" Sắc Lá Momiji - Miyamoto Teru & Song Lan Anh (dịch) full mobi pdf epub azw3 [Lãng Mạn] 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Sắc Lá Momiji - Miyamoto Teru & Song Lan Anh (dịch) full mobi pdf epub azw3 [Lãng Mạn] Ebooks Nhóm Zalo “Anh! Việc gặp lại anh trên chuyến cáp treo từ khu vườn thược dược đi đến đầm Ddokko ở Zao ấy là điều em không thể tin được”. Hai con người đó rất mực yêu thương nhau, nhưng lại phải đặt bút ký vào lá đơn ly hôn bởi một lý do không thể cưỡng lại được của số mệnh. Mười năm cách biệt. Họ gặp lại nhau tại Zao, nơi ngút ngàn màu đỏ của lá momiji. Và rồi, cô gái ấy đã viết cho người con trai một lá thư. Cuốn tiểu thuyết các bạn sẽ đọc là một câu chuyện lãng mạn của tình yêu và sự hồi sinh. Những dòng thư đi lại đã giúp hai con người ấy chôn vùi đi cái quá khứ cô đơn, buồn đau của mình. Miyamoto Teru (sinh năm 1947). Tác giả từng đoạt giải Dazai Osamu (1977) và đoạt giải Akutagawa (1978) – giải văn học cao quý của Nhật. Sự đồng hiện giữa nỗi buồn và niềm hân hoan cùng với nỗ lực vượt lên định mệnh đen tối chính là chủ đề của cuốn tiểu thuyết được dệt nên bởi bầu trời màu xám và những cây băng. — Thời báo Los Angeles Trong tác phẩm này, những trăn trở về kiếp người luôn hiện hữu đã đẩy các nhân vật tự khép mình trong vòng xoáy mâu thuẫn, rằng liệu con người có thể tự định đoạt số mệnh của mình hay không… Câu chuyện tình với những đam mê nổi loạn và kết thúc đột ngột, đớn đau được Miyamoto khắc họa tinh tế đã mang đến cho người đọc một cảm nhận sâu sắc về sự đấu tranh với số phận trong sự giao thoa giữa truyền thống và hiện đại.” — Thời báo Washington. LỜI BÀN VỀ TÁC PHẨM Sắc lá Momiji là một cuốn tiểu thuyết được tạo nên bởi các bức thư, một dạng tiểu thuyết rất hiếm gặp trên văn đàn Nhật Bản trong thời gian gần đây. Xoay quanh sự trao đổi thư từ giữa một người đàn ông và một người phụ nữ, tôi cho rằng, chính kiểu kết cấu này đã khiến cho nội dung của cuốn tiểu thuyết được diễn tả cực kỳ chân thực. Có lẽ, bản thân hình thức theo thể loại viết thư đã đóng một vai trò nhất định cho xuất phát điểm của tiểu thuyết hiện đại, nhưng có thể nói rằng, cùng với việc tiểu thuyết hiện thực xuất hiện, hình ảnh của nó đã dần bị lu mờ đi. Đó là bởi, hình thức thể văn dưới dạng một nhân vật viết thư cho một nhân vật cụ thể khác có quá nhiều chế hạn, có quá nhiều những yếu tố gây trở ngại cho tác giả trong việc tự do triển khai, mở rộng thế giới trong tác phẩm của mình. Với ý nghĩa đó, thể loại tiểu thuyết dưới dạng thư từ giờ đây đã trở thành một thể loại mang phong cách có phần xưa cũ. Mặt khác, nếu nhìn vào cuộc sống của người dân thành phố bây giờ, có thể thấy sức nặng của thư từ đã giảm đi rất nhiều. Để chuyển tải suy nghĩ hoặc truyền đạt một nội dung công việc, đã có những công cụ khác hỗ trợ rất hiệu quả, chẳng hạn như điện thoại là một ví dụ minh chứng rõ ràng cho điều này. Từ những điều trên, có thể thấy, dù là đối với nghệ thuật tiểu thuyết, hay đối với cảm nhận của chúng ta trong cuộc sống hằng ngày, thư từ viết tay cũng ngày càng xa rời cuộc sống con người. Thế nhưng, bất chấp tất cả, trên thực tế, vẫn có những lá thư mà người ta phải viết bằng tay. Và ta có thể khẳng định rằng, đó chính là những lá thư thể hiện đúng nhất cái bản chất vốn dĩ của thư viết tay thứ mà sẽ không có bất kỳ một phương tiện nào khác có thể thay thế được. Những dòng thư được chính bàn tay một người phụ nữ viết cho một người đàn ông chất chứa những tiếc nhớ, nỗi muộn phiền và bao nhớ thương đã cho chúng ta thấy được tác dụng của những lá thư viết tay. Nói một cách khác, khi bóng dáng của những lá thư trong cuộc sống đời thường ngày càng lu mờ dần, thì ngược lại, những lá thư vẫn còn ở lại lại chứa đựng đậm đà chất văn chương. Chính bởi những yếu tố này, tác giả Miyamoto Tero đã lựa chọn phong cách văn chương theo thể viết thư có phần hơi xưa cũ này, để rồi mở ra một thế giới kỳ ảo trong tâm tưởng. Hơn thế, Miyamoto Teru còn được mọi người công nhận là một nhà văn có lối viết rõ ràng, rành mạch. Có thể khẳng định rằng, đối với người kể chuyện, thư tay chính là một khoảng không gian vô cùng đáng quý, nơi mà ở đó, người ta có thể thỏa sức giãi bày những tâm sự của bản thân. Bởi vậy, không còn cần đến những câu miêu tả hay lời giải thích mà ta vẫn thường thấy trong các cuốn tiểu thuyết được viết bằng lời kể chuyện của người thứ ba. Chỉ với những lời lẽ của người viết thư mà toàn bộ diễn biến câu chuyện đã được tái hiện một cách hoàn hảo. Chẳng hạn, chúng ta cùng xem một đoạn thư trong tác phẩm này. “Anh! Việc gặp lại anh trên chuyến cáp treo từ khu vườn thược dược đi đến đầm Ddokko ở Zao ấy là điều em không thể tin được.” Chỉ với vài dòng thư như thế này thôi đã hàm chứa bao nhiêu nội dung rồi. Trước tiên, chúng ta hiểu được có lẽ người phụ nữ và người đàn ông này mới vừa gặp lại nhau sau một quãng thời gian dài, hơn thế, đó còn là sự gặp gỡ tình cờ, và đối với người con gái, nó tình cờ như thể bất ngờ có tiếng sét của trời cao giáng xuống. Còn nữa, ta cũng hiểu được rằng đây là lá thư người phụ nữ viết cho người đàn ông mà cô đã gặp lại trong lần hội ngộ ấy. Đặc biệt, thông qua cách xưng hô “anh” được viết ở trong thư ấy, người đọc có được linh cảm rằng, sự gặp gỡ này không phải là một sự việc vô tình chỉ thoáng lướt qua trong cuộc sống của người phụ nữ, mà nó mang lại cho cô ấy một cú sốc, làm cho dòng chảy đời sống của cô ngưng lại đôi chút, cuốn theo cả cuộc sống của người đàn ông kia vào trong đó, để rồi tạo nên một câu chuyện giữa hai con người ấy. Nếu chú ý tới các từ nằm trong dòng thư ấy, ta cũng không thể bỏ qua: “vườn thược dược”, “đầm Ddokko”, “chuyến cáp treo”. Những từ ấy mang một giai điệu trầm buồn, khiến cho người đọc cảm nhận được sự gặp lại tình cờ giữa hai con người này mênh mang vẻ u sầu. Gặp lại, có nghĩa là đương nhiên, trong quá khứ, hai con người này đã có gì đó với nhau. Vậy, mối quan hệ đó là gì? Tại sao hai người đó lại phải xa nhau? Điều đó sẽ dần được làm sáng tỏ qua những dòng thư đi thư lại của người phụ nữ và người đàn ông ấy, như những thước phim hiển hiện muôn dòng ký ức trong quá khứ. Có nghĩa là, ở đây, quá khứ không phải là quãng thời gian đã đi qua và hết hẳn. Nó là quãng thời gian vẫn tồn tại lặng lẽ và chất chứa muôn điều mà cả hai con người ấy đều chưa hề biết tới. Và chắc chắn, việc đặt chân lên vùng thời gian đó chính là việc con người ta được sống lại với quá khứ để vững bước trong cuộc sống hiện tại. Thông qua lá thư đầu tiên do Katsunuma Aki gửi cho người đàn ông có tên Arima Yasuaki sau hôm hai người tình cờ gặp lại, người đọc biết được rằng, hai người ấy trước đây đã từng là vợ chồng, rồi cuộc chia ly vội vã giữa hai người đã diễn ra là bởi một vụ tự sát tình ái không thành giữa Yasuaki với một người phụ nữ khác, và những diễn biến của sự việc ấy vẫn luôn là một dấu hỏi với Aki. Tuy lưỡng lự, nhưng cuối cùng Yasuaki cũng đã kể mọi điều về mối quan hệ của mình với Seo Yukako, người phụ nữ đã tự kết liễu đời mình và định giết luôn cả Yasuaki nhưng không thành. Cứ thế, cứ thế, những lá thư được gửi đi giữa hai người gồm có mười bốn lá, kéo dài từ giữa tháng Một đến giữa tháng Mười một. Nhưng, quãng thời gian gần một năm trời ấy, hai con người này không chỉ sống với những dòng sự kiện và ký ức trong quá khứ. Hai người không phải chỉ mang cho nhau xem những mảnh ký ức của quãng thời gian trước khi họ cưới nhau, khi đã cưới và sau khi ly hôn. Trong khi nỗ lực lấp đầy chỗ trống, đi tìm lời giải cho những ẩn số của quá khứ, thì từ lúc nào không hay họ đã thoát khỏi quá khứ, và đặt chân vào hiện tại. Ồ không, họ đã cho thấy quyết tâm bước từ hiện tại tiến tới tương lai cho bản thân mình. Và, chúng ta nhận thấy, câu chuyện được ghi lại trong cuốn tiểu thuyết Sắc lá Momiji không phải nằm ở mối hận sầu trong tình yêu của người đàn ông và người phụ nữ này, mà thể hiện ở sự chuyển mình, sự biến đổi trong những dòng thư: Từ việc hai con người ấy chạy đuổi theo quá khứ, giờ đây, họ đã thực sự bước vào cuộc đời trong hiện tại của chính mình. Tại sao hai con người đã ly hôn nhau ấy đang chạy đuổi theo quá khứ, lại có thể thành công trong việc vượt lên quãng đời quá khứ ấy? Đó không đơn thuần là bởi họ đã lấp đầy được những khoảng khuyết thiếu trong quá khứ. Đúng vậy. Phải chăng đó là bởi, con mắt của họ giờ đây bỗng có được một nhận thức để giúp họ khơi dậy khả năng ấy. Trước tiên, đó là những cảm nhận chân thật của Aki về âm nhạc Mozart. Nghe nhạc Mozart, cô đã thấy rằng, “sự sống và cái chết có lẽ là như nhau”. Còn Yasuaki đã bị trọng thương ở cổ và ngực, bởi mũi dao của Seo Yukako, người đã tạo nên vụ tự sát tình ái, nhưng chỉ có mình cô bị chết. Yasuaki đã có những suy nghĩ sâu sắc hơn một chút về điều đó và đã viết như thế này: “Trong lúc đang lâng lâng như thế, tôi có cảm giác mình đã bắt đầu lờ mờ biết được thế nào là hình thù của cái vật nào đó cứ bám riết lấy và không có ý định đi xa khỏi một bản thân khác của tôi, cái bản thân đang dõi theo chính mình khi đang ở trong trạng thái chết ấy. Có phải tất cả những hành động tôi đã gây ra, và không chỉ có thế, ngay cả những điều chưa hiển hiện thành hành động, và những tình thế của lòng hận thù, của nỗi tức giận, của tình thương yêu, của sự ngốc nghếch mà tôi vẫn hằng ôm ấp trong lòng mình đã được khắc tạc vào sinh mệnh một cách rõ nét, biến thành những tì vết không bao giờ xóa đi được, rồi phang vào tôi khi tôi đang lưu lạc sang cõi chết. Và, tôi có cảm giác, bằng việc hồi tưởng lại những hình ảnh về Yukako, tại đâu đó, cái suy nghĩ ấy sẽ dần đi đến kết nối với từ nghiệp, cái từ mà đã đi qua tâm trí tôi trong một tích tắc nào đó.” Mọi thứ sẽ không kết thúc bởi cái chết, mà thực ra, từ đó, hình ảnh của sự sống mới bắt đầu biểu hiện một cách rõ ràng. Từ mà Yasuaki nói đến, “sinh mệnh”, có lẽ không phải là sinh mệnh mang ý nghĩa sinh lý. Nó là một vật thể thuộc về thế giới siêu nhiên, một thế giới mà cả thế giới của sự sống và thế giới của cái chết của anh ta đã hòa nhập vào nhau. Và, sự sống là việc con người ta khắc tạc vào sinh mệnh vô số vết thương, còn cái chết chính là việc người ta tiếp tục khám phá những vết thương ấy. Từ việc kết lại những chuyện quá khứ, rồi xin lỗi vì sự phản bội của mình, cho đến việc xưng tội, sự chuyển điệu trong những lá thư của Yasuaki ấy bắt đầu từ lá thư viết ngày 8 tháng 8, lá thư mà anh đã bày tỏ sự nhận thức của mình về sinh mệnh. “Có thể nói rằng, những sự việc xảy ra trong vài ngày ngắn ngủi vừa qua kể từ khi nhận được thư em cho tới ngày hôm nay đã được tôi ghi chép lại khá chính xác.” Ở lá thư này, Yasuaki đã bất ngờ chèn thêm cái hiện tại có thể nói là đớn hèn của mình, gạt sang một bên những ký ức về Yukako. Và, một người phụ nữ khác, Reiko, bắt đầu xuất hiện. Một cô gái đầy sinh khí, đúng như bản chất của sinh mệnh, cô gái có tên Reiko đã đến bên Yasuaki. Cô cũng cùng độ tuổi với Yukako vào thời điểm Yukako bị chết đi, hai mươi bảy tuổi. Yukako xinh đẹp đã vẫy gọi anh đưa bước chân đến với cái chết còn Reiko, cô gái đã xây dựng kế hoạch làm một tạp chí PR cho các tiệm thẩm mỹ bằng số tiền mình tiết kiệm được trong suốt thời gian đi làm ở siêu thị, đã kéo giật anh lên trên ngọn đồi của sự sống. Nhờ có sự xuất hiện của Reiko trong những lá thư của Yasuaki, mà ánh sáng đã lấp lánh chiếu rọi cả sang những trang thư của Aki. Điệu nhạc ban đầu u sầu ca lên bài ca hội ngộ giờ đã vang lên những âm thanh có phần ấm áp, tươi vui. Những sắc thái ấy bắt đầu hiển hiện từ thời điểm này. Aki có cậu con trai bị chậm phát triển về trí tuệ tên Kiotaka. Đây là kết quả của cuộc hôn nhân giữa cô và Katsunuma Soichiro, người mà cô đã kết hôn sau khi chia tay với Yasuaki. Có thể nói rằng, nếu như đối với Yasuaki, Reiko là cây đũa thần cho sinh mệnh của mình, thì bé Kiotaka là ngọn lửa sinh mệnh của Aki. Không phải với tình thương dành cho đứa con trai khuyết tật, mà với ý chí và nỗ lực của người mẹ, quyết tâm từng bước, từng bước luyện tập cho con mình có được những khả năng giống như của một người bình thường, Kiotaka đã trở thành ngọn lửa cho sinh mệnh của Aki. Và thế là, kể từ sau lần gặp lại nhau “trên chuyến cáp treo từ khu vườn thược dược đi đến đầm Ddokko”, người đàn ông và người phụ nữ ấy, trong quãng thời gian chưa đầy một năm, đã tìm ra con đường đi cho riêng bản thân mỗi người, và bắt đầu bước đi trên quãng đời mới. Sắc lá Momiji không thể gọi là một cuốn tiểu thuyết có đoạn kết có hậu (happy ending). Thế nhưng, nó cũng không phải một câu chuyện buồn cho một chuyện tình yêu đã kết thúc. Đó là câu chuyện cổ tích về sinh mệnh của một người đàn ông và một người phụ nữ đang vươn mình trong cơn gió thổi đến tương lai. Tháng một năm 1985 Nhà văn Kuroi Senji Anh! Việc gặp lại anh trên chuyến cáp treo từ khu vườn thược dược đi đến đầm Ddokko ở Zao ấy là điều em không thể tin được. Vì quá đỗi ngạc nhiên, suốt hai mươi phút đồng hồ, cho đến khi lên tới cửa xuống đầm Ddokko, em đã không thể thốt nổi nên lời anh ạ. Giờ đây, ngồi viết thư cho anh và nghĩ lại, cũng phải đến mười hai, mười ba năm rồi ấy nhỉ. Em đã nghĩ là sẽ chẳng bao giờ còn gặp lại anh nữa. Vậy mà, trong một hoàn cảnh không hề được sắp đặt trước, hai ta đã gặp lại nhau. Gặp lại anh với khuôn mặt và ánh mắt đã có nhiều đổi thay theo năm tháng, em đã bối rối, đã nghĩ ngợi biết bao điều. Thế rồi, bằng mọi cách em tìm ra được địa chỉ của anh, để có thể gửi cho anh lá thư này. Chắc anh sẽ lại bật cười vì cái tính bướng bỉnh, nóng vội ở em chẳng thay đổi gì đúng không? Ngày hôm đó, bất ngờ em quyết định từ nhà ga Ueno đi lên tàu Tsubasa số 3, bởi em muốn cho con mình được ngắm nhìn những vì sao từ trên đỉnh núi Zao (Con trai em tên là Kiokata, giờ đã lên tám tuổi rồi anh ạ). Chắc khi ngồi trên chuyến cáp treo đó, anh cũng đã để ý thấy thằng bé rồi nhỉ. Cháu nó bị khuyết tật bẩm sinh, bị liệt toàn bộ nửa người phía dưới. Thêm nữa, tuy tám tuổi đấy nhưng trí não của thằng bé chỉ phát triển như một cậu bé lên hai, lên ba mà thôi. Nhưng không biết vì sao mà cháu nó lại thích ngắm những vì sao đến thế, thích đến mức mà vào những tối đẹp trời, hai mẹ con lại ra khu vườn nhà mình ở Koroen, cháu cứ mải mê ngắm nhìn bầu trời đêm hàng giờ đồng hồ không biết chán. Có một lần, hai mẹ con ngủ lại hai đêm ở căn hộ của ông ngoại ở Aoyama. Vào tối trước hôm lên đường về Koroen (thành phố Nishinomya), vô tình em thấy trong một cuốn tạp chí có bức ảnh bầu trời đêm chụp trên đỉnh núi Zao. Em đã ngạc nhiên vô cùng với hình ảnh những vì sao đầy ắp cả bầu trời. Em nghĩ rằng chắc mình sẽ không thể nào có cơ hội cho con trai, bé Kiokata, được ngắm nhìn những vì sao ấy đâu. Từ khi sinh ra, hầu như em chưa cho thằng bé đi chơi xa bao giờ anh ạ. Bố em năm nay đã bảy mươi tuổi rồi, nhưng hằng ngày cụ vẫn đều đặn đi đến công ty. Hơn nữa, để thuận tiện cho việc chỉ đạo công việc ở chi nhánh Tokyo, mỗi tháng khoảng hai tuần, cụ vẫn sống ở Tokyo, tại khu tập thể Aoyama mà anh cũng biết. Có điều, tuy tóc bố em đã bạc đi rất nhiều so với mười năm trước đây, lưng cụ đã còng hơn, nhưng cụ vẫn rất khỏe, vẫn phân đều nửa tháng sống ở Koroen, nửa tháng sống ở Aoyama. Thế nhưng, vào khoảng hồi đầu tháng Mười vừa rồi, khi xe của công ty đến đón, bố em đã bước hụt ở bậc cầu thang bằng đá trước cửa khu tập thể nên bị trật mắt cá chân. Xương chân cụ hơi bị rạn, máu tụ nhiều khiến cụ không thể đi lại được. Nghe được tin, em vội vã lên tàu Shinkansen[1] để đến chỗ cụ, dẫn theo cả Kiotaka. Bởi khi thấy mình không thể đi được, cụ chẳng thèm chú ý đến sự chăm sóc tận tụy của chị giúp việc Ikuko, mà gọi điện thoại kêu em đến ngay. Em nghĩ chắc phải mất một thời gian khá lâu cụ mới có thể khỏi được, nên vội vã dắt Kiotaka đi theo. Rất may là chân cụ chỉ bị bong gân, không có gì đáng ngại lắm. Cho nên, khi nhìn thấy hai mẹ con em là cụ nguôi hẳn cơn bực bội. Rồi có lẽ cụ lại thấy lo lắng cho ngôi nhà ở Koroen không có ai trông nom nên lại khăng khăng bắt hai mẹ con phải về ngay. Vừa buồn cười, vừa mệt mỏi với cái tính gàn dở của cụ, em đành cậy nhờ chị Ikuko và anh thư ký Okabe, rồi hai mẹ con lại lóc cóc ra ga Tokyo để lên tàu trở về Koroen. Tại ga, em lại bắt gặp tờ quảng cáo về tour du lịch Zao. Đó là một bức ảnh lớn, dường như được chụp vào mùa lá momiji[2] thì phải. Bao trùm toàn bộ bức ảnh là muôn màu của những cây cổ thụ với những cành cây to, mập mạp. Em mới chỉ biết về Zao với những màn sương muối mỏng nhẹ bao trùm trong mùa đông. Nhưng giờ đây, khi đứng ở phòng chờ của nhà ga Tokyo, em lại hình dung thấy những cành cây cổ thụ ấy chẳng bao lâu nữa sẽ hóa thành vô số những cành băng, đung đưa trong gió dưới bầu trời ngút ngàn sao. Chẳng hiểu sao em cứ nóng lòng muốn cho đứa con trai khuyết tật của mình được thấy khung cảnh núi non dịu mát cùng những vì sao ở nơi ấy đến vậy. Khi nói ra điều đó với Kiotaka, thằng bé có vẻ rất vui. Ánh mắt bé sáng lên và nằn nì mẹ cho đi đến đó. Vì vậy, mặc dù biết rằng với hai mẹ con, đây có thể sẽ là chuyến đi mạo hiểm, nhưng em vẫn quyết định đi ngay đến đại lý du lịch nằm ngay trong nhà ga để mua vé đến tỉnh Yamagata, đặt phòng ở suối nước nóng Zao và đặt luôn cả vé máy bay đi về từ Sendai đến sân bay Osaka. Thế nhưng máy bay đã kín chỗ, cho nên để có được vé máy bay, em phải có một chút thay đổi trong lịch trình. Đó là hai mẹ con sẽ phải ngủ lại một đêm nữa ở Zao hoặc Sendai. Em quyết định sẽ nghỉ hai đêm ở Zao, rồi hai mẹ con sẽ lên ga Ueno. Ví thử như khi ấy, hai mẹ con em chỉ nghỉ lại Zao một đêm thôi, thì hai ta đâu có gặp được nhau phải không? Giờ đây nghĩ lại, em thấy đây quả là sự sắp đặt tình cờ đến kỳ lạ anh ạ. Bầu trời Yamagata hôm ấy thật u ám. Ngồi trên xe taxi đi từ ga Yamagata đến suối nước nóng Zao, em nhìn trời với tâm trạng vô cùng thất vọng. Và bất giác, em chợt nhớ ra rằng đây là lần thứ hai em đến vùng Tohoku này. Em nhớ tới chuyến du lịch tuần trăng mật của chúng ta, khi em và anh từ hồ Tazawa ở tỉnh Akita đi về phía Towada. Anh ạ, đêm đó, hai mẹ con em đã trọ lại một đêm ở một ngôi nhà nghỉ tắm nước nóng, nơi có những dòng nước nóng đầy tràn chảy quanh các dãy phố như những con mương và nồng nặc mùi lưu huỳnh. Đó là một đêm mà những đám mây che phủ bầu trời khiến người ta chẳng thể nhìn thấy trăng hay chút ánh sáng nào đó của những vì sao. Thế nhưng không khí của núi non thì thật là dễ chịu. Em thấy lòng mình thư thái trong chuyến du lịch đầu tiên của hai mẹ con. Sáng hôm sau, trời trở nên trong xanh. Kiotaka tay cầm nạng và có vẻ nóng lòng muốn đến bến ngay. Do vậy, hai mẹ con mau chóng ăn bữa sáng rồi ngay lập tức ra bến để lên cáp treo đi đến vườn thược dược. Em đã chợt nhìn thấy anh cùng đi với mình trên một chiếc cáp treo trong vô vàn những chiếc cáp treo nơi vùng đất xa xôi Yamagata, trên sườn núi Zao. Đó là sự tình cờ hay là sự sắp đặt của trái tim hả anh? Rất nhiều người phải đợi đến lượt mình lên cáp treo, nhưng hai mẹ con em chỉ phải chờ khoảng hai, ba phút là đến lượt luôn. Người phụ trách mở cửa chiếc cáp treo, bế bé Kiotaka đang ôm nạng vào trong, rồi sau đó đến lượt em. Khi đó, em nghe thấy người phụ trách nói rằng vẫn còn chỗ cho thêm một người nữa. Và một người đàn ông mặc chiếc áo khoác màu nâu nhạt vào ngồi ở ghế đối diện với hai mẹ con trong khoang cáp treo chật hẹp ấy. Cửa đóng lại. Khi chiếc cáp treo rung rinh để bắt đầu chuyển động, em nhận ra người đàn ông đó chính là anh. Không thể diễn tả được sự kinh ngạc của khi đó. Lúc ấy, anh vẫn chưa để ý thấy em đâu. Anh đang lấy tay kéo cổ áo che cằm cho khỏi lạnh và say sưa ngắm nhìn cảnh vật bên ngoài. Trong lúc anh cứ lơ đãng thả hồn ra khung cảnh bên ngoài cửa sổ như thế, em đã ngắm nhìn anh không chút chớp mắt. Em ngồi trên chiếc cáp treo này là để được ngắm nhìn lá momiji, ấy vậy mà giờ đây em chẳng hề để mắt đến rừng cây ấy, cứ mải miết ngắm nhìn người đàn ông đang ngồi ngay trước mặt mình. Trong thoáng giây em cứ tự hỏi rồi lại tự trả lời, rằng người đàn ông này có phải là Arima Yasuaki, người trước đây đã từng là chồng của mình đấy không. Rồi em lại nghĩ, nếu đó chính là anh, Arima Yasuaki, thì tại sao anh lại lên cáp treo ở Zao, nơi vùng Yamagata này. Em nghĩ như thế không chỉ bởi em ngạc nhiên vì sự tình cờ này, mà còn vì hình ảnh của anh sau mười năm không gặp trông khác đi quá nhiều so với hình ảnh của anh trong những kỷ niệm vẫn còn mãnh liệt nơi trái tim em. Mười năm rồi. Hồi đó em hai lăm, giờ thì cũng đã ba lăm rồi. Còn anh, đương nhiên đã ba bảy tuổi còn gì. Khuôn mặt hai chúng ta giờ đã đổi thay khá nhiều theo năm tháng, đã dần hiện lên những nếp nhăn của tuổi tác. Dẫu vậy, em vẫn cảm nhận rõ ràng một điều rằng sự thay đổi đó ở anh không phải là điều bình thường, cuộc sống của anh chẳng hề bình yên. Anh đừng buồn em vì em nói ra những điều này nhé. Em cũng không rõ rằng lúc này đây, em viết lá thư này cho anh để làm gì. Em chỉ cứ thế viết nên nỗi niềm của mình, viết riêng cho mình đọc mà sẽ chẳng bao giờ gửi cho anh đâu. Thế nhưng, dù tâm niệm là vậy, em vẫn cứ băn khoăn hay là cứ gửi nó cho anh nhỉ. Chẳng bao lâu sau, anh vô tình đưa mắt về nơi em, rồi lại cứ thế nhìn ra bên ngoài cửa sổ. Thế rồi bất chợt anh mở to mắt, kinh ngạc nhìn em. Thế rồi hai chúng ta đăm đăm nhìn nhau trong một quãng thời gian dài. Em tự bảo mình rằng phải nói gì đi chứ, nhưng đã chẳng thể nào thốt nổi nên lời. Cuối cùng thì em cũng tỉnh táo lại và bảo: “Chào anh. Lâu lắm rồi chúng ta không gặp nhau.” Anh đáp lại: “Chào em. Quả lâu lắm rồi nhỉ.” Rồi anh bất giác ngoảnh mặt sang Kiotaka và hỏi: “Con em đây à?”. Em dồn hết sức để bật ra câu trả lời “vâng ạ” với giọng run run. Trên cao, phía hai bên cửa sổ, từng chùm lá momiji thoáng lướt qua ánh mắt trống rỗng nơi em. Đã bao nhiêu lần người ta nhìn Kiotaka và hỏi rằng: “Đây có phải là con chị không?” rồi nhỉ?! Trước đây, khi thằng bé nhỏ hơn, với bàn tay, bàn chân khuyết tật bẩm sinh và khuôn mặt thể hiện rõ sự chậm phát triển về trí tuệ, có người thì hỏi em như vậy với một thái độ thương hại, lại có những người khác cũng hỏi vậy nhưng không hề tỏ vẻ gì. Còn em, mỗi lần như vậy, lại cố gắng hết sức nhìn thẳng vào mắt họ và tự tin trả lời: “Vâng”. Thế nhưng, trước câu hỏi đó của anh, em lại cảm thấy nỗi hổ thẹn bao trùm tâm can, vì thế em chỉ khẽ cất tiếng ngập ngừng trả lời anh mà thôi. Chiếc cáp treo chậm rãi đi lên cửa xuống đầm Ddoko. Phía xa xa là đỉnh núi sáng chói với ánh mặt trời buổi sớm. Nhìn xuống dưới chân núi, những mái nhà của khu phố suối nước nóng cũng dịu dàng ánh lên trong nắng. Em vẫn nhớ như in hình ảnh mái ngói đỏ rực của khách sạn nằm trên triền núi, tách biệt hẳn với khu phố suối nước nóng đã khiến em liên tưởng tới ngọn đuốc nơi địa ngục được vẽ trong bức tranh cuộn dài từ thời Kamakura. Vì sao em lại liên tưởng tới hình ảnh ấy kia chứ? Có lẽ chiếc cáp treo đang rung rinh, em đã bị rơi vào trạng thái tinh thần không bình thường bởi những dao động mạnh và nỗi căng thẳng trong cõi lòng. Bởi vậy, lẽ ra trong hai mươi phút đồng hồ ngồi trong khoang cáp treo ấy, em đã có thể nói với anh bao điều. Ấy vậy mà, em chỉ lặng im không nói thêm một lời nào, và tự hỏi không biết sắp tới nơi chưa nhỉ. Khoảnh khắc ấy thật giống hệt cái thời khắc chúng ta chia tay nhau mười năm trước đây. Khi ly hôn, còn biết bao điều chúng ta muốn nói với nhau, vậy mà ta đã không sao làm nổi. Mười năm trước, em đã bướng bỉnh, đã không yêu cầu ở anh một lời giải thích về sự việc đó. Còn anh cũng kiên cường chịu đựng, chẳng hề thanh minh, biện hộ gì cho mình. Cô gái hai mươi lăm tuổi là em ngày đó đã không thể rộng lòng tha thứ cho anh. Còn anh cũng chẳng thể nào hạ mình thêm nữa. Những tán cây ngày một rậm rạp đã che khuất ánh mặt trời, khiến cho bên trong khoang cáp treo trở nên tối hơn. Anh vẫn cứ nhìn chằm chằm về phía trước nơi em ngồi rồi khẽ nói: “Đến nơi rồi đấy nhỉ.” Đúng lúc ấy, em nhìn thấy vết sẹo phía bên phải cổ anh. Em chợt nghĩ: “Trời ơi, vết thương hồi đó của anh!” rồi vội vã quay mặt đi. Sau đó, chúng ta xuống bến, một khu bến u ám, nhem nhuốc. Đứng trên con đường khúc khuỷu để xuống đầm Ddokko, anh khẽ nói: “Thôi, tạm biệt” và chạy đi. Em viết cho anh những dòng thư này với những tình cảm chân thành nơi đáy lòng. Bóng anh dần xa khuất, em vẫn còn thẫn thờ đứng như vậy hồi lâu. Em lại có cảm giác rằng từ đây chúng mình sẽ vĩnh viễn xa rời nhau, và cố kìm nén tiếng nức nở cứ chực trào ra. Em không thể hiểu nổi lòng mình nữa, không hiểu vì sao mình lại có tâm trạng như vậy. Anh biết không, bất chợt, em muốn đuổi theo anh. Em muốn hỏi anh rằng giờ này anh sống ra sao, đã trải qua cuộc sống thế nào trong mười năm trôi qua kể từ khi chúng ta chia tay. Nếu như không có bé Kiotaka ở đây, có thể em đã làm vậy cũng nên. Em bắt đầu bước từng bước chậm rãi cùng bé Kiotaka trên con đường đi xuống đầm Ddokko. Những cánh hoa cúc vạn thọ héo tơi tả khẽ đung đưa theo làn gió hiu hiu. Một đoạn đường chỉ đi hết mười phút với một đứa bé đi lại bình thường thì bé Kiotaka phải đi hết ba mươi phút. Như thế là con em đã tiến bộ hơn rất nhiều so với trước rồi đấy anh ạ. Cháu mới chỉ bắt đầu thể hiện mong muốn được tự mình hoạt động, tự mình làm mọi thứ từ hai năm trở lại đây thôi. Gần đây, thầy giáo ở trường trẻ em khuyết tật còn động viên em rằng nếu cháu nó cố gắng và chăm chỉ luyện tập, thì đến một ngày nào đó, rất có thể cháu sẽ có thể sống và làm việc được gần như người bình thường. Hai mẹ con đi xuyên qua những tia nắng đang tỏa xuống rừng cây rậm rạp ven đầm, rồi đi thang máy để lên trên đỉnh núi. Em dõi tầm mắt ra phía xa để tìm bóng dáng anh nhưng chẳng thấy. Hai mẹ con lại cùng nhau đi từ trên đỉnh núi xuống rừng sồi. Đến chỗ có những phiến đá nhấp nhô nơi sườn núi, em cho bé Kiotaka ngồi xuống đó và hai mẹ con cùng ngắm nhìn cảnh vật một lúc lâu. Trời không một gợn mây. Tít phía xa xa, những chú diều hâu liệng bay trên bầu trời. Ở nơi có màn sương mờ màu tím nhạt bao phủ phía chân trời (có lẽ đó là khu vực gần vùng biển Nhật Bản), thấp thoáng bóng những ngọn núi nối tiếp nhau. Em nói cho Kiotaka biết rằng đó là dãy núi Asahi, và ngọn núi nhô hẳn lên ở phía bên phải có tên là núi Chokai. Vừa nói với con, em vừa dõi mắt không biết bao nhiêu lần xuống chiếc cáp treo hình vuông chở khách xuống bên sườn núi khác của ngọn Zao. Biết đâu anh lại có ở trên đó. Mỗi lần có tiếng bước chân người trên con đường nhỏ phía sau lưng, em lại hồi hộp quay đầu lại. Kiotaka cười khúc khích khi nhìn thấy lũ diều hâu, khi nhìn thấy chiếc cáp treo chỉ còn là một chấm nhỏ ở phía dưới, và khi nhìn thấy những ngọn khói bếp của nhà dân bay lên từ đâu đó. Em vừa vui vẻ hòa theo tiếng cười của con trai vừa cố lưu giữ vào trái tim mình hình ảnh của anh, hình ảnh em vừa mới gặp đây thôi, hình ảnh mà mười năm trời nay em mới được nhìn lại. Trí óc em cứ vẩn vơ nghĩ ngợi, rằng khuôn mặt anh sao khác trước đây đến thế, và rằng anh đến Zao này để làm gì. Đi được khoảng hai giờ đồng hồ, hai mẹ con em ngồi nghỉ trên một phiến đá. Em quyết định rời nơi đó và trở về khu nhà nghỉ. Hai mẹ con lại xuống đầm Ddokko bằng cáp treo, và quay trở lại tuyến cáp treo. Nhưng lần này, trong khoang cáp treo chỉ còn mỗi hai mẹ con em, và em lại được thả hồn theo những chiếc lá momiji đang mùa trổ lá. Cả vùng núi non ấy hóa ra không chỉ được bao phủ bởi lá momiji mà xen lẫn vào đó còn là màu xanh vẫn thường thấy của muôn loại lá, cộng với màu lá nâu, rồi màu vàng của lá cây bạch quả. Những chùm lá đỏ thẫm đan xen trong các màu lá khác trôi qua hai bên chiếc cáp treo. Em thấy dường như những chiếc lá đỏ ấy đang bùng cháy lên dữ dội. Bao trùm trong tâm trí em là hình ảnh những ngọn đuốc lớn đang bập bùng cháy từ vô vàn kẽ lá muôn màu sắc. Và em cứ thế lặng yên không nói, mải miết nhìn theo sắc màu của những tán cây rậm rạp đó. Bất giác, em có cảm giác như mình đang nhìn thấy một vật gì đó thật đáng sợ. Trong đầu em hiện lên rất nhiều ý nghĩ. Cứ mỗi lần những chùm lá momiji trôi qua trước mắt em, trong phút giây, trí óc em cứ miên man những suy nghĩ mà để diễn đạt nên lời những điều đó thì có lẽ, phải mất hàng giờ đồng hồ mới mô tả hết được. Nói như thế nghe hơi quá phải không anh? Còn nếu em lại bảo với anh rằng là em đang mơ đấy, như ngày xưa em vẫn thường nói với anh thì anh sẽ lại cười em đấy nhỉ? Dầu vậy, em vẫn cứ như người say mỗi khi nhìn thấy sắc lá momiji, vẫn cảm thấy một vật gì đó thật đáng sợ, một vật giống như lưỡi dao lặng lẽ và lạnh lùng lẩn khuất trong những ngọn đuốc nơi những hàng cây kia. Có khi, cuộc hội ngộ không hề định trước với anh đã lay gọi cô thiếu nữ ngày nào vốn hay tưởng tượng vẩn vơ thức dậy trong em cũng nên. Đến đó, em cùng con trai Kiotaka đã tắm trong một bồn tắm lưu huỳnh lớn bằng đá ở nhà nghỉ. Sau đó, hai mẹ con lại đi lên vườn thược dược để ngắm sao. Hai mẹ con đi qua con đường tắt mà người chủ nhà nghỉ đã chỉ giùm, vừa cầm đèn pin soi xuống từng bước chân, vừa đi trên con đường dốc khúc khuỷu không một bóng người. Có lẽ đó là lần đầu tiên trong đời, bé Kiotaka đi bộ như vậy. Có vẻ hai bên hông chống nạng đã khá đau, rất nhiều lần thằng bé phải dừng lại trong đêm tối và thở khẽ. Em gắng sức khích lệ con. Thế nên, thằng bé lại cố gắng bước tiếp từng bước, từng bước một theo vùng sáng tròn của chiếc đèn pin. Khi đến trước vườn thược dược, hai mẹ con dừng lại và thở hổn hển, rồi cùng ngước nhìn lên bầu trời đêm. Muôn ngàn vì sao lấp lánh thật gần như thể chỉ với tay lên một chút là có thể chạm vào khiến hai mẹ con cảm thấy thư thái. Khu vườn thược dược nằm trên sườn dốc thoai thoải với xung quanh là những đường viền màu đen hòa quyện cùng mùi hương thoang thoảng đâu đây. Những sắc hoa được nhuộm đen bởi bóng đêm, và người ta chỉ nghe thấy tiếng gió vọng tới. Cả dãy núi lừng lững phía trước mắt, cả tòa nhà chờ của tuyến cáp treo, cả những cột sắt chăng dây điện, tất cả đều hoàn toàn yên lặng. Và trên cao, dải ngân hà rực sáng vắt ngang qua bầu trời. Hai mẹ con em đi vào giữa vườn thược dược, cứ thế ngước nhìn lên bầu trời và cùng nhau leo dốc. Khi leo đến cuối vườn hoa, hai mẹ con ngồi xuống hai chiếc ghế dài nhỏ duy nhất có sẵn ở đó, khoác thêm chiếc áo chẽn có mũ mà em đã mua trước cửa nhà ga Yamagata. Thế rồi, mặc cho những ngọn gió đến bên trêu đùa, hai mẹ con cứ thế, cứ thế thả hồn vào không gian vũ trụ lấp lánh muôn màu. Ôi! Những ngôi sao trông thật cô đơn! Và cái không gian vô tận của những vì sao ấy khơi gợi trong em một nỗi lo sợ vô cớ. Phải chăng cuộc hội ngộ tình cờ với anh sau mười năm dài cách biệt đã khiến em cảm nhận thêm nỗi cô đơn cứ trào dâng trong lòng. Vì cớ gì mà em lại buồn đến thế? Ngoảnh mặc lên cao ngắm nhìn những vì sao, em lại thì thầm với trái tim mình: “Ôi, mình cô đơn quá, cô đơn quá!” Và thế là, những nỗi buồn, nỗi cô đơn ào ào kéo đến, sự việc của mười năm về trước như những thước phim lại ào ạt dội về. Lá thư em viết dài dòng quá phải không anh? Có thể anh sẽ xé lá thư này giữa chừng, một lá thư chán ngắt. Dầu vậy, em vẫn muốn viết ra đây tất cả. Chí ít ra thì, người phải chịu thiệt thòi nhất là em trong sự việc đó (rất có thể anh sẽ bảo: “Đâu phải, không phải là cô, mà là tôi chứ”) muốn giãi bày với anh hết tất cả những suy nghĩ của em khi ấy, rằng em đã tự mình đưa ra kết luận về sự việc như thế nào. Thật ra, khi chúng ta chia tay, lẽ ra em đã phải nói cho anh nghe những điều này. Nhưng, em đã không làm. Sự việc của hai ta đã đi qua lâu lắm rồi, nhưng lúc này đây, em vẫn muốn được viết lại tất cả về nó. Ngày hôm đó, cú điện thoại báo tin về sự việc ấy vang lên vào lúc năm giờ sáng. Chị giúp việc Ikuko lay em dậy khi em đang say giấc ở phòng ngủ trên tầng hai. — Hình như cậu Yasuaki đã làm chuyện gì đó thật kinh khủng. Chị Ikuko nói. Giọng chị run run khiến em cảm nhận rằng có một chuyện gì đó không hay đã xảy đến. Em mặc thêm chiếc áo khoác len ra bên ngoài bộ quần áo ngủ rồi vội vã chạy xuống cầu thang. Khi em nhấc máy, một giọng ồm ồm chậm rãi hỏi em rằng em là người có mối quan hệ thế nào với anh. — Tôi là vợ anh ấy. Em trả lời, giọng run rẩy. Người đó im lặng hồi lâu rồi cất tiếng với giọng nghiêm trọng. — Người được coi là chồng chị đã dính líu vào một vụ tự sát tình ái trong một căn phòng tại khu nhà nghỉ phố Arashiyama[3]. Cô tình nhân đã chết, nhưng chồng chị có thể sẽ qua khỏi. Anh ấy đang được cứu chữa tại bệnh viện và vẫn đang trong tình trạng hết sức nguy kịch. Xin chị hãy đến ngay. Người đó nói vậy rồi đọc cho em địa chỉ của bệnh viện. — Theo kế hoạch thì tối nay chồng tôi trọ ở nhà nghỉ gần ngôi đền Yasaka tại Kyoto cơ mà. Người đàn ông bên kia đầu dây điện thoại liền hỏi tên khu nhà nghỉ đó, rồi lại hỏi xem tối nay anh đã ra khỏi nhà với trang phục như thế nào. Em nhớ lại màu sắc và kiểu dáng chiếc áo vét cùng họa tiết trên chiếc cà vạt anh mang rồi trả lời người đàn ông ấy. Ông ta nói rằng, vậy thì đó đúng là anh rồi và yêu cầu em đến bệnh viện ngay. Nói xong, ông ta dập máy luôn. Em luống cuống không biết phải làm sao, vội vàng chạy lên phòng ngủ của bố. Vừa đúng lúc bố ngủ dậy. Nghe em kể lại sự việc, bố bảo: Điện thoại gọi đến trêu chọc linh tinh đó thôi. Nhưng em thì lại nghĩ, không thể có chuyện vào sáng sớm tinh mơ của mùa đông lạnh giá này lại có người nào đó cố tình gọi điện thoại đến chỉ để trêu chọc. Khi chị Ikuko đang gọi taxi, tiếng chuông cửa vang lên. Nhìn vào chiếc camera quan sát thì đó là người cảnh sát ở đồn cảnh sát gần đây. Anh ta bảo rằng anh ta nhận được điện thoại của Sở Cảnh sát Kyoto nên đến đây để xác nhận lại sự việc. Em cầm lấy chiếc áo măng tô của bố rồi đề nghị bố cùng đi với mình. — Vụ tự sát tình ái đó là thật ư? — Họ còn bảo rằng cô tình nhân kia đã chết. Em và bố lên taxi, cho xe chạy thẳng hướng Kyoto theo con đường cao tốc Meishin và nói đi nói lại hai câu trên. Đó không đơn thuần là một vụ tai nạn, mà là một vụ tự sát cùng người tình. Cả bố và em đều ngờ vực không rõ thực hư ra sao. Làm sao em có thể tin được là anh lại đi tự sát cùng một người con gái xa lạ nào đó kia chứ?! Chúng ta đã trải qua quãng thời gian dài yêu nhau, rồi cưới nhau cũng được hai năm rồi. Em nghĩ chắc chắn là họ nhầm người rồi. Rõ ràng là anh có công chuyện trao đổi với khách hàng ở câu lạc bộ Gion, rồi như mọi khi, anh trọ lại nhà nghỉ ngay gần đền thờ Yasaka. Thế nhưng, khi hai bố con em đến bệnh viện, khi nhìn vào người đàn ông vừa được chuyển ra từ phòng phẫu thuật và đưa lên nằm ở giường bệnh, chỉ thoáng qua em cũng nhận ra đó đúng là anh. Không thể diễn tả được nỗi sửng sốt, bàng hoàng của em khi đó. Em không thể bước thêm một bước nào nữa để lại gần bên anh khi anh đang trong trạng thái nguy kịch và đang phải tiếp máu như thế. Người cảnh sát đứng đợi hai bố con em ở hành lang trước cửa phòng bệnh đã nói cho hai bố con em nghe về vết thương của anh. Đó là vết thương bị gây ra bởi con dao gọt hoa quả, khá sâu nhưng may mà lại đi chệch chút xíu với động mạch cảnh. Thế nhưng phải một lúc lâu sau mới được người ta phát hiện, nên máu đã bị ra quá nhiều, khí tràn toàn bộ một bên lá phổi. Khi được chuyển đến bệnh viện thì anh đã ở trong tình trạng hầu như không còn huyết áp, thường xuyên ngừng hô hấp, và mấy tiếng đồng hồ qua anh đã ở trong tình trạng hết sức nguy kịch. Bác sĩ cũng ngay lập tức đến giải thích kỹ càng với bố và em tình hình của anh, rằng tình hình của anh ngày càng nghiêm trọng hơn, nên các bác sĩ không thể tiên lượng được liệu anh có qua khỏi hay không. Cô gái tên là Seo Yukako, hai bảy tuổi, là chủ của câu lạc bộ Aruru ở Gion đã bị con dao gọt hoa quả cứa ngang cổ và gần như chết ngay tại chỗ. Viên cảnh sát còn hỏi em nhiều điều nữa, nhưng em cũng chẳng nhớ mình đã trả lời những gì và trả lời như thế nào. Nhưng bất kể ông ta hỏi em điều gì, thì em cũng chẳng thể nói ra lời nào về chuyện giữa anh và cô gái Seo Yukako kia. Bố em gọi điện đến nhà thư ký Okabe. — Có chuyện lớn rồi. Anh hãy đến Arashiyama bằng xe ô tô của tôi ngay. Bố tôi nói với giọng hẫng hụt, chỉ chỗ bệnh viện cho Okabe, tắt máy điện thoại rồi cứ thế ngậm điếu thuốc lá chưa châm lửa, nhìn em chăm chăm, rồi đưa ánh mắt ra nhìn cảnh vật bên ngoài. Chẳng hiểu sao em vẫn nhớ như in khuôn mặt ông khi ấy và khung cảnh buổi bình minh ở bên ngoài hành lang bệnh viện. Khi mẹ mất, nét mặt ông cũng vậy, cũng những hành động vô định bất chợt cầm điếu thuốc đưa lên miệng ngậm như thế. Ngày mẹ mất, em mới mười bảy tuổi. Vào giây phút lâm chung, bố ngồi gần giường bệnh nơi mẹ nằm. Em đã nhìn kỹ khuôn mặt ông khi đó. Bố vốn là người đàn ông bản lĩnh, chưa khi nào tỏ ra yếu đuối. Nhưng khi đó, bố đã thẫn thờ rút một điếu thuốc lá từ trong túi áo ngực và đưa lên miệng ngậm. Ngẫm lại, em thấy động tác đó của bố là động tác bột phát, chẳng phù hợp với hoàn cảnh chút nào. Còn giờ đây, bố cũng đứng ngây ra ở hành lang dài hun hút của bệnh viện với động tác và nét mặt giống hệt khi mẹ sắp vĩnh viễn ra đi. Em chợt cảm thấy rằng có chuyện dữ sắp xảy ra, và vội vã lục tìm bao diêm trong túi xách đưa cho bố châm lửa. Bàn tay em lạnh ngắt, cứng đờ, run bần bật. Bố liếc nhìn đôi bàn tay đang run lẩy bẩy của em, rồi khẽ lẩm bẩm. — Nó có chết cũng chẳng sao. Có phải vậy không? Nhưng em chẳng còn tâm trí nào để nghĩ về điều đó. Chuyện gì đã xảy ra vậy? Nếu đó là một tai nạn kiểu khác thì đã đi một nhẽ, đằng này tại sao chồng em lại dính vào vụ tự sát tình ái cùng cô chủ câu lạc bộ kia chứ? Trong vòng hai ngày, bệnh tình của anh hai lần rơi vào trạng thái nguy kịch, sau đó ý thức của anh dần được hồi phục. Các bác sĩ cũng phải ngạc nhiên về sức sống kiên cường của anh. Anh đã vượt qua ranh giới nguy hiểm của sinh mệnh và sống lại. Có thể bảo rằng đây cũng lại là một điều kỳ lạ nữa. Thế rồi, em cũng biết được diễn biến sự việc qua chính lời kể của anh. Đó đúng là vụ tự sát vì tình, nhưng là bị ép tự sát, vì khi anh đang ngủ thì bị Seo Yukako đâm dao vào cổ và ngực. Sau khi đâm anh, Seo Yukako đã tự đâm vào cổ mình. Anh nói rằng anh chẳng thể nhớ nổi tại sao lại có chuyện như vậy. Có lẽ anh chẳng cần nói gì thêm nữa. Với những câu hỏi để phục vụ cho công việc điều tra của cảnh sát, anh chỉ nhắc đi nhắc lại từ “không biết”. Cảnh sát mới chỉ tạm thời đưa ra kết luận rằng đây không phải là một vụ án do anh chủ định thực hiện. Nhưng hiện trường vụ án và hiện trạng vết thương đã mau chóng xóa tan mọi nghi hoặc của cảnh sát. Anh không phải là người cùng Seo Yukako xây dựng kế hoạch quyên sinh đó, mà chỉ là kẻ bất ngờ bị hại đáng thương mà thôi. Anh đã may mắn thoát chết, và vụ án coi như kết thúc. Nhưng với em, nó chưa hề kết thúc. Báo chí đưa tin về sự việc này với nội dung: Trưởng phòng một công ty xây dựng, đã có vợ, dính líu vào vụ tự sát tình ái. Một chút giây phút gió trăng của anh đã bị cả xã hội biết đến như là một vụ xì căng đan kinh sợ. Với bố em, người luôn coi anh sẽ là người kế tục mình, thì đây là một cú đánh lớn dành cho ông. Không biết anh có còn nhớ? Đó là hôm bác sĩ bảo rằng chỉ còn mười ngày nữa là anh có thể ra viện. Hôm ấy là một ngày đẹp trời và ấm áp. Em mang quần áo để anh thay và hộp nho khô mà trên đường đến bệnh viện nơi anh nằm, em đã mua ở cửa hàng bách hóa chỗ khu phố Kawahara. Từ khi vụ việc xảy ra, như một thói quen, em vẫn thường hồi hộp, lo sợ tiến từng bước rụt rè suốt cái hành lang dài hun hút từ phòng chờ vào đến phòng bệnh của anh. Em quyết sẽ không hé răng nói một lời nào để hỏi anh về sự việc, chờ đến khi bệnh tình của anh hồi phục. Cứ mỗi lần đi dọc hành lang nơi bệnh viện, trong em lại ào ạt dâng lên những cảm xúc khó kìm nén. Em vừa thương vừa giận anh vô cùng. Tâm trí em chất chứa biết bao nỗi niềm, nào tức giận, nào ghen tuông, nào xót xa thương hại. Lúc em bước vào phòng bệnh cũng là lúc anh vừa đứng dậy khỏi giường. Anh vẫn mặc nguyên bộ quần áo ngủ và nhìn ra khung cảnh phía bên ngoài cửa sổ. Thấy em, anh không nói gì và tiếp tục ngắm nhìn cảnh vật bên ngoài. Em thầm nghĩ, không biết con người này định giải thích với vợ về sự việc này thế nào đây. Vết thương của anh gần như đã khỏi hẳn, nên, đã đến lúc ấy rồi chăng? Thời tiết hôm nay rất đẹp, nhiệt độ trong phòng lại vô cùng ấm áp vì đã có máy điều hòa sưởi nóng. Bởi vậy, em cảm thấy hôm nay, mình đã có thể bình tâm ngồi nói chuyện với anh. Thế nên, vừa cất quần áo vào chiếc hòm dưới gầm giường, em vừa định nói một cách bình thản rằng: “Nào, anh giải thích đi. Nói rõ cho em nghe nào”. Nhưng, những lời em thốt ra lại thật khó nghe, khác hoàn toàn những gì mình định nói. — Anh thật quá đáng, đi lăng nhăng cơ đấy. Em không kiềm chế được cảm xúc của bản thân nữa. Giờ đây, em mới thấy rằng, cách nói năng, hành xử khi ấy của mình đúng là đàn bà, thậm chí còn rất trẻ con nữa. — Anh suýt mất mạng đấy. Trường hợp như anh mà qua khỏi là hiếm đấy. Anh vẫn im lặng không nói một lời, cứ thế quay lưng về phía em. Giờ đây nghĩ lại, em mới thấy rằng khi ấy mình đã quá nặng lời, đã liên tiếp ném những lời lẽ xỉ vả vào lưng anh. Sự việc như một tin tức xì căng đan nổi bật trên các báo. Ngay cả ở công ty của bố, nó cũng là đề tài cho đám nhân viên hằng ngày đem ra đàm tiếu, trở thành chuyện cười cho thiên hạ. Thậm chí, ngay cả khi đi đâu đó ra khỏi ngôi nhà ở Koroen, chị giúp việc Ikuko cũng phải cúi gằm mặt mà đi… Em thấy đầu như vỡ tung, thế rồi, em bắt đầu gào lên trong nước mắt. Sự im lặng của anh khiến em muốn phát điên. — Tôi không còn muốn sống cùng anh nữa. Nói xong câu đó, em chợt rùng mình và im lặng. Em chợt nghĩ, lẽ nào em và anh sẽ chia tay nhau thật ư? Từ khi vụ việc xảy ra, em thật sự khủng hoảng. Nhưng, chưa lần nào em nghĩ đến việc sẽ chia tay anh. Em chỉ biết cầu mong anh chóng qua khỏi, mong anh đừng chết, mong sao bằng mọi cách anh vượt qua cơn nguy kịch. Do đó, em cũng chẳng có thời giờ để nghĩ đến chuyện nào khác nữa. Em cứ thế đứng đằng sau nhìn anh với cõi lòng lạnh giá. Rồi em nghĩ, tại sao em lại phải chia tay anh cơ chứ? Sao lại đến nông nỗi này? Sao bỗng dưng vụ việc này lại chen vào giữa hai ta? Sao một cặp vợ chồng hạnh phúc như chúng ta lại rơi vào cảnh chia ly? Anh vẫn lặng yên không nói một lời. Anh không hề có ý định thanh minh gì về sự việc đó. Thái độ đó của anh càng làm cho trái tim đang sục sôi giận dữ của em bùng lên dữ dội. — Anh định im lặng như thế mãi à? Ánh nắng mặt trời lúc quá trưa của ngày đầu xuân chiếu rọi vào khuôn mặt xanh xao sau bao ngày điều trị vết thương nặng của anh. Anh vẫn giữ nét mặt thản nhiên, ngời sáng như có ánh sáng của ngọn đuốc tỏa rọi vào mình. Thế rồi, khẽ nhếch mép cười, anh quay đầu lại và nói. Những lời anh nói lúc đó thật trơ trẽn, ngạo mạn. Cho đến bây giờ, mỗi lần nghĩ lại những câu nói đó của anh, em vẫn cảm thấy tức tối. — Nếu tôi xin lỗi, liệu cô có tha thứ cho tôi không? Ôi, cả hai ta đang xúc phạm nhau. Em bảo với anh về việc bác sĩ bảo anh có thể ra viện sau mười ngày nữa, rồi không ngồi xuống ghế một phút nào mà bỏ ra về luôn. Khi ra đến cổng, đang đi bộ trên con đường nhựa phía trước cổng bệnh viện, em nhìn thấy xe ô tô của bố tiến về phía mình. Bố ló mặt ra ngoài cửa sổ xe, nhìn em với vẻ mặt bối rối. Nét mặt ấy cho thấy bố đã cố tình giấu, không muốn em biết việc mình đi đến bệnh viện, và rất bối rối khi vô tình chạm mặt em ở đây. Có vẻ như bố định đến để nói chuyện gì đó với anh, nhưng khi gặp em, bố đã đổi ý, giục em mau lên xe. Bố nói với anh lái xe Kosakai tìm một quán cà phê nào đó để ghé vào, rồi cứ thế ngả lưng vào thành xe, liên tục mở rồi đóng nắp cái bật lửa với dáng điệu hết sức mệt mỏi. — Lúc này nó như một con ngựa đua chân bị gãy rắc làm đôi. Bố nói vậy khi vừa ngồi xuống chiếc ghế trong một quán cà phê nhỏ. “Nó giờ như chiếc bình bị vỡ tan ra nghìn mảnh vậy.” Bố lại nói và nhìn em với ánh mắt giận dữ. Mãi sau này em mới hiểu, chứ ngay lúc đó em không hề hiểu rằng những lời bố nói không phải xét từ góc độ mối quan hệ vợ chồng của hai chúng ta, mà thực ra bố đang nói về vị trí của anh ở trong công ty. Nhưng khi đó, ngẫm những lời bố nói, em cũng đã ngộ được rằng sự việc không hề đơn giản một chút nào. Bố vẫn thế, luôn luôn là con người của công việc. Bố nghĩ ngợi không hẳn vì sự việc đó dính líu đến chồng em, mà vì nó liên quan đến người kế nhiệm ông. Có lẽ anh cũng biết quá rõ rằng bố không có con trai để kế tục mình, nên ông đặt kỳ vọng rất lớn vào anh. Ông đặt lên vai anh trách nhiệm khá nặng nề, với vai trò là người kế nhiệm chính của công ty xuất hiện Hoshijima. Đương nhiên, trong công ty cũng có những người có ý chống lại ý định đó của ông. Phó giám đốc Koike, rồi những người cùng ê kíp với ông ta, ông Moriuchi, ông Tazaki, đều tỏ ra không thoải mái khi anh vào làm ở công ty. Bố tính rằng lúc đó, bố còn tiếp tục đương nhiệm khoảng mười lăm năm nữa. Mười lăm năm sau, con rể của bố sẽ bốn mươi hai tuổi. Bố đã tính toán trước như vậy đấy. Bố là người đầu tiên sáng lập nên công ty xây dựng Hoshijima. Nhưng, cùng với quá trình phát triển, công ty dần dần không còn chỉ là sở hữu của riêng mình bố nữa. Anh cũng biết quá rõ rằng cơ cấu công ty cũng đang dần thay đổi. Bên cạnh những người giữ vị trí chủ chốt trong những người trong gia đình, như người em sát bố làm giám đốc điều hành, người em họ làm giám đốc thường vụ, người cháu phụ trách vị trí trưởng phòng kinh doanh, giờ đây, vị trí phó giám đốc còn thuộc về tay một con người nữa rất khôn ngoan, đó là Koike Hanzo. Có thể nói không ngoa rằng, với bố, anh là ngôi sao hy vọng. Nếu anh biết được rằng, khi quyết định chọn anh làm chồng cho cô con gái duy nhất của mình, bố đã điều tra kỹ càng như thế nào để đi đến quyết định đó, hẳn anh sẽ không khỏi ngạc nhiên. Một thời gian dài sau khi chia tay anh, đã có người kể cho em nghe chuyện đó. Trước hết, em thấy mình đã thực hiện được nguyện ước kết hôn với chàng trai Arima Yasuaki. Chúng ta đã quen biết và yêu thương nhau từ những năm tháng sinh viên, và đã nguyện thề sẽ nên duyên chồng vợ. Thế nhưng, lý do đó không đủ thuyết phục khiến bố đồng ý với cuộc hôn nhân của hai chúng ta. Ông đã nhờ đến sự trợ giúp của công ty thám tử tư để tìm hiểu kỹ lưỡng về con người anh. Và ông đã cậy nhờ không chỉ một công ty, mà nhờ hẳn những ba công ty thám tử tư thực hiện công việc này. Bố mẹ mất sớm, anh lớn lên trong sự giáo dưỡng của người bác ruột. Em nghe được rằng chi tiết này ở anh là điều khiến bố đặc biệt chú ý. Em chưa bao giờ thử hỏi bố xem kết quả điều tra của ba công ty đó thế nào, nhưng có lẽ không có gì nghiêm trọng cả. Thêm nữa, khi tiếp xúc với anh, có lẽ bố cũng đã để ý kỹ càng để có thể đưa ra nhận xét riêng của bản thân về anh. Bố đã thổ lộ với một người rằng: Arima Yasuaki có những tố chất khiến mọi người yêu mến. Đó là những phẩm chất đáng quý cần có ở một con người. Tuy nhiên, vẫn chưa thể biết rõ đó có phải là tố chất số một của một doanh nhân hay không. Ta có ý nhắm chàng trai này không phải là để chọn chồng cho con gái mình, là là để tìm người kế tục công việc ở công ty xây dựng Hoshijima. Do vậy, không thể đưa ra những quyết định vội vàng. Ngoài ra, bố còn tâm sự với một người khác những nỗi niềm trong lòng mình. Điều đó cho thấy bố đã khó khăn để đưa ra quyết định của mình như thế nào. Điều này thật hiếm thấy ở bố vì từ trước đến nay, bố vẫn thường suy nghĩ và hành động theo kiểu độc đoán, tự mình anh ạ. Có thể nói, bố làm thế là bởi, việc bố đồng ý cuộc hôn nhân của hai ta cũng có ý nghĩa là bố quyết định sau khi chết đi, sẽ giao phó công ty xây dựng Hoshijima cho chàng thanh niên Arima Yasuaki, người không cùng huyết thống với mình. Bố ngồi xuống chiếc ghế ở quán cà phê, vừa nhả khói thuốc lá vừa nói: “Đàn ông mà, người ta có thể có một hoặc hai cuộc tình bên ngoài cũng là chuyện thường thôi.” “Thế nhưng, để đến cơ sự này thì…”. Nói rồi, bố thở dài, liếc nhìn em, lẩm bẩm nhắc đi nhắc lại rằng con ngựa đã bị gãy chân, cái bình đã vỡ mất rồi. Em có loáng thoáng nghe thấy bố nói rằng chuyện của hai đứa chắc khó mà có thể hàn gắn. Đêm hôm ấy, một người đàn ông lạ mặt đến ngôi nhà ở Koroen. Bố đã lên tàu Shikansen để đi công tác ở Tokyo từ chiều, nên ở nhà chỉ còn mỗi em và chị Ikuko. Qua trả lời ở máy camera quan sát, người đó xưng là bố của Seo Yukako. Em và chị Ikuko nhìn nhau, phân vân không biết có nên gặp mặt người đó hay không. Hai chị em do dự, vì không biết liệu có nên tiếp một người đàn ông không quen biết vào đêm tối thế này hay không, khi trong nhà chỉ có hai người phụ nữ. Nhưng hơn hết, chúng em băn khoăn rằng không biết người cha của cô gái Seo Yukako đã chết kia cần nói gì với em? Khi em bước ra phòng khách, ông cụ (có lẽ bác ấy chưa già đến mức để người khác gọi là ông cụ, nhưng mái tóc hoa râm lấm tấm nhiều sợi bạc khiến bác ấy trông rất già nua) khách sáo gập người nhiều lần, lắc lắc khuôn mặt hằn rõ nhiều nếp nhăn sâu, cúi đầu nói rằng không biết phải nói gì để xin lỗi gia đình ta về sự việc xảy ra. Em cũng bối rối không biết nên đáp lại như thế nào, rồi nói với ông cụ rằng chắc hẳn bác đau buồn lắm khi người con gái của mình mất đi. Em đã lo sợ bác ấy sẽ đổ lỗi cho gia đình mình, nhưng khi gặp, vẻ mặt cùng những lời nói chân thật của bác đã khiến em cảm thấy an tâm. Cha của Seo Yukako nói rằng trước sự việc do con gái mình gây ra, là bố, ông không thể làm ngơ. Dù chỉ một lời, ông cũng xin được nói lời tạ lỗi với gia đình trước khi lên đường trở về nhà. Ông bảo rằng hôm đó là vừa tròn bốn mươi chín ngày mất của Seo Yukako, và ông đang trên đường về quê sau khi làm một khóa lễ đơn giản ở Kyoto. Ông ngồi trên ghế salon hồi lâu, nháy cặp mắt nhỏ xíu. Rồi, em nghe ông nói rằng: “Thật tôi không thể ngờ rằng con gái tôi và cậu Yuma lại quan hệ với nhau đến mức độ này.” Em thấy hồ nghi câu nói vừa rồi của ông nên liền hỏi lại: “Bác biết anh Yuma từ trước ạ?”. Khi ấy, bác đã cho em biết một sự thật mà bấy lâu nay em sao nhãng không để ý. Anh và Seo Yukako đã từng học cùng lớp với nhau vào học kỳ một của năm học cấp hai. Ông bố Yukako cũng bảo rằng mãi thời gian gần đây ông mới nhớ ra điều này, chứ hồi cảnh sát hỏi ông trong quá trình điều tra vụ án, ông đã quên hẳn chi tiết này, nên đã hoàn toàn không đề cập đến nó với cảnh sát. Hồi anh học cấp hai, khi bố anh mất đi tiếp sau khi mẹ anh mất, trong vòng một học kỳ ngắn ngủi, anh được gửi tại nhà một người họ hàng ở Maizuru, rồi sau đó được người bác ruột ở quận Ikuno đón về nuôi nấng. Anh chỉ ở đó trong khoảng bốn tháng, rồi lại quay trở về Osaka. Nhưng, trong quãng thời gian đó, anh cũng đã chuyển đến học ở một trường trung học tại Maizuru. Vì vậy, anh đã quen Seo Yukako. Ông cụ cũng cho biết anh đã có lần đến chơi nhà Seo Yukako, một gia đình có cửa hiệu thuốc lá. Rồi khi chuyển đến Osaka, anh và cô ấy đôi lúc vẫn thư từ qua lại với nhau. Em cũng được biết sau khi tốt nghiệp cấp ba, Yukako đã vào làm việc tại một cửa hàng bách hóa ở Kyoto. “Tôi cứ nghĩ nó làm việc suốt ở cửa hàng bách hóa đó cơ. Tôi hoàn toàn không hiểu nó chết vì lẽ gì? Nó cũng chẳng để lại di thư gì cả.” Nói đến đó, cha của Yukako cúi gập người, chạm trán xuống sàn phòng khách, nói đi nói lại rất nhiều lần rằng: “Là một người cha, tôi không biết phải tạ lỗi thế nào với gia đình về việc làm của con gái khi để gia đình cô phải tan nát, chồng cô phải chịu một vết thương nặng suýt nữa thì mất đi tính mạng thế này.” Ông không uống một ngụm trà nào em đã pha mời ông mà cứ thế gập người xin lỗi rồi ra về. Sau lúc đó, em vẫn ngồi lặng yên một lúc lâu tại phòng khách. Em thấy đau lòng quá, đến mức không thể nói được gì. Bất giác, em thử đặt hai chữ “tình yêu” vào trong mối quan hệ giữa anh và Seo Yukako. Không hiểu sao hai từ đó lại tồn tại chắc chắn, rõ nét và chen vào trong trí óc em anh ạ. Em nhận định rằng giữa anh và Seo Yukako không chỉ đơn thuần là mối quan hệ trai gái. Rất có thể, ở đó tồn tại một mối tình sâu đậm mà em hay ai khác không thể xen vào. Suy nghĩ ấy cứ lớn dần lên trong tâm trí em, vững chãi thành niềm tin chắc chắn. Những tưởng đó chỉ là thú giải trí thoáng qua của một người đàn ông với một người phụ nữ, nào ngờ không phải như vậy. Nếu như, đó đúng là một mối tình mãnh liệt và lặng lẽ mà không ai có thể can thiệp vào thì than ôi… Nghĩ đến đó, em cảm nhận thấy nỗi ghen tuông không sao kìm được lần đầu tiên đang bùng cháy trong lòng. Trong trái tim em thoáng hiện lên những thước phim với hình ảnh con ngựa chiến đầu đàn bị gãy mất chân trước, cùng với hình ảnh một chiếc bình vỡ vụn ra nhiều mảnh nhỏ. Ngồi trong phòng khách, em bần thần cúi đầu nhớ lại những lời bố đã nói, rằng, sự việc đã xảy ra là một câu chuyện bi thảm không sao có thể hàn gắn lại được. Em thấy mình cần phải bình tĩnh để nói chuyện thẳng thắn với anh. Trong đầu em bắt đầu lóe lên ý nghĩ rằng chúng ta sẽ ly hôn. Tình yêu em dành cho anh đã vụt tan biến. Đồng hành với nó là sự xuất hiện của lòng hận thù. Em nghĩ về quãng thời gian gắn bó giữa đôi ta. Em và anh quen nhau vào năm thứ nhất đại học, yêu nhau năm năm rồi nên vợ nên chồng. Khi đó, em hai mươi ba tuổi. Chúng ta cưới nhau đã được hai năm ba tháng rồi đấy. Rồi em lại nghĩ về mối quan hệ giữa anh và Seo Yukako. Quãng thời gian hai người quen biết nhau còn dài hơn quãng thời gian của em và anh. Vậy thì, tại sao anh lại giấu em, và giấu cả cảnh sát nữa về việc anh và Seo Yukako là bạn của nhau từ thời cấp hai. Điều mà anh phải che đậy có lẽ chính ở chỗ đó chăng?! Linh cảm của người phụ nữ đã mách bảo cho em biết điều đó. Người con gái đã chết, người con gái mà em chưa hề gặp một lần có tên là Seo Yukako đang đứng trước mặt em. Cạnh người đó là anh. Anh đứng đấy, hướng khuôn mặt lạnh lùng về nơi em. Giống như mọi khi, anh đang lơ đãng nghĩ ngợi điều gì đó. Đứng giữa anh và Seo Yukako, sự có mặt của em chẳng chút can hệ gì. Mối tình mãnh liệt đến đau thương ấy cứ âm thầm tồn tại. Đây là những điều em đã tưởng tượng nên như biết bao lần em đã tưởng tượng ra mọi điều khác. Có khi, đọc đến đây, anh sẽ lại bật cười cũng nên. Thế nhưng, em đã tin vào những cảm nhận thực này của bản thân mình. Hình ảnh ấy của hai người, anh và Seo Yukako, vẫn chưa hề xóa nhòa trong trái tim em. Ngày hôm sau, anh ra viện. Em ngỡ ngàng khi anh chìa ra tờ đơn xin ly hôn. — Anh không thể về lại ngôi nhà ở Koroen, không thể quay trở lại công ty xây dựng Hoshijima nữa. Anh không thể vô liêm sỉ như thế được. Anh nói như vậy và cười, rồi lần đầu tiên anh cúi đầu xin lỗi em. Anh đã thẳng thừng nhận lỗi như tính anh vẫn thế. Thì ra anh đã có sẵn ý đó rồi phải không?! Em đã thấu rõ lòng anh rồi. “Hôm rồi, bố của Seo Yukako có đến nhà chúng ta ở Koroen. Hóa ra anh đã quen biết Seo Yukako từ lâu rồi phải không?”. Em định nói vậy nhưng giọng nghẹn lại, không sao thốt ra được, nên lại nói với anh rằng: “Em sẽ được nhận đủ số tiền bù đắp mất mát về tinh thần chứ gì?”. Rồi em vờ hỏi để xem anh phản ứng như thế nào: “Anh quen người đó ở câu lạc bộ Gion à?”. Anh khẽ gật đầu. Rồi từ trên giường, anh vừa nhìn ra ngoài cửa sổ vừa trả lời em. — Lúc đó anh say quá, nên không thể nhớ nổi mọi chuyện khi đó. Đời người thật không thể ngờ sẽ có chuyện gì xảy đến với mình. Sau đó, hai chúng ta đi ra khu vườn của bệnh viện, rảo bước trong ánh nắng ấm áp như thể bây giờ đang là giữa mùa xuân vậy. Em ngạc nhiên khi thấy cõi lòng mình sao êm đềm quá. Em ngắm những dòng nước chảy với trái tim yên bình. Khi đó em nghĩ, ôi, vợ chồng mình đang hạnh phúc là thế, vậy mà… Cho đến khi sự việc xảy ra, chúng ta đã có những tháng ngày thật viên mãn và đầm ấm. Điều gì đã xảy ra cơ chứ? Hay đây chỉ là một giấc mơ. Em cứ vẩn vơ nghĩ ngợi như vậy. Rồi em lại nghĩ con người này đã có ý định ly hôn với mình, vậy mà còn tỏ vẻ bảo rằng chẳng biết gì cả. Say là say thế nào? Đã thế, mình cũng sẽ vờ như chẳng hay biết gì cho mà xem. Em nghĩ thế và sánh vai bên anh trong chiếc áo choàng mỏng cùng rảo bước dưới hàng dương. Cho đến giờ, đôi lúc, em vẫn thử nghĩ rằng tại sao khi ấy, em lại không hỏi cho ra nhẽ về sự việc giữa anh và người phụ nữ đã mất kia. Khi ấy, đúng là em đã không thể hiểu nổi trái tim mình, nhưng bây giờ, dường như em đã có thể phân tích kỹ càng hơn một chút về bản thân rồi. Nói một cách đơn giản, cho dù cuộc hôn nhân của hai ta đang đứng trước bờ vực tan vỡ, và dù rằng chúng ta đã gắn bó bên nhau trong bao năm tháng từ khi hai ta còn yêu nhau cho đến khoảng thời gian đầu mới cưới, nhưng khi ấy, em đã thật thờ ơ, đã không hề cố cứu vớt cuộc tình của hai ta. Trong sâu thẳm đáy tim em, chỉ có chút cảm thông yếu ớt, và bao trùm lên tất cả là mối hận dâng cao ngút ngàn. Tất cả những điều ấy đã tạo nên cái lòng tự trọng vững chắc trong em, khiến em trở nên ít nói và vô cảm. Em nghĩ rằng, mình sẽ chỉ coi mối quan hệ giữa anh và Seo Yukako là mối quan hệ xác thịt thoáng qua thế thôi. Nói cách khác, em không muốn chịu thua cái người phụ nữ đã chết mà em chẳng hề quen biết kia. Ánh mặt trời của ngày hôm đó cho người ta biết rằng mùa xuân ấm áp sắp đến. Anh nói rằng sau khi ra viện, anh sẽ đến ở lại nhà bác anh một thời gian, rồi anh hoàn toàn im lặng. Anh xoay tròn hai cánh tay, rồi đứng lại và hít vào một hơi thật sâu, lúc lại làm động tác tập thể dục ngồi lên ngồi xuống, trông thật khoan khoái. Trong đầu em cứ hiện lên hình ảnh thân hình phía sau bé nhỏ với tâm trạng chán nản của bố Seo Yukako. Chia tay anh ở sân trong bệnh viện, em đến Katsura bằng xe điện, rồi lên tàu nhanh đi Umeda. Khi đến Umeda, em định quay về Koroen nên đã đi đến ga tàu điện Hanshin. Nhưng chợt nhớ ra, thế là em cứ đi bộ trên phố Midosuji để đến công ty của bố ở Yodoyabashi. Ngồi trên chiếc ghế sofa trong phòng giám đốc, em kể cho bố nghe về đề nghị ly hôn của anh. Bố khẽ bảo: “Vậy à”, rồi rút tiền từ trong ví ra và để trước mặt em. — Bố cho con tiền tiêu vặt này. Con hãy dùng nó đi. Bố nói vậy rồi mỉm cười. Em cất tập tiền vào trong túi xách và bật khóc. Khi ly hôn anh, em chỉ khóc có một lần ấy thôi, nhưng trong lòng em đã luôn khóc hoài, khóc mãi đến cạn khô cả dòng nước mắt. Không phải bởi em buồn mà bởi, em có một linh cảm rằng từ đây sẽ bắt đầu một quãng đời bất hạnh, và nỗi lo sợ ấy cứ trùm vây lấy em. Em đã lo sợ vô cùng, bởi em linh cảm rằng nỗi bất hạnh ấy sẽ không chỉ bám riết lấy em, mà còn sẽ đến với cả anh nữa. Hòa lẫn vào dòng người đi làm vội vã trở về nhà, em lại về nhà trên con phố Midosuji trong buổi hoàng hôn. Mắt đỏ hoe, em vừa rảo bước vừa thầm dặn lòng về việc sẽ quyết ly hôn với anh. Dù không muốn, nhưng mình đã bị người ta ép phải lên thuyền và phải rời xa bến đỗ. Em đã nghĩ như vậy. Một tháng sau, em ký tên và đóng dấu vào giấy chấp nhận ly hôn mà anh gửi tới. Em có cảm giác rằng điều em muốn viết ra đây cho anh có lẽ là một điều khác cơ. Những gì em viết ra đây vẫn chưa phải là những nỗi niềm em muốn gửi tới anh. Em còn muốn viết thật nhiều, nhiều hơn nữa. Thế nhưng, chồng giấy viết thư trước mặt em đây đã quá dày rồi. Có lẽ rằng, nỗi cô đơn trong em khi ngắm nhìn những vì sao tại khu vườn thược dược ở Zao đã khiến em viết miên man những dòng thư này. Có lẽ, đó cũng là bởi nỗi cô đơn hiện hữu trên khuôn mặt anh mà em cảm nhận được, khuôn mặt sau mười năm cách xa tình cờ em gặp lại. Anh mà em đã gặp trên chiếc cáp treo tại Zao ấy trông thật cô đơn. Lúc nằm trên giường bệnh, với vết thương nặng trong mình, khuôn mặt anh đâu có buồn như thế. Có điều gì đó u ám, mệt mỏi, tuyệt vọng trong ánh mắt mạnh mẽ nơi anh. Những điều đó khiến em bồn chồn, day dứt, và vài ngày sau, em nảy ra ý định điên rồ này: viết thư cho anh. Tuy rằng hai ta đã chẳng còn can hệ gì với nhau nữa rồi, nhưng em không hề muốn nghĩ rằng vì chuyện ly hôn ấy mà cả hai ta đã phải chịu bất hạnh. Nếu những điều đó là đúng, thì cái ngày em quyết ý sẽ chia tay anh, những điều em đã nghĩ khi ngồi ở phòng giám đốc nơi công ty bố không đơn thuần chỉ là linh cảm xấu nữa rồi anh nhỉ. Vì chia tay với anh mà em đã có được bé Kiotaka. Không thể nói được bằng lời nỗi đớn đau, khổ sở khi em phát hiện ra Kiotaka bị bệnh. Nhìn con trai mình đã hơn một tuổi rồi mà vẫn chưa thể ngồi được, em rùng mình bởi nhận ra rằng linh cảm ấy đã thành hiện thực. Thậm chí em còn nghĩ, người ấy đã mang đến cho em đứa con bị khuyết tật này không ai khác chính là anh. Nếu anh không để xảy ra sự việc đó, chắc chắn đâu có chuyện ly dị giữa hai ta. Và nếu vậy, hẳn là em đã sinh cho anh một đứa con, chúng ta đã sống những tháng ngày hạnh phúc, êm đềm. Mọi chuyện là do anh cả. Qua sự mai mối của bố, em đã tái hôn với một người làm trợ giảng ở trường đại học và đã sinh ra bé Kiotaka. Việc em sinh ra đứa bé như Kiotaka này chẳng phải là bởi chia tay anh, nên em mới lấy người đàn ông tên Katsunuma Soichiro hay sao? Đúng là em đã nghĩ như vậy, và trong tâm trí lúc nào cũng bị ám ảnh bởi suy nghĩ đó đấy anh ạ. Em đã hận anh. Ắt hẳn anh sẽ bảo rằng em là đồ vớ vẩn, là đồ giận cá chém thớt. Nhưng, thật sự khi đó trong lòng em đã nghĩ như vậy, đã đổ lỗi cho việc mình phải làm mẹ của Kiotaka là do sự không đứng đắn của anh, và do sự việc đáng ghê tởm bởi cái tính lăng nhăng đó. Thế rồi, cơn sốc, nỗi đau đớn và những xáo trộn trong tâm tư khi biết rằng con mình là một đứa trẻ tật nguyền cũng dần lắng xuống. Em mau chóng cảm nhận được rằng trong lòng mình đang mang một tình yêu mới, một quyết tâm mới của một người mẹ. Nỗi hận với anh cũng lụi tàn. Hình ảnh anh cũng dần nhạt phai trong em. Khi bé Kiotaka được ba tuổi cho đến năm bảy tuổi, bốn năm trời, em bế con đến Trung tâm điều trị chỉnh hình chân Hanshin. Ngày ngày hai mẹ con quyết tâm tập luyện. Em đã động viên, dỗ dành con trong nước mắt: Nào, con của mẹ đứng được rồi đấy. Con của mẹ đi được rồi đấy. Nhờ thế mà những khuyết tật của thằng bé cũng đỡ đi phần nào. Tuy nói chưa sõi nhưng thằng bé đã biết sử dụng từ ngữ, biết đi bằng nạng. Rồi con em được vào học tại khoa tiểu học của trường dành cho trẻ em khuyết tật. Tuy còn rất nhỏ nhoi, nhưng giờ đây em đã thấy ánh sáng đang chiếu rọi vào tương lai của con trai mình. Dù vẫn còn một vài điều chưa được như ý mình, nhưng, em đã bắt đầu cảm nhận được rằng mình đang được sống những tháng ngày khá là hạnh phúc. Em không hề muốn mình phải chịu bất hạnh vì ly hôn với anh. Em vẫn luôn bướng bỉnh nghĩ vậy. Và em cũng không hề muốn anh phải chịu bất hạnh. Trong tâm tư, em vẫn luôn tha thiết cầu nguyện điều đó. Em xin được dừng bút ở đây. Em cũng không rõ mình viết bức thư dài dòng như thế này để làm gì anh ạ. Bây giờ, em không định gửi nó vào hòm thư mà sẽ xé nó đi luôn, nhưng em có một mục đích, đó là muốn nói với anh về việc bố của Seo Yukako, nên em lại quyết định gửi nó đi. Bức thư này được gửi đi không phải để mong đợi lá thư hồi âm. Anh hãy coi nó là lời giải thích sau hơn mười năm ly biệt bởi ý nguyện nào đó mơ hồ, không rõ ràng giữa hai chúng ta. Mong anh hãy giữ gìn sức khỏe trong tiết trời lạnh giá này. Chào anh! Ngày 16 tháng 1 Katsunuma Aki Tái bút: Để anh biết được ngay người gửi lá thư này là ai, em đã để họ cũ (Hoshijima Aki) ở ngoài bì thư. Còn địa chỉ của anh em đã hỏi anh Takiguchi. Em nghe nói rằng hai người hồi này có quan hệ thân thiết với nhau lắm. Gửi Katsunuma Aki Chào em! Tôi đã đọc lá thư em viết. Đọc xong, tôi hoàn toàn không có ý định sẽ viết thư trả lời. Thế nhưng, càng ngày, tôi càng nghĩ nhiều đến những biến động về tâm tư mà tôi chưa hề nói rõ với em, nên dằn vặt và quyết định cầm bút viết thư cho em. Em đã viết rằng sự ly biệt của chúng ta là bởi ý nguyện nào đó mơ hồ, không rõ ràng, nhưng thực ra, em đã lầm. Phía tôi có lý do rõ ràng khiến chúng ta phải chia tay. Vụ xì căng đan mà tôi đã gây ra chính là lý do. Tôi đã có vợ mà lại còn có quan hệ với một cô gái khác, hơn thế, lại còn dính líu vào một vụ việc nhơ nhuốc thì chẳng có cách gì có thể biện minh cho mình. Tôi nghĩ chẳng có lý do ly hôn nào hợp lý hơn lý do ly hôn này. Tôi đã làm phiền tới rất nhiều người. Tôi đã phải mang trên mình một vết thương, nhưng chắc chắn rằng vết thương mà em phải gánh chịu còn đau đớn hơn thế rất nhiều. Tôi cũng gây ra vết thương cho cả bố em, cả công ty xây dựng Hoshijima nữa. Việc tôi đưa ra đề nghị ly hôn là điều tất yếu phải xảy ra. Trước hết, tôi sẽ mở đầu lá thư này bằng những dòng viết về mối quan hệ của mình với Seo Yukako. Bởi tôi nghĩ điều đó là phải phép với em. Hơn thế nữa, tôi còn phải xin lỗi em về việc bản thân đã lừa dối em trong một thời gian dài. Có lẽ em sẽ hiểu, vì sao khi chúng ta ly hôn, tôi đã không nói với em những điều này. Nghe có vẻ cao thượng đấy, nhưng quả thực, hồi đó, tôi không muốn làm em đau lòng thêm nữa. Và em cũng đã giấu tôi về việc bố của Seo Yukako đến gặp em và nói về chuyện của tôi còn gì. Nếu như lúc ấy, em nói thẳng cho tôi biết điều đó, có thể tôi đã đầu hàng ngay lập tức và thú nhận tất cả. Nhưng, em đã im lặng. Trong thư, em viết rằng đó là linh cảm của người phụ nữ, nhưng đọc những dòng thư em viết, tôi cảm thấy đó là một linh cảm thật đáng sợ, bởi em đã đọc trúng tim đen của tôi rồi. Tôi và Seo Yukako quen biết nhau từ năm lớp Tám. Khi bố mẹ mất, hồi đầu, tôi được một người bàn con của mẹ ở Maizuru đón về nuôi. Vợ chồng cô chú ấy tên là Ogata, không có con. Họ có ý định nhận tôi làm con nuôi. Nhưng vì tôi là một đứa bé mười bốn tuổi, độ tuổi hết sức nhạy cảm, nên cũng khó có thể đoán được hai bên có phù hợp về tính tình hay không, nên họ quyết định cho tôi sống cùng họ một thời gian xem thử thế nào. Do vậy, tôi không nhập hộ tịch, mà cứ thế chuyển đến trường trung học cơ sở ở đó, sống dưới sự chăm sóc của vợ chồng cô chú ấy. Đó là chuyện của hơn hai mươi năm về trước, nên trong tâm trí tôi hầu như không còn nhớ được xem ngày đó, tôi là một cậu bé thế nào, đã suy nghĩ những điều gì. Đến bây giờ, ký ức duy nhất còn đọng lại trong tôi, đó là cảm giác cô đơn đến thấu buốt tâm can khi lần đầu tiên bước xuống nhà ga ở phía đông Maizuru. Vùng phía đông Maizuru mang một dáng vẻ quạnh quẽ, u ám đến kỳ lạ. Nó khiến tôi nghĩ đây là vùng đất giáp ranh nghèo với những cơn gió lạnh buốt vào buổi sáng. Thật ra, vùng phía đông Maizuru là một thành phố buồn tẻ nằm tiếp giáp với vùng biển Nhật Bản ở đầu mũi phía bắc Kyoto. Tuyết phủ vào mùa đông, nhiệt độ ẩm vào mùa hè, các mùa khác chỉ toàn là những đám mây dày đặc, u ám, những khu phố thưa thớt người qua lại, và những cơn gió buổi sáng thổi đầy bụi đường. Có lẽ khi ấy, tôi đã rất muốn được trở về Osaka. Thế nhưng, đâu có nơi nào để tôi quay về. Vợ chồng cô chú Ogata sau khi nhận nuôi tôi, ngay lập tức đã tỏ ra ân hận vì quyết định của mình. Hai bên sống với nhau một cách giữ kẽ, gượng gạo, không chút thoải mái. Chú là một người chất phác, làm việc tại Sở Phòng cháy chữa cháy của thành phố. Còn cô sinh ra và lớn lên ở Maizuru, là một người dịu dàng, chân thật. Cả hai người đều cố gắng đối xử với tôi giống như cách chăm sóc của bố mẹ, nhưng họ đều cảm thấy mệt mỏi, khó xử khi tôi hoàn toàn không chịu mở lòng mình ra với họ. Ở trường học, tôi cũng không có bạn. Các bạn đồng lứa đều cảm thấy bối rối không biết phải cư xử thế nào với một cậu học sinh kiệm lời từ thành phố đến, với hoàn cảnh bố mẹ vừa mới mất này. Tôi đã sống vài tháng đầu tiên đó trong cảm giác xa lạ với cả trường học và cả vợ chồng cô chú Ogata. Thế rồi, có một chuyện này từ những người xa lạ ấy đã đến với tôi, khiến con tim tôi thấy bồi hồi, xao xuyến. Tôi chết mê chết mệt một cô bạn gái cùng lớp. Đó là một cô bạn bị vây quanh mình nhiều điều tiếng, nào là có quan hệ yêu đương bí mật với một anh học sinh cấp ba nào đó, nào là đã từng “biết mùi” con trai, nào là bọn chơi bời, lêu lổng thường gây sự với nhau vì cô ấy. Trong khoảng thời gian ngắn ngủi sống ở Maizuru, điều duy nhất, rõ ràng nhất tôi đã từng trải qua là những rung động tình yêu với cô bạn Seo Yukako ấy. Tôi đã từng giam mình trong căn phòng rộng chừng mười mét vuông mà vợ chồng cô chú Ogata dành cho tôi, và viết không biết bao nhiêu bức thư cho Seo Yukako, những bức thư mà tôi quyết không bao giờ gửi đi. Mỗi lần viết xong một bức thư, tôi lại cho vào phong bì, cất kỹ vào tít đáy ngăn bàn khoảng hai hoặc ba ngày, sau đó mang ra khoảng đất trống ở sau nhà và đốt đi. Bây giờ ngẫm lại, tôi thấy những cảm xúc của mình với Seo Yukako ngày ấy không chỉ đơn thuần là những rung động thoảng qua của một cậu bé đang tuổi dậy thì, mà đó là một thứ tình cảm tha thiết, mãnh liệt đến điên cuồng. Xét về hoàn cảnh đặc biệt của tôi ngày ấy, tôi thấy, có lẽ là bởi, mình đang bị vây bọc bởi nỗi cô đơn do cái hoàn cảnh ấy gây nên. Thế nhưng, tôi chỉ dám đứng từ xa ngắm nhìn khuôn mặt, hay chỉ dám nhìn trộm từng động tác, cử chỉ của cô ấy mà thôi, chứ không lại gần bắt chuyện hay thổ lộ lòng mình với cô bạn ấy. Cho dù đó là một thứ tình cảm mãnh liệt và chân thành, thì thằng tôi lúc đó vẫn cứ chỉ là một cậu bé mười bốn tuổi. So với các cô bạn gái cùng trang lứa, thì cách cười nói, cách đi đứng của Seo Yukako đều hết sức người lớn và duyên dáng. Với tôi, có lẽ dáng vẻ của cái thành phố ven biển u ám và hiu quạnh này đã khiến cho những lời đồn thổi vây quanh cuộc sống của nàng trở thành những điều huyền bí, có chút gì đó nghi hoặc. Mỗi khi nghe được những lời đồn thổi sỗ sàng về nàng, cảm xúc trong tôi lại càng thêm mãnh liệt. Những lời đồn thổi nhuốm màu tội lỗi ấy thậm chí khiến tôi thấy thật đúng hợp với nàng. Đến mức, trong mắt tôi, hình ảnh nàng hiện lên thật lộng lẫy và kiêu sa. Đó là một ngày đầu tháng Mười một với những cơn gió lạnh thấu ruột thấu gan, một đặc trưng của khí hậu vùng Maizuru này. (Có lẽ em sẽ cười tôi rằng không hiểu cái anh này đang đà viết hay sao mà lại sa đà viết cái gì thế nhỉ. Nhưng cứ mỗi lần nghĩ tới việc Seo Yukako đã tự chấm dứt đời mình trong căn phòng tại khu nhà nghỉ ở Arashiyama, tôi lại nhớ về cái sự việc vào ngày của hơn hai mươi năm về trước ấy với cảm giác nhói đau nơi đáy lòng). Từ trường trở về, tôi ra khỏi nhà cô chú và đi bộ về phía bến cảng. Tôi hoàn toàn không nhớ mình định đi đâu và định làm gì nữa. Ở vùng đất phía đông ăn vào vịnh Maizuru, có một bến cảng rất hiu quạnh tên là Cảng Đông Maizuru, nơi có một vài con thuyền đánh cá nhỏ thường xuyên xếp hàng thả neo ở đó. Con đê chắn sóng bẩn thỉu nằm uốn khúc, tiếng kêu của những loài chim biển hòa lẫn trong âm thanh của những chiếc xuồng máy. Tôi ngồi tựa lưng vào con đê, ngắm nhìn cảnh vật trên bến cảng hồi lâu. Cái thằng tôi khi ấy nhìn ra biển và thấy, chao ôi, vùng biển này sao quạnh quẽ thế, rồi nghĩ rằng kiểu gì mình cũng phải quay trở về Osaka thôi. Nhìn lên bầu trời, tôi cảm thấy trời tối tăm, thấy nhớ bố mẹ quá. Và khi ấy, tôi ôm ấp ý nghĩ làm thế nào đó để tìm cách trở về Osaka. Con người thật là lạ, có những khi chúng ta lại nhớ như in những sự việc chẳng đâu vào đâu ở mãi cái thời xa xưa. Và tôi vẫn nhớ, khi ấy, có một người con gái đầu trùm kín khăn, đi xe đạp và đèo đằng sau một cậu bé đang khóc thút thít, phóng vụt qua phía sau lưng tôi. Ánh mắt tôi đã thoáng chạm ánh mắt cậu bé đang khóc kia. Và cho đến giờ, tôi vẫn nhớ như in đôi mắt đẫm nước mắt của cậu bé đó. Tiếng khóc đi xa dần. Ngay lúc ấy, tôi khẽ đặt tay xuống con đê, ngoảnh mặt nhìn ra phía bến cảng và trông thấy Seo Yukako trong bộ đồng phục học sinh kiểu lính thủy đang từ từ đi về phía mình. Nàng cứ thế chậm rãi đi từng bước một với vẻ mặt như thể đang mải nghĩ ngợi điều gì đó, suýt nữa thì đâm sầm vào tôi. Thấy tôi, nàng kinh ngạc và đứng lại. Ánh mắt nàng chằm chằm nhìn tôi dữ tợn trong khi tôi đang hết sức bối rối vì sự gặp gỡ bất ngờ này. Tuy học cùng lớp, nhưng hai chúng tôi chưa bao giờ mở miệng nói với nhau một câu. Nàng hỏi rằng tôi đang làm gì ở chốn này. Tôi lúng búng đáp lại nàng bằng một câu nói gì đó. Rồi nàng trầm ngâm một hồi, và đề nghị tôi cùng lên thuyền với nàng. Tôi hỏi nàng lên thuyền để đi đâu, nàng bảo hai đứa sẽ đi một vòng quanh vịnh rồi về ngay. Đoạn, nàng hướng mắt nhìn ra chiếc thuyền đang thả neo. Nàng lẩm bẩm: “Có khi anh ta sẽ không cho lên thuyền nếu biết mình đi cùng một người nữa cũng nên”, rồi đi ra chỗ chiếc thuyền đánh cá đang neo đậu. Tôi vừa thầm nghĩ nhất định là nàng không hề muốn lên thuyền đâu, vừa đi theo sau nàng. Tôi hơi chần chừ với một linh cảm rằng sẽ có chuyện gì đó rắc rối xảy ra, nhưng lại thấy tiếc nếu chia tay nàng lúc này, nên tiếp tục đi cùng nàng bên cạnh những cơn gió từ biển thổi vào. Một người thanh niên đang đứng trên con thuyền có tên Osugimaru. Anh ta nhìn Seo Yukako rồi cười, nhưng rồi ánh mắt anh ta lại trở nên gớm ghiếc khi nhận thấy có thêm tôi đi đằng sau. Tóc anh ta cắt ngắn, gần như cạo trọc, nên ban đầu, tôi nghĩ đó là một anh học sinh cấp ba, nhưng rồi nhìn kỹ thì đó có vẻ như là một thanh niên cỡ hai mươi hai, hai mươi ba tuổi gì đó. Yukako đứng trên cầu tàu, nhìn lên phía người thanh niên đó và giới thiệu về tôi rằng, đây là cậu bạn cùng lớp mới chuyển trường từ Osaka đến đây, và muốn được anh cho chúng tôi đi thuyền nên tôi đã dẫn lên chiếc thuyền này. Anh thanh niên nhìn tôi một cách soi mói, khẽ gật đầu rồi vào bên trong khoang nhỏ của chiếc thuyền, nổ máy và giục chúng tôi mau lên thuyền. Ngay sau khi thuyền vừa tách ra khỏi cầu tàu, anh ta đã hỏi tôi bằng một giọng rất to rằng tôi có biết bơi hay không? Tôi đáp lại rằng mình có biết bơi một chút xíu, tức thì anh ta ra khỏi khoang thuyền, xông tới túm lấy cổ áo tôi, rồi ném tôi xuống biển. Khi nổi được lên mặt nước, nhìn ra phía thuyền, tôi thấy Yukako lao theo tôi, và cứ thế mặc nguyên bộ đồng phục mà nhảy ùm xuống biển. Gã kia hét lên điều gì đó nhưng chúng tôi vẫn cố hết sức bình sinh mà bơi đến chỗ cầu tàu. Tôi leo lên cầu tàu, rồi kéo Yukako lên, chạy thục mạng trong khi toàn thân ướt như chuột lột. Chạy được một đoạn, chúng tôi đứng lại. Chúng tôi đã lo sợ rằng gã đó sẽ đuổi kịp chúng tôi. Thế nhưng, chiếc thuyền cứ thế thẳng tiến, không có dấu hiệu gì cho thấy nó sẽ quay đầu lại. Có vẻ như giày của cả hai đứa đã tuột mất trong khi đang bơi, nên cả tôi và Yukako đều chỉ đi với đôi tất ướt sũng nước biển và chảy tong tỏng. Yukako gọi tôi đứng lại, rồi chạy đến nắm lấy tay tôi và liên tục nói: “Tớ xin lỗi cậu, xin lỗi cậu nhé”. Rồi, chợt, nàng cười lớn. Điệu cười của nàng thật kỳ quặc, đến nỗi, tôi cứ thế đứng ngây ra nhìn nàng. Toàn thân ướt sũng, tay nàng nắm lấy tay tôi và cứ thế, nàng gập người cười rũ rượi. Sau một hồi cười ngặt nghẽo, nàng rủ tôi về nhà nàng. Biển Maizuru vào tháng Mười một rất lạnh, người tôi dần lạnh cóng, run lập cập. Nàng nói tôi hãy về nhà nàng thay tạm bộ quần áo của anh trai nàng cho đỡ lạnh. Chúng tôi vội vã đi từ bến cảng vào trong thành phố để về nhà Yukako trong cái nhìn chăm chăm của những người đi đường. Nhà Yukako ở vùng ngoại ô, bên cạnh nhà máy cá khô, cách nhà cô chú tôi khá xa. Tuy bảo đấy là nhà máy cá khô, nhưng đó chỉ là một tòa nhà được ghép bằng những tấm ván gỗ với mái nhà lợp bằng ngói đen. Đến nơi đó, người ta sẽ cảm nhận được mùi tanh nồng nặc bốc lên mũi, và sẽ thấy cả những con chó hoang cứ lởn vởn xung quanh những chiếc hộp gỗ được xếp chồng lên nhau. Ngôi nhà hai tầng nhỏ bé treo biển cửa hàng bán thuốc lá là nhà của Yukako. Mẹ Yukako đang ngồi trước hiên nhà. Thấy chúng tôi, bà kêu lên kinh ngạc. Yukako nói rằng chúng tôi chơi ở cầu tàu và bị rơi xuống biển, rồi nàng nhờ mẹ lấy giúp tôi một bộ quần áo của anh trai nàng. Trong khi Yukako lên tầng hai để thay quần áo, tôi vào trong căn phòng nhỏ tiếp giáp với phòng bếp, cởi bộ quần áo và đôi tất ướt sũng nước lau người, rồi mặc bộ quần áo con trai được may bằng chất vải naptalin mà mẹ Yukako đưa cho. Anh trai của Yukako vừa tốt nghiệp trường cấp ba địa phương vào năm đó, hiện đang làm việc tại một công ty ô tô ở Osaka. Được biết nhà nàng chỉ có mỗi hai anh em, nhưng tôi chưa hề một lần gặp mặt anh trai nàng. Thay xong quần áo, nghe tiếng Yukako gọi từ trên tầng hai, tôi leo lên gác. Yukako mặc chiếc áo len màu đỏ, vừa dùng khăn bông lau khô tóc vừa bảo rằng, hai đứa phải sưởi ấm kẻo lạnh thì gay. Đoạn nàng để lò sưởi điện ra chính giữa phòng. Mẹ nàng pha trà cho hai đứa, và chúng tôi ngồi ở hai bên chiếc lò đang tỏa nhiệt đỏ rực, im lặng uống trà hồi lâu. Trên bàn của Yukako, có một chiếc đèn bàn, một cái hộp gỗ, lại còn thêm một con búp bê bằng gốm. Cho đến giờ, đôi lúc tôi vẫn nhớ về căn phòng với cách bày biện rất nữ tính ấy. Vẻ ngây thơ, thùy mị, khác hẳn với những lời đồn đại vây quanh nàng phảng phất đâu đó trong căn phòng chừng mười mét vuông này. Và từ mái tóc đen óng mượt ướt sũng nước biển vắt ngang vai, từ đôi má đang ửng hồng lên bởi hơi nóng của lò sưởi nơi nàng, người ta thấy toát lên sự mê hoặc kèm theo một cái gì đó hết sức bí ẩn. Trong mắt tôi hiện lên hình ảnh một người con gái trưởng thành đang vừa hong khô mái tóc ướt mới gội vừa trầm tư nghĩ ngợi. Không, những hình ảnh tôi đã hình dung về nàng khi ấy khác cơ. Nói đúng ra, tôi vừa viết lá thư này cho em vừa vẽ lại trong tim hình ảnh ngày ấy của Seo Yukako và mới chợt hình dung ra như vậy. Tôi hỏi: “Sao cậu lại nhảy xuống biển vậy?”. Nàng cười tinh nghịch và nói rằng, bởi không muốn chỉ có một mình ở đó với hắn. Tôi hỏi vặn, sao không muốn ở đó với hắn mà lại lên thuyền của hắn làm gì? Nàng nhìn tôi với ánh mắt quyết liệt, rồi im lặng và lườm tôi. Rồi nàng bảo, nếu không đáp lại lời mời của hắn, thể nào cũng sẽ bị hắn bám riết. Đến bây giờ, đã rất nhiều lần hắn rình nàng trên đường đi học về và dai dẳng rủ rê nàng không biết bao nhiêu lần. Tôi kể với nàng những lời đồn đại tôi nghe được về nàng, và hỏi nàng rằng những tin đồn đó có phải sự thật hay không? Nàng trả lời rằng cũng có cái đúng, cái không đúng, rồi dặn thêm tôi đừng nói chuyện xảy ra ngày hôm nay với ai. Hơi ấm của chiếc lò sưởi nhỏ đã sưởi ấm vầng trán, gò má và hai lòng bàn tay của tôi, người tôi đã bớt run rẩy, và cũng dần cảm thấy dễ chịu hơn. Bao trùm lên đầu tôi là một ảo ảnh rằng tôi và Yukako như thể đôi bạn thân thiết từ thời ấu thơ vậy. Tôi hỏi vặn nàng với câu đại ý rằng, lý do khiến những lời đồn thổi đó vây quanh nàng là do nàng dễ dãi, và vẻ điệu đà của nàng đã vô tình khiến cánh con trai thích rủ rê nàng phải không? “Làm gì có chuyện đó”. Nàng gằn giọng, bặm môi, rồi lườm tôi một lúc lâu. Ánh mắt nàng có nét gì đó đượm buồn, càng làm nổi lên vẻ đẹp nơi nàng. Nhìn nàng khi ấy, tôi thấy vây quanh mình là nỗi cô đơn trống vắng mà bấy lâu nay tôi vẫn khó xua tan nổi. Vẻ bí ẩn kỳ lạ toát ra từ cô nàng thiếu nữ Seo Yukako sao thật giống với dáng vẻ của thành phố cảng hẻo lánh nằm bên bờ biển Nhật Bản này đến thế. Tôi đã tâm sự với nàng về việc tôi ghét cái thành phố Maizuru này đến thế nào. Hoàng hôn dần xuống, căn phòng trở nên tối hơn, chỉ còn thấy rõ ánh sáng điện đỏ của cuộn dây lò xo trong chiếc máy sưởi bay lơ lửng theo hình xoắn ốc. Khi viết những dòng này, cái hình ảnh khi ấy lại hiện về rõ nét trong tâm trí tôi như thể đó là câu chuyện của ngày hôm qua vậy. Tôi vẫn luôn cất giữ ký ức của thời khắc ấy trong lòng như một kỷ niệm quý giá vô cùng ngắn ngủi như trong một ảo ảnh, một giấc mơ nào đó. Sau này, khi lớn lên, đi làm, rồi cưới em làm vợ, tôi vẫn thường đắm mình trong khoảng ký ức ấy. Nàng dang đôi tay áp vào má tôi, rồi với động tác khẽ khàng, khuôn mặt nàng chạm sát vào trán tôi. Rồi cứ thế, nàng nhìn thẳng vào mắt tôi và cười khúc khích. Đó hoàn toàn đâu phải là động tác của một thiếu nữ mười bốn tuổi. Sau phút ngỡ ngàng, tôi có cảm giác như bị nàng mê hoặc. Nàng ghé sát tai tôi mà thì thầm rằng, từ trước, nàng đã hơi thinh thích tôi, nhưng hôm nay, nàng đã thích tôi thật sự rồi đấy, rồi má nàng kề sát vào má tôi, môi nàng chạm dần vào môi tôi. Giờ đây nghĩ lại, có thể nói, ở độ tuổi mười bốn, những hành động không chút chần chừ trước mặt một cậu con trai ấy của nàng thể hiện cái nghiệp mà Seo Yukako mang. Tôi cũng không lý giải nổi từ cái nghiệp này có ẩn chứa một ý nghĩa sâu xa nào không. Nhưng, cứ mỗi lần nghĩ về người con gái có tên Seo Yukako ấy, cái từ ấy lại hiện lên trong đầu tôi với những nỗi ám ảnh thích hợp nhất về nàng. Có tiếng chân ai đó đi lên cầu thang. Chúng tôi vội vàng rời nhau ra. Thì ra đó là bố của Yukako. Bác ấy vừa đi làm về và đi lên tầng hai. Hồi đó, bố Yukako vừa mở cửa hàng bán thuốc lá ở nhà vừa làm việc tại công ty chế biến thủy sản của thành phố. Yukako giới thiệu tôi với bố nàng, nói với ông rằng bố mẹ tôi đã mất, nên tôi được cô chú nhận làm con nuôi và đến sống ở đây. Lối nói của nàng nũng nịu, mang vẻ ngây thơ của một cô bé. Dấu vết của cô bé thiếu nữ khi khuôn mặt nàng kề sát mặt tôi và thì thầm những lời nói ngọt ngào đã mau chóng tiêu tan. Sau khi được nàng gói giúp bộ đồng phục và đôi tất ướt rượu vào miếng vải foroshiki[4], tôi rời khỏi nhà nàng. Yukako tiễn tôi ra đến trước cổng nhà máy cá khô, rồi nói “Tạm biệt cậu” như thể chẳng có chuyện gì xảy ra vậy. Những dính dáng của tôi với Yukako ở Maizuru chỉ có một ngày hôm đó mà thôi. Mặc bộ quần áo rộng thùng thình, tay ôm bọc quần áo trở về nhà cô chú, tôi thấy bác tôi (anh trai của bố tôi, sống ở quận Ikuno, Osaka) đang ngồi đợi tôi ở đó. Có vẻ như bác đã bàn bạc với cô chú Ogata, nên bây giờ đến Maizuru để đón tôi về. Bác nói với tôi rằng: “Bác đã để cháu đến Maizuru là theo đề nghị thiết tha của cô chú Ogata, nhưng rốt cuộc thì bác vẫn là người chịu trách nhiệm chính trong việc chăm sóc cháu. Xét về lâu dài, sống ở Osaka vẫn tốt cho cháu hơn. Gia đình bác cũng chẳng phải giàu có gì, nhưng chỉ cần cháu đồng ý, bác sẽ thay bố cháu nuôi dạy cháu nên người”. Bác tôi nói vậy, động viên tôi trở về Osaka. Mọi chuyện có vẻ như đã được quyết định mà chẳng cần câu trả lời của tôi. Được trở về Osaka, đối với tôi, đó thật sự là nỗi vui mừng. Nhưng, tôi thấy mình sẽ có lỗi với cô chú Ogata nếu như ngay lập tức nói lời đồng ý, nên đã xin phép cho tôi được suy nghĩ một lúc, và về phòng mình ở tầng hai. Đâu đó trên cơ thể tôi vẫn còn đọng lại hơi hướng khi nãy của Yukako, tôi lơ đãng dựa lưng vào tường với tâm trạng rối bời. Những lời nói của Yukako, rằng hôm nay nàng thật sự thấy thích tôi đã gây nên một sự xáo trộn mạnh mẽ trong trái tim tôi, cái thằng lúc nào cũng ôm ấp ý nghĩ sẽ trở về Osaka này. Tôi mới chỉ là một cậu bé mười bốn tuổi, nhưng cô chú Ogata đã dự trù trước cho tương lai của tôi. Cuối cùng, tôi cũng nghĩ rằng mình nên đến ở nhà bác là tốt hơn cả. Tối hôm đó, tôi cùng bác đến nhà cô giáo chủ nhiệm nói chuyện, nêu nguyện vọng với cô rằng, tuy hơi đường đột, nhưng tôi muốn rời Maizuru ngay trong ngày mai. Sáng hôm sau, tôi mang bộ quần áo và đôi tất của anh trai Yukako đến nhà nàng. Nàng lại vừa mới ra khỏi nhà để đến trường. Tôi nói qua chuyện của mình với bố Yukako, ghi lại địa chỉ cho bác ấy, rồi vội chạy đến chỗ bác tôi đang đợi. Sắp đến giờ tàu chuyển bánh. Vội vã lên đường, để lại sau lưng thành phố Maizuru, tôi đã trở về Osaka không một lời từ biệt với bạn bè cùng lớp và với Yukako. Khi ổn định, cuộc sống tại nhà bác mình ở Osaka, tôi viết ngay thư cho nàng. Tôi cũng chẳng nhớ bức thư đó mình đã viết như thế nào, chỉ biết rằng tôi đã ngay lập tức nhận được hồi âm của Yukako. Cứ mỗi tháng một lần, tôi đều đặn gửi thư đến Maizuru cho Yukako. Yukako cũng hai, ba lần gì đó viết thư hồi âm cho tôi, nhưng sau đó bặt không thấy thư nàng gửi đến nữa. Và chẳng bao lâu sau, tôi lên cấp ba. Thi thoảng, tôi lại thấy nhớ nàng đến điên cuồng, và trong tâm trí lại hiện lên khuôn mặt lúc nhìn nghiêng của Yukako. Không biết bao nhiêu lần, tôi có ý định đến tận Maizuru để gặp Yukako. Thế nhưng, trái ngược với những tâm tư cháy bỏng ấy, tự lúc nào không hay, tôi đã không còn viết thư cho nàng nữa. Và tôi cũng nghĩ, cái hành động mà nàng làm với tôi trong căn phòng của nàng chẳng qua chỉ là hành động bột phát trong hoàn cảnh ấy mà thôi. Có lẽ bây giờ nàng cũng đang học tại một trường cấp ba ở Maizuru, và vây quanh nàng vẫn là những lời đồn thổi thậm chí còn mỹ miều hơn chăng. Chắc hẳn nàng đã chẳng còn nhớ đến câu chuyện với tôi ở cái thời xa xưa ấy nữa đâu. Tôi tự nhủ với mình như vậy và lao vào ôn thi đại học. Tôi hầu như đã quên hẳn Yukako. Ấy nhưng, một đôi lúc nào đó, hình ảnh của nàng với mái tóc ướt vắt ngang bờ vai trong căn phòng vào buổi hoàng hôn, nụ cười của nàng, ý nghĩa của những lời nói mà nàng dồn dập thì thầm vào tai tôi vẫn làm trái tim tôi thổn thức. Lên đến năm thứ ba đại học, tôi quen em. Tôi đã bị một cô sinh viên cùng lớp làm cho mê mẩn mỗi khi cùng ngồi ăn kem với các bạn trong lớp trên bãi cỏ sân trường. Em vẫn thường hay trêu tôi và bắt tôi phải nhắc lại điều này không biết bao nhiêu lần phải không. Và nữa, em còn bắt tôi phải nhắc đi nhắc lại một câu nói đến phát chán. Giờ đây nhắc lại câu nói đó có vẻ như thật vô nghĩa, nhưng thôi, em cứ để tôi nói lại nó một lần nữa nhé. Tình yêu của tôi với em là tình yêu sét đánh. Tôi đã phải vắt óc tìm mọi cách để có thể thu hút sự chú ý của em. Dường như lúc ấy, trong trái tim tôi, hình bóng của Seo Yukako đã tan biến, thay vào đó là hình ảnh của một người con gái nết na, tính tình sôi nổi. Thế nhưng, Yukako vẫn lẩn quất đâu đó trong tôi. Điều đó mãi đến sau này tôi mới nhận ra em ạ. Chuyện xảy ra sau khi tôi cưới em, rồi vào làm việc ở công ty xây dựng Hoshijima được khoảng một năm. Một nhà máy chế tạo máy móc nọ có kế hoạch xây dựng nhà máy ở Maizuru. Cho nên, họ đến nhờ chúng tôi làm chung dự án thi công với công ty xây dựng ở địa phương. Ba người, tôi, chủ thi công và nhân viên phụ trách phòng kế hoạch, đã cùng nhau đến Maizuru để khảo sát thực tế. Vậy là mười năm rồi tôi mới có dịp quay trở lại Maizuru. Công việc nhanh chóng kết thúc. Chúng tôi vào một nhà nghỉ ngay gần nhà ga và vội vã ăn bữa tối. Bởi muốn được ngắm nhìn thành phố và bến cảng Maizuru, nơi lâu rồi không trở lại, nên tôi đã một mình ra khỏi nhà nghỉ. Đầu tiên, tôi đi bộ về phía nhà cô chú Ogata. Chú Ogata đã mất từ hai năm trước. Giờ đây chỉ còn mình cô tôi sống trong căn nhà đó mà thôi. Nhưng, thật không may là cửa đóng, cô tôi đã đi đâu đó. Tôi đành lững thững đi ra bến cảng. Chợt, tôi nghĩ đến Yukako và thầm nghĩ, không hiểu giờ này nàng ra sao. Có thể nàng đã lấy chồng và làm mẹ rồi cũng nên. Bước chân của tôi cứ thế tự nhiên đi về phía ngôi nhà của Yukako nằm ở ngoại ô thành phố. Thành phố Maizuru đã hoàn toàn đổi khác. Nhà máy cá khô trước đây đã trở thành nhà máy chế biến thủy sản lớn. Thế nhưng, cửa hàng thuốc lá Seo vẫn đứng đó với diện mạo đúng như mười năm về trước. Trước hiên nhà, mẹ của Yukako, giờ đã nhiều tuổi rồi, vẫn ngồi đó. Tôi mua thuốc lá rồi lén nhòm vào trong nhà, và đánh liều cất giọng bắt chuyện với bác gái. Tôi xưng tên, giới thiệu việc tôi đã từng học với con gái của bác hồi cấp hai, nhắc lại câu chuyện chúng tôi bị ngã xuống biển, và tại ngôi nhà này đã được bác cho mượn quần áo để thay cho cái bộ ướt sũng, rồi hỏi bác xem Yukako có khỏe không? Mẹ nàng ngẫm nghĩ một lúc, có vẻ như bác đang dần nhớ ra, nên hỏi rằng tôi có phải là người bạn học sau khi về Osaka, đôi lúc vẫn gửi thư cho nàng hay không. Tôi đáp lại với bác rằng vâng, đúng vậy ạ. Mẹ nàng vồn vã như thể đã nhớ ra hết mọi chuyện khi đó, hồ hởi chào tôi, và bảo cho tôi biết hiện giờ Yukako đang làm việc tại một cửa hàng bách hóa ở khu phố Kawahara thuộc Kyoto. Bác còn dặn thêm rằng nàng làm ở quầy bán chăn ga gối đệm, nên nếu có dịp đến Kyoto, nhất định tôi hãy ghé thăm nàng. Tôi nói với bác rằng tôi cứ nghĩ chắc hẳn nàng phải lấy chồng và làm mẹ rồi. Bác cười và nói: “Nó chẳng chịu nghe bố mẹ đâu, cứ bướng bỉnh rong chơi lông bông thế đấy. Cháu có cậu bạn nào được được thì giới thiệu cho nó với nhé”. Tôi đi bộ trên các con phố của Maizuru khi ánh nắng chiều đang chìm xuống, rồi tựa lưng vào con đê chắn sóng, ngắm nhìn những ngọn đèn rực rỡ nơi con lạch phía bến cảng. Lúc ấy, lần đầu tiên, tôi cho rằng, những kỷ niệm về Yukako mà bấy lâu vẫn nằm sâu trong đáy lòng mình phải chăng chỉ là nỗi niềm đa cảm mà bất cứ ai cũng từng trải qua trong đời, và nó đã qua đi trong tôi từ lâu lắm rồi. Ôi, nhớ quá, những kỷ niệm thời xa xưa ấy. Ở nơi này, tôi đã vô tình gặp Yukako, và bị một gã đàn ông chẳng hề quen biết ném xuống biển. Hồi đó, tôi đã bị mất cả bố và mẹ, rồi được cô chú Ogata nhận về nuôi, nên đã đến tận vùng Maizuru này với niềm cô đơn và nỗi bất an đè nặng trong cõi lòng. Cuối cùng thì hồi đó tôi đã nghĩ những điều gì nhỉ? Có thể tôi đã nghĩ rằng cô bạn Seo Yukako quả là một cô bạn gái kỳ lạ chăng? Tôi cứ đứng mãi bên những cơn gió lồng lộng thổi vào từ biển khơi và miên man nghĩ ngợi như vậy. Giây phút ấy, linh hồn của Yukako vụt thoát ra khỏi tôi và tan đi mất. Đúng là linh hồn của cô ấy đã thoát khỏi tôi thật rồi. Tôi cảm nhận thấy rõ ràng điều đó. Tôi thấy có gì đó như nỗi phấn chấn đến trong lòng mình, nên vừa đi vừa hút tới mấy điếu thuốc lá và trở về ngôi nhà nghỉ nằm ở phía trước nhà ga. Hôm ấy là một ngày mưa vài tuần sau đó. Tôi đi bằng xe công ty để đến một bệnh viện nọ gần công viên Maruyama ở Kyoto. Trưởng phòng kinh doanh của một công ty khách hàng bị ốm phải nằm viện, nên tôi đã đến đó để thăm anh ta. Lúc dừng xe ở gần ngã tư khu phố Kawahara, tôi ngó nghiêng nhìn xem có cửa hàng bán hoa quả nào gần đó không. Trước mặt tôi là một cửa hàng bách hóa, nên tôi bảo lái xe ngồi chờ để mình vào bên trong mua quả dưa mang vào bệnh viện. Khi người bán hàng ở quầy hoa quả gói giúp quả dưa vào túi, tôi chợt nhớ ra việc Yukako có bán hàng tại quầy chăn ga gối đệm ở cửa hàng bách hóa này. Trống ngực tôi bỗng đập thình thịch (Một kẻ mới cưới vợ chưa đầy một năm mà lại như thế thì quả là dễ dãi, nhưng chắc em cũng hiểu, đàn ông mà). Tôi đi lên quầy chăn ga gối đệm nằm trên tầng sáu. Thực lòng, tôi hoàn toàn không có ý định sẽ nói chuyện gì đó với cô ấy. Tôi chỉ muốn nhìn thấy cô ấy một chút mà thôi, để xem thử Yukako bây giờ ra sao. Tôi lởn vởn bên quầy chăn ga gối đệm và trộm nhìn vào mặt mấy cô bán hàng ở đó, nhưng chẳng hề thấy cô nào trông có vẻ giông giống Yukako cả. Trên ngực áo của mấy cô ấy đều đeo thẻ, nhưng chẳng có cái thẻ nào đề tên Yukako. Cho đến giờ đôi khi tôi vẫn nghĩ, giá mà khi ấy, tôi quay trở về ngay nhỉ. Nhưng, có lẽ đó chính là cái bẫy của đời người mà tôi đã không thể nào cưỡng lại được chăng. Tôi cất giọng hỏi một cô bán hàng ở quầy đó rằng ở đây có người nào tên là Yukako không. Ngay lập tức, cô bán hàng liền mở cánh cửa nhỏ ở góc quầy, và gọi to: “Yukako ơi, có khách hỏi cậu đấy”. Sự việc xảy ra nhanh quá khiến tôi chẳng kịp phản ứng gì. Yukako nghe có người gọi mình liền ngay lập tức ra ngoài quầy và đứng trước mặt tôi với nét mặt tỏ vẻ hồ nghi. Và thế là tôi không thể không cất tiếng với nàng. Tôi nói tên mình và quan sát nét mặt của Yukako. Đương nhiên là nàng cũng nhìn lại tôi một cách ngờ vực. Tôi nói liến thoắng với Yukako những điều giống hệt như đã nói với mẹ nàng ở Maizuru ba tuần trước đây, và bảo rằng thi thoảng tôi có ghé vào cửa hàng bách hóa này, rằng tôi nhớ về cái ngày xưa đó nên đã cất tiếng hỏi thử xem. Chẳng lâu sau, nàng nhận ra tôi. Ngay khi vừa nhớ ra, trên khuôn mặt nàng đã nở một nụ cười có nét phảng phất giống với nụ cười của nàng khi còn là một cô thiếu nữ của mười mấy năm trước đây. Nét mặt Yukako khi nàng vận bộ đồng phục của cửa hàng bách hóa trông chân chất hơn rất nhiều so với tưởng tượng của tôi, nhưng khi nàng mở to đôi mắt ra và cười, thì cái khuôn mặt đã mang đến cho nàng nhiều lời đồn thổi nổi đình đám lại hiện hữu trở lại. Thế mới đúng là Yukako. Ấy nhưng, tôi cũng có phần bối rối trước dáng vẻ thanh tao đến không ngờ của nàng. Ở người con gái trưởng thành như đã từng trải qua những mất mát, lao đao này lại không hề có vẻ gì đó sỗ sàng, tầm thường. Nàng nhìn tôi với vẻ như đang hồi tưởng lại chuyện cũ, rồi mời tôi vào quán cà phê nằm ngay trong cửa hàng bách hóa đó, với lý do rằng, thật là kỳ nếu hai đứa tôi cứ thế đứng nói chuyện ở đây, nàng bảo nếu nói chuyện khoảng ba mươi phút thì sẽ không ảnh hưởng gì đến công việc. Ấy vậy mà khi hai chúng tôi ngồi đối diện với nhau trong quán cà phê, tôi chẳng biết nói điều gì với nàng, nên cứ dài dòng nhắc đi nhắc lại những kỷ niệm ở Maizuru. Khi câu chuyện ngưng lại, nàng bỗng nói: “Tớ sắp bỏ chỗ làm này rồi”. Tôi hỏi: “Bỏ chỗ làm này thì cậu sẽ làm gì?”. Yukako bảo: “Trước đây tớ đã từng làm thêm ở câu lạc bộ Gion. Sau khi suy nghĩ kỹ, tớ đã quyết định sẽ chọn công việc ở đó làm nghề nghiệp của mình”. Rồi nàng rút trong túi áo đồng phục ra bao diêm của câu lạc bộ và đưa cho tôi. Khi nghe tôi nói rằng, hồi này lượng người đến câu lạc bộ Gion để bàn chuyện làm ăn với đối tác có vẻ tăng lên, nàng liền cười bảo: “Vậy thì nếu khi nào phải tiếp khách cậu nhớ đến cửa hàng của tớ đấy nhé”. Vì lái xe đang đợi tôi ở ngoài, nên ngày hôm đó, chúng tôi chỉ nói chuyện với nhau có thế rồi tạm biệt. Và sau đó một tháng, lần đầu tiên tôi đã đưa một khách hàng quan trọng đến quán Aruru của Yukako. Tôi có ý định viết trong lá thư này tất cả những diễn biến về mối quan hệ của tôi và Seo Yukako, nhưng nếu tiếp tục viết nữa, thì lá thư này sẽ còn dài hơn cả lá thư mà em đã viết cho tôi. Bức thư này tôi viết cũng đã khá dài rồi. Viết đến đây, tôi cũng đã thấy khá mệt. Thôi đành cứ để mọi chuyện ra sao thì ra vậy. Thôi thì em hãy cứ tưởng tượng rằng, những chuyện giữa tôi và Yukako từ đây trở đi là những cuộc hò hẹn của mối tình trai gái như mọi chuyện tình yêu khác. Tại sao Yukako lại tự kết liễu đời mình? Tại sao nàng lại đâm dao vào cổ tôi? Nghĩ kỹ, em sẽ thấy tôi đã chưa hề giải thích kỹ càng với em những điều này. Thêm nữa, giữa tôi và Yukako có thực sự tồn tại một mối tình âm thầm và mãnh liệt mà không ai có thể xen vào như em đã nói hay không, đến giờ này, tôi cũng chỉ có thể nói rằng, tất cả những chuyện đó chỉ như một giấc chiêm bao mơ hồ mộng mị, mà tôi cũng chẳng biết là có hay không nữa. Giờ đây, tôi chỉ có thể nghĩ rằng, điều khắc nghiệt là, chỉ từ một chuyện từ thời niên thiếu xảy ra ở Maizuru, trái tim tôi kể từ lần gặp lại Yukako sau mười năm trời đã bị khuấy động chỉ bởi những nhục dục nhơ nhuốc. Dù sao đi chăng nữa, tôi cũng thành thật xin lỗi em vì những ưu phiền tôi đã gây ra cho em, vì những nỗi quặn đau tôi đã mang lại cho em, và vì sự phản bội của tôi đối với em. Thư tôi viết đã dài. Còn tôi cũng thấy khá mệt rồi. Tôi dừng bút ở đây vậy. Cuối cùng, tôi xin được nói lời nguyện cầu cho gia đình em mãi mãi hạnh phúc. Chào em! Ngày 6 tháng 3 Arima Yasuaki Gửi anh Arima Yasuaki. Chào anh! Cây hoa mimosa già nua ngoài vườn năm nay lại nở ra vô vàn những bông hoa màu vàng nhỏ li ti. Em yêu loài hoa trông như những hạt phấn ấy, nên cầm chiếc kéo ra vườn với ý định cắt một vài cành đang độ nở mang vào cắm. Mới khẽ chạm vào những cánh hoa đã rụng tơi tả, nên em phải bước rón rén khẽ khàng để mang những cành hoa đã cắt vào. Ấy nhưng, những cánh hoa vẫn cứ thế, cứ thế rơi xuống, nên em vội đứng lại. Mỗi lần cầm trong tay những đóa hoa mimosa ấy, em lại thoáng thấy điều gì đó như là nỗi thương đau, sầu muộn đến vây kín hồn mình. Em không nghĩ là sẽ nhận được thư hồi âm của anh, nên khi cầm trong tay tập thư dày anh gửi, em đã thấy rất sợ khi mở nó ra. Đọc xong bức thư, em thấy tâm tư mình trĩu nặng một cảm xúc kỳ lạ giống như mỗi lần nhìn thấy những cánh hoa mimosa rụng xuống. Em đã không hề nghĩ anh sẽ viết cho em một lá thư hồi âm chứa đựng một câu chuyện lãng mạn đến thế. Thế nên, em đã thấy buồn, thấy đau lòng quá, như thể người viết lá thư này không phải là Arima Yasuaki, mà là một con người hoàn toàn khác vậy. Tóm lại, qua lá thư ấy, anh muốn nói cho em biết điều gì đây?! Với lá thư ấy, em đã biết được gì nào? Anh hào hứng đánh khúc dạo đầu, rồi khi bắt đầu vào đoạn nhạc chính thì bất ngờ kêu mệt, và đóng sập nắp đàn piano. Thật đúng là một khúc dạo đầu dài dòng, xem thường người khác với những giai điệu quá ư ngọt ngào. Bức thư đó em gửi cho anh không phải là để trông mong một lá thư hồi âm, nhưng giờ đây, nhận được hồi âm của anh, đọc nó, em càng thấy mình không hiểu những chuyện đã xảy ra là thế nào. Em muốn biết toàn bộ diễn biến câu chuyện giữa anh và Seo Yukako cho đến giây phút cuối cùng. Tại sao Yukako lại tự kết liễu đời mình? Tại sao cô ấy lại muốn kéo cả anh vào cuộc nữa? Lúc này, em muốn biết tất cả những điều đó. Em có quyền được biết. Từ trước tới giờ, em chưa một lần nghĩ tới điều này. Nhưng sau khi được anh kể cho nghe câu chuyện lãng mạn của mối tình đầu, em lại muốn đi tìm những ẩn số đó. Và, lại có thêm vài điều nữa em muốn biết. Vì sao anh đến Zao? Cuộc sống của anh hiện giờ thế nào? Em thật sự muốn biết những điều này. Cũng có thể, ngay từ đầu, bởi muốn biết những điều này nên em đã gửi thư cho anh. Và, lá thư hồi âm bất ngờ từ anh đã có tác dụng đánh thức đứa bé đang chìm trong giấc ngủ sâu. Đã hơn mười năm rồi kể từ khi chia tay, giữa hai ta chẳng còn mối liên can gì nữa. Nhưng, em nhất định sẽ không bỏ cuộc đâu, nếu anh không nói rõ toàn bộ những chi tiết về câu chuyện lãng mạn đó của anh. Mong anh hãy viết để nói cho em nghe mọi chuyện kể từ lần anh gặp lại Seo Yukako tại cửa hàng bách hóa ở Kyoto cho đến lúc xảy ra sự việc ở nhà nghỉ Arashiyama. Thêm một điều nữa, có lẽ hơi thừa, cuối tháng này, chồng em có kế hoạch sẽ đi Mỹ công tác trong vòng ba tháng. Anh ấy đi giảng về Lịch sử Đông phương cho một trường đại học ở đó. Chào anh! Ngày 20 tháng 3 Katsunuma Aki Gửi Katsunuma Aki. Xin chào. Tôi đã nhận được thư em viết. Sự tức giận của em cũng là hợp lý thôi. Ngay cả tôi sau khi viết thư cho em cũng rơi vào tâm trạng cảm thấy có phần chán ghét bản thân mình. Tôi đã sống trong vài ngày day dứt bởi nỗi hổ thẹn và thấy mình thật ngu ngơ, thật quá trẻ con vì đã vội vàng viết cho em những dòng thư ấy. Nhưng, bây giờ, tôi không còn muốn viết thêm gì cho em nữa. Tôi xin nói rõ cho em biết là tôi cảm thấy rất phiền khi nhận được thư em. Tôi không có nghĩa vụ phải viết lại cho em diễn biến sự việc giữa tôi và Yukako. Tôi xin phép được rút lui khỏi những rắc rối đó. Tôi muốn kết thúc việc thư từ qua lại giữa chúng ta ở đây. Tạm biệt. Ngày 2 tháng 4 Arima Yasuaki. Anh Arima Yasuaki Chào anh! Một mùa mưa não nề lại đến. Anh có khỏe không? Mới chỉ có hai tháng thôi kể từ khi em nhận được thư anh viết. Anh đã viết rằng đừng gửi thêm một lá thư nào cho anh nữa. Ấy vậy mà giờ đây em vẫn ngoan cố thêm một lần nữa cầm bút viết thư cho anh. Em viết thư cho anh với tâm trạng băn khoăn bối rối. Có lẽ lần này, anh chẳng thèm đọc mà sẽ xé nó luôn để chấm dứt mọi chuyện. Có thể anh sẽ chán ngấy, sẽ bảo, tóm lại là vì sao cái cô này cứ dai dẳng viết thư cho mình thế. Nhưng, thực lòng, bản thân em cũng không rõ lý do vì sao lại cứ muốn viết thư cho anh. Em hoàn toàn không thể hiểu được mình viết thư thế này là để nhận được điều gì. Đúng là em không thể hiểu nổi vì sao có cái gì đó cứ thôi thúc em hãy cho anh biết những tâm sự vẫn luôn chôn sâu kín nơi đáy lòng mình. Một tâm trạng thật khó tả dâng lên trong em. Có lẽ bởi, việc gửi thư cho anh thế này đã khiến em quay trở về với tâm trạng của những ngày hai ta mới ly hôn mười năm về trước. Chắc anh lại cười vì em thật ngốc phải không? Em biết lắm chứ, rằng em đã làm phiền khi anh cứ viết thư cho anh thế này. Em cũng biết anh sẽ chẳng đọc lá thư này đâu. Nhưng cuối cùng thì em vẫn quyết định viết thư cho anh. Bởi, trước đây, anh vốn là người duy nhất luôn luôn im lặng hứng chịu những trách cứ, hờn ghen của em mà. Có một cuốn sách nào đó đã viết rằng: Thói xấu nhất của một người phụ nữ là trái tim luôn trách cứ và ghen tuông. Thế nhưng cũng có lúc em nghĩ rằng, nếu đó chính là tính cách vốn dĩ của người phụ nữ, thì theo bản năng, em muốn xả hết những trách cứ và nỗi ghen tuông vẫn hằng luôn chất chứa trong lòng. Từ khi vụ việc của anh xảy ra, nỗi thương đau, đắng cay không thể nói bằng lời cứ tích tụ lại trong em, khiến em trở thành một con người khác. Còn nhiều điều, nhiều điều em muốn trút bỏ hết cho anh. Chẳng cần anh phải viết thư trả lời. Có khi người ta chẳng hồi đáp lại gì như một khúc gỗ vô tri, như một cái hang vô hồn lại còn tốt hơn cho em đấy. Bố bắt đầu đề cập đến việc em tái hôn lại vào khoảng một năm sau khi em chia tay anh. Trong khoảng thời gian đó, em hầu như giam mình trong căn nhà ở Koroen. Ngay cả việc đi mua đồ ở siêu thị gần nhà, em cũng phó mặc hết cho chị Ikuko. Ngày ngày, em ngồi bên bậu cửa sổ, nơi nhìn ra khu vườn ở phòng ngủ tầng hai, căn phòng mà anh đã bỏ ra đi, giờ chỉ còn lại mỗi riêng em. Ngày ngày, em đọc cuốn truyện trinh thám dày cộp của nước ngoài mà tâm tư thì chẳng có lòng dạ nào mà đọc hết nó. Rồi nằm sấp trên giường nghe những đĩa hát mà anh bỏ quên không mang đi, lắng tai nghe âm thanh tích tắc của chiếc đồng hồ cho qua ngày đoạn tháng. Dọc theo con đường từ ga tàu điện Hanshin về đến nhà mình có một con sông nhỏ chảy qua anh nhỉ. Có lẽ đó là vào quãng thời gian hai tháng sau khi chúng ta chính thức ly hôn chăng? Cửa hàng sách Tamagawa bên con sông mà anh cũng biết ấy đã đóng cửa, thay vào đó là một quán cà phê có tên là Mozart[5]. Có ai đó nói với chị Ikuko là cái quán cà phê đó do một đôi vợ chồng chừng sáu mươi tuổi đứng ra kinh doanh, chủ trương chỉ nghe các bản nhạc của Mozart, chứ không trộn thêm bất kỳ loại nhạc nào khác. Và chị ấy cứ nằn nì thuyết phục em thử đi dạo, rồi tiện thể ghé qua đó uống một tách cà phê xem sao. Hôm ấy là một ngày nắng đẹp bởi mùa mưa đã qua đi. Trên đường đi, em có gặp mấy chị vợ của hai, ba người quen, nhưng em chỉ khẽ cúi đầu chào họ. Dù giáp mặt họ đấy, nhưng em lờ đi không nói với họ một câu gì, cứ thế bước đi trên con đường chói chang nắng. Em muốn được gặp anh lắm. Em vẫn còn nhỏ khi ấy, hơi nóng phả ra trên đường khiến trán và lưng em đẫm mồ hôi, em thấy người hơi nôn nao. Không biết bao lần em thầm nghĩ, em muốn gặp anh quá. Ánh mắt thiên hạ là gì kia chứ? Chiếc bình đã vỡ tan ra thành nghìn mảnh là gì nhỉ? Mình cần phải rộng lượng hơn thôi. Lẽ ra em đã có thể tha thứ cho anh mà. Chuyện người chồng tơ tưởng đến một người con gái khác, trong xã hội chả đầy rẫy ra đấy thôi. Mình đã làm một chuyện không thể cứu vãn được. Ôi! Biết làm thế nào để anh quay trở về đây. Em vừa bước vừa nghĩ ngợi mông lung những điều đó. Em thầm trách bố đã cố tình làm hai ta phải chia tay. Và toàn thân em sục sôi mối căm hận cô gái có tên Seo Yukako, người mà em chưa một lần biết mặt, và cũng chẳng còn tồn tại trên cõi đời này nữa. Quán Mozart được xây dựng theo kiểu các nhà nghỉ vẫn thường thấy ở các khu nghỉ mát. Cả bên trong và bên ngoài quán đều được trang trí nhằm làm nổi lên vẻ đẹp của vỏ cây màu nâu, hệt như một khu nhà nghỉ trên núi vậy. Người ta sử dụng nguyên si các thân cây mập tròn cho những chiếc xà trên trần nhà được cố tình để hở, bàn gỗ và ghế gỗ trông như hoàn toàn được đóng bằng tay khiến ta thấy chủ nhân của nó đã phải rất kỳ công lựa chọn. Những thớ gỗ, mắt gỗ tuy nhỏ thôi, nhưng nhìn vào nội thất, ta cảm nhận được người chủ quán đã bỏ ra nhiều tiền và rất cầu kỳ để tạo nên nó. Quả đúng như chị Ikuko bảo, bên trong quán, người ta đang mở một bản nhạc của Mozart với âm lượng hơi to một chút. Đó là bản Jupiter, một bản nhạc rất nổi tiếng mà em cũng biết. Khi người chủ quán đến đặt cốc nước xuống bàn, em liền hỏi; “Cháu nghe người ta nói rằng quán này chỉ mở nhạc Mozart thôi.” Người chủ quán với cặp kính số to gọng đen vừa cười vừa bảo với em: “Cô thích nghe nhạc à?”. “Cháu thích nghe nhạc, nhưng cháu không biết mấy về âm nhạc cổ điển”. Em nói. “Nếu đến quán tôi chừng một năm, cô sẽ hiểu được âm nhạc của Mozart. Và nếu hiểu nhạc Mozart, cô sẽ biết được thế nào là âm nhạc”. Người chủ quán ôm cái khay trước ngực, ngẩng khuôn mặt tươi tắn lên trần nhà và nói một cách kiêu hãnh. Câu nói ấy thật lạ lùng khiến em bật cười khúc khích. Ngay lập tức, người chủ quán lại nói: “Đĩa hát tôi đang bật là bản giao hưởng số 41”. Em bảo: “Bản Jupiter đúng không ạ?”. “Ái chà, cô biết rõ đấy chứ nhỉ. Đúng thế. Bản Jupiter. Cung đô trưởng bản thứ 41. Đây là bản giao hưởng cuối cùng của Mozart, là một kiệt tác với phần nhạc dạo được đưa vào ở chương bốn, chương cuối cùng, và tạo nên một chương cuối cùng da diết để kết thúc bản sonata ở chương một và chương hai”. Ông chủ quán chăm chú lắng nghe bản nhạc và nói. Rồi ông khẽ thì thầm: “Đây này, từ đoạn này đấy. Đến đoạn này là bắt đầu chuyển sang chương cuối cùng đấy”. Em gọi một tách cà phê rồi chìm đắm vào trong bản giao hưởng tuyệt tác đó. Một bức tranh phục chế chân dung của Mozart được lồng trong khung và treo trên tường. Trên chiếc giá sách nhỏ cạnh đó có bày một vài cuốn viết về Mozart. Trong quán chỉ có một người khách duy nhất là em. Bản nhạc Jupiter kết thúc. Sự tĩnh mịch kéo đến vây quanh em. Một sự tĩnh mịch thật kỳ lạ anh ạ. Trong sự tĩnh mịch ấy, em cảm nhận thấy rõ nỗi lòng mong được gặp lại anh. Thế rồi, một bản nhạc khác vang lên. Ông chủ quán tới chỗ em, nói với em bằng cách nói như thể thầy giáo ở trường đang chỉ bảo cho cô học trò bé nhỏ của mình vậy. “Đây là bản giao hưởng số 39, một bản nhạc nổi tiếng hết sức kỳ lạ với nhịp mười sáu. Hôm tới cháu đến đây, ta sẽ bật cho cháu nghe bản Don Giovanni. Tiếp đó là bản giao hưởng cung son thứ. Ta nghĩ rồi dần dần, dần dần, cháu sẽ hiểu nhiều về những điều kỳ lạ của người nhạc sĩ có tên là Mozart ấy”. Hương vị cà phê thật ngon và một người chủ quán cởi mở. Hai, ba ngày sau đó, em lại đến quán “Mozart” ấy. Hôm đó quán rất đông khách. Ông chủ quán đã để ý thấy em ngồi ở chỗ gần cửa sổ, nhưng ông có vẻ rất bận rộn, vừa đun cà phê bên quầy, vừa pha nước uống cho khách. Và mỗi lần một bản nhạc của Mozart kết thúc, ông lại vội vã đi thay một bản nhạc khác. Bà vợ của ông chủ, người không thấy xuất hiện vào hôm đầu tiên đến quán này, hoặc mang đồ uống đến bàn cho khách, hoặc đổ thêm nước vào cốc đã vơi cho khách, hoặc dọn bàn. Trong tiếng nhạc của một bản giao hưởng em không biết tên, em thấy bóng dáng một chàng trai trẻ tuổi đang nhắm mắt cúi đầu say sưa lắng nghe trông thật dáng dấp, nên hai tay em cứ thế đỡ tách cà phê trên môi, lơ đãng nhìn chàng thanh niên đó. Chàng trai mải mê lắng nghe bản giao hưởng êm đềm với một nét mặt và dáng vẻ như thể đang dâng tặng một lời cầu chúc cho cái gì đó thật vĩ đại, hoặc như thể đang bị một ai đó đáng sợ mắng nhiếc, và toàn thân đang ăn năn hối lỗi. Cho đến lúc đó, em hầu như chẳng hề có hứng thú gì với âm nhạc cổ điển, và cũng chẳng hề nghĩ mình có khả năng cảm thụ hay kiến thức để hiểu những điều kỳ diệu của người nhạc sĩ có tên là Mozart. Nhưng, khi nhìn thấy hình ảnh của chàng trai đó và lắng nghe bản giao hưởng du dương được bật trong quán, một từ bất chợt hiện lên trong đầu em. Đó là từ “chết”. Em cũng không hiểu vì sao cái từ ấy lại vút qua trong tâm trí em. Tất nhiên, vào giây phút ấy, nếu em không có ý định sẽ chết đi, thì em cũng sẽ không cảm thấy sợ hãi đối với cái chết. Thế nhưng, cái chữ “chết” đó vẫn hiện lên rõ nét trong em, và không hề có ý định đi khỏi tâm trí em. Em vừa nhấm nháp tách cà phê, và lần đầu tiên, em chăm chú lắng nghe bản nhạc của Mozart, trong khi cái từ “chết” kia vẫn lẩn quất đâu đó trong đầu. Em nghĩ rằng đây có lẽ là lần đầu tiên trong đời, mình chăm chú lắng nghe một bản nhạc đến mức ấy. Và rồi, cho đến lúc đó, em cảm nhận thấy nơi bản giao hưởng bình thường ấy những giai điệu đẹp, tuyệt vời khó có thể tả xiết, cùng những giai điệu kỳ lạ đưa ta vào cõi hư vô nào đó. Làm sao mà một người thanh niên khoảng độ hai mươi tuổi, vào hai trăm năm về trước lại có thể sáng tác nên một bản nhạc tuyệt diệu đến thế này nhỉ. Hơn thế, chẳng cần dùng lời nói, bản nhạc còn da diết kể cho ta nghe cùng lúc hai nỗi niềm sầu muộn và sướng vui của con người. Em cứ miên man nghĩ ngợi như vậy và ngắm nhìn hàng hoa anh đào đang độ đâm chồi bên đường qua ô cửa kính. Em cứ tự tưởng tượng ra bóng dáng, nét mặt của Seo Yukako, người con gái đã chết, người em chưa thấy mặt một lần, người chắc chắn phải xinh đẹp hơn em rất nhiều, và thả hồn mình theo những giai điệu như những con sóng nhỏ của bản giao hưởng của Mozart. Khi đĩa nhạc chuyển sang bản khác, chàng trai hồi nãy nói vài lời cảm ơn gì đó với ông chủ quán, trả tiền và ra về. Cùng lúc đó, ở cái quán khi nãy đông đặc khách ấy, những người khách khác cũng rời khỏi ghế để đi về, như nước biển rút dần đi, chỉ còn lại mình em. Người chủ quán cuối cùng cũng rời khỏi quầy, đến giới thiệu vợ mình với em. Người vợ không phải nhiều tuổi lắm, cỡ chừng trên dưới năm lăm, năm sáu gì đó, nhưng trên đầu tóc đã bạc trắng. Bà vấn tóc gọn gàng, và cũng đeo một cặp kính số to giống chồng. Hai người ngồi xuống bàn gần chỗ em ngồi như để nghỉ ngơi một chút, và cùng nói chuyện riêng hồi lâu. Rồi, người vợ quay sang hỏi chuyện em. “Phu nhân sống ở gần đây à?”. Bà ấy đã hỏi em bằng đại từ ấy đấy anh ạ. Em trả lời rằng em sống cách đây mười lăm phút đi bộ theo con phố này về phía bờ biển. Bà đảo đôi mắt tròn xoe, nghĩ ngợi một hồi rồi đưa ra một vài cái tên. Cũng có cái tên của một vài người hàng xóm gần nhà mình, nhưng không có tên ai trong gia đình mình cả. “Họ nhà cháu là Hoshijima đấy ạ. Nhà cháu ở phía trước câu lạc bộ tennis”. Em nói. “À, cô biết rồi. Ngôi biệt thự có một cây hoa mimosa rất to ngoài vườn chứ gì?”. Rồi cô ấy bảo rằng cô ấy chưa hề nhìn thấy một cây hoa mimosa nào to đến thế, và nhờ em năm sau nếu cây ra hoa, cho cô ấy xin hai, ba cành hoa. (Nếu như anh đang đọc bức thư này, chắc hẳn anh sẽ bảo lá thư này sao lan man thế phải không? Nhưng bởi đây là bức thư em vẫn ngoan cố gửi đến cho anh sau khi đã bị anh từ chối rằng đừng gửi thư đến cho anh nữa. Cho nên, em có ý định cứ thế viết ra đây những gì mình muốn viết đấy anh ạ). Em gọi thêm một tách cà phê nữa và bảo với ông chủ quán: “Cháu đã bắt đầu hiểu được chút xíu điều kỳ lạ của người nhạc sĩ có tên Mozart rồi”. Ông chủ nhìn em chăm chăm với vẻ kinh ngạc. Đôi mắt nhỏ xíu sau cặp kính đã tắt đi nụ cười của ông ấy sáng lên, và cứ thế hướng khuôn mặt hệt như một cậu bé về phía em. Một lúc rất lâu, ông ấy không hề rời mắt khỏi em, khiến em thấy ngượng nên nói: “Cháu sống độc thân. Tuy rằng hai tháng trước đây cháu không phải như thế”. Chắc người vợ nghĩ chồng em bị chết, nên cô ấy nói: “Anh nhà bị bệnh hay gặp tai nạn…?”. Em trả lời thành thật: “Không, chúng cháu ly hôn ạ”. Em cứ ngỡ hai người sẽ hỏi han cặn kẽ, tỉ mỉ em về việc đó, (vì cứ nhìn vào cặp mắt tròn chuyển động liên tục của bà vợ trông có vẻ là một người đảm đang ấy, em thấy bà ấy rất giống các bà vợ thuộc kiểu đó mà ở xã hội ta vẫn thường gặp). Nhưng không, cặp vợ chồng đó chỉ cùng thốt lên: “Vậy à?”, rồi không hề đả động một chút gì đến chuyện đó. Để chuyển đề tài, hai người kể cho em nghe chuyện họ đã mở quán “Mozart” như thế nào. Chính vì thế, em đã biết được chuyện gia đình, và những chuyện trong quá khứ của họ. Họ kể rằng, người chồng bị bắt đi lính vào năm 1941. Vào mùa đông năm 1945, khi chiến tranh kết thúc, ông trở về từ tỉnh Sơn Tây của Trung Quốc. Ông sinh năm 1920, nên khi chiến tranh kết thúc, ông quãng chừng hai mươi tư, hai mươi lăm gì đó. Nói chung là vào lúc đó, em vẫn còn ở tít trong bụng mẹ cơ nhỉ. Ba năm sau kể từ khi chiến tranh kết thúc, ông vào làm việc tại ngân hàng qua sự giới thiệu của một người bạn. Và kể từ lúc ấy cho đến khi ông về hưu, mùa thu năm 1975, trong hai mươi bảy năm, ông làm việc liên tục với vị trí nhân viên ngân hàng. Vào khoảng thời gian hai năm cuối, ông giữ chức vụ trưởng chi nhánh ở Osaka, rồi về nghỉ hưu. Sau đó, ông cũng nhận được việc làm thêm ở vị trí bán thời gian tại một tổ chức tín dụng trong hệ thống ngân hàng đó, nhưng công việc đó chủ yếu là sắp xếp hồ sơ chuyển tiền cho các vụ tai nạn, hoặc là đi đòi nợ, nên ông cho rằng công việc này chẳng hề thích hợp với mình chút nào. Dù vậy, ông đã nghỉ việc ở nhà chừng một năm. Ý định mở quán cà phê sau khi nghỉ hưu của vợ chồng ông đã có từ những mười mấy năm trước. Ngay từ lúc đó vợ chồng ông đã ấp ủ trong đầu cái tên của quán “Mozart”, cũng như cách bài trí và cả nội thất của cửa hàng. Tuy nhiên, ba cô con gái lần lượt đi lấy chồng. Họ phải tiêu lạm vào số tiền dành dụm để mở cửa hàng. Rồi mãi mà không tìm được địa điểm thích hợp để mở quán, hoặc cửa hàng rao bán. Cho nên, việc thực hiện mở quán cà phê này bị chậm so với kế hoạch ba năm. Ông chủ kể: “Vào năm mười sáu tuổi, lần đầu tiên tôi biết đến Mozart”. Và kể từ đó, ông thần tượng Mozart, nên đã dùng toàn bộ số tiền tiêu vặt ít ỏi của mình để mua các đĩa nhạc của Mozart. Ông còn kể lại kỷ niệm rằng, ngay cả khi đi lính, khi cầm súng nơi đại lục Trung Quốc, bên tai ông vẫn văng vẳng các giai điệu trong những bản nhạc của Mozart. “Nhất định mình sẽ sống những năm tháng tuổi già với một quán cà phê đặt tên là “Mozart”, chỉ mở những bản nhạc Mozart mà thôi. Bởi thế nên giờ mình làm việc ở ngân hàng”. Ông đã tự nhủ với lòng mình như vậy mỗi khi cảm thấy mệt mỏi hay phiền muộn trong công việc. Vì thế, trong suốt hai mươi bảy năm, ông cần mẫn làm việc với vai trò một nhân viên ngân hàng, một công việc mà ông chẳng hề cảm thấy mấy vui vẻ, hứng thú, hòng có được một khoản tiền về hưu lớn dùng làm vốn để mở quán. Ông hào hứng kể: “Nghe loáng thoáng có người bảo rằng hiệu sách ở gần ga tại Koroen sắp đóng cửa, tôi vội vàng lao đến ngay”. “Chỉ thoáng nhìn, tôi đã nghĩ: Đúng là chốn này rồi. Phong thủy cũng phù hợp, mà lại ở vị trí đông người qua lại. Đúng là chỉ có thể là ở đây mà thôi. Cuối cùng thì ta cũng đã tìm thấy, mau mau mở quán “Mozart” ở đây thôi. Tôi đã sướng đến phát điên lên”. Ông chủ nói vậy và cười, rồi ông lại nhìn tôi chăm chăm. “Lúc nào cũng chỉ Mozart, Mozart. Rượu ông ấy không uống. Cờ bạc ông ấy không ham. Ông ấy cũng chẳng thích đi câu cá, chẳng biết chơi mạt chược hay cờ tướng gì cả. Cứ đi làm về là ông ấy say sưa mân mê, lau chùi các đĩa nhạc Mozart, cỡ chừng phải vài trăm cái. Hồi đầu tôi khó chịu lắm, và nghĩ mình đã lấy phải một người lập dị nữa cơ”. Bà vợ nói và cười: “Thế mà, chẳng hiểu từ bao giờ, tôi cũng bị hội chứng Mozart đấy”. Em chợt nhớ đến chàng trai hồi nãy nên hỏi vợ chồng ông chủ quán. Ông chủ giải thích cho em rằng, cậu thanh niên đó cũng thần tượng nhạc Mozart và cũng có rất nhiều đĩa nhạc Mozart. Nhưng, cậu ấy muốn nghe đĩa nhạc nổi tiếng mà mình không có, nên cứ hằng ngày đến quán để tôi bật cho nghe mỗi đĩa nhạc ấy thôi rồi lại ra về. Sắp đến giờ cơm tối. Em đặt số tiền trả cho hai tách cà phê lên bàn rồi đứng dậy. Ông chủ cũng đứng lên, vừa cười vừa hỏi em rằng: “Khi nãy cô nói là đã bắt đầu hiểu về những điều kỳ lạ của người nhạc sĩ có tên Mozart, vậy cô hãy nói cho tôi biết xem cô đã hiểu những gì nào”. Em mới chỉ biết đến nhạc Mozart từ hôm qua và hôm nay, nên thật khó diễn đạt bằng lời những điều đó. Và một người như em làm sao có thể nói lên những cảm xúc nhất thời và một người say đắm âm nhạc Mozart, đã nghe đến mấy nghìn, mấy vạn lần những bản nhạc đó. Thế nhưng, ánh mắt của ông chủ quán như giục giã khiến em buột miệng nói. “Sự sống và cái chết có lẽ là như nhau thôi. Cháu có cảm giác những giai điệu nhẹ nhàng trong các bản nhạc của Mozart đã nói lên điều kỳ lạ lớn lao ấy”. Em đã muốn nói rằng, thứ ẩn chứa những giai điệu của những bản nhạc kỳ diệu khó có thể diễn tả bằng lời, những bản nhạc mà không cần bằng lời nói, chúng đã kể cho con người biết về sự song hành của niềm vui và nỗi buồn; thứ đã diễn đạt những nỗi lòng ấy một cách vô cùng giản dị và khiến người nghe cảm thấy được thư giãn chính là phép màu nhiệm của người nhạc sĩ có tên Mozart. Nhưng, trước ánh mắt của ông chủ quán đang chăm chăm nhìn em, em đã buột miệng trả lời mà chẳng hề nghĩ ngợi gì cả. Có lẽ là bởi, cái từ “chết” khi nãy vụt thoáng qua trong tâm trí em chưa hề biến mất mà vẫn đang lẩn quất ở đâu đó. Và em đã bị chi phối bởi nó, nên đã buột thốt ra những điều mà mình không hề nghĩ tới. “Ồ, vậy sao…?” Ông khẽ lẩm bẩm rồi cứ thế chăm chăm nhìn em một lúc lâu. Em vội vã rảo bước trở về nhà trong ánh chiều tà của một ngày hè dài. Bản thân em cũng chẳng hiểu những điều mình đã nói có nghĩa là gì nữa. Và, trong đầu em lại một lần nữa hiện lên những ý nghĩ về Seo Yukako. Cô ta là người phụ nữ như thế nào? Tại sao sau khi dan díu với anh, cô ta lại tự kết thúc đời mình? Em về đến nhà với trạng thái mỏi mệt rã rời. Kể từ lúc đó cho tới mùa đông, trong suốt vài tháng, em cứ đều đặn một tuần khoảng hai, ba lần đến quán Mozart uống cà phê. Thi thoảng em có đi tàu điện Hanshin để đến Sannomiya ở Kobe, hay ngược hướng đi xuống Umeda để mua sắm đồ ở cửa hàng bách hóa. Nhưng, em từ chối toàn bộ lời mời đi xem các buổi chiếu thử phim mới, hay rủ đi xem hòa nhạc của các cô bạn thời đại học như Terumi, Aiko mà anh đều biết cả. Gần như em giam mình trong nhà sống cho qua ngày. Cả bố và chị Ikuko trong lòng đều thấy lo cho em, nên để cho em hoàn toàn tự do làm những gì mình thích. Thế nhưng, trong cái cuộc sống có thể gọi là lờ đờ, vô nghĩa ấy, cũng có duy nhất một niềm vui đã đến với em. Lại có thêm em mắc hội chứng Mozart. Được ông chủ quán Mozart hướng dẫn, em mua các đĩa hát nhạc Mozart theo gợi ý của ông, rồi ngày ngày say sưa nghe đến tận đêm khuya trong căn phòng của mình. Em mua cuốn sách viết về Mozart tại một hiệu sách lớn ở Osaka và cũng mải miết đọc nó. Giờ đây em đã trở nên vô cùng thân thiết với vợ chồng ông chủ quán Mozart. Và mỗi khi em đến quán đó, cô chú ấy lại lấy tách cà phê mà cô chú ấy đã dành riêng để pha cà phê cho em. Cô chú ấy cực kỳ tâm lý khiến em phải ngạc nhiên. Hôm nào em không muốn nói chuyện là cô chú ấy biết ngay, để em tự do một mình. Hôm nào em thích nói chuyện gì đó với cô chú ấy hơn là nghe nhạc, thì hoặc là cô, hoặc là chú sẽ cất tiếng và đến nói chuyện với em. Tuy nhiên, cả hai cô chú ấy đều không một lần đả động hỏi lý do vì sao em lại ly hôn. Bức thư em viết lại quá dài rồi. Em cứ kể lan man những kỷ niệm của ngày xa xưa, mà vẫn chưa đi sâu vào một điều quan trọng. Em thấy mệt quá rồi. Thôi đành hẹn anh thư sau, em sẽ viết về điều em thực sự muốn viết cho anh đọc. Chắc anh lại muốn bảo với em rằng thôi khỏi, không cần phải viết nữa phải không?! Nhưng, nhất định là em sẽ viết tiếp thư cho anh đấy nhé. Cho dù anh có xé bỏ nó đi, em vẫn gửi nó cho anh. Còn hôm nay, em tạm dừng bút ở đây vậy. Trên báo có đăng tin năm nay mùa mưa sẽ kéo dài. Trời đã mưa liên tục trong năm ngày liền rồi anh ạ. Vào những hôm như thế này, em lại nhớ đến bao lần bé Kiotaka cảm thấy khó chịu trong người, những lần bé tè dầm, tuy rằng hồi này bé gần như đã hết hẳn. Thằng bé thường không nhịn được cơn buồn tè để đợi đến lúc vào trong toilet. Chuyện này chỉ diễn ra vào những hôm trời mưa kéo dài mấy ngày liền mà thôi… Em thấy thật kỳ lạ. Bản thân mỗi người vẫn thường mang trong mình những quy luật giống như những giai điệu quen thuộc của thiên nhiên vậy. Thế nhưng, con trai em vì mỗi chuyện này mà bé cảm thấy vô cùng buồn phiền, đến mức em cũng không thể chịu nổi khi thấy con trai mình phải khổ sở như thế, và phải rất nhiều ngày, thằng bé không mở miệng nói với ai câu gì. Bởi thế, em đã trở nên cực kỳ căm ghét những ngày mưa, những ngày mà xưa kia, em đã vô cùng yêu quý đấy anh ạ. Mong anh giữ gìn sức khỏe. Tạm biệt anh. Ngày 10 tháng 6 Katsunuma Aki Anh Arima Yasuaki! Chào anh! Mùa mưa năm nay mưa thật nhiều anh nhỉ. Em nhăn nhó bảo với chị Ikuko rằng: “Hồ Biwa cứ đến mùa hè là mực nước giảm xuống, làm ảnh hưởng đến tình hình nước ở vùng Kinki, giờ nhờ trời lại được tích đầy nước mưa, may thật”. Tức thì, chị ấy bảo ngay với em rằng: “Nước mưa đâu có đọng lại trong hồ mà chảy theo các con sông đổ ra biển đấy chứ”. Cho nên, ngay cả vào năm có nhiều mưa đến đâu đi chăng nữa, rốt cuộc cái nóng dữ dội vào thời điểm giữa mùa hè cũng sẽ làm giảm đi mực nước của hồ Biwa thôi. Trên báo chí, người ta đã ra thông báo rằng mùa mưa sắp hết, ấy vậy mà em vẫn có cảm giác mọi thứ trong nhà vẫn rất ẩm ướt. Từ tường, chiếu, hành lang, tay nắm cửa, tất cả đều phủ đầy rêu mốc. Thôi, bỏ qua những chuyện đó nhé, bây giờ em sẽ viết tiếp cho anh nội dung tiếp theo của lá thư hôm trước. Nửa năm trôi qua, kể từ lúc em đều đặn hằng tuần đến quán Mozart. Đó là vào thời điểm đầu năm mới, ngày mùng sáu tháng Hai. Em nhớ rõ hôm đó là ngày mùng sáu tháng Hai. Em choàng tỉnh dậy vào lúc hơn ba giờ sáng. Tiếng còi báo động rất to hú lên liên tục tại khu vực ngay gần nhà. Khi em bừng tỉnh dậy cũng là lúc em nhận ra đó là tiếng còi của xe cứu hỏa. Đó không phải là tiếng còi của một hay hai xe cứu hỏa. Từ phía tây, rồi từ phía đông, có rất nhiều xe cứu hỏa đang cùng tập trung đi về một chỗ. Và chỗ đó lại rất gần nhà em. Em khoác chiếc áo choàng mỏng, vén rèm cửa sổ nhìn ra dãy phố khu nhà tập thể lúc nửa đêm. Một ngọn lửa cháy bừng bừng ở phía bên kia các mái nhà. Em nhìn thấy rõ ở một góc phố trong đêm tối, một lớp sương mù màu đỏ đang lan rộng, với những tia lửa cháy lốp bốp. Em nín thở đứng nhìn một lúc lâu. Em nghĩ không chừng quán Mozart bị cháy cũng nên. Rõ ràng nơi có đám cháy là khu vực gần quán Mozart mà. Vợ chồng ông chủ quán Mozart sống tại một căn hộ phía sau nhà ga, nên giả sử đám cháy kia là ở cái quán cà phê đó, chắc chắn hai người cũng không bị nguy hiểm đến tính mạng. Song, em vẫn vội vàng mặc quần áo rồi chạy xuống cầu thang. “Có đám cháy đấy cô nhỉ”. Chị Ikuko nói. Chị vẫn mặc nguyên bộ quần áo ngủ, ra ngoài hành lang mở cửa ra vào, rồi nhìn lên bầu trời đêm đang nhuộm một màu đỏ rực với dáng điệu run rẩy vì lạnh. “Có khi là quán Mozart đấy chị ạ”. Em nói vậy, rồi xỏ nguyên đôi dép lê chạy ra đường. Chị Ikuko cầm chiếc áo khoác dày đuổi theo đưa cho em và bảo: “Cô phải về nhà ngay nhé. Đêm hôm khuya khoắt thế này, nguy hiểm lắm đấy”. Trong màn đêm giá lạnh, em khoác chiếc áo rét có lớp trong là bộ lông thú vào rồi đi nhanh về hướng có ngọn lửa đang cháy. Em băng qua dãy phố khu nhà tập thể, đến bờ sông, rồi qua cầu. Khi ấy, em xác định được rõ rằng khu vực bị cháy không phải nơi nào khác chính là quán Mozart. Giữa đêm hôm khuya khoắt, vậy mà có cả một đám người đến vây quanh khu vực xảy ra đám cháy, và bảy, tám chiếc xe cứu hỏa đang đỗ trên con đường dọc bờ sông. Lúc em đến cũng là lúc ngọn lửa bùng lên dữ dội nhất. Em thấy quán Mozart vốn được làm toàn bằng gỗ đang bị bao phủ hoàn toàn bởi một ngọn lửa khổng lồ trong tình trạng không thể cứu vãn. Rất nhiều vòi nước trông như những đường kẻ khổng lồ đang được phun vào bên trong quán, phun lên mái nhà. Đập vào mắt em là hình ảnh những người lính cứu hỏa, hai tay nắm chặt sợi dây thừng được rào sẵn quanh khu vực đó để chặn không cho đám đông nhốn nháo xâm nhập vào, và ông chủ quán trân trân đứng nhìn ngôi quán của mình đang dần bị cháy rụi. Em gạt đám đông để tiến dần lên phía trước, đến đứng bên cạnh ông chủ, và cũng dùng tay nắm chặt lấy sợi dây thừng như vậy. Hơi nóng của ngọn lửa phả vào toàn bộ thân người phía trước của em, khiến em thấy nóng không chịu nổi. Tuy vậy, hai tay em vẫn nắm chặt sợi dây thừng, đứng bên cạnh ông chủ quán và nhìn quán Mozart đang dần bị cháy rụi trong tiếng gỗ cháy lốp bốp, và đang bị vây kín bởi vô vàn những tia lửa thi thoảng lại bắn ra. Không biết ông chủ quán để ý thấy em đứng bên cạnh từ lúc nào, nên ngoảnh mặt sang em trong khi mắt ông vẫn cứ chăm chăm nhìn phía ngọn lửa và nói bên tai em: “Quán làm toàn bằng gỗ, nên lần này cháy sạch rồi”. Em ngó nghiêng tìm bà vợ nhưng chẳng thấy bà ấy ở đâu cả, nên hỏi ông về tình hình bà ấy. Em thấy lo, không biết bà ấy có đang ở bên trong quán hay không, khiến giọng run run. “Vợ tôi bà ấy về nhà từ khi nãy. Bà ấy không chịu nổi khi nhìn cảnh tượng này cô ạ. Bà ấy bảo cứ ở ngoài trời phong phanh thế này thì ốm mất, nên tạt về nhà lấy áo khoác mang ra đây”. Em thở phào nhẹ nhõm và hỏi: “Rồi cô chú sẽ dựng lại quán chứ?”. Ông chủ quán khẽ gật đầu: “Chúng tôi có đóng bảo hiểm hỏa hoạn mà… Nhưng mà, hai nghìn ba trăm đĩa hát giờ đã tan thành tro rồi”. Ông bảo vậy với khuôn mặt méo mó đến kỳ lạ, một khuôn mặt mà nhìn vào nó, em chẳng biết là ông đang khóc hay đang cười nữa, rồi cứ thế đăm đăm nhìn ngôi quán với ngọn lửa đang dần tàn. Em quyết định sẽ đứng bên cạnh ông chủ đợi đến khi ngọn lửa tắt hoàn toàn, mặc cho khi nãy chị Ikuko dặn phải mau về sớm, rồi cùng ông nhìn lại quán Mozart. “Sao lại ra nông nỗi này vậy kia chứ…”. Em nói. Ông chủ quán khẽ nở một nụ cười và bảo: “Khi nhận được tin báo quán bị cháy, tôi đã cuống quýt cả lên, người run bần bật. Ấy vậy mà khi nhìn ngọn lửa, khi biết thế là xong, thế là chúng tôi chẳng can thiệp gì được nữa rồi, thật kỳ lạ, tôi lại thấy bình tĩnh. Nói thế nào nhỉ, tôi thấy mình ở trong tâm trạng vô cùng thanh thản. Bởi may là không có ai ở trong quán lúc đó…”. Ông đã nói vậy với nét mặt và giọng nói quả thực phù hợp với hai từ “thanh thản” đó. Mái nhà đã hoàn toàn bị thiêu cháy đổ sập xuống cùng lúc với một âm thanh rất to, và vào lúc đó, lớp lớp vô số những tia lửa bắn ra tung tóe khiến cho không ai bảo ai, đám đông người nhốn nháo bất chợt cùng lúc lùi lại phía sau. Ông chủ quán cũng nắm lấy cánh tay em, định lôi em về phía sau. Thế nhưng, em cố gắng chịu đựng hơi nóng ấy, dùng toàn thân mình chặn những tia lửa đó lại. Tại sao em lại có hành động nguy hiểm đó nhỉ? Đó là bởi, khi nhìn vào ngọn lửa mà mọi người đều ngỡ đã dần tàn, thế mà lại bất chợt bùng lên cháy dữ dội, với âm thanh ầm ào, rồi lại tắt lịm dần đi, em đã nghĩ đến anh. Em có cảm giác là, chỉ cần xoay người một chút thôi, hình bóng anh vừa mới hiện hữu trong tâm trí em sẽ vụt tan biến. Thế nên, em bướng bỉnh đứng tại chỗ đó, cố làm cho toàn thân cứng đờ, không cử động. Hai ta đã buộc phải ly hôn bởi cảnh ngộ éo le ấy, và đã lìa xa nhau. Nhưng em đã nghĩ rằng, chắc chắn, anh cũng mang nỗi niềm giống như em vậy. Có phải rằng, đâu đó trên đường đời tấp nập, đã có những lúc anh chợt thoáng nghĩ đến em hay không? Liệu rằng anh còn yêu em nữa không? Em đã nghĩ như vậy. Những tia lửa bất chợt bắn vào cái giây phút khuôn mặt anh hiện lên trong mắt em cùng với niềm thương nhớ, nỗi hối tiếc khôn nguôi. Những tia lửa bắn ra cùng âm thanh gầm gào như thế kéo em ra khỏi cơn mộng du ấy, rồi vụt tắt lịm. Em có cảm giác như có ai đó tát mạnh vào má mình, rồi em nhìn vào đống hoang tàn đổ nát của quán Mozart lúc này đã bị bao phủ bởi một làn khói mịt mù thay thế cho ngọn lửa ban nãy. Thế rồi ông chủ quán nói với em bằng giọng điềm đạm: “Sự sống và cái chết có lẽ như nhau. Tiếng nhạc của Mozart vẫn vang lên trong con tạo xoay vần giữa miền vũ trụ ấy. Cô Hoshijima đã quả quyết như vậy mà, phải không?” Em nhìn chăm chắm vào mồm ông chủ quán để xem ông định nói điều gì. Ông chủ trầm tư nghĩ ngợi hồi lâu, rồi bảo thế này. “Tôi cứ ngỡ mình biết về Mozart nhiều hơn bất kỳ ai khác. Tôi đã không hề nghĩ có nhiều người nghe nhạc Mozart hơn cả tôi. Và như thế, tôi đã rất tự tin với những hiểu biết của mình về Mozart. Vậy mà, tôi chưa bao giờ suy nghĩ về âm nhạc của Mozart như những gì cô Hoshijima đã nói. Kể từ lúc ấy, tôi cứ nghĩ mãi về ý nghĩa của những điều cô nói, và bây giờ thì tôi đã hiểu nó rồi. Đúng như lời cô Hoshijima nói, qua những bản nhạc của mình, Mozart đã muốn diễn tả cái chết của con người đấy cô ạ”. Dường như cảm thấy phấn khích khi nói về những điều này, khuôn mặt ông chợt căng ra đến độ đáng sợ, đôi mắt đằng sau cặp kính vốn rất hiền từ bỗng tỏa ra một luồng ánh sáng mạnh mẽ. Khi ấy em nghĩ rằng những điều em đã chợt thốt ra có một phần khác với câu nói mà ông chủ quán cứ nhắc đi nhắc lại kia. Trong câu nói của em làm gì có từ con tạo xoay vần giữa miền vũ trụ nhỉ. Thế nên, có lẽ trong khi cứ nghĩ ngợi miên man về câu nói mà em chợt thốt ra kia, ông chủ quán đã vô tình thêm vào một cụm từ mà em chẳng hề nói ra. Vì vậy, em đã bảo rằng: “Cháu nghĩ chắc chắn cháu không hề nói cụm từ con tạo xoay vần giữa miền vũ trụ đâu ạ”. Ông chủ quán quay mặt về phía em với vẻ hồ nghi. “Không, chắc chắn cô có nói. Tôi nhớ rõ là cô có nhắc đến từ con tạo xoay vần giữa miền vũ trụ mà”. Em nghĩ rằng có lẽ chi tiết ấy nằm trong ảo giác của ông chủ quán, nhưng em thôi không tranh luận với ông về điều đó nữa mà tiếp tục lắng nghe ông nói. Đâu đó trên các thớ gỗ đang nghi ngút khói gần như đã tắt hết lửa, vẫn lập lòe những đốm lửa tàn. Những người lính cứu hỏa trong bộ đồng phục phòng cháy chữa cháy màu ánh bạc vẫn còn tiếp tục phun nước vào bên trong quán. Ông chủ quán nói bằng một giọng rất to. “À mà không. Không phải. Không phải cô đã nói từ con tạo xoay vần giữa miền vũ trụ. Chẳng qua là tôi đã nghĩ quá lên đấy thôi. Cô Hoshijima nói là…”. Rồi ông chăm chăm nhìn em như để cố nhớ lại cụm từ đó. Những hạt muội nhỏ li ti bám đầy lên cặp kính, nhưng ông chẳng hề để tâm đến việc phủi chúng đi mà lại tiếp tục. “À, cô nói cái từ con tạo xoay vần của sinh mệnh. Phải rồi, tôi nhớ ra rồi. Chắc chắn là cô đã nói đến từ con tạo xoay vần kỳ diệu của sinh mệnh”. Với cảm giác rằng cái cụm từ đó vẫn sai, em nghiêng đầu và nhìn chăm chăm vào ông chủ quán. Ông chủ quán cười khiến em cũng bật cười theo. Ông gật đầu ra hiệu cho một người trong số đám đông đứng đằng sau, rồi hỏi xin người đó một điếu thuốc lá. Đó là một khuôn mặt khá quen thuộc của quán Mozart. Người đó nhanh nhẹn rút một điếu thuốc lá từ túi áo ngực của mình, châm lửa giúp ông chủ quán, rồi hỏi với vẻ lo lắng, rằng ông chủ có đóng tiền bảo hiểm hỏa hoạn hay không. Ông chủ đáp lại giống như những gì đã nói với em. Đáp lại ý của ông chủ về việc hai nghìn ba trăm đĩa hát không thể nào lấy lại được, người đó bảo thế này. “Đĩa hát vẫn có thể mua được ở cửa hàng băng đĩa mà. Từ bây giờ ông lại sưu tầm lại từng đấy đĩa cũng được cơ mà”. Ông chủ quán với vẻ mặt bực bội lẩm bẩm như tự nói với mình, rằng có rất nhiều đĩa hát chẳng làm sao có thể tìm lại được nữa. Rồi ông chui qua sợi dây thừng, đến nói điều gì đó với nhân viên cứu hỏa. Em lặng lẽ len qua đám đông, rời khỏi nơi đó, vội vã rảo bước về nhà trên con đường vắng vẻ, không một bóng người. Chứng kiến quán Mozart bị thiêu rụi, em thấy mình cũng bị kích động mạnh. Em vừa nhìn xuống mặt đất vừa ngẫm nghĩ như thể chiêm nghiệm rằng cuối cùng thì điều đó cũng đã bắt đầu. Cuối cùng thì sự bất hạnh cũng đã bắt đầu. Những điều em đã nghĩ khi ngồi trên chiếc sofa trong căn phòng giám đốc ở công ty bố, khi quyết ý chia tay anh đang dần dần trở thành hiện thực. Em đã nghĩ như thế anh ạ. Anh có còn nhớ không? Trong lá thư đầu tiên, em đã viết, em có một linh cảm rằng bởi chia tay với anh mà từ đây sẽ bắt đầu một quãng đời bất hạnh. Vì một sự việc chẳng thể ngờ tới bất chợt xảy ra mà anh đã rời xa em. Rồi chưa đầy một năm sau, quán cà phê mang tên Mozart mà em vô cùng yêu quý bị thiêu trụi, những bản nhạc được sáng tác bởi người nhạc sĩ thiên tài nằm trong hai nghìn ba trăm đĩa hát cũng tan thành tro bụi. Và rồi, em sẽ còn mất đi cái gì kế tiếp theo đây?! Về đến nhà, vào phòng mình, em cởi chiếc áo khoác và ngồi xuống đầu giường. Nhìn sang chiếc đồng hồ, kim đồng hồ đã chỉ hơn bốn giờ. Không sao ngủ được, em bật bản nhạc mình thích nhất trong số các tác phẩm của Mozart, vặn âm lượng ở mức nhỏ nhất, ghé sát tai mình và nghe đi nghe lại. Đó là bản giao hưởng số 39 mà em đã đến tìm mua nơi cửa hàng băng đĩa lớn ở Umeda theo lời mách bảo của ông chủ quán. Đó là bản nhạc mà theo lời ông chủ quán, là một nhạc phẩm nổi tiếng hết sức kỳ lạ với nhịp một sáu. Sự sống và cái chết có lẽ là như nhau… Em nghĩ, tại sao mình có thể nghĩ ra những điều viển vông từ âm nhạc của Mozart thế nhỉ. Rồi em lại nghĩ về cái cụm từ mà khi nãy, ông chủ quán đã nói với em khi đứng trước ngôi quán đang bắt đầu bị thiêu rụi của mình. Đó là cụm từ mà em hoàn toàn không hề nói ra. Đó là cụm từ do chính ông chủ quán đã tự mình tạo nên từ những câu nói vẩn vơ của em. Con tạo xoay vần lạ kỳ của vũ trụ. Con tạo xoay vần lạ kỳ của sinh mệnh. Đó không phải là cụm từ có nhiều sức hút với một cô gái tuổi đời còn trẻ như em. Cùng với những cảm nhận rằng, những giai điệu của bản giao hưởng kia như những cơn sóng nhỏ lăn tăn đang khẽ vỗ rì rào vào từng ngóc ngách của căn phòng trong đêm khuya tĩnh lặng, em cũng có cảm giác cái cụm từ đó như muôn vàn phép thuật lạ thường soi tỏ cho em vô số những bí mật ẩn giấu trong số kiếp con người. Khi chứng kiến quán Mozart đang dần bị thiêu rụi, ông chủ quán đã nhìn thấy gì nhỉ? Suy nghĩ ấy đã vụt thoáng qua trong trí óc em. Em nằm dài trên giường và nhắm mắt lại. Từ lúc nào đó, ngọn lửa, tiếng gỗ cháy lốp bốp cùng hình ảnh ông chủ quán đã biến mất trong tâm trí em. Xâm chiếm hồn em lúc này là tán cây dịu mát trong một ngày hè của quãng đời sinh viên, ngày đầu tiên hai ta gặp gỡ, là ánh sáng hiu hắt của ngọn đèn chiếu hậu của chiếc ô tô tại con phố Midosuji, nơi hai ta đã nắm tay nhau đi về biết bao lần, là ánh sáng chói lóa nơi vùng biển nhầy nhụa ở Kobe mà em đã trông thấy từ cửa sổ tàu điện, vào cái ngày sau khi được bố chấp thuận cuộc hôn nhân của hai ta, quá đỗi vui sướng, em đã lên chuyến tàu Hanshin mà chẳng biết mình sẽ đi đâu nữa. Tất cả những hình ảnh kỷ niệm đó đang hòa quyện cùng bản giao hưởng số 39, vây kín những ý nghĩ mơ hồ, không hiện hữu thành lời trong em. Và khi ấy, em có cảm giác trong thoáng giây, mình hiểu được điều bí mật của cụm từ “con tạo xoay vần lạ kỳ của vũ trụ, con tạo xoay vần lạ kỳ của sinh mệnh” mà khi nãy ông chủ đã nói. Nhưng, điều đó chỉ diễn ra trong thoáng giây mà thôi. Trong tâm trí em lại chợt hiện lên bóng ma của Seo Yukako. Người con gái câm lặng với dung nhan và thể xác đẹp hơn em rất nhiều đang hiện hữu trong em. Và con người ấy đã chết, đã không còn trên thế gian này nữa rồi. Sáng hôm sau, khi em xuống nhà ăn bữa sáng muộn, bố bảo với em đại ý rằng, nếu em có mối quan hệ thân thiết với họ đến thế, thì cũng nên có chút quà gì đó thăm hỏi gia đình họ. Chị Ikuko cũng bảo thêm rằng, lúc này, món quà có ý nghĩa nhất với họ là tiền mặt. Em nghĩ trong hai, ba ngày này, vợ chồng ông chủ quán ắt hẳn phải vô cùng bận rộn với việc thu dọn mọi thứ sau đám cháy. Cho nên, vào ngày thứ tư kể từ hôm xảy ra vụ cháy, em cầm số tiền thăm hỏi đến căn hộ của hai vợ chồng ông chủ quán. Vợ chồng ông chủ rất vui khi thấy em đến thăm, liền dẫn em vào phòng khách, rồi cúi đầu nhiều lần để cảm ơn việc em đã đến tận nơi vào hôm xảy ra đám cháy mặc cho đêm hôm rét mướt. Ông chủ quán mãi không chịu nhận số tiền em mang đến. Em phải đặt số tiền đó lên trên bàn và khăng khăng rằng, đây là mệnh lệnh của bố em, nên em không thể mang nó về được. Cuối cùng thì ông chủ quán cũng nhận số tiền đó và nói lời cảm ơn với em. Đúng lúc ấy, lại có một người khách nữa đến thăm gia đình. Ông chủ quán giới thiệu: “Đây là cháu tôi. Cậu ấy là con cả của người anh trai đã mất của tôi”. Em và người ấy cùng chào hỏi, rồi giới thiệu tên với nhau. Người ấy là Katsunuma Soichiro, chính là chồng em bây giờ. Rồi em sẽ viết cụ thể về những tình tiết cho tới khi em và anh Katsunuma lấy nhau vào một lúc khác nhé. Rời khỏi căn hộ của gia đình ông chủ quán Mozart, em đến hiệu sách trước ga lật xem các cuốn tạp chí phụ nữ, tìm cách giết thời gian bằng việc dạo quanh quầy sách bỏ túi, ngắm nghía trang bìa của rất nhiều cuốn sách. Em muốn uống một tách cà phê ở đâu đó. Nhưng bởi, quán Mozart vừa mới bị thiêu rụi, nên em không có hứng vào một quán cà phê khác mà mình chưa đến bao giờ. Hôm đó là thứ Bảy thì phải. Khi tàu điện đỗ lại, một vài cô bé học sinh cấp ba bước xuống. Việc những cô bé này trở về nhà vào lúc quá trưa như thế chứng tỏ chắc chắn hôm đó là thứ Bảy. Với em vào thời điểm bấy giờ, những chuyện đại loại như hôm nay là thứ mấy, ngày nào, tháng nào, chẳng có chút can hệ gì tới cuộc sống của mình, nên lơ đãng nhìn những cô bé học sinh cấp ba với bộ đồng phục kiểu lính thủy ấy. Em nghĩ, công ty của bố vào thứ Bảy cũng chỉ làm việc đến trưa thôi. Hôm nay sau khi tan sở, hình như bố không có kế hoạch gì, nên có khi đến chiều là bố sẽ về tới nhà cũng nên. Em có linh cảm rằng với tính cách của bố, dần dần sắp sửa đến lúc bằng một ánh mắt ân cần, ông sẽ đưa ra một ý kiến dứt khoát nào đó đối với em. Đôi khi, những linh cảm của con người lại cực kỳ chính xác. Về đến nhà, em đã thấy bố nằm trên ghế sofa trong phòng khách và xem ti vi. Thấy em, bố chỉ tay vào chiếc ghế sofa trước mặt mình và bảo: “Con ngồi xuống đây. Bố có chuyện muốn nói với con”. Có những lúc, trong lòng em thấy vô cùng ngạc nhiên, và cũng nhiều lúc lại thấy tự hào vì những linh cảm chính xác của bản thân. Vậy mà, tại sao, người vợ có những linh cảm chính xác là em lại không hề nhạy cảm trước mối quan hệ bất chính kéo dài suốt một năm trời của anh kia chứ? Anh quả là một diễn viên với khả năng diễn xuất tài tình mà chẳng để ai hay biết. Em xin cúi đầu bái phục anh đấy. Bố nằm nghiêng trên ghế, mắt vẫn hướng về phía màn hình ti vi, và bảo rằng cũng sắp đến lúc em phải lo cho chuyện tương lai tiếp theo của mình rồi đấy. “Điều quan trọng nhất giúp con quên được, đó là con phải quên hết đi”. Bố nói vậy. “Con đã quên rồi”. Em trả lời. Chưa đợi em nói dứt câu, bố gợi ý luôn hay là em nên đi nước ngoài một chuyến xem sao. “Tóm lại, con hãy tự kết thúc chuyện đó đi. Đến nơi nào bây giờ nhỉ? Paris, Vienna, Hy Lạp. Con có thể đến những nơi thật xa tận Bắc Âu chẳng hạn. Hãy thong dong đi du lịch nước ngoài một mình. Hãy để cho mình được hoàn toàn thanh thản, không còn vương vấn một điều gì nữa, rồi hãy trở về nhà”. Em cúi đầu mắt dõi theo những hình thù họa tiết trên tấm thảm Ba Tư, lẩm bẩm: “Một mình đi du lịch nước ngoài thì buồn lắm. Con chẳng thích đi theo cách đó chút nào”. “Thấy con thế này, bố thấy thương quá mà chẳng biết phải làm sao”. Nghe câu nói ấy, em ngẩng mặt lên nhìn ông, thì thấy mắt ông ngân ngấn nước mắt. Đó là lần đầu tiên, em nhìn thấy những giọt nước mắt của bố. Bố nói, rằng ông không hề nghĩ là con gái mình lại rơi vào hoàn cảnh thương tâm đến thế này. Nhưng, người đã đưa con đến cảnh ngộ này, không ai khác chính là bố đây. Nếu như bố không quyết định chọn Arima làm người thừa kế công ty này, thì các con đã có thể giải quyết sự việc này như là chuyện riêng của các con. Chuyện này vẫn thường xảy ra ở ngoài xã hội mà. Chỉ cần con biết chấp nhận, rồi thì thời gian qua đi, rất có thể tình cảm vợ chồng của hai con sẽ lại được hàn gắn như thuở ban đầu. Nhưng, là giám đốc công ty xây dựng Hoshijima, bố buộc phải yêu cầu Arima rời khỏi công ty. Có lẽ khi ấy bố đã suy nghĩ hơi hấp tấp chăng. Bố đã cứng nhắc cho rằng việc Arima rời khỏi công ty cũng có nghĩa là nó sẽ đi khỏi nhà Hoshijima. Nhưng, cho đến quãng thời gian vừa qua, bố đã thấy đâu là cần thiết phải như vậy. Cho dù nó có mất quyền thừa kế công ty xây dựng Hoshijima, thì cứ mặc, đó đâu phải là lý do để nó phải rời xa con, phải vậy không con? Lẽ ra bố phải cân nhắc vấn đề một cách sâu sắc hơn. Lẽ ra khi ấy bố nên kiếm cho Arima một công việc khác, rồi cả hai đứa tạm thời sống tách nhau ra cho đến khi vết thương của con lành hẳn. Giá như khi ấy bố đợi thêm một thời gian nữa, quan tâm đến hai đứa hơn. Như thế mới là cách hành xử người lớn chứ. Tuy bố đã không nói hẳn ra, nhưng trong vai trò là bố vợ, ở bệnh viện, bố đã quở trách nó với những lời lẽ thâm thúy khiến Arima buộc phải tự đưa ra lời đề nghị ly hôn với con. Nhưng, những điều đó là giả dối. Bố là bố vợ của con, nhưng thật ra, bố đã chỉ đứng trên lập trường của giám đốc công ty xây dựng Hoshijima để liên tiếp quở trách nó mà thôi. Bố đã bóng gió xa xôi cho nó hay rằng, chắc hai đứa chỉ có cách duy nhất là chia tay nhau. Và bố biết rằng, cho dù sự việc đó đã xảy ra, con vẫn không hề muốn chia tay với Arima. Chắc chắn con không muốn chia tay nó đâu. Đó là điều mà bố đây hiểu rõ con nhất. Nghe những lời bố nói mà nước mắt em tuôn trào. Bố đã nói liền một mạch đến đó, rồi bỗng dưng, bố im lặng, và cứ thế hồi lâu, bố không nói thêm câu nào nữa. Một sự yên lặng kéo dài. Ngồi trên chiếc ghế sofa tại phòng khách được ánh mặt trời của ngày mùa đông rọi vào, em cứ thế, cứ thế lắng nghe tiếng nức nở nơi lòng mình. “Nhưng mà, con ngựa đã bị gãy chân trước, chiếc bình đã bị vỡ tan ra nghìn mảnh rồi mà. Phải vậy không hả bố? Trước khi con và anh Arima chia tay nhau, bố đã nói như thế với con tại quán cà phê ở Arashiyama còn gì. Nhưng, thực ra lúc đó không phải như vậy. Khi chúng con chia tay nhau, khi con đóng dấu vào lá đơn ly hôn, chân của con ngựa bị gãy, chiếc bình vỡ tan…”. Lúc em nói đến đó, bố ngồi bật dậy, chặn câu nói của em. “Arima nó là một thằng đàn ông tốt. Càng ngày bố càng thấy quý nó đấy”. Bố nói vậy, với vẻ mặt cau có đáng sợ, khiến em chẳng nói thêm được gì nữa, rồi bỏ về phòng mình. Chị Ikuko cầm hai tách trà vào phòng khách. Thấy mình em trong phòng đang cúi mặt khóc nấc như một đứa trẻ, có vẻ như chị cố tìm lời gì đó để nói với em. Nhưng rồi, chẳng còn gì, chị đặt ấm và tách trà lên trên bàn, rồi quay trở vào bếp. Em lơ đãng nhìn làn khói nước bay lên từ miệng vòi ấm trà và ngẫm nghĩ lại những lời cuối cùng trong câu nói của bố. Arima nó là một thằng đàn ông tốt. Càng ngày bố càng thấy quý nó đấy. Em cảm nhận thấy khả năng thuyết phục to lớn và tình yêu thương của bố chỉ với câu nói ấy của ông, một người vốn chỉ biết đến công việc và công việc, không mấy để tâm đến những chuyện gia đình ấy, một người vẫn thường lạnh lùng và chẳng mấy khi bị thuyết phục bởi một ai đó. Quả thực, người chồng trước đây của em là một người tốt. Còn bây giờ, từ sâu thẳm đáy lòng mình, bố đã nghĩ cho hạnh phúc của riêng em. Hai ý nghĩ ấy cứ len lỏi xót xa thương cảm với anh, cả nỗi hận với bố bỗng nhiên tan biến. Thay vào đó là những ý nghĩ bay lơ lửng trong một không gian trống rỗng, trắng xóa. Em ngồi tại chỗ đó trong bao lâu nhỉ? Em chợt nhận ra ánh mặt trời của ngày mùa đông hầu như đã tắt hẳn. Cây đèn đá phủ rêu ngoài vườn trở nên đen ngòm, bóng của nó phủ dài cả lên khung cửa sổ căn phòng của bố ở khu nhà kế bên. Em chỉnh trang lại đầu tóc, rồi đi vào bếp. Chị Ikuko khoe với em rằng hôm nay chị có một chuyện rất vui. Cậu con trai của chị sẽ tốt nghiệp cấp ba vào năm nay đã tìm được chỗ làm. Chị bảo con trai chị mơ ước trở thành đầu bếp, và bây giờ, mơ ước của cậu bé đã trở thành hiện thực. Một nhà hàng Pháp nổi tiếng ở Ashima đã nhận cậu vào làm việc. Đó là nhà hàng Mezon do rowa mà em và anh đã cùng nhau đến đó đôi ba lần. Chồng mất sau khi sinh con được ba năm, sau đó, chị Ikuko sống bằng nghề làm ruộng ở nhà chồng tại vùng Tanpa khoảng năm năm. Chị ở cùng với bố mẹ chồng, nhưng rồi sau đó, chị tách ra, đến ở nhờ tại nhà người chị gái ở quận Higashinada tại Kobe một thời gian. Khi mẹ em mất, gia đình muốn tìm một người thật thà, tốt tính đến giúp việc cho gia đình. Qua người quen giới thiệu, chị đến sống và làm việc cho nhà em. Gửi cậu con trai ở nhà người chị gái; kể từ đó, chị sống như người trong nhà với hai bố con em. Tất nhiên, chị ấy không bao giờ nói ra, nhưng cả em và bố đều nghĩ hẳn chị thấy buồn lắm khi phải sống xa cậu con trai duy nhất của mình như vậy. Đôi khi, em và bố vẫn hỏi han chị về điều này. Em và bố đã đề xuất là, chị ấy thử tìm thuê một căn hộ nào đó gần Koroen, và sống cùng cậu con trai tại đó, rồi ngày ngày đến làm việc tại nhà Hoshijima có lẽ sẽ tốt hơn chăng. Chắc chắn là chẳng cần viết ra, anh cũng biết quá rõ chuyện này rồi phải không? Chị Ikuko cũng thấy đó là một ý hay, nên bắt đầu đi tìm một căn hộ thích hợp. Nhưng đúng lúc đó, lại xảy ra sự việc của anh. Sự việc đó của anh và việc của chị Ikuko thực ra chẳng có liên can gì đến nhau, nhưng chị ấy thương em quá và lo lắng cho em hệt như mẹ em vậy. Chị Ikuko bỏ ý định đi tìm một căn hộ, bảo với bố và em rằng chị ấy muốn được sống và làm việc cùng mọi người trong nhà như từ trước tới giờ. Khi nào cô Aki khỏe lại tôi sẽ đi tìm sau. Còn từ giờ cho đến lúc ấy, chắc chắn là tôi sống và làm việc ngay tại gia đình sẽ tiện hơn cho mọi người. Tôi cũng có ý định khi cậu con trai lớn khôn rồi, tôi sẽ thôi không đi làm nữa, sẽ sống những tháng ngày rảnh rỗi cùng con trai. Cái thằng cu nhà tôi nó khó gần lắm. Nó còn bảo, lúc này không sống cùng mẹ cũng chẳng sao nữa kia. Chị thầm thì: “Aki, cô sẽ không chịu nổi khi cứ phải chăm sóc ông chủ khó tính như thế đâu. Cô cứ để việc đó cho tôi”. Kể từ lúc đó, cả nhà không đề cập đến việc chị Ikuko đến làm việc tại gia đình theo kiểu ngày ngày đi đi về về nữa. Như thể đã quen tính nết bố đến mấy chục năm trời, chị Ikuko thể hiện sự cảm thông, làm việc và cư xử với bố hết sức vui vẻ, không hề để bụng bản tính nóng nảy và sai bảo nhân viên theo kiểu độc đoán của bố. Với cách thức đó, chị chưa bao giờ làm cho bố phải bực mình, nên em lúc nào cũng thấy nể và thầm cảm ơn chị ấy. Những lần bố phải sống ở Tokyo một thời gian dài, nhiều lần chị Ikuko cũng đi đến đó cùng với bố. Điều đó cho thấy, bố đã rất tin cậy chị Ikuko. Em hỏi về chỗ làm của cậu con trai của chị, và nói cho chị biết rằng một khi con chị được học nghề ở cửa hàng Mezon do rowa thì cậu ấy có thể làm đầu bếp ở bất kỳ nhà hàng Pháp nào trên đất nước Nhật Bản này. Chị Ikuko bảo không biết thằng bé kiên trì đến đâu. Nhưng, dường như không giấu nổi nỗi vui mừng, nên cái cách cầm dao, rồi cả cách bày biện thức ăn của chị ngày hôm đó trông cũng rộn ràng một cách lạ thường. Khi em bảo, thật tuyệt khi cậu bé lại được nhận vào làm ở nhà hàng quá nổi tiếng như vậy, chị nói: “Đấy là nhờ ông chủ nói giúp hộ chúng tôi đấy. Ông chủ viết cho vài dòng, rồi đưa cho thằng bé mang đến chỗ phỏng vấn, và được người ta nhận luôn”. Chị Ikuko vừa khẽ ngân nga vài câu hát, vừa thoăn thoắt dọn bữa tối. Em đi vào phòng của bố ở khu nhà kế bên. Bố đang ngồi bên một chiếc bàn thấp kiểu Nhật và viết gì đó. Em cảm ơn bố về việc bố đã giúp đỡ con trai chị Ikuko. Bố hơi ngoái đầu lại một cách lạnh lùng và bảo bố chẳng có quyền được con nói lời cảm ơn. Em khẽ gọi: “Bố!”. Và khi ấy, nước mắt em lại trào ra. Bố nhìn em, rồi bảo: “Con bé này, lại còn cất công vào tận phòng bố để khóc cơ đấy”. Đoạn, bố bỏ tờ giấy trông có vẻ như là một lá thư vào phong bì, và nói: “Thế nào? Con sẽ làm một chuyến đi du lịch nước ngoài chứ. Muốn mình được khuây khỏa, tốt nhất là đi đến một nơi khác để thay đổi không khí con ạ”. Rồi bố quay lại bàn, không nhìn về phía em nữa và khẽ lẩm bẩm: “Vậy à?”, rồi bặt không nói thêm câu nào nữa. Em ngồi xuống chỗ đằng sau lưng bố, quàng hai tay lên cổ bố, cọ một bên má vào lưng bố và thì thầm: “Con đã quên thật sự rồi bố ạ. Thật đấy bố ạ”. Nhưng càng nói, hình bóng của anh càng hiện lên trước mắt em. Bố lấy hai bàn tay mình xoa nhẹ lên cánh tay em, rồi bảo: “Con người luôn luôn thay đổi. Con người là sinh vật kỳ lạ, đôi khi người ta thay đổi từng giờ từng phút!”. Rồi bố khẽ nói với âm lượng như thủ thỉ cho riêng mình nghe: “Con là cô bé dịu dàng, chắc chắn con sẽ được hạnh phúc, con gái ạ”. Cho dù gần mười năm đã qua, âm hưởng lời nói quả quyết của bố khi đó, cùng vẻ lạnh lẽo trong không khí ở căn phòng kiểu Nhật tĩnh lặng không chút lửa sưởi ấm quãng chừng gần mười sáu mét vuông ấy, chẳng hiểu sao không hề mất đi, mà vẫn len lén hiện hữu ở trung tâm của muôn vàn ký ức đã được ghi sắc trong trái tim em kể từ sau ngày đôi ta chia xa anh ạ. Những ngày sau đó, em không những không đi du lịch nước ngoài, mà thậm chí cũng chẳng đến những khu phố sầm uất ở Kobe hay Umeda. Thời điểm quán Mozart được xây lại xong vào khoảng thời gian kết thúc mùa hoa anh đào, các loài cây bắt đầu đâm chồi nảy lộc. Tuy có bảo hiểm hỏa hoạn, nhưng so với hồi quán Mozart được xây dựng lần đầu tiên, giá cả các vật liệu gỗ đã tăng lên tới gần 40%, ông chủ đã phải vay mượn một số tiền lớn. Quán được xây theo đúng như thiết kế của ngôi quán trước kia, nhưng do điều kiện khó khăn về kinh tế, ông chủ buộc phải sử dụng những chất liệu gỗ khác. Bởi thế nên quán Mozart trong lần mở cửa trở lại này có nét gì đó khác với quán Mozart trước. Thế nhưng, khi ta đẩy cửa, bước chân vào trong quán, duy mỗi bản nhạc của Mozart, những giai điệu không thể thay đổi, là vẫn vang lên như thế. Đó là bản giao hưởng số 40, bản nhạc mà em yêu thích hơn bản giao hưởng số 41 có tên Jupiter. Em nói lời chúc mừng vợ chồng ông chủ quán nhân dịp cửa hàng được khai trương, rồi đến chiếc bàn ở vị trí quay ra đường, chỗ em vẫn thường ngồi. “Tách cà phê của cô Hoshijima đã vỡ tan tành rồi. Bây giờ cũng chẳng biết nó ở đâu nữa. Thế nên, chúng tôi đã tìm thấy một tách cà phê rất đẹp khác tại cửa hàng gốm sứ chỗ khu phố Kawahara ở Kyoto, và đã mua nó về đây”. Ông chủ nói vậy rồi đặt tách cà phê mới tinh ngay trước mặt em. Đó là tách cà phê trơn màu trong nhạt, được làm theo kiểu gốm thô ráp. Nhưng, chiếc tách kiểu gốm thô ráp ấy lại mỏng đến mức có thể nhìn xuyên thấu từ ngoài vào trong khiến em cảm giác nó rất đắt tiền, nên đề nghị ông bà chủ để em trả tiền cho chiếc tách đó. Ông chủ nói rằng đó là món quà hai vợ chồng ông dành tặng cho em, và dứt khoát không nói giá tiền của chiếc tách đó, mặc cho em gặng hỏi. Hôm đó là ngày Chủ nhật, đập ngay vào mắt em là bóng dáng mọi người đang dạo bước trên con đường dọc theo hàng cây anh đào đang nhú những mầm lá non. Quán gần như chật kín chỗ. Em vừa uống tách cà phê thơm ngon mà đã lâu rồi mới lại được thưởng thức, vừa lắng nghe bản nhạc Mozart. Thế rồi, em nhìn thấy bóng bố đang đi bộ phía sau tấm kính cửa sổ. Bố mặc một chiếc áo khoác mỏng, đi sandal, bước từng bước chậm rãi về phía quán, như thể đang tận hưởng những tia nắng dịu nhẹ. Em mở cửa, ló mặt ra gọi bố. Bố vào quán Mozart theo lời mời của em. Bố ngồi xuống bên cạnh chiếc bàn chỗ em ngồi, và hỏi em xem cà phê ở đây có ngon không. Khi em hỏi thì ông cho biết, cà phê ở cửa hàng nhỏ chỉ chuyên bán cà phê chỗ gần công ty tại Yodoyabashi là ngon nhất nước Nhật. Nghe câu chuyện của hai bố con em, ông chủ liền đến bên cạnh và bảo rằng, cà phê của quán chúng tôi ngon thứ nhì Nhật Bản đấy. Khi biết đó là bố em, bà chủ quán cũng vội vàng chạy đến bên bàn, nói đi nói lại lời cảm ơn về số tiền thăm hỏi mà em mang đến. Khuôn mặt bà tươi tắn, rạng rỡ như thể bà đã lấy lại được hoàn toàn sinh khí trước đây của mình. Bà bảo mong rằng từ bây giờ, không chỉ cô nhà, mà cả ông cũng sẽ ủng hộ cho quán cà phê của chúng tôi. Em vẫn biết thường ngày, vào những hôm không có họp hành hay tiệc tùng, bố tuyệt đối không bao giờ tạt vào đâu mà thường về thẳng nhà ngay, nên em không thể tưởng tượng nổi vào những ngày tan sở đúng giờ, bố lại cố tình cho xe ô tô đỗ trước cửa quán Mozart, vào trong đó nhâm nhi một tách cà phê rồi mới trở về nhà. Kể từ sau hôm ấy, những lần bố tự đi bộ về nhà cứ nhiều dần. Khi chị Ikuko hỏi rằng xe ô tô của ông bị sao vậy, thì bố chỉ trả lời là bố xuống xe ở chỗ đường quốc lộ, nhân tiện đi dạo và về luôn nhà. Ngoài ra bố không giải thích gì thêm. Vào cái ngày hôm đó, khác với mọi ngày, bố ăn bữa cơm tối sau mọi người trong nhà. Thấy vậy, em nhìn bố nghi hoặc và vặn hỏi. Ông cười một cách ngại ngùng và bảo, bố vẫn uống cà phê bằng cái tách của con đấy. “Ôi, con không thể hình dung nổi là bố lại nghe nhạc Mozart cơ đấy”. Bố đáp lại lời em nói bằng một vẻ mặt trầm tư. “Bố và ông chủ quán Mozart đã nói với nhau về chuyện mai mối cho con đấy”. Em ngạc nhiên quá, nên chăm chăm nhìn bố. “Con chẳng còn lòng dạ nào để nghĩ đến chuyện chồng con nữa”. Em đã nói sẵng. Bởi em không thể nghĩ rằng nếu không làm như thế, người luôn muốn nhất quyết phải thực hiện cho bằng được những việc mình đã quyết định là bố sẽ chịu từ bỏ ý định của mình một cách dễ dàng. Mà bố thì lại là người hiếm khi nói đùa. Bố đã bảo với em như thế này. Thực ra, bố nghe nói là có một người con trai để ý đến con. Hôm trước, ông chủ quán Mozart có bóng gió ướm hỏi ý bố. Cậu ấy là cháu con của người anh hay chị gì đó của ông chủ quán Mozart. Tuy đã ba mươi ba tuổi rồi nhưng vẫn độc thân. Bố thấy bảo chuyên môn của cậu ấy là Lịch sử Đông phương, và chắc chắn sau hai năm nữa, cậu ấy sẽ là Phó giáo sư. Cậu ấy mới chỉ một lần chính thức giáp mặt với con tại căn hộ của vợ chồng ông chủ quán Mozart. Nhưng kể từ sau lần đó, cậu ấy thường ngồi ở quầy bar và nhìn con mỗi khi con đến quán uống cà phê. Bản thân cậu ấy chẳng hề để ý việc mình là trai tân, còn Hoshijima Aki trước đây đã có một đời chồng. Mải mê học hành, mãi chẳng gặp được cô gái nào ưng ý để lấy làm vợ, vậy mà khi trông thấy con, cậu ấy bị xiêu lòng ngay lập tức. Ông chủ quán Mozart kể cho bố nghe như vậy. Ban đầu, khi ông chủ quán Mozart bàn về chuyện này, bố chẳng mấy quan tâm. Nhưng, ông ấy đề nghị tha thiết quá, thế nên bố quyết định thử gặp cậu ta một lần xem sao. Hai người nháy trước với nhau là không cho cậu này biết bố là bố của Hoshijima Aki, và vờ tình cờ giới thiệu bố với cậu ta, rằng bố chỉ là một khách ruột của cửa hàng mà thôi. Những chuyện mà bố và cậu ấy nói với nhau cũng chẳng có gì lắm. Đại loại chỉ là dạo này trông bác có điều gì đó phấn khởi nhỉ, hay là thu nhập của giảng viên đại học được khoảng bao nhiêu, Lịch sử Đông phương nghĩa là thế nào… Bố không có ý định bắt con rể phải tiếp quản công ty của mình nữa. Nguyện vọng đó của bố đã hoàn toàn bị chặn lại bởi sự chia lìa giữa con và Arima Yasuaki rồi. Hơn nữa, bố cũng không thể nào áp đặt chuyện thừa kế cho một ai khác nữa cả. Nếu như bố về hưu, sẽ có người thích hợp kế tục công việc của bố. Giờ đây bố đã nghĩ làm như thế là ổn. Điều bố thấy lo chỉ là chuyện của con thôi. Bố chỉ mong cho con được hạnh phúc. Con hãy thử nghĩ mà xem. Con mới chỉ hai mươi sáu tuổi. Từ bây giờ trở đi mới đúng là quãng thời gian thật sự của con lúc này, đó là chỉ cần con gặp được một người tốt, con sẽ cưới người đó làm chồng và sẽ có một gia đình mới. Con cũng chẳng cần bận tâm gì nếu con không thấy thích cậu ấy. Con cứ từ chối thẳng thừng là xong mà. Nhưng, bố nghĩ, dù sao thì con cũng nên sắp xếp thử ngồi nói chuyện cùng cậu ấy một lần thì cũng có sao đâu. Vậy là, bố đã khuyên nhủ em về cuộc gặp gỡ với người ấy theo đúng cái kiểu áp đặt rất cá tính của bố. Em nghe những lời bố nói và nhớ lại, à, thì ra là cái người đàn ông mà em đã gặp vào hôm đó ý mà, nhưng em không thể nhớ nổi diện mạo hay một ấn tượng nào đó về người con trai ấy. Rõ ràng, khi được bố cho biết người ấy là giảng viên đại học, em cũng mang máng là người ấy trông đúng kiểu người làm nghề đó, và cũng có những hình dung rõ nét về khuôn mặt của người ấy. Nhưng, cho dù bố có nói gì đi chăng nữa, khi ấy, em cũng chẳng có lòng dạ nào mà quan tâm tới chuyện gặp gỡ người ấy. Vì sao ư? Bởi, hình bóng của anh, người sẽ không bao giờ còn quay về với em nữa, vẫn không thể nào xóa nhòa và đã chặn ngang nơi trái tim em rồi. Bố tiếp tục châm lửa, hút hết điếu thuốc lá này đến điếu thuốc lá khác và tiếp tục câu chuyện. Hôm nay bố lại vừa ghé vào quán Mozart bàn chuyện với ông chủ. Bố cũng chẳng giấu giếm lý do vì sao con gái mình lại phải ly hôn với người chồng cũ và đã tâm sự mọi chuyện với ông ấy. Bố dặn ông ấy hãy kể lại những điều này cho cậu cháu. Với bố, phản ứng của ông chủ quán thế nào cũng được. Thế nhưng ông ấy thì, sau khi nghe xong câu chuyện, nét mặt trở nên buồn rười rượi và đăm chiêu nghĩ ngợi. Rồi ông ấy bảo, ông ấy có cảm giác rằng cuộc tình duyên này rồi cũng sẽ chẳng thành đâu. “Cô bé vẫn, vẫn còn cần thêm một khoảng thời gian dài nữa”. Đó là ý kiến của ông chủ quán. Rồi ông ấy còn bảo thế này. “Tôi cũng đã cảm nhận được là chắc chắn, cô bé đó đã phải chịu đựng một nỗi khổ đau lớn đối với một người con gái mà. Nếu không phải vậy, thì một cô gái với tuổi đời còn trẻ như thế sẽ không thể nào cảm thụ được một cách sâu sắc còn hơn cả tôi về những điều bí mật trong âm nhạc Mozart chỉ trong giây lát như thế”. Rồi ông ấy cúi đầu về phía bố, bảo: “Chính tôi đã nhờ cậy ông chuyện này, nhưng mong ông hãy coi như chúng ta chưa bao giờ nói với nhau về chuyện này nhé”. Bố hỏi lý do vì sao, ông chủ quán chỉ im lặng, không nói thêm lời nào. Thế nên, lần này lại ngược lại, đến lượt bố tự lôi chuyện hôn nhân ấy ra. Không phải chúng nó phải chia tay vì sự phản bội của con gái tôi. Chúng nó đã buộc phải chia tay vì sự phản bội của người chồng, và vì vụ việc bi thảm dính líu đến chuyện đó. Tôi không nghĩ lý do ly hôn sẽ là vật cản chuyện hôn nhân này. Bố có phần bực mình với phản ứng của ông chủ quán nên đã nói vậy. Bố còn nói hẳn cho ông ta biết rằng, tôi cũng chẳng thiết cho con gái tôi lấy một anh chàng cầu bơ cầu bất làm giảng viên đại học với lương tháng lẹt đẹt ấy đâu nhé. Thấy bố nói vậy, ông chủ bằng một thái độ lịch sự xin lỗi bố, rồi bảo với bố: “Dù sự việc tày trời đó đã xảy ra, nhưng có lẽ cô nhà ta cũng chẳng hề muốn chia tay với chồng mình đâu”. Bất giác, bố cảm thấy như có mũi kim hay một cái gì đó đâm nhói vào mình. Ông chủ nói: “Cứ mường tượng ra khuôn mặt lúc nhìn nghiêng khi đang lơ đãng nhâm nhi tách cà phê của cô bé là kiểu gì tôi cũng có một cảm giác như vậy”. Và ông lại nhắc lại lời giống hệt khi nãy ông nói: “Cô bé vẫn, vẫn còn cần thêm một khoảng thời gian dài nữa”. Bố nghĩ có khi đúng như lời ông chủ quán nói cũng nên. Ngay khi vừa nghĩ như vậy, bố lại có một suy nghĩ trái ngược hẳn với nó. Bố cho rằng chính bởi thế, nên ngay bây giờ, có chăng cần phải chóng tìm được một người tốt, để con bắt đầu lại toàn bộ cuộc đời mình. Bố nói cho ông ấy những suy nghĩ của mình, và ông chủ quán nghĩ ngợi hồi lâu. Rồi có vẻ như ông ấy đã đổi ý theo quan điểm của riêng mình, nên hỏi bố rằng, bố đã cho con biết là bố và ông ấy đang băn khoăn về điều này hay chưa. Bố trả lời là chưa. Ông ấy liền bảo hay là tối nay ông thử nói chuyện hôn nhân này với cô nhà xem sao. Biết đâu “lộng giả thành chân”! Có khi cô nhà để ý đến thằng cháu tôi, hai đứa nó sẽ thành một cặp vợ chồng hạnh phúc cũng nên. Bây giờ lại đến lượt bố khoanh tay nghĩ ngợi. Bố rất ghét người đàn ông nào có khuôn mặt khắc khổ. Kế đến là kẻ rượu chè lướt khướt. Mới chỉ gặp một lần, nhưng theo như những gì bố quan sát được, bố cảm thấy chàng trai có tên Katsunuma Soichiro đều không có hai đặc điểm trên. Cậu ấy có vẻ chỉ để ý đến học hành, và bố có cảm giác cậu ta có phần hơi kỹ tính một chút. Nhưng, xét về tổng thể, mọi người đều thấy cậu ấy là một người hiền lành. Chính bởi vậy, hôm nay bố mới bàn với con chuyện này theo gợi ý mà ông chủ quán Mozart đã đưa ra. Em chưa một lần thắng nổi bố. Và khi ấy cũng vậy. Nghe xong những điều bố nói, em xin phép bố cho thêm thời gian để suy nghĩ, rồi về phòng mình. Đứng bên khung cửa sổ tầng hai, em thấy khu phố yên bình được bao phủ bởi màn đêm tĩnh lặng nhuốm một màu xanh nhạt nhòa và rộng bát ngát. Ngước mắt lên cao, ánh trăng đang tỏa sáng. Ánh trăng cho em biết là sắp đến ngày rằm rồi đấy. Chỉ một chút khuyết thiếu để tạo nên một hình tròn méo mó làm sao. Em nghĩ, thế là em và anh đã chia tay nhau được hơn một năm rồi. Song, em ngỡ như ba, bốn năm đã đi qua. Em thấy cho dù mình có cố tận hưởng niềm vui được quên đi bản thân mình thế nào đi chăng nữa, bằng cách nghỉ ngơi đến thế nào, bằng cách làm việc vất vả đến thế nào, thì nỗi mỏi mệt vẫn hằng đeo đẳng, và dường như không thể chữa lành được này vẫn cứ lưu lại trong trái tim, trong thân xác em. Em cố thử hình dung xem giờ này anh thế nào. Ngay cả anh, trong một năm ngắn ngủi đã qua, anh cũng không thể nào quên hết tất cả về em đâu nhỉ. Bị một người con gái không quen biết cướp đi người chồng của mình, vậy mà cho đến lúc đó, em vẫn kiêu hãnh thế đấy. Và rồi, em chìm đắm trong rất nhiều ý nghĩ, và cố đưa ra kết luận rằng, cho dù anh vẫn chưa quên em, nhưng anh đã dứt áo bỏ lại tất cả, vậy thì, em đây cũng phải bỏ đi mọi thứ thôi. Lẽ ra một năm trước, em đã phải làm điều đó, nhưng em đã không thể làm được. Phải từ bỏ thôi. Em tự nhắc với lòng mình câu ấy không biết bao nhiêu lần. Em nhớ lại câu nói của bố. “Con người luôn luôn thay đổi. Con người là sinh vật kỳ lạ, đôi khi người ta thay đổi trong từng giờ từng phút”. Từ giờ trở đi, em sẽ thay đổi ra sao đây? Nghĩ vậy, em thấy lòng âu lo, và chợt rùng mình. Em có linh cảm rằng, lại thêm một điều bất hạnh nào đó sẽ đến. Cả với anh, và cả với em… Vào ngày Chủ nhật hai tuần sau đó, em và bố, vợ chồng ông chủ quán Mozart, anh Katsunuma Soichiro, năm người hẹn nhau cùng ăn bữa tối tại quán Mezon do rowa ở Ashiya. Cả em, bố và anh Katsunuma đều không tự mở miệng bắt chuyện, nên vợ chồng ông chủ quán Mozart luôn chú ý gợi hết chuyện nọ đến chuyện kia. Bữa ăn tối kết thúc, bố và hai vợ chồng ông chủ quán ra về, còn em và anh Katsunuma Soichiro cùng nhau đi bộ đến tận nhà ga Ashiyagawa ở Hankyu, rồi vào trong một quán giải khát. “Tôi có nghe chú tôi kể tường tận chuyện ly hôn của em và người chồng cũ”. Anh Katsunuma nói vậy, rồi ngẫm nghĩ để nói tiếp điều gì đó, nhưng dường như anh ấy không tìm được từ nào thích hợp để nói, nên có vẻ sốt ruột, trán nhăn lại, lấy ngón tay vân vê, dứt dứt nhúm tóc mai bên tai. Thấy thế, em nói với anh ấy quan điểm của mình. “Em chưa sẵn sàng cho việc tái hôn đâu. Em cũng chưa có kế hoạch cụ thể rằng từ bây giờ trở đi sẽ thế nào, nhưng em có ý định sẽ không hành động gì cả và đợi cho thời gian trôi đi thêm chút nữa”. Tức thì, anh Katsunuma nói: “Vậy thì tôi cũng sẽ đợi”. Rồi anh ấy chăm chăm nhìn thẳng vào khuôn mặt em. Em nghĩ, người con trai này không phải là người khiến người ta khó chịu, thế nhưng, cũng chẳng có gì cuốn hút cả. Tối hôm đó, hai người đã nói với nhau những câu chuyện rời rạc, rồi cùng rời quán giải khát vào lúc chín giờ hơn. Anh ấy đã cùng đi taxi đưa em về tận nhà. Cho đến tận bây giờ, em cũng không hiểu mình đã quyết định lấy anh Katsunuma Soichiro vì lý do gì. Nếu như việc ly hôn với anh giống như việc em chẳng hề muốn phải chia tay, vậy mà vẫn bị ép phải lên thuyền và phải rời xa bến đỗ, thì chuyện hôn nhân của em và anh Katsunuma cũng hệt vậy. Em chẳng muốn ra đi chút nào, vậy mà từ lúc nào không hay, em đã ngồi trên con thuyền đó. Có lẽ mô tả như vậy là thích hợp nhất chăng? Trong đó, phải nhắc đến cả ân tình nồng ấm không thể diễn đạt bằng lời của vợ chồng ông chủ quán Mozart dành cho em, cả tình cảm của bố, người luôn mong em được hạnh phúc, và một điều nữa, đó là cả quyết tâm của em, dứt khoát phải quên đi hết tất cả những gì thuộc về anh. Em và anh Katsunuma Soichiro cưới nhau vào tháng Chín năm đó. Bố mong muốn anh Katsunuma sẽ đến nhà mình ở rể. Nhưng vì Katsunuma là con một, hơn nữa, bố anh ấy đã mất khi anh ấy đang học đại học, và gia đình anh ấy chỉ còn duy nhất anh ấy và mẹ, nên bố buộc phải từ bỏ mong muốn ấy. Thêm nữa, chúng em không thể để mẹ anh ấy sống một thân một mình, nên em về làm dâu tại nhà anh Katsunuma. Nhưng, mặc dù hoàn cảnh đã hoàn toàn đi ngược chiều với nguyện vọng của bản thân mình, bố vẫn cứ hối thúc """