tay chọc trời khuấy nước thấy xa hiểu rộng vả có lẽ đã nếm đủ mùi khổ hạnh trần ai trên thế, khi đáo đầu đã chán ngán việc đời nên mới tìm đến chốn nầy mà tu tâm dưỡng tánh. 16. Tu cũng chẳng yên thân Theo sự hiểu biết nông cạn của tôi, tôi tin chắc con người sanh ra đều có số kiếp riêng không ai giống ai, và số tôi là phải long đong lận đận, cây muốn đặng mà gió không ngừng, mới làm sao đây? Và rủi ro đâu khéo khiến. Lên ở chùa chưa được nửa tháng, mừng lòng vừa trút bớt ưu phiền, nâu sồng an phận, chay lạt vừa quen, tuy kinh kệ chưa thuộc nhưng với chí quyết thủng thẳng cũng sẽ học được như người ta, ở vừa yên nơi yên chỗ, bỗng bà mãi biện về thăm quê, nay trở lại chùa, bà có phận sự coi việc xuất phát, và quyền hành trong chùa của bà, sau tôi vô lại là lớn hơn ông trụ trì nhiều lắm, tôi không biết bản mặt của tôi, thuở nay ăn khách đàn ông lắm chớ, thế mà đối với mụ nầy, mặt tôi với mặt bà kỵ ở chỗ nào? Hôm tôi ra mắt, bà nhíu đôi lông mày nhìn tôi trân trân, rồi tứ hôm ấy, hễ thấy mặt tôi là bả ghét cay ghét đắng, đi vô bà nguýt, đi ra bà háy, có việc chi sai bảo đến tôi là bà nặng nhẹ giằn thúc đến điều, dùng những tiếng không phải của người tu hành, toàn là lời xóc óc đâm hông. Nam mô di Phật nào tôi có dám đả động chi bà? Bà nói với mấy ỷ ban Chợ Lớn lên đây cúng chùa mà tôi nghe rõ từng tiếng một: "Cái tuồng mặt coi còn bén ngót, khéo nói chuyện gõ mõ tụng kinh, làm dâu cửa Phật, khéo bán dạng thuyền quyên, trêu ngươi bẹo chúng; Thiệt khéo thì thôi; Tôi nói đây để cho mấy ỷ mấy bà về ăn trầu gẫm lại coi: thét đây khi mai mà chùa nầy không khỏi trở nên nhà bảo sanh mà chớ?" Tôi nghe mấy lời mà muốn trào máu họng; Mô Phật; Nam mô A Di Đà Phật; Chị em cô bác nghĩ coi: đi tu thì mặc đồ dà, tưởng như vậy cũng đủ. Tu là tu lòng, tu tâm dưỡng tánh, còn việc tôi để tóc chưa thí phát là việc riêng trối kệ tôi, vì lời nguyện muốn trước thử lòng mình xem có số tu không, chớ nào tôi tiếc gì ba mở tóc. Thế mà bà muốn tôi xẻo hai tai đâm đui hai mắt bà mới vừa lòng. Bà nói chi lời bất nhơn thất đức ấy? Tôi nhớ lần nào tôi vào liêu thầy tôi, thì ở ngoài nầy nghe tiếng bả đà ó giặc, lầm bầm lụp búp, đụng cái nầy, khua cái kia, bốp thiên. Nghe mà lạnh xương sống; Mô Phật; Nói sợ tội với trời; Chớ bà làm, hình như bả ghen tôi cho ông Phật sống là thầy tôi đây vậy! Nghĩ tới đây tôi lập tâm quyết chí, thề độc chuyến nầy, một phen tôi xuống núi bận nầy; tôi sẽ hung sẽ ác cho lại gan với đời mới nghe cho; Từ đó kéo mũ Quan âm che mặt, tôi ẩn nhẫn chờ thời dẫu bả tiếng chay tiếng mặn, tôi cứ nuốt giận lấp hai giả điếc, nín lì chịu trận. Có một đêm kia, trời khuya khoắt, một đám cướp từ đâu không rõ, tông cửa chánh điện, ùa vào liêu thầy tôi, lục soát và tóm thâu không chừa một món. Chúng hăm doạ mấy ông đạo chạy đôn đáo khắp nơi, biểu đem nạp thầy tôi để đền tội gì đó. Kiềm hết sức không gặp, mới chịu buồm. Cũng may đêm ấy thầy tôi xuống chợ tụng kinh cầu an cho nhà nào đó đến sáng mới về chùa nên khỏi tay chúng. Mụ mãi biện đi đâu dưới chợ cùng về với thầy tôi trước sau không lâu nên cũng thoát nạn. Về vừa thấy tan tành đồ đạc, bả liền nổi tam bành lên, chửi đông đổng ăn cướp gì biết được đêm chùa vắng chủ, có hoạ là tôi đây đem đường dẫn lối, biết chỗ nào là liêu chỗ nào chứa của gì, nên mới cướp sạch bách như vậy. Bả lại buộc thầy tôi một cũng phải đuổi, hai cũng phải đuổi tôi ra khỏi chùa lập tức, bả mới để yên cho. Nói cho chí phải, thầy tôi nào nỡ nghe theo và cứ kiếm lời giả lả. Thầy tôi nói ngon nói ngọt chừng nào, bả lại trèo đèo chừng nấy, hăm nếu không, bả sẽ xuống quan thưa gởi bắt tôi cho được mới nghe. Thầy tôi thấy thế túng phải chiều, sợ bả làm tình tệ thì cỏn chi là thanh danh của chùa. Lúc ấy thầy tôi gọi tôi vào liêu, trao năm trăm bạc lại cho tôi, thở ra mà rằng: - Mô Phật. Đồ đệ nầy. Đồ đệ có lòng đem của cúng Bà, thôi, một tấm lòng thành Bà cũng chứng cho, lựa là phải để bạc lại làm chi. Bần tăng coi vóc đồ đệ ốm yếu lắm; vậy có đến chùa nào khác mà qui y thọ phái, nhớ cúng một đôi trăm cũng đủ che thân khỏi cực. Đồ đệ có về ở chuà nào, xứ nào, xin thương nghĩ bụng lấy, kín miệng, kẻo tiếng đời dị nghị không tốt. Mô Phật; nạn tai bất ngờ, đồ đệ khá nguôi lòng. Người đời, hoạn nạn là thử thách. Kẻ nào khóc nhiều kẻ đó sống nhiều; Đồ đệ vui lòng kín miệng che chở cho thầy thì cũng đứng chấp nhứt mụ vãi ngu xuẩn kia, coi vậy chùa nầy không có vãi ấy cũng không xong; Thầy tôi đã nói đến thế, mỗi mỗi tôi dạ dạ vâng vâng không lời đáp lại tôi nhận năm tấm giấy xăng, lạy thầy hai lạy, xách mở quần áo cũ, xâm xúi bước ra khỏi điện đi cho một nước! 17. Xuống núi về trần Đi một đỗi, mồ hôi thấm áo, lại thấy mát. Nư giận cũng nguôi theo, nghĩ thấm mật bắt tức cười. Đời nầy, đàn bà chơn yếu tay mềm mà cũng hạ san; Thình lình nghe tiếng ai tứ sau với tới trọ trẹ: - Ê, chị Hai, chị Ba, chị Tư; cha; con gái tốt quá. Con gái đi đâu một mình? Tôi lấy tay che ngực, lúc ấy căng thẳng trong áo vải batiste trắng nhục nhục, nhưng gió thổi phất phơ, làm sao che được mông đùi tròn tròn von von, lằn cong nét thẳng bày ra hết? Tôi dừng chơn, ngoái đầu lại thấy một ông Tây còn trẻ, mặc đồ ka ki vàng tay xách súng hai nòng vai mang hai cái túi phồng to bươn bả chạy theo tôi, miệng cười tích toát, va vừa thở hào hển vừa cúi đầu chào và hỏi làm quen: - Cha! Rừng lớn quá chị Hai đi một mình, không có sợ sao? Đường vắng đơn thân có sợ là sợ thằng Tây nầy, nhưng tôi vừa nhích miệng cười vừa "nịnh" một câu: - Sợ chớ! Mà có ông đây, tôi hết sợ rồi! Ông Tây vừa nhát một câu để thử tôi: - Ở đây ông cọp nhiều, chị Hai không sợ chớ tôi sợ lắm! Tây mà biết gọi "ông cọp" không phải Tây vừa, Tây nầy biết tâm lý và tiếng nói của mình sành sỏi. Vừa lúc ấy, nghe dưới hố, hộc một tiếng "cà um" thật lớn, làm cho tôi mặt mày tái lét, thiếu điều chạy lại ôm đại thằng mắt xanh mũi lõ nầy. Ông Tây biết ý nắm chặt tay tôi mà rằng: - Chị đừng sợ. Chị nói có tôi chị hết sợ là phải lắm. Cây súng của mông-xừ mạnh hơn ông cọp. Chị Hai bằng lòng, mông-xừ coi chừng chị Hai cho tới cái nhà, Tôi ưng chịu, coi bộ ông ta lại mừng hơn tôi. Xuống tới chưn núi, nhìn thấy tôi có sắc mệt, ổng mời tôi ngồi nghỉ dưới một cội to, rồi lấy trong túi ra nào rượu chát, nào bánh mì, hột gà luộc và thịt giò heo xông khói. Ông ta lấy khăn trắng trải trên thảm cỏ, bày biện vén khéo, lăng xăng rót rượu, cắt bánh, một hai ép tôi ăn với ổng cho vui. Tôi đi đường mệt, có hơi xót ruột ở chùa ra, nào có kịp cơm cháo gì, nay thấy ông ân cần niềm nở, mà cơ khổ, nuốt không vô. Mấy tháng nay chay lạt đã quen, nay thịt béo rượu ngon, lại nhớ mụ già mãi biện trên núi mà nghẹn ngang cuống họng. Lúc nầy ông Tây mới hỏi đủ điều và rõ ra tôi không quen thuộc thân thích với ai trên đất Tây Ninh nầy cả. Chừng ấy ổng mới nói ổng làm chức kiểm lâm ở đây, nhà cửa không xa và rộng rãi mát mẻ lắm và mời tôi cứ thật tình ghé lại đó nghỉ ngơi. Thấy tôi có ý bần dùng ổng vụt nói: - Mông-xừ biết. chị Hai là người tử tế, nhà mông-xừ có vợ chồng bồi ở phòng riêng, mông-xừ ở phòng riêng, vợ bồi tử tế, tối ngủ chung với chị Hai, được hay không được? Thấy tôi chúm chím cười, ông ta vỗ tay mừng quýnh quýu cười vang: - Được. Được. Chị Hai nói được đó! Tôi gật đầu rồi theo ổng về nhà. 18. Ông tơ khéo khiến Khi tới cửa ngõ tôi dừng lại chưa chịu bước vô nhà. Ông kêu người bồi, dặn điều gì nhỏ quá. Tôi nghe không rõ, nhưng thấy người bồi đưa tay ngoắt tôi như ngoắt con bồi chị bếp, bỗng ổng nổi giận sửng-sộ sạt-cà-rây ỏm tỏi: - Đồ vô phép. mau mau đi dọn chỗ cho tử tế. Rồi mới được mời chị Hai vào. A-lê! Mau lên. Lúc đó mặt trời đã lặn, bổn thân ông ta nhắc ghế ra sân, mời tôi ngồi và nói dã lã: - Chị Hai đừng giận. Bồi ngu quá. Bồi cứng đầu nhiều. Vợ bồi tốt. Để tôi đi coi dọn. Một chập sau thấy anh bồi và một người đàn bà chạy ra, có lẽ là vợ chồng, cả hai dạ bẩm rộn ràng và niềm nở mời tôi còn trọng hơn bà con ruột cách mặt lâu ngày. Thiệt cái thói đời xảo trá mị thường, thấy ghét quá. Tôi nghe mời, bèn bước theo họ thắng xuống nhà dưới, tuy là nhà bếp nhưng rộng rãi khoảng khoát, giữa gian có lót một bộ ván ba gõ đỏ, trên trải chiếu bông sạch sẽ, mùng lưới tàng ong trắng toanh vén lên bốn phía trông rất khéo léo. Kế bên bộ ván có một bàn bán nguyệt trên có bày bình trà nóng đựng trong vỏ dừa cho trà được ấm lâu và hai cái tách tráng men kiểu Tây để trên hai đĩa nguyên bộ, rõ là đồ vật dụng nhà sang, kế bên đó có một ghế xích-đu kiểu Thonet thứ thiệt và phi người lịch duyệt không sắm nổi các món nầy. Thấy ông nầy hậu đãi tôi bực ấy, không cần đi guốc trong bụng lão, chớ tôi đã biết liền ông ta có ý chi rồi. Tới bữa cơm tối, ổng dặn bồi món nào cũng sớt hai, dọn riêng nơi bàn bán nguyệt cho tôi dùng và căn dặn con nọ ép tôi ăn cho thật no như ở nhà không khác. Vì tôi đi đường thấm mệt, nên chỉ ăn sơ một món súp phô mát và hai hột gà la cót, xong rồi tôi nhờ bồi gái nhắc ghế xích đu ra thềm hóng mát. Tôi nằm lim dim, gác tay lên trán, suy nghĩ cả canh: Khó thật! Hạ san để lấy chồng kiểm lâm xứ núi nầy à? Không đâu? Xuống Sài Gôn phen nầy là để dọc ngang không biết trên đầu có ai kia chớ? Tuy vậy, quyết lòng ăn trên ngồi trốc, mà trong mình còn thiếu nát hết: nhan sắc trời cho tuy có, mà có cũng bằng không: phải giàu đồ bắc kế thì hùm mới thêm oai! Nhớ lại hồi mình bị chúng mưu sự, đến bị bắt bị lục xì, bỏ vô nhà thương, là tại tiếng Tây đói no chửa sạch, mới ra cớ đỗi! Nghĩ đến đó, mừng thầm. Nhơn dịp làm vậy, nên nán lại đây tu binh mãi mã, trước hết hãy học cho được ba tiếng Tây cho rành, có phi bạc phi đao đỡ mình, sau nữa để đợi chuyện anh Tiều châu kia nguôi ngoai khuây lảng bớt! Nam Mô A Di Đà Phật! Sắc dẫu có tài mà còn non? Cầu, con cầu xin Phật độ cho con đủ vi đủ cánh rồi sẽ hay! Vừa suy nghĩ tới đó, bỗng thấy ông kiểm lâm nơi nhà trên bước xuống, bộ xơi cơm vừa rồi, ổng mon men lại hỏi: -- Chị Hai, dọn chỗ ở đỡ như vầy được hay không được? Tôi vội đáp: - Ông dọn như vầy tốt quá chừng! Cám ơn ông lắm! Ông day hỏi tôi ăn cơm có ngon không, vợ bồi có tử tế không? Sao chị Hai buồn mà ra nằm một mình ngoài nầy? Tôi trả lời không có buồn, rồi xin kiếu cho vô nằm vì mệt mỏi. Sáng ra thấy vợ anh bồi sửa soạn đi chợ, tôi lật đật gởi một đồng bạc, nhờ nấu một bữa cơm An Nam, để kịp xe trưa, tôi về Sài Gòn. Chị ta không chịu nhận đồng bạc, rằng chủ có đưa tiền chợ đầu hôm rồi, vì ổng thấy tôi ăn cơm Tây không được ngon miệng. Chị ta năn nỉ: - Cô về dưới ấy làm chi lật đật quá? Ông chủ sẽ rầy hai con không biết điều nên cô hờn mới về gấp và như vậy tội nghiệp cho hai đứa tôi lắm! Nói xin lỗi, xin cô đừng giận: tự thuở nay, hai đứa tôi ở với Tây cũng nhiều chủ rồi, thiệt khổng thấy ông nào thương ai như cách ông nầy thương và đối đãi như với cô vậy! Tôi giả bộ không hiểu, cười mà hỏi làm sao chị biết? Chị ta khai thiệt rằng ổng năn nỉ biểu hai vợ chồng o bế làm sao cho tôi ưng chịu, thì giấy hoảnh 1 ổng bê cho liền. Tôi giả đò không chịu, rằng sửa soạn đã lỡ, thôi để về. Như ổng thiệt tình thương, thì Tây Ninh - Sài Gòn non một trăm cây số có xa xuôi gì đó! Khi ấy chị ta mới năn nỉ cản tôi xin ở lại chơi thêm một bữa nầy nữa, tôi làm bộ dụ dự, đợi chị ta năn nỉ gần gãy lưỡi tôi mới chiều theo. Qua ngày hôm sau hai đứa nó thiếu một điều lạy tôi xin ưng ông kiểm lâm cho hai đứa nó kiếm chác chức đỉnh chớ đồng lương không đủ xài, thêm nợ nần nhiều. Cơ khổ! Nói vậy hai đứa nầy cũng học một sách với cô chủ sự và má Tư Hớn, chỉ khác là hai người kia vừa khai thác nai tơ, vừa lợi dụng vừa bán đứng tôi mà ăn tiền đầu tiền đuôi, còn hai đứa nầy, dầu sao chúng còn năn nỉ và được sự ưng thuận của tôi trước. Sau rốt, chín hấu còn mại hơi, tôi đợi cho ông Tây tỏ ý niềm nở thật tình, tôi đợi đến cạn nước tôi mới ưng chịu. Nội ngày đó tôi biểu vợ chồng bồi đem đồ đạc lên nhà trên, kẻo tội nghiệp hai bữa rày, họ đêm nào cũng ăn chay nằm đất gần ông Táo, vì bộ ván bị tôi chiếm theo lệnh của ông Tây hảo ngọt. -------------------------------- 1 Giấy hoảnh: vingt - giấy bạc hai chục đồng của trào Pháp cũ 19. Cái phận lấy Tây Tôi xét lại, theo ý ngu của tôi, phàm mình lấy người ta, mà chỉ có một lòng ở tạm như Đức Quan Hầu nương náu cùng Tào, - riêng tôi vừa đợi vận như Khổng Tử Nha nơi bờ sông Vị, vừa kiếm thêm tiền vi kiếng như chim bằng cánh mỏi, trong tình cảnh nầy, việc tôi thương ông kiểm lâm nầy hay không là bụng mình mình biết chứ cách ăn thói ở làm sao cho người ta cảm mình, thương mình, yêu vì mình, ấy là một tối đại vấn đề mà tôi đang thắc mắc. Nói chí phải, người Lang sa, một trăm một ngàn ông như một, đều là bợm đa tình, đứa nào như đứa nấy, tánh "nịnh đầm" đều y như nhau, huống chi giữa chốn khỉ ho cò gáy, núi rừng mông quạnh như ở Tây Ninh nầy, còn ai hơn tôi kể về nhan sắc, cho nên tôi khỏi lo ông nầy phụ rày tôi, còn việc tôi có cảm chàng va không, đó là việc khác, sau nầy sẽ biết. Đúng như vậy, muốn ở cho người ta yêu vì mình, coi vậy mà không phải dễ. Ông kiểm lâm nhà tôi, còn thanh niên sung sức, tánh tình vui vẻ và lý lắc không ai hơn, nhạy cười ưa trững giỡn, trời khiến đụng nhằm tôi lại sẵn tánh lập nghiêm, tuy vậy mà rất hạp nhau. Ngoài mặt tôi giả dạng hân hoan cho ông ngỡ tôi gặp ông đây là toại kỳ sở nguyện, ý hiệp tâm đầu, không còn ao ước chi khác nữa, còn nghiêm, tôi lập tâm rất nghiêm nghị, cho ra vẻ con nhà nết na tử tế. Tôi lo cho ổng từ miếng ăn miếng uống tấm áo manh quần, đâu tới ve rượu hộp bơ, tôi đều tiện cặn từ chút, bồi giặt còn dơ tôi bổn thân giặt lại, là nếp chưa thẳng tôi không rày quở nhưng tự tay ủi lại cho thẳng thơm, nhà là nhà sàn cao cẳng tôi quét dọn sạch bon, lại lấy giẻ khô đánh sáp láng bóng, trơn trợt như thoa mỡ, mấy ông Tây lại chơi, vô ý tứ xuýt đo ván, chúng cười với nhau gần bể nhà và khen ông kiểm của tôi ở đâu khéo kiếm được vợ như vầy. Một đôi khi, ổng quên và để đầu trần, không đội nón các (casque) đi ra ngoài trời, chuyến về tôi làm mặt giận mặt hờn, rầy ông sao sơ ý, rủi nhức đầu sổ mũi hoặc cảm nắng rồi tôi biết làm sao đây. Lão nghe tôi quở mà không giận, xem tuồng đầy ý nữa là khác. Tôi biết ở nơi ổng làm việc có một thầy ký, tên Lư, người Sài Gòn, bảnh trai, và một chạn một cỡ với tôi, cho nên không bao giờ tôi léo lại đó Nghĩ lại, người đàn ông một trăm nỗi thương, không có cái thương nào cho bằng thương vợ thiệt thà nết na đúng đắn. Nên hễ họ thương mình, mà không chỗ cho họ ghen đặng: ấy là tới nước mê rồi đó! Và hễ mê thì việc gì họ lại chẳng tin? Lần lần ông kiểm nhà ta phó thác hết một tay tôi phát lạc. Bất âu là việc gì, nhứt nhứt cũng phải hỏi chị Hai, cũng để hỏi chị Hai. Tôi nhấn mạnh là giữ cho họ thương mà đừng để có chỗ ghen đặng mới là mê, ấy là phận đàn ông. Còn mình là phận đàn bà, mình phải làm bộ ghen mới đặng. nhưng ghen cho đầm thấm, trong héo ngoài tươi mới là ngọt dịu, cao kế, gọi là ghen hạnh ghen duyên: ghen cho nết mình buồn người ta thấy mà thương, mặt mình khóc mà đàn ông xem vào thêm rối ruột! Tỷ dụ có một lúc nọ có một gánh hát Tây từ Pháp sang diễn tại Sài Gòn, rồi có đâu vài anh kép với một cô đào son trẻ, muốn kiếm thêm tiền xúp, nên lên thành phố Tây Ninh hát chặp mấy bữa. Ông kiểm lâm nhà tôi, ổng ham lắm, chiều chiều đều thắng xe hai bánh, xuống tỉnh coi hát, rồi còn rượu chè bài bạc hay theo cái gì đó tôi cần gì biết, đêm nào ba bốn giờ sáng ông ta mới về tới nhà. Mà ổng thì dở thức đêm lắm: thả mới có hai hôm coi đà sổ mũi nhức đầu, ho hen phở lở. Tôi tỏ ý ghen cho ổng biết, song không chịu nói ra vì mình ghen, cứ lo săn sóc ổng tất tình, rồi hễ buông ra thì tôi nằm dã dượi mặt buồn dàu dàu. Nhiều khi biết ổng rình coi, lại giả đò khóc lén, để cho ông dỗ ngon dỗ ngọt, tôi mới chịu tỏ nỗi ghen ngầm. Tuy là tôi tính cuộc náu nương chim bằng nghỉ cánh, chớ hễ mở miệng ra thì chuyện nào cũng trăm năm chung thuỷ, ghi tạc chữ đồng, cho đến nỗi cuối tháng đầu tôi về với ổng, lãnh lương về giao thì giao trụm hết cho tôi xuất phát, mà để riêng ra hai mươi lăm đồng bạc, nói: "Cái nầy là phần lương cho chị Hai". Tôi giả giận đỏ mặt, hỏi vợ chồng ở với nhau đà tính tháng tính ngày như vậy phải không? Ông vừa nghe lọt vào tai, chạy a lại ôm nết tôi vào lòng, rưng rưng nước mắt mà rằng: - Xin lỗi chị Hai! Tôi dại! Dại nói bậy! Chị Hai đừng giận tội nghiệp. Từ đó về sau, cuộc ân ái càng thêm nồng mặn. Thầy ký Lư dạy ông tôi học tiếng An Nam và chữ quốc ngữ, học đặng tiếng nào, chiều về cũng đến khoe với tôi rồi dạy tôi học thuộc chữ đó và tiếng Pháp đồng nghĩa. Tôi được trời cho sáng lắm, nên học có một tháng mà tôi dạy lại ổng và từ đó ổng học với tôi khỏi học với thầy Lư nữa, không biết thấy có giận tôi không chớ tôi đã ăn cắp nghề và cướp tiền xúp của thầy rồi! 20. Kế mọn đầu tay Có một bữa kia ổng lấy từ bi-rô (bureau) một cái đây thép đem về đọc và cắt nghĩa cho tôi nghe, nói chiều ngày đó, có người bạn thiết làm quan hai ở Sài Gòn sẽ đưa vợ An Nam lên thăm ổng và dùng cơm tối ở nghỉ đêm qua sáng hôm sau mới về. Ông tưởng tôi chưa biết, chớ anh Tư bồi hồi nãy ổng sai lên biểu hỏi tôi tiền chợ, đã học với tôi hay hết rồi. Nên kế tôi đã sắp đặt an bài, mặc tình kiến cơ nhi tác. Ổng đọc dây thép rồi khoe với tôi rằng người vợ ông quan hai là con nhà giàu có tử tế lắm, và căn dặn tôi nên kết làm chị em bạn. Tôi mới trách ổng: - Sê-ri (chéri) bậy bạ quá! Nói với ông hai rằng có vợ An Nam làm chi? Ông trả lời: - Không! Tôi chưa có nói. Chừng nào quan hai nó lại tôi mới nói. Nó thấy chị Hai xinh tốt nó mừng lắm chớ! Nó bằng lòng cho tôi lắm chớ! Tôi năn nỉ, biểu ông cứ để cho tôi ở dưới bếp, săn sóc ba món đồ ăn như vậy tốt hơn là cho người ta biết tôi. Khi ấy ổng giận đỏ mặt (mới thấy ổng giận tôi lần thứ nhứt), trợn mắt hỏi: - Làm sao không cho biết chị Hai? Làm sao tốt? Tôi giả đò sợ và nói hơi thiệt thà rằng: "Đối với người Nam với nhau, khi không quen lớn với người ta thì khó chuyện vãn lắm" và một hai tôi đòi lánh mặt. Ông vừa nghe tới đó phát nghi, lấy ngón tay điểm mặt tôi mà rằng: - À, chị Hai không thương tôi, chị Hai nói láo, muốn vợ chồng quan hai nó cười tôi! Thiệt tôi nghe một người Tây mà biết đặng lời nhân đạo mà nói với vợ như vậy, tôi bắt mũi lòng, nghẹn ngào rưng rưng nước mắt. Ông hiểu được trong thâm tâm tôi, lật đật lại gần vuốt ve dỗ ngọt tất tình, biểu tôi đừng buồn đừng sợ, có chuyện chi, tỏ thiệt cho ổng nghe. Tôi thỏ thẻ nói: - Đàn bà An Nam hay sánh của lắm. Nhứt là mấy cô vợ Tây: một năm chí tối, chỉ có so sánh đọ nhau từ vòng vàng chuỗi hột cà rá dây chuyền, xem ai là bực giàu bực sang hơn ai. Còn hạng hèn hèn cũng vẫn biếm nhau từ màu quần sắc áo, đâu tới hộp phấn ve dầu, họ nhún trề họ khinh bỉ nhau đến xích mích. Lúc đó ổng để tôi ngồi trên bắp vế, tôi vuốt ve ông mấy sợi râu mép ngạnh trê, tôi vừa cười vừa hun môi vào má chàng mà nói nho nhỏ: - Nè! Còn sê-ri biểu tôi làm quen làm lớn với người ta, mà tôi ăn mặc như vầy, sê-ri không sợ mắc cỡ sao? Ông làm thinh gãi đầu, ngồi suy nghĩ một hồi, khi hiểu được vùng đứng dậy, lấy tay vỗ trán la lên một tiếng "bon" (tốt), rồi đi ngay xuống bếp nói giống gì với vợ chồng Tư bồi, tôi không biết. Tôi có chứng thức giấc trưa, ổng nghĩ, rồi nói với tôi: - Thôi! Tôi nghe chị Hai, để quan hai nó lại, tôi nói láo chị Hai mắc về thăm nhà má má đau, ba bốn bữa nữa tôi dắt chị Hai đi Sài Gòn lại cái nhà của nó. Khi vợ chồng quan hai lên chơi tối về, ông ở nhà tôi theo đưa cho tới Sài Gòn. Tôi hỏi Tư bồi, y nói ổng có dặn chiều mai thắng xe đến bến đò rước ổng. Nhớ vậy tôi thăm hơi biết chú chàng bận nầy trúng thuốc mê của tôi rồi. Quả thiệt chiều bữa sau ổng về, đồ đạc chất đầy một xe hai bánh: nào hộp lớn hộp nhỏ, nào hộp vắn hộp dài, đựng những là dù, khăn lục soạn, tố, nhiễu, hàng Cachemire, đều là thứ sang của tiệm Bom bay, Tây mà lựa đồ đàn bà dùng như vầy, giỏi quá, ổng lại mua cho tôi dầu, phấn, xà bông thơm, áo sơ mi kiểu đầm, giày thêu kim tuyến, guốc ngù ngà, quạt bỏ xách tay, vợ chồng Tư bồi khuân vô bày chật một bàn ăn. Còn ổng ngoài cửa bước vô, tội nghiệp dan nắng có một bữa mà mặt mày đỏ như tôm luộc, bộ mệt dừ mà khi thấy tôi, la lên: "Chị Hai ở đâu? Ở đâu chị Hai?". tôi nghe gọi, lật đật chạy lại, ổng nắm tay mừng rỡ, hun tôi bên má bên nầy rồi bên kia, tuồng như vợ chồng xa cách nhau ba bốn năm trường chưa bằng. Ông choàng tay qua cổ tôi dắt tay tôi lại bàn, khoe đủ hết. Tôi ngó thoáng qua, liền ủ mặt. Ông mới hỏi: - Chị Hai kiếm không thấy vàng, chị Hai buồn nhiều lắm hả? Trời ơi! Ổng hỏi chơi chơi mà trúng thóc tim đen! Phải tôi không lẹ trí, thì lòi chành hư kế hết. Đều dễ không "Người ta" sẵn mặt buồn, bèn làm giận luôn (chớ nghe giọng ổng nói, tôi biết chắc ba bó một giạ, rằng có vàng rồi). tôi vọt miệng nhiếc yêu: - Lu-y (Louis, tên ông kiểm), Lu-y nè! Mày làm phách lắm, mà biết không? Làm việc cực khổ gần trối chết, sắm một đống đồ như vậy đây, chưa đủ mặc hay sao? Còn làm phách muốn sắm vàng mắc tiền nữa? Ông tôi cười lỏn lẻn, móc túi lấy ra ra bốn cái hộp giấy cái lớn cái nhỏ, đưa hết cho tôi mà rằng: - Lu-y làm phách lỡ rồi, chị Hai! Ông dắt tôi lại kiếng mặt tủ áo, biểu tôi đeo vào mình hết cho ổng coi. Thiệt anh nầy ít khi cho, mà một lần cho thiệt là thích đáng! Không biết nhờ tay ai mua giúp mà biết lựa quá chừng? Nội đó hai sợi dây chuyền vàng Tây, một cái bông ghim cổ áo, hai tay chuỗi hột trút lượng, một đôi neo đặc, một chiếc dứa vàng và một chiếc vòng bằng đồng thoa, đều vừa ý tôi thảy thảy. Đeo vô rồi, ồng đứng dang ra xa, nhìn tôi mà cười một cách hân hoan thắm thiết. (Sau nầy tôi rõ lại, nội những đồ vi kiếng ông kiểm lâm sắm cho tôi đó, là tiền mồ hôi xót mắt ổng tiện căn ngót gần bốn năm trời!) Cha chả là ác! Ác không chỗ nói! Thủng thẳng chị em cô bác xem lần tới lớp sau coi còn có ai nỡ dạ nào đoạn lìa cái một, cái gánh ân tình tuy Pháp-Nam nhưng thâm nặng làm vầy. Rõ là tôi không biết điều. Nhưng, thưa ông kiểm sê-ri, tôi xuống núi quyết báo thù, ai biểu ông tìm tôi cho mang khổ? 21. Đáo đầu trở về Sài Gòn Ở Tây Ninh tôi có quen một ông thợ bạc, tên Tự, nhưng vì phạm huý ông vua Tự Đức, nên anh em đổi gọi Chữ, và bác Tư Chữ có người vợ thật khéo, làm nghề may, bác đột tay mà đều hơn đột máy và mấy hàng "chỉ rận" đột trên nhiễu xuyến đen, trông thật đều nhìn kiếm chỗ nào sơ sót kiếm không ra. Bác Tư Chữ gái vừa may cho tôi xong hai mớ áo với hàng ông kiểm mua hôm trước, chưa chi ông nhà tôi thúc hối cùng đi với ông xuống Sài Gòn trả lễ vợ chồng quan hai. Lúc đó tôi lại bịn rịn vì biết chim sổ lồng không trông mong trở lại, ngày thường soi kiếng, thấy bề nhan sắc như vầy quyết không thua ai, lúc còn con gái, tôi hơi gầy, nay xông pha trận mạc như tập thể thao, lại nở nang hơn xưa, hơi có da có thịt hơn trước một đôi chút, nhưng lằn cong nét thẳng như tô đậm thêm, còn cái đẹp tự nhiên là mắt liếc ngọt như dao, cạnh mũi luôn luôn như khóc vừa rồi, tôi không cần thoa dầu gió và chỉ cô đọng tinh thần là mi mắt có giọt luỵ gần rơi, giết anh hùng dễ ợt môi tôi luôn đỏ thắm, chắc da săn thịt, một hôm ông kiểm là Tây mà biết nói: "Tôi muốn ăn thịt chị Hai mới sướng!". Tôi nghĩ nếu gặp dịp nầy mà không thừa thế tung hoành, thì biết đời thuở nào vẽ mày vẽ mặt với thế gian nầy cho đặng? Vậy tôi lén tom góp vàng bạc của cải từ hồi đụng thằng Tư trời đánh, với số tiền chia được của anh Tiều Châu, nay thêm được mó hàng giẻ vừa cắt xong, tôi nói với ổng sẵn dịp nầy cho tôi mang về Sài Gòn may thêm được khéo hơn. Cơ khổ! Thiệt tại cái bụng mình tẹo, tính chuyện gian hùng rồi tự nhiên nó bắt sợ phập phồng phải bày điều nói láo, chớ đời nào mà ông ở nhà tôi biết nghi kỵ cho tôi chuyện gì? Xe đò tới đậu trước nhà dây thép chánh đối diện với nhà thờ nhà nước đầu đường Catinat, ông kiểm chưa vội đi nhà quan hai và tay xách va li, hai đứa lên xe kéo cho chạy thẳng lại khách sạn lớn của Pháp là nhà hàng Rotonde, ở mé sông đầu đường Catinat, sắp đặt cho ổng xong rồi, tôi mới xin ông cho tôi đem ba món đồ cho thợ nó may liền cho lợi thì giờ tôi lại dặn ổng tới bữa cơm trưa thì cứ dùng đi đừng chờ tôi vì còn ghé thăm chị em bạn, chắc sao người ta cũng """