"
Quyền Lực Tuyệt Đối - David Baldacci & Đỗ Tuấn Anh (dịch) full mobi pdf epub azw3 [Trinh Thám]
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Quyền Lực Tuyệt Đối - David Baldacci & Đỗ Tuấn Anh (dịch) full mobi pdf epub azw3 [Trinh Thám]
Ebooks
Nhóm Zalo
những lời nhận xét dành cho
quyền lực tuyệt đối của david baldacci
Một tác phẩm trinh thám cực kỳ lôi cuốn…xuất sắc. ─ Houston Chronicle
Baldacci mang vào trong tác phẩm sự hiểu biết của một người trong cuộc.
─ New York Times Book Review
Rất nhiều những tình tiết nguy hiểm và bất ngờ… các nhân vật có tính cách rất phức tạp và khó đoán…tạo nên sức hấp dẫn to lớn cho tác phẩm.
─ San Jose Mercury News
Cuốn hút từ đầu đến cuối.
─ Atlanta Journal-Constitution
Hạng nhất.
─ People
Baldacdi đặc biệt xuất sắc trong việc sáng tạo ra những nhân vật chính diện rồi bắt họ phải đối mặt với những khó khăn tưởng chừng như không thể vượt qua.
─ Newsday
Dành tặng Michelle, người bạn đời thân thiết nhất, người vợ yêu quý, người cộng sự đắc lực trong quá trình nghiên cứu, không có em giấc mơ này sẽ mãi chỉ là một tia sáng le lói trong khóe mắt mệt mỏi.
Dành tặng bố mẹ yêu quý của con, không bậc cha mẹ nào có thể làm tốt hơn những gì bố mẹ đã làm.
Dành tặng anh chị của em, vì tất cả những gì anh chị đã phải chịu đựng từ cậu em trai nhỏ này, và vì anh chị lúc nào cũng luôn ở bên em.
xin chân thành cảm ơn
Jennifer Karas, vì luôn là một người bạn tuyệt vời và người trợ lý mà nhà văn nào cũng phải khao khát. Karen Spiegel, người hâm mộ nhiệt thành nhất của tôi dọc dải bờ biển phía Tây, hy vọng trong tương lai sẽ có nhiều bộ phim hoành tráng cùng những bức tượng nhỏ đang chờ đón chị. Jim và Everne Spiegel, vì tất cả những sự cổ vũ và động viên hai người đã dành cho tôi.
Aaron Priest, người đã kéo tôi ra khỏi cảnh vô danh, người bạn thân thiết và là người đại diện suốt đời của tôi, và trên tất cả là một con người vô cùng tốt bụng. Và trợ lý của ông, Lisa Vance, người đã kiên nhẫn trả lời tất cả những câu hỏi của tôi, kể cả những câu hỏi vô thưởng vô phạt nhất. Và biên tập viên của nhà sách Priest Agency, Frances Jalet-Miller, những nhận xét và góp ý sâu sắc của ông đã giúp tôi xây dựng những nhân vật của mình một cách chân thực hơn, từ đó góp phần nâng cao chất lượng tổng thể của cả cuốn sách.
Biên tập viên của tôi, Maureen Egen, vì đã giúp cho tác phẩm đầu tay của tôi được xuất bản đầy thành công và thuận lợi. Và Lany Kirshbaum, người đã nhận ra điều gì đó sau những trang viết đầu tiên của tôi đêm nọ và đã thay đổi cuộc đời tôi mãi mãi.
Steven Wilmsen, một nhà văn đồng nghiệp, người thấu hiểu và chia sẻ với tôi những khó khăn của nghề viết, người luôn dành cho tôi những lời khuyên quý báu và những lời động viên vô giá trên suốt cả hành trình. Cảm ơn anh, người bạn của tôi.
Steve và Mary Jennings, vì đã giúp đỡ tôi về mặt kỹ thuật và những công việc liên quan khác, họ cũng là những người bạn tốt nhất mà mỗi người chúng ta có thể có trên đời. Richard Marvin và Joe Barry, vì những
góp ý mang tính kỹ thuật và chuyên môn liên quan đến các hệ thống an ninh.
Và xin cảm ơm Art, Lynette, Ronni, Scott, và Randy vì tình yêu và sự cổ vũ họ đã dành cho tôi.
Cuối cùng, tôi xin nói rằng tất cả mọi ngôn từ đều không đủ để diễn tả niềm biết ơn của tôi với tất cả mọi người.
Quyền lực tuyệt đối sẽ đẻ ra sự tha hóa tuyệt đối. ─ Lord Acton
1
Lão thả lỏng hai bàn tay trên vô-lăng khi chiếc xe đã tắt đèn đang từ từ thả trôi một đoạn trước khi dừng hẳn lại. Thêm vài tiếng lạo xạo của những viên sỏi bị ép dưới lốp xe, rồi sau đó là sự yên lặng bao trùm khắp xung quanh. Lão ngồi trên ghế thêm giây lát để quen với bóng tối trước khi chậm rãi lấy ra một cặp ống nhòm nhìn đêm cũ kỹ nhưng vẫn còn rất tốt. Ngôi nhà từ từ hiện lên trước mắt. Lão ngọ nguậy đầy thoải mái và tự tin trong chiếc ghế của mình. Trên chiếc ghế bên cạnh là một cái túi vải buộc dây đựng đồ nghề. Nội thất chiếc xe được bài trí với gam màu giản dị nhưng sạch sẽ.
Chiếc xe cũng là đồ ăn cắp. Nguồn gốc trước đó của nó cũng rất mơ hồ.
Treo lủng lẳng trên tấm gương chiếu hậu là hai cây dừa nhỏ xíu bằng nhựa dẻo. Lão khẽ nhếch mép cười khi liếc nhìn thấy chúng. Chỉ một thời gian ngắn nữa thôi lão cũng sẽ tếch tới xứ sở của những cây dừa. Nơi có mặt nước biển xanh êm ả và trong suốt đến tận đáy, với bầu trời hoàng hôn và bình minh mịn màng một màu hồng tinh khôi. Lão phải rửa tay gác kiếm thôi. Đã đến lúc rồi. Lão đã tự nhủ như vậy không biết bao nhiêu lần, nhưng chưa lần nào dứt khoát như lần này.
Với cái tuổi sáu mươi sáu của mình, Luther Whitney đã quá thừa tiêu chuẩn để nhận tiền phúc lợi xã hội, và hiện lão cũng đã là thành viên có thẻ hẳn hoi của AARP . Ở cái tuổi này, hầu hết những người đàn ông đã ổn định với nghề nghiệp thứ hai với cái chức là ông nội, ông ngoại, những người trông trẻ bất đắc dĩ với nhiệm vụ là nuôi dạy con cái của con mình, khi mà những khớp xương mỏi mệt có thể nghỉ ngơi trên chiếc ghế bành
quen thuộc và những mạch máu đã ngừng sôi sục trước mọi biến động của cuộc đời.
Cả đời lão, Luther vẫn chỉ có một nghề duy nhất. Cái nghề đó liên quan đến việc bẻ khóa và đột nhập vào nhà hoặc chốn làm ăn của người khác, thường là vào lúc đêm hôm khuya khoắt như lúc này, và cố gắng xoáy càng nhiều tài sản của họ càng tốt, tất nhiên là trong chừng mực khả năng của lão có thể mang theo.
Mặc dù hiển nhiên là một kẻ đứng ngoài vòng pháp luật, nhưng Luther chưa bao giờ nổ một phát súng hoặc huơ lên một con dao nào đó ngay cả trong những lúc giận dữ và sợ hãi nhất, ngoại trừ quãng thời gian lão bị sa vào một cuộc chiến huynh đệ tương tàn giữa hai miền Nam và Bắc trên bán đảo Triều Tiên. Và những nắm đấm duy nhất lão từng vung lên là ở trong các quán bar, cũng chỉ trong những hoàn cảnh buộc phải tự vệ khi mà men rượu thường làm cho con người ta trở nên can đảm hơn lúc bình thường.
Luther chỉ đặt ra một tiêu chuẩn duy nhất trong việc lựa chọn mục tiêu: lão chỉ đánh cắp của những kẻ mà mất đi những món đồ đó cũng chẳng làm sao. Lão tự coi mình chẳng khác gì so với cả đống người thường xun xoe xung quanh những kẻ giàu có, khua môi mua mép thuyết phục họ mua những món đồ xa xỉ mà thực ra họ cũng chẳng cần.
Lão trải qua phần lớn quãng thời gian trong cuộc đời sáu mươi năm có lẻ của mình trong những nhà tù và trại cải tạo khét tiếng nhất ở bờ biển phía Đông. Như những tảng đá đè nặng trên cổ, hồ sơ của lão kín đặc chữ với ba vụ trọng án ở ba bang khác nhau. Bao nhiêu năm tháng trong cuộc đời lãp đã bị tước đi. Những năm tháng quan trọng nhất. Nhưng giờ thì lão cũng chẳng thể làm được gì để thay đổi thực tế đó.
Lão đã tinh luyện những kỹ năng đạo chích của mình đến trình độ mà lão có thể hoàn toàn tự tin rằng một cái án thứ tư là điều gần như không thể. Tuyệt đối không có gì là bí hiểm và hậu quả của lần bị tóm thứ tư: lão sẽ phải nhận mức án cao nhất là hai mươi năm. Và ở cái tuổi gần cổ lai hy như lão bây giờ, hai mươi năm cũng đồng nghĩa với án tử hình. Mà có khi họ còn cho lão lên ghế điện luôn chứ chẳng chơi. Đó vẫn là điều mà hệ thống tư pháp bang Virginia vẫn làm với những tội phạm “không còn khả năng cải tạo” như lão. Công dân của cái bang có lịch sử lâu đời nhất nước
Mỹ này vẫn có tiếng là những người biết kính sợ Chúa, mà xưa nay điều cốt yếu nhất của mọi tôn giáo nói chung và Thiên Chúa giáo nói riêng là “nhân nào quả ấy”, tội ác nào cũng phải bị trừng phạt một cách thích đáng nhất. Tỷ lệ tội phạm lĩnh án tử hình ở cái bang Virginia này chỉ xếp sau có hai bang khét tiếng khác là Texas và Florida. Nhưng gì thì gì, không thể có chuyện kết án tử hình một tên trộm thông thường được, ngay cả vị thẩm phán khả kính nhất ở Virginia cũng phải biết đâu là giới hạn chủ.
Và bất chấp mối nguy hiểm cùng hậu quả nhãn tiền như vậy, lão vẫn không thể rời mắt khỏi ngôi nhà—tất nhiên nói cho đúng thì người ta phải gọi đó là một dinh thự đồ sộ. Nó đã thu hút toàn bộ tâm trí lão trong suốt mấy tháng qua. Đêm nay thì trạng thái thôi miên đó sẽ phải chấm dứt.
Middleton, Virginia. Nằm cách thủ đô Washington, D.C đúng bốn mươi lăm phút lái xe về phía tây theo một con đường thẳng tắp. Đây là nơi tập trung những điền trang rộng mênh mông, những chiếc Jaguar không thể thiếu, và những con ngựa đua mà giá bán của chúng thừa đủ nuôi sống toàn bộ cư dân của một tòa nhà chung cư ở trung tâm thành phố trong suốt một năm. Những ngôi nhà trong khu vực này bao giờ cũng được xây dựng vô cùng hoành tráng cho xứng đáng với danh xưng của chúng. Điều hài hước là tên ngôi nhà mục tiêu lão đang nhắm tới lại có tên gọi là “The Coppers”, trong khi trông nó rõ ràng giá trị gấp nhiều nhiều lần một đồng xu.
Cảm giác căng thẳng và hồi hộp đi cùng mỗi phi vụ mà lão tiến hành bao giờ cũng vậy. Lão hình dung nó giống như cảm giác của một vận động viên bóng chày đang thong dong chạy qua các điểm đích, trong khoảng thời gian tưởng chừng như kéo dài mãi mãi, sau khi quả bóng da mới tinh đã bị anh ta vụt bay tung ra đâu đó. Đám đông đứng bật dậy, cả năm chục nghìn
cặp mắt dán chặt vào một con người dưới sân, tưởng chừng như tất cả không khí trên thế gian đều bị hút vào một chỗ, để rồi đột ngột thổi bùng ra sau một cái vung gậy đầy quyết đoán.
Luther quét đôi mắt tinh tường của lão một vòng quanh toàn bộ khu vực. Thỉnh thoảng lại có một con đom đóm lập lòe đáp lại. Ngoài điều đó ra lão chỉ có một mình. Trong giây lát lão căng tai lắng nghe tiếng ve đang ngân trầm bổng, và rồi màn hợp xướng đó nhỏ dần như từ đâu đó rất xa vẳng lại. Đối với một người đã sống rất lâu ở vùng này thì tiếng ve inh ỏi ban đêm đã trở nên quá quen thuộc.
Lão cho chiếc xe tiến thêm một đoạn trên con đường trải nhựa trước khi lùi vào một đoạn đường mòn ngắn kết thúc bằng vạt cây rậm rạp. Lão trùm lên mái tóc đã ngả hẳn sang màu xám bạc của mình một chiếc mũ trượt tuyết màu đen. Khuôn mặt nhăn nheo bôi loang lổ loại kem ngụy trang cùng một màu đen sẫm; cặp mắt màu xanh lạnh lẽo lóe lên trong bóng đêm. Nét mặt lão đanh lại như đá. Trông Luther lúc này không khác gì một lính đặc nhiệm trong lực lượng Army Ranger lão đã tham gia thời trai trẻ. Lão mở cửa bước ra khỏi xe.
Khẽ ẩn mình sau một thân cây, Luther chăm chú theo dõi mục tiêu. The Coppers, cũng giống như phần lớn những điền trang nông thôn không thực sự được xây dựng để canh tác hay nuôi ngựa, có một khung cổng thép đồ sộ với rất nhiều chi tiết cầu kỳ và lộng lẫy, hai bên cổng là hai cây cột gạch lừng lững, nhưng xung quanh hoàn toàn không có hàng rào. Hoàn toàn có thể đi thẳng vào trong khuôn viên tòa nhà từ bên đường hoặc từ khu rừng ngay cạnh. Luther chọn khu rừng.
Luther mất hai phút để đến được mép ruộng ngô mọc kề với ngôi nhà. Rõ ràng là chủ nhà không bận tâm lắm đến việc tự trồng lấy các sản phẩm nông sản, nhưng có lẽ họ vẫn làm thế cho đúng với phong vị của một địa chủ nông thôn. Luther cũng không phàn nàn gì, ít nhất thì ruộng ngô cũng giúp lão có một con đường kín đáo dẫn thẳng tới cửa trước.
Lão chờ thêm một lát rồi biến mất hẳn vào trong ruộng ngô rậm rạp.
Mặt đất trong ruộng đã được dọn sạch sẽ rác rưởi và cành lá khô nên đôi giày tennis của lão không hề gây ra tiếng động nào, đây là điều rất quan trọng, vì bất kỳ tiếng động nào cũng có thể nghe rõ một mồn một trong không khí yên lặng như thế này. Lão căng mắt nhìn thẳng về phía trước; đôi bàn chân, sau rất nhiều thời gian tập luyện cần mẫn, khẽ khàng len lỏi qua những luống ngô, cho dù mặt đất lồi lõm không đều. Không khí ban đêm mát mẻ sau cái nóng bức đến mụ mẫm người của một ngày hè oi ả, nhưng quan trọng là vẫn chưa lạnh đến mức hơi thở ra khỏi mũi bị biến thành những làn mây mỏng tang mà bất kỳ cặp mắt cảnh giác và tinh tường nào cách đó một khoảng cũng có thể nhận ra.
Luther đã căn thời gian cho khâu này nhiều lần trong suốt cả tháng qua, lần nào lão cũng dừng lại sát mép ruộng trước khi đặt chân ra khoảng trống
trước nhà và băng qua vùng ranh giới. Trong đầu lão, mọi chi tiết đều đã được thực hiện đi thực hiện lại hàng trăm lần cho đến khi mỗi cử chỉ vận động, chờ đợi, và những hành động sau đó đều đã ăn sâu vào trong bộ nhớ.
Lão nép người nằm sát xuống mép đất của khoảng trống phía trước và tranh thủ quan sát kỹ xung quanh; không việc gì phải vội vàng. Không có lũ chó, đó là tin tốt lành. Đành rằng một con người bình thường, cho dù có trẻ trung và nhanh nhẹn đến đâu chăng nữa, không thể nào chạy nhanh hơn một con chó. Nhưng điều khiến những người như Luther lạnh lưng chính là tiếng sủa quái ác của chúng. Cũng không có những hệ thống bảo vệ điện tử vòng ngoài, có lẽ là để tránh những cú báo động giả do đám động vật hoang dã khá đông đúc lảng vảng quanh đây như hươu, sóc và chồn. Tuy nhiên chỉ lát nữa thôi Luther sẽ phải đối mặt với một hệ thống an ninh cực kỳ tân tiến và tinh vi mà lão sẽ chỉ có ba mươi ba giây để hóa giải—trong đó riêng việc tháo bảng điều khiển ra cũng đã mất toi mười giây rồi.
Đội tuần tra an ninh tư nhân vừa đi khỏi khu vực này cách đây ba mươi phút. Theo đúng quy định thì lực lượng giả cảnh sát này phải liên tục thay đổi lịch trình hoạt động, thông thường là cứ mỗi tiếng một lần diễu qua khu vực giám sát của mình. Nhưng sau một tháng quan sát, Luther dễ dàng phát hiện ra một quy luật bất di bất dịch. Lão sẽ còn ít nhất là ba tiếng đồng hồ nữa trước khi đội tuần tra quay lại. Lão cũng chẳng cần nhiều thời gian đến thế.
Mặt đất tối om, và những bụi rậm lúp xúp, vốn luôn được coi là nhân tố quyết định thành bại của giới đạo chích, mọc dài hai bên cổng vào bằng gạch giống như một con sâu róm núp dưới một cành cây. Lão cẩn thận kiểm tra từng cửa sổ của ngôi nhà: tất cả đều đen ngòm và yên tĩnh. Lão đã chứng kiến cảnh đoàn xe chở những người cư ngụ trong ngôi nhà này rồng rắn ra khỏi đây cách đây hai ngày về phía nam. Lão còn cẩn thận kiểm kê từng người một xem có sót ai ở lại không. Ngôi nhà gần nhất cũng cách đây hơn ba kilomet.
Lão hít một hơi dài. Lão đã lên kế hoạch tất cả những chi tiết có thể, nhưng trong cái nghề này, đơn giản một điều là không thể nào dám chắc tất cả sẽ diễn ra theo kế hoạch.
Lão buông lỏng bàn tay đang nắm chặt quai ba-lô và dứt khoát sải những bước chân dài, nhẹ nhàng ra khỏi ruộng ngô và băng qua thảm cỏ, chỉ mười giây sau lão đã đứng đối diện với cánh cửa trước bằng gỗ đồ sộ và nặng nề được gia cố thêm bộ khung bằng thép cực kỳ kiên cố, cùng với hệ thống
khóa được xếp hạng nhất về độ chắc chắn. Tất cả những điều đó không hề khiến Luther bận tâm lấy một giây.
Lão rút trong túi áo khoác ra một chiếc chìa khóa cửa trước được đánh lại rồi cắm vào ổ khóa, tuy nhiên, lão không vặn chìa.
Lão đứng đó nghe ngóng thêm vài giây. Rồi lão tháo ba-lô xuống và thay đôi giày mới vào để đảm bảo sẽ không có dấu bùn nào còn sót lại hiện trường. Lão chuẩn bị sẵn sàng chiếc tua-vít chạy pin, thứ sẽ giúp lão mở bảng điều khiển nhanh gấp mười lần so với vặn bằng tay.
Thiết bị tiếp theo được lão cẩn thận lấy ra khỏi ba-lô nặng đúng 170 gram, trông nó chỉ nhỉnh hơn chiếc máy tính bỏ túi một chút, nhưng Luther vẫn coi thiết bị này là sự đầu tư khôn ngoan nhất lão từng thực hiện trong đời, đương nhiên là không kể đến con gái lão. Được người chủ đặt cho biệt danh là “Wit” 3 , thiết bị nhỏ xíu này đã giúp Lutheo một cách đắc lực trong ba phi vụ trước đó mà không có chút ngăn trở nào.
Năm con số trong mã an ninh bí mật của ngôi nhà đã được Luther tìm hiểu và lập trình trong máy tính của lão từ trước đó. Thứ tự chính xác của chúng vẫn còn là một bí ẩn, nhưng trở ngại đó kiểu gì cũng sẽ phải bị khuất phục bởi thiết bị đồng hành nhỏ xíu bằng kim loại có gắn dây điện lằng nhằng và những vi mạch hiện đại của Luther nếu như lão muốn tránh được những tiếng rít đến rách màng nhĩ phát ra ngay lập tức từ bốn chiếc còi báo động gắn ở bốn góc của tòa pháo đài rộng cả nghìn mét vuông mà lão đang tìm cách xâm chiếm này. Tiếp sau đó sẽ là một cuộc gọi tự động cho cảnh sát từ một chiếc máy tính vô danh mà lão sẽ phải vô hiệu hóa trong một lát nữa. Ngôi nhà còn được trang bị những tấm cửa sổ và tấm lát nền cực nhạy với áp lực, đó là chưa kể ổ khóa cửa nam châm chống trộm. Nhưng tất cả sẽ chẳng có nghĩa lý gì nếu như Wit có thể moi ra được thứ tự mật mã chuẩn từ hệ thống an ninh.
Lão chăm chú nhìn chiếc chìa khóa cắm trên cửa rồi thành thạo mắc chiếc Wit lên thắt lưng để nó treo gọn ghẽ bên sườn. Chiếc chìa khóa vặn
một vòng trơn tru trong ổ và Luther đã sẵn sàng xử lý âm thanh tiếp theo mà lão chuẩn bị nghe thấy, đó là tiếng bíp bíp khe khẽ của hệ thống an ninh cảnh báo mối hiểm họa đang treo lơ lửng trên đầu kẻ đột nhập nếu như hắn không có được câu trả lời chính xác trong khoảng thời gian cụ thể, không được chậm một tích tắc nào.
Lão thay đôi găng tay da màu đen bằng một đôi găng tay nhựa dẻo dễ thao tác hơn, dưới mỗi đầu ngón tay và lòng bàn tay của đôi găng được lót thêm một lớp đệm mềm. Nguyên tắc làm việc của lão là tuyệt đối không để
lại dấu vết. Luther hít một hơi dài rồi mở toang cánh cửa ra. Ngay lập tức tiếng bíp bíp khó chịu của hệ thống an ninh vang lên chào đón lão. Lão nhanh chóng bước vào trong gian sảnh rộng mênh mông rồi tiến thẳng lại chỗ bảng điều khiển chuông báo động.
Chiếc tua-vít tự động xoay tít êm như ru; sáu con ốc kim loại nhẹ nhàng rơi xuống lòng bàn tay của Luther rồi lại được khẽ khàng đặt vào một cái khay đựng nhỏ lão đã cài sẵn trên thắt lưng. Những sợi dây kim loại dài và mảnh gắn với Wit sáng lấp lánh trong ánh trăng nhập nhoạng chiếu qua ô cửa sổ cạnh cửa chính. Luther dừng lại trong giây lát để thăm dò, giống như một nhà phẫu thuật đang chuẩn bị mở toang lồng ngực bệnh nhân, rồi lão cũng tìm được điểm chính xác để nối những sợi dây vào vị trí và bật nguồn thiết bị đồng hành của mình lên.
Từ phía bên kia gian sảnh, một tia sáng màu đỏ quạch bắt đầu rọi thẳng xuống người lão. Thiết bị cảm ứng hồng ngoại đã bắt được nguồn nhiệt từ cơ thể Luther tỏa ra. Trong khi từng giây vẫn lặng lẽ trôi qua, nó kiên nhẫn chờ trong khi “bộ não” của hệ thống an ninh xác định xem người mới vào là bạn hay thù.
Với tốc độ nhanh đến nỗi mắt thường không thể nhận ra, những con số loang loáng hiện ra trên màn hình kỹ thuật số sáng màu hổ phách của Wit; cũng trên màn hình đó, về phía góc phải trên cùng là một ô nhỏ nhấp nháy hiển thị đồng hồ đếm ngược về quãng thời gian còn lại.
Thêm năm giây trôi qua và rồi những con số 5, 13, 9, 3 và 11 xuất hiện trên màn hình thủy tinh bé xíu của Wit và dừng hẳn lại.
Tiếng bíp bíp câm bặt cho biết hệ thống báo động đã bị vô hiệu hóa, tia sáng màu đỏ cũng vụt tắt và thay vào đó là tia sáng màu xanh lục thân
thiện, và Luther bắt tay vào việc. Lão tháo dây điện, lắp lại bảng điều khiển và cất đồ đạc vào ba-lô, rồi thận trọng khóa cửa chính lại như cũ.
Phòng ngủ chính ở trên tầng ba, có thể lên đó bằng thang máy qua hành lang tầng một bên tay phải, nhưng Luther quyết định dùng cầu thang bộ. Càng ít phải phụ thuộc vào những thứ lão không có khả năng kiểm soát hoàn toàn thì càng tốt. Bị kẹt trong một chiếc thang máy chết tiệt vài tuần liền không phải là một phần trong kế hoạch chi li của lão.
Lão liếc nhìn thiết bị cảm ứng ở góc trần, cái miệng hình chữ nhật của nó như đang mỉm cười với lão, tia hồng ngoại giám sát của nó lúc này đã ngủ yên. Lão bước thẳng lên cầu thang.
Cửa phòng ngủ chính không hề khóa. Chỉ vài giây sau lão đã bật xong chiếc đèn đặc biệt của mình, loại công suất thấp, không hắt nhiều ánh sáng ra xung quanh, rồi lão bình tĩnh quan sát xung quanh một lúc. Ánh sáng màu xanh lục hắt ra từ bảng điều khiển thứ hai gắn cạnh cửa sổ phòng ngủ như xé toang bóng tối trong căn phòng.
Bản thân ngôi nhà cũng chỉ mới được xây xong cách đây năm năm; Luther đã kiểm tra hồ sơ tại tòa án và thậm chí lão còn tìm được một bộ bản vẽ xây dựng của ngôi nhà tại văn phòng Ủy ban quy hoạch, quy mô hoành tráng của dinh thự này đòi hỏi nó phải được sự thông qua của chính quyền địa phương, cho dù việc xin phép này cũng chỉ mang tính hình thức vì thực ra có ai mà ngăn trở nổi ý muốn của những kẻ giàu có.
Không có gì bất ngờ trong bản vẽ thiết kế của ngôi nhà. Đó là một dinh dự đồ sộ, kiên cố với cái giá lên đến nhiều triệu đô-la được người chủ sở hữu thanh toán luôn bằng tiền mặt.
Trên thực tế, Luther đã một lần đến thăm ngôi nhà này, ngay giữa thanh thiên bạch nhật, với bao nhiêu người ở khắp xung quanh. Lão đã vào chính căn phòng này và lão cũng đã thấy những gì cần thấy. Đó là lý do tại sao lão có mặt tại đây đêm nay.
Đường gờ chỉ lộng lẫy giữa tường và trần nhà như đang chăm chăm nhìn xuống Luther khi lão quỳ gối cạnh chiếc giường khổng lồ có màn che phía trên. Cạnh chiếc giường là một chiếc bàn nhỏ. Trên đó là một chiếc đồng hồ bạc, cuốn tiểu thuyết lãng mạn mới xuất bản và một con dao rọc giấy nạm bạc có tay cầm bọc da mềm.
Tất cả những gì thuộc về nơi này đều hoành tráng và xa xỉ. Ngay trong phòng ngủ cũng có ba gian tủ rộng, mỗi gian rộng không kém phòng khách nhà Luther. Hai gian được dành riêng để đựng quần áo và giày dép, túi xách của phụ nữ cùng tất cả những món phụ tùng khác của phái đẹp mà hầu hết là những thứ được mua nhưng chẳng mấy khi động tới bao giờ. Luther liếc nhìn những bức ảnh được lồng khung trên chiếc bàn và khinh khỉnh quan sát người “phụ nữ nhỏ nhắn” ngoài hai mươi đứng cạnh đức ông chồng khoảng bảy mươi của mình.
Trên thế gian này có không biết bao nhiêu là loại xổ số, và không phải loại nào cũng là do nhà nước phát hành.
Vài bức ảnh khoe thân hình hừng hực sức sống với những đường cong bốc lửa của bà chủ nhà hết mức có thể, và sau khi khám phá gian tủ quần áo thì Luther cũng rút ra nhận xét rằng gu ăn mặc của cô nàng thiên về trường phái cực kỳ thiếu vải.
Lão ngước nhìn tấm gương soi cả người, chăm chú để ý đến những mép gương chạm trổ cầu kỳ. Rõi lão săm soi các cạnh gương. Đó là một món đồ nội thất khá đồ sộ và thời thượng, được gắn trực tiếp vào trong tường, hoặc đúng ra thì thoạt nhìn có vẻ là như vậy, nhưng Luther thì biết tỏng là trong hai cái gờ rãnh nhỏ phía trên và phía dưới chiếc gương có những chiếc bản lề được giấu rất tinh vi.
Luther nhìn lại chiếc gương. Lão có lợi thế rất lớn là đã nhìn thấy một chiếc gương như thế này cách đây vài năm mặc dù khi đó lão không hề có ý định xoáy nó. Nhưng người ta chẳng bao giờ lại phớt lờ một quả trứng vàng thứ hai chỉ vì đã có chắc một quả vàng trong tay, trong khi quả trứng vàng thứ hai đó đang giá khoảng năm mươi nghìn đô-la. Còn Luther ước tính phần thưởng đang chờ đợi phía bên kia tấm gương này ít nhất cũng phải gấp mười lần số đó.
Chỉ cần dùng sức mạnh với sự hỗ trợ của một xà beng nhỏ là lão có thể phá tung hệ thống khóa ẩn bên trong những mảng chạm trổ của chiếc gương, nhưng như thế sẽ mất đi khoảng thời gian quý báu. Và, hơn thế nữa, nó sẽ để lại những dấu vết không giấu vào đâu được của sự đột nhập. Mặc dù theo kế hoạch thì ngôi nhà sẽ còn vắng người trong vài tuần sau đó, những ai mà biết chắc được. Khi lão rời khỏi The Coppers, sẽ không
được có bất kỳ dấu hiệu nào cho thấy lão đã ở đó. Ngay cả khi quay về thì cũng khó có chuyện những người chủ sẽ kiểm tra hốc tường bí mật của mình ngay lập tức. Dù sao đi nữa, lão cũng sẽ không đánh liều chọn con đường khó khăn làm gì.
Lão rảo bước tới chiếc TV màn hình lớn được bố trí sát với một bên tường của căn phòng rộng thênh thang. Khu vực này được bài trí như một phòng khách với những chiếc ghế bọc vải hoa sặc sỡ nhưng rất hài hòa và một chiếc bàn cà phê lớn. Luther nhìn ba chiếc điều khiển từ xa nằm trên bàn. Một cái dành cho TV, một cái cho đầu video, còn cái cuối cùng hẳn sẽ giúp cho công việc của lão đơn giản đi đến chín phần mười. Mỗi cái điều khiển đều có tên của nhà sản xuất in kèm, trông na ná nhau, nhưng chỉ cần vài thao tác đơn giản lão đã xác định được hai cái điều khiển TV và đầu video, và cầm đi cái thứ ba.
Lão đi ngang qua phòng về chỗ ban đầu, chĩa chiếc điều khiển vào gương và nhấn nút đỏ duy nhất nằm phía dưới của thiết bị này. Bình thường thì hành động này có nghĩa là đầu video sẽ bắt đầu ghi hình. Còn đêm nay, trong căn phòng này, điều đó lại có nghĩa là ngân hàng đang mở cửa hoạt động để phục vụ một quý khách hàng may mắn.
Luther đng nhìn cánh cửa từ từ xoay mở một cách dễ dàng và không một tiếng động trên những bản lề không cần tra dầu. Theo thói quen từ lâu, lão đặt lại chiếc điều khiển vào đúng chỗ ban đầu, rút một chiếc túi vải có thể gấp lại được ra khỏi ba-lô và bước vào trong hốc tường bí mật.
Khi ánh đèn lia qua bóng tối, lão ngạc nhiên nhìn thấy một chiếc ghế bành bọc da được đặt ngay giữa hốc tường, hay đúng hơn căn phòng nhỏ, mỗi chiều khoảng hai mét. Trên tay vịn của chiếc ghế bành là một chiếc điều khiển từ xa trông giống hệt như cái mà lão vừa cất đi, rõ ràng là người chủ đã cẩn thận đặt nó vào đây để phòng chẳng may cánh cửa sập đóng lúc họ đang ở trong. Rồi lão liếc mắt sang những chiếc giá kê hai bên tường.
Đầu tiên là những bọc tiền mặt được xếp rất ngay ngắn, sau đó là tới các món đồ bên trong những chiếc hộp khảm trai mà chắc chắn không phải là nữ trang rẻ tiền. Luther đếm được khoảng hai trăm nghìn đô-la trái phiếu quy đổi được cùng những loại cổ phiếu khác, cùng với hai hộp nhỏ đựng những đồng tiền xu cổ và một hộp khác đựng tem, trong đó có cả
chiếc tem in ngược cực hiếm khiến Luther phải nuốt khan. Lão bỏ qua mớ séc ngân hàng cùng những hộp đựng đầy tài liệu pháp lý vốn chẳng có giá trị gì với mình. Đánh giá sơ bộ thì tài sản trong cái hầm bí mật này phải lên đến hai triệu đô-la, thậm chí còn hơn.
Lão thận trọng nhìn quanh lần nữa, để chắc chắc không bỏ sót ngóc ngách nào. Những bức tường quanh gian phòng rất dày—lão đoán chúng đều có khả năng chống đạn, ít nhất là chống đạn trong khả năng tối đa con người có thể tạo ra. Tuy nhiên chỗ này cũng không hoàn toàn kín mít; không khí rất thoáng đãng, chứ không ngột ngạt. Có thể ở trong này một thời gian dài.
Chiếc limo bóng nhoáng đang phóng nhanh trên đường, bám sát phía sau là một chiếc xe thùng, tài xế của mỗi chiếc đều quá thừa sự lão luyện để lái xe trong màn đêm với tốc độ như vậy mà không cần đèn pha trước.
Trong khoang sau rộng mênh mông của chiếc limo là một người đàn ông và hai người phụ nữ, một người đã gần như say mèm và đang cố hết sức để cởi bỏ quần áo của người đàn ông cũng như của chính mình ngay tại chỗ, bất chấp những nỗ lực phòng ngự lấy lệ của nạn nhân.
Người phụ nữ còn lại ngồi đối diện với họ, môi mím chặt, làm ra vẻ không thèm đếm xỉa gì đến khung cảnh lố bịch trước mặt mình với đủ những trò đùa nghịch và tiếng cười khúc khích cùng hơi thở gấp gáp đầy nhục dục, nhưng thực ra bà ta đang chăm chú quan sát tất cả những chi tiết của cặp đôi này. Điểm chú ý của bà ta lúc này là một cuốn sổ lớn đang mở ra trong lòng mình, trong đó ghi chi chít thông tin về những cuộc hẹn và những dòng ghi chú, tất nhiên bà ta vẫn không hề rời mắt khỏi người đàn ông đang ngồi đối diện mình, ông này đang tranh thủ lúc người phụ nữ kia đang mải loay hoay tháo đôi giày cao gót ra khỏi chân để tự rót cho mình một ly rượu nữa. Khả năng hấp thụ thứ đồ uống có cồn này của ông ta phải nói là đáng nể. Ông ta hoàn toàn có thể uống nhiều gấp hai lần lượng rượu ông ta đã uống buổi tối hôm đó mà vẫn không hề để lộ chút dấu hiệu
gì ra ngoài, không có chuyện nói líu nhíu hay những cử chỉ giật cục—điều đặc biệt tối kị đối với một người có cương vị như ông ta.
Dù sao bà ta cũng không khỏi khâm phục người đàn ông, cùng những nỗi ám ảnh và góc cạnh xù xì thực sự trong con người ông ta, cũng như khả năng của ông ta khi trưng ra trước thế giới một hình ảnh toát lên vẻ thuần khiết và mạnh mẽ, giản dị nhưng đồng thời cũng vô cùng vĩ đại. Mọi phụ nữ Mỹ đều phải lòng ông ta, mê mẩn với vẻ ngoài đẹp trai rất cổ điển, phong thái đặc biệt tự tin, cũng như địa vị mà ông ta có, tóm lại là vì tất cả những thứ đó. Và ông ta đáp lại sự cuồng si đại chúng đó bằng một niềm đam mê khiến bà ta sững sờ, cho dù đó có là một niềm đam mê được đặt không đúng chỗ.
Thật đáng buồn, niềm đam mê đó chưa bao giờ hướng về bà ta, bất chấp những thông điệp dịu dàng và tình tứ, những cái chạm nhẹ đầy lưu luyến; bất chấp cả việc sáng nào bà ta cũng hăm hở là người đầu tiên được gặp ông ta trong dáng vẻ lộng lẫy và quyến rũ nhất của mình, cùng với những câu nói ám chỉ đầy nhục cảm trong mỗi lần họ gặp nhau để bàn bạc về chiến lược. Nhưng trong khi chờ giây phút đó xuất hiện—và kiểu gì nó cũng sẽ xuất hiện, bà ta vẫn luôn tự thuyết phục mình như vậy—bà ta sẽ phải kiên nhẫn.
Bà ta ngước nhìn ra ngoài cửa sổ. Chuyện này đang tốn quá nhiều thời gian, khiến mọi thứ khác đều lộn tùng phèo. Môi bà ta bặm lại vì khó chịu.
Luther nghe thấy tiếng xe đang đi vào phía trước nhà. Lão khẽ bước lại cửa sổ, ẩn mình khỏi tầm nhìn từ phía trước nhà và chăm chú quan sát đoàn xe nhỏ đang đi vòng về phía sau. Lão đếm được bốn người bước xuống khỏi chiếc limo, một người từ chiếc xe thùng. Lão cân nhắc thật nhanh các khả năng trong đầu. Quá ít người nên đây không thể nào là những người chủ đột nhiên quay về. Nhưng lại là quá nhiều nếu ai đó chỉ định qua kiểm tra tình hình. Lão không thể nhìn rõ bất kỳ khuôn mặt nào. Trong một khoảnh khắc thật mỉa mai Luther đã chợt nghĩ có lẽ đâu ngôi nhà lại bị đạo chích viếng thăm thêm một lần nữa trong cùng một đêm. Nhưng không thể
nào có chuyện trùng hợp như vậy được. Trong cái nghề này, cũng như rất nhiều nghề khác, con người ta phải dựa phần lớn vào xác suất. Hơn nữa nếu là dân tội phạm thì có đâu lại xếp hàng lũ lượt tiến vào mục tiêu trong những bộ trang phục thích hợp với một buổi dạ tiệc trong thành phố cơ chứ.
Lão suy nghĩ thật nhanh trong khi những tiếng động vẫn vọng đến tai mình, có lẽ là từ khu bên ngoài phía sau ngôi nhà. Phải một giây sau lão mới nhận ra là như thế thì đường rút lui của lão đã bị cắt đứt, và cần phải tính toán xem kế hoạch tiếp theo sẽ là như thế nào.
Với tay chộp lấy ba-lô, lão chạy vội tới bên bảng điều khiển bên cạnh cửa phòng ngủ và kích hoạt hệ thống an ninh của ngôi nhà, trong đầu thầm cảm ơn khả năng ghi nhớ những con số của mình. Sau đó Luther lại lách người chui vào trong gian buồng bí mật, khẽ khàng khép cánh cửa lại phía sau mình. Lão lùi vào sâu bên trong hết mức có thể. Và giờ là lúc lão phải chờ đợi.
Lão nguyền rủa vận đen của mình; mọi chuyện đang diễn ra vô cùng suôn sẻ. Rồi lão lắc mạnh đầu một cái, cố bắt mình phải giữ hơi thở thật đều. Chuyện này cũng giống như khi chúng ta bay. Càng bay lâu thì càng dễ có chuyện chẳng lành xảy ra. Lão chỉ còn cách thầm hy vọng là những vị khách vừa đến ngôi nhà không có ý định cho thêm món của nả nào vào cái ngân hàng nhỏ mà lão đang chiếm giữ.
Một tràng cười khanh khách rồi sau đó là những giọng nói lao xao vọng đến tai lão, cùng với đó là tiếng bíp bíp rất to đến chói tai của hệ thống an ninh, nghe như một chiếc phản lực đang gầm rít ngay trên đầu lão. Hình như đã có chút nhầm lẫn trong việc nhập mật mã bảo vệ. Một giọt mồ hôi to tướng rịn ra trên trán Luther khi lão hình dung ra cảnh tiếng chuông báo động rú ầm lên và cảnh sát sắp ập tới kiểm tra từng centimet vuông của ngôi nhà, bắt đầu từ cái chuồng chim mà lão đang ở.
Lão tự hỏi không biết sẽ phải phản ứng như thế nào nếu cánh cửa gương bật mở, một tia sáng lia vào trong, chiếu thẳng vào mặt lão. Những khuôn mặt lạ lẫm sẽ thò vào, súng lăm lăm trên tay, đọc cho lão nghe quyền của mình. Suýt nữa thì lão phá lên cười. Lão đang ở trong tình cảnh chẳng khác gì một con chuột chết tiệt sa bẫy, không biết rúc đầu vào xó nào. Đã
gần ba mươi năm nay lão không hút một điếu thuốc, nhưng ngay lúc này lão chợt thấy thèm một hơi thuốc đến cồn cào. Lão khẽ khàng đặt túi xuống đất và chầm chậm duỗi thẳng cả hai chân ra cho đỡ mỏi.
Những tiếng chân nặng nề bước lên cầu thang lát gỗ sồi. Cho dù những người này có là ai thì chắc chắn họ cũng không quan tâm đến việc có người khác biết họ ở đây. Luther đếm được bốn, có lẽ là năm người. Họ rẽ trái và bước thẳng về phía lão.
Cánh cửa phòng ngủ khẽ kẹt mở. Luther lục lọi nhanh trong trí nhở. Tất cả mọi thứ đều đã được dọn dẹp hoặc được trả lại nguyên như cũ. Lão mới chỉ động đến chiếc điều khiển từ xa, nhưng lão cũng đã đặt lại nó vào chỗ cũ, thẳng hàng với vệt bụi có từ trước. Lúc này Luther chỉ còn nghe thấy ba giọng nói, một người đàn ông và hai phụ nữ. Một người phụ nữ có vẻ đã say khướt, người kia giọng vẫn nghiêm nghị. Rồi cô nghiêm nghị biến mất, cánh cửa đóng lại nhưng không hề khóa, chỉ còn lại cô say khướt và người đàn ông. Những người khác đâu nhỉ? Cô nghiêm nghị đi đâu rồi? Vẫn là tiếng cười đùa khúc khích. Tiếng bước chân tiến sát lại gần chiếc gương. Luther cố lùi sâu vào trong góc hết mức, chỉ dám hy vọng là chiếc ghế sẽ che chắn bớt cho mình, mặc dù lão thừa biết hy vọng đó là hão huyền.
Rồi một luồng ánh sáng chói lòa tràn ngập mắt lão khiến Luther há hốc miệng bàng hoàng khi bất thình lình cái thế giới nhỏ bé của lão bị đưa từ trong bóng tối đen như mực ra giữa thanh thiên bạch nhật. Lão hấp háy mắt liên hồi để quen với ánh sáng đột ngột, đồng tử mắt của lão đang mở tròn xoe bỗng thu nhỏ lại còn một chấm trong chốc lát. Nhưng không có tiếng quát nào cả, không có những khuôn mặt lạ lẫm thò vào, và cũng không có súng.
Cuối cùng, sau một phút dài dằng dặc trôi qua, Luther hé mắt nhòm qua góc chiếc ghế, chỉ để nhận thêm một cú sốc nữa. Cánh cửa gương dường như biến mất; lão đang nhìn thẳng ra căn phòng ngủ khốn kiếp kia. Suýt nữa lão đã ngã ngửa người ra sau vì choáng váng nhưng rồi lão cũng trấn tĩnh được. Luther chợt hiểu chiếc ghế bành này ở đây để làm gì.
Lão nhận ra cả hai người trong phòng ngủ. Người phụ nữ thì tối nay lão đã gặp rồi, qua những bức ảnh: chính là người phụ nữ nhỏ nhắn với gu
thời trang trễ nải như một gái bán hoa.
Còn lão lại biết người đàn ông vì một lý do hoàn toàn khác; hiển nhiên ông ta không phải là người chủ ngôi nhà này. Luther bàng hoàng khẽ lắc đầu và buông ra hơi thở đã nín hồi lâu. Hai tay lão run rẩy, một cơn buồn nôn chợt trào lên xâm chiếm lão. Lão cố chống lại cảm giác chếnh choáng như người say sóng và tiếp tục chăm chú nhìn ra phòng ngủ.
Cánh cửa gương cũng chính là một tấm gương một chiều. Với ánh sáng tràn ngập bên ngoài và bóng tối bao phủ trong không gian chật hẹp, lúc này như thể lão đang xem phim qua một màn hình TV khổng lồ.
Rồi lão chợt nhìn thấy nó và chết lặng người, không khí trong phổi như bị rút sạch: chiếc vòng kim cương trên cổ người đàn bà. Theo con mắt từng trải của lão thì trị giá của nó là hai trăm nghìn đô-la, thậm chí còn hơn thế. Đúng là kiểu trang sức mà người ta thường cất ngay vào két an toàn trong nhà trước khi đi ngủ. Nhưng rồi lão cũng thở phào nhẹ nhõm khi thấy người đàn bà tháo chiếc vòng ra và hững hờ thả tuột nó xuống sàn nhà.
Nỗi sợ rút đi khiến lão tự tin nhổm hẳn người dậy và khẽ lần tới bên chiếc ghế rồi chậm rãi ngồi hẳn xuống. Vậy là lão khọm chủ nhà đã ngồi đây và chứng kiến “cô nàng bé nhỏ” của mình hú hí tưng bừng với cả đám đàn ông trai tráng khác. Căn cứ vào vẻ ngoài của cô ả, Luther đoán là một số thành viên trong cái đám đàn ông đó là những gã trai vai u thịt bắp kiếm sống bằng những đồng lương rẻ mạt hoặc đang bám víu vào thế giới tự do bằng một chiếc thẻ xanh. 5 Nhưng gã trai gọi của cô ả đêm nay lại thuộc về một tầng lớp hoàn toàn khác.
Lão nhìn quanh, tai căng ra nghe ngóng tìm kiếm âm thanh từ những người khác trong nhà. Nhưng thực sự thì lão cũng làm gì khác được chứ? Suốt hơn ba mươi năm hành nghề, lão chưa bao giờ sa vào hoàn cảnh như lúc này, vì vậy lão đành quyết định làm điều duy nhất có thể. Chỉ được ngăn cách với thảm họa bởi đúng một tấm kính dày có vài phân, lão khẽ khàng ngồi xuống chiếc ghế da và chờ đợi.
2
Cách tòa nhà Quốc hội Hoa Kỳ màu trắng vươn cao ngạo nghễ có ba khối phố, Jack Graham đang hí húi mở cửa căn hộ của mình, ném phịch chiếc áo khoác xuống sàn rồi đi thẳng tới tủ lạnh. Cầm chai bia trên tay, anh thả người xuống chiếc ghế sofa xác xơ trong phòng khách. Ánh mắt anh hờ hững lướt qua căn phòng nhỏ xíu trong khi nhấm nháp từng ngụm
bia. Đúng là khác một trời một vực so với những gì anh vừa mới chứng kiến. Anh để nguyên bia trong miệng một lúc rồi mới nuốt hẳn. Cơ bắp trên chiếc cằm vuông vức của anh căng lên rồi lại giãn ra ngay. Những
thoáng ngờ vực khó chịu như kim châm chầm chậm biến đi nhưng chúng sẽ sớm quay lại thôi; bao giờ cũng vậy.
Lại thêm một bữa dạ tiệc với Jennifer, người sắp trở thành vợ anh, cùng với gia đình cô và những người quen biết trong giới xã giao và làm ăn của họ. Những người ở địa vị xã hội phức tạp như vậy hình như chẳng bao giờ kết bạn đơn thuần chỉ vì tình bạn. Mỗi người đều có một chức năng nào đó, cái tổng thể quan trọng hơn phép cộng đơn thuần của các phần. Hoặc ít nhất thì đó cũng là mục đích mà họ đặt ra, mặc dù trong chuyện này thì Jack có quan điểm hoàn toàn khác.
Jack đọc tờ Wall Street Journal, lướt qua tin tức về những cái tên sừng sỏ của nền công nghiệp và ngành tài chính trước khi lật qua mục thể thao để xem đội ’Skins hoặc đội Bullets đang thi đấu thế nào. Giới con buôn chính trị đang đua nhau khua môi mua mép, hy vọng kiếm được những lá phiếu cho tương lai và những đồng đô-la cho hiện tại. Xun xoe quanh nhóm này là nhan nhản cảnh luật sư mà Jack cũng là một thành viên, thỉnh thoảng lại có một tay bác sĩ nào đó cho xôm tụ đúng kiểu giới thượng lưu ngày trước, cùng với một vài tay chuyên thao thao bất tuyệt những chuyện
trên trời dưới biển, làm như thể những kẻ ăn trên ngồi trốc đó luôn quan tâm đến tình cảnh của những người dân bình thường vậy.
Anh uống nốt chai bia và bật TV lên. Anh cởi giày, rồi sau đó là đôi tất kiểu cách giá bốn mươi đô-la mà cô vợ sắp cưới vừa mua cho anh cũng nhanh chóng nằm vắt vẻo trên chụp đèn. Giá kể mà có thời gian chắc cô còn mua những chiếc dây đeo quần giá hai trăm đô-la cùng với những chiếc cà-vạt có họa tiết vẽ tay rất hợp tông. Mẹ khỉ! Anh xoa xoa những ngón chân, trong đầu nghiêm túc nghĩ đến chai bia thứ hai. Anh cố tập trung vào màn hình TV nhưng không ăn thua. Anh giơ tay gạt những mớ tóc dày và đen khỏi mắt và, lần thứ một nghìn, cố tập trung nghĩ về nơi mà cuộc sống của anh đang ầm ầm lao tới, nhanh như tốc độ ánh sáng.
Chiếc limo cáu cạnh của công ty Jennifer đã đưa hai người tới ngôi nhà sang trọng của cô ở Tây Bắc Washington, nơi mà có lẽ Jack cũng sẽ chuyển về sau đám cưới; cô ghét ra mặt chỗ anh đang ở lúc này. Chỉ còn sáu tháng nữa là đám cưới sẽ diễn ra, có vẻ như đối với tiêu chuẩn của một cô dâu thì khoảng thời gian đó chẳng đáng là bao, còn anh thì vẫn đang ngồi đây, băn khoăn không biết mình có muốn đám cưới đó không nữa.
Jennifer Ryce Baldwin sở hữu một vẻ đẹp mà ai cũng phải ngơ ngẩn nhìn theo, kể cả phụ nữ chứ không nêng gì cánh mày râu. Cô còn rất thông minh và lại được giáo dục một cách hoàn hảo, xuất thân gia thế và quan trọng nhất là thực sự muốn cưới Jack làm chồng. bố cô sở hữu một trong những công ty đầu tư lớn nhất nước Mỹ. Trung tâm thương mại, cao ốc văn phòng, đài phát thanh, phim trường, chẳng có lĩnh vực nào mà ông ta không đầu tư vào, mà lại còn đầu tư xuất sắc hơn bất kỳ ai khác. Cụ nội Jennifer là một trong những trùm tài phiệt đầu tiên ở miền Trung Tây trước kia, trong khi gia đình bên ngoại của cô từng có thời kỳ sở hữu phần lớn khu trung tâm Boston. Có thể nói các vị thần đã sớm ưu ái và luôn ở bên cạnh Jennifer Baldwin. Không một gã đàn ông mà Jack quen biết lại không phát điên lên vì ghen với anh.
Anh vặn vẹo người trên ghế và cố xoa bóp chỗ vai bị mỏi cứng. Cả tuần nay anh đã không luyện tập. Dù đã ở tuổi ba mươi, cơ thể cao gần 1m90 của anh vẫn dẻo dai và sung sức không khác gì thời còn học trung học, nơi mà anh đã chẳng khác gì một người đàn ông trưởng thành giữa đám lũ nhóc bạn học, và cả ở trường đại học, nơi mà sự cạnh tranh khốc liệt hơn
nhưng anh vẫn luôn là nhà vô địch trong môn vật hạng nặng và từng tham gia trong giải vô địch các trường đại học toàn quốc. Chính năng khiếu thể thao đó cũng là một lý do anh nhận được học bổng vào trường luật của Đại học Virginia, nơi anh đã viết luận án Phê bình Luật, rồi tốt nghiệp top đầu toàn khóa và nhanh chóng trở thành một luật sư công trong hệ thống tư pháp ở thủ đô Washington.
Các bạn học của anh đều chộp được những cơ hội béo bở hơn nhiều tại các hãng danh tiếng nhất sau khi ra trường. Thỉnh thoảng họ lại gọi cho anh cùng với số điện thoại của các bác sĩ tâm thần, những người có thể giúp anh ra khỏi sự lựa chọn điên rồ của mình. Nghĩ đến đây Jack bất giác mỉm cười, anh đứng dậy và đi lấy chai bia thứ hai. Lúc này tủ lạnh đã trống trơn.
Jack đã trải qua năm đầu tiên trên cương vị một luật sư công mới chập chững vào nghề đầy khó khăn, anh thua nhiều hơn thắng. Nhưng thời gian qua đi, dần dần anh tiếp nhận những vụ án nghiêm trọng hơn. Là một người say mê công việc, Jack luôn dồn hết toàn bộ sinh lực của tuổi trẻ, cùng tài năng bẩm sinh và sự nhạy bén của mình vào từng vụ án, tình hình cũng bắt đầu thay đổi.
Và rồi anh bắt đầu trở thành cơn ác mộng trước tòa đối với nhiều kẻ tai to mặt lớn.
Anh nhận ra rằng anh đảm nhiệm cương vị của mình một cách rất tự nhiên, đặc biệt giỏi giang và sắc sảo trong việc đối chất, cũng giống như trước kia anh vẫn cho những gã còn bự con hơn mình phơi bụng trên thảm đấu vật. Anh được mọi người tôn trọng, tất nhiên là trong chừng mực lòng tôn trọng con người ta có thể dành cho một luật sư.
Anh gặp Jennifer tại một cuộc họp mặt của Hiệp hội Luật sư Mỹ. Cô là phó chủ tịch phụ trách phát triển và thị trường của công ty Baldwin Enterprises. Không chỉ có vẻ ngoài năng động, cô còn có khả năng tài tình khiến cho bất kỳ ai đối thoại với cô cũng luôn cảm thấy mình là người quan trọng; ý kiến của họ luôn được cô lắng nghe chăm chú, nhưng có làm theo hay không thì chưa chắc. Cô là một nữ hoàng sắc đẹp nhưng chẳng bao giờ dựa dẫm vào lợi thế đó.
Đằng sau vẻ ngoài đẹp đẽ thường ẩn chứa những điều hấp dẫn tiếp theo. Hoặc ít ra một số trong chúng ta cũng nghĩ vậy. Jack cũng bình thường như bao người đàn ông khác khi anh không giấu nổi vẻ choáng ngợp khi gặp Jennifer. Và ngay từ đầu cô cũng đã thể hiện cho anh thấy là sự choáng ngợp đó đến từ hai phía. Trong khi tỏ ra ấn tượng trước sự cống hiến quên mình của anh cho sự nghiệp bảo vệ quyền lợi của những người bị buộc tội ở thủ đô, dần dần Jennifer cũng thuyết phục được Jack rằng anh đã đóng góp xong phần của mình cho những người nghèo khổ, không có tiếng nói và bất hạnh, và có lẽ đã đến lúc anh bắt đầu suy nghĩ cho bản thân và cho tương lai của mình, và rằng có lẽ cô muốn là một phần trong cái tương lai đó. Khi anh cuối cùng cũng rời bỏ cương vị luật sư công, văn phòng chưởng lý Hoa Kỳ cũng tổ chức cho anh một bữa tiệc chia tay ra trò, hay nói là tiệc tống khứ thì đúng hơn. Lẽ ra ngay khi đó anh đã phải nhận ra rằng vẫn còn rất nhiều những người nghèo khổ, không có tiếng nói và bất hạnh đang cần sự giúp đỡ của anh. Jack không hy vọng sẽ còn được sống lại những cảm giác phấn khích và hưng phấn như khi còn là một luật sư công; anh tự thuyết phục mình rằng những trải nghiệm đó chỉ đến một lần trong đời và giờ thì chúng đã ra đi mãi mãi. Đã đến lúc phải sang trang mới; ngay cả những chú nhóc như Jack Graham đến một ngày nào đó hỏi cũng phải lớn lên. Có lẽ đã đến thời của anh.
Anh tắt TV, với lấy một túi bỏng ngô và bước vào phòng ngủ, bước lên đống quần áo bẩn vất bừa bãi ngay trước lối đi. Cũng chẳng trách Jennifer không thích chỗ ở của anh; Jack là một anh chàng luộm thuộm. Nhưng điều khiến anh khó chịu là cho dù căn hộ của anh có sạch như lau như li chăng nữa thì chắc chắn rằng cô cũng không đời nào chịu chuyển về sống ở đây. Lý do đầu tiên: nó không ở một khu đắc địa; vẫn là quanh Capitol Hill , nhưng không phải là khu thượng lưu, nói đúng ra thì khoảng cách đến mức độ thượng lưu còn xa vời lắm.
Rồi đến diện tích căn hộ nữa. Ngôi nhà của cô phải rộng đến cả 500 mét vuông, chưa kể khu ở riêng dành cho người giúp việc và ga-ra hai chỗ nơi đặt chiếc Jaguar và chiếc Range Rover mới cáu cạnh của cô, cứ như thể bất kỳ ai sống ở cái thủ đô với đường xá chật chội này cũng cần phải có một chiếc xe có khả năng lao phăm phăm được trên dốc đá dựng đứng của một ngọn núi cao mấy nghìn mét không bằng.
Căn hộ của anh có bốn phòng, tính cả phòng tắm. Anh vào phòng ngủ, cởi bỏ quần áo và thả người xuống giường. Ngang qua căn phòng, trên một tấm biển nhỏ từng được treo ở văn phòng làm việc của anh cho tới khi anh phát ngượng mỗi khi nhìn thấy nó, là bản thông cáo về việc anh gia nhập Patton, Shaw & Lord. PS&L là hãng luật số một ở thủ đô. Nhà tư vấn luật cho hàng trăm công ty siêu lớn đã ghi nhận công lao của anh trong việc hợp tác với tập đoàn của bố vợ tương lai, tức là tương đương với việc đem về một khách hàng nhiều triệu đô-la cho hãng, và điều đó cũng đảm bảo cho anh vị trí đối tác sau cuộc họp cổ đông tới đây. Vị trí đối tác ở Patton, Shaw ít nhất cũng tương đương với khoản thu nhập nửa triệu đô-la mỗi năm. Tất nhiên đối với nhà Baldwin thì nửa triệu đô-la chỉ như tiền tiêu vặt. Nhưng anh không phải là người nhà Baldwin. Hiện tại thì chưa phải.
Anh kéo chăn lên người. Hệ thống cách nhiệt ở khu nhà này qua là không thể nào thích nổi. Anh thả vào họng mấy viên aspirin, nốc một hơi hết lon Coke dở đang nằm trên bàn rồi nhìn quanh phòng ngủ bừa bộn và
chật chội của mình. Nó làm anh nhớ đến nơi anh đã lớn lên. Một ký ức ấm cúng và thân thuộc. Đã là nhà thì bao giờ cũng phải bừa bộn cho có hơi người; chúng phải là không gian cho bọn trẻ hò hét đuổi nhau từ phòng này sang phòng khác trong những cuộc phiêu lưu mới mẻ và bất tận, tìm kiếm những món đồ mới tinh mà đập phá.
Đó cũng lại là một vấn đề đối với Jennifer: cô đã nói thẳng rằng âm thanh của những bàn chân nhỏ lẫm chẫm là một dự án dài hạn với tính khả thi cực thấp. Sự nghiệp của cô tại công ty của cha mình là ưu tiên hàng đầu và trước nhất trong trí óc và trái tim của cô—thậm chí còn quan trọng hơn cả chính Jack, theo những gì anh cảm nhận.
Anh trở mình và cố tìm cách chợp mắt. Gió đang đập vào cửa sổ và anh bất giác ngước nhìn theo hướng đó. Anh cố quay mặt đi, nhưng cuối cùng cũng phải đầu hàng, ánh mắt từ từ liếc sang chiếc hộp.
Trong hộp là một phần bộ sưu tập những chiếc cúp thể thao và những phần thưởng anh nhận được hồi trung học và đại học. Nhưng chúng không phải là điều xâm chiếm tâm trí anh lúc này. Trong bóng tối nhập nhoạng, anh vươm tay ra lục lấy bức ảnh lồng khung, quyết định thôi, và rồi lại đổi ý.
Anh rút nó ra. Điều này dường như đã trở thành một nghi lễ. Anh chưa bao giờ phải lo vợ chưa cưới của mình sẽ tình cờ bắt gặp bí mật này vì cô luôn dứt khoát từ chối có mặt tại phòng ngủ của anh quá một phút. Bất kỳ lúc nào họ quấn lấy nhau dưới chăn thì đó hoặc là ở nhà cô, nơi bao giờ
Jack cũng nằm ngửa trên giường, mắt trân trân nhìn lên trần nhà cao sáu mét với bức bích họa chen chúc những kỵ sĩ thời cổ đại và những công nương trẻ trung, trong khi Jennifer tự tận hưởng niềm lạc thú cho tới khi cô phủ phục xuống người anh rồi nằm xuống để anh đến từ phía trên cô. Hoặc là ở nhà nghỉ nông thôn của bố mẹ cô, nơi mà những trần nhà thậm chí còn cao hơn và những bức bích họa được mô phỏng từ một nhà thờ thế kỷ 13 nào đó ở Rome, tất cả những cảnh đó khiến Jack có cảm giác Chúa trời đang nhìn anh nằm dưới cô nàng Jennifer Baldwin xinh đẹp và hoàn toàn khỏa thân, rằng cuối cùng anh sẽ phải mòn mỏi mãi mãi trong lửa địa ngục vì những phút giây lạc thú ấy.
Người phụ nữ trong ảnh có mái tóc màu nâu óng ả, đuôi tóc hơi cong, mềm mại. Cô đang mỉm cười nhìn anh và Jack nhớ về cái ngày anh chụp bức ảnh này.
Một chuyến đạp xe vào giữa vùng nông thôn yên ả của hạt Albemarle. Khi ấy anh đang học năm thứ nhất trường luật, còn cô học năm thứ hai Đại học Jefferson. Đó mới là lần hẹn hò thứ ba, nhưng dường như hai người cảm thấy chưa bao giờ sống thiếu nhau.
Kate Whitney.
Anh chầm chậm thì thầm cái tên đó; theo bản năng bàn tay anh lần theo những đường cong trên khóe miệng đang mỉm cười của cô, cái lúm đồng tiền duy nhất trên má trái khiến cho mặt cô hơi lệch đi một chút. Cặp xương gò má hình trái xoan viền quanh chiếc mũi thanh tú chỉ thẳng xuống cặp môi đầy đặn và quyến rũ. Cái cằm sắc nét và như đang hét toáng lên hai chữ “bướng bỉnh”. Jack đưa ngón tay ngược lên trên rồi dừng lại ở đôi mắt to hình giọt lệ dường như lúc nào cũng có vẻ chế giễu, tinh nghịch.
Jack lại lăn người xuống giường và đặt tấm ảnh trên ngực để cô nhìn thẳng vào anh. Anh không thể nào nghĩ đến Kate mà không hình dung ra khuôn mặt của cha cô, cùng với lối nói chuyện đầy sắc sảo và nụ cười tinh quái của ông.
Jack vẫn thường đến thăm Luther Whitney ở ngôi nhà nhỏ của ông tại khu Arlington cũ kỹ và hẻo lánh. Cả hai ngồi hàng giờ bên nhau uống bia và nói chuyện, chủ yếu là Luther nói và Jack nghe.
Kate không bao giờ đến thăm cha, và ông cũng không bao giờ tìm cách liên lạc với cô. Jack biết đến ông hoàn toàn do tình cờ và mặc dù Kate kịch liệt phản đối, anh vẫn luôn muốn gặp và tìm hiểu về người đàn ông này. Trên mặt Kate dường như lúc nào cũng đang nở một nụ cười, nhưng ông bố lại là điều chưa bao giờ khiến cô mỉm cười khi nhắc đến.
Sau khi anh tốt nghiệp, cả hai cùng chuyển tới thủ đô và cô đăng ký theo học tại trường luật của Đại học Georgetown. Cuộc sống khi ấy mới nên thơ làm sao. Cô đến tham dự những phiên tòa đầu tiên của Jack, trong khi bụng anh lúc nào cũng bồn chồn nóng ran, cổ họng như tắc nghẹn, thậm chí còn không nhớ phải ngồi bàn luật sư nào nữa. Nhưng mức độ nghiêm trọng trong những tội ác mà khách hàng của anh bị cáo buộc ngày càng tăng lên, và sự nhiệt tình của cô cũng dần biến mất.
Hai người chia tay ngay trong năm đầu tiên anh hành nghề.
Lý do thật đơn giản: cô không thể hiểu tại sao anh lại quyết định đại diện cho những kẻ phạm pháp, và cô cũng không thể chịu nổi việc anh rất quý cha cô.
Anh nhớ đến giây phút cuối cùng hai người ở bên nhau là anh đã ngồi bên cô ngay chính trong căn phòng này và yêu cầu, van xin, cô đừng đi. Nhưng rồi cô vẫn ra đi. Đó là chuyện của bốn năm trước, từ đó đến nay anh hoàn toàn không gặp hay nhận được tin gì của cô cả.
Anh chỉ biết rằng cô đã nhận một công việc tại văn phòng Chưởng lý bang ở Alexandria, Virginia, nơi mà chắc chắn cô đang bận tâm tìm cách tống những thân chủ của anh vào nhà đá vì đã dám giẫm đạp lên luật pháp của bang được cô coi như quê hương thứ hai này. Ngoài chuyện đó ra thì đối với anh, Kate Whitney đã là một người hoàn toàn xa lạ.
Nhưng khi nằm đây với bức ảnh cô đang mỉm cười nhìn thẳng vào anh với ánh mắt nói lên cả triệu điều mà anh chưa bao giờ nhận thấy ở người phụ nữ mà anh sắp làm đám cưới sau sáu tháng nữa, Jack băn khoăn không biết Kate có còn là người xa lạ đối với anh; chẳng nhẽ cuộc đời anh lại có
số phận phức tạp hơn những gì anh muốn hay sao. Anh chụp lấy điện thoại và quay số.
bốn hồi chuông đổ và giọng nói cất lên. Có vẻ gì đó sắc lạnh mà anh không nhớ, hoặc cũng có thể đây là điều hoàn toàn mới mẻ. Rồi sau đó là tiếng bíp báo để lại lời nhắn thoại, anh bắt đầu nói, chỉ là vài câu đùa cợt, hoàn toàn ngẫu hứng, nhưng rồi ngay lập tức anh cảm thấy hồi hộp và vội vàng gác máy, tay run lẩy bẩy, hơi thở gấp gáp. Anh lắc đầu. Lạy Chúa! Anh đã tham gia năm vụ án xử tội giết người vậy mà bây giờ anh đang run rẩy như một thằng nhóc mười sáu tuổi khốn kiếp đang cố tìm đủ can đảm cho lần hẹn hò đầu tiên vậy.
Jack cất bức ảnh qua một bên và cố hình dung xem Kate đang làm gì ngay lúc này. Có lẽ có vẫn đang ở văn phòng cân nhắc xem nên tước bỏ khỏi cuộc đời ai đó bao nhiêu năm cho thích đáng.
Rồi Jack lại bâng khuâng nghĩ đến Luther. Có lẽ nào ngay lúc này ông lại đang “tình cờ” ở phía trong của nhà một ai đó? Hay đang cao chạy xa bay với những xấp tiền mới coóng nằm tung tẩy trên vai?
Thật là một gia đình kỳ lạ, Luther và Kate Whitney. Vừa khác lại vừa giống nhau! Chỉ cần liếc qua cũng biết họ là cha và con không lẫn vào đâu được, tuy nhiên thế giới quan của hai người dường như lại nằm hai thiên hà hoàn toàn tách biệt. Cái đêm cuối cùng đó, sau khi Kate bước ra khỏi cuộc đời anh, Jack đã tới chỗ Luther để nói lời tạm biệt và cùng ông già làm chầu bia cuối cùng. Họ ngồi với nhau trong khu vườn nhỏ được chăm sóc chu đáo, ngắm nhìn những dây hoa clematis và hoa thường xuân vấn vít bò trên hàng rào; mùi hoa tử đinh hương và hoa hồng nồng nàn thấm đẫm không gian xung quanh hai người.
Ông già đã rất tử tế, hỏi Jack vài câu và chúc anh sớm vượt qua. Đơn giản là mọi chuyện không thành; Luther hiểu điều đó cũng như bất kỳ ai khác. Nhưng khi Jack ra về đêm hôm đó, anh đã nhận thấy mắt ông già ánh lên rất lạ—và rồi cánh cửa cuộc đời anh của giai đoạn đó cũng đóng sập lại.
Cuối cùng Jack cũng tắt đèn và chợp mắt khi anh biết một ngày mới đang bắt đầu ló rạng. Hu vàng của anh, vận may cả đời của anh, lại sắp
thành hiện thực. Nhưng ngay cả điều đó cũng không giúp anh có được một giấc ngủ dễ dàng.
3
Trong khi vẫn căng mắt nhìn qua tấm gương, Luther không khỏi nảy ra ý nghĩ rằng hai người này quả là một cặp đẹp đôi. Kể ra cũng là một ý nghĩ thật quái đản trong hoàn cảnh hiện giờ, nhưng điều đó cũng không hề khiến kết luận của lão giảm bớt đi phần nào tính đúng đắn. Người đàn ông cao ráo, đẹp trai, một người trung niên ngoài bốn mươi đầy sung sức. Người phụ nữ còn chưa đến ba mươi; mái tóc vàng đầy đặn và mềm mại, khuôn mặt hình trái xoan xinh xắn, với đôi mắt màu xanh da trời long lanh, trong vắt, đang khát khao dán chặt vào những đường nét thanh tú của người đàn ông. Ông ta vuốt ve gò má mịn màng của cô ta; người phụ nữ nghịch ngợm bấu chặt môi vào mu bàn tay người đàn ông.
Người đàn ông với lấy hai cái cốc lớn và rót đầy rượu từ chiếc chai ông ta vẫn kẹp theo người. Ông ta đưa cho người phụ nữ một cốc. Sau khi chạm cốc, hai người đắm đuối nhìn nhau, ông ta một hơi cạn sạch cốc của
mình trong khi người phụ nữ cố lắm cũng chỉ nhấp được một ngụm nhỏ. Cốc được đặt xuống, họ đứng giữa phòng quấn chặt lấy nhau. Hai bàn tay ông ta vuốt ve xuống dưới phía sau người phụ nữ rồi lại đi ngược lên đôi vai trần tròn trịa. Bờ vai và hai cánh tay người phụ nữ đều thon thả, rám nắng. Người đàn ông hau háu xiết chặt lấy người phụ nữ lại gần mình và cúi xuống hôn lên cổ cô ta.
Luther liếc mắt ra hướng khác, bối rối khi phải chứng kiến cảnh tượng hoàn toàn nêng tư này. Một cảm giác thật lạ lùng khi rõ ràng là lão vẫn có thể bị tóm bất kỳ lúc nào. Nhưng lão chưa già đến mức có thể bất động trước cảnh tượng đầy đam mê và nhục dục đang diễn ra trước mặt mình.
Lão đưa mắt trở lại khung cảnh chính, và mỉm cười. Cặp đôi đang đu đưa theo một điệu nhảy chậm xung quanh phòng. Người đàn ông tỏ ra
thuần thục với điệu nhảy; người phụ nữ có phần lúng túng hơn, nhưng ông ta cũng chậm rãi điều khiển tiết tấu của cả hai cho nhịp nhàng cho đến khi điệu nhảy kết thúc bên cạnh giường.
Người đàn ông dừng lại để rót đầy cốc lần nữa rồi nhanh chóng dốc cạn một hơi. Chai rượu lúc này đã cạn sạch. Hai tay ông ta lại quàng qua người phụ nữ, cô nàng dựa hẳn vào người đàn ông, kéo vạt áo và bắt đầu rút cà vạt ra. Bàn tay người đàn ông lần tới khóa váy của người phụ nữ và từ từ kéo xuống dưới. Chiếc váy đen trượt xuống phủ trùm lên mắt cá và người phụ nữ bước hẳn chân ra, trên người chỉ còn quần lót và đôi tất nịt cao đến ngang đùi, nhưng không có áo ngực.
Cô ta có một cơ thể mà những người phụ nữ khác phải phát ghen ngay lập tức. Mọi đường cong đều hoàn hảo, đúng vị trí cần thiết. Eo cô ta nhỏ đến nỗi Luther có cảm giác là nó sẽ nằm khít giữa hai bàn tay khum lại của lão. Khi người phụ nữ nghiêng qua một bên để cởi bỏ đôi tất, Luther nhận thấy là cô ta có bộ ngực thật vừa vặn, tròn và căng đầy. Cặp chân dài thon thả, có lẽ nhờ luyện tập nhiều giờ mỗi ngày dưới sự giám sát chặt chẽ của một huấn luyện viên chuyên nghiệp.
Người đàn ông cũng nhanh chóng cởi phăng quần áo của mình, cho đến khi trên người ông ta chỉ còn chiếc quần ngắn, rồi ngồi xuống cạnh giường nhìn người phụ nữ đang từ từ rút chân ra khỏi chiếc quần lót nhỏ xíu. Cặp mông của cô ta cũng tròn trịa và căng mẩy, một màu trắng ngà nổi bật trên nền cơ thể rám nắng không một khiếm khuyết. Khi mảnh vải cuối cùng rơi xuống, một nụ cười vụt lóe lên trên mặt người đàn ông, khoe hàm răng đầy đặn và trắng tinh. Dù hơi men đang bốc lên phừng phừng, ánh mắt ông ta dường như vẫn tinh tường, chững chạc.
Cô nàng cũng mỉm cười trước sự khao khát của người đàn ông và chậm rãi bước lên. Khi cô ta lại gần, hai cánh tay dài của ông ta vươn ra nắm chặt và kéo ghì người phụ nữ vào mình. Cô ta đắm đuối xoa lên, xoa xuống trên ngực người đàn ông.
Một lần nữa, Luther bắt đầu nhìn lảng ra chỗ khác, lão không mong gì hơn là cái cảnh trớ trêu trước mắt kia kết thúc càng sớm càng tốt và những người này sẽ rời đi. Lão sẽ chỉ mất có vài phút để quay lại xe, và đêm nay
sẽ chỉ còn lại trong ký ức như là một trải nghiệm cận kề với thảm họa có một không hai.
Đúng lúc đó lão nhìn thấy người đàn ông bóp mạnh mông người phụ nữ và vỗ đen đét lên đó, liên tục, liên tục. Luther chau mày cảm thấy đau thay cho người phụ nữ sau những cú đánh liên tiếp khá nặng tay; làn da trắng mịn màng đã chuyển sang màu đỏ bầm. Nhưng hoặc là người phụ nữ quá say đến mức không cảm thấy đau, hoặc cô ta lại thích thú với kiểu đối xử như vậy, vì cô ta vẫn không ngừng nhoẻn miệng cười. Luther lại cảm thấy ruột gan lão như thắt lại khi những ngón tay của người đàn ông hằn sâu vào làn da thịt mềm mại của người phụ nữ.
Miệng người đàn ông như đang nhảy múa trên ngực người phụ nữ; cô ta luồn những ngón tay của mình vào mái tóc dày của ông ta rồi khẽ trườn người nằm lọt giữa hai chân ông ta. Cô ta nhắm nghiền mắt, miệng vẫn nhoẻn cười đồng lõa; đầu cô ta hơi ngả ra sau. Rồi cô ta mở choàng mắt, cặp môi nghiến ngấu tấn công miệng người đàn ông.
Những ngón tay cứng cáp của ông ta nhấc lên khỏi cặp mông vừa bị hành hạ rồi bắt đầu nhẹ nhàng vuốt ve trên lưng người phụ nữ. Bất thình lình ông ta lại bấu thật chặt cho đến khi cô ta hơi nhăn mặt và dứt ra khỏi
ông ta. Nụ cười của người phụ nữ đã hơi méo đi, người đàn ông cũng dừng lại khi người phụ nữ đè những ngón tay của mình lên ngón tay ông ta. Người đàn ông lại chuyển sự chú ý của mình về bộ ngực và bắt đầu liếm láp chúng như một đứa trẻ. Mắt cô ta lại nhắm nghiền, hơi thở hổn hển kéo dài thành tiếng rên khe khẽ. Người đàn ông lại chuyển sự chú ý của mình vào cổ người phụ nữ. Mắt ông ta mở trừng trừng, hướng về phía Luther mà không hề biết sự có mặt của ông.
Luther nhìn thẳng vào người đàn ông, vào đúng đôi mắt đó, và khó chịu trước những gì lão thấy. Hai hồ nước đen ngòm có viền đỏ ngầu bao quanh, giống như một hành tinh hiểm ác nào đó hiện lên qua kính viễn vọng. Lão không khỏi nghĩ rằng người phụ nữ trần trụi kia đang quằn quại trong móng vuốt của một thứ không được dịu dàng và đáng yêu như cô ta vẫn tưởng.
Cuối cùng người phụ nữ cũng trở nên sốt ruột và đẩy bạn tình của cô ta ngã xuống giường. Cô ta ngồi dạng chân trên người đàn ông, phô bày trọn
vẹn trước mặt Luther một cái nhìn từ phía sau mà lẽ ra chỉ là đặc quyền cho bác sĩ phụ khoa và chồng của người phụ nữ. Cô ta nhổm người lên, nhưng rồi bất thình lình người đàn ông lại vùng dậy gạt phắt cô ta qua một bên rồi nằm đè lên trên, chộp lấy hai chân người phụ nữ và giữ thẳng chúng lên cho đến khi chúng gần như vuông góc với chiếc giường.
Luther cứng đờ người trên ghế khi chứng kiến hành động tiếp theo của người đàn ông. Ông ta chộp lấy cổ người phụ nữ và giật cô ta dậy, kéo đầu cô ta vào giữa hai chân mình. Hành động bất ngờ đó khiến người phụ nữ há hốc miệng vì kinh ngạc, miệng cô ta gần như chạm hẳn vào cái đó của ông ta. Người đàn ông phá lên cười và đẩy cô ta ngã xuống giường như cũ. Sau vài giây bàng hoàng, người phụ nữ cũng gượng nở một nụ cười yếu ớt và chống khuỷu tay nhổm dậy khi người đàn ông nằm đè phía trên. Một tay ông ta cầm cái thứ đàn ông cương cứng của mình, còn tay kia tách hai chân người phụ nữ ra. Trong khi người phụ nữ nằm đó ngoan ngoãn chờ đợi, người đàn ông trừng trừng nhìn cô ta với ánh mắt hoang dại.
Nhưng thay vì đi sâu vào giữa hai chân người phụ nữ, ông ta lại chộp lấy ngực cô ta và bóp, có lẽ là hơi quá mạnh, vì cuối cùng Luther cũng nghe thấy một tiếng kêu đau đớn ré lên và bất thình lình người phụ nữ tát thẳng vào mặt người đàn ông. Ông ta thả tay ra và tát trả rất mạnh, Luther trông rõ một vệt máu trào ra trên khóe miệng người phụ nữ rồi lan ra trên cặp môi đầy đặn tô son của cô ta.
“Đồ chó chết khốn nạn!” Người phụ nữ lồm cồm nhổm dậy khỏi giường và ngồi phệt xuống sàn nhà quệt tay lau miệng, vị máu tanh có lẽ đã khiến bộ não đang ướt sũng rượu của cô ta tỉnh táo hơn. Những từ đầu tiên mà Luther nghe rõ trong đêm đó đập vào đầu lão như một chiếc búa tạ. Lão đứng dậy, rón rén tiến sát ra mép gương.
Người đàn ông nhếch mép. Luther lạnh cóng người khi nhìn thấy nụ cười đó. Giống như một con thú hoang đang nhe nanh chuẩn bị vồ mồi hơn là một con người.
“Chó chết khốn nạn!” người phụ nữ lại rít lên, lần này thì khẽ hơn, giọng nói như nhíu lại. Cô ta vừa đứng lên thì bị ông ta chụp lấy cánh tay và vặn, khiến cô ta ngã mạnh xuống sàn. Người đàn ông vẫn ngồi nguyên trên giường nhìn xuống đắc thắng.
Ông ta bắt đầu thở dồn dập. Luther đứng trước tấm kính, bàn tay hết nắm chặt rồi lại duỗi ra trong khi chứng kiến những cảnh đó và không ngừng cầu khẩn rằng những người kia sẽ quay trở lại. Lão nhìn chiếc điều khiển từ xa trên ghế rồi lại dán mắt nhìn vào phòng ngủ.
Người phụ nữ nhổm lên khỏi mặt sàn, lúc này cô ta đã bắt đầu tỉnh hẳn. Những cảm xúc lãng mạn mà cô ta trải qua trước đó dường như đã biến sạch. Luther có thể nhận ra điều đó trong những cử chỉ cơ thể của cô ta, cảnh giác và thận trọng. Người bạn tình hình như đã không nhận thấy sự thay đổi trong cử chỉ và tia giận dữ trong đôi mắt xanh thẳm của cô ta, nếu không ông ta đã chẳng đời nào đứng dậy và chìa tay ra cho người phụ nữ nắm.
Nụ cười trên môi người đàn ông vụt biến mất khi cái đầu gối của người phụ nữ thúc thẳng vào giữa hai chân ông ta, khiến ông ta gập người xuống, tất cả những gì vừa cương cứng giờ đây đã xẹp lép như bong bóng xì hơi. Ông ta nằm co quắp trên sàn, miệng hớp hớp không ra tiếng, ngoài hơi thở nặng nề trong khi người phụ nữ vơ lấy cái quần lót và bắt đầu mặc vào.
Ông ta chụp lấy mắt cá chân người phụ nữ và kéo cô ta ngã vật ra sàn, chiếc quần lót mới chỉ vừa kéo lên đến ngang đùi.
“Con đĩ ranh này.” Những từ đó phun ra trong hơi thở hổn hển và đứt quãng của người đàn ông đang cố kìm nén cơn đau choáng người, trong khi tay ông ta vẫn tóm chặt mắt cá chân người phụ nữ, kéo cô ta lại sát gần mình.
Cô ta co chân đạp ông ta túi bụi. Bàn chân cô ta đạp huỳnh huỵch vào mạng sườn người đàn ông, nhưng ông ta vẫn nhất định không buông. “Con điếm ranh này,” ông ta nguyền rủa.
Trước vẻ đe dọa chết chóc trong giọng nói của người đàn ông, bất giác Luther tiến thêm một bước về phía chiếc gương, lão lướt một bàn tay lên bề mặt kính láng bóng, như thể muốn xuyên qua đó, túm lấy người đàn ông kia, bắt ông ta phải buông tha.
Người đàn ông nén đau lảo đảo gượng dậy, vẻ mặt ông ta lúc này khiến Luther rùng mình, ớn lạnh.
Hai bàn tay người đàn ông lúc này đã chụp lấy cổ họng người phụ nữ.
Bộ não còn thấm hơi cồn của người phụ nữ cũng đã hiểu chuyện gì đang xảy ra. Nỗi khiếp đảm hiện rõ trên đôi mắt lúc này đang đảo hết sang trái lại sang phải trong khi áp lực trên cổ mỗi lúc một tăng lên, hơi thở của cô ta cũng yếu dần. Những ngón tay của cô ta bấu chặt lấy cánh tay người đàn ông, cào xé điên cuồng.
Luther nhìn thấy máu bầm lên trên da người đàn ông ở những chỗ bị tấn công, nhưng hai bàn tay đang xiết quanh cổ người phụ nữ vẫn không hề nơi lỏng.
Cô ta quẫy đạp và giẫy giụa không ngừng, nhưng người đàn ông nặng gần gấp đôi cô ta; ông ta không hề nhúc nhích.
Luther lại nhìn chiếc điều khiển từ xa. Lão có thể mở cửa. Lão có thể ngăn chuyện này lại. Nhưng hai chân lão vẫn không sao nhúc nhích nổi. Lão bất lực nhìn qua tấm gương, mồ hôi rịn ướt trên trán, mọi lỗ chân lông trên cơ thể lão dường như sắp nổ tung; lão bắt đầu thở gấp từng cơn vì bấn loạn. Hai tay Luther đè hẳn lên mặt kính.
Hơi thở của Luther ngưng bặt khi người phụ nữ quay ngoắt người nhìn chiếc bàn phía đầu giường. Và rồi, bằng một cử chỉ như phát cuồng, cô ta chụp lấy con dao rọc giấy và đâm bừa một phát vào cánh tay người đàn ông.
Ông ta rú lên vì đau đớn, buông người phụ nữ ra và ôm lấy cánh tay đầy máu. Ông ta kinh hoàng nhìn xuống vết thương, hầu như không thể tin nổi là ông ta đã bị người phụ nữ kia đâm toạc tay.
Khi người đàn ông ngẩng đầu lên, Luther hầu như ngay lập tức cảm nhận được tiếng gầm đầy chết chóc ngay trước khi nó vọt ra khỏi miệng người đàn ông.
Và rồi người đàn ông đấm người phụ nữ, đấm thẳng tay, một cú trời giáng mạnh hơn Luther từng chứng kiến bất kỳ người đàn ông nào đánh phụ nữ. Nắm đấm rắn đanh chạm vào làn da thịt mềm mại, và máu mồm, máu mũi người phụ nữ ộc ra.
Luther không biết đó là vì lượng rượu mà người phụ nữ nốc say bí tỉ trước đó hay vì bất kỳ lý do nào khác, nhưng quả đấm mà bình thường có thể hạ gục một người đàn ông khỏe mạnh hầu như không làm cô ta hề hấn
gì. Bằng một sức mạnh kỳ lạ, cô ta vẫn lảo đảo đứng lên được. Khi cô ta quay mặt nhìn vào gương, Luther chúng kiến nỗi kinh hoàng hiện lên trên mặt người phụ nữ khi cô ta bất ngờ nhận ra vẻ đẹp của mình bỗng chốc bị hủy hoại. Mắt trợn trừng không tin nổi trước những gì hiện ra trong gương, cô ta đưa tay lên sờ chiếc mũi sưng vù; một ngón tay cụp xuống chạm vào chiếc răng cửa gần như gãy rời. Cô ta đã trở thành một bức chân dung vấy bẩn, lợi thế trời cho của cô ta đã vụt biến đi trong tích tắc.
Cô ta quay ngoắt lại đối diện với người đàn ông, và Luther nhận thấy những cơ bắp trên lưng cô ta đột nhiên căng lên nổi múi như những thớ gỗ cứng. Nhanh như chớp, cô ta lại đạp thẳng bàn chân vào giữa háng người đàn ông. Chỉ trong chớp mắt, ông lại đổ xuống như cây lúa mì bị lưỡi hái phạt ngang, những cơ bắp mềm nhũn vì choáng váng. Ông ta nằm vật ra sàn nhà, rên rỉ, miệng đớp đớp như một con cá mắc cạn. Hai đầu gối chân ông ta co lên trên, bàn tay ôm chặt lấy hạ bộ.
Khuôn mặt người phụ nữ lúc này đã be bét máu, ánh mắt đã vụt chuyển từ vẻ khiếp đảm bàng hoàng sang những tia chết chóc, có ta thả người xuống bên cạnh người đàn ông, con dao rọc giấy vung cao lên quá đầu.
Luther chộp lấy chiếc điều khiển, tiến một bước lại sát cửa, ngón tay đã đặt sẵn trên nút bấm.
Chứng kiến mạng sống của mình đang sắp chấm hết khi con dao rọc giấy đang vung xuống ngực, người đàn ông dồn hết sức gào lên thảm thiết. Tiếng kêu cứu của ông ta đã có người nghe thấy.
Luther cứng đờ người đứng yên tại chỗ, mắt như dán chặt vào cửa phòng ngủ vừa bật tung ra.
Hai người đàn ông đầu cắt cua, mang những bộ vest lịch sự nhưng cũng không che nổi dáng người đồ sộ bên trong—lao vào phòng, súng lăm lăm trên tay. Trước khi Luther kịp làm bất cứ điều gì thì hai người đã đánh giá được tình hình và đưa ra quyết định.
Cả hai khẩu súng nổ cùng một lúc.
Kate Whitney ngồi trong văn phòng xem lại tập hồ sơ một lần nữa.
Đó là hồ sơ của một kẻ từng có bốn tiền án, và thậm chí đã sáu lần bị bắt nhưng không thể bị kết tội vì các nhân chứng quá sợ hắn nên không dám ra làm chứng trước tòa, hoặc đã chết vùi xác trong một thùng rác công cộng nào đó. Hắn là một quả bom hẹn giờ biết đi, lúc nào cũng chực làm tan xác một nạn nhân mới, tất cả từ trước đến nay đều là phụ nữ.
Lần này hắn bị buộc tội giết người sau khi thực hiện hành vi cướp và hãm hiếp, ngần đó sẽ là quá đủ cho khung hình phạt tử hình theo luật của bang Virginia. Và lần này cô quyết định làm cái điều phải làm: án tử hình cho kẻ giết người. Từ trước đến giờ Kate chưa bao giờ yêu cầu tòa tuyên án tử hình đối với bất kỳ bị cáo nào, nhưng nếu như có người đáng nhận bản án nghiêm khắc như vậy thì đó chắc chắn phải là tên này. Và tòa án bang sẽ không hề đắn đo khi thực hiện. Tại sao lại ban cho hắn cuộc sống sau khi hắn đã tàn bạo và dã man kết thúc cuộc sống của một nữ sinh viên đại học mới mười chín tuổi, người chỉ phạm sai lầm là vào cửa hàng bách hóa giữa ban ngày để mua mấy đôi tất và một đôi giày mới.
Kate dụi mắt, rồi lấy một chiếc dây nịt nằm lẫn trong đống trên bàn để buộc túm mái tóc lại phía sau thành đuôi ngựa. Cô nhìn quanh căn phòng làm việc nhỏ bé và giản dị của mình; những chồng hồ sơ chất la liệt quanh phòng và có lẽ đến cả triệu lần rồi cô tự hỏi không biết có lúc nào chuyện này sẽ dừng lại không. Tất nhiên là không. Có chăng là mọi chuyện sẽ chỉ càng tồi tệ hơn mà thôi, và cô chỉ có thể làm những gì trong khả năng của mình để ngăn máu người vô tội tiếp tục đổ. Có sẽ bắt đầu bằng việc hành hình Roger Simmons, Jr., hai mươi hai tuổi, nhưng đã là một trong những tên tội phạm máu mặt nhất mà cô từng phải đương đầu, và cô đã phải đối mặt với không biết bao nhiêu tên như vậy trong sự nghiệp còn khá ngắn ngủi của mình. Cô nhớ lại vẻ mặt hắn nhìn cô trước tòa hôm đó. Đó là một vẻ mặt hoàn toàn không có chút gì là ăn năn, hối hận hoặc bất kỳ cảm xúc tích cực nào của con người. Đó cũng là một khuôn mặt tuyệt vọng đến cùng cực, một điều dễ hiểu nếu điều tra về thời thơ ấu của Simmons, chẳng khác gì một bi kịch kinh hoàng. Nhưng đó không phải điều cô quan tâm. Có lẽ đó là điều duy nhất khiến cô thấy thờ ơ.
Cô lắc đầu và nhìn đồng hồ, đã quá nửa đêm. Cô bước ra ngoài rót thêm ít cà phê rồi lặng lẽ quan sát xung quanh. Những đồng nghiệp cuối
cùng trong văn phòng chưởng lý đã ra về trước đó ít nhất là năm tiếng đồng hồ. Những người lao công cũng đã xong việc trước đó ba tiếng. Cô bước dọc xuống hành lang dẫn xuống bếp với đôi bàn chân đi tất mỏng. Giả sử như Charlie Manson có đang được ở bên ngoài lúc này và vẫn đang làm những trò điên rồ của hắn, thì có lẽ đối với cô hắn cũng chỉ là một trường hợp quá đơn giản; một tên tội phạm nghiệp dư so với những con quái vật đang tác oai, tác quái hiện giờ.
Tay cầm cốc cà phê, cô quay vào văn phòng và dừng lại giây lát để ngắm nhìn hình ảnh của mình phản chiếu trên cửa kính. Với công việc của cô thì vẻ ngoài thực sự chẳng còn quan trọng; chết tiệt, cô không hề hẹn hò gì trong suốt hơn một năm qua. Nhưng cô vẫn không sao dứt được ánh mắt ra khỏi hình ảnh của chính mình. Có có dáng người cao ráo và thon thả, có lẽ một số chỗ hơi quá nhỏ một chút, nhưng thói quen chạy 6 cây số mỗi ngày của cô chưa bao giờ thay đổi trong khi lượng calorine cô hấp thụ vào người đã giảm đi đáng kể. Chủ yếu là cô sống nhờ vào bánh quy và thứ cà phê rất tệ, mặc dù cô giới hạn cho mình chỉ hút hai điếu thuốc mỗi ngày và đang hy vọng là nếu may mắn cô có thể bỏ hẳn thì tốt.
Cô cảm thấy ân hận vì đã hành hạ thân thể mình bằng những giờ làm việc bất tận cùng mối căng thẳng mà những vụ án khủng khiếp nối tiếp nhau mang đến, nhưng cô còn biết làm thế nào bây giờ? Bỏ việc chỉ vì trông cô không giống như những cô nàng bốc lửa trên trang bìa tạp chí Cosmopolitan à? Cô đành tự an ủi mình bằng thực tế rằng công việc hai mươi tư giờ mỗi ngày của họ là phải làm sao để trông thật bốc lửa cơ mà. Còn công việc của cô là bảo đảm rằng những kẻ phạm pháp, những kẻ gây tổn thương cho người khác sẽ bị trừng trị thích đáng. Dù xét theo tiêu chí nào chăng nữa, cô cũng cho rằng mình đang sống một cuộc đời có ích hơn nhiều.
Cô đập đập vào mái tóc lòa xòa trước trán; lẽ ra phải cắt lâu rồi mới phải, nhưng lấy đâu ra thời gian cho việc đó cơ chứ? Dù sao thì khuôn mặt cô vẫn chưa in nhiều dấu ấn của gánh nặng mà cô ngày càng thấy khó đảm nhiệm. Khuôn mặt hai mươi chín tuổi của cô, sau bốn năm làm việc, mười chín tiếng mỗi ngày và không biết bao nhiêu phiên tòa, vẫn giữ nguyên được những đường nét ngày nào. Cô thở dài nhận ra rằng có lẽ điều đó cũng không kéo dài mãi được. Hồi còn học đại học, cô đã khiến không biết
bao nhiêu chàng trai phải ngoái đầu nhìn theo ngơ ngẩn, là nguyên nhân gây ra những trái tim loạn nhịp và những lần toát mồ hôi lạnh. Nhưng càng bước gần sang ranh giới của tuổi ba mươi, cô càng nhận ra rằng vẻ đẹp mà cô coi như chuyện đương nhiên suốt bao năm qua, vẻ đẹp mà trong thực tế cô đã nhiều lần nhạo báng, cũng sẽ không còn bên cô lâu nữa. Và cũng giống như nhiều điều khác chúng ta vẫn coi là chuyện đương nhiên, hoặc phủi tay coi như không quan trọng, thì khả năng làm những người ngồi trong căn phòng nào đó phải im bặt sững sờ khi cô bước vào cũng sẽ là điều mà cô biết chắc là mình phải nhớ tiếc sau này.
Việc vẻ đẹp của cô vẫn còn tươi tắn sau mấy năm qua càng trở nên phi thường khi biết rằng cô hầu như chẳng làm gì để giữ gìn hay níu kéo nó. Gen di truyền ưu việt, chắc chắn đó là nguyên nhân chính; cô đã gặp may. Nhưng rồi cô lại nghĩ tới cha mình và tự nhủ rằng thật ra cô cũng chẳng may mắn cho lắm trong vấn đề di truyền. Một người chuyên ăn cắp của người khác rồi giả vờ như đang sống một cuộc sống hoàn toàn bình thường. Một người chuyên lừa dối tất cả mọi người, kể cả vợ và con gái mình. Một người cô không thể trông cậy những khi cô cần ông nhất.
Cô ngồi xuống chỗ của mình, nhấp một ngụm cà phê nóng bỏng, cho thêm chút đường và vừa quấy thứ nước kích thích đen ngòm vừa chằm chằm nhìn bức ảnh Simmons trong tập hồ sơ.
Có nhấc điện thoại, gọi về nhà để kiểm tra tin nhắn. Có năm lời nhắn, hai của các luật sư khác, một của tay cảnh sát mà cô định mời ra làm chứng chống lại Simmons và một của tay nhân viên điều tra thích gọi cho cô vào những giờ oái oăm nhất để cung cấp những tin tức chẳng đâu vào đâu. Có lẽ cô phải đổi số điện thoại thôi. Tin nhắn cuối cùng bỏ lửng. Nhưng cô có thể nghe thấy tiếng thở rất khẽ từ phía đầu dây bên kia, thậm chí cô hầu như còn nghe được một hay hai từ. Có gì đó trong giọng nói nghe quen quen, nhưng cô không sao nhớ ra nối. Chắc lại là một kẻ vô công rồi nghề rách việc.
Cà phê bắt đầu ngấm vào trong huyết quản, cô cũng tập trung trở lại vào tập hồ sơ trước mặt. Cô ngẩng lên nhìn giá sách nhỏ của mình. Trên cùng là một bức ảnh cũ chụp người mẹ đã mất và cô bé Kate mười tuổi. Khuôn mặt bị cắt trong ảnh chính là Luther Whitney. Một khoảng trống to đùng bên cạnh hai mẹ con. Một khoảng trống không gì hết.
"Chó chết, chó chết, mẹ kiếp!" Tổng thống Hợp chúng quốc Hoa Kỳ ngồi dậy, một tay che phần hạ bộ ỉu xìu và bầm dập của mình, tay kia cầm con dao rọc giấy mà mới chỉ vài giây trước thôi lẽ ra nó đã trở thành công cụ kết liễu mạng sống của ông ta. Giờ thì trên đó không chỉ có máu của ông ta. “Lạy Chúa chết tiệt, Bill, anh giết cô ta rồi!” Mục tiêu mà ông ta đang rủa xả cúi xuống giúp vị Tổng thống đứng dậy trong khi đồng nghiệp của anh ta kiểm tra tình trạng người phụ nữ: một sự kiểm tra chiếu lệ, sau khi hai viên đạn cỡ lớn đã xuyên nát sọ cô ta.
“Tôi xin lỗi, thưa ngài, tôi sợ sẽ không kịp. Tôi xin lỗi, thưa ngài.”
Bill Burton đã làm Mật vụ được mười hai năm, trước đó là cảnh sát tuần tra của bang Maryland tám năm, và vừa rồi một viên đạn của anh đã bắn toác sọ một người phụ nữ trẻ trung, xinh đẹp. Bất chấp quá trình huấn luyện và công tác hai chục năm, anh ta vẫn đang run lẩy bẩy như một thằng nhóc tiểu học vừa thức dậy sau một cơn ác mộng.
Trước đó anh ta cũng đã từng giết người khi thực hiện nhiệm vụ: một vụ dừng xe để kiểm tra thông thường đã kết thúc bằng chạm súng. Nhưng khi đó kẻ bị giết là một tên bất cần đời với mối thù thâm căn cố để dành cho những sĩ quan cảnh sát mặc sắc phục. Trước khi bị bắn hạ hắn còn kịp vung vẩy một khẩu Glock bán tự động với ý định rất nghiêm túc là thổi bay đầu Burton ra khỏi cổ.
Anh ta cúi xuống nhìn thi thể nhỏ nhắn nằm trần truồng dưới sàn nhà và có cảm giác như mình sắp nôn đến nơi. Đồng đội của anh ta, Tim Collin, quay sang nhìn Burton rồi chộp lấy cánh tay anh ta. Burton nuốt ực một cách khó khăn và gật đầu. Anh ta sẽ chịu được.
Hai người thận trọng giúp Alan J. Richmond đứng dậy. Tổng thống Hợp chúng quốc Hoa Kỳ, một người hùng chính trị, một nhà lãnh đạo đầy uy tín của cả thanh niên, trung niên lẫn người già, lúc này đơn giản chỉ là một gã say quắc cần câu, trần như nhộng. Ngài Tổng thống ngẩng lên nhìn họ, nỗi kinh hoàng ban đầu dần tan biến khi chất cồn mạnh bắt đầu phát huy tác dụng. “Cô ta chết rồi à?” Ông ta thốt lên những từ đó bằng cái lưỡi đã líu lại, ánh mắt đờ đẫn và ngây dại như những viên bi lỏng lẻo.
“Vâng, thưa ngài.” Collin trả lời rất nghiêm trọng. Không ai được phép để ngài Tổng thống hỏi mà không có câu trả lời, cho dù ông ta say hay tỉnh.
Đầu Burton vẫn đang ù đặc. Anh ta lại liếc nhìn người phụ nữ rồi quay sang nhìn Tổng thống. Đó là công việc của họ, công việc của anh ta. Bảo vệ vị Tổng thống chết tiệt. Bằng mọi giá, phải bảo vệ mạng sống của ông ta, không thể để nó kết thúc theo cách đó. Không thể để ông ta bị chọc tiết như một con lợn dưới tay một con đàn bà lăng loàn cũng say bí tỉ.
Miệng vị Tổng thống bĩu dài ra như thể ông ta đang mỉm cười, nhưng ông ta đang cười hay mếu thì cả Collin và Burton đều không dám chắc. Tổng thống loay hoay đứng dậy.
“Quần áo của tôi đâu rồi?” ông ta hỏi.
“Đây, thưa ngài.” Burton trả lời khi đã trấn tĩnh lại, rồi cúi xuống nhặt quần áo lên. Quần áo Tổng thống dính tung tóe—hình như mọi thứ trong phòng đều như thế—máu và óc bắn ra từ cô ta.
“Mẹ kiếp, đỡ tôi dậy và chuẩn bị mọi thứ sẵn sàng, chó chết thật. Hình như tôi có bài phát biểu cho ai đó, ở đâu đó, phải không nhỉ?” Ông ta nhệch miệng cười the thé. Burton nhìn Collin và Collin nhìn Burton. Cả hai ngây người nhìn vị Tổng thống nằm thẳng cẳng bất tỉnh trên giường.
Khi nghe tiếng súng nổ đinh tai, Chánh văn phòng Gloria Russell đang ở trong nhà tắm dưới tầng một, cố gắng tránh càng xa căn phòng khốn kiếp kia càng tốt.
Bà ta đã tháp tùng Tổng thống trong không biết bao nhiêu cuộc chim chuột như thế này, nhưng thay vì quen với chúng, càng ngày bà ta lại càng thấy tởm lợm hơn. Cứ hình dung ra cảnh sếp của bà ta, người đàn ông quyền lực nhất trên trái đất, lên giường với cái lũ điếm danh giá kia, toàn một lũ lẳng lơ, đĩ thõa. Thật không tài nào hiểu nổi, vậy mà dần dần bà ta cũng hầu như học được cách nhắm mắt làm ngơ. Hầu như là thế.
Russell vội vàng kéo tất nịt lên, chộp lấy cái túi xách tay, đẩy tung cửa phòng tắm và lao vọt ra hành lang, mặc dù đi giày cao gót nhưng vẫn nhảy hai bậc một lên cầu thang. Vừa mới đến của phòng ngủ thì đặc vụ Burton chặn bà ta lại.
“Thưa bà, bà không muốn nhìn cảnh này đâu, không dễ chịu chút nào.”
Bà ta đẩy anh ta rồi lao vào trong và đứng chết lặng. Ý nghĩ đầu tiên trong đầu bà ta là chạy ra ngoài, xuống cầu thang, lao vào xe, lái ra khỏi đây, ra khỏi cái bang này, ra khỏi cái đất nước khốn nạn này. Bà ta không hề thấy thương tiếc gì Christy Sullivan, người lúc nào cũng chỉ muốn được lên giường với Tổng thống. Đó đã là mục tiêu mà cô ta đặt ra suốt hai năm qua. Hừm, lắm khi chúng không nhận được những gì mình muốn; lắm khi chúng nhận được hơn thế quá nhiều.
Russell cố trấn tĩnh lại và quay sang hỏi Đặc vụ Collin.
“Chuyện chết tiệt gì đã xảy ra vậy?”
Tim Collin là một gã trẻ măng, bặm trợn và vô cùng ngưỡng mộ người đàn ông mà anh ta được phân công bảo vệ. Anh ta được huấn luyện cách hy sinh mạng sống của mình để bảo vệ Tổng thống, hoàn toàn không có gì băn khoăn trong đầu anh ta về việc trong tình huống cần thiết anh ta có làm như vậy hay không. Vài năm trước Collin đã hạ được một kẻ tấn công trong bãi đỗ xe của trung tâm thương mại nơi ứng cử viên Tổng thống Alan Richmond chuẩn bị đọc một bài diễn thuyết tranh cử. Collin quật ngã và vô hiệu hóa được tên ám sát và ngay trước khi hắn kịp rút súng giấu trong người ra, trước khi bất kỳ ai có mặt tại đó kịp phản ứng. Đối với Collin, sứ mệnh duy nhất trong đời anh ta là bảo vệ Alan Richmond.
Đặc vụ Collin mất một phút để báo cáo xong sự việc cho Russell bằng những câu ngắn gọn, súc tích và logic. Burton cũng nghiêm nghị khẳng định lại những gì đồng nghiệp của mình vừa nói.
“Hoặc là ông ấy, hoặc là cô ta, thưa bà Russell. Không có cách nào khác cả.” Theo bản năng Burton liếc nhìn Tổng thống, người vẫn đang nằm bất tỉnh nhân sự trên giường. Họ đã kéo chăn che bớt phần cơ thể “chiến lược” của ông ta.
“Các anh định nói với tôi là các anh không nghe thấy gì sao? Không có âm thanh vật lộn nào trước đó, trước chuyện này?” cô ta vẫy tay chỉ vào mớ bung bét trong phòng.
Hai đặc vụ nhìn nhau. Từ trước đến giờ họ đã nghe thấy rất nhiều thứ âm thanh vọng ra từ những phòng ngủ mà vị Tổng thống của họ chui vào. Có thể là trong đó cũng có những âm thanh vật lộn. Nhưng những lần trước mọi người đều ra khỏi phòng mà không ai bị làm sao cả.
“Không có gì bất thường cả.” Burton trả lời. “Rồi chúng tôi nghe thấy tiếng Tổng thống hét lên và chúng tôi lao vào. Con dao khi đó chỉ còn cách ngực Tổng thống có vài phân. Chỉ có thể nổ súng.”
Anh ta đứng thẳng người hết sức có thể và nhìn thẳng vào mắt bà ta. Anh ta và Collin đã làm công việc của mình, vậy mà người phụ nữ này lại đang định bảo họ là không phải thế. Sẽ không có chuyện anh ta phải đứng ra chịu trách nhiệm cho việc này.
“Có một con dao chết tiệt trong phòng sao?” Bà ta ngờ vực nhìn Burton.
“Nếu như tôi mà có quyền quyết định thì ngài Tổng thống đã không phải dính vào những trò phiêu lưu vớ vẩn này. Quá nửa số lần ông ấy không chịu để chúng tôi kiểm tra trước thứ gì cả. Thậm chí chúng tôi còn không có cơ hội quan sát căn phòng.” Anh ta nhìn cô ta. “Ông ấy là Tổng thống, thưa bà,” anh ta nói thêm, một cách khinh khỉnh, như thể đó là câu trả lời cho tất cả. Và đối với Russell thì đúng là như vậy, đây là điều mà Burton biết rõ.
Russell nhìn quanh căn phòng, xem xét mọi chi tiết. Bà ta từng là giáo sư chính giảng dạy môn khoa học chính trị tại đại học Stanford với danh tiếng lẫy lừng khắp nước trước khi đáp lại lời kêu gọi tham gia vào chiến dịch vận động tranh cử Tổng thống của Alan Richmond. Với một người có thế lực hùng mạnh như ông ta, hầu như tất cả mọi người đều khao khát được đi theo ủng hộ.
Hiện bà ta đang là Chánh văn phòng phủ Tổng thống, và gần như chắc chắn sẽ trở thành Ngoại trưởng nếu Richmond tái đắc cử nhiệm kỳ thứ hai, một điều mà ai cũng nghĩ là dễ dàng đối với ông ta. Ai biết được? Thậm chí cả một liên danh Richmond–Russell đang được hình thành cũng nên. Hai người là một sự kết hợp hoàn hảo. Bà ta là chiến lược gia, ông ta là
chuyên gia vận động chính trị lão luyện. Tương lai của họ mỗi ngày một xán lạn hơn. Nhưng giờ thì sao? Giờ thì bà ta có một xác chết và một vị Tổng thống say bí tỉ trong một ngôi nhà mà lẽ ra là hoàn toàn vắng người.
Bà ta có cảm giác con tàu tốc hành của mình bỗng dưng bị dừng phắt lại. Nhưng rồi lý trí của bà ta trở lại. Không thể vì cái đồ rác rưởi nằm chết kia! Không bao giờ!
Burton lên tiếng. “Bà muốn tôi gọi cho cảnh sát không, thưa bà?”
Russell nhìn Burton như thể anh ta là đồ mất trí. “Burton, hãy để tôi nhắc anh rằng công việc của chúng ta là bảo vệ lợi ích của Tổng thống ở mọi lúc mọi nơi, và không có gì—tuyệt đối không có gì—được vượt qua nguyên tắc đó. Anh rõ chứ?”
“Thưa bà, người phụ nữ này đã chết. Tôi nghĩ, chúng tôi—”
“Đúng thế. Anh và Collin bắn người phụ nữ, và giờ thì cô ta đã chết.” Sau khi nổ bùng ra từ miệng Russell, những từ đó lơ lửng mãi trong căn phòng. Collin cọ cọ những ngón tay vào nhau, theo bản năng, một bàn tay sờ xuống khẩu súng đeo trong bao. Anh ta trừng trừng nhìn bà Sullivan quá cố như thế anh ta có thể làm cô ta sống lại vậy.
Burton lắc lắc đôi vai vạm vỡ của mình, tiến sát lại trước mặt Russell khiến cho sự khác biệt cơ bản về chiều cao giữa hai người càng trở nên rõ rệt.
“Nếu chúng tôi không nổ súng, Tổng thống đã chết rồi. Đó là công việc của chúng tôi. Giữ cho Tổng thống được bình an vô sự.”
“Lại đúng rồi, Burton. Và giờ thì sau khi ngăn chặn được cái chết của ông ấy, anh định sẽ giải thích thế nào với cảnh sát, với phu nhân Tổng thống và cấp trên của anh, cùng cánh luật sư và truyền thông, lại còn Quốc hội và giới doanh nghiệp, với đất nước và cả thế giới chết tiệt này, tại sao Tổng thống lại ở đây? Và trong hoàn cảnh như thế nào mà anh và Đặc vụ Collin phải bắn chết vợ của một trong những người giàu có nhất, thế lực nhất nước Mỹ? Bởi vì nếu anh gọi cảnh sát, nếu anh gọi cho bất kỳ ai, đó chính xác sẽ là những gì anh phải làm đấy. Nào, nếu như anh đã sẵn sàng chấp nhận trách nhiệm đó, thì xin mời cứ việc nhấc điện thoại lên và gọi đi.”
Mặt Burton tái nhợt đi. Anh ta lùi lại một bước, kích thước khổng lồ của anh ta lúc này cũng trở nên vô dụng. Collin đứng im như đá, ngỡ ngàng nhìn hai người. Anh ta chưa từng thấy ai dám nói như vậy với Bill Burton.
Gã khổng lồ kia hoàn toàn có thể tát gẫy cổ Russell chỉ bằng một cái phẩy tay rất nhẹ.
Burton lại cúi xuống nhìn cái xác lần nữa. Anh ta có thể giải thích hoàn cảnh này một cách êm xuôi không? Câu trả lời thật đơn giản: đó là điều không thể.
Russell chăm chú quan sát vẻ mặt của anh ta. Burton cũng nhìn lại bà ta. Mắt anh ta nheo lại thấy rõ; lúc này chúng không còn dám nhìn thẳng vào mắt bà ta nữa. Russell đã thắng. Bà ta mỉm cười ra vẻ tử tế và gật đầu. Giờ là lúc bà ta ra tay.
“Đi pha một ít cà phê, cả bình đầy vào,” bà ta ra lệnh cho Burton, ngay lập tức thích thú tận hưởng sự hoán đổi vai trò giữa hai người. “Sau đó ra cánh cửa trước đề phòng chúng ta có vị khách nào đó viếng thăm.”
“Collin, đi ra xe, nói chuyện với Johnson và Varney. Đừng cho họ biết gì về chuyện này. Trước mắt cứ bảo là vừa có tai nạn, nhưng Tổng thống vẫn ổn. Thế thôi. Và ra lệnh cho họ cứ ở nguyên đấy. Anh hiểu chứ? Tôi sẽ gọi khi tôi cần anh. Tôi cần có thời gian để suy nghĩ về chuyện này.”
Burton và Collin cùng gật đầu rồi quay người bước ra ngoài. Cả hai đều không được huấn luyện để cãi lại những mệnh lệnh dứt khoát đến vậy. Và Burton lại càng không muốn làm người phụ trách giải quyết chuyện này. Họ đâu có trả lương anh ta cao đến thế.
Luther không hề nhúc nhích chút nào kể từ lúc hai phát đạn bắn toác đầu người phụ nữ. Lão sợ đến cứng đờ người. Cuối cùng thì cảm giác bàng hoàng cũng qua đi, nhưng lão chợt nhận ra là mắt mình vẫn chốc chốc lại lia xuống phía sàn nhà, tới cái đống máu me bầy nhầy mà trước đó còn là một con người sống, đi lại và hít thở. Suốt bao nhiêu năm lăn lội trong thế giới tội phạm, trước kia lão mới chỉ chứng kiến có đúng một
mạng người bị giết. Một tên tội phạm ba lần bị kết tội dâm ô với trẻ em bị tên bạn tù căm ghét và cho luôn một nhát dao vào giữa sống lưng. Nhưng những cảm xúc mà lão trải qua lúc này lại hoàn toàn khác, giống như lão là hành khách duy nhất trên con tàu vừa lạc vào một vùng biển xa lạ. Chẳng có gì là quen thuộc. Bất kỳ tiếng động nào lúc này cũng chẳng mang lại cho lão điều gì tốt đẹp, lão từ từ ngồi phịch xuống ghế trước khi đôi chân run lẩy bẩy của mình đầu hàng.
Lão ngồi nhìn Russell đang đi đi lại lại quanh phòng, cúi xuống bên cạnh xác người phụ nữ, nhưng không hề chạm vào cô ta. Sau đó bà ta nhặt con dao rọc giấy lên, cầm vào đầu mũi của lưỡi dao với một chiếc khăn tay bà ta rút trong túi áo ra. Bà ta chăm chú nhìn rất lâu vào cái vật suýt nữa đã chấm dứt mạng sống của sếp mình và cũng đóng vai trò chính khiến một mạng người nữa bị kết liễu. Bà ta thận trọng đặt con dao rọc giấy vào cái túi bằng da của mình và đặt trên chiếc bàn đầu giường, rồi cất khăn tay vào trong túi áo. Russell lại khẽ liếc nhìn đống máu thịt méo mó chỉ ít phút trước còn là Christine Sullivan.
Dù sao bà ta cũng không khỏi lấy làm khâm phục cái cách mà Richmond thực hiện những cuộc phiêu lưu xé rào của mình. Tất cả những “đối tác” của ông ta đều là những phụ nữ giàu có và có địa vị xã hội, và tất cả đều đã có chồng. Điều này bảo đảm rằng những lần chim chuột của ông ta sẽ không bao giờ bị phơi bày trên các trang báo lá cải. Nếu điều đó xảy ra, những phụ nữ lên giường cùng ông ta đều sẽ mất rất nhiều, có thể còn nhiều hơn so với ông ta, và họ hiểu điều đó rõ hơn bất kỳ ai khác.
Lại còn cánh báo chí nữa chứ. Russell mỉm cười. Thời buổi này Tổng thống phải sống trong cảnh bị xoi mói không lúc nào ngơi của bàn dân thiên hạ. Ông ta không thể đi vệ sinh, hút một điếu thuốc, hoặc ợ một cái mà không bị công chúng biết rõ mọi chi tiết đến từng chân tơ kẽ tóc. Hay ít nhất thì công chúng cũng tưởng vậy. Và nguyên nhân của điều đó bắt nguồn từ việc thổi phồng vai trò của báo chí cũng như khả năng của họ trong việc lôi ra ánh sáng tất cả những câu chuyện thâm cung bí sử nhất. Tuy nhiên điều mà công chúng không hiểu là cho dù văn phòng Tổng thống Mỹ có thể đã mất đi phần nào quyền lực khủng khiếp của mình trong mấy năm vừa qua vì những vấn đề xảy ra trên trái đất đầy đau khổ này đã vượt quá khả năng giải quyết của bất kỳ cá nhân nào, thì xung quanh Tổng
thống vẫn là một đội ngũ đông đảo những con người tuyệt đối trung thành và cực kỳ có năng lực. Những người mà trình độ và kỹ năng trong các hoạt động vụng trộm luôn vượt xa cánh phóng viên ngây thơ vốn tưởng rằng việc đeo bám một đề tài nào đó đơn giản chỉ là đặt ra các câu hỏi hóc búa đối với một vị nghị sĩ, người chưa bao giờ thực tâm đưa ra những câu trả lời chân thật để đăng tải trên bản tin chiều. Thực tế là, nếu muốn, Tổng thống Alan Richmond hoàn toàn có thể di chuyển tự do mà không hề phải lo sợ sẽ có người đeo bám theo dấu vết của mình. Thậm chí ông ta có thể biến mất khỏi con mắt xoi mói của công chúng lâu bao nhiêu tùy thích, cho dù đó là điều tối kị đối với một chính trị gia thành công. Và sở dĩ ông ta có thể làm như vậy là nhờ sự trợ giúp đắc lực của một cơ quan duy nhất.
Cơ quan Mật vụ Mỹ. Đơn giản họ là người giỏi nhất giữa những người giỏi nhất. Đó là điều mà nhóm người tinh túy này đã chứng minh không biết bao nhiêu lần suốt những năm qua, ngay cả trong sự kiện tang thương nhất vừa mới xảy ra này.
Đầu giờ chiều hôm đó, Christy Sullivan bước ra khỏi thẩm mỹ viện quen thuộc của cô ta ở khu Upper Northwest. Sau khi tản bộ qua một dãy phố, cô nàng bước vào đại sảnh của một tòa chung cư, rồi chỉ ba mươi giây sau cô ta lại bước ra với chiếc áo khoác dài có mũ vừa lấy trong túi xách trùm kín cả người, từ đầu đến chân. Khuôn mặt cô ta cũng được che kín với cặp kính râm to sù sụ. Cô ta đi bộ qua vài dãy phố nữa, thỉnh thoảng lại dừng chân ngắm nghía các cửa hàng trên đường, rồi bắt tàu điện ngầm vào khu trung tâm. Ra khỏi ga, cô ta đi thêm hai dãy phố nữa rồi bước vào một con hẻm nằm giữa hai tòa nhà lớn chuẩn bị được phá đi xây lại. Hai phút sau, một chiếc ô tô có cửa kính đen ngòm từ trong hẻm đi ra. Collin là tài xế. Christy Sullivan ngồi trên băng ghế sau. Cô ta được bố trí ở một nơi an toàn với Bill Burton cho tới khi Tổng thống sắp xếp được thời gian đến với cô ta đêm hôm đó.
Dinh cơ của nhà Sullivan đã được chọn làm điểm đáp hoàn hảo cho cuộc phiêu lưu, nguyên nhân trớ trêu là vì đây là nơi mà không ai có thể ngờ rằng Christy Sullivan sẽ có mặt đêm hôm đó. Russell cũng biết rằng chỗ này hoàn toàn không còn ai, lại còn được canh giữ bởi một hệ thống an ninh mà họ có thể hóa giải rất dễ dàng.
Russell ngồi xuống một chiếc ghế và nhắm nghiền mắt lại. Đúng, trong ngôi nhà này vẫn còn có hai nhân viên mật vụ năng lực nhất cùng với bà ta. Và, lần đầu tiên, điều này lại trở thành việc khó xử đối với bà Chánh văn phòng. bốn nhân viên mật vụ đi cùng Tổng thống và bà ta đêm nay đã được đích thân Tổng thống lựa chọn cẩn thận từ gần một trăm đặc vụ có nhiệm vụ bảo vệ mình, cho những chuyến vi hành nho nhỏ này. Tất cả đều tuyệt đối trung thành và có kỹ năng hoàn hảo. Họ biết cách chăm sóc Tổng thống và giữ mồm giữ miệng, bất chấp mọi hoàn cảnh. Cho đến tận đêm nay thì niềm đam mê của Tổng thống Richmond với những phụ nữ có chồng chưa hề làm nảy sinh bất kỳ khó khăn nào. Nhưng những sự kiện vừa xảy ra rõ ràng đã đe dọa tất cả. Russell lắc mạnh đầu, cố bắt mình phải nghĩ ra thật nhanh kế hoạch hành động hợp lý nhất.
Luther quan sát khuôn mặt người phụ nữ. Một khuôn mặt thông minh, quyến rũ, nhưng cũng vô cùng sắt đá. Người ta có thể nhận ra một thần kinh thép đằng sau vầng trán đang hết nhăn lại rồi dãn ra. Thời gian cứ lặng lẽ trôi qua mà bà ta vẫn không hề nhúc nhích. Rồi Gloria Russell mở choàng mắt và bước vòng quanh căn phòng, không bỏ sót một chi tiết nào.
Luther bất giác thu mình lại trên ghế khi ánh mắt của người phụ nữ quét qua người lão như một ánh đèn pha rọi trên khoảng sân nhà tù. Rồi bà ta đưa mắt tới chiếc giường và dừng lại. Bà ta chằm chằm nhìn người đàn ông đang ngủ hồi lâu, rồi một vẻ rất lạ hiện ra trên mặt bà ta mà Luther không sao tả nổi. Kiểu lửng lơ đâu đó giữa một nụ cười và một cái nhăn mặt.
Bà ta đứng dậy, bước tới bên giường và cúi xuống nhìn người đàn ông. Một nhà lãnh đạo của nhân dân, hay ít nhất đó cũng là điều mọi người vẫn tưởng. Một nhà lãnh đạo của thời kỳ mới. Ngay lúc này trông ông ta mới tầm thường làm sao. Nửa người nằm vắt vẻo trên giường, hai chân dạng ra, bàn chân gần như chạm xuống sàn nhà; một tư thế quái đản, đó là chưa kể trên người ông ta hoàn toàn chẳng có quần áo gì cả.
Bà ta liếc lên liếc xuống khắp từ đầu đến chân vị Tổng thống, ánh mắt thỉnh thoảng dừng lại vài chỗ, một hành động khiến Luther ngỡ ngàng không hiểu, nhất là khi cái xác kia vẫn còn nằm giữa sàn nhà. Trước khi Gloria Russell vào phòng và đối đầu với Burton, Luther cứ đinh ninh sẽ nghe thấy tiếng còi rú ầm ĩ và sẽ ngồi đó chứng kiến cảnh sát và các nhân viên điều tra, nhân viên y tế và thậm chí là cả cánh báo chí đổ dồn đến đây, với những chiếc xe truyền hình vây kín bốn xung quanh lối vào. Nhưng rõ ràng là người đàn bà này đang có kế hoạch khác trong đầu.
Luther đã từng nhìn thấy Russell xuất hiện trên CNN và những hãng truyền thông hàng đầu khác, cũng không biết bao nhiêu lần trả lời phỏng vấn trên các tờ báo. Nét mặt bà ta không thể lẫn vào đâu được. Một cái mũi dài và hơi khoằm nằm giữa đôi gò má cao, món quà thừa hưởng từ một vị tổ tiên người Cherokee . Mái tóc dày đen nhánh buông thẳng xuống ngang vai. Đôi mắt to màu xanh thẫm trông giống như hai đại dương sâu thẳm, hai hồ nước đầy nguy hiểm dành cho những kẻ lơ là, mất cảnh giác.
Luther thận trọng xoay người trên ghế. Nhìn người phụ nữ kia ngồi trước một lò sưởi trang trọng và ấm cúng của Nhà Trắng rao giảng về những vấn đề chính trị mới nhất là một chuyện. Còn nhìn tận mắt bà ta đi đi lại lại trong một căn phòng với một xác chết nằm còng queo, lạnh lùng kiểm tra một người đàn ông trần truồng đang say khướt được tung hô là nhà lãnh đạo của Thế giới Tự do lại là một vấn đề hoàn toàn khác. Nói ngắn gọn đó là một khung cảnh Luther không hề muốn xem chút nào nhưng lão cũng không làm sao quay mặt đi chỗ khác được.
Russell liếc nhìn cửa phòng ngủ, rảo bước đi ngang căn phòng, lấy khăn tay trong túi ra, rồi đóng và khóa trái cánh cửa lại. Bà ta nhanh chóng quay lại nhìn xuống vị Tổng thống đang ngủ. Russell chìa tay ra, khiến Luther co rúm người trong một thoáng, không biết bà ta định làm gì, nhưng hóa ra Russell chỉ vuốt ve mặt Tổng thống. Luther thở phào, nhưng rồi lại cứng đờ người khi thấy bàn tay bà ta đang lần xuống ngực Tổng thống, dừng lại hồi lâu giữa đám lông ngực rậm rạp, rồi trượt xuống vùng bụng phẳng phiu của ông ta đang phập phồng theo mỗi nhịp thở.
Rồi bàn tay của Russell lại đưa dần xuống dưới trước khi bà ta chầm chậm kéo tấm chăn mỏng ra và để mặc nó rơi xuống sàn nhà. Bàn tay bà ta lần tới giữa hai chân người đàn ông và giữ nguyên ở đó. Rồi bà ta lại liếc
ra phía cửa phòng và quỳ xuống trước mặt Tổng thống. Đến lúc này Luther buộc phải nhắm nghiền mắt. Lão không thể nào chia sẻ cái thú vui bệnh hoạn của ông chủ ngôi biệt thự.
Vài phút trôi qua, Luther mở choàng mắt. Lúc này Gloria Russell đã trút bỏ xong đôi tất nịt của mình và đặt chúng ngay ngắn trên ghế. Bà ta khẽ khàng trèo lên trên người vị Tổng thống đang ngáy khò khò.
Luther lại nhắm chặt mắt. Lão tự hỏi không biết những người ở dưới nhà có nghe thấy tiếng giường đang cọt kẹt không. Có lẽ là không, vì ngôi nhà rộng thế cơ mà. Mà cho dù có nghe thấy đi nữa, thì họ cũng làm được gì bây giờ?
Mười phút sau Luther nghe thấy một tiếng thở hắt ra hổn hển và không hề tự chủ của người đàn ông, cùng với đó là tiếng rên khe khẽ của người phụ nữ. Nhưng Luther vẫn nhắm nghiền mắt. Lão cũng không chắc tại sao. Dường như là một cảm xúc lẫn lộn giữa nỗi sợ hãi đơn thuần và ghê tởm trước thái độ thiếu tôn kính đối với người phụ nữ nằm chết ngoài kia.
Cuối cùng khi Luther mở mắt ra, Russell đang nhìn thẳng vào lão. Tim lão như ngừng đập trong giây lát cho đến khi bộ não lên tiếng rằng mọi chuyện vẫn ổn. Bà ta nhanh chóng mặc chiếc quần nịt vào người. Rồi, bằng những động tác dứt khoát và tự tin, bà ta tô lại son môi trước tấm gương.
Một nụ cười thấp thoáng trên mặt bà ta lúc này; đôi má ửng đỏ. Trông bà ta như trẻ ra. Luther liếc nhìn Tổng thống. Ông ta đã trở lại với giấc ngủ mê man, khoảng thời gian hai mươi phút vừa rồi có lẽ đã trôi tuột trong đầu vị Tổng thống như một giấc mơ dễ chịu và sống động. Luther lại nhìn Russell.
Thật đáng sợ khi nhìn người đàn bà đó đang mỉm cười ngay trước mặt lão, trong căn phòng chết chóc này, mà không biết rằng lão ngay sau tấm gương. Có gì đó đầy quyền lực toát lên trên vẻ mặt người đàn bà. Và là một vẻ mặt mà Luther đã chứng kiến trước đó trong căn phòng này. Cả người đàn bà này cũng vô cùng nguy hiểm.
"Tôi muốn toàn bộ chỗ này được dọn dẹp sạch sẽ, trừ cái kia.” Russell chỉ vào cái xác của phu nhân Sullivan quá cố. “Chờ một chút. Dấu vết của ông ấy ở khắp trên người cô ta. Burton, tôi muốn anh kiểm tra từng centimet trên người cô ta, và nếu có bất cứ thứ gì khác lạ thì hãy làm nó biến mất ngay lập tức. Rồi mặc quần áo vào cho cô ta.”
Burton mang găng tay vào rồi bắt đầu thực hiện mệnh lệnh mới này.
Collin ngồi bên cạnh Tổng thống, cố rót một cốc cà phê mới pha xuống cổ họng ông ta. Caffeine sẽ giúp xua tan cảm giác chếnh choáng, nhưng có lẽ phải mất thêm thời gian mới có thể rũ bỏ sạch cơn say. Russell cũng ngồi xuống cạnh ông ta. Bà ta đặt tay Tổng thống trong tay mình. Lúc này ông ta đã được mặc quần áo đầy đủ, chỉ còn mái tóc là bù xù. Cánh tay ông ta bị thương, nhưng họ đã băng bó nó bằng mọi cách có thể. Sức khỏe của ông ta rất tốt, vết thương sẽ tự lành sau một thời gian ngắn.
“Thưa Tổng thống? Alan? Alan?“ Russell ôm ghì lấy mặt ông ta và kéo nó lại gần mình.
Không biết ông ta có cảm thấy những gì bà ta vừa làm không nhỉ? Russell không tin lắm. Đêm nay ông ta đã rất khát khao làm tình. Muốn được ở bên trong một người đàn bà. Bà ta đã dâng cho ông ta cơ thể của mình, hoàn toàn vô điều kiện. Xét theo cách nào đó thì bà ta đã phạm tội hiếp dâm. Còn trong thực tế Russell tin rằng bà ta đã làm thỏa mãn khát
khao của một con đực. Cũng chẳng hề quan trọng nếu ông ta không nhớ gì về chuyện đã xảy ra, về sự hy sinh của bà ta. Nhưng bây giờ thì ông ta sẽ biết rõ những gì bà ta sắp làm cho mình ngay lúc này.
Đôi mắt lờ đờ của Tổng thống hết mở ra rồi lại nhắm vào. Collin xoa xoa vào cổ ông ta. Ông ta đang dần tỉnh lại. Russell liếc nhìn đồng hồ. Hai giờ sáng. Họ phải quay về. Bà ta tát vào mặt ông chủ mình, không quá mạnh, nhưng cũng đủ để ông ta phải chú ý. Russell có thể cảm thấy Collin cứng đờ người. Lạy Chúa, mấy gã này không biết gì hơn nữa à?
“Alan, ông có ngủ với cô ta không?”
“Gì…”
“Ông đã ngủ với cô ta chưa?”
“Gì… Không. Không nghĩ thế. Không nhớ…”
ẳ
“Cho ông ấy thêm ít cà phê, cứ rót thẳng vào cái cổ họng chết tiệt của ông ấy nếu cần, làm cho ông ấy tỉnh lại.” Collin gật đầu và bắt tay vào việc. Russell bước lại chỗ Burton, đôi bàn tay đeo găng của gã này đang tỉ mẩn kiểm tra từng tí một trên xác phu nhân Sullivan.
Burton đã tham gia vào không biết bao nhiêu cuộc điều tra trọng án của cảnh sát. Anh ta biết quá rành những nhân viên điều tra sẽ tìm kiếm điều gì và sẽ tìm kiếm ở đâu. Anh ta chưa bao giờ hình dung nổi là sẽ có ngày anh ta phải sử dụng những nghiệp vụ đặc biệt đó để ngăn chặn một cuộc điều tra, nhưng anh ta cũng chẳng ngờ có ngày một chuyện như thế này có thể xảy ra.
Anh ta nhìn quanh phòng, đầu óc đang tính toán những khu vực nào cần phải xem xét qua, những phòng nào mà họ đã sử dụng. Họ chẳng thể làm gì được với những dấu vết trên cổ họng người phụ nữ cùng những bằng chứng siêu vi khác chắc chắn đã lưu lại trên da cô ta. Các Chuyên viên Pháp y thế nào cũng sẽ tìm ra những dấu vết đó cho dù anh ta có cố công dọn dẹp đến đâu chăng nữa. Tuy nhiên, trong thực tế tất cả những điều đó cũng không thể giúp cơ quan điều tra lần ra Tổng thống, trừ trường hợp cảnh sát xác định Tổng thống là một nghi can, mà đó lại là điều hoàn toàn không thể xảy ra.
Chắc chắn cảnh sát sẽ phải đau đầu khi tìm lời giải thích tại sao đầu tiên thủ phạm tìm cách bóp cổ người phụ nữ bé nhỏ này, vậy mà cuối cùng cô ta lại bị giết bằng hai phát súng vào sọ.
Burton chuyển sự chú ý trở lại với người chết và bắt đầu cẩn thận luồn quần lót vào qua chân cô ta. Bỗng anh ta cảm thấy ai đó vỗ lên vai mình.
“Kiểm tra cô ta đi.”
Burton ngẩng lên. Anh ta đang mở miệng định nói gì đó.
“Kiểm tra cô ta!” Lông mày của Russell đang nhíu lại. Burton đã thấy bà ta làm vậy cả triệu lần với đội ngũ nhân viên giúp việc trong Nhà Trắng. Tất cả đều khiếp sợ bà ta. Burton chẳng có gì phải sợ, nhưng anh cũng đủ khôn ngoan để tự bảo vệ mình mỗi khi ở gần bà ta. Anh bèn chậm rãi làm theo mệnh lệnh. Sau đó anh ta đặt lại cái xác nằm đúng như khi nó ngã xuống lúc đầu. Anh ta báo cáo lại đánh giá của mình bằng một cái lắc đầu duy nhất.
“Anh chắc chứ?” Russell tỏ vẻ hoài nghi, mặc dù căn cứ vào cuộc ân ái chớp nhoáng vừa rồi với Tổng thống, bà ta nhận thấy nhiều khả năng ông ta chưa hề thực hiện hành vi giao cấu với người phụ nữ, hoặc nếu có thì ông ta cũng chưa kết thúc. Nhưng có thể vẫn có dấu vết. Thật đáng sợ, thời buổi này từ những manh mối nhỏ nhất họ cũng có thể lan ra bao nhiêu chuyện khủng khiếp.
“Tôi không phải là một bác sĩ sản phụ khoa chết tiệt. Tôi không thấy dấu hiệu gì hết, và tôi cũng không có kính hiển vi ở đây để kiểm tra kỹ hơn.”
Russell đành phải kết thúc việc này tại đây. Vẫn còn rất nhiều điều phải làm trong khi không còn nhiều thời gian nữa.
“Johnson và Varney có nói gì không?”
Collin ngẩng đầu lên trong khi vẫn đang bắt Tổng thống uống nốt cốc cà phê thứ tư. “Họ đang băn khoăn không hiểu có chuyện chết tiệt gì đang xảy ra, nếu đó là những gì bà muốn hỏi.”
“Anh không nói—”
“Tôi nói với họ những gì bà bảo tôi nói, thế thôi, thưa bà.” Anh ta nhìn người phụ nữ. “Họ là những đặc vụ tốt, thưa bà Russell. Họ đã phục vụ Tổng thống từ ngày bắt đầu chiến dịch tranh cử. Họ sẽ không làm bất kỳ chuyện gì có thể gây khó khăn, được chứ?”
Russell thưởng cho Collin một nụ cười ngọt ngào. Một anh chàng dễ thương, và quan trọng hơn cả là, một thành viên trung thành của đội cận vệ Tổng thống; anh chàng sẽ rất hữu ích đối với bà ta. Còn Burton có thể là một vấn đề. Nhưng dù sao bà ta cũng còn một con át chủ bài: cả anh ta và Collin đều bóp cò, đồng ý là có thể khi ấy họ đang làm nhiệm vụ, nhưng ai thực sự biết chuyện gì đã xảy ra chứ? Nói tóm lại: họ cũng dính vào chuyện này ngay từ đầu.
Luther chứng kiến toàn bộ những gì diễn ra trước mắt với một sự thán phục mà trong hoàn cảnh này lão chợt thấy thật áy náy. Những gã này thật cừ khôi: làm việc rất có phương pháp, cẩn thận, suy tính tất cả các chi tiết, và không hề bỏ sót thứ gì. Những nhân viên bảo vệ luật pháp tận tụy và những tên tội phạm chuyên nghiệp hóa ra cũng chẳng khác gì nhau. Cùng những kỹ năng, kỹ thuật đó, chỉ có đối tượng là khác, suy cho cùng thì đối tượng chính là điều phân định rạch ròi nhất còn gì?
Lúc này xác người phụ nữ đã được mặc lại quần áo đầy đủ, nằm đúng như khi cô ta đã ngã xuống. Collin đang xem xét nốt phần móng tay của cô ta. Một dung dịch được bơm vào dưới mỗi móng tay, và một thiết bị hút bé xíu đã dọn sạch mọi dấu vết của da hoặc những chi tiết có thể dùng làm bằng chứng tội phạm.
Cả chiếc giường cũng được vuốt phẳng và dọn dẹp lại như cũ: những tấm ga dính đầy bằng chứng về bi kịch vừa xảy ra đã được tống vào một chiếc túi vải chuẩn bị mang đi phi tang trong lò thiêu rác nào đó. Collin cũng đã dọn dẹp xong khu vực dưới nhà.
Tất cả những gì họ động đến, trừ một thứ, đều đã được lau sạch. Lúc này Burton đang hút bụi trên tấm thảm, và anh ta sẽ là người cuối cùng rời phòng, đi lùi trở ra, vì anh ta có nhiệm vụ thận trọng xóa sạch mọi dấu vết trên đường rút của đoàn người.
Trước đó Luther đã chứng kiến hai gã đặc vụ lộn tung căn phòng. Mục đích rất hiển nhiên của họ khiến lão không khỏi mỉm cười, bất chấp tình cảnh của mình lúc này. Một vụ trộm. Chiếc vòng cổ đã được đặt vào trong một cái túi cùng cơ man nào những chiếc nhẫn của người phụ nữ. Họ sẽ làm mọi chuyện trông như thể người phụ nữ đã trở về bất thình lình khiến tên trộm trong nhà bị bất ngờ và hắn đã giết cô ta. Chỉ có điều hai gã này không hề biết rằng cách đó hơn một mét có một tên trộm thực sự đang nhìn và chứng kiến trọn vẹn tất cả những gì họ đang làm.
Một nhân chứng!
Luther chưa bao giờ là nhân chứng trong bất kỳ vụ trộm nào ngoài những vụ do chính lão là thủ phạm. Tội phạm bao giờ cũng ghét nhân chứng. Những người này sẽ thủ tiêu Luther nếu họ biết lão ở đây: không có gì phải nghi ngờ về điều đó. Loại bỏ một tên tội phạm già cả, một kẻ
ẳ
thua cuộc ngàn lần đáng chết, thì cũng chẳng có gì là quá đáng một khi cần bảo vệ Nhà lãnh đạo của Nhân dân.
Tổng thống vẫn còn lảo đảo trong men rượu nhưng có sự giúp đỡ của Burton đã chậm rãi lần ra cửa phòng. Russell đứng nhìn hai người ra trước. Bà ta không để ý thấy Collin đang cuống cuồng sục sạo khắp căn phòng. Cuối cùng, đôi mắt sắc lạnh của anh ta cũng dán chặt vào chiếc túi tay của Russell để trên bàn đầu giường. Thò ra khỏi mép chiếc túi da là phần tay cầm của con dao rọc giấy. Collin dùng một chiếc túi nylon, nhanh chóng rút con dao ra khỏi túi và đang chuẩn bị lau sạch máu. Luther bất giác giật nảy mình khi lão nhìn thấy Russell lao vọt tới và chộp lấy tay Collin.
“Đừng làm thế, Collin.”
Collin không sắc sảo như Burton, và rõ ràng không phải là đối thủ của Russell. Anh ta ngỡ ngàng không hiểu.
“Trên con dao này có rất nhiều vân tay của ông ấy, thưa bà. Cả dấu vân tay của cô ta nữa, cộng với một vài những thứ khác nếu bà hiểu ý tôi định nói—chuôi dao bọc da, nó thấm sâu vào trong.”
“Đặc vụ Collin, tôi được Tổng thống chọn làm cố vấn kế hoạch chiến lược và chiến thuật. Những gì anh coi là lựa chọn hiển nhiên thì tôi lại thấy cần phải suy nghĩ và cân nhắc thật cẩn thận. Chừng nào việc phân tích chưa hoàn thành thì anh không được lau con dao đó. Anh sẽ cho nó vào một cái túi rồi đưa nó cho tôi.”
Collin định phản đối những ánh mắt sắc lạnh đầy đe dọa của Russell khiến anh ta im bặt. Anh ta đành cho con dao rọc giấy vào túi nylon rồi đưa cho bà ta.
“Xin hãy hết sức cẩn thận với nó, thưa bà Russell.”
“Tim, lúc nào tôi cũng cẩn thận mà.”
Bà ta lại thưởng cho anh chàng một nụ cười. Anh ta cũng mỉm cười đáp lại. Trước kia chưa bao giờ bà ta gọi Collin bằng tên cả; thậm chí anh chàng cũng không dám chắc là bà ta có biết tên mình hay không nữa. Anh cũng thầm nhận xét, không phải là lần đầu tiên, rằng bà Chánh Văn phòng là một phụ nữ rất quyến rũ.
“Vâng, thưa bà.” Anh ta bắt tay vào thu dọn đồ đạc.
“Tim này?”
Anh ta ngẩng lên nhìn Russell. Bà ta tiến sát lại gần anh chàng. nhìn xuống, rồi dán chặt ánh mắt mình vào mắt gã thanh niên. Bà ta khẽ khàng từng tiếng một; Collin có cảm giác như bà Chánh văn phòng đang rất bối rối.
“Tim, đây là tình huống độc nhất vô nhị mà chúng ta phải đối mặt. Cho nên tôi cần phải thận trọng hơn bình thường một chút. Anh hiểu chứ?”
Collin gật đầu. “Tôi cũng cho đây là tình huống thật trớ trêu. Tôi sợ đến chết khiếp khi nhìn thấy con dao đó chuẩn bị đâm vào ngực Tổng thống.”
Bà ta khẽ chạm vào cánh tay Collin. Những móng tay để dài được cắt tỉa rất hoàn hảo. Bà ta cầm con dao rọc giấy lên. “Hãy giữ kín chuyện này giữa hai chúng ta thôi nhé, Tim. Được chứ? Không để Tổng thống biết. Thậm chí cả Burton cũng không.”
“Tôi không biết—”
Bà ta bóp chặt bàn tay anh. “Tim, thực sự tôi rất cần sự ủng hộ của anh trong chuyện này. Tổng thống hoàn toàn không biết chuyện gì đã xảy ra và tôi cũng không cho rằng Burton đang nhìn nhận chuyện này một cách hoàn toàn tỉnh táo. Tôi cần một người có thể tin tưởng. Tôi cần anh, Tim. Đây là
chuyện rất quan trọng. Anh cũng biết như vậy, đúng không? Tôi sẽ không nhờ anh nếu tôi không chắc rằng anh có thể giải quyết được chuyện này.”
Anh chàng mỉm cười tự mãn khi nghe lời khen tặng, rồi quả quyết nhìn bà ta.
“Được rồi, bà Russell. Như bà muốn.”
Trong khi Collin gói ghém đồ nghề, Russell chăm chú nhìn mẩu kim loại dài hơn chục phân suýt chút nữa đã kết liễu những tham vọng chính trị của bà ta. Chẳng may Tổng thống bị giết, sẽ không cần màn che đậy này làm gì nữa. Một từ xấu xí—che đậy—nhưng nhiều khi lại rất cần thiết trong thế giới chính trị hào nhoáng. Bà ta khẽ rùng mình khi hình dung ra những dòng tiêu đề. "XÁC TỔNG THỐNG ĐƯỢC TÌM THẤY TRONG PHÒNG NGỦ NHÀ MỘT NGƯỜI BẠN THÂN. VỢ CỦA
Ủ À Ắ Á Ă Ò
CHỦ NHÀ ĐÃ BỊ BẮT. CHÁNH VĂN PHÒNG GLORIA RUSSELL BỊ CÁC NHÀ LÃNH ĐẠO ĐẢNG QUY TRÁCH NHIỆM VỀ VỤ BÊ bốI NÀY." Nhưng chuyện đó đã không xảy ra. Sẽ không xảy ra.
Cái thứ bà ta đang cầm trong tay còn đáng giá hơn cả một núi plutonium, hơn cả tổng sản lượng dầu của Saudi Arabia cộng lại.
Với con dao này nằm trong tay bà ta, ai mà biết được? Có lẽ thậm chí là một liên danh quyền lực Russell–Richmond, với tên bà trước nhất, cũng nên ấy chứ? Con dao này sẽ mở ra những viễn cảnh vô cùng tận.
Bà ta mỉm cười và cất chiếc túi nylon vào trong túi xách.
Tiếng thét khiến Luther giật mình quay đầu ra cửa. Cơn đau nhói qua cổ khiến suýt nữa thì lão bật ra một tiếng kêu.
Vị Tổng thống nhảy bổ vào phòng ngủ. Mắt ông ta mở trừng trừng, nhưng rõ ràng là vẫn còn hơi men chếnh choáng. Ký ức về những gì vừa xảy ra trong vài giờ qua đã quay trở lại như một chiếc Boeing 747 khổng lồ đỗ trên đầu ông ta.
Burton chạy phía sau. Tổng thống bắt đầu bước về phía cái xác; Russell vứt chiếc túi xách lên cái bàn nhỏ đầu giường, rồi bà ta và Collin bước đến chặn Tổng thống lại.
“Chó má thật! Cô ấy chết rồi. Tôi đã giết cô ấy. Ôi, lạy Chúa cứu con với. Tôi giết cô ấy rồi!” Ông ta gào lên rồi òa khóc nức nở, rồi lại gào lên. Ông ta cố vượt qua hai người chắn trước mặt mình, nhưng vẫn còn quá yếu. Burton từ phía sau kéo Tổng thống lại.
Rổi với sức mạnh không biết từ đâu xuất hiện, Richmond giật tay ra, tự lao mình qua căn phòng, xông thẳng vào những người khác và va vào chiếc bàn đầu giường. Và cuối cùng vị Tổng thống nước Mỹ đổ sụp xuống sàn nhà nằm co quắp như một cái bào thai, khóc thút thít bên cạnh xác người phụ nữ mà ông ta định đưa lên giường đêm đó.
Luther ghê tởm chứng kiến cảnh tượng trước mặt. Lão xoa xoa cổ và nặng nề lắc đầu. Tất cả những sự kiện xảy ra đêm nay càng lúc càng trở nên thật khó tin, vượt quá sức chịu đựng của lão.
Tổng thống nặng nhọc đứng dậy. Có lẽ Burton cũng cảm thấy ghê tởm chẳng kém gì Luther, nhưng anh ta không nói gì. Collin nhìn Russell như muốn hỏi phải làm gì. Russell nhận ra ánh mắt của anh ta và đắc thắng chấp nhận sự hoán đổi vai trò người ra quyết định cuối cùng.
“Gloria?”
“Vâng, Alan?”
Luther đã thấy cái cách mà Russell nhìn con dao rọc giấy. Lão cũng biết thêm một điều mà không ai khác trong căn phòng này biết được.
“Mọi chuyện sẽ không sao chứ? Hãy làm cho nó thành không sao đi, Gloria. Xin cô. Ôi, lạy Chúa, Gloria!”
Bà ta đặt tay lên vai vị Tổng thống để vỗ về, an ủi, điều bà ta đã từng làm trong suốt chặng đường hàng trăm nghìn dặm dài dằng dặc của chiến dịch tranh cử. “Mọi chuyện vẫn trong tầm kiểm soát, Alan. Tôi đang kiểm soát mọi chuyện.”
Tổng thống lúc này đã hoàn toàn mụ mẫm nên không nhận ra ý nghĩa thực sự trong câu nói của Russell, nhưng bà ta cũng chẳng quan tâm.
Burton đặt tay lên thiết bị liên lạc gắn trên tai, chăm chú lắng nghe một lát. Anh ta quay sang Russell.
“Chúng ta phải biến khỏi đây thôi. Varney vừa phát hiện ra một chiếc xe tuần tra đang trên đường qua đây.”
“Hệ thống báo động…?” Russell bối rối.
Burton lắc đầu. “Có lẽ chỉ là một nhân viên bảo vệ đang đi kiểm tra quanh khu vực thôi, nhưng nếu anh ta phát hiện ra gì đó…” Burton cũng chẳng cần phải nói hết câu.
Ra khỏi khu vực thượng lưu này trong một chiếc limousine có lẽ là vỏ bọc lý tưởng nhất mà họ có. Russell thảm tạ ơn Chúa vì bà ta đã thận trọng chỉ sử dụng những chiếc limousine đi thuê không kèm tài xế cho các chuyến phiêu lưu tình ái như thế này của Tổng thống. Tên và địa chỉ của
người đứng ra thuê trong các hợp đồng đều là tên giả, thanh toán tiền đặt cọc cũng như tiền thuê xe đều bằng tiền mặt, lấy xe và trả xe vào lúc đêm khuya. Không một một ai lộ diện trong suốt các lần giao dịch. Chiếc xe sẽ được khử trùng trước khi trả lại. Cảnh sát chắc chắn sẽ sa vào ngõ cụt nếu họ lần theo hướng này, mà nhiều khả năng là họ sẽ không ngờ tới.
“Đi thôi!” Lúc này thì Russell cũng bắt đầu thấy lo lo.
Mọi người giúp Tổng thống đứng dậy. Russell đi ra cùng ông ta. Collin chộp lấy những chiếc túi đựng đồ nghề và tang vật cần phi tang. Rồi chợt đứng sững lại.
Luther nuốt ực một cái thật khó khăn.
Collin quay lại, chộp lấy chiếc túi da của Russell trên bàn và đi một mạch ra khỏi phòng.
Burton khởi động chiếc máy hút bụi nhỏ, dọn dẹp quanh căn phòng rồi cũng ra nốt, sau khi đóng cửa và tắt điện.
Thế giới của Luther lại quay lại với bóng tối đen như mực.
Đây là lần đầu tiên chỉ còn lại một mình lão trong phòng với cái xác của người phụ nữ. Có lẽ những người kia đã quá quen với việc nhìn thi thể máu me nằm cong queo trên sàn nhà khi họ bước đi bước lại xung quanh đống máu thịt bất động đó như không. Còn Luther thì không tài nào quen nổi với hình dáng của cái chết nằm cách lão cả vài mét.
Tất nhiên lúc này lão không thể nhìn thấy đống quần áo vấy máu và cái cơ thể không còn sức sống trong đó, nhưng lapx biết nó vẫn ngoài kia. “Đồ chó cái giàu có đĩ thõa” có lẽ là một dòng văn bia chính xác nhưng không hay ho gì lắm cho người phụ nữ. Cô ta đã lừa dối chồng mình, Luther cũng không quan tâm lắm tới điều đó. Nhưng cô ta cũng đâu có đáng phải chết một cách bi thảm như thế. Người đàn ông kia sắp giết cô ta, không có gì phải nghi ngờ về điều đó. Nếu không nhờ có phản công đầy bất ngờ và
chớp nhoáng của người phụ nữ, chính Tổng thống Richmond cũng đã phạm tội giết người.
Lỗi không hoàn toàn thuộc về những gã nhân viên Mật vụ. Đó là công việc của họ, và họ đã làm đúng. Chỉ có điều cô ta đã chọn nhầm đối tượng định giết trong bối cảnh cuộc ân ái lãng mạn bỗng trở nên bạo lực. Có lẽ như thế lại tốt hơn. Nếu như cô ta ra tay nhanh hơn một chút, hoặc những nhân viên mật vụ phản ứng chậm hơn một chút, cô ta sẽ phải đành nốt phần đời còn lại của mình trong tù. Hoặc nhận án tử hình vì dám sát hại một Tổng thống.
Luther ngồi xuống ghế. Hai chân lão gần như tê cứng. Lão cố bắt mình phải thả lỏng. Chỉ lát nữa thôi là lão cũng tếch khỏi đây. Lão cần chuẩn bị sẵn sàng để chạy khi cần thiết.
Có rất nhiều việc mà lão cần suy tính, nhất là trong bối cảnh những người kia đã vô tình cài cho Luther Whitney thành nghi can số một trong vụ giết người chắc chắn sẽ bị dư luận coi là ghê tởm và tàn bạo. Sự giàu có của nạn nhân đồng nghĩa với việc tất cả các nguồn lực của cơ quan luật pháp sẽ được huy động tối đa vào việc truy tìm thủ phạm. Nhưng chắc sẽ không có chuyện họ mò vào số 1600 Đại lộ Pennsylvania để tìm câu trả lời. Họ sẽ lần tìm ở nơi khác, và cho dù Luther có chuẩn bị kỳ công đến đâu chăng nữa, nhiều khả năng là họ sẽ lần ra lão. Lão là một tay cáo già, rất cáo già là khác, nhưng lão cũng chưa bao giờ phải đương đầu với những lực lượng sắp được xua đi tìm câu trả lời cho vụ án này.
Lão nghĩ lướt qua thật nhanh toàn bộ kế hoạch mà lão đã vạch ra trước cái đêm định mệnh này. Lão không nhận thấy lỗ hổng nào, nhưng thường thì người ta vẫn chết vì những điều không ngờ nhất. Lão nuốt ực một cái, vặn vẹo những ngón tay xương xẩu của mình, duỗi thẳng chân cố trấn tĩnh
lại. Đến đâu thì nghĩ đến đấy thôi. Lão thậm chí còn chưa ra khỏi đây cơ mà. Rất nhiều chuyện có thể không diễn ra như ý muốn, và chắc chắn thế nào cũng có một hai chuyện xảy ra.
Lào sẽ chờ thêm một vài phút. Lão thầm đếm từng giây trôi qua trong đầu, cố hình dung ra cảnh những người kia đang lục tục bước lên xe. Có lẽ họ sẽ chờ thêm một lát xem có bóng dáng hay tiếng còi xe tuần tra nào không rồi mới lên đường.
Lão thận trọng mở túi ra. Trong đó là phần lớn những gì được cất giấu trong căn phòng bí mật. Lão đã suýt quên mất là lão tới đây để ăn trộm và thực tế thì lão đã ăn trộm xong rồi. Xe của lão để cách đây phải đến hơn nửa cây số. Ơn Chúa là mấy năm nay lão đã bỏ hẳn thuốc lá. Lát nữa lão sẽ cần huy động tất cả dung tích phổi của mình mà chạy cho nhanh. Lão đang phải đối mặt với bao nhiêu nhân viên Mật vụ nhỉ? Ít nhất là bốn. Chết tiệt!
Cánh cửa lắp gương chầm chậm mở ra, Luther bước ra khỏi phòng ngủ. Lão bấm chiếc điều khiển một lần nữa rồi ném nó lên chiếc ghế trong khi cánh cửa xoay đóng lại như cũ.
Lão liếc nhìn về phía cửa sổ. Lão đã lên sẵn một kế hoạch đào tẩu dự phòng qua đường đó. Một cuộn dây thừng nylon dài ba mươi mét cực chắc, cứ hai mươi phân lại có một nút mấu, đã nằm sẵn trong túi lão.
Lão đi vòng qua cái xác, thận trọng không chạm một tí gì vào cái mớ tối tối trên nền nhà, mà vị trí cụ thể của nó đã được lão lập trình rất kỹ càng trong trí nhớ. Chỉ có đúng một lần lão liếc nhìn thi thể của Christine Sullivan. Không gì có thể làm cô ta sống lại được nữa. Giờ thì Luther phải lo cho mạng sống của chính mình.
Vài giây sau lão đã tới bên chiếc bàn đầu giường, và bắt đầu tìm kiếm phía sau.
Ngón tay của Luther chạm vào chiếc túi nylon. Cú va của Tổng thống vào chiếc bàn đã làm cái túi xách của Russell để nghiêng qua một bên. Chiếc túi nylon chứa món đồ vô giá bên trong đã rơi ra và nằm kẹt phía sau bàn.
Luther vuốt ngón tay trên lưỡi dao rọc giấy nằm sau vỏ túi nylon trước khi cẩn thận nhét nó vào chiếc ba-lô của mình. Lão vội rảo bước ra phía cửa sổ và thận trọng nhòm qua đó. Chiếc limosine và chiếc xe thùng vẫn còn ở đó. Tệ thật.
Lão bước qua phía bên kia căn phòng, lấy cuộn dây thừng ra, buộc chặt một đầu dây vào chân của chiếc tủ quần áo khổng lồ, rồi kéo đầu kia tới chiếc cửa sổ khác, theo đó lão sẽ tụt xuống ở phía kia của ngôi nhà, khuất hẳn so với hướng quan sát từ đường vào. Lão khẽ khàng mở cửa sổ, thầm cầu nguyện là các bản lề đều trơn dầu, và được như ý.
Lão thả sợi dây xuống, nhìn nó trườn như một con rắn trên bức tường gạch.
Gloria Russell ngẩng lên nhìn mặt tiền đồ sộ của ngôi nhà. Ở nó toát lên sự giàu có thực sự. Sự giàu có và địa vị mà Christine Sullivan không đáng có được. Cô ta đã giành được nó bằng bộ mông căng nảy, bộ ngực núng ninh và cái miệng õng ẹo của mình, mà không hiểu sao những thứ đó lại gợi được cảm hứng từ lão Walter Sullivan già lụ khụ, đánh thức những cảm xúc tưởng chừng như đã ngủ yên trong con người ông ta. Chỉ sáu tháng nữa thôi ông ta cũng sẽ không còn thương nhớ gì cô vợ cũ nữa. Thế giới tiền bạc và quyền lực của ông ta vẫn tiếp diễn như thường.
Bất thình lình bà ta chợt nhớ ra.
Russell đang nhoài người ra khỏi chiếc limo thì Collin nắm cánh tay bà ta và kéo lại. Anh ta chìa ra chiếc túi da nhỏ mà Russell đã mua ở Georgetown với giá một trăm đô-la bèo bọt nhưng giờ đây đã trở nên vô giá đối với bà ta. Russell thở phào và ngồi trở lại ghế. Bà ta sung sướng nở một nụ cười với Collin, hai gò má còn tưởng như hồng lên một chút.
Vị Tổng thống vẫn còn đang chếnh choáng vì hơi men và sợ hãi, không nhận ra thay đổi đó.
Nhưng Russell vẫn kín đáo lia ánh mắt vào trong chiếc túi, để đảm bảo. Bà ta há hốc miệng, hai tay xộc thẳng vào lục lọi điên cuồng bên trong chiếc túi. Có lẽ phải lấy hết cả ý chí và khả năng kiềm chế bà ta mới không gào lên thảm thiết trong khi kinh hoàng nhìn gã nhân viên mật vụ trẻ măng. Con dao rọc giấy không có trong túi. Chắc chắn nó vẫn còn trong nhà.
Collin lao vội lên cầu thang, Burton không hiểu gì nhưng cũng vội vàng chạy theo.
Luther đã leo xuống được nửa đường thì nghe thấy tiếng hai người kia đang chạy tới.
Còn ba mét nữa.
Họ đẩy tung cánh cửa phòng ngủ.
Còn gần hai mét nữa.
Hai nhân viên Mật vụ sững sờ nhìn thấy sợi dây thừng. Burton vội lao về hướng đó.
Còn nửa mét, Luther vội buông tay, thả người rơi xuống đất.
Burton vọt tới cửa sổ. Collin xô chiếc bàn đầu giường qua một bên: không có gì. Anh ta vội chạy tới cạnh Burton bên cửa sổ. Luther đã biến mất sau góc nhà. Burton định leo xuống qua cửa sổ. Collin vội ngăn anh ta lại. Đi theo đường họ vừa lên sẽ nhanh hơn.
Họ khóa chặt cửa trước khi rời khỏi phòng.
Luther cắm đầu chạy xuyên qua ruộng ngô. Lão không còn tâm trí đâu mà lo tới chuyện để lại dấu vết, lúc này lão chỉ mong sao sống sót được là may. Chiếc túi chật căng có làm tốc độ của lão chậm đi đôi chút, nhưng lão đã làm việc quần quật cả mấy tháng vừa rồi không phải là để ra về tay không.
Lão vọt ra khỏi ruộng ngô đang che chắn an toàn cho mình, bây giờ là phần nguy hiểm nhất của cuộc đào tẩu: một trăm mét đất trống hoàn toàn. Lúc này mặt trăng đã biến mất sau những đám mây đen đặc, trên đường phố cũng không còn đèn điện gì nữa; trong bộ quần áo tối màu của mình, hầu như không ai còn có thể nhìn ra lão. Nhưng mắt con người lại rất tinh tường với việc phát hiện ra những vật chuyển động trong màn đêm, mà lão thì lại đang vắt chân lên cổ mà chạy.
Hai nhân viên Mật vụ dừng lại giây lát bên chiếc xe thùng. Họ quay ra cùng với Đặc vụ Varney và lao qua ruộng ngô.
Russell hạ cửa kính xe xuống và nhìn theo họ, nét mặt không giấu nổi vẻ bàng hoàng. Thậm chí cả Tổng thống cũng hơi tỉnh lại, nhưng bà ta nhanh chóng vỗ về cho ông ta bình tĩnh, và thế là ông ta lại tiếp tục gật gù trong cơn chếnh choáng của mình.
Collin và Burton chụp lên mặt những chiếc kính nhìn đêm và khung cảnh trước mắt họ lúc này hiện lên giống như giao diện của một trò chơi điện tử thô kệch. Chỉ những vật tỏa nhiệt mới hiện lên với màu đỏ, tất cả những thứ còn lại đều có một màu xanh lục nhợt nhạt.
Đặc vụ Travis Varney, cao to, chân tay lêu nghêu, chạy dẫn đầu đoàn người, mặc dù chỉ loáng thoáng ý thức được chuyện gì đang diễn ra. Anh chàng chạy thoăn thoắt với sự dẻo dai của một vận động viên điền kinh chuyên nghiệp.
Varney là một anh chàng độc thân, đã tham gia cơ quan Mật vụ được ba năm. Một anh chàng tận tụy với công việc. Trong mắt anh ta thì Burton không khác gì một người cha, có lẽ để thay thế cho người cha đẻ của anh ta đã thiệt mạng ở Việt Nam. Anh ta chỉ biết là đang đuổi theo một kẻ nào đó vừa gây ra chuyện gì đó trong ngôi nhà. Chuyện gì đó liên quan đến Tổng thống và do đó nó đương nhiên là chuyện của anh ta. Varney cảm thấy thương hại cho kẻ đang bị anh ta đuổi theo nếu anh ta tóm được hắn.
Luther nghe rõ tiếng bước chân rầm rập của bọn người đang đuổi theo lão phía sau. Họ đã trấn tĩnh và phản ứng nhanh hơn lão tưởng. Ưu thế khởi đầu của lão đang mất dần nhưng vẫn có thể đủ cho lão thoát thân. Họ đã mắc một sai lầm rất lớn là không nhảy lên chiếc xe thùng đuổi theo lão. Họ lẽ ra phải đoán được lão đã giấu sẵn xe ở gần đấy rồi mới phải. Làm gì có chuyện lão từ trên trời rơi xuống. Nhưng dù sao lão cũng mừng thầm là bọn này cũng không hoàn toàn khôn ngoan như công việc mà họ đang làm đòi hỏi. Nếu họ nhảy lên xe đuổi theo thì chắc chắn lão không còn cơ hội sống sót mà nhìn thấy mặt trời hôm sau.
Lảo chạy tắt qua một con đường xuyên trong rừng, đây là con đường lão phát hiện ra trong lần đi thám thính gần đây nhất. Ít nhất nó cũng giúp lão tiết kiệm được một phút. Hơi thở của lão bắt đầu như vỡ ra, hổn hển như một khẩu liên thanh. Ngay cả quần áo trên người lão cũng bắt đầu nặng trịch; hai chân lão dường như đang chuyển động rất chậm, như trong một giấc mơ quay chậm thời thơ ấu.
Cuối cùng lão cũng ra khỏi rừng cây, và có thể nhận ra chiếc xe của mình ngay trước mặt. Một lần nữa lão mừng thầm vì đã cẩn thận quay sẵn đầu xe.
Phía sau đó gần 100m, hình dáng màu đỏ nhiệt của một người khác không phải Varney, cũng đã hiện lên trước mắt Collin và Burton. Một người đàn ông đang chạy, chạy như tên bắn. Theo phản xạ, cả hai đưa tay lên bao súng trong nách. Súng của họ không thích hợp cho khoảng cách xa như thế này, nhưng giờ cũng chẳng còn lựa chọn nào khác.
Rồi có tiếng động cơ nổ lên, Burton và Collin càng cuồng chân chạy như thể một quả ngư lôi đang bám sát sau gót họ.
Trước mặt họ vẫn là Varney, chếch về phía tay trái. Anh ta ở gần mục tiêu hơn họ và nếu bắn thì khả năng trúng đích là cao hơn, nhưng liệu anh ta có bắn không? Có gì đó mách bảo họ là anh ta sẽ không bắn; đó không phải là tình huống được đưa ra trong khóa huấn luyện, bắn một người đang bỏ chạy, một người không còn là mối đe dọa đối với nhân vật mà anh ta thề sẽ bảo vệ. Tuy nhiên, Varney không biết rằng trong tình huống này thì không chỉ có mạng sống của ai đó bị đe dọa. Có cả một thể chế sẽ không bao giờ còn như cũ, đó là chưa kể số phận hai nhân viên Mật vụ, những người hoàn toàn tin tưởng rằng những gì họ vừa làm chẳng có gì là sai cả, nhưng cũng đủ thông minh để hiểu rằng họ sẽ là kẻ phải giơ đầu chịu báng.
Burton chưa bao giờ giỏi về môn chạy, nhưng anh ta vẫn cố ép mình lao như tên bắn khi những ý nghĩ đó lướt nhanh trong đầu, khiến cả anh chàng Collin trẻ tuổi cũng phải khó khăn lắm mới theo kịp được anh ta. Nhưng Burton cũng tự nhận thấy rằng đã quá muộn. Hai chân anh ta như nhũn
xuống khi tiếng động cơ xe rồ lên và chạy xa dần. Dường như chỉ trong tích tắc nó đã ở cách xa họ đến vài trăm mét.
Burton ngừng chạy, ngã phịch xuống và giương súng ngắm theo, nhưng tất cả những gì anh ta nhìn thấy là đám bụi bốc lên từ đuôi chiếc xe đang chạy trốn. Sau đó cả đèn hậu của chiếc xe cũng vụt tắt và mục tiêu của anh ta hoàn toàn mất hút.
Anh ta quay sang nhìn Collin đang đứng cạnh nhìn xuống, lúc này ý nghĩa thực sự của toàn bộ những gì vừa xảy ra đang bắt đầu hiện rõ trong đầu anh ta. Burton nặng nề đứng dậy và cất súng vào bao. Anh ta tháo kính nhìn đêm; Collin cũng làm theo.
Hai người lặng lẽ nhìn nhau.
Burton thở một cách khó khăn; chân tay vẫn còn run rẩy. Đến lúc này, bao nhiêu sự phấn khích dồn vào nỗ lực truy đuổi mục tiêu dường như biến mất, khiến người anh ta rũ xuống như một quả bóng xẹp hơi. Lẽ nào mọi chuyện thế là hết?
Một lát sau Varney chạy lại chỗ hai người. Dù đang quẫn trí nhưng Burton vẫn không khỏi cảm thấy chút ghen tỵ pha lẫn tự hào khi thấy chàng trai trẻ không hề thở dốc. Burton thầm nhủ sẽ không để Varney và Johnson phải chịu vạ lây. Họ không đáng bị như thế.
Anh ta và Collin chết chắc rồi, nhưng chỉ thế thôi. Anh ta cảm thấy vô cùng tiếc cho Collin; tuy nhiên, giờ thì cũng không thể làm gì hơn được nữa. Nhưng khi Varney cất tiếng, viễn cảnh về tương lai trong đầu Burton bỗng chuyển từ bóng đen u ám hoàn toàn và tuyệt đối sang một tia hy vọng mong manh.
“Tôi nhìn thấy biển số xe rồi.”
"Hắn đã ở chỗ quái nào cơ chứ?" Russell nhìn quanh phòng ngủ, không tin vào mắt mình. “Cái gì? Chẳng lẽ hắn nằm dưới cái gầm giường khốn kiếp kia à?”
Bà ta cố lườm trừng trừng cho đến khi Burton phải cụp mắt xuống. Tên đó không trốn dưới gầm giường, hay trong bất kỳ ngăn tủ nào. Burton đã kiểm tra tất cả những nơi đó khi anh ta dọn dẹp căn phòng. Tuy vậy, anh ta cũng chỉ lí nhí nói cho bà ta biết nhận xét đó của mình.
Burton chằm chằm nhìn sợi dây thừng và ô cửa sổ đang mở toang. “Lạy Chúa, như thể tên này quan sát chúng ta suốt từ đầu đến cuối, hắn biết chính xác lúc nào chúng ta rời khỏi đây.” Burton nhìn quanh như thể muốn tìm xem còn ông kẹ nào lởn vởn quanh đó không. Mắt anh ta liếc đến chiếc gương, rồi bước tới, dừng lại và lùi lại.
Anh cúi xuống nhìn mặt thảm ngay trước tấm gương.
Anh đã dùng hút bụi dọn dẹp khu vực đó từng li từng tí một cho đến khi mặt thảm phẳng phiu như được là; mặt thảm lông đắt tiền so với khi anh ta lau dọn xong đã phồng lên một chút. Và từ lúc họ quay lại phòng đến giờ chưa hề có ai bước tới đó.
Và khi cúi xuống nhìn kỹ hơn, con mắt tinh tường của Burton nhận ngay ra những dấu chân rất mờ hằn trên mặt thảm. Trước đó anh không hề nhận ra chi tiết này… Anh xỏ găng tay, chạy lại chỗ chiếc gương, kéo mạnh và cạy xung quanh mép kính. Anh gọi Collin mang cho mình một số dụng cụ trong khi Russell chết lặng người đứng nhìn.
Burton luồn thanh xà beng vào giữa phía mép chiếc gương, cả anh ta và Collin cùng đè người lên thanh sắt và nảy mạnh. Cái khóa thật ra cũng không quá chắc chắn. Những bí mật đằng sau nó chủ yếu được bảo vệ nhờ vào sự ngụy trang tinh vi chứ không phải nhờ sự kiên cố thông thường.
Một âm thanh ken két đến chói tai rít lên, có cái gì đó kêu cách một tiếng rồi rơi đánh bộp, và cánh cửa mở tung ra.
Burton lao vào trong với Collin bám ngay phía sau. Trên tường có một công tắc điện. Căn phòng nhỏ bừng sáng và hai người đàn ông đứng nhìn quanh.
Russell cũng chui vào, nhìn thấy chiếc ghế. Khi liếc mắt nhìn quanh, mặt bà ta như đông cứng lại khi trông thấy mặt sau của tấm gương. Bà ta đang nhìn thẳng ra chiếc giường. Chiếc giường mà chỉ vừa mới đây thôi…
Russell đưa tay lên ôm lấy thái dương trong khi đầu bà ta đau nhói như chực vỡ tung ra.
Tấm gương một chiều.
Bà ta quay người lại và nhận ra Burton đang nhìn phía trên vai mình, xuyên qua tấm gương. Phỏng đoán của anh ta về việc có kẻ chứng kiến mọi chuyện họ làm hóa ra đã trở thành sự thật.
Burton bất lực nhìn Russell. “Chắc chắn hắn đã ở đây suốt. Từ đầu đến cuối. Thật không thể tin nổi.” Burton liếc quanh những cái giá trống trơn trong căn hầm. “Có vẻ hắn cuỗm theo rất nhiều thứ. Tiền mặt và những món béo bở khác…”
“Ai quan tâm đến chuyện đó chứ!” Russell như gào lên và chỉ tay về phía tấm gương. “Hắn đã nhìn và nghe được mọi chuyện, và các anh đã để hắn trốn thoát.”
“Chúng tôi đã thấy biển số xe của hắn.” Collin hớn hở nói với hy vọng sẽ được thưởng thêm một nụ cười khác. Lần này thì anh ta phải thất vọng.
“Thì sao? Anh tưởng hắn sẽ ngồi đó chờ chúng ta lần ra và đến gõ cửa nhà hắn hay sao?”
Russell ngồi phịch xuống giường. Đầu óc bà ta như quay cuồng. Nếu như kẻ đó đã ngồi trong kia từ đầu thì có lẽ hắn đã chứng kiến tất cả. Bà ta lắc đầu. Một tình huống tồi tệ nhưng vẫn có thể xử lý được bỗng đột nhiên trở thành một thảm họa không sao hiểu nổi, và hoàn toàn vượt khỏi tầm kiểm soát của bà ta. Đặc biệt là với thông tin mà Collin đã cho bà ta biết khi mới quay lại phòng ngủ.
Tên chó đẻ đỏ đang cầm con dao rọc giấy! Vân tay, vết máu, tất cả những gì có thể dẫn cảnh sát đến thẳng Nhà Trắng.
Bà ta nhìn tấm gương rồi lại nhìn chiếc giường, nơi mà chỉ một thời gian ngắn trước đó thôi bà ta đang cưỡi trên người Tổng thống. Bất giác bà ta kéo chiếc áo khoác che kín người. Bỗng nhiên bà ta thấy bụng quặn lên chỉ chực buồn nôn, bà uể oải dựa hẳn vào chiếc cột giường.
Collin từ trong căn phòng bí mật đi ra. “Đừng quên là hắn cũng là tội phạm, xét theo hoàn cảnh hắn có mặt ở đây. Hắn sẽ gặp rắc rối to nếu đến
chỗ cảnh sát.” Anh chàng đặc vụ trẻ đã nảy ra ý nghĩ đó trong lúc sục sạo xung quanh căn phòng.
Có lẽ anh ta nên nghĩ kỹ hơn một chút.
Russell cố nén cơn buồn nôn vào trong. “Hắn việc quái gì phải đến gặp cảnh sát và tự nộp mạng mình. Anh đã bao giờ nghe nói đến một cái điện thoại khốn kiếp không hả? Có lẽ ngay lúc này hắn đang gọi điện cho tờ Washington Post rồi cũng nên. Mẹ kiếp! Rồi sau đó là những tờ lá cải khác và đến cuối tuần là chúng ta sẽ được nhìn thấy hắn xuất hiện trên các talkshow của Oprah và Sally, được quay từ xa tại một hòn đảo quái quỷ nào đó mà hắn đã đào tẩu tới, với khuôn mặt được cẩn thận làm mờ để không ai có thể nhận ra. Sau đó hẳn sẽ là viết sách, rồi làm phim. Chó chết!”
Russell hình dung ra cảnh một gói bưu phẩm đang trên đường gửi tới cho tờ Washington Post hoặc tới Tòa nhà J. Edgar Hoover, hoặc tới văn phòng Chưởng lý Hoa Kỳ, hoặc văn phòng Lãnh đạo Thiểu số của Thượng viện, dù gửi đến đâu cũng hứa hẹn gây ra những tổn thất ghê gớm nhất về mặt chính trị—đó là chưa kể những hậu quả về mặt pháp lý.
Lá thư đi kèm sẽ yêu cầu họ đối chiếu mẫu máu và dấu vân tay trên đó với những mẫu của Tổng thống Hoa Kỳ. Nghe chẳng khác gì một trò đùa, nhưng họ sẽ làm theo. Tất nhiên là họ sẽ làm. Dấu vân tay của Richmond đã có trong hồ sơ. Mẫu ADN của ông ta cũng sẽ được đối chiếu. Xác cô ta sẽ được tìm thấy, máu của cô ta cũng sẽ được kiểm tra và thế là họ sẽ phải đối đầu với rất nhiều câu hỏi không biết phải trả lời như thế nào.
Họ chết chắc rồi, tất cả đều chết chắc. Tên khốn kiếp đó chỉ ngồi trong kia, chờ đợi cơ hội của hắn. Không hề biết một điều rằng cái đêm định mệnh này sẽ mang đến cho hắn phần thưởng lớn nhất trong đời. Không đơn giản chỉ là những đồng đô-la. Hắn sẽ hạ bệ một vị Tổng thống, đập tan tên tuổi và uy tín của ông ta ra thành từng mảnh nhỏ, vùi ông ta xuống bùn đen không có cách nào cứu vãn được. Có bao nhiêu người có thể làm được chuyện như vậy chứ? Woodward và Bernstein đã trở thành những siêu nhân, họ đã làm điều đúng đắn. Nhưng vụ này sẽ ăn đứt cả Watergate. Chuyện chết tiệt này vượt quá khả năng giải quyết của bất kỳ ai.
Russell cố hết sức mới kịp chạy vào phòng vệ sinh. Burton quay sang nhìn cái xác rồi lại nhìn Collin. Cả hai đều im lặng, chỉ có tim họ là đang
đập mỗi lúc một nhanh và gấp gáp như thể toàn bộ gánh nặng của tấn thảm kịch này đang đè nặng xuống họ như tấm nắp bằng đá của một cái hầm mộ chết chóc. Không nghĩ ra được việc gì khác để làm, Burton và Collin lầm lũi thu dọn đồ nghề trong khi Russell nôn thốc nôn tháo tất cả những gì có trong bụng. Một tiếng sau họ đã thu dọn xong xuôi và biến khỏi đó.
Cánh cửa khẽ khép lại sau lưng lão.
Luther đoán lão chỉ có vài ngày, thậm chí còn không đến. Lão đánh liều bật một bóng điện lên và lia mắt nhanh một vòng quanh nội thất của phòng khách.
Cuộc sống của lão đang từ bình thường, hay gần như thế, đột ngột chuyển sang một vùng đất mới thật kinh hoàng.
Lão tháo chiếc ba-lô trên lưng xuống, tắt điện và bước tới bên cửa sổ.
Không có gì—tất cả đều yên lặng. Đào thoát khỏi ngôi nhà đó là trải nghiệm căng thẳng nhất trong đời lão, thậm chí còn tồi tệ hơn cả những lần phải đương đầu với những tay súng Bắc Triều Tiên gào thét như điên dại. Hai tay lão vẫn còn giật giật. Suốt trên đường về, mỗi cái xe đi qua đường như đều rọi thẳng đèn pha vào mặt lão, như muốn phanh phui cái bí mật tội lỗi mà lão đang che giấu. Có hai lần xe cảnh sát vượt qua xe lão, mồ hôi lão đã rịn ra ướt hết trán, trong khi hơi thở như ngừng lại.
Chiếc xe đã được trả về bãi đỗ nơi Luther đã “mượn tạm” chiều tối hôm đó. Họ không sẽ không tìm được gì từ biển số xe, nhưng vẫn có thể có điều gì đó mà lão chưa tính đến.
Lão không tin họ đã kịp nhìn thấy mình. Mà giả sử có nhìn thấy chăng nữa thì cũng chỉ biết chung chung về dáng người và chiều cao của lão. Tuổi tác, màu da, và nét mặt vẫn sẽ còn là điều bí ẩn, mà nếu không có những chi tiết đó thì coi như họ chưa có gì. Căn cứ vào tốc độ chạy như tên bắn của lão, có lẽ họ còn đoán lão là một tay thanh niên cũng nên. Vẫn còn một dấu vết, trên đường quay về lão đã nghĩ mãi không biết phải giải quyết nó như thế nào. Trước mắt, lão phải tống tất cả những gì tích cóp
được trong suốt ba mươi năm qua vào hai cái túi; lão sẽ không quay về nơi này nữa.
Trong sáng mai lão sẽ rút hết tiền trong tài khoản của mình; ngần đó là đủ cho lão cao chạy xa bay khỏi chốn này. Lão đã từng nếm trải qua nhiều nguy hiểm hơn bất kỳ ai trong cuộc đời ăn trộm kỳ cựu của mình. Nhưng phải lựa chọn giữa việc chống lại Tổng thống Hoa Kỳ và lặn mất tăm thì câu trả lời là quá hiển nhiên.
Mẻ lưới của lão đêm nay đã được cất giấu ở một nơi an toàn. Ba tháng theo dõi và chuẩn bị vất vả đã mang đến cho lão phần thưởng là suýt nữa thì mất mạng. Lão khóa cửa và biến mất vào màn đêm.
4
Vào đúng 7 giờ sáng, cánh cửa sơn màu vàng của thang máy mở ra, và Jack bước vào một khoảng trống rộng thênh thang nhưng được trang trí cực kỳ tỉ mỉ dùng làm khu vực tiếp tân của Patton & Shaw.
Lucinda chưa đến, vậy là bàn lễ tân chính • đóng hoàn toàn bằng gỗ teak nguyên khối rắn như đá, nặng gần 500kg, với chi phí bỏ ra cho mỗi kilogram là 40 đô-la—vẫn vắng tanh.
Anh bước dọc theo những hành lang rộng rãi dưới ánh sáng dịu mắt của những chiếc đèn chùm mang phong cách tân cổ điển treo hai bên tường, rẽ phải rồi lại rẽ trái và chỉ một phút sau đã đứng trước cánh cửa phòng làm việc bằng gỗ sồi của mình. Xa xa vẳng lại tiếng chuông điện thoại lanh lảnh reo của một thành phố bận rộn bắt đầu thức dậy.
Sáu tầng nhà, trải rộng trên diện tích lên đến gần một nghìn mét vuông tại một trong những địa chỉ đắc địa nhất trong thành phố, nơi làm việc của hơn hai trăm luật sư được trả lương ngất ngưởng, với một thư viện hai tầng, một phòng gym đầy đủ thiết bị, phòng xông hơi, phòng tắm và tủ đồ dành riêng cho phụ nữ và nam giới, mười phòng hội thảo, một đội ngũ nhân viên giúp việc lên đến hàng trăm và, quan trọng nhất, là một danh sách khách hàng mà bất kỳ hãng luật nào trên cả nước cũng phải thèm thuồng, đó là đế chế của Patton, Shaw & Lord.
Hãng luật này đã vượt qua được giai đoạn tồi tệ hồi cuối những năm 1980, rồi nhanh chóng tăng tốc trở lại khi cuộc suy thoái qua đi. Giờ thì nó đang bành trướng nhanh chóng trong khi nhiều hãng cạnh tranh phải thu hẹp quy mô. Tại đây có những luật sư xuất sắc nhất của hầu hết mọi lĩnh vực, hoặc ít nhất cũng là những lĩnh vực mang lại lợi nhuận hậu hĩnh nhất. Rất nhiều người trong số này được nẫng về từ các hãng luật hàng đầu
khác, bị hấp dẫn bởi những phần thưởng kếch xù và những lời hứa hẹn rằng ban lãnh đạo sẽ không tiếc họ một đồng nào khi cần theo đuổi những cuộc làm ăn triển vọng.
Ba thành viên sáng lập hãng đều đã được mời ra đảm nhiệm những vị trí chóp bu trong chính quyền hiện tại. Quà chia tay của hãng dành cho họ là khoản tiền lên đến trên hai triệu đô-la cho mỗi người, cùng với sự ngầm hiểu rằng sau khi chính phủ của họ hết nhiệm kỳ họ vẫn sẽ quay lại với công việc cũ, mang trở lại hàng chục triệu đô-la béo bở từ những mối quan hệ mới của mình.
Luật bất thành văn, nhưng được tuân thủ cực chặt chẽ của hãng là không chấp nhận bất kỳ khách hàng mới nào nếu hóa đơn thanh toán tối thiểu không vượt quá một trăm ngàn đô-la. Ban giám đốc đã quyết định rằng bất kỳ khoản tiền nào thấp hơn đều chỉ làm phí thời gian của hãng.
Và việc tuân thủ quy định đó cũng chẳng có gì khó khăn, thậm chí họ còn làm không hết việc là khác. Tại thủ đô của nước Mỹ, khách hàng luôn muốn những hãng luật tốt nhất mà không quan tâm đến vấn đề giá cả.
Hãng mới chỉ thực hiện đúng một ngoại lệ của quy định đó, và thật trớ trêu đó lại là khách hàng duy nhất mà Jack có ngoài công ty Baldwin. Anh tự nhủ sẽ từng bước thách thức cái quy định đó xem thế nào. Và một khi đã quyết định làm, anh sẽ cố gắng làm theo cách của mình càng nhiều càng tốt. Anh biết những thắng lợi ban đầu của mình sẽ rất khiêm tốn, nhưng như thế cũng đã là tốt lắm rồi.
Anh ngồi xuống bàn làm việc, mở cốc cà phê của mình và liếc qua tờ Post. Patton, Shaw & Lord có tới năm nhà bếp cùng với ba người quản gia làm việc toàn thời gian, người nào cũng có máy tính riêng. Có lẽ mỗi ngày hãng tiêu thụ hết khoảng năm trăm cốc cà phê, nhưng bao giờ Jack cũng tự mua cà phê sáng cho mình tại quán nhỏ phía góc đường phố vì anh không sao nhấp nổi cái thứ đồ uống ở công ty. Đó là một loại cà phê nhập khẩu đặc biệt cực kỳ đắt đỏ vậy mà uống chẳng khác gì đất trộn với tảo biển.
Anh ngả người trên ghế và liếc một vòng quanh văn phòng của mình. Một văn phòng rộng rãi theo đúng tiêu chuẩn của những công ty hàng đầu, mỗi chiều khoảng 5m, bên dưới là quang cảnh Đại lộ Connecticut rất đẹp.
Hồi còn làm ở Văn phòng Luật sư công, Jack phải dùng chung văn phòng với một luật sư khác, ở đó thậm chí còn không có cửa sổ, chỉ có đúng một tấm tranh quảng cáo khổng lồ in hình bãi tắm ở Hawaii mà Jack hỳ hục dán lên vào một buổi sáng lạnh đến cắt da cắt thịt. Được cái là cà phê ở đó hợp gu của Jack hơn nhiều.
Khi trở thành đối tác chính của hãng, anh sẽ nhận được một văn phòng mới, có lẽ là rộng gấp đôi chỗ hiện tại—tất nhiên chưa phải là văn phòng ở góc, rộng rãi với tầm nhìn đẹp, nhưng điều đó cũng chỉ là vấn đề thời gian. Với tài khoản của công ty Baldwin, anh trở thành người kiếm tiền nhiều thứ tư trong hãng, trong khi ba người kia đã đều đã năm mươi, sáu mươi tuổi, ở cái tuổi mà họ quan tâm tới các sân golf nhiều hơn là tới một văn phòng mới. Anh liếc nhìn đồng hồ. Đã tới lúc bắt đầu công việc.
Anh vẫn thường là một trong những người đầu tiên đến công ty, nhưng chỉ một lát nữa thôi là nơi này sẽ vô cùng náo nhiệt. Patton, Shaw trả lương nhân viên không kém gì mức đãi ngộ ở những công ty hàng đầu New York, và đổi lại khoản tiền kếch xù đó, họ kỳ vọng những nỗ lực phi thường. Khách hàng của hãng đều là dân khủng và những yêu cầu pháp lý của họ cũng khủng không kém. Mắc một sai làm trong lĩnh vực này có thể cùng đồng nghĩa với một hợp đồng bào chữa bốn tỷ đô-la tan thành mây khói hoặc một thành phố tuyên bố phá sản.
Mọi cộng sự và cổ đông nhỏ mà anh biết trong hãng đều gặp vấn đề về dạ dày; một phần tư trong số đó phải điều trị dưới hình thức này hay hình thức khác. Jack chứng kiến cảnh những khuôn mặt tái nhợt cùng thân hình èo uột của họ hàng ngày lê qua những hành lang sạch bóng của Patton, Shaw & Lord, người như còng xuống dưới một gánh nặng pháp lý khổng lồ nào đó. Đó là cái giá phải trả cho khoản tiền lương giúp họ được ở trong nhóm năm phần trăm dân số có thu nhập cao nhất nước.
Trong số này thì chỉ có anh là không phải lo nghĩ nhiều về việc có thể trở thành đối tác chính hay không. Trong ngành luật thì yếu tố then chốt nhất là kiểm soát được khách hàng. Anh mới chỉ làm việc cho Patton, Shaw được khoảng một năm, vẫn chỉ là một tay mơ trong lĩnh vực Luật doanh nghiệp, vậy mà lại nhận được sự tôn trọng của hầu hết các thành viên kỳ cựu và nhiều kinh nghiệm nhất trong hãng.
Tất cả những điều đó lẽ ra phải khiến anh cảm thấy áy náy, cảm thấy không xứng đáng—có lẽ anh sẽ cảm thấy thế thật nếu như anh không phải bận tâm vì sự khổ sở đang chờ đợi phần đời còn lại của mình.
Anh thả nốt chiếc bánh rán nhỏ cuối cùng vào miệng, nhổm người ngồi thẳng lên trên ghế và mở một tập hồ sơ. Bản thân những việc liên quan đến kinh doanh thường đã rất đơn điệu, hơn nữa trình độ và kỹ năng của anh trong lĩnh vực này cũng chưa đâu vào đâu nên phần việc mà anh được giao cũng chẳng được coi là điều vui thú gì cả. Xem xét lại những hợp đồng thuê đất, chuẩn bị hồ sơ đăng ký tiêu chuẩn UCC, thành lập những công ty trách nhiệm hữu hạn, soạn thảo biên bản ghi nhớ và những tài liệu sắp xếp cá nhân, tất cả đều có trong công việc hàng ngày, và danh sách những việc phải làm cũng mỗi ngày một dài hơn, và dài hơn nữa, nhưng anh cũng học hỏi rất nhanh; anh buộc phải học nếu muốn tồn tại ở đây, những kỹ năng tranh biện trước tòa dường như hoàn toàn trở nên vô dụng ở môi trường này.
Thông thường thì hãng hiếm khi nhận những công việc tranh tụng hoặc kiện cáo, mà chủ yếu ưu tiên cho mảng thuế và luật doanh nghiệp, vừa ổn định lại còn béo bở hơn nhiều. Khi xuất hiện vấn đề cần kiện cáo, công việc sẽ được chuyển cho những hãng luật tranh tụng hàng đầu, ngược lại, những hãng này cũng chuyển cho Patton, Shaw những phần việc không liên quan đến kiện cáo. Đó là một thỏa thuận đã phát huy hiệu quả rất tốt từ nhiều năm nay.
Đến giờ ăn trưa anh đã giải quyết xong hai chồng hồ sơ, đọc cho thư ký soạn ba danh mục kiểm tra cùng với vài lá thư, đó là chưa kể anh còn nhận cả bốn cuộc điện thoại từ Jennifer, nhắc anh về bữa tối ở Nhà Trắng mà họ sẽ tham dự đêm hôm đó.
Chẳng là bố cô vừa được một tổ chức nào đó trao tặng giải thưởng Doanh nhân của năm. Việc một sự kiện như vậy lại được tổ chức dưới hình thức một buổi tiệc trong Nhà Trắng cũng đủ nói lên nhiều điều về mối quan hệ khăng khít giữa Tổng thống và giới trùm tài phiệt. Nhưng dù sao thì Jack cũng có cơ hội được nhìn tận mặt Tổng thống. Còn việc được giới thiệu và nói chuyện với ông ta thì có lẽ là không thể, nhưng thật ra ai mà biết được.
“Rảnh chứ?” Barry Alvis thò cái đầu đang bắt đầu hói của mình vào cửa phòng. Anh ta là một cộng sự cao cấp, có nghĩa là anh ta đã ba lần được xem xét tư cách trở thành đối tác chính nhưng có lẽ sẽ không bao giờ vượt qua được bước cuối cùng đó. Vừa cần cù lại sắc sảo, anh ta là một mẫu luật sư mà bất kỳ hãng luật nào cũng cảm thấy may mắn khi có được. Tuy nhiên, những kỹ năng giao tiếp, cùng với triển vọng tìm kiếm và thu hút khách hàng của anh ta lại là con số không tròn trĩnh. Anh ta kiếm được một trăm sáu mươi nghìn đô-la mỗi năm, và làm việc đủ chăm chỉ để được nhận thêm hai mươi nghìn tiền thưởng nữa. Vợ anh ta không đi làm, con cái đều học ở các trường tư danh tiếng, có một chiếc Beemer đời mới nhất, thứ mà khó có thể ghi điểm trong các vụ thương thảo với khách hàng, nhưng cũng không có gì đáng để phàn nàn.
Là một luật sư kỳ cựu với mười năm kinh nghiệm giao dịch trong môi trường kinh doanh khắc nghiệt hàng đầu, anh ta chẳng có lý do gì mà không bực bội với vị trí của Jack Graham, và đó chính là những gì anh ta đã làm.
Jack vẫy anh ta vào. Anh biết Alvis không thích mình, anh hiểu tại sao và cũng không lấy làm phiền cho lắm. Anh phải chấp nhận thái độ đó của họ, trong chừng mực nhất định, chứ anh không để ai đó o ép mình quá đáng.
“Jack, chúng ta phải làm cho xong vụ sáp nhập Bishop.”
Jack ngỡ ngàng. Hợp đồng đó, một của tội nợ thực sự, đã chết rồi cơ mà, hoặc ít nhất anh cũng tưởng vậy. Anh rút ra một tập hồ sơ luật, hai tay hơi giật giật.
“Tôi tưởng Raymond Bishop không muốn lên giường với TCC.”
Alvis ngồi xuống, đặt chồng hồ sơ dày cả gang tay mà anh ta mang theo bên mình lên mặt bàn, rồi ngả người ra sau ghế.
“Những hợp đồng vẫn chết, rồi quay lại ám ảnh cậu. Chúng tôi cần những nhận xét của cậu với những tài liệu tài chính phát sinh vào chiều ngày mai.”
Suýt nữa thì Jack đánh rơi chiếc bút. “Tức là mười bốn bản thỏa thuận với hơn năm trăm trang tài liệu, Barry. Anh biết chuyện này từ khi nào
vậy?”
Alvis nhổm dậy và Jack thoáng nhận thấy một nụ cười đắc chí đang hiện lên mặt anh ta.
“Mười lăm bản thỏa thuận, với con số chính thức là sáu trăm mười ba trang, các dòng viết liền nhau, chưa kể phụ lục đi kèm. Cảm ơn Jack, Patton & Shaw đánh giá cao sự vất vả của cậu.” Anh ta quay lưng. “À quên, chúc cậu có buổi tối vui vẻ với ngài Tổng thống nhé, và cho gửi lời hỏi thăm cô Baldwin.”
Alvis bước ra ngoài.
Jack nhìn chồng tài liệu khổng lồ trước mặt và giơ tay xoa mạnh hai thái dương. Anh tự hỏi không biết cái thằng chó đẻ khốn kiếp kia biết về việc dự án sáp nhập Bishop được khôi phục từ bao giờ. Có gì đó mách bảo anh rằng không phải là mới chỉ từ sáng nay.
Anh nhìn đồng hồ rồi bấm chuông gọi cô thư ký, ra lệnh hủy tất cả lịch và những công việc còn lại trong ngày, nhấc tập hồ sơ nặng cả gần chục cân lên và bước về phía phòng họp số chín, phòng họp nhỏ nhất và biệt lập nhất của hãng, nơi anh có thể ẩn mình làm việc trong yên tĩnh. Anh có thể tập trung làm trong sáu tiếng, đi dự tiệc, quay lại, làm cả đêm, xông hơi qua một chút, rồi đi tắm và cạo râu ngay tại đây, làm nốt phần nhận xét và đặt chúng lên bàn Alvis vào lúc ba giờ, cùng lắm là bốn. Đồ khốn kiếp.
Sau khi xem xong sáu bản thỏa thuận, Jack ăn nốt miếng khoai tây chiên cuối cùng, uống hết lon Coke, cầm lấy áo khoác và chạy một mạch mười cầu thang xuống sảnh chờ.
Chiếc taxi thả anh xuống trước khu căn hộ của mình. Anh đứng đờ người.
Chiếc Jaguar đã đậu sẵn trước tòa nhà của anh. Tấm biển số kênh kiệu với từ SUCCESS cho Jack biết là người sắp trở thành bạn đời của anh đang chờ sẵn trên phòng. Cô đang rất bực anh. Cô không bao giờ chịu hạ mình tới chỗ ở của anh trừ phi cô đang bực anh vì chuyện gì đó và muốn để cho anh biết rõ điều này.
Anh nhìn đồng hồ. Kể ra cũng hơi muộn một chút, nhưng không sao. Anh mở cửa chính, tay xoa xoa cằm; có lẽ bỏ qua bước cạo râu cũng không
sao. Cô đang ngồi trên sofa, tất nhiên sau khi đã cẩn thận trải một tấm vải sạch xuống bề mặt ghế. Anh phải thầm công nhận là trông cô thật lộng lẫy; đúng dòng dõi của những kẻ máu xanh , còn khái niệm đó thời buổi này có ý nghĩa gì thì anh không chắc nữa. Mặt nặng như chì, cô đứng dậy, nhìn thẳng vào mặt anh.
“Anh về muộn.”
“Anh có phải là sếp của mình đâu, em biết đấy.”
“Đừng lấy cớ, em cũng đi làm đấy.”
“Ừ, nhưng điểm khác biệt là sếp của em có cùng họ với em, và luôn chiều lòng cô con gái xinh đẹp đáng yêu của mình.”
“bố mẹ đi trước rồi. Hai mươi phút nữa chiếc limousine sẽ tới đây.”
“Còn nhiều thời gian mà.” Jack cởi quần áo và nhảy vào nhà tắm. Anh kéo tấm rèm che lại. “Jenn, lấy hộ anh bộ vest hai hàng cúc màu xanh nhé?”
Cô bước vào trong phòng tắm, nhìn quanh với vẻ ghê tởm không thèm che giấu. “Giấy mời ghi là cà-vạt đen mà.”
“Cà vạt đen không bắt buộc,” anh chỉnh lại, tay quệt bọt xà phòng đang dính vào mắt.
“Jack, đừng có thế chứ. Đây là Nhà Trắng, vì Chúa, là Tổng thống đấy.”
“Họ cho em được lựa chọn mà, cà-vạt đen hoặc không. Anh chỉ đang thực hiện cái quyền của mình là được từ bỏ cà-vạt đen. Với lại, anh làm gì có áo tuxedo chứ.” Anh nhăn răng nhìn cô và kéo mạnh tấm rèm lại như cũ.
“Anh đáng lẽ phải mua một bộ rồi chứ.”
“Anh quên mất. Thôi nào Jenn, vì Chúa. Làm gì có ai nhìn anh đâu mà sợ, chẳng ai quan tâm đến việc anh mặc gì trên người.”
“Cảm ơn anh, cảm ơn anh rất nhiều, Jack Graham. Em chỉ yêu cầu anh có một việc bé xíu, vậy mà…”
“Em có biết là những đồ dở hơi ấy tốn bao nhiêu tiền không?”
"""