"
Review Cảm Nhận Thạch Hầu - Tác giả: Jeffery Deaver
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Review Cảm Nhận Thạch Hầu - Tác giả: Jeffery Deaver
Ebooks
Nhóm Zalo
JEFFERY DEAVER
Orkid dịch
—★—
THẠCH HẦU
· THE STONE MONKEY ·
(Lincoln Rhyme #4)
dựa theo bản in của
BÁCH VIỆT & NXB VĂN HỌC
ebook©vctvegroup
27-06-2020
Dành tặng cho những người thân yêu đã mất trong ngày 11 tháng Chín, 2001 - tội ác duy nhất của họ là tình yêu khoan dung và tự do. Họ sẽ mãi tồn tại trong trái tim chúng ta.
Đôi lời
của tác giả
Tôi xin để lại đây vài thông tin có thể giúp ích cho những độc giả không quen thuộc với những chi tiết của đời sống Trung Quốc được mô tả trong cuốn sách này.
VỀ ĐỊA LÝ, hầu hết những người nhập cư bất hợp pháp từ Trung Quốc vào Mỹ đều xuất thân từ miền duyên hải đông nam của quốc gia này, nhìn chung là từ hai tỉnh: một là tỉnh Quảng Đông ở miền nam, nơi có thành phố Hồng Kông, và một là tỉnh Phúc Kiến ở phía bắc với thủ phủ là thành phố Phúc Châu, một trung tâm lớn của ngành đánh cá và có lẽ là địa điểm xuất phát nổi tiếng nhất với những người muốn vượt biên tới một bến bờ mới.
VỀ NGÔN NGỮ, tiếng Hán trong văn viết được thống nhất toàn Trung Quốc, nhưng văn nói thì lại có sự khác biệt vùng miền rất lớn. Những phương ngữ phổ biến là tiếng Quảng ở miền Nam, Mân Nam ở Phúc Kiến và Đài Loan, và Quan Thoại, hay tiếng Bắc Kinh, được dùng ở Bắc Kinh và miền Bắc Trung Quốc. Một vài từ tiếng Hán mà tôi đề cập trong sách đều là tiếng Quan Thoại, ngôn ngữ chính thức của quốc gia này.
TÊN NGƯỜI, theo truyền thống tên của người Hoa có thứ tự đặt ngược so với cách chúng ta vẫn dùng ở Mỹ hay Châu Âu. Chẳng hạn, trong cái tên Lý Kháng Mỹ*, thì Lý là họ còn Kháng Mỹ là tên riêng. Vài người Trung Quốc sống trong các thành phố hoặc có mối quan hệ gần gũi với người Mỹ hay các nền văn hóa phương Tây khác có thể nhận một cái tên phương Tây
để dùng kèm thêm hoặc dùng thay tên Trung Quốc của họ. Trong những trường hợp như vậy thì tên kiểu Ăng-lô sẽ đi trước họ, chẳng hạn như Jerry Đường.
Jeffery Deaver
I
XÀ THỦ
Thứ Ba, giờ Dần, 4 giờ 30 sáng
tới giờ Thìn, 8 giờ sáng
Từ Wei-Chi bao gồm hai chữ trong tiếng Hán: Wei có nghĩa là “vòng tròn”, và Chi nghĩa là “mảnh”. Vì trò chơi này đại diện cho sự tranh đấu trong cuộc sống, nó cũng có thể được gọi là “trò chơi chiến trận”.
DANIELLE PECOBINI AND TONG SHU, THE GAME OF WEI CHI
CHƯƠNG
MỘT
Họ là những kẻ biến mất, họ là những kẻ bất hạnh.
Với bọn buôn người, biệt danh là Xà thủ, những kẻ sẽ đưa họ đi khắp thế giới như những pallet hàng hỏng hóc, thì họ là ju-jia, nghĩa là lợn con. Với những nhân viên INS* của Mỹ, những người sẽ chặn các con tàu, bắt và trục xuất họ trở về quê hương, họ là những trường hợp không giấy tờ.
Họ là niềm hi vọng. Họ đã đánh đổi nhà cửa, gia đình và tổ tiên hàng ngàn năm để lấy một thực tế khắc nghiệt là nhiều năm lao động vất vả và sự mạo hiểm phía trước.
Họ là những người chỉ có một cơ may mỏng manh để bén rễ tại một vùng đất mà gia đình họ có thể an cư. Như trong các câu chuyện kể, ở nơi đó tự do, tiền tài và sự viên mãn tới với tất cả mọi người như ánh mặt trời và những cơn mưa vậy.
Họ là món hàng dễ vỡ của ông.
Lúc này, trong lúc đứng trụ vững vàng trước mặt biển dậy sóng cao năm mét, thuyền trưởng Sâm Tử Quân đi từ cầu tàu xuống hai boong tới một căn hầm ẩm thấp để truyền đạt một tin xấu. Rất có thể những tuần vất vả vừa qua của họ sẽ thành công cốc.
Bình minh còn chưa ló dạng trong ngày thứ Ba của tháng Tám ấy. Vị thuyền trưởng đậm người, đầu cạo trọc với hàng ria mép rậm rạp lướt qua những chiếc container rỗng để làm bình phong trên boong của con tàu dài
bảy mươi hai mét mang tên Fuzhou Dragon và mở cánh cửa sắt nặng nề dẫn vào hầm. Ông nhìn xuống hai chục con người la liệt ở đó, trong không gian tối om và không có cửa sổ. Rác và những món đồ chơi nhựa của lũ trẻ nổi lềnh phềnh trên mặt nước biển dưới những cái võng rẻ tiền.
Bất chấp những con sóng dữ, thuyền trưởng Sâm - một người dày dạn kinh nghiệm ba mươi năm trên biển - vẫn bước xuống những bậc thang dốc đứng bằng thép mà không cần bám vào tay vịn và đi một mạch vào giữa tầng hầm. Ông kiểm tra máy đo nồng độ các-bon đi-ô-xít và thấy chỉ số chấp nhận được dù bầu không khí sặc mùi dầu diesel hoà lẫn với mùi của những con người sống chui rúc chật chội trong hai tuần vừa qua.
Không như nhiều thuyền trưởng và thủy thủ khác trên những “cái thùng” - những con tàu buôn người - tử tế lắm cũng chỉ là lờ tịt hành khách của mình, nếu không sẽ đánh hay cưỡng hiếp họ, Sâm không đối xử tệ bạc với những người khách này. Ông thực sự tin rằng mình đang làm việc thiện: chuyên chở những gia đình này sang miền đất hứa ở Mỹ với một cuộc sống hạnh phúc, dù có thể không phải giàu sang. Trong tiếng Hoa, nước Mỹ được gọi là Mỹ Quốc, nghĩa là “Đất nước xinh đẹp”.
Tuy nhiên trên chuyến tàu này, hầu hết những người nhập cư bất hợp pháp đều không tin tưởng ông. Và lý do tại sao như thế? Họ đánh đồng ông ngang với tên Xà thủ đã thuê con tàu Dragon, là Kwan Ang, nổi danh khắp nơi với biệt danh Quỷ của mình. Danh tiếng bạo lực của gã xà thủ đã làm hỏng mọi nỗ lực trò chuyện với người nhập cư của ông và chỉ mang lại cho ông duy nhất một người bạn. Trương Cảnh Tử - dù anh ta thích cái tên tiếng Anh của mình là Sam Trương hơn - là một cựu giáo sư đại học tới từ vùng ngoại ô của thành phố cảng Phúc Châu rộng lớn ở miền đông nam Trung Quốc. Anh ta đang đưa cả nhà mình bao gồm vợ, hai con cùng ông bố già góa bụa của mình đến Mỹ.
Đã vài lần Trương và Sâm cùng ngồi trong hầm, uống thứ rượu Mao Đài mà vị thuyền trưởng vẫn luôn cất trên tàu của mình, cùng bàn luận về cuộc sống ở Trung Quốc và Mỹ.
Thuyền trưởng Sâm trông thấy Trương đang ngồi trong một cái võng ở góc hầm. Người đàn ông cao lớn điềm tĩnh cau mày lại, phản ứng trước ánh nhìn trong mắt vị thuyền trưởng. Trương đưa cuốn sách mà anh đang đọc cho cả nhà cùng nghe cho cậu con trai cầm hộ để đứng dậy và bước tới gặp thuyền trưởng.
Tất cả những người ở quanh họ đều im phăng phắc.
“Ra-đa của chúng tôi cho thấy có một con tàu tốc độ cao đang trên đường đến chỗ chúng ta.”
Khuôn mặt những người nghe được câu chuyện sa sầm lại. “Người Mỹ à?” Trương hỏi. “Cảnh sát biển?”
“Tôi chắc là thế,” vị thuyền trưởng trả lời. “Chúng ta đang vào vùng hải phận của Hoa Kỳ.”
Sâm nhìn vào những khuôn mặt đang lo lắng của nhóm người nhập cư đang ngồi xung quanh ông. Giống như những con tàu chở người lậu khác, những con người ngồi đây đã hình thành một tình bạn bền chặt giữa họ, dù cho trước khi gặp nhau trên con thuyền này, họ chỉ là những người xa lạ. Giờ đây họ nắm lấy tay nhau và cùng thì thầm, người thì tìm kiếm sự an ủi, người thì ban phát lời trấn an. Đôi mắt thuyền trưởng dừng lại nơi người phụ nữ đang ôm chặt đứa bé gái mới mười tám tháng tuổi trên tay. Mẹ của chị ta, với khuôn mặt đầy những vết sẹo từ những trận đánh đập trong trại phục hồi nhân phẩm - đang cúi gằm xuống và bắt đầu thút thít.
“Chúng ta có thể làm gì?” Trương lo lắng hỏi. Thuyền Trưởng Sâm biết rằng anh sẽ rất tuyệt vọng nếu bị Sở nhập cư của Mỹ bắt và trục xuất về nước.
“Chúng ta không còn quá xa điểm thả người và vẫn đang chạy hết tốc lực. Chúng ta có thể đến đủ gần để các anh lên bờ bằng bè.” “Không, không,” Trương nói. “Trên những con sóng như thế này sao? Tất cả chúng tôi sẽ chết.”
“Tôi đang lái thuyền tới một bến cảng tự nhiên. Sóng ở đó sẽ dịu đi đủ để các anh cập bè vào. Ở bờ biển sẽ có sẵn xe tải đưa mọi người tới New York.”
“Thế còn ông?” Trương hỏi.
“Tôi sẽ quay lại chỗ cơn bão. Đến lúc thời tiết đủ an toàn để họ cập bến thì các anh đã đang trên đường cao tốc thẳng tiến đến thành phố kim cương rồi... Giờ hãy bảo tất cả mọi người thu dọn đồ đạc. Nhưng chỉ mang theo những vật quan trọng nhất. Tiền nong, ảnh. Bỏ lại mọi thứ khác. Đây sẽ là một cuộc đua vào bờ. Ở yên đây cho đến khi Quỷ hoặc tôi bảo các anh lên trên.”
Thuyền trưởng Sâm vội vã leo lên cầu thang dốc, thẳng tiến tới cầu tàu. Trong lúc leo ông thầm cầu nguyện với Thiên Hậu Thánh Mẫu*, vị nữ thần của các thủy thủ, cho tất cả được sống sót, rồi lao đầu vào con nước màu xám vừa trùm lên mạn tàu.
Trên cầu tàu ông thấy Quỷ đang đứng bên máy ra-đa, nhìn chằm chằm vào tấm chắn sáng bằng cao su. Hắn đứng bất động hoàn toàn, gồng mình chống chọi cơn giận dỗi đỏng đảnh của biển cả.
Một vài gã xà thủ ăn mặc như thể chúng là những tay anh chị Quảng Đông giàu có trong bộ phim của Ngô Vũ Sâm, nhưng Quỷ thì luôn mặc bộ đồ chuẩn mực của hầu hết đàn ông Trung Quốc - quần giản dị và áo sơ mi cộc tay. Hắn có thể người gọn gàng nhưng cơ bắp, mày râu nhẵn nhụi, tóc
dài hơn kiểu đầu của những doanh nhân bình thường một chút nhưng không bao giờ xịt keo tạo kiểu gì cả.
“Họ sẽ cắt ngang đường của ta trong vòng mười lăm phút nữa,” xà thủ nói. Ngay cả bây giờ, khi phải đối mặt với nguy cơ bị chặn bắt, hắn vẫn có vẻ thờ ơ như một nhân viên bán vé trong trạm xe buýt đường dài ở tỉnh lẻ vậy.
“Mười lăm phút ư?” Thuyền trưởng đáp lại. “Không thể nào. Họ đang đi bao nhiêu hải lý một giờ vậy?”
Sâm đi tới bàn điều khiển, là trung tâm của mọi con tàu vượt đại dương. Trên đó là biểu đồ hàng hải khu vực này của Cục Bản đồ, Bộ quốc phòng Hoa Kỳ. Ông đã phải tính toán vị trí tương quan của hai con tàu dựa vào cái này cùng ra-đa; do lo ngại bị theo đuôi, hệ thống định vị toàn cầu trên tàu Dragon cùng với phao cấp cứu EPIRB*và Hệ thống cứu nạn và an toàn biển toàn cầu đều đã bị tắt.
“Tôi tưởng ít nhất cũng được bốn mươi phút nữa,” thuyền trưởng nói. “Không, tôi đã tính toán thời gian dựa trên khoảng cách họ đi được kể từ khi chúng ta phát hiện ra họ.”
Thuyền trưởng Sâm liếc nhìn thủy thủ đang lái con tàu Fuzhou Dragon, vừa nắm lấy tay lái vừa toát mồ hôi trong lúc vật lộn để giữ cho nút thắt Turk của sợi dây bện buộc quanh nó thẳng tắp, ám chỉ bánh lái đang sắp thẳng hàng với thân tàu. Các van tiết lưu đang được đẩy hết về phía trước. Nếu nhận định của Quỷ về thời điểm những người kia đuổi theo có thể cắt ngang họ là đúng, thì họ sẽ không thể tới được cảng kịp lúc. May lắm họ cũng chỉ cách bờ biển lởm chởm đá gần đó khoảng nửa dặm - đủ gần để thả bè nhưng lại phó mặc mọi người cho cơn giận dữ không chút tiếc thương của biển cả.
Quỷ hỏi thuyền trưởng, “Họ sẽ có những loại vũ khí gì?”
“Anh còn không biết sao?”
“Tôi chưa bị chặn bao giờ,” Quỷ trả lời. “Nói cho tôi biết.” Những con tàu dưới sự chỉ huy của Sâm đã từng bị chặn và kiểm tra hai lần trước đó - Rất may cả hai lần đều là những chuyến hành trình hợp pháp, chứ không phải là đang chở dân nhập cư cho bọn xà thủ. Nhưng kinh nghiệm ấy vẫn rất khổ sở. Hơn chục lính của Đội tuần tra duyên hải nhảy lên tàu của họ, trong khi một người khác vẫn ở trên xuồng cao tốc, chĩa khẩu súng máy hai nòng vào ông cùng thuỷ thủ đoàn. Lại còn cả một khẩu đại bác cỡ nhỏ nữa.
Ông kể lại cho Quỷ những gì có thể họ sắp gặp phải.
Quỷ gật đầu. “Chúng ta cần cân nhắc các lựa chọn.”
“Lựa chọn nào kia?” Giờ đến lượt thuyền trưởng Sâm hỏi. “Anh không nghĩ đến chuyện chống lại họ đấy chứ? Không được. Tôi không cho phép.” Nhưng gã xà thủ không trả lời. Hắn tiếp tục bám lấy bàn ra-đa, nhìn chằm chằm vào màn hình.
Hắn có vẻ điềm tĩnh nhưng Sâm cho là chắc hẳn hắn đang giận điên người. Ông chưa từng làm việc với xà thủ nào dùng nhiều biện pháp tránh bị bắt và theo dấu như Quỷ đã thực hiện với chuyến hàng này. Hai mươi tư người nhập cư gặp nhau trong một nhà kho bỏ hoang ở ngoại ô tỉnh Phúc Châu và chờ ở đó hai ngày, dưới sự giám sát của một tên đồng đảng của Quỷ - một tiểu xà thủ. Sau đó người này đưa họ lên một chiếc máy bay Tupolev thuê, bay thẳng tới một căn cứ không quân bỏ hoang gần St. Petersburg của Nga. Tại đây bọn họ trèo vào một container chở hàng rồi bị kéo đi 120 cây số tới thị trấn Vyborg và lên con tàu Fuzhou Dragon mà Sâm chỉ vừa đưa vào cảng của Nga một ngày trước đó. Đích thân ông đã cẩn thận điền hết các biểu mẫu của hải quan và bảng kê khai hàng hóa trên tàu - mọi thứ đều chuẩn chỉ để không gây nghi ngờ gì. Quỷ lên tàu cùng họ
vào những phút cuối cùng và con tàu ra khơi đúng kế hoạch. Băng qua biển Baltic, biển Bắc, tới Kênh đào nước Anh, rồi con tàu Dragon lướt qua xuất phát điểm nổi tiếng của những hải trình vượt đại dương ở biển Celtic - vĩ độ 49 kinh độ 7 - và bắt đầu băng băng chạy về phía tây nam, hướng tới Long Island, New York.
Hành trình của họ không có lấy một điểm nào có thể gây nghi ngờ cho các nhà chức trách Hoa Kỳ.
“Đội tuần tra duyên hải đã làm thế nào nhỉ?” Vị thuyền trưởng hỏi. “Làm gì?” Quỷ lơ đãng hỏi lại.
“Tìm được chúng ta ấy. Không ai có thể tìm được. Đó là chuyện bất khả thi.”
Quỷ đứng thẳng người dậy và đẩy cửa bước ra ngoài cơn gió thét gào, hắn hét lại, “Ai mà biết được? Ma thuật chăng?”
CHƯƠNG
HAI
“Chúng ta đang ở ngay trước mặt họ, Lincoln ạ. Con thuyền đang hướng vào đất liền nhưng liệu họ có kịp không? Không thưa ngài, không cách nào được. Chờ đã, tôi có phải gọi nó là ‘tàu’ không? Tôi nghĩ là có. Nó quá to so với một cái thuyền.”
“Tôi không biết,” Lincoln Rhyme lơ đãng nói với Fred Dellray. “Tôi không đi biển nhiều lắm.”
Anh chàng Dellray cao dong dỏng là đặc vụ FBI phụ trách vụ tìm và bắt Quỷ của Cục Điều tra Liên bang. Cả chiếc áo sơ mi màu vàng lông chim hoàng yến lẫn bộ vest đen như làn da anh ta đều chưa được là lượt gì gần đây, nhưng trong phòng này cũng không có ai ăn vận thực sự tử tế cả. Năm sáu người đứng quanh Rhyme lúc này đã trải qua hai mươi tư giờ liên tục sống trong căn phòng này, một nơi khó có thể tin là một trụ sở làm việc. Phòng khách của Rhyme trong ngôi nhà ở phía Tây Công viên trung tâm không còn giống chút nào với phong cách thời Victoria mà nó từng có nữa, giờ đã thành một phòng khám nghiệm hiện trường, đầy những bàn ghế, dụng cụ, máy tính, hóa chất, dây dợ và hàng trăm cuốn sách và tạp chí về giám định.
Đội đặc nhiệm bao gồm các nhân viên của cả Cục Điều tra Liên bang lẫn cảnh sát bang, về phía tiểu bang, họ có Trung úy Lon Sellitto, thám tử chuyên về án mạng của NYPD, anh ta trông còn thảm hại hơn cả Dellray và cũng đậm người hơn (anh chỉ vừa mới chuyển về sống chung với bạn gái ở
Brooklyn, người mà anh tuyên bố một cách tự hào dù có phần thảm não là nấu ăn y như đầu bếp Emeril*). Cảnh sát trẻ Eddie Đặng, thám tử gốc Hoa tới từ Phân khu thứ Năm của NYPD bao gồm cả khu phố Tàu cũng có mặt. Đặng có thể hình gọn gàng, khỏe mạnh và đỏm dáng, anh ta đeo chiếc kính thể thao hiệu Armani cùng mái tóc đen được vuốt keo ngược lên như chỏm đầu lợn lòi. Anh ở đây với tư cách đồng sự tạm thời của Sellitto; người bạn đồng nghiệp thường ngày của viên thám tử to lớn là Roland Bell vừa về quê ở Bắc Carolina để đoàn tụ gia đình cùng hai cậu con trai tuần trước. Hóa ra, anh này đã phát triển một mối quan hệ bạn bè với cô cảnh sát ở địa phương tên Lucy Kerr nên đã xin gia hạn kì nghỉ thêm vài ngày.
Hỗ trợ cho bên Cục trong đội này là Harold Peabody, một giám đốc cấp trung ngoài năm mươi tuổi, thông minh với thân hình quả lê. Ông nắm giữ vị trí quan trọng ở văn phòng Manhattan của Sở Di trú và Nhập cư. Như tất cả các quan chức chính phủ chuẩn bị về hưu khác, Peabody khá kín tiếng về bản thân mình, nhưng kiến thức sâu rộng của ông ta về những vấn đề liên quan đến người nhập cư đã là một minh chứng cho khoảng thời gian cống hiến lâu dài và thành công ở Sở. Peabody và Dellray đối đầu với nhau không chỉ một lần trong suốt cuộc điều tra này. Sau tai nạn trên tàu Golden Venture, vụ tai nạn đã khiến mười người dân nhập cư bất hợp pháp bị chết đuối sau khi chiếc tàu chở người lậu mắc cạn bên ngoài Brooklyn, đích thân tổng thống Mỹ đã yêu cầu FBI nhận lại thẩm quyền chính từ INS trong các vụ buôn lậu người lớn, cùng với sự trợ giúp của CIA. Sở Nhập cư có kinh nghiệm về các xà thủ và hoạt động buôn người của chúng nhiều hơn so với FBI và họ chẳng vui vẻ gì khi đem trao thẩm quyền của mình cho một cơ quan khác - đặc biệt là khi cơ quan này lại khăng khăng kề vai sát cánh với NYPD rồi lại còn dùng những nhà tư vấn... bên ngoài như Lincoln Rhyme chẳng hạn.
Trợ lý cho Peabody là một đặc vụ INS trẻ tuổi tên là Alan Coe, anh chàng ngoài ba mươi với mái tóc đỏ sậm màu gần như cắt cua. Coe là một người tràn đầy năng lượng nhưng luôn tỏ vẻ chua chát và ủ dột, cũng như là một người khá khó hiểu, không tiết lộ một lời về đời sống cá nhân của mình, ngoài những thông tin liên quan đến Quỷ trong công việc. Rhyme đã quan sát thấy bộ vest của Coe là kiểu mua ở các cửa hàng hạ giá, thời thượng nhưng đường kim mũi chỉ lộ rõ, còn đôi giày đen bám bụi của anh ta có bộ đế cao su dầy của các bảo vệ an ninh: hoàn toàn thích hợp để đuổi theo những tên trộm cửa hàng. Lần duy nhất anh ta trở nên hoạt ngôn là lúc bất ngờ có một bài thuyết giáo lê thê về tội ác của việc nhập cư bất hợp pháp. Tuy nhiên, Coe là người làm việc không biết mệt và cũng rất sốt sắng để bắt được Quỷ.
Trong tuần còn có vài cảnh sát và đặc vụ cấp dưới nữa tạt qua tạt lại ngôi nhà này với những nhiệm vụ liên quan đến vụ án.
Những ngày vừa qua Lincoln Rhyme thường nghĩ - và thốt ra câu - “ Cái nhà ga Trung tâm chết tiệt này.”
Bốn giờ bốn mươi lăm phút sáng một ngày mưa bão, anh điều khiển chiếc xe lăn chạy bằng ắc-quy hiệu Storm Arrow của mình qua căn phòng đầy đồ đạc để hướng đến bảng cập nhật tình hình vụ án, trên đó có dán một trong vài bức ảnh hiếm hoi của Quỷ - dù bức ảnh này có chất lượng rất tệ - cũng như ảnh của Sâm Tử Quân, thuyền trưởng con tàu Fuzhou Dragon, và một tấm bản đồ mé đông Long Island cùng đại dương bao quanh nó. Không như những ngày đầu nghỉ hưu tự áp đặt mình trên giường bệnh sau vụ tai nạn ở hiện trường một vụ án, sự kiện đã biến anh thành một người liệt cả tứ chi, giờ đây Rhyme dành một nửa thời gian thức giấc của mình trên chiếc xe lăn Storm Arrow màu đỏ, được trang bị hẳn một bảng điều khiển MKIV tối tân nhất do trợ lý Thom tìm được ở Invacare. Bảng điều khiển bằng một
ngón tay này giúp anh lái chiếc xe lăn cơ động hơn nhiều so với hệ thống ống thổi* cũ.
“Còn cách bờ bao xa nữa?” Anh hỏi và nhìn lên bản đồ.
Lon Sellitto đang nghe điện thoại cũng nhìn lên. “Tôi đang hỏi đây.” Rhyme thường làm việc với tư cách người cố vấn cho NYPD nhưng hầu hết nỗ lực của anh dành cho hoạt động khám nghiệm hiện trường cổ điển - phân tích tội phạm học, như cách các nhà hành pháp thích dùng biệt ngữ vẫn gọi; nhiệm vụ lần này là một ca khác thường. Bốn ngày trước, Sellitto, Dellray, Peabody cùng anh chàng Alan Coe lầm lì đã tới tận nhà gặp anh. Rhyme đã bị mất tập trung - sự kiện chi phối trong đời anh lúc này là một trị liệu còn chưa hoàn tất - nhưng Dellray đã lôi kéo sự chú ý của anh trở lại bằng cách nói. “Anh là hi vọng cuối cùng của chúng tôi, Linc. Chúng tôi gặp rắc rối lớn và không biết phải nhờ ai nữa.”
“Nói tiếp đi.”
Interpol, một kiểu ngân hàng hối đoái quốc tế trong giới tình báo tội phạm, đã phát đi một trong những Bản tin Đỏ nổi tiếng của nó về Quỷ. Theo những nguồn tin, tên xà thủ giảo quyệt này đã xuất hiện ở Phúc Châu, Trung Quốc, bay xuống phía nam nước Pháp rồi tới một cảng nào đó ở Nga để nhận một chuyến hàng gồm những người nhập cư Trung Quốc bất hợp pháp, và lẩn trong số đó là bằng hữu của Quỷ, hay trợ lý của hắn, đóng giả làm một trong những hành khách đi lậu. Điểm đến của họ được cho là New York. Nhưng rồi hắn biến mất. Cảnh sát của Đài Loan, Pháp và Nga cùng với FBI, INS đều không tìm thấy hắn đâu cả.
Dellray mang theo bằng chứng duy nhất mà họ có, một chiếc cặp táp có chứa vài vật dụng cá nhân của Quỷ mà họ đã thu được từ nơi trú ẩn của hắn ở Paris, với hi vọng rằng Rhyme có thể cho họ chút ý tưởng về dấu vết của hắn.
“Sao phải kéo cả tổng cả ty thế này?” Rhyme hỏi khi quan sát nhóm người gồm cả ba cơ quan hành pháp này.
Coe nói, “Hắn là một tên điên.”
Peabody đáp lại một cách thận trọng hơn. “Quỷ có thể là tên buôn người nguy hiểm nhất thế giới. Hắn bị truy nã vì mười một vụ án mạng gồm cả dân vượt biên và cảnh sát lẫn các đặc vụ. Nhưng chúng tôi biết hắn từng giết nhiều người hơn thế. Những người nhập cư bất hợp pháp được gọi là ‘kẻ biến mất’, nếu họ cố lừa lũ xà thủ, họ sẽ bị giết. Nếu kêu ca, họ cũng bị giết. Họ cứ thế biến mất mãi mãi.”
Coe nói thêm, “Và hắn đã cưỡng hiếp ít nhất mười lăm người phụ nữ vượt biên theo chỗ chúng tôi được biết. Tôi chắc chắn là còn nhiều hơn thế.”
Dellray nói, “Có vẻ như hầu hết những xà thủ tầm cỡ như hắn đều không tự mình đưa người sang tận nơi. Lý do duy nhất hắn đích thân mang những người này đi là vì hắn đang mở rộng địa bàn hoạt động ở đây.”
“Nếu hắn vào được đất nước này,” Coe nói, “sẽ có nhiều người phải chết. Rất nhiều.”
“Chà, tại sao lại là tôi?” Rhyme hỏi. “Tôi chẳng biết gì về buôn người cả.”
Đặc vụ FBI nói, “Chúng tôi đã thử mọi cách khác rồi, Lincoln. Nhưng không tìm được gì cả. Chúng tôi không có bất kì thông tin cá nhân nào về hắn, không có bức ảnh nào tử tế, không một dấu vân tay. Không gì cả. Trừ cái đó.” Một cái gật đầu về phía chiếc va ly chứa những đồ vật của Quỷ.
Rhyme liếc nó bằng vẻ mặt nghi ngờ. “Thế chính xác thì hắn đã tới đâu ở Nga? Các anh có biết thành phố nào không? Một bang hay tỉnh lị hay bất kể gì mà họ gọi ở đó? Tôi nghe nói đó là một đất nước khá rộng lớn.”
Sellitto trả lời bằng một cái nhướng lông mày, dường như có ý là: Chúng tôi chẳng biết gì cả.
“Tôi sẽ làm tất cả những gì có thể. Nhưng đừng mong đợi phép màu.” Hai ngày sau Rhyme gọi họ quay lại. Thom đưa cho Đặc vụ Coe chiếc cặp táp.
“Trong đó có gì hữu ích không?” Chàng trai trẻ hỏi.
“Không,” Rhyme vui vẻ trả lời.
“Trời ơi,” Dellray lẩm bẩm. “Thế là vận may của chúng ta đã hết.” Dường như câu đó là một ám hiệu khởi đầu khá đủ cho Lincoln Rhyme. Anh dựa đầu vào chiếc gối đắt tiền mà Thom đã dựng trên xe lăn cho anh và nói liền một mạch. “Quỷ cùng khoảng hai tới ba chục người Hoa nhập cư bất hợp pháp đã lên một con tàu dài bảy mươi hai mét tên là Fuzhou Dragon, bên ngoài Phúc Châu, tỉnh Phúc Kiến, Trung Quốc. Nó là một con tàu chở hàng container kết hợp hàng rời, hai động cơ diesel, dưới sự chỉ huy của Sâm Tử Quân - Sâm là họ - năm mươi sáu tuổi và đội thủy thủ gồm bảy người. Nó rời cảng Vyborg của Nga lúc 8 giờ 45 phút mười bốn ngày trước và lúc này - giờ thì tôi chỉ dự đoán thôi - đang cách bờ biển New York khoảng 482 kilômét. Nó đang hướng đến cầu cảng ở Brooklyn.” “Làm thế quái nào mà anh biết được?” Coe buột miệng hỏi trong kinh ngạc. Ngay cả Sellitto, một người đã quen với khả năng suy luận của Rhyme cũng phải phá lên cười.
“Đơn giản thôi. Tôi dự đoán họ sẽ đi từ phía đông sang phía tây nếu không thì hẳn là hắn đã rời đi từ cảng ở Trung Quốc. Tôi có một người bạn trong sở cảnh sát Moscow, làm khám nghiệm hiện trường. Tôi đang viết chung vài nghiên cứu với anh ấy. Nhân tiện anh ấy là chuyên gia giỏi nhất thế giới về các loại đất. Tôi đã nhờ anh ấy gọi tới những người quản lý các cảng biển ở miền tây nước Nga. Bạn tôi đã nhờ vả vài nơi và lấy được tất cả
các bản kê khai hàng hoá trên tàu từ tất cả các con tàu Trung Quốc đã ra khơi trong vòng ba tuần qua. Chúng tôi dành vài giờ đọc từng cái một. Nhân tiện, các anh sẽ nhận được một hoá đơn điện thoại hơi bị khủng đấy. Ồ, và tôi cũng bảo anh ấy tính luôn tiền dịch thuật cho các anh. Là tôi thì cũng làm thế thôi. Thế là, chúng tôi tìm thấy chỉ có một chiếc tàu duy nhất tích đủ nhiên liệu cho hải trình 12.800 kilômét trong khi bản kê khai lại báo cáo nó chỉ đi tổng cộng có bảy ngàn. Mười hai ngàn tám trăm cây số là quãng đường từ Vyborg tới New York và quay lại Southampton, Anh Quốc để nạp lại nhiên liệu. Họ sẽ không đến Brooklyn làm gì cả. Họ sẽ thả Quỷ và những người vượt biên trên đường quành lại Châu Âu.”
“Có thể giá nhiên liệu ở New York quá đắt chăng?” Dellray gợi ý. Rhyme chỉ nhún vai, một trong vài cử chỉ phản đối mà cơ thể anh còn làm được và nói chua chát, “Mọi thứ ở New York đều đắt đỏ. Nhưng còn điều này nữa: bản kê khai của tàu Dragon nói rằng nó đang vận chuyển máy móc công nghiệp tới Mỹ. Nhưng anh cần phải báo cáo ngấn nước của tàu - tức là chỉ số thân tàu chìm sâu bao nhiêu trong nước, nếu các anh tò mò - để đảm bảo mình không bị mắc cạn trong những cảng nông. Ngấn nước của tàu Dragon chỉ có ba mét. Nhưng một con tàu chở đầy hàng với kích thước như nàng ta thì phải chìm ít nhất là bảy mét rưỡi, vậy tức là nó rỗng không. Chỉ có mỗi Quỷ và mấy người nhập cư. Không ai ở đây bị xúc phạm khi tôi gọi tàu là ‘nàng’ đấy chứ? Chỉ là phong tục thôi. À, tôi nói có hai tới ba chục người vượt biên là vì tàu Dragon dự trữ đủ nước và lương thực cho từng đó người, trong khi - như tôi đã kể - thủy thủ đoàn chỉ có bảy người.”
“Chết tiệt,” Harold Peabody lộ ra một nụ cười ngưỡng mộ ngoài cử chỉ cứng ngắc.
Chiều ngày hôm đó, các vệ tinh do thám đã bắt được hình ảnh tàu Dragon ngoài khơi khoảng 450 kilômét đúng như Rhyme dự đoán.
Chiếc tàu cao tốc của lực lượng Bảo vệ Đường biển Evan Brigant với một đội gồm hai mươi lăm thủy thủ, hai khẩu súng máy nòng 12 ly cùng một khẩu đại bác 80 ly đã vào tư thế chuẩn bị sẵn sàng nhưng vẫn giữ khoảng cách, chờ đến khi tàu Dragon lại gần bờ.
Lúc này, ngay lúc rạng sáng ngày thứ Ba - con tàu của người Trung Quốc đã vào lãnh hải Mỹ và chiếc Evan Brigant đang theo sát nút. Kế hoạch của họ là chiếm lấy tàu Dragon, bắt Quỷ, trợ thủ của hắn và cả thủy thủ đoàn. Đội Tuần tra duyên hải sẽ giong con tàu về bến ở cảng Jefferson, Long Island nơi những người vượt biên được chuyển sang một trại tạm giam của Liên bang để chờ bị trục xuất hoặc dự các buổi điều trần tị nạn.
Một cuộc gọi từ tàu của đội Tuần tra duyên hải đang theo dấu Dragon được nối đến. Thom chuyển nó sang loa ngoài.
“Đặc vụ Dellray? Đây là thuyền trưởng Ransom của tàu Evan Brigant.” “Tôi nghe đây, thuyền trưởng.”
“Chúng tôi nghĩ họ đã thấy chúng tôi, họ có hệ thống ra-đa tốt hơn tôi tưởng. Con tàu đang rẽ ngoặt về phía bờ. Chúng tôi cần chỉ dẫn hành động. Tôi hơi lo ngại rằng nếu chúng tôi tiếp cận con tàu, sẽ có bắn trả. Ý tôi là, nếu xét đến hoàn cảnh cụ thể kẻ này là ai. Chúng tôi lo ngại về thương vong. Xin hết.”
“Thương vong của ai?” Coe hỏi. “Những người không giấy tờ ư?” Vẻ khinh miệt trong giọng anh ta khi dùng biệt ngữ cho đám dân vượt biên là rất rõ ràng.
“Đúng vậy. Chúng tôi đang nghĩ có lẽ ta chỉ cần làm con tàu quay lại và chờ đến khi Quỷ đầu hàng. Xin hết.”
Dellray đưa tay lên siết điếu thuốc lá anh ta đang cài sau tai, một vật kỉ niệm những ngày còn hút thuốc của anh. “Phản đối. Hãy tuân thủ phương
án tiếp cận từ đầu. Ngừng con tàu lại, lên boong và bắt sống Quỷ. Đã được phép dùng vũ khí sát thương. Anh hiểu chưa?”
Sau một thoáng ngần ngừ chàng trai trẻ trả lời, “Năm trên năm*, thưa ngài. Hết.”
Tín hiệu tắt và Thom ngắt cuộc điện thoại. Nỗi căng thẳng lẻn vào trong phòng theo sau sự im lặng bao trùm. Sellitto chùi hai bàn tay vào chiếc quần lúc nào cũng nhăn nhúm của mình rồi điều chỉnh khẩu súng công vụ trên thắt lưng. Dellray đi qua đi lại. Peabody gọi về trụ sở INS để báo cáo rằng mình chẳng có gì để báo cáo hết.
Một lát sau điện thoại riêng của Rhyme đổ chuông. Thom nhận cuộc gọi từ góc phòng. Anh ta lắng nghe một lát rồi nhìn lên. “Là bác sĩ Weaver đó, Lincoln, về cuộc phẫu thuật.” Anh ta liếc khắp căn phòng đầy cảnh sát đang căng như dây đàn. “Tôi sẽ bảo bà bác sĩ là anh sẽ gọi lại.”
“Không,” Rhyme trả lời chắc nịch. “Tôi nghe.”
CHƯƠNG
BA
Cơn gió đã mạnh hơn, sóng biển vươn cao vượt cả hai mạn thuyền của con tàu Fuzhou Dragon mạnh mẽ.
Quỷ ghét việc vượt biển. Hắn đã quen với những khách sạn hạng sang, quen được cung phụng. Những hải trình buôn người đều bẩn thỉu, nhớp nhúa, lạnh lẽo và nguy hiểm. Loài người chưa bao giờ thuần hóa được biển khơi, hắn nghĩ, và sẽ không bao giờ làm được. Đại dương chỉ là một cái chăn lạnh băng chết chóc.
Hắn nhìn ra đuôi tàu nhưng không tìm được tên bằng hữu đâu cả. Quay lại mũi tàu, hắn nheo mắt nhìn vào gió và cũng không thấy được đất liền, chỉ có thêm những cột sóng đen không ngừng nghỉ mà thôi. Hắn trèo lên cầu tàu và gõ vào cửa hậu. Thuyền trưởng Sâm nhìn lên và Quỷ ra hiệu cho ông ta.
Sâm kéo chiếc mũ trên đầu và ngoan ngoãn bước vào cơn mưa. “Tuần tra duyên hải sẽ nhanh chóng lên đây,” Quỷ hét qua tiếng gió thét gào.
“Không,” Sâm trả lời. “Tôi có thể đến đủ gần để thả người trước khi họ bắt kịp ta. Tôi chắc chắn mình làm được.”
Nhưng Quỷ đã hướng cặp mắt điềm tĩnh của hắn vào thuyền trưởng và nói, “Ông sẽ làm thế này. Cứ để mấy người kia lại cầu tàu, ông cùng đám thủy thủ còn lại đi xuống dưới với đám lợn. Trốn cùng họ, giữ cho tất cả tránh khỏi tầm nhìn ở trong hầm.”
“Nhưng tại sao?”
“Bởi vì,” Quỷ giải thích, “ông là người tốt. Quá tốt để nói dối. Tôi sẽ đóng giả làm thuyền trưởng. Tôi có thể nhìn thẳng vào mắt người khác và hắn sẽ tin những gì tôi nói. Ông không thể làm thế.”
Quỷ tóm lấy chiếc mũ thuyền trưởng của Sâm. Người đàn ông phản ứng lại bằng cách định đưa tay ra giữ, nhưng rồi ông hạ tay xuống. Quỷ đội mũ lên. “Đấy,” hắn nói không có chút hài hước nào. “Trông tôi có ra dáng thuyền trưởng không? Tôi nghĩ mình sẽ là một thuyền trưởng ra gì đấy.”
“Đây là tàu của tôi.”
“Không,” Quỷ quát lại. “Trong hải trình này Dragon là tàu của tôi. Tôi đã trả ông bằng những tờ xanh.”
“Anh không định chống trả họ đấy chứ? Đội Tuần tra duyên hải ấy?” Quỷ cười sốt ruột. “Làm sao tôi đấu lại họ? Họ có cả tá thủy thủ, đúng không?” Một cái gật đầu về phía thủy thủ đoàn trên cầu tàu. “Bảo người của ông tuân lệnh tôi.” Khi Sâm ngần ngừ Quỷ cúi người tới, nhìn ông ta bằng ánh mắt điềm tĩnh nhưng làm lạnh sống lưng tất cả những kẻ đối mặt với hắn. “Ông có gì muốn nói à?”
Sâm nhìn sang chỗ khác khi bước vào cầu tàu để hướng dẫn thủy thủ. Quỷ quay lại đuôi tàu, một lần nữa tìm trợ thủ. Rồi hắn kéo mũ sụp xuống hơn nữa và bước lên cầu tàu để giành quyền điều khiển con thuyền đang rung chuyển.
Thập vị phán quan ơi...
Người đàn ông bò dọc theo boong chính của đuôi tàu, thò đầu ra mạn tàu của chiếc Fuzhou Dragon và lại bắt đầu nôn oẹ.
Gã đã nằm bên trong một chiếc bè cứu hộ suốt đêm, kể từ khi cơn bão bắt đầu và gã phải trốn khỏi căn hầm nồng nặc mùi để xả bớt nỗi khó chịu trong cơ thể mình trước cơn biển động.
Thập vị phán quan ơi, gã lại nghĩ. Ruột gan gã đau thắt lại vì cơn nôn khan. Gã vừa lạnh lại vừa khổ sở chưa từng thấy. Sụp người xuống một lan can rỉ sét, gã nhắm mắt lại.
Gã được gọi là Sonny Lý - như thường thấy ở bọn choai choai đến từ miền duyên hải Trung Hoa - tỉnh Phúc Kiến và tỉnh Quảng Đông - gã cũng đã chọn cho mình một cái tên tây. Tên của gã là do lũ con trai trong băng đặt cho: Sonny, lấy theo tên của đứa con trai nóng tính, nguy hiểm của Don Corleone trong bộ phim Bố già.
Đúng như tính cách của cái tên, Sonny Lý đã chứng kiến - và từng là căn nguyên - của rất nhiều vụ bạo lực trong đời mình, dù chưa lần nào gã đến mức phải quỳ gối thực sự như trận say sóng này.
Lý đã sẵn sàng đón nhận những linh hồn từ địa ngục. Gã đáng phải chịu mọi quả báo cho việc xấu xa từng làm trong đời, mọi nỗi tủi hổ gây cho ông bố, mọi hành động ngu xuẩn và tai hại. Cứ để thần Thái Sơn mang ta xuống địa ngục. Chỉ cần dừng cơn buồn nôn khốn nạn này lại! Đầu óc lâng lâng vì hai tuần trời ăn uống dè sẻn, hoa mày chóng mặt, gã tưởng tượng đại dương đang dậy sóng vì Long thần đang lên cơn điên; gã những muốn lôi khẩu súng nặng trịch trong túi ra mà bắn hết loạt này tới loạt khác vào con quái vật.
Lý liếc ra sau - về phía cầu tàu - và nghĩ gã đã trông thấy Quỷ nhưng dạ dày gã bỗng quặn lên, gã lại phải nhanh chóng trở về chỗ lan can. Sonny Lý đã quên mất tên xà thủ, quên mất cuộc đời đầy sóng gió của gã ở quê nhà Phúc Kiến, quên tất tật trừ thập vị phán quan đang hào hứng xúi ma quỷ chọc ngoáy cái dạ dày chết mòn của gã bằng những cây giáo của chúng.
Gã lại bắt đầu lên cơn buồn nôn.
Người phụ nữ cao ráo đứng dựa vào xe ô tô của cô, sự tương phản là rất rõ rệt: mái tóc đỏ của cô bị cơn gió mạnh thổi tung, màu vàng của chiếc Chevy Camaro kiểu cũ, chiếc thắt lưng công vụ màu đen đang đựng khẩu súng đen ở hông cô.
Amelia Sachs mặc quần bò và áo khoác gió có mũ trùm đầu, lưng áo có dòng chữ ĐỘI HIỆN TRƯỜNG NYPD. Cô đánh mắt nhìn ra mặt nước dậy sóng gần bến cảng Jefferson, ở bờ bắc của Long Island đồng thời quan sát khu vực dàn trận xung quanh. Sở Di trú và Nhập tịch, FBI, Cảnh sát hạt Suffolk và cả đội của cô đã chiếm trọn một bãi đậu xe mà đáng lẽ vào ngày thường trong tháng Tám phải đầy chặt các gia đình và nam nữ thanh niên tới đây tắm nắng. Tuy nhiên cơn bão nhiệt đới đã giữ các khách du lịch tránh xa khỏi bờ biển.
Đỗ xe gần cô là hai chiếc xe buýt lớn của Trại giam mà bên INS đã mượn, sáu chiếc xe cứu thương và bốn xe tải chở đội tác chiến của các cơ quan khác nhau. Theo lý thuyết, khi tàu Dragon đến nơi thì nó đã bị đội quân trên chiếc tàu cao tốc Evan Brigant kiểm soát và Quỷ cùng trợ thủ của hắn đã bị bắt. Nhưng từ lúc Quỷ phát hiện được tàu của đội Tuần tra duyên hải đến khi đội thực sự lên được con tàu đó cũng có một khoảng cách thời gian tầm bốn mươi lăm phút. Chừng ấy đủ để Quỷ cùng bằng hữu của hắn có kha khá thời gian để ngụy trang thành dân vượt biên và giấu vũ khí, một chiến thuật tụi xà thủ thường dùng. Đội Tuần tra duyên hải có thể không kiểm tra kĩ được đám dân nhập cư và cả con tàu trước khi tới được bến cảng này và tên xà thủ cùng đồng bọn có thể nổ súng để thoát thân.
Bản thân Sachs có thể gặp nguy hiểm hơn người khác. Công việc của cô là “rà soát hiện trường”, tức là soát kĩ cả con tàu để tìm các bằng chứng tại
hiện trường có thể kết tội Quỷ trong rất nhiều vụ án và tìm những chỉ dấu tới chỗ bang hội của hắn. Nếu người đi kiểm tra gặp hiện trường án mạng hoặc một vụ cướp mà thủ phạm đã bỏ chạy từ lâu, gần như họ không có gì nguy hiểm. Nhưng nếu hiện trường ấy là nơi thực sự bắt giữ tội phạm, và lại dính dáng đến những hung thủ chưa biết cả về số lượng lẫn hình dáng thì mối nguy ấy lớn hơn nhiều, đặc biệt trong trường hợp buôn người này, khi chúng có thể tiếp cận với nguồn vũ khí tốt.
Điện thoại di động của cô đổ chuông và cô phải chui tọt vào ghế ngồi chật hẹp trên chiếc Chevy để nghe máy.
Người gọi là Rhyme.
“Chúng tôi vào chỗ cả rồi,” cô kể cho anh nghe.
“Chúng tôi nghĩ họ đã biết về chúng ta rồi, Sachs,” anh nói. “Tàu Dragon hướng sang đất liền rồi. Tàu tuần tra sẽ tới chỗ họ trước khi họ vào được bờ, nhưng chúng tôi nghĩ Quỷ đang chuẩn bị chống cự.” Cô nghĩ đến những con người tội nghiệp trên tàu.
Khi Rhyme ngừng nói, Sachs hỏi anh, “Bà ấy gọi chưa?”
Một khoảng ngập ngừng. Rồi anh nói, “Rồi, khoảng mười phút trước. Họ có một chỗ trống ở bệnh viện Manhattan tuần tới. Bà ấy sẽ gọi lại báo chi tiết hơn.”
“À,” Sachs nói.
“Bà ấy” ở đây là bác sĩ Cheryl Weaver, nhà phẫu thuật thần kinh nổi tiếng vừa từ Bắc Carolina tới New York để dạy một kỳ tại Bệnh viện Manhattan. Và “chỗ trống” mà họ vừa nói là một cơ hội được phẫu thuật thử nghiệm cho Rhyme, một cuộc phẫu thuật có thể cải thiện phần nào tình trạng liệt tứ chi của anh.
Cuộc phẫu thuật mà Sachs không tán thành.
“Tôi sẽ gọi thêm vài xe cấp cứu nữa tới,” Rhyme nói. Giọng anh cụt lủn, anh không thích xen chuyện cá nhân vào công việc.
“Tôi sẽ lo vụ đó.”
“Tôi sẽ gọi lại cho cô, Sachs.”
Điện thoại tắt tiếng.
Cô chạy dưới màn mưa tới chỗ cảnh sát hạt Suffolk và sắp xếp thêm người cho đội y tế. Sau đó cô trở lại chiếc Chevy của mình, ngồi vào ghế trước, lắng nghe tiếng cơn mưa lớn đang dội vào kính chắn gió và lớp vải phủ bên trên. Hơi ẩm làm bên trong xe có mùi nhựa, dầu động cơ và thảm cũ.
Nghĩ về cuộc phẫu thuật của Rhyme làm tâm trí cô nhớ lại cuộc nói chuyện gần đây với một vị bác sĩ khác, người này không có liên quan gì đến phẫu thuật tủy sống của anh. Cô không muốn ý nghĩ của mình lang thang trở lại cuộc gặp ấy nhưng nó vẫn nổi lên.
Hai tuần trước Amelia Sachs đang đứng bên cạnh chiếc máy pha cà phê ở phòng chờ bệnh viện, đầu kia hành lang là phòng xét nghiệm của Lincoln Rhyme. Cô nhớ lại mặt trời tháng Bảy đã nóng rực trên lớp sàn gạch màu xanh như thế nào. Người đàn ông trong chiếc áo choàng trắng đến gần rồi gọi cô bằng sự nghiêm nghị lạnh sống lưng.
“À, cô Sachs. Cô đây rồi.”
“Chào bác sĩ.”
“Tôi vừa gặp bác sĩ của Lincoln Rhyme.”
“Vâng?”
“Tôi cần phải nói với cô chuyện này.”
Tim cô đập mạnh, cô trả lời, “Trông anh như là sắp nói tin xấu, bác sĩ ạ.”
“Sao chúng ta không ngồi xuống góc đằng kia nhỉ?” Anh ta hỏi, nghe giống giám đốc nhà tang lễ hơn là một vị bác sĩ.
“Ở đây được rồi,” cô nói cứng rắn. “Cho tôi biết. Cứ nói thẳng đi.” Một cơn gió mới tạt vào cô và cô lại nhìn ra khắp bến cảng lần nữa, nhìn vào cầu tàu dài nơi Fuzhou Dragon sẽ cập bến.
Tin xấu...
Cho tôi biết. Cứ nói thẳng đi…
Sachs bật cái điện đàm Motorola sang tần số của đội Tuần tra duyên hải, không chỉ để được biết chuyện gì đang xảy ra với tàu Dragon mà còn để ngăn ý nghĩ của mình trở lại phòng chờ nóng chảy mỡ ấy.
“Còn bao lâu thì tới bờ?” Quỷ hỏi hai thủy thủ vẫn còn trên cầu tàu. “Có lẽ chưa tới 1,6 kilômét.” Những thủy thủ gày gò đang cầm bánh lái liếc xéo qua chỗ Quỷ. “Chúng ta sẽ rẽ vào ngay trước chỗ nước nông và cập cảng.”
Quỷ nhìn về phía trước. Từ tầm nhìn ở đáy một con sóng hắn chỉ thấy một dải đất liền mờ xám. Hắn nói, “Cứ đi thẳng như lộ trình. Một lát nữa tôi quay lại.”
Gồng mình bước ra ngoài, hắn bị cơn gió và mưa táp vào mặt trong lúc tìm đường tới boong để container rồi xuống tầng hầm bên dưới nó. Hắn tới cánh cửa kim loại mở vào trong hầm. Quỷ bước vào trong và nhìn xuống lũ lợn. Khuôn mặt họ quay sang hắn vừa sợ hãi vừa khổ sở. Những người đàn ông thảm hại, đàn bà lôi thôi, lũ trẻ bẩn thỉu - thậm chí cả vài đứa con gái vô dụng nữa. Sao lũ bố mẹ ngu đần của chúng lại phải mang chúng theo cơ chứ?
“Sao thế?” Thuyền trưởng Sâm hỏi. “Tàu tuần tra tới rồi ư?”
Quỷ không trả lời. Hắn nhìn khắp đám lợn để tìm bằng hữu. Nhưng không thấy gã đâu cả. Hắn giận dữ quay đi.
“Chờ đã,” thuyền trưởng gọi theo.
Xà thủ bước ra ngoài và đóng cửa lại. “Bằng hữu!” Hắn gào. Không ai đáp lời. Quỷ không buồn gọi lần thứ hai. Hắn đóng sập cái chốt để cho bên trong hầm không thể mở được cửa. Hắn vội trở lại khoang của mình trên cầu tàu. Trong lúc vật vã trèo lên cầu thang, hắn lôi từ trong túi áo ra một cái hộp nhựa đen trầy trụa, trông giống khoá mở gara của ngôi nhà sang trọng tại Hạ Môn của hắn.
Hắn mở hộp, bấm một nút rồi một nút nữa. Tín hiệu sóng ra-đi-ô truyền qua hai tầng boong tàu tới chiếc túi vải mà hắn để ở hầm cuối đuôi tàu, dưới mực nước biển. Tín hiệu ấy đóng mạch và gửi một luồng điện từ cục pin chín volt vào một đầu đạn có chứa hai cân thuốc nổ.
Tiếng nổ phát ra cực lớn, lớn hơn hắn tưởng làm một cột nước cao bắn lên không trung, cao hơn cả con sóng lớn nhất.
Quỷ nhảy hết bậc cầu thang lên boong tàu chính. Hắn đứng chết lặng tại chỗ.
Nhiều quá! Hắn nhận ra. Quá nhiều thuốc nổ. Con tàu đã bắt đầu nghiêng đi trong lúc nước biển tràn vào. Hắn tưởng sẽ mất nửa tiếng tàu mới chìm hẳn. Thay vào đó, chỉ vài phút nữa nó sẽ tiêu đời. Hắn nhìn lên cầu tàu nơi giấu tiền và súng ở một khoang nhỏ, rồi một lần nữa nhìn khắp lượt các boong bên dưới để tìm bằng hữu. Không thấy gã đâu cả. Nhưng không còn thời gian để tìm thêm nữa. Quỷ đứng lên và băng qua boong tàu bị nghiêng tới chiếc bè cứu sinh gần nhất, bắt đầu tháo những sợi dây thừng.
Tàu Dragon tròng trành thêm một lần nữa, rồi nghiêng hẳn sang một bên.
CHƯƠNG
BỐN
Âm thanh vang vọng điếc cả tai. Như cả trăm cái búa cùng đập xuống mẩu sắt.
Gần như tất cả những người nhập cư đều bị văng xuống sàn nhà ướt. Sam Trương bò dậy và bế đứa con út lên, nó bị ngã vào một vũng nước nhầy nhụa. Sau đó anh mới đỡ vợ và cha mình.
“Có chuyện gì vậy?” Anh hét to với thuyền trưởng Sâm, ông ta đang chen qua đám người hoảng loạng tới chỗ cánh cửa dẫn lên boong. “Chúng ta đâm phải đá sao?”
Thuyền trưởng hét lại. “Không, không phải đá. Nước ở đây sâu đến ba mươi mét. Hoặc Quỷ vừa mới cho nổ tung con tàu hoặc đội Tuần tra duyên hải vừa khai hoả. Tôi không biết.”
“Có chuyện gì vậy?” Một người đàn ông mặt hoảng loạn ngồi gần Trương hỏi. Anh ta là bố của gia đình nằm cạnh nhà Trương trong hầm. Vũ Khải Trần là tên anh ta. Vợ anh nằm bất động trên cái võng gần đó. Chị ta đã bị sốt và hôn mê gần như suốt hành trình, thậm chí bây giờ cũng không biết gì đến tiếng nổ và sự hỗn loạn. “Có chuyện gì mới được?” Vũ lặp lại bằng tông giọng cao.
“Chúng ta đang chìm!” Thuyền trưởng kêu lên, ông cùng vài thủy thủ khác nắm lấy chốt cửa và cố đẩy chúng ra. Nhưng chúng không di chuyển. “Hắn đã đóng chốt rồi!”
Vài người nhập cư, cả đàn ông lẫn phụ nữ, bắt đầu rú hét và run bần bật; trẻ con đứng chết trân vì sợ, nước mắt lăn dài trên gò má bẩn thỉu của chúng. Sam Trương và vài thủy thủ khác gia nhập cùng thuyền trưởng và cố đẩy mấy cái chốt. Nhưng những thanh kim loại dày không mảy may di chuyển một li nào.
Trương để ý đến một cái valy trên sàn. Nó nghiêng dần sang một bên cho đến khi đổ ra sàn kêu bõm một tiếng; tàu Dragon đang lật. Nước biển lạnh giá tràn vào trong hầm qua những mối hàn của các tấm kim loại. Vũng nước nhỏ lúc nãy con trai anh ngã vào giờ đã ngập sâu nửa mét. Vài người bị trôi vào chỗ nước sâu ngập rác rưởi, hành lý, thức ăn, cốc dùng một lần, giấy tờ. Họ gào thét và giãy giụa trong làn nước.
Những người đàn ông, đàn bà và lũ trẻ tuyệt vọng, đẩy hành lý vào tường một cách vô vọng hòng làm thủng lớp kim loại, họ ôm nhau, khóc lóc, gào thét cầu cứu, cầu nguyện... Người phụ nữ mặt sẹo ôm chặt đứa con nhỏ của mình y như cái cách đứa trẻ đang ôm món đồ chơi Pokemon màu vàng bẩn thỉu của nó. Cả hai đều đang khóc.
Một tiếng két lớn của chiếc tàu đang chìm vang lên trong căn hầm hôi thối, và dòng nước màu nâu càng đầy lên thêm.
Mấy người ở chỗ cửa sập không có tiến triển gì thêm với các thanh chốt. Trương gạt tóc ra khỏi mắt. “Thế này không được,” anh nói với thuyền trưởng. “Chúng ta phải tìm lối thoát khác.”
Thuyền trưởng Sâm nói, “Có một lối thông trên sàn, ở cuối hầm. Nó dẫn đến phòng máy. Nhưng nếu thân tàu đã bị thủng từ đó thì chúng ta không thể mở nổi nó đâu. Áp lực nước quá...”
“Chỗ nào?” Trương hỏi.
Thuyền trưởng chỉ ra một cánh cửa nhỏ chốt bằng bốn con vít. Nó chỉ to đủ cho từng người chui qua một. Ông cùng Trương hợp lực đẩy, vật lộn để
đứng vững trên độ nghiêng dốc của sàn tàu. Vũ Khải Trần gày trơ xương giúp vợ mình đứng dậy; người phụ nữ run rẩy vì cơn sốt rét. Trương cũng cúi xuống chỗ vợ mình nói bằng giọng cứng rắn, “Nghe tôi này. Mình phải giữ mọi người trong nhà ở gần nhau. Ở gần tôi, chỗ cái cửa kia.”
“Vâng, mình à.”
Trương đến chỗ thuyền trưởng bên cánh cửa và họ mở được bốn con ốc nhờ con dao gập của Sâm. Trương đẩy cửa thật mạnh và nó rơi vào phòng bên kia mà không hề có lực cản nào. Nước cũng đã ngập phòng máy nhưng không sâu như bên hầm. Trương có thể trông thấy bậc thang dốc đứng dẫn lên boong chính.
Những tiếng thét và gào của đám dân nhập cư khi họ trông thấy đường thoát vang lên. Họ lao về phía trước trong cơn hoảng loạn, xô đẩy những người khác vào hai bên tường. Trương dùng nắm đấm đánh bật hai người đàn ông khác. Anh hét lên, “Không! Từng người qua thôi không thì chết cả nút bây giờ.”
Vài người khác với cặp mắt hoảng loạn định tấn công Trương. Nhưng thuyền trưởng đã quay sang họ, huơ con dao của mình buộc họ phải lùi lại. Thuyền trưởng Sâm và Trương đứng cạnh nhau, quay mặt vào đám đông. “Từng người một,” ông lặp lại. “Đi qua phòng máy và trèo lên cầu thang. Có thuyền cứu sinh trên boong.” Ông gật đầu với những người nhập cư ở gần lối ra nhất và họ trèo ra ngoài. Người đầu tiên là John Tống, một vị bác sĩ mà Trương từng trò chuyện vài lần trong chuyến đi. Tống dừng lại bên ngoài cửa và cúi xuống để giúp những người khác ra. Một cặp vợ chồng trẻ trèo ra tiếp theo và vội leo lên cầu thang.
Thuyền trưởng bắt gặp ánh mắt của Trương và ông gật đầu. “Đi đi!”. Trương ra hiệu cho ông bố Trương Kiệt Chi và người đàn ông trèo qua cửa, John Tống tóm lấy cánh tay ông. Đến lượt hai đứa con trai Trương:
William tuổi vị thành niên và Ronald tám tuổi. Tiếp theo là vợ anh. Trương đi sau cùng và chỉ cả nhà chạy ra cầu thang. Anh quay lại giúp Tống kéo những người khác ra.
Nhà họ Vũ ra tiếp theo: Khải Trần, cô vợ ốm yếu, đứa con gái lớn và cậu con nhỏ.
Trương vươn tay vào trong hầm để đỡ lấy một dân nhập cư khác nhưng hai thủy thủ đã lao ra cửa. Thuyền trưởng Sâm chặn họ lại. Ông tức giận. “Tao vẫn là thuyền trưởng. Tàu Dragon vẫn là tàu của tao. Khách phải được đi trước.”
“Khách ư? Đồ ngu, chúng chỉ là súc vật!” Một trong hai tên gào lên, quật người mẹ mặt sẹo và đứa con gái nhỏ sang bên, hắn bò qua cửa. Tên tiếp theo đi ngay sau hắn, đẩy Tống ngã xuống sàn và lao lên cầu thang. Trương giúp vị bác sĩ đứng dậy. “Tôi không sao,” Tống kêu và bám lấy sợi bùa hộ mệnh đeo quanh cổ, lẩm bẩm một lời khấn cảm tạ. Trương nghe thấy tên Trấn Vũ, vị thần phương Bắc và là người bảo vệ trước lũ tội phạm.
Con tàu tròng trành dữ dội và nghiêng nhanh hơn nữa. Không khí thoát ra thành một luồng gió qua cửa trong lúc nước tràn vào thêm, làm ngập căn hầm. Những tiếng thét xé ruột gan chẳng bao lâu đã lẫn vào tiếng sặc nước. Tàu đang chìm, Trương nghĩ. Cùng lắm chỉ được vài phút nữa. Anh nghe tiếng rít róng và chập lửa sau lưng. Anh ngước lên và trông thấy nước đang tràn xuống theo cầu thang vào những động cơ to lớn bên dưới. Một trong hai động cơ diesel dừng lại và đèn tắt phụt. Động cơ thứ hai cũng đã im tiếng.
John Tống tuột tay bám và trượt ngang qua sàn về phía bức tường. “Ra đi!” Trương gọi. “Chúng ta chẳng thể làm gì được nữa.”
Bác sĩ gật đầu và bám lấy cầu thang để trèo ra. Nhưng chính Trương lại quay lại ngưỡng cửa cố cứu thêm một hai người nữa.
Anh run rẩy kinh hãi trước hình ảnh nhìn thấy: nước tràn qua ngưỡng cửa, từ đó có bốn cánh tay tuyệt vọng đang với ra ngoài cầu xin được trợ giúp. Trương nắm lấy tay của một người đàn ông nhưng ông ta bị kẹt chặt giữa những người khác đến nỗi không thể thoát thân được. Cánh tay run rẩy một lần rồi Trương thấy những ngón tay lỏng ra. Xuyên qua dòng nước ào ào chảy vào phòng máy lúc này Trương có thể thấy khuôn mặt của thuyền trưởng Sâm. Trương ra hiệu cho ông cố trèo ra nhưng vị thuyền trưởng đã biến mất trong căn hầm tối đen. Tuy nhiên vài giây sau đó, người đàn ông hói đầu đã bơi trở lại chỗ cửa và đẩy một cái gì đó qua thác nước về phía Trương.
Cái gì đây?
Bám lấy một cái ống nước để không bị trôi dạt đi, Trương vươn tay xuyên qua dòng nước để nắm lấy thứ mà vị thuyền trưởng cố đưa. Anh tóm chặt bàn tay vào miếng vải và kéo mạnh. Đó là một đứa bé, con gái của người đàn bà mặt sẹo. Nó trồi lên khỏi ngưỡng cửa qua rừng cánh tay bất động. Đứa trẻ bị sặc nước nhưng vẫn còn tỉnh táo. Trương ôm chặt nó vào ngực và buông tay khỏi cái ống. Anh trượt về phía tường rồi bơi ra chỗ cầu thang, ở đó anh phải trèo qua một thác nước lạnh buốt để lên được boong tàu phía trên.
Anh há hốc mồm trước cảnh tượng vừa trông thấy, đuôi tàu chỉ còn mấp mé mặt nước, những con sóng hỗn loạn, xám xịt đã phủ lên một nửa boong tàu. Vũ Khải Trần và cha của Trương cùng bọn con trai đang vật vã tháo một cái bè hơi lớn màu cam khỏi đuôi tàu. Nó đang nổi lềnh phềnh nhưng chẳng mấy chốc sẽ chìm dưới nước. Trương lật đật đi tới, đưa đứa bé cho vợ rồi cùng những người khác tháo dây thừng. Chẳng bao lâu nút thắt đã bị chìm dưới những cơn sóng. Trương lặn xuống dưới mặt nước và giật một cách vô ích nút thắt treo cổ, cơ bắp run lên vì gắng sức. Rồi một bàn tay xuất hiện gần tay anh. Cậu con trai William đang cầm một con dao dài và
sắc, chắc hẳn mới tìm được trên boong. Trương nhận lấy và cứa sợi dây thừng cho đến khi nó đứt hẳn.
Trương và con trai anh nổi lên, hít thở và giúp cả nhà mình, gia đình họ Vũ, John Tống cùng cặp vợ chồng kia vào trong bè, nó nhanh chóng bị sóng lớn đánh xa ra khỏi con tàu.
Anh quay sang động cơ bên ngoài bè. Anh giật sợi dây kéo để khởi động nhưng không ăn thua. Họ cần phải khởi động nó ngay lập tức: không có động cơ điều khiển, họ sẽ bị lật nhào giữa biển trong vòng vài giây. Anh bắt đầu kéo điên cuồng và cuối cùng động cơ cũng chịu bật lên.
Trương gồng người ở đằng sau chiếc bè và nhanh chóng điều khiển nó lao vào những con sóng. Nó nảy lên dữ dội nhưng không bị lật. Anh tăng tốc rồi cẩn thận đánh một vòng tròn, vượt qua làn sương và cơn mưa về phía con tàu đang chết.
“Anh đi đâu đấy?” Vũ hỏi.
“Những người khác,” Trương hét. “Chúng ta phải tìm họ. Biết đâu đó...” Đúng lúc ấy một viên đạn xuyên qua không khí cách họ không tới một mét.
Quỷ tức điên người.
Hắn đang đứng trên đỉnh của con tàu Fuzhou Dragon sắp chìm, một tay đặt lên sợi dây buộc bè cứu sinh phía trước và nhìn lại mặt biển cách hắn năm mươi mét. Hắn vừa phát hiện ra mấy con lợn khốn kiếp đã trốn thoát.
Hắn bắn từ khẩu súng của mình một lần nữa. Lại trượt. Mặt biển dậy sóng khiến cho việc bắn chính xác từ khoảng cách này là việc bất khả thi. Hắn gầm lên giận dữ khi những mục tiêu của hắn chèo được ra sau tàu Dragon, khuất khỏi tầm nhìn. Quỷ quan sát khoảng cách tới cầu tàu, trên đó
là khoang của hắn, nơi hắn để khẩu súng máy và tiền: hơn một trăm ngàn đô-la tiền mặt. Hắn thoáng tự hỏi mình có thể quay lại khoang tàu kịp lúc hay không.
Như để trả lời ý nghĩ ấy, một đám bọt khổng lồ sùi lên từ không khí trong thân tàu Dragon bị thoát ra và nó càng chìm nhanh hơn, lật nhiều hơn sang một bên.
Chậc, mất chỗ đó thì cũng đau đấy nhưng không làm hắn chết được. Quỷ trèo vào trong bè và dùng một mái chèo đẩy nó xa khỏi con tàu. Hắn quan sát mặt nước gần đó, vật lộn để nhìn đường qua sương mù và mưa. Hai cái đầu nổi bập bềnh, cánh tay họ vẫy điên cuồng, những ngón tay xoè ra trong cơn hốt hoảng.
“Ở đây, ở đây,” Quỷ kêu lên. “Tôi sẽ cứu các anh!” Hai người quay sang chỗ hắn, ráng sức nổi lên mặt nước để hắn có thể trông thấy họ rõ hơn. Họ là hai thành viên thủy thủ đoàn, những người còn lại trên cầu tàu. Hắn nâng khẩu súng quân đội Trung Quốc model 51 lên lần nữa và giết chết cả hai, ban cho mỗi người một phát đạn.
Rồi Quỷ bật động cơ chiếc bè, cưỡi trên những con sóng, một lần nữa đi tìm bằng hữu của hắn. Không thấy gã đâu cả. Tên trợ thủ là một kẻ sát nhân tàn nhẫn và liều lĩnh trong các vụ đấu súng, nhưng khi ra khỏi môi trường của mình gã chỉ là một thằng ngu. Có lẽ gã đã ngã xuống nước và chết đuối đâu đó vì không chịu ném khẩu súng nặng trịch cùng chỗ đạn của gã. Dù sao Quỷ cũng có cả tá vấn đề cần giải quyết. Hắn quay bè về hướng trông thấy lũ lợn lần cuối và giật cần lái động cơ lên cao.
Không còn thời gian để tìm phao cứu sinh nữa.
Không còn thời gian làm gì nữa.
Ngay sau khi tiếng nổ xé toang thân tàu Dragon rỉ sét, hất Sonny Lý ngã úp mặt, con tàu bắt đầu nghiêng đi, nước đã tràn qua gã và không ngừng lôi gã xuống biển. Đột nhiên gã thấy mình bị rơi qua mạn tàu, chỉ còn một mình và bất lực trước những cột nước điên loạn.
Thập vị phán quan khốn kiếp của địa ngục, hắn cay đắng nghĩ bằng tiếng Anh.
Nước biển lạnh giá, nặng trịch và mặn chát. Sóng ập vào lưng gã, nhấc gã lên cao rồi lại dìm xuống. Lý gắng quẫy đạp để trồi lên mặt nước và nhìn quanh tìm Quỷ, nhưng trong tình trạng mây mù và mưa nặng hạt thế này, gã chẳng trông thấy ai cả. Lý nuốt một ngụm đầy thứ nước biển tởm lợm và bắt đầu bị sặc và ho. Mỗi ngày gã hút ba bao thuốc, uống hàng lít bia Thanh Đảo và rượu Mao Đài; chẳng mấy chốc gã kiệt sức và những cơ bắp ít sử dụng ở hai chân bắt đầu bị chuột rút đau nhói.
Gã miễn cưỡng đưa tay lên thắt lưng và rút khẩu súng lục ra. Gã buông nó và khẩu súng nhanh chóng chìm xa khỏi những ngón tay gã. Gã làm tương tự với ba ổ đạn trong túi quần. Việc này giúp gã nổi lên chút ít nhưng vẫn chưa đủ. Gã cần một cái áo phao, bất kì thứ gì nổi được, bất kì vật gì chia sẻ gánh nặng đau đớn để nổi lên mặt nước của gã.
Gã nghĩ mình nghe được tiếng động cơ xuồng máy và xoay người nhiều nhất có thể. Cách đó ba mươi mét là một chiếc bè màu cam. Nhưng một con sóng ập đến đúng lúc gã hít vào khiến hai lá phổi của gã chứa đầy nước biển lạnh buốt.
Cơn đau thấu tim xé toang ngực gã.
Không khí... ta cần không khí.
Một con sóng khác lại ập đến. Gã chìm xuống dưới mặt nước, bị sức mạnh khổng lồ của dòng nước xám kéo xuống. Gã liếc sang hai tay mình. Sao chúng không động đậy?
Chèo đi, đạp đi! Đừng để biển hút mày xuống! Gã vật lộn thêm một lần nữa để trồi lên mặt biển. Đừng để...
Gã uống thêm nhiều nước biển.
Đừng để nó...
Tầm nhìn của gã bắt đầu tối đen.
Thập vị phán quan ơi...
Sonny Lý nghĩ có vẻ như gã sắp sửa đến gặp họ đây.
CHƯƠNG
NĂM
Khoảng mười hai người đang nằm dưới chân anh trong vũng nước lạnh ở sàn bè cứu sinh, bị kẹt giữa hàng tấn nước bên dưới và làn mưa như thác đổ bên trên. Hai bàn tay họ đang tuyệt vọng bấu víu sợi dây thừng buộc vòng quanh chiếc bè cam.
Vị thuyền trưởng bất đắc dĩ của bè cứu sinh Sam Trương nhìn một vòng các hành khách của mình. Hai gia đình, gia đình anh và nhà họ Vũ, đang túm tụm ở cuối chiếc bè quanh anh. Phía trước là bác sĩ John Tống và hai người khác đã thoát khỏi căn hầm. Trương chỉ biết tên của họ là Châu Hoa và vợ, Rose.
Một con sóng lao qua đầu họ, làm đám người bất hạnh ướt thêm nữa. Vợ của Trương, Mỹ Mỹ, cởi áo khoác để quấn quanh đứa con gái bé nhỏ của người đàn bà mặt sẹo. Trương chợt nhớ ra tên con bé là Bảo Nhi, nghĩa là Đứa trẻ quý báu; con bé đã trở thành phước lành của họ trong chuyến đi này.
“Đi thôi!” Vũ kêu. “Vào bờ đi!”
“Chúng ta phải tìm những người khác nữa.”
“Hắn sẽ bắn chúng ta mất!”
Trương nhìn mặt biển sôi sục. Nhưng chẳng thấy bóng dáng Quỷ đâu cả. “Chúng ta sẽ đi ngay thôi. Nhưng phải cứu tất cả những ai còn có thể. Tìm họ đi!”
Cậu thanh niên mười bảy tuổi William lồm cồm bò dậy và nheo mắt nhìn qua màn mưa mau. Cô con gái của Vũ cũng bắt chước làm theo. Vũ kêu lên câu gì đó nhưng anh ta đang quay đi nên Trương không thể nghe được.
Trương móc một cánh tay vào sợi dây thừng và đạp mạnh chân vào mái chèo để gồng người lên trong lúc cố lái cái bè đi vòng quanh tàu Fuzhou Dragon trong khoảng cách hai mươi mét. Con tàu bị chìm sâu hơn xuống nước, một đám bọt nước thi thoảng lại sùi lên khi không khí thoát ra khỏi một kẽ hở bên mạn tàu hay một cái lỗ hay cửa sập. Tiếng rên rỉ như của một con thú bị thương cũng từ đó mà tăng lên hay giảm đi.
“Kia!” William kêu lên. “Con nghĩ con đã thấy ai đó!”
“Không,” Vũ Khải Trần nói. “Chúng ta phải đi! Anh còn đợi cái gì nữa?”
William đang chỉ. “Đúng rồi, ba ơi. Kia kìa!”
Trương có thể thấy một cái gì đó màu đen đang nhô lên bên cạnh cái khác nhỏ hơn nhiều màu trắng. Một cái đầu và một bàn tay chăng. “Mặc họ,” Vũ kêu. “Quỷ có thể thấy chúng ta! Hắn sẽ bắn chúng ta!” Trương lờ anh ta đi và lái bè lại gần chỗ cái đầu nhấp nhô kia, hoá ra đó đúng là một người đàn ông. Anh ta xanh rớt và nôn oẹ, ra sức vùng vẫy trong không trung và khuôn mặt hằn lên nỗi sợ hãi. Sonny Lý là tên anh ta, Trương nhớ lại. Trong khi phần lớn những người vượt biên dành thời gian nói chuyện và đọc cho nhau nghe, vài người đi một mình lại rất kín kẽ. Lý là một trong số họ. Ở anh ta có điều gì đó hắc ám. Anh ta ngồi một mình suốt cả hành trình, mặt mũi sưng sỉa, thỉnh thoảng lại lẻn lên boong dù việc ấy bị Quỷ cấm tiệt. Khi nào mở miệng Lý lại hỏi hết câu này đến câu khác về chuyện các gia đình định làm gì khi họ tới New York hoặc nơi sắp đến, những chủ đề này chẳng có dân vượt biên khôn ngoan nào đề cập cả.
Tuy nhiên Lý vẫn là một con người đang trong cơn hoạn nạn và Trương sẽ vẫn cố cứu lấy anh ta.
Anh ta lại bị một con sóng nuốt chửng.
“Mặc hắn!” Vũ thì thào giận dữ. “Hắn trôi mất rồi.”
Ở phía trước, cô vợ trẻ tên Rose đang nói, “Làm ơn đi thôi!” Trương xoay cái bè vào giữa một con sóng lớn để không bị lật úp. Đến lúc họ đứng vững lần nữa Trương trông thấy một thoáng màu cam cách họ khoảng năm mươi mét, nhấp nhô lên xuống. Chính là cái bè của Quỷ. Tên xà thủ đang lao về phía họ. Một cơn sóng dâng lên giữa hai cái bè và họ mất dấu nhau trong chốc lát.
Trương mở hết tốc lực và quay lại chỗ người đàn ông đang chìm. “Nằm xuống, tất cả mọi người nằm xuống!”
Anh xoay động cơ lại ngay lúc họ tới chỗ Lý, vươn người qua thành bè bằng cao su và tóm lấy vai người kia, kéo anh ta lên. Lý đổ ập xuống sàn bè, ho dữ dội. Lại có tiếng súng. Một bụm nước bắn lên gần chỗ họ khi Trương tăng tốc cho chiếc bè chạy vòng quanh Dragon, để con tàu chìm nằm chắn giữa họ và Quỷ một lần nữa.
Xà thủ mất tập trung và quay khỏi chỗ họ một lát khi hắn trông thấy vài người nữa trên mặt nước, các thủy thủ đang nổi bập bềnh nhờ những chiếc áo phao màu cam, cách hắn khoảng hai ba mươi mét. Quỷ tăng hết tốc lực về phía hai người đó.
Hiểu ra rằng kẻ kia sắp tới giết mình, đám thủy thủ tuyệt vọng vẫy tay với Trương và điên cuồng bơi tránh khỏi chiếc bè đang tới. Trương đánh giá khoảng cách tới chỗ họ, tự hỏi mình có thể tới được đó trước khi xà thủ tới gần đủ để bắn trúng hay không. Màn sương và cơn mưa - cùng với những con sóng cuộn trào - sẽ khiến Quỷ rất khó bắn trúng. Phải, anh nghĩ mình có thể làm được. Anh đã chuẩn bị bật máy.
Đột nhiên một giọng nói vang trong tai anh. ‘‘Không, đã đến lúc đi rồi.” Người nói chính là cha anh, ông Trương Kiệt Chi; ông già đã phải bò cả người trên đầu gối để tới gần chỗ con trai hơn. “Hãy mang gia đình con đến chỗ an toàn.”
Trương gật đầu. “Vâng, Baba,” anh dùng cách xưng hô thân mật của người Trung Quốc thay cho từ “cha.” Anh nhắm cái bè về hướng bờ biển và tăng hết tốc độ.
Một phút sau họ nghe tiếng súng nổ, rồi một tiếng nữa, khi tên xà thủ giết nốt hai thủy thủ. Lòng Sam Trương kêu lên phẫn uất trước âm thanh ấy. Thứ lỗi cho tôi, anh nghĩ tới hai người nọ. Thứ lỗi cho tôi.
Liếc ra sau, anh trông thấy hình dáng một cái bè màu cam trong màn sương; bè của Quỷ đang đuổi theo họ. Anh cảm thấy nỗi thất vọng từ trong xương tủy. Giờ đây anh đang kinh hoàng chứng kiến một tên sát nhân điên loạn săn lùng những người thân yêu và bạn đồng hành của anh.
“Nằm xuống! Mọi người nằm xuống.” Anh tập trung vào việc giữ cho cái bè đi thẳng và càng tăng tốc độ hết mức có thể.
Thêm một phát súng nữa. Viên đạn sục xuống nước ở gần đó. Nếu Quỷ bắn trúng lớp cao su họ sẽ chìm nghỉm trong vòng vài phút. Một tiếng rền lớn khủng khiếp tràn ngập không gian. Con tàu Fuzhou Dragon đã nằm hẳn sang một bên và biến mất dưới mặt nước. Con sóng lớn do chiếc tàu chìm tạo ra chẳng khác nào một vòng chấn động từ vụ nổ bom. Chiếc bè của những người vượt biên đã ở quá xa tầm ảnh hưởng, nhưng bè của Quỷ thì gần hơn nhiều. Tên xà thủ nhìn lại sau và trông thấy cột sóng cao ngất đang lao về phía hắn. Hắn xoay lái và trong chớp mắt đã biến mất khỏi tầm nhìn.
Dù bản thân là giáo sư, một người nghệ sĩ, Sam Trương vẫn giống như bao người Trung Quốc khác, chấp nhận sự tồn tại của thần linh và các điềm báo hơn giới học giả phương Tây nhiều. Anh thoáng nghĩ rằng rốt cuộc
Quan Âm Bồ Tát, vị nữ thần từ bi, có thể đã cứu vớt họ mà đẩy Quỷ vào thủy nạn này.
Nhưng chỉ lát sau John Tống, người đang ngồi ngược lại đã hét lên. “Hắn vẫn còn ở kia. Hắn đang đến. Quỷ vẫn đang đuổi theo ta.” Vậy là hôm nay Quan Âm đang bận ở nơi khác mất rồi, Sam Trương nghĩ một cách cay đắng. Nếu muốn sống thì chúng ta phải tự lo lấy thân thôi. Anh chỉnh hướng đi của họ về phía đất liền. Và tăng tốc để thoát khỏi những cái xác mềm oặt cùng đám đồ đạc trôi nổi chẳng khác nào phần mộ nổi của thuyền trưởng Sâm, đội thủy thủ của ông cùng rất nhiều người khác mà Trương đã coi là bạn trong nhiều tuần vừa qua.
“Hắn đánh đắm con tàu rồi.”
Giọng Lon Sellitto chỉ còn là tiếng thì thào. “Chúa ơi.” Chiếc điện thoại rơi khỏi tai anh.
“Cái gì?” Peabody kinh ngạc. Một bàn tay mập mạp đưa lên cặp kính to cộ của ông và tháo nó ra. “Hắn đánh đắm tàu ư?”
Viên thanh tra gật đầu xác nhận một cách u ám.
“Chúa ơi, không,” Dellray nói.
Đầu Lincoln Rhyme - một trong vài bộ phận thân thể hiếm hoi của anh còn hoạt động được - quay về phía hai cảnh sát to lớn. Quá kinh ngạc trước tin tức này, anh cảm thấy hơi nóng chảy rần rật trong toàn bộ cơ thể mình - tất nhiên đó chỉ là cảm giác, bởi nó không tồn tại từ cổ anh trở xuống.
Dellray ngừng đi lại, Peabody và Coe nhìn nhau chằm chằm. Selittto nhìn xuống sàn gỗ màu vàng trong lúc nghe lại lần nữa trên điện thoại rồi ngước lên. “Jesus ơi, Linc, con tàu chìm rồi. Cùng với tất cả mọi người trên đó.”
Ôi không...
“Đội tuần tra duyên hải không biết chính xác chuyện gì đã xảy ra nhưng họ bắt được tín hiệu của một vụ nổ dưới nước và mười phút sau Dragon biến mất khỏi ra-đa.
“Thương vong ra sao?” Dellray hỏi.
“Không biết. Xuồng máy vẫn còn cách đó vài hải lý. Và họ không biết địa điểm - trên tàu Dragon không một ai kịp phát tín hiệu cấp cứu nào cả. Họ đang gửi tọa độ chính xác.”
Rhyme nhìn vào bản đồ Long Island, phần đuôi phía đông của nó tẽ ra như hình chiếc đuôi cá. Mắt anh dò theo miếng dán màu đỏ đánh dấu vị trí dự đoán của tàu Dragon. “Còn cách bờ bao xa?”
“Khoảng một hải lý.”
Bộ óc bao quát của Rhyme đã duyệt qua hàng loạt viễn cảnh có thể xảy đến khi Đội tuần tra duyên hải bắt được tàu Fuzhou Dragon, một vài khả năng lạc quan nhưng cũng có những trường hợp xảy ra thương vong về người. Việc phân tích tội phạm phải dựa vào sự cân bằng của nhiều yếu tố và bạn có thể hạn chế rủi ro, nhưng không bao giờ loại bỏ được hết. Nhưng nhấn chìm tất cả mọi người trên tàu ư? Từng ấy gia đình và trẻ nhỏ? Không, ý nghĩ ấy chưa bao giờ nảy ra trong tâm trí anh.
Chúa ơi, anh đã nằm trên chiếc giường xa xỉ trị giá 3.000 đô-la của mình, lắng nghe cái vấn đề nhỏ nhặt của INS về vị trí của Quỷ cứ như đó chỉ là một trò tiêu khiển trong tiệc cocktail. Rồi anh đưa ra vài kết luận và nhanh chóng cho họ một giải pháp.
Với anh thế là xong, anh chưa bao giờ nghĩ thêm một bước tiếp theo, chưa bao giờ nghĩ rằng những con người ấy có thể gặp nguy hiểm dường này.
Người vượt biên bị gọi là “những kẻ biến mất”, nếu họ cố lừa một xà thủ, chúng sẽ giết họ. Nếu họ phàn nàn, chúng cũng giết. Họ cứ thế biến mất mãi mãi.
Lincoln Rhyme tức giận với chính mình. Anh đã biết Quỷ nguy hiểm đến thế nào; hẳn là hắn đã lường trước tình huống ngặt nghèo này. Anh khẽ nhắm mắt và điều chỉnh lại gánh nặng đang chất chứa trong lòng. Hãy từ bỏ người chết, anh thường tự nhủ như vậy với mình - và với các nhân viên của đội khám nghiệm hiện trường vẫn làm việc cho anh - lúc này anh đang lặp lại mệnh lệnh ấy. Nhưng anh vẫn không tài nào bỏ họ lại được, không phải những con người tội nghiệp ấy. Vụ chìm tàu Dragon lần này rất khác. Những người chết này không phải là các thi thể tại hiện trường, với cặp mắt vô hồn và cái miệng há hốc mà anh phải học cách lờ đi để làm công việc của mình. Ở đây là toàn bộ các gia đình đã chết chỉ vì anh.
Sau khi họ chặn được chiếc tàu, bắt Quỷ và điều tra hiện trường xong, Rhyme những tưởng sự dính dáng của mình với vụ án này thế là đã hết. Anh sẽ quay lại chuẩn bị cho cuộc phẫu thuật của mình. Nhưng giờ anh biết là mình không thể bỏ qua vụ án được nữa. Bản năng thợ săn trong anh đòi phải tìm được kẻ này và mang hắn ra trước vành móng ngựa.
Điện thoại của Dellray lại đổ chuông và anh ta trả lời. Sau một cuộc trò chuyện ngắn gọn anh ta dùng một ngón tay dài gập nắp máy. “Chuyện là thế này. Đội tuần tra duyên hải nghĩ là có hai chiếc bè có động cơ đang hướng vào đất liền.” Anh ta đi đến chỗ bản đồ và chỉ. “Có thể là ở quanh chỗ này. Easton - một thị trấn nhỏ trên đường tới Orient Point. Họ không thể đưa trực thăng ra ngoài đó trong lúc cơn bão hoành hành thế này, nhưng họ đã cử thêm mấy xuồng máy nữa tới tìm kiếm những người còn sống và chúng ta sẽ báo đội ở Cảng Jefferson tới đợi sẵn chỗ mấy cái bè đang chạy vào.”
Alan Coe cào mái tóc đỏ, chỉ sẫm màu hơn tóc Sachs một chút, và nói với Peabody, “Tôi muốn ra đó.”
Giám sát viên của INS trả lời đầy mỉa mai, “Tôi đâu phải người quyết định chuyện nhân sự ở đây.” Một câu bình luận không mấy tinh tế về chuyện Dellray và FBI mới là người điều khiển vụ án, trong mấy ngày vừa qua cả hai đã tung ra không ít những câu ăn miếng trả miếng đại loại như vậy.
“Có được không Fred?” Coe hỏi.
“Không,” điệp viên còn đang mải suy nghĩ trả lời.
“Nhưng tôi...”
Dellray lắc đầu mạnh hơn. “Cậu không làm gì được đâu, Coe. Nếu họ bắt được hắn, cậu sẽ được thẩm vấn hắn trong trại giam. Cứ việc bắn bao nhiêu câu hỏi cũng được. Nhưng lúc này là tác chiến để điều tra và đó không phải chuyên môn của cậu.”
Đặc vụ trẻ đã cung cấp thông tin hữu ích về Quỷ nhưng Rhyme nghĩ anh ta là người rất khó để cùng làm việc. Anh ta vẫn còn cáu giận về chuyện không được phép tự mình lên tàu đánh chặn, đó cũng là một lần mà Dellray phải tranh cãi.
“Vớ vẩn,” Coe bực dọc ngồi phịch xuống một cái ghế.
Không nói thêm lời nào, Dellray hít ngửi điếu thuốc chưa châm của mình, nhét nó ra sau tai và nghe thêm một cuộc gọi nữa. Sau khi gác máy anh ta nói với cả đội, “Chúng tôi đang cố dựng các tường chắn trên những đoạn xa lộ nhỏ ra khỏi khu vực đó. Đường 25, 48 và 84. Nhưng hiện tại đang là giờ cao điểm và không ai đủ lớn gan để chặn tuyến đường Cao tốc Long Island hay Cao tốc Sunrise cả.”
Sellitto nói, “Chúng ta có thể gọi những người thu phí ở đường hầm và các cầu.”
Dellray nhún vai. “Đó cũng là một cách, nhưng không đủ. Trời ạ, phố Tàu chính là vùng đất của hắn. Một khi hắn tới được đó thì tìm hắn sẽ vô cùng khó khăn. Chúng ta phải bắt hắn ngay trên bãi biển nếu có thể.” Rhyme hỏi, “Thế khi nào hai cái bè sẽ cập bờ?”
“Họ đoán tầm hai mươi, hai lăm phút nữa. Người của chúng ta còn cách Easton tám mươi cây số nữa.”
Peabody hỏi. “Chẳng lẽ không có cách nào đưa người ra đó sớm hơn ư?”
Rhyme cân nhắc một lát rồi nói vào micro gắn trên ghế anh, “Gọi, điện thoại.”
Chiếc xe dẫn đường của giải đua xe Indianapolis 500 năm 1969 vốn là loại xe mui trần Camaro Super Sport của hãng General Motors. Để xứng với niềm vinh dự này, GM đã chọn dòng máy khỏe nhất cho chiếc xe của mình - chiếc SS được trang bị động cơ TurboJet V-8 dung tích 6.4 lít, 375 mã lực. Và nếu bạn muốn nghịch thêm với cỗ xe - chẳng hạn như gỡ bỏ hệ thống giảm âm, lớp sơn lót, các thanh chống lật, buồng chứa bánh bên trong, rồi lần mò thêm với puli và các đầu xilanh - bạn có thể nhồi thêm mã lực cho nó lên thành 450.
Với chừng ấy mã lực, con xe trở thành cỗ máy bá đạo để tham dự cuộc đua.
Nhưng lái nó đi với tốc độ 210 cây số trên giờ trong cơn bão thì đúng là khốn nạn.
Siết chặt tay lái bọc da, cảm nhận những ngón tay đau buốt vì viêm khớp, Amelia Sachs lái cỗ xe lao về phía đông, tiến tới đường cao tốc Long Island. Cô đã đặt đèn hiệu màu xanh trên bảng điều khiển, cái hộp mút
không bám dính được vào lớp bạt của xe mui trần, và phải lượn ra lượn vào luồng xe cộ một cách nguy hiểm.
Đúng như cô và Rhyme đã bàn bạc khi anh gọi điện cho cô năm phút trước để bảo cô biến khỏi Easton ngay, Sachs là một nửa đội tiên phong, tức là những người may ra có thể đến được bờ biển cùng lúc với Quỷ và những người vượt biên còn sống sót. Nửa kia của đội quân ứng biến ấy chính là chàng cảnh sát trẻ tuổi của đơn vị khẩn cấp thuộc NYPD (ESU). ESU là một nhánh tác chiến của sở cảnh sát, là đội SWAT và Sachs - hay đúng hơn là Rhyme - đã quyết định rằng cô nên có một dạng hỗ trợ dưới hình thức đại loại như vật đang để trên đùi anh cảnh sát lúc này: một khẩu Heckler & Koch MP5 tự động.
Chạy sau họ hàng cây số lúc này là đội ESU, xe của đội khám nghiệm hiện trường, nửa tá kiểm lâm của Hạt Suffolk, xe cấp cứu và các loại phương tiện khác nhau của INS và FBI. Tất cả cùng vượt qua cơn bão bằng tốc độ cao nhất có thể.
“Được rồi,” anh cảnh sát ESU nói. “Chà, chà.”
Đây là phản ứng của anh chàng trước một cú “lướt” ngắn ngủi. Sachs bình tĩnh điều khiển chiếc Camaro trở lại trạng thái cân bằng trong lúc nhớ lại là mình cũng đã tháo bỏ hai lá thép ở đằng sau ghế hành khách, đặt một bình nhiên liệu thay cho bình xăng nặng nề và thay bánh xe dự trữ bằng một bộ vá lốp và lọ keo Fix-A-Flat. Chiếc SS đã nhẹ hơn tới 250 cân so với khi cha cô mới mua nó hồi những năm bảy mươi. Giờ là lúc có thể cần tới một chút tăng tốc, cô nghĩ, và lại lướt thêm phát nữa.
“Được rồi, chúng ta ổn rồi,” cảnh sát của đội ESU nói, rõ ràng là anh ta thà tham gia một vụ xả súng còn hơn ngồi trong chiếc xe lao vun vút trên đường Cao tốc Long Island như thế này.
Điện thoại của cô đổ chuông. Cô loay hoay với chiếc máy để trả lời.
“Thưa cô,” cảnh sát ESU hỏi, “có lẽ cô nên dùng mấy thiết bị rảnh tay chăng? Tôi thì nghĩ như vậy tốt hơn.” Một anh chàng ăn mặc như Robocop mà lại thốt ra câu ấy.
Cô cười phá lên, nhét tai nghe vào và ngồi thẳng dậy.
“Đi đến đâu rồi Sachs?” Rhyme hỏi.
“Đang đi nhanh hết mức. Nhưng mấy cây nữa chúng tôi sẽ rẽ vào những con đường ven biển. Tôi có thể phải đi chậm đôi chút vì gặp đèn đỏ.” “Có thể?” Anh cảnh sát ESU lẩm bẩm.
“Có ai còn sống sót không, Rhyme?” Sachs hỏi.
“Chưa biết thêm điều gì,” anh trả lời. “Đội tuần tra duyên hải chỉ có thể xác nhận hai chiếc bè. Có vẻ như hầu hết bọn họ đã không thoát ra được.” Sachs nói với nhà tội phạm học. “Tôi nghe ra cái giọng điệu đó đấy, Rhyme. Đó không phải là lỗi của anh.”
“Tôi cảm ơn vì lời động viên của cô, Sachs. Nhưng đó không phải là vấn đề. Này, cô có đang lái xe cẩn thận không?”
“Ồ có chứ,” cô nói và bình tĩnh xoay cỗ xe theo một vòng xoáy lệch hẳn góc bốn mươi độ so với tâm đường, vậy mà tim cô không hề đập rộn lên lấy một nhịp. Chiếc Camaro lại xoay thẳng ra như thể được dẫn bằng dây và tiếp tục lao trên quốc lộ, tốc độ của nó đã được đẩy lên đến 140. Viên cảnh sát ESU nhắm chặt mắt lại.
“Mọi chuyện sẽ căng thẳng đấy, Sachs. Nhớ luôn mang vũ khí bên mình.”
“Lúc nào chẳng vậy.” Lại một cú lướt ngắn nữa.
“Chúng tôi đang nhận tin từ tàu của Đội tuần tra duyên hải, Sachs ạ. Tôi phải đi đây.” Anh dừng một lát rồi nói, “Hãy kiểm tra thật kĩ nhưng nhớ để ý sau lưng nhé.”
Cô cười lớn. “Tôi thích câu đó đấy. Ta phải in nó lên áo phông rồi phát cho đội Khám nghiệm hiện trường mới được.”
Họ gác máy.
Đường cao tốc kết thúc và cô lại lao vào một tuyến quốc lộ nhỏ hơn. Cách Easton bốn mươi cây số, nơi hai chiếc bè sẽ cập bến. Cô chưa từng đến đó; cô gái thành thị Sachs tự hỏi địa hình nơi đó sẽ thế nào. Nó có bãi biển không? Hay chỉ toàn là mỏm đá? Cô có phải leo trèo không? Gần đây chứng viêm khớp của cô trở nặng và thời tiết ẩm ướt cỡ này sẽ làm cơn đau và sự xơ cứng tăng gấp đôi.
Cô cũng tự hỏi: Liệu Quỷ có còn ở bãi biển, ở đó có nhiều điểm cho hắn trốn phía sau để bắn tỉa ra hay không?
Cô liếc đồng hồ đo tốc độ.
Lùi lại ư?
Nhưng những ta-lông trên lốp xe cô là thật và lòng bàn tay cô chỉ có những giọt nước do cơn mưa ở cảng Jefferson để lại. Cô tiếp tục đạp lút ga.
Trong lúc chiếc xuồng ngày càng lao gần về bờ, những tảng đá nơi đó càng hiển hiện rõ hơn.
Sắc nhọn hơn.
Sam Trương nheo mắt trong cơn mưa và bọt sóng. Bãi biển trước mặt anh cũng có những dải cát ngắn phủ đá sỏi và cát bẩn, tuy nhiên hầu hết đường bờ biển là rặng đá đen và đá tảng cao quá đầu người. Đã thế anh còn phải điều khiển xuồng lách qua những phiến đá nhọn hoắt để tới gần được nơi khả dĩ cho phép họ cập bến.
“Hắn vẫn đuổi sau lưng ta,” Vũ hét lên.
Trương nhìn lại và có thể thấy một chấm nhỏ xíu màu cam là chiếc bè của Quỷ. Nó đang lao thẳng về phía họ nhưng đi chậm hơn. Quỷ chậm chân là do cách hắn điều khiển bè. Chỉ biết nhắm thẳng vào bờ, cưỡng lại những con sóng, chính điều này đã làm chậm tiến trình của hắn. Ngược lại, đúng như khuynh hướng đạo Lão của mình, Trương lái chiếc bè theo cách khác hẳn; anh tìm đúng dòng chảy tự nhiên của sóng, không chống lại nó mà lượn vòng các đáy sóng lớn nhất theo hình ngoằn ngoèo và dùng những con sóng đang hướng vào bờ để tăng tốc. Khoảng cách giữa họ và gã xà thủ đang ngày một tăng dần.
Trước khi Quỷ cập bờ, Trương ước lượng họ có thể đủ thời gian tìm mấy chiếc xe tải đang chờ sẵn để đưa cả nhóm tới khu phố Tàu. Các tài xế sẽ không biết về chuyện tàu đắm nhưng Trương sẽ nói với bọn họ rằng đội Tuần tra duyên hải đang đuổi sát và yêu cầu họ phải đi ngay lập tức. Nếu họ khăng khăng đòi đợi, Trương và Vũ cùng những người khác sẽ dùng vũ lực áp chế đám tài xế để tự mình lái xe đi.
Anh quan sát đường bờ biển và khoảng không gian đằng sau đó, ngoài bờ cát là cây cối và bãi cỏ. Rất khó để trông thấy gì trong cơn mưa dữ dội kèm với sương mù, nhưng anh vẫn lờ mờ nhận ra một con đường. Không xa chỗ đó còn có cả ánh đèn điện. Một nhúm đèn: có vẻ như đó là một ngôi làng nhỏ.
Gạt những giọt nước biển buốt giá khỏi mắt, Trương nhìn những người dưới chân anh, họ đang im lặng dõi ra bờ biển phía trước, những con sóng ầm ào nơi đó, triều cường và những xoáy nước, rặng đá đang ngày một gần, sắc như dao và thẫm như màu máu.
Bỗng ngay phía trước họ, dưới mặt nước lộ ra một bờ đá. Trương giật lùi lại và xoay mạnh bè sang bên, vừa vặn thoát được mỏm đá ấy. Chiếc bè lúc này bị xoay ngang, chịu đựng những đợt sóng vỗ mạnh khiến lòng bè
ngập nước. Họ suýt bị lật đến mấy lần. Trương gắng lái chiếc bè qua một khoảng hở nhưng động cơ đột ngột tắt ngóm. Anh tóm lấy dây giật và kéo mạnh. Chỉ có một tiếng bịch rồi lại im như tờ. Anh thử thêm lần nữa, rồi cả chục lần khác. Nhưng không có gì xảy ra cả. Thậm chí động cơ còn không xoay. Con trai lớn của anh lật đật nhào tới trước và mở bình xăng ra. “Hết sạch!” William kêu lên.
Anh tuyệt vọng và yếu lả đi vì lo cho sự an toàn của gia đình mình khi nhìn ra đằng sau. Màn sương đã dày hơn lúc nãy và che chắn cho họ - nhưng nó cũng che cho cả Quỷ. Hắn đang gần họ tới mức nào rồi?
Chiếc bè nảy lên trên một ngọn sóng cao rồi bị thả rơi vào rãnh nước mang theo tiếng roẹt ghê răng. “Nằm xuống, tất cả mọi người nằm xuống!” Trương gào lên. “Cúi thật thấp.” Anh cũng quỳ xuống vũng nước đen trên sàn bè. Anh chộp lấy mái chèo để cố dùng nó thay đuôi lái. Nhưng sóng và thủy triều ở đây quá mạnh, còn chiếc bè thì quá nặng. Một con nước tạt mạnh vào tay anh và hất văng mái chèo. Trương bị đẩy ngã ngửa. Anh liếc nhìn theo hướng họ đang lao tới và trông thấy một bờ đá ngay phía trước, chỉ cách họ vài mét.
Mặt nước đỡ chiếc bè như một tấm ván lướt và tăng tốc cho nó lao về phía trước. Họ tông thẳng vào tảng đá hết tốc lực, mũi bè cắm xuống trước. Lớp vỏ bằng cao su bị rách toang hoác phát ra tiếng rít gió và bắt đầu xẹp nhanh chóng. Sonny Lý, John Tống và cặp vợ chồng trẻ ở phía trước - Châu Hoa và Rose - bị hất văng ra mặt biển phía bên kia rặng đá và bị sóng cuốn đi.
Hai gia đình còn lại - nhà Vũ và nhà Trương - ngồi ở đuôi bè nơi vẫn còn phồng tương đối và gắng bám trụ được. Chiếc bè lại lao vào đá lần nữa. Vợ của Vũ bị ném mạnh vào gờ đá nhưng không bật qua được mà rơi trở lại lòng bè trong lúc gào thét, máu đã túa ra khắp cánh tay chị. Chị nằm bất
động trong lòng bè. Những người còn lại không ai bị thương vì cú va đập lần này.
Rồi chiếc bè lao qua rặng đá và hướng lên bờ trong lúc hơi vẫn đang xì ra.
Trương nghe tiếng kêu cứu ở xa xa - một trong số bốn người đã biến mất khi họ va vào đá, nhưng anh không tài nào biết tiếng kêu phát ra từ đâu. Chiếc bè trượt trên một tảng đá khác nằm dưới mặt nước, cách bờ khoảng mười lăm mét. Họ đang bị kẹt trong cơn sóng, bị quăng quật và lôi về phía bãi biển lởm chởm. Vũ Khải Trần và con gái vật lộn để giữ cho bà vợ vừa bị thương vừa bất tỉnh nổi lên mặt nước - cánh tay chị ta đã rách toác ra và chảy máu rất nghiêm trọng. Trong vòng tay Mỹ Mỹ là Bảo Nhi,
đứa bé đã ngừng khóc và đang nhìn chằm chằm xung quanh nó. Nhưng động cơ của chiếc bè đang bị mắc vào một gờ đá, khiến họ kẹt ở cách bờ biển khoảng tám, chín mét. Nước ở đây tuy không sâu lắm - khoảng hai mét - nhưng sóng vẫn vỗ vào người họ rất mạnh. “Lên bờ!” Anh hét và bị sặc nước. “Ngay bây giờ!”
Khoảng thời gian họ phải bơi dài như vô tận. Ngay cả người khỏe nhất trong số họ là Trương cũng bị hụt hơi và chuột rút trước khi bơi kịp tới bờ. Rốt cuộc, anh cũng cảm nhận được những tảng đá dưới chân mình, dù trơn trượt vì tảo và bùn. Trương lảo đảo bước ra khỏi mặt nước. Anh bị ngã một cú rất mạnh nhưng nhanh chóng lấy lại thăng bằng và giúp cha mình trèo lên.
Cả bọn mệt lả, ngồi phịch xuống một chỗ trú gần đó trên bãi biển. Cái lán hở toang hoác ở hai bên nhưng ít nhất còn có mái lợp để che mưa cho họ. Hai gia đình cùng nằm gục trên lớp cát đen bên dưới cái mái, vừa sặc nước, vừa khóc, vừa thở hổn hển và cầu nguyện cùng một lúc. Cuối cùng Sam Trương cũng đứng dậy được. Anh nhìn ra biển nhưng không thấy dấu
hiệu nào của chiếc bè có Quỷ bên trên hay những người vượt biên đã bị sóng đánh rơi xuống biển.
Rồi anh quỳ xuống và cúi sát đầu trên cát. Bạn bè và những người đồng cảnh ngộ với họ đã chết, bản thân họ cũng thương tích đầy mình, mệt không lời nào tả xiết và còn bị một tên sát nhân truy đuổi. Nhưng Sam Trương nhớ lại rằng họ vẫn còn sống và đã đặt chân lên đất liền. Rốt cuộc anh cùng gia đình mình cũng kết thúc hành trình dài vô tận đã mang họ đi nửa vòng thế giới để tới ngôi nhà mới của họ, nước Mỹ.
CHƯƠNG
SÁU
Cách đó nửa cây số, ngoài biển khơi, Quỷ đang khom người trên chiếc điện thoại di động, cố bảo vệ nó khỏi cơn mưa và những con sóng trong lúc bè của hắn lướt trên mặt nước về phía lũ lợn.
Tín hiệu rất kém - đường tín hiệu phát ra từ điện thoại của hắn phải truyền từ vệ tinh tới Phúc Châu và Singapore - nhưng rồi hắn cũng bắt liên lạc được với Jerry Đường, một bằng hữu sống ở khu phố Tàu của New York mà thi thoảng hắn vẫn dùng đến. Lúc này gã đang chờ ở đâu đó gần bờ để đón hắn.
Hổn hển vì chuyến đi sóng gió, Quỷ gắng mô tả với tên lái xe chỗ hắn sắp sửa cập bờ, cách chỗ có một nhà cửa và cửa hàng cỡ ba bốn trăm mét. “Mày có vũ khí gì?” Quỷ gào lên.
“Cái gì?” Đường cũng gào lại.
Hắn phải nhắc lại câu hỏi mấy lần nữa. “Vũ khí!”
Nhưng Đường là một kẻ đòi nợ thuê - chuyên làm tiền nhiều hơn là côn đồ - và hóa ra gã chỉ có mỗi một khẩu súng lục.
“Mẹ nó,” Quỷ bật ra tiếng chửi thề. Trên tay hắn lúc này chỉ có khẩu súng cũ rích model 51, hắn đã hi vọng vớ được khẩu súng tự động loại nào đó.
“Đội Tuần tra duyên hải,” Đường kể cho hắn, tín hiệu lại bị mất và nghe có tiếng gió rít trong điện thoại, “chúng đã... ở đây. Tôi đang nghe ngóng...
có ra-đa... phải đi ngay. Ở đâu...”
Quỷ hét lên. “Nếu mày thấy con lợn nào thì phải giết chúng nó ngay. Nghe thấy chưa? Chúng đang ở trên bờ gần chỗ mày. Tìm chúng! Giết ngay!”
“Giết á? Anh muốn…”
Nhưng một con sóng đã đập vào mạn thuyền và ập lên người hắn. Điện thoại tắt ngóm, Quỷ nhìn lên màn hình. Nó đã chết ngắc vì chập mạch. Hắn ghê tởm quăng nó xuống sàn.
Một bức tường đá hiện lên phía trước và Quỷ lái bè vòng qua nó, hướng về phía bờ biển rộng rãi nằm bên mạn trái của thị trấn nhỏ. Hắn sẽ mất chút thời gian để vòng lại chỗ lũ lợn đã lên bờ, nhưng còn hơn là mạo hiểm để mình bị thương trên những bờ đá nhô ra kia. Tuy nhiên, đưa chiếc bè cập vào bờ hóa ra cũng rất rầy rà. Khi hắn tiến sát bờ cát chiếc bè nhỏ bị một con sóng đẩy lên và suýt thì lật úp, Quỷ đã nhanh tay giật lùi ra sau để chiếc bè vững vàng trên mặt nước. Mặc dù vậy, một con sóng khác đã ập đến sau lưng và hất hắn ngã ra sàn, đổ ụp lên đầu hắn và xoay cái bè sang ngang. Nó lao mạnh lên bờ cát và hất tung kẻ cưỡi mình lên bờ biển. Chân vịt dâng lên khỏi mặt nước và động cơ gầm rú như đang chạy đua. Lo sợ âm thanh ấy sẽ làm hắn bị lộ, Quỷ điên cuồng bò lại chỗ cái máy để tắt phéng nó đi.
Hắn trông thấy Jerry Đường trong chiếc BMW bốn bánh dẫn động màu bạc, đang đậu trên một con đường phủ đầy cát ở cách bờ biển khoảng hai mươi mét. Hắn nhổm dậy và chạy tới chỗ chiếc xe. Gã Đường béo ị và râu ria không cạo thoáng thấy hắn, gã liền lái xe tới. Quỷ vươn người vào trong xe bên ghế lái. “Mày có trông thấy bọn kia không?”
Người đàn ông bồn chồn trả lời, “Chúng ta phải đi thôi!” Gã gật đầu vào một cái ra-đa của cảnh sát. “Đội tuần tra duyên hải đã biết chúng ta ở đây rồi. Bọn họ đang cử cảnh sát tới kiểm tra.”
“Còn bọn kia?” Quỷ quát lên. “Bọn lợn ấy?”
“Tôi chẳng trông thấy ai khác cả. Nhưng...”
“Tao cũng không tìm được thằng bằng hữu. Tao không biết nó có ra khỏi tàu được không.” Quỷ nhìn khắp bờ biển.
“Tôi chưa gặp ai cả,” Đường nói, giọng cao chói. “Nhưng chúng ta không thể ở lại đây được.”
Từ khóe mắt Quỷ trông thấy một chuyển động gần chỗ sóng vỗ: một người đàn ông mặc quần áo màu xám đang bò lên những tảng đá trên mặt nước, giống hệt một con thú bị thương. Quỷ bước khỏi chỗ xe tải và lôi súng trong thắt lưng ra. “Chờ đấy.”
“Anh làm gì đấy?” Đường hỏi trong tuyệt vọng. “Chúng ta không thể ở lại đây được! Họ đang đến. Chỉ mười phút nữa thôi. Anh không hiểu tôi nói à?”
Nhưng Quỷ không còn để ý gì đến tên côn đồ trong lúc băng qua đường. Con lợn nhìn lên và trông thấy Quỷ đang tới, nhưng rõ ràng ông ta đã bị gãy chân trong lúc bơi vào bờ, không thể đứng dậy chứ đừng nói là bỏ chạy. Ông ta bắt đầu điên cuồng bò về chỗ mặt nước. Quỷ thắc mắc sao ông ta còn cố làm gì.
Sonny Lý mở mắt và cảm tạ thập vị phán quan - không phải vì đã cho gã sống qua vụ tàu đắm mà bởi lần đầu tiên trong suốt hai tuần qua, những cơn buồn nôn quặn thắt của gã đã biến mất.
Khi chiếc bè lao vào đá, hắn, John Tống cùng cặp vợ chồng trẻ tuổi đã bị hất xuống nước và một con sóng mạnh cuốn họ đi. Ngay lập tức Lý không trông thấy ba người còn lại và đã bị lôi về phía bờ biển từ khoảng
một cây số, cho đến khi cuối cùng gã cũng mò lên được bờ cát. Từ đó gã bò lết xa khỏi biển hết sức có thể và gục ở đây.
Gã nằm bất động dưới cơn mưa như trút trong lúc cảm giác say sóng dịu dần và những cú giật trong đầu giảm hẳn. Vật lộn để đứng lên, Lý bắt đầu lần mò ra đường, da gã ngứa ngáy vì lớp vải quần bò và áo len đang sũng nước biển và cát. Gã không nhìn thấy gì từ cả hai hướng. Mặc dù vậy gã nhớ là đã nhìn thấy đèn của một thị trấn nhỏ bên tay phải và đó là hướng mà lúc này gã bắt đầu cuốc bộ dọc theo con đường đầy cát.
“Quỷ đâu nhỉ?” Lý tự hỏi.
Như thể để trả lời cho gã, một tiếng bụp ngắn vang lên mà Lý nhận ra ngay là tiếng súng lục. Âm thanh vang vọng trong buổi bình minh tối đen và ướt át.
Nhưng đó có phải là Quỷ không? Hay một cư dân địa phương nào đấy? (Ai cũng biết tất cả người Mỹ đều có súng.) Có khi đó là một cảnh sát Mỹ chẳng hạn.
Tốt nhất là chơi kiểu an toàn. Gã rất muốn nhanh chóng tìm tới tên Quỷ, nhưng gã biết mình phải cẩn trọng. Gã bước khỏi đường đi để đi ra sau một bụi cây, nơi gã sẽ khuất khỏi tầm nhìn. Gã rảo bước hết mức mà đôi chân bị chuột rút và đã kiệt quệ của gã cho phép.
Cả hai nhà dừng phắt trước âm thanh kia.
“Đó là...” Vũ Khải Trần mở lời.
“Phải,” Sam Trương lẩm bẩm. “Tiếng súng.”
“Hắn sẽ giết chúng ta. Hắn đang tìm để giết chúng ta.”
“Tôi biết rồi,” Trương quát lại. Tim anh đập loạn vì họ - vì Bác sĩ Tống, vì Sonny Lý, vì cặp vợ chồng nọ - một trong số họ vừa mới bị giết. Nhưng
anh có thể làm gì đây?
Trương nhìn sang cha mình và thấy ông Trương Kiệt Chi đang thở hổn hển, nhưng ngoài việc bị ngã chúi nhủi trên bè và phải bơi cật lực vào bờ, có vẻ ông cụ không bị đau nặng ở chỗ nào cả. Ông gật đầu với con trai, ngụ ý cứ việc đi tiếp. Nhóm người lại cất bước trong mưa gió bão bùng.
Những lo ngại của họ về việc phải van xin và nài nỉ các lái xe đưa họ đến phố Tàu hóa ra là công cốc: chẳng có chiếc xe nào đang đợi cả. Trương cho rằng có thể mấy cái xe ở một địa điểm hoàn toàn khác, hoặc ngay khi Quỷ quyết định đánh chìm con tàu hắn đã gọi điện cho họ quay lại. Anh đã cùng Vũ đứng gọi Tống, Lý và những người khác bị ngã khỏi bè đến mấy phút. Nhưng rồi Trương trông thấy chiếc bè màu cam của xà thủ đang tiến lại, anh đã dẫn cả hai gia đình rời khỏi con đường để chui vào bãi cỏ và mấy bụi cây, nơi họ khuất khỏi tầm nhìn và tìm đường tới chỗ đèn điện, nơi anh hi vọng sẽ tìm thấy một chiếc xe tải.
Ngọn đèn đã thu hút họ hóa ra là của một dãy nhà hàng, trạm xăng, vài cửa hàng bán đồ lưu niệm giống như trên bến cảng ở Hạ Môn, cùng với khoảng mười tới mười hai mái nhà và một nhà thờ.
Lúc bấy giờ chỉ vào quãng bình minh - có lẽ là năm rưỡi hoặc sáu giờ sáng - nhưng đã có những dấu hiệu của cuộc sống ở đó: khoảng chục chiếc xe đang đỗ bên ngoài hai nhà hàng, bao gồm cả một chiếc không có tài xế mà máy vẫn nổ. Nhưng đó chỉ là một chiếc sedan loại nhỏ mà Trương cần phương tiện cho mười người. Và anh còn cần đánh cắp một chiếc xe không ai để ý đến trong ít nhất hai đến ba giờ - khoảng thời gian anh tin là sẽ đưa họ tới Phố Tàu ở thành phố New York.
Anh bảo những người kia chờ đằng sau một hàng rào cây cao và ra hiệu cho William cùng Vũ đi theo. Cả bọn khom người để đi qua các tòa nhà. Có hai chiếc xe tải lớn đằng sau trạm xăng nhưng chúng lại nằm trong tầm nhìn
rõ ràng của người trông quầy trẻ tuổi của ga-ra. Mưa làm nhòe lớp kính khiến tầm nhìn kém đi nhưng chắc chắn anh ta sẽ thấy ngay nếu họ định đưa một cái xe đi.
Cách đó hai mươi mét là một ngôi nhà tối om và đằng sau nó là một cái xe bán tải. Nhưng Trương không muốn phơi cha mình hay lũ trẻ dưới cơn mưa nắng. Hơn nữa người ta sẽ dễ dàng chú ý đến mười người Trung Quốc vừa bị đắm tàu cùng ngồi trên một chiếc xe cũ rích như thế này hướng về New York. Trông họ chẳng khác nào một đám dân “du cư” - những dân lao động đi hết từ nơi này đến nơi khác ở Trung Quốc để tìm việc.
“Tránh bùn,” Trương ra lệnh cho con trai và Vũ. “Chỉ bước trên cỏ hoặc cành cây, bậc đá. Tôi không muốn để lại vết chân.” Cẩn thận đã trở thành bản năng của Trương; cuộc sống trước đây đã khiến anh và các bạn bè của mình học được cách ẩn đi những động thái có thể làm lộ bản thân mình.
Họ đi tiếp qua các bụi cây và cây cối đang bị cơn gió quăng quật, vượt qua nhiều ngôi nhà nữa, có nơi tối om, có nơi đã cho thấy dấu hiệu của những gia đình thức giấc: tiếng ti vi rầm rì, tiếng bữa sáng được chuẩn bị. Chứng kiến những bằng chứng nhỏ mọn của cuộc sống đời thường ấy, Trương đau nhói trước cảnh ngộ tuyệt vọng của họ. Nhưng như những gì cuộc đời đã cho anh học được, anh gạt các cảm xúc ủy mị sang bên và thúc giục con trai mình cùng Vũ đi nhanh hơn. Cuối cùng họ cũng tới tòa nhà cuối cùng trên cả dãy phố dân sinh này: một ngôi nhà thờ nhỏ nhắn, tối đèn và rõ ràng là không có người ở.
Đằng sau tòa nhà dãi dầu mưa nắng, họ tìm được một chiếc xe tải màu trắng cũ. Nhờ những giờ lượn lờ trên mạng và xem ti vi, Trương biết chút ít tiếng Anh nhưng anh không hiểu những chữ này. Tuy nhiên, trước sự thúc giục của anh, cả hai cậu con trai đều học thứ ngôn ngữ này và cả văn hóa Mỹ suốt nhiều năm trời. William liếc nhìn cái xe tải và giải thích. “Nó ghi là, ‘Nhà thờ Pentecostal Batist của Easton’.”
Một tiếng cách khe khẽ vang lên từ xa. Trương đông cứng cả người trước âm thanh ấy. Quỷ lại vừa giết thêm một người trong số họ. “Đi thôi!” Vũ lo ngại nói. “Mau lên. Nhanh xem nó có mở được không.”
Nhưng cửa xe tải bị khóa.
Trong lúc Trương nhìn quanh tìm cái gì đó để đập vỡ kính cửa sổ, William quan sát kĩ càng ổ khóa. Cậu gọi lớn át tiếng gió ầm ĩ. “Bố có mang con dao của con không?”
“Dao của con ư?”
“Con dao con đưa bố trên tàu ấy, để cắt dây thừng buộc bè ấy.” “Nó là của con á?” Con trai anh làm cái quái gì với một thứ vũ khí như thế? Nó là loại dao bấm tự động.
“Bố có không?” Cậu bé nhắc lại.
“Không, bố làm rơi trong lúc đi lấy bè rồi.”
Thằng bé nhăn mặt nhưng Trương mặc nó - tại sao chứ, hành động ấy gần như là xấc láo - và nhìn khắp lượt mặt đất bị mưa cày xới. Anh tìm được một đoạn ống nước kim loại và quăng mạnh vào cửa sổ chiếc xe tải. Lớp kính vỡ thành hàng trăm mảnh vụn. Anh trèo vào từ ghế hành khách và lục chìa khóa trong hộp đựng đồ cho ghế phụ. Anh không tìm được gì và phải bước ra ngoài đất bùn. Liếc vào tòa nhà, anh tự hỏi liệu trong nhà thờ có bộ khóa nào không? Nếu có thì ở đâu? Trong văn phòng chăng? Có thể người trông nhà thờ đang ở bên trong; lỡ ông ta nghe được tiếng gì và đối đầu với họ? Trương tin rằng mình không thể làm hại người vô tội nào ngay cả khi...
Anh nghe thấy một tiếng vỡ lớn và xoay ngoắt lại vì giật mình. Con trai anh đang quỳ trên ghế lái và vừa đập vỡ phần vỏ nhựa của bộ khóa điện
bằng một cú đá. Trong lúc Trương nhìn với sự kinh ngạc và lo lắng, con trai anh lôi hết đám dây ra và bắt đầu quẹt chúng vào nhau. Đột nhiên đài ra-đi ô trên xe phát tiếng oang oang: “Người sẽ luôn yêu thương con, hãy để Đấng Cứu Rỗi bước vào trái tim con...”
William bấm một nút trên bảng điều khiển và âm thanh nhỏ lại. Cậu tiếp tục quẹt các đầu dây điện vào nhau. Một tia lửa điện... Động cơ bừng tỉnh. Trương nhìn chằm chằm khó tin. “Làm sao con biết cách làm việc đó?” Cậu con trai chỉ nhún vai.
“Nói cho bố...”
Vũ nắm lấy tay Trương. “Đi thôi! Chúng ta phải đi đón người nhà và chạy ngay. Quỷ đang tìm chúng ta.”
Người cha nhìn trừng trừng con trai mình trong nỗi kinh ngạc. Anh tưởng thằng bé sẽ cụp mắt xuống trong hổ thẹn. Nhưng William chỉ giương mắt nhìn lại theo cái kiểu lạnh lùng mà bản thân Trương dù ở độ tuổi nào cũng không bao giờ dám nhìn cha mình như vậy.
“Xin anh đấy,” Vũ van nài. “Quay lại tìm mọi người thôi.” “Không,” một lúc sau Trương nói. “Đưa họ đến đây. Theo đường ta đã tới - và đảm bảo là họ không để lại dấu chân nào.”
Vũ vội vã đi đón những người khác.
William tìm được một tấm bản đồ khu vực này trong xe và nghiên cứu nó cẩn thận. Thằng bé gật đầu nhưng đang cố ghi nhớ các hướng đi. Chống lại khao khát điều tra về việc con trai mình biết kích điện ô tô, Trương hỏi thằng bé, “Con biết phải đi đâu không?”
“Con có thể tìm được.” Cậu nhìn lên. “Bố muốn con lái xe không?” Rồi cậu nói thẳng. “Bố lái không tốt lắm.” Như hầu hết những người dân thành thị ở Trung Quốc, phương tiện di chuyển chính của Sam Trương là xe đạp.
Trương chớp mắt trước những lời này của con trai - một lần nữa thằng bé lại nói bằng giọng gần như hỗn hào. Rồi Vũ xuất hiện cùng những người vượt biên khác và Trương lao tới giúp vợ và cha mình vào xe tải, anh quay lại nói với con trai, “Được, con lái đi.”
CHƯƠNG
BẢY
Hắn đã giết hai con lợn trên bãi biển - một người đàn ông bị thương và một phụ nữ.
Nhưng còn khoảng mười hai đứa khác trên bè. Chúng đâu? Còi ô tô vang lên. Quỷ quay lại. Đó là Jerry Đường đang gọi hắn. Gã giơ chiếc ra-đa của cảnh sát lên, biểu hiện cuống cuồng. “Cảnh sát sẽ ở đây bất cứ lúc nào! Chúng ta phải đi!”
Quỷ quay đi và nhìn khắp bãi biển và con đường một lần nữa. Chúng đã đi đâu? Có thể chúng...
Với một tiếng rít của bốn bánh xe, chiếc bán tải của Đường đã lao lên đường lộ và tăng tốc.
“Không! Dừng lại!”
Quá tức giận, Quỷ ngắm và bắn một lần. Viên đạn trúng cửa sau nhưng chiếc xe vẫn tiếp tục, không hề chậm lại. Nó lao đến một ngã tư rồi rẽ ngoặt và biến mất. Quỷ đứng chết trân, khẩu súng vẫn thả một bên người, hắn nhìn qua đám sương vào nơi phương tiện trốn thoát duy nhất của hắn vừa biến mất. Hắn vẫn còn cách nơi ẩn trốn ở Manhattan 128 cây số, trợ thủ của hắn thì đang mất tích và có thể đã chết, hắn không có tiền cũng không có điện thoại di động. Cả tá cảnh sát Liên bang lẫn tiểu bang đang lần theo hắn, mà Đường lại vừa bỏ hắn lại. Hắn có thể...
Người hắn căng lên. Cách đó không xa, một chiếc xe tải màu trắng đột nhiên rẽ ra khỏi một cánh đồng ở bên hông nhà thờ nhỏ và hướng ra đường.
Chính là lũ lợn Quỷ nâng súng lên lần nữa nhưng chiếc xe đã biến mất trong màn sương. Hắn hạ súng xuống và hít mấy hơi thật sâu. Sau một phút hắn đã bình tĩnh lại. Hắn thấy phiền vì những rắc rối ngay trước mắt của mình, đúng, nhưng trong đời hắn từng trải qua nhiều nghịch cảnh hơn thế nhiều.
Ngươi thuộc về cái cũ
Ngươi sẽ tái lập con đường của mình
Ngươi sẽ chết vì những niềm tin cũ...
Hắn đã học được rằng một trở ngại chẳng qua là sự mất cân bằng nhất thời, và ngay cả những sự kiện kinh khủng nhất trong đời hắn rồi cũng sẽ được đền bù xứng đáng bằng vận may lớn. Triết lý nằm lòng của hắn tóm gọn trong một chữ Hán: nhẫn. Nó có nghĩa là “kiên nhẫn” trong tiếng Trung Quốc nhưng trong tâm trí Quỷ nó còn nhiều ý nghĩa hơn nữa. Câu tương đương với nó trong tiếng Anh phải là “Đâu còn có đó.” Hắn đã sống sót qua hơn bốn mươi năm cuộc đời mình bởi hắn biết chờ thời vượt qua mọi rắc rối, hiểm nguy và đau thương.
Ngay lúc này lũ lợn con đã chạy thoát. Cái chết của chúng phải lùi lại đôi chút. Giờ không còn gì cần làm ngoài việc thoát khỏi bọn cảnh sát và INS.
Hắn nhét khẩu súng lục cũ vào túi quần và lầm lũi đi dưới cơn mưa gió trên bãi biển về phía những ánh đèn thị trấn. Tòa nhà gần nhất là một nhà hàng, trước mặt nó có chiếc xe đang đậu mà động cơ vẫn chạy. Đấy, đã lại có vận may rồi!
Hắn liếc ra biển và trông thấy một việc khiến hắn phải cười phá lên. Lại một vận may khác: cách bờ không xa lắm hắn trông thấy một con lợn khác, một người đàn ông đang vật lộn để nổi lên mặt nước. Ít nhất hắn cũng giết được thêm một tên trước khi chạy tới thành phố.
Quỷ lôi khẩu súng ra khỏi túi và bắt đầu chạy về phía biển.
Cơn gió đang làm gã kiệt sức.
Trên đường mò đến thị trấn nhỏ, Sonny Lý ì ạch lội trên cát. Gã là một người nhỏ thó và trong cái thế giới nhọc nhằn, nguy hiểm của mình, gã dựa vào những lời dọa dẫm, hành động bất ngờ và trí khôn (tất nhiên cả vũ khí nữa) nhiều hơn là sức mạnh thể chất. Giờ gã đã đến giới hạn của mình, hoàn toàn kiệt sức vì tai ương ban sáng.
Cơn gió... Đã hai lần gã bị gió quật cho ngã quỵ.
Không thể để thế này nữa, gã nghĩ. Bất chấp nguy cơ bị ai nhìn thấy, vật lộn trên lớp cát mềm thế này vẫn là quá sức với gã và gã lại phải lần mò về với con đường ngập nước mưa để đi tiếp về phía ánh đèn của thị trấn nhỏ. Gã đi nhanh hết sức có thể, sợ rằng xà thủ sẽ bỏ đi trước khi Lý tìm được hắn.
Nhưng một lát sau gã tìm được niềm an ủi là tên thủ lĩnh vẫn còn đó: thêm mấy tiếng súng nữa.
Lý vật vã trèo lên đồi để nhìn xuyên qua cơn mưa gió nhưng không thấy ai cả. Âm thanh ấy rõ ràng đã vang xa hơn vì gió bão.
Gã chán nản tiếp bước. Suốt mười phút dài đằng đẵng dấn bước trên đường, thi thoảng gã lại ngửa cổ lên để nước mưa trút đầy khoang miệng mình. Sau ngần ấy lượng nước biển gã đã phải nuốt vào bụng, giờ gã thấy khát cháy họng.
Rồi gã trông thấy bên phải mình có một chiếc bè cứu sinh nhỏ màu cam đang nằm chơ vơ trên bãi biển. Gã đoán đó là của Quỷ. Gã nhìn lên nhìn xuống bãi biển tìm tên xà thủ nhưng qua cơn mưa và sương như thế này, gã khó lòng nhìn xa được.
Gã đi về phía cái bè, nghĩ rằng biết đâu mình có thể đi theo dấu chân của xà thủ và tìm được chỗ hắn trốn trong thị trấn. Nhưng khi gã vừa nhấc chân ra khỏi đường lộ một ánh đèn nhấp nháy xuất hiện. Gã quệt nước mưa khỏi mắt và nheo lại nhìn. Ánh đèn màu xanh và đang lao về phía gã rất nhanh trên đường.
INS ư? Hay cảnh sát Liên bang?
Lý lao vội vào những bụi rậm dày ở mé bên kia đường. Gã thu mình và nhìn ánh đèn ngày một tỏ hơn khi chiếc xe mang nó, một con xe thể thao màu vàng, xuất hiện trong làn mưa và phanh kít lại cách đó một trăm mét. Trong tư thế ngồi xổm Lý bắt đầu mò dần về phía chiếc xe.
Amelia Sachs đứng trên bờ biển bị mưa dội xối xả và nhìn xuống thi thể một người phụ đã rũ ra trong tư thế của người chết.
“Hắn đang giết họ, Rhyme,” Amelia Sachs buồn bã thì thầm vào micro của chiếc bộ đàm cầm tay Motorola SP-50 của cô. “Hắn đã bắn hai người, một đàn ông và một đàn bà. Từ sau lưng. Họ chết rồi.”
“Bắn họ ư?” Giọng của nhà tội phạm học khàn đi và cô biết anh đã lại chất lên mình gánh nặng của những cái chết này.
Anh cảnh sát ESU chạy lại chỗ cô, tay lăm lăm khẩu súng tự động. “Không có dấu vết nào của hắn,” anh ta hét để át tiếng gió. “Người ở trong nhà hàng cách con đường không xa kia nói rằng kẻ nào đó vừa đánh cắp một chiếc ô tô cách đây khoảng hai mươi phút.” Viên cảnh sát mô tả cho Sachs chiếc xe Honda cùng biển số của nó, cô đọc lại cho Rhyme.
“Lon sẽ đưa thông báo về nó ngay,” anh nói. “Hắn có một mình à?” “Tôi nghĩ vậy. Vì mưa lớn nên chẳng còn dấu chân nào trên cát nhưng tôi tìm được vài dấu trên bùn, chỗ hắn đứng để bắn người phụ nữ. Lúc đó
hắn chỉ có một mình.”
“Vậy chúng ta sẽ giả định là bằng hữu của hắn vẫn còn chưa xuất hiện. Có thể hắn đã lên bờ trên chiếc bè kia. Hoặc còn kẹt lại trên con tàu đắm.” Amelia nhìn khắp xung quanh, bàn tay đặt gần súng. Những hình dạng của đá, đụn cát và bụi rậm trong sương mờ bao quanh cô. Một người đàn ông cầm súng có thể trở nên vô hình ở đây.
Rồi cô nói, “Chúng tôi sẽ đi tìm những người nhập cư, Rhyme.” Cô tưởng anh sẽ không đồng ý và bảo cô quan sát hiện trường trước, trước khi các yếu tố phá hoại hủy hết bằng chứng. Nhưng anh chỉ nói đơn giản. “Chúc may mắn, Sachs. Gọi cho tôi khi nào bắt đầu kiểm tra hiện trường.” Điện thoại tắt ngóm.
Soát thật kĩ nhưng luôn cẩn thận phía sau...
Hai cảnh sát cùng đi dọc bãi biển. Họ bắt gặp một chiếc bè thứ hai, nhỏ hơn, cập bờ ở cách chiếc đầu tiên khoảng một trăm mét. Phản ứng bản năng của Sachs là tìm bằng chứng trên đó nhưng cô vẫn phải bám lấy nhiệm vụ trước mắt của mình và chạy băng qua đó - trong khi chứng viêm khớp vẫn làm đau buốt các khớp xương - với cơn gió đập vào sau lưng để tìm những người vượt biên. Cô cũng chú ý đến một bụi cây hay hố nào đó mà Quỷ có thể lẩn xuống.
Họ không tìm được cả hai.
Rồi cô nghe thấy tiếng còi hụ ở xa xa, vang trong gió, và trông thấy một đoàn xe cấp cứu lao vào trong thị trấn. Khoảng hơn chục người dân lúc nãy núp trong nhà hàng và trạm xăng giờ mới ló mặt ra ngoài để tìm hiểu xem chính xác thì cơn bão đã mang lại sự vụ náo nhiệt gì cho cái thị trấn bé tí của họ.
Nhiệm vụ đầu tiên của một cảnh sát hiện trường là kiểm soát hiện trường vụ án - để hạn chế tối đa sự can thiệp và ngăn bằng chứng biến mất,
dù vô tình hay do những bàn tay hám vật lưu niệm hoặc do chính tên thủ phạm đóng giả là kẻ tò mò đi nữa. Sachs miễn cưỡng từ bỏ cuộc tìm kiếm người vượt biên và thủy thủ của mình - giờ đã có nhiều người khác làm việc đó - và chạy tới chỗ chiếc xe xanh trắng của đội khám nghiệm hiện trường NYPD để chỉ huy hoạt động.
Trong lúc các kĩ thuật viên rào bãi biển bằng dải băng vàng, Sachs mặc bộ phục trang mới nhất của đội khám nghiệm hiện trường ra bên ngoài bộ quần áo ướt sũng của mình. Trang phục mới của đội hiện trường NYPD là một bộ áo liền quần có mũ trùm đầu may bằng vải Tyvek trắng, giúp các nhân viên khám nghiệm khỏi làm hỏng hay sai lệch hiện trường của chính mình bằng tóc, da hay mồ hôi chẳng hạn.
Lincoln Rhyme rất tán đồng bộ quần áo ấy, chính anh đã vận động để họ có một thứ tương tự hồi anh còn quản lý Phòng Điều tra và Nguồn lực, cơ quan coi sóc việc khám nghiệm hiện trường. Tuy nhiên Sachs thì không hài lòng lắm. Thực tế chuyện bộ quần áo khiến cô trông giống người ngoài hành tinh trong một bộ phim viễn tưởng tồi không thành vấn đề; thứ làm cô khó chịu là cái màu trắng toát của nó, rất dễ bị những tên tội phạm trông thấy. Có thể lắm chứ, bọn chúng vì một lý do nào đó mà vẫn còn lảng vảng quanh hiện trường để thử tài bắn súng trúng những viên cảnh sát đang thu thập bằng chứng kia. Do đó Sachs đặt biệt danh cho bộ đồ là “bộ quần áo hồng tâm”.
Cuộc thẩm vấn nhanh những người dân trong nhà hàng, trạm xăng và vài ngôi nhà trên bãi biển không đem lại kết quả gì ngoài những điều họ đã biết về chiếc Honda mà Quỷ dùng để trốn thoát. Không có chiếc xe nào khác bị đánh cắp và cũng không ai thấy người nào bơi vào bờ hay đang lẩn trốn. Thậm chí cũng không có ai nghe thấy tiếng súng trong cơn mưa gió.
Vậy là chỉ còn trông chờ vào Amelia Sachs và Lincoln Rhyme để chắt bóp từ hiện trường chút thông tin về Quỷ, các thủy thủ cùng những người
vượt biên đã ở đó.
Hiện trường thì mới quý giá làm sao, một trong những phạm vi rộng nhất họ từng làm: hơn một cây số đường biển, quốc lộ, và ở bên kia của con đường trải nhựa là cả một mê cung bụi rậm. Có cả triệu chỗ để tìm kiếm. Đã thế lại còn khả năng một tên tội phạm có vũ trang vẫn đang lẩn lút nơi đó nữa.
“Hiện trường tệ lắm, Rhyme ạ. Mưa đã dịu đôi chút nhưng vẫn còn nặng hạt và gió thổi tới ba mươi hai ki-lô-mét trên giờ.”
“Tôi biết rồi. Chúng tôi có bật kênh Dự báo thời tiết.” Giờ giọng anh đã khác, bình tĩnh hơn. Tiếng nói ấy làm cô sờ sợ. Nó làm cô nhớ đến sự điềm tĩnh đến gai người trong lời nói khi anh nói về sự kết thúc, về sự tự vẫn, về chung cuộc. “Lại càng thêm lí do để tiếp tục cuộc tìm kiếm, cô có nghĩ vậy không?” Anh trầm tư nói.
Cô nhìn một lượt bãi biển. “Chỉ có điều... Mọi nơi đều rộng quá. Quá nhiều thứ ở đây.”
“Làm sao mà lại quá rộng được, Sachs? Chúng ta thực hiện nhiệm vụ trên mọi hiện trường từng xen-ti-mét một. Bất kể đó là một cây số vuông hay chỉ vài phân. Công việc chỉ mất thời gian hơn thôi. Hơn nữa, chúng ta yêu những hiện trường rộng lớn. Có quá nhiều chỗ tuyệt vời để tìm bằng chứng.”
Tuyệt vời cơ đấy, cô nghĩ một cách châm biếm.
Vậy là Sachs bắt đầu từ chỗ chiếc bè xẹp gần nhất, rồi từ đó tiến hành kẻ ô vuông hiện trường. Cụm từ ấy mô tả một kĩ thuật tìm kiếm bằng chứng vật thể của đội khám nghiệm hiện trường, trong đó các nhân viên khám nghiệm cày sàn nhà hay mặt đất theo cùng một hướng, cả hai chiều như cách người ta xén cỏ vậy, sau đó họ quay vuông góc và làm điều tương tự trên cùng một diện tích. Lý thuyết đằng sau phương pháp tìm kiếm này là
bạn có thể trông thấy một vật mà bạn đã bỏ qua khi nhìn vào chúng từ một góc độ khác. Mặc dù có cả tá phương pháp khác nhanh hơn để khám nghiệm hiện trường, nhưng chính cái kiểu kẻ ô vuông cổ lỗ sĩ ấy lại hay mang về kết quả nhất. Đó là cách mà Rhyme khăng khăng bắt Sachs phải làm - cũng như trước đây anh bắt các nhân viên dưới quyền của phòng khám nghiệm NYPD làm vậy. Vì Lincoln Rhyme mà cụm từ “kẻ ô vuông” đã trở thành từ đồng nghĩa với việc khám nghiệm hiện trường trong giới cảnh sát đô thị.
Chẳng mấy chốc cô đã không còn trông thấy tí gì của thị trấn nhỏ Easton và dấu hiệu duy nhất cho thấy cô không ở một mình là ánh đèn nhấp nháy phát ra từ những chiếc xe cứu thương, giống như máu đang được bơm bên dưới lớp da nhạt màu vậy. Cảm giác vừa bất an vừa đáng sợ.
Nhưng ngay cả ánh đèn cũng nhanh chóng biến mất trong màn sương. Sự u tịch và cảm giác yếu đuối đáng sợ cuộn lên quanh cô. Ôi trời, mình không thích thế này. Ở đây sương còn tệ hơn và tiếng mưa rơi xuống mũ trùm đầu của cô nghe to hơn, tiếng sóng và gió cũng sẽ ngụy trang cho bất kì kẻ tấn công nào tiếp cận.
Cô gõ vào báng súng khẩu Glock màu đen của mình để cho an tâm và tiếp tục kẻ ô vuông.
“Tôi sẽ im ắng một lát, Rhyme. Tôi có cảm giác vẫn còn người nào đó ở đây. Ai đó đang theo dõi tôi.”
“Gọi cho tôi khi cô đã xong,” anh nói. Kiểu ngập ngừng của anh gợi ý là vẫn còn gì đó anh muốn nói ra nhưng một lát sau đường dây đã tắt. Cẩn thận sau lưng...
Một tiếng đồng hồ tiếp theo, bất chấp mưa gió, cô vẫn tìm kiếm khắp bãi biển, con đường và cả trảng cây bụi ở bên kia đường, như một đứa trẻ đi tìm vỏ sò. Cô kiểm tra chiếc bè còn lành lặn, bên trong tìm được một chiếc
điện thoại di động, và chiếc bè đã bị xịt mà hai cảnh sát ESU đã kéo được lên bờ. Cuối cùng cô cũng tập hợp được các bằng chứng của mình, những chiếc vỏ đạn, mẫu máu, dấu vân tay và ảnh chụp Polaroid các dấu chân.
Sau đó cô dừng lại và nhìn quanh. Cô bật điện đài lên và được nối với một dinh thự ấm cúng ở cách đó hàng năm ánh sáng. “Có chuyện nực cười lắm, Rhyme ạ.”
“Chả có ích tí nào, Sachs. ‘Nực cười’ là sao? Ý cô là gì?” “Mấy người vượt biên ấy... có khoảng trên dưới mười người, họ biến mất tăm rồi. Tôi không hiểu được. Họ bỏ chỗ trú ẩn bên bờ biển rồi băng qua đường và trốn trong mấy bụi cây. Tôi trông thấy dấu chân trên bùn ở bên đường đối diện. Rồi họ cứ thế biến mất. Tôi đoán họ đã vào đất liền để trốn nhưng không tìm được dấu vết gì cả. Cũng không có ai ở quanh đây xác nhận cho những người như thế đi nhờ cả, và cũng không ai trong thị trấn thấy có chiếc xe tải nào đang chờ sẵn để đưa họ đi. Ở đây còn không có cả vệt bánh xe luôn.”
“Được rồi, Sachs, cô vừa mới lần theo chân Quỷ. Cô đã thấy hắn làm gì, cô biết hắn là ai, cô đã ở chỗ hắn vừa ở. Theo cô thì sao?” “Tôi...”
“Giờ cô chính là Quỷ,” Rhyme nhắc lại bằng giọng dẫn dụ. “Cô là Kwan Ang, biệt danh là Quỷ. Cô là một triệu phú, một tay buôn người - một xà thủ. Một tên sát nhân. Cô vừa mới đánh đắm một con tàu và giết hàng chục người. Giờ đầu óc cô sẽ nghĩ gì?”
“Tìm những người còn lại,” cô trả lời ngay lập tức. “Tìm và giết họ. Tôi không muốn đi vội. Chưa được. Tôi không chắc là tại sao nhưng tôi phải tìm họ.” Trong một khoảnh khắc hình ấy ấy bật trong đầu cô. Đúng là cô đã nhìn mình như một xà thủ, lòng tràn đầy ham muốn tìm kiếm những người
nhập cư và giết họ. Cảm giác ấy thúc ép đau nhói. Cô thì thầm, “không gì có thể cản được tôi.”
“Tốt lắm, Sachs,” Rhyme lặp lại nhẹ nhàng như thể anh sợ làm đứt mất sợi dây mong manh đang kết nối một phần tâm hồn cô với linh hồn gã xà thủ. “Giờ hãy nghĩ về những người nhập cư. Họ đang bị một kẻ như thế đuổi theo. Họ sẽ làm gì?”
Cô phải mất một lát mới chuyển mình từ một tên sát nhân máu lạnh và một xà thủ sang một trong số những con người nghèo khổ trên con tàu đó. Cô thất kinh vì kẻ đã nhận tiền tiết kiệm cả đời của cô lại phản bội cô theo cách ấy, lại giết những con người gần gũi với cô, có khi còn là người nhà. Giờ thì kẻ đó đang quyết tâm giết cô.
“Tôi sẽ không trốn,” cô nói chắc nịch. “Tôi sẽ chạy khỏi nơi đây càng xa càng tốt. Bằng bất kì cách nào có thể, đi xa nhất có thể. Chúng tôi không thể quay lại đại dương. Chúng tôi cũng không thể đi bộ. Chúng tôi đi ô tô.” “Và làm sao để cô kiếm được một chiếc xe?” Anh hỏi.
“Tôi không biết,” cô nói, cảm thấy bực tức vì đã ở gần câu trả lời đến thế mà nó vẫn lảng tránh mình.
“Có nhà nào ở trên bờ không?” Anh hỏi.
“Không.”
“Có chiếc xe tải nào chỗ trạm xăng không?”
“Có, nhưng kiểm lâm hỏi những người trông quầy rồi. Không có cái xe nào bị mất cả.”
“Còn gì nữa không?”
Sachs nhìn khắp phố. “Không có gì cả.”
“Không thể nào không có gì được, Sachs ạ,” anh mắng. “Những người đó đang chạy bán sống bán chết. Họ đã trốn thoát bằng cách nào đó. Câu trả
lời ở đó. Cô còn thấy gì nữa?”
Cô thở dài và bắt đầu nhắc lại, “tôi thấy một chồng lốp vứt đi, tôi thấy một cái thuyền bị lật úp, tôi thấy một thùng các-tông ... vỏ lon bia Sam Adams. Ở trước mặt nhà thờ là một cái xe cút kít..
“Nhà thờ sao?” Rhyme lặp lại. “Lúc nãy cô đâu có nhắc đến nhà thờ.” “Hôm nay là sáng thứ Ba, Rhyme à. Nhà thờ đóng cửa và ESU đã kiểm tra chỗ đó rồi.”
“Qua đó đi, Sachs. Ngay bây giờ!”
Cô bắt đầu bước một cách cứng ngắc tới chỗ đó nhưng chẳng biết mình sẽ tìm được cái gì hữu ích hay không.
Rhyme giải thích, “Cô không tham gia các lớp Kinh Thánh kỳ nghỉ hè bao giờ à Sachs? Bánh quy giòn Ritz, rượu Punch Hawaii và Chúa Jesus trong những buổi chiều hè? Không đi picnic góp món bao giờ ư? Không có lần đi trại thanh thiếu niên nào?”
“Một hai lần. Nhưng tôi dành hầu hết các ngày Chủ nhật của tôi là để độ lại bộ chế hoà khí.”
“Cô nghĩ nhà thờ dùng cái gì để chuyên chở đám thanh thiếu niên của họ đi và về các địa điểm vui chơi ấy? Xe tải nhỏ, Sachs à. Xe tải, đủ chỗ cho cả chục con người.”
“Có thể,” cô nói thêm một cách nghi ngại.
“Cũng có thể không,” Rhyme thừa nhận. “Nhưng những người vượt biên đâu có mọc cánh mà bay mất, đúng không nào? Vì vậy hãy kiểm tra các giải thuyết nghe khả dĩ hơn.”
Quả nhiên, như nhiều lần khác, anh đã đúng.
Cô đi vòng ra sau nhà thờ và kiểm tra lớp đất bùn ở đó: những dấu chân, những mảnh kính nhỏ từ chiếc cửa bị đập vỡ, đoạn ống dùng để đập cửa,
vết bánh xe của một chiếc xe tải.
“Thấy rồi, Rhyme. Một đống dấu chân còn mới nguyên. Quỷ thật, họ thông minh lắm... Bước đi trên đá, cỏ và cây dại. Tránh đi trên bùn để không lưu lại dấu chân. Và nhìn có vẻ như họ đã lên xe tải và lái băng qua một cánh đồng trước khi quay trở lại đường cái. Để không ai trông thấy nó từ trên phố chính cả.”
Rhyme ra lệnh, “Lấy mô tả chi tiết của cái xe chỗ ông mục sư đi.” Sachs bảo một kiểm lâm gọi điện cho ngài mục sư quản sự nhà thờ. Vài phút sau họ đã có chi tiết: nó là một chiếc Dodge màu trắng, năm năm tuổi, tên của nhà thờ được sơn ở một bên xe. Cô ghi lại biển số xe rồi đọc nó cho Rhyme, anh nói mình sẽ phát thông báo tìm một chiếc xe nữa trên đài cảnh sát, cộng với chiếc Honda lúc trước, và yêu cầu bên Cảng vụ chuyển lời tới các trạm thu phí ở cầu và đường hầm, theo hướng giả thuyết là những người nhập cư đang nhắm đến phố Tàu ở Manhattan.
Cô kẻ ô vuông cẩn thận đằng sau nhà thờ nhưng không tìm được gì khác. “Tôi không nghĩ chúng ta còn gì để làm thêm ở đây đâu, Rhyme. Tôi sẽ thu các vật chứng và quay về.” Cô ngắt cuộc gọi.
Quay lại nơi đậu xe của đội khám nghiệm, cô cất bộ quần áo Tyvek và ghi sổ những gì tìm được rồi gắn thẻ tiêu chuẩn cho từng vật chứng thu được ở hiện trường vụ án. Cô nói với các kĩ thuật viên phải mang tất cả mọi thứ tới nhà Rhyme ngay lập tức. Mặc dù có vẻ vô vọng nhưng cô vẫn muốn tìm kiếm người sống sót thêm một lần nữa. Hai bên đầu gối của cô đang bốc cháy, chứng viêm khớp di truyền từ đời ông nội cô. Căn bệnh vẫn thường hành hạ cô nhưng giờ khi đã ở một mình, cô cho phép bản thân được di chuyển chậm đi; bất kể khi nào ở cùng các đồng nghiệp khác cô luôn cố gắng không lộ vẻ đau đớn. Cô sợ nếu cấp trên mà nghe ngóng được tình trạng của cô họ sẽ ép cô ngồi bàn giấy.
Mặc dù vậy sau mười lăm phút không thể tìm thêm được dấu hiệu nào của người vượt biên, cô bắt đầu trở lại chỗ chiếc Camaro. Nó là chiếc xe cuối cùng vẫn còn đỗ lại tại bờ biển lúc này. Cô đi một mình; viên cảnh sát đội ESU lúc trước đi cùng cô đã quyết định chọn một phương tiện an toàn hơn để quay về thành phố.
Màn sương giờ đã loãng ra. Cách đó khoảng tám trăm mét, ở phía bên kia thị trấn, Sachs đã có thể nhận ra hai chiếc xe tải cứu hộ của hạt Suffolk và một chiếc Ford không biển báo gì nằm cạnh đó. Cô tin là nó thuộc về INS.
Sachs ngồi phịch xuống ghế trước của chiếc Camaro, tìm được một mẩu giấy và bắt đầu ghi chú trên đó những gì cô quan sát được tại hiện trường để báo lại với Rhyme và đội ở nhà. Gió vẫn xô đẩy chiếc xe quá nhẹ và mưa tiếp tục rơi không ngớt trên lớp vỏ sắt của nó. Sachs vô tình ngước lên đúng lúc để trông thấy một cột nước biển cao tới ba mét bắn tung lên không khí và đập trúng một tảng đá đen chìa ra.
Cô nheo mắt và dùng ống tay áo lau bớt hơi nước bên trong cửa kính của mình.
Cái gì vậy nhỉ? Một con vật nào chăng? Một mảnh vỡ từ tàu Fuzhou Dragon?
Không, cô bỗng nhận ra đó là một con người. Anh ta đang tuyệt vọng bám lấy tảng đá.
Sachs giật lấy chiếc Motorola của mình, bấm sang tần số của đội cảnh sát địa phương và nói, “Đây là đội khám nghiệm hiện trường NYPD, Năm Tám Tám Năm gọi Đội cứu hộ hạt Suffolk ở bờ biển Easton. Các anh nghe được không?”
“Nghe rõ, Năm Tám Tám Năm. Nói đi.”
“Tôi ở phía đông thị trấn. Có một nạn nhân trên biển. Tôi cần giúp.”
“Được,” là câu trả lời, “chúng tôi lên đường đây. Hết.”
Sachs bước ra khỏi ô tô và chạy xuống bãi biển. Cô trông thấy một con sóng lớn đã đẩy người đàn ông khỏi tảng đá và ném anh ta xuống nước. Anh ta cố bơi nhưng đang bị thương, có máu trên áo sơ mi của anh ta, cố lắm anh ta cũng chỉ giữ được đầu ở trên mặt nước, nhưng chỉ suýt soát. Anh ta bị ngụp một lần và vật lộn để nổi lên.
“Ôi, cha mẹ ơi,” Sachs lẩm bẩm và quay lại nhìn phía sau, vừa đúng lúc một chiếc xe cứu hộ màu vàng đang lao đến từ phía bãi cát đằng xa. Người vượt biên kia kêu lên tắc nghẹn rồi trượt xuống dưới những con sóng. Không còn thời gian chờ dân chuyên nghiệp đến rồi. Cô đã học được nguyên tắc cơ bản của việc cứu người từ trường cảnh sát: “Vươn, ném, chèo rồi mới đi.” Điều đó có nghĩa là bạn phải gắng cứu người đang chết đuối từ trên bờ hoặc từ một chiếc thuyền trước rồi mới đến lượt chính mình bơi xuống nước. Chậc, ba lựa chọn đầu tiên giờ đã chẳng có nữa rồi.
Vậy là cô nghĩ: Đi thôi.
Lờ đi cơn đau buốt nơi hai đầu gối, cô chạy băng băng ra biển, vừa đi vừa lột bỏ khẩu súng và băng đạn. Đến chỗ mép nước cô tháo dây buộc giày, đá văng chúng đi và trong lúc vẫn giữ tầm nhìn tập trung vào nạn nhân đang vật lộn kia, cô lao vào dòng nước lạnh hung dữ.
CHƯƠNG
TÁM
Sonny Lý bò ra khỏi đám cây để nhìn rõ hơn người đàn bà tóc đỏ lúc cô ta lột giày và lao vào dòng nước dữ dội, bơi xa khỏi bờ về phía kẻ nào đó đang quẫy đạp trong nước biển.
Lý không thể nhận ra đó là ai, hoặc John Tống hoặc là người chồng trẻ trong cặp đôi đã ngồi cạnh gã trên bè, nhưng dù thế nào thì gã cũng lập tức kéo sự chú ý trở lại chỗ người đàn bà kia. Gã vẫn theo dõi cô ta từ chỗ trốn sau bụi cây suốt từ lúc cô ta mới đến bãi biển khoảng một giờ trước.
Cô ta không phải tuýp con gái gã thích. Gã chẳng quan tâm đến đàn bà mũi lõ, ít nhất là những cô mà gã vẫn gặp quanh Phúc Châu. Họ chỉ xuất hiện trong mấy hoàn cảnh: hoặc đang nằm trong vòng tay của một gã doanh nhân giàu có nào đó (cao ráo, xinh đẹp và luôn có cái nhìn khinh miệt với những người đàn ông Trung Quốc ngắm nghía họ) hoặc là những khách du lịch đi cùng chồng con (ăn mặc bô nhếch, bắn cái nhìn khinh miệt vào những người đàn ông khạc nhổ trên vỉa hè hoặc những người đi xe đạp không bao giờ nhường họ qua đường).
Mặc dù vậy người đàn bà này lại làm gã tò mò. Đầu tiên gã không thể hiểu được cô ta làm gì ở đây; cô ta đến trong chiếc xe ô tô màu vàng sáng, đi theo là một người lính vác súng tự động. Rồi cô ta xoay lưng lại và gã thoáng thấy chữ NYPD trên áo gió của cô nàng. Vậy ra cô ta là một cảnh sát Liên bang cơ đấy. Từ chỗ trốn an toàn bên kia đường, gã theo dõi cô ta tìm kiếm người mất tích và các bằng chứng.
Gã nghĩ cô ta thật khêu gợi, bất chấp cái sở thích thiên về những người đàn bà Trung Hoa lặng lẽ và cao sang của gã.
Lại còn bộ tóc nữa! Màu đẹp làm sao! Nó làm gã muốn tặng cho cô ta cái biệt danh “Hồng” phát âm là hoankseh, có nghĩa là “đỏ” trong tiếng Trung Quốc.
Nhìn lên đầu đường, Lý trông thấy một chiếc xe tải cứu thương màu vàng đang tăng tốc về phía họ. Ngay khi nó rẽ vào một chỗ đỗ xe chật và dừng hẳn, gã đã bò ra rìa đường cái. Tất nhiên vẫn có khả năng gã sẽ bị ai trông thấy, nhưng giờ gã buộc phải hành động trước khi cô ta trở lại. Gã chờ đến khi mấy nhân viên cứu thương mải tập trung vào Hồng rồi lồm cồm bò qua đường tới chỗ chiếc xe vàng. Nó là một chiếc xe đời cũ, kiểu mà bạn vẫn bắt gặp trên các chương trình truyền hình của Mỹ như Kojak và Hill Street Blues. Gã không định ăn cắp cái xe (hầu hết cảnh sát Liên bang và lính đã đi khỏi nhưng vẫn còn đủ người ở gần đó để đuổi theo và bắt gã - đặc biệt là khi gã lại ngồi sau tay lái của một chiếc xe nổi bần bật như lòng đỏ trứng gà). Không, ngay lúc này gã chỉ muốn một khẩu súng và ít tiền.
Gã mở cửa ghế phụ của chiếc xe màu vàng, lẻn vào trong và bắt đầu lục lọi hộc để đồ. Không có súng. Gã bực tức nghĩ đến khẩu Tokarev đang nằm dưới đáy đại dương của mình. Cũng chẳng có thuốc lá. Quỷ tha ma bắt cô ta... Rồi gã lục ví cô ta và tìm được khoảng năm mươi đô-la xanh. Lý nhét túi chỗ tiền mặt và liếc qua một tờ giấy cô ta đang ghi chép dở. Tiếng Anh nghe nói của gã thì tốt nhờ vào những bộ phim Mỹ và chương trình Follow Me trên đài Bắc Kinh nhưng kĩ năng đọc của gã thì dở tệ (một chuyện có vẻ không hề công bằng khi nghĩ đến việc tiếng Anh chỉ có 25 chữ cái còn tiếng Trung thì có cả bốn chục ngàn chữ). Sau khi vật lộn một hồi thì gã nhận ra cái tên thật của Quỷ, Kwan Ang, được viết bằng tiếng Anh và cũng nhận ra vài chữ khác nữa. Gã gập tờ giấy và nhét nó vào túi rồi vứt những tờ còn lại
"""