"
Sa Đéc Xưa Và Nay - Huỳnh Minh full mobi pdf epub azw3 [Biên Khảo]
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Sa Đéc Xưa Và Nay - Huỳnh Minh full mobi pdf epub azw3 [Biên Khảo]
Ebooks
Nhóm Zalo
Tên sách : SA-ĐÉC « XƯA và NAY »
Tác giả : HUỲNH-MINH
Nhà xuất bản : CÁNH BẰNG
Năm xuất bản : 1971
------------------------
Nguồn sách : tusachtiengviet.com
Đánh máy : Hoàng Thị Xoan
Kiểm tra chính tả : Nguyễn Đăng Khoa, Trần Kim Trọng, Võ Nữ Kim Như, Trần Khang, Lê Nguyễn Thuỳ Lynh, Trần Thị Kim Duyên, Ngô Thanh Tùng
Biên tập ebook : Thư Võ
Ngày hoàn thành : 03/10/2019
Ebook này được thực hiện theo dự án phi lợi nhuận « SỐ HÓA 1000 QUYỂN SÁCH VIỆT MỘT THỜI VANG BÓNG » của diễn đàn TVE-4U.ORG
Cảm ơn tác giả HUỲNH-MINH và nhà xuất bản CÁNH BẰNG đã chia sẻ với bạn đọc những kiến thức quý giá.
MỤC LỤC
CÁC SÁCH BÁO THAM KHẢO
LỜI GIỚI-THIỆU CỦA GIÁO-SƯ TRẦN VĂN QUẾ LỜI NÓI ĐẦU
PHẦN THỨ NHỨT : SỬ-LƯỢC – ĐỊA-LÝ
CHƯƠNG 1 : SỬ-LƯỢC
I. SA-ĐÉC DƯỚI THỜI CHÚA NGUYỄN VÕ-VƯƠNG, NGUYỄN-PHÚC-KHOÁT (VÙNG ĐẤT TẦM-PHONG-LONG VÀ ĐÔNG-KHẨU-ĐẠO)
II. SA-ĐÉC TRONG THỜI CHÚA NGUYỄN PHÚC ÁNH BÔN BA TẨU QUỐC
III. SA ĐÉC QUA CÁC TRIỀU ĐẠI NHÀ NGUYỄN-PHÚC
IV. QUÂN PHÁP CHIẾM 3 TỈNH MIỀN TÂY LẬP NỀN HÀNH CHÁNH
V. ANH HÙNG HÀO KIỆT PHẤT CỜ CHỐNG PHÁP
VI. NỀN ĐỆ NHỨT CỘNG-HÒA SA-ĐÉC TRỞ THÀNH QUẬN, TỈNH VĨNH-LONG
VII. SA-ĐÉC TÁCH RỜI VĨNH-LONG TRỞ LẠI TỈNH CHƯƠNG 2 : ĐỊA LÝ
CHƯƠNG 3 : ĐƯỜNG GIAO THÔNG, THỦY, BỘ
PHẦN THỨ NHÌ : DANH-NHÂN LỊCH-SỬ VÀ NHÂN-VẬT CẬN-ĐẠI
CHƯƠNG 1 : DANH-NHÂN LỊCH-SỬ
I. CHƯỞNG-THỦY-DINH QUẬN-CÔNG TỔNG PHƯỚC-HÒA SA CƠ BỊ TÂY-SƠN BẮT TẠI BA-VÁT, TỰ-VẬN ĐỂ BẢO TOÀN DANH TIẾT
II. KINH-MÔN QUẬN-CÔNG NGUYỄN-VĂN-NHƠN (1753- 1822)
III. ÔNG NGUYỄN VĂN MẬU GIÚP CHÚA NGUYỄN PHÚC ÁNH
IV. CÁC VÕ TƯỚNG QUÊ Ở SA-ĐÉC PHỤ TÁ NHÀ NGUYỄN-PHÚC
V. NGUYỄN THỊ DUNG NGƯỜI ĐÀN-BÀ HÁO NGHĨA NHẤT Ở SA-ĐÉC TRONG ĐỜI VUA THIỆU-TRỊ
VI. HỒ-TRỌNG-ĐÍNH
CHƯƠNG 2 : NHÂN-VẬT CẬN-ĐẠI
I. NGUYỄN-VĂN-BIỂU TỤC GỌI ÔNG PHÒNG-BIỂU, ĐƯỢC NHÂN DÂN SA-ĐÉC CAO-LÃNH XƯNG PHỤC TÀI LẠ
II. LỄ BỘ THƯỢNG THƯ NGUYỄN-ĐĂNG-TAM – NHÂN VẬT SA-ĐÉC CHIẾM ĐƯỢC ĐỊA VỊ CAO TRỌNG NƠI TRIỀU ĐÌNH
III. NGUYỄN-ĐĂNG-KHOA – VỊ ĐỐC PHỦ VĂN CHƯƠNG VÀ CÓ ĐẠO ĐỨC
IV. NGUYỄN-ĐĂNG-TRƯỜNG
V. ĐẶNG THÚC LIÊN – BẬC DANH SĨ, BẬC Y-SƯ KHÉT TIẾNG TẠI SA-ĐÉC
VI. NGUYỄN QUANG DIÊU – CHÍ SĨ LÀM VINH DIỆU VÙNG TÔNG SƠN SA-ĐÉC
VII. TIỂU SỬ CỤ VÕ HOÀNH (1873-1946) – NHÀ CÁCH MẠNG BỊ AN TRÍ TẠI SA-ĐÉC
VIII. LƯU-VĂN-LANG VỊ BÁC-VẬT ĐẦU TIÊN CỦA VIỆT NAM
CHƯƠNG 3 : TÓM LƯỢC PHẦN DANH NHÂN VÀ NHÂN VẬT SA-ĐÉC
I. NHÂN VẬT XƯA
II. MỘT ÍT NHÂN VẬT HIỆN ĐẠI
PHẦN THỨ BA : DI-TÍCH – LỊCH-SỬ – HUYỀN-SỬ CHƯƠNG 1 : TRÊN ĐƯỜNG VIẾNG DI-TÍCH LỊCH-SỬ
I. BẢO-TIỀN – BẢO-HẬU
II. DI-TÍCH LỊCH-SỬ ĐỨC CAO-HOÀNG
III. LĂNG THỐNG CHẾ NGUYỄN CÔNG LIÊU
IV. TIỀN ĐỒN ĐÔNG KHẨU ĐẠO
V. CÁC CHỢ XƯA CÓ TIẾNG
VI. CÂY DA BẾN NGỰ
VII. LĂNG ÔNG BỎ HẬU
VIII. LĂNG QUAN LỚN SEN TỨC KINH MÔN QUẬN CÔNG NGUYỄN VĂN NHƠN
IX. SỰ TÍCH MIẾU-VĂN-THÁNH
X. VỊNH ÔNG ĐỐC VÀ MỘ ÔNG ĐỐC BINH THUẬN
XI. ĐÌNH VĨNH PHƯỚC VÀ LINH VỊ CHƯỞNG DINH QUẬN CÔNG TỐNG PHƯỚC HÒA
XII. NGÔI MỘ BÀ DƯƠNG
XIII. DINH BÀ ĐÔ
XIV. KINH ĐỐC-PHỦ-HIỀN, XÃ TÂN-PHÚ-TRUNG CHƯƠNG 2 : HUYỀN SỬ
I. CHIẾN TRƯỜNG BÃI HỔ
II. PHỐ TIÊN BÃI PHỤNG DIỆU HUYỀN
III. OAI LINH HẦU TƯỚC SĨ-HÒA
IV. SÓNG GẦM MAN-THÍT
V. THANH GƯƠM QUI Y
VI. GÓC SAO THIÊNG NƠI CÂU DA BẾN NGỰ VII. CHUYỆN QUAN LỚN SEN
VIII. CON GÁI ÔNG BỎ HẬU GIẢ ĐIÊN TỪ CHỐI CUỘC ĐỜI VƯƠNG GIẢ
IX. NGUYỄN VƯƠNG ĐẾN VÙNG NƯỚC XOÁY LONG HƯNG
Ứ Ô Á À Ù
PHẦN THỨ TƯ : SINH-HOẠT TÔN-GIÁO VÀ CHÙA, ĐÌNH CỔ-KÍNH
CHƯƠNG 1 : SINH-HOẠT TÔN-GIÁO
I. LÀNG TÒNG-SƠN QUÊ HƯƠNG ĐỨC PHẬT THẦY TÂY AN (ĐOÀN-MINH-HUYÊN)
II. ĐỨC TÔNG SƯ MINH-TRÍ, NGƯỜI LÀNG TÂN MỸ SA ĐÉC
III. ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ : ÔNG LÊ BÁ TRANG VỚI CHỨC NGỌC CHÁNH PHỐI SƯ (Thiên phong tại Tòa Thánh TÂY NINH)
CHƯƠNG 2 : CHÙA, ĐÌNH CỔ-KÍNH
I. CỔ TỰ PHƯỚC THẠNH : NGÔI CHÙA DO VUA GIA LONG SÁNG LẬP VÀ CÂU CHUYỆN ÔNG HỘ PHÁP ĐÁNH QUỈ
II. TỔ ĐÌNH BỬU HƯNG TỰ Ở CÁI-CÁC XÃ HÒA LONG III. CHÙA KIẾN-AN-CUNG, TỤC GỌI CHÙA ÔNG QUÁCH IV. CHÙA BÀ
V. CHÙA HƯƠNG
VI. ĐÌNH THẦN TÂN-PHÚ-TRUNG
VII. ĐẤT LÀNH PHẬT NGỰ
CHƯƠNG 3 : TỔNG KẾT VỀ ĐẠO GIÁO
PHẦN THỨ NĂM : HUYỀN-THOẠI VÀ GIAI-THOẠI CHƯƠNG 1 : HUYỀN-THOẠI
I. KHÚC SÔNG CÁI BÈ : CẶP LÂN ĐÁ DẬY SÓNG THẦN
II. CÔ HAI HIÊN Ở NHA-MÂN CHẾT BA NGÀY LINH THIÊNG HIỂN HÁCH LÀM CHẤN ĐỘNG KHẮP MIỀN HẬU GIANG
III. SỰ TÍCH LÀNG BÌNH TIÊN VÀ CẦU RẠCH GỖ ĐỀN IV. CHỢ TRƯỜNG ÁN NGHÌN THU GHI NÉT OÁN
CHƯƠNG 2 : GIAI THOẠI
I. GIAI THOẠI ÔNG THỢ ĐỨC : MỘT DANH SƯ LỖ BAN KHÉT TIẾNG
II. CỤ LƯU-VĂN-LANG VỚI NHỮNG ĐIỀU TIÊN ĐOÁN THẦN TÌNH ĐƯỢC CÁC KỶ SƯ PHÁP KÍNH PHỤC
III. CHÁNH TÍCH TỐT CỦA BẬC CHÂN DÂN : CÂU CHUYỆN ÔNG ĐỐC PHỦ TRẦN-VĂN-CHI VỚI DÂN CHÚNG SA-GIANG
IV. XOÀI THƠM, XOÀI NGỰ VÀ CAM MẬT : NÔNG SẢN ĐỊA PHƯƠNG SA-ĐÉC CÓ LIÊN QUAN ĐẾN CHỨNG TÍCH LỊCH SỬ
V. GÁI NHA-MÂN NẾU TỈNH BÌNH-ĐỊNH NGOÀI TRUNG CÓ CA DAO TRUYỀN TỤNG
PHẦN THỨ SÁU : SA-ĐÉC QUA CÁC BỘ MÔN KỊCH NGHỆ VĂN HÓA, HỌC THUẬT VÀ THI THƠ LƯU NIỆM
CHƯƠNG 1 : SA-ĐÉC QUA CÁC MÔN KỊCH NGHỆ I. GÁNH HÁT BỘI ĐẦU TIÊN Ở SA-ĐÉC
II. SA-ĐÉC VỚI GÁNH XIẾC CÚA ANDRÉ NGUYỄN-VĂN THẬN
III. ĐOÀN TÂN THINH RA ĐỜI
CHƯƠNG 2 : VĂN HÓA VÀ HỌC THUẬT
CHƯƠNG 3 : SA-ĐÉC DƯỚI MẮT CỦA THI NHÂN I. SA-GIANG CẢM TÁC
II. CHÙA XƯA LINH ỨNG
III. VƯỜN KIỂNG CỔ THỤ
IV. VỊNH VƯỜN HOA KIỂNG XÃ TÂN-QUI-ĐÔNG V. NHA-MÂN NGÀY XƯA NỔI TIẾNG LÀ GÁI ĐẸP VI. ĐẤT NƯỚC MIỀN NAM
VII. MỘT NHÀ THƠ NÓI VỀ BÁNH PHỒNG TÔM SA-GIANG Ứ Ả Ế Ô Ệ
PHẦN THỨ BẢY : KINH TẾ – CÔNG KỸ NGHỆ – SẢN XUẤT
CHƯƠNG 1 : NGHỀ THỦ CÔNG
I. BÁNH PHỒNG TÔM SA-GIANG SẢN PHẨM ĐẶC BIỆT CỦA TỈNH SA-ĐÉC
II. SA-ĐÉC DANH TIẾNG VỚI CÁC NGHỀ THỦ CÔNG : NGHỀ LÀM PHÁO BÔNG, ĐỒ MÃ CHƯNG CỘ, CHƯNG QUẢ TỨ, LÀM HÌNH NỔI TRÊN LỤA, ĐÈN SÁP
III. LÒ THỢ BẠC XƯA Ở TÂN-PHÚ Saigon ĐÔNG : TIẾNG TĂM VANG TRUYỀN NGOẠI QUỐC
IV. SA-ĐÉC VỚI NGHỀ LÀM GẠCH NGÓI ĐƯỢC NỔI TIẾNG TỪ XƯA TỚI NAY
CHƯƠNG 2 : CÔNG KỸ NGHỆ SA-ĐÉC TRÊN ĐÀ PHÁT TRIỂN
I. DẠO QUA CÁC HÃNG NƯỚC ĐÁ
II. SẢN PHẨM THẠNH HÀNH NGANG VỚI BÁNH PHỒNG TÔM : NGHỀ LÀM BỘT MÚC Ở SA-ĐÉC
III. CHIẾU SA-ĐÉC VẪN ĐÁNG KỂ
IV. TÂN-QUI-ĐÔNG HOA THƠM CỎ LẠ : NƠI SẢN XUẤT HOA KIỂNG TOÀN QUỐC
V. MỘT NGUỒN LỢI THIÊN NHIÊN : VƯỜN CÒ LỘ THIÊN TRÀM-CÒM XÃ LONG-THẮNG
TỔNG KẾT SA-ĐÉC
I. TRẢI QUA BAO CUỘC THĂNG TRẦM LỊCH SỬ TỪ NGÀY XƯA ĐẾN NGÀY NAY
II. NGÀY XƯA BÓNG CỜ NGUYỄN-VƯƠNG PHẤP PHỚI TRÊN ĐẤT SA-ĐÉC
III. CỜ TAM SẮC HIÊN NGANG TRÊN LÃNH THỔ MIỀN TÂY SA-ĐÉC
IV. NGÀY 9 MARS 1945 LÀ NGÀY ĐÁNH DẤU SỰ SỤP ĐỔ CỦA PHÁP Ở ĐÔNG DƯƠNG
V. SA-ĐÉC QUA CÁC NẺO PHỐ PHƯỜNG KHU THƯƠNG MẠI
VI. ĐƯỜNG SÁ TRONG CHÂU THÀNH
VII. VỀ MẶT KIẾN-THIẾT
VIII. XÃ HỘI VIỆN MỒ CÔI (ẤP HÒA-KHÁNH) IX. NÔNG NGHIỆP
X. CƠ SỞ Y-TẾ
XI. CHÁNH TRỊ VÀ HIỆP HỘI
XII. CÁC CƠ SỞ TÔN GIÁO TẠI TỈNH SA-ĐÉC
HUỲNH-MINH
Sưu tầm khảo cứu qua các tỉnh miền Nam Việt-Nam SA-ĐÉC « XƯA và NAY »
Xuất bản « Cánh-Bằng »
DO TÁC-GIẢ XUẤT-BẢN
1971
NỘI DUNG GỒM :
- SỬ-LƯỢC, ĐỊA-LÝ TỔNG-QUÁT
- SA-ĐÉC, TRẢI QUA CÁC THỜI-ĐẠI
- DANH-NHÂN, LỊCH-SỬ, NHÂN-VẬT CẬN-ĐẠI - DI-TÍCH, LĂNG-MỘ, DANH-NHÂN
- ĐẠO GIÁO, ĐÌNH, CHÙA CỔ KÍNH
- HUYỀN-SỬ, GIAI-THOẠI
- CÁC BỘ-MÔN VĂN-HÓA, NGHỆ-THUẬT
- SINH-HOẠT KINH-TẾ MỌI NGÀNH
- SA-ĐÉC – NƠI SẢN-XUẤT HOA KIỂNG TOÀN QUỐC.
CÁC SÁCH BÁO THAM KHẢO
HÁN VÀ VIỆT-VĂN :
- Đại-Việt Sử-ký của Ngô-Sĩ-Liên
- Nam-Kỳ Phong-tục Nhơn-vật diễn ca của Nguyễn-Liên Phong
- Đại-Nam Nhất-thống-chí (thượng hạ) của Tu Trai Nguyễn-Tạo dịch
- Việt-sử Tân-biên của Phạm-Văn-Sơn
- Đại-Nam Thực-lục chánh-biên
- Việt-Nam Sử-lược của Trần-Trọng-Kim
- Liệt-truyện
- Lịch-trình Hành-chánh của Đào-Văn-Hội
- Sa-Đéc Nhân vật chí của Nguyễn-Văn-Dần
- Địa phương chí Sa-Đéc
- Sấm-giảng Bửu-Sơn Kỳ-Hương
- Chí-sĩ Nguyễn-Quang-Diêu của Giáo-sư Nguyễn-Văn Hầu.
(Xuyên qua nhiều tài liệu do các bô-lão thân-hào nhân sĩ địa-phương kể lại).
PHÁP-VĂN :
- Histoire et description de la Basse Cochinchine par G.AUBERT (1863) « Gia-Định Thống Chí » của Trịnh-Hoài Đức.
- Géographie de Sadec.
- Histoire des missionnaires en Cochinchine par A. LAUNAY.
- Histoire de la Cochinchine par P. CULTRU.
- Nouvelles recherches sur les Chams par Antoine Cabaton Paris (1901).
- Bulletin de la Société des Etudes Indochinoises (4è 1959).
- Histoires des Pays montagnards du sud indochinois. - Journal d’Extrême Orient Saigon 1959.
LỜI GIỚI-THIỆU CỦA GIÁO-SƯ
TRẦN VĂN QUẾ
Nền văn-hóa của một dân-tộc là thước ngọc, khuôn vàng, do giá-trị của dân-tộc ấy. Nó cũng sanh tiến với dân tộc liên-hệ trải qua ba thời-kỳ là quá-khứ, hiện-tại và vị lai. Giữa ba thời-kỳ ấy có một mối liên-quan mật-thiết được coi là bất-di, bất-dịch. Nói một cách khác, quá-khứ chuẩn-bị cho hiện-tại và vị-lai, đến phiên mình phải làm công-việc ấy đối với tương-lai. Thế thường nói : Không (xưa) làm sao có (nay) ? Những công-việc làm của các thế-hệ trước, hay hoặc dở, đều là những bài học quí giá cho thế-hệ đi sau.
Hiểu rõ căn-bản ấy, nhà Sưu-khảo HUỲNH-MINH trong nhiều năm qua, đơn thương độc mã, đã âm-thầm làm sống lại « dĩ-vãng » nước nhà bằng cách lần-lượt trình bày dưới nhiều khía-cạnh lịch sử các tỉnh miền Nam : « Kiến-Hòa Xưa và Nay », « Bạc-Liêu Xưa và Nay », « Cần-Thơ Xưa và Nay », « Vĩnh-Long Xưa và Nay », Gò-Công, Định-Tường, Vũng-Tàu, v.v… Gần đây, ông Huỳnh-Minh sắp cho ra đời thêm một đứa con tinh-thần nữa là quyển « Sa-Đéc Xưa và Nay ». Thật là một công-trình hy-hữu, đáng khích-lệ và chắc-chắn sau này sẽ được Tổ-quốc ghi công.
Suốt thời-gian trên 80 năm Pháp thuộc và hơn phần tư thế-kỷ bị nội-chiến, cốt-nhục tương-tàn, hồn nước phiêu-bạt theo mây gió, cảnh núi xương sông máu diễn ra khắp nơi trên lãnh thổ. Ngày hôm nay, ông Huỳnh-Minh nghiễm
nhiên gợi lại dĩ-vãng của dân-tộc nghìn xưa, gián-tiếp làm
sống lại trong tâm-hồn người Việt, nhứt là giới thanh-niên, tình thương quê cha mến đất tổ để nhớ lại những gì mà chúng ta phải làm, hầu khôi-phục nghĩa trọng tình xưa !
Năm 1428, sau khi đã bình được giặc Ngô, thống nhứt sơn-hà, đem lại thanh-bình cho dân-tộc, Vua Lê-Thái-Tổ trong vai tựa quyển « Lam-Sơn thực-lực » phải chẳng đã nói :
« Trẫm duy : vật bản hồ thiền, nhân bản hồ tổ. Thủy như mộc, thủy tất hữu căn. Cái kỳ bản thịnh tắc diệp mậu : nguyên thâm tắc lưu-trường. Phi tiên thế chi, nhân ân chi sở bồi giả hậu, khánh trạch chi sở chung giả hồng, an năng nhược thị tai ?
« Trẫm nghĩ : Vật gốc từ Trời, người gốc từ Tổ, ví như cây và nước tất cả có gốc nguồn. (…) Vì rằng : gốc thịnh thì lá tốt, nguồn sâu thì dòng dài. Nếu không phải nhờ ở nhân ân bồi-đấp được dày dặn, phúc đức, chung đức được lớn lao của các đời trước thì đâu có được như thế ? »
Nay đến lượt trình bày lịch-sử « Sa-Đéc Xưa và Nay », nhà sưu-khảo Huỳnh-Minh đã mỹ-ý dành cái hân-hạnh cho tôi viết bài giới-thiệu. Nhân dịp thông-cảm này, chúng tôi cũng xin mạo-muội góp sức trong muôn một, bằng cách nêu lên những cảm-tưởng của tôi đối với tỉnh Sa-Đéc ngày xưa cũng như ngày nay, để chứng-minh tính-cách chính-xác của các mục đã được nêu lên trong quyển sách này.
Trước kia, dưới thời Pháp thuộc, tỉnh Sa-Đéc được tặng cho danh hiệu là : Khu vườn của xứ Nam-kỳ (Le jardin de la Cochinchine), danh hiệu ấy để nói lên tánh-cách phì-nhiêu
của điền-địa, màu sắc sum-thịnh của các loài thảo mộc (nhứt là các loại cây trái của toàn hạt).
Hơn thế nữa, nhờ sông Cửu-Long bồi-đấp, gọi là sông Tiền và sông Hậu, chảy qua rộng lớn, hai bên vườn ruộng xanh tươi, có một cảnh vừa đẹp vừa thiêng-liêng, huyền bí, bao trùm không sao tả được.
Địa-linh ấy tất phải sinh-xuất ra nhiều nhân-kiệt anh-tài lẫn văn võ, về cựu học cũng như tân học, về phương diện đạo pháp thì tỉnh Sa-Đéc lại cũng là nơi xuất hiện của những bậc chân tu, thánh triết, đem đạo từ-bi tế-độ quần sanh trong đời mạt pháp.
Các khía cạnh ấy sẽ được trình-bày đầy-đủ chi-tiết trong quyển « Sa-Đéc Xưa và Nay » mà chúng tôi được vinh-hạnh giới-thiệu cùng chư-tôn đọc-giả.
Giờ đây xin tóm-tắt cảm-tưởng của chúng tôi, trân trọng trình lên mấy dòng thơ như sau :
« Thủy-trường » đặc-sắc đất Long-Giang.
Định, Vĩnh, Kiến, Sa hiệp một đàng.
Tú khí anh-linh đều hội đủ.
Miên tràng cảnh vật cõi Nam bang ».
TRẦN-VĂN-QUẾ
Giáo-sư 1
LỜI NÓI ĐẦU
Vốn sinh trưởng nơi mảnh đất miền Nam yêu mến, hoài bão đến công nghiệp của tiền nhân.
Cưu mang mối duyên tình với non nước nhà, dù trăm ngàn khổ nhọc trên đường sưu khảo, dù muôn vàn tủi cực khi tìm phương tiện cho đứa con tinh thần được chào đời, chúng tôi vẫn dấn thân tiến mãi trên đường đã vạch.
Kiểm điểm đoạn đường đã trải qua, suốt thời gian trên 15 năm âm thầm tích cực phục vụ Văn-hóa Dân-tộc, chúng tôi đã cố gắng ấn hành xong các tác phẩm đầu tiên. Loạt sách học làm người :
- Danh-Nhân Tư-Tưởng, Luyện-Chí, Sống Tranh-Đấu, Sống Vui, Sống Khổ, và các loại sách sưu khảo từng tỉnh của miền Nam : KIẾN HÒA xưa và nay, BẠC LIÊU xưa và nay, CẦN THƠ xưa và nay, VĨNH LONG xưa và nay, GÒ CÔNG xưa và nay, ĐỊNH TƯỜNG xưa và nay, VŨNG TÀU xưa và nay.
Và hôm nay đến lượt SA-ĐÉC Xưa và Nay ra mắt bạn đọc :
- Sa-Đéc, nơi Vua Gia-Long trong cơn tẩu quốc đã dừng gót mông trần, lập đại-bản-dinh, xây đắp đồn lũy để tranh hùng với Tây-Sơn. Đến nay hãy còn biết bao di-tích lịch-sử.
- Sa-Đéc, nơi làng Tòng-Sơn là chốn phát tích của Đức Phật-thầy Tây-An, khai sáng giáo phái Bữu-Sơn Kỳ-Hương, nơi Đức Tông sư Minh-Trí tuyên dương giáo-lý, nơi Đức
Huỳnh Giáo-chủ từng giảng đạo dìu dắt tín đồ, là nơi Đạo giáo được sinh khí phát huy tốt đẹp hơn đâu cả.
- Sa-Đéc, đất hoạt động của các nhà Chí-sĩ, các nhà Cách-mạng, các Anh-hùng kháng Pháp. Chí-sĩ như Cụ Nguyễn-Quang-Diêu sinh trưởng tại đây. Chí-sĩ như Cụ Võ Hoành đã bị đưa an trí chốn nầy.
- Sa-Đéc, nhân tài thịnh phát : nào Bác-vật Lưu-Văn Lang, Danh-sĩ Đặng-Thúc-Liêng, Phòng Biểu, v.v…
Lại là nơi đầu tiên phát huy bộ môn kịch nghệ sân khấu, Sa-Đéc qui tụ cũng nhiều ngôi sao sáng kịch trường, nghệ thuật cầm ca. Và trên mọi lãnh vực đáng kể của Sa-Đéc, chúng tôi đề cập có thể nói nếu không đầy đủ hoàn toàn, quyết cũng không để thiếu sót nhiều.
Lòng đầy nhiệt huyết hăng say phục vụ Văn-hóa, ý nguyện dần-dần thực hiện những hoài bão của chúng tôi về sự hình thành được những bộ sách sưu khảo qua các tỉnh miền Nam, chúng tôi luôn luôn tận tâm, cố gắng vượt mọi nỗi khó khăn, chua xót. Nghị lực có thừa, nhưng phương tiện hằng thiếu thốn.
Ai bạn tri âm ? Mỗi khi tiếp đón một tác phẩm của chúng tôi chào đời, xin cảm thông cho những điều đau khổ mà chúng tôi đã cưu mang.
Tuy nhiên, đã tự nguyện phục vụ, thì hy sinh vẫn là lẽ sống của chúng tôi. Với quyển « SA-ĐÉC Xưa và Nay » đây, rất mong được sự ủng hộ nồng nhiệt của quí vị bạn đọc tri kỷ bốn phương. Hầu cho chúng tôi những khích-lệ quí báu,
để càng tiến xa hơn nữa. Luôn luôn nguyện không phụ lòng quí bạn nâng đỡ.
Tằm nặng nợ dâu. Thọ ân đất nước, đồng bào, chúng tôi hằng rút ruột nhả tơ đáp tạ ơn lòng trong muôn một.
Hân hoan và chân thành trao bạn đọc một đoạn tơ lòng nữa của chúng tôi : SA-ĐÉC Xưa và Nay.
HUỲNH MINH
PHẦN THỨ NHỨT : SỬ-LƯỢC – ĐỊA-LÝ
SỬ-LƯỢC trải qua các thời-đại
ĐỊA-LÝ tổng quát
CHƯƠNG 1 : SỬ-LƯỢC
I. SA-ĐÉC DƯỚI THỜI CHÚA NGUYỄN VÕ-VƯƠNG, NGUYỄN-PHÚC-KHOÁT (VÙNG ĐẤT TẦM-PHONG-LONG VÀ ĐÔNG-KHẨU-ĐẠO)
Sa-Đéc nói riêng, lãnh thổ miền Nam Việt-Nam nói chung, vốn do công trình của Tiền-nhân ta dưới thời các chúa Nguyễn đã dày công khai thác. Từ thời chúa Hiền tức Hiền-Vương, Nguyễn Phúc-Tần, sau truy dâng miếu hiệu là Thái-Tông Hiếu-Triết (1648-1687), cuộc nam tiến hình thành, lãnh thổ Việt dần-dần mở rộng. Đầu tiên thâu phục đất Mô-Xoài (vùng Bà-Rịa, Biên-Hòa ngày nay) vào năm 1658. Rồi lần lượt đến bình định Saigon (vùng Saigon, Gia
Định) trong năm 1698, Định-Tường (Mỹ-Tho) và Long-Hồ (Vĩnh-Long) khoảng năm 1731.
Miền Hậu-Giang, Mạc-Cửu dâng đất Hà-Tiên và hòn Phú-Quốc cho chúa Nguyễn-Phúc-Chu từ năm 1714, rồi ít lâu sau, con là Mạc-Tứ tức Mạc-Thiên-Tích mở mang thêm bốn huyện : Long-Xuyên (miền Cà-Mau), Kiên-Giang (Rạch
Giá), Trấn-Giang (miền Cần-Thơ) và Trấn-Di (miền bắc Bạc Liêu) từ năm 1739.
Cho đến năm 1759, vùng đất Châu-Đốc và Sa-Đéc khi ấy còn mang tên là đất (Tầm-phong-long) mới thật sự nằm trong bản dư-đồ lãnh thổ Việt-Nam ta.
Bây giờ, toàn lãnh thổ ta chia làm 12 dinh. Vùng đất Sa Đéc vốn thuộc dinh Long-Hồ. Vị tướng soái nắm quyền điều khiển toàn quân, toàn dân Long-Hồ dinh là Nguyễn-Cư Trinh, có Trương-Phúc-Du phụ-tá.
Đa mưu túc trí, kinh luân thao lược toàn tài, Nguyễn Cư-Trinh dốc lòng lo cuộc mở mang bờ cõi miền Nam nước Việt. Đặt kế hoạch phòng thủ lâu dài, ông đệ sớ về triều bày tỏ sách lược, rồi dời dinh Long-Hồ lên xứ Tầm-Bào (Tỉnh lỵ tỉnh Vĩnh-Long, thuộc thôn Long-Hồ). Đồng thời, ông đôn đốc quân dân xây đồn cất lũy ở những nơi hiểm yếu, để ngăn ngừa cuộc đánh phá của người Chân-Lạp và Xiêm-La.
Đường bộ, ông dùng người Chàm trấn đóng các đồn ở Tây-Ninh và một phần trấn thủ ở Hồng-Ngự. Các đồn Tây Ninh, Hồng-Ngự (xưa thuộc Châu-Đốc, nay thuộc Kiến Phong) liên lạc nhau do đường tắt vùng biên giới băng ngang Đồng-Tháp-Mười, Soài-Riêng.
Đường thủy thì lập đồn ở hai bên sông Cửu-Long gần biên giới gồm có :
- Tân-Châu-Đạo (Cù-lao-giêng) (ở Tiền-Giang) - Châu-Đốc đạo (ở Hậu-Giang)
- Đông-Khẩu-đạo (ở vùng Sa-Đéc)
- Kiên-Giang-đạo (ở vùng Rạch-Giá)
- Long-Xuyên-đạo (vùng Cà-Mau)
Thế là vùng Sa-Đéc khi xưa đã nghiễm nhiên là một vị trí chiến lược quan trọng ở miền Hậu-Giang. Được đặt làm Đông-Khẩu-đạo, Sa-Đéc trở nên là một trong 5 đạo làm hậu thuẫn cho Long-Hồ dinh, là tiền đồn trấn giữ tỉnh-lỵ Vĩnh Long xưa.
Bởi lẽ ấy, một khi đã nhắc đến Long-Hồ dinh, nói đến tỉnh Vĩnh-Long xưa và nay, chúng ta không thể không nhắc
riêng đến Sa-Đéc đã có một thời quá khứ đầy chứng tích lịch sử, đáng được nhắc-nhở.
II. SA-ĐÉC TRONG THỜI CHÚA NGUYỄN PHÚC ÁNH BÔN BA TẨU QUỐC
Công lao khai thác miền Nam Việt-Nam hoàn toàn do thống suất của Nguyễn-Cư-Trinh và Trương-Phúc-Du đã an định vào thời Chúa Võ-Vương Nguyễn-Phúc-Khoát. Khởi đầu chính sách tầm thực 2, thâu phục đất đai Mô-Xoài (vùng Bà
Rịa, Biên-Hòa) từ năm 1658, thời Hiền-Vương Nguyễn Phúc Tần, dần dần cho đến năm 1759 hoàn thành cuộc Nam-tiến, đằng-đẵng tròn một thế-kỷ. Suốt một thế kỷ gian lao khai hoang, xây dựng đất nước, từng phen đương đầu chống với Chân-Lạp, Xiêm-La, biết bao xương máu tiền nhân đã đắp bồi.
Nhưng dựng nước đành là khổ nhọc, đến cùng nòi giống chiến tranh với nhau, cuộc đổ máu như thế ấy là bi đát. Miền-Nam đẫm máu giữa người cùng nòi giống với nhau, bắt đầu từ lúc Chúa Định-Vương Nguyễn-Phúc-Thuần chạy vào Gia-Định, lôi cuốn theo cơn lốc Tây-Sơn, gây nên trường bão tố xót-xa cho nòi Việt.
Ba phen Gia-Định thất thủ, biết bao phen miền Tiền Giang và Hậu-Giang bị khói lửa lan tràn. Long-Hồ dinh rợp trời binh đao. Cố nhiên vùng chiến lược Đông-Khẩu-đạo (Sa-Đéc) không làm sao thoát khỏi sự tàn phá dữ dội, gây thê thảm cho giống nòi lâm cảnh nội chiến !
Chúa Nguyễn-Phúc-Thuần sa cơ lại Long-Xuyên-đạo (Cà-Mau) thì từ ấy binh quyền về tay Nguyễn-Phúc-Ánh. Có
thể nói, gót chân lưu vong của Chúa Nguyễn-Phúc-Ánh đã dẫm khắp đất đai Miền-Tây. Nơi đâu có mặt Chúa Nguyễn, thì binh đội Tây-Sơn cũng tràn lan tới, và cuộc tranh hùng đẫm máu liên miên tiếp diễn.
Những hào-kiệt miền-Tây Nam-Việt theo phò tá Chúa Nguyễn có cơ hội xuất đầu lộ diện. Riêng vùng Vĩnh-Long (Long-Hồ), Sa-Đéc (Đông-Khẩu-đạo) nổi bật Tống-Phúc Hiệp, Tống-Phúc-Hòa, Nguyễn-Văn-Nhơn, Châu-Văn-Tiếp. Nhất là hai anh em họ Tống đều tận trung tử nghĩa vì Chúa Nguyễn.
Từ năm Giáp-Thìn 1784, Sa-Đéc rực trời binh lửa, đằng đằng sát khí ; vì Nguyễn-Vương từ Xiêm đem binh về có binh tướng Xiêm gồm 20.000 người và 300 chiến thuyền theo giúp. Hai tướng Xiêm là Chiêu-Tăng và Chiêu-Sương chỉ huy đoàn thủy quân lục chiến ấy. Vị tướng lãnh chỉ huy quân của Nguyễn-Vương là Bình-Tây đại Đô-đốc Châu-Văn Tiếp. Binh viện trợ dường ấy kể cũng là một lực lượng hùng hậu đáng ngại ! Nhưng, lòng trời chưa tựa Nguyễn-Vương. Sông Man-Thít (Sa-Đéc) sóng gào hận đồng chủng tương tàn ; Đô-đốc Châu-Văn-Tiếp kiêu binh tử-trận. Rồi đến một trận Rạch-Gầm 3 Chúa-tướng Tây-Sơn Nguyễn-Huệ phá vỡ quân Xiêm.
Binh tan tướng mất, Nguyễn-Vương lại lìa Miền-Tây, lê gót lưu vong, ý đồ phục hận vẫn không nguôi. Hết binh Nguyễn-Vương, lại đến binh Tây-Sơn trấn đóng, Vĩnh-Long, Sa-Đéc nói riêng, toàn vùng chiến thuật Miền-Tây nói
chung, dân gian vẫn phải thấp thỏm lo âu khói lửa binh đao, tê tái than dài ách nạn nồi da xáo thịt !
Cho đến năm Đinh-Vị 1787, binh Nguyễn-Vương lại vùng lên. Lần nầy, Nguyễn-Vương thiết lập đại-bản-dinh tại Hồi-Oa (Nước-Xoáy), thuộc làng Tân-Long (sau đổi là Hưng Long). Đồn lũy giăng giăng. Sa-Đéc lúc bấy giờ trở thành một nơi hành cung, bậc vua chúa lạm ngự, đóng đô ở đấy. Vì thế, ngày nay Sa-Đéc hãy còn đầy dẫy di tích thời Chúa Nguyễn-Phúc-Ánh lưu vong, mưu đồ phục quốc.
Đã có duyên nợ đậm đà với vùng Long-Hồ, Sa-Đéc, cho nên đến khi thống nhất non sông, lên ngôi Đế, tức Vua Gia Long, nhà vua đầu tiên dòng Nguyễn-Phúc vẫn hằng tỏ lòng lưu luyến những kỷ niệm xưa ấy, mà có lần đã ngự du Long
Hồ trong dịp đầu xuân năm 1805. Mùa xuân thanh-bình trở lại trên đất nước, Sa-Đéc thuở ấy hẳn tràn ngập niềm hoan lạc trong lòng dân chúng đã quá đau khổ triền miên vì cuộc nội loạn, nay mừng ra nước mắt đón thanh bình.
III. SA ĐÉC QUA CÁC TRIỀU ĐẠI NHÀ NGUYỄN-PHÚC Bởi có duyên nợ đậm đà với vùng đất Sa-Đéc, nên khi trú đóng tại đây, Chúa Nguyễn-Phúc-Ánh đã đặt tên làng tại Nước-Xoáy (Hồi-Oa) là làng Long-Hưng, và nhiều làng quanh vùng mang tên là Long-Ẩn, Long-Thắng, Long-Hậu.
Khi xưa, Sa-Đéc gồm có hai Tổng : An-Xuyên và Vĩnh An, thuộc châu Định-Viễn. Đến năm Gia-Long thứ bảy (1808), đổi châu Định-Viễn làm phủ Định-Viễn. Hai Tổng An-Xuyên và Vĩnh-An đổi thành huyện An-Xuyên và huyện Vĩnh-An.
Phủ trị Định-Viễn châu vị 56 trượng, rào tre đặt tại địa phận hai thôn Hiệp-An và Tân-Mỹ-Đông, thiết lập từ năm Gia-Long thứ 12 (1813). Đến năm Minh-Mạng thứ 14 (1833) mới dời qua địa phận thôn Trường-Xuân, huyện Vĩnh-Bình.
Theo « Đại Nam Nhất-Thống-Chí » 4, vùng Sa-Đéc ngày xưa bao gồm hai huyện Vĩnh-An và An-Xuyên như sau :
« Huyện Vĩnh-An, đông đến tây cách nhau 38 dặm, nam đến bắc cách nhau 22 dặm. Phía đông đến huyện giới An Xuyên 2 dặm ; phía tây đến huyện giới Phong-Phú ở phủ Tuy-Biên 36 dặm ; phía nam đến huyện giới Đông-Xuyên 12 dặm ; phía bắc đến huyện giới Kiến-Phong tỉnh Định-Tường 10 dặm.
« Nguyên trước là tổng Vĩnh-An. Năm Gia-Long thứ 7 (1808) thăng làm Huyện, thuộc phủ Định-Viễn, tỉnh Vĩnh Long. Năm Minh-Mạng thứ 13 (1832) trích thuộc về phủ Tân-Thành.
« Có bốn Tổng, 36 Xã thôn Bang phố. Huyện An-Xuyên, ở đông nam phủ (Tân-Thành) 24 dặm. Đông đến tây cách nhau 48 dặm, nam đến bắc cách nhau 46 dặm. Phía đông đến sông tỉnh Vĩnh-Long 8 dặm ; phía tây đến giới hạn huyện Phong-Phú ở phủ Tuy-Biên 40 dặm ; phía nam đến huyện giới Vĩnh-Định thuộc phủ Ba-Xuyên 30 dặm, phía bắc đến sông tỉnh Định-Tường 16 dặm.
« Nguyên trước là địa hạt huyện Vĩnh-An. Năm Minh Mạng thứ 20 (1839) chia đặt huyện nầy thuộc phủ Tân-
Thành thống hạt. Năm Tự-Đức (1853) qui về phủ Tân Thành kiêm nhiếp. Có 3 tổng, 25 xã thôn ».
HÌNH THỂ NGÀY XƯA :
Như thế, rõ là đất Sa-Đéc xưa gồm có hai huyện Vĩnh An và An-Xuyên, trước thuộc phủ Định-Viễn, sau thuộc phủ Tân-Thành, chia làm 7 tổng, 61 xã thôn. Điều cần biết rõ hơn, trên kia chúng tôi đã ghi lại về phủ trị Định-Viễn, tưởng nên ghi thêm về huyện trị Vĩnh-An và huyện trị An Xuyên của Sa-Đéc xưa.
Huyện trị Vĩnh-An đến năm Minh-Mạng thứ 13 (1832) đổi làm phủ trị Tân-Thành, châu vi hơn 50 trượng, rào tre ở thôn Vĩnh-Phước.
Còn huyện trị An-Xuyên, châu vi 50 trượng, rào tre ở địa phận thôn Tân-Hộ, thiết lập vào năm Minh-Mạng thứ 20 (1839).
Từ đời Minh-Mạng, nhà vua đặc biệt lưu tâm đến việc giáo-dục. Ngay tại Sa-Đéc thuở ấy, có đến hai trường học lớn :
Trường phủ Tân-Thành, ở phía đông phủ trị Tân-Thành, địa phận thôn Vĩnh-Phước, xây cất vào năm Minh-Mạng thứ 13 (1832).
Trường huyện An-Xuyên, ở phía đông huyện trị An Xuyên, địa phận thôn Tân-Hộ, xây cất năm Minh-Mạng thứ 20 (1839).
Thuở ấy đất đai Sa-Đéc phì nhiêu, dân cư trù mật. Căn cứ theo những điều đã ghi ở « Đại Nam Nhất-thống-chí »,
chúng ta nhận thấy về đường thủy, các sông ngòi ở Sa-Đéc xa xưa đã được khai thông khá nhiều, đem lại sự tiện lợi cho dân chúng biết bao :
Sông Sa-Đéc. – Ở phía bắc huyện Vĩnh-An 8 dặm, là bờ phía nam Tiền-Giang, rộng 21 trượng, sâu 28 thước. Sông trong nước ngọt, hai bên vườn ruộng mở mang đất tốt, nhân dân giàu có. Đạo Đông khẩu nhi trước đồn trú ở phía nam, chợ phố liên tiếp ở phía bắc, ghe thuyền tấp nập ; phía tả có bến Tiên, phía hữu có bãi Phụng-Nga, hình như La-Thành hộ vệ, cảnh trí rất tốt đẹp.
Rạch Nước-Xoáy (Hồi-Oa thủy). – Ở phía bắc huyện Vĩnh-An 15 dặm, do nước sông Sa-Đéc đưa đến. Nước chảy xoáy quanh vùng, rồi hội hiệp về Tiền-Giang và Hậu-Giang. Lúc đầu trung hưng vào năm Đinh-Vị 1787. Thế tổ Cao
Hoàng-Đế có đồn trú nơi đây để hiệu lịnh các đạo quân, và nhờ địa thế hiểm yếu thu được nhiều chiến công. Đây là một nơi chiến thắng, đến nay nhân dân còn ca tụng.
Các sông Nha-Mân, An-Thuận, Tân-Đông, Long-Phụng, Hội-An, Mỹ-An, v.v… hầu hết đều giữ được khí đất sinh vượng. Hai bên ruộng vườn đều thạnh mậu.
Tuy nhiên, tình trạng an ninh ở Sa-Đéc lúc bấy giờ vẫn thường bị Chân-Lạp và Xiêm-La đe dọa. Trong năm Quý-Tị (1833), tại Gia-Định Lê-Văn-Khôi dấy binh phản đối triều đình về vụ án Lê-Văn-Duyệt. Cuộc nội biến ấy xảy ra vào khoảng tháng năm. Nhân dân hai miền Tiền-Giang và Hậu
Giang chịu ảnh hưởng của thời cuộc, xôn xao không ít. Dần
dần thảm họa nổi loạn lan xuống đến vùng Vĩnh-Long, Sa Đéc. Dân chúng lầm than não nùng.
Đã khổ về nội chiến, lại thêm vướng nạn ngoại xâm. Cũng trong năm Quý-Tị ấy, khoảng cuối năm, binh Xiêm chia làm 5 đạo thủy bộ tràn sang đánh phá các vùng Hà Tiên, Châu-Đốc, Vĩnh-Long. Một khi khói lửa chiến tranh bùng dậy trên đất Vĩnh, cố nhiên Sa-Đéc phải đặt trong tình trạng khẩn trương. Nạn binh đao gieo tang tóc, làm khổ đồng bào Sa-Đéc không ít.
Đối phó với giặc trong là nhóm Lê-Văn-Khôi, giặc ngoài là binh Xiêm, triều đình cử, Trương-Minh-Giảng và Nguyễn Xuân đi đánh dẹp. Vốn có đại tài, trí mưu thao lược của hai vị tướng lãnh Trương-Minh-Giảng và Nguyễn-Xuân thừa sức chống địch. Một trận oanh liệt kết thúc cuộc chiến chống
ngoại xâm, xảy ra trên sông Cỏ-Cắng (Vĩnh-Long). Tại đây, các vị tướng lãnh của ta đã hào hùng điều khiển binh sĩ phá tan thủy quân Xiêm. Thừa thắng, chỉ trong vòng một tháng, quân ta đuổi binh Xiêm ra khỏi Vỉnh-Long, tiến đánh lấy lại Hà-Tiên và Châu-Đốc. Từ ấy, dân chúng quanh vùng Vĩnh Trà-Sa (Vĩnh-Long, Trà-Vinh, Sa-Đéc) được yên ổn làm ăn.
Cho đến triều Tự-Đức, khi nghe tiếng súng ngoại xâm bùng nổ trên đất ta, vào khoảng năm 1862, vùng Vĩnh Long, Sa-Đéc bị quân đội Pháp chiếm đóng lần đầu tiên, bấy giờ là ngày 28 tháng ba 1862. Rồi do hòa-ước 5 tháng sáu 1862, chúng mới chịu giao trả Vĩnh-Long lại 5. Nhưng chúng vẫn làm áp lực khống chế quân dân ta mãi, cốt ý xúc
tiến việc thôn tính đất nước ta mới thỏa ý đồ xâm-lược của họ.
Tự nhiên là dân miền Tây khi ấy đã sẵn-sàng đề cao tinh thần kháng chiến, há để bó tay ngồi nhìn vận nước nguy nan. Dân chúng vùng Sa-Đéc cũng phải chịu chung nỗi thống khổ điêu linh vì khói lửa chiến tranh, và cố nhiên cũng đã phải đóng góp xương máu rất nhiều trong cuộc bảo vệ đất nước thoát ách ngoại xâm của nước Pháp.
Kẻ đi xâm lược, một khi đã có đất đứng để làm bàn đạp vọt tới đánh khắp nơi thì có bao giờ họ chịu dừng tay. Quân đội Pháp đã có mặt ở Saigon, đã chiếm lấy 3 tỉnh miền Đông, tất nhiên cái cớ gồm nuốt trọn lãnh thổ miền Nam chỉ còn chờ thời gian thuận tiện là dấy động.
IV. QUÂN PHÁP CHIẾM 3 TỈNH MIỀN TÂY LẬP NỀN HÀNH-CHÁNH
Năm 1867 trong khi cuộc thương nghị (bắt đầu từ năm 1864) giữa Tổng-đốc Phan-Thanh-Giản, Trần-Tiến-Thành và Phan-Huy-Vịnh với toàn quyền Aubaret nhằm chuộc lại 3 tỉnh miền Đông Nam phần chưa ngã ngũ ra sao. Tướng Pháp Lagrandière kéo 1.400 quân từ Định-Tường qua đánh lấy 3 tỉnh miền Tây một lần nữa. Cụ Phan-Thanh-Giản trấn thủ Vĩnh-Long không giữ nổi trước sức tấn công vũ-bão và võ khí hùng hậu, nên đành giao nộp thành trì cho quân Pháp, để tránh cho binh sĩ và nhân dân khỏi thương vong do sự chống đối tuyệt vọng, rồi uống thuốc độc tự-vận, dặn con cháu sau nầy không được nhận chức tước của chánh phủ Pháp.
Thế là từ đó, Vĩnh-Long, Sa-Đéc cùng các tỉnh miền Tây thuộc quyền cai trị của Pháp.
Lúc bấy giờ Pháp đã chiếm xong 3 tỉnh miền Tây rồi, 6 tỉnh miền Nam đã hoàn toàn dưới quyền cai trị của Pháp.
Chính phủ Pháp tổ chức thuộc địa, phân chia ranh giới để cai trị, mỗi tỉnh đều đặt một quan Tham-biện, Quận, Tổng, Làng, để kiểm soát dân chúng và đặt luật lệ thuế khóa tròng ách nô lệ trên đầu trên cổ dân Việt-Nam trên 80 năm đô hộ.
Vùng Sa-Đéc bây giờ nằm về tỉnh Châu-Đốc gồm 3 vị Tham-biện Pháp.
Tỉnh Châu-Đốc : 3 vị Tham-biện.
- Châu-Đốc : Châu thành Châu-Đốc
- Sa-Đéc : Châu thành Sóc-Trăng.
- Ba-Xuyên : Châu thành Sóc-Trăng.
Đến khi Sa-Đéc được tách riêng lập thành tỉnh, vị trí như sau :
- Đông giáp tỉnh Mỹ-Tho, cách 60 cây số về tỉnh Vĩnh Long, cách 24km 500.
- Tây giáp tỉnh Long-Xuyên, cách tỉnh nầy 48 km 500. - Nam giáp tỉnh Cần-Thơ, cách tỉnh nầy 50 km - Bắc giáp tỉnh Tân-An, cách tỉnh nầy 84 km
Tỉnh Sa-Đéc khi ấy chia làm 3 quận, 10 tổng, 67 làng như sau :
Quận Châu-Thành Sa-Đéc gồm có 5 tổng, 34 làng :
- Tổng An-Hội có 5 làng : An-Tịch, Tân-Hưng, Tân-Xuân, Thượng-Văn và Phụng-Xuân.
- Tổng An-Mỹ gồm 14 làng : An-Hòa-Đông, An-Thuận, Hòa-Hưng, Khánh-An-Đông, Phú-Hòa, Phú-Hựu, Phú-Nhơn, Phú-Nhuận, Tân-An-Đông, Tân-Hựu, Tân-Hựu-Đông, Tân Hựu-Trung, Tân-Long, Tân Nhơn.
- Tổng An-Thạnh-Thượng có 4 làng : An-Hội, Hội-An Đông, Mỹ An-Hưng, Tân-Mỹ.
- Tổng An-Thạnh-Hạ có 5 làng : Tân-An-Trung, Tân Đông, Tân-Khánh, Tân-Khánh-Tây, Tân-Qui-Đông.
- Tổng An-Trung có 6 làng : Bình-Tiên, Hòa-Khánh, Tân Qui-Tây, Tân-Phú-Trung, Tân-Phú-Đông, Vỉnh-Phước.
Quận Cao-Lãnh gồm có 3 Tổng, 20 làng :
- Tổng An-Tịnh có 5 làng : Hòa-An, Tịnh-Thới, Tân-Tịch, Tân-Thuận-Đông, Tân-Thuận-Tây.
- Tổng Phong-Nẫm có 9 làng : Bình-Hàng-Tây, Bình Hàng-Trung, Bình-Thạnh, Mỹ-Hội, Mỹ-Hiệp, Mỹ-Long, Mỹ Thọ, Mỹ-Thành, Mỹ-Xương.
- Tổng Phong-Thạnh có 6 làng : An-Bình, Mỹ-Ngãi, Mỹ Trà, Nhị-Mỹ, Phong-Mỹ, Tân-An.
Quận Lai-Vung gồm có 2 tổng, 13 làng :
- Tổng An-Phong có 6 làng : Hậu-Thành, Long-Hưng, Tân-Bình-Hòa, Tân-Dương, Vĩnh-Thanh.
- Tổng An-Thới có 8 làng : Hòa-Long, Long-Hậu, Long Thắng, Phú-Thành, Tân-Hòa, Tân-Phước, Tân-Lộc, Vĩnh-
Thới.
Như thế, tỉnh Sa-Đéc trong thời Pháp thuộc đã bao gồm cả vùng Cao-Lãnh tức vùng tỉnh lỵ Kiến-Phong bây giờ. Mà một khi đã nói đến hai chữ Cao-Lãnh, là người Việt tất ai cũng biết đó là chốn có lắm chí sĩ anh hùng hào kiệt ẩn thân.
V. ANH HÙNG HÀO KIỆT PHẤT CỜ CHỐNG PHÁP Khi quân đội Pháp chiếm miền Tây, biết bao hào kiệt vùng Định-Tường, Vĩnh-Long, Sa-Đéc, Cao-Lãnh đã phát động các cuộc kháng chiến hào hùng. Tuy thất bại, không thành công, nhưng các vị anh hùng chống xăm-lăng ấy, các chí sĩ ngậm hận ấy, đều được muôn đời nhắc nhở, ngưỡng mộ sùng kính. Những nhân vật kháng Pháp cứu quốc như Thiên-Hộ-Dương, Thủ-Khoa-Huân, Thống-Linh (Nguyễn Văn-Linh), Phòng-Biểu (Nguyễn-Văn-Biểu) đã làm rạng danh Sa-Đéc ngày xưa. Những chí sĩ khét tiếng vùng Sa Đéc, Cao-Lãnh, như các cụ Nguyễn-Quang Diêu, v.v… đã nêu gương muôn thuở cho người Sa-Đéc.
Và khoảng cận đại có các chí sĩ như : Võ-Hoành, Dương Bá-Trạc, Nguyễn-Quyền, từng bị chính quyền đưa đi an trí tại Sa-Đéc. Cụ Phan-Bội-Châu khi vào Nam, thân đến vùng Sa-Đéc tiếp xúc với những nhân vật có lòng yêu nước. Ông Đặng-Thúc-Liêng cư ngụ ở Sa-Đéc là người tài năng khí tiết đã làm cho Sa-Đéc thêm phần văn học hào hùng.
Cho nên, dù chiếm đất nước ta, nhưng người Pháp chưa dễ tiêu diệt được sĩ khí của dân tộc ta. Đặc biệt là sĩ khí vùng Sa-Đéc, Cao-Lãnh chói rạng hơn đâu hết. Lịch sử đã
chứng minh điều ấy, và đến nay mọi người cũng đều đã biết rõ như thế. Chính tinh thần bất khuất của giống nòi ta đã cứu thoát dân tộc sớm cởi ách nô lệ của ngoại bang. Và trong công cuộc giành độc lập, tự do cho dân tộc, miền Tây Nam-Việt đáng được tự hào với tỉnh Sa-Đéc xưa kia có nhiều sĩ phu đầy tinh thần khí phách, làm rạng rỡ giống nòi dân Việt.
VI. NỀN ĐỆ NHỨT CỘNG-HÒA SA-ĐÉC TRỞ THÀNH QUẬN, TỈNH VĨNH-LONG
Từ năm 1957, do Nghị-định số 308-BNV/NC/NĐ ngày 8- 10-57, tỉnh Sa-Đéc trở thành một quận thuộc tỉnh Vĩnh Long, gồm có 20 xã. Rồi 5 năm sau, do Nghị-định số 719- NV ngày 11-07-62 lại cắt phần đất trong vùng Sa-Đéc là
Đức-Tôn và Đức-Thành lập thành 2 quận riêng biệt nữa của tỉnh Vĩnh-Long như sau :
Tỉnh Vĩnh-Long 9 quận, 24 tổng, 81 xã (bao gồm vùng Sa-Đéc).
- Quận Châu-Thành gồm có 4 tổng, 14 xã
- Chợ-Lách gồm có 3 tổng, 9 xã
- Tam-Bình gồm có 3 tổng, 8 xã
- Bình-Minh gồm có 2 tổng, 6 xã
- Minh-Đức gồm có 2 tổng, 8 xã
- Sa-Đéc gồm có 3 tổng, 13 xã
- Lấp-Vò gồm có 2 tổng, 8 xã (Vùng Sa-Đéc sáp nhập) - Đức-Tôn gồm có 2 tổng, 7 xã (Vùng Sa-Đéc sáp nhập) - Đức-Thành gồm có 2 tổng, 8 xã (Vùng Sa-Đéc sáp nhập)
É Á Ờ Ở Ỉ
VII. SA-ĐÉC TÁCH RỜI VĨNH-LONG TRỞ LẠI TỈNH Thời cuộc đổi thay, các tỉnh miền Nam dưới thời chánh phủ Ngô-Đình-Diệm, trở thành quận như : Gò-Công, Vũng Tàu, Bạc-Liêu, Châu-Đốc, Sa-Đéc, v.v… Gần đây các tỉnh cũ bị sáp nhập làm quận, lần lượt được phục hồi lại địa vị cũ.
Sa-Đéc được tái chính thức thành lập trở lại từ ngày 24- 9-1966 do sắc Lệnh của Phủ-chủ-tịch Hành pháp Trung ương. Tỉnh tái lập nầy gồm có 4 quận 10 tổng, đến ngày nay 1970, cải tổ đã bầu Hội đồng nhân dân Xã và lập Ủy ban Hành chánh Xã, không còn tổng nửa.
SA-ĐÉC HIỆN ĐẠI : NĂM 1971 GỒM CÁC QUẬN XÃ NHƯ SAU :
- Quận Châu-Thành : Xã An-Tịch, Tân-Hiệp, Bình-Tiên, Tân-Phú-Trung, Tân-Xuân, Tân-An-Trung, Tân-Đông, Tân Mỹ, Tân-Khánh, Tân-Khánh-Tây, Tân-Vĩnh-Hòa, Hóa-Thành, Tân-Dương.
- Quận Đức-Thành : Xã Tân-Thành, Long-Hậu, Vĩnh Thới, Tân-Hòa-Bình, Hòa-Long, Tân-Phước, Long-Thắng, Phong-Hòa.
- Quận Đức-Tôn : Xã Phú-Hựu, An-Nhơn, Tân-Nhuận Đông, An-Phú-Nhuận, An-Khánh, Hòa-Tân, Phú-Long.
- Quận Lấp-Vò : Xã Bình-Thạnh-Đông, Bình-Thạnh-Tây, Bình-Thạnh-Trung, Hội-An-Đông, Mỹ-An-Hưng, Định-Yên, Vĩnh-Thạnh, Long-Hưng.
Tổng cộng : 4 Quận 36 Xã.
Theo một tài liệu chúng tôi sưu tầm về nhân số chung toàn tỉnh gồm cả nam phụ lão ấu và số người di-cư từ năm 1966-67, cộng trên 250.000 người và nhân số hiện tại năm 1971 gần 300.000 người kể cả binh đội của Sư-đoàn 9 Bộ
binh.
Lịch sử tỉnh Sa-Đéc tóm lược như trên, kể ra cũng là nơi rất xứng đáng lưu truyền sự tích. Ngày nay, Sa-Đéc cũng như bao tỉnh khác đang trên đà phát triển mọi ngành sinh hoạt, trong tương lai hẳn còn xứng đáng hơn lên.
CHƯƠNG 2 : ĐỊA LÝ
Từ Thủ-đô Saigon theo quốc-lộ 4 xuống Sa-Đéc, qua Bắc Mỹ-Thuận rẽ về phía tay mặt, tiến theo lộ số 8 tới Sa Đéc là 136 cây số.
Vị-trí, giới-hạn, diện-tích :
- Vị-trí : Tỉnh Sa-Đéc nằm giữa Tiền-Giang và Hậu Giang, đông-tây ước độ 36 cây số ngàn, bắc-nam chừng 22 cây số ngàn, ở những quãng tối đa.
- Giới hạn : Phía bắc, tỉnh Sa-Đéc giáp 2 tỉnh Kiến Phong và Định-Tường. Phía nam giáp An-Giang, Phong-Dinh và Vĩnh-Long. Phía đông giáp An-Giang.
- Diện tích : 776 km2, 288
Địa chất : Không có đồi núi, đất tỉnh Sa-Đéc là phù-sa phì nhiêu, hợp cho việc trồng lúa, các loại cây và cây kỹ nghệ. Mặt đất phần lớn là ruộng và vườn.
Núi đồi, đồng bằng, cù-lao : Như trên đã nói, tỉnh Sa Đéc là một vùng đồng bằng, do phù sa bồi đắp nên cũng có nhiều chỗ thấp, mùa nước lớn có nhiều nơi bị lụt ngập, nhất là vào khoảng giữa tháng 10 cho đến giữa tháng 12 dương lịch.
Khí hậu, mưa gió :
- Khí hậu nhiệt độ trung bình : Buổi sáng 25 độ, trưa chiều 28 độ trong mùa mưa. Buổi sáng 27 độ, trưa chiều 31 độ trong mùa nắng.
- Mưa : Mưa bắt đầu vào tháng tư, chỉ vào khoảng tháng 6, 7, 8 và 9 thì mưa rất thường, có nhiều đám mưa to, lắm khi kéo dài đến đôi ba ngày. Mưa trở lại ít, từ đầu tháng 10 và chấm dứt vào cuối tháng 11 âm-lịch.
- Gió : Có hai ngọn gió chánh : Gió tây nam thổi trong mùa và gió chướng thổi từ hướng đông trong mùa nắng.
Thảo mộc, cầm thú :
- Thảo mộc : Cây cối tốt tươi nhất là về mùa mưa vì có nước đầy đủ. Ruộng lúa phì nhiêu, vườn cây xanh biếc. Cũng có nhiều vùng đất còn hoang vu, thì toàn là tranh và lác dày bịch. Rải rác trong các vườn cây ăn trái, hoặc nơi các đồng ruộng có một số ít cây danh mộc như : Dầu, Sao, Bằng-lăng, và các cây cổ thụ như cây đa, cây bồ-đề thường có tại các chùa, đình, miếu, v.v…
- Cầm thú : Ngoài số gia súc đủ dùng như : Trâu, bò, heo chó, gà, vịt, ngỗng, v.v… tại các đồng ruộng còn có chồn, trăn, rắn, rùa. Về các loại chim thì kể : cò, quạ, dều, le-le, gà nước, óc cao, vò vẻ, chàng nghịch, v.v…
CHƯƠNG 3 : ĐƯỜNG GIAO THÔNG, THỦY, BỘ
Đường thủy : Ngoài hai sông Tiền-Giang và Hậu-Giang chạy dài bên phía nam và phía bắc để làm ranh giới, trong tỉnh lại còn có nhiều sông, kinh, rạch nhờ giúp cho việc lưu thông bằng đường thủy từ vùng nầy qua vùng khác như :
- Rạch Chợ-Cồn : Con rạch nầy tuy ngắn nhưng quan trọng, vì các tàu bè, ghe đò buôn bán trên sông Tiền-Giang muốn ghé Châu-Thành, Sa-Đéc thì bắt buộc phải vào con rạch độc nhất nầy.
- Sông Sa-Đéc : Thông thương từ tỉnh lỵ qua các xã Tân-Dương, Long-Hưng, Vĩnh-Thạch, Bình-Thành-Đông, Bình-Thành-Tây trổ ra sông Hậu-Giang và Vàm-Cống, và từ tỉnh lỵ qua các xã Tân-Vĩnh-Hòa, Tân-Xuân, Tân-Nhuận
Đông, An-Nhơn, Phú-Hựu trổ ra sông Tiền-Giang gần Bắc Mỹ-Thuận.
- Rạch Sa-Nhiên : Thông thương đến các xã Tân-Khánh, Tân-Khánh-Tây thuộc tổng An-Thạch.
- Rạch Cần-Thơ : Thông thương từ Sa-Đéc đến tỉnh Phong-Dinh.
- Rạch Nha-Mân : Thông thương giữa các xã Tân Nhuận-Đông, Phú-Long Hòa-Tân, Phong-Hòa qua đến quận Đức-Thành.
- Kinh Thầy-Lâm : Nối liền hai xã Long-Hưng và Mỹ-An Hưng thông ra sông Tiền-Giang.
- Rạch Cái-Tàu-Hạ : Thông thương qua xã Sông-Phú (quận Tam-Bình) và xã Tân-Hòa-Bình (quận Đức-Thành)
- Rạch Cái-Tôm-ngang : Thông thương từ xã An-Tịch qua xã Tân-Hiệp và trổ ra sông Tiền-Giang.
Còn nhiều kinh rạch như : Kinh Đốc-Phủ-Hiền, Kinh Rau-Cần, Kinh Ông-Huyện, Kinh Đội-Thơ, Rạch Cái-da-nhỏ, Rạch Mù-U, Rạch Cây-Sanh, Rạch Khê-Rang, v.v…
Đường bộ :
- Đường Liên-tỉnh số 8 từ địa đầu quận Đức-Tôn đến đò Vàm-Cóng : 52cs 883. Con đường độc nhất cho việc đi lại giữa tỉnh lỵ đến các quận lân cận như Đức-Tôn, Đức-Thành, Lấp-Vò. Con đường nầy tráng nhựa được chánh phủ chú ý chăm nom gìn giữ, vì nó nối liền với các con đường địa phương khác rất tiện lợi cho việc đi lại và tiếp tế thực phẩm, cùng chuyên chở hành khách giữa đô thành với các tỉnh, các quận miền Tây như An-Giang, Châu-Đốc, Kiên-Giang.
- Đường tỉnh hạt 23 từ quận Châu-Thành đến Cái-Tàu Thượng dài 31cs 870 : Đường nầy nối liền tỉnh Sa-Đéc với quận Chợ-Mới (tỉnh An-Giang) và tỉnh Kiến-Phong qua chiếc phà Cao-Lãnh, con đường nầy đã bị tàn phá lúc biến cố năm 1945, nay được sửa chữa và được cán đá lại.
- Đường Tỉnh-lộ 29 : Đi từ Hòa-Long đến Lai-Vung dài 8cs 450.
- Đường Tỉnh-lộ 37 : Đi từ Lai-Vung đến quận Bình-Minh (Vĩnh-Long) dài 10cs 440.
Ngoài ra còn có các Hương-lộ nối liền từ tỉnh-lỵ hoặc quận-lỵ đến các xã như :
- Hương-lộ 13 : Từ Sa-Đéc đến xã Long-Hưng (Lấp-Vò)
- Hương-lộ 4 : Dọc theo kinh Đốc-Phủ-Hiền từ Sa-Đéc đến xã Tân-Phú-Trung.
- Hương-lộ 2 : Dọc theo Rạch Nha-Mân, từ cầu Nha-Mân đến xã Xẻo-Mát.
- Hương-lộ An-Tịch : Nối liền từ Sa-Đéc đến 2 xã An Tịch và Tân-Hiệp.
- Hương-lộ số 5 : Từ tỉnh-lỵ đến xã Tân-Phú-Trung, dài 20cs 270.
- Hương-lộ số 8 : Đến xã Định-Yên.
- Hương-lộ số 19 : Đến xã Mỹ-An-Hưng.
- Đường lộ đi Mũi Cần-Gió (Basse Nord) bắt đầu từ sắt Sa-Đéc. Mũi Cần-Gió dài 2 cs 500 là Vàm-Rạch Sa-Déc, khi xưa là nơi bến tàu Lục-Tỉnh và Nam-Vang ghé rước đưa hành khách và cất chở hàng, nơi đây, khi trước cũng có dựng lên cái chợ gọi là chợ Cồn, nay nơi nầy bị lở vô sâu mấy chục công đất, nên bến tàu đã bỏ từ lâu.
- Doi-Cồn : Mé bên sông thuộc Tân-Qui-Đông, sát bờ sông Sa-Đéc, vì nước chảy siết nên đã bị lở. Chánh quyền đang đóng cừ hàn lại, nhưng lâu ngày không thể chịu nổi với lạch nước xoáy.
Trong tương lai, về địa lý ở đây sẽ còn nhiều sự thay đổi, có chỗ sụp mất, có nơi bồi thành cồn, vì thế, trong họa đồ sẽ có sự thêm bớt, đó là về mặt địa lý tổng quát.
PHẦN THỨ NHÌ : DANH-NHÂN LỊCH-SỬ VÀ NHÂN-VẬT CẬN-ĐẠI
CHƯƠNG 1 : DANH-NHÂN LỊCH-SỬ
I. CHƯỞNG-THỦY-DINH QUẬN-CÔNG TỔNG PHƯỚC HÒA SA CƠ BỊ TÂY-SƠN BẮT TẠI BA-VÁT, TỰ-VẬN ĐỂ BẢO TOÀN DANH TIẾT
Anh em đều vinh hiển, ngàn thu hương hỏa sùng phụng, nơi đền đài miếu mạo Vĩnh-Long – Sa-Đéc, thật chẳng ai bằng gia-đình Tống-Quốc-công. Dân chúng Vĩnh-Long không ai là chẳng biết miếu thờ Tống-Quốc-công (Phước
Hiệp), còn tại Sa-Đéc thì ngôi đình thờ Tống-Quận-công (Phước-Hòa) cũng nguy-nga tráng-lệ không kém.
(Trước kia có đền thờ riêng, sau nầy Chánh phủ Pháp dỡ di để cất bót cảnh sát ở đó, nên nay Tống-Quận-công thờ chung với đình Thần làng Vĩnh-Phước).
Tống-Phước-Hòa là em ruột Hữu-phủ Quốc-công Tống Phước-Hiệp 6, đã từng vào sanh ra tử theo phò Chúa Định Vương Nguyễn-Phúc Thuần lúc chống Tây-Sơn. Xuất thân là Cai-cơ trong quân ngũ của anh tại Long-Hồ-dinh, nhưng ông tuyệt nhiên không cậy oai thế của anh mình mà tự kiêu tự mãn. Lúc nào ông cũng nhún nhường, tháo vát mọi trọng trách một cách mẫn cán, liêm-chính. Trong quân cũng như ngoài dân chúng, người người đều mến chuộng tài đức của ông.
Mùa xuân năm Bính-Thân (1776), Tây-Sơn kéo vào hạ thành Gia-Định. Ông vâng lịnh anh đi cứu viện, một lòng quyết tử, làm tròn nhiệm vụ, đánh Tây-Sơn khôi phục đất đai đã mất. Do công lao ấy, ông được thăng Chưởng Thủy
dinh, tước Quận-công. Rồi cùng anh đóng quân tại Long-Hồ.
Năm sau, Đinh-Dậu, 1777, Tây-Sơn lại kéo vào đánh chiếm Gia-Định. Bấy giờ ông đang cùng Tống-Phước-Thiêm trấn giữ Long-Hồ, lập tức điều động binh sĩ ứng chiến.
Tây-Sơn dũng-mãnh tiến chiếm nhiều nơi trọng yếu. Chúa Nguyễn và các quan hầu cận liệu thế không xong, lui về Ba-Vát (Bến-Tre) cố thủ. Ông hay tin, lòng càng hăm-hở quyết tử chiến, một mình đem binh chống cự. Dũng-cảm chiến đấu, binh sĩ dưới sự chỉ huy của ông thảy đều hăng hái tranh phong cùng địch, thắng luôn nhiều trận.
Tây-Sơn bèn dùng mưu, một mặt cầm cự ngăn ông tại Ba-Vát, một mặt đổ binh đánh tập hậu, bắt sống được Tân Chánh-Vương (tức Đông-cung Nguyễn-Phúc-Dương) giải về Gia-Định hành quyết. Ông căm hờn than dài : Chúa nhục thì kẻ làm tôi nên liều chết ! Ông càng thúc quân đánh mạnh
hơn lên. Nhưng dầu anh dũng đến thế nào, sức côi thế yếu, ông cũng đành ngậm hận mà thôi. Liệu bề khó thắng nổi trong tình thế nguy nan, ông liền đánh một trận cuối cùng cực kỳ dữ-dội, rồi trở gươm tự sát nơi chiến trường Ba-Vát.
Chẳng những các chiến hữu của ông đều cảm phục thương tiếc, mà tất cả tướng sĩ Tây-Sơn cũng nhiệt lòng khen ngợi ý chí trung liệt của ông.
Về sau, gồm thu non sông về một mối, Vua Gia-Long nhớ công ơn, truy phong ông chức Chưởng-Dinh-Quận Công. Năm Canh Ngọ 1810, nhà vua lại cho thờ ông tại Miếu Trung-tiết Công-thần ở Huế.
Nay tại làng Vĩnh-Phước trong Châu-Thành Sa-Đéc, hãy còn ngôi đình thờ ông, xây cất cực kỳ tráng-lệ. Tục gọi
« Miếu quan Thượng-đẳng », cũng là Đình Thần làng Vĩnh Phước như kể trên.
Ông Nguyễn-Đăng-Khoa có thơ vịnh :
« Quốc-công trọng tước dấy lòng trung
Tay đỡ thành Nam chống thế công
Đất trổ anh tài trong nước lửa
Trời treo gương Tống chói non song
Oai danh thơm nực ngoài ba cõi
Oanh liệt còn vang thấu cửu trùng
Công đức đã đầy trong võ-trụ
Hiền thần chẳng nhọc, Đế-vương phong ».
II. KINH-MÔN QUẬN-CÔNG NGUYỄN-VĂN-NHƠN (1753-1822)
Nguyễn-Văn-Nhơn, người huyện Vĩnh-An (vùng Sa Đéc), thuộc tỉnh An-Giang xưa. Ông là con của Trần-Quốc tướng quân Minh-Đức Hầu Nguyễn-Quang và Thị-Áo.
Xuất thân, ông ứng nghĩa đầu quân, theo Tống-Phước Hiệp và Nguyễn-Khoa-Thuyên, làm chức Đội-trưởng, khi ấy mới 22 tuổi. Sau đó theo Tống-Phước-Hòa đi đóng giữ ở nhiều nơi, được thăng Cai-đội.
Đinh-Dậu 1777, mùa đông, Chúa Nguyễn-Phúc-Ánh khởi binh tại huyện Long-Xuyên (Cà-Mau), ông theo Dương Công-Trừng đóng giữ ở Sa-Đéc. Rồi được thăng Cai-cơ trong năm Mậu-Tuất 1778.
Nhâm-Dần 1872, ông bị Tây-Sơn bắt tại Thủ-Thiêm. Mãi đến 3 năm sau ông mới trốn được, lại tìm sang Xiêm theo
Nguyễn-Vương đang náu mình nơi đó. Dọc đường, gặp Nguyễn-Trần-Thái từ Xiêm trở về, ông cùng Nguyễn-Trần Thái khởi binh chiếm giữ huyện Long-Xuyên (Cà-Mau) rồi thẳng qua Vọng-Các yết kiến Nguyễn-Vương lấy lại được Gia-Định, công lao rất dày.
Năm Ất-Mão 1795, làm Lưu-thủ Trấn-Biên (Biên-Hòa) : lúc nhỏ gặp buổi loạn lạc nên ông không được học hành, bấy giờ tuổi trên 40 ông mới gia công đọc sách.
Năm Đinh-Tị 1797, về giữ Gia-Định, lãnh việc vận lương và kiêm việc Hộ-bộ.
Năm Nhâm-Tuất 1802, Nguyễn-Vương vừa lên ngôi, tức Vua Gia-Long, phong ông làm Chưởng-chấn Võ-quân tước Nhơn-Quận-công. Cuối năm ấy, Bình xong Bắc-Hà, ông dân sớ điều trần 14 khoản :
- Định lại các thứ thuế
- Cầu người hiền
- Lập hương học
- Cử người hiếu liêm
- Cải-cách phong-tục
- Định phép khoa cử
- Sửa đổi hình phạt
- Định sắc phục kẻ trên người dưới
- Đặc phép cho nghiêm việc quan lại
- Phát chẩn cho dân nghèo
- Tiêu biểu người trinh-tiết
- Thẩm định phép tắc
- Lập đồn trại ở các nơi
- Bỏ những thuế tạp
Lại xin đặt thêm một đạo quân Trấp-võ và Tứ-dinh để tăng cường quân lực. Và điều trần việc học ở Gia-Định, xin định nội qui học đường, mỗi xã lựa một người làm trưởng giáo. Lời sớ trần tình :
« Trị nước cốt chinh phục được lòng dân : hành chính không gì bằng giáo dục. Trước kia vận trời biết loạn, đất Gia-Định phải bỏ việc học hành. Nay non sông mới xây dựng lại, bờ cõi thanh bình thì chính lúc phải nên dạy cho dân học. Vậy xin đặt ra phép dạy, mỗi làng phải chọn lấy một người có đức hạnh, văn học, tha hẳn cho quân dịch để cho dạy dỗ con em trong làng. Cấm hẳn không cho rượu chè, cờ bạc, hát xướng, hễ phạm các điều ấy, các quan sở tại phải trừng trị. Như vậy thì rồi tất sẽ gây nên được nhiều nhân tài ra giúp nước và cũng không phụ lòng giáo hóa của Thánh-thượng ».
Vua Gia-Long khen phải, tỏ lòng ưu ái ông hơn, mọi việc trong Nam tin cậy cậy nơi ông mà ủy thác cho.
Đến năm Mậu-Thìn 1808, ông nghiễm nhiên là Tổng trấn Gia-Định, kiêm lãnh hai trấn Bình-Thuận và Hà-Tiên, uy thế lẫy lừng. Ông chính là vị Tổng-trấn đầu tiên ở miền Nam nầy.
Sang đời Minh-Mạng, năm Tân-Tị 1821, ông về kinh, sung chức Tổng-tài ở Quốc-sử Quán. Năm sau, Nhâm-Ngọ 1822, mùa xuân ông mất, thọ 70 tuổi. Được truy tặng Dục vận-Đồng-đức Công-thần, đặc tiến Trụ-quốc Thượng-tướng quân, Thượng-trụ-quốc, Thái-bảo Quận-công.
Khi ông qua đời, Vua Minh-Mạng truyền chỉ bãi chầu 3 ngày, sai các quan ra làm lễ điếu. Nhà vua cũng bổn thân ngự ra dinh ông ban rượu tế, trước khi đưa linh cửu về Gia Định. Lại ban cho một đôi liểng điếu :
« Vọng-Các hiệu tùng long, trực bá đau tâm huyền nhật nguyệt ; Xuân thành bi khử hạc, do lưu Chính khí tác sơn hà »
Nghĩa : « Theo Vua nơi Vọng-Các, lòng son treo rạng cùng trời đất ; Bỏ mình chốn Phú-Xuân, khí chính còn lưu với núi sông ».
Nhà vua lại cấp 100 mẫu ruộng ở xã Thanh-Thủy, Phú Vinh tại Huế, cho con cháu làm tự điền.
Năm Giáp-Thân 1824, được Vua cho thờ vào Thế-Miếu và Miếu Trung-Hưng Công-thần.
Tân-Mão 1831 truy tặng là Tráng-Võ tướng-quân, Hữu quân Đô-Thống-phủ, tước Kinh-Môn Quận-công, thụy là Mục-hiến.
Đốc Phủ-sứ Nguyễn-Đăng-Khoa đề vịnh :
« Cần-Vương giữ vẹn tiết trung thần
Lửa đỏ đành đem gởi chút thân
Gia-Định cao thăng ngôi Tổng-trấn
Nam-kỳ thống lãnh chức trung quân.
Kỳ nam đáng đứng trong trời đất
Liệt sĩ hầu lên nẻo thánh thần,
Nuốt đạn vùa tên không kể mạng
Non sông âu cũng nhứt công ân ».
Kinh-môn Quận-công Nguyễn-Văn-Nhơn có ba người con trai là : Nguyễn-Văn-Đức, Nguyễn-Văn-Thiện và Nguyễn-Văn-Giai và sáu người con gái : Nguyễn-Thị-Nghi, Nguyễn-Thị-Huê, Nguyễn-Thị-Nhâm, Nguyễn-Thị-Thức, Nguyễn-Thị-Đáng và Nguyễn-Thị-Đơn.
Nội tổ của ông là Nguyễn-Văn-Trân, cũng được nhà vua truy tặng tước là Cương-Nghị-hầu. Thân phụ ông là Nguyễn-Văn-Quang, truy tặng tước là Minh-Đức-hầu.
III. ÔNG NGUYỄN VĂN MẬU GIÚP CHÚA NGUYỄN PHÚC ÁNH
Trên bước đường gian nan tẩu quốc, khi thất thế về nương náu tại làng Tân-Long (Nước-Xoáy-Hồi-Oa), Chúa Nguyễn-Phúc-Ánh đã gặp một vị ân nhân tận tình phụng dưỡng chúa, khiến cảm-kích đến tôn xưng người ấy là ông Bỏ của mình, tức coi như cha nuôi.
Ông Bỏ của chúa Nguyễn, chính tên là Nguyễn-Văn Mậu, kêu là Hậu, quê quán làng Tân-Long (nay là Long Hưng), làm tri-thâu (thâu các sắc thuế) trong làng và làm đến chức Trùm-cả.
Khoảng năm Đinh-Vị 1787, Chúa Tây-Sơn là Nguyễn-Lữ đã chiếm Gia-Định và tóm thâu nhiều nơi trong Nam. Chúa Nguyễn-Phúc-Ánh từ nước Xiêm trở về, dung thân tạm nơi một góc trời Nước-Xoáy.
Ông Nguyễn-Văn-Mậu vốn là nhà hào phú trong làng, tuổi cao đức cả tính hiền lành, hay giúp kẻ hoạn nạn, trợ kẻ khó nghèo. Trong làng, người người thảy đều mến lòng bác ái của ông.
Ngày kia, có người đến to nhỏ cùng ông một chuyện quan trọng : Thưa ông Trùm-cả, ông có hay chuyện quan trọng mới xảy ra trong làng ta chăng ?
Ông Trùm Mậu ngạc nhiên : « Chuyện chi quan trọng vậy chú em ? »
- Thưa ông, có một vị quý nhơn dẫn lính đến ngụ nơi làng ta, Ông liệu sao ? Không khéo làng ta sẽ mắc họa binh đao chớ chẳng không !
- Chà, có chuyện như thế sao ? Vị quý nhơn hiện giờ ngụ ở nhà nào ? Để ta coi thử diện mạo người rồi sẽ liệu.
Ông Trùm Mậu bèn theo gót người làng, đến tận nơi trú ngụ của Chúa Nguyễn-Phúc-Ánh mà xem xét vị quý nhơn ấy ra sao. Thoạt trông thấy vị thiếu niên mặc y phục theo trong hoàng-phái, dáng nho nhã, nét cương nghị trầm hùng biểu lộ trên gương mặt rắn rỏi, quả cảm. Ông Mậu khen thầm : « Đây là một vị chơn chúa đang lúc phong trần, mai sau thanh vân đắc lộ quyết chẳng ai hơn nổi đâu ».
Bèn ra mặt, bái kiến Chúa Nguyễn. Nguyễn-Vương kính ông tuổi tác, vội vàng nghiêng mình đáp lễ ân cần hỏi : « Lão trượng là ai ? »
Ông Mậu tỏ thật tên họ và chức nghiệp. Nguyễn-Vương cảm khái : « Chúng tôi truân chuyên lưu lạc đến đây, chắc đồng bào cảm thông mà giúp đỡ cho tôi chớ ? »
Ông Mậu khẳng-khái : « Vâng. Chúa đang bước long đong, phận tôi con đâu dám chẳng hết lòng ».
Từ hôm ấy, ông Mậu xuất tài sản châu cấp cho binh sĩ của Nguyễn-Vương, và vận động người trong làng sốt sắng ủng hộ cho.
Mỗi ngày, tại nhà ông nấu sẵn cơm cháo, cho ghe chở nườm nượp ra đến vàm Nước-Xoáy, cách nhà ông độ 3 cây số tiếp tế quân đội Nguyễn-Vương. Ròng rã ba tháng, ông tận tình giúp đỡ đủ mọi mặt, nhờ đó binh Nguyễn-Vương thắng nổi Tây-Sơn.
Nguyễn-Vương niệm ơn ông, lại xét ông là bậc trưởng thượng, trung can nghĩa khí, lòng dạ đáng thương, bèn cung kính tôn ông làm Bỏ của ngài, tức là coi ông như cha nuôi. Ông Mậu thấy thể cả kinh : Xin chúa thượng chớ quá hạ mình. Kẻ hạ dân không dám vọng tưởng đến như thế.
Nguyễn-Vương cảm động : Bỏ chớ ngại, xét ra xứng đáng cho tôi kính là Bỏ, xin đừng từ chối mà phụ lòng tôi mến chuộng, cảm đức của Bỏ.
Ông nghe câu nói đầy ân hậu, lòng càng cảm thương ; càng dốc lòng lo cho Nguyễn-Vương.
Trong quân, ai nấy cũng đều tôn xưng kính trọng ông. Ông chẳng biết lấy chi đáp lại cho cân, nên nguyện xin dâng người con gái út của ông cho Nguyễn-Vương dùng làm Tấn nhân hầu hạ Chúa. Nhưng nàng phản đối ý cha, giả điên cho đến chết (Xin xem chuyện con gái ông Bỏ Hậu).
Về sau Nguyễn-Vương thống nhất sơn hà, lên ngôi Hoàng-đế, tức Vua Gia-Long. Nhà vua vẫn niệm ơn ông Bỏ Hậu. Sắc phong tước Đức-hầu. Khi Vua Gia-Long mới lên ngôi, có người trong Nam nghe được tin ấy, chạy bay đến
nhà ông Mậu mà tỏ chuyện : « Mừng cho ông sắp vinh hiển to rồi ».
Ông nghiêm trang : « Chuyện chi đáng mừng ? »
- Ông chưa hay gì sao ? Đương kiêm Hoàng-đế chính là người đã tâng trọng ông làm Bỏ khi trước đó.
- Thật chăng ?
- Ông cứ cho người dọ hỏi thì biết.
Ông nghe tin ấy, lòng mừng cho Nguyễn-Vương đã đắc vận. Riêng ông, ông không tin tưởng lắm rằng Vua Gia-Long sẽ chẳng quên ơn ông. Đến khi có sắc chỉ của Triều-đình đưa vào tặng phong ông tước Đức-hầu, bấy giờ ông mới biết công mình nuôi giúp chẳng uổng, mắt xanh nhận xét chẳng lầm người.
Người trong làng hết thãy đều khen phục ông tinh tường, biết chơn chúa trong cơn lưu-lạc phong trần.
Năm Gia-Long thứ 8 (1809) ông mãn phần. Vua Gia Long thương tiếc, có chỉ truyền sai một phái đoàn trong Công-Bộ vào xây lăng cho ông và cho người con gái của ông rất trọng hậu. Lăng ấy nay hãy còn, nhưng các chữ ở mộ bia đã phai mờ.
Bà Đốc-phủ Phải ở Chợ-Lớn mấy mươi năm trước đây, chính là chắt gái của ông Bỏ của Vua Gia-Long vậy.
Nơi làng Long-Hưng, dòng dõi ông cũng còn nhiều. Ông Hòa-Trai Nguyễn-văn-Dần có thơ cảm đề : « Tuấn kiệt nghiêng vai đỡ lấy trời,
Anh hùng trưởng lão phải là chơi,
Đất Nam thượng phụ không hai mặt,
Cõi Việt họ hầu biết mấy mươi
Khương Tử ngồi câu trong mỏi mắt
Võ-Hầu xếp quạt cũng hao hơi.
Cần vương tầm nhựt người trên trước
Âu phải liều thân giúp với đời ».
IV. CÁC VÕ TƯỚNG QUÊ Ở SA-ĐÉC PHỤ TÁ NHÀ NGUYỄN-PHÚC
Bên cạnh hai nhân vật ưu tú của Sa-Đéc ngày xưa là cụ Tống-Phước-Hòa và Nguyễn-Văn-Nhơn, mà chúng tôi đã trình bày, hãy còn khá nhiều võ tướng khác, tên tuổi ghi chép ở bộ « Đại-Nam Nhất-thống-chí », phần tỉnh An-Giang, khu vực 2 huyện Vĩnh-An và An-Xuyên, tức vùng Sa-Đéc khi xưa. Đáng kể gồm có :
- Nguyễn-Văn-Bế : Người huyện Vĩnh-An. Ông Nguyễn Văn-Bế từng theo chúa Nguyễn-Phúc-Ánh sống cuộc đời lưu vong ở Vọng-Các (Xiêm), được phong chức Tổng Nhung Cai cơ. Những khi Nguyễn-Vương kéo binh trở về, giao chiến với Tây-Sơn, ông đảm nhận sứ mạng giao liên giữa Nguyễn Vương với Vua Quan Xiêm. Ngoài ra, ông còn có công đi cầu viện và khéo tổ chức dàn quân ủng hộ Nguyễn-Vương. Khi ông mất, Nguyễn-Vương truy tặng ông chức Chưởng-cơ, liệt thờ vào hai miếu Hiển-Trung và Trung-Hưng.
- Hoàng-Phước-Bửu : Người huyện An-Xuyên, ông tận tụy với chúa Nguyễn-Phúc-Ánh, gian lao nguy hiểm chẳng quản gì thân. Ông được Nguyễn-Vương tín nhiệm. Lúc
Nguyễn-Vương lưu vong nơi Vọng-Các ông vẫn theo bảo giá, làm đến chức Trung-đồn Uy-Vũ Vệ-úy. Trung thành với Nguyễn-Vương, ông xông pha ngoài tiền tuyến dư trăm trận, đối đầu với Tây-Sơn ở nhiều nơi. Đến năm Tân-Dậu (1801), ông tùng chinh ở Qui-Nhơn, tử trận nơi Thạch-Cốc, được truy tặng chức Chưởng-cơ. Năm Gia-Long thứ ba (1804), nhà vua cho liệt thờ ông vào các Miếu Chiêu-Trung, Hiển-Trung và Bao-Trung. Năm Gia-Long thứ 9 (1810) lại được liệt thờ vào miếu Trung-Hưng Công thần.
- Nguyễn-Văn-Trọng : Người huyện An-Xuyên. Ông nổi tiếng hào hùng, tinh thông võ-nghệ. Gặp thời loạn, ông dốc lòng theo đường binh-nghiệp, cứu loạn, an dân, bèn quyết định phụ tá Chúa Nguyễn-Phúc-Ánh. Khi mới đầu quân, ông đã được trọng dụng, phong chức Khâm-sai Cai-cơ, theo Tổng-Nhung Nguyễn-Thuyên và tiên phong Nguyễn-Văn
Thành điều khiển quân sĩ, giao phong cùng Tây-Sơn trên khắp mặt chiến trường. Dần dần làm đến chức Tiên-phong Đinh lượng Võ-vệ Chính-vệ. Năm Canh-Thân 1800, ông tùng chinh ở Qui-Nhơn, tử trận tại Tự-Sơn. Đến năm Gia
Long thứ hai 1803 được truy tặng Chưởng-cơ liệt thờ vào miếu Bao-Trung. Năm thứ 9 (1810) liệt thờ vào miếu Trung Hưng Công-thần.
- Nguyễn-Văn-Định : Người huyện An-Xuyên, làm đến Cai-cơ. Từng theo Nguyễn-Vương sống cuộc đời lưu vong ở Vọng-Các. Từ năm Đinh-Vị 1787, ông bảo giá Nguyễn Vương từ Xiêm trở về, rồi xông pha trận mạc chẳng quản gì thân. Đến khi tùng chinh ở Quảng-Nam tử trận tại đây.
Được truy tặng Chưởng-cơ, liệt thờ nơi miếu Hiển-Trung và miếu Trung-Hưng.
- Nguyễn-Văn-Tuyên : Người huyện Vĩnh-An, đầu quân dưới cờ Chúa Nguyễn-Phúc-Ánh. Ông chống nhau với Tây Sơn quyết liệt, có nhiều chiến công, làm đến Vệ-úy trong đoàn quân Chấn-Võ. Đến khi Nguyễn-Vương khôi phục xong Gia-Định, thẳng ra Phú-Xuân, ông từng cùng với ông Lê Văn-Duyệt đánh dẹp ở nhiều nơi, trổ tài cứu loạn an dân. Nhất là khi đánh dẹp ở Quảng-Ngãi, ông đem lại an ninh cho dân chúng, khiến nhân dân xưng phục cảm mộ ân uy. Ông mất trong trận công phá Qui-Nhơn. Được truy tặng Chương-cơ.
- Nguyễn-Văn-Yến : Người huyện An-Xuyên, làm đến Vệ-úy Lượng-võ. Ông tính cương trực khảng-khái, xông trận rất dũng cảm. Các thuộc hạ của ông thãy đều kính mến ông, sẵn sàng tuân theo lịnh ông điều khiển, trên dưới một lòng. Năm Canh-Thân 1800, tùng chinh ở Qui-Nhơn, ông tử trận tại Thị-Dả, được liệt thờ vào miếu Hiển-Trung và miếu Trung-Hưng.
V. NGUYỄN THỊ DUNG NGƯỜI ĐÀN-BÀ HÁO NGHĨA NHẤT Ở SA-ĐÉC TRONG ĐỜI VUA THIỆU-TRỊ
Sa-Đéc xưa kia, có một « ông Bỏ » của Vua Gia-Long 7, đáng ngợi về mặt háo nghĩa bao nhiêu, thì đến đời Thiệu Trị, còn có một bà Nguyễn-Thị-Dung cũng nổi tiếng là người đàn bà háo nghĩa vào bậc nhất. Sách « Đại-Nam Nhất thống-chí » vẫn nêu tên bà để biểu dương cùng hậu thế.
Bà Nguyễn-Thị-Dung, người huyện An-Xuyên, vốn nhà giàu có. Vào cuối đời Minh-Mạng, nhân thấy đất nước có nhiều biến loạn, dân gian khổ sở vì lo âu, chiến cuộc lan tràn khắp nơi, bà tỉnh ngộ về cuộc đời phù hoa, giã tạm, vạn vật vô thường, nên bà sinh lòng mộ đạo Phật, phát-bồ
đề-tâm, tri hạnh bố-thí, sẵn lòng lạc quyên, chẩn tế bất cứ ở nơi nào cần đến sự hỗ trợ của bà. Do công đức ấy, bà được nhân dân mến phục.
Đầu năm Thiệu-Trị (1841), có việc động binh ở vùng An Giang, Châu-Đốc, dân chúng quanh vùng lâm vào cảnh khốn khó. Bà ra tay cứu tế, hết lòng giúp đỡ kẻ nghèo khổ qua cơn tai trời ách nước.
Quân-đội của triều đình lúc bấy giờ đang cần quân nhu, lương thực, bà biết tin, sẵn-sàng xuất lúa quyên trợ. Nhờ sự tán trợ của bà, chẳng những dân chúng đội ơn cứu nạn, mà triều-đình cũng cảm kích nghĩa cử của bà, nhất là rất khen ngợi nhiệt tâm của bà đối với quân-đội.
Để tưởng thưởng lòng từ-bi của bà đối với đồng bào, khích lệ lòng yêu nước của bà đối với quân-đội bằng cách nhiệt-liệt tiếp-tế mọi thứ nhu yếu phẩm, quan lại địa phương và thượng cấp trong quân-đội dâng sớ về triều tâu rõ nghĩa cử của bà. Tiếp được tờ trình, triều thần họp nhau bàn định và đưa ý kiến lên Vua, xin phong tặng cho bà. Vua Thiệu-Trị chấp thuận, sắc tặng cho bà một tấm biển chạm bốn chữ vàng « Lạc quyên nghĩa phụ ».
Được đề cao sự háo nghĩa như thế, chẳng những đẹp riêng thân danh bà, mà lại còn làm đẹp mặt giới nữ lưu.
Hơn nữa, danh thơm chung muôn thuở cho xứ sở Sa-Đéc mến yêu của bà và của thế hệ sau và mãi-mãi.
VI. HỒ-TRỌNG-ĐÍNH
Ngày nay, du khách viếng Sa-Đéc, ắt chẳng khỏi bồi hồi khi nhìn sang vùng Cao-Lãnh. Đất Cao-Lãnh trước vẫn là một quận thuộc tỉnh Sa-Đéc, một vùng thuộc Long-Hồ Dinh. Và nơi ấy, có miếu Văn-Thánh là di tích đáng ca tụng. Một khi du khách quan chiêm Văn-Thánh miếu ở làng Mỹ
Trà (Cao-Lãnh), tự nhiên chẳng khỏi bàng-hoàng đặt câu hỏi : Ai đã xướng xuất việc xây cất Văn-Thánh miếu ? Ngược dòng thời gian, tra cứu sử-liệu, chúng ta sẽ không quên cảm niệm vị Tri-phủ Tân-Thành, dưới thời Tự-Đức, tên là Hồ-Trọng-Đính. Chính là người đã đề xướng việc xây cất miếu Văn-Thánh, làm đẹp mặt Sa-Đéc thuở nào.
Hồ-Trọng-Đính quê ở làng Quỳnh-Đôi, tỉnh Nghệ-An. Ông thi đỗ Cử-nhân, nổi tiếng văn học.
Khoảng năm Đinh-Tỵ 1857, ông được triều đình bổ vào Nam làm Tri-phủ Tân-Thành. Trấn nhậm một nơi văn hiến, ông tỏ lòng sốt sắng lo việc chính trị, giáo dục. Rảnh việc vua quan, ông thường nhóm sĩ phu trong vùng đàm đạo văn chương, thảo luận việc mở mang trong xứ.
Nhờ công đôn đốc của ông, đến khoa Mậu-Ngọ (1858), người trong phủ Tân-Thành (Sa-Đéc) đỗ được một Cử-nhân, hai Tú-tài. Ông hân hoan bàn tính với các thân hào nhân sĩ về việc đề cao đạo học, khích lệ sĩ phu chung lo việc xây dựng nền văn học trong xứ, hầu cho nho phong sĩ khí càng ngày càng cao rạng. Bấy giờ, có vị giáo thọ là Nguyễn-
Thục-Trinh tán đồng ý kiến ấy, cùng nhau chung lo việc xây cất Văn-Thánh miếu.
Đầu tiên, miếu Văn-Thánh Sa-Đéc tọa lạc trên một sở ruộng ở phía đông Phủ-Thành, thuộc làng Mỹ-Trà, tổng Phong-Thạnh, cách chợ Cao-Lãnh chừng 1.200 thước, xưa thuộc về huyện Vĩnh-An, phủ Tân-Thành.
Tri-phủ Hồ-Trọng-Đính lại xướng lập nên hội Tư văn, cử chức Hội trưởng, câu đương, v.v… Khởi công xây cất Văn Thánh miếu vào ngày mồng 4 tháng 6 đến ngày 28 tháng 10 thì hoàn thành.
Từ ấy lễ nhạc có tôn chủ, chiêm ngưỡng có cung tường, xứ Sa-Đéc được một thời nổi danh văn hiến. Do công đức ấy, dân chúng Sa-Đéc đều tỏ lòng cảm phục Tri-phủ Hồ Trọng.
Đến sau, Tri-phủ Hồ-Trọng-Đính có sắc chỉ thăng chức Giám-sát Ngự-sử và phải hồi kinh. Dân chúng càng nồng nàn tỏ lòng luyến tiếc bậc minh quan ấy.
Di tích Văn-Thánh miếu Sa-Đéc nay hãy còn. Chúng tôi đã ghi rõ chi tiết ở phần Di tích, kể từ Tri-phủ Hồ-Trọng Đính chủ trương lập miếu, đến nay đã trên một trăm năm.
Điều nên nói thêm : Khoảng năm Tự-Đức thứ 31 (Mậu Dần 1878), vì Văn-Thánh miếu trải cơn binh lửa, bị tàn phá, bấy giờ, trong làng Mỹ-Trà có ông Ban-biện suất đội chủ trương là Phạm-Văn-Khanh, tình nguyện xuất của riêng mua cây gỗ sửa sang lại Văn miếu, để cung tiến một tòa, còn ngói gạch vật liệu thì do người trong hội đóng góp
chung lo. Ban biện Khanh bèn dời Văn miếu về cận Trường Giang Cao-Lãnh.
Đến gần đây, sửa sang Văn miếu lại lần nữa, chính do công lao các ông : Nguyễn-Quang-Diêu, Huỳnh-Kinh-Ngưu, Nguyễn-Khắc-Niệm, v.v…
Bao giờ người đời còn nhắc nhở đến Văn-Thánh miếu Sa-Đéc, hẳn là tên tuổi của vị Tri-phủ Tân-Thành Hồ-Trọng Đính cũng đã gắn liền vào việc chấn hưng văn hóa ấy.
CHƯƠNG 2 : NHÂN-VẬT CẬN-ĐẠI
I. NGUYỄN-VĂN-BIỂU TỤC GỌI ÔNG PHÒNG-BIỂU, ĐƯỢC NHÂN DÂN SA-ĐÉC CAO-LÃNH XƯNG PHỤC TÀI LẠ
Ông Nguyễn-Văn-Biểu, làm chức phòng vệ trong bộ đội kháng Pháp của Thiên hộ Võ Duy-Dương nên có tên tục danh là Phòng-Biểu. Đứng trong hàng ngũ nghĩa quân tại Đồng-Tháp, tên tuổi ông vang lừng nơi vùng Cao-Lãnh (tỉnh lỵ Kiến-Phong hiện nay).
Vóc vạc ông cao lớn mạnh dạn, nên được chủ tướng chọn làm cận vệ. Suốt thời gian kháng chiến, luôn luôn ông có mặt bên cạnh chủ tướng, được trọng dụng và tin yêu trọn vẹn. Vì ông rất trung thành, dũng cảm, trải bao cơn chiến trận đẫm máu, lúc nào ông cũng tỏ ra là một viên tướng hào hùng dốc lòng hy sinh vì đại nghĩa.
Theo tài liệu của ông Thân-Việt (tức ông cử Phan-Văn Thiết), ông Phòng-Biểu có hai cái tài đặc biệt, trong vùng Cao-Lãnh lắm người được biết :
« Tài thứ nhất của ông là tài ăn… mỗi lần ăn cho đến một sải chè đậu. Chè đậu là thức ăn dễ ngán lắm, ai có giỏi ăn thì cũng vài ba chén là nhiều, thế mà ông ăn cho cả sải. Lấy chén múc chè vào cho đầy rồi sắp hàng dài trên bộ ván (phản) được một sải (có gần ba thước), nghĩa là có đến ba chục chén chè…
« Tra cứu thì dường như ông Phòng-Biểu có cái dạ dày giống như… con lạc đà. Khi theo dưới cờ nghĩa quân của cụ Thiên hộ Võ-Duy-Dương, nhiều lúc đi công tác đôi ba ngày,
ông cũng không hề đem thức ăn theo. Trước khi ra đi ông ăn một nồi cơm to (sức bốn hay năm người ăn mới hết) rồi khi về (tối hay qua ngày sau) mới ăn nữa. Chẳng khác Tiết Nhân-Quí đời Đường bên Tàu.
« Tài đặc biệt thứ nhì của ông là : đánh gảy tiện một bó mía lau ba chục cây ».
Về chuyện đánh gảy bó mía như sau : Ông bảo đem mía ra bỏ ngoài sân, rồi ông lựa ba chục cây chắc chắn, ngay ngắn, ông góp lại, lấy dây luột bó ba chục cây chắc cứng như một khúc cây nguyên, dù cho quăng lên cao rớt xuống đất bao nhiêu lần cũng không khi nào sút ra được. Xong rồi, ông kiếm chỗ dựng bó mía ấy cho vững chãi. Đoạn, ông lấy ra cây thước sắt là võ khí trước kia ông dùng đi đánh giặc. Cây thước ấy dài độ một thước rưỡi, bề ngang độ bốn phân, bề dày non một phân. Ông cầm cây thước sắt trên tay, lấy bộ đàng hoàng rồi hươi cây thước sắt trên tay, đánh một cái, cạnh bén của cây thước chặt đứt tiện ngang bó mía, chẳng khác gì con dao bén chặt xuống một sợi roi mây dậy. Không hề khi nào có sót một cây mía nào không đứt tiện cả.
Biểu diễn tài chặt mía ấy cho mọi người xem xong ông nói : « Bà con thử nghĩ : Cây thước sắt lợi hại không kém cây thiết bảng của Tề-Thiên Đại-Thánh, làm sao bọn săn đá Tây chịu nổi. Hễ một cây đánh xuống là chết một tên rồi, chỉ cần ráng tránh, đừng ở trước mũi súng trường của chúng nó mà thôi. Nhờ Trời Phật độ, trong bọn thời kỳ tôi theo hầu ngài Thiên-Hộ không có khi nào ở trong tình trạng ấy ».
Với sức mạnh phi thường, lòng dũng cảm tột bậc, thêm ý chí can trường quyết tâm kháng chiến cứu quốc, ông Phòng vệ Nguyễn-Văn-Biểu nghiễm nhiên là viên võ tướng lừng danh. Trong các trận đương đầu với quân Pháp, ông luôn luôn xông pha rất gan dạ. Ngọn thước sắt của ông vung đến đâu, quân Pháp vỡ tan đến đó, khiến chúng phải khiếp danh ông.
Mỗi khi nghe đến tên ông Phòng-Biểu, quân lính Pháp đều có ý kiêng dè. Riêng ông, ông cũng khéo léo rất mực trong cơn xung xát kháng địch. Biết người, biết mình, dù can trường có thừa, mà tự biết võ khí thô sơ, cần phải dè dặt trước súng đạn tối tân, nên với tài thao lược và sự nhanh nhẹn của con nhà tướng, ông vẫn oai hùng chiến thắng.
Nhưng sức người có hạng, việc trời đất không cùng. Ông đã tận tụy với tổ quốc cho đến lúc thời thế đã hết phương xoay chuyển, mới đành ngặm ngùi lui ẩn trong một vùng quê tại Cao-Lãnh.
Ông sống cho đến ngoài 80 tuổi qua đời, chỉ nằm ngủ rồi tắt hơi luôn chớ không có đau ốm gì.
II. LỄ BỘ THƯỢNG THƯ NGUYỄN-ĐĂNG-TAM – NHÂN VẬT SA-ĐÉC CHIẾM ĐƯỢC ĐỊA VỊ CAO TRỌNG NƠI TRIỀU ĐÌNH
Người quê quán tỉnh Sa-Đéc trước kia, ra làm quan tại triều đình thiết tưởng nên kể đến vị Thượng thư bộ Lễ Nguyễn-Đăng-Tam.
Theo tài liệu của hai ông Nguyễn-Văn-Cứng và Nguyễn Văn-Dần trong quyển « Sa-Đéc nhân vật chí » : Nguyễn Đăng-Tam sinh ngày mùng tám tháng Giêng năm Mậu-Thìn (1er Février 1867), sinh tại làng Tân-Phú-Đông, tổng An Trung, tỉnh Sa-Đéc. Về sau, ông ra miền Trung, nhập tịch làng Mỹ-Đức, tổng Thạch-Bàn, huyện Phong-Phú, phủ Quảng-Ninh, tỉnh Quảng-Bình.
Ông nổi tiếng văn-học, thông thạo Hán và Pháp văn. Khi đã tốt nghiệp ra trường, ông được bổ làm giáo-sư dạy tại trường Mỹ-Tho. Ít lâu, ông xin rời ty giáo-huấn, chuyển qua tùng sự ở Sở Thương-chính. Rồi lại xin chuyển ngạch, làm
thông-ngôn ở Tòa sứ Trung-Kỳ.
Đến năm 1895 ông lại được Nam triều ban cho hàm Hàn-lâm-viện Biên-tu, chánh thất phẩm. Cho đến năm 1911 thì thăng Thái-thường Tự-khanh, Chánh Tam-phẩm. Từ đây, trên đường hoạn, cả hai bên Pháp – Việt đều trọng dụng ông. Lớp thì Chính-phủ Pháp ban huy-chương đủ hạng. Nam triều thì ban Kim-Khánh và Đại-Nam tứ-đẳng Long-bội-tinh.
Năm 1926, ngày 13 tháng 3, ông nghiễm nhiên là một vị đại-thần, sung chức Thượng-thư bộ-Lễ, kiêm Cơ-Mật-Viện Tham-tá.
Điểm đặc biệt ở ông và đáng khen là chẳng bao giờ ông quên Vĩnh-Long, Sa-Đéc từng là nơi chôn nhao cắt rún. Càng được vinh hiển, ông càng tưởng nhớ nhiều đến Sa Đéc, mà bằng quay về đấy, lưu ý săn sóc đồng bào tỉnh nhà.
Chính ông là ân nhân của Hội Vĩnh-Long tương-tế, giúp cho Hội này làm được nhiều việc công ích, tô điểm cho quyển « Vĩnh-Long nhân vật chí » : lại giúp cho hai ông Nguyễn-Văn Cứng và Nguyễn-Văn-Dần soạn thành quyển « Sa-Đéc nhân vật chí » rất đáng thưởng lắm. Điều nên ghi thêm, về các thứ huy chương mà ông được thưởng, chẳng những của Chính-phủ Pháp, của Nam-triều, mà cả đến Cam-Bốt và Ai-Lao cũng có trao tặng tưởng-lệ ông như sau :
- Ngày 19 tháng giêng năm… Được Nam triều thưởng Kim-Khánh hạng nhì.
- Ngày 7 Mars 1906 : được thưởng Ngân-Bội-Tinh hạng nhì.
- Ngày 10-12-1907 : được thưởng Bội-tinh của Pháp văn Đồng-minh hội (Médaille de l’Alliance française)
- Ngày 10-4-1911 : Ngân-bội-tinh hạng nhứt
- Ngày 28-11-1916 : Bội-tinh Vàng Hạng nhì
- Ngày 31-3-1920 : Ngũ-đẳng Bội-tinh (Cam-Bốt) - Ngày 02-1-1922 : Huân-chương Hàn-lâm Viện Pháp
- Ngày 25-5-1922 : Bội-tinh của nước Lào
- Ngày 06-02-1923 : Đại Nam Tứ-đẳng Long-bội-tinh - Ngày 11-03-1924 : Ngũ-đẳng Bắc-đẩu Bửu-tinh - Ngày 25-12-1925 : Bửu-tinh của Pháp
- Ngày 22-01-1926 : Kim-khánh của Pháp.
III. NGUYỄN-ĐĂNG-KHOA – VỊ ĐỐC PHỦ VĂN CHƯƠNG VÀ CÓ ĐẠO ĐỨC
Trong quyển « Sa-Đéc Xưa và Nay » nầy, ở nhiều chương chúng tôi có trình bày ít nhiều bài thơ của vị Đốc phủ sứ Nguyễn-Đăng-Khoa. Ấy là nhân vật lừng lẫy tiếng tăm trong giới quan-trường, và là người đã làm rạng danh tỉnh Sa-Đéc phần nào.
Ông Nguyễn-Đăng-Khoa sinh năm 1864 tại làng Tân Qui-Đông, tổng An-Thạnh-Hạ, tỉnh Sa-Đéc. Cuộc đời ông suốt 37 năm lăn lóc trong chính trường, tăm tiếng chẳng những vang dội vùng Vĩnh-Long, Sa-Đéc, mà ngoài Trung, Bắc cũng từng biết danh ông.
Vốn dòng-dõi thư hương, ông nối được nghiệp nhà, học hành uyên bác, có tài thao-lược, có tâm cơ, tánh tình lại
hiền hậu. Xuất thân làm giáo viên, rồi làm thông-ngôn. Lại được bổ tùng sự tại Tòa Thông-sứ Bắc-kỳ Hà-Nội. Trong nhiệm vụ nào, ông cũng tỏ ra thừa khả năng phụng sự.
Đến năm 1903, được thăng Tri-huyện. Năm 1908 thăng Tri-phủ. Năm 1916 thăng Đốc-phủ-sứ. Từ khi thăng Tri-phủ và Đốc-phủ-sứ, ông đã từng làm Quận-trưởng, trấn nhậm các nơi :
- Năm 1908 làm Quận trưởng Thủ-Đức (Gia-Định) - Năm 1909 làm Quận trưởng Hốc-Môn (Gia-Định) - Năm 1913 làm Quận trưởng Cái-Nhum (Vĩnh-Long) - Năm 1914 làm Quận trưởng Chợ-Lách (Vĩnh-Long) - Năm 1916 làm Quận trưởng Ô-Môn (Cần-Thơ) - Năm 1920 làm Quận trưởng Lai-Vung (Sa-Đéc)
Trấn nhậm quận nào cũng lưu để thành tích tốt, khiến lúc ra đi nhiều người còn thương mến, luyến tiếc. Điều làm vinh diệu cho ông :
- Triều đình ban tặng Kim-khánh, Kim-tiền.
- Chính-phủ Pháp, Cam-Bốt cũng tặng đủ thứ huy chương cho ông.
Ông lại có tâm hồn khoáng đại, thích thú thi họa cầm kỳ. Những lúc rảnh việc quan, ông thường ngâm vịnh làm vui, thi ca được truyền tụng khá nhiều. Ấy cũng là điểm đặc biệt của ông, trong hàng quan lại mà dào dạt nghệ sĩ tính, phong lưu tao nhã, khó có ai hơn ông buổi ấy.
Ông còn giữ được tâm hồn cao quý hơn nữa bằng cách biết trì niệm câu « Công thành danh toại thân nhi thối ».
Khi làm quan, ông cẩn thận dè lòng, sao không cho hổ tiếng thanh cần liêm chính. Lúc công danh đang phát đạt, thế mà ông biết rút lui, không quá đam mê vì bã lợi danh như bao nhà quyền quý khác. Đã thế ông lại còn hồi đầu hướng thiện, phát tâm tu niệm rất sốt sắng, thật là phẩm hạnh thanh cao.
Khi ông qui y đầu phật, rửa sạch trần tâm, ông cũng rất mực tín thành, trì chí chay lòng, chán ngán những khi bôn ba vòng tục lụy.
Ông có bài thơ tỏ chí khí, phát bồ đề tâm mến cảnh thiền :
« Thế sự thôi thôi nghĩ ngán ngầm
Đã đành tụng lấy kệ Quan-Âm
Then trời máy tạo đang nhen nhúm
Lữa bá lòng vương bỏ nính hâm
Ngày cởi xe mây dầu khiển hứng
Tối nhoi đèn nguyệt mặc ca ngâm
Công danh rày đã loan lòng bẽ
Bước thử Bồng-lai thử mấy tầm ».
IV. NGUYỄN-ĐĂNG-TRƯỜNG
Trong hàng mô phạm lão thành có tiếng tăm nhất ở Vĩnh Long, Sa-Đéc ngày trước đáng kể nhất có Nguyễn Đăng-Trường, ông sinh năm 1862, tại làng Tân-Qui-Đông, tổng An-Thạnh-Hạ, tỉnh Sa-Đéc.
Sớm biết theo trào lưu mới, ông bắt đầu học Pháp văn nơi trường tỉnh Vĩnh-Long từ năm 1877. Sau 5 năm, ông thi đậu ra trường, được bổ chức giáo tập, dạy tại trường tỉnh Gia-Định vào năm 1882. Rồi lần lượt đổi về dạy tại trường tỉnh Vĩnh Long, Sa-Đéc.
Siêng năng mẫn tiệp, tận tụy với chức vụ đào luyện đám hậu tiến, ông lần thăng Đốc học, rồi làm Thanh-tra các trường trong tỉnh Sa-Đéc.
Suốt 20 năm phục vụ trong ngành giáo-huấn, đến năm 1922 ông về hưu dưỡng lão.
Trong năm 1919 ông đã được hưởng thọ hàm Tri-huyện, nên tục gọi là ông Đốc-học Trường, hoặc ông Huyện Trường. Thân danh ông vang dội xa gần. Kể về huy-chương ông được trao tặng, có hai huy-chương giá trị :
- Ngày 1-5-1908 được thưởng giáo-dục Ngân Bội Tinh. - Ngày 10-8-1924 được thưởng Khuê bài Hàn lâm Viện Pháp.
Ông là nhà mô phạm lão thành, danh giá thế phiệt. Chẳng những tiếng tăm ông làm đẹp cho tỉnh nhà Vĩnh Long, Sa-Đéc mà nhiều nơi cũng đều nghe biết. Hàn môn sanh do ông đào luyện, được thành đạt kể có hàng trăm nhà tai mắt thượng lưu trong xã hội về sau. Như quý ông Bác-vật Lưu-Văn-Lang, Bác-vật Lương-Văn-Mỹ, Bác-sĩ Lê-
Quang-Trinh, Tiến-sĩ Nguyễn-Thành-Giung, hai ông Chánh án Nguyễn-Xuân-Quan và Nguyễn-Xuân-Giác, các vị Tri-phủ Nguyễn-Xuân-Hiển, Lê-Bá Trang, Trương-Minh-Giảng, Lê Quang-Tường, Ninh-Quang Hiến, v.v… Khắp trong chính trường, giáo-giới, làng-văn, làng báo, đâu đâu cũng có môn sanh ưu tú của ông góp mặt.
Ngày ông về hưu, các môn sanh của ông từ khắp bốn phương kéo nhau về Sa-Đéc thiết tiệc long trọng, tỏ lòng nhớ ơn ông đã tác thành nhiều lớp, rày đã nên danh phận với đời.
Ông Hòa-trai Nguyễn-Văn-Dần, tác giả « Sa-Đéc nhân vật chí » vốn cũng là một môn sanh ưu tú của ông, khi ấy có thơ cảm niệm :
« Công ân giáo dục thuở nào khuây
Nhờ có tôn sư khéo chỉ bày
Luân-lý đường xưa chăm dắt diếm
Văn tay cận đại sức mình gầy
Quân sư đôi chữ ngàn thu để
Tước lộc như ai cũng bởi tay
Cái nợ ba sinh toan bào bổ
Kính dâng trường thọ chúc mừng thầy ».
V. ĐẶNG THÚC LIÊN – BẬC DANH SĨ, BẬC Y-SƯ KHÉT TIẾNG TẠI SA-ĐÉC
Vào khoảng năm 1910, đồng bào Sa-Đéc khi ấy đều biết tiếng cụ Đặng-Thúc-Liên với tiệm thuốc bắc « Phước-Hưng Đông » do cụ sáng lập, tại đường mé sông thân trên đầu cầu sắt làng Vĩnh-Phước, thành phố Sa-Đéc.
Thật ra cụ Đặng-Thúc-Liên không phải là người sinh quán ở Sa-Đéc chính là quê vợ của cụ. Cụ sinh năm 1867, tại làng Tân-Phú (tục gọi là thôn Vườn-Trầu), quận Hóc Môn, tỉnh Gia-Định. Thân phụ của cụ là một vị đại thần triều Minh-Mạng, làm đến chức Án-sát-sứ tỉnh Bình-Thuận (Trung-Việt). Cụ hiệu là Mộng-Liên, nổi tiếng danh sĩ. Hán học uyên thâm, tinh thông y-dược, cụ được Vua Đồng Khánh trọng dụng. Nhưng được ít lâu, cụ cáo quan, trở về Gia-Định.
Bấy giờ, vì cụ từng giao du khắn khít với các cụ Phan Châu-Trinh, Phan-Bội-Châu, Huỳnh-Thúc-Kháng, khi cụ còn ở ngoài Bắc, do đó, nhà đương cuộc Pháp tình nghi cụ hoạt động cách mạng nên bắt giam một lúc. Một viên chức cao cấp người Pháp tên Mast, tùng sự tại Soái phủ Nam kỳ, mộ Hán văn, thấy cụ là bậc túc nho, liền vận động phóng thích cụ để cụ dạy ông học Tứ Thơ, Ngũ Kinh.
Sau đó, ông Mast lại tiến cử cụ với Soái phủ Pháp. Cụ được bổ làm Kinh lịch tỉnh Sóc-Trăng, chẳng bao lâu đổi về Sa-Đéc. Tại đây, cụ kết hôn với bà là người quê quán ở làng Tân-Qui-Đông.
Năm 1907, cụ trở lên Saigon, hợp tác với cụ Gilbert Trần-Chánh-Chiếu làm báo « Nam Kỳ ». Giai đoạn nầy, cụ và Trần-Chánh-Chiếu thật sự hoạt động cách mạng, và chủ trương mở mang kinh tế về vận dụng tài chánh vào những công cuộc ích quốc lợi dân. Đầu tiên cụ và Trần-Chánh
Chiếu lập một khách-sạn để hiệu là « Nam-Trung » (ở cuối đường De La Somme, nay là đường Hàm-Nghi) tại Saigon. Rồi lập riêng một tiệm thuốc Bắc hiệu « Nam-Thọ-Xuân » ở
số 95 đường Charner (nay là đường Nguyễn-Huệ). Đồng thời có cụ Nguyễn-An-Khương (thân sinh ông Nguyễn-An Ninh) cũng lập ra khách sạn « Chiêu-Nam-Lầu ». Ấy là những cơ sở kinh tài, và là nơi tựu họp mật của các nhà ái quốc.
Ít lâu cụ và Gilbert Chiếu lại lập một công ty kinh doanh khác gọi là « Minh-Tân Công-Nghệ », đặt trụ sở tại một căn phố ở đường Charner (Nguyễn-Huệ, ngang hãng xe Ranault cũ). Cố nhiên, dần dần tai mắt của người Pháp dòm ngó tình nghi. Mọi công cuộc phải đình trệ nửa chừng. Để giữ mình, cụ Đặng-Thúc-Liên lui về quê vợ ở làng Tân-Qui
Đông, Sa-Đéc, rồi quay theo nghề y-dược, mở tiệm thuốc bắc, hiệu tiệm là « Phước-Hưng-Đông », tại thành phố Sa Đéc như đã nói trên.
Một thời gian sau, cụ phó thác tiệm thuốc ấy và gia sản gồm vài mươi mẫu vườn đất, với 5 đứa con thơ cho vợ gìn giữ nuôi nấng. Rồi cụ xách va ly đi chơi và làm thuốc, khi thì dạo khắp lục tỉnh, khi thì thăm viếng cố đô Huế và Hà Nội. Đến khi mỏi gối chồn chân trên bước giang hồ, lịch lãm nhân tình thế sự, cụ trở lại Saigon viết báo. Tên tuổi cụ phô bày trên các báo : Nông cổ Mín Đàm, Lục-tỉnh Tân-văn, Công-luận báo, Đại-Việt tạp-chí, Đông-Pháp thời báo và Trung-lập báo.
Cụ dí dỏm tự trào :
« Họ đồn Đặng-Thúc-Liên chơi quá lố
Có hay không ? Giã ngộ đó mà thôi !
Gẫm bao lâu sống sót trên đời ?
Nhịn hoá dại, chơi đi, kẻo uổng !
Nhưng trách nhiệm chớ nên bỏ luống
Đức tài rèn đem cống hiến nhân dân
Làm sao cũng giữ tinh thần
Có giải trí, ăn, mần mới giỏi… »
Phong-lưu tài tuấn, cụ lại rủ các bạn tri-âm lập ra rạp hát nhỏ ở làng Vĩnh-Phước, tỉnh Sa-Đéc, chấn-chỉnh hát bội, rồi đưa sáng kiến áp dụng nghệ thuật đờn ca Trung-Nam bày ra diễn kịch, sau này gọi là cải lương. Chính do cụ đề xướng trước. Bắt nguồn từ đó, được manh nha sâu rộng trong các tỉnh miền Nam lần lượt lập gánh. Lúc bây giờ ở Mỹ-Tho, tại làng Vĩnh-Kim có bà Trần-Ngọc-Diện (tục gọi là cô Ba-Diện), người phụ nữ đầu tiên đứng ra lập gánh hát lấy tên là « Đồng-Nữ-Ban », diễn viên toàn là, phụ nữ con nhà gia giáo trong làng. Mục đích của bà lập gánh để tuyên truyền cho tư tưởng dân-tộc và cách mạng. Đoàn nổi tiếng với hai vở tuồng « Võ Đông Sơ » và « Giọt Lệ Chung Tình ». Đoàn hát « Đồng Nữ Ban » lưu diễn hai năm để lấy tiền giúp vào việc nghĩa rồi giải tán.
Ở Sa-Đéc sau đó ông André Thận cũng lập gánh, gọi là gánh Thầy Tư Thận tại thành phố Sa-Đéc. Rồi đó, nối đuôi là gánh hát của Thầy Năm Tú, gánh Văn-Hi-Ban-Huỳnh-Kỳ ở Mỹ-Tho, thời kỳ nầy cụ Đặng-Thúc-Liên được chánh phủ Pháp chú ý đến việc làm của cụ rất nhiều.
Năm 1918, cụ được Toàn quyền Albert-Sarraut mời cụ viết tuồng hát cổ-động quốc-trái. Cụ hiệp tác với cụ Nguyễn-Viên-Kiều đặt vở tuồng « Pháp-Việt nhứt gia, tích đức Gia-Long mộng trần ở Phú Quốc », nhờ Bá-Đa-Lộc về
Pháp cầu viện, v.v… Cụ làm thầy tuồng, hiệp cùng các nhà viết báo ở Saigon đóng tuồng đó tại nhà hát Tây (trụ-sở Hạ viện bây giờ) trong ngày 11-11-1918, ngày nầy là gánh hát trở về Saigon hát lúc đình chiến và đi khắp lục tỉnh, gọi là gánh Bầu Rô (do tên Toàn-Quyền Sarraut gọi tắt là RÔ).
Đến năm 1931, cụ Đặng-Thúc-Liên xin được phép xuất bản tờ « Việt-Dân-Báo ».
Năm 1934, nhằm mục đích bảo vệ Đông-Y-Sĩ đã nhiều phen điêu đứng, cụ đã dày công sáng lập hội Việt-Nam Y Dược.
Lúc quân Nhật chiếm đóng Đông-Dương, để tránh nạn bom tàn khốc ném xuống Saigon Chợ-Lớn mỗi ngày, cụ đưa gia đình trở về quê vợ ở làng Tân-Qui-Đông, châu thành Sa Đéc.
Năm 1945, đêm 10 Juillet cụ cảm mạo rất nặng, dây dưa nằm liệt hơn một tháng, đến đúng ngọ ngày 16 Août, cụ từ trần tại Sa-Đéc và chôn cất tại làng Tân-Qui-Đông, hưởng thọ 85 tuổi.
Cụ Mộng-Liên Đặng-Thúc-Liên là nhà đạo đức, văn chương triết học cao thâm, Nho-Y gồm đủ. Cụ cũng là một nhà ái quốc tiền phong, một ký giả tiền bối đáng kính mến.
Cụ để lại cho nhiều tác phẩm giá trị :
- Quốc-Văn hồn
- Cao-Hoàng-Đế diễn ca, tức Gia-Long phục quốc. - Trương-Vĩnh-Ký hành trạng
- Hán văn thi tập
- Việt-âm thi tập
- Tri y tiện dụng
Bình sanh cụ thích giao tiếp với thanh niên, theo câu :
« Tối hảo lão thanh niên
Thả thông tân cựu học
Phong lưu danh lợi không
Vô ngã tiện thị túc ».
Nghĩa :
« Rất tốt già như trẻ
Văn chương cũ mới thông
Phong lưu danh lợi đủ
Ta có cũng như không ».
VI. NGUYỄN QUANG DIÊU – CHÍ SĨ LÀM VINH DIỆU VÙNG TÔNG SƠN SA-ĐÉC
Cụ Nguyễn-Quang-Diêu hiệu Tử-Ngọc, biệt danh Trần Cảnh-Sơn, Nam-Xương bí danh Trần-Văn-Vẹn, sanh tại Cao Lãnh (tỉnh Sa-Đéc), sau này Cao-Lãnh đổi thành tỉnh lỵ Kiến-Phong, năm Canh-Thìn 1880. Mất tại Vĩnh-Hoà (Tân Châu) năm Bính-Tí (1936). Cuộc đời tuy không dài lắm của cụ, nhưng cụ đã lưu lại nhiều thành tích đáng kể trong lịch sử cách-mạng và lịch sử văn-học Việt-Nam.
Ngoài nơi sanh và nơi mất của cụ, làng Tòng-Sơn (thuộc quận Lấp-Vò, tỉnh Sa-Đéc ngày nay) còn là nơi quê vợ cụ, có lắm lúc dính liền với Tòng-Sơn, và ngày nay, hài cốt cụ đã được bốc lên từ Vĩnh-Hoà để mang về cải táng tại Tòng-
Sơn (Sa-Đéc). Cho nên viết về Sa-Đéc mà thiếu đề cập nhân vật Nguyễn-Quang-Diêu, sẽ bị xem là khuyết điểm to.
Thuở còn trẻ, Nguyễn-Quang-Diêu đã nổi tiếng là người gan dạ và thẳng-thắn. Nhà vốn dư ăn, thân phụ lại là người có học, có địa vị xã hội quan trọng trong vùng, nên cụ sớm được theo đường nghiên bút.
Năm 18 tuổi, rời quê nhà, cụ đến thụ giáo với cụ Tú-tài Trần-Hữu-Thường ở Phú-Thuận (Châu-Đốc). Tú Thường là bạn đồng học với Thủ-khoa Huân ; không đánh giặc như cụ Thủ khoa, nhưng cụ Tú rất ghét Tây và quyết giữ khí tiết của một nhà cao ẩn. Học trò của cụ Tú Thường đông đến hàng ngàn, khắp từ các tỉnh miền Tây về nghe sách nơi cụ. Nguyễn-Quang-Diêu tỏ ra rất xuất sắc : giàu lý luận, sành thi ca, thông suốt điệu nghĩa Nho giáo. Nhưng cụ không lấy vậy làm thích, mà hằng cho cái trò điêu trùng khắc triện không bằng cái chí xẻ núi lấp sông của các bậc anh hùng. Nên tuy theo học ở trường, cụ vẫn theo dõi tình hình chính trị.
Năm 1910, cụ đúng 30 tuổi, bỏ học, chính thức đứng ra xướng xuất phong trào bài Tây phục quốc. Cụ cổ võ cho phong trào Đông-du của cụ Phan-Bội-Châu. Nhiều người theo cụ, đứng ra vận động và làm thành một nhóm có thế lực quần chúng, khiến Pháp giật mình. Họ lùng kiếm cụ và từ đó cụ phải ẩn tránh luôn.
Tháng 5 năm 1913, Nguyễn-Quang-Diêu được các đồng chí vận động tiền bạc đưa cụ xuất dương. Cụ liên lạc với cụ Cường Để tại một địa điểm bí mật ở Long-Xuyên trước khi
lên đường. Mục đích của lần xuất dương nầy là để lãnh « Chỉ-tệ tín phiếu » mua vũ khí, đưa thêm một số du học sinh tìm gặp cụ Nguyễn-Thần-Hiến đang hoạt động tại Trung-Hoa. Phái đoàn gồm 12 người do cụ Nguyễn-Quang
Diêu hướng dẫn. Cụ Nguyễn-Quang-Diêu đã tiếp xúc với cụ Nguyễn-Thần-Hiến, Huỳnh-Hưng tại Hong-Kong và dự định một chương trình hoạt động nội ngoại hô ứng. Nhưng sinh hoạt của phái đoàn đã lộ tiếng. Cảnh sát Anh tại Hong-Kong đến khám nhà Huỳnh-Hưng, bên kia đảo Cửu-Long, bắt được 13 quả tạc đạn, một số tuyên truyền phẩm nên tịch thu tang vật và bắt luôn cả bọn. Hôm ấy là ngày 16 tháng 6 năm 1913.
Trong lao, Nguyễn-Quang-Diêu lại gặp Kỳ-ngoại-hầu Cường-Để, vốn cũng từ Tam-Kỳ trở sang Hong-Kong và bị bắt. Nhưng cụ Cường-Để được Nguyễn-Háo-Vĩnh và Lâm Cần mướn luật sư lãnh tại ngoại rồi trốn luôn. Riêng trong nhóm Nguyễn-Thần-Hiến, Nguyễn-Quang-Diêu, Đinh-Hữu Thuật… đều bị giải về cho Tây tại Hà-Nội.
Trong bài Hà Thành lâm nạn, cụ Nguyễn-Quang-Diêu viết :
« Luật áp giải dã man đã quá.
Ỷ cường quyền xiềng cả chân tay
Hoả thuyền chạy suốt ba ngày
Hải-Phòng đổ bến, giải ngay Hà-Thành ».
Tại đây, Nguyễn-Quang-Diêu bị kêu án 10 năm khổ sai. Cụ bị đưa sang Pháp rồi sau đó, đày ra Guyane (một thuộc địa của Pháp ở Nam-Mỹ).
Ở đây, người ta bắt các nhà cách mạng Việt-Nam lên rừng đốn cây cưa củi… làm những việc nặng nhọc của hạng tù đồ. Tuy nhiên, các cụ không vì vậy mà thối chí, trái lại vẫn coi thường khổ cực và vẫn quyết tâm hy vọng một ngày quốc vận vinh quang.
Năm 1917, sau khi bí mật liên lạc với một thương nhân Trung-Hoa, cụ được họ giúp đỡ vượt ngục trốn sang Trinidad. Đó là một hải đảo thuộc Anh mà người Pháp gọi Trinité và người Tàu gọi Trì-Lí-Ni-Nich-đảo. Họ giúp Nguyễn
Quang-Diêu có cơ sở làm ăn tại một chi điếm thương hội.
Từ đó, ngày làm việc thương mại, đêm học tiếng Anh, cụ Nguyễn-Quang-Diêu vẫn đăm đăm hướng về Tổ-quốc theo dõi tình hình chính trị. Cuối năm 1920, Nguyễn-Quang Diêu rời Trinidad để sang Tàu. Cụ liên lạc được với cụ Nguyễn-Hải-Thần và một số đồng chí cách mạng khác. Nhưng vẫn chưa làm được gì. Cụ buồn bực, lui về Tứ-Xuyên làm tài-phú cho một hiệu thuốc Bắc lớn để sinh nhai tạm bợ. Ta hãy nghe tâm sự cụ hồi qua bài Trung thu ngoạn nguyệt mà chính cụ đã viết :
« Bao độ tròn trăng hội Á-Âu.
Mà người cay đắng mấy mươi thâu… ! »
Năm 1926, cụ trở về nước và hoạt động khá mạnh ở các tỉnh Sa-Đéc, Châu-Đốc, Long-Xuyên. Cụ đã sáng tác nhiều tuyên truyền phẩm kháng Pháp và cụ đã bị lính kín Pháp truy nã quá gắt. Vài năm sau đó, cụ đành phải giả dạng một thầy đồ về ngồi dạy chữ nho tại làng Vĩnh-Hòa thuộc biên thùy Việt-Miên.
"""