"
Rình Rập - Mary Higgins Clark & Lệ Thanh (dịch) full mobi pdf epub azw3 [Trinh Thám]
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Rình Rập - Mary Higgins Clark & Lệ Thanh (dịch) full mobi pdf epub azw3 [Trinh Thám]
Ebooks
Nhóm Zalo
Rình Rập
Mary Higgins Clark
Văn Học (2016)
Từ khóa: Trinh Thám, Hình Sự, Tiểu Thuyết
RÌNH RẬP
Tác giả: Mary Higgins Clark
Thể loại: Trinh thám
Dịch giả: Lệ Thanh
Nhà Xuất bản Văn học
Nguồn: Vnthuquan.vn
Soát, sửa: Văn Cường
Tạo ebook: QuocSan
Mở đầu
Không khí lạnh giá len vào qua những khe hở của cửa sổ. Người đàn ông đứng dậy và nặng nề bước đến cầm lấy cái khăn tắm mà y luôn để gần tầm tay, bít lấy cái khung cửa đã xuống cấp.
Tiếng rít nho nhỏ của gió len qua chiếc khăn tắm làm y cảm thấy mơ hồ thích thú. Y lặng lẽ nhìn bầu trời ảm đạm rồi nhìn những con sóng đang xô nhau vào bờ. Từ phía này của ngôi nhà, thường khi người ta có thể trông thấy Prince town, ở bờ bên kia Cape Cod.
Y không ưa cái thị trấn Cape này. Y thù ghét cái u ám của nó vào những ngày tháng mười một như hôm nay; cái xám xịt của biển và những cư dân ở đây cứ nhìn ta bằng ánh mắt khó hiểu, không buồn nói năng. Y đã chán ngán cái thị trấn này ngay từ mùa hè đầu tiên, khi những đoàn khách du lịch đổ tràn ra biển, leo lên vùng đất bồi cho đến ngôi nhà, rồi một tay đưa cao để che nắng, họ liếc mắt nhìn vào những cửa sổ ở tầng trệt.
Y cũng ghét cái tấm panô[1] ghi chữ “Nhà Bán” mà Ray Eldredge đã treo ở mặt tiền và phía sau ngôi nhà rộng lớn, ghét việc Ray và bà nhân viên của ông đã bắt đầu đưa khách vào xem ngôi nhà. Tháng trước, suýt nữa là họ đã đưa người vào xem căn hộ của y trong khi vắng nhà, nhưng may thay y đã kịp biết trước và che giấu cái ống viễn kính.
Giờ đây, y chẳng còn bao nhiêu thời gian nữa. Ai đó sẽ mua ngôi nhà này và y không còn có thể thuê mướn nó nữa. Chính vì thế mà y đã gởi bài viết đến báo. Y không muốn ra đi trước khi được chứng kiến cảnh người đàn bà đó bị lột mặt nạ trước công chúng, khi nàng bắt đầu cảm thấy được yên ổn.
Y cũng còn phải thực hiện một việc khác nữa, nhưng cơ hội chưa đến. Người đàn bà ấy không hề rời xa hai đứa trẻ và y thì không còn có thể chờ đợi nữa. Thôi, hãy để chuyện đó cho ngày mai vậy.
Y bực dọc đi lui đi tới trong phòng. Căn phòng tầng trên này mênh mông vì nó chiếm cả bề rộng của ngôi nhà. Trước đây, chủ nhân ngôi nhà này là một thuyền trưởng biến chất. Ngôi nhà được xây vào thế kỷ 13 trên một mũi đá nhô ra biển, bao quát cả vịnh và thích hợp cho những ai thường xuyên sống trong tình trạng cảnh giác.
Nhưng đời sống xem chừng là chuyện khác. Đời sống là khi này khi nọ, được tạo thành bởi những thứ tạp nham. Đời sống là những núi băng trôi mà ta chỉ trông thấy phần nổi. Y biết rõ điều đó. Y đưa tay xoa xoa mặt, cảm thấy bồn chồn, nóng ran mặc dầu căn phòng lạnh căm. Từ sáu năm nay y đã thuê mướn ngôi nhà này để sống trong những ngày cuối hè và suốt cả mùa thu. Ngôi nhà vẫn như thế, không gì thay đổi, kể từ ngày y bước chân đến đây. Và, nếu có chăng thì chỉ là một vài đóng góp nhỏ nhặt. Ống viễn kính đặt trước cửa sổ mặt tiền, mớ quần áo mà y mang theo để mặc trong những dịp đặc biệt, và cái mũ lưỡi trai dùng để che khuất phần lớn khuôn mặt của y.
Nói tóm lại, chẳng có gì thay đổi ở đây. Vẫn là cái đi-văng cũ kỹ ngày ấy, những cái bàn bằng gỗ thông, tấm thảm trong phòng khách và những đồ đạc toàn bằng gỗ thích.[2] Cho đến mùa thu này thì đây quả là nơi lý tưởng để thực hiện những ý đồ của y. Nhưng rồi mọi việc đã không ổn nữa. Khi Ray cho biết vợ chồng anh đang rao bán ngôi nhà cho những ai muốn mở nhà hàng và Ray chỉ gia hạn thời gian thuê mướn với điều kiện là người thuê phải cho khách đến xem nhà ngay khi được thông báo qua điện thoại.
Raynor Eldredge. Y mỉm cười khi nghĩ đến người đàn ông còn trai trẻ đó. Ngày mai, liệu anh ta sẽ phản ứng ra sao khi đọc bài báo? Liệu Nancy đã nói thật cho chồng biết nàng là người như thế nào? Rất có thể là không. Đàn bà thường khéo giả dối. Vả lại, tốt hơn là Ray chưa hay biết gì. À! Được trông thấy diện mạo của Ray khi anh ta mở tờ báo ra xem thì thích biết bao! Báo được phát vào mười giờ sáng. Vào giờ đó, Ray còn ở văn phòng và hẳn anh ta sẽ chờ một lúc trước khi mở tờ báo ra xem.
Bằng một động tác cáu kỉnh, y quay lưng về phía cửa sổ. Hai cẳng chân to lớn của y xem chừng quá bó sát bởi chiếc quần đen bóng láng. Y nôn nóng từng ngày để được xuống cân và không còn to béo như thế này nữa, và y đang trả giá cho điều đó bằng những buổi nhịn ăn đến độ kiệt sức. Nhưng y biết y sẽ đạt được mục tiêu và y có đủ khả năng để làm điều đó. Trước đây, y đã từng nhịn ăn vào những lúc y thấy là cần thiết. Y cáu kỉnh đưa tay gãi lớp da đầu và thầm nghĩ rồi đây tóc y sẽ mọc trở lại và lúc đó hẳn lớp tóc ở hai bên thái dương sẽ là màu muối tiêu.
Y chậm rãi đặt tay lên ống quần rồi bồn chồn đi lui tới trong phòng, trước khi dừng lại bên ống viễn kính. Đây là ống viễn kính cực mạnh, thứ
mà người ta không thể tìm thấy ngoài thị trường. Ngay cả cảnh sát cũng được trang bị rất ít. Nhưng y thì có phương cách để đạt được cái mà y muốn. Y khom người và nhìn vào ống ngắm, mắt kia nhắm lại.
Ở bên ngoài, trời quá âm u đến nỗi đèn trong căn bếp phải thắp sáng vì thế, qua ống viễn kính, hình ảnh Nancy hiện rõ. Nàng đang đứng ở cửa sổ, phía trên bồn rửa bát. Có thể nàng đang chuẩn bị cho bữa ăn tối. Nhưng cũng có thể là nàng sắp ra ngoài, nếu đoán qua chiếc áo veste mà nàng đang mặc. Nàng đứng bất động, mắt hướng về phía biển. Nàng đang nghĩ gì? Đang nhớ ai? Đến các con, đến Peter, đến Lisa? Y muốn biết điều đó.
Y bỗng dưng cảm thấy miệng khô khốc và đưa lưỡi lên liếm môi. Hôm nay, nàng trông rất trẻ với mái tóc buộc ra sau, mái tóc được nhuộm màu nâu. Hẳn người ta sẽ nhận ra nàng ngay nếu nàng vẫn giữ cái mái tóc màu vàng óng tự nhiên của nàng. Ngày mai sẽ là sinh nhật lần thứ ba mươi hai của nàng. So với tuổi thì nàng còn rất trẻ, quá trẻ, quá dịu dàng, quá mượt mà và xinh tươi.
Y cáu kỉnh nuốt nước bọt. Môi y khô ran nóng sốt; hai bàn tay và nách y ướt đẫm mồ hôi. Họng y thắt lại và một lần nữa y phải đằng hắng một tiếng như tiếng cục cục của gà. Rồi toàn thân y run lên vì một tiếng cười không cưỡng nổi; y va vào ống viễn kính. Hình ảnh của Nancy nhòa đi, nhưng y chẳng buồn điều chỉnh ống ngắm. Hôm nay, y chẳng còn muốn nhìn nàng nữa.
Ngày mai vậy! Y mường tượng đến vẻ mặt của nàng ngày mai, cũng vào giờ này. Lúc đó, nàng sẽ bị phơi bày trước mọi người, sững sờ vì sợ hãi và khiếp đảm, cố tìm cách trả lời những câu hỏi mà nàng đã bị cảnh sát tra vấn từ bảy năm trước.
Lúc đó, hẳn các nhân viên cảnh sát sẽ hỏi: “Nào Nancy, đừng có giở trò ma giáo với chúng tôi. Hãy thật tình khai báo. Cô không thể chối cãi gì nữa. Hãy cho chúng tôi biết, những đứa trẻ đâu rồi?”
Chương 1
17 tháng mười một.
Ray sửa lại cà vạt khi bước xuống cầu thang. Ngồi ở bàn, Nancy ngửng đầu nhìn chàng mỉm cười. Nàng thật xinh đẹp và mặc dầu đôi mắt biếc đã bắt đầu có chút nếp nhăn, chẳng ai có thể tin rằng nàng đã ba mươi hai tuổi. Chỉ hơn nàng ít tuổi, nhưng Ray thì trông chín chắn nhiều. Sự tươi trẻ đó phải chăng là do nàng quá mong manh và dễ bị thương tổn? Ray nhận thấy một vài vết màu hung ở chân tóc màu nâu đen của nàng.
Hơn chục lần trong năm, chàng suýt nữa đã yêu cầu nàng hãy giữ cái màu tóc tự nhiên và đừng có nhuộm nữa, nhưng rồi chàng đành im, không dám đòi hỏi.
- Chúc em một sinh nhật vui vẻ. – Chàng dịu dàng nói và thấy khuôn mặt nàng bỗng tái xanh.
Michael ngạc nhiên nhìn mẹ:
- Sinh nhật của mẹ hả mẹ? Vậy mà mẹ không nói.
Missy ngửng dậy. Bé thích thú hỏi:
- Sinh nhật mẹ à?
- Đúng vậy, các con – Ray gật đầu và trong khi Nancy vẫn nhìn chăm chăm vào bàn, chàng nói tiếp – Chiều nay chúng ta sẽ mừng sinh nhật mẹ. Ba sẽ mua một ổ bánh lớn, mua quà và chúng ta sẽ mời dì Dorothy đến dự. Đồng ý nhé?
- Ray… đừng anh – Nancy nói, giọng năn nỉ.
- Nào em còn nhớ chứ? Năm ngoái em có hứa là năm nay chúng ta có thể ăn mừng.
“Ăn mừng”, đó không phải là cái từ thích hợp, nhưng là một cái từ mà ta không thể nói ra. Từ lâu, Ray biết rằng một ngày nào đó họ sẽ có thể ăn mừng sinh nhật. Trước đây, vào cái ngày này, nàng thường lánh chàng để đi dạo ở vùng quê hoặc lang thang trên bãi biển như cái bóng ma chìm đắm trong thế giới bí ẩn của mình.
Tuy vậy, vào năm ngoái, nàng bắt đầu nói đến chúng, đến hai đứa con trước đây của nàng. Nàng đã tâm sự: “Hẳn giờ đây chúng đã lớn rồi, mười, mười một tuổi. Em cố hình dung chúng nhưng không thể tưởng tượng nổi
mọi việc liên quan đến cái giai đoạn đó sao quá rối rắm, mờ mịt. Tựa như một cơn mộng dữ, điều chỉ xảy ra trong khi mê ngủ”.
Và Ray đã nói:
- Thì em hãy cố cho rằng nó là như vậy đi! Đừng thắc mắc về những gì đã xảy ra.
Cái kỷ niệm ấy càng củng cố thêm quyết định của nàng. Ray cúi xuống, vuốt nhẹ mái tóc Nancy bằng một cử chỉ dịu dàng, che chở. Nancy ngước nhìn chàng. Lời thỉnh cầu trên khuôn mặt nàng biến thành một vẻ ngần ngại:
- Em không tin rằng…
Michael cắt ngang lời Nancy bằng một câu hỏi biểu lộ cái tính thực tiễn của bé:
- Mẹ à, mẹ bao nhiêu tuổi rồi?
Nancy mỉm cười, nụ cười như phép mầu làm cho bầu không khí không còn căng thẳng. Nàng nói:
- Con hỏi mà làm gì chứ?
Ray hớp một ngụm cà phê rồi nói:
- Mike à, chiều nay ba sẽ đến đón con ở trường và cha con mình sẽ đi mua quà tặng mẹ. Bây giờ ba phải đi đây. Hôm nay có người đến xem nhà ông Hunt, ba cần phải tập hợp một số giấy tờ cần thiết.
- Nhưng ngôi nhà ấy đã cho mướn rồi mà? – Nancy hỏi.
- Đúng. Cái ông tên là Parrish, vốn thỉnh thoảng thuê căn hộ ở tầng trên, năm nay lại thuê tiếp. Nhưng ông ấy biết là ta có thể đưa người vào xem nhà bất cứ lúc nào. Ngôi nhà thật lý tưởng để mở một nhà hàng mà không cần phải sửa chữa lớn. Ta sẽ có được một số tiền huê hồng kha khá nếu giới thiệu bán được nó.
Đặt Missy xuống, Nancy đưa Ray ra cửa. Chàng dịu dàng hôn nàng và cảm nhận sự run rẩy của môi nàng, chàng thầm nghĩ, phải chăng chàng đã làm nàng lo lắng thái quá khi nhắc đến ngày sinh nhật của nàng? Một linh cảm nào đó khiến chàng suýt thốt lên: “Thôi, khỏi phải đợi đến chiều. Anh sẽ ở nhà để đưa em và các con đi Boston chơi”.
Thay vì như thế, chàng lên xe, vẫy tay chào và lao xe vào con đường đất hẹp, một con đường ngoằn ngoèo qua nửa mẩu rừng trước khi đổ vào con đường lớn dẫn về Adam Port, trung tâm của thị trấn Cape.
Nancy chậm rãi trở lại bàn ăn và thầm nghĩ rằng: “Ray đã có lý”. Đã đến lúc nàng phải cắt đứt với những ràng buộc của quá khứ, đến lúc phải đoạn tuyệt với những kỷ niệm để hướng nhìn tương lai. Nàng biết rằng một phần của bản thân nàng vẫn còn sững sờ, và tiềm thức của nàng vẫn cố lưu giữ những hình ảnh đau buồn thuở xưa. Và còn hơn thế nữa.
Có thể nói là toàn hộ cái quãng đời của nàng với Carl đã trở nên mờ mịt. Nàng chẳng thể nhớ nổi ngôi nhà của họ trong khu đại học, giọng nói ngân nga của Carl, rồi Peter và Lisa, chúng giống ai nhỉ? Cả hai đều tóc đen, như cha chúng và quá bình lặng, quá ngoan, cộng vào đó là sự thiếu tự tin của mẹ chúng và sau đó là mất mát – Cả hai.
- Sao mẹ buồn thế? Michael nhìn chăm chăm Nancy và hỏi. Nancy thầm nghĩ, thế là đã bảy năm rồi. Đời sống là một loạt những chu kỳ liên kết lại để tạo thành bảy năm. Carl thường nói với nàng rằng, với khoảng thời gian bảy năm, thì toàn bộ cơ thể đã hoàn toàn thay đổi, kể cả những tế bào. Đúng vậy, bây giờ là lúc để nàng quên đi và nhìn về phía trước.
Nàng hướng mắt về căn bếp rộng lớn, đầm ấm, với lò sưởi cổ kính bằng gạch, những cửa sổ nhìn xuống cảng và nền nhà lót ván sàn bằng gỗ sồi. Rồi tầm mắt của nàng dừng lại trên Michael và Missy.
Nàng nói:
- Mẹ đâu có buồn. Mẹ chẳng buồn chút nào.
Nàng bế Missy lên, thích thú với cái dịu dàng ấm áp của tấm thân bé bỏng.
Missy nói:
- Mẹ biết không, con đang nghĩ đến quà sinh nhật của mẹ. Mái tóc của bé thật đẹp, với những lọn xoăn quanh tai và trước trán. Chính mái tóc đó đôi khi đã khiến người ta thắc mắc chẳng hiểu bé giống ai mà có màu tóc đẹp như thế, ai trong gia đình có tóc hung? - Được lắm. Nhưng bây giờ thì con hãy ra vườn để hít thở khí trời. Theo dự báo thì chiều nay sẽ có mưa và rét đậm.
Sau khi hai đứa bé đã thay quần áo, Nancy giúp chúng mặc áo ấm có mũ trùm đầu.
- Đồng đô-la của con đây rồi – Michael thích thú nói khi thọc tay vào túi áo – Con biết là đã để nó ở đây. Bây giờ, con có thể mua quà cho mẹ được rồi.
- Con cũng vậy, con cũng có tiền đây. – Missy hãnh diện chìa ra một nắm đồng xu.
Nancy nói:
- Ồ! Các con không nên mang tiền ra ngoài đó. Các con sẽ đánh rơi mất. Đưa cho mẹ giữ hộ nào!
Michael lắc đầu:
- Không, con sợ sẽ quên khi đi mua quà với ba.
- Mẹ hứa sẽ không để con quên.
- Túi con có cái khóa kéo Eclair. Mẹ thấy chứ? Con sẽ bỏ tiền vào và giữ hộ luôn tiền của Missy.
- Được! – Nancy nhún vai và không muốn tranh luận thêm – Này Mike, bây giờ mẹ phải lau dọn nhà cửa. Con hãy đi chơi cạnh em nhé. Con hứa với mẹ chứ?
- Vâng! – Michael vui vẻ đáp và quay sang nói với Missy – Nào, hãy ra vườn chơi với anh. Trước tiên, anh sẽ cho em ngồi đu.
Cái đu này là do Ray đích thân làm cho các con. Chàng đã buộc nó vào một cành sồi cổ thụ, ở rìa rừng, phía sau nhà.
Nancy mang bao tay cho Missy. Bao tay thêu một con mèo cười toét miệng.
- Đừng cởi ra nghe con, nếu không tay con sẽ lạnh cóng. Trời bắt đầu lạnh rồi đó. Mẹ không hiểu có nên để các con ra chơi ngoài vườn. - Không sao đâu mẹ! – Missy nói, miệng bắt đầu run rẩy.
Nancy nói ngay:
- Thôi được. Nhưng hai con chỉ được chơi khoảng nửa tiếng thôi nhé! Nàng dẫn con ra vườn bằng cửa sau và cảm thấy làn gió lạnh như muốn nuốt chửng nàng. Ngôi nhà này có lối kiến trúc đặc trưng của vùng Cape, với cái cầu thang hầu như thẳng đứng. Ray thường nói là các cư dân đầu ẳ
tiên của thị trấn này hẳn phải có máu lạnh khi xây những cầu thang như thế. Nhưng Nancy thì vẫn yêu thích mọi thứ ở đây.
Đến hôm nay nàng vẫn còn nhớ cái cảm giác bình yên và yên ổn đã bao phủ lấy nàng trong lần đầu tiên nàng trông thấy ngôi nhà này. Nàng đã đến sống tại đây sau khi tòa ra lệnh ngừng xử vì Rob Legler, nhân chứng duy nhất của vụ án đã mất tích.
Nàng đã đến đây với ý đồ là được sống thật xa California, xa những người mà nàng đã quen biết, xa ngôi nhà mà nàng đã sống, xa khu đại học và cộng đồng của nó. Nàng chẳng bao giờ muốn gặp lại họ, những bạn bè đột nhiên biến thành xa lạ thù nghịch, luôn nhắc đến “chàng Carl tội nghiệp”, và xem nàng là người đã khiến cho Carl phải tự sát.
Sở dĩ nàng đã chọn Cape Cod là vì toàn bộ cư dân vùng New England và đặc biệt là Cape, vốn nổi tiếng là những người sống tế nhị, kín đáo và không thích soi mói đời người khác. Đó là điều mà nàng cần. Nàng cần một nơi để trú ẩn, để tìm lại chính mình, để đầu óc được tỉnh táo, để nhận thức về những gì đã xảy ra và có thể yêu đời trở lại.
Nàng đã cắt đi mái tóc và nhuộm nó thành màu nâu sậm. Điều này tạo cho nàng một diện mạo khác hẳn với những bức ảnh được đăng trên trang nhất các báo khắp nước trong suốt vụ án.
Hẳn bàn tay của định mệnh đã đẩy đưa nàng chọn văn phòng giao dịch bất động sản của Ray trong khi tìm mướn một căn nhà. Thật ra, ngày hôm ấy nàng có hẹn với một nhân viên môi giới địa ốc, nhưng trước đó nàng đã đến gặp Ray vì nàng cảm thấy ưa thích cái bảng hiệu được vẻ bằng tay thật khéo của văn phòng Ray cùng những chậu cúc vàng và hồng nhạt trồng trước các cửa sổ.
Vì lúc đó Ray đang bận tiếp một khách hàng, một cụ có làn da rám nắng và mái tóc xoăn, dày rậm nên Nancy phải ngồi chờ. Nàng ngưỡng phục khi nghe Ray khuyên ông cụ hãy cố giữ ngôi nhà và hứa sẽ kiếm người để cho thuê những căn phòng có thể ở được để có thể giúp ông.
Sau khi ông cụ đã ra về, nàng nói với Ray: “Có lẽ tôi đến đúng lúc. Tôi đang cần mướn một căn nhà”.
Nhưng Ray không muốn đưa nàng đi xem ngôi nhà của ông già Hunt, chàng đã giải thích:
- Người ta gọi đó là ngôi nhà Tháp Canh. Ngôi nhà quá lớn, quá hiu quạnh và nếu có phong ba bão táp thì đó là nơi phải hứng chịu nhiều nhất. Tôi có sẵn đây một ngôi nhà cũng tương tự như vậy để giới thiệu. Tình trạng toàn hảo, đầy đủ tiện nghi và có thể bán đứt cũng được. Thưa bà… à, thưa cô… cô cần nhà mấy phòng?
- Thưa ông, tôi là cô Kierman, Nancy Kierman – Nancy vô tình khai ra tên thật của mình – Thật ra, tôi không cần nhiều phòng đâu. Tôi sống một mình và ít có bạn bè.
Ngay từ đầu, nàng đã ngưỡng phục cái tính kín đáo của chàng – chàng chẳng hỏi han gì thêm.
Chàng chỉ nói: “Cape là nơi lý tưởng nhất để sống đơn độc. Sự cô đơn sẽ không còn trĩu nặng khi ta đi dạo trên bãi biển, ngắm cảnh chiều tà hoặc chỉ đơn giản nhìn ra cửa sổ vào buổi sáng”.
Ngay khi được Ray đưa đến xem nhà, Nancy biết rằng mình sẽ sống ở đó. Gian phòng ngày xưa được sử dụng làm kho chứa thực phẩm và rượu, giờ đã được sửa sang thành phòng khách – phòng ăn. Nancy yêu thích sự đầm ấm của cái ghế đặt trước lò sưởi, cái bàn ăn đặt gần cửa sổ khiến ta có thể ngắm nhìn cảng và vịnh.
Nàng ưng ý và dọn đến ở ngay. Tuy Ray ngạc nhiên khi thấy đồ đạc của nàng chỉ vỏn vẹn có hai va-li, chàng không hề tỏ lộ điều đó. Nancy cho chàng biết rằng sau khi mẹ mất nàng đã bán ngôi nhà ở Ohio và đến sống ở bờ biển Đông. Nhưng nàng không nói gì về khoảng thời gian sáu năm đã trôi qua, kể từ khi nàng bán nhà cho đến lúc nàng đến đây.
Đêm hôm ấy, lần đầu tiên sau nhiều tháng trời, nàng đã ngủ thật sâu – một giấc ngủ không bị xáo trộn bởi những tiếng gọi của Peter và Lisa trong mơ, không có tiếng Carl cáo buộc nàng trước tòa án.
Buổi sáng đầu tiên, nàng đã ngồi bên cửa sổ để uống cà phê. Hôm ấy trời xanh, trong. Một bầu trời xanh ngắt, không mây và ở đàng kia là biển, êm ả, lặng lẽ. Một vật hoàn toàn tĩnh lặng, chỉ có cánh chim hải âu đang lượn vòng phía trên những con tàu đánh cá.
Nàng giữ chặt tách cà phê, nhâm nhi từng ngụm, mắt không rời cảnh vật, cảm thấy hơi ấm của cà phê đang ngấm dần vào cơ thể trong khi nắng trời đang sưởi ấm mặt nàng. Sự êm ả của cảnh vật làm gia tăng cái cảm giác yên ổn mà nàng có được sau một đêm ngon giấc.
“Lạy Trời, xin cho con yên bình”. Đó là lời cầu khẩn duy nhất của nàng trong suốt những buổi hầu tòa, trong nhà tù. “Xin Ngài hãy dạy con biết chấp nhận”. Thế mà đã bảy năm rồi!
Nancy thở dài, bỗng nhận ra rằng mình đang đứng sững trên bực thang đầu của cầu thang. Thật quá dễ để lạc lối trong kỷ niệm, chính vì thế mà nàng phải cố sống theo từng ngày, từng ngày một không ngoái nhìn dĩ vãng cũng chẳng hướng về tương lai.
Nàng chậm rãi bước lên cầu thang và thầm nghĩ, làm sao mình có thể tìm được yên bình khi biết rằng nếu Rob Legler xuất hiện trở lại thì mình sẽ bị kết tội sát nhân và như thế sẽ không còn được sống bên Ray, bên Missy và Michael. Trong phút chốc, nàng úp mặt vào lòng tay và thầm nhủ, “Thôi đừng nghĩ đến nữa! Nào có ích gì”.
Đến cuối cầu thang, nàng lắc đầu với vẻ dứt khoát và bước nhanh vào phòng chính. Nàng mở cửa sổ và rùng mình khi gió xua màn cửa vào người nàng. Mây đã kéo về và những con sóng bạc đầu xô nhau vào vịnh. Nhiệt độ nhanh chóng hạ thấp. Sau một thời gian sống ở vùng này, Nancy biết rằng có gió lạnh thế này luôn là dấu hiệu báo trước cho một trận bão.
Tuy nhiên, trời cũng có khá tốt để cho hai đứa trẻ có thể chơi trong vườn. Nàng muốn chúng vui đùa và hít thở khí trời vào buổi sáng vì, sau khi ăn trưa, Missy sẽ đi ngủ và Michael đến trường mẫu giáo.
Nàng bắt đầu thay khăn trải giường của cái giường đôi. Rồi nàng bỗng dừng lại và thầm nghĩ. Missy đã sịt mũi từ hôm qua. Phải chăng nàng nên ra vườn để dặn bé không được cởi khuy cổ áo ấm? Bé Missy vẫn có cái thói quen kỳ cục đó. Bé luôn cho rằng cổ áo của bé quá chật.
Nancy tần ngần một lúc rồi tháo hết những tấm drap trải giường. Nàng biết Missy có mặc bên trong một áo thun cao cổ vì thế nếu bé có cởi khuy nút áo ấm thì cổ bé cũng vẫn được che kín. Vả lại, việc thay drap giường và bỏ chúng vào máy giặt chỉ làm nàng mất khoảng mười đến mười lăm phút là cùng.
Tối đa là mười phút, Nancy tự hứa như thế để làm vơi đi nỗi lo sợ đang trĩu nặng và thôi thúc nàng phải xuống, tìm các con ngay.
Chương 2
Thỉnh thoảng, vào buổi sáng, Jonathan đi bộ ra tiệm tạp hóa để mua tờ báo. Nếu không đi bộ thì ông đi xe đạp. Dẫu bằng phương tiện nào thì ông cũng ngang qua ngôi nhà Nickerson. Đó là ngôi nhà cổ mà Ray Eldredge đã mua sau khi kết hôn với cô gái trẻ đẹp thuê phòng ở đó.
Vào thời cụ Sam Nickerson, ngôi nhà bắt đầu xuống cấp, nhưng giờ đây thì trông kiên cố và ấm cúng. Ray đã cho sơn sửa nhà và lợp lại mái. Và cô vợ của anh ta xem chừng là một người khéo trồng cây kiểng. Đám hoa cúc cam, vàng trong vườn mang lại vẻ tươi vui và đầm ấm, ngay cả trong những ngày âm u nhất.
Vào những hôm tốt trời, Nancy Eldredge làm vườn từ lúc tảng sáng. Nàng luôn thân thiện vẫy tay chào ông Jonathan rồi lại say sưa với công việc. Jonathan ngưỡng phục cái đức tính của người đàn bà ấy. Ông đã quen biết bố mẹ Ray vào cái thời mà hai ông bà thường đến nghỉ hè ở thị trấn này. Dĩ nhiên, gia đình Eldredge đã đổ nhiều công sức cho sự phát triển thị trấn Cape, ông bố của Ray đã cho Jonathan biết rằng gia đình ông là hậu duệ của những người đã đổ bộ lên châu Mỹ, bằng chiếc Mayflower.[3]
Đối với ông Jonathan thì việc Ray đã chọn thị trấn Cape làm nơi định cư là một điển hình đáng noi theo. Thị trấn này có ao, có hồ, có vịnh và có biển. Nó cũng có những cánh rừng để ta đi dạo, những cánh đồng cỏ để ta đuổi người.
Và đây cũng là nơi lý tưởng cho một cặp vợ chồng trẻ với những đứa con nhỏ. Cũng lý tưởng cho những ai muốn chọn nơi này để dưỡng già và sống những năm sau cùng của kiếp đời. Trước đây, Jonathan và Emily luôn về thị trấn này để nghỉ hè trong khi nôn nóng chờ đến cái ngày mà họ sẽ về định cư ở đây. Đó là ước mơ mà họ dứt khoát phải đạt được, vậy mà Emily chẳng còn để mà chia sẻ thành quả.
Ông Jonathan thở dài. Jonathan là một luật sư hưu trí to lớn, khỏe mạnh với mái tóc trắng xóa, dày rậm. Những ngày tháng về hưu nhàn rỗi làm ông chán chường. Chuyện đi câu thì không thể thực hiện vào mùa đông; còn đi mua sắm đồ cổ hoặc tu sửa các bàn ghế cổ là điều ông chẳng còn ưa thích kể từ khi Emily qua đời. Thế rồi, bước sang năm thứ hai sau ngày định cư ở Cape, ông bắt đầu viết lách.
Thoạt đầu, đó chỉ là thú tiêu khiển cho qua giờ. Sau đó, viết lách trở thành một sinh hoạt hàng ngày của ông. Một người bạn xuất bản sách nhân kỳ nghỉ cuối tuần đã đọc vài chương của cuốn sách do Jonathan viết và sau đó đã ký hợp đồng với ông. Trong sách, Jonathan đã nghiên cứu về một số vụ trọng án. Ông làm việc năm tiếng mỗi ngày, tuần bảy ngày vào buổi sáng, làm việc từ chín giờ rưỡi.
Jonathan đang đi ngược gió. Ông quay đầu nhìn vịnh, thích thú với ánh nắng trời dịu dàng đang mơn trớn khuôn mặt ông. Ở đây, người ta có thể trông thấy biển qua những hàng cây và tầm mắt chỉ duy nhất bị giới hạn bởi ngôi nhà cổ của lão Hunt – cái ngôi nhà to lớn điêu tàn mà cư dân ở đây gọi là Tháp Canh.
Trên đường đi mua báo, Jonathan luôn dừng lại đây trong chốc lát để ngắm cảnh vịnh. Nhưng, sáng nay cũng thế, lại một lần nữa, ông phải nheo mắt và quay mặt đi. Bực tức, ông hướng mắt về con đường, sau khi đã lơ đễnh nhìn những con sóng bạc đầu đang xô đẩy nhau vào bờ. Ông thầm nghĩ, hẳn cái gã mướn ngôi nhà Tháp Canh có đặt một vật gì đó bằng kim loại khí nơi cửa sổ. Khó chịu thật! Ông muốn nói chuyện này với Ray để chàng lưu ý gã thuê nhà, nhưng đành thôi vì nghĩ rằng gã ta có thể sẽ nhắn lại với ông rằng ông nên ngắm cảnh vịnh từ một nơi khác.
Jonathan hờ hững nhún vai. Giờ đây, ông đang ngang qua trước nhà gia đình Eldredge. Ngồi ăn sáng, nơi chiếc bàn gần cửa sổ, Nancy đang nói với đứa con trai. Đứa bé gái ngồi trên đùi nàng. Jonathan hướng mắt đi nơi khác, e ngại vì tính tò mò của mình và sợ gặp phải ánh mắt của người đàn bà đẹp. Vậy là giờ đây, ông chỉ còn việc đi mua tờ báo, nấu cho mình một bữa ăn đơn độc và ngồi vào bàn viết. Ngày hôm nay ông sẽ viết về vụ án Harmon – một chương theo ông nghĩ là hấp dẫn nhất của cuốn sách.
Chương 3
Đẩy cửa văn phòng giao dịch bất động sản, Ray cảm thấy mình không sao xua đuổi được cái bồn chồn lo sợ đang dằn vặt chàng tựa một cơn nhức răng không thể xác định. Tại sao thế này? Phải chăng đó chỉ đơn giản là vì chàng đã nhắc đến ngày sinh nhật của Nancy và có nguy cơ làm cho dĩ vãng bừng dậy. Thật ra, Nancy vẫn giữ một thái độ bình thản, chàng đã quá am hiểu nàng để có thể nhận ra những lúc căng thẳng ở nàng, khi nàng nhớ đến cái phần đời đó của nàng.
Chỉ cần trông thấy một bé trai và một bé gái tóc nâu cùng lớp tuổi với những đứa con mà nàng đã mất, hoặc một sự tranh luận về xác đứa bé gái tìm thấy ở Cohasset vào năm ngoái, và thế là nàng suy sụp ngay. Nhưng sáng nay Nancy trông vẫn khỏe khoắn và điều mà chàng cảm thấy đó là chuyện khác – một linh cảm không tốt.
- Nào, có chuyện gì thế anh?
Ray ngước mắt, sững sờ. Dorothy vẫn ngồi ở chỗ cũ và dĩ nhiên trên khuôn mặt duyên dáng đó là mái tóc muối tiêu của một phụ nữ đã đứng tuổi.
Dorothy là khách hàng đầu tiên của Ray khi chàng mở văn phòng dịch vụ này. Lúc đó, vì cô thư ký mà chàng tuyển dụng không đến làm việc nên Dorothy đã ngỏ ý giúp chàng ít hôm. Và kể từ ngày đó, bà Dorothy đã làm việc với Ray.
Dorothy nói:
- Anh có biết là anh đã lắc đầu trông rất bi đát không?
Ray mỉm cười tiu nghỉu. Dorothy nói tiếp:
- À, tôi đã tập hợp mọi thứ giấy tờ liên quan đến ngôi nhà Tháp Canh. Anh tính lúc nào sẽ đưa người khách ấy đến xem nhà?
- Khoảng hai giờ chiều – Ray nói rồi nghiêng mình về phía Dorothy – Chị kiếm đâu ra những bản vẽ này?
- Ở thư viện. Đừng quên rằng ngôi nhà đó được xây từ năm 1690. Nếu biết đầu tư, người ta có thể biến nó thành một nhà hàng khá lý tưởng. Hơn nữa, nó có cái nhìn bao quát vịnh, không đâu sánh được.
- Theo tôi biết thì ông bà Kragopoulos đã khai thác thành công nhiều nhà hàng và họ sẵn sàng trả giá cao cho những điểm lý tưởng.
- Những người Hy Lạp thì luôn đứng đầu trong lĩnh vực kinh doanh nhà hàng. – Dorothy nói và xếp tập hồ sơ lại.
- Nếu như vậy thì mọi người dân Anh đều đồng tính luyến ái, những người Đức thì không biết khôi hài, và người Puerto Rico[4] thì chẳng làm nên trò trống gì. Ôi, tôi rất sợ những cái mũ!
Ray lấy từ túi áo ra cái tẩu thuốc và vội vã đưa lên miệng. Dorothy sững sờ nhìn Ray:
- Anh nói sao? Tôi không chụp mũ ai cả và sở dĩ tôi nói về người Hy Lạp là để chia sẻ quan điểm của anh.
Dorothy quay đi và xếp hồ sơ vào kệ. Ray bước vào văn phòng của anh, khép cửa lại.
Chàng đã mang lại sự ưu phiền cho bà Dorothy. Thật là ngu ngốc và vô lý. Chẳng hiểu điều gì đã xảy đến cho chàng thế này? Dorothy là người dễ mến, ít định kiến và công minh nhất mà chàng từng gặp. Thật là tệ khi đã nói với Dorothy những lời lẽ như thế. Ray thở dài và lấy thuốc lá nhồi vào tẩu. Chàng hút thuốc và suy nghĩ miên man trong khoảng mười lăm phút rồi gọi Dorothy qua hệ thống nội đàm.
- Vâng? – Dorothy nói bằng giọng không vui.
- Mấy cô nhân viên đã đến rồi chứ?
- Vâng, đến rồi.
- Đã có cà phê chưa?
- Vâng, có rồi.
- Chị làm ơn mang vào văn phòng tôi hai tách cà phê – một cho chị và một cho tôi. Bảo mấy cô nhân viên là hãy trực và trả lời điện thoại trong vòng mười lăm phút.
- Vâng. – Dorothy đáp và gác máy.
Ray đứng dậy, mở cửa cho bà Dorothy vào rồi khép cửa lại. Chàng nói: - Thôi chúng ta hòa hoãn nhé. Tôi rất tiếc đã nói năng bừa bãi. Đầu óc tôi hơi rối.
- Vâng tôi hiểu. Nhưng chuyện gì đã xảy đến với anh?
- Chị hãy ngồi xuống đi. – Ray nói và chỉ cái ghế bọc da đặt gần bàn giấy của chàng.
Rồi cầm lấy tách cà phê, chàng bước đến bên cửa sổ, nhìn cảnh vật đang chìm trong màu xám xịt, buồn bã. Chàng nói:
- Tôi mời chị chiều nay đến nhà dùng cơm. Chị chấp nhận chứ? Hôm nay là sinh nhật của Nancy.
Không nghe Dorothy trả lời, chàng quay lại:
- Phải chăng đã có nhầm lẫn?
Dorothy là người duy nhất ở Cape biết về quá khứ của Nancy. Nancy đã tâm sự với Dorothy về dĩ vãng của nàng và cũng hỏi ý kiến của Dorothy trước khi nhận lời cầu hôn của Ray.
Bằng một giọng và ánh mắt nghĩ ngợi, Dorothy nói:
- Anh Ray à, tôi thật sự không hiểu. Anh có ý gì khi tổ chức sinh nhật? - Nghĩa là tôi không thể tiếp tục sống mà cứ tảng lờ ngày sinh nhật của Nancy? Ngoài ra, tôi còn hướng đến một mục tiêu hơn thế nữa, đó là Nancy phải đoạn tuyệt với quá khứ của nàng, chấm dứt sự trốn tránh. - Liệu Nancy có thể đoạn tuyệt với quá khứ? Liệu Nancy có thể thôi trốn tránh một khi đang có một bản án treo lơ lửng trên đầu?
- Đúng vậy! Nhà tôi đang bị đe dọa. Dorothy à, hẳn chị biết rằng nhân chứng trong vụ án của Nancy đã biệt tăm từ sáu năm nay. Chỉ có Trời mới biết hiện nay hắn đang ở đâu, nếu hắn còn sống. Rất có thể từ một nơi nào đó ngoài nước Mỹ, hắn âm thầm trở về dưới một hộ chiếu giả. Đừng quên rằng hắn là một kẻ đào tẩu và nếu bị bắt, hắn sẽ lãnh một bản án khá nặng.
Dorothy gật đầu:
- Rất có thể là như vậy.
- Đúng chứ. Bây giờ, chúng ta hãy nói tiếp. Chị hãy thành thật cho tôi biết người dân ở đây và cả những cô nhân viên ở văn phòng này, đã nghĩ gì về Nancy?
- Mọi người đều thấy Nancy rất xinh đẹp, rất dễ mến, Họ ngưỡng mộ cách ăn mặc của Nancy, nhưng thấy nàng có vẻ quá khép kín. - Cám ơn chị đã cho tôi biết những điều đó. Tôi từng nghe thiên hạ có những lời lẽ không đúng về nhà tôi. Có người đã cho rằng nàng quá cao sang, đài các đối với người dân ở đây. Ở Câu Lạc Bộ, tôi thường xuyên phải bối rối khi bị hỏi tại sao tôi chỉ đăng ký có tên tôi thôi và không dẫn
theo người vợ kiều diễm. Hồi tuần qua, cô hiệu trưởng của Michael đã gọi điện mời Nancy tham gia vào một ủy ban của trường. Dĩ nhiên là nhà tôi đã từ chối. Vào tháng trước, tôi đã thuyết phục được Nancy tham dự buổi tiệc chiêu đãi các nhà kinh doanh và môi giới địa ốc, và thế là khi chụp ảnh lưu niệm, Nancy đã đi vội vào toilet để tránh mặt.
- Nancy sợ bị phát hiện.
- Tôi hiểu. Nhưng theo tôi thì chuyện đó đã bị quên lãng theo thời gian. Và ngay cả nếu ai đó có nói với nàng: Cô trông giống như người phụ nữ đã bị cáo buộc tại một phiên tòa ở California. Đến đây, hẳn chị đã hiểu tôi muốn nói gì rồi chứ? Đối với hầu hết thì chuyện đó xem chừng chẳng quan trọng. Chỉ trông giống, thế thôi. Ở đời, việc người này trông giống người nọ là chuyện thường xảy ra. Và nếu một ngày nào đó Nancy có bị ra tòa trở lại, tôi mong nàng sẽ cảm thấy yên ổn giữa những người dân vùng này. Tôi mong họ sẽ xem nàng như một người đồng hương và nâng đỡ nàng, vì sau khi trắng án, nàng sẽ sống tại thị trấn này.
- Nhưng, nếu có xét xử và Nancy bị kết án thì sao?
Ray nói, giọng dứt khoát:
- Tôi không nghĩ đến trường hợp đó. Nào, chiều nay chị đến dùng cơm với chúng tôi chứ?
- Vâng, rất hân hạnh – Dorothy nói – Tôi đồng ý với hầu hết những điều anh vừa nói.
- Hầu hết thôi ư?
- Vâng – Dorothy thẳng thắn nhìn Ray – Anh nên tự hỏi từ đâu đã nảy sinh cái ước muốn được sống một cuộc đời bình thường hơn. Phải chăng đó là vì Nancy hay vì những nguyên nhân nào khác?
- Chị muốn nói sao?
- Anh Ray à, theo tôi biết thì ông Thống đốc bang Massachusetts có yêu cầu anh tham gia vào sinh hoạt chính trị vì vùng Cape cần được đại điện bởi những người trẻ như anh. Ông ấy cũng hứa sẽ làm tất cả những gì có thể để giúp đỡ anh. Thật khó để từ chối lời đề nghị đó. Nhưng, trong tình trạng hiện nay thì anh không thể làm gì được và anh biết rõ điều đó.
Không chờ Ray trả lời, bà Dorothy rời khỏi văn phòng. Ray uống hết ly cà phê và ngồi vào bàn giấy. Sự cáu kỉnh, bồn chồn và căng thẳng đã biến
mất và chàng cảm thấy xấu hổ cho chính mình. Dĩ nhiên, Dorothy đã có lý. Chàng cố nghĩ rằng chẳng có đe dọa nào rình rập gia đình chàng, và mọi sự đều ổn cả. Đồng thời, chàng cũng cảm thấy khiếp đảm. Chàng biết rõ điều gì sẽ chờ đợi chàng khi chàng kết hôn với Nancy.
Ray nhìn sững vào mớ thư tín trên bàn, nhớ lại những lần chàng đã cáu kỉnh với Nancy, không vì một lý do nào, tựa như chuyện vừa xảy ra với bà Dorothy. Có lần Nancy đã khoe chàng bức tranh màu nước vẽ ngôi nhà của họ mà nàng vừa hoàn tất và chàng đã tỏ vẻ bực mình. Hẳn trước đây Nancy có học hội họa và nàng có đủ tài năng để mở một phòng triển lãm tranh. Vậy mà chàng đã nói nàng: “Đẹp lắm, nhưng liệu em sẽ giấu bức tranh ở đâu?”
Nancy bối rối và buồn ra mặt. Chàng đã thầm nghĩ, tại sao mình không cân nhắc lời nói! Rồi chàng năn nỉ: “Em yêu, anh rất tiếc! Chỉ vì anh cảm thấy hãnh diện vì em và anh muốn mọi người chiêm ngưỡng những bức tranh của em”.
Phải chăng đã có sự căng thẳng và cáu kỉnh đó là do chàng và Nancy quá mệt mỏi vì phải liên tục sống né tránh và giới hạn những sinh hoạt của họ? Ray thở dài và cầm lấy những lá thư.
Đến mười giờ mười lăm, bà Dorothy đẩy mạnh cửa văn phòng và ào vào. Sắc diện của bà, vốn hồng hào, giờ bỗng tái xanh. Ray vội vã đứng dậy để bước về phía bà. Nhưng Dorothy lắc đầu, khép cửa lại và giơ cho chàng thấy tờ báo mà bà đang cầm trên tay.
Đó là tờ tuần báo Cape Cod Community News. Dorothy đã lật tờ báo ở trang có bản tin “Từ Thành Đến Quận” và để nó trên bàn giấy của Ray. Họ cùng nhìn bức hình in khổ lớn trên báo và biết rằng nhân vật trong hình chính là Nancy. Ray chưa từng trông thấy bức ảnh này, trong đó Nancy nhuộm tóc đen và chải tóc ra phía sau. Dưới hình là lời chú thích: “Liệu Nancy Harmon Có Được Một Sinh Nhật Tươi Vui?” Một hình khác trên báo cho thấy Nancy đang rời khỏi tòa án, khuôn mặt sững sờ, tóc xõa xuống vai. Hình thứ ba chụp Nancy đang ôm hai đứa trẻ.
Bài báo bắt đầu với những hàng sau: “Hôm nay, ở một nơi nào đó, Nancy Harmon đang mừng sinh nhật thứ ba mươi hai của bà ta và kỷ niệm năm thứ bảy ngày mất của những đứa con mà bà ta bị cáo buộc đã sát hại chúng”.
Chương 4
Đó là chuyện từng phút, từng giây. Mọi sự như diễn ra ở mức độ cực nhanh và y đã có thể làm chủ từng giây, từng phút. Thật nhanh, y đưa xe ra khỏi nhà. Thời tiết quá xấu đến nỗi y chẳng thể trông thấy được gì qua ống viễn kính, nhưng y biết là Nancy đang mặc áo ấm cho hai đứa bé.
Y mân mê túi áo, các ống tiêm vẫn có đó, đầy thuốc, sẵn sàng để dùng đến, sẵn sàng để mang đến một giấc ngủ sâu, không mộng mị. Toàn thân y toát mồ hôi, mồ hôi nhỏ xuống trên trán, dọc theo hai má, mồ hôi ướt đẫm nách, bẹn. Thật là khó chịu. Trời lạnh căm. Y cố trấn tĩnh, không để lộ vẻ lo lắng, bồn chồn.
Cầm lấy cái khăn mặt mà y luôn để ở băng trước xe, y vội vã thấm những giọt mồ hôi trên mặt, rồi liếc mắt nhìn ra sau. Cái áo mưa vẫn có đó, đây là loại áo đi mưa mà cư dân Cape luôn để sẵn trong xe, nhất là vào mùa câu cá, cùng với những cần câu, nhưng áo mưa của y thuộc loại khá lớn, đủ để trùm kín hai đứa trẻ con. Y bật cười nho nhỏ và hướng xe về quốc lộ 6A.
Đến ngã tư quốc lộ 6A là siêu thị Wiggins. Y vẫn thường mua sắm ở đây. Dĩ nhiên, trong những lần đến sống ở Cape, y luôn thủ sẵn một mớ thực phẩm để tránh phải thường xuyên xuất hiện nơi này nơi nọ, như vậy khỏi có nguy cơ chạm trán Nancy. Nàng có thể nhận ra y, dầu diện mạo y đã thay đổi và y đã cải trang. Cách đây bốn năm, điều đó suýt nữa đã xảy ra. Hôm đó, tại một siêu thị ở Hyannis Port, trong khi y đang chọn một hộp cà phê, thì nghe có giọng nói của Nancy ở sau lưng. Nancy đã đặt tay kề cận y và nói: “Mike à, chờ tí nhé. Phải mua món này mới được”. Và rồi nàng nói nhỏ, “Ồ! Xin lỗi”, trong khi y đứng đó, chết lặng.
Lúc đó, y đứng yên tại chỗ, chẳng dám lên tiếng. Rồi nàng đã bỏ đi. Y biết chắc nàng đã không buồn nhìn y nhưng kể từ ngày đó, y thận trọng hơn và không muốn để tái diễn một sự việc như thế. Tuy vậy, y cũng phải thường xuyên xuất hiện tại Adams Port nhằm sự có mặt của y sẽ trở nên quen thuộc để thiên hạ khỏi thắc mắc. Chính vì thế mà y luôn đến siêu thị Wiggins vào lúc mười giờ sáng để mua sữa, thịt và bánh mì. Nancy chỉ rời khỏi nhà sau mười một giờ sáng và hơn nữa, nàng có thói quen mua hàng ở siêu thị Lowery, cách Wiggins tám trăm thước. Gia đình Wiggins giờ đây
đã xem y như một khách quen lâu ngày, và chỉ ít phút nữa thôi là y sẽ đến đó, thật đúng giờ.
Đường vắng tanh. Gió rét đã trói chân mọi người ở nhà. Y dừng lại ở một ngã tư trước khi đến quốc lộ 6A.
Cơ may vẫn mỉm cười với y. Không một bóng xe, trái cũng như phải. Y cho xe vọt lên, đi vào con đường sau nhà Eldredge. Chỉ cần can đảm, thế thôi. Bất cứ tên ngu xuẩn nào cũng có thể làm một cú táo bạo, nhưng biết ra tay theo một kế hoạch đã được cân nhắc với một thời biểu được hoạch định chính xác, đó mới là thần tình.
Mười giờ kém mười. Hai đứa trẻ hẳn đã ra chơi ngoài vườn được mười phút rồi. Ồ! Y đã khéo tiên liệu mọi tình huống. Một trong hai đứa bé có thể trở vào nhà để uống nước hoặc đi tiểu, nhưng chuyện đó hiếm khi xảy ra. Từ tháng nay, y đã hàng ngày theo dõi chúng. Trừ khi trời mưa, còn không thì hai đứa luôn ra vườn chơi. Rồi, chỉ mười hoặc mười lăm phút sau, nàng mới xuất hiện để trông coi chúng.
Mười giờ kém chín phút. Y lái xe vào con đường đất nện dẫn vào phía sau nhà Eldredge. Lát nữa thôi, báo sẽ được phát hành ở Cape. Bài viết về Nancy hẳn được đăng hôm nay và đó là tiếng nổ sẽ lôi Nancy vào cơn phẫn nộ, phá tan cái trò chơi của nàng và thiên hạ sẽ đổ về ngôi nhà của nàng, soi mói, chỉ trỏ.
Y cho xe dừng lại, giữa cánh rừng. Từ con đường lót đá, chẳng ai có thể trông thấy xe y. Và từ nhà, Nancy cũng chẳng thể trông thấy xe. Y vội vã ra khỏi xe, chọn lối khuất sau những hàng cây và nhanh nhẹn đi về phía hai đứa trẻ đang chơi. Vào mùa này, lá đã rụng nhiều, nhưng ở đây cũng còn không ít bụi rậm đủ để che khuất y.
Trước khi trông thấy hai đứa trẻ thì y đã nghe tiếng nô đùa của chúng. Giọng thằng bé xem chừng hết hơi, hẳn nó đang đẩy cái đu… “Tụi mình sẽ hỏi ba xem nên mua cho mẹ món quà gì. Anh sẽ dùng tiền của hai đứa mình”.
Đứa bé gái nói: “Đẩy nữa đi, anh Mike. Thêm nữa đi, cao hơn lên”. Y rón rén bước lại đàng sau đứa bé trai và nó chỉ kịp phát hiện ra y khi đã quá muộn. Y mơ hồ trông thấy đôi mắt xanh mở lớn kinh ngạc và cái miệng há to trước khi bị bàn tay y áp lên, và mũi kim loại tiêm đã cắm sâu
qua lớp bao tay băng len. Đứa bé toan né tránh nhưng rồi sững người và mềm nhũn ngã xuống đất.
Cái đu lại trở về. Đứa bé gái nói lớn: “Đẩy đi anh Mike. Đẩy đi. Đừng có ngưng”. Y giữ lấy cái đu bằng sợi thừng phía phải và ôm lấy cái hình hài nhỏ bé đang vặn mình, chẳng hiểu chuyện gì xảy ra. Y thận trọng đưa tay ngăn chặn tiếng kêu yếu ớt, rồi cắm mũi tiêm xuyên qua lớp bao tay màu đỏ có thêu cái mặt mèo tươi cười. Một giây sau đứa bé gái thở ra một hơi nhẹ và nhũn người bên cạnh y.
Y nhẹ nhàng cặp hai đứa trẻ lên và chạy ra xe, không để ý thấy chiếc bao tay đã vướng lại nơi cái đu.
Mười giờ kém năm, hai đứa trẻ đã nằm yên dưới chiếc áo mưa. Y cho xe rời khỏi con đường đất nện và khi ra đến con lộ lót đá, y rủa thầm khi trông thấy một chiếc Dodge đang hướng về phía y. Khi xe chậm lại để nhường đường, y đã quay mặt đi.
Quả là không may! Khi ngang qua chiếc Dodge, y đã liếc mắt nhìn người lái xe nhưng chỉ trông thấy cái mũi nhọn và chiếc cằm thon gầy dưới chiếc mũ. Người lái xe không buồn quay mặt nhìn y.
Y có cảm giác đã có lần gặp mặt người đàn ông này, ở đâu đó, hẳn là một cư dân vùng Cape, nhưng có lẽ ông ta không ngờ rằng chiếc xe mà ông ta vừa nhường đường là chiếc xe vừa ra khỏi ngôi nhà Eldredge. Nói chung, cư dân ở đây không có tính tò mò. Và dĩ nhiên, chỉ trong chốc lát thôi là người đàn ông đó sẽ không còn nhớ đến chiếc xe của y.
Y nhìn vào kính chiếu hậu cho đến khi chiếc Dodge khuất dần. Y gừ lên một tiếng thích thú và đưa tay chỉnh lại kính chiếu hậu để có thể trông thấy cái áo mưa ở băng sau, cạnh các cần câu và đồ nghề. Hài lòng, y bẻ kính chiếu hậu về vị trí cũ và không buồn nhìn nữa. Nếu có nhìn, hẳn y sẽ trông thấy chiếc ô-tô lúc này đã chậm lại rồi đề lui.
Mười giờ bốn phút, y bước vào siêu thị Wiggins, làu bàu một tiếng chào hỏi trong khi bước lại quầy đông lạnh để lấy hộp sữa tươi.
Chương 5
Ôm mớ quần áo, ga trải giường và khăn tắm, Nancy cố giữ thăng bằng khi bước xuống cái cầu thang thẳng đứng. Nàng đã bất thần quyết định giặt giũ để có thể phơi đồ trước khi thời tiết trở nên tồi tệ. Mùa đông đã đến. Nó đang ở đó, phía sau nhà, bứt đi những chiếc lá cuối cùng trên hàng cây. Mùa đông trải dài trên con đường đất nện giờ đã khô cứng như xi măng. Mùa đông đã thay đổi màu sắc của vịnh để chỉ còn là màu xanh xám của khói.
Ở ngoài kia, cơn bão đang hình thành, nhưng Nancy vẫn muốn lợi dụng những tia nắng yếu ớt sau cùng. Nàng yêu thích cái mùi tươi mát của những tấm drap được phơi ngoài trời. Nàng thích áp má vào những tấm drap đó, chìm dần vào giấc ngủ trong cái hương thơm của cây, của lá tùng trộn lẫn với mùi biển mặn, khác hẳn với cái mùi hăng hắc và ẩm của những tấm drap phơi trong nhà. Nàng cố xua đi kỷ niệm.
Xuống hết cầu thang, Nancy định đi về phía cửa sau, nhưng rồi dừng lại. Nàng nhủ thầm, mình quả thật ngốc nghếch. Hai đứa bé hẳn đang chơi ngoài vườn và bình an vô sự. Chúng vừa ra khỏi nhà được khoảng mười lăm phút và nàng phải đè nén nỗi lo sợ không kiềm chế đang liên tục ám ảnh nàng. Đến bây giờ, nàng nhận thấy là Missy đã biết điều đó và bắt đầu phản ứng trước sự lo lắng và che chở thái quá của nàng. Nàng quyết định sẽ đưa hai con vào sau khi đã bỏ đồ vào máy giặt và cho máy chạy. Rồi vào mười giờ rưỡi, khi chúng xem truyền hình, nàng sẽ uống một ly cà phê và đọc tờ Cape Cod Communtity News.
Nàng bỏ mớ khăn tắm và drap trải giường vào máy giặt, đổ bột giặt và nước javel vào và cho máy chạy.
Bây giờ, đã đến lúc đưa hai con vào nhà. Nhưng rồi, khi mở cửa và chực bước ra khỏi nhà, Nancy dừng lại. Báo vừa mới được phát. Người giao báo đang khuất bóng ở cuối con đường. Nancy nhặt tờ báo, run rẩy trong cơn gió lạnh và vội vã đi vào bếp. Nàng bấm nút điện ấm nấu cà phê rồi liếc nhanh qua các trang báo.
Nàng nhìn chăm chăm vào hàng tít khá hấp dẫn và những hình ảnh của bài báo; hình nàng chụp chung với Carl và Rob Legler, nàng với Peter và Lisa, kề bên nhau vững tin. Nancy sững sờ; nàng nhớ rõ cái ngày mà họ chụp bức ảnh đó. Chính Carl là người đã bấm máy.
“Nào, hãy tự nhiên nào!” Carl đã nói thế trong khi nàng đưa tay xoa đầu hai đứa trẻ.
“Không… không… không… không!” Nàng chết điếng vì đau đớn. Nàng lảo đảo nghiêng người về phía trước, chạm phải ấm cà phê, làm đổ tung tóe. Nàng rút tay lại; những giọt cà phê nóng bỏng lăn dài trên tay nàng.
Trong đầu nàng lóe lên một ý nghĩ, cần phải đốt ngay tờ báo. Đốt ngay kẻo Michael và Missy trông thấy. Nàng phải đốt để không ai còn có thể đọc. Nàng chạy vào phòng ăn, đến bên lò sưởi.
Lò sưởi bây giờ không còn là nơi vui tươi, đầm ấm, nơi người ta cảm thấy yên ổn. Và chẳng còn đâu là nơi trú ẩn, sẽ chẳng còn nơi nào cho Nancy ẩn náu. Nàng vò nát những trang báo, run rẩy cầm lấy cái hộp quẹt trên lò sưởi. Một làn khói, ngọn lửa và các trang báo chất dần giữa những khúc củi.
Cư dân ở Cape hẳn đang đọc tờ báo này. Và họ sẽ biết, mọi người rồi sẽ biết. Có một bức ảnh mà họ sẽ nhận ra. Nancy nhìn trang báo đang cháy, hình Peter và Lisa đang bị lửa nuốt dần, có thể cuốn lại, cháy đen. Đã chết rồi, cả hai. Sao nàng vẫn còn sống đây? Sao nàng không khuất bóng như chúng? Chẳng còn nơi nào để trú ẩn, quên lãng. Rồi Ray sẽ chăm sóc cho Michael và Missy. Ngày mai, đến trường, bọn trẻ sẽ nhìn Michael và chỉ trỏ, to nhỏ với nhau.
Nàng sực nhớ đến hai đứa con. Phải lo cho chúng. Đưa chúng vào nhà ngay, đó là điều quan trọng nhất, nếu không chúng sẽ cảm lạnh. Nàng lảo đảo đi về phía cửa sau, mở cửa và gọi: “Peter… Lisa”. Ồ, không, nàng đã lầm. Michael và Missy! Chúng mới là con của nàng. Nàng cất tiếng gọi, buồn bã, thảng thốt:
“Michael, Missy. Vào nhà ngay nào!”
Chúng đâu rồi? Nàng chạy ào ra, mặc cho cái rét đang len nhanh qua chiếc áo săng-đay mỏng.
Nàng chạy về phía cái đu trống trơn và thầm nghĩ hẳn hai đứa bé đã vào rừng. Nàng gọi, “Michael, Missy! Michael, Missy! Chớ có trốn mẹ! Về ngay đi các con!”
Cái đu vẫn còn đong đưa và gió làm nó lắc lư đôi chút. Nancy trông thấy cái bao tay nhỏ nhắn của Missy, bị giữ lại bởi cái khoen kim loại nơi thanh
gỗ.
Nàng nghe có tiếng động ở phía xa và thầm nghĩ, hẳn hai con đang ở phía đó. Hay là chúng đã ra hồ! Có thể lắm, nhưng nàng đã cấm chúng ra đó rồi mà. Nàng đã cấm chúng không được bén mảng đến đó. Biết đâu chúng chẳng nghe lời nàng và người ta sẽ vớt xác chúng, như những đứa trẻ khác, trương phình, ướt sũng và vô hồn.
Vớ lấy cái bao tay màu đỏ có thêu cái mặt mèo tươi cười, nàng lảo đảo đi về phía hồ. Nàng gọi lớn tên hai con, gọi mãi. Nàng len qua hàng cây và ra đến bờ hồ.
Không xa bờ, có một cái gì đó lấp lánh dưới nước. Một vật màu đỏ, cái bao tay hay bàn tay của Missy? Nancy lao người xuống nước, ngập đến vai, và cúi nhìn. Nhưng chẳng thấy gì. Nàng cuống cuồng dùng hai tay vớt lên, nhưng chẳng có gì ngoài những dòng nước đang chảy xuống từ các kẽ tay nàng. Chẳng có gì ngoài cái rét căm căm của nước. Nàng chăm chú vào mặt hồ, cố nhìn thấy đáy. Rồi nàng cúi sát hơn và ngã nhào. Nước dâng vào mũi, vào miệng nàng, và cái giá buốt của nước như những ngọn lửa đốt cháy khuôn mặt và cổ nàng.
Nancy cố gượng dậy và men vào bờ trước khi quần áo ướt sũng làm nàng vấp ngã. Nàng té nhào trên lớp cát chai cứng vì giá rét. Tai lùng bùng, mắt bị che phủ bởi lớp sương mù, nàng cố nhìn về phía cánh rừng và trông thấy khuôn mặt đó, khuôn mặt của ai nhỉ?
Sương mù phủ kín lấy nàng. Ở xa xa, có những âm thanh đang lịm dần, tiếng kêu thảm thiết của một chú hải âu, tiếng bì bõm của nước, thanh vắng.
Khi Ray và Dorothy tìm thấy Nancy thì nàng đang nằm dài trên cát, toàn thân run rẩy, co giật từng cơn trong bộ đồ ướt sũng. Nàng nằm đó, đôi mắt đã lạc thần, nắm trong bàn tay có những đốm rộp, cái bao tay nhỏ màu đỏ.
Chương 6
Ăn sáng xong, ông Jonathan cẩn thận rửa chén bát, cái chảo chiên trứng và quét dọn căn bếp. Bà Emily vợ ông, vốn sống ngăn nắp vì thế, sau bao năm chung sống, ông Jonathan đã có thói quen ưa thích sự tươm tất, sạch sẽ. Giờ đây, tuy sống một mình, ông vẫn không bừa bãi. Ông ghi nhận những tắc trách của chị người làm và mỗi chiều thứ sáu, khi chị người làm đã về nghỉ cuối tuần, ông mang các lọ, keo, hũ ra lau chùi và đánh bóng lại mớ bàn ghế mà chị ta thường lưu lại mớ sáp đánh bóng.
Hồi còn ở New York, vợ chồng ông ngụ tại Sutton Place, góc Phố 55. Căn hộ của họ ở tầng thứ mười bảy, nhìn ra dòng sông East River. Dạo đó, hai ông bà vẫn thường ra bao lơn để ngắm ánh đèn trên những chiếc cầu bắt qua dòng sông và nói về cảnh quang của hồ Maushop, về Cape và cuộc sống của họ khi nghỉ hưu.
Hồi đó, ông đã trêu bà:
- Em sẽ không còn có Bertha để lau dọn nhà cửa nữa đâu. - Dĩ nhiên – Bà Emily đáp – Bertha lúc ấy hẳn cũng đã nghỉ hưu. Dẫu sao chăng nữa thì chúng ta cũng cần có người đến giúp việc mỗi tuần một lần. Thôi, hãy nói chuyện của anh đi. Anh có hối tiếc khi không còn tài xế lái xe?
Lúc đó, ông Jonathan đã nói rằng ông sẽ mua một chiếc xe đạp. Và ông nói tiếp:
- Ngay bây giờ anh cũng có thể sắm một chiếc xe đạp vậy, nhưng ngại rằng một số thân chủ của anh sẽ phản ứng khi thấy một luật sư như anh mà mỗi ngày đạp xe đến văn phòng.
- Theo em thì anh nên bắt tay vào công việc viết lách. Em tiếc rằng anh đã bỏ qua chuyện đó từ nhiều năm rồi.
- Nếu anh mà viết văn nữa thì em làm sao xài tiền cho hết? Em là cái máy xài tiền của anh mà!
- Tất cả chỉ lỗi tại anh. Anh không ngừng thôi thúc em tiêu pha đồng tiền của anh.
- Anh muốn như vậy. Anh không than trách gì cả. Anh đã có quá nhiều may mắn.
Jonathan thầm nghĩ, phải chi vợ chồng ông có thể chung sống thêm vài năm trong ngôi nhà này. Ông thở dài rồi móc cái khăn lau chén vào chỗ cũ. Sáng nay, ông chợt buồn khi trông thấy Nancy Eldredge và hai đứa con của nàng sau khung cửa sổ. Điều đó có thể là do thời tiết quá ảm đạm hoặc là vì những dấu hiệu đầu tiên của một mùa đông lê thê đã sớm đến. Chẳng hiểu sao nữa, nhưng ông cảm thấy bồn chồn, lo lắng. Có điều gì đó đang dằn vặt ông. Một thứ bứt rứt tương tự như cái cảm giác mà đôi khi ông đã gặp khi nghiên cứu một hồ sơ với những sự việc không ăn nhập nhau.
“Ta làm việc thôi”, Jonathan nhủ thầm, ông nôn nóng muốn viết xong phần dẫn nhập của chương nói về vụ án Harmon.
“Theo lẽ ta nên nghỉ hưu sớm”, ông thầm nghĩ khi từ tốn bước đến bàn giấy. Thật ra, hoàn cảnh cuối cùng đã đưa đẩy ông đến chỗ nghỉ hưu. Sau khi Emily qua đời, ông đã bán căn hộ ở New York, xin từ chức, cho bà Bertha một số tiền dưỡng già, và lui về ngôi nhà này, nơi trước đây vợ chồng ông đã chọn. Với thời gian, nỗi tuyệt vọng của ông vơi dần và nhớ thương cũng nguôi ngoai đôi chút.
Giờ đây, viết cuốn sách này là cả một đam mê đầy hấp dẫn đối với ông. Ngay khi đề tài vừa hình thành trong tâm trí, ông đã mời Kevin Parks, người bạn cố tri và đồng thời cũng là một trong những nhà điều tra độc lập làm việc nghiêm túc nhất, đến nghỉ cuối tuần tại Cape để ông có thể trình bày cái dự kiến của mình. Jonathan đã chọn mười vụ trọng án có vấn đề, khiến phải tranh luận. Ông đã nhờ Kevin tập hợp tất cả những tư liệu có liên quan đến các trọng án đó: Biên bản, lời khai nhân chứng, các bài báo, hình ảnh, những câu chuyện bên lề pháp đình v.v… Jonathan chủ tâm nghiên cứu kỹ từng hồ sơ trước khi phân tích và đưa ra kết luận về vụ án hoặc đồng ý với phán quyết của tòa, hoặc không đồng ý, căn cứ trên những lý lẽ mà ông nêu ra. Tác phẩm này của ông có tên: “Phán quyết và Nghi vấn.”
Jonathan đã hoàn tất ba chương của cuốn sách. Chương thứ nhất có tựa “Vụ Án Sam Sheppard” mà theo quan điểm của ông thì bị cáo hoàn toàn vô tội. Có quá nhiều thiếu sót trong điều tra và thiếu quá nhiều chứng cứ. Jonathan chia sẻ quan điểm của hội thẩm Dorothy Kilgallen khi phán rằng Sam Sheppard can tội ngoại tình chứ không sát nhân.
Ở
Chương thứ hai là “Vụ Án Cappolino”. Ở chương này, ý kiến của Jonathan là Marge Farger cũng đáng bị kết án như người tình của cô ta. Và chương thứ ba, mà Jonathan vừa kết thúc, đề cập đến “Vụ án Edgar Smith”. Theo ông, Edgar Smith là kẻ phạm pháp, nhưng giờ đây y cũng đáng để được ân xá. Ở thời buổi này, mười bốn năm ngồi tù xem như đã là một án chung thân, hơn nữa, khi phải cải tạo trong một trại giam khủng khiếp như Death Row, hẳn Edgar Smith đã biết ăn năn hối cải. Jonathan ngồi vào bàn giấy và cầm lấy chồng hồ sơ dày cộm với bìa cứng có ghi: Vụ Án Harmon. Ở tập đầu tiên, Kevin có ghim một mẩu giấy: “Gởi anh Jonathan. Theo tôi nghĩ thì anh sẽ vất vả và đồng thời cũng thú vị khi nghiên cứu vụ án này. Bị cáo tỏ ra là một mục tiêu khá tốt cho những lời buộc tội; ngay cả người chồng của bị cáo cũng không tiếc lời lên án cô ta trước tòa. Nếu một ngày nào đó người ta tìm ra nhân chứng chủ yếu của vụ này – hiện đã mất tích, và đưa ra xử lại, thì tốt nhất bị cáo nên có những chứng cứ vững chắc hơn là những gì mà cô đã nêu trong phiên tòa trước đây. Hiện nay, tôi không rõ bị cáo đang ở đâu. Văn phòng biện lý biết điều đó, nhưng tôi không thể cạy miệng họ. Có lẽ bị cáo hiện sống tại một nơi nào đó ở Miền Đông, đó là tất cả những gì mà tôi có thể biết”. Với đôi chút hồi hộp, Jonathan mở tập hồ sơ. Ông biết rằng trong bước đầu, ông không thể nêu ra một ý kiến nào ngoài những giả thuyết, trước khi tập hợp đầy đủ các thông tin. Tuy vậy, ông còn nhớ, khoảng sáu, bảy năm về trước, vụ án này đã khơi dậy trong ông những thắc mắc, nghi vấn. Ông nhớ đã nêu ra những thắc mắc khi đọc lời khai của các nhân chứng. Đó cũng là những nghi vấn mà giờ đây ông muốn tìm hiểu. Trước đây, ông có cảm tưởng Nancy Harmon đã không nói hết những gì mà cô ấy biết về vụ mất tích của các con cô.
Cầm lấy mớ tài liệu trong tập hồ sơ, Jonathan cẩn thận trải chúng lên mặt bàn rộng lớn. Có cả hình chụp Nancy Harmon khi ra trước tòa. Trông cô nàng thật nhí nhảnh với mái tóc dài chấm lưng. Theo hồ sơ lưu trữ thì năm ấy nàng hai mươi lăm tuổi. Nhưng có một dáng vẻ tươi trẻ hơn nhiều. Cứ như là một thiếu nữ. Lối ăn mặc lại càng làm nàng trông giống trẻ con hơn; như muốn nhấn mạnh cái ấn tượng mà nàng gây ra nơi mọi người. Hẳn luật sư của nàng đã tư vấn điều đó – tạo một dáng vẻ càng non trẻ càng tốt.
Kỳ lạ thật, nhưng kể từ khi quyết định viết cuốn sách này, ông Jonathan có cái cảm tưởng là ông đã từng quen biết với người đàn bà đó. Ông chăm chú vào các bức ảnh trên bàn. Dĩ nhiên, cô này sao trông giống cô vợ trẻ của Ray Eldredge quá! Điều đó đã giải thích cái cảm giác quen biết làm ông bứt rứt. Tuy hai người trông không giống nhau, nhưng liệu thế giới này có quá nhỏ để họ có cùng quan hệ huyết thống?
Mắt ông dừng lại ở trang đánh máy đầu tiên: Lý lịch Nancy Harmon. Sinh tại California, lớn lên tại Ohio. Như vậy, chẳng thể có quan hệ họ hàng với Nancy Eldredge. Dorothy Prentiss vốn quen biết với bố mẹ Nancy ở Virginia.
Jonathan chợt nghĩ đến Dorothy Prentiss. Một thoáng vui thích lên vào tâm trí khi ông nghĩ đến bà cộng tác viên khá quyết rũ này của Ray. Ông thường ghé lại văn phòng địa ốc của Ray vào lúc 17 giờ, khi đi mua tờ Globe phát hành buổi chiều. Ray đã tư vấn để ông đầu tư chút đỉnh vào đất đai và công việc diễn ra rất thuận lợi. Phần ông, ông đã giúp Ray có một vai trò tích cực hơn trong cộng đồng và hai người đã nhanh chóng trở thành bạn thân.
Tuy vậy, Jonathan biết rằng mình đã nhiều lần ghé lại văn phòng Ray mà không vì một lý do cần thiết nào. Nói tóm lại, ông ghé lại đó chỉ để gặp nhau, để nói đủ chuyện trên đời. Ray thường nói: “Chà, bác đến kịp lúc để chúng ta lai rai vài ly khi chiều xuống”. Và anh không quên mời Dorothy cùng tham gia.
Trước đây, bà Emily vốn chuộng rượu Daiquiris. Dorothy thì chọn thứ cốc tai hợp với sở thích của ông Jonathan – Rob Roy với một lát chanh tươi, cả ba cùng ngồi trong văn phòng Ray, uống rượu và trò chuyện.
Jonathan thích cái lối nói chuyện dí dỏm của Dorothy. Bà ta xuất thân từ một gia đình kịch nghệ, theo cha mẹ đi lưu diễn nhiều nơi nên có nhiều kỷ niệm tuyệt vời để kể lại. Bà đã một thời mơ ước trở thành nghệ sĩ sân khấu, nhưng sau ba lần giữ vai phụ trong những vở kịch không mấy thành công, bà đi lấy chồng và sống tại Virginia. Sau khi chồng qua đời, bà đến Cape với ý định mở một cửa hàng trang trí nội thất và cuối cùng, bà quyết định làm việc với Ray. Theo lời Ray, thì Dorothy rất có khiếu kinh doanh; bà có thể nhận ra những ưu điểm của một ngôi nhà, tuy trông điêu tàn dột nát, nhưng nếu biết sửa sang thì có thể kinh doanh rất tốt.
Dạo sau này, Jonathan thường ấp ủ cái ý định mời Dorothy đi ăn tối. Những ngày cuối tuần xem chừng quá dài đối với ông và hôm chủ nhật vừa qua, ông đã hai lần đưa tay với điện thoại, định gọi Dorothy. Nhưng rồi ông dằn lại, ngại kết thân quá vội với một phụ nữ mà ông hầu như ngày nào cũng gặp. Hơn nữa, ông cảm thấy không mấy tin tưởng ở chính mình. Phải chăng đối với ông thì người đàn bà ấy hơi có nhiều cá tính? Bao nhiêu năm chung sống với một người đầy nữ tính như Emily hẳn sẽ không làm ông dễ thích nghi với một phụ nữ có cá tính cực kỳ độc lập.
“Lạy Chúa, tôi đang nghĩ ngợi cái gì kỳ cục vậy nè?” Ông Jonathan nhủ thầm. Sao sáng nay đầu óc ông ở đâu đâu! Tại sao ông dễ dàng xao lãng vụ án Harmon đến thế?
Bằng một thái độ dứt khoát, ông nhồi thuốc vào tẩu, châm lửa và hít một hơi dài. Ông cầm lấy tập hồ sơ, ngả lưng ra ghế. Bây giờ là lúc ông nghiên cứu tập tài liệu đầu tiên của chồng hồ sơ.
Một giờ mười lăm phút trôi qua. Chỉ còn tiếng tíc tắc của cái đồng hồ, tiếng rít của những loạt gió càng lúc càng dữ dội qua những hàng thông phía sau cửa sổ và thỉnh thoảng là tiếng làu nhàu tỏ vẻ hoài nghi của Jonathan. Rồi ông cau mày, đặt xấp tài liệu xuống và chậm rãi đi ra bếp để pha ly cà phê. Qua những tài liệu vừa đọc, ông tin rằng có một điều gì đó đáng ngờ trong vụ án này, một điều gì đó ngấm ngầm ngăn trở không để cho những sự việc được khớp nhau một cách hợp lý.
Jonathan bước vào căn bếp ngăn nắp, bóng loáng. Ông nghĩ ngợi trong khi đổ nước vào ấm. Rồi ông đi ra cổng chính trong khi chờ nước sôi. Tờ Cape Cod Community News vừa được phát đặt ở dưới cổng. Cặp nách tờ báo, ông Jonathan trở vào nhà bếp, đổ một thìa cà phê bột vào tách, cho thêm nước sôi, quậy đều và uống một hớp trong khi đọc qua các tít lớn của tờ báo.
Lướt sang phần hai của tờ báo thì ông đã uống gần hết tách cà phê. Cầm cái tách trên tay, ông chăm chú nhìn hình vợ Ray Eldredge đăng trên báo. Ngay khi khám phá ra sự thật, Jonathan phải đắn đo để chấp nhận hai sự việc không thể bác được: Dorothy Prentiss đã cố tình lừa dối ông khi quả quyết rằng dạo trước bà đã quen Nancy tại Virginia. Mặt khác, tuy đã nghỉ hưu, nhưng ông hẳn phải tuân theo cái trực giác vốn có của một luật sư!
Trong tiềm thức, ông vẫn biết rằng Nancy Harmon và Nancy Eldredge chỉ là một.
Chương 7
Trời rét căm căm. Nàng cảm thấy ở miệng có cái vị của cát. Cát? Sao lạ vậy? Nàng đang ở đâu đây? Nàng nghe có tiếng nói của Ray. Chàng đang gọi nàng, đang cúi xuống trên nàng, ôm lấy nàng. Chàng hỏi: - Nancy, chuyện gì vậy em? Các con đâu rồi, Nancy?
Nàng nghe nỗi sợ hãi đang rung lên trong giọng nói của nàng. Nang cố đưa bàn tay lên, thấy nó rơi xuống cạnh nàng, mềm nhũn. Nàng muốn lên tiếng, nhưng không một âm thanh nào thoát ra khỏi đôi môi nàng. Ray đang ở đó, kề bên nàng, nhưng nàng không thể với tới.
Nàng nghe có tiếng Dorothy: “Này Ray, anh hãy đỡ cô ấy dậy. Hãy đưa cô ấy vào nhà. Chúng ta cần có sự trợ giúp để tìm hai đứa bé”. Hai đứa bé. Cần phải tìm chúng ngay. Nancy muốn bảo Ray đi kiếm chúng. Nàng cảm thấy đôi môi mình mấp máy, nhưng không thốt nên lời. Nàng nghe có giọng nói vụn vỡ của Ray, “Ồ! Chúa tôi!” Nàng muốn nói: “Anh đừng lo cho em. Hãy để mặc em. Anh đi tìm các con nhanh lên!” Nhưng nàng không nói được. Ray đỡ nàng dậy và giữ lấy nàng, chàng hỏi Dorothy:
- Chuyện gì đã xảy ra cho nhà tôi vậy?
- Anh Ray à, chúng ta phải báo cảnh sát thôi!
- Cảnh sát?
Nancy mơ hồ nghe thấy trong giọng nói của Ray một sự né tránh. Và giọng Dorothy:
- Chúng ta cần được trợ giúp để tìm các cháu bé. Anh Ray à, phải nhanh lên thôi! Chúng ta không thể chần chờ được. Hẳn anh đã biết, giờ đây anh không còn có thể che chở Nancy nữa. Mọi người sẽ nhận ra Nancy khi xem bức ảnh.
Bức ảnh, Nancy có cảm giác mình đang bị ẵm đi. Nàng mơ hồ biết rằng mình đang run rẩy. Nhưng điều đó không quan trọng. Điều làm nàng quan tâm là bức ảnh của nàng trong bộ quần áo bằng vải tweed[5] mà nàng đã sắm sau phiên tòa phá án. Nàng còn nhớ là nàng đã được đưa ra khỏi trại giam để hầu tòa. Sau phiên tòa này, nàng đã được trả tự do vì Carl đã chết và tay sinh viên – nhân chứng cáo buộc nàng – đã mất tích.
Hôm đó, ngài biện lý đã nói: “Chớ tưởng rằng cô sẽ thắng cuộc. Tôi còn sống bao lâu thì tôi sẽ tìm cho bằng được một chứng cứ không thể phản bác”. Và ông rời khỏi tòa sau lời nói đanh thép đó, để lại Nancy.
Sau đó, khi được phép rời khỏi bang California, nàng đã cắt và nhuộm mái tóc, rồi đi mua sắm một ít đồ đạc. Nàng vốn không thích những thứ quần áo veste, quần tây bằng vải tweed và một áo thun cổ cuốn. Sau này, đôi khi nàng cũng còn mặc bộ đồ đó, kể cả tuần trước đây, nàng đã mặc chúng khi đi siêu thị. Vì thế, người ta dễ nhận ra sự giống nhau giữa nàng và bức hình. Bức hình ai đó đã chụp khi nàng đang đứng ở bến xe, chờ ra đi.
Ai đó đã chụp mà nàng không hay biết. Chiều hôm đó, nàng đã đáp chuyến xe cuối cùng đi Boston. Bến xe hầu như vắng tanh và chẳng ai để ý đến nàng; nàng đã thực lòng tin tưởng rằng thế là nàng thoát, để bắt đầu lại từ số không. Nhưng ai đó đã chờ đúng lúc để khơi dậy mọi chuyện.
Nàng thầm nghĩ: “Tôi muốn chết. Tôi muốn chết cho xong”. Ray bước vội, cố dùng chiếc áo veste của anh để che chắn cho Nancy. Gió len qua lớp quần áo ướt sũng của nàng. Chàng chẳng thể che chắn cho nàng. Quá muộn rồi, có lẽ mọi sự luôn vẫn muộn màng. Peter và Lisa, rồi Michael và Missy – cả bốn đều mất tích. Đã quá muộn màng đối với chúng.
Không. Không. Không thể nào với Michael và Missy. Chỉ mới đây thôi, chúng vẫn còn đó. Chúng đang chơi đùa. Chúng đang chơi đu và cái bao tay bé nhỏ đã bị vướng ở đó. Michael không bao giờ bỏ rơi em Missy của nó. Nó luôn lo lắng cho con bé. Vậy mà mọi sự cứ như là lần sau cùng đó. Lần sau cùng. Và người ta sẽ tìm thấy hai đứa bé như đã tìm thấy Peter và Lisa, mặt mày tóc tai bám đầy rong biển và những mảnh bao plastic,[6] xác trương phình.
Không. Hai đứa bé hẳn đang ở trong nhà. Dorothy mở cửa và nói: - Anh Ray à, tôi báo cảnh sát đây.
Nancy cảm thấy bóng tối ập xuống, bao phủ lấy nàng. Nàng trượt ra phía sau, bị cuốn đi… không… không… không.
Chương 8
Ôi! Sao mà chộn rộn thế kia. Con người lúc nhúc như bầy kiến, lăng xăng quanh ngôi nhà, phía sau vườn. Gã đàn ông bồn chồn liếm môi. Miệng y khô khốc tuy mồ hôi vẫn nhễ nhại. Mồ hôi ướt đẫm tay, chân, nách và bẹn của y. Từng giọt mồ hôi lăn dài trên cổ, trên lưng.
Lúc nãy, khi về đến nhà, y đã mang ngay hai đứa bé vào trong, đi thẳng lên căn phòng có đặt cái ống viễn kính. Như thế, y có thể canh chừng chúng, trò chuyện với chúng khi chúng thức dậy và vuốt ve chúng nữa chứ.
Có lẽ y sẽ tắm cho con bé, dùng cái khăn tắm thật mềm dễ lau khô mình mẩy nó, rồi rắc bột talc[7] cho nó. Y còn cả một ngày trời trước mắt. Thủy triều chỉ lên sau bảy giờ chiều. Lúc đó, trời đã tối và chẳng ai còn có thể nghe thấy bất cứ điều gì.
Y cảm thấy thích thú khi rờ rẫm hai đứa bé và mường tượng về điều mà thiên hạ sẽ hỏi mẹ chúng. Hẳn người ta sẽ hỏi: “Cô đã làm gì các con của cô?”
Có thêm nhiều xe cảnh sát đang lao nhanh trên con đường đất nện hướng về phía sau nhà Nancy. Nhưng một số xe không dừng lại. Y thầm nghĩ, “Tại sao người ta lại đổ xô về phía hồ Manshop?” Dĩ nhiên, thiên hạ cho rằng nàng đã dẫn hai đứa bé đến đó.
Y cảm thấy rất hài lòng. Từ căn phòng này, y có thể tha hồ quan sát các sự việc đang diễn ra mà không sợ một bất trắc nào. Y hoàn toàn được yên ổn, thoải mái. Y thầm hỏi, chẳng hiểu lúc này Nancy có khóc? Trong suốt phiên tòa, nàng không hề nhỏ một giọt nước mắt. Chỉ đến khi quan tòa nêu lên án tử với phòng hơi ngạt, nàng mới gục mặt vào lòng tay để che giấu những tiếng nức nở. Cảnh sát bước đến, còng tay nàng; tóc nàng xõa tung ra phía trước, che đi khuôn mặt ướt đẫm nước mắt với cái nhìn tuyệt vọng hướng về những con người hằn học.
Y còn nhớ lần đầu tiên khi thấy nàng ngang qua khuôn viên trường đại học. Ngay lúc đó, y biết mình bị cuốn hút bởi nàng, bởi mái tóc thề vàng óng bay bay trong gió, bởi những nét thanh tú, hàm răng trắng đều với những chiếc răng nhỏ nhắn, và đôi mắt biếc với cái nhìn nghiêm trang dưới hàng mi đen nhánh.
Y nghe có tiếng nức nở. Nancy à? Dĩ nhiên, không phải. Đó là tiếng nức nở của đứa bé, con gái nàng. Y rời mắt khỏi ống viễn kính, tức tối. Nhưng rồi y mỉm cười khi nhìn đứa bé gái. Những lọn tóc đẫm mồ hôi trên vầng trán, sống mũi thẳng, nước da trắng… đúng là hình ảnh Nancy. Con bé bắt đầu thức dậy và rên rỉ. Tác dụng của thuốc gây ngủ đã vơi dần; như vậy là hai đứa bé đã hôn mê gần một tiếng đồng hồ, đúng như y tiên liệu.
Vẻ tiếc nuối, y rời khỏi ống viễn kính. Lúc này, y đã để hai đứa bé nằm trên cái đi-văng lót nệm nhung dày, có mùi ẩm mốc. Giờ đây, con bé đang khóc ngất. “Mẹ… Mẹ đâu rồi…” Mắt nó nhắm nghiền, miệng há to thấy cả cái lưỡi bé tí màu hồng! Mắt nó đầm đìa nước mắt.
Y ngồi xuống đi-văng, cạnh con bé và cởi cái áo veste nhỏ nhắn của nó. Đứa bé ngã người ra sau. Y vỗ về: “Nào, im nào. Không sao đâu con”. Bây giờ, đến lượt đứa bé trai cựa mình và thức dậy. Nó nhìn gã đàn ông bằng ánh mắt kinh ngạc, tương tự như hồi nãy, khi nó trông thấy y ở trong vườn. Nó từ từ nhổm dậy và hỏi: “Ông là ai?” Nó đưa tay dụi mắt, lắc lắc cái đầu, nhìn quanh, rồi nói: “Tụi cháu đang ở đâu đây?”
Một đứa trẻ thức giấc biết nói nũng bằng một giọng trong trẻo, như vậy là tốt rồi. Bọn trẻ được cha mẹ dạy dỗ cẩn thận thì lại càng dễ bảo. Chúng sẽ không sinh chuyện. Được giáo dục tốt, chúng biết kính trọng người lớn và ngoan ngoãn. Tựa như hai đứa bé trước đây. Ngày ấy hai đứa đã ngoan ngoãn ngồi xổm trong chiếc rương đặt ở sau xe, không thắc mắc gì khi nghe y cho biết rằng chúng sẽ mang lại cho mẹ một ngạc nhiên.
Y nói với thằng bé:
- Chỉ là một trò đùa thôi. Chú là bạn của mẹ cháu và mẹ cháu muốn tổ chức một trò vui cho ngày sinh nhật của bà. Hẳn cháu biết hôm nay là ngày sinh nhật của mẹ chứ?
Y đưa tay vuốt ve đứa bé gái. Con bé thật dịu dàng và hiền lành. Thằng bé Michael có vẻ ngần ngại. Nó dứt khoát:
- Cháu không thích cái trò chơi đó.
Nó lảo đảo đứng dậy, hất tay gã đàn ông, không để vuốt ve em nó. Rồi nó ôm lấy đứa em.
Nó vỗ về khi đứa em bám lấy nó:
- Thôi, nín đi Missy. Đây chỉ là một trò chơi ngu ngốc. Bây giờ, chúng ta sẽ về nhà.
Lúc này, gã đàn ông hiểu rằng không dễ lừa phỉnh thằng bé. Y thấy nó có cái vẻ cương trực của Ray Eldredge.
Nó nói:
- Tụi cháu không muốn chơi trò chơi của chú. Tụi cháu muốn về nhà. Người đàn ông nghĩ ra một phương cách khác để buộc thằng bé phải nghe lời.
Y ra lệnh:
- Mày có chịu buông đứa em mày ra hay không?
Rồi một tay y giựt mạnh Missy ra, tay kia y chụp lấy cổ tay Michael và kéo thằng bé đến bên cửa sổ.
Y nói:
- Cháu biết cái ống viễn kính chứ?
Michael gật đầu, vẻ lưỡng lự:
- Vâng. Cũng tựa như cái ống nhòm của ba cháu. Nó làm lớn các vật ra đấy mà!
- Đúng, cháu rất thông minh. Bây giờ cháu hãy nhìn vào đó đi. Thằng bé áp mắt vào ống ngắm. Gã đàn ông nói:
- Cho chú biết cháu thấy gì nào! Không được, hãy nhắm kín mắt kia lại. - Cháu thấy ngôi nhà của cháu.
- Rồi gì nữa?
- Rất nhiều ô-tô, xe cảnh sát. Chuyện gì xảy ra vậy? Giọng thằng bé run rẩy vì khiếp đảm.
Gã đàn ông cúi xuống trên khuôn mặt lo âu bé bỏng và mỉm cười hài lòng. Có tiếng lách tách thật nhẹ trên ô kính. Tuyết đang tan và những loạt gió quất tuyết vào ô kính. Chẳng mấy chốc, tầm nhìn bị giới hạn. Lát nữa đây, cảnh vật sẽ nhạt nhòa và người ta sẽ chẳng trông rõ, ngay cả với ống viễn kính. Nhưng y còn cả một buổi chiều để ở cạnh hai đứa bé. Và y đã có phương cách nhằm buộc thằng bé phải vâng lời y.
Y hỏi:
- Cháu có biết chết là sao không?
- Nghĩa là ta lên trời. – Michael đáp.
Gã đàn ông gật đầu:
- Đúng vậy. Và sáng nay mẹ cháu đã lên trời. Chính vì thế mà có nhiều xe cảnh sát đến nhà cháu. Bố cháu đã giao hai cháu cho chú trông coi. Ông dặn cháu phải ngoan ngoãn và giúp chú một tay để chăm lo cho em cháu.
Michael có vẻ như chực òa khóc. Đôi môi cậu bé run rẩy khi nói: - Nếu mẹ đã lên trời thì cháu cũng muốn lên theo.
Bế bé Missy đang nức nở, gã đàn ông đưa tay xoa đầu thằng bé: - Được rồi, chiều nay cháu sẽ lên trời. Chú hứa.
Chương 9
Bản tin buổi trưa đã phát đi những bài tường thuật đầu tiên. Đói tin giựt gân, đại diện của các hãng truyền hình vồ ngay cơ hội và gởi các phóng viên đi khắp nơi để lùng sục những tài liệu liên quan đến vụ án Nancy Harmon.
Giới báo chí đưa ngay các ký giả chuyên về phóng sự điều tra ra sân bay để kịp thời đến Cape Cod.
Tại San Francisco, sau khi nghe bản tin buổi trưa, một trong hai trợ lý của ngài biện lý nói với người kia:
- Từ lâu, tôi đã bảo rằng, thủ phạm chính là con điếm đó. Tôi tin chắc như vậy, chẳng khác nào tôi đã tận mắt trông thấy ả đó giết chết hai đứa bé. Tin tôi đi, lần này nếu mụ đó không lãnh án thì tôi sẽ xin nghỉ việc để đi tìm gã Legler và đưa hắn về đây để làm nhân chứng buộc tội mụ ta.
Tại Boston, bác sĩ Lendon Miles đang trong giờ nghỉ trưa. Bà Markley đã hiểu rõ hơn đôi chút về chính mình. Chỉ vài phút trước đây, bà đã nêu lên một ghi nhận khá lạ lùng: “Thưa bác sĩ, bác sĩ có biết rằng nhờ bác sĩ mà tôi đã thay đổi cuộc sống, bằng cách ôn lại thời kỳ niên thiếu của tôi? Điều đó quả thực rất hữu ích cho tôi về nhiều mặt!” Chỉ mấy tháng trước đây, bà ta bị kềm hãm trong chứng trầm uất, chẳng thể nói một câu đùa bỡn.
Bác sĩ Lendon là người say mê nghề nghiệp. Đối với ông, đời sống tâm thần là một tổng hợp của những hiện tượng tinh tế và phức tạp, một tiến trình bí ẩn chỉ tỏ rõ sau những tiết lộ nhỏ nhặt và mỗi tiết lộ sẽ từ tốn dẫn dắt đến một tiết lộ khác. Bác sĩ Lendon thở dài. Con bệnh mà ông chữa trị lúc mười giờ đã tỏ ra cực kỳ hung hãn và ông đã bắt đầu bằng giai đoạn phân tích tâm lý.
Ông đưa tay bấm nút cái radio, đặt gần bàn giấy để nghe những bản tin cuối của buổi trưa. Đài đang phát đi bản tin đặc biệt.
Một kỷ niệm buồn xa xưa bỗng trở về, làm khuôn mặt ông tối xầm lại. Nancy Harmon, người con gái của Priscilla. Đã mười bốn năm trôi qua và giờ đây, hình ảnh Priscilla hiện rõ trong tâm trí ông, cứ như thể nàng đang đứng đó, dáng người thon thả, quý phái, nụ cười thoảng qua, như một ánh lửa.
Priscilla đã vào làm việc với ông sau khi chồng nàng qua đời. Dạo đó, nàng ba mươi tám tuổi, nhỏ hơn ông hai tuổi. Chẳng bao lâu sau, họ thường đi ăn tối sau những buổi làm việc muộn và lần đầu tiên trong đời, bỗng chốc ông thấy chuyện hôn nhân là điều cần thiết và chủ yếu. Trước khi gặp Priscilla, ông không hề nghĩ đến chuyện hôn nhân, vì cho rằng đời mình như thế là quá đủ, với nghề nghiệp, bạn bè và tự do. Có lẽ hồi đó ông chưa gặp được người đàn bà nào đủ quyến rũ để làm ông rời bỏ cuộc sống độc thân.
Dần dà, Priscilla đã tâm sự với ông về đời nàng. Sau năm đầu đại học, nàng kết hôn với hoa tiêu của một hãng hàng không và sinh một bé gái. Theo lẽ thì nàng đã được hưởng hạnh phúc bên chồng. Nhưng rồi, trở về từ Ấn Độ sau một chuyến bay, chàng đã bị viêm phổi do nhiễm trùng và qua đời sau một ngày lâm bệnh.
Priscilla đã nói: “Em tưởng rằng mình không tài nào chịu đựng nổi. Dave có hàng ngàn giờ bay, từng đưa chiếc Boeing 707 vượt qua những trận bão tồi tệ nhất, vậy mà… thật là bất ngờ. Thật không thể tin rằng vào thời đại ngày nay mà có thể chết vì chứng viêm phổi”.
Lendon chưa hề gặp cô con gái của Priscilla. Cô ấy đã về San Francisco để theo học sau khi mẹ cô vào làm việc với Lendon. Priscilla đã giải thích về lý do khiến con nàng phải đi học xa nhà như sau: “Nancy quá khắng khít với em. Cái chết của Dave ảnh hưởng rất sâu đậm đến Nancy. Em muốn thấy con bé được hạnh phúc, vô tư và xa hẳn cái không khí u buồn đó. Bản thân em cũng một thời học ở Auberley, và cũng ở đó mà em đã gặp Dave. Nancy thường theo em về đó tham dự các buổi họp mặt cựu sinh viên vì thế con bé không xa lạ gì với trường đại học này”.
Vào tháng mười một, Priscilla xin nghỉ hai ngày để về San Francisco thăm Nancy. Lendon đã lái xe đưa nàng ra sân bay, và họ đã đứng một lúc trong hành lang phi trường, chờ giờ bay.
Lendon đã nói:
- Sẽ bằng thừa để nói với em rằng anh sẽ nhớ em nhiều lắm. Hôm ấy, Priscilla khoác một chiếc áo choàng màu nâu sẫm, rất hợp với mái tóc vàng và vẻ đẹp thanh tú của nàng.
- Em ước mong điều đó – Nàng đáp, ánh mắt bỗng chốc nhạt nhòa – Anh ạ, em cảm thấy rất lo sợ. Qua những lá thư gần đây, Nancy xem
chừng không vui. Em bỗng dưng thấy sợ. Có khi nào anh linh cảm bị đe dọa bởi một điều gì đó?
Ông chăm chú nhìn nàng và cả hai cùng cười.
Rồi nàng nói:
- Chính vì thế mà trước đây em không dám nói với anh. Em biết rằng anh sẽ nghĩ em nực cười.
- Không đâu. Kinh nghiệm cho anh biết không nên xem thường những linh cảm. Có điều anh không gọi đó là linh cảm mà gọi là trực giác. Đã lo sợ thế đó mà sao không nói với anh? Có lẽ anh nên tháp tùng em thôi. Anh tiếc là chưa được gặp Nancy.
- Ồ! Không sao đâu anh. Có lẽ em đã quá lo lắng cho con gái của em. Dẫu sao, em sẽ rất cần sự dìu dắt của anh khi em trở về.
Những ngón tay của họ đan vào nhau.
Bác sĩ Lendon nói:
- Em không nên lo lắng thái quá. Bọn trẻ thường có khả năng để vượt qua khó khăn. Trong trường hợp có chuyện không ổn, vào cuối tuần anh sẽ đáp máy bay đến, nếu em cần có sự trợ giúp của anh.
- Thôi, em không muốn làm phiền anh.
Giọng nói lạnh lùng cất lên từ loa phát thanh: “Yêu cầu các hành khách đáp chuyến bay số 569 đi San Francisco hãy nhanh chóng ra…” Bác sĩ Lendon vội vã:
- Này Priscilla, bộ em không biết rằng anh yêu em hay sao? - Vâng, em biết! Em tin. Em đang hạnh phúc. Và em cũng yêu anh. Đó là khoảnh khắc sau cùng họ ở bên nhau. Bước khởi đầu của những kẻ đang yêu.
Chiều hôm sau đó, Priscilla gọi cho Lendon để nói rằng nàng lo sợ. Không có Lendon ở đầu dây, nàng nhắn lại rằng nàng đi ăn tối với Nancy và sẽ gọi ngay khi nàng về khách sạn, vì nàng cần nói chuyện với ông.
Suốt đêm hôm đó, Lendon đã chờ nàng gọi. Biệt vô âm tín. Priscilla sẽ chẳng bao giờ trở về khách sạn nữa. Ngày hôm sau, ông được tin Priscilla lâm nạn. Chiếc ô-tô nàng thuê mướn bị gãy trục lái, lệch khỏi đường và rơi xuống hố.
Theo lẽ ông đã bay về San Francisco để gặp Nancy nhưng rồi khi gọi điện cho cô ta, ông đã gặp Carl Harmon ở đầu bên kia. Anh này cho biết sẽ tiến đến hôn nhân với Nancy. Qua câu chuyện, Carl tỏ ra là một người vững chãi và có trách nhiệm. Nancy không trở về Ohio. Trước đây, cô và Carl đã cho mẹ biết cái ý định này của họ, hơn nữa dòng họ của Nancy đã lập nghiệp từ ba đời nay tại California. Dạo đó, Lendon đã nghĩ rằng Nancy sẽ vượt qua khó khăn vì cô đã có Carl bên cạnh, vả lại, ông đâu thể làm gì hơn? Không lẽ nói cho Nancy biết rằng mẹ cô và ông đã có thời yêu nhau? Chẳng khác gì làm cho cô thêm tổn thương. Anh chàng giáo sư đại học Carl Harmon đó có vẻ là người chân thật. Nỗi lo sợ của Priscilla có lẽ đã xuất phát từ việc Nancy mới có mười tám tuổi mà đã sớm quyết định chuyện hôn nhân. Dẫu sao, Lendon cũng chẳng có quyền hạn gì để can thiệp vào quyết định đó.
Vì chẳng còn Priscilla nên Lendon đã vội vã nhận lời mời sang dạy ở trường đại học London. Và chính vì xa xứ nên ông chỉ nghe nói về vụ án Harmon khi nó đã kết thúc.
Tại trường đại học London, ông đã gặp Allison. Nàng là giảng viên của trường, chính vì đã yêu thương Priscilla và hiểu được sự dịu ngọt khi cùng nhau chia sẻ vui buồn, nên bác sĩ Lendon đã thấy khó khăn khi phải trở lại với cuộc sống độc thân nghiêm túc và ích kỷ. Ông đã quyết định kết hôn với Allison và kể cho nàng nghe về chuyện tình của ông với Priscilla. Thỉnh thoảng, ông thắc mắc không hiểu Nancy Harmon bây giờ đi về đâu. Giờ đây, khi biết rằng cô ta đang ở Boston, cách ông một tiếng rưỡi giờ xe, thì ông mới thực sự không ngờ. Ông thầm nghĩ: ”Có lẽ hôm nay ta sẽ tìm cách chuộc lại cái lỗi lầm là đã vội quên Priscilla”.
Có tiếng chuông điện thoại. Ngay sau đó, đèn hiệu của máy nội đàm nhấp nháy. Lendon nhấc ống nghe.
- Thưa bác sĩ, có điện thoại của bà nhà. – Cô thư ký nói.
Và giọng Allison lo lắng:
- Chẳng hay anh có nghe tin về Nancy Harmon?
- Có.
- Anh có tính gì không?
Câu hỏi của Alison củng cố thêm cái quyết định mà Lendon đã hình thành trong vô thức, ông nói:
- Anh tính thực hiện điều mà theo lẽ anh đã làm từ nhiều năm qua. Anh sẽ giúp đỡ cô ấy. Anh sẽ gọi cho em sau.
- Cầu trời phù hộ anh.
Lendon nhấc máy nội đàm và lệnh cho cô thư ký:
- Nhờ cô nói với bác sĩ Marcus thay tôi chữa trị cho số bệnh nhân có hẹn vào chiều nay. Báo với ông rằng tôi phải vắng mặt vì có chuyện khẩn. Sau đó cô hãy gọi cho trường đại học để hoãn buổi lên lớp lúc 16 giờ của tôi. Tôi phải đi Cape Cod ngay bay giờ.
Chương 10
Anh Ray à, chúng tôi đã bắt đầu cho người mò tìm lòng hồ. Chúng tôi đã thông báo trên các kênh truyền hình, radio và đã được tăng cường thêm người để tìm kiếm hai cháu.
Jed Coffin, thanh tra cảnh sát Adam Port nói, cố giữ giọng trầm tĩnh. Tuy vậy, trước ánh mắt lo âu và khuôn mặt xám xịt của Ray thì không dễ để giữ một thái độ vững tin và ân cần. Ray đã lừa dối ông, trước đây chàng đã nói với ông rằng Nancy nguyên quán ở Virginia và đã quen Dorothy ở đó. Ray đã nói nhiều về Nancy, nhưng chỉ là những chuyện không có thật. Và Jed Coffin đã tin, không chút nghi ngờ. Chính vì thế mà giờ đây ông cảm thấy bực tức.
Giờ đây, đối với ông, sự việc đã trở nên sáng tỏ. Sau khi đọc bài báo viết về mình, vợ của Ray hiểu rằng chân tướng bà đã bị lộ và vì thế, bà hoảng loạn. Bà đã ra tay sát hại hai đứa bé như đã từng làm với hai đứa trước đây. Chăm chăm nhìn Ray, Jed Coffin nghĩ rằng chàng ta cũng đang có cái ý nghĩ như ông.
Mớ tro tàn của tờ báo vẫn còn đó, trong lò sưởi. Thanh tra Jed thấy Ray đang hướng mắt về phía đó. Với những mảnh còn sót lại, chưa cháy hết, người ta hiểu ngay rằng tờ báo đã bị xé nát trong một cơn điên loạn. Jed Coffin hỏi:
- Bác sĩ Smathers còn ở trên đó với bà? – Giọng viên thanh tra có vẻ lạnh lùng, không còn gọi “Bà Eldredge” như trước đây.
- Vâng. Bác sĩ sẽ tiêm cho nhà tôi một mũi thuốc an thần. Ồ! Lạy Chúa tôi!
Ray ngồi ở bàn ăn, gục đầu vào lòng bàn tay. Chỉ mấy tiếng đồng hồ trước đây, Nancy cũng đã ngồi nơi đây, trên chiếc ghế này, bế Missy trong tay, trong khi Mike hỏi, “Hôm nay là ngày sinh nhật của mẹ, phải không mẹ?” Phải chăng một điều gì đó từ tiềm thức đã thôi thúc Ray tổ chức sinh nhật nàng? Và rồi, bài báo đó… phải chăng Nancy đã…
“Không!” Ray ngửng đầu và quay mặt đi khi bắt gặp ánh mắt của viên thanh tra đang nhìn chàng từ cửa sau căn bếp.
Ông ta hỏi:
- Anh nghĩ sao?
- Nancy không thể nhẫn tâm với hai đứa bé. Dẫu thế nào chăng nữa thì nhà tôi cũng không thể làm điều đó.
- Dĩ nhiên, trong trạng thái bình thường thì không. Nhưng tôi đã từng thấy nhiều người đàn bà không còn chút tỉnh táo và chuyện rắc rối là thế. Ray đứng dậy, bám tay vào cạnh bàn. Ánh mắt chàng lướt qua viên thanh tra, nhưng không dừng lại, như thể ông ta không có đó.
Chàng nói:
- Tôi cần được giúp đỡ. Tôi cần được thực sự trợ giúp.
Căn bếp trông chẳng khác một bãi chiến trường. Cảnh sát đã nhanh chóng lục xét toàn bộ ngôi nhà trước khi tập trung tìm kiếm bên ngoài. Một nhân viên nhiếp ảnh của cảnh sát vẫn còn tiếp tục bấm máy, nơi ấm nấu cà phê đã đổ, để lại những đốm đen trên bếp và sàn nhà. Chuông điện thoại không ngớt reo. Và câu trả lời vẫn là: “Vâng, lát nữa đây ông thanh tra sẽ có tuyên bố chính thức”.
Viên cảnh sát được giao nhiệm vụ trả lời điện thoại bước đến bên bàn ăn và nói: “Hãng thông tấn. A. P. đấy. Các hãng thông tấn đang xôn xao. Chẳng bao lâu nữa thì họ sẽ ào đến đây”.
Các hãng thông tấn. Ray bỗng nhớ đến cái nét day dứt trên mặt Nancy, nét day dứt phải mất bao thời gian mới có thể xua đi.
Chàng nhớ đến hình ảnh của nàng đăng trên báo sáng nay, với bàn tay giơ lên như tìm cách chống đỡ những ngọn đòn. Chàng đẩy thanh tra Jed một bên, chạy ào lên lầu và mở cửa phòng. Bác sĩ Smathers đang ngồi cạnh Nancy.
Ông nói bằng một giọng dịu dàng:
- Này Nancy, cô có nghe tôi nói không. Tôi biết cô đang nghe tôi mà. Ray đang ở đây này. Anh ấy rất lo lắng cho cô. Hãy nói với anh ấy đi, Nancy.
Mắt Nancy vẫn nhắm. Lúc nãy, khi về đến nhà, Dorothy đã giúp Ray cởi bỏ bộ quần áo ướt đẫm của Nancy để thay cho nàng cái áo ngủ êm ấm. Giờ đây, trong chiếc áo này, trông nàng thật nhỏ nhắn và bất động chẳng khác gì một bé gái.
Ray cúi người về phía Nancy:
- Nancy, anh van em. Em phải giúp anh tìm các con. Phải tìm chúng, chúng đang cần em. Cố lên nào, Nancy. Anh van em, hãy cố lên. - Thôi anh Ray, đừng nữa – Bác sĩ Smarthers nói, khuôn mặt ông hằn lên những nếp nhăn xúc động – Nancy đã bị một cú sốc khủng khiếp, có lẽ do đã đọc bài báo, hoặc gặp phải một điều gì đó. Tâm trí cô ta đang tìm cách để đương đầu.
Ray thốt lên:
- Nhưng chúng ta cần biết chuyện gì đã xảy ra. Có thể nhà tôi đã trông thấy ai đó bắt đi các con.
Rồi chàng nói với Nancy:
- Này Nancy, anh hiểu. Anh biết chứ. Em không nên lo sợ vì cái bài báo đó. Chúng ta sẽ cùng nhau đối phó. Nhưng, này em yêu, các con đâu rồi? Em phải giúp anh tìm chúng. Phải chăng chúng đã đi ra hồ?
Nancy rùng mình. Từ họng nàng thốt lên một tiếng hét tắt nghẹn. Đôi môi nàng mấp máy: “Hãy đi tìm các con… hãy tìm…”
- Anh sẽ đi tìm chúng. Nhưng anh cần có sự giúp sức của em. Nào, em yêu, để anh đỡ em dậy nhé. Em có thể giúp tìm các con. Nào em, đừng chậm trễ nữa.
Khi cúi xuống gần nàng, Ray thấy Nancy có vết trầy trụa ở má vì đã ngã trên cát. Những hạt cát ẩm vẫn còn bám trên tóc nàng. Chàng thầm nghĩ, “Tại sao nhỉ? Hay là…”
Bác sĩ Smarthers nói:
- Tôi sẽ tiêm cho Nancy một mũi thuốc để giúp bà bớt lo âu căng thẳng nhưng đồng thời không làm bà phải ngủ mê mệt.
Nàng cảm thấy rã rời, đờ đẫn. Đó là cái cảm giác mà nàng đã từng gặp trong bao năm dài – từ hôm mẹ nàng qua đời hoặc có thể từ trước đó, cái cảm giác chịu trận, vô phương chống đỡ, không thể chọn lựa, cựa quậy hoặc ngay cả nói năng. Đến bây giờ, nàng vẫn không tài nào quên được những đêm dài đăng đẳng đó, những đêm trĩu nặng vì mệt mỏi. Carl đã tỏ ra rất nhẫn nại đối với nàng. Chàng đã làm tất cả những gì có thể để giúp nàng. Chàng đã không ngừng nhắc đi nhắc lại là cần phải nỗ lực hơn, nghị lực hơn để vượt qua chứng ngủ lịm kinh khiếp đó. Thế mà nàng đã không tài nào làm được.
Nhưng chuyện đó đã xảy ra từ lâu lắm rồi. Nàng không còn nhớ đến nữa. Nàng cũng đã quên Carl, quên hai đứa bé, quên Rob Legler chàng sinh viên điển trai đã tỏ ra thương mến nàng và biết pha trò để nàng cười ồ. Mỗi khi có chàng sinh viên đó, hai đứa bé đã rất vui và sung sướng. Nàng đã từng xem anh ta là một người bạn thực sự. Thế mà, khi ra trước tòa, chàng ta đã khai: “Bà ấy đã nói với tôi rằng hai đứa bé sẽ bị chết ngạt. Bà ta đã nói thế bốn ngày trước khi hai cháu bé mất tích”.
Nàng nghe có tiếng của Ray:
- Nancy, anh van em. Nancy, tại sao em đi ra hồ?
Nàng nghe có tiếng than khô khốc thốt ra từ môi nàng. Hồ ư? Hai đứa con đã ra ngoài đó à? Nàng phải đi tìm chúng mới được. Nàng mơ hồ cảm thấy Ray đang đỡ nàng dậy. Nàng tựa người vào chàng rồi cố gượng dây. Quả thật là dễ dàng để trốn chạy, chìm vào giấc ngủ, như ban nãy.
- Giỏi lắm, Nancy! – Ray nói và quay sang bác sĩ Smarthers – Tôi có thể cho nhà tôi uống cà phê?
Bác sĩ Smarthers gật đầu:
- Để tôi nhờ bà Dorothy pha cà phê.
Cà phê. Đúng, nàng đang nấu cà phê thì trông thấy bức ảnh trên báo. Nancy mở mắt ra. Nàng nói nho nhỏ:
- Anh à, họ sẽ biết chuyện. Mọi người rồi sẽ biết. Anh không thể che giấu… Anh không thể che giấu đâu.
Rối nàng chợt nghĩ đến một điều khác và níu lấy cánh tay Ray: - Các con. Ray à, đi tìm các con đi anh.
- Bình tình đi em. Chính vì thế mà mọi người đang cần sự trợ giúp của em. Sự thể đã xảy ra như thế nào, em phải kể hết ra, kể cả những chi tiết nhỏ nhặt nhất. Em hãy dành ra ít phút để tỉnh trí và nhớ lại. Dorothy vào phòng, bưng tách cà phê bốc khói:
- Tôi đã pha Nescafe đây. Bà ấy đã khỏe chưa?
- Bà đã tỉnh rồi.
- Thanh tra Coffin nôn nóng muốn thẩm vấn Nancy.
Nancy hoảng sợ. Nàng níu lấy cánh tay chồng. Ray trấn an:
- Em đừng sợ. Sở dĩ như thế là vì chúng ta cần có sự trợ giúp của ông ta để tìm các con.
Nancy uống một ngụm cà phê, thưởng thức cái hương vị nóng bỏng đó và thầm nghĩ, “Phải chi ta có thể nhớ lại… ta có thể tỉnh thức… thoát khỏi cái chứng ngủ lịm kinh khiếp này”.
Giờ đây, nàng có thể nói được rồi. Nàng cảm thấy đôi môi trở nên dày rộp, sền sệt, tựa như cao su. Nhưng nàng cần phải nói, giúp mọi người tìm kiếm hai đứa bé. Nàng muốn xuống nhà. Nàng thấy nàng không nên ở trên này, chờ đợi trong căn phòng này, không thể xuống nhà đương đầu với người ta với cảnh sát, vợ của các giáo sư đại học.
Bám vào cánh tay Ray, Nancy lảo đảo đứng dậy. Ngày hôm nay, nàng còn có Ray để nương tựa.
- Ray à… Em không làm hại các con.
- Dĩ nhiên. Anh hiểu.
Giọng nói của chàng quá dịu dàng, nhưng có vẻ sửng sốt. Sao không sửng sốt được chứ? Chàng thầm nghĩ tại sao nàng cần phải biện minh như thế. Không một người mẹ nào có thể nghĩ đến chuyện làm hại con mình, vậy thì, tại sao nàng phải nói?
Cố hết sức, Nancy mò mẫm ra cửa. Ray dìu nàng từng bước. Nàng không còn cảm giác của đôi chân, cứ như thể chúng không có đó. Nàng không còn cảm giác về chính mình, cứ như thể nàng không còn hiện hữu. Đây là cơn ác mộng thường xảy đến với nàng. Trong ít phút nữa, nàng sẽ thức dậy, tựa như nàng đã thức giấc trong nhiều đêm, bước ra khỏi giường, đi sang phòng Missy và Michael để xem chúng đã đắp chăn đầy đủ chưa, trước khi quay trở về giường, rón rén, nhẹ nhàng kẻo sợ Ray thức giấc. Nhưng trong giấc ngủ, chàng đã giương tay ra, ôm lấy nàng, và nàng chìm vào giấc ngủ, cảm thấy yên ổn với tấm thân nóng ấm của chàng.
Họ bước xuống cầu thang. Các nhân viên cảnh sát ngước đầu nhìn nàng. Nàng hoàn toàn bất động như chết sững trong khoảnh khắc. Thanh tra Jed Coffin ngồi nơi bàn ăn. Nàng cảm nhận thái độ hằn học của ông tựa như trong lần sau cùng, trước đây.
Ông nói:
- Sao bà Eldredge? Bà thấy thế nào?
Một câu hỏi chỉ để mà hỏi. Không chút tình cảm. Nếu không có Ray ở đây, hẳn ông ta sẽ không buồn hỏi han như thế.
- Vâng, cám ơn ông. – Nàng đáp, lòng không chút ưa thích người đàn ông đó.
- Chúng tôi đang tìm kiếm các con của bà. Tôi tin rằng chúng tôi sẽ nhanh chóng tìm thấy hai cháu. Nhưng bà phải giúp đỡ chúng tôi. Bà hãy cho chúng tôi biết lần sau cùng mà bà gặp hai cháu là vào lúc nào?
- Ít phút trước mười giờ sáng. Tôi đã cho các con ra vườn chơi và tôi lên nhà, làm giường.
- Bà đã ở bao lâu trên đó?
- Mười phút… không quá mười lăm phút.
- Sau đó bà làm gì?
- Tôi xuống nhà, tính giặt quần áo xong rồi sẽ gọi các con. Nhưng sau khi chạy máy giặt, tôi lại nảy ý định nấu cà phê. Rồi tôi trông thấy người giao báo.
- Bà có nói chuyện với người ấy?
- Không. Thật ra, không thể nói là tôi đã gặp anh ta. Khi tôi ra cổng để nhặt tờ báo thì bóng anh ta đã khuất ở cuối đường.
- Tôi hiểu. Rồi sau đó bà làm gì?
- Tôi trở vào bếp, cắm điện ấm đun cà phê – lúc đó vẫn còn nóng. Và tôi bắt đầu lướt qua tờ báo.
- Vậy là bà đã xem bài báo đó?
Nhìn thẳng về phía trước, Nancy gật đầu.
Thanh tra Jed hỏi:
- Bà đã phản ứng ra sao?
- Có lẽ tôi đã hét lên… tôi không rõ nữa.
- Tại sao cà phê đã đổ tung tóe?
- Tôi đã chạm phải, cà phê đã đổ và làm bỏng tay tôi.
- Tại sao lại xảy ra cái chuyện đó?
- Tôi không hiểu nữa. Tôi đã vô tình chạm phải ấm cà phê. Lúc đó, tôi có cảm giác đầu óc tôi như muốn nổ tung. Tôi biết rằng rồi đây tôi sẽ bị thiên
hạ soi mói, chỉ trỏ, nhỏ to với nhau. Người ta sẽ cho rằng tôi đã giết các đứa bé. Và tôi không muốn để Michael trông thấy bức hình đăng trên báo. Vì thế, tôi đã cầm tờ báo trong tay và chạy. Tôi vứt nó vào lò sưởi, và đốt tờ báo cháy. Lúc đó, tôi sực nhớ rằng tôi phải ra vườn để kiếm Michael và Missy. Tôi phải đưa chúng vào một nơi an toàn để che giấu. Nhưng, cũng tương tự như lần sau cùng trước đây, khi hai đứa bé bị mất tích. Tôi chạy ào ra vườn, quá lo sợ.
- Bây giờ, bà hãy nghe kỹ lời tôi nói, vì rất quan trọng. Lúc đó, bà có gặp hai cháu không?
- Không. Chúng đã đi rồi. Tôi đã gọi chúng và chạy ào ra hồ. - Thưa bà Eldredge, lý do nào khiến bà chạy ra hồ? Ông nhà cho biết ông đã cấm các con ra hồ và chúng rất ngoan ngoãn, luôn nghe lời bố mẹ. Tại sao bà không tìm chúng trong các cánh rừng, dọc theo đường lộ hoặc ngoài phố, vì biết đâu chúng đã ra phố để mua quà sinh nhật? Tại sao bà phải ra hồ chứ?
Giọng Nancy vỡ vụn:
- Tại vì tôi sợ. Tại vì trước đây Peter và Lisa đã chết đuối. Tại vì tôi muốn tìm Michael và Missy. Cái bao tay của Missy đã vướng lại trên cái đu. Con bé khi nào cũng có cái thói đó. Tôi đã chạy ra hồ để tìm các con. Mọi sự đã bắt đầu như vào lần cuối… Mặt mày chúng ướt đẫm, bất động… và chúng không còn nói năng gì nữa…
Thanh tra Jed đứng dậy. Ông nói bằng giọng trịnh trọng:
- Thưa bà Eldredge, tôi có nhiệm vụ thông báo cho bà biết rằng bà có quyền nhờ đến một luật sư trước khi phải trả lời những chất vấn khác, và đừng quên rằng những lời khai của bà có thể trói buộc bà đấy.
Không chờ Nancy trả lời, ông rời khỏi căn bếp và ra khỏi nhà bằng cửa sau. Ở sau nhà, xe đang chờ ông. Tuyết tan lã chã quất vào mặt ông. Ông chui vào xe; gió đẩy mạnh cánh cửa xe đập vào giày ông. Ông cau mặt vì đau đớn và làu bàu: “Ra hồ”.
Nếu thời tiết càng lúc càng tệ như thế này thì chẳng thể tiếp tục công việc tìm kiếm. Bây giờ đang giữa trưa mà trời đã âm u như xế chiều. Ngay cả khi thời tiết tốt đẹp thì việc lặn tìm ở hồ Maushop đã là vấn đề vì đây là một hồ lớn, sâu và nguy hiểm nhất vùng Cape, chính vì thế mà ở đây thường xảy ra những vụ chết đuối. Bạn có thể êm ả ngâm mình trong nước
đến ngang hông và rồi chỉ bước thêm một bước là hụt chân, sa xuống độ sâu mười thước. Nếu hai đứa bé đã bị chết đuối thì hẳn xác chúng sẽ nổi lên vào mùa xuân tới. Không thể sớm hơn. Với cái rét đang nhanh chóng tăng lên, chẳng mấy chốc mặt hồ sẽ trở thành sân trượt băng.
Thông thường vào mùa này và nhất là với thời tiết như hôm nay, thì hồ Maushop vắng tanh, tuy vậy, giờ đây, nó đen kịt người. Đứng sát bên nhau, thành từng nhóm nhỏ, những người hiếu kỳ nhìn vào khoảng không gian được phân định bởi một sợi thừng, nơi những người thợ lặn đang đứng cạnh các thiết bị của họ, và một hàng rào cảnh sát.
Thanh tra Jed vội vã bước ra khỏi xe và bước nhanh về phía hồ. Ông đi về phía trung úy Pete Regan, người đang chỉ huy công việc mò tìm. Cái khoát tay thất vọng của Pete đủ để cho viên thanh tra hiểu và không lên tiếng hỏi han.
Co ro trong chiếc áo khoác, thanh tra Jed thầm hỏi phải chăng đây là nơi Nancy Eldredge đã lôi các con của bà ta xuống nước. Vào lúc này đây, có những người thợ lặn đang có nguy cơ mất mạng vì cái hành vi điên loạn đó của bà ta. Chỉ có Trời mới biết hai đứa trẻ hiện đang ở đâu và bao giờ người ta mới tìm thấy chúng.
Bực tức, ông gọi Pete, giọng khô khốc.
Pete vội vã bước đến bên ông:
- Thưa sếp, chuyện gì ạ?
- Mấy gã đó còn mò tìm trong bao lâu nữa?
- Họ đã hai lần mò dưới đó. Sau lần này, họ lại tiếp tục thêm một lần nữa, rồi nghỉ một lúc trước khi sang khu khác.
Trung úy Pete chỉ tay về cái camera của hãng truyền hình và nói tiếp: - Chiều nay, các hãng truyền hình sẽ loan tin vụ này. Tốt hơn, sếp nên soạn sẵn một lời tuyên bố.
Bằng những ngón tay tê cóng, thanh tra Jed lục tìm trong túi chiếc áo khoác.
- Tôi đã viết sẵn vài hàng đây – Ông nói và từ tốn đọc: “Chúng tôi đã triển khai toàn bộ lực lượng để tìm kiếm hai đứa con của bà Nancy Eldredge. Những toán tình nguyện đã lùng sục khu vực quanh ngôi nhà và những cánh rừng lân cận. Ngoài ra, các trực thăng cũng đang quần khắp
vùng để tìm kiếm những dấu vết khả nghi. Vì hồ Maushop không xa ngôi nhà của gia đình Eldredge nên việc mò tìm dưới lòng hồ là điều cần thiết, không thể bỏ qua”.
Nhưng rồi một lúc sau đó, khi thanh tra Jed đọc lời tuyên bố này trước đám phóng viên và ký giả càng lúc càng đông, thì một người trong số họ đã hỏi: “Sáng nay, sau khi các cháu bé mất tích, phải chăng người ta đã tìm thấy Nancy Eldredge ở bên hồ, ướt đẫm và đang lên cơn tâm thần?”
- Đúng vậy.
Một gã dong dỏng cao, mà thanh tra Jed nhận ra đó là một phóng viên của kênh 5 đài truyền hình Boston hỏi: “Căn cứ vào điều vừa kể và vào quá khứ của bà Eldredge, phải chăng việc tìm kiếm ở Maushop mang một ý nghĩa đặc biệt?”
- Chúng tôi không loại trừ một khả năng nào.
Và những câu hỏi được các phóng viên nêu lên tới tấp:
- Căn cứ trên thảm kịch đã xảy ra trước đây, việc các đứa bé của gia đình Eldredge mất tích có thể cho phép ta nghi ngờ?
- Tôi không thể trả lời câu hỏi này vì như thế là xâm phạm đến quyền công dân của bà Eldredge.
- Bao giờ thì ông sẽ xét hỏi bà ấy?
- Ngay khi có thể.
- Phải chăng sáng nay bà Eldredge đã đọc bài báo viết về bà ta? - Theo tôi nghĩ thì bà ấy đã đọc.
- Bà ấy đã phản ứng ra sao?
- Xin lỗi, tôi không thể tiết lộ.
- Có phải hầu hết cư dân thành phố này đều không biết về quá khứ của bà Eldredge?
- Đúng.
- Vậy, ông có biết lý lịch thực sự của bà ấy?
- Không, tôi không biết – Thanh tra Jed lắc đầu và nói nho nhỏ – Phần trả lời phỏng vấn hôm nay đến đấy là hết.
Nhưng trước khi ông kịp rút lui, một phóng viên của tờ Boston Herald đã chắn ngang lối đi và lớn tiếng hỏi:
- Thưa ông thanh tra, trong sáu năm qua, tại Cape đây và những vùng lân cận, có đứa trẻ nào bị chết một cách bí ẩn hay không?
- Có.
- Vậy, bà Nancy Harmon Eldredge đã sống tại Cape từ bao lâu rồi? - Sáu năm, nếu tôi không lầm.
- Xin cám ơn ông.
Chương 11
Mải mê với công việc, Jonathan Knowles không hay biết thời gian trôi qua. Ông cũng chẳng hay biết về sự chộn rộn quanh hồ Maushop. Ông chỉ ghi nhận rằng hôm nay xem chừng xe cộ qua lại trước nhà ông nhiều hơn. Nhưng, vì làm việc trong một căn phòng ở cuối nhà nên tiếng động chỉ lọt rất ít đến tai ông.
Qua cú sốc đầu tiên phát hiện ra rằng người vợ của Ray Eldredge chính là bà Nancy Harmon lừng danh, Jonathan đã uống một ly cà phê và tiếp tục ngồi vào bàn giấy. Ông quyết định duy trì kế hoạch của ông, nghĩa là nghiên cứu vụ án Harmon đúng như đã định. Ông nghĩ rằng, nếu sau này thấy việc nghiên cứu về trường hợp phạm tội của một thiếu phụ mà ông quen biết sẽ là điều không mấy tế nhị, thì ông sẽ đơn giản hủy bỏ toàn bộ cái chương này của cuốn sách.
Nghĩ đến đó, ông bắt đầu chăm chú đọc một bài được đăng trên một nhật báo ở Cape. Sau khi nêu ra một loạt những chi tiết thiếu trung thực nhằm làm cho người đọc phải rùng mình khiếp sợ, bài báo đề cập đến quá khứ của Nancy Harmon, người vợ trẻ của một giáo sư đại học, hai con, một ngôi nhà trong khuôn viên đại học. Một đời sống đáng mơ ước cho đến cái ngày mà giáo sư Harmon đã nhờ một sinh viên đến nhà ông để sửa cái nồi hơi đun bằng dầu mazut.[8] Chàng sinh viên này vốn điển trai, ăn nói có duyên và giỏi tán tỉnh phụ nữ. Vì thế Nancy, mới hai mươi lăm tuổi, đã phải lòng chàng.
Jonathan đọc những đoạn trích dẫn các lời khai nhân chứng đăng trên báo. Chàng sinh viên Rob Legler đã giải thích về sự gặp gỡ giữa chàng ta và Nancy như sau: “Lúc đó, tôi đang ở trong văn phòng của giáo sư Harmon thì vợ ông gọi điện cho biết cái nồi hơi bị hỏng. Vì chuyên trị các thứ máy móc hỏng hóc nên tôi đã tình nguyện giúp ông. Ông ấy không mấy nhiệt tình khi chấp nhận sự giúp đỡ của tôi, nhưng vì không liên lạc được với cơ sở thường đến bảo trì cho ngôi nhà của ông và vì phải sửa chữa ngay hệ thống sưởi, nên ông không còn một lựa chọn nào khác”.
Ông biện lý hỏi:
- Giáo sư Harmon có căn dặn anh điều gì trước khi đến nhà ông? - Vâng, ông ấy cho biết vợ ông không được khỏe vì thế tôi không nên làm phiền bà. Ông dặn tôi, nếu cần một cái gì đó hoặc thắc mắc gì thì hãy
gọi điện cho ông.
- Anh có tuân theo lời dặn của giáo sư Harmon?
- Thưa ngài biện lý, tôi đã tuân theo nhưng có điều là bà vợ của ông cứ lẽo đẽo theo tôi như một con chó con.
Và lời khai sau đây của gã sinh viên đã gây nhiều tổn hại cho thanh danh của Nancy. Trước câu hỏi: “Giữa anh và bà Nancy đã có quan hệ về mặt thể lý?” thì gã ta trả lời ngay:
- Thưa ngài, có ạ.
- Chuyện đó xảy ra thế nào?
- Lúc đó, tôi đang chỉ cho bà Nancy xem nơi lắp đặt ổ ngắt điện của nồi hơi và giải thích rằng hỏng hóc đã xảy ra tại đây.
- Nhưng giáo sư Harmon đã dặn là anh không được quấy rầy bà Nancy với những câu hỏi hoặc giải thích này nọ?
- Bà ấy cứ nàng nặc đòi tôi phải chỉ dẫn, bảo rằng bà muốn biết để có thể tự xoay trở. Tôi đã giải thích cho bà về nguyên tắc vận hành của nồi hơi. Bà đã nghiêng người về phía tôi để mở cầu dao điện và lúc đó tôi thầm nghĩ, sao ta bỏ phí cơ hội? Thế là tôi ra tay.
- Bà Harmon đã phản ứng ra sao?
- Có thể nói là bà ta không có vẻ gì là phiền lòng.
- Yêu cầu anh giải thích rõ về điều đã xảy ra.
- Thật ra, chẳng có gì là quá đáng. Tôi đã kéo bà ấy về phía tôi và ôm hôn bà. Một phút sau, bà miễn cưỡng né người sang một bên. - Chuyện gì đã xảy ra sau đó?
- Tôi đã nói, thật là thú vị.
- Bà Harmon đã trả lời sao?
- Bà đã nhìn tôi và nói như thể không phải nói với tôi, bà đã nói: “Tôi phải rời khỏi chốn này”. Lúc đó, tôi nghĩ rằng tốt hơn tôi nên tránh những chuyện rắc rối. Nghĩa là, tôi cần phải nghiêm túc, nếu không tôi sẽ bị tống cổ khỏi đại học và phải nhập ngũ. Chính vì lý đó đó mà tôi phải đeo đuổi chuyện học hành. Tôi đã nói: “Thưa bà Harmon…” Rồi ngay sau đó, tôi quyết định chỉ đơn giản gọi là Nancy, thế thôi. “Này Nancy, chớ nên quan
trọng hóa vấn đề. Chúng ta sẽ tìm cách để gặp nhau. Cô không thể bỏ nhà mà đi, còn có các con của cô nữa”.
- Nghe như thế, bà Harmon đã phản ứng ra sao?
- Quả là lạ lùng. Ngay lúc đó, đứa bé trai Peter đã xuống nhà để tìm mẹ. Peter là một đứa bé ít nói – không hề hé môi. Bà Harmon hoảng sợ, nói nhanh: “Tụi nhỏ”. Rồi thật kỳ lạ, bà ta đã bật cười và nói tiếp: “Rồi chúng sẽ chết ngạt thôi”.
- Này anh Legler, anh vừa nói ra một câu rất quan trọng. Anh có chắc là đã lặp lại đúng những gì bà Harmon nói?
- Hoàn toàn đúng, thưa ngài biện lý. Lúc đó, tôi bỗng rợn người. Chính vì vậy mà tôi không thể quên.
- Hôm đó là ngày nào, anh còn nhớ?
- Đó là ngày 13 tháng mười một. Sở dĩ tôi không quên là vì giáo sư Harmon đã dứt khoát trả tiền thù lao cho tôi. Ông đã trao tôi một ngân phiếu.
- Ngày 13 tháng mười một, bốn ngày sau đó, hai đứa bé đã mất tích khi ngồi trong xe của mẹ chúng và cuối cùng người ta tìm thấy xác chúng dạt vào vịnh San Francisco, đầu bị trùm trong những bao plastic. - Đúng vậy.
Trong nỗ lực nhằm làm giảm đi tác dụng của lời khai của Rob Legler, luật sư biện hộ cho Nancy đã hỏi:
- Sau đó, bà Harmon có còn ở bên anh?
- Không. Bà ấy đã lên lầu trên với các con.
- Như vậy, chỉ có anh là người duy nhất để khẳng định rằng bà ấy đã thích thú khi được anh hôn?
- Tôi không phải là người dễ lầm lẫn trước phụ nữ.
Tiếp đến là lời khai của Nancy, sau khi đã tuyên thệ nói đúng sự thật. Khi bị chất vấn về giai đoạn này, nàng đã nói:
- Vâng, anh ấy đã ôm hôn tôi. Vâng, tôi biết anh ta sẽ làm điều đó và tôi không phản đối.
- Có phải bà đã nói rằng các con của bà sẽ bị chết ngạt? Có đúng như thế?
- Thưa đúng.
- Bà đã nghĩ sao khi nói câu đó?
Theo bài báo thì lúc đó Nancy đăm đăm nhìn về phía trước, bằng một ánh mắt mất hồn. Rồi, nàng nói bằng giọng xa vắng: “Tôi không biết”. Jonathan gật gù, làu bàu. Lời khai của Nancy càng làm nàng thêm nặng tội. Ông đọc tiếp bài báo và cau mày khi đến đoạn tìm thấy xác của các đứa trẻ. Xác chúng trôi dạt vào bờ cách đó tám mươi cây số, trương phình, vướng đầy rong biển. Khuôn mặt của đứa bé gái hầu như chẳng còn gì – có lẽ bị cắn nát bởi cá mập, những chiếc áo len đan tay màu đỏ với những mô típ trắng như những đốm tương phản trên hai thi thể bé bỏng, nhợt nhạt. Đọc xong bài báo, Jonathan quay sang chồng hồ sơ dày cộm mà Kevin đã gởi cho ông. Ông bắt đầu xem những tài liệu được cắt trong báo có liên quan đến vụ mất tích của hai đứa con gia đình Harmon. Lúc đó chúng đang ngồi trong xe, khi mẹ chúng vào siêu thị. Có những bức ảnh được phóng lớn của hai đứa bé với hàng chú thích mô tả chi tiết về chiều cao, trọng lượng và quần áo chúng mặc, kèm với lời yêu cầu bất cứ ai biết tin gì về hai cháu, thì hãy gọi ngay về số đã nêu. Với đôi mắt và đầu óc từng trải, Jonathan lướt qua các tài liệu, sắp xếp và so sánh lời khai của các nhân chứng, dùng bút gạch nhẹ dưới những sự việc có tính thuyết phục, những sự việc mà ông có ý định sẽ quay trở lại đó nghiên cứu kỹ hơn. Khi đọc sang phần biên bản của phiên tòa, Jonathan hiểu ra vì sao Kevin đã gọi Nancy Harmon là mục tiêu lý tưởng để buộc tội. Thái độ của nàng chẳng mang một ý nghĩa nào. Nàng hoàn toàn bị bẫy bởi viên biện lý khi hờ hững nói lên sự vô tội của nàng, không tìm cách để tự biện hộ, không chút xúc cảm.
Jonathan thầm hỏi: “Điều gì đã trói buộc Nancy?” Người ta có cảm tưởng rằng nàng không muốn thoát khỏi tù tội. Ngay cả khi đứng trước vành móng ngựa, nàng đã quay nhìn chồng một lúc và nói: “Ồ! Carl, anh có thể tha thứ cho em?”
Những nếp nhăn hằn sâu hơn trên vầng trán Jonathan khi ông nhớ lại, chỉ vài giờ trước đây, ông đã ngang qua nhà gia đình Eldredge, và đã liếc mắt nhìn đôi vợ chồng trẻ và các con họ đang đầm ấm trong bữa ăn sáng. Với nỗi cô đơn của ông, ông thầm mơ ước được như họ. Vậy mà giờ đây, đời họ đã tan vỡ. Họ không còn có thể sống trong một cộng đồng cư dân
có đầu óc hẹp hòi như Cape, vì đi bất cứ đâu, họ sẽ bị người ta dòm ngó, chỉ trỏ. Mọi người sẽ nhận ra ngay Nancy qua bức ảnh. Jonathan còn nhớ đã từng trông thấy Nancy mặc bộ đồ vải tweed bằng hàng len chứ không phải bằng loại sợi hóa học rẻ tiền. Nancy trông thật xinh đẹp. Chiếc khăn quàng màu nâu sẫm hờ hững quấn quanh cổ nàng như muốn làm tăng thêm vẻ duyên dáng. Nancy mỉm cười với ông – một nụ cười nồng ấm, thân thiện. Nàng đang dẫn theo hai đứa con. Cả hai đều xinh xắn và lễ phép. Lúc đó, đứa bé trai đã nói: “Mẹ à, con lấy hộp ngũ cốc nhé”. Và, khi với tay lấy cái hộp, thằng bé đã làm đổ chồng đồ hộp.
Tiếng rổn rảng làm cả siêu thị phải một phen hết hồn, kể cả ông Lowery, một người vốn khó tính, nóng nảy. Thông thường, gặp phải lúc như thế, các bà mẹ hẳn la mắng con mình. Nhưng Nancy đã bình tĩnh nói: “Thưa ông Lowery, chúng tôi rất lấy làm tiếc. Con tôi đã vô ý làm đổ. Chúng tôi sẽ sắp xếp lại”. Thái độ đó của Nancy làm Jonathan ngưỡng phục.
Rồi nàng quay sang nói với đứa con trai đang lấm lét, sợ sệt: “Đừng sợ, Mike. Chẳng phải lỗi của con. Thôi, chúng ta hãy sắp các đồ hộp vào chỗ cũ”.
Trước vẻ bực tức của Lowery, Jonathan đã liếc mắt nhìn ông ta như một lời cảnh cáo, rồi giúp Nancy một tay sắp xếp lại. Giờ đây, ông thầm nghĩ, thật không ngờ một thiếu phụ hiền lành và chăm chút như thế mà trước đó bảy năm đã ra tay sát hại hai đứa bé – con ruột của nàng.
Nhưng tình yêu vụng trộm là một động cơ mãnh liệt và dạo đó Nancy còn rất trẻ. Thái độ hờ hững khi ra trước tòa có lẽ đã phần nào phản ánh sự thú nhận tội lỗi của nàng, vì nàng không thể công khai nhìn nhận nó. Qua kinh nghiệm của một luật sư, Jonathan đã từng hiểu cái thái độ đó.
Có tiếng chuông cổng. Giật mình, Jonathan đứng dậy. Ở thành phố này, ít khi xảy ra chuyện thăm viếng đột xuất, mỗi khi đến nhà ai, người ta luôn hẹn trước và chuyện tiếp thị tại nhà là hoàn toàn nghiêm cấm.
Khi bước ra cổng, Jonathan có cảm tưởng người ông cứng nhắc như một khúc củi, vì đã ngồi quá lâu ở bàn giấy. Ông ngạc nhiên khi thấy người khách đang nhấn chuông là một nhân viên cảnh sát khá trẻ mà ông mơ hồ nhớ rằng, đã có lần gặp anh ta đi bán xổ số tombola để gây quỹ, nhưng rồi ông loại bỏ ngay cái giả thuyết đó. Dáng vẻ anh ta trông cứng nhắc, nghiêm trọng và dứt khoát. Anh nói:
- Thưa ông, tôi rất tiếc phải làm phiền ông. Chúng tôi điều tra về vụ mất tích của các cháu bé, con ông bà Eldredge.
Rồi, trước ánh mắt sửng sốt của Jonathan, anh ta lấy ra một cuốn sổ tay. Đảo mắt nhìn ngôi nhà, anh hỏi!
- Thưa, ông sống ở đây có một mình?
Không nói năng gì, Jonathan bước lên phía trước và mở cánh cửa bề thế của phòng khách, chính lúc đó ông mới hiểu ra vì sao sáng nay có sự chộn rộn, có nhiều xe cộ chạy về phía hồ và những người đang lùng sục những vùng kề cận với dáng vẻ khẩn trương.
Chương 12
Uống đi nào, Nancy. Tay em còn lạnh cóng này. Uống đi rồi em sẽ thấy khỏe. Em phải cần có sức.
Giọng nói của Dorothy thật thuyết phục. Bà đặt cái tô xuống bàn, hy vọng rằng lát nữa đây Nancy sẽ uống chút đỉnh lô súp rau củ. Nancy nói, giọng lờ đờ:
- Thứ súp này em đã nấu hôm qua, cho hai đứa con. Các con bây giờ chắc đang đói.
Ray ngồi cạnh Nancy, gác tay lên lưng ghế của nàng, với một thái độ che chở. Trước mặt chàng là cái gạt tàn đầy ắp mẩu thuốc lá. Chàng nói:
- Em không nên nghĩ quẩn.
Ở bên ngoài, át hẳn tiếng gió đang khua các ô kính là tiếng phành phạch của các trực thăng đang bay ở độ thấp. Trông thấy ánh mắt dò hỏi của Nancy, Ray giải thích:
- Ba chiếc trực thăng đã được gởi đến giám sát vùng này. Người ta hy vọng sẽ tìm thấy hai đứa bé nếu chúng lạc trong rừng. Ngoài ra, còn có nhiều người đã tình nguyện tham gia tìm kiếm và hai chiếc máy bay đang quần trên vùng vịnh và eo biển. Mọi người đang đổ xô tìm kiếm.
- Và cả những người đang lặn mò dưới hồ, để tìm kiếm xác của các con. – Nancy nói, giọng đều đều xa vắng.
Sau khi đã trả lời phỏng vấn của báo chí, Jed Coffin ghé lại sở cảnh sát rồi quay về nhà Eldredge. Ông vào nhà khi Nancy đang nói. Ông để ý ngay đến giọng nói dịu dàng của nàng và đôi mắt tinh tường của ông đã ghi nhận ánh mắt hầu như bất động, đôi tay như chết cứng và cái dáng vẻ cam chịu của người thiếu phụ. Đó là dấu hiệu cho thấy nàng sắp rơi vào con khủng hoảng thần kinh.
Rời mắt khỏi Nancy, thanh tra Jed tìm Bernie Mills, người được giao nhiệm vụ ứng trực tại nhà Eldredge. Anh ta đang đứng ở ngưỡng cửa nhà bếp, cạnh máy điện thoại và ra hiệu cho ông. Hiểu anh ta muốn nói gì, thanh tra Jed lại hướng mắt về phía ba người đang ngồi ở bàn. Lúc này, Ray đứng dậy, bước lại gần Nancy và đặt đôi tay lên vai nàng.
Dĩ vãng, tưởng chừng đã vùi quên trong hai mươi năm, bỗng dưng trở về. Jed Coffin nhớ lại cái hôm nhận được cú điện từ sở cảnh sát Boston cho biết bố mẹ Delia vừa bị tai nạn và khó hy vọng qua khỏi. Lúc đó, ông đã vội vã về nhà và thấy Delia, vợ ông, đang trong bếp, vừa nhâm nhi ly sôcôla vừa đọc báo. Nàng đã quay lại mỉm cười nhìn ông mặc dầu ngạc nhiên thấy ông về sớm hơn thường lệ, và trước khi nàng kịp lên tiếng hỏi han, ông đã có cái hành động tương tự như Ray Eldredge vào lúc này – ấn nhẹ hai bàn tay lên đôi vai Delia.
Jed Coffin nói, giọng cộc lốc:
- Này Ray, tôi có thể nói chuyện riêng với anh?
Hai bàn tay Ray vẫn không rời đôi vai Nancy, cố làm dịu những cơn run rẩy của nàng.
Nancy thều thào hỏi:
- Ông đã tìm thấy các con tôi?
- Em yêu, nếu tìm thấy các con thì ông ấy hẳn đã nói rồi. Em ngồi yên đây nhé. Anh trở lại ngay.
Ray cúi xuống, áp má mình vào má Nancy rồi theo viên thanh tra qua phòng khách.
Giờ đây, đối diện với Ray đang đứng gần lò sưởi, thanh tra Jed thầm ngưỡng phục người đàn ông trẻ, dong dỏng cao này. Ray là một người đàn ông vững chãi, thành đạt, đó là điều không thể phủ nhận. Từ lối ăn mặc cho đến cách đi đứng trò chuyện của anh toát ra một vẻ phong nhã, lịch lãm.
Jed Coffin đảo mắt nhìn phòng khách. Ván sàn bằng gỗ sồi bóng loáng, tranh treo kín các bức tường màu trắng ngà. Jed nhận thấy chủ đề của các bức tranh khá quen thuộc. Tấm tranh lớn treo trên lò sưởi vẽ khu vườn của Nancy Eldredge. Phía trên chiếc dương cầm là bức tranh vẽ một nghĩa trang làng quê và đây là một nghĩa trang tư tọa lạc trên con đường Notre Dame du Cape. Bức tranh có khung gỗ bằng thông treo phía trên cái trường kỷ vẽ cảng Sesuit vào buổi chiều, khi tàu thuyền đã về bến. Trên bức màu nước vẽ cảnh đầm lầy với lau lách gió đùa, người ta thấy xa xa có ngôi nhà Hunt – ngôi nhà Tháp Canh.
Thỉnh thoảng Jed có trông thấy Nancy ngồi lấy phác thảo ở những con đường làng, nhưng ông không ngờ nàng có tài đến thế.
Ray nói, giọng lạnh lùng và thù nghịch:
- Này ông thanh tra, ông có điều gì cần nói với tôi?
Thanh tra Jed hiểu rằng giờ đây, đối với Ray, ông là kẻ thù nghịch. Với sự từng trải, Jed Coffin cân nhắc về điểm yếu của Ray và hỏi bằng một giọng khô khốc.
- Ray à, ai là luật sư của vợ anh?
Thay cho câu trả lời là một thoáng bất định, một chút sững sờ của Ray. Đúng như Jed đã tiên liệu, Ray đã không có một quyết định dứt khoát. Anh ta vẫn tìm cách tạo cho Nancy cái hình ảnh của người mẹ đau khổ vì mất con. Ông thầm nghĩ, hẳn anh ta muốn cho khán giả truyền hình thấy một Nancy với đôi mắt sưng húp, nức nở: “Hãy trả con lại cho tôi!”.
Nếu là như thế, Jed sẽ dành cho Ray một thông tin. Ông sẽ cho Ray biết rằng đây không phải là lần đầu tiên Nancy giở cái trò đó. Jed sẽ dễ dàng có được bản sao của cuộn phim quay cách đây bảy năm, cuộn phim đã được báo chí ngày đó gọi là: “Một biện hộ đầy xúc động”. Nói đúng ra, mười phút trước đây, qua điện thoại, phụ tá của biện lý thành phố San Francisco có hứa sẽ gởi cho Jed cuộn phim này, và theo lời anh thì cuộn phim sẽ “ngăn không cho con điếm đó tái diễn cái trò cũ”.
Giọng nói của Ray trở nên trầm tĩnh và ôn tồn hơn:
- Chúng tôi chưa tìm luật sư. Tôi hy vọng rằng có thể các ông tìm kiếm được các đứa bé.
Jed nói thẳng thừng:
- Hầu hết những cuộc tìm kiếm đó sẽ nhanh chóng phải tạm ngưng. Với thời tiết chó chết này, chẳng bao lâu nữa, người ta sẽ chẳng trông thấy gì. Dầu gì chăng nữa thì tôi cũng phải đưa vợ anh về sở cảnh sát để thẩm vấn. Trong trường hợp bà nhà chưa có luật sư, tôi sẽ yêu cầu bên tòa án gởi đến một người.
- Ông không thể làm như thế! – Ray lớn tiếng thốt lên, rồi cố dằn cơn nóng, chàng tiếp – Ông phải hiểu rằng ông sẽ hủy hoại tinh thần của Nancy khi đưa nàng vào trong một sở cảnh sát. Từ nhiều năm nay, Nancy thường gặp ác mộng qua đó nàng thấy mình bị thẩm vấn trong một sở cảnh sát trước khi được dẫn vào một hành lang dài hun hút đưa đến nhà xác để nhận diện thi thể của các con. Này ông Jed ông phải biết rằng nhà tôi đang bị
sốc. Phải chăng ông muốn ngăn trở không cho chúng tôi được nghe Nancy nói về những gì có thể nàng đã trông thấy?
- Nhiệm vụ của tôi là tìm lại các đứa con của anh.
- Tôi hiểu, nhưng hẳn ông đã thấy ảnh hưởng kinh khiếp mà bài báo đã gây ra cho nhà tôi. Vậy ông tính sao với cái tên khốn khiếp đã viết bài báo đó? Có đủ đê tiện để bới móc cái chuyện đó và đăng lên báo thì hắn tên này cũng thừa sức để bắt cóc các con của tôi.
- Dĩ nhiên, chúng tôi không bỏ qua chuyện đó. Những bài báo loại đó luôn được ký dưới một cái tên giả và nếu được đăng thì người viết được hai mươi lăm đô-la tiền nhuận bút.
- Vậy thì ai là tác giả?
Jed cáu kỉnh đáp:
- Đó là điều mà chúng tôi đang tìm hiểu. Bài báo này được gởi kèm với một lá thư trong đó nêu ra điều kiện là chỉ được đăng tải mà không thay đổi bất cứ một chữ nào của bài viết, phải đăng cùng với các bức hình đính kèm và công bố vào ngày 17 tháng mười một – nghĩa là hôm nay. Trưởng ban biên tập cho tôi biết đó là một câu chuyện hấp dẫn và được viết khá hay đến nỗi ông không ngờ tác giả của nó chỉ muốn nhận một số tiền khá khiêm nhường là hai mươi lăm đô-la. Nhưng dĩ nhiên ông ta không nói ra cái cảm nghĩ đó với tác giả của nó. Ông chỉ gởi thư cho biết bài viết đã được chấp nhận và kèm theo là một ngân phiếu.
Nói đến đây, Jed lấy từ túi áo ra cuốn sổ tay và đọc:
- Lá thư được gởi đi hôm 28 tháng mười. Ngày 29, thư ký của trưởng ban biên tạp có nhớ là đã có người gọi điện hỏi bài viết về Harmon đã được chấp nhận chưa. Đường dây lúc đó bị nhiễu và giọng nói của người gọi nghèn nghẹn, rất khó nghe. Tuy vậy, cô thư ký đã trả lời rằng tòa soạn có gởi một ngân phiếu mang tên J. R. Penrose tới hòm thư lưu trữ tại Hyannis Port. Ngày hôm sau, ngân phiếu đã được lấy khỏi hòm thư.
- Bởi một người đàn ông hay đàn bà? – Ray vội vàng hỏi. - Chúng tôi không rõ. Như anh đã biết, ngay cả trong mùa này, Hyannis Port vẫn không vắng du khách. Bất cứ ai cũng có thể sử dụng hòm thư lưu trữ. Không một nhân viên bưu điện nào còn nhớ người đã đến lấy bức thư và tờ ngân phiếu đó và cho đến bây giờ, người nhận vẫn chưa dùng tờ
ngân phiếu đó để rút tiền. Nếu chuyện này xảy ra, chúng tôi sẽ lần theo dấu vết của ông hoặc bà J. R. Penrose này. Thú thật, tôi sẽ không ngạc nhiên khi biết rằng tác giả của bài báo là một trong những mụ già ưa ngồi lê đôi mách của thành phố này. Đó là những mụ chỉ ưa bới móc chuyện đời tư người khác.
Nhìn chăm vào lò sưởi, Ray nói:
- Ở đây khá lạnh. Hẳn ta nên nhóm lửa.
Jed bình thản nói:
- Tôi thấy không cần thiết anh Ray à. Sở dĩ tôi yêu cầu anh sang đây là vì tôi muốn anh thuyết phục Nancy nên thay đồ và theo chúng tôi về sở cảnh sát.
- Không… không… ông hãy thương tình.
Cùng lúc, Jed Coffin và Ray đều quay người về phía cánh cửa vòm của phòng khách. Nancy đang đứng đó, tựa tay vào thành cửa gỗ bóng loáng, căng thẳng mà nàng phải chịu đựng làm cho khuôn mặt nàng trở nên nhợt nhạt. Nàng nhìn chăm chú về phía trước với ánh mắt của người mất hồn.
Đứng phía sau Nancy, Dorothy phân trần:
- Bà ấy muốn vào đây.
Rồi trông thấy ánh mắt trách móc của Ray khi anh ta bước vội đến bên Nancy, Dorothy nói tiếp:
- Ray à, tôi rất tiếc, nhưng tôi không tài nào ngăn được Nancy. Ray kéo Nancy về phía mình và quay sang nói với Dorothy: - Đủ rồi, Dorothy.
Rồi giọng nói của chàng trở nên dịu dàng:
- Nancy à, hãy bình tĩnh. Không ai muốn làm hại em cả.
Dorothy có cảm tưởng như mình vừa bị Ray cho thôi việc. Ray đã tin tưởng ở bà trong việc giữ Nancy lại trong khi chàng bận nói chuyện với thanh tra Jed, vậy mà bà không chu toàn nhiệm vụ được giao. Bà quả là người vô tích sự.
Bà bối rối nói:
- Anh Ray à, quả là vô lý khi làm rộn anh vào lúc này, nhưng ở văn phòng địa ốc người ta vừa gọi cho tôi để nhắc rằng ông Kragopoulos,
người đã viết thư cho biết có ý định mua ngôi nhà của ông Hunt, muốn xem ngôi nhà này vào lúc hai giờ chiều. Thưa anh, liệu tôi có phải cử người thay tôi để đưa ông ấy đến xem ngôi nhà?
Vẫn ôm Nancy, Ray ngước mắt qua đầu nàng và nói:
- Chị biết khá rõ về ngôi nhà Tháp Canh vì vậy, tôi mong chị đích thân đưa người khách đến xem và rồi nếu được, chị hãy quyết định giá cả với người ta. Ông già Hunt đang cần tiền đấy.
- Tôi chưa báo cho ông Parrish là chúng ta sẽ đưa người đến xem nhà. - Hợp đồng thuê nhà có ghi rõ là chúng ta có quyền đưa người đến xem nhà bất cứ lúc nào, miễn là có báo trước nửa tiếng, chính vì thế mà ông Parrish đã mướn ngôi nhà với giá khá dễ chịu. Chị hãy đến văn phòng và gọi điện báo trước cho ông ấy.
- Vâng. – Dorothy đáp nhưng vẫn tần ngần chưa muốn đi. Nhìn Dorothy, Ray hiểu tình trạng của bà, nhưng không giữ bà lại: - Chị Dorothy à, giờ đây chị chẳng thể làm gì để giúp chúng tôi! Hãy trở lại đây sau khi chị làm xong việc ở ngôi nhà Tháp Canh.
Bà Dorothy gật đầu, chực ra đi nhưng trong lòng không muốn rời họ. Bà muốn ở lại để chia sẻ nỗi lo âu của đôi vợ chồng trẻ. Bà không quên rằng ngay từ khi vào làm việc cho văn phòng địa ốc, Ray là điểm nương tựa của bà. Được làm việc với Ray, sử dụng kiến thức về trang trí nội thất để thuyết phục khách hàng mua nhà và sau đó dành ra một số tiền cần thiết để tu tạo nhà cho họ, tất cả điều đó làm cho đời Dorothy bớt trống rỗng. Ray là một người rất trung thực và tế nhị. Anh đồng ý cho bà tham gia vào những cuộc đầu tư và khá hào phóng khi chia lợi nhuận. Rồi khi Nancy kết hôn với Ray, bà Dorothy sung sướng thấy rằng Nancy đã tỏ ra tin tưởng ở bà. Tuy vậy, Nancy là người khá kín đáo nên họ không thể thực sự thân tình nhau. Giờ đây, bà Dorothy có cảm tưởng rằng mình chỉ là một khán giả thừa thải. Bà cầm lấy chiếc áo choàng, khăn quàng và lặng lẽ ra khỏi nhà bằng cửa sau.
Ra khỏi cửa, bà Dorothy sững người trước cái giá rét của gió và tuyết tan. Xe của bà đậu trên con đường nhỏ phía sau nhà. Bà hài lòng khi không phải đi ra bằng cổng chính vì trông thấy ở ngoài đó có một chiếc xe tải của một hãng truyền hình.
Khi bước vội đến xe, bà Dorothy hướng mắt về phía cái đu treo nơi cành cây ở cuối vườn. Đó là nơi mà hai đứa bé đã chơi và Nancy đã tìm thấy cái bao tay. Dorothy thầm nhớ đã bao lần bà đã đẩy hai đứa bé trên cái đu này… “Lạy Thượng đế nhân từ, xin đừng…” bà lẩm nhẩm cầu nguyện, lo sợ về những điều không may mà Michael và Missy có thể gặp phải. Lòng bà quặn đau.
Miên man với những ý nghĩ, bà Dorothy lặng nhìn cái đu, không hay biết đến những nụ tuyết ẩm ướt đang quấn vào mặt bà. Bà còn nhớ cứ mỗi lần Nancy ghé lại văn phòng địa ốc, hai đứa bé chạy ngay vào phòng làm việc của bà và bà luôn có sẵn quà cho chúng. Mới hôm qua đây, khi Missy theo mẹ đến văn phòng, bà đã đành cho con bé những chiếc bánh lưỡi mèo mà bà đã đặc biệt làm riêng cho bé. Hôm qua Nancy định ra phố để mua vải may màn, vì thế Dorothy đã ngỏ ý trông coi Missy và ghé lại trường mẩu giáo đón Michael giúp nàng. Bà đã nói:
- Việc chọn vải đòi hỏi phải có thời gian và sự tập trung. Tôi phải đến Tòa thị chính để lo một số việc về bằng khoán đất đai. Tôi có thể đưa cô ra phố và sau đó trên đường về, chúng ta sẽ đi ăn kem, nếu cô không bận. Chỉ mới ngày hôm qua.
- Dorothy!
Ngạc nhiên, Dorothy ngước mắt và trông thấy ông Jonathan. Hẳn ông ta đã đi tắt rừng để đến đây. Trông ông có vẻ già đi với những nếp nhăn lộ rõ. Ông nói:
- Tôi vừa hay tin về chuyện không may đã xảy ra cho hai đứa bé của gia đình Eldredge. Tôi muốn nói chuyện với Ray. Có lẽ tôi có thể giúp đỡ họ. Giọng nói của Jonathan toát ra một sự lo lắng và che chở. Dorothy đáp: - Họ đang trong nhà. Xin cảm ơn sự quan tâm của ông.
- Chị có được tin gì về hai cháu bé?
- Không.
- Tôi đã đọc bài báo.
Dorothy chợt nhận ra rằng ông Jonathan không còn trò chuyện với bà một cách thân mật như trước đây. Có một sự lạnh lùng, trách cứ trong âm giọng của ông và điều này làm bà nhớ rằng bà đã lừa dối ông khi cho rằng mình đã quen biết với Nancy tại Virginia.
Chán nản, bà mở cửa xe và nói, gọn lỏn:
- Tôi có hẹn cần phải đi.
Rồi không chờ ông trả lời, bà nổ máy và phóng xe đi. Cảnh quang trước mắt bà bỗng dưng nhạt nhòa, bà nhận ra rằng mình đang khóc.
Chương 13
Tiếng phành phạch từng hồi của trực thăng, đó là thứ âm thanh mà y rất khoái nghe. Thứ âm thanh đó làm y nhớ lại cái ngày ấy, khi mọi người đổ xô lùng sục quanh khu đại học để tìm kiếm hai đứa bé. Đứng bên cửa sổ, y nhìn xuống vịnh. Tuyết đã đóng băng trên mặt nước xám xịt, gần con đê chắn sóng. Sáng sớm nay, đài đã thông báo khả năng có những đợt gió mạnh và tuyết tan. Một lần nữa, tin khí tượng đã tỏ ra chính xác. Gió làm sôi sục những con sóng bạc đầu trong vịnh. Y dõi mắt trông theo một cánh hải âu vụng về đương đầu với những loạt gió.
Y chăm chú nhìn nhiệt kế. Hai độ âm, như vậy là đã giảm mất tám độ kể từ sáng. Với thời tiết như thế này, trực thăng và máy bay trinh sát sẽ không thể hoạt động lâu. Những nhóm người tìm kiếm rồi cũng sẽ rút lui.
Con nước sẽ lên vào bảy giờ chiều. Lúc đó y sẽ dẫn hai đứa bé lên tầng trên cùng của ngôi nhà, đưa chúng ra cái ban công nhỏ mà cư dân ở đây gọi là cây cầu nhỏ của góa phụ. Khi thủy triều lên, nước phủ kín bãi biển, ngay phía dưới ban công, đập vào bức tường chắn sóng, trước khi giật ngược ra biển, bị hút mạnh bởi giòng nước ngược. Đó là lúc thuận tiện để đẩy hai đứa bé qua ban công xuống dưới đó. Phải nhiều tuần sau, xác chúng mới dạt vào bờ. Nhưng nếu chỉ trong vài ngày người ta tìm thấy xác chúng, thì y cũng chẳng có gì để lo sợ. Y đã tính toán kỹ rồi. Y chỉ cho hai đứa bé uống sữa và ăn bánh ngọt khô. Y không dại cho chúng ăn uống bất cứ một thứ gì khác để sau này khi giải phẫu tử thi, người ta sẽ nêu lên nghi vấn về một ai đó đã nuôi giữ chúng chứ không phải Nancy. Dẫu sao, nếu tìm thấy xác chúng thì giải phẫu tử thi sẽ chẳng cho biết điều gì.
Y bật cười nho nhỏ. Y biết rằng y còn năm tiếng đồng hồ nữa – năm tiếng để nhìn các đèn chiếu mà người ta đang lắp đặt ở gần nhà Nancy và bên hồ, năm tiếng để ở cạnh hai đứa bé. Y thầm nghĩ, chẳng kể đứa bé gái, nguy cả thằng bé trai cũng đẹp với làn da mịn màng và một tấm thân toàn hảo.
Con bé gái thì khỏi nói. Nó giống Nancy như đúc, với mái tóc óng mượt, hai tai nhỏ nhắn, xinh xắn. Y bất thần rời mắt khỏi ô kính. Nằm dài trên đi văng, hai đứa bé đang ngủ say dưới tác dụng của thuốc ngủ mà y đã cho vào sữa. Thằng bé trai đang ôm ngang đứa em nó bằng một cánh tay che chở, tuy vậy nó vẫn say ngủ khi y nhấc đứa bé gái lên. Con bé vẫn ngủ say
như chết khi y ẵm nó vào phòng và đặt xuống giường. Rồi y vào phòng tắm, mở nước, kiểm tra độ ấm của nước trong bồn tắm, cho đến khi đạt được độ ấm thích hợp. Khi nước đã đầy bồn, y dùng cùi chỏ kiểm tra nước thêm một lần nữa. Y thấy nước có nóng đôi chút nhưng không hề gì vì nó sẽ chóng nguội thôi.
Y nín thở, nghĩ rằng đã mất nhiều thời gian. Y vội vã mở tủ thuốc, lấy hộp phấn talc mà sáng nay y đã nhanh tay nhét vào túi khi đi mua thực phẩm ở siêu thị Wiggins. Trước khi khép tủ thuốc lại, y trông thấy con vịt nhỏ bằng cao su giấu phía sau hũ kem cạo râu. Y thắc mắc, chẳng nhớ. À, phải rồi, y đã dùng nó trong lần trước đây. Đúng là thứ y cần. Với tiếng cười nghèn nghẹn, y cầm lấy con vịt, rửa nó dưới vòi nước lạnh rồi vứt vào bồn tắm. Y thầm nghĩ, thỉnh thoảng cũng nên cho bọn nhỏ giải trí.
Cầm lấy hộp phấn talc, y vội vã trở vào phòng ngủ. Y cởi áo veste của bé Missy, kéo chiếc áo thun cổ cuốn ra khỏi mình con bé, rồi chiếc sơ-mi bên trong. Y to tiếng thở dài và nhấc đứa bé lên, ôm chặt nó trong vòng tay. Ba tuổi. Cái tuổi dễ thương. Con bé cựa mình, mở mắt ra và thốt lên nho nhỏ “Mẹ.. mẹ ơi…” một thứ tiếng mà y thấy rất quen thuộc, gần gũi và quý báu.
Chuông điện thoại reo.
Bực tức, y siết chặt hơn vòng tay ôm khiến con bé nức nở khóc, một thứ tiếng than vãn, ngái ngủ.
Y để mặc điện thoại reo. Y không nhận bất cứ một cú điện thoại nào. Không bao giờ. Y thầm nghĩ, ai mà gọi vào lúc này nhỉ? Đôi mắt y cau lại. Có lẽ người ta gọi y để yêu cầu tham gia vào việc tìm kiếm hai đứa bé; vậy thì tốt hơn y nên trả lời. Nếu không trả lời, y có thể làm ngươi ta nghi ngờ. Nghĩ đến đó, y bỏ Missy trên giường, cẩn thận khép cánh cửa phía sau lại, rồi ra phòng khách để nhấc điện thoại. “Vâng, tôi nghe đây”. Y cố giữ một giọng lạnh và trịnh trọng.
Ở đầu bên kia là giọng nói:
“Thưa ông Parrish, xin lỗi đã làm phiền ông. Tôi là Dorothy Presntiss của văn phòng địa ốc Eldredge. Trong hai mươi phút nữa tôi sẽ đưa một người khách đến xem nhà. Tôi rất tiếc không thông báo cho ông sớm hơn. Ông có đó không hay tôi phải sử dụng chìa khóa riêng để vào nhà?”
Chương 14
Rời khỏi quốc lộ 6A Lendon Miles hướng xe về Paddock Path. Từ khi rời Boston, ông không ngừng theo dõi tin tức qua radio. Phần lớn những bản tin đều dành ra để tường thuật về vụ mất tích của hai đứa bé con của gia đình Eldredge và về Nancy Eldredge.
Theo bản tin thì người ta đã chia hồ Maushop thành nhiều khu vực, tuy vậy để thám sát toàn bộ hồ, các thơ lặn phải mất ít nữa là ba ngày. Hồ có quá nhiều mõm ngầm. Theo thanh tra Jed Coffin của Adam Port, thì có nhiều nơi người ta có thể tiến đến giữa hồ mà nước vẫn ở ngang lưng; nhưng ở một số nơi khác, chỉ cách bờ một thước rưỡi là đã sâu đến mười hai thước. Các mỏm ngầm của hồ giữ lại các đồ vật bị rơi xuống và làm cho những cuộc tìm kiếm trở nên khó khăn và nguy hiểm.
Những bản tin cũng cho biết các trực thăng, thủy phi cơ loại nhỏ và những toán điều tra đã được gởi tới, nhưng hiện nay những cơn gió đang càng lúc càng tăng trong vùng Cape và những cuộc tìm kiếm bằng máy bay có thể sẽ phải ngưng lại.
Lendon bất chợt phóng xe nhanh hơn khi nghe đến tin Nancy Eldredge sẽ được đưa về sở cảnh sát để thẩm vấn. Ông biết mình đã phần nào quá trễ tuy vậy, ông phải giảm bớt tốc độ. Tuyết tan nhanh chóng đóng băng trên kính che gió mà hệ thống làm tan giá phải khá chật vật để đẩy lùi.
Khi rẽ vào Paddock Path, Lendon nhận ra ngay đâu là ngôi nhà của gia đình Eldredge. Đậu trên lề đường, trước một ngôi nhà có hai xe cảnh sát đang chờ là chiếc xe tải của hãng truyền hình và rất nhiều xe, đa số có gắn một tấm biển nhỏ ghi chữ báo chí.
Chắn ngang con đường bán nguyệt dẫn vào nhà là một xe cảnh sát. Lendon dừng xe. Một nhân viên cảnh sát bước đến, hỏi cộc lốc: - Vui lòng cho biết, lý do nào đưa ông đến đây?
Lendon đã tiên liệu điều này. Ông trao tấm danh thiếp có ghi vội một dòng chữ phía sau và nói:
- Nhờ anh trao cái này cho bà Eldredge.
Viên cảnh sát tần ngần một lúc rồi nói:
- Bác sĩ cảm phiền chờ ở đây để tôi xem sao.
Một lúc sau, anh ta trở ra, vẻ mặt xem chừng dịu dàng hơn:
- Để tôi để xe sang một bên. Bác sĩ vui lòng đậu xe nơi lối đi trước khi vào nhà.
Từ bên kia đường, đám phóng viên đã trông thấy cảnh đó và ùa về phía Lendon. Một phóng viên chĩa ngay cái micro sát mặt Lendon khi ông vừa bước ra khỏi xe và nói nhanh:
- Thưa bác sĩ Lendon, xin bác sĩ cho tôi được phỏng vấn. Là một bác sĩ tâm thần nổi tiếng của trường đại học Harvard, có phải bác sĩ đến đây là do yêu cầu của gia đình Eldredge?
Bác sĩ London đáp, giọng khô khốc:
- Chẳng ai yêu cầu tôi đến. Trước đây, tôi là bạn của mẹ bà Eldredge. Tôi đến đây vì có quan hệ với gia đình này, thế thôi.
Ông muốn đi vào nhà, nhưng chàng phóng viên chặn ông lại: - Là bạn của mẹ bà Eldredge, vậy bác sĩ có từng chữa trị cho Nancy Harmon Eldredge?
- Không hề có chuyện đó!
Lendon gạt có phóng viên sang bên để đi về phía ngôi nhà. Một nhân viên cảnh sát giữ lấy cánh cửa mở và chỉ căn phòng bên phải: - Lối này.
Nancy Eldredge đang đứng trước lò sưởi, cạnh một người đàn ông trẻ, dong dỏng cao, mà người ta có thể đoán là chồng nàng. Dẫu bất cứ nơi đâu thì Lendon cùng nhận ra ngay cái khuôn mặt đó, với sống mũi cao, đôi mắt biếc to tròn đang nhìn chăm chú dưới cặp mày rậm, và nét mặt nhìn nghiêng sao quá giống Priscilla.
Phớt lờ ánh mắt thù nghịch của viên sĩ quan cảnh sát và vẻ soi mói của người đàn ông có khuôn mặt đầy nếp nhăn, Lendon đi thẳng về phía Nancy.
Ông nói:
- Theo lẽ tôi phải đến sớm hơn.
Ông nhận thấy trong ánh mắt của người thiếu phụ có một sự sững sờ, bất động, nhưng nàng vẫn hiểu ông muốn nói gì. Nàng nói: - Trong lần sau cùng đó, khi mẹ tôi qua đời, tôi đã hy vọng là bác sĩ sẽ đến. Tôi cứ đinh ninh là bác sĩ đến, vậy mà chẳng thấy.
Ngay tức khắc, bác sĩ Lendon nhận thấy Nancy có những triệu chứng của một người bị sốc: Con ngươi nở lớn, có thể cứng nhắc, âm giọng the thé, đều đều.
Quay sang Ray, ông nói:
- Tôi muốn giúp đỡ anh.
Ray chăm chú nhìn ông ta và cảm thấy bị thu hút bởi thái độ và con người ông. Chàng nói ngay:
- Là một bác sĩ, xin ông hãy nói cho ông thanh tra cảnh sát đây hiểu rằng sẽ là điều tệ hại khi đưa Nancy về sở cảnh sát.
Nancy nhìn thẳng vào mắt bác sĩ Lendon. Nàng cảm thấy hờ hững, cứ như thể nàng đang trượt dần đi, càng lúc càng xa. Đồng thời nàng cũng thấy ở bác sĩ Lendon mộl điều gì đó cá biệt. Mẹ nàng rất yêu ông ta, trong những bức thư viết cho nàng, bà đã tỏ ra thực sự hạnh phúc và nhiều lần nhắc đến tên ông.
Ngày đó, khi mẹ đến trường đại học để gặp Nancy, Nancy đã hỏi về ông bác sĩ này, muốn biết ông có thương yêu mẹ không. Nhưng vì có sự hiện diện của Carl nên Priscilla xem chừng không muốn trả lời những thắc mắc của con. Bà chỉ mỉm cười và nói: “Nhiều lắm. Rồi mẹ sẽ cho con biết chi tiết sau”.
Nàng bất chợt hỏi:
- Có phải bác sĩ có cảm tình với mẹ tôi?
- Đúng, tôi rất yêu bà. Tôi không hiểu mẹ cô có nói gì về tôi không. Tôi sợ rằng cô không ưa tôi. Theo lẽ tôi hắn phải tìm cách để giúp đỡ cô. - Vậy thì bây giờ bác sĩ hãy giúp tôi đi!
Lendon nắm lấy đôi tay Nancy, đôi tay quá lạnh:
- Nancy à, tôi hứa sẽ giúp cô.
Nancy lảo đảo khiến Ray phải quàng tay ôm lấy nàng.
Lendon thầm ngưỡng phục Ray Eldredge. Tuy khuôn mặt xanh xao vì lo âu, nhưng chàng đã chứng tỏ là người bản lãnh. Chàng đã lo lắng nhiều cho Nancy và biết kiềm chế những cảm xúc của mình, Lendon hướng mắt về bức ảnh nhỏ đặt trên cái bàn gần trường kỷ. Hình chụp Ray đang đứng trong vườn, cạnh đứa bé trai và bé gái – những đứa bé đã mất tích. Một gia
đình hạnh phúc! Điều làm Lendon thắc mắc là ông không thấy một bức ảnh nào của Nancy trong phòng này. Phải chăng nàng không muốn chụp ảnh? Ray nói:
- Nancy à, em hãy nằm xuống đây để nghỉ, kẻo mệt.
Chàng dịu dàng dìu nàng nằm xuống trường kỷ và nhấc đôi chân lên. Nàng lặng lẽ ngả người trên các gối kê. London thấy nàng nhìn chăm chú vào bức ảnh của Ray và các con, rồi nhắm mắt lại, khổ đau. Nàng lùng mình.
Lendon nói với Ray:
- Tôi thấy cần phải nhóm thêm lửa.
Ông chọn một khúc củi trong giỏ và vứt vào đám than còn đỏ. Ray lấy tấm chân bông đắp lên mình Nancy:
- Em lạnh rồi đấy!
Chàng giữ khuôn mặt nàng trong hai tay. Những giọt nước mắt rơi xuống từ đôi mắt khép của nàng, ướt đẫm những ngón tay của chàng. Ông Jonathan nói:
- Anh Ray à, anh cho phép tôi được làm luật sư tư vấn cho Nancy nhé? – Và trước ánh mắt ngạc nhiên của mọi người, ông nói thêm, giọng khô khốc – Tôi cam đoan rằng tôi là một luật sư không đến nỗi tệ.
- “Luật sư tư vấn” Nancy lẩm nhẩm. Nàng bỗng nhớ khuôn mặt kinh hoàng của người luật sư biện hộ cho nàng trước đây. Tên ông ta là Domes, Joseph Domes. Ông đã liên tục nói với nàng: “Cô phải nói rõ sự thật cho tôi. Cô phải tin tưởng tôi hầu tôi có thể giúp cô”. Ngay cả ông ta cũng không tin nàng.
Nhưng Jonathan không giống người luật sư đó. Nàng thích cái vẻ bệ vệ của ông, cái lối nhã nhặn của ông. Hôm ở siêu thị Lowery, ông đã tỏ ra rất thương mến hai đứa bé khi dừng lại để trò chuyện. Đúng vậy. Hai tuần trước đây, ông đã giúp nàng xếp lại chồng đồ hộp mà Mike đã làm đổ. Trông ông có vẻ mến nàng. Nàng chắc vậy.
Nancy mở mắt, nhìn Ray và nói:
- Nhận lời đi anh.
Ray gật đầu:
- Bác Jonathan à, chúng tôi không biết nói sao để cảm ơn bác. Jonathan quay sang Lendon:
- Thưa bác sĩ, ở cương vị bác sĩ, ông có đồng ý để người ta đưa Nancy về sở cảnh sát?
Lendon đáp ngay:
- Điều đó hoàn toàn không phù hợp. Tôi dứt khoát chủ trương nên thẩm vấn Nancy tại đây.
- Nhưng tôi không còn nhớ gì nữa – Nancy nói bằng giọng rã rời, như thể nàng đã nhiều lần lặp đi lặp lại điều này – Các ông bảo rằng có thể tôi biết các con tôi đang ở đâu. Nhưng tôi chẳng nhớ gì hết kể từ lúc đọc tờ báo trong nhà bếp cho đến khi nghe Ray gọi.
Rồi, ngước nhìn bác sĩ Lendon bằng một ánh mắt âu lo và sờ sững, Nancy nói tiếp:
- Bác sĩ có thể giúp tôi nhớ lại? Có cách nào để giúp tôi nhớ được? - Cô muốn nói gì? – Bác sĩ Lendon hỏi.
- Tôi muốn nói, bác sĩ có thứ thuốc nào để giúp tôi nhớ hoặc đã thấy hoặc đã làm. Dẫu có làm một điều gì đó tôi cần phải biết. Người ta không thể che giấu cái chuyện đó. Nếu có mặt xấu xa nào đó trong tôi có thể làm hại các con của tôi thì chúng ta cũng cần phải biết. Nếu không như thế, nhưng bỗng một cách nào đó tôi có thể biết các con tôi đang ở đâu, thì chúng ta không mất thời gian như thế này.
- Này Nancy, anh sẽ không đồng ý – Ray thốt lên rồi im bặt khi thấy vẻ lo sợ in đậm trên nét mặt vợ chàng.
Jonathan hỏi:
- Thưa bác sĩ, liệu có thể giúp Nancy nhớ những gì đã xảy ra sáng nay? - Có thể. Cô ấy đang bị một chứng quên khá phổ biến đối với những ai phải trải qua một thảm kịch như thế đó. Danh từ y học gọi là chứng quên ictêri. Một mũi pentothal[9] sẽ giúp cô ấy thư giãn và nói cho chúng ta biết điều gì đã xảy ra về sự thật mà cô ấy đã biết.
Thanh tra Jed lớn tiếng:
- Những lời khai dưới tác dụng của thuốc sẽ không được tòa chấp nhận. Nancy thều thào:
- Trước đây, tôi có trí nhớ rất tốt. Một hôm ở trường, chúng tôi đã làm một cuộc trắc nghiệm để thử xem ai có thể nhớ tất cả những hành vi của mình tuần tự theo những ngày đã qua. Chúng tôi phải lùi dần về quá khứ cho đến khi không thể nhớ gì. Tôi đã có thể nhớ những việc xảy ra từ rất lâu khiến mọi người đều khâm phục. Hồi ấy, tôi có thể nhớ rõ từng sự việc.
Chuông điện thoại reo vang khiến mọi người trong phòng giật mình như nghe phải tiếng súng. Trông thấy Nancy giật lùi người, Ray vội vã giữ hai tay nàng. Mọi người đều lặng im chờ đợi cho đến khi viên cảnh sát giữ nhiệm vụ trực điện thoại bước vào.
Anh ta nói:
- Thưa ông thanh tra, có điện thoại đường dài của ông.
Nghe như thế, Jed quay sang Jonathan:
- Tôi chắc đây là cú điện thoại mà tôi đang chờ. ông Jonathan à, ông có thể theo tôi sang phòng bên chứ? Cả anh nữa, Ray.
- Em yêu, anh sẽ trở lại ngay. – Ray nói nhỏ với Nancy rồi nhìn thẳng vào mắt Lendon.
Biết Lendon đã hiểu ý mình, Ray vững tin bước theo Jed ra khỏi phòng. Lại một lần nữa, Lendon trông thấy nỗi lo sợ tối sầm khuôn mặt Nancy. Nàng thì thầm:
- Cứ mỗi lần chuông điện thoại reo, tôi nghĩ rằng người ta đã tìm thấy các con của tôi và chúng bình yên vô sự. Và rồi tôi nghĩ; hay là lại xảy ra như lần trước khi người ta gọi điện.
Lendon nói:
- Nào Nancy, hãy bình tĩnh. Đây là điều rất quan trọng. Hãy cho tôi biết từ khi nào cô đã gặp khó khăn trong việc nhớ lại những sự cố? - Kể từ cái chết của Peter và Lisa, cũng có thể là trước đó. Hầu như tôi không thể nhớ những năm tháng sống chung với Carl.
- Có thể vì cô đã liên kết những năm tháng đó với các con của cô và việc nhớ đến những kỷ niệm có liên quan đến chúng làm cô phải khổ sở. - Nhưng trong suốt năm năm đó tôi cảm thấy chán nản, rã rời, sau khi mẹ qua đời tôi luôn cảm thấy mệt mỏi. Tội nghiệp Carl anh ấy rất kiên trì.
Anh đã làm mọi chuyện thay tôi. Ban đêm, anh thức dậy để lo cho các con – ngay cả khi chúng còn bé tí. Tôi cảm thấy quá mệt nên không thể làm gì. Sau khi hai đứa bé mất tích, tôi không thể nhớ được gì, như hôm nay tôi không thể nhớ gì.
Ray trở vào phòng. Có chuyện gì đó vừa xảy ra. Lendon biết ngay khi trông thấy những nếp nhăn quanh khóe miệng và thoáng run rẩy ở đôi tay Ray. Ông bất chợt nhận ra rằng mình đang thầm cầu nguyện, “Lạy Trời, xin đừng có những tin chẳng lành”.
Ray cố giữ vẻ trầm tĩnh:
- Thưa bác sĩ, ông Jonathan có chuyện cần nói với bác sĩ ở phòng bên. - Vậy à?
Lendon vội vã rời khỏi phòng, nghĩ rằng cú điện thoại đã làm Ray mất bình tĩnh.
Khi Lendon vào phòng ăn, thanh tra Jed vẫn còn nói chuyện qua điện thoại. Ông đang lớn tiếng ra lệnh cho viên sĩ quan trực ở sở cảnh sát: “Anh hãy cho người đến ngay cái bưu điện đó để tìm tất cả những người làm việc trong ngày 30 tháng mười và dò hỏi xem còn ai có thể nhớ người đến nhận bức thư do Community News gởi mang tên J. R. Penrose. Tôi cần biết chuyện đó gấp”.
Jed gác mạnh ống nghe.
Jonathan cũng căng thẳng không kém. Ông nói ngay khi Lendon bước đến:
- Thưa bác sĩ, điều cần thiết là Nancy phải lấy lại trí nhớ ngay, cô ấy cần có khả năng hồi ức. Vì đang viết một cuốn sách về các vụ án nên tôi có đầy đủ hồ sơ về vụ Harmon. Trước khi đến đây, tôi đã ngồi suốt ba tiếng đồng hồ để đọc tập hồ sơ đó và tôi cũng có đọc bài báo đăng hôm nay. Một chi tiết trong bài báo khiến tôi quan tâm vì nghĩ rằng nó có tầm quan trọng đặc biệt. Vì vậy tôi đã yêu cầu thanh tra Jed gọi cho biện lý thành phố San Francisco để kiểm chứng giả thuyết của tôi. Phụ tá biện lý vừa mới điện trả lời chúng tôi.
Rút từ túi ra cái ống điếu, Jonathan đưa lên miệng, cắn chặt giữa hai răng, nhưng không mồi lửa. Ông nói tiếp:
ẳ
- Thưa bác sĩ, hẳn ông cũng biết, trong trường hợp mất tích lạ lùng của các đứa bé, cảnh sát đôi khi đã cố tình che giấu một vài thông tin hầu ngăn chặn một số những suy diễn có thể đưa đến những tin đồn sai lạc.
Jonathan càng lúc càng nói nhanh hơn, như thể thời gian trở nên quý hiếm: – Tôi nhận thấy rằng, cách đây bảy năm, khi tường thuật về vụ mất tích của hai đứa bé con gia đình Harmon, các nhà báo đều mô tả rằng ngày ấy chúng mặc áo săng-đay đỏ có hoa văn trắng. Không một bài báo nào cho biết họa tiết đó như thế nào. Vì vậy, tôi nghĩ rằng, người ta đã cố tình che giấu cái chi tiết này.
Jonathan nhìn thẳng vào mắt Lendon, như muốn Lendon quan tâm hơn đến những điểm quan trọng mà ông sẽ nêu ra:
- Bài báo vừa đăng trên trên tờ Cape Cod Community News cho biết rõ là khi mất tích, hai đứa bé của gia đình Harmon mặc áo săng-đay đỏ có họa tiết hình thuyền buồm và đó là áo mà chúng mặc khi người ta phát hiện thi thể chúng dạt vào bờ biển, nhiều tuần sau đó. Dĩ nhiên, Nancy biết rõ họa tiết đó vì chính cô ta đã đan những cái áo đó. Nhưng còn có một người khác nữa, ngoài các nhân viên điều tra vụ án này ở San Francisco, cũng biết điều này. Giả thiết rằng Nancy vô tội thì người đó chính là kẻ đã bắt cóc hai đứa bé cách đây bảy năm và đồng thời cũng là kẻ viết bài báo hôm nay!
- Ông muốn nói… – Lendon thắc mắc.
- Thưa bác sĩ, ở cương vị là luật sư và là bạn của Nancy, tôi có ý kiến là nếu bác sĩ có thể giúp Nancy hồi phục trí nhớ thì bác sĩ hãy nhanh tay lên! Điều quan trọng hơn cả là chúng ta phải khám phá những gì mà Nancy đã biết nếu không, tính mạng của hai đứa bé sẽ lâm nguy.
Lendon hỏi:
- Tôi có thể gọi đến nhà thuốc để yêu cầu họ mang cho tôi những thứ cần thiết?
Thanh tra Jed nói ngay:
- Bác sĩ cần gì cứ gọi. Tôi sẽ phái một xe cảnh sát đến đó lấy thuốc ngay. Để tôi nhấn số điện thoại cho bác sĩ.
Lendon từ tốn đặt mua các thứ thuốc, rồi vào bếp rót một ly nước. Ông thầm nghĩ, “Lạy Trời, sao rối ren thế này. Quả thật là rối rắm”. Thảm kịch
ẳ
đã bắt đầu từ khi Priscilla gặp nạn. Nếu Priscilla không chết hẳn nàng đã khuyên can Nancy không nên sớm lấy chồng. Như vậy, cô ta sẽ không có con với Carl Harmon. Bác sĩ Lendon không muốn suy nghĩ vẩn vơ nữa. Cảnh sát đã tiến hành công việc lấy dấu tay trong căn bếp, những vết bột còn sót lại trên các tủ kệ, bếp và bồn rửa chén. Những đốm cà phê tung tóe vẫn còn đó, chưa được lau chùi.
Ông trở vào phòng ăn khi thanh tra Jed đang nói:
- Ông Jonathan à, có thể tôi đang vượt quá những quyền hạn của mình, nhưng tôi muốn sử dụng máy ghi âm khi thẩm vấn Nancy. Nếu với tác dụng của thuốc, cô ấy có khai ra một điều gì đó, thì chúng tôi không thể sử dụng những lời khai đó để buộc tội cô. Nhưng tôi biết phải hỏi Nancy những câu gì phù hợp với những điều đã quy định.
Jonathan nôn nóng đáp:
- Nancy sẽ chẳng thú nhận điều gì. Nhưng có một điều làm tôi lo ngại: Nếu chúng ta giả thiết rằng Nancy vô tội – không những trong vụ mất tích Michael và Missy mà đồng thời kể cả trong cái chết của hai đứa bé trước đây – thì điều này đưa ta đến một giả thuyết khác. Nếu kẻ đã sát hại hai đứa bé con nhà Harmon là tác giả bài báo đăng trên Community News và đã đến bưu điện Hyannis Port đó nhận thư, thì đương nhiên hắn ta phải sống ở Cape trong một thời gian.
Thanh tra Jed nói ngay:
- Vậy thì theo ông, chính hắn ta sáng nay đã bắt cóc hai đứa bé. - Đó là điều làm tôi lo ngại.
Qua giọng nói lạnh lùng của Jonathan, thanh tra Jed hiểu ông ta muốn nói lên điều gì. Nếu Michael và Missy bị bắt cóc bởi chính kẻ đã giết hại hai đứa bé con nhà Harmon thì hẳn chúng có thể đã bị giết rồi. Thanh tra Jed nhận định:
- Mặt khác, nếu chúng ta không tình nghi Nancy Eldredge, thì có thể là một ai đó, không liên quan gì đến vụ Harmon nhưng vì đã nghe nói đến trọng án này, nên đã viết bài báo và sau đó bắt cóc hai đứa bé con nhà Eldredge. Giả thuyết thứ ba là cả hai trường hợp vừa kể không liên quan nhau và một ai đó đã đọc bài báo và vì biết Nancy Eldredge, nên người này đã bắt cóc Michael và Missy. Có thể đó là một người mẹ bị ức chế, cho
rằng Nancy không xứng đáng làm mẹ hai đứa bé. Sau bao nhiêu năm trong nghề, tôi đã từng nghe những lý luận khùng điên như vậy. Giọng khô khốc, Jonathan cắt ngang:
- Có điều chắc chắn là cách đây bảy năm. Nancy đã biết nhiều điều hơn là những gì cô đã nói ra về vụ mất tích hai đứa bé.
Lendon nhướng mày. Jed cau trán. Trước thái độ của hai người đó, Jonathan vỗ tay lên bàn:
- Tôi không nói Nancy là thủ phạm. Tôi chỉ nói là cô ấy không nói hết những gì cô đã biết. Cô đã biết nhiều hơn những gì cô nghĩ là mình biết. Quý vị hãy xem các bức ảnh chụp Nancy đứng trước tòa thì hiểu, khuôn mặt cô ấy như người vô cảm. Hãy đọc lời khai của cô. Quý vị hãy đọc đi. Người đàn bà đáng thương đó là kẻ vô tội. Vậy mà giờ đây ông đang tìm cách để dựng lại vụ đó.
Thanh tra Jed không còn kiên nhẫn:
- Tất cả những gì ông nêu ra chỉ là giả thuyết mà thôi. Nhiệm vụ của tôi là tìm thấy hai đứa bé, sống hoặc chết, và tìm ra thủ phạm. Thoạt đầu ông nói rằng tôi không thể thẩm vấn Nancy vì cô ấy đang bệnh nặng và rồi ông lại nói Nancy biết nhiều điều hơn những gì nàng đã khai. Này ông Jonathan, ông bảo rằng nghiên cứu về các vụ án và viết lách là thú tiêu khiển của ông. Nhưng mạng sống của các cháu bé đó không phải là thú tiêu khiển của tôi, và tôi không ở đây để giúp ông chơi trò cút bắt với pháp luật.
- Anh cho tôi nói – London vỗ nhẹ vào cánh tay của thanh tra Jed rồi quay sang Jonathan – Thưa ông Jonathan, có phải nếu Nancy nói rõ về những gì mà cô ta biết về cái chết của hai đứa con trước đây của cô thì như thế chúng ta sẽ dễ dàng hơn trong việc tìm kiếm hai đứa bé hiện mất tích?
- Đúng. Nhưng vấn đề là làm sao để cô ấy có thể nhớ lại và chúng ta không đẩy cô ta vào trạng thái mất ý thức do thuốc. Thưa bác sĩ, có phải ông được xem là chuyên gia trong vấn đề sử dụng penrhiolxirbital để chữa trị tâm thần?
- Quả vậy.
- Liệu ông có thể giúp Nancy nhớ lại, không những về những gì mà cô ta biết về sự cố sáng nay – điều mà tôi nghĩ rằng Nancy thực sự chẳng biết gì – mà còn có thể nhớ những gì đã xảy ra trong quá khứ?
- Có thể được.
- Vậy tôi mong bác sĩ giúp Nancy càng sớm càng tốt.
Một tiếng đồng hồ sau, khi Dorothy trở lại nhà Eldredge, bà thấy phòng ăn và nhà bếp hoàn toàn vắng lặng, không còn ai ngoại trừ Bernie Mills, viên cảnh sát trực điện thoại.
Hất hàm về phía phòng khách, anh ta nói:
- Mọi người đều ở trong đó. Họ đang làm những chuyện khá lạ lùng. Dorothy vội vã ngang qua hành lang rồi khựng lại ở cửa phòng khách. Trước cảnh tượng trước mắt, những lời bà định nói bỗng dưng im bặt trên môi.
Nancy đang nằm dài trên trường kỷ, mình đắp chăn bông, đầu tựa trên gối kê. Cạnh nàng là một ông có vẻ là bác sĩ, đang nói nho nhỏ. Mắt Nancy nhắm nghiền. Đứng gần đó là Ray và Jonathan. Khuôn mặt Ray hằn vẻ lo âu trong khi Jonathan thì có vẻ nghiêm trọng. Ngồi trên cái bàn gần trường kỷ, Jed Coffin đang hướng cái micro về phía Nancy.
Hiểu rõ chuyện gì đang xảy ra, Dorothy ngồi xuống ghế bành, không buồn cởi áo choàng. Bà thọc hai tay lạnh cóng vào túi áo. Giọng Lendon nghe dịu dàng:
- Nancy à, cô thấy thế nào? Có khỏe không?
- Tôi sợ…
- Tại sao?
- Hai đứa bé… Hai đứa bé…
- Nào Nancy, hãy nói về chuyện sáng nay. Đêm qua cô ngủ có ngon giấc không? Buổi sáng khi thức dậy, cô có thấy khỏe không?
Giọng Nancy có vẻ tư lự:
- Tôi đã nằm mơ. Tôi mơ rất nhiều..
- Cô đã mơ thấy gì?
- Thấy Peter và Lisa… chúng sẽ khôn lớn… chúng đã chết cách đây bảy năm.
Nàng nức nở khóc. Rồi trong khi Jonathan đưa tay giữ lấy Ray, Nancy gào lên: “Làm sao tôi có thể giết chúng chứ? Chúng là con tôi mà! Làm sao tôi có thể giết chúng…?”
"""