"
Rượu Đêm - Miêng & Xuân Sương full mobi pdf epub azw3 [Tập Truyện Ngắn]
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Rượu Đêm - Miêng & Xuân Sương full mobi pdf epub azw3 [Tập Truyện Ngắn]
Ebooks
Nhóm Zalo
RƯỢU ĐÊM
Tác giả: Miêng + Xuân Sương Ebook: @nguyenthanh-cuibap
Nguồn text: Internet
BÁNH XÈO
B
ánh xèo là món bình dân nhiều người ưa và mọi vùng trên khắp Việt Nam đều có, chỉ khác nhau bề dày, bề ngang và gia vị. Ở đây tôi viết về bánh xèo Quảng Ngãi. Từ tỉnh đi về cửa đông theo con đường độc đạo dẫn xuống Thu Xà cách 10 cây số, là nơi tôi cất tiếng chào đời, nghiên bút sách đèn cho biết i tờ để hôm nay nhẩn nha kể về món bánh xèo quê nghèo của tôi, ngon nhất nước.
Nhiều chiếc bánh xèo đã góp thành xương thịt tôi và mỗi lần miên man nghĩ đến nó thì không thể nào quên mái hiên ấm cúng của bác Vàng. Bác Vàng (chẳng bao giờ thấy bác trai đâu cả và lạ chưa, suốt tuổi thơ không bao giờ đặt câu hỏi mà hôm nay tự nhiên chợt nhớ) mảnh dẻ hiền lành như bất kỳ bà Việt Nam nào thuở ấy, là người duy nhất bán bánh xèo ở thị trấn Thu Xà. Bảo tả căn nhà như thế nào thì chịu, nhưng góc bếp bác đổ bánh xèo thì tôi nhớ như in. Là hiên tranh thâm thấp nghiêng nghiêng, chỗ giáp tường suýt đụng nền đất nện bao đời, rắn rỏi đen bóng nhờ hơi hướm dầu mỡ bánh xèo, đẹp hơn tô điểm xi măng. Mấy cây tre ngang dọc chị em tôi thường thơ thẩn nhìn lên trong khi chờ bánh chín, cứ thao láo mắt tre chăm chăm xuống cái khuôn đang lèo xèo dầu mỡ, chắc rất thèm thuồng. Tranh tre ám khói ôm chặt nhau bảo vệ góc bếp có cái khuôn bánh, là nồi cơm nuôi bác Vàng và Hồng đôi mắt rất to, bạn cùng tuối cùng lớp với tôi.
Tên là xèo mà nó chẳng xèo, nó dòn rụm, vàng rươm, thơm lừng, bóng loáng mà không ngậy, mỏng manh thanh tao duyên dáng kể gì, đường kính có lẽ tối đa 12 xăng ti mét, chung quanh bờ cong cong
lên như môi con gái nũng nịu hờn dỗi, rất ư điệu hạnh. Kiểu này trong Nam gọi là bánh khoái, mà ăn không thấy khoái bằng bánh xèo Thu Xà. Xơi tái hai ba chiếc một hơi, cái bao tử nhỏ đã nghẹt mà miệng còn thèm nhai, mắt còn thèm nhìn, mũi còn thèm hít. Bác Vàng thong thả, nhất là những bữa rực trăng mùa nóng thì bác chẳng khác nào kỹ nữ nhẩn nha cho khách ở lại cùng em thêm chút nữa với vài chiếc bàn con kê chéo hiên ngoài. Trăng không nằm sóng soải trên cành liễu mà cuộn mình vào mấy lá rau thơm bao quanh thân thể ngà ngọc của bánh xèo, lao chao trong chén nước mắm cay cay lừng lựng mùi ớt tỏi chanh đường… Đâu đấy ngoài vườn tiếng dế rộn rã đồng ca, tiếng cóc líu ríu trò chuyện với trời, tiếng mèo ngao ngáo gọi tình, tiếng chó giỡn trăng xa xa vọng lại, tất cả tạo thành bản nhạc đồng quê đằm thắm ngọt ngào đẩy đưa miếng bánh xèo êm ả phiêu lưu về cõi vĩnh hằng.
Thơ mộng là thế nhưng ánh trăng thì vô số mà góc bếp bác Vàng xì xèo dầu mỡ ngạt khói là duy nhất trên đời nên nó vẫn chiếm lòng tôi góc khuất ưu tiên. Hai tay mảnh khảnh bác dịu dàng điệu nghệ gắp miếng thịt ba chỉ chấm vào chén dầu, quẹt đều một vòng mặt khuôn đã thấm đẫm chất béo, thả thịt xuống, bỏ thêm con tôm (mỗi thứ chỉ nằm hàng đầu con số đơn vị, thanh mãnh nghèo nàn thế chứ làm gì ê hề thô lậu như bây giờ). Trong khi chờ tôm thịt chín, bác Vàng quậy đều nồi bột pha loãng đặt kế bên như hoạ sĩ trộn màu rồi thong thả kéo cái vá lên, đổ vào khuôn. Bác cầm cán khuôn xoay một vòng cho bột trải nằm đều, đậy nắp vung, sửa lại vài cây củi. Bác nhìn mình cười cuời tán chuyện năm ba câu, dở nắp vung, cầm que tre suýt mỏng bằng giấy học trò nạo chung quanh cho bánh tróc ra, lại rưới thêm chút xíu mỡ, bỏ lên mặt bánh lơ thơ năm ba cộng giá, lại đậy nắp vung. Không đồng hồ quả quýt quả cam bên cạnh nhắc nhở thời khắc trôi qua mau chậm thế nào, mà thói quen cứ như vòng tuần hoàn thiên nhiên thời tiết, chút xíu sau bác Vàng giở
vung, mặc niệm vài giây, rồi, bánh lúc này hoàn hảo, rưng rức vàng tươm. Bác Vàng gập đôi, nhón ra đặt vào đĩa, ngồi tại chỗ vươn tay đưa là tới bàn khách ngồi. Cái bánh xèo dửng dưng mà nồng nàn, khép nép mà lộng lẫy, nhỏ nhắn mà uy nghi, làm gì nhét cho lắm thứ vào rồi hở hang toe toét như bây giờ. Dưới ánh đèn vàng vàng, ánh lửa vàng vàng, khung cảnh chái bếp giản dị đơn sơ màu nâu đen, bác Vàng áo bà ba trắng nhờ nhờ, là một bức tranh huy hoàng tráng lệ. Bác nhịp nhàng thảnh thơi và ăn bao nhiêu bánh thì bác ngồi tại chỗ bấy nhiêu lâu, như thể không một nhu cầu bản thân nào dám làm rộn bác giờ phút thiêng liêng ấy. Trong góc bếp ánh lửa nhảy múa bập bùng, tiếng dầu mỡ lao xao, tiếng tôm thịt lẫng cẫng tránh nóng, tiếng tranh tre thỉnh thoảng răng rắc đòi ăn, tất cả đã tháp tùng những miếng bánh dòn tan chộn rộn trôi xuống cổ với niềm khoái lạc vô biên của người được may ngồi trong bếp ấy.
Bánh xèo quê tôi nếu thưởng thức vào mùa thu lành lạnh thì đặc biệt hơn nem công chả phụng (là tướng thế chứ làm gì được kinh qua món vua chúa này), ăn trời hè cái thú dám giảm đi phân nửa. Vì mùa thu cải non bắt đầu ngó lên, đời phù du vài tuần vội hết. Cây cải ẻo lả nhỏ xíu chưa tới năm phân, ba vòng thân thể chỉ to hơn sợi chỉ, trắng muốt trong veo, vài chiếc lá màu cẩm thạch e lệ kiểu cách ngẩng lên, mùi thoang thoảng nồng nàn gợi cảm, vị the the nhè nhẹ gợi tình. Vậy thôi, mà bánh xèo thiếu nó là thiếu đi sức hút. Với cộng diếp cá đậm đà nhiều người ăn không được, cộng ngò cộng quế thơm nức vườn ruộng nhà quê, tất cả giúp cho món bánh xèo quê tôi không nơi nào trên thế gian sánh kịp. Và nước chấm, làm gì đặc sệt những bột với thịt băm như thời nay khiến bánh nặng trịch như chì. Chỉ là mắm nước chẳng biết đủ ba mươi lăm độ chất đạm hay không, pha chế ớt tỏi chanh đường một cách thần sầu, vừa ăn không chịu được. Người ta bảo cái gì ngon cũng nhờ nước chấm. Bác Vàng khéo tay pha nước chấm vừa đủ làm dậy hương vị bánh
xèo, nó không thể thêm bớt một giọt mắm, không thể thêm bớt một tép chanh, không thể thêm bớt một hạt đường nào. Vậy mới ghê. Rõ là nghệ thuật.
°
Rồi thời gian qua đi và mỗi người mỗi ngã từ khi Thu Xà không còn an ninh nữa. Sau này sống xa quê tôi chẳng biết gì về bác Vàng ngày nọ. Thỉnh thoảng về nhà, các cháu lại dẫn đi ăn các món đặc sản nhà quê. Chủ yếu là gion. Sau đó cơm gà, tiếp theo bánh xèo - bánh xèo Quảng Ngãi do dân chính tông sản xuất.
Chỗ này phải đặt trước, gia đình khoảng 10 người thì họ chỉ dành riêng cho mình, không tiếp ai khác. Sang thế chỉ vì không đổ kịp mặc dầu tay chị chủ thoăn thoắt trên hai mặt lò. Ngồi ngoài vườn, dưới tàn cây mận tới mùa lủng lẳng trái. Cây cầu nhỏ bắt ngang con lạch nước róc rách chẳng biết từ đâu. Vài con cá kiểng tung tăng, vài hòn đá ẩn hiện giữa giòng cho thêm phần sông suối thực. Tôi nhìn quanh tìm hơi hướng bác Vàng. Làm gì có. Chị chủ đứng đổ cả chồng bánh chất trên mấy đĩa. Gần hết bột mới dọn ra. Nhớ xưa bác Vàng xong cái thứ ba mới cho chị em tôi bắt đầu ăn, như vậy cái thứ tư thứ năm sẽ vừa kịp chín giòn.
Bánh dọn ra tôi chưng hửng : sao mà nó trắng hêu hếu và mềm nhũn mặc dù cũng nhỏ cỡ bánh thời xưa. (Tôi chợt liên tưởng đến nhiều ông Tây bà đầm có màu da trắng tê tái như vầy, mùa hè bôi đủ loại kem, mỗi ngày phơi hai mươi lăm giờ trên bãi biển mà da chỉ phơn phớt hồng, rồi vài ngày sau đã trắng tinh trở lại… Nghĩ đến đó tôi lại nghẹn ngào ăn chẳng thấy ngon, lại nhớ đến bánh xèo bác Vàng da diết). Ở đây sân vườn lát gạch, không phải nền đất nện loang loáng ánh lửa uốn éo reo vui chọc ghẹo đít khuôn. Ở đây chị chủ nhà tròn trịa đứng, không mỏng mảnh ngồi trên cái đòn ghế nhỏ
xíu đụng đất như bác Vàng. Ở đây lò ga, không than củi cây dài cây ngắn thỉnh thoảng phải sửa đổi vị thế cho lửa bùng lên xẹp xuống, không có đống tro ấp ủ quanh chân ông bà Táo. Cái kiềng bác Vàng thay ba đòn đất sét là đã tiện lợi lắm rồi. Bác Vàng thong dong chỉ có một khuôn nên bánh nóng hổi vừa thổi vừa ăn trong khi bên ngoài có thể trời đang rả rích và gió tháng chín tháng mười hú hí trên cây…
Thế đấy, kỷ niệm êm đềm tuổi thơ chúng tôi với bánh xèo bác Vàng là duy nhất, nó không còn nữa nhưng vẫn ủ kín một góc tâm hồn. Và niềm háo hức ăn bánh xèo của tôi cũng theo bác Vàng đi đâu rồi, bởi đã thử nhiều lần vẫn không tìm lại cảm xúc ẩm thực như xưa - Có cái gì đệ nhất trên đời mà hiện diện hai nơi hai thời điểm? Chắc bà con cho là tôi cường điệu. Nhưng bình tĩnh thử nghĩ lại xem, có tình cảm quê hương nào tận đáy lòng mà không ít nhiều cường điệu?
Xuân Sương
Paris, Nov. 2008
BÓNG CHÂN
N
hà xoay lưng vào bìa núi. Con đường nhỏ ngoằn ngoèo bên sườn cắt mái đá xám làm đôi. Ruộng hoa cải dầu vàng tươi bao quanh nhà và trong sân, nào mẫu đơn, nào mận nào đào rực hoa cạnh rào xanh mượt như tấm thảm Ba Tư đầy màu sắc.
Cô gái như tìm gặp căn nhà trong mơ, đảo mắt chiêm ngưỡng chung quanh lần nữa trước khi đưa tay nhấn nút chuông ẩn dưới vòm che sứ trắng. Hồi hộp vu vơ mặc dù không phải lần dầu tiên đi thuê nhà xứ lạ. Tiếng chim líu lo trên cây bên đường nghe vui tai và xa xa đâu đó, con cú cất giọng đùng đục như thể cằn nhằn ngủ suốt mùa đông chưa đẫy giấc. Cô hân hoan ngửa mặt lên đón nắng khép hờ mi, mỉm cười vô tư với buổi sáng xuân bình an thơm mùi hạnh phúc...
- Bonjour, mademoiselle.
Cô gái giật mình, chào người đàn ông đứng tuổi đang nhoẻn cười và qua lớp kính, ánh mắt thẳng thắn dìu dịu của ông khiến cô yên bụng. Màu da sậm với mái tóc muối tiêu hơi bồng bềnh ôm khuôn mặt xương xương khắc khổ. Có cái gì nơi ông gợi lên lòng tin cậy dễ gần. Cô nói ý định mình, ông tự giới thiệu là quản gia và đưa cô vào nhà trên lối đi nở vô số uất kim hương và iris...
- Cô là người Việt Nam ?
Ông quản gia bất chợt hỏi. Rồi không chờ câu trả lời, trỏ tay vào ngực :
- Vợ tôi cũng người Việt. Còn tôi chà và.
Thấy vẻ ngỡ ngàng của cô gái, ông cười vui vẻ tiếp :
- Tức là người Ấn Độ, bán vải ở Sàigon. Cô còn trẻ quá, chắc không biết.
Bỗng nhớ đến câu hát ''Chà và ma ní tí te, Cái bụng chè è con mắt ốc bươu'' sao mà khác xa với người trước mặt, cô gật gật đầu nhìn ông, hồn nhiên nở nụ cười thân mật. Bốn bực thềm men đỏ dẫn vào căn phòng khách rộng rãi bày biện kiểu xưa. Cô thầm nhủ nếu có Thu Hà ở đây, chị sẽ nói mình nghe bộ xa lông này, chiếc bàn ăn và tủ sách cao nghệu sát tường kia thuộc thời Louis thứ mấy. Nhưng chắc vẫn không ghê gớm bằng hai tủ cẩm thạch chị đặt mua từ bên Tàu. Lại còn những bức tranh và vô số đồ xưa ! Ồ, một ngày nào mình sẽ cố thuyết phục Thu Hà cùng lên đây để chị ngắm nhìn và đánh giá. Cái gì chớ đồ cổ là chị mê, mình quê mùa nên ngược lại...
- Trên lầu, mời cô...
Ông đưa tay về phía chiếc cầu thang gỗ bóng nhẵn đã bắt đầu hơi lõm. Bước rất khẽ nhưng cũng nghe tiếng gót giày vang dội khắp nhà, cô chợt e ngại mình khuấy động một cái gì đang yên tĩnh lắm...
Cô gái. Tuần thứ nhất.
Nhận phòng sáng chúa nhật, chiều cô dạo phố. Thành phố nhỏ miền núi trông thân mật dễ thương, nhà lên xuống theo triền dốc và hầu hết là cửa hàng, mùa này thưa khách. Khác với các vùng biển hay đồng bằng miền Nam, ở đây các bà không tụm năm tụm ba,
cũng chẳng ngồi trước hè nói vọng qua bên kia hàng xóm, con nít không chơi banh ngoài đường và các ông già không đánh boules trên khu đất trống. Cô tha thẩn suốt buổi chiều nhìn ngắm mọi điều trước mắt. Một thành phố sống nhờ vào du khách không bao giờ thấy ai lạ mặt. Thầm nghĩ trên xứ người mà mình không cảm thấy là ngoại quốc như năm kia về quê hương...
Ra khỏi khu phố nhỏ, hai bên đường mọc đầy hoa dại, loại hoa miền núi chẳng bao giờ biết mùi cửa kiếng. Ánh vàng rực mặt trời buổi chiều hãy còn lưu luyến rong chơi và vài con chim chiều xa xa trên bầu trời trong vắt. Trong lòng thung lũng, hai chiếc deltaplanes đỏ nổi bật giữa màu rừng, đang chao lượn. Cô nghe tiếng sỏi lạo xạo dưới chân như tiếng trẻ con đùa nghịch nghiến răng và tiếng lá rì rào trong gío to nhỏ tự tình. Hít thật sâu bầu không khí trong lành để chuẩn bị sức lực cho ngày mai bắt đầu làm việc.
Căn nhà chìm trong yên tĩnh hoàn toàn khi cô về sau bữa ăn tối. Chỉ phòng ông quản gia còn sáng, và âm thanh đài truyền hình yếu ớt vọng ra. Cô lên cầu thang rất khẽ...
Người đàn ông. Tuần thứ nhất.
Theo lời ông quản gia thì cô ấy đẹp khoẻ mạnh và vui vẻ tự nhiên. Sáng nào cô cũng chay bộ lên đồi sau nhà rồi về tắm xong là đi mãi tới tối mịt mới về. Cả tuần qua ông thấy cô mỗi sáng nhưng chỉ có dịp trò chuyện vài lần trước khi cô trở lại Paris.
Tôi vào phòng buổi chiều hôm đó, lười biếng ườn người lên giường với chăn gối của cô. Hơi hướm đàn bà hãy còn phảng phất ngập ngừng khiến lòng tôi nao nao ngây ngất. Cố tưởng tượng hình dáng cô nằm : nghiêng, hai chân hơi co ôm chiếc gối vào lòng hay thẳng, duỗi dài chân và tay đặt hờ lên ngực ? Và mắt nhìn đâu, phía
cửa sổ trước nhà với xa xa ngọn núi mờ trong mây hay phía cửa sổ bên hông với đỉnh rừng phong đang mùa đơm lá ?
Sáng hôm sau nắng mai trườn lên người đánh thức tôi giọng ấm áp nhẹ nhàng. Bở ngỡ trong căn phòng hầu như xa lạ, tôi đảo mắt nhìn quanh. Chiếc mũ đàn bà móc trên tường nhìn đăm đắm muốn kể niềm vui suốt tuần đã theo cô tới đâu và bảo vệ mái tóc làn da thế nào. Tôi mỉm cười với nó, làm quen. Những cộng lát sơn trắng tranh cãi gì đó với lát màu xanh biển, phải nhờ giải lụa màu trời làm trọng tài đứng giữa. Giải lụa nhu mì, vừa hoà giải hai màu lát đa đoan vừa nháy mắt mỉm cười với tôi trong ánh nắng...
Cô gái. Tuần thứ hai.
Cô trở lại vùng núi chiều chúa nhật tuần thứ ba của tháng. Trên bàn hãy còn vài tờ báo địa phương và quyển Thằng Gù Nhà Thờ Đức Bà của Victor Hugo. Trên bệ sưởi, hai bức tượng nhỏ kiểu Hy Lạp đầu người mình thú, ông quản gia bảo của người thuê phòng xen kẽ với cô. Quái, nhà này, ngay cả người thuê cũng có "gu" cổ điển !
Cô sắp các thứ ấy vào một góc vì không sính những hình thể bất thường dù là nghệ thuật. Đối với cô người đẹp là người cân đối, không phải một khuôn mặt nhỏ xíu nằm chót vót trên chiếc cổ dài ngoẵng kiểu Modigliani. Cũng rút cái đèn đọc sách đầu giường dẹp đi. Kiểu cái đầu người méo mó màu đen để ánh sáng toát ra từ miệng và hai hốc mắt làm cô ghê người. Và khi tháo tấm khăn giường với bao gối có hình cá sấu há miệng thật lớn, gớm ghiếc, cô nhún vai mỉm cười...
Cô lại tới sân golf. Tuần này phải nhắm địa thế để làm ít nhất hai cái hồ nhân tạo cho parcours. Parcours ba cây số hai là quá dài, với
đường núi lên xuống gập ghềnh chóng mệt. Cô dự định sẽ bắt đầu parcours từ tee thứ hai, chỗ tee thứ nhất sẽ sửa lại thành nơi practice. Như vậy hợp lý hơn, banh sẽ văng ngược lên chỗ dốc và phải phá mấy bụi rậm cho banh không mất. Tiếp theo phải tính farway cần bao nhiêu đất lấp những chỗ lồi lõm đầy sỏi làm bước đi khập khiễng khó chịu. Golf là môn thể thao thư dãn, sau khi đi một vòng parcours người ta phải thấy thoải mái dễ chịu. Ngoài ra phải đào thêm một bunker và chữa lại cái đã có, vừa nhỏ vừa dốc quá.
Và cô bước đi dưới nắng, giấy bút trên tay, vừa chỉ trỏ cho hai đồng nghiệp đi bên cạnh.
Người đàn ông. Tuần thứ hai.
Tôi không phật lòng khi thấy đồ đạc mình bị gom vào một xó, bơ vơ dưới đất. Vây mà khi bày ra, tôi chỉ hy vọng chút nghệ thuật sẽ làm vui lòng cô gái thuê nhà. Cũng lịch sự không dẹp bức tượng Đức Mẹ bày trên bệ sưởi. Người có niềm tin vào thánh thần, theo tôi, vẫn là người đạo đức.
Nhìn quanh phòng : bình hoa hồng đỏ sẫm vẫn còn tươi trên bàn, đôi giày đi núi màu da bò nằm cạnh chân giường, sọt rác đầy giấy nháp... Có cảm giác như người ăn vụng, tôi hôn mấy đoá hoa và nghĩ đến đôi môi son trẻ. Ôm đôi giày vào lòng vuốt ve đôi chân xinh đẹp của cô. Và cầm những tờ giấy kéo từ sọt rác đầy hình, mỗi tờ vẽ một mẫu đất với nhiều ghi chú. Tôi ôm chúng vào lòng như ôm lấy nghị lực và sức sống của cô... Bỗng dưng tôi ao ước được gặp. Thèm được nhìn thấy cô mặc dù trong thâm tâm chẳng biết để làm gì. Chưa bao giờ tôi thoải mái khi đối diện với đàn bà. Thực ra tôi chẳng thích trò chuyện với ai cả. Thường gửi gấm nỗi lòng mình cho mây chiều hờ hững chẳng biết về đâu. Thường tâm sự với sương mù vây quanh đỉnh núi mỗi sáng nắng chưa về hay mỗi chiều nắng
đi vội vã. Và xa xa, những mây những sương với hình thù kỳ ảo chập chùng sẽ che dấu nỗi niềm tôi rồi mang đến mở ra cho người nào đọc được cùng ngôn ngữ- thứ ngôn ngữ mà đối với cô hẳn rất xa lạ. Và tôi đâm ra thèm muốn thứ tiếng cô dùng...
Buổi chiều ngồi hằng giờ nhìn mông lung qua cửa sổ. Ráng ửng hồng các bià mây và xa xa, đỉnh núi nhô lên thân cây nhỏ trơ trọi, cô đơn. Tôi như thân cây kia, lúc nào cũng xa cách mọi người. Nhưng nếu nó trốn chạy, vượt lên cao rồi buồn rầu ngạo nghễ nhìn xuống nhân gian có bao sinh linh đang sống đang chết- thì tôi, một con người tầm thường vượt lên được tới đâu và nhìn xuống cái gì, ngoài sự cô đơn vừa cao khiết vừa quằn quại của mình ? Bởi tôi sống mà một nửa đã chết rồi, niềm vui nỗi buồn chẳng ảnh hưởng gì tới nữa. Mọi thứ tình cảm đều mơ hồ không thật. Vậy mà tôi lại mong gặp người con gái thuê phòng, dù chẳng biết để làm gì ! Chắc tại ý nghĩ ra vào cùng một cửa, nằm cùng trên một giường- còn có sự đụng chạm nào gần gũi thân mật hơn thế nữa ?
Cô gái. Tuần thứ ba.
Vừa bước vào phòng, cô ngạc nhiên thú vị thấy bình hoa hồng tươi thắm trên bàn (mà sáng hôm sau được cám ơn, ông quản gia tỏ vẻ bối rối nói không phải của mình). Đống đồ "nghệ thuật" vẫn nằm lặng lẽ ở góc nhà và thêm vào căn phòng là cái máy truyền hình, máy vidéo với cuốn phim Cái Trống theo tiểu thuyết của Günter Grass. Vở Con Mèo Cái Trên Mái Tôn Cháy Bỏng của Tennessee Williams nằm ngơ ngáo trên mặt bàn đêm. Máy nghe nhạc của cô được đặt cẩn thận trên chiếc tủ nhỏ cạnh giường.
Cô lại tới sân golf. Tuần này phải nhắm địa thế gần cổng ra vào để nới rộng căn phòng vừa cho thuê dụng cụ, vừa thu tiền. Căn phòng hiện tại nhỏ như cái hộp chỉ vừa đủ chỗ cho cái bàn con với
khoảng chục bộ đồ golf. Ngộ nhỡ trời mưa thình lình thì khách nấp vào đâu ? Khách khát nước phải tìm chỗ nào ? Khách cần điện thoại ? Và cần phải có máy cho thuê banh...
Cô dạo một vòng xuống Saint Martin, ngôi làng e ấp nằm lọt trong thung lũng đẹp nên thơ. Đường vòng khu phố râm bóng mát, nhà cửa khang trang và các loại hoa muôn màu nằm ngoan ngoãn như con nhà lành trong vườn rào thấp. Con đường phố chính hẹp dốc theo triền núi, giữa lòng đường có rãnh, nước suối chảy xuống trong veo mát rượi. Nhà hai bên thường là cửa hàng cho du khách, trông kín đáo, trang nhã và thân tình. Nhưng suốt làng chỉ có một bảng quảng cáo sân golf !
Người đàn ông. Tuần thứ ba.
Tôi sung sướng săm soi mẫu giấy nhỏ trong tay, tim muốn nứt ra. Cô viết cho tôi ! Nét chữ mềm mại mà mạnh mẽ, đầy cá tính. Chỉ mấy chữ thôi, gọn quá, mà tôi thấy cả một rừng văn học. Văn chương là nơi tôi ẩn mình tìm lãng quên, an tịnh. Mỗi tác phẩm, tôi tìm kiếm hình ảnh nhân vật có cái gì chung với mình rồi chuyện trò bắt đầu bằng tâm sự mà họ đã bày ra trên giấy. Nhưng chẳng bao giờ ai tỏ ra lưu tâm tới sự ân cần đầy thiện cảm của tôi. Ngay cả trong sách, con người cũng lạnh lùng cách biệt. Và như một cái bóng, tôi theo dõi họ âm thầm mà dai dẵng.
Nhưng bây giờ đã có người lưu ý sự hiện diện của tôi ! Tôi sung sướng hổn hển choáng ngợp hạnh phúc. Ấp mảnh giấy nhỏ lên môi, cảm giác như chạm vào môi cô- trinh nữ. Nhắm mắt tưởng tượng giờ này cô đang làm gì, ở nơi chưa bao giờ chân tôi đặt đến ? Những chữ viết cho tôi có làm cô bối rối- hay biết đâu, biết đâu cũng chẳng nhớ gì đến mẩu giấy con con này nữa ? Cùng lúc thấy giận dỗi và ghen tị vu vơ. Muốn biết cô đang làm gì nơi ấy ?
Tôi lại lôi trong giỏ rác, những tờ giấy vẽ căn nhà nhỏ cạnh cổng ra vào, mấy ngọn đồi lên xuống với nhiều chú thích chuyên môn tôi không hiểu hết. Cùng với những tờ tuần trước, tôi cất chúng cẩn trọng như những lá thư đầy kỷ niệm. Ngày nào có dịp, sẽ trải dài chúng ra, từng tờ cho cô xem, gợi cô nhớ lại những ngày đầu thuê chung phòng với một người khác phái, xa lạ. Và chúng tôi sẽ nói cho nhau nghe những gì đã nghĩ về nhau trong thời gian thuê cùng căn phòng mà chẳng bao giờ gặp nhau, như chơi trò cút bắt.
Tôi thành kính nâng chiếc gạt đầy tàn thuốc và run rẩy vụng dại nhặt một mẫu có dấu môi son hồng nhạt, châm lửa. Hít khói thuốc như hít hơi thở đầy sinh lực của cô. Rồi tôi ho, sặc sụa, bị cô trừng phạt. Mím chặt môi trên đầu thuốc, tôi cắn, răng môi xé nát đầu lọc nhỏ tội nghiệp, như môi ai...
Mở tủ áo, váy ngắn váy dài khiến tôi băn khoăn tội lỗi. Ông quản gia nói ngay cả đầm, ít ai có cặp giò đẹp như cô. Ðặt chiếc váy ngắn với chiếc áo cánh mỏng lên giường. Rồi tôi nằm bên cạnh. Và chúng tôi bắt đầu trò chuyện. Kể cô nghe những gì tôi làm trong ngày, chẳng nhiều nhặng, bởi cũng dấu nhẹm những bài thơ vụng về dù rút tận cùng xương tủy lòng chân thật. Và chờ đợi nghe kể những việc cô làm, hẳn là lý thú...
Hẹn nhau trên ngọn đồi thấp sau nhà. Tôi mang theo giá vẽ, nhẩn nha ngồi nhìn mây bông gòn đùa nghịch đuổi bắt nhau trong gió chiều, chờ cô đến. Không gian yên ắng đến nỗi nhịp tim tôi dồn dập quá ồn ào. Gió vi vu nhè nhẹ và cây lá xạc xào hỏi tôi đang làm gì ở đây, đơn chiếc. Vội vàng phơi trải lòng mình với thiên nhiên, bảo rằng tôi chờ đợi như chưa từng chờ đợi, nôn nao như chưa từng nôn nao. Và pha màu, hồng rực rỡ để tô lên đôi má xuân thì, đen
huyền nhiệm để tô lên mái tóc trẻ trung và xanh biêng biếc như bầu trời cho chiếc áo mỏng lộ cánh tay trần...
Chợt hoa lá reo vui đón mời bước chân ai đang đến, hơi ngập ngừng rồi dừng lại. Tôi hối hả quay nhìn trên lối đi : cô bước nhún nhẩy bất an như con sóc nhỏ, tay kéo cao váy tránh bụi gai rừng... Bỗng tất cả lặng im, hoa tái nhợt cúi đầu muốn xỉu và lá đỏ mặt quay đi, không ba hoa nữa. Và tôi nhìn... và tôi nhìn... trời ơi, đôi chân cô ...
Cô gái. Tuần thứ tư.
Cô nhìn bức tranh nằm ơ hờ trên tường, ngọn núi xa xa với thân cây trơ trọi, cô đơn. Và tường bên kia bức tranh bình hoa hồng nhung sẫm, tách trà bên cạnh, bốc hơi. Màu sơn còn mới. Biết rồi, anh chàng vẽ ngọn núi trước nhà chứ gì ! Cô lắc đầu mỉm cười, không thích tranh tĩnh vật, và phong cảnh thì không thể vẽ cái gì tươi tắn hơn sao ? Màu sắc gì mà u ám !
Cô muốn viết vài giòng nói về hai bức tranh, nhưng suốt tuần bận quá, còn khối việc phải làm và buổi tối về nhà quá trễ, mệt nhoài tắm xong là ngủ vùi rồi sáng hôm sau lại bắt đầu một ngày mới đầy bận bịu. Cô làm việc cật lực, tối đa ba tuần nữa phải xong. Chưa chi đã được đề nghị một dự án khác. Đôi chân dài bước nhanh trên đường sự nghiệp.
Người đàn ông. Tuần thứ tư.
Hơi buồn khi thấy trên bàn, mấy CD nhạc vẫn chưa bóc giấy. Cầm mẩu giấy nhỏ cô viết cho mình trên tay, tôi mang cảm giác kẻ thất bại. Giỏ rác đầy giấy nháp, tràn lan ra ngoài. Tôi gom hết lại, nhìn ngắm từng tờ và cẩn trọng vuốt thẳng từng nếp, xếp cất như
nhặt nhạnh linh hồn đau đớn của mình. Căn phòng hơi bừa bộn, vài món đồ dùng vương vãi và trong phòng tắm hãy còn mấy món riêng tư... Tôi thu dọn, âu yếm như chồng giúp vợ trong nhiều bận bịu hằng ngày.
Gần chín giờ tối cô mới về nhà. Biết là khoảng năm ba phút sau cô sẽ tắm...Tôi hồi hộp nhìn vào lỗ khoá, cô đang trần truồng dưới vòi sen, mờ ảo qua lớp kiếng và ánh sáng đèn màu hồng. Cô ngửa mặt lên, nước chảy dạt dào lên tóc cô, chảy dạt dào lên bóng của mái tóc cô ép sát da đầu... Nước tràn lan lên mặt cô sáng trưng, tràn lan lên bóng khuôn mặt cô nhạt nhoà bồng bềnh trong ẩm ướt... Nước xối xả xuống tấm thân cô nõn nà màu sữa đặc, xối xả lên bóng thân hình cô đu đưa như liễu... Đôi gò ngực thanh tân cao vút núm vú nhỏ màu hồng, từng luồng nước lăn tăn vội vã đuổi bắt nhau tranh giành độc quyền ve vuốt. Và nước chảy xuống, chảy xuống khu rừng nhỏ rộn rã niềm hoan lạc. Và nước chảy xuống, chảy xuống len lách vào khe rạch như người đi săn tìm kiếm con mồi. Và nước như thác tuôn ào ạt, ào ạt, xuống đôi chân, trời ơi, trời ơi, xuống đôi chân mỗi lúc mỗi cong queo, khẳng khiu, xấu xí đến nao lòng !
Tôi nín thở, nhìn. Tôi nghẹn ngào, nhìn. Tôi sung sướng, nhìn. Tôi ngộp thở. Có cái gì cắt ngang cổ họng, đau điếng. Tôi nuốt nước bọt ở đâu dâng trào như suối ngàn mùa lũ lụt. Tôi cắn môi đến bật máu rồi nuốt ực những giọt tanh tanh mằn mặn hoà cùng nước mắt... Thương cô quá đỗi. Mãn nguyện quá đỗi. Và tôi ung dung mở cửa bước vào phòng tắm, ôm chầm lấy tấm thân tràn trề sinh lực. Nước trên cao đổ xuống hai chúng tôi da thịt chạm vào da thịt, mềm mại, gợi tình. Mắt hai đứa nuốt trững nhau, môi hai đứa cắn xé nhau, tranh giành với nước từng ly từng phân thân xác. Tôi lơi vòng tay để nhìn xuống vùng núi đồi ngạo nghễ, vùng đồng bằng đụn cát
mịn màng và bãi cỏ non e ấp thẹn thùng. Tôi quấn chân mình vào đôi chân tàn tật của cô, hoàn toàn hả dạ... tôi kêu lên sung sướng và giật mình vì chính tiếng mình kêu, bước ra khỏi phòng tắm người ướt đẫm vì mồ hôi trong cơn bàng hoàng tỉnh giấc...
Lòng chùng xuống, trằn trọc thâu đêm. Thật lâu, rồi tôi rũ rượi khập khiễng bước vào giấc ngủ đầy mộng mị. Đang đêm, chợt thức giấc tiếng mèo gào tìm đực. Tiếng gào nghe sao mà dữ dội, bức thiết và buồn như ai khóc. Tiếng gào xuyên thủng núi rừng, xuyên suốt trăng miền núi vằng vặc trên cao. Tiếng gào kêu cứu, van xin, cùng đường, gây hấn, đe doạ... Con mèo cái bên ngoài và người đàn ông bên trong cùng một nỗi niềm. Chỉ khác là người đàn ông gào thét âm ỉ trong lòng và trong phòng. Con mèo cái gào lên thành lời, giữa trời không dấu diếm. Muốn bước ra xua đuổi như xua đuổi lòng mình, nhưng chân tay bỗng nhiên bủn rủn. Một luồng điện chạy qua làm tôi tê liệt rồi chạy ngược về thiêu đốt hực hở. Toàn thân run rẩy, quờ quạng trong đêm. Chị Hằng lấp ló nhìn trộm từ cửa sổ, rồi bỗng trêu ngươi rực rỡ lách người vào, khoan thai mà trần tục, tươi thắm đĩ thỏa trườn lên người tôi, trườn lên, trườn lên... Tôi bật dậy như lò xo rồi lại nằm vật xuống. Mắt chị sáng trưng, nồng nàn ham muốn, như thể gần gũi tôi chị sẽ được hoá thân. Một phần thân thể đau đớn , nhức nhối, hoảng loạn... Tôi tự cào cấu lên tay, lên ngực. Tôi vò đầu, giựt từng chùm tóc. Úp mặt xuống gối, trăn trở. Rồi ghì chặt gối vào lòng, chặt hơn, chặt hơn nữa. Và lăn lộn như một con thú bị thương. Tôi lên cơn sốt. Tôi lên cơn đồng thiếp. Tôi kêu rên. Tôi bập bẹ những lời không đầu không đuôi. Tôi hổn hển đứt hơi. Tôi cuống quýt vụng về ... Tôi giúp mình qua cơn đau đớn... Phải giúp mình qua cơn đau đớn... Tôi và cô gái... Tôi và chị Hằng... Cô gái và chị Hằng... Tôi với cô gái và chị Hằng... Ba chúng tôi quấn vào nhau như những sớ dừa bện sợi. Ba chúng tôi siết vào nhau
như những lọn tóc dài thắt bín. Ba chúng tôi vật vã, rên siết, quay cuồng... Cuối cùng tôi rú lên như con thú hoang, như con mèo cái...
... Bàn tay nhớp nhúa đưa lên ôm mặt, xấu hổ, tủi nhục, lặng lẽ khóc như bao lần...
Cô gái. Tuần thứ năm.
Cô hơi khựng nhìn đóa hồng nhung nằm trên gối. Bình hoa, đĩa nhạc hay hộp kẹo chỉ khiến cô mỉm cười vu vơ, biết là có người quan tâm tới mình nhưng chỉ là cảm giác hời hợt thoáng qua. Nhưng đóa hồng nằm đây, nó biểu hiện một cái gì khác hơn là sự chỉ quan tâm tới một người không hề quen biết. Cảm giác đó làm cô hơi ngẩn ngơ, vừa thắc mắc thú vị vừa thấy bâng khuâng nhè nhẹ.
Cầm đóa hoa, phản ứng là đưa lên mũi, không, đưa lên môi, một sự động chạm khe khẽ khiến cô bối rối. Bỗng dưng cô thở dài. Có thể như bạn bè thường nói là cô hơi lạnh nhạt, nhiều tham vọng, chỉ biết lưu tâm đến công việc và thành công trong đời. Chưa hề để tâm tới một người đàn ông nào nếu không nói là sự tán tỉnh làm cô khó chịu. Có người còn nói cô bị chứng lãnh cảm hoặc con tim ngoài nhiệm vụ hô hấp chẳng dùng được vào việc gì. Nhưng bây giờ, cầm đoá hồng của một người xa lạ, bỗng dưng lòng hơi chùng xuống, rộn ràng.
Đoá hoa vẫn trong tay, cô bước tới cửa sổ nhìn mông lung ra ngoài như thể bất chợt sẽ nhận ra người ấy. Ý nghĩ đó khiến cô nhìn sững một người đàn ông đảo mắt nhìn căn nhà rồi dừng lại nơi cửa sổ có người con gái đang áp đoá hồng lên môi. Bốn mắt gặp nhau. Một cái nhìn trong tích tắc xui khiến cô lao xuống thang lầu, chạy băng ra đường dáo dác kiếm tìm. Nhưng trong bóng chiều, người đàn ông không để dấu tích gì trên con đường làng nhỏ...
Cô trở về phòng, cẩn trọng đặt đoá hồng lên bàn rồi thay tấm trải giường. Bỗng cô giật bắn người khi dời cặp gối : chiếc xi-líp nhỏ màu hồng mà tuần trước đó vội vàng bận bịu, cô đã bỏ đâu đó trong phòng tắm... Cô nhìn sững. Có phải của mình không ? Đúng là của mình ! Có phải mình bỏ quên trên giường không ? Không ! Một cảm giác ghê tởm khiến cô lợm giọng. Tức tối như bị sỉ nhục. Thế là suốt cả tuần, người đàn ông kia đã ôm ấp một phần thân thể mình ! Chỉ người bịnh hoạn mới có thể làm điều đó. Chỉ là thằng đàn ông không ra gì, ngu xuẩn, bẩn thỉu, vô lại... Nghẹn và uất, không biết tìm từ ngừ nào nữa. Cô vẫn nhìn sững, bàng hoàng đến nỗi e không phải đồ dùng của mình, sợ phải nhặt nó lên. Chợt rùng mình nhìn quanh, cảm tưởng có ai bên cạnh, đang theo dõi từng cử động. Vô thức, cô quàng hai tay trước ngực và bấu chặt vai, mắt vẫn dán vào chiếc xi-líp vô tội màu hồng...
Cô hậm hực, khinh bỉ, điện thoại tâm sự với bạn rất lâu xong xuống phố, thành phố đã lên đèn. Và cô lang thang tìm kiếm, bất mãn vì thấy người đàn ông nào cũng mang dáng dấp của người đã nhìn cô trên cửa sổ. Không hiểu nếu gặp, mình sẽ phản ứng ra sao, sẽ nói gì, sẽ có tình cảm thế nào. Nhưng cô muốn gặp, cứ gặp rồi hẵng tính. Đi suốt dãy phố vắng vẻ, vào hết mấy tiệm ăn, quán cà phê, nhìn từng người. Chợt trong quán cà phê cuối phố, người đàn ông đứng ở quầy có cái nhìn làm cô giật mình. Chỉ một cái nhìn rất nhanh, rồi người ấy bỏ đi, phía cửa sau. Vội bước theo nhưng không kịp nữa. Có cảm tưởng hắn biết và tránh mặt mình. Cô uể oải ăn tối, uể oải ra về và cuối cùng, uể oải vất chiếc xi-líp hồng vào giỏ, uể oải thay ra trải giường...
Nhìn lên hai bức tranh buồn thiu cô đơn, cô nhớ tới lời bạn nói khi chiều và suy nghĩ. Ờ, Quyên có lý phần nào (dù có kèm theo tiếng cười chọc phá) khi bảo nếu hắn bịnh hoạn thì chắc đã vẽ theo bức
tranh "Nguồn gốc nhân loại" của Gustave Courbet rồi ! Đây chỉ là người kín đáo, cô độc, buồn và thiếu dạn dĩ tự tin. Bất chợt cô thở dài. Một thứ tình cảm là lạ khó định nghĩa nhen lên làm cô xốn xang lần thứ nhất trong đời.
Nhìn qua cửa sổ, vầng trăng khuyết treo lửng lơ trên bầu trời đêm trong vắt sậm màu như ngả tím, đỉnh cây thông lồ lộ màu đen, song cửa sổ khắc hình người đang đọc sách ... mọi cái đều mang hình ảnh nghiêm trang thanh tịnh làm cô chột dạ. Cô vùng dậy xới tung đống sách đặt bên lò sưởi : toàn về cuộc đời ẩn cư của tu sĩ, về người cô độc và kẻ tài hoa nhưng bất hạnh...
Thở dài, nhìn lại lòng mình, một cảm giác êm đềm gần như lòng trắc ẩn dấy lên làm cô khó ngủ...
Sáng thứ sáu, cô điện thoại về sở ở Paris, nói chuyện rất lâu. Người đàn ông. Tuần thứ năm.
Tôi chờ cô trên đồi. Vẫn nắng chiều vùng núi êm ả vắng người và mây thì lang thang vô định. Tôi ngồi bên gốc thông già tróc vỏ sần sùi như mụt ghẻ, như linh hồn tôi trầy trụa. Những trái thông khô nằm nghiêng ngả hớ hênh rải rác trên bờ đường đầy sỏi, bất trắc như con tim tôi yếu đuối. Muốn gom góp các trái thông khô, nhóm lửa. Ngọn lửa thông sẽ thiêu đốt những gì đang chất chứa trong tôi. Khói thông sẽ mang đến cô lời tạ tội thành kính tận cùng. Và tro thông sẽ làm chất keo dán hai tôi gần lại. Ô, lẽ ra, lẽ ra tôi phải cẩn trọng hơn. Lẽ ra không được bỏ quên một phần đời mình trên gối...
Tôi vẫn chờ, lòng muôn ngàn tổ kiến. Một tiếng chim kêu cũng làm rùng mình và chiếc lá rơi cũng làm tôi thấy hụt. Gió nhè nhẹ đùa nghịch từng nhóm tóc trên đầu bốc lửa, tôi dáo dác nôn nao. Từng
giọt rồi từng giọt lệ âm thầm chảy ngược vào tim. Từng tiếng rồi từng tiếng nấc rưng rức ngập hồn. Tôi chắp hai tay thành khẩn nguyện cầu. Lời nguyện cầu thổn thức quặt què...
Chẳng biết bao lâu, không còn khái niệm gì về thời gian nữa, cuối cùng cô đến, như hào quang từ trời hiện xuống. Chói vì nước mắt long lanh trước cô rực rỡ. Nghẹn vì muôn nghìn tiếng tranh nhau muốn trào ra cùng lúc. Ðau đớn khó thở vì không gian như chỉ quanh quẩn bên cô. Muốn chạy đến ôm đôi chân khẳng khiu, cong queo xấu xí đến nao lòng của cô, nhưng hai chân tôi có gì vướng víu, bận bịu gỡ không ra khỏi đất. Tôi loay hoay cuống quýt. Còn cô, lạnh lùng dửng dưng, sải dài từng bước về hướng đâu đâu. Tôi muốn kêu lên, muốn khóc to cho cô nghe, nhưng cái gì chận ngay ở cổ... Tôi chới với đưa tay về phía cô... Chẳng thèm đoái hoài, cô cứ sải dài bước chân, rồi từ đỉnh núi này bước tới đỉnh núi kia nhẹ nhàng khoan thai như đi dạo, cô hơi chồm người về phía trước nhổ thân cây nhỏ trơ trọi cô đơn... Tôi kêu lên như chính linh hồn mình bật gốc. Đá ở bià núi vỡ ào ào đổ xuống tung bụi mịt mù ... Đất trời trải qua cơn cuồng nộ, sâm sét, tiếng cây cối, tiếng đá đổ ầm ầm vang rền nghe đến rợn người...
Ông quản gia quýnh quáng mang nhầm dép. Vùng núi chẳng ai gọi cửa giờ này, và nếu là cảnh sát... nhưng việc gì mà cảnh sát tới tìm ?
Ông chạy xuống thang lầu, bật đèn khắp nơi rồi vừa lật bật mở cửa vừa lên tiếng bảo chờ một chút. Khi cánh cổng mở ra, ông hốt hoảng như gặp ma : cũng nơi này, vào buổi sáng cách đây mấy tuần, ông đã đón tiếp một cô gái tươi cười hồn nhiên rất thánh thiện. Giờ thì cũng cô gái ấy nhưng trong đêm, sắc mặt có vẻ khẩn trương, hổn hển :
- Cho tôi lên. Tôi muốn gặp người thuê cùng phòng. Ông quản gia lúng túng khép cổng :
- Không được đâu cô... chắc ông ấy ngủ rồi !
- Mặc kệ, tôi sẽ xin lỗi.
- Không ! không được...
Xô mạnh ông quản gia qua bên, cô vụt chạy lên lầu. Ông quản gia già đáng thương lật bật chạy theo, hốt hoảng, rụng rời... Cô mở cửa phòng như một cơn lốc, bật đèn :
- Đâu ? Người nào thuê phòng này ?
Nhìn chăn nệm vẻ có người nằm, cô sờ thấy còn hơi ấm. Cô bước nhanh tới phòng tắm bật đèn, hoàn toàn trống vắng. Ông quản gia bối rối tránh ánh mắt giận dữ của cô, im lặng. Cô bước qua phòng bên cạnh :
- Và phòng này là một bà nhân viên kế toán thuê ? Và phòng này là cô tiếp viên hàng không thuê ? (Cô gào lên như hụt hơi) Ông nói dối ! Mà tại sao ông nói dối ? (Cô cắn môi) Ông trả lời đi chứ ? Tôi không về Paris, tôi ở khách sạn góc đường kia để nhìn : ba ngày nay không một bóng người nào ra vô ngoài ông thôi !
Cô hổn hển tuyệt vọng, căm tức. Mặt đỏ gay, mắt long lanh như người lên cơn sốt, hai tay bấu chặt cầu thang. Té ra người đàn ông này đã ôm ấp chiếc xi-líp của mình ! Cô đã đem lòng tin cậy một người tưởng đồng hương. Nhưng giờ thì cô nhìn, thấy đôi mắt như con thú bị thương kia đang hăm hở lật từng trang sách Kamasutra. Cô ngồi bệt xuống thang lầu như người bị ngất. Một cảm giác kỳ lạ
làm cô nghẹn. Nước mắt bỗng trào ra. Không biết mình đang ghê tởm hay thương hại người đàn ông này, hay thương hại chính thân mình. Ông quản gia bở ngỡ lấm lét nhìn cô, mắt ươn ướt.. Ông ngần ngại bước tới đưa tay, môi run run muốn nói điều gì. Nhưng cô vùng đứng lên, không, không thể để cho người ta thấy mình yếu đuối. Cô chạy vào phòng quơ nhanh áo quần hãy còn treo trong tủ và một số vật dụng cá nhân, nhét vội vào xách. Cô lao xuống cầu thang như mũi tên. Ông quản gia buồn rầu gọi với theo, tuyệt vọng... Ông chạy theo sau như con chó lạc đường, luống cuống, vụng về... Cô gái xẹt như tia chớp, xuống nhà, ra cửa, ra vườn, ra khỏi cổng. Không một tiếng cửa nào đóng sầm lại : chẳng phải cô tức giận, mà trốn chạy, như thể ở thêm giây phút nào ông cũng có thể làm hại đời mình...
Ông quản gia bước ngược lộ trình, từ cổng lên lầu. Trông ông thiểu não như vừa đánh mất cái gì ghê gớm lắm. Ông hổn hển nặng nề. Trong phút chốc, ông già sụm hẳn đi. Ông vào căn phòng tối om, bật đèn. Ánh đèn vàng vọt cho thấy một người đàn ông ngồi ở bàn, quay lưng lại. Ông quản gia nói như rên :
- Cô ấy...
Một bàn tay đưa ra ngăn ông nói tiếp. Ông bước tới sau lưng ghế, im lặng. Người đàn ông quay mặt nhìn phía cửa sổ. Hiểu ý, ông quản gia đẩy chiếc ghế bành- không, đó là chiếc xe lăn- về phía ấy và vén màn. Từ cao nhìn xuống làm ông đau lòng : mái tóc rậm đen mượt hơi quắn, đỉnh mũi cao, thẳng... E dè một lát rồi ông nói như xưng tội :
- Con nghe hết cổ nói không ? Cổ tưởng ba có ý gì mờ ám, cổ sợ. (Thở ra) Thôi, con đừng buồn...
Con trai ông không trả lời. Ông nhìn qua vai, nhìn xa xuống chút nữa, hai ống quần cột lại đong đưa, đong đưa... và nhớ ngày con trai vừa lên tám, một hôm đã chạy băng qua đường gọi Tí ơi, hàng về, hàng về, ba tao lột vải ra nhiều lắm, qua lượm hình... Hình mấy cô đầm tươi cười trong cây vải bỗng nhăn mặt khi con trai ông chạy trở về vẫn kích động réo Tí ơi, quên không nhìn trước sau như ông dặn. Chiếc xe thắng gấp. Một tiếng rú, nhiều tiếng rú nổi lên. Ông chạy ra điên dại ôm con- một thằng con lên tám chỉ còn hai chân nhão toét đong đưa sũng máu... Và ông cũng đã gọi thất thanh, mẹ nó đã gọi thất thanh, nó như chết rồi, không trả lời... Người cha chép miệng ngập ngừng :
- Chẳng mấy thuở gặp người cùng quê...
Người con trai vẫn im lặng.
- May là tuần rồi cổ nhờ ba đem hình đi rửa, ít nhứt mình cũng còn kỷ niệm ...
Nhưng con ông bỗng bẵn gắt chua chát ngắt lời:
- Không ! Mấy tấm hình đó không thật ! không thật ! xé hết đi !
Dưới đường, phố đêm miền núi vắng teo. Ở góc ngã ba con đường nhỏ, ánh đèn yếu ớt rọi lên phần dưới đôi chân dài di động vội vàng. Người con trai xốn xang nhìn theo bóng chân càng lúc càng nhạt nhoà xa- đôi chân khẳng khiu, cong queo, xấu xí đến nao lòng đang khua gót nhỏ trên đường phố vắng...
MIÊNG
Paris, Juin 2000
BÍ MẬT THIÊNG LIÊNG…
K
hông biết bố có nghe không và nghĩ gì. Anh Hai muốn tự tay mình sửa cái áo, vuốt mái tóc cho bố, như xưa vẫn thỉnh thoảng làm. Và chị Hai ngồi cạnh, một chị Hai đã bỏ chồng từ sáu năm rồi, giờ đùng đùng trở về thăm bố mặc dù anh Hai ừ không sốt sắng. Chị Hai sau là một trong những đứa bạn tôi, hiền như bụt, thì mau mắn nói đó là ý hay. Thế cũng xong. Và bây giờ họ đang ở đó, chắc là đang chuyện trò với bố.
Tôi tự hỏi anh chị Hai có nói chuyện với nhau không, và nói những gì. Có thể họ chẳng mở miệng. Có thể nhắc lại những bực mình từ xưa. Có thể còn gây nhau dữ dội như thời chị chưa bỏ đi. Vậy thì tệ quá nếu để bố nghe những điều chẳng lấy gì hay ho vui vẻ ấy. Bây giờ nỗi niềm gì cứ quằn quặn trong tôi. Chắc là niềm ân hận. Đã mang tên ân hận thì luôn là quá trễ. Tôi không còn dịp nào chuộc lại hay làm những cái đã không làm. Bố chỉ mong mỗi một điều là tôi về nhà mỗi chiều như mọi con gái nhà lành, như con gái bố, nhưng tôi không thể. Bạn bè với lỉnh kỉnh chuyện tình duyên, việc làm, nhan sắc… nghĩa là với bố hầu như hoàn toàn vô nghĩa mà nó lại chiếm thời gian của tôi nhiều hơn cho bố. Mỗi chiều tan sở, đám bạn gái già già chúng tôi tụ họp nhau trò chuyện. Mà có khi cũng chẳng chuyện trò gì, ngồi thừ ra cũng chẳng nghĩ ngợi gì ghê gớm nhưng thấy ấm lòng và dễ chịu. Những kẻ cô đơn thường tìm đến nhau. Tôi sợ về nhà sớm, với bố, lúc nào cũng hỏi con đi đâu giờ này mới về, giải thích thì bố chỉ lắc đầu chẳng diễn cảm gì, vì vậy tôi luôn chờ bố đã ngủ.
Bạn có thể hỏi thế tại sao từng này tuổi đầu mà tôi không ra riêng? Cũng vì bố đấy bạn ạ. Tôi sẵn sàng làm đệm cho bố tựa vai những lúc cần, nhưng không muốn làm cây gậy bố chống mỗi ngày. Tôi không phải là người kiên nhẫn. Vì vậy việc còn ở chung để nghe bố lặp mãi cùng câu hỏi đã là cái gì vượt quá khả năng chịu đựng. Và tôi chịu đựng. Nhưng chỉ thế thôi, xin đừng thêm gì vào nữa. Bố biết thừa điều ấy và ghìm mình hạn chế. Nhiều khi nhìn vào mắt bố, tôi biết bố muốn hỏi nhiều thứ, chẳng hạn sao con không chọn bạn trai đi, đàn bà phải có đàn ông để nương tựa chứ. Đó là một trong những điều tôi không muốn nghe. Bố không thấy rằng đàn ông chỉ khiến đời sống đàn bà thêm nhiêu khê rắc rối. Đã có lúc bố lo sợ tưởng tôi đồng tính, vì bạn nào dắt về nhà cũng chỉ là đám con gái lỡ thì.
Bây giờ anh chị Hai đang trò chuyện gì hoặc đang cãi nhau, và bố có nghe không? Tôi chột dạ. Điều duy nhất bố bận tâm muốn nghe là từ miệng tôi, đứa con gái duy nhất bố yêu với cả tấm lòng. Người ta vẫn quý con trai, nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô, nhưng bố yêu tôi hơn anh Hai, cho rằng con trai có thể tự lo, chỉ con gái là yếu đuối, và bố yêu tôi hơn cả bản thân mình, nhất là từ ngày mới lên ba mẹ đã bỏ bố con tôi. Nhà này có huông bị đàn bà bỏ. Lý do chuyện trăm năm đứt gánh của bố mẹ thì mãi đến ngày cô Hai trên giường bệnh vật lộn với tử thần mới he hé cho tôi biết. Còn lúc anh chị Hai ly dị thì tôi đã lớn rồi. Chị Hai tánh cực kỳ cẩn thận ngăn nắp. Và chị không chịu nổi tại sao chồng không bóp ống kem đánh răng từ dưới lên mà bóp giữa chừng. Tại sao hay bật đèn phòng tắm dù trời vẫn sáng rồi quên tắt. Tại sao tè mà không giật nước. Tại sao không xếp tờ báo vào giỏ mà bỏ bừa bãi trên bàn. Tại sao ngáp không che miệng. Tại sao ăn anh hay chắp. Linh tinh thứ tại sao. Và hai người ly dị vì anh Hai cũng không trả lời nổi các câu hỏi đàn bà ấy.
Tôi đã nói là ít khi trò chuyện với bố. Quán cà phê sực mùi thuốc lá dễ chịu hơn phòng bố sực mùi thuốc bắc thuốc tây, mùi da thịt ít tắm rửa và mùi chăn mền người bịnh. Đám bạn dở hơi lôi cuốn hơn ông bố già nằm dài, phong cảnh duy nhất bố ngắm là cái trần nhà chính giữa có gắn hình nổi thạch cao gợi nhớ cái bánh in đậu trắng. Mỗi sáng tôi phóng vào phòng bố tra khảo: “Bố ngủ được không bố?” “Đêm qua bố ngủ được”. “Bố uống thuốc buổi sáng chưa?” “Rồi con ạ. Con đi làm đấy à?”. “Con mở cửa cho thoáng nghe bố?”. Đó là điệp khúc của chúng tôi bắt đầu ngày. Rồi phóng ra đi cày. Và nếu đêm nào bố khỏe có thể chờ, dù tôi mở khóa rất khẽ và nhón gót, bố vẫn nghe. “Con về đấy à?”. Tôi không trả lời. “Con có vui không?”. Một ông già nằm một chỗ hỏi con gái có vui không. Lại tra khảo: “Bố làm gì mà chưa đi ngủ đi?”. “Ờ”. “Hồi chiều bố ăn được không?” “Được”. “Bố uống thuốc đủ chưa hả bố?” “Đủ rồi con ạ”. Đó là điệp khúc về khuya. Cuối tuần thì bố hài lòng tôi ngủ miệt mài. Tuy không trò chuyện nhưng bố vui lắm, biết là con gái rượu cùng hít thở bầu không khí tù ám với mình, nó nằm đâu đó trong nhà, chỉ cần với tay có thể sờ thấy, nó không đi xa, không bỏ mình… Nhưng rồi tôi thức dậy lao ra khỏi nhà khi bố đang nghỉ trưa và mãi khuya mới mò về.
Thỉnh thoảng, lạy Chúa, thỉnh thoảng tôi ngồi ngắm bố ăn cơm, không, ăn cháo. Thực sự tôi không muốn mắt mình chạm những tình huống ấy. Tay bố run rẩy đưa thìa cháo lên môi, vận hết sức bình sinh đưa mãi đưa mãi mà con đường như còn xa ghê lắm. Và có khi nó đi trượt đâu đấy bên cạnh. Tôi hối hả lau vết cháo chảy dài bên má, rơi xuống khăn ăn che ngực. Tôi lịu qụiu cho bố ăn. Bố nhìn tôi, không cười nhưng có cái gì rạng rỡ an lành trong ánh mắt. Tôi nhìn tránh đi. Không muốn thấy. Tôi rất sợ những pha tình cảm ướt át. Tôi ghét phim xã hội sướt mướt giật nước mắt người xem. Bố cố nuốt nhanh cho tôi hài lòng là bố vẫn khỏe, vẫn ăn được, nhưng cùng lúc có vẻ lo lắng nhìn chừng tô cháo vơi đi. Bố biết tôi sắp bỏ
bố một mình. Một hôm không bỏ ngay, tôi rót nước cho bố uống, lau mặt bố sạch sẽ, đặt bố nằm xuống và đọc cho bố nghe một bài báo. Bố thiếp đi trong giọng đọc đều đều chán chường của tôi với nét mặt thư giãn an vui kỳ lạ. Tôi hôn phớt trán bố và nhẹ nhàng tuồn ra ngoài. Lúc đó tôi chưa có ý nghĩ ân hận hay hài lòng với điều mình đem lại cho bố. Tôi là một đứa con chỉ biết có mình. Nếu bạn là đứa con gái hiếu thảo hay bình thường thì bạn không thể nào hiểu được.
Hơn hai mươi năm bố dưỡng dục anh em tôi với sự chăm chút của cô Hai. Mẹ bỏ đi, từ một người không để ý đến chuyện hằng ngày bố đã trở thành người đàn ông nghe ngóng… Tất cả những nghe ngóng đó bố thực sự dứt bỏ sau ngày sinh nhựt năm tôi lên mười. Buổi chiều mọi người rộn ràng bày bàn ghế, bánh trái thức ăn và quà cáp chất cao hơn đầu tôi với giấy hoa đủ màu sặc sỡ, bỗng có chiếc xe đỗ xịch ở cổng và mọi người khựng lại nhìn một bà uyển chuyển đi vào. Ai cũng há hốc mồm không gọi nổi bố. Dù mới lên mười, tôi hãy còn nhớ nét mặt bố khi nhìn người đàn bà mà bàng hoàng rất lâu mới đẩy tôi đến “Mẹ con đấy”. Và bà ngồi trên hai gót ôm tôi hôn. Nét mặt bố lúc đó ư? Thấy ma chắc cũng thế thôi. Bối rối biến làn da hồng hào chuyển màu xanh lét, môi run run và cấm khẩu, hai tay chắc chưa bao giờ bố thấy thừa thãi vô tích sự ngần ấy. Nhìn bố mà thương. Tôi nắm tay lắc lắc mới khiến bố nhớ giới thiệu mẹ với tôi. Được mẹ hôn, lạ chưa, tôi chẳng cảm thấy gì. Tôi quẹt tay chùi nhanh chỗ má vì tin chắc có dính chút son màu hồng nhạt của mẹ. Và tôi lùi lại. Bà nhìn tôi bỡ ngỡ vài giây rồi mở xắc tay lấy món quà. “Mừng sinh nhật con. Con mở đi xem có thích không?”. Tôi nhíu mày, không cầm. Cô Hai giục: “Kìa, cầm quà mẹ cho đi con”. Cuối cùng cô phải cầm rồi dúi vào tay tôi. Nhiều năm sau tôi còn thắc mắc tại sao ai cũng nhũn nhặn trước người đàn bà đã bỏ chồng con như vậy? Đó là sợi dây chuyền vàng tây óng ánh hai con tim lồng vào nhau, hột xoàn nhỏ tòng teng ở giữa. Cô Hai mang vào
cổ tôi. Và nó chỉ nằm trên cổ tôi một lúc đó thôi suốt cuộc đời làm quà của nó. Sau đó nó nằm ở đâu tôi chẳng biết.
Mẹ ở chơi một lát trong sự lạnh nhạt của tôi và sự bối rối của mọi người, trừ anh Hai chạy tung tăng níu áo mẹ nói lăng nhăng đủ thứ. Mẹ cố nịnh, cố làm quen với tôi nhưng không thành. Có, tôi có nhìn mẹ như người xa lạ, và tôi xúc động trước sắc đẹp của bà. Bà có vẻ mong manh sang cả, cử chỉ dịu dàng với nét mặt thanh tú buồn buồn. Nhưng tôi chẳng cảm giác gì - có mẹ từ xa về thì lòng mình ra sao? Để tránh, tôi rủ đám em trong gia đình và con các cô chú nhân viên chạy ra vườn chơi trò cút kiếm. Có lẽ mẹ hiểu. Khi mẹ từ giã, cô Hai gọi mãi tôi mới chịu vào, đứng sau lưng bố vẫy tay chào, nhất định không chịu đến cho mẹ hôn lần nữa. Khi bà bước xuống bậc thềm, tôi la lên: “Tôi chỉ có bố và cô, tôi không có mẹ”. Bước chân nhẹ tênh của bà khựng lại. Bà quay lại khiến tôi vội núp mặt vào lưng bố, không biết mọi người diễn cảm ra sao. Rồi tiếng leng keng vòng xuyến trên tay bà xa dần ra cổng. Đêm đó tôi khóc ré chói tai, bắt bố nằm cùng cho đến khi tôi ngủ hẵng đi. Trong nách bố, tôi nói với giọng đanh thép của đứa bé lên mười: “Đừng bố, đừng bao giờ cho con gặp lại người đó nữa nghe bố”. Chỉ nghe tiếng thở dài. Từ đó bố thôi không nghe ngóng bước chân trên hè nhà mỗi sáng mỗi chiều như xưa nữa…
Và bây giờ, bố nằm đó với anh chị Hai, cái gì lọt vào tai bố? Họ nói gì, chị Hai có hối tiếc đã bỏ anh Hai không? Điều này có thể xoa dịu lòng bố. Chị có kể cho anh nghe vì sao đã ba đời chồng đều hỏng không? Bố sẽ nói có gì đáng ngạc nhiên đâu, đàn bà gì mà cứ suốt ngày chì chiết chồng những cái vụn vặt. Tuần trước bố gọi anh Hai về để tâm sự lỡ bố chết, tôi sẽ bơ vơ. Anh Hai mau mắn thì dễ mà, nó sẽ sống với vợ chồng con như cô Hai sống với bố con mình, bố nghỉ cho khỏe đừng lo lắng gì nữa. Mấy hôm nay thì bố làm
thinh. Bố nằm im thin thít, lười biếng, nét mặt bình thản như không còn vướng bận, sẵn sàng ra đi bất cứ lúc nào. Giữa cha con tôi cũng không còn điệp khúc buổi sáng buổi khuya. Mọi thứ đều sững lại, bất động…
Năm tôi mười tám, cô Hai chết. Giống Thánh Gióng, tôi rùng mình một cái và thành người lớn thực sự, cứng rắn hơn mọi người tưởng, hơn bố chờ đợi. Đến nỗi bố ngại, nói bóng gió con gái thì nên nhu nhã mềm mại. Nhưng tôi không muốn mình là con gái mặc dầu có lôi thôi thế nào thì gương mặt tôi vẫn là gương mặt mẹ, thanh tú và đẹp với nét buồn buồn, thân hình dong dỏng cao với cặp giò dài ngoẵng thuôn thuôn. Tôi biết điều này càng khiến bố yêu tôi hơn, lo âu hơn và đau đớn hơn. Nhiều lúc bố không biết là tôi thấy bố nhìn rồi quay đi, buồn bã lắc đầu.
Thiên hạ đến thăm, bà con bạn bè và nhân viên thời bố là giám đốc công ty xuất nhập cảng. Họ nhắc lại nhiều chuyện thời trai trẻ, thời trung niên, đến tuổi đi chậm chạp rồi cuối cùng là giai đoạn nằm chờ chết. Có người chờ mãi mà thần chết bỏ quên chưa chịu rước đi, những người đó mới thực sự khổ. Và họ nói như chúc mừng bố, rằng từng này tuổi bố vẫn còn tinh tường minh mẫn. Cái gì họ nhắc đến nghe cũng tốt, cũng hay, bố là nhất, nhiều điều tôi mới nghe lần đầu, lạ hoắc. Bố nằm im hơi mỉm môi, anh Hai đáp lễ.
Chiều, khi mọi người đã ra về, tôi nói với anh Hai em muốn ở một mình với bố, em muốn nói chuyện với bố. Anh hỏi em muốn đốt đèn lên chưa, tôi lắc đầu. Anh ra ngoài, khép cửa. Tôi đến ngồi cạnh hôn lên trán bố. Tôi ấp hai tay bố vào tay mình. Gương mặt bố xanh xao và môi mắt khép hờ, cố nhìn đứa con gái mà bố yêu với tất cả sức lực hữu hạn đời người. Chợt tôi cảm nhận điều bố lo ngại: bơ vơ. Ngoài kia đêm đang xuống. Cây ngọc lan bên cửa sổ đong đưa nhè
nhẹ những chiếc lá nhuốm màu đêm như vô vàn bàn tay nhỏ thiên thần, vẽ một nét cười lên môi bố. Tôi chúa ghét thời điểm âm u này. Vậy mà lại chọn đúng lúc này để chuyện trò với bố. Chút sáng cuối cùng mờ mờ làm đường viền bên hông trái bố, một đường viền mỏng nhàn nhạt như hình nghệ thuật. Tôi lại hôn lên trán và đôi tay gầy xanh xao tong teo. Tôi đằng hắng nhiều lần như thể sắp đọc bài diễn văn quan trọng. Vậy mà lòng tôi thì thả lỏng dịu dàng, cảm thấy nhẹ nhõm vì sắp xả hết cho bố nghe những ấm ức vẫn chất chứa trong mình.
Rồi trong cái tranh tối tranh sáng mà tối nhiều hơn ấy, tôi vẫn nắm chặt hai tay bố với bất chợt những cơn nghẹn ở cổ, những cái nuốt xuống, những hơi thở dồn dập ngắt quãng mà từ đó tôi bỗng bất mãn nhận ra rằng dù sao mình cũng vẫn là… phụ nữ, tôi bắt đầu kể lể dài dòng. Rằng, bắt đầu từ khi nào tôi đã hiểu vì sao mẹ bỏ rơi bố con mình. Rằng bố chẳng có gì phải ngượng. (Tôi cũng xin bố tha lỗi đã không biết yêu mẹ và cũng không cố yêu mẹ). Rằng trong mắt bố, tôi hiểu nỗi lo ngại về cuộc đời những người đàn bà chân dài, dài hơn mong đợi…Rằng, tôi muốn chứng tỏ không phải ai chân dài cũng sa vào cái bịnh oái oăm ấy, mà chính mình phải định đoạt. Rằng vì vậy tôi cố ý sống khác đi… Nghĩa là theo văn chương là “làm cách mạng”. Bố nhỉ…
Tôi ba hoa linh tinh lang tang. Thật ra nói ít mà đầu óc lêu lổng bay khắp nơi thì nhiều. Nhớ cô Hai kể mẹ bỏ đi, từ một người không để ý đến chuyện hằng ngày bố đã trở thành người đàn ông nghe ngóng…Trước hết nhấp nhỏm nghe ngóng mỗi cú điện thoại reo, biết đâu mẹ báo trở về. Là thư ký của công ty, cô Hai biết rõ điều ấy, một hôm cô gắt: “Làm sao mà cậu ngóng hết các cú điện thoại reo liên tục của công ty được? Nếu cô ấy phôn thì tức khắc tôi sẽ báo cho cậu biết, đừng ngóng như thế nữa”. Ông tổng giám đốc sợ bà
chị thư ký la, từ đấy chỉ liếc kín đáo mỗi lần điện thoại reo, rồi dần dà thời gian qua đi, thói quen đó không còn bởi vì cú điện thoại bố chờ chẳng bao giờ reng cả.
Cùng lúc, bố nghe ngóng bước chân trước nhà. Cô Hai nói mẹ có bước đi đặc biệt. Không bao giờ lê gót, mẹ bước đi rất nhẹ, rất thanh và êm ả. Tay mẹ luôn có những chiếc vòng và mỗi bước đi với cánh tay đong đưa, tiếng leng keng vui nhộn báo sự hiện diện của mình. Ai cũng yêu quý mẹ. Mẹ rất ít lời, nghiêm trang đài các. Tôi hỏi nghiêm trang mà sao mẹ bỏ chồng con theo trai? Cô Hai lảng đi, đó là những điều chẳng ai muốn nói huỵch toẹt, như thể tránh động chạm đến nỗi niềm sâu xa của bố. Và bước chân nhẹ hẫng cùng tiếng vòng vàng rung rinh bố mong cũng không bao giờ đặt lên ngưỡng cửa, mãi đến sinh nhựt tôi lên mười.
Và cũng cùng lúc, bố nghe ngóng giấc ngủ của tôi có bị ác mộng quấy rầy không. Bởi vì theo cô Hai, những tháng đầu mẹ bỏ đi tôi khóc như cha chết, khóc ngằn ngặt đứt hơi tắt tiếng và thường la hoảng giữa đêm. Tôi vốn là đứa trẻ èo uột, cả thể xác lẫn tinh thần nên chẳng có kỷ niệm nào về mẹ ngoại trừ mùi thơm dìu dịu. Vậy mà vẫn khóc như bị cắt tiết. Dạo đó để tôi ngủ, cô Hai phải lấy áo mẹ cho tôi ôm. Lên năm thì tôi thôi ôm áo mẹ mà ôm con gấu nhồi bông có đôi mắt thật to đen nhánh. Từ đó mẹ ra hẳn khỏi ký ức nghèo nàn của đứa con gái duy nhất…
Tiếp đến bố nghe ngóng những thay đổi ở tuổi khó chịu của tôi, khoảng mười hai mười ba đến mười lăm. Và lần kinh nguyệt đầu tiên, bố quýnh quáng đem tôi đi bác sĩ khi thấy máu rỉ ở quần con gái. Chuyện này lẽ ra là chuyện của mẹ. Dạo đó cô Hai sang Pháp chữa bịnh. Bịnh gì không biết. Gia đình này mọi thứ đều bí mật. Cho đến năm tôi mười tám thì cô Hai đã đến giai đoạn cuối cùng của đau
đớn. Người cô như củi khô, xám ngắt, nói hết ra hơi. Lúc đó tôi hỏi vì sao mẹ bỏ chúng tôi. Cô lắc đầu, không nói chớ chẳng phải không biết. Tôi dấm dẳn: “Con đã lớn rồi, con cũng có quyền muốn biết tại sao mình bị mẹ bỏ khi chưa đầy ba tuổi chứ? Cô cứ giấu làm gì?”. Cô Hai nhắm mắt, tránh. Tôi kéo ghế ngồi sát giường, nhìn cô như cai tù nhìn tội phạm: “Con chán cái nhà này. Cái gì cũng bí mật. Con có cảm tưởng bị gạt ra ngoài, không ai muốn cho con biết cái gì cả”. Cô Hai mở mắt, ánh mắt buồn vô tả khiến tôi chột dạ. Rồi khó khăn lắm, cô thều thào tiếng được tiếng mất. Nhưng tôi hiểu và không nỡ vặn nữa. Một người đoan trang suốt đời trinh trắng không tiện tách bạch những điều như cô đang cố diễn tả bằng lời lẽ trong sạch nhất. “Đó là, căn bịnh, con à, nên, không ai, ghét, mẹ con”. Chẳng ghét nhưng tôi cũng chẳng yêu. Cũng chẳng cảm giác gì ghê gớm. Có thể nói tôi dửng dưng sau một lát lặng người. Hôm sau trong lớp Anh văn, tôi nghiễn ra chữ Sacred Secret… khi nghĩ đến chiều dài ngắn ngủi của lịch sử gia đình mình. Và từ đó tôi thay tủ áo, quần rin giày bố, tóc cắt trụi như lính, cố ý không mỹ miều ẻo lả. Bữa đầu tiên về nhà, tôi có cái khoái rất ác ý chạy tìm gọi bố ơi bố hỡi. Từ vườn sau bố hối hả bố đây con rồi ngước nhìn, một cánh hồng bị cắt oan và chiếc kéo rơi xuống đất. Sau đám tang cô Hai, có người còn hỏi nhau sao hôm đó không thấy tôi…
Tôi muốn nói dài nữa, dài nữa, mà cổ nghèn nghẹn đau điếng. Bố siết tay tôi mỉm cười, không nói gì. Bố đã hiểu. Bố có vẻ mãn nguyện. Khó tưởng tượng người đàn ông nằm đây đã từng tất bật vì con. Lần đầu tiên tôi cảm giác mình yêu bố không ngờ. Lại hôn bố. Căn phòng tràn ngập bóng đêm. Bố nằm đó mà tôi không còn thấy nữa. Mắt tôi mờ. Im lặng.
Tôi đứng lên, đi ra, hài lòng. Ít nhất đó là những tiếng nói dịu dàng của đứa con yêu dành cho bố. Đó là những tiếng nói cuối cùng của
đời trần tục mà bố được nghe như mong đợi. Sáng mai khi xe mang bố đi về nơi xa lạ thì nghi lễ bắt đầu, và ông cha đạo sẽ đọc những lời kinh cầu khẩn thánh thần tiếp đón linh hồn bố. Ngày mai bố sẽ nằm trong đất, sẽ không còn nghe lời nói nhân gian này nữa. Ngày mai những buổi tôi đi sớm về khuya sẽ không còn ai hỏi han lo âu. Ngày mai tôi sẽ thực sự mồ côi. Ngày mai tôi sẽ bơ vơ bởi vì ngày mai, ngày mai tôi không còn bố nữa…
MIÊNG
Paris-NT, Janv. 2010
BẠN
C
húng tôi có người bạn đàn anh. Anh nhà văn, chị nhà giáo. Hai nhà sống trong một căn nhà “thị tại môn tiền”, lần đầu tiên bước vào chưa quen, nghe mùi thum thủm của linh tinh thứ ùa vào phòng khách. Căn phòng khách nhỏ mà lúc nào cũng rộn ràng các giới, từ sư sãi, bạn văn, đến người cần giúp đỡ.
Anh có cách nói chuyện đặc biệt sôi nổi, mọi thứ như có cánh nẩy lửa lúc nào cũng sẵn sàng vút ra, sinh động. Khi nói, anh như quên mình, chỉ biết câu chuyện và say sưa với nó. Kể chuyện là cùng lúc anh vẽ ra khung cảnh và các nhân vật với màu sắc rực rỡ nhất, ấn tượng nhất, và người nghe như bị hút hồn. Mà anh thì biết rất nhiều chuyện, đông tây kim cổ, muốn gì cứ hỏi, từ việc chính trị thuở ông Hồ còn bôn ba bên Tàu hoặc nhà thơ nhà thẩn hoặc vùng nào có cây trái gì đặc biệt hoặc lịch sử chùa chiền đình miễu… Dù với tuổi tác, trí nhớ anh rõ ràng còn sung túc chưa đến chỗ suy tàn. Một hôm sắp dẫn chúng tôi đi viếng một ngôi chùa, anh kể sơ về lai lịch nơi thờ Phật này, chiêu vài ngụm nước.
Chuyện là nhà sư nọ đến vùng đất hoang vu ngồi thiền dưới cây kén. “Cây kén là cây gì thì lát nữa đi xem tận mắt mới biết chớ không thể tả được. Bây giờ nó còn đó”. Thế là chúng tôi không hỏi kén là cây gì. Thời đó rậm rạp thiếu gì cây mà nhà sư chọn cây kén tức nó cũng có duyên nghiệp tu hành. Ban đêm thì chỉ có trời và rừng rú âm u, một ngọn đèn leo lét cũng không, một tiếng gọi nhau cũng chẳng có. Ếch nhái, dế hay đom đóm cũng hiếm nữa là. Dân làng đếm được trên đầu ngón tay, chơn chất hiền lành. Nhưng con cọp
đen thì không hiền dù đơn thân độc mã, thỉnh thoảng nó vẫn khiến số dân ít ỏi ở đó khiếp vía. Mà tội, nó có xơi ai đâu, chỉ thỉnh thoảng buồn tình lừng lững thênh thang bước giữa ruộng đồng hóng mát rồi quay về một nơi nào đó trong rừng. Ai gan đâu tìm hiểu chỗ náu thân của nó. Họ chỉ xầm xì như thể nói to là nó nghe. Vậy mà khi nhà sư tụng kinh, chỉ trời biết từ bao giờ, nó đến nằm im bên cạnh, lim dim. Chẳng biết nó có hiểu ất giáp gì không hay thực sự thấu hiểu tiếng Phạn mà ngay cả nhà sư chắc cũng chẳng hiểu mô tê gì, nó nghe kinh với vẻ thanh tịnh bình an như thể lời ru của mẹ từ khi nó còn nhỏ xíu chưa khiến ai sợ hãi. Về phần nhà sư, chẳng biết ông run quíu không chạy nổi hay nhắm mắt thiền không nhìn thấy cọp hay có nhìn thấy mà can đảm bụng bảo dạ cứ bình tĩnh cải hóa cho nó. Chết là cùng chứ gì, ai mà chả chết. Ông an nhiên tự tại tụng niệm, nó nhẩn nha nghe. Từ thuở con gái đến khi bầu bì, con cọp đen vẫn đến nằm bên cạnh nhà sư nghe kinh như vậy, thần thái hiền hòa an lạc. Rồi nó sinh con cũng bên cạnh nhà sư, dưới cây kén ấy. Máu cọp sinh nở rưới gốc cây. Cọp con tung tăng quanh gốc cây. Nghe kinh riết rồi hoặc là mẹ con chán, hoặc đã đủ trình độ tu hành, chúng nó đùm túm nhau đi biệt, bỏ nhà sư ở lại, từ đấy không nghe tiếng cọp gầm gừ rúng động hay bóng dáng to lớn hùng hồn đen thui đâu nữa.
Lúc bấy giờ dân làng mới hoàn hồn, hiểu nhà sư là bậc chân tu. Họ bắt đầu lên xuống thăm viếng thường xuyên thay vì chỉ thỉnh thoảng mới đến cúng kiến chút đỉnh cho sư có cái lót dạ. Và họ bắt đầu lạy Phật sống ngồi dưới cội kén, thành tâm nghe sư giảng đạo thánh hiền hay nói chuyện nắng mưa thời tiết với giọng trầm trầm nhân hậu. Trời miền Trung thường nắng gắt nên một tấm vải quấn thân cả năm trời, sư xuống suối tắm rồi lên hong khô trên chính thân thể mình, trừ những chỗ thủng thì da thịt đành lòi ra và chẳng còn
biết tấm vải màu gì, vàng hoặc nâu hoặc màu bã trầu, không chừng là tím hoặc xanh da trời cũng nên.
– Thấy dân làng có nhu cầu đến cửa Phật, ông mới bèn dựng lên một kấy… một kấy…
– Am.
– Đấy, một kấy am…
Úi cha, một cái am mà khó khăn thế rồi. Tiếp theo là cuộc đời tu hành chơn chính của nhà sư, một đồn trăm trăm đồn nghìn, người ở đâu lũ lượt kéo đến lập làng, một nóc nhà mọc lên rồi nhiều nóc nhà mọc lên, vui vẻ bớt cô liêu. Cái làng nhỏ xíu quê mùa giờ bắt đầu tấp nập bán bán buôn buôn cày cày cấy cấy. Những đêm trăng thanh gió mát trai tráng trong làng cũng đã biết dạo chơi lơi lả gái xuân thì. Mùa cấy gặt thì tiếng hò đối đáp vang vang cả góc trời xưa kia yên ả. Rồi đám cúng đám kiến, thần thánh ở đâu bỗng dưng cũng chuyển hộ khẩu đến làng, nằm ngồi đủ kiểu khắp nơi, lúc thì gốc cây đa cây đề, lúc thì trên đỉnh bãi trống hoang vu, lúc ở một bụi tre đơn độc giữa đường hay tự dưng vài miếng gạch sắp lên ở bất cứ một góc đường mòn nào đấy. Rồi đám cưới đám xin, đám hội đám hè. Dân đông thì nhu cầu cũng lớn theo.
– Rồi nhà sư nghĩ để cho chúng sanh có chỗ ra vào lạy Phật, ông bèn cất lên một kấy… một kấy…một kấy…
– Chùa.
– Đấy, một kấy chùa…
Trong khi anh tiếp tục hăng say mô tả cuộc đời tu hành của nhà sư, sự mộ đạo của chúng sanh vùng đó và sự phát triển của ngôi
chùa… tôi nghĩ bụng ouf, may mà có mình tìm chữ chính xác cứu nguy trong khi vì hăng say quá anh quên mất. Anh nói mê man, như thấy nhà sư ngồi trước mặt tụng niệm dưới cây kén, thấy cả chỗ áo thủng rách của nhà sư, thấy dân lành ra vào cửa Phật cung kính vái van, thấy mẹ con nhà cọp quẫy đuôi lững thững vào rừng, dám thấy cả màu mắt cọp con cọp mẹ. Và mặt trời miền Trung rực sáng theo mắt anh, theo những âm thanh anh phát ra nhanh nhẩu nồng nàn. Anh viết cũng như nói, dễ dàng nhanh chóng, sôi bỏng đậm tình. Đi chơi đâu về dù khuya, anh cũng ngồi vào bàn hoặc sáng mai, thả ra ngay một cốt truyện kể lại những điều chứng kiến trong ngày, tình tiết chi ly thâm thúy.
Một lần đi thăm trường đại học quê anh. Ông phó viện trưởng đón tiếp. Chiêu vài hụm trà thông giọng, anh bắt đầu hăng hái nói về chương trình cải tổ của anh Lê. Anh Lê có chương trình thay đổi cảnh quang khu đại học, sẽ trồng cây xanh ba lớp từ chân đồi đi lên, loại cây thân dai như bạch đàn, dễ trồng và sẽ mang lại lợi nhuận, mặt bằng sân trường sẽ trồng loại hoa gì vừa dễ chăm vừa cho hoa nhiều, lá chết sẽ gom lại làm phân hữu cơ. Chỗ này (anh trỏ trước sân) thay vì để tấm bảng thiếc như vậy vừa chiếm chỗ vừa thiếu vẻ thẩm mỹ, anh Lê sẽ đặt một tảng đá to, khắc tên trường, vừa độc đáo vừa mang tính chất mạnh mẽ (đá tảng mà !). Băng ghế sẽ đặt chỗ nào vừa đẹp vừa mát vừa không khiến thiên nhiên bối rối, mà sinh viên có thể thoải mái ngồi tâm tình hay sôi kinh nấu sử… Chúng tôi khoái chí tủm tỉm nhìn nét mặt ông viện phó ngơ ngác đang nghi ngờ khả năng thông tin nội bộ. Bởi ông lù lù ở đó bao nhiêu năm rồi và việc gì cũng qua tay ông hết cả, thì cái anh Lê này là ai, từ đâu tới, và tới lúc nào để tính toán chi ly cải tổ ngôi trường của mình quy mô cỡ ấy mà mình mù tịt? Ông viện trưởng có chơi qua mặt gạt mình ra rìa không đấy? Ông ta tần ngần nhìn anh bán tín bán nghi, nụ cười mỉm đông cứng trên đôi môi dày tim tím. Nhưng anh vẫn
thản nhiên không bỏ dở chương trình của anh Lê, giải thích bởi vì trường đại học trên ngọn đồi như thế này là có một không hai của Việt Nam thì khuôn viên nó phải xứng đáng. Và nhất là làm gương cho cả nước về cách bảo vệ môi trường, nghĩa là cây xanh, cây xanh, và cây xanh… Anh thao thao đến đâu thì ông viện phó ráng kéo cái gượng gạo tới đó. Một lát rồi anh có vẻ mệt, chả là đã một lần mổ tim. Anh thở dốc, mặt xanh lè, xanh như ông viện phó đang cố nuốt cái chương trình của anh Lê đè nghèn nghẹn ở cổ vì mình ngoài cuộc.
Anh Lê là bạn anh thuở còn dùng đũng quần chùi nhẵn ghế nhà trường. Lớn lên anh Lê du học bên Đức về môi trường. Nghỉ hưu, anh Lê thường về Việt nam ăn cơm nhà vác ngà voi rao giảng kiến thức thâu thập được ở xứ người. Và anh thường đưa anh Lê thăm chùa chiền đình miễu. Nơi nào anh Lê cũng lên kế hoạch. Chỗ thì xây bảo tháp, nơi thì đào hồ thả sen, nơi trồng cây ba bốn lớp, làm cầu cảnh, hòn non bộ, dựng tượng đài, chấm chỗ nào mắc võng trên đường… Trường Sơn. Lắm chương trình cái nào nếu không vĩ đại hấp dẫn thì cũng nên thơ lãng mạn. Nhưng mưu sự tại nhơn thành sự tại thiên, chẳng may chưa cái nào ra cái nào thì anh Lê bị bịnh nan y hành hạ. Trên giường bịnh, anh lo dịch Kinh Lăng Nghiêm. Dịch tới đâu bịnh hoạn chạy té re đến đó. Ai cũng phấn khởi, tưởng anh sẽ thắng cuộc chiến tương tàn này. Nhưng một ngày bịnh ở đâu lủ khủ kéo về. Không nản chí, trên giường bịnh, anh Lê viết lại đời mình, kể chuyện từ thuở ấu thơ đến ngày du học, kể lại những ngày trên xứ người tham gia đấu tranh chống Mỹ, kể lại những cuộc tình thời trai trẻ và chuyện tình với người bạn trăm năm, và những ngày hưu trí đi đi về về dạy học ở Việt Nam… Anh Lê cũng gom một ít thơ đã làm từ trước và trên giường bịnh nhả thơ như hơi thở ngày vài ba bài, in thành tuyển tập. Vào Sài gòn phụ với chị Lê chăm sóc và lo xuất bản các quyển này của anh Lê, và sau
khi bạn gác kiếm chịu đầu hàng tử thần, anh viết một quyển sách về đời anh Lê, và trên bàn thờ nhà anh chị có chỗ bạn ngồi. Mỗi năm anh chị làm giỗ và mời bạn bè văn vẻ đến đọc thơ tưởng niệm. Nghĩa là anh làm mọi điều với niềm say mê, tận tâm và thành khẩn.
Chị thì mái tóc trắng phau trước tuổi và nói năng chầm chậm hiền hòa, lúc nào cũng cười rất tươi, thường lắng nghe anh và tủm tỉm tán thành. Anh tung chị hứng rất ăn nhịp, ý hợp tâm đầu. Mặc dầu thị tại môn tiền náo nhưng tâm anh chị có nguyệt lai môn hạ. Mặc dù anh nói như bay vù vù nhưng tâm anh tịnh một chỗ. Mặc dù khi diễn tả điều gì mắt anh sáng nẩy lửa nhưng cái nhìn chất chứa niềm u mặc ngọt ngào…
Thân kính tặng anh chị QG.
Xuân Sương
Paris-NT, mars 2010
CHỨNG KHOÁN
Đ
áng lẽ những người dôn dốt như tôi không nên theo cái mốt bây giờ là chơi chứng khoán. "Dôn dốt" có hai nghĩa : trái với khôn ngoan thông minh và không tới nỗi "đặc cán mai", còn theo năm tháng cây trái, đời người thì nó chỉ vừa ươm ươm, hườm hườm, chưa chín hẳn. Cả hai áp dụng cho tôi đều đúng cả, bởi vậy chẳng nên dính vào cái gọi là chứng khoán làm gì. Ấy vậy mà lại dính ! Chừng này vài năm trước, có bao giờ thấy các web site quảng cáo về bourse trên đường hay trên truyền thanh truyền hình đâu, mà bây giờ thì đầy ra.
Đối với tôi, hồi giờ chứng khoán là cái gì xa lạ lắm, có phần nào bí hiểm khó hiểu nữa. Nghe người nào chơi bourse, tôi nhìn họ với con mắt kính nhi viễn chi , bụng bảo dạ hẳn họ biết tính toán thần sầu, và bụng cũng khe khẽ bảo dạ dính vào mấy món ấy làm chi, ít nhiều cũng như cờ bạc. Bỗng nhiên dạo sau này cứ nghe bạn bè chung quanh chơi bourse, và còn trách tôi dại, để tiền nằm chết nhà băng làm gì, như thể tôi có tiền rừng bạc bể !
Lại có thằng cháu học marketing, ý đồ học xong sẽ về Việt Nam mở hội xã làm web site. Muốn mọi việc khả quan, nó phải có tay chân khắp nơi, bên Mỹ có các em con cô, bên Đức có các anh chị con cậu, còn bên Pháp thì ngần ngại gì không tôi luyện cho bà cô "huờm huờm" dẫu rất thông minh nhưng luôn luôn... chậm hiểu ? Thế là nó nhồi sọ tôi bằng cách rao giảng những bài học về marketing, về bourse, như cha đạo rao giảng Thánh kinh cho dân bản xứ thời đại đồ đồng . Nó dí vào mũi bắt tôi đọc các báo
Business week, Marketing magazine và giải thích khi nào nên mua, khi nào nên bán, nên mua cái gì, nên tránh cái gì, như Moise chăm chút Mười điều răn. Tôi nghe, ư hử, như gặp một anh chàng tán vụng, và đọc, ậm ừ, như đọc quyển tiểu thuyết viết tồi.
Thế rồi một ngày nắng đẹp, trong tôi ý muốn "cờ bạc" háo hức đâm chồi. Tôi phôn cho bạn Quỳnh, để nhờ phu quân Quỳnh dẫn dắt trên bourse lộ. Qua điện thoại, anh giải thích thế nào là cách thanh toán tức thì, thanh toán vào cuối tháng, và nhiều thứ lỉnh kỉnh khác... Kể cho anh nghe thằng cháu tiên tri là tôi chơi bourse được vì về mục tiền bạc, tính tôi cool . Và để cho anh an lòng chỉ giáo, tôi xác định là được hay thua gì cũng không khổ sở đâu bởi vì "không có máu cờ bạc". Nghe vậy, anh hỏi : toa biết chơi cờ bạc gì ? Tôi mau mắn trả lời "xì lát, cát tê", tức thì nghe tiếng cười bên kia đầu giây có phần nào... khinh bỉ.
Tôi bắt đầu mở công trên internet. Khi nhận giấy tờ đầy đủ, một hôm sau giờ làm việc, tôi tới nhà thọ giáo phu quân Quỳnh mà từ đây tôi tôn vinh làm sư phụ. Sư phụ hỏi :
- Chị biết gì về bourse ?
- Khi nào xuống thì mua, lên thì bán.
Sư phụ cười, lại cũng có phần... khinh bỉ :
- Xuống mua lên bán là tự nhiên rồi, nhưng cái đó chỉ là mua bán. Còn cái mà tôi hỏi là cái culture của chị về bourse kià.
- Tui hổng có cun-tua nào cả.
Và tội nghiệp, sư phụ lại bắt đầu chăm chỉ nhét vào não tôi thế nào là cách thanh toán tức thì hay cuối tháng... Tôi ngắt lời :
- Xin lỗi anh Dũng nghe, tui nói cái này không quên mất. Quỳnh ơi, lan á mà, muốn cho nó sống lâu thì mỗi tuần phải ngâm trong nước rồi rút ra, chớ không phải xịt nước sơ sơ như Quỳnh làm đâu... Ơ`, cây đó cũng vậy.... Ơ , nếu chết tui đền. Xong rồi anh Dũng, mua thì nên trả cuối tháng phải không ?
Khổ công giảng giải xong, sư phụ cho thực tập trực tiếp trên máy để nhìn cho quen từng mục, từng khung, từng chữ họ dùng, cách ra lịnh mua, ra lịnh bán... Sư phụ mở cho tôi xem trong công mình, sư phụ mua 100 cổ phần Cap Gimini, mỗi cái hơn bạc trăm. Và dĩ nhiên sư phụ không quên nhắc đi nhắc lại là bourse luôn luôn tính bằng Euro, không phải đồng quan Pháp. Sau đó sư phụ còn cho báo và sách về bourse cho học trò tiện bề tìm hiểu mở mang kiến thức.
Tối cơm nước xong, tôi bắt đầu nghiên cứu. Có những công ty thấy đồ biểu chỉ đi xuống với lời khuyên "nên tránh", tôi chép miệng :
- Tội nghiệp, mấy cái này nên mua cho nó có tiền mà ngóc đầu lên chớ sao lại khuyên phải tránh.
Thằng cháu cười, chẳng cần trí tuệ siêu việt cũng thấy trước là chi nhánh nó bên Pháp có cơ sụp đổ, bèn thuyết pháp :
- Bourse là chỉ có tiền, không có tình, nhất là thứ tình trắc ẩn dấm dớ.
Động lòng thương người sa cơ thất thế mà cho là dấm dớ, cái bọn trẻ mới vô tâm làm sao !
Chiều hôm sau ở sở, tôi mở bourse trên internet ra rình. Nhớ lời sư phụ dặn : trong ngày, nếu xuống giá thì khoảng gần năm rưởi tức giờ đóng cửa là hạ giá nhất. Xem ATOS, là một cổ phần về các hoạt
động kỹ thuật, giá giờ mở cửa là +3, mà tới năm giờ chiều xuống -4, ai mà mở hàng nặng viá ác nhơn ! Gượm đã, chưa vội. Tới năm giờ hai mươi hạ xuống -4,7. Không mua thì chờ đến bao giờ ? Người tôi nóng ran, tẩu hoả nhập ma, bắt tay vào trò đen đỏ - một trò đen đỏ có tính toán, có giấy tờ hợp pháp, có cun-tua. Y chang sư phụ, tôi mua 100 cổ phần, lẩm nhẩm trong bụng : chỉ mới xài 1 phần 5 số tiền mình có, bèn ra lịnh mua 50 cổ phần ALCATEL, là cổ phần về phương tiện truyền thông của Pháp. Nhưng nhờ máu cờ bạc tới kịp lúc, tôi cho giá thấp quá, chưa mua được.
Qúy vị ạ, chiều tối tình cờ bạn thằng cháu phôn tới nhà, cậu này người Nhật, có biệt danh "gác dan triệu phú", chuyên môn chơi bourse mua một ăn trăm. Tôi hỏi nên mua cái gì, bởi vì "tôi còn tiền". Cậu ấy tính ra và nói vous chẳng còn gì cả, vì bourse tính bằng Euro, 100 ATOS là đã quá số tiền vous có. Cậu ấy tuy không có ý hù doạ, mà vì không tâm lý nên thòng một câu rất trung ngôn nghịch nhĩ :
- Nếu vous mua trả ngay thì máy đã từ chối rồi. Mà nó không từ chối tức là vous mua kiểu trả cuối tháng. Nhưng vous coi chừng, mai là huýt-ken đóng cửa, vous chỉ còn thứ hai và thứ ba để thanh toán, không thì coi như fichu !
Trời ạ, fichu là tiêu tùng, là đi đong ! Lúc đó tôi mới thấm thía thế nào là tá hoả tam tinh, bởi vì khi mua, những điều nhồi sọ của thằng cháu, những lời vàng ngọc của sư phụ dẫn nhau tung tăng ngoài phố : trong đầu tôi chỉ có đồng quan nên đã tiêu gần gấp bảy số tiền tôi tưởng ! Vội vàng phôn cho Quỳnh, sư phụ chưa về, tôi phôn lần hai, sư phụ cũng chưa về, Quỳnh an ủi :
- Thôi không sao đâu, chắc nó không enregistrer cho chị đâu, vì nó tưởng chị điên. Chỉ có người điên mới chơi như vậy chớ người
bình thường đâu có làm kỳ cục vậy.
Dĩ nhiên chẳng ai thích mình bị coi là điên cả. Nhưng trong đời, đó là lần đầu tiên tôi ao ước được người ta cho mình điên, muốn quá đỗi, muốn sốt cả ruột là sao xe cứu thương có còi hụ chưa tới chở mình đi an dưỡng viện tâm thần ?
Lần thứ ba phôn thì sư phụ đã về, đã nghe Quỳnh kể lại, đã xì nẹc la vợ, rằng xúi tôi chơi bourse làm chi, rằng tôi cứ tưng tửng, đang nghe giảng giải về bourse lại bày cách tưới lan... thêm nữa hôm đó sư phụ có tin tức chính trị không vui (chính trị thì làm sao vui được !), mà sư phụ lại là người ôm lo chuyện quốc gia đại sự... tóm lại, tôi quýnh thêm. Mà không dám thổ lộ với nhà tôi, bởi nhà tôi luôn luôn chủ trương như John Steinbeck là không giỡn mặt với mấy thằng nhà băng được vì chúng là những con qủy khát máu. Trong trí tưởng tượng rất marketing, tôi thấy nhà tù ngay trước cổng, tiếng còng số tám và chià khóa nhà lao leng keng, và hình ảnh tôi yểu điệu thục nữ xênh xang giữa hai ông gác ngục sẽ làm nhà tôi vốn gầy sẽ còn trơ xương thêm nữa ! (Trong lúc sợ như gặp ma với hình ảnh ấy, kỳ cục, tôi chợt nhớ tới câu thơ Nguyễn Hồi Thủ : Em bước đi gío thổi áo bên đường, sợi tóc nhỏ một mình còn ngoảnh lại... Nhưng chắc chắn chẳng một sợi tóc nào của tôi ngoảnh lại cả, vì chúng mải dựng ngược hết rồi !).
Nhưng tạ ơn trời, tôi có thằng cháu bằng vàng y (hay chí ít thì cũng mạ vàng), vừa về nghe cô thầm thì kể, nó cười an ủi : Thì có gì đâu mà lo, ngày mai Năm cứ gửi chéque thêm vô công là xong chuyện chứ gì !
(Nói thì tỉnh queo vậy chứ trong thâm tâm, chẳng cần xem quẻ hay ông tiên nào báo mộng, nó cũng thấy là hội xã của nó sẽ không có chi nhánh bên Pháp nữa, và đem câu chuyện này kể cho bạn bè
nghe cho tiếng cười đám trẻ thêm rôm rả. Đến nỗi mà thỉnh thoảng phôn gặp tôi, bạn nó thường hỏi cô độ này ra sao cô, ăn thua cô ? Bố, vô tình tôi thành dân đỏ đen may rủi ! Và từ đó thằng cháu cũng thôi không harceler tôi bằng những tài liệu về marketing và bourse nữa ! Ouf !.
Về phần tôi thì dù cháu an ủi gọn trơn vậy chớ chắc gì, nó có bao giờ chơi bourse đâu, chỉ lý thuyết sách vở. Những người thực hành như sư phụ tôi và bạn gác dan triệu phú của nó còn ngại kia mà ! Thế là trong bóng đêm, cái bóng đêm luôn luôn quái ác đen tối, cái bóng đêm luôn luôn đưa ma dắt qủy về trần, cái bóng đêm chứa chấp những con mắt rình mò gài bẫy, cái bóng đêm làm đầu óc con người u ám hơn, rối loạn hơn, nó khiến tôi nhớ tới mọi điều... Từ em trai một chị bạn bên Mỹ, chơi bourse làm sao mà cuối cùng tiền bạc xách bóp đi ra, xe hơi lộng lẫy ba chiếc chạy ra, nhà cửa to như lâu đài xích ra, cô vợ nhỏ nhắn xinh tươi cũng hân hoan ra nốt. Bù lại những khoảng trống kinh hoàng đó là bịnh gan, bịnh bao tử và bịnh thận hăm hở đi vào. Tới một cô bạn đi Mỹ về, kể là tới thăm gia đình bạn như lời hẹn trước, nhằm ngày húy kỵ, bạn hổn hển mắt không rời máy :
- Tuyết ơi, xin lỗi nghe, cả gia tài mình chỉ có bữa nay, nếu không thì mình sạt nghiệp... Tuyết ngồi chơi, anh rót nước cho Tuyết... Anh ơi cái này bán không... Không hả ?... Đói bụng hả con, có cheese trong tủ lạnh... Chuyện gì ? Tự lo lấy, đừng gọi mẹ nữa... Trời ơi anh không cho em bán, mất ba ngàn đô của em rồi... Cái gi, đau bụng hả ? Thì thuốc trong tủ... Anh ơi còn cái này bán được chưa ?... Còn cái này nữa... Trời ơi, hụt rồi... Ư ` Tuyết à, phải theo dõi từng phút vậy đó... Chết em rồi anh ơi !... ).
Sáng hôm sau chờ nhà tôi đi làm, tôi phôn nhà băng, lụp chụp tâm tình, rằng lần đầu tiên tôi "chơi" bourse, chẳng hiểu ất giáp gì, làm ơn coi dùm thử tôi có gì... không ổn không . Cô nhân viên cười, tiếng cười của dân nhà băng khi mình chưa sập tiệm nghe có vẻ ưu ái kể gì. Cô xem trong máy, xong vui vẻ trả lời là "không có vấn đề ", dĩ nhiên vẫn cứ phải là chỉ còn ít hôm để thanh toán, nếu không thì reporter cho tháng sau, và trả tiền lời. Trong buổi sáng đó, ATOS tăng giá mỗi cái 7 Euro, nếu khôn hồn bán ngay đi vài chục cái thì không những không nợ nần chi mà lại còn lời. Nhưng tôi đã dại hồn, chẳng vì hoàng tử nào cả mới buồn, lẳng lặng châm tiền vô nhà băng ! (Khổ, đồ biểu chỉ có khi chuyện bán mua đã thành quá khứ, phải chi có đồ biểu tương lai thì dễ chịu xiết bao ! A, phải chi mình theo thằng bé Martin trên chiéc xe thần sầu của Doc. đi ngược về quá khứ tìm mua quyển Almanach !).
Hôm sau xoa đầu nhức cho tôi, thằng cháu hỏi :
- Sao tóc hôm nay cứng dữ vầy Năm ?
- Ơ `, tóc nhuộm nó vậy.
- Chớ không phải vì bourse sao ?
Hai cô cháu cười như pháo, tôi thủ thỉ :
- Từ nay mua gì thì vài ba cái thôi há ?
Nó cười càng to không nói gì, tôi thêm :
- Tại thấy thầy tao mua 100 cái, tao phải làm cho giống thầy chớ !
Vậy, rồi ông Bush lên ngôi, kinh tế Mỹ xuống dốc. Chẳng biết tội lỗi do ông hay không, nhưng ai cũng nói tại ông Bush. Ông Gore
thắng hay Bush thắng mặc kệ, Nissan bán cho Renault hay bán cho Peugeot mặc kệ, Chirac chơi xỏ Jospin hay Jospin chơi xỏ Chirac mặc kệ, nhưng mấy cái chứng khoán tôi mua phải vững như đồng chớ ! Ấy vậy mà không. Tiếp theo vụ 11 tháng 9 năm 2001 làm cái gì cũng lăn lông lốc. Những đồng chứng khoán của tôi ê ẩm cả người vì mới he hé đầu lên là bị té sụp xuống, bầm dập. Chúng nó không có hình thù không có linh hồn, nhưng bà chủ nó, mỗi tuổi là một kí lô, bề thế nặng nhọc ra gì, nên nó càng tuột dốc thì bà chủ càng chóng mặt kinh người ! Mỗi lần trong xe nghe tin tức tới chỗ nói về bourse là tôi tắt máy vì an toàn trên công lộ, bởi nghe giá chứng khoán thì xuống, mà cô xướng ngôn cứ hân hoan ..." La bourse, nghỉ, avec, nghỉ, Jean-Pierre Gaillard... ard... ard... ard...". Chứng khoán, với J.P. Gaillard. Và vì Gaillard có nghĩa là vui, nên cô kéo dài giọng ra, nghe cô đang tủm tỉm thú vị lắm, như thể chơi bourse đi bà con, mại dô, hấp dẫn vô cùng, sắp thắng to... thì ai mà chẳng động lòng trần !
Thằng cháu rể bên Mỹ làm lương rất khá, một hôm hồ hởi : - Chà, đời mình từ ngày qua Mỹ lên như diều. Có vợ, có job. Đời ai thay đổi mỗi nâm chớ đời mình thay đổi mỗi tuần ! Đúng như rằng, tuần sau từ sở phôn về cho vợ : - Thy ơi, mất job rồi ! Thằng cháu học marketing trở về Việt Nam mở công ty, và có bạn gái, nó viết thư : "đời con thay đổi mỗi ngày". Tôi trả lời : "còn đời Năm thì thay đổi mỗi phút !" Bởi vì giá bourse báo tin mỗi giờ 60 lần. Đó là hậu duệ phim Three seasons của em nuôi Tony Bùi.
Tôi trở lại kính nhi viễn chi, cứ nhắm mắt dể đó chờ nó... ít nhứt là huề vốn thì bán ngay rồi ca bài Thôi, cao giọng. Người khôn thì vì lợi ích mười năm trồng cây, mình dôn dốt thì vì lợi tức hằng năm,... rình bourse !
MIÊNG
Paris, 10 Juil. 2000-18 Juillet 2002
CHỪNG TÔI ĐI…
Normandie, thứ hai…
- Làm gì đó bà Nguyễn?
- Viết thư cho con.
- Sướng nhỉ, có con để viết thư. (Trầm ngâm) Lần cuối nó thăm bà là lúc nào?
- Từ tết.
- Tám tháng rồi. Vậy cũng được, cũng hơn là tôi chẳng có con để thăm.
Hai cụ nhìn nhau. Ánh đèn nê ông nhàn nhạt trắng và chiếc áo bà Nguyễn bông hoa màu xanh bầm dập. Bà Thomas dong dỏng, hơn bảy mươi mà còn phong độ, chép miệng:
- Mới đó mà đã bốn ngày rồi. Phải chi được ở đây lâu lâu bà nhỉ. Khí biển tốt cho tụi mình lắm bà.
- Nhất là nếu bà có được bộ bikini màu đỏ trong cửa hàng hôm qua thì càng tuyệt.
Hai cụ phì cười chân tình, mắt nhíu sụp xuống. Bà Thomas vùng đứng lên hát oang oang, uốn éo nhảy rồi điệu đàng ẹo tay bên hông làm người mẫu:
- Hồi xưa tôi chỉ diện màu đỏ thôi bà ạ. Mỗi lần ra đường là phải biết nhé, chàng nào chẳng lé mắt.
- Tôi có thấy ông Tây nào bị lé đâu?
Hai bà cười ha hả. Bà Thomas lắc đầu mơ màng:
- Thời gian nhanh quá. Tôi còn thấy mình đi nhảy đầm với tụi bạn và uống cả Vodka kia mà. À này, bữa cơm tối nào cũng được nhâm nhi chút Calvados, thích quá bà nhỉ. Chủ nhà quả là phước đức. Ông Henri lại còn kèo nài “Cho thêm tí nữa đi con gái. Hồi xưa một mình ông uống cả chai lận mà”. Các cụ chẳng khác trẻ con được đi chơi tay cầm que kem tay cầm bong bóng.
Hôm mới xuống, đài truyền thanh phỏng vấn, khi hỏi được đi hè như vầy vous thích không, một cụ trả lời :
- Tuyệt vời. Cả chục năm nay tôi chưa được đi hè.
- Con cụ không bao giờ dẫn cụ đi hè sao?
- Ối, nó cóc cần biết đến tôi nữa.
Tối, ngồi trò chuyện sau bữa cơm, bà Nguyễn nói ông trả lời vậy con ông nghe, nó buồn tội nghiệp. Cụ hứ một tiếng rõ to:
- Dù có nói tên chưa chắc nó nhớ là cha nó, huống chi không nói tên. Cả chục năm nay nó không gặp tôi thì làm sao nhận ra giọng?
Một bà thì cười cười:
- Con gái tôi ở đầu bên kia Paris, nó bận bịu lắm không thăm tôi được. Chừng tôi đi, chắc gì gặp nó. Trước kia tôi làm lụng vất vả siêng năng, bây giờ tôi vô dụng rồi.
Ở viện các cụ suốt ngày xem télé, đánh bài, soạn ra soạn vào mấy tấm hình, mấy bộ quần áo, vài hộp phấn son, cái lược, cái kẹp, cây vợt tennis, bộ cờ… từ đời nào. Có bà thay chiếc áo vía thời xưa, tung tăng ra vào cười nói với mình trong gương. Mấy cụ mới vào thì lục lọi mãi cái xắc tay, gặp ai cũng níu áo khóc, nhờ đưa về nhà. Mọi câu chuyện đã được nhai đi nhai lại đến thuộc lòng, vậy mà nhiều cụ vẫn kể. Cũng có khi các cụ ngồi sững chẳng biết làm gì, chẳng biết bá láp gì với nhau, chẳng buồn nhìn nhau. Nhiều cụ mở miệng ra là cau có gây gổ, “Ai khiến bà lấy giùm tôi, bộ tôi chẳng có tay à”, hoặc “Ông uống nước mà cứ như xe cứu thương hụ còi, ồn không chịu được”, hoặc “Làm ơn đi nhanh lên một tí được không. Bà đi hay tính nằm vạ ở đây?”. Nhưng hôm nào các cụ kiểu này uể oải nằm im thì mọi người lại lăng xăng thăm hỏi.
Mỗi chiều xe ca chở họ ra biển. Xe chạy rất chậm ngang qua phố, các cụ trằm trồ nhìn cửa hàng thời trang như chợt khám phá ý nghĩa của chữ “áo quần”. Và trong những cái đầu bận bịu mệt mỏi kia có chút gì hối tiếc tràn ra ánh mắt. Các cụ nhao nhao “Cho xuống dạo phố chút. Hồi xưa tôi có tiệm nữ trang mà”. “Còn tôi thì có tiệm cà phê thuốc lá”. Các cô bán hàng trắc ẩn nhìn các cụ đi hàng một, rạo rực mà lù đù rảo qua dãy tủ kính hầu hết cho thế hệ sau.
Xe đậu bên hàng cây dọc dài bãi tắm. Nhân viên dìu xuống từng người, chậm chạp, cuối cùng là mấy xe lăn. Nhiều cụ sững ra thấy biển lần đầu, quắn quíu hỏi rồi nó dẫn tới đâu, sao mênh mông chẳng thấy bến bờ, đi ra giữa biển thì sao, có cầu không… Các bà còn trẻ như bà Nguyễn, bà Thomas cùng ba bà nữa lăng xăng giúp
các cụ sửa cái mũ, quấn lại cái khăn, kéo nếp áo… Một ít cụ hớn hở tới ngấp nghé bìa nước, vẻ mặt ngây ngô cười như trẻ con kêu réo nhau chẳng khác lần đầu khám phá là trời có sinh ra… chất lỏng. Xe lăn trên biển là hình ảnh đặc biệt. Nhiều người nhường chỗ cho đám ông bà lụm khụm đầu cứ muốn gục xuống mà cố ngước lên nhìn mặt nước bao la và lũ diều giấy lao chao.
Bà Nguyễn nhìn ra xa chép miệng nói với bà Thomas đang bôi kem chống nắng:
- Tôi nhớ bà Kính cả đời cứ ước ao thấy một lần cho biết biển. Phải chi còn sống đến hôm nay thì được toại nguyện rồi.
- Bà ấy chết bao lâu rồi nhỉ.
Bà Nguyễn bấm ngón tay:
- Chín tháng bà ạ.
- Ừ, vừa đủ thành hình một sinh linh mới.
Mặt bà Nguyễn buồn buồn:
- Bà có nhớ hôm tẩm liệm bà ấy không, trời mưa tầm tã, nhân viên kháo nhau kiểu này thì cỏ sẽ tràn lan trước khi đến kỳ người ta cắt.
Bà Thomas xếp ống kem vào túi xách, mang kính mát:
- Bữa đó chỉ một mình bà sụt sùi. Đồng hương duy nhất của bà mà. (Chép miệng) Nhớ các cụ ngồi đối diện quan tài mà như chẳng thấy gì trước mắt.
- Bọn tôi thường rù rì tiếng Việt với nhau. Nhiều khi đang líu lo tỉnh táo, chợt bà ấy ngơ ra rồi vùng dậy bỏ đi. Có hôm đi biệt vì nhằm lúc xe thức ăn vào, cổng chưa kịp khoá, bà nhớ không. Vài lần rồi người ta cột chặt bà ấy trên ghế. Những lúc đó tôi luôn luôn ngồi bên cầm tay bà thủ thỉ… Từ khi bà ấy mất thì tôi câm một nửa rồi. Thủ thỉ tiếng Pháp không thấm bà ạ. Xin lỗi bà nghe.
Hai bà cùng cười, bà Thomas thân mật vỗ vỗ vai bà Nguyễn. Bà đầm này tánh tình nhanh nhẩu dễ cảm xúc, cười cũng nhanh mà trào nước mắt cũng nhanh, mím môi run run mặt rừng rựng đỏ. Bà Nguyễn kéo hộc tủ:
- Sau đám tang, con gái bà ấy cho tôi đồ đạc, mà tôi chỉ nhận cái gương này với cây quạt trầm.
- Chừng tôi đi, bà muốn để lại cho bà cái gì?
- Gì cũng được, đừng có bikini màu đỏ thôi.
Hai bà cười sảng khoái. Cô nhân viên quét dọn bước mạnh như lính ngang phòng, nhìn vào cười theo.
Hồi chiều truyền hình lại đến quay phim phỏng vấn. Họ quay cảnh dân nghỉ hè trên biển, chợt thấy các cụ, vội ào đến. Bữa nay họ hỏi cảm tưởng bà Nguyễn thế nào khi được nghỉ hè ở đây. Bà trả lời là nhớ day dứt thời xưa, thời thằng con trai chạy tung tăng bên mép nước mỗi lần ra biển. Họ hỏi sao con không dẫn bà đi hè, bà nói con có vợ và hai đứa nhỏ phải lo, mà bà thì chậm chạp vướng víu quá rồi. Họ lại hỏi bên Á Châu thường là con cái nuôi cha mẹ già, sao con vous lại để vous vào viện? Bà mỉm cười trả lời nhập gia tùy tục, chúng tôi sống trên đất Pháp và con tôi phải làm công dân hữu ích
cho nước Pháp thì không thể có thì giờ nhiều cho mẹ được nữa. Rồi bà quay đi, mặt đỏ gay không phải vì chiều còn nắng gắt.
Xem truyền hình, chuyện bà Bettencourt và con gái bất hoà nhau, có cụ bĩu môi “Mẹ con thế thì giàu sang cũng có sướng ích gì”. Cụ khác nói: “Vẫn hơn mình nghèo, dù sao con chống lại thì bà ta cũng có tiền. Và coi, còn bao nhiêu người hầu hạ. Mình mà con bỏ thì chẳng còn gì dính da”. Rồi cụ khác: “Với lại có tiền thì mình đếch thèm vào cái xó này. Nhiều viện khác tốt lắm, mà dĩ nhiên dành cho dân ăn trên ngồi trước chớ không mạt rệp như mình”. Ông nói câu này là người luôn luôn cay cú, thỉnh thoảng nạt nộ nhân viên. Hồi bà Nguyễn mới vào, một hôm trời rất nóng, cáu vì chờ lâu mà chưa được đến phiên đi tắm, ông càu nhàu nhìn bà như phóng dao:
- Bà người gì? (Bà chưa trả lời) Sao bà không ở xứ của bà?
Kiểu kỳ thị, bà lầm bầm: Đồ già dịch. Vài tháng sau bà Kính vào, ông lại nói đổng khơi khơi lúc trong phòng ăn:
- Người ngoại quốc làm gì ở đây mà lắm thế nhỉ?
Không nhịn nữa, bà Nguyễn đứng lên nói to:
- Này ông, tôi hy vọng ông biết đọc biết viết chớ?
Mọi người ngừng dao nĩa nhìn lên. Chưa hiểu, ông ngớ ra, bà rất bình tĩnh :
- Nếu ông biết đọc và còn đọc được thì nên vào thư viện mượn sách lịch sử mà đọc. Không nên chết ngu, phải biết rành ít nhất lịch sử nước mình ông ạ, thì ông sẽ hiểu tại sao người ngoại quốc ở đây. Trên quê hương ông, chúng tôi phải làm việc cật lực mới có ăn
chớ không phải như cha ông của ông cướp bóc tài sản và giết hại dân lành chúng tôi đâu.
Các cụ vỗ tay. Còn ông ta thì đỏ mặt im re. Bữa đó bà Nguyễn chẳng ăn mà vẫn no nê.
Thứ ba.
Chiều nay được đi phố ăn kem. Bà Nguyễn chọn sô cô la nóng, nức nở khen sô cô la tiệm có khác, thơm tho đậm đà. Có cụ vừa để muỗng kem vào miệng vừa rùng mình hít hà vì lạnh, nhưng coi bộ mãn nguyện lắm. Có cụ mỗi lần được uống gì ngoài nước là đòi Coca, Coca “nóng”, phải hâm. Ở viện thì chẳng ai lạ lùng gì, nhưng ở đây nhân viên phụ trách phải giải thích, cô phục vụ được một mẻ cười và hoan hỉ đặt ly Coca vào micro-ondes, nhún vai “Tại sao không !”.
Nắng ấm áp. Các cụ nhìn thanh niên dãy bàn bên cạnh, nhìn người người qua lại ngoài đường. Đúng là hai thế giới, động và tĩnh. Hai thế giới nhìn nhau xa lạ (không, chỉ thế giới tĩnh giương mắt nhìn), không có gì chung ngoài bầu không khí mùi vị mằn mặn biển khơi. Nhìn trai gái tự do ôm hôn ngoài đường, bà Nguyễn hích bà Thomas:
- Bà còn nhớ chuyện của hai cụ gì nhỉ, à, ông Merlet với bà Decours không?
- Úi dào, nhớ buổi sáng đó mà lạnh xương sống. (Co hai tay như chạy) Tiếng chân thình thịch tất bật tới lui, rào rào to nhỏ, tôi nghe loáng thoáng “Tởm quá, tởm quá”! Hai cụ nằm chung phòng ấy mà, nhân viên rú như thấy ma. Họ dùng chữ “ghê tởm” với ánh mắt khinh bỉ. Bà cũng nhớ nhỉ.
- Lúc đó tôi ngẩn ngơ: thương yêu thì có gì ghê tởm? Vả chăng vào đây thì còn gì vui, nếu thương yêu nhau được là sợi giây duy nhất để các cụ bíu vào cho bớt quạnh hiu. Bà Kính trợn mắt thúc hông tôi: Chớ nói nghe, họ lại tưởng bà cũng muốn ở chung với thằng cha Jacques.
Hai cụ cười vang, răng bà Thomas đều đặn, một chiếc bên tay trái hơi khểnh duyên dáng. Mấy cụ khác bất mãn:
- Hai bà lúc nào cũng rù rà rù rì. Có gì vui thì kể to lên cho thiên hạ nghe với chớ.
- Chúng tôi nhắc lại chuyện cụ Merlet ấy mà.
Cụ bà mặt và tay nhiều khoan trắng bạch tạng, gật gù hất vành mũ lên:
- Ừ nhỉ. Dạo đó rồi người ta tách rời hai cụ, chuyển cụ ông đi viện khác. (Chép miệng) Tội nghiệp, bà Decours chẳng khóc than gì, chỉ ngẩn ngơ không ăn uống. Hơn một tháng sau bà thất thanh gọi tên ông rồi lặng lẽ ra đi. Khuôn mặt tái ngắt như chết đi chết lại nhiều lần. Trông khiếp lắm. (Thở ra) Mà vậy cũng hay. Chừng tôi đi thì chẳng biết gọi ai.
Cụ ông bàn bên cạnh vét thìa kem cuối cùng, đằng hắng:
- Người ta đưa ông Merlet đến nhưng đã trễ gần hai tiếng. Chính tôi theo nhân viên dẫn ông cụ đến phòng bà Decours chớ ai.
Bà Thomas gỡ kính khỏi sống mũi, thấm tí nước bọt lau chỗ có vết mờ:
- Lúc đó buổi trưa, các ông bà nhỉ, và mùa xuân Paris tràn ngập cỏ hoa…
- Nhìn kìa bà, người ta dắt chó đi chơi nhiều chưa.
Các cụ chép miệng thèm thuồng:
- Phải chi mình được nuôi một con, ít nhất cũng có người quấn quýt.
Paris, thứ bảy…
Nhóm các cụ đã về Paris chiều thứ sáu. Mệt đừ.
Hai ngày cuối cùng dưới Normandie ai cũng muốn tận hưởng trời và biển. Họ nhìn theo mặt trời lặn đến khi nó hoàn toàn mất hẳn sau hàng rào rồi thở dài vào nhà, hơi lạnh đã quấn quanh người. Đêm, mọi người ngồi ngắm trăng, nhất định cho rằng trăng Normandie sáng hơn, trong hơn, an lành hơn trăng Paris. Có cụ quát tháo “Đi ngủ hả? Cả đời ngủ chưa đủ sao? Chẳng mấy thuở được thấy trăng như vầy mà đi ngủ, đồ gàn”. Người kia ở lại, khúng khắng ho. Những thân hình sù sụ áo quần và quấn khăn sùm sụp dưới trời hè, lù lù giữa sân như đám bụi cây.
Buổi sáng chờ lên xe về Paris, mọi người sững lại dưới nắng: ông chủ nhà này, ân nhân cho nhóm họ đi hè, lại xuất hiện như Thiên Chúa, tặng quà. “Ôi Chúa lòng lành nhìn xuống mà ban phước cho người tốt bụng”. Quà trên tay, các cụ cứ nhìn mãi khu vườn rực rỡ cỏ hoa cắt tỉa. Những bánh xe lăn cứ lún xuống, trì lại, và những bàn chân run rẩy liêu xiêu đạp sỏi lạo xạo lối đi. Bà Nguyễn thì thầm với bạn:
- Tôi hồi tưởng căn nhà cha mẹ mình, thời thơ ấu tôi chập chững những vòng xe đạp. Rồi lập gia đình cũng có khu vườn nho nhỏ nơi vợ chồng tôi theo sau thằng con bi bô loạng quạng đuổi gà…
- Thôi đừng ủy mị nữa bà. Bớt nghĩ tới nó đi. Nó có nhớ bà như bà nhớ nó đâu.
Bà Nguyễn đăm chiêu:
- Chừng tôi đi chẳng có gì để lại cho con cháu. (Thở dài) Bên tôi có câu Đoạn trường ai có qua cầu mới hay. Không qua cầu thì, phải nhìn thấy tận mắt mới biết, bà Thomas ạ.
- Biết cái gì?
- Ví dụ… những cuộc đời bị đời bỏ bê quên lãng. Như tụi mình. - Que kem đã chảy hết rồi và bong bóng đã bay.
- Nghĩa là sao?
- Là cảnh các cụ, là tụi mình, những bộ xương bọc da hay bị thịt nhão nhoét nặng nề chực ngày bốc mùi chết chóc.
- Bà văn chương quá vậy bà.
- Chuyện, hồi trẻ tôi là nhà văn. Enfin, không hẳn, nhưng cũng có viết lách chút đỉnh.
- Hèn chi! Hèn chi có người nói đôi khi bà nói chuyện như đọc sách.
Hai cụ bật cười dòn dã, mặt rạng rỡ trẻ ra chục tuổi. Vẫn còn cười là vẫn còn sống được.
Tiếng gõ cửa. Nhân viên đưa bà Nguyễn tờ giấy A4.
Sửa kính ngay ngắn, bà lẩm nhẩm đọc: “Mẹ, ba tháng qua con phải mua xe mới, rồi lo cho trẻ nhỏ đi hè. Tháng sau thì phải lo mua sắm cho trẻ nhỏ tựu trường, tốn kém lắm. Mẹ thông cảm, cho con khất vài tháng nữa rồi sẽ gửi trợ cấp cho mẹ, mẹ nhé. Thương mẹ nhiều”. Bà Nguyễn gật đầu, ừ, được mà con.
MIÊNG
Paris, août 2010
CUỐNG RỐN
T
rời vẫn còn đêm. Tấm lụa mỏng đen bao trùm cảnh vật và dưới ánh đèn bệch bạc, khu phụ sản như không bao giờ biết ngủ. Những chiếc áo trắng tới lui lúc vội lúc khoan. Thỉnh thoảng tiếng trẻ sơ sinh ré lên rồi im lặng, còn lại âm thanh cười nói nhẹ nhàng của những người chăm lo phần sinh nở. Mùi tanh máu thoảng trong không khí và tiếng vật dụng kim loại khe khẽ vang lên trong phòng mổ. Rồi một chiếc băng ca đẩy đi…
Người đàn bà trẻ nhắm mắt, cựa quậy khó khăn như có gì đè lên người. Búi tóc xổ lỏng lẻo ơ hờ trên gối và khuôn mặt xanh xao chưa qua hết cơn đau. Bác sĩ đến gần:
- Bà khoẻ chứ ?
Mắt vẫn nhắm, chị đưa bàn tay trái run rẩy hướng về phía bác sĩ, giọng lạc đi:
- Bác sĩ, con tôi ra sao ?
- Nó khoẻ mạnh bình thường.
- Con gì? (Sôi nổi) Trai hay gái?
- Tôi đã báo tin mừng cho bà hồi nãy rồi: một thằng con trai, kháu lắm.
- Bác sĩ có chắc không? Có chắc nó là con trai không? Tôi có chiêm bao không đây?
Bác sĩ phì cười không trả lời, hỏi:
- Sao bà cứ nhắm mắt vậy?
- Tôi… sợ nhìn thấy con. Tôi vừa mong vừa sợ nhìn thấy con. - Sao vậy?
- Con tôi, con… trai hay gái hả bác sĩ, nó đâu?
- Trai. Nó đang nằm trong phòng đặc biệt.
Người đàn bà mở choàng mắt hoảng hốt:
- Phòng đặc biệt? Tại sao vậy?
- Bà bình tĩnh, nó chẳng sao cả. Chỉ là phòng hờ bảo vệ trẻ sơ sinh ấy mà. Có người đang bị cúm.
- Nó nằm trong đó với ai?
- Bữa nay có bốn trẻ ra đời, nó nằm với các bạn trong ấy.
Người đàn bà thở ra, lại nhắm mắt. Môi chị run run và giữa hai mí khép lăn tăn giòng nước nhỏ:
- Bác sĩ chắc chắn nó là con trai chứ?
- Tại sao bà cứ hỏi hoài như vậy?
- Vì tôi không muốn… bị là người đàn bà vô sinh.
- Lạ chưa, bà sinh lần này là lần thứ tư mà.
- Ba lần kia đều con gái, là vô sinh. Là không có con. Mà cây độc không trái, gái độc không con. Tôi là gái độc. Tôi vô tích sự. Tôi là người vợ xấu…
Vẻ mê sảng với câu nói lòng thòng ấm ức ấy khiến bác sĩ bỡ ngỡ, dịu dàng đổi cách xưng hô:
- Ai nói với chị lạ lùng như vậy?
Chị lắc đầu quầy quậy rồi bật khóc. Bác sĩ nắm chặt bàn tay trái chị thô ráp, vỗ về:
- Chị nín đi, mới sinh khóc không tốt. Với lại cũng đừng động đậy vết mổ nhiều.
Một lát, giọng chị ngập ngừng, mặt ánh chút hồng:
- Có… ai biết tôi sinh con trai không? Mà có đúng nó là con trai không?
- Sao không đúng, tất cả nhân viên trong phòng hộ sinh đều biết mà.
- Không… ý tôi là… người gia đình tôi kia.
Bác sĩ nhìn quanh phòng. Chỉ là màu trắng.
- Chị đi sinh một mình mà. Nhân tiện chị tỉnh rồi thì cho biết phải thông báo với ai?
Chị xua mạnh tay, lắc đầu:
- Khoan, khoan đã. Tôi phải nhìn thấy con tôi. Phải biết chắc nó là con trai, là nó khoẻ mạnh cái đã. Tôi không muốn bị lầm. Nó đâu hả
bác sĩ? Sao không cho tôi ôm nó? Mọi lần sinh xong người ta đặt con lên bụng tôi mà? Hay ít gì cũng phải cho tôi đi thăm nó chứ?
- Hiện tại chưa thăm nó được vì chị phải nằm yên cho vết mổ đừng bị động cái đã. Còn nó thì phải nằm trong phòng đặc biệt cho an toàn. Bắt đầu ngày mai chị lo tập đi, không được nằm lâu. Y tá sẽ giúp chị. Rồi sẽ tha hồ thăm con.
- Nhưng mà… lỡ người nhà thăm hỏi… (Lắc đầu) Mà chẳng ai thăm hỏi gì đâu. Lần sinh cuối chẳng ai biết tôi đi sinh nữa là. Lần này… nếu là con gái nữa thì…
- Tôi hiểu.
Chị bỗng cao giọng, mặt đỏ gay nói nhanh phát hụt hơi:
- Hiểu cái gì? Làm sao bác sĩ hiểu được? Ông là đàn ông thì hiểu cái gì? Ông có đẻ đái gì mà hiểu? Ngay cả nếu là đàn bà mà không làm dâu, làm sao ông hiểu được? Ông có sinh hoài con gái đâu mà hiểu? Ông có bị gia đình chồng chì chiết đâu mà hiểu? Ông có bị chồng thất vọng rồi nhậu nhẹt say sưa đâu mà hiểu? Làm sao ông hiểu được. Làm sao ai hiểu được… Ông nói dối. Ai cũng nói dối…
Người đàn bà trẻ nức nở đến bật người lên. Bác sĩ vòng tay ôm chị, khe khẽ vỗ vào lưng như người ta dỗ trẻ con. Lâu lắm. Chim rộn ràng líu lo ngoài cửa. Trời bắt đầu ửng sáng. Người đàn bà đã trải qua một đêm chuyển dạ khó khăn phải mổ. Và bây giờ chị khóc, vẻ điên cuồng, như thể những giòng nước mắt không đủ sức cuốn trôi những gì chị đã thốt ra.
Cô y tá vào phòng gọi bác sĩ vẻ khẩn cấp. Ông cẩn trọng đặt chị nằm xuống:
- Chị ráng ngủ một chút đi cho lại sức. Đừng khóc nữa, thằng bé sẽ bị ảnh hưởng cũng khóc theo, tội nghiệp nó.
Và ông đi ra, bỏ lại sau lưng đôi mắt mở to ngơ ngẩn nhìn theo với bàn tay quẹt nhanh nước mắt, vẻ ráng tỉnh táo cho một cái gì thiêng liêng qúy báu hơn nỗi buồn phiền. Có những ánh mắt rất lạ trong đời…
- Cô ơi, cô y tá ơi, làm ơn cho tôi hỏi thăm một tí.
Cô y tá để xe thuốc ở cửa, vào phòng. Thân hình khoẻ khoắn như áp đảo người đàn bà yếu ớt trên giường:
- Chị muốn hỏi gì?
- Con tôi… cô có biết là tôi sinh hôm qua không?
Cô y tá gật đầu:
- Chị mổ. Mọi việc tốt đẹp. Chị ngủ ngon không?
- Không, tôi không ngủ. Tôi muốn biết con tôi. Cô có biết nó không? Biết hả? Con… gì hả cô? Nó là trai hay gái?
- À, cái đó thì tôi mới tới làm ca sáng, chưa biết. Hôm qua sinh bốn đứa, ba gái một trai.
- Ba gái lận à? Vậy thì… con tôi là con gì? Cô vui lòng coi thử giùm được không?
- Sao? Chị thích con gì? Con nào cũng là con của chị mà. Khoan, có gì mà hoảng hốt vậy. Để tôi đi coi cho. Chị tên gì nào?
Khi cô y tá trở về vừa tới cửa, ông bác sĩ gọi giật lại. Qua cánh cửa mở, người đàn bà trẻ nhìn hai người nói chuyện ngoài kia, vẻ chị lo âu khiến buổi sáng chuyển mình u ám. Chẳng biết bác sĩ nói gì, thỉnh thoảng hất hàm về phía giường chị, cô y tá gật lia. Tiếng xe đẩy trong hành lang và mùi bữa ăn sáng rộn rã khắp nơi. Đêm rồi cũng qua và một ngày thực sự bắt đầu…
Cô y tá vào phòng chị vẻ thênh thang, mỉm cười:
- Tin mừng nè, chị có con trai. (Đặt mấy viên thuốc lên bàn) Ủa, chị không vui à? Sao lại đăm chiêu vậy?
Người đàn bà vẫn làm thinh, mặt quay vào tường, vai rung rung. Cô y tá tới gần:
- Cái gì vậy? Tôi chẳng hiểu gì cả. Tại sao chị khóc ? Sinh con trai mừng quá hả? Không phải hả? Chớ tại sao khóc?
- Cô… cô nỡ nào lừa tôi. Tôi thấy hết. Ông bác sĩ biết tôi mong con trai, dặn cô nói dối rồi…
Cô y tá bật cười:
- Chị đa nghi như Tào Tháo. Có, bác sĩ có dặn dò tôi nhưng không phải nói dối. Ông ấy bảo chiều nay giúp chị đứng lên bước tới bước lui cho chị mau khoẻ để có thể đi thăm thằng bé.
- Thiệt không cô? Đừng phỉnh tôi tội nghiệp. Nhưng… hôm qua có tới ba đứa con gái lận mà?
- Thì chị là người duy nhất sinh con trai mà. Thôi tươi tỉnh đi, lát nữa ăn sáng xong uống chỗ thuốc này, vài ngày sau cứng cáp rồi lo cho con.
- Sao không cho nó ra cho tôi thăm một tí hả cô? Làm ơn đi cô.
- Phải có phép của bác sĩ chị ạ. Hôm qua có người bị cúm mà. Chị có muốn thằng bé bị lây bịnh không?
Người đàn bà trẻ chợt im như lỡ lời. Người ta đưa khay thức ăn vào và cô y tá đi ra. Người đàn bà gượng ngồi lên vuốt tóc, ăn uống rất nhanh như đã nhịn đói nhiều ngày. Rồi uống thuốc.
Buổi chiều. Từng bước gường gượng có lúc cắn môi dằn cơn đau, chị bước chung quanh giường, tới chiếc bàn nhỏ, nương nương tới bên cửa sổ. Bên ngoài nắng ngã màu vàng rượm. Cây ăng ten trên nóc nhà ai in bóng lên tường bên kia khoảng sân thênh thang bịnh viện. Dưới sân, nhiều xe hơi đậu cạnh mấy thùng rác to và lối đi lát gạch mon men giữa hàng cổ thụ. Trời vào thu dìu dịu không có gió, chỉ thỉnh thoảng một làn không khí hiu nhẹ như hơi thở người đàn bà bên khung cửa sổ nhìn mông lung vô định ra xa. Trông chị buồn buồn. Rồi đôi mắt quá to trên thân hình ốm yếu như chợt nhớ điều gì, lại chầm chậm từng bước vịn tường. Chiều bịnh viện yên ắng êm ru như thể chuyện đau đớn chết chóc chưa bao giờ có trên mặt đất. Và bước chân chậm chạp của người đàn bà trẻ chẳng gây âm thanh nào như thể chị vẫn còn nằm nướng trên giường. Và cũng im ả như thế, thời gian bay chầm chầm…
Chị ngừng lại đầu giường lắng nghe. Tiếng chân ai có vẻ hấp tấp vội vàng từ hành lang vọng vào. Một hay hai hay ba người rượt đuổi nhau mà không cười nói, trò chơi con người âm ỉ đi kiếm kho tàng. Và họ bước vào phòng chị khi kho tàng còn đứng ở đầu giường, mắt vẫn còn dò hỏi.
Hai cô y tá đến dìu nhẹ đặt chị nằm, cô khác theo sau bác sĩ, trên tay mang một gói nhỏ trắng bốc tinh tươm. Chị chưa kịp thấy vì cô y
tá sửa cho đầu giường cao lên đã che hoạt cảnh ấy. Nên khi bác sĩ đến cúi xuống cầm tay chị thì giác quan thứ sáu đã thình lình đổ chàm lên mặt người mẹ trẻ. Mắt chị mở to như chưa bao giờ. Bác sĩ dịu dàng:
- Chị bình tĩnh nhé. Tim cháu rất yếu ngay từ đầu. Chúng tôi đã làm hết khả năng có thể… Rất tiếc là… Bây giờ chị áp cháu vào lòng đi. Có thể đây là những giây phút cuối cùng…
Cô y tá đặt đứa bé lên ngực chị, nó nhỏ bé thoi thóp như con chim sẻ kiệt sức, lịm người, tai tái. Không một lời, người mẹ ôm ấp con với vòng tay tưởng chừng vô tận. Góc chiếc khăn quấn chạm cứa vào vết mổ. Chị vuốt ve tấm lưng con qua lớp vải bọc, mắt mở to không hồn. Và mặt chị không thể nào tái hơn được nữa. Trong thoáng chốc mọi người nhìn nhau, họ sợ không phải tim thằng bé sẽ ngưng mà là con tim mẹ nó. Chiều bịnh viện dửng dưng mới đây giờ sao mà trịnh trọng…
Những bóng áo bờ lu trắng bất động nghiêm trang, mắt mở như có cây gì chống. Ánh mắt người mẹ trẻ mênh mông. Mọi thứ sững lại, thiêng liêng. Chỉ có hai tay chị như được Thiên Chúa tiếp sức, ngọ ngoạy vuốt ve chiếc lưng con mỏng manh èo uột. Mỗi người mẹ đều có hai tay ve vuốt và một lồng ngực cho con tựa đầu vào… Ba cô y tá quay mặt nhìn chỗ khác, có gì trườn ra từ mắt họ làm rượp ướt lông măng trên má…
Thời gian lửng lơ trố mắt nhìn. Rồi một rồi hai rồi ba rồi bốn… chỉ phút chốc trôi qua hay đã cả trăm năm, hai bàn tay bất động búp bê bỗng cựa quậy phép lành, mấy cánh ngọc lan nhỏ xíu chợt ngo ngoe rựng đỏ. Cổ ông bác sĩ có cái gì chạy lên trụt xuống. Mọi khuôn mặt im sững. Chỉ người mẹ trẻ sinh khí bất ngờ, mắt sáng
rực cuống quýt cầm hai bàn tay nhỏ xíu của con cố cúi hôn nhưng không tới, mân mê hối hả…
Thằng bé ú ớ khóc những tiếng nho nhỏ đầu tiên tặng mẹ rồi hoảng hồn khóc ré trước tiếng cười tiếng la người lớn. Bác sĩ ngỡ ngàng lắp bắp: “Phép lạ! Đúng là phép lạ!”. Người mẹ thì lạc giọng:
- Con trai của mẹ, trời ơi con trai của mẹ!
Người đàn bà đau khổ miệng cười tươi mà đôi mắt tràn lan những nước…
MIÊNG
Paris, Oct. 2010
ĐÈO ĐỘI CẬU
T
ôi cũng gọi ông cậu của nhỏ bạn bằng cậu, cậu Ba. Không phải vì thấy giàu sang bắt quàng làm họ, nhưng lần đầu tiên gặp, ông cứ thản nhiên ngọt như mía lùi xưng cậu, đâm cũng tiện.
Cậu Ba có thằng nhỏ sai vặt cùng tuổi với tôi, con bà Tám. Bà chỉ có mỗi mình nó, hiếm hoi muộn màng. Chồng bà trước khấm khá, cầu khẩn mãi nó chẳng chịu ra. Đến chừng làm ăn với cậu Ba rồi dần dần lụn bại thì nó lại ra, muốn sống cảnh nghèo. Chẳng hiểu hẹn hò gì, trước khi quy tiên ông lại bắt bà hứa phải cho thằng nhỏ đi giúp việc nhà cậu. Lúc nào nó cũng như cái bóng của cậu, chăm nom đèn đóm và phe phẩy quạt cùng làm trăm thứ việc lặt vặt không tên cho cậu. Cậu thường bảo ông đi đâu thì con cũng theo nghe. Xưng "ông" cho ra vẻ chứ cậu còn trẻ hơn mẹ nó nữa. Mỗi lần cậu bảo gì nó cũng dạ. Ngôn ngữ nó nghèo nàn một chữ dạ, chẳng biết nói thêm chữ không bao giờ.
Thế rồi nó có dịp biết Đà lạt vì cậu Ba lên đó dưỡng bịnh. Bà Tám hí hửng kể cho mẹ tôi nghe là bà mừng, vì như vậy nó có dịp biết đó biết dây, chớ ở nhà với mẹ biết ngày nào khôn vì mẹ chưa hề biết chỗ nào xa hơn cổng chợ. Ba tháng sau thằng con về, hỏi Đà lạt có lạnh không, nó nói không vì nhà có sưởi, hỏi Đà lạt bông hoa nhiều lắm phải không, nó dạ ngay, trằm trồ vườn nhà ông nhiều hoa đẹp lắm... Chẳng mấy thuở về với mẹ, ngay cả dịp Tết nó cũng chỉ vù về thăm sáng mồng một, rồi lại phải đi hầu ông. Con cậu Ba thì nhiều, những mười bốn ngườI (năm người du học), hai vợ. Nhưng con nhà giàu thì mải bận học chữ, học đàn và đi chơi, vợ nhà giàu phải lo thù
tiếp, đi đó đi đây, không ai rảnh để hầu hạ cậu. Mà cậu Ba đã đến giai đoạn thổ huyết ngày mấy bận, nên không thể sống mà không có thằng nhỏ hầu bên cạnh.
Chẳng biết gia đình tôi quen biết bà Tám từ khi nào. Chỉ biết bà ngày ngày gánh rau ngang trước nhà hay dừng lại. Trả giá xong xuôi, luôn luôn mẹ lựa trái xấu, lấy mấy trái cà chua hơi dập hoặc trái bầu sướt dọc sướt ngang. Hỏi tại sao, mẹ bảo từ đây xuống chợ còn xa, người ta lựa tới lựa lui còn bầm dập hơn nữa, lỡ bà Tám bán không được, tội. Chắc từ từ cảm cái đức ấy của mẹ, bà Tám hay chuyện trò, tâm sự. Tánh tình bà lúc nào cũng yêu đời, ưa kể chuyện vui và thích thú nhìn chúng tôi cười.
Thế rồi bẵng đi rất lâu không thấy bà Tám gánh rau ngang nhà nữa. Một hôm chúng tôi đang ăn trưa thì bà xuất hiện, khệ nệ ôm trái bí đỏ. Bà khoe là năm nay nhờ trời dây bí sai trái, lại to, tui nhứt định phải đem kỉnh thím một trái. Mẹ mời bà gặp bữa ăn chén cơm. Mãi bà mới chịu cho, nói khi chị tôi xới cơm :
- Cho tui nửa chén thôi cô. Già cả rồi ăn chi cho lắm.
Chúng tôi vui vẻ hỏi thăm đủ chuyện, thằng con ra sao, bà có đau ốm gì không mà sao lâu nay không đi bán... Bà nói có dạo sâu rầy nhiều quá cắn nát hết vườn rau nhà bà. Mà thuốc trừ sâu thì mắc và pha bột nên chẳng giết được con sâu nào. Rốt cuộc bà không có gì để bán, để ăn, phải theo bạn đi làm nghề khác. Lần này thấy dây bí xanh tươi, bà lấy nước tiểu của minh cho nó uống, sâu rầy chê hôi bỏ đi sạch, dây bí không có mũi nên ngửi được, lớn như thổi. Rồi bà chép miệng :
- Làm nghề nông cực lắm thím à. Ông trời thương thì chớ, không thương thì chịu chết. Quanh năm suốt tháng lệ thuộc vào trời.
Nghe bà Tám nói, tôi chợt nhớ câu ca dao học ở trường : Hai tay bưng chén cơm đầy, dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần... Và mẹ thường bảo gạo là hột ngọc của trời, ngọc đã qúy rồi mà ngọc của trời thì còn qúy phải biết, nên không được phung phí. Ngày ngày mẹ chăm chỉ ép chúng tôi nuốt nhiều nhiều ngọc cho mạnh khỏe học hành, để lớn lên không làm người gieo ngọc.
Hỏi nghề mới của bà là gì, bà Tám trệu trạo nuốt miếng cơm rồi nhìn anh em chúng tôi, tủm tỉm :
- Cô cậu có biết đèo đội cậu không ?
Anh tôi hơi nhíu mày :
- Đèo gì bà Tám ?
- Đèo đội cậu.
- Ở đâu ?
- Ở mình đây nè.
Anh tôi nhìn bà mỉm cười âu yếm ra điều an ủi bà già nhà quê không chữ nghĩa :
- Đi ra thì có đèo Hải Vân, đi vô thì có đèo Cù Mông, đèo Cả, đèo Rù Rì, làm gì có đèo Đội Cậu bà Tám ?
- Có. Có đèo đội cậu.
Chưa hề đi khỏi quê nhà, tôi chẳng biết đèo Đội Cậu Đội Mợ ở đâu. Nhưng nghe bà trả lời cứng cỏi quá, anh tôi đâm nghi ngờ khả năng đại học của mình, lưỡng lự :
- Quái, nó ở đâu ?
- Đã nói ở mình đây.
Rồi mắt nhương nhướng diễu cợt, bà nói một hơi :
- Đèo đội cậu chay chựn mạo riêng, bách chú khớ bạnh hồ meo kụa thùa mơi.
Tuy chẳng hiểu gì nhưng nghe ngộ quá, chúng tôi phá ra cười . Bà đọc như đọc thần chú mà mặt mày tỉnh bơ. Bị giục hỏi là gì, bà gật đầu :
- Thủng thẳng rồi tui cắt nghĩa. Vừa ăn vừa nói dễ bị nghẹn. Người già hay nghẹn lắm.
Chị tôi mau mắn :
- Bà chan canh cho dễ ăn.
- Dạ, cô cho tui miếng canh.
Mẹ ôn tồn :
- Đừng dạ với cháu, nó mang tội bà Tám à.
- Dạ.
Mặc dù trẻ hơn bà Tám, nhưng chắc mẹ cho rằng bà dạ với mình là phải đạo không tội lỗi gì, không sửa nữa. Bà Tám húp miếng canh, đằng hắng :
- Đèo đội cậu là đầu đội kẹo, chay chựn mạo riêng là chưn chạy miệng rao, bách chú khớ bạnh hồ là bớ chú khách bộ hành, meo
kụa thùa mơi là mua kẹo thơì mua !
Mấy hột cơm lúng búng trong miệng tôi nhảy vọt ra ngoài. Mặt mẹ đỏ gay, người gập lại, cổ kêu hưng hức. Anh tôi buông đũa, ngả người ra ghế. Hai chị em tôi thiếu điều lăn đùng dưới đất. Bà Tám nhìn chúng tôi, cười theo hỉ hả. Trông bà đủng đỉnh. Lúc nào bà cũng có vẻ đủng đỉnh. Người ta nói như vậy là số giàu sang, an nhàn sung sướng.
Hiểu rồi, bây giờ bà làm nghề đội kẹo gừng đi bán ở bến xe. Thằng con thì thỉnh thoảng chạy thoáng về đưa tiền lương cho mẹ. Một năm hai mẹ con gặp nhau mười hai lần, lần nào cũng chốc lát. Vậy mà bà cũng vui, thường bảo dành dụm cho sau này nó có đôi có bạn.
Mùa đông năm đó gío nhiều và trời hay trở. Cậu Ba mỗi ngày một tiều tụy bạc nhược. Thuốc tây thuốc tàu dồn dập, cậu nuốt thuôc nhiều hơn nuốt thức ăn. Tới một ngày không món gì chịu chui xuống cổ nữa, cậu Ba thở khò khè suốt mấy ngày, mắt dựng ngược lên trắng dã, đứng tròng. Rồi cậu chỉ yếu ớt ngoắc ngón tay trỏ ra dấu từ giã hai vợ và mười bốn con, sáu người làm trong nhà kể cả thằng con bà Tám, bốn con chó bẹc giê, ba cái biệt thự và bốn chiếc xe hơi. Cậu tịch diệt. Thằng con bà Tám buồn hơn cha chết.
Cậu Ba chưa được chôn cất ngay vì đi nhằm ngày trùng, phải chờ chọn ngày tốt, chờ bà con xa gần và năm người con du học bên Tây về thọ tang. Gia đình cậu mướn phòng lạnh ở nhà quàn, ngày ngày kinh kệ tụng niệm khói nhang nghi ngút. Không ngày nào không có hơn chục bà con bạn bè tới lui phúng viếng. Thằng con bà Tám vẫn túc trực ngày đêm bên cạnh quan tài trong phòng lạnh ngắt, khi nào đông người quá thì nó âm thầm ra ngồi ở góc vườn
hoặc rút về căn phòng nhỏ dành cho người trông nom. Trong khi đó mẹ già nó vẫn ngày ngày đèo đội cậu chay chựn mạo riêng...
Nhưng hôm tôi theo mẹ đến phúng thì không thấy nó đâu nữa. Mẹ chép miệng hài lòng : ờ tội nghiệp, cũng phải cho nó nghỉ ngơi chút chớ !
Ngày trước hôm chôn cậu, tôi theo nhỏ bạn đến thăm, cốt chỉ để nhìn mấy người con du học bên Tây về, nghe nói một chị đẹp như đầm, sống như đầm, nói tiếng Việt đã bắt đầu lơ lớ và không chịu ăn nước mắm nữa, chê hôi.
Trong khi bạn nhang đèn trò chuyện với thân nhân, tôi lẩn thẩn dạo dọc hành lang. Ngang qua vài phòng đóng kín, tôi bỗng khựng lại trước căn phòng hẹp bỏ ngỏ, tối tăm. Từ đó nghe tiếng thở hổn hển, dồn dập ngắt quãng, tiếng nấc khe khẽ, tiếng kêu ư ứ trong cổ họng như chợt muốn thoát ra, chợt gượng giữ lại, tiếng chiếc giường sắt rên siết, nhún nhẩy, tiếng đập nhẹ vào da thịt dịu dàng vỗ về ... Tôi vừa tò mò vừa lo âu vô cớ nhìn vào : trong cái lờ mờ chập choạng buổi chiều, một thân hình mảnh dẻ ngồi trên giường, đầu gục lên vai người đàn bà ngồi bên cạnh. Và cũng trong màu đen ám chướng dị kỳ ấy, cái gì đỏ tươi rải loang lổ lên tấm ra trắng, lên vai người đàn bà như mặc chiếc áo thêu hoa... Cái đó rơi vãi dưới sàn... thành vũng nhỏ... Cổ tôi thốt ra âm thanh gì đó lạ lùng rõ to làm hai người rời ra, và người đàn bà quay lại... Cái gì chận ngang cổ làm tôi ngộp thở đau nhói ở lồng ngực, bụng cồn cào quặn lên... Tôi ù té chạy...
Và tôi vấp ngã, nằm sấp trên bãi cỏ khu nhà quàn. Đau quá, tôi úp mặt xuống đất khóc rấm rức, thảm thiết, nghẹn ngào... Trong cái tranh tối tranh sáng, tôi thấy rõ hai hố mắt bơ phờ ráo hoảnh, môi nhăn nhúm khô quắt không run rẩy. Vẻ mặt sao mà ngơ ngáo, dửng
dưng. Không, không phải mẹ con bà Tám ! Đó chỉ là hình vẽ rất vụng trên miếng giây nhàu nát màu lá úa...
MIÊNG
Paris, le 8 Oct.obre 1999
FUNEROC
N
gười đàn bà bước vào và tôi ngờ ngợ gặp đồng hương. Chắc chắn không phải Tàu vì dân Tàu ở Paris không bao giờ chết, ít nhất là trên giấy tờ. Nhiều cụ trên trăm năm nhưng không hề khai tử, để giấy tùy thân cho đồng bào từ Hồng Kông hay Trung quốc chạy qua có cái mà dùng, gian lận chính thức. Nhưng đã sa chân vào cửa hàng này thì cầm chắc trong tay là tang gia, nếu không đang thì hãy còn bối rối.
Ông chủ đã dặn không bao giờ nên hỏi quốc tịch người ta dù da trắng mà trùm burqa hay bôi chấm đỏ trước trán, hoặc da vàng cột xà rông, quấn khăn nhiều vòng trên đầu hay đội mũ phớt đen có vành kiểu các cụ Trung đông mà râu ria nhẵn thín. Nên nhớ mình bán hàng chớ không phải làm Bộ an ninh quốc phòng hay Văn phòng nhập cảnh. Cũng không nên trố mắt nhìn chằm chằm như xoáy vào nỗi buồn người ta nghiên cứu hay với lòng nhân đạo là san sẻ niềm đau trời long đất lở của họ. Bổn phận mình là chỉ ghi nhận những gì người ta nói, nói chớ không phải tâm sự, nên giữ nét mặt thản nhiên trước mọi tình huống với ánh mắt nồng nàn của kẻ muốn người bước vào không thể bước ra mà trên tay không cầm cái hoá đơn. Với lại chẳng ai tới đây để tâm sự, hiếm hoi lắm, suốt đời trong nghề ông chỉ gặp vài lần thôi cháu ạ, vì vậy cháu yên trí là chẳng ai khiến đầu óc cháu hoang mang lo nghĩ. Họ vào, đặt mẫu mã rồi ra và đúng ngày hoặc mình mang hàng đi giao, hoặc người ta đến lấy. Tiền trao cháo múc thôi con gái ạ, chẳng mấy khi lưu luyến gì nhau. Cái nghề này, e hèm, coi như nghề bạc bẽo.
Tôi nhìn quanh : bạc bẽo thuộc tinh thần, còn vật chất thì lạnh lùng. Những miếng đá đủ hình thù, từ quyển sách có cánh hoa hồng nằm trên trang đang mở, con tim hai bên đều đặn mũm mĩm cũng với hoa hồng nằm áp sát, đến thứ giản dị hơn như hình tròn hay chữ nhật với chút điệu đàng hai đầu cong lên kiểu mái chùa Tàu… Tất cả còn trinh nguyên, chỉ chờ người có nỗi niềm muốn viết gì lên ấy. Thường thì Cho Mẹ / Bố rất yêu của chúng con, Cho em gái / trai nhỏ cưng của anh chị, Cho vợ / chồng yêu dấu của anh / em. Đại khái thế. Cũng có Thương tiếc bạn hoặc Bình an cho bạn…
Tôi mời khách ngồi và bày tất cả catalogue kiểu bia đá đã hoặc chưa khắc lời. Bà xem hờ hững, im lặng, như không tìm thấy những gì mình muốn hay không quan tâm đến những gì trước mắt. Lạ nhỉ, thế cũng bước vào đây. Vì tò mò, tôi muốn bà nói cái gì để xác định là đồng hương của mình, nhưng bà chỉ cám ơn bằng tiếng Pháp. Ông chủ ôm điện thoại, vẫn khẽ khàng nhỏ nhẹ như thanh quản hỏng rồi hoặc đang bàn chuyện đảo chánh.
Bà khách đứng lên đi tới đi lui nhìn từng mẫu mã bày trên bàn, trong tủ. Tôi có cảm tưởng căn phòng khoảng trăm thước vuông đối với bà là quá chật. Có thể bà đang rải nỗi đau như người ta rải tro cốt trên biển đông. Khuôn mặt bà bình thản, không diễn cảm gì. Tôi thích người ít diễn cảm, bởi sau đó có thể là những khám phá thú vị hoàn toàn trái ngược bề ngoài. Tôi kín đáo nhìn theo chiếc quần đen với áo sơ mi trắng, giản dị nhưng vẫn thấy chăm nom cẩn thận. Bà bước rất khẽ, vẻ thênh thang như đi ngắm hoa và sợ náo động khiến hoa sẽ ngủ như tất cả đều là Trinh nữ. Những chậu hoa giả đủ màu từng làm chóa mắt tôi hôm mới đến, trường cửu ngoài nghĩa trang bất chấp nắng mưa và đưa dắt người bên kia thỉnh thoảng trở về như dấu hiệu của lòng luyến nhớ. Tôi nhủ bụng Bà ơi, toàn là
hoa giả cả đấy, cứ bước mạnh đi, cứ bóp nát chúng đi nếu điều đó có thể vơi bớt nỗi buồn.
Đi chán bà quay về bàn, mỉm nụ cười đầu tiên. Tôi ra dấu mời ngồi và mời bà, tôi nghe đây. Bà ngồi xuống khẽ khàng như sợ chiếc ghế không đủ vững, nhìn mấy quyển catalogue mà không thấy. Chúng tôi như những người câm. Tôi kiên nhẫn nhưng bà có vẻ không muốn nói, không tin tưởng bộ mặt chưa gỡ cái bằng đại học khỏi trán có thể cảm thông được nỗi niềm sâu kín của bà, hướng mắt vào phòng kính nơi ông chủ đang xem hồ sơ hay đọc thư bồ nhí. Hiểu, tôi vào trong. Ông chủ nhướng đôi mắt sụp nhìn lên rồi gật đầu bước ra, ngồi chỗ tôi khi nãy. Không hiểu hồi thế chiến thứ hai như đã kể, rằng ông từ Bretagne di tản lên Paris làm đủ thứ nghề, xách nước cho các bà tận lầu năm lầu bảy không thang máy, lau chùi nhà cửa, đi chợ tìm thức ăn rất khó, khuân vác, bán báo… thì ông ăn nói làm sao? Có năm lạnh lắm cháu ạ, ông lại mặc không đủ ấm. Một hôm ông xách nước lên lầu tư mà tê cóng, té, nước đổ lênh láng suốt cầu thang. Ông giáo ở lầu năm đi lên suýt trượt chân lại la lối, nhưng khi thấy ông chết cóng tới nơi vì sợ vì lạnh, thương tình cho cái măng tô cũ. Hồi đó cho như vậy là quý lắm nghe con gái, thời buổi khó khăn mà. Tôi xúc động, phần vì ông đã cơ hàn, phần vì hà tiện lời là thế mà ông thỉnh thoảng thổ lộ. Hiểu là mình rất được ông tin cậy…
Ông nói nhẹ nhàng như dỗ con nít:
- Tôi có thể giúp bà gì không?
Bà khách gật đầu mỉm cười. Lại mỉm cười. Những nụ cười mỉm luôn luôn hàm chứa nỗi gì. Tôi đứng cách bàn vừa đủ xa để không tỏ vẻ tò mò vô lễ, vừa đủ gần để đôi tai nhạy bén thám thính không sót tiếng nào, giả vờ lau từng miếng đá, ôm lên đặt xuống cho thêm
phần bận bịu. Họ chưa nói gì. Tôi liếc mắt thấy hai bên vẫn trùng trình rình nhau phá nước cờ bí. Ánh mắt ông chủ chắc giống những ngày hàn vi nhìn mẩu bánh mì khô. Nếu đói mà thiếu thức ăn, thì cháu phải nhai thật chậm con gái nhé. Bởi vì ăn ngấu nghiến hết ngay mà cơn đói vẫn còn nguyên đó, thì tốt nhất nên nhâm nhi cho cái lưỡi cái răng được cảm giác vẫn còn hoạt động, ít nhất cũng có cảm nhận là mình được nhai cái gì, là được sống con gái ạ. Tạ ơn trời tôi không chui khỏi bụng mẹ trong thời đánh đấm. Và biết ông đang nhai thật chậm bà khách Á châu.
Lâu lắm, bà khách nói như thở:
- Tôi cần một “bia” đá. (Biết rồi, nếu không thì vào hàng này làm gì). Hơi đặc biệt.
- Bà cứ cho biết, chúng tôi cố gắng làm theo ý bà.
Phải công nhận giọng nói và vẻ mặt ông chủ đủ chân thành để níu áo khách tin cậy món hàng và móc tâm sự người ta đang ngủ tận ngóc ngách đáy lòng phải vùng lên nhảy aerobic.
- Tôi đã mất một người rất thân.
- Tôi lấy làm tiếc. Xin thành thật chia buồn cùng bà.
Là ai vậy. Bên Tây, “người rất thân” có thể là con chó, con mèo được chăm chút thương yêu như con mọn, như bạn tình, có thể là con cháu hoặc vợ chồng, bồ bịch. Có khi, Chúa ạ, có thể là con búp bê.
Mấy ngón bàn tay trái bà khách ngẩng lên rồi nắm lại.
"""