"Quyền Của Eva - Jacqueline Kelly full prc pdf epub azw3 [Thiếu nhi] 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Quyền Của Eva - Jacqueline Kelly full prc pdf epub azw3 [Thiếu nhi] Ebooks Nhóm Zalo Thông tin sách Tên sách: Quyền của Eva Nguyên tác: The Evolution of Calpurnia Tate Tác giả: Jacqueline Kelly Người dịch: Lâm Thanh Tùng Nhà phát hành: Phương Nam Nhà xuất bản: NXB Thời Đại Khối lượng: 300g Kích thước: 13x20,5 cm Ngày phát hành: 05/2013 Số trang: 342 Giá bìa: 102.000đ Thể loại: Tiểu thuyết Giả tưởng - Huyền bí Thông tin ebook Nguồn: http://tve-4u.org Thực hiện ebook: thanhbt Ngày hoàn thành: 28/08/2017 Dự án ebook #305 thuộc Tủ sách BOOKBT Giới thiệu Quyền của Eva là tác phẩm đầu tay của nhà văn - bác sĩ - luật sư Jacqueline Kelly người Canada gốc New Zealand. Tác phẩm đạt giải Newbery Honor năm 2010, một giải thưởng văn học thiếu nhi rất nổi tiếng ở Mỹ do Hiệp Hội Thư viện Sách Thiếu nhi đứng ra tổ chức trao giải hàng năm cho các tác giả có những đóng góp nổi bật nhất vào lĩnh vực văn học thiếu nhi Hoa Kỳ. Calpurnia - con gái duy nhất trong một gia đình gồm 6 anh em trai, sau bảy lần sinh đẻ. Là con gái duy nhất nhưng cô bé trưởng thành không như sự mong đợi của mẹ. Cô không phải một cô bé xinh xắn thanh nhã để bà có thể cân bằng lại lượng nam tính quá lớn đang tràn ngập trong nhà. Bà luôn mong mỏi một đồng minh nhưng không có được. Cô bé không thích trao đổi về đan len hoa văn, công thức nấu ăn hay pha trà trong phòng khách cùng bà. Sự nam tính thiên bẩm của Calpurnia được đẩy cao hơn nữa bởi sự dung túng của ông nội. “Ông sở hữu một đôi lông mày rậm rạp đầy vẻ hung tợn, nhìn như của loài rồng vậy”. Calpurnia là vị khách duy nhất được phép bước chân vào thư viện của ông nội bất cứ lúc nào trong niềm ganh tị của các anh em trai. Với cuốn Sổ Tay Khoa Học của anh Harry cho, Calpurnia cùng ông khám phá mọi thứ xung quanh khu vực của mình và ghi chép mọi thứ quan sát được. Ông nội thương yêu chiều chuộng cô bé như một quý cô. Ông dạy cô cháu gái bé nhỏ của mình cách để biết được sự thật của mọi thứ, không phải chỉ ngồi nghĩ đến nó mà phải đi ra ngoài để chứng kiến tận mắt, “phải lập ra Giả Thuyết và làm Thực Nghiệm, dùng các phương pháp Quan Sát để đưa ra Kết Luận, lặp đi lặp lại nhiều lần”. Và lần đầu tiên trong đời Calpurnia thực sự cảm nhận được sự quyến rũ của “đôi mắt nai”. “Đôi mắt nâu to tròn sâu thăm thẳm, ánh nhìn dịu dàng, thật nao lòng... Tôi chỉ muốn ôm chầm lấy nó vào lòng mình, bảo vệ nó khỏi những viễn cảnh đầy hiểm nguy dưới nanh vuốt của sói, cái đói và những tay thợ săn luôn rình rập”. Những câu hỏi ngây thơ của Calpurnia hé mở cánh cửa vào thế giới nội tâm bấy lâu nay ông nội luôn dấu kín. Chuyện chiến tranh, cái chết, và nhân duyên đưa ông đến với những nghiên cứu khoa học này. Chỉ có một đứa cháu gái mới có đủ quyền năng bước vào trái tim ông nội một cách dịu dàng như thế. “Tôi tiến tới dựa vào ông, còn ông vòng tay ôm tôi vào lòng. Hai ông cháu cứ giữ yên như thế trong cả phút. Chợt ông dịu dàng hôn lên trán tôi. Vài phút sau, ông bảo, “Nào, chúng ta làm việc tới đâu rồi? À. Đưa cho ông cái đồ lọc kia đi cháu”. Và cũng chỉ có Eva mới đi ghen với “kẻ địch”, kẻ chiếm mất tình yêu và vị trí cao nhất trong trái tim anh trai của mình. “Tôi chuẩn bị hết vũ khí, quan sát địa thế và xác định mục tiêu. Tôi như đang thấy rõ mồn một thời gian và không gian của cuộc chiến phía trước”. Cuộc chiến mà Calpurnia nhắc tới chính là sự xuất hiện của Goodacre, người yêu đầu đời của anh Harry. Cô bé đã làm mọi cách để phá đám… và phá được. Tất nhiên với sự trợ giúp của ông nội. “Và rồi dù sao đi nữa, tôi vẫn là con thú cưng độc quyền của anh ấy bao nhiêu năm nay, người mà anh ấy ôm ấp nâng niu từ thời thơ ấu cơ mà. Tôi như đắm chìm vào cảm giác sung sướng khi được trở lại thành vật cưng của anh ấy”. Là “thú cưng” của tất cả các anh em trai, Calpurnia trở thành tâm điểm của cuộc giành giật sự quan tâm của cô bé đối với cả nhà. “Em vẫn là thú cưng của riêng anh phải không?’’ là câu hỏi của anh Harry khi phát hiện ra cô em gái của mình bắt đầu thân thiết với ông nội. Còn em trai Jim Bowie của cô thì có ý kiến, “Sao dạo này chị lại chơi với ông nhiều hơn em vậy, Callie?’’. Và Calpurnia phải cố gắng làm cho các anh em trai tin rằng, họ vẫn rất quan trọng trong trái tim cô. Bạn sẽ làm gì nếu cả ba anh em trai của mình đều cùng yêu say đắm cô bạn gái thân thiết nhất của bạn và cùng tìm đến bạn để nghe lời tư vấn? Cả ba anh em trai của Calpurnia đều hằm hè, lòng đầy toan tính và có thể ăn tươi nuốt sống nhau. Họ đeo bám sau đuôi cô bé và Lula bạn cô trong suốt đoạn đường đi học, giờ nghỉ giải lao, giờ ăn trưa và cả lúc đi bộ về nhà… trong khi vẫn giữ một khoảng cách nhất định. Và cả ba người mắt lúc nào cũng dán chặt vào Lula, trong khi Lula lại chẳng mảy may hay biết tí gì. Sự việc có vẻ gay go không thể tưởng tượng nổi. Calpurnia thực sự căng thẳng như “một con mèo trong một căn phòng đầy kẻ dở hơi”. Niềm hạnh phúc lớn nhất của Calpurnia và ông nội sau một thời gian dài chờ đợi cuối cùng cũng đã đến vào một buổi chiều không ai ngờ tới. Bức điện tín được gửi từ Trung tâm Nghiên cứu Khoa học Hoa Kỳ do hai ông cháu khám phá ra là một loài đậu tằm mới chưa được phát hiện bao giờ. Nó sẽ được đặt tên là Vicia tateii. Tên của hai ông cháu ghép lại. Calpurnia đưa niềm vui đi khắp toàn thân theo từng nhịp đập. Cô bé hạnh phúc vì công việc của cô và ông đã có kết quả thực sự và cô nhận ra rằng cô là tất cả của ông. Và đối với cô, ông nội cũng là tất cả. Những đề từ ở đầu mỗi chương trong sách là trích từ Nguồn gốc các loài của Charles Darwin. CHƯƠNG 1 NGUỒN GỐC VẠN VẬT Khi một nhà tự nhiên học trẻ tuổi bắt đầu nghiên cứu về một nhóm sinh vật lạ, chắc hẳn anh ta phải rất bối rối khi xác định những đặc điểm khác nhau giữa chúng... vì hiển nhiên anh ta chẳng biết số lượng và biến thể của nhóm sinh vật này tồn tại như thế nào... VÀO NĂM 1899, CHÚNG TÔI ĐÃ HỌC được cách làm chủ bóng đêm nhưng vẫn không thể chịu đựng nổi cái nóng của miền Texas. Chúng tôi thức dậy trong bóng đêm, hàng giờ trước khi mặt trời hé dạng, lúc này phía trời Đông chỉ loáng thoáng một vệt màu chàm, phần còn lại của đường chân trời vẫn phủ một màu đen kịt. Bọn tôi châm đèn dầu và treo lên trước mặt như ông mặt trời tí hon đung đưa trong bóng tối. Còn hàng đống việc ngang bằng với một ngày công đang chờ chúng tôi hoàn thành trước buổi trưa, nhưng cái nóng chết người làm chúng tôi phải chui rúc vào căn nhà lớn lắp cửa chớp rồi nằm rạp cả xuống trong những căn phòng có trần thật cao với ánh sáng lờ mờ như những nạn nhân đang bị hấp hơi vậy. Mẹ thường vẩy một ít nước hoa lên mấy tấm chăn làm phương thuốc chống lại cái nóng trong mùa hè này nhưng chúng chỉ có tác dụng chừng một phút mà thôi. Mãi đến ba giờ chiều, là lúc cả bọn phải trở dậy, nhưng nhiệt độ vẫn cao đến chết người. Cái nóng đang là sự hành hạ cùng cực đối với mọi người dân ở Fentress, đặc biệt với phụ nữ vì họ phải mặc áo ngực và váy lót dài bên trong. (Tôi thì còn vài năm nữa mới phải chịu sự tra tấn độc nhất vô nhị dành cho nữ giới này). Họ nới lỏng coóc-xê và thở dài hàng giờ liền, lầm bầm nguyền rủa cái nóng và cả những đức ông chồng đã kéo họ đến tỉnh Caldwell này để trồng cây bông vải và canh tác trên những cánh đồng hồ đào. Mẹ tạm thời tháo phần tóc giả độn thêm, nó được làm từ những món tóc giả uốn quăn đính và băng đô, bà thường dùng nó làm phần đệm để vấn thành một núi tóc cầu kỳ. Vào những ngày không có ai viếng thăm, bà thậm chí còn cho đầu xuống dưới chiếc bơm trong bếp rồi để cho Viola, người làm bếp lai đen của chúng tôi, xả nước lên đầu đến khi ướt sũng mới thôi. Chúng tôi bị nhận lệnh cấm nghiêm ngặt là không được cười trước màn biểu diễn gây sốc này. Trong lúc mẹ cởi bỏ vẻ nghiêm chỉnh của mình bởi cái nóng, thì chúng tôi (kể cả bố) nhận ra rằng cách tốt nhất là tránh xa bà ra. Tên thật của tôi là Calpurnia Virginia Tate, nhưng ngày ấy mọi người thường gọi tôi là Callie Vee. Mùa hè năm đó, tôi vừa tròn 11 tuổi, và là đứa con gái duy nhất giữa bảy anh em trong gia đình. Bạn có thể tưởng tượng ra tình huống nào tệ hơn nữa không? Tôi là con giữa, sau ba người anh - Harry, Sam Houston, Lamar - và là chị gái của ba đứa em trai - Travis, Sul Ross và thằng bé Jim Bowie mà mọi người thường gọi là J.B. Mấy đứa nhỏ thường ngủ trưa, đôi lúc còn nằm chồng chất lên nhau như những con cún ẩm ướt. Mấy người đàn ông trở về từ công việc đồng áng và bố tôi, người vừa về từ văn phòng cạnh chiếc máy tỉa hạt bông vải, cũng đang nằm ngủ; đầu tiên họ múc một xô nước âm ấm từ cái giếng cạnh hiên nhà (nơi họ nằm ngủ) dội ướt khắp thân thể rồi buông phịch người xuống chiếc giường bện dây như vừa bị giáng cho một nhát búa tạ. Không thể phủ nhận rằng cái nóng là một cực hình, nhưng nó cũng đem lại sự tự do cho tôi. Trong khi mọi người trong gia đình ngủ gà ngủ gật, trở mình qua lại thì tôi len lén chuồn ra bờ sông San Marcos, tận hưởng giờ giải lao của một ngày không phải đi học, không có sự quấy phá của mấy anh em và cả sự quản thúc của mẹ. Dĩ nhiên theo lẽ thì tôi không được làm điều này nhưng cũng chẳng ai cấm đoán cả. Một phần tôi trốn đi trót lọt là nhờ được đặc cách ở trong một căn phòng tận cuối dãy nhà còn mấy anh em trai phải cùng nhau chen chúc ở phòng lớn, đôi khi họ cũng hay tranh cãi dữ dội về việc này. Từ đó đến nay, đối với tôi, có lẽ đây là đặc ân dành cho đứa con gái độc nhất này. Nhà tôi và bờ sông được ngăn cách bởi một khoảnh đất hình lưỡi liềm rộng hai hecta phủ đầy cỏ cây dại mọc um tùm. Để đến được đó đối với tôi là cả một thử thách, trừ khi những nhân vật hay ra sông trước đó - chó, nai, mấy người anh em trong nhà - đã để lại sẵn một lối đi nhỏ xuyên qua những tán cây cao ngang đầu tôi đầy gai sắc nhọn; chúng cứ vướng vào tóc và chiếc áo khoác không tay của tôi suốt quãng đường luồn lách qua khe hở đó. Khi ra tới dòng sông, tôi chỉ mặc mỗi chiếc váy lót dài rồi ngửa mình thả nổi trên mặt nước; chiếc váy dập dềnh xung quanh tôi một điệu nhảy simmi đầy hân hoan trong dòng chảy nhẹ nhàng, mát lạnh đang lướt đều qua thân thể. Giờ đây, tôi như một đám mây, bồng bềnh nương theo dòng nước cuốn. Tôi ngước mặt lên ngắm những chiếc kén mỏng manh của mấy chú sâu bướm đang buông mình đong đưa dưới tán cây sồi xum xuê nghiêng bóng xuống dòng sông. Những chiếc kén dường như đang soi bóng tôi, chúng lềnh bềnh trong những quả bóng mịn màng của riêng chúng giữa bầu trời màu lam nhạt. Mùa hè năm đó, chỉ trừ ông nội Walter Tate của tôi, còn lại tất cả đàn ông đều cắt tóc ngắn tới sát da đầu và cạo nhẵn nhụi hết cả râu ria. Họ trông trần trụi như những con kỳ nhông mù và phải mất vài ngày để có thể quen mắt được với những cái cằm nhợt nhạt, yếu ớt đó. Thật lạ lùng vì ông nội chẳng bị ảnh hưởng gì bởi cái nóng, ngay cả với bộ râu trắng dài phủ xuống tới ngực. Ông cho rằng mình là một người sống ôn hòa và có nguyên tắc, kể cả việc không bao giờ uống rượu whisky trước buổi trưa. Cái áo đuôi tôm bốc mùi của ông cũng đã cũ mèm nhưng ông chẳng hề có ý định bỏ nó đi. Mặc dù chị giúp việc SanJuanna luôn dùng miếng bọt biển nhúng benzene lau chùi thường xuyên nhưng chiếc áo khoác vẫn không thể bớt mùi ẩm mốc và mang màu sắc kì lạ, đen chẳng ra đen, xanh chẳng ra xanh. Ông nội vẫn sống chung một mái nhà với chúng tôi nhưng chỉ như một chiếc bóng ẩn dật. Từ lâu ông đã giao quyền cai quản cơ nghiệp của gia đình cho con trai duy nhất, bố Alfred Tate của tôi, rồi dùng hết thời gian “làm thí nghiệm” trong “phòng thực nghiệm” phía sau nhà. Phòng thực nghiệm cũng chỉ là căn lều nhỏ cũ kỹ từng được dùng làm chỗ ở cho nô lệ. Những khi không ở trong phòng thực nghiệm thì ông sẽ ra ngoài tìm mẫu vật hoặc vùi đầu vào những cuốn sách mục nát trong góc tối của thư viện, nơi mà chẳng có ai dám làm phiền ông. Tôi xin mẹ cắt mớ tóc rậm rạp nóng nực phủ đầy sau lưng tôi. Nhưng bà nhất quyết không cho phép con gái mình chạy rông ngoài đường tựa một con thú hoang trụi lông như thế được. Nhưng tôi thì thấy điều này rõ ràng là không công bằng vì bà chẳng đề cập gì đến nguyên do chính là cái nóng ở đây cả. Và là thế là tôi nảy ra một ý: Mỗi tuần tôi sẽ cắt đi 2,5cm tóc - chỉ nhón một ít thế thôi - thì may ra mẹ sẽ không phát hiện được. Và hẳn nhiên tôi sẽ giả vờ tỏ ra thật ngoan ngoãn để che đậy hành động này. Bằng cách ngụy trang mình thành một cô tiểu thư nhu mì, tôi thường dễ dàng trốn thoát khỏi sự kiểm soát chặt chẽ của mẹ. Hơn nữa, bà cũng luôn bận ngập đầu trong đống việc nhà hằng ngày và cả sự phá phách không ngừng nghỉ của mấy đứa con trai. Bạn không thể tưởng tượng nổi những trò quỷ quái và mức độ ồn ào gây ra bởi sáu anh em đâu. Thêm vào đó, cái nóng càng làm trầm trọng hơn nữa những cơn đau đầu đến méo mặt của mẹ, và bà phải dùng đến phương sách là ực một muỗng to Hợp chất Thực vật của Lydia Pinkham, thứ thuốc tốt nhất để lọc máu cho phụ nữ. Đêm đó, trên tay là chiếc kéo cắt may, tim đập thình thịch trong niềm hân hoan, tôi xén đi 2,5cm tóc đầu tiên. Tôi ngắm nhìn mớ tóc mềm mại như cỏ khô đang cuộn lại trong lòng bàn tay. Tôi đang sải bước đón chào một tương lai trong Thời Đại Mới huy hoàng, vâng, chỉ vài tháng nữa thôi. Giây phút này thật trọng đại trong đời tôi. Đêm ấy, tôi ngủ chập chờn trong niềm lo âu chờ trời sáng. Hôm sau, tôi nín thở rón rén từng bước chân xuống nhà ăn sáng. Miếng bánh rán hồ đào hôm nay chả khác nào một miếng giấy cạc-tông trong miệng tôi. Và bạn có biết điều gì đã xảy ra không? Hoàn toàn chẳng có gì cả. Không có ai nhận ra chút gì. Dĩ nhiên tôi cảm thấy cực kì nhẹ nhõm nhưng một ý nghĩ khác lại vẩn vơ trong lòng: Chẳng phải gia đình này vốn dĩ luôn hờ hững như thế sao. Và sự thật là bốn tuần sau, khi hơn 10cm tóc đã bị xén đi, cũng không có ai nhận ra; đến một buổi sáng nọ, duy có chị bếp Viola là nhìn tôi trừng trừng. Song chị ấy cũng chẳng nói tiếng nào. Trời ngày càng nóng đến độ lần đầu tiên trong lịch sử mẹ không thắp nến cho chiếc đèn chùm vào bữa tối. Bà còn cho phép tôi và Harry nghỉ học đàn piano trong hai tuần. Lý do dẫn đến quyết định này là Harry đổ quá nhiều mồ hôi đến độ sau khi chơi xong một phần của bản Minuet in G thì mấy phím đàn bị nhơ nhớp hết cả. Dù mẹ hay SanJuanna có cố gắng bằng mọi cách thì màu óng ánh của lớp sứ trên phím đàn cũng chẳng thể nào trở lại như trước được nữa. Còn một yếu tố khác là cô giáo Brown dạy đàn cho bọn tôi đã lớn tuổi lắm rồi, và cả con ngựa cô dùng để kéo chiếc xe hai bánh của mình suốt 4,8km từ Prairie Lea đến đây cũng đã quá già nua. Trong lúc này mà đi chắc họ sẽ gục ngã trên đường mất thôi. Suy đi tính lại thì ý kiến này không tồi chút nào. Khi bố biết được việc bọn tôi nghỉ học đàn, ông thản nhiên bảo, “Thế cũng tốt mà. Đàn ông con trai mà học đàn thì chả khác nào rắn mặc váy.” Mấy lời lẽ này chả lọt tai mẹ tí nào. Bà luôn mong con lớn Harry của mình, năm nay đã mười bảy tuổi, trở thành một quý ông thực thụ. Bà đã có cả một kế hoạch hẳn hoi cho Harry vào đại học Austin cách nhà 80km khi anh ấy tròn mười tám tuổi. Theo thông tin trên báo chí thì trường đại học đó có năm trăm sinh viên, mười bảy người trong số họ được kèm cặp các nàng học tại Trường Mỹ thuật Tự Do (tùy chọn các ngành âm nhạc, Anh Văn hoặc tiếng Latin). Còn bố thì lại có dự định khác; ông muốn Harry trở thành một doanh nhân, và trong tương lai sẽ tiếp quản xưởng tỉa hột bông vải, những thửa vườn hồ đào và tham gia vào Hội Tam điểm giống như ông bây giờ vậy. Còn đối với tôi, nếu ông có quan tâm, thì ông cũng không phản đối việc tôi học đàn. Đến cuối tháng 6, tờ Fentress Indicator cho biết nhiệt độ ở bên ngoài tòa báo đã lên tới 106 độ F (khoảng 41 độ C). Nhưng tờ báo lại không nhắc đến nhiệt độ dưới bóng râm là bao nhiêu cả. Tại sao lại không chứ, một người sáng suốt sẽ chẳng dại gì đứng ngoài nắng mà sẽ nhanh chóng tìm lấy một bóng râm dưới tán cây, trong chuồng bò hoặc là trong một luống cày. Theo tôi nghĩ thì nhiệt độ dưới bóng mát sẽ có ích cho người dân trong thị trấn này hơn. Nghĩ là làm, tôi thảo ngay một Bức Thư gửi Biên tập viên đề xuất vấn đề này và thật là ngạc nhiên, họ cho đăng tải nó ngay trong số báo tiếp theo. Và gia đình tôi còn ngỡ ngàng hơn khi tờ báo bắt đầu đăng tải cả nhiệt độ dưới bóng râm từ dạo ấy. Khi biết dưới bóng mát nhiệt độ chỉ có 98 độ F (tương đương 36,7 độ C), dường như ai nấy cũng cảm thấy mát mẻ hơn được đôi chút. Sau đó, chợt phong trào diệt côn trùng dấy lên khắp nơi, trong nhà lẫn ngoài phố. Hàng đàn châu chấu bu quanh bụng mấy con ngựa. Đom đóm không biết từ đâu túa ra cùng nhau hợp thành một buổi trình diễn hoành tráng làm đọng lại một mùa hè không thể ấn tượng hơn trong tâm trí mọi người. Mỗi buổi tối, mấy anh em nhà tôi cùng ra trước hiên nhà, thi xem ai sẽ là người phát hiện ra đốm lập lòe đầu tiên. Hương vị chiến thắng thật thú vị và càng tự hào hơn nữa khi mẹ làm cho bọn tôi một mề đay bằng lụa xanh với chiếc tua đuôi dài phấp phới. Ở giữa hai đầu mề đay, bà còn thêu lên dòng chữ GIẢI THƯỞNG CUỘC THI ĐOM ĐÓM CỦA FENTRESS bằng sợi chỉ sồi vàng óng. Chiếc mề đay thật trang nhã và làm cho động lực đoạt giải được nâng cao lên hẳn. Và người thắng cuộc được quyền giữ nó đến đêm hôm sau. Tiếp theo đó là cuộc xâm lăng vào nhà bếp có quy mô lớn nhất từ trước đến nay của hằng hà sa số kiến. Chúng hành quân đều tăm tắp xuyên qua kẽ nứt của miếng gỗ ốp dưới chân tường, đến cửa sổ rồi thẳng tiến đến bồn rửa chén. Bọn kiến đang khát nước trầm trọng và sẽ chẳng ai ngăn cản được bước chân của chúng. Viola giơ tay lên dọa dẫm nhằm đuổi chúng nhưng chẳng ăn thua. Mọi người đều cho rằng đom đóm là ơn trời, còn lũ kiến là thảm họa; nhưng rồi lần đầu tiên trong đời tôi tự hỏi vì sao lại có sự phân biệt đối xử này. Cũng như bọn tôi, chúng cũng đều là những sinh vật đang cố gắng sống sót qua tháng ngày khô hạn mà thôi. Theo tôi, Viola nên để cho chúng được yên, nhưng đến khi tôi phát hiện mấy hạt tiêu đen trong đĩa xà lách trộn hoàn toàn không phải là tiêu thì tôi đã phải suy nghĩ lại. Trong khi nhiều loại côn trùng xuất hiện tràn ngập thì một số loài khác thường cư trú trong sân nhà, như giun đất chẳng hạn, lại biến mất. Mấy ông tướng nhà tôi suốt ngày than vãn vì không tìm đủ giun để câu cá và phải đào xuống những khoảnh đất khô cứng mới tìm ra chúng, rất vất vả. Có khi nào bạn tự hỏi rằng có thể huấn luyện giun đất hay không? Ở đây tôi xin thưa, vâng, có thể đấy. Tôi nhận ra từ một sự thật hiển nhiên: Giun đất luôn trồi lên khi trời mưa xuống và việc tạo mưa thật dễ dàng. Tôi xách một thùng thiếc đầy nước ra cánh đồng cỏ rộng hai hecta, chọn một khoảnh đất gần bụi rậm rồi tưới đều đặn xuống đó trong vài ngày. Bốn ngày sau, tôi vừa xuất hiện với chiếc thùng trên tay là lũ giun đã trồi lên theo từng bước chân tôi, chờ đợi những dòng nước mát lành. Tôi chỉ việc xúc chúng lên và bán cho Lamar với giá một xu một tá giun. Lamar cứ hoạnh họe bắt ép tôi khai ra nơi đào giun nhưng dĩ nhiên là tôi không đời nào hé miệng. Tuy nhiên tôi thổ lộ phương thức của mình cho anh Harry, người mà tôi yêu quý nhất và là người tôi không giấu giếm bất cứ chuyện gì. (À không, hầu hết thôi). “Callie Vee,” anh gọi tôi, “anh có cái này cho em nè.” Nói rồi anh lục trong hộc tủ ra một cuốn sổ tay bọc bìa da màu đỏ, bên trên đóng dấu QUÀ LƯU NIỆM CỦA TRƯỜNG AUSTIN. “Nhìn đi,” anh bảo. “Anh chưa viết gì trong này. Em có thể dùng nó để ghi chép lại những quan sát khoa học của mình. Em là một nhà tự nhiên học bẩm sinh đấy.” Anh ấy đang nói về cái quái gì ấy nhỉ, nhà tự nhiên học là gì? Tôi cũng chẳng hiểu lắm, nhưng suốt cả mùa hè năm ấy, tôi cố gắng hết sức để thực hiện theo lời anh. Nếu chỉ việc ghi chép lại những gì mình quan sát thấy hằng ngày thì tôi có thể làm được. Bên cạnh đó, từ khi có được sổ để ghi chép lại, tôi lại càng nhận ra nhiều thứ hơn trước đây. Đầu tiên, tôi ghi chép về lũ chó. Trong tiết trời nóng bức, chúng nằm im như chết trên mặt đất. Ngay cả khi mấy đứa em trai của tôi dùng cây làm mồi nhử chơi rượt bắt cho đỡ buồn, chúng cũng chẳng màng ngóc đầu lên. Chúng chỉ đứng dậy một lúc để liếm láp chút nước rồi lại nằm phịch xuống làm bụi tung lên từ đám đất trũng hai bên hông. Đặc biệt đối với Ajax, chú chó cưng dùng để đi săn chim của bố, thì bạn đừng hòng làm nó hoảng sợ ngay cả khi bắn một phát súng săn sát mõm nó. Nó nằm đó, lưỡi thè lè ra, chiếc mõm há hổn hển và để yên cho tôi đếm số răng. Từ điều này, tôi phát hiện ra vòm họng của loài chó có những lằn gợn một chiều liên tiếp xuống đến cổ họng; thảo nào chả phải nghi ngờ gì khi cấu trúc này chỉ cho phép con mồi giãy giụa về một hướng, là hướng đến một BỮA ĂN TỐI. Tôi liền ghi chép nhận định này vào Sổ Tay. Tôi quan sát thấy cảm xúc của chó thường biểu hiện rất rõ ràng qua chuyển động của lông mày. Tôi ghi lại: Vì sao chó lại có lông mày? Vì sao chó cần có lông mày? Tôi hỏi Harry nhưng anh không biết. Anh bảo, “Đi mà hỏi ông nội ấy, mấy điều này thì chắc ông biết mà.” Nhưng tôi không làm theo lời khuyên của anh. Ông sở hữu một đôi lông mày rậm rạp đầy vẻ hung tợn, nhìn như của loài rồng vậy, và nói chung ông quá oai nghiêm làm tôi cảm giác mình thật nhỏ bé, như một đứa trẻ sơ sinh vậy. Mà theo tôi nhớ thì ông cũng chưa trò chuyện với tôi bao giờ, và thật ra tôi cũng chưa chắc ông có biết tên tôi không nữa. Tiếp đó tôi chuyển qua để ý đến lũ chim. Chẳng biết vì lý do gì mà năm đó ở chỗ chúng tôi xuất hiện rất nhiều chim giáo chủ. Harry làm tôi sướng rơn người khi anh nói rằng bọn tôi sẽ thu hoạch được một mẻ lớn, cứ như là chúng tôi đang tính toán về số lượng, gom góp những cái xác tươi roi rói của chúng rồi treo lủng lẳng trên những tán cây dọc theo con đường trải sỏi làm vật trang trí Noel. Do hạn hán đã làm hao hụt đáng kể lượng thức ăn của chúng như hạt giống hay quả ngọt thông thường nên vào thời điểm này, những con chim đực ra sức chống chọi một cách quyết liệt để giành quyền kiểm soát trên từng cây gỗ sếu. Kết quả cho cuộc chiến này được tôi phát hiện qua một xác chim tơi tả nằm trong bụi cây, thật là một cảnh tượng bất ngờ và buồn bã. Trong buổi sáng vài ngày hôm sau, một con chim mái sà xuống chiếc ghế đan bằng liễu gai cạnh chỗ tôi ngồi. Tôi im lặng bất động. Lúc đó dường như tôi có thể vươn ngón tay ra chạm lấy nó. Có một cục gì đó màu nâu xám đang đong đưa trên chiếc mỏ màu mơ nhạt của nó. Nhìn có vẻ như là một chú chuột nhắt, nhỏ như cái đê (dùng để bảo vệ và để đẩy kim chỉ khâu vá), đang hấp hối hay đã tắt thở rồi. Khi tôi đề cập vấn đề này trong bữa ăn tối, bố bảo, “Calpurnia à, chim giáo chủ không ăn chuột đâu. Chúng chỉ ăn thực vật thôi. Này Sam Houston, lấy hộ bố khoai tây nào.” “Vâng, con chỉ nói vậy thôi, thưa bố,” tôi ngượng ngùng đáp, và sau đó thì cảm thấy giận bản thân vì không dám lên tiếng bảo vệ cho điều chính mắt mình thấy. Mỗi lần nghĩ về biểu hiện bất thường của mấy con chim giáo chủ làm tôi cảm thấy kinh tởm. Chắc tiếp theo chúng sẽ ăn thịt cả đồng loại mất. Tối hôm đó, trước khi đi ngủ, tôi lấy một ca đầy những hạt yến mạch từ chuồng ngựa rồi rải đều dọc bờ sông. Rồi tôi ghi vào Sổ Tay: Cứ theo tình hình không đủ lương thực thế này thì năm tới sẽ còn được bao nhiêu chú chim giáo chủ nhỉ? Nhớ đếm đấy nhé. Tiêu đề tiếp theo trong Sổ Tay của tôi là về hai chủng loại hoàn toàn khác nhau của châu chấu xuất hiện vào mùa hè năm ấy. Chủng loại chúng tôi thường thấy có màu xanh lục tươi với những đốm đen tô điểm dọc thân. Ngoài ra còn có những con màu vàng, to gấp đôi, lù đù, thân bóng như sáp và phốp pháp làm cho những nhánh cỏ chúng đáp xuống bị oằn xuống. Từ trước đến nay tôi chưa từng thấy loại này bao giờ cả. Tôi bèn thăm dò ý kiến của tất cả mọi người trong nhà (trừ ông nội) để tìm ra nguồn gốc của chủng loại màu vàng lạ kỳ này, nhưng chẳng ai biết cả. Nói cho cùng, chẳng có ai thèm để ý đến việc này chút nào. Rốt cuộc tôi đành chọn phương án cuối cùng là đánh liều chui vào phòng thí nghiệm của ông nội. Tôi đẩy tấm vải bố dùng làm cửa tạm sang một bên rồi run rẩy đứng ngay trước ngưỡng cửa. Ông đang rót một thứ dung dịch trông bẩn thỉu màu nâu vào mấy cái bình cổ cong và cốc thí nghiệm trên bàn, ông giật mình ngạc nhiên ngước nhìn tôi. Nhưng ông chẳng màng kêu tôi vào. Tôi lập cập trình bày vấn đề nan giải về mấy con châu chấu trong khi ông đang lom lom dòm tôi như đang bối rối không biết đặt tôi vào đâu trong cái xó xỉnh này. “Ồ,” ông ôn tồn đáp, “ông nghĩ một đứa trẻ thông minh như cháu sẽ tự tìm được câu trả lời mà thôi. Khi nào xong nhớ quay lại nói cho ông nghe nhé.” Nói rồi, ông quay lưng lại và tiếp tục hí hoáy ghi chép vào cuốn sổ của mình. Cuộc đối thoại với rồng của tôi đã diễn ra như thế đấy. Một khởi đầu không đến nỗi tồi. Dù sao đi nữa thì ông cũng không phun ra lửa đốt cháy tôi, nhưng chủ yếu là ông chẳng giúp được gì cho tôi cả. Có lẽ nếu tôi kéo Harry đi theo thì ông sẽ chú ý đến tôi nhiều hơn chăng. Mặc dù ông cũng đã nói chuyện khá điềm đạm nhưng tôi cảm nhận được rằng ông cũng bực bội vì bị cắt ngang công việc. Và tôi cũng biết được ông đang làm gì. Chẳng hiểu vì lý do gì khiến ông tin tưởng rằng sẽ có thể tìm được cách chiết xuất ra rượu whisky từ trái hồ đào. Hình như là ông đã từng lý luận rằng, người ta đã có thể chế ra rượu ngon từ những bắp ngô và khoai tây tầm thường thì tại sao với quả hồ đào lại không thể? Và có Chúa Trời chứng giám một thực tế là chúng tôi đang sống ngập trong hai mươi bốn hecta hồ đào bạt ngàn nơi đây. Tôi trở về phòng, ngồi săm soi câu đố về loài châu chấu của mình. Tôi có nuôi một chú châu chấu xanh trong lọ để trên bàn trang điểm, đành ngắm nó để lấy cảm hứng vậy. Lạ kì thay tôi không thể bắt được một con châu chấu vàng to lớn nào mặc dù chúng chậm chạp hơn rất nhiều. “Tại sao chúng mày lại khác nhau vậy?” tôi hỏi, nhưng đáp lại là một sự im lặng. Sáng hôm sau, tiếng ẩu đả vọng vào từ bức tường bên ngoài phòng đánh thức tôi dậy như thường lệ. Đó là tiếng động của mấy con chuột treo trở về tổ như mọi ngày. Ngay sau đó, tôi nghe tiếng chị SanJuanna mở cửa sổ phòng khách ngay bên dưới phòng tôi, tiếng thanh kim loại bên trong khung cửa trượt kêu lách cách. Tôi ngồi dậy trên chiếc giường bằng đồng cao cao của mình và chợt một ý nghĩ ùa tới, phải chăng châu chấu vàng là một loài hoàn toàn mới, khác hẳn với loài châu chấu xanh, và tôi - Calpurnia Virginia Tate - đã phát hiện ra chúng. Chẳng phải người có công phát hiện ra giống động vật mới sẽ được đặt tên cho nó hay sao? Tôi sẽ trở nên nổi tiếng! Tên tôi sẽ được ca tụng và lan truyền rộng rãi; thống đốc sẽ đến bắt tay tôi; trường đại học sẽ trao bằng chứng nhận cho tôi nữa chứ. Nhưng mà bây giờ thì tôi phải làm gì? Làm sao để tôi tuyên bố phát hiện mới về thế giới thiên nhiên này đây? Tôi mơ hồ nghĩ đến việc viết thư cho ai đó để đăng ký phát hiện của mình, một ai đó có thẩm quyền ở Washington. Tôi đã từng nghe cuộc thảo luận trên bàn giữa ông nội và mục sư của chúng tôi - ông Baker - về cuốn sách Nguồn gốc các loài của Charles Darwin; về cả những con khủng long bị vùi chôn dưới lòng đất ở Colorado; và ý nghĩa của chúng trong việc hình thành Cuốn sách của Nguồn Gốc. Họ nói về quy luật đào thải của Thế giới Tự nhiên, kẻ mạnh sẽ tồn tại, kẻ yếu sẽ dần bị diệt vong. Cô Harbottle, giáo viên trong trường của bọn tôi, buông lời phê phán ngài Darwin và cô có vẻ không đồng tình. Chắc hẳn rằng một cuốn sách viết về nguồn gốc của vạn vật sẽ cho tôi biết mình phải làm gì. Nhưng làm sao tôi có được nó đây trong khi cuộc tranh luận vẫn đang nổ ra dữ dội ngay góc nhà nhỏ của mình? Trong sách còn có cả một chương hữu ích là Cộng đồng Thế giới phẳng ở San Antonio nữa. Chợt tôi nhớ ra Harry được giao nhiệm vụ đánh xe hàng có giường nằm đến Lockhart để mua lương thực. Lockhart là trung tâm của tỉnh Caldwell, ở đó có thư viện tỉnh và đương nhiên chứa rất nhiều sách. Điều tôi cần làm là năn nỉ nhờ Harry chở tôi đến đó, và Harry thì chẳng bao giờ có thể từ chối tôi điều gì cả. ĐẾN LOCKHART, sau khi mua bán xong, Harry la cà ở góc đường mải mê ngắm dáng ngọc của các quý bà tản bộ qua lại trong những bộ đầm lộng lẫy mới nhất của các nhà thiết kế địa phương. Tôi thì thầm lời xin phép rồi khẽ lướt qua khoảng sân của trụ sở tòa án. Đến thư viện, tôi cảm nhận được sự mát mẻ và mờ tối. Tôi lững thững cất bước đến bàn quầy, bà cô thư viện đang đưa vài cuốn cho một người đàn ông mập mạp trong bộ cánh bằng vải lanh trắng. Sắp đến lượt tôi rồi. Ngay lúc đó, chợt một người phụ nữ xuất hiện cùng đứa con trai nhỏ. Hóa ra là bà Ogletree cùng cậu bé Georgie mới được 6 tuổi. Georgie và tôi học cùng một cô giáo dạy đàn dương cầm, và điều đó cũng có nghĩa là bà biết mẹ tôi. Ôi thôi rồi. Bị bắt gặp quả tang trong lúc này là điều tôi không muốn nhất. “Chào cháu Callie,” bà mở lời. “Mẹ cháu có đây không?” “Mẹ cháu đang ở nhà, thưa cô Ogletree. Khỏe không, Georgie.” “Ừm, chào Callie,” nhóc đáp. “Chị làm gì ở đây vậy?” “Ừm... chỉ tìm vài cuốn sách thôi mà. À, cô chọn được sách rồi à. Cô lên đăng ký trước đi ạ.” Tôi lùi lại và niềm nở vẫy ra hiệu cho hai mẹ con tiến lên phía trước. “Ồ, như thế làm sao được, cám ơn cháu nhé Callie,” bà đáp. “Thật là ngoan quá đi mất. Lần sau gặp mẹ cháu cô phải khen cháu vài câu mới được.” Thời gian trôi qua như cả thế kỉ, rồi họ cũng ra về. Tôi dáo dác nhìn quanh xem còn có ai đến nữa không. Bà quản thư nghiêm nghị nhìn tôi. Rồi tôi cũng tiến tới quầy và thỏ thẻ, “Thưa bà, bà có cuốn sách của ngài Darwin không ạ?” Bà hơi chồm người ra khỏi quầy rồi hỏi, “Cháu vừa nói gì thế?” “Sách của ngài Darwin, bà biết chứ ạ, cuốn Nguồn gốc các loài.” Bà nhăn mặt rồi chụm tay ra sau tai. “Cháu nói lớn lên chút được không.” Tôi run rẩy nói to hơn. “Sách của ngài Darwin. Cuốn ấy đấy ạ.” Ánh mắt cau có của bà làm tôi cứng hết cả người lại, “Chắc chắn là bà không có giữ cuốn sách đó trong thư viện này. Nhưng ở thư viện Austin thì có đấy, và bà phải đặt họ gửi qua bưu điện đến đây. Tốn 50 cents, cháu có 50 cents ở đó không?” “Không thưa bà.” Tôi cảm thấy mặt mình đang đỏ bừng lên. Tôi đã bao giờ có được 50 cents trong cuộc đời này đâu. “Còn nữa,” bà nói tiếp, “bà còn cần mẹ cháu viết thư cho phép cháu đọc loại sách đó nữa. Cháu có thư đó không?” “Không thưa bà,” tôi xấu hổ đáp. Cổ tôi bắt đầu ngứa ngáy, dường như báo trước rằng tất cả những điều gian dối sẽ bị lộ tẩy hết ra thôi. Bà khịt mũi. “Vậy là không có rồi phải không. Bây giờ ta phải sắp xếp sách lên kệ nữa. Đừng làm phiền ta nữa nhé.” Tôi muốn khóc òa lên vì tức giận và nhục nhã, nhưng tôi quyết không rơi nước mắt trước mụ già này. Tôi rời khỏi thư viện với sắc mặt tím tái và thấy Harry đang thơ thẩn trước tiệm tạp hóa. Anh nhìn tôi vẻ đầy lo ngại. Tôi gãi lằn đỏ đang nổi trên cổ rồi hét lên, “Có thư viện để làm gì mà không cho người ta mượn sách chứ?” Harry dáo dác nhìn quanh. “Em đang nói cái gì vậy?” “Có mấy người không xứng đáng để quản lý thư viện,” tôi đáp. “Em muốn về nhà ngay.” Đường về nhà thật dài và nóng bức trong chiếc xe chở đầy ắp hàng hóa, Harry ngoái đầu lại nhìn tôi. “Có chuyện gì thế, em gái cưng của anh?” “Không gì cả,” tôi cáu kỉnh đáp. Mà thật sự cũng đâu có gì đâu ngoài việc tôi đang nghẹn trong cay đắng và tủi hổ, chẳng có tâm trạng gì để nói cả. Lần đầu tiên tôi cảm thấy cái nón rộng vành mẹ đưa tôi để chống tàn nhang đang đem lại một khoảnh khắc riêng tư thật hữu ích. “Em có biết cái gì đang ở trong cái thùng kia không?” Harry hỏi. “Cái nằm ngay sau em đấy?” Tôi chẳng buồn đáp lại. Tôi không biết và cũng chẳng quan tâm. Tôi đang ghét cả thế giới này. “Là một cái quạt gió đấy,” anh đáp, “mua cho mẹ.” Nếu là bất cứ một người anh em nào khác hẳn tôi đã quát vào mặt anh: Đừng có vớ vẩn như vậy - làm gì có thứ đó trên đời này. “Thật mà,” anh khẳng định. “Rồi em sẽ thấy.” Về đến nhà, tôi không chịu được sự phấn khích của mọi người khi tháo dỡ hàng hóa xuống khỏi xe. Tôi bèn lủi ra sông. Tôi lột mũ, cởi phăng áo khoác, cởi hết cả váy rồi đầm mình xuống nước ngay giữa bầy rùa và nòng nọc đang bơi lội. Tốt lắm. Bà già thủ thư ấy vừa phá hoại ngày hôm nay của tôi và tôi đang muốn làm điều tương tự với một ai - hay một thứ gì đó. Tôi ngụp đầu xuống nước rồi hét thật lớn, thật dài, âm thanh vang dội lùng bùng trong tai. Tôi ngóc đầu lên, lấy hơi rồi làm lại một lần nữa. Và rồi thêm một lần nữa cho đỡ tức. Quả thật dòng nước mát đã làm dịu lòng tôi đi rất nhiều. Nói cho cùng, cuốn sách đó có ý nghĩa gì với tôi chứ? Thật sự chẳng có nghĩa lý gì cả. Một ngày nào đó tôi sẽ sở hữu tất cả các cuốn sách trên thế giới này, xếp đầy trong những kệ sách. Thậm chí tôi sẽ sống trong cả một tòa tháp đầy sách nữa kìa. Tôi sẽ vừa ăn đào vừa đọc sách suốt ngày. Lúc đó, nếu có những chàng hiệp sĩ trẻ tuổi khoác áo giáp, cưỡi trên lưng những con bạch mã và nài nỉ tôi buông sách xuống nghỉ ngơi đôi chút thì tôi sẽ lấy hột đào ném họ túi bụi đến khi họ chịu đầu hàng quay trở về nhà mới thôi. Tôi nằm ngửa mặt lên trời ngắm nhìn đôi chim nhạn đang chao lượn trên mặt nước, nhào lộn như những nghệ sĩ xiếc mải mê đuổi bắt mấy con bọ vô hình. Mặc dù có nhiều thời gian tự do nhưng mùa hè này chẳng trôi qua theo ý tôi chút nào. Chẳng có ai quan tâm đến những Câu Hỏi mà tôi viết trong Sổ Tay. Và cũng chẳng có ai chịu giúp đỡ tôi tìm câu Trả Lời cả. Cái nóng đã cướp đi sinh lực và cuộc sống không chỉ của mọi người mà còn của mọi thứ khác nơi đây. Chợt tôi nghĩ mà thương cho ngôi nhà tuy to lớn nhưng cũ kĩ của gia đình, giờ đang phải nằm phơi mình giữa đám cỏ xác xơ vàng úa. Thông thường, đám cỏ này xanh mướt và mềm mại lắm, luôn như gọi mời mọi người cởi bỏ giày dép ùa lên đó chơi trò Keng, nhưng giờ này chúng đã thành những chiếc gai nhọn mọc tua tủa hăm he chọc vào bàn chân của bất cứ ai vô tình bước vào. Màu cỏ úa này còn làm cho tôi khó khăn hơn trong việc phát hiện ra loài châu chấu vàng to lớn mới mẻ của mình. Chẳng thể nào thấy được trừ khi đạp phải chúng. Lúc đó chúng bay vù lên, nặng nề lách cách vỗ cánh rồi lại chợt biến mất vào trong bãi cỏ. Vì vậy cho dù chúng to béo chậm chạp nhưng muốn bắt được thì chẳng dễ chút nào. Điều này thật nực cười bởi trong khi đó, lũ châu chấu xanh tuy nhỏ nhắn, nhanh nhẹn hơn nhưng quá dễ nhìn thấy nên việc bắt chúng lại trở thành đơn giản hơn nhiều. Hằng ngày, lũ chim nuốt lấy nuốt để những chú châu chấu xanh, trong khi lũ châu chấu vàng trốn ngay bên cạnh chế nhạo những người anh em xấu số của chúng. Và rồi tôi đã hiểu ra. Chẳng có một giống loài mới nào cả, tất cả bọn chúng đều thuộc một chủng loại châu chấu mà thôi. Loài khi sinh ra có màu vàng hơn sẽ sống sót lâu hơn qua mùa nắng hạn vì lũ chim không thể tìm thấy chúng trong đám cỏ vàng úa; còn loài châu chấu xanh thì đều bị chim ăn hết nên không kịp phát triển to lớn hơn. Lũ châu chấu vàng tồn tại được cũng nhờ thích nghi được tốt hơn với thời tiết nóng bức khô hạn này. Vậy là ngài Charles Darwin đã đúng. Bằng chứng đều nằm trong sân nhà tôi chứ chẳng ở đâu xa. Tôi thả người trên mặt nước mà lòng vẫn chưa hết hụt hẫng, ngước nhìn lên trời để cố tìm ra sơ hở trong lý luận và kết luận của mình nhưng chẳng thể nghĩ được gì hơn. Rồi tôi vùng vẫy rẽ nước, nắm lấy lá khoai nước đu lên bờ; vắt khô áo khoác, mặc đồ vào thật nhanh và chạy về nhà. Về đến nơi, tôi thấy cả nhà đang tụ tập xung quanh chiếc thùng đã mở toang ở tiền sảnh. Ở giữa lớp đệm nhồi nhét là một cái máy thấp bằng kim loại màu đen, có bốn cánh quạt ở trước và chiếc bình đựng nhiên liệu bằng thủy tinh phía sau; bố tôi đang đổ dầu hỏa vào trong đó. Ở giữa cánh quạt, một dòng chữ bằng đồng khắc nổi thành vòng tròn: Quạt Gió Tốt Nhất Chicago. Chợt bố ra lệnh, “Đứng lùi hết lại.” Nói rồi bố châm mồi lửa cho cỗ máy hoạt động. Mùi dầu hỏa bay khắp phòng song song với luồng gió mát rượi. Mấy anh em trai của tôi hoan hô nồng nhiệt. Tôi cũng reo hò nhưng vì một lý do khác. Từ đó, cuộc sống trong nhà tôi dễ thở hơn hẳn. Mẹ được nghỉ ngơi buổi trưa bên chiếc quạt máy; cuộc sống của mọi người đều tốt đẹp hơn, nhất là cho bố vì đôi lúc được mẹ gọi vào nghỉ cùng bà. Phải cả tuần sau thì tôi mới dám trở lại thăm ông nội. Ông đang ngồi trên chiếc ghế bành xiêu vẹo, ruột ghế bị lũ chuột moi ra lòng thòng. Tôi thưa, “Bây giờ cháu đã biết vì sao châu chấu lớn màu vàng còn nhỏ thì màu xanh rồi ạ.” Rồi tôi kể cho ông nghe về phát hiện của mình và làm thế nào tôi đã tìm ra điều đó. Hai chân tôi dịch chuyển qua lại còn ông thì lặng im nhìn tôi. Một lúc sau, ông hỏi, “Cháu tự tìm ra điều này mà không có ai giúp à?” “Vâng thưa ông,” tôi đáp, và kể cho ông nghe về chuyến đi đầy xấu hổ đến thư viện Lockhart của mình. Ông nhìn tôi chằm chặp một lúc lâu bằng nét mặt kì lạ, chẳng biết là ngạc nhiên hay sửng sốt nữa; cứ như tôi là một chủng loại gì đó mà trước nay ông chưa từng gặp vậy. Ông bảo, “Đi theo ông.” Trên đường vào nhà, ông chẳng hé nửa lời. Thôi rồi, tôi thật dại dột khi dám làm phiền lúc ông đang làm việc không những một mà đến hai lần. Chẳng lẽ ông đang định giao tôi cho mẹ để được giảng đạo một trận ra trò? Nhưng không như tôi nghĩ, ông lại dẫn tôi vào thư viện, nơi mà bọn trẻ không được phép lui tới; chắc ông định tự mình giảng đạo cho tôi đây mà. Sẽ như thế nào nhỉ, ông sẽ mắng mỏ cái lý thuyết vụng về của tôi hay sẽ vặn cổ tôi đây. Càng lúc nỗi sợ hãi của tôi càng tăng lên. Tôi - Callie Vee Tate của tỉnh Fentress, bang Texas - là cái quái gì mà dám suy ngẫm về những điều như vậy chứ? Tôi chẳng là cái thá gì cả. Mặc dù đang sợ hãi nhưng tôi vẫn quan sát xung quanh thư viện một cách kĩ càng vì biết rằng mình chẳng còn cơ hội trở vào đây nữa. Thư viện tối lờ mờ mặc cho chiếc rèm cửa nặng nề màu xanh tím đã được vén lên bên khung cửa sổ hai cánh cao nghệu. Ngay cạnh cửa sổ là một chiếc ghế bành bằng da đồ sộ, kế đó là cái bàn mây đang đỡ trên mình chiếc đèn đọc sách. Vài cuốn sách nằm vương vãi trên sàn nhà cạnh chiếc ghế, và còn rất nhiều chồng sách khác trên giá cao được đóng từ những cây hồ đào đã khô héo (chúng tôi chả bao giờ thoát khỏi cái bóng của cây hồ đào xung quanh cuộc sống của mình cả). Kia là chiếc bàn bằng gỗ sồi to lớn, bên trên đặt toàn những thứ lạ kì thú vị: một cái trứng đà điểu đã nở đặt trên chân đứng bằng gỗ chạm trổ hoa văn, một chiếc kính hiển vi bọc trong da thuộc màu xanh lục, một chiếc răng của cá voi chạm khắc hình một người phụ nữ với bộ ngực quá khổ như chực bung ra khỏi áo ngực. Cuốn Kinh Thánh của gia đình cùng quyển từ điển to oạch và chiếc kính lúp nằm kề nhau kế bên cuốn album bọc vải nhung, bên trong chi chít hình ảnh của ông bà tổ tiên đã quá cố. Rồi, vậy là tôi sẽ được giảng một bài Kinh Thánh hay một bài học vì đã làm Xấu-Hổ-Cả-Dòng-Họ đây? Tôi đành đứng chờ xem ông sẽ quyết định chọn phương cách nào. Tôi đưa mắt nhìn xung quanh các bức tường được lấp đầy bởi những chiếc hộp nông, bên trong ghim đầy những loài côn trùng và bươm bướm đủ các sắc màu. Ở dưới mỗi vật thể sặc sỡ ấy đều được ông nội ghi chú bằng những miếng đồng khắc nổi rất tỉ mỉ. Tôi quên cả mọi thứ xung quanh và bước lại gần hơn để quan sát. “Con gấu,” chợt ông nội lên tiếng. Cái gì cơ chứ? Tôi thầm nghĩ. “Cẩn thận con gấu kìa,” ông bảo, ngay vừa lúc tôi vấp chân phải tấm thảm bằng da gấu đen với chiếc mõm đang mở ra nhăn nhở, nanh vuốt của nó là chiếc bẫy luôn rình rập những ai bất cẩn. “Vâng, cháu thấy con gấu rồi thưa ông!” Ông nội rút chìa khóa từ trên dây đồng hồ ra. Rồi ông mở chiếc tủ bằng kính cao nghệu nhét đầy sách, chim nhồi bông, những chiếc lọ đựng xác thú và nhiều thứ quí hiếm khác nữa. Viễn cảnh đó quá hấp dẫn làm tôi không thể cưỡng lại được nên rón rén xích lại gần hơn để chiêm ngưỡng. Một con ta-tu[1] méo mó đập vào mắt tôi, nó bị uốn cong oằn lại lổn nhổn, rõ ràng là được làm bởi một tay không chuyên vụng về. Mà sao ông lại có được nó nhỉ? Tôi làm còn đẹp hơn thế nữa. Cạnh đó là một chiếc lọ thủy tinh dày dung tích khoảng 11 lít, bên trong là một con thú lạ nhất mà tôi chưa thấy qua bao giờ. Nó mập mạp, có nhiều tay, đôi mắt to sáng ngời nhìn như hai chiếc đĩa to qua lớp kính; nhìn con này nhiều có lẽ sẽ gặp ác mộng mất. Cái quái gì thế này nhỉ? Tôi vừa nghĩ vừa bước lại gần hơn. Lúc này ông nội đang lục lọi trong đống sách. Tôi thấy cuốn Địa ngục của Dante nằm cạnh cuốn Khoa học về Khinh khí cầu. Ngoài ra còn có Thuyết tái tạo động vật có vú và Luận đề về vẽ tranh phụ nữ khỏa thân. Rồi ông rút ra một quyển sách bọc bằng da dê dày màu xanh mạ vàng. Ông lấy tay áo chùi cho nó sạch bóng mặc dù tôi chả thấy có hạt bụi nào trên đó cả. Chợt ông cúi đầu rất kiểu cách và đưa nó cho tôi. Tôi nhìn xuống và thấy tựa sách Nguồn gốc các loài. Không ngờ tôi được nhận cuốn sách này ngay trong nhà của mình. Tôi đưa hai tay ra kính cẩn đón lấy, còn ông nội chỉ nhìn tôi mỉm cười mà thôi. Và từ đó, tôi bắt đầu thân với ông nội. CHƯƠNG 2 NHỊP ĐIỆU SỚM MAI Định luật di truyền gien vẫn là một điều bí ẩn; chưa ai có thể giải thích được tại sao... những đứa cháu lại thường mang một số tính cách đặc trưng giống ông của mình... BA NGÀY SAU, tôi trườn xuống nhà dưới và ra ngoài hiên nhà từ rất sớm, trước khi sự huyên náo của mấy anh em trai kịp phá tan bầu không khí yên lành của buổi sáng mai. Cách đường chạy xe vào nhà khoảng 30 bước chân, tôi rải một nắm hạt hướng dương cho lũ chim ăn rồi ngồi xuống tấm nệm cũ rách rưới lôi ra từ phòng chứa đồ. Tiếp đó tôi viết ra danh sách những loài động vật vào trong Sổ Tay bìa da đỏ của mình. Mọi nhà nghiên cứu vạn vật học đều làm như vậy đúng không nhỉ? Chợt một hạt hướng dương nhảy chồm chồm qua mấy viên đá phiến trên con đường trước nhà. Sao lạ thế nhỉ! Quan sát kĩ mới nhận ra nó là một con cóc nhỏ tí, chỉ dài khoảng 0,6cm, đang gắng sức nhảy liên hồi theo gót một động vật nhiều chân khác, không to hơn cọng chỉ là bao, cả hai đang tìm đến nơi trú thân thích hợp cho mình và biến mất vào bụi cỏ. Tiếp đó một chú nhện săn mồi với kích thước to lớn và thân hình lông lá đáng kinh sợ đang phóng nhanh qua bãi sỏi, tôi cũng không biết là nó đang săn một con vật nào bé hơn hay đang bị một loài vật lớn hơn nào đó rượt đuổi nữa. Tôi nghĩ chắc hẳn đang có rất nhiều những bi kịch xảy ra triền miên xung quanh đây. Nhưng việc ai là kẻ săn, ai là con mồi không quan trọng lắm vì chúng luôn phải đối diện với cái chết hằng ngày. Còn tôi chỉ là một kẻ ngoài cuộc, chỉ có thể đứng nhìn mà thôi. Trong khi đó, những cuộc chiến giữa loài vật ấy sẽ không bao giờ dừng lại. Tiếp đó, một chú chim ruồi bay loạng choạng quanh góc nhà rồi lao vào giữa bông hoa tulip đang rũ xuống vì khô héo. Không tìm thấy thứ mà nó thích, chú chim bất thình lình bay ngược trở ra rồi sục sạo đến đóa hoa kế bên. Tôi ngồi chỉ cách đó chừng 1m, gần đến nỗi có thể nghe được tiếng u u nho nhỏ vẻ bực bội phát ra từ dưới đôi cánh của nó, tò mò bởi cảnh tượng đó, nhất là vẻ ngoài sặc sỡ và phong thái ung dung, linh động của chú chim ấy. Chợt nó dừng lại ngay trên miệng bông hoa rồi ngoái đầu lại và phát hiện ra tôi. Nó liền chao liệng lên không trung trong giây lát rồi thình lình phóng thẳng về hướng tôi. Tôi cứng hết cả người lại. Tôi thề là nó dừng lại cách mặt tôi chỉ một gang tay rồi dừng lại. Tôi cảm thấy được luồng gió thật nhẹ từ đôi cánh của nó ùa lên trán mình, và theo phản xạ tự nhiên, mắt tôi nhắm nghiền lại. Tôi ước gì mình mở mắt ra quan sát, nhưng đây là phản xạ vô điều kiện nên tôi chẳng thể điều khiển theo ý mình. Đến lúc tôi mở mắt ra được thì chú chim đã bay vút đi. Nó nhỏ như một quả hồ đào có cánh vậy. Lúc đó, không biết vì giận dữ hay tò mò, nó dám lao vào tôi mà không nghĩ được rằng chỉ cần một cú quạt tay nhẹ là tôi có thể hạ gục nó ngay. Đã có lần tôi chứng kiến con chó cưng Ajax của bố thư hùng với một chú chim ruồi và bị thua cuộc. Chú chim lao vào Ajax mổ lấy mổ để làm cho nó hoảng sợ đến mức phải chạy rút vào hiên nhà trong nỗi nhục nhã. (Làm chó cũng được quyền cảm thấy nhục nhã mà, phải không các bạn). Rồi nó chạy qua chạy lại và bắt đầu liếm láp phần thân dưới, đây chắc chắn là hành động giấu giếm cảm xúc thật của loài chó. Chợt cửa trước nhà bật mở, ông nội bước ra hiên với chiếc túi da cũ kĩ quàng chéo qua vai, một tay cầm chiếc vợt bắt bướm, tay còn lại nắm chặt cây gậy chống bằng mây. “Chào buổi sáng nhé cháu Calpurnia,” ông mở lời. Vậy là rốt cuộc ông cũng biết tên tôi đó chứ. “Chào buổi sáng, thưa ông!” “Cho ông biết cháu đang cầm cái gì được không?” Tôi giật nảy cả người lên. “Đây là Sổ Tay Khoa Học của cháu ạ,” tôi lễ phép đáp. “Anh Harry cho cháu đấy ạ. Cháu viết mọi thứ quan sát được vào trong này. Đây là những gì cháu ghi lại được trong sáng nay ông ạ.” Quan sát không phải là từ tôi thường nói nhưng trong hoàn cảnh này tôi muốn cho ông thấy được sự nghiêm túc của mình trong công việc này. Ông đặt túi xuống đất làm phát ra những âm thanh lanh canh vui tai. Rồi ông lôi kính mắt ra và lướt qua danh sách của tôi: Chim giáo chủ, đực và cái Chim ruồi, và những giống chim khác Vài chú thỏ Mấy chú mèo Thằn lằn xanh Nhiều loại côn trùng Châu chấu, to/ vàng, nhỏ/ xanh của C.V.Tate (thuộc cùng chủng loại) Ông tháo kính xuống rồi gõ nhẹ vào trang sách và lên tiếng, “Một khởi đầu tốt đấy.” “Một khởi đầu hả ông?” tôi đau lòng hỏi lại. “Cháu nghĩ như vậy là đủ mọi thứ rồi chứ ạ!” “Cháu bao nhiêu tuổi rồi Calpurnia?” “Mười hai ạ,” tôi đáp. Ông nhìn tôi ngờ vực. “Mười một tuổi chín tháng ạ,” tôi buột miệng đính chính. “Theo lý thuyết thì cháu cũng mười hai rồi mà. Đâu có khác gì lắm phải không ông?” “Vậy cháu đã đọc về ngài Darwin và những kết luận của ông ấy tới đâu rồi?” “Ồ, chúng thật tuyệt diệu, rất phi thường nữa ạ. Dĩ nhiên là cháu chưa đọc hết nhưng cháu vẫn đang tiếp tục ạ.” Thật ra, tôi đã đọc chương 1 rất nhiều lần nhưng nó quá phức tạp. Sau đó tôi lật thẳng sang phần “Sự chọn lọc của tự nhiên” nhưng vẫn gặp nhiều vấn đề trong ngôn ngữ. Ông nội lại nhìn tôi với vẻ trang nghiêm. “Ngài Darwin không viết sách cho lứa tuổi mười một-lẻ-chín-tháng-sắp-thành-mười-hai đâu cháu. Có lẽ chúng ta có thể thảo luận về những học thuyết của ông ấy. Cháu có muốn làm điều này không?” “Vâng,” tôi hồ hởi đáp. “Dĩ nhiên là muốn rồi, thưa ông!” “Ông đang định ra sông bắt thêm mẫu vật. Hôm nay đến phiên một loài Odonata khác, có lẽ là chuồn chuồn thường và chuồn chuồn kim. Cháu có muốn đi cùng không?” “Vâng, thưa ông.” “Mang theo Sổ Tay của cháu nhé.” Ông mở túi xách ra, tôi thấy trong đó có vài lọ thủy tinh, cuốn Hướng dẫn bắt côn trùng, hộp cơm trưa, và một chiếc bình thót cổ bằng bạc cỡ nhỏ. Rồi ông nhét quyển Sổ Tay màu đỏ cùng cây viết chì của tôi vào cạnh đó. Còn tôi thì cầm lấy chiếc vợt bắt bướm của ông rồi khoác lên vai. “Xin mời?” ông hỏi và chìa tay ra như những quý ông thường làm để khoác tay các quý cô đi ăn tối. Tôi liền choàng tay mình vào tay ông. Ông quá cao so với tôi nên cả hai cứ loạng choạng va vào nhau khi bước xuống bậc thềm nhà, được một lúc thì tôi rút tay ra rồi đan ngón tay tôi vào tay ông. Bàn tay ông chai sần, móng tay dày cộp vồng cả lên, một tác phẩm diệu kì được tạo nên bởi da và sừng. Thoạt đầu ông tỏ vẻ ngạc nhiên nhưng sau đó thì bình thường trở lại, nguyên do vì sao thì tôi cũng không rõ. Nhưng chẳng sao vì bây giờ tay ông đang nắm chặt tay tôi rồi. Chúng tôi rẽ lối băng ngang cánh đồng rộng lớn ra sông. Trên đường đi, ông nội hay dừng lại để săm soi vài chiếc lá, hòn đá, hay một đụn đất nhỏ, những thứ này chả hấp dẫn tôi tẹo nào cả. Điều tôi ấn tượng là cái cách ông khom người xuống, quan sát thật chăm chú vào một vật trước khi từ tốn cẩn trọng đưa tay ra chạm vào chúng. Ông nhẹ nhàng cẩn thận với bất cứ thứ gì ông đụng tới, quan sát xong một con bọ là đặt chúng lại vị trí cũ, đùn lại từng mô đất trở về nguyên trạng. Tôi chỉ biết kiên nhẫn đứng chờ với chiếc vợt bắt bướm, chân tay ngứa ngáy chỉ muốn chộp lấy một thứ gì ngay thôi. “Calpurnia, cháu có biết là lớp Côn Trùng có số giống loài nhiều nhất mà con người từng khám phá ra không?” “Nội à, không ai gọi cháu bằng cái tên Calpurnia trừ mẹ ra, và cái tên đấy chỉ dùng khi cháu đang gặp rắc rối to thôi ạ!” “Có vấn đề nghiêm trọng gì về việc này nhỉ? Cái tên này dễ thương mà. Người vợ thứ tư mà Pliny the Younger[2] cưới vì tình yêu đích thực cũng tên Calpurnia đấy, và từ mối tình này mà ông đã để lại cho thế hệ sau bao bức thư tình tuyệt vời, bất hủ. Còn một loại cây lấy keo thuộc họ Calpurnia - cây kim tước, chủ yếu mọc gần lục địa Phi châu nữa. Ngoài ra còn vợ của Julius Caesar, được Shakespeare nhắc tới trong tác phẩm của mình cũng mang tên đó. Ông còn có thể liệt kê ra thêm nhiều bằng chứng hơn nữa đấy.” “Ồ, bây giờ cháu mới biết đấy.” Sao chẳng ai nói cho tôi biết về mấy điều này nhỉ? Tất cả các anh em trai của tôi, trừ Harry ra, đều được đặt tên theo những vị anh hùng danh tiếng của Texas, hầu hết những người đó đều đã hi sinh anh dũng ở Alamo. (Harry được đặt tên theo một người chú độc thân giàu có không có con cái). Còn tên tôi thì được đặt theo chị gái của mẹ. Tôi nghĩ lẽ ra chuyện còn tồi tệ hơn nữa: các em của mẹ là Agatha, Sophronia và Vonzetta. Thật ra, tên của tôi lẽ ra còn có thể tệ hại hơn nhiều nữa ấy chứ, như con của Thống đốc Hogg, Ima chẳng hạn. Trời ạ, Ima Hogg! Bạn có thể tưởng tượng nổi không? Tôi không biết sắc đẹp và tiền tài của cô có đủ bảo vệ cô ta khỏi sự tra tấn bằng cái tên ấy suốt cả cuộc đời không nữa? Có lẽ nếu như bạn giàu có thì chả ai dám chế nhạo gì bạn cả. Còn tôi, với cái tên Calpurnia mà tôi ghét cay ghét đắng này, vì sao... vì sao nó lại là một cái tên thật đẹp chứ, một cái tên mang đầy tính thơ ca. Thật là... thật là bực bội khi chả ai trong nhà thèm nói cho tôi biết. Rồi từ lúc đấy, tôi chấp nhận cái tên gọi Calpurnia này. Chúng tôi tiếp tục rẽ qua những bụi rậm và rừng cây. Bất kể tuổi tác và chiếc kính lão, mắt của ông tỏ hơn của tôi rất nhiều. Những chỗ mà tôi chỉ thấy toàn là lá và cành khô thì ông lại phát hiện ra mấy chú bọ cánh cứng nằm im ngụy trang, mấy tên thằn lằn bất động và cả vài con nhện đang ẩn mình nữa. “Nhìn kìa,” ông bảo. “Một con bọ hung, có lẽ thuộc loài Cotinus texana. Một loài bọ vô hại. Không dễ tìm thấy nó trong mùa hạn hán này đâu. Bắt nó vào vợt đi, nhẹ nhàng thôi nhé!” Tôi quơ lưới và bắt được nó ngay. Ông gỡ con bọ ra, cầm trong tay và cùng tôi quan sát. Nó dài khoảng 2,5cm, màu hơi xanh, ngoài ra nhìn vẻ ngoài thì không có gì đặc biệt. Ông bèn lật ngửa nó lại, tôi nhìn thấy phần dưới bụng nó phát sáng, một màu xanh xanh, ngũ sắc ẩn hiện những ánh tím. Màu sắc dần thay đổi khi nó cựa mình trong sợ hãi. Nó làm tôi nhớ lại chiếc trâm cài tóc làm từ vỏ bào ngư của mẹ, rất đẹp và hiếm. “Nó đẹp quá,” tôi thốt lên. “Nó có họ hàng với bọ hung cánh cứng, con vật này được người Ai Cập xưa tôn sùng như hiện thân của mặt trời bình minh và kiếp sau. Đôi khi họ còn đeo nó như trang sức.” “Thật hả ông?” trong đầu tôi thắc mắc làm sao để con bọ nằm yên trên áo được. Tôi tưởng tượng đến việc dùng kim dài ghim vào hay dán dính bằng keo dùng để dán giấy dán tường; nhưng có vẻ chẳng có ý tưởng nào thuyết phục cả. “Cầm lấy này,” ông bảo rồi đưa nó cho tôi. Ông bỏ nó vào lòng bàn tay tôi, thật tự hào khi tôi chẳng hề ngần ngại đón lấy. Con bọ cựa quậy trong tay tôi gây cảm giác nhồn nhột. “Mình có cần giữ nó lại không ông?” tôi hỏi. “Ông có một con trong thư viện rồi, cháu thả con này đi đi.” Tôi đặt bàn tay xuống đất và rồi con bọ Cotinus texana nhảy ra, bò đi với vẻ vô sự. “Cháu biết gì về Phương pháp Nghiên cứu Khoa học, Calpurnia?” Nghe giọng ông, tôi biết là mấy chữ đó được viết hoa rồi. “Dạ cũng chút đỉnh thôi ạ.” “Trong trường cháu học gì? Cháu có đi học mà, phải không?” “Có chứ ạ. Cháu học môn Đọc, Đánh vần, Số học và Viết Chữ đẹp. À, còn Giáo dục Hành vi Ứng xử nữa. Cháu được 'khá' cho Dáng đi nhưng 'không đạt' cho Sử dụng khăn tay và Đê thêu. Mẹ có vẻ không hài lòng về điều này ạ.” “Chúa ơi,” ông thốt lên. “Tệ hơn ông nghĩ nhiều.” Một câu cảm thán của ông nhưng tôi không hiểu lắm. “Và không có Khoa học? Không có Vật lý?” ông hỏi. “Có một ngày chúng cháu được nghiên cứu Thực vật học. Còn Vật lý là gì vậy ông?” “Cháu có từng nghe tới ngài Isaac Newton hay ngài Francis Bacon chưa?” “Chưa ạ.” Những cái tên đó nghe thật buồn cười nhưng nhìn vẻ mặt nghiêm trang của ông, tôi biết rằng đề tài này cực kì nghiêm túc và nếu tôi không bàn thảo một cách nghiêm túc thì hẳn ông sẽ thất vọng lắm. “Ông đoán họ còn dạy cháu rằng trái đất này hình phẳng và tồn tại những con rồng nuốt chửng được cả mấy con tàu rớt khỏi bờ vực của trái đất nữa, phải không.” Nói rồi ông ngó tôi chăm chăm. “Còn nhiều thứ để nói lắm, hi vọng là không quá muộn để cho cháu biết. Tìm chỗ nào đó để ngồi đi.” Chúng tôi tiếp tục đi ra bờ sông và tìm thấy được một bóng mát dễ chịu dưới gốc cây hồ đào. Sau đó, ông nói rất nhiều thứ làm tôi mê muội cả đầu óc. Ông dạy tôi cách để biết được sự thật của mọi thứ, không phải chỉ ngồi nghĩ đến nó như Aristotle từng làm (Aristotle là một quý ông Hy Lạp thông minh nhưng hay ngượng ngùng) mà phải đi ra ngoài để chứng kiến tận mắt; phải lập ra Giả Thuyết và làm Thực Nghiệm, dùng các phương pháp Quan Sát để đưa ra Kết Luận, lặp đi lặp lại nhiều lần. Ông kể cho tôi về Nguyên lý dao cạo Occam[3], về Định lý Ptolemy[4], và con người đã nhận định sai lầm về mặt trời và những hành tinh suốt bao nhiêu thế kỷ ra sao. Ông còn giảng giải cho tôi về Linnaues[5] và hệ thống đặt tên động vật trong Hệ Tự Nhiên và con người hiện tại vẫn tuân theo quy tắc đó để gọi tên các loài giống mới phát hiện như thế nào. Rồi đến Copernicus[6] và Kepler[7] và vì sao quả táo Newton lại rơi xuống và không bay lên. Sau đó là mặt trăng luôn quay tròn theo quỹ đạo quanh trái đất như thế nào. Về sự khác nhau giữa phương pháp diễn dịch và quy nạp, ngài Francis Bacon[8] đã tìm ra và đặt tên chúng ra sao. Ông còn kể tôi nghe ông đã từng đến Washington vào năm 1888 để tham gia vào một tổ chức của những người tự gọi mình là Hiệp hội Địa lý Quốc tế. Họ cùng nhau đi đến những vùng hẻo lánh trên trái đất để kéo đất nước ra khỏi vũng lầy của sự mê tín và những suy nghĩ tiêu cực gây ra bởi chiến tranh giữa các tiểu bang. Những kiến thức về thế giới mà ông đang nhẫn nại giải thích cho tôi dưới tán cây đầy những con ong đang uể oải lượn lờ và những bông hoa dại này thực sự quá cao siêu so với Sử dụng khăn tay và Đê thêu. Thời gian trôi qua, mặt trời dịch chuyển (hay nói chính xác hơn là chúng tôi đang di chuyển ở dưới mặt trời, chậm chạp chuyển từ ngày tiến về phía đêm tối). Chúng tôi cùng nhau chia một miếng sandwich dày đầy phô mai và hành tây, một miếng bánh hồ đào và một bi-đông nước. Ông hớp vài ngụm rượu trong chiếc bình nhỏ bằng bạc rồi hai ông cháu thiếp đi một chốc; xung quanh, mấy con bọ vo ve thi thoảng đốt trộm, cùng những bóng râm lốm đốm nắng nhảy nhót vòng quanh. Một lúc sau, hai ông cháu thức dậy, lấy khăn tay nhúng xuống sông, lau mặt cho tỉnh ngủ rồi tiếp tục khám phá dọc bờ sông. Theo gót chân ông, tôi bắt được rất nhiều những động vật lạ đang bò, bơi lội và cả đang bay trên trời nữa; chúng tôi xem xét tất cả bọn chúng nhưng ông chỉ giữ lại một con và bỏ vào trong lọ hiệu Mason, bên trên nắp có đục những lỗ thông hơi, tôi biết xuất xứ của nó là từ nhà bếp. (Viola lúc nào cũng than phiền về đám chai lọ bị mất tích và mẹ luôn đổ tội cho mấy anh em trai của tôi, đến bây giờ tôi mới biết, lần đầu tiên trong lịch sử, bọn họ thật sự vô tội). Có một miếng giấy nhỏ dán gọn gàng trên lọ để làm kí hiệu. Theo chỉ dẫn, tôi ghi lại ngày tháng bắt mẫu vật, nhưng không biết ghi vị trí bắt là ở đâu. “Hãy nghĩ xem bây giờ ông cháu mình đang ở đâu,” ông bảo. “Cháu có thể miêu tả nó một cách ngắn gọn để khi cần thiết mình có thể tìm lại địa điểm này ngay không?” Tôi ngắm góc của ánh mặt trời rọi qua những ngọn cây và nhớ lại chúng tôi đã đi được bao xa. “Cháu ghi là cách nhà Tate 1,5 dặm về phía Tây, gần cây sồi ba nhánh có được không ạ?” Ông đồng ý. Chúng tôi tiếp tục rảo bước đến khu vực lũ nai thường lảng vảng, xung quanh rải rác phân động vật. Hai ông cháu ngồi xuống và lặng im chờ đợi. Rốt cuộc một con hoẵng cái đuôi trắng nhẹ nhàng xuất hiện. Chỉ chút nữa thôi là tôi có thể chạm vào nó. Làm sao một con vật to lớn lại có thể di chuyển không tiếng động dưới những tán cây um tùm như thế nhỉ? Cô nàng ngoái chiếc cổ dài lại và nhìn thẳng về phía tôi, và lần đầu tiên trong đời mình tôi thực sự cảm nhận được sự quyến rũ của “đôi mắt nai”. Đôi mắt nâu to tròn sâu thăm thẳm, ánh nhìn dịu dàng và thật nao lòng. Hai vành tai hoạt động độc lập và có thể vẫy về mọi hướng. Chợt một vạt nắng rọi vào đôi tai đỏ mọng ấy làm chúng chuyển sang màu hồng rực rỡ. Trong tôi lúc này, đây chính là con vật đẹp nhất mà tôi từng thấy, một vài giây sau, thân mình phủ lông nâu vàng đốm trắng của nó lững thững hiện ra trong tầm mắt tôi. Ôi, tấm thân nâu vàng với những nét cong hoàn hảo, cái mặt xương xương, bộ lông còn hơi xù lên và bốn chiếc chân yếu đuối mong manh, tất cả như làm tim tôi tan chảy. Tôi chỉ muốn ôm chầm lấy nó vào lòng mình, bảo vệ nó khỏi những viễn cảnh đầy hiểm nguy dưới nanh vuốt của sói, cái đói và những tay thợ săn luôn rình rập. Mà sao có ai nỡ bắn giết con vật đáng yêu này cơ chứ? Chợt ngay sau đó, nàng nai thực hiện một động tác không tưởng: nó gập chân trước rồi đến chân sau, rạp người xuống đất và... biến mất. Những đốm trắng trên tấm lưng màu nâu của nó như trùng lắp với những hạt nắng nên một giây trước đó tấm thân nâu vàng ấy còn ở đây, nhưng ngay giây tiếp theo đã chẳng còn lại gì ngoài mặt đất trơ trọi. Hai ông cháu ngồi lặng im mất cả năm phút sau rồi mới lặng lẽ gom đồ đạc đi tiếp. Chúng tôi cứ thế đi dọc theo bờ sông đến khi bóng chiều tà dần buông mới bắt đầu rẽ lối qua những bụi rậm về nhà. Trên đường về, ông tìm thấy một vật thuộc dạng hiếm hoi và mỏng manh nhất của thế giới hoang dã: một chiếc tổ chim ruồi cũ kĩ, được đan kết lại rất khéo léo, nhỏ hơn cái chén đựng trứng. “Thật may mắn quá!” ông thốt lên. “Hãy quý trọng nó nhé, Calpurnia. Có lẽ suốt cả đời này cháu cũng chẳng có dịp thấy lại một cái khác đâu.” Chiếc tổ chim được đan kết với một cấu trúc cực kì phức tạp, cứ như là được tạo thành bởi mấy nàng tiên nhỏ trong chuyện cổ tích. Xém chút nữa tôi buột miệng thốt ra điều này nhưng đã kìm lời kịp lúc. Một thành viên của hội khoa học không thể nói ra một điều như thế được. “Chúng ta mang nó về bằng cách nào đây ông?” tôi hỏi. Tôi vẫn chưa dám chạm vào nó. “Cứ cho nó vào lọ. Trong thư viện ông còn một chiếc hộp kính đựng vừa nó đấy. Cháu có thể trưng bày nó trong phòng, chứ giữ nó trong hộc tủ thì mất hết giá trị.” Thư viện là cấm địa của ông, đến bố mẹ tôi cũng hiếm khi bước vào. Chị SanJuanna được vào quét dọn một lần trong mỗi quý. Còn bình thường thì ông luôn khóa kín cửa. Có điều ông không biết là trong những lúc người lớn không có nhà, mấy anh em trai của tôi công kênh nhau lên trèo qua đố cửa để vào phòng. Sam Houston, anh ba của tôi, có lần được xem kĩ cuốn sách ảnh về chiến tranh của Mathew Brady, sau đó anh thì thào thuật lại cho bọn tôi nghe về mấy con ngựa bị phanh thây nằm trong đống bùn, và mấy người lính chân trần đã chết nhưng mắt vẫn mở trừng trừng nhìn lên trời. Chúng tôi về đến nhà khoảng 5 giờ. Jim Bowie cùng Ajax chạy ra đón mừng ngay lúc phát hiện hai ông cháu thấp thoáng đi từ bờ sông lên. “Callie, chị gặp rắc rối rồi đấy.” J.B. phùng mang trợn má. “Mẹ đang rất giận đấy.” Nó chẳng màng đến sự có mặt của ông. “Mẹ bảo chị đã trốn giờ học đàn dương cầm hôm nay.” Ừ nhỉ, lớp học dương cầm của bọn tôi đã bắt đầu lại rồi, và tôi biết rằng mình sẽ phải tập bù, cộng thêm nửa tiếng làm hình phạt. Luật là như vậy, nhưng tôi chẳng quan tâm. Hôm nay hoàn toàn xứng đáng để tôi hi sinh. Bị phạt thêm cả ngàn tiếng tập dương cầm cũng không sao ấy chứ. Chúng tôi vào nhà, ông cho chiếc tổ chim ruồi vào hộp kính rồi đưa cho tôi. Sau đó tôi để mặc ông làm tiếp mấy việc vặt vãnh trong thư viện rồi đi tìm mẹ để biện hộ việc trốn giờ học dương cầm, mặc dù biết rằng chẳng có kết quả khả quan gì. Rốt cuộc tôi cũng đã tranh thủ thực hiện hình phạt trước giờ ăn tối, nhưng hôm nay tôi chơi đàn với một tâm hồn trong trẻo, nhẹ nhõm, ít nhất là tự tôi cảm thấy vậy. Tối đó tôi đi ngủ với cơ thể mệt mỏi nhưng tâm trạng thì phấn khích tột độ; còn trên bàn gương, chiếc tổ chim ruồi chễm chệ cạnh mấy cây cài tóc và dây nơ của tôi. Một tuần sau đó, danh sách quan sát trong buổi sáng của tôi bao gồm: 5g15 sáng, trong lành, có chút gió nam 8 con thỏ (7 con thỏ bông, 1 con thỏ rừng tai to) 1 con chồn hôi (con nhỏ, có vẻ đang đi lạc) 1 con chồn treo (lỗ tai trái hình chữ V) 5 con mèo (3 con mèo nhà tôi, 2 con mèo hoang) 1 con rắn (rắn cỏ, không nguy hiểm) 1 con thằn lằn (màu xanh giống màu cuống hoa huệ tây, rất khó phát hiện) 2 con diều hâu đuôi đỏ 1 con ó butêo 3 con cóc 2 chú chim ruồi (thuộc loài Rufous?) Phân loại Odonata, Humenoptera, Arachnidae Tôi đưa ông xem, ông gật gù. “Chỉ cần ngồi lặng im quan sát mà cháu đã thấy được nhiều thứ tuyệt vời, đúng không?” CHƯƠNG 3 ĐẠI CHIẾN CHUỘT TREO[9] Cây trồng từ một loại quả giống nhau, và những con vật đẻ cùng lứa, đôi khi lại khác nhau một cách đáng kể, mặc dù cả con nhỏ hay cha mẹ... đều được trưởng thành trong cùng một điều kiện sống... ĐẠI CHIẾN CHUỘT TREO LẠI NỔ RA làm náo động cả hiên sau nhà. Một cuộc chiến có vẻ thụ động, không có xung đột ghê gớm nhưng có thể nói là rất dữ dội. Đêm nào sự việc cũng diễn ra như nhau và thật tiện lợi cho tôi nghiên cứu về nó. Một chú chuột treo béo ú, bụi bặm xuất hiện từ dưới sàn nhà, đi săn đêm tìm bữa sáng từ những mẩu thức ăn vụn hay mấy thứ linh tinh trong nhà bếp. Bất thình lình, nó bắt gặp một chú Mèo Sân Vườn đang lảng vảng ở hiên sau nhà như đang tuần tiễu trên địa phận riêng của nó. Cả hai cùng bị sốc, mắt mở to nhìn nhau trừng trừng, rồi chú chuột treo gầm gừ và bất thần phóng xuống đất. Chú nằm im, thân thể cứng đơ không động đậy, môi nhăn nhó hở ra hàm răng nhỏ nhọn như kim. Mắt chú im lìm, lông dựng đứng. Đây chính là hình ảnh Chuột Treo Giả Chết. Con mèo ngơ ngẩn nhìn, lần nào gặp phải tình cảnh này phản ứng của loài mèo cũng như vậy. Nó thận trọng tiến lại gần cái xác rồi ngửi ngửi xung quanh thăm dò. Sau đó nó cuộn mình lại nhìn giống ổ bánh mì nhằm thể hiện lòng kiêu hãnh của loài mèo trước đối thủ vừa bị đánh bại, nhiệm vụ của nó đã hoàn thành mỹ mãn. Một lúc sau, chú mèo bắt đầu chán rồi lảng vảng đi lại quanh cửa bếp chờ Viola bố thí cho vài miếng ăn. Cái xác chuột nằm bất động thêm 5 phút nữa rồi chẳng đợi báo động hay nghi lễ tưởng niệm gì, lừ đừ chống chân đứng dậy, tiếp tục cất bước đi tìm thức ăn như chưa từng có gì vừa xảy ra. Cảnh tượng này cứ thế tiếp diễn hằng đêm, suốt cả mùa hè. Cả tôi và hai phe thù địch đều không nhàm chán. Thật tuyệt khi một cuộc chiến không đổ máu diễn ra và cả hai bên đều thu được chiến thắng cho riêng mình. Mỗi sáng, cứ đúng 5 giờ là chú chuột treo trở về tổ. Nó luồn xuống dưới sàn nhà rồi trèo lên bức tường đằng sau giường ngủ của tôi. Tiếng sột soạt nó gây ra luôn đánh thức tôi hiệu quả không thua gì một chiếc đồng hồ, ôi chú chuột treo 5 giờ của tôi. Tôi không kể cho ai nghe chuyện này vì nếu mẹ biết thì hẳn bà sẽ bảo anh Alberto, chồng chị SanJuanna, bịt lại cái lỗ dưới sàn nhà và đặt bẫy bắt chúng. Còn bản thân tôi thì không khó chịu khi chung đụng dưới một mái nhà với mấy chú chuột treo này. (Tôi đặt một câu hỏi trong Sổ Tay: Làm sao lũ chuột treo lại có thể biết giờ chính xác như vậy?) Tôi hỏi ông nội về vấn đề này. Ông trả lời một cách nghiêm túc, “Có lẽ nó đeo đồng hồ trong túi như con thỏ của Alice[10].” “À, chắc là vậy thật,” tôi vừa nói vừa nhịn cười rồi ghi chú vào Sổ Tay để kể cho cô bạn thân nhất của mình, Lula Gates. MỘT CHIỀU NỌ, trong khi ông nội đang mày mò mấy công thức để chế biến rượu hồ đào, tôi ngồi trên chiếc ghế cao ngay kế cùi chỏ của ông, nhìn ông làm việc. Khu ở cũ của nô lệ được ông trưng dụng làm chỗ treo mười mấy cái đèn dầu, lủng lẳng ở những độ cao khác nhau, đi qua phải dè chừng tránh không bị va vào đầu. Cả cụm đèn lung linh ánh vàng tràn ngập không gian nhỏ bé. Mẹ lúc nào cũng sợ đèn dầu đổ làm cháy nhà nên bảo chú Albert đặt những thùng cát ẩm lớn (lấy từ dưới sông lên) ở cả bốn góc phòng. Cửa sổ ở đây không gắn kính, chỉ treo hờ mấy tấm bạt hay mấy cái túi cói để chống côn trùng bay vào. Và nơi đây đã trở thành thiên đường trú ngụ của loài bướm đêm. Ông đã bỏ nhiều năm trời để tìm cách chiết xuất rượu từ quả hồ đào. Thực nghiệm này chẳng làm tôi thích thú gì nhưng ông vừa làm việc vừa nói chuyện với tôi, và những đề tài đó thì không bao giờ làm tôi chán cả. Tôi lấy đồ đạc cho ông, chuốt nhọn mấy cây bút chì trong cái chén bằng gỗ bào. Mỗi khi công việc tiến triển tốt đẹp, ông thường khe khẽ ngâm nga mấy khúc nhạc vui của Vivaldi; còn khi không tốt, ông lại khẽ rít hơi qua bộ râu rậm rạp. Tôi chọn ngay lúc ông đang ngâm nga một nốt nhạc cao mà hỏi, “Ông à, ông luôn là một nhà nghiên cứu tự nhiên học phải không ạ?” “Cháu hỏi gì?” ông hỏi. Ông đưa một chiếc cốc chứa chất lỏng màu nâu đặc vào dưới ngọn đèn lập lòe ấm áp rồi đeo kính lên, ngắm nghía lớp cặn kết tủa dưới đáy cốc, nhìn giống lớp bùn dưới sông. “Ồ. Không, không phải lúc nào cũng là nhà nghiên cứu tự nhiên học đâu cháu.” “Vậy ông nội của ông có phải là nhà nghiên cứu tự nhiên học không ạ?” tôi hỏi tiếp. “Ông cũng chẳng biết nữa,” ông đáp. “Ông chẳng biết nhiều về ông ấy, ông nội của ông mất lúc ông còn nhỏ lắm.” Ông nhấp một ngụm chất lỏng sẫm màu đó rồi đổi sắc mặt. Chiết xuất, nhấp thử, rồi nhăn mặt. Sau đó thường là ông sẽ chửi thề. Đó là những gì ông thường làm. “Khốn kiếp thật,” ông lên tiếng, “cái thứ nước gớm ghiếc này...” Vậy là chưa có tiến triển gì tốt đẹp cả. “Ông nội của ông mất lúc ông mấy tuổi ạ?” tôi hỏi. “Ông nghĩ khoảng 5 tuổi.” Và dường như đoán trước được câu hỏi tiếp theo của tôi ông tiếp lời. “Ông ấy mất vì những vết thương còn lại sau cuộc chiến với người Cô-man-si thuộc mấy bộ tộc ở Oklahoma.” “Chà, vậy ông ấy có thích thú về khoa học không?” tôi hỏi. “Theo ông biết là không. Ông ấy buôn bán da hải ly và da bò; ông không nghĩ rằng ông ấy quan tâm đến cái gì khác ngoài việc làm ăn. Lọc chất lỏng trong này ra giùm ông nhé? Rồi đổ vào cái chai kia và đề ngày hôm nay lên nhãn. Hi vọng rằng lần sau sẽ tốt hơn. Không thể có chuyện tệ hơn cái thứ này được.” Tôi cầm lấy cái cốc từ tay ông rồi lược chất lỏng trong đó qua cái rây vào trong một chiếc chai rỗng hiệu Lydia Pinkham của mẹ. Đôi khi mẹ cũng thường phải hớp vài ngụm cái thứ này khi bị mấy anh em tôi chọc tức (mà việc này xảy ra khá thường xuyên). Tôi nút chai lại rồi dùng bút chì sáp màu đỏ viết lên: ngày 1 tháng 7 năm 1899. Rồi tôi xếp nó lên kệ cạnh nhiều “đồng chí” thất bại khác của nó. “Vậy ông bắt đầu thích thú đến khoa học như thế nào?” tôi hỏi. Ông dừng lại rồi trầm ngâm nhìn ra ngoài cửa sổ, nhưng tôi biết rằng về đêm thì chẳng thể nhìn ra bên ngoài qua tấm vải bao bì, mà chỉ ngó từ ngoài vào trong mà thôi. Một lúc sau ông cất lời, “Điều đó bắt đầu từ một buổi chạng vạng năm 1865. Mọi chuyện như vừa xảy ra ngày hôm qua. Thật ra, ông còn nhớ về ngày đó rõ hơn những gì của ngày hôm qua ấy chứ. Tuổi già thật oan nghiệt, Calpurnia ạ!” Ông nhìn tôi rồi ôn tồn bảo, “đừng để điều đó xảy đến với cháu nhé!” “Không đâu thưa ông.” Tôi đáp. “Lúc ấy ông là sĩ quan lãnh đạo một nhóm nài ngựa vòng quanh Texas. Tất cả bọn họ đều là những người nài ngựa cừ khôi, họ trưởng thành trên lưng ngựa mà. Ai cũng đều nghĩ mình sẽ trở thành kỵ binh nhưng rốt cuộc họ lại bị bổ nhiệm làm bộ binh. Mỗi ngày phải hành quân như vậy, trời ạ, khi họ biết sự thật, họ than phiền dữ dội! Chắc hẳn cháu chưa từng được nghe những lời tục tĩu đầy sáng tạo như vậy đâu. Họ ghét đi bộ lắm, đừng nói gì đến việc phải diễu binh. Nhưng ngoài sự phản kháng thì dù sao họ cũng là những con người ngoan cường. “Vào tháng tư năm ấy, khi hoàng hôn buông xuống, bọn ông dựng trại bên dòng sông Sabine. Khi thấy bóng người trinh sát, ông vẫy tay ra hiệu và đột nhiên một chuyện phi thường xảy ra, một vật gì đó bay đâm sầm vào tay ông. Trong cơn bàng hoàng, tay ông nắm chặt lấy vật thể đó và ông càng ngạc nhiên hơn nữa khi cảm thấy được lớp lông ấm trong lòng bàn tay mình. Thì ra trong tay ông đang nắm chặt một chú dơi con nằm yên đầy kinh ngạc.” “Ôi không,” tôi thì thào. “Không thể nào.” “Thật đấy,” ông bảo. “Lúc đó ông cũng choáng váng như một chú cừu non.” “Rồi ông làm gì?” “Ông và chú dơi trao đổi ánh mắt trong vài phút. Chú ta có đôi mắt lanh lợi và bộ lông ấm áp, mềm mại. Nhìn không khác một chú cáo con là mấy. Đôi cánh như có lớp da, nhưng không lạnh ngắt và kinh tởm đâu nhé, trái lại, nó rất mềm dẻo và ấm áp như đôi găng trẻ con được mẹ ấp ủ vậy.” Tôi vẩn vơ suy nghĩ nếu có chú dơi bay vào tay mình thì sao. Chắc tôi sẽ hét lên và buông nó xuống ngay. Có khi tôi ngất xỉu mất không chừng. Tôi chợt nghĩ về trường hợp này nhiều hơn. Tôi chưa ngất đi bao giờ nhưng xem ra đó cũng là một trải nghiệm thú vị đấy chứ. “Ông lấy chiếc khăn tay cuối cùng của mình bọc nó lại rồi cho vào trong áo để giữ ấm cho nó. Chú dơi chẳng hề phản kháng gì trước những hành động này của ông cả. Rồi ông đem nó vào lều. Trước khi ngủ, ông lấy nó ra, chúc ngược đầu nó xuống rồi treo chân nó lên sợi dây phơi quần áo. Mặc dù nó còn lạ lẫm với mọi vật xung quanh, chân nó vẫn quắp lấy sợi dây, ông nghĩ đó là phản ứng tự nhiên, rồi nó cuộn mình lại treo mình lủng lẳng như đang ở ngoài thiên nhiên hoang dã vậy; lúc này nó như một gói hàng nho nhỏ rất gọn gàng và nhìn thật thích mắt. “Ông để miếng bạt lều mở toang, rồi ông chợt bừng tỉnh trong tiết trời đêm lạnh giá và run rẩy - một từ diễn tả chính xác cảm giác của ông lúc ấy - khi nhìn thấy chú dơi lượn một vòng quanh đầu mình rồi mất hút trong bóng đêm. Trong lòng ông thầm cầu Chúa ban phước lành cho nó.” Nghe ông kể, lòng tôi bỗng trào lên một cảm giác cực kỳ lạ lẫm, không biết nên vui mừng hay rơi lệ nữa. “Nhưng câu chuyện chưa chấm dứt ở đó,” ông tiếp lời. “Đưa ông cái ống cao su dài kia đi cháu. Hôm sau ông thức dậy trước bình minh. Lúc đó bọn ông không có lửa nên lính đưa cho ông một thau nước lạnh để làm vệ sinh buổi sáng. Ông mặc đồ và chuẩn bị rời khỏi lều trong khi gió ù ù bên tai. Và thật ngạc nhiên khi anh bạn của ông đã trở lại, đang treo mình lủng lẳng trên sợi dây phơi đồ.” “Nó quay lại hả ông?” tôi kêu lên. “Ừm, chính chú dơi thân yêu của ông đấy,” ông đáp, “hay ông tưởng chính là nó. Trong mắt thường mấy con dơi trông giống như nhau cả mà. Nó cứ lủng lẳng ở đó, điềm tĩnh nhìn ông rồi ngủ thiếp đi. Ông đoán nó là con đực, nhưng đương nhiên lại chẳng có chứng cớ xác thực nào cho phỏng đoán đó cả. Sau này, việc xác định giới tính của dơi con rất đơn giản, nhưng vào lúc đó thì ông hoàn toàn mù tịt.” “Ông có giữ nó lại không ạ?” tôi hỏi. “Có không ông?” “Chú ta làm trú khách trong lều cả ngày hôm ấy và đánh một giấc ngon lành.” Rồi ông mỉm cười, nụ cười sáng lên trong ánh vàng lập lòe của đèn dầu, đắm chìm trong kí ức tươi đẹp. Bỗng nét mặt ông thay đổi. “Ông không bao giờ quên ngày hôm ấy,” ông kể tiếp. “Quân đội Liên bang tấn công bọn ông hai tiếng sau khi mặt trời mọc và truy đuổi đến khi mặt trời lặn. Bọn chúng kéo theo hai khẩu đại bác 12 pound[11] và oanh tạc bọn ông tơi bời hoa lá đến khi tai ông không còn cảm nhận được tiếng pháo và mắt không còn nhìn thấy gì trong khói bụi mù mịt. Đạn Minie[12] gây thiệt hại nặng nề. Bọn ông bị siết chặt trong vòng vây địch. “Cả ngày hôm đó ông cố gắng phá vòng vây, khích lệ binh sĩ bằng mọi cách. Ông cử một rồi hai người để chuyển tin cầu cứu đến Thiếu tá Duncan ở hạ lưu, nhưng không một ai trở lại.” Nói tới đây, ông đưa tay lên cọ cọ vào trán. “Cứ mỗi lần đạn pháo vượt qua lằn ranh, ông lại lo âu nhìn về phía cái lều. Cháu biết không, ông thật sự lo lắng cho chú dơi. Ông lo rằng tiếng ồn và khói sẽ làm nó hoảng sợ, nhỡ nó dại dột bay ra lạc vào đường đạn thì sao. Bấy giờ, nó đã chính thức trở thành con dơi của ông rồi, cháu thấy không?” Tôi gật đầu. Tôi nhận ra điều đó chứ. “Khói bụi thuốc súng ngập tràn khắp không gian đến khi mặt trời bị che phủ, không thể thấy quá 5 yard[13] về cả hai phía. “Đến buổi hoàng hôn, cuộc tấn công dịu dần, ông nghĩ mấy tên lính Liên bang đang chia nhau bữa tối. Trong khi đó, binh lính của ông lẩn trốn trong hầm và ăn bánh quy nguội lạnh. Những người có bút viết tranh thủ biên vài dòng cho gia đình rồi dúi vào tay ông và năn nỉ rằng nếu ông còn sống thì hãy gửi đi giùm họ. Rất nhiều người siết chặt tay ông tạm biệt, yêu cầu ông cầu nguyện cho linh hồn và người nhà của họ. Một binh sĩ theo ông đến tận lều nài nỉ ông viết hộ lá thư. Ông mở cửa lều và mong rằng chú dơi đã hoảng sợ và bay đi mất.” Tôi nín thở và ngồi im như tượng. “Nhưng nó vẫn còn đấy, ngủ say. Theo ông thấy thì nó chẳng thay đổi tư thế treo ngược ấy cả ngày. Cho dù cậu binh sĩ có nhìn thấy nó thì cũng chẳng để ý, tâm trí cậu ta bây giờ chỉ hướng về gia đình nơi xa xôi. “Ông viết thư cho mẹ và chị cậu ấy ở Elgin. Cậu bảo họ đừng quá đau buồn và nhớ thu hoạch bắp vào tháng 6. Cậu ấy kể rằng ở đó chẳng còn người đàn ông nào và cậu nghĩ rằng không có cậu, họ sẽ chẳng thể hoàn thành công việc đó được. Nghĩ đến hoàn cảnh của gia đình mình, cậu ứa nước mắt. Lúc đó cậu ấy chẳng nghĩ đến bản thân mình nữa. Suốt cả đêm ấy, ông nắm tay và bảo cậu ấy hãy tin rằng ông sẽ gặp người nhà của cậu. Cậu ấy ôm chầm lấy ông và kêu ông là Đại úy, miệng không ngừng cám ơn rằng ông đã giải tỏa được tâm lý cho cậu, và cậu sẽ yên lòng nhắm mắt. Sau đó cậu ấy rời khỏi lều ông và quay trở lại vị trí nơi chiến tuyến.” Ông rút chiếc khăn tay to lớn màu trắng ra khỏi túi và lau nước mắt. “Rồi ông nhìn về chú dơi,” ông kể tiếp. “Ông kéo ghế lên rồi quan sát nó ở khoảng cách rất gần. Nó thật hoàn hảo về mọi mặt.Thật hoàn hảo. Có lẽ nó cảm nhận được sự có mặt của ông vì ông thấy nó khẽ chớp mắt nhìn ông. Nó cực kì điềm tĩnh. Tiếng ồn và sự rung lắc bên ngoài dường như chẳng ảnh hưởng gì đến nó cả. Nó dang cánh ra trong giây lát, ngáp rồi lại cuộn mình và tiếp tục ngon giấc. Lúc đó, ông cảm giác rằng mình chẳng bao giờ muốn rời khỏi chiếc lều này nữa. “Nhưng rồi đạn pháo lại tiếp tục nổ. Ông quan sát nó đến khi phải tiếp tục nhiệm vụ. Nhưng thật tình ông chẳng muốn đi chút nào.” Hai ông cháu ngồi lặng im. Rồi tôi hỏi, “Anh ấy có chết không ạ?” Ông nhìn tôi thắc mắc. “Cái anh đến từ Elgin ấy ạ,” tôi nói rõ hơn. “Cậu ấy không chết vào hôm đó.” Một lúc sau ông tiếp lời, “cậu ấy bị đạn pháo bắn vào đầu gối, rồi nằm đó trên bãi chiến trường, chết dần chết mòn, miệng vẫn liên tục đòi nước uống, nhớ đến mẹ và cầu xin sự tha thứ. Cả ngày hôm ấy bọn ông phải chịu đựng những tiếng than khóc cứ yếu dần đi, đến khi màn đêm buông xuống mới dám bò ra kéo họ vào. Bác sĩ quân y làm việc suốt cả đêm dưới ánh sáng của những cây nến lõi bấc leo lét trên đầu. Những binh sĩ bị thương nhẹ ông cho ngồi đợi. Những người bị thương quá nặng, ông sẽ để qua một bên, cho họ một bi-đông nước và một ít thuốc giảm đau và tất cả những thứ tốt nhất ông có thể lấy từ cha tuyên úy. Những người bị tan nát tay chân phải tiến hành cắt cụt tức thời để tránh bị mất máu đến chết hay bị lên mủ, bị hoại tử. “Lúc mặt trời mọc là đến phiên cậu thanh niên đến từ Elgin. Cậu ấy đang rất yếu. Bọn ông bế cậu ấy lên bàn mổ, bấy giờ nó đang đóng đầy máu. Khi ông chụp chiếc phễu thuốc mê lên mặt thì cậu ấy nhìn ông rồi cười và nói, ‘Đừng lo cho tôi Đại úy ạ. Tôi không sao đâu.’ “Rồi ông kéo chân cậu ấy thật mạnh trong khi bác sĩ cưa. Đột nhiên cái chân rời ra trên tay ông, ông ôm lấy nó ngây ngô như một đứa trẻ. Cháu biết không, ông chẳng ngờ là chân con người lại nặng đến thế. Ông cứ đứng đó giữ lấy nó. Ông chẳng muốn quăng nó vào đống chân tay khác, nhưng rốt cuộc ông cũng phải làm như vậy.” “Ông đã cứu được cậu ấy phải không ông?” tôi hỏi. Một lúc sau, ông đáp, “Cậu ấy không tỉnh lại.” Ông nhìn chăm chăm vào góc phòng thật lâu rồi tiếp lời, “Hai ngày sau, bọn ông nhận được tin chiến tranh đã kết thúc. Họ ra lệnh cho bọn ông chưa được về nhà vội mà phải thu dọn mọi thứ dự trữ và dụng cụ, nhưng chẳng còn được bao nhiêu. Chỉ còn một nắm đạn, một hay hai pound đậu, một cái chăn ẩm mốc; chỉ còn lại bấy nhiêu cho phần trợ cấp thôi đấy. Ông biết là mình sẽ rất cần cái lều nhưng chú dơi vẫn còn đó. Ông chẳng thể bỏ nó lại nhưng cũng chẳng biết làm sao để đem nó theo. Rốt cuộc ông qua lều của bác sĩ phẫu thuật và trộm chiếc Cờ Kiểm Dịch trong rương. Cháu biết Cờ Kiểm Dịch là gì không?” “Không ạ,” tôi thì thào. “Nó là lá cờ thông báo bệnh vàng da - cần phải tránh xa tức thì. Bệnh này đã cướp đi cả ngàn người, quét sạch cả nhiều trung đội, có lẽ số người chết vì nó cũng nhiều như chết vì hỏa lực của quân Liên bang. Ông dùng dây da buộc lá cờ vào chiếc lều rồi khoét một lỗ trên nóc. Ông chắc rằng chú dơi sẽ được bình yên một thời gian. Tất cả ông có thể làm chỉ có vậy. “Ông đã phải vượt qua nỗi đau để tạm biệt chú dơi thân yêu. Mặc dù trước đó ông đã châm lửa đốt cả núi chân tay mà chẳng cảm thấy gì. Ngay cả khi quăng xác của cậu thanh niên từ Elgin xuống hào với những binh sĩ khác, ông cũng chẳng có cảm giác. Ông mất 18 ngày để đến được Elgin. Ông thông báo tin tử cho mẹ và các chị em gái của cậu ấy ở phòng khách. Ông nói rằng cậu ấy đã mất như một vị anh hùng nhưng không cho họ biết cái chết của cậu cũng không có ý nghĩa gì trong cuộc chiến. Họ bảo rằng rất biết ơn vì ông đã đến đưa tin. Ông ở lại đó ba tháng để giúp họ thu hoạch bắp và sắp xếp mọi thứ cho ổn thỏa. Ông cũng đã gửi tin cho bà nội cháu rằng ông sẽ về nhà sau - ông nghĩ rằng bà ấy sẽ chẳng bao giờ tha thứ khi ông không chịu về gặp bà ngay. Nhưng đổi lại tất cả bắp được thu hoạch, từng chuyến từng chuyến về nhà trên lưng con la, ngay cả đứa con gái nhỏ nhất cũng tham gia làm việc.” Rồi ông chợt nhìn tôi tỏ vẻ ngạc nhiên. “Hình như lúc đó nó bằng tuổi cháu bây giờ đấy.” Tôi chợt nghĩ đến hình ảnh của những người theo bước con la trên những cánh đồng của làng tôi. Họ là những người đàn ông với cẳng tay chắc nịch và bàn tay to bè nứt nẻ; tùy vào mùa thu hoạch mà họ sẽ lấm lem bụi xám hay bùn đen. Nhưng tôi không thể tưởng tượng ra cảnh thu hoạch bắp của ông ngày ấy. “Lẽ ra ông không nên kể cho cháu nghe.” Ông vuốt mặt, nhìn ông thật già cỗi, làm tôi chợt sợ sệt trong lòng. “Cháu còn quá nhỏ để nghe về chuyện này.” Tôi tiến tới dựa vào ông, còn ông vòng tay ôm tôi vào lòng. Hai ông cháu cứ giữ yên như thế trong cả phút. Chợt ông dịu dàng hôn lên trán tôi. Vài phút sau, ông bảo, “Nào, chúng ta làm việc tới đâu rồi? À. Đưa cho ông cái đồ lọc kia đi cháu.” Tôi đưa đồ lọc cho ông rồi hai ông cháu tiếp tục làm việc trong im lặng. TÔI NGHĨ ĐẾN NHỮNG NGƯỜI CỰU CHIẾN BINH GIÀ run rẩy thường ngồi ở vỉa hè trước chiếc máy tời bông, họ khạc nhổ thuốc lá và làm phiền người khác bằng những câu chuyện cũ rích kể đi kể lại suốt hàng thập kỉ. Cháu chắt của họ chẳng còn màng nghe tới nữa. Những người như vậy tôi thường gặp hằng ngày. Mấy con nhậy gây bệnh đủ kích thước cứ bay vào chúng tôi trước khi lao mình vào mấy chiếc đèn dầu hết lần này đến lần khác. Một con đầy lông lá vướng vào tóc mái làm tôi nhột không chịu được. Tôi gỡ nó ra, kéo tấm bạt lên rồi quẳng nó ra ngoài màn đêm. Nó lập tức nhanh chóng bay ngược vào mặt tôi như thể vừa bị cuốn vào một cơn gió lớn. Tôi chỉ biết thở dài. Tôi chắc chắn học được một thứ: không thể thắng được lớp Insecta, thuộc bộ Lepidoptera. Hai ông cháu tôi phải nghiên cứu về nó thôi. CHƯƠNG 4 CÔ VIOLA Chúng ta có thể kết luận rằng... mọi thay đổi về tỷ lệ của một bộ phận dân cư nào đó, không kể đến sự thay đổi thời tiết, sẽ ít nhiều ảnh hưởng đến những cư dân khác. NẾU CHỊU KHÓ ĐỂ Ý HƠN thì tôi đã nhận ra được ánh mắt bất thường của cô Viola mỗi lần nhìn thấy tôi thập thò từ cửa sau chuồn tới phòng thí nghiệm của ông nội. Cô Viola đã ở với gia đình chúng tôi từ lâu lắm rồi - trước khi anh Harry chào đời nữa cơ - cô thường rung chuông ở cửa sau để báo hiệu những người đàn ông từ đồng áng về ăn tối và khua chiếc chiêng đồng ở chân cầu thang mỗi khi bọn tôi lên lầu về phòng (việc này mẹ thấy có vẻ làm cho nhà tôi ra dáng thượng lưu hơn). Mẹ còn muốn cô Viola đánh chiêng để ra hiệu cả ở bên ngoài nữa, nhưng anh em bọn tôi luôn túa đi khắp nơi từ xưởng tỉa hột bông cho đến bờ sông nên sẽ chẳng thể nào nghe được tín hiệu này. Và bọn tôi cần phải ăn tối đúng giờ, tắm rửa, đánh răng và những việc khác nữa nên phải dùng tín hiệu rõ ràng hơn để kêu cả bọn về. Tôi chưa bao giờ để ý đến việc cô Viola từ đâu tới, chỉ đơn giản là cô đã tồn tại trong gia đình tôi, suốt ngày nhào bột, gọt táo, chuẩn bị hàng đống thịt nướng vào mùa đông và rán cả núi thịt gà vào mùa hè. Không ai, kể cả mẹ, dám xâm phạm lãnh địa trong bếp của cô cả. Ở giữa mỗi bữa ăn, sẽ thấy cô ra xem xét đàn gà mái, mấy con lợn thiến hoặc luống rau để lên thực đơn cho những bữa tới, hoặc là ngồi ở bàn bếp chống tay cạnh chiếc cốc cà phê bị mẻ, nghỉ ngơi trước khi chuẩn bị cho bữa ăn khổng lồ tiếp theo. Chắc cô khoảng bốn mươi mấy tuổi rồi. Cô khá đẹp, dẻo dai, luôn mặc áo làm bếp và đeo chiếc tạp dề dài, tóc quấn gọn gàng bằng khăn trùm đầu. Trông cô mảnh khảnh nhưng ai cũng sẽ phải ngạc nhiên về sức mạnh của cô khi cô nắm lấy cổ tay họ để buộc người đó phải chú ý. Cô sống một mình trong căn chòi từng dành cho nô lệ đằng sau phòng thí nghiệm của ông nội; trước kia chỗ này chen chúc hơn cả chục người nên bây giờ một mình cô sống ở đây cũng khá thoải mái. Ở một vài nơi, trên nền đất cũng được lót ván gỗ mỏng. Cô có bếp lò vào mùa đông, bồn rửa mặt mạ kẽm và cả máy bơm riêng nữa. Da của cô Viola đen cỡ da tôi sau khi phơi nắng cả mùa hè mặc dù cô suốt này tránh nắng, còn tôi thì chả kiêng cữ gì cả. Cô chỉ mang một phần tư dòng máu Da đen thôi nhưng nhìn cô cứ như da đen thuần vậy. Tôi đoán là cô có thể “vượt biên” sang Austin, nhưng điều đó cực kỳ mạo hiểm. Nếu kẻ vượt biên bị lật tẩy thì sẽ bị đánh đập, bị bỏ tù hoặc còn hơn thế nữa. Một phụ nữ có tổ tiên là người có một phần tám dòng máu Da đen ở Bastrop từng vượt biên và lấy một người nông dân Da trắng. Ba năm sau ông ta phát hiện ra giấy khai sinh của vợ trong rương và dùng cây cào cỏ đâm bà đến chết. Rốt cuộc ông ta chỉ bị nhốt mười tháng trong nhà tù của hạt. Quan hệ giữa cô Viola và mẹ khá tốt đẹp, và tôi chưa bao giờ thấy giữa họ xảy ra mâu thuẫn gì lớn cả. Tôi nghĩ mẹ thật sự biết ơn cô về ba bữa ăn mỗi ngày cho cả lũ con háu đói và thiếu sự phục vụ của cô thì gia đình này sẽ chẳng khác nào con tàu bị mất lái. Tấm cửa chớp giữa nhà bếp và phòng khách luôn để mở trừ khi có khách. Mỗi khi đi ngang qua, ai cũng có thể đoán được tiến trình của bữa ăn tiếp theo - và cả tâm trạng của cô Viola nữa - qua mức độ tiếng khua của nồi niêu xoong chảo. Ðôi lúc hai người cùng ngồi trong bếp thảo luận về những bữa ăn và kiểm kê lại chi tiêu của gia đình. Mẹ luôn đảm bảo cung cấp cho cô Viola quần áo cotton mới vào mùa hè, đồ ấm vào mùa đông, và luôn trả đủ tiền công hằng tuần. Mẹ còn cho cô mượn những ấn bản cũ của Tập San Bà Nội Trợ, mặc dù cô không biết chữ nhưng vẫn thích lướt qua và trầm trồ trước những mẫu thời trang tuyệt đẹp mới nhất của Paris. Ðến sinh nhật, cô Viola nhận được một đồng bạc và tới Noel thì được một bao thuốc lá bột. Cô Viola không hay hút thuốc nhưng trước khi làm món bánh chanh tuyệt vời của mình thì cô phải rít một hơi thật dài. Sau mười phút khổ sở chiến đấu với việc dùng muỗng gỗ đánh sữa trứng chanh, cô luôn mệt mỏi thở không ra hơi. Mỗi khi tôi thấy cô rít thuốc lá cô đều đe, “Này cháu gái, đây là thói quen xấu. Cháu mà dám thử thì cô sẽ lột da cháu đấy, nghe không!” Cô chỉ đe dọa tôi vào lúc đó mà thôi, còn những khi khác thì quan hệ giữa chúng tôi khá tốt, nhưng không tốt bằng mối quan hệ giữa cô với Harry. Harry luôn được cô cưng hơn cả, có lẽ tại anh ấy quá đẹp trai và quyến rũ. Ngoài ra, Idabelle - nàng Mèo Nhà là con thú yêu nhất của cô, nó có nhiệm vụ rảo quanh nhà bếp, kho chứa đồ ăn, và cả phòng giặt ủi, giữ cho chuột không xâm phạm đến thùng chứa bột mì. Thật lạ vì cô Viola lại quan tâm đến nó như vậy trong khi cô ít khi nào khoan dung cho mấy con Mèo Sân Vườn, đôi lúc còn dùng chổi quét bay hết chúng nó ra khỏi hiên sau nhà ấy chứ. Idabelle là một con mèo mướp mập mạp chính hiệu, giỏi bắt chuột. Mặc dù sở hữu một chiếc giỏ kế lò nướng làm chỗ trú thân nhưng nó vẫn hay lảng vảng lên lầu, yên vị trên gối rồi cuộn tròn người, nhìn chẳng khác nào một chiếc mũ lông đang rừ rừ quanh đầu người nằm. Vào mùa đông thì thật tuyệt vời, nhưng mùa hè thì chẳng thể nào chịu nổi hành động này của nó. Vì vậy, vào mùa hè, nó thường hay bị quăng ra cửa trong tiếng gầm gừ khoái chí của mấy chú Mèo Sân Vườn. Mấy con Chó Sân Vườn thì thường nằm ườn trước hiên nhà hoặc bị nhốt vào cạnh chuồng gia súc tùy theo chúng có gây phiền hà hay không. Chú chó đầu đàn Ajax luôn vui vẻ chấp nhận số phận nhàm chán của mình, thì nằm lim dim trước hiên chờ ngày dài trôi qua, thỉnh thoảng tạm ngừng mơ mộng ngoái đầu nhấm nháp mấy con bọ chét trên mình rồi lại quăng người xuống trong tiếng thở dài đầy thỏa mãn. Tôi nghĩ nó đang mơ về những chú vịt và bồ câu, chờ mùa săn bắn tới để nó có thể hoạt động hết mình trong một vài tuần giống như... một chú chó thực thụ. Ajax còn một lý do nữa để vui vẻ với số phận của nó. Trong các con chó, nó là con Chó Nhà duy nhất. Những con khác như Homer, Hero, và Zeus chỉ là Chó Sân Vườn. Cả bọn đều biết điều này nhưng mỗi lần cửa mở, chúng đều tỏ ra ngoan hiền tụ tập đằng trước mặc dù sự thật vẫn là sự thật, chúng không bao giờ được cho vào nhà. Tôi rất thích đặc tính tốt này của loài chó: Mặc dù cả đời bị từ chối không cho vào nhà, nhưng niềm hi vọng không bao giờ lụi tắt trong tim chúng. Chẳng có gì lạ khi lũ Chó Sân Vườn nghĩ Ajax được nuông chiều, vuốt ve trên đùi chủ nhân sau khi được bước qua cánh cửa thần kì đó. Nhưng bọn chúng đâu biết rằng chỉ những khi Ajax sạch sẽ, khô ráo và không còn bọ chét thì mới được vào nhà, song cũng chỉ được lảng vảng ở trong góc sảnh lớn chứ không được vào phòng khách hay lên lầu. Dẫu sao, địa vị trong xã hội của nó cũng được chứng tỏ và nó được quyền lên mặt với mấy con chó khác. Lũ chó rất hiền và hòa nhã (nếu không thì đừng hòng bố giữ chúng ở lại), và mấy em trai của tôi được phép chơi đùa với chúng, miễn là đừng kéo tai chúng quá mạnh. Mỗi khi bị đối xử như vậy, mấy con chó rụt rè rút lui rồi trốn xuống dưới hiên nhà. Ðôi lúc bọn chúng cũng sục sạo trước cửa phòng thí nghiệm; và mặc dù ông nội cũng lấy làm thích thú nhưng chẳng bao giờ cho phép chúng bước vào. Suy đi nghĩ lại, ông còn chẳng cho người nào ngoài tôi vào trong đấy nữa cơ mà. CHƯƠNG 5 NHỮNG SẢN PHẨM CHƯNG CẤT Chúng ta đều thấy rằng con người được tuyển lọc sẽ cho ra những kết quả mỹ mãn và có thể thích nghi với những sinh vật hữu cơ khác... Nhưng Chọn Lọc Tự Nhiên... là một sức mạnh luôn sẵn sàng hành động bất cứ lúc nào, và sức mạnh đó hoàn toàn vượt quá khả năng kiểm soát của con người, vì vậy, mỗi tác phẩm của Tự Nhiên đều là một tác phẩm nghệ thuật. MỘT ĐÊM NỌ TÔI VÀO PHÒNG THÍ NGHIỆM VỚI ÔNG NỘI, thấy ông dường như vừa có đột phá gì đó trong việc chưng cất rượu. Ông giơ chiếc lọ nhỏ lên ánh đèn rồi nhìn nó đầy vẻ suy tư. “Calpurnia,” ông bảo, “ông nghĩ chúng ta vừa có được một thứ gần uống được rồi đấy. Ông không nói nó ngon, đừng có hiểu lầm, nhưng không đến nỗi kinh tởm như mấy cái khác.” - đoạn ông quơ tay về mấy hàng lọ nhỏ đóng nắp trên kệ - “theo ông thấy bây giờ thì đám đó chỉ xứng đáng đem chà boong tàu hôi thối mà thôi. Quả thật là cái này cũng chưa ra gì lắm nhưng...” “Tại sao nó tốt hơn mấy cái khác ạ?” tôi hỏi. “Ông lọc mẻ chưng cất thứ tư qua hỗn hợp của than chì, vỏ trứng, vỏ hồ đào và bã cà phê. Ðể ông thử ủ nó trong gỗ sồi một thời gian xem sao.” Từ đó đến nay, chưa có mẫu chưng cất nào đủ tiêu chuẩn để được cất giữ và bảo quản như vậy cả, nên đây có vẻ là một bước tiến lớn lao. Ông đổ mẻ chưng cất đó vào trong chiếc thùng gỗ sồi mini kích thước cỡ ổ bánh mì. “À quên nữa,” ông quay lại nhìn tôi rồi thốt lên, “ông chưa cho cháu nếm thử. Cháu có muốn nhấp một chút rồi cho ông biết ý kiến không?” Nói rồi ông đưa cho tôi chừng một hớp rượu. Tôi cẩn trọng ngửi ngửi nó. Chủ yếu là mùi hồ đào nên tôi cũng an tâm phần nào, còn lại thì thoang thoảng mùi dầu hỏa làm tôi hơi ngại. Chắc là ông đã quên mất rằng tôi chỉ sắp tròn mười hai tuổi mà thôi. Ông bảo, “muốn cho dễ uống thì cháu chỉ việc bịt mũi lại rồi nuốt đại là xong.” Tôi bóp mũi lại rồi nuốt chửng hỗn hợp ấy qua cổ họng. Bây giờ để tôi nói cho bạn nghe vì sao người ta lại gọi nó là “nước lửa”. Nó đốt cháy cổ họng tôi làm bùng nổ một tràng ho tệ hại nhất trên thế giới. Cả thân người tôi dường như đang bốc cháy. Tôi ho dữ dội quá nên chẳng biết mình có ngã lăn ra đất hay không nữa. Tôi chỉ nhớ rằng ông nội bế tôi ngồi lên thành ghế rồi vỗ vào lưng đến khi tôi có thể hô hấp bình thường trở lại. Ông kinh hãi nhìn tôi chuyển từ ho sang thổi phù phù rồi đến những cú nấc cục mạnh đầy đau đớn. Ông nhìn tôi dò xét. “Cháu có sao không? Hình như cháu chưa biết uống rượu phải không. Cầm lấy,” ông nói rồi lấy trong túi áo khoác ra chiếc kẹo bạc hà, “cái này sẽ làm cháu đỡ hơn đấy.” Tôi vừa gật đầu vừa nấc cục và nhai ngấu nghiến miếng kẹo bạc hà, nước mắt nước mũi ràn rụa không kiểm soát nổi. “Ôi cháu tôi,” ông thốt lên. Ông lôi trong túi ra chiếc khăn tay màu trắng to đùng rồi đưa lên mũi tôi. “Hỉ mũi đi nào.” Tôi hỉ thật mạnh và cảm thấy đỡ hơn phần nào. Ông lấy bình nước dùng làm nước chữa lửa sau mỗi lần thử nghiệm mấy mẫu chưng cất và rót cho tôi một cốc. “Ổn rồi, ổn rồi.” Ông vỗ về lưng tôi. “Nào,” ông bảo, “ông phải ghi chép lại kết quả quan sát. Còn cháu, phụ tá của ông, cũng ghi một ít về ngày đáng mừng này đi chứ.” Ông kéo đèn dầu lại gần rồi viết vào cuốn sổ dùng làm sổ kế toán, ngòi bút của ông sột soạt trên trang giấy. Trong đó chi chít thông tin về những lần thử nghiệm thất bại. Rồi ông đưa bút cho tôi. “Rồi, viết ngày tháng và những gì cháu quan sát được vào cột này, sau đó kí tên bên dưới.” Trong lớp luyện chữ, tôi chỉ vừa được phép dùng viết mực thay vì viết chì. Tôi sợ làm lem mực ra giấy nhưng rồi tôi cũng viết được về cú sốc vừa rồi của mình: Mẻ rượu 437: 21 tháng 7 năm 1899. Rượu rất ngon. Calpurnia Virginia Tate. Ông nhìn dòng nhận xét của tôi. Tôi lại nấc cục. “Calpurnia,” ông nhìn tôi và bảo, “làm nhà khoa học, cháu phải nói thật về quan sát của mình.” Rồi ông đưa lại cây viết cho tôi. Tôi viết tiếp: Có thể gây ho. Tôi thừa nhận rằng giây phút đó chẳng hay ho chút nào cả. Nói thật, tôi xém đi đời rồi đó chứ, nhưng tôi không thể viết như vậy được. Ông xoay cuốn sổ lại, nhìn qua rồi mỉm cười. “Tất nhiên,” ông nói, “lỗi tại ông cả. Ông nghĩ hai ông cháu mình không nên nói cho Margaret hay Alfred về việc này. Ðáng tiếc là họ chẳng hiểu gì về nguyên lý của yêu cầu khoa học hay những sự hi sinh mà một người phải sẵn sàng bỏ ra như thế nào cả.” Tôi trố mắt nhìn ông nghĩ ngợi, Nói cho bố mẹ cháu biết? Ông điên rồi à? Như thế chắc cháu phải uống cả thùng luôn quá. Ngay lúc này tôi nghe cô Viola rung chuông, tới giờ tắm rửa để ăn tối. Tôi thấy đầu mình quay mòng mòng. Tôi nấc cục lần nữa và hai ông cháu lại nhìn nhau. “Này,” ông bảo. “Ăn thêm viên kẹo bạc hà nữa cho chắc ăn.” Hai ông cháu vào nhà, tôi nhanh chóng rửa tay và thay áo khoác mới, tránh không cho ai để ý. Tất cả mọi người tụ tập tại phòng ăn. Bố kéo ghế cho mẹ ngồi rồi mọi người cùng ngồi vào bàn. Chị SanJuanna bước vào đứng đợi bên cạnh tủ búp phê để phục vụ. Bố bắt đầu cầu nguyện và mọi người cùng cúi đầu. “Ơn Chúa, chúng con xin cảm ơn về...” Hic. Tôi nấc cục thật khẽ, chẳng có ai để ý ngoài mấy đứa em đáng ghét. Travis và Lamar bắt đầu chộn rộn, còn Jim Bowie thì lén nhìn tôi qua kẽ tay. Mẹ trừng mắt nhìn làm chúng lắng lại. “...về những mùa bội thu và cho bữa ăn này, đã...” Hic. Mấy anh em lại xôn xao. “Calpurnia. Mấy đứa. Im lặng đi,” mẹ suỵt bọn tôi. “Con xin lỗi mẹ,” tôi lí nhí. Tôi biết mình lại sắp nấc cục lần nữa và tôi không thể kiềm chế được, nhưng dù vậy tôi vẫn cố nín thở, cố gắng chịu đựng. “...đã nuôi sống chúng con bằng lòng tốt của Ðức Chúa...” Tôi lại nấc cục, lần này rõ to. HIC. Ôi, mấy anh em nhốn nháo cả lên. Ông nội thì chăm chú đưa mắt lên trần nhà. “...ôi Chúa ơi, chuyện gì thế này!” bố bối rối thốt lên. Mẹ quẳng chiếc khăn ăn lên bàn rồi hét lên “Ðủ rồi nhé! Con bị mắc chứng gì vậy? Bộ con lớn lên trong chuồng bò à? Ði về phòng ngay. Mấy đứa còn lại tự biết thân biết phận lấy nhé, không thì sẽ bị phạt lên lầu như nó. Mẹ chưa từng thấy hành động nào kinh tởm như vậy trong lúc đọc kinh trước giờ cơm. Trước giờ ngay cả trong gia đình này cũng chưa từng có!” Tôi rất muốn giải thích rằng tôi chẳng thể nào kiềm chế được chứ không phải do cố ý, nhưng làm vậy đồng nghĩa với việc lật tẩy bí mật của ông nội và tôi, và tôi sẽ vỡ tim hoặc giày vò trong khốn khổ trước khi nói ra được sự thật. Lúc tôi đứng dậy rời khỏi bàn ăn thì ông nội đang vờ dòm chiếc đèn treo trên trần nhà, ngón tay trỏ thì miết miết bộ ria. Khi tôi đi ngang qua mẹ, bà hỏi, “Mùi gì thế nhỉ?” “Bạc hà ạ,” tôi lầm bầm rồi tiếp tục cất bước. Tôi thấy hưng phấn và đột nhiên muốn chợp mắt một lúc. Trong lúc lê bước lên cầu thang, tôi nghe bố đang bắt đầu cầu nguyện lại từ đầu. Chả buồn suy nghĩ, tôi nhốt mình vào phòng rồi leo lên chiếc giường bằng đồng cao nghệu của mình. Tôi ngủ thiếp đi, một lúc sau tôi ngáy một tiếng thật to và tự choàng dậy. Mặt trời đã lặn, tôi nghe tiếng mấy anh em rục rịch chuẩn bị đi ngủ, vậy là đang khoảng 8 giờ tối. Ðống lửa trong ruột tôi đã phần nào dịu đi. Tôi ngồi dậy và chợt thấy bụng đói cồn cào. Còn 1 tiếng nữa mới tới giờ ngủ, liệu tôi có thể lẻn đến tủ đựng thức ăn mà không bị mẹ phát hiện không nhỉ? Thật là khó quá! Chợt cửa mở ra, tiếng tách nhẹ vang lên làm gián đoạn kế hoạch của tôi. Là mẹ lên mắng mỏ hay Harry đến cứu tôi đây? Nhưng cả hai đều không phải. Người mở cửa là Travis, đứa em trai 10 tuổi của tôi, nó đang ôm trong tay lứa mèo mới đẻ được đặt tên theo mấy tên cướp có súng tiếng tăm lừng lẫy, mấy lứa cũ thì được đặt theo mấy tên khác ít tên tuổi hơn. “Nhìn này chị,” nó thì thầm rồi dúi một con vào tay tôi, “em cho chị mượn Jesse James này. Em thích nó nhất đấy nhé. Nó sẽ làm cho chị bớt buồn.” Rồi nó chạy ào xuống nhà như không muốn bị bắt quả tang vì vừa nói chuyện xong với một tên tù nhân mới bị quy án. Dù sao thì Jess James cũng làm tôi nguôi ngoai phần nào. Tôi ôm nó lên giường, nó gừ gừ bên má tôi rồi khều khều vai tôi. Lúc tôi vừa lơ mơ vào giấc ngủ thì lại có tiếng gõ cửa. Lần này là ông nội, có vẻ khá nghiêm trang. Ông đứng ngay ngưỡng cửa, trong tay là hai quyển sách dày cộp. “Vài thứ cho cháu đọc trong thời gian bị lưu đày này,” ông bảo. “Cảm ơn ông,” tôi đáp rồi đóng cửa lại, còn ông thì cắm cúi về phòng. Tại sao giờ này ông lại đem sách đến cho tôi nhỉ? Tôi đang đói rã ruột, làm gì có tâm trạng để đọc sách cơ chứ, mặc dù cuốn thứ nhất có tựa Những kì vọng tuyệt vời khá hấp dẫn. Còn cuốn thứ hai có tựa Cơ bản về kinh tế ruộng đất miền Nam thì không hay ho chút nào cả. Nhưng nó lại là lạ, không giống sách cho lắm. Cuối cùng, tôi khám phá ra nó là một chiếc hộp gỗ được khéo léo chạm khắc, nhìn như một quyển sách được bọc da. Lạ nhỉ! Tôi nghịch ngợm một lúc thì tìm thấy chỗ mở, bên trong là chiếc bánh sandwich bò gói trong miếng giấy sáp. Tôi lấy miếng sandwich ra, ôm quyển sách Những kì vọng tuyệt vời rồi nhảy lên giường trong tâm trạng phấn khích tột độ. À á a. Chăn êm nệm ấm, sách, mèo con, sandwich, cuộc sống này còn đòi hỏi gì hơn nữa chứ. Nửa tiếng sau, bố gõ cửa, thì thào, “Callie ơi?” Tôi muốn được yên tĩnh một mình nên kéo chăn trùm kín hết tất cả lại kể cả Jesse James làm nó meo meo phản đối. Rồi tôi quay mặt vào tường giả vờ ngủ. Bố vào phòng, đứng một lúc rồi bỏ đi, không quên thổi tắt đèn dầu. Việc này làm tôi bực chết đi được vì đâu được trữ diêm quẹt trong phòng, nên bây giờ chả còn cách nào khác là phải đi ngủ thôi. Ngoài ra, ngày mai lại đến tiết học đàn dương cầm, tốt nhất là nên nghỉ ngơi và tập trong trạng thái tốt nhất để không làm phật lòng cô Brown. Tôi nằm ngẫm nghĩ lại mọi việc vừa xảy ra trong ngày hôm đó. Cổ họng tôi vẫn khô rát nhưng lòng ngập tràn vui sướng vì trong mấy anh em, tôi nghĩ rằng mình là người đầu tiên được uống rượu. Sau này, tôi phát hiện ra thuốc bổ của mẹ với cái tên Hợp chất Thực vật cho Phụ nữ của Lydia Pinkham chứa gần 20% độ cồn. CHƯƠNG 6 TIẾT HỌC DƯƠNG CẦM Thật khó để luôn phải nhớ rằng sự tăng trưởng của những vật thể sống luôn bị kìm hãm bởi những vật thể vô định hung hiểm khác... RỒI MÙA HẠ TIẾP TỤC TRÔI ĐI, cho tôi tận hưởng sự mát mẻ của dòng sông và không gian mờ tối trong phòng thí nghiệm của ông nội. Nội dung trong quyển Sổ Tay của tôi tiến triển rất tốt, ngày càng chứa đầy những Câu Hỏi và thỉnh thoảng chen vào vài Ðáp Án, cùng những hình vẽ nguệch ngoạc của vài loài thực vật và động vật. Mặc dù hấp lực của biết bao nhiêu hoạt động mới nhưng tôi vẫn không được phép bỏ tiết học dương cầm. Cô Brown, cô giáo dạy đàn dương cầm của bọn tôi, dáng người gầy gò như que củi khô nhưng mỗi khi không thấy ai để ý, cô vẫn đủ sức ra đòn chí mạng bằng cây thước trong tay. Ðôi lúc cô quất vào cùi chỏ tôi mạnh đến nỗi hai tay tôi đập xuống phím đàn làm vang lên những hợp âm chói tai ngay giữa bản nhạc. Chẳng biết nếu mẹ ngồi may vá ở phòng bên thì có khi nào bà thắc mắc về những tiếng động ghê sợ này hay không nữa. Nhưng vì một lý do nào đó, tôi chưa bao giờ mách với mẹ về đòn roi của cô Brown. Tại sao lại không nhỉ? Có lẽ sâu trong lòng tôi, có một nỗi xấu hổ nào đó không giải thích được đã cho phép những hành vi giáo dục mang đầy tính xúc phạm này diễn ra. Và sự thật là không phải cô Brown ra tay một cách vô lý. Cô chỉ tức giận ra đòn mỗi khi tôi lỡ đánh sai bài nhạc mà tôi đã tập nhuần nhuyễn trong suốt tuần. (Nhưng dĩ nhiên, đòn roi cũng chẳng cải thiện được điều gì cả.) Song tôi đúng là một con chết nhát ngoại hạng, chỉ biết nuốt căm hờn vào lòng, chẳng bao giờ dám thổ lộ với ai. Mà vì sao chỉ có tôi và Harry phải chịu đựng tiết học văn hóa khốn khổ này mỗi tuần nhỉ? Còn mấy đứa kia thì lúc nào cũng được tung tăng. Tôi hay chơi nhạc của Stephen Foster cho bố, Vivaldi cho ông, mà ông cũng thích Mozart nữa. Ông thường ngồi ở phòng khách, lúc thì đọc sách, lúc thì nhắm mắt thưởng thức tiếng đàn của tôi. Mẹ thì thích Chopin. Còn cô Brown chỉ để ý đến việc tôi có đánh đúng thang âm hay không mà thôi. Về sau tôi học những bản nhạc của Scott Joplin cho chính mình. Mẹ nghe xong chỉ nhăn mặt lắc đầu ngao ngán, nhưng tôi mặc kệ. Ðó là những bản nhạc hay nhất mà anh em tôi từng được nghe, với những âm giai réo rắt và những nhịp ngắt sôi động, bắt buộc người nghe phải đứng dậy nhảy múa theo. Mấy anh em đều bắt đầu chạy nhảy mỗi khi tôi tấu lên khúc dạo đầu của “Khúc nhạc chiếc lá cây gỗ thích”. Chúng lắc lư điên cuồng đến nỗi mẹ cứ lo cuống lên cho mấy bức tranh treo tường. Sau này nhà tôi sắm thêm chiếc máy hát và tôi cũng được nhảy nhót cùng. Mấy đứa em rất mong được bật máy quay đĩa và luôn năn nỉ được thay đĩa, nhưng luôn phải canh chừng - chúng là những “sát thủ” lập dị mà. Bản nhạc Jim Bowie thích nhất là “Mèo con trên phím đàn”. Nó lùa một trong số mấy con mèo lên phím đàn rồi dùng miếng thịt nguội để dụ nó đi tới đi lui trên đó. J.B. nghĩ đó là một trò đùa thú vị. Chắc khi 5 tuổi bạn sẽ nghĩ như vậy thật. Không nhìn cũng đoán được là mẹ tức giận đến mức nào khi chứng kiến cảnh đó (và tôi cũng vậy mặc dù chưa tỏ ra bực bội bao giờ), nhưng điều này lại càng làm cho J.B. khoái chí hơn. Mỗi lần như vậy mẹ lại phải tự làm dịu mình bằng vài muỗng Lydia Pinkham. Có lần Sul Ross hỏi mẹ rằng khi tôi lớn lên thành phụ nữ thì tôi có được uống Lydia Pinkham, bà trả lời một cách bí ẩn, “Mẹ mong rằng Callie sẽ không phải cần đến nó.” Cô Viola thường đứng trong bếp hát bè với tôi bài “Khó khăn không trở lại,” nhưng cô lại từ chối nghe nhạc của Scott Joplin. “Thứ nhạc vớ vẩn,” cô khụt khịt phán làm tôi thấy lúng túng. ĐÃ ĐẾN THỜI ĐIỂM CÔ BROWN phải giới thiệu học trò của mình trong buổi diễn tấu được tổ chức thường niên tại Tiền Sảnh của Liên Hiệp Anh Hùng ở Lockhart. Lần đầu tiên, cô Brown cảm thấy rằng tôi đủ tiêu chuẩn để được tham gia vào sự kiện này. Sự thật chắc phải năm sau tôi mới dám đề nghị với cô về điều đó. Harry đã biểu diễn 6 năm liên tiếp và bảo tôi rằng nó dễ như bỡn. Chỉ cần tránh ánh đèn trước sân khấu vì nó có thể làm tôi chói mắt và mất bình tĩnh. Còn một việc nữa là tôi phải học thuộc lòng một bản nhạc. Cô Brown cho tôi tập bản “Ðiệu nhảy Ê-Cốt cung Sol trưởng” của Beethoven, và thật lạ lùng, hợp âm của nó hoàn toàn không giống với nhạc của Joplin. Ôi, còn tiếng vụt của cây thước càng làm vấn đề thêm trầm trọng. “Cổ tay hạ thấp xuống! Các ngón đưa lên! Nhịp, nhịp, nhịp!” Crắc. Tôi học thuộc bản nhạc trong thời gian kỉ lục, chẳng mấy chốc nó đã theo tôi vào tận trong giấc ngủ. Và không một lời nào lý giải được, tôi bắt đầu thấy ghét nó. Lula Gates, bạn thân của tôi, phải học một bài dài gấp đôi, nhưng nhỏ ấy lại chơi hay hơn tôi cả 10 lần. Cho dịp trọng đại này, mẹ may cho tôi một chiếc đầm thêu đăng-ten màu trắng với nhiều lớp vải lót thô cứng, ngứa ngáy. Vẫn chưa phải đeo nịt ngực nhưng mặc nó cũng tương đương với cực hình rồi. Tôi ca cẩm về chiều dài của chiếc váy rồi ngồi gãi chân điên cuồng. Tôi còn được cho một đôi ủng nhỏ màu kem nhạt. Mất bao nhiêu thì giờ để cài được cái móc nhưng một khi mang vào thì trông rất đẹp, và tôi chỉ giữ sự thích thú đó trong lòng mình mà thôi. Cô Brown chỉ cho tôi cách chào khán giả, hai tay nắm váy xòe ra rồi khẽ nhún đầu gối xuống một chút. “Không được,” cô quát, “đừng có nắm váy như một con nhà quê như thế. Hãy nghĩ rằng mình đang xòe cánh ra như một thiên thần ấy. Thế này này. Rồi, nhún người xuống đi. Chậm thôi! Ðừng có tụt hết cả người xuống thế chứ, con bé này - cháu đâu phải đứng trên tảng đá đâu.” Rồi cứ thế cô bắt tôi tập dượt lại thật nhiều lần đến khi vừa ý mới thôi. Kế tiếp đến việc Tạo Dáng Cho Tóc. Rốt cuộc mẹ cũng nhận ra rằng tóc tôi không đủ dài như trước, nhưng tôi vội giải thích rằng nó bị rối tung lên suốt mùa hè vì bị mấy quả hạt gai bám vào làm tôi phải cắt đi một ít để bỏ đi cái đống rối bời như tổ chuột ấy. Mẹ nghe câu chuyện với ánh mắt đầy nghi ngờ nhưng cũng chẳng hỏi han gì thêm. Mẹ liền kêu cô Viola tới giúp, rồi họ cùng nhau chải, xoắn tóc đủ kiểu, thảo luận rôm rả với nhau suốt cả giờ liền cứ như tôi chẳng có mặt trong căn phòng này vậy. Tôi không ngờ rằng có thể mất ngần ấy thời gian cho việc làm tóc. Dĩ nhiên tôi chẳng dám phản kháng gì vì biết rằng đây cũng là hình phạt cho cái tội lén cắt tóc rồi ngụy biện của tôi. Sau đó họ đổ không tiếc tay dầu dưỡng tóc Peabody, đảm bảo tạo ra những mớ tóc óng ả, rồi phơi tôi ngoài nắng cả giờ đồng hồ với mớ dầu bôi trơn tóc nhờn nhờn kinh sợ như mùi lưu huỳnh trên đầu. Thứ này, tôi thầm nghĩ, thứ này là cái mà những quý bà phải chịu đựng hay sao? Ðiều an ủi duy nhất là ông nội thấy được hoàn cảnh tội nghiệp của tôi nên đền bù bằng một cuốn sách, Sự đối lập giữa hai cô nàng Flora và Fauna quyến rũ. Hình bìa là một con chuột túi với đứa con đang thò đầu ra từ chiếc túi trước bụng nó. (Câu Hỏi: Vì sao con người lại không có túi? Nó thật tiện lợi trong việc mang con nhỏ. Rồi tôi cố tưởng tượng J.B. nằm trong túi trước bụng mẹ. Ðáp Án: Không thể nào nhét vừa nó dưới áo ngực của mẹ được.) Tôi ước ao được thấy một chú chuột túi ngoài đời. Và cả thú mỏ vịt nữa, một loài động vật có vú được kết hợp một cách kỳ quái giữa rái cá và vịt. Tôi cũng đã may mắn từng được thấy hà mã trong gánh xiếc ở Austin, nên mơ ước được thấy hai con vật kia chắc cũng không quá lạ lùng. Tôi ngồi suy ngẫm về những cơ hội của mình và trong tim ngọn lửa khát khao âm thầm bùng cháy, và đầu tôi bốc mùi nồng nặc như một que diêm khổng lồ dưới ánh nắng mặt trời thiêu đốt. Sau cùng, họ cho tôi ngồi vào bồn tắm rồi thay phiên nhau xối từng xô nước lên khắp người tôi. Ðoạn họ vò đầu tôi cho thật sạch rồi buộc thành những lọn tóc quăn bằng mấy mảnh vải cotton, chúng chĩa ra xung quanh đầu tôi như một đống băng bó gớm ghiếc. Tôi nhìn chả khác gì một thương binh, khắp người tỏa mùi lưu huỳnh nồng nặc. Tưởng tượng thêm chút nữa thì tôi còn trông giống quỷ hiện hình trong loạt phim H-ll. Tội nghiệp Jim Bowie, nó khóc thét lên khi trông thấy tôi làm tôi phải bế nó lên đùi dỗ dành, cố làm cho nó hiểu rằng tôi chẳng bị thương chỗ nào cả. Còn Sul Ross thì cứ gọi tôi là Mụ Già Golliwog (một loại thú nhồi bông da đen, tóc xù) đến khi tôi bắt được và ngồi lên mình nó thì thằng bé mới chịu thôi. Lamar thì chỉ khúc khích, đến Harry cũng phải phì cười. Nhưng thật ra, tôi cũng vui khi được làm tâm điểm chọc cười cho các anh em trai của mình. Ðêm đó tôi chẳng thể nào ngủ ngon với cái đống giẻ lùng nhùng trên đầu, kết quả là sáng hôm sau tôi thức dậy trong bộ dạng xộc xệch, bơ phờ, mệt mỏi. Ðã bỏ bao công sức nên mẹ không muốn đầu tóc tôi không hoàn chỉnh trước khi tới Lockhart, và tôi lại tiếp tục chịu đựng sự xấu hổ khi phải mang thêm chiếc mũ xếp nếp khổng lồ trùm lên trên mớ giẻ đó suốt quãng đường ngồi xe ngựa. Ðầu tôi to đùng, trông tôi thật dị dạng; nhìn tôi lúc này giống ông anh mắc bệnh si khờ Toddy Gates của Lula Gates, trong não của anh ấy chứa đầy nước. (Câu Hỏi trong Sổ Tay: Nước trong não của Toddy từ đâu ra? Phải chăng cô Gates đã uống quá nhiều khi mang bầu anh ấy?) Tôi cầu nguyện rằng không đụng mặt người quen, để rồi sau đó tự cảm thấy tội lỗi khi làm phiền Chúa về chuyện phù phiếm này trong khi Ngài đang bận trăm công nghìn việc quan trọng khác. Phải thừa nhận rằng càng tới gần Lockhart tôi càng căng thẳng hơn, nhưng Harry cứ không ngừng bảo tôi mọi chuyện sẽ dễ dàng thôi chứ không việc gì phải lo lắng như thế. Ðến nơi, khi ngựa vừa dừng vó là tôi nhảy vọt xuống xe và chạy vòng ngay ra cửa sau trước khi tôi có thể tập hợp được một đám đông chú ý. Mẹ và cô Viola lục tục đuổi theo sau với chiếc giỏ chứa nào là ruy-băng, kẹp ngắn, kẹp dài. Họ cho tôi yên vị trên chiếc ghế đẩu rồi bắt đầu tháo đống giẻ trên đầu tôi ra. Xung quanh còn mấy đứa con gái khác cũng bị hành hạ như vậy nên tôi cũng cảm thấy an ủi phần nào. Cô Ogletree còn chải chuốt cho bé trai Georgie và khoác lên mình nó bộ vest xanh tím Little Lord Fauntleroy lịch lãm. Nó cứ nhún nhảy ra vẻ thích thú trên ghế, mấy lọn tóc vàng quăn nhìn như xúc xích đong đưa quanh cổ áo bằng vải lanh. Lula run bần bật và giữ chặt chiếc thùng thiếc vào ngực cứ như sắp đổ bệnh đến nơi. Còn chị em sinh đôi giống như hai giọt nước Hazel và Hanna Dauncey thì mặt mày xanh như tàu lá, đầy u ám. Nhưng trông thấy ai cũng lo sợ như thế này lại phần nào làm tôi cảm thấy an tâm hơn. Lúc này, cô Brown lướt vào trong bộ áo dài màu lục nhạt, trông không hợp với cô tí nào, vỗ tay tập hợp. “Xin quý phụ huynh và các em vui lòng chú ý!” Sự im lặng đột ngột bao trùm. Không ai dám liếc ngang liếc dọc, không tiếng khúc khích, sột soạt, ngay cả nhóc Georgie hiếu động cũng im bặt. Tôi chợt nhận ra rằng tất cả học sinh đều sợ cô Brown một phép chứ chẳng riêng gì tôi. Tại sao như thế nhỉ, tôi thầm nghĩ, vậy là học trò nào cũng bị cô đánh, chắc chỉ trừ Harry ra thôi. Vậy là tôi không phải trường hợp cá biệt, thật lạ. “Trong vòng 10 phút các em sẽ xếp hàng từ nhỏ đến lớn,” cô Brown bảo, “rồi di chuyển trật tự theo cô vào thính phòng - nhớ là phải đi ngay hàng thẳng lối nghe chưa. Sau đó các em sẽ ngồi vào hàng ghế sau sân khấu chờ đến lượt mình biểu diễn. Không được nói chuyện, nhúc nhích cựa quậy và đặc biệt là không được đùn đẩy. Tất cả nghe rõ chưa?” Mọi người đều nín lặng gật đầu. “Ðừng quên cúi đầu hay khẽ nhún đầu gối chào sau khi trình diễn xong đấy nhé. Các vị phụ huynh lưu ý, 10 phút bắt đầu.” Sau đó cô quay lưng lướt ra ngoài, không quên hất đuôi váy bằng động tác quen thuộc. Mẹ và cô Viola lại bắt đầu lao vào tôi vò đầu bứt tai khẩn trương hơn lúc nào hết với lược và kẹp gài tóc. Cuối cùng, cả hai lùi lại chiêm ngưỡng tác phẩm của họ. “Ðấy, bây giờ con đẹp như tranh ấy, nhìn này, mẹ chẳng còn nhận ra con nữa.” Mẹ nói rồi đưa gương cho tôi soi. Cả tôi cũng không còn nhận ra bản thân nữa khi trên đầu mình đang chênh vênh một công trình tóc đồ sộ được trau chuốt kĩ lưỡng. Phần tóc mái dựng đứng lên như vách núi quá cao, rồi được cuộn vào một tổ hợp đầy kẹp trên đỉnh, tất cả đều chất trên một mớ tóc thắt bím; xung quanh là những lọn tóc quăn to đùng thả lòng thòng ngang lưng. Trên chóp chễm chệ một nơ bướm bằng vải satin to vật vã. Cả mẹ và cô Viola đều gật gù hài lòng. Họ chẳng màng hỏi cảm nghĩ của tôi, nếu không thì câu trả lời sẽ là... thật kinh khủng. “Thấy đẹp không con?” mẹ hỏi. Tay tôi bất giác đưa lên đầu. “Ðừng có động vào đấy,” cô Viola quát. “Ðộng vào là chết đấy nhé.” Rồi cô dọn dẹp đồ đạc trong khi mẹ trò chuyện với cô Gates. Tôi len lén dòm qua Lula rồi thì thầm, “Lula này, cậu ổn chứ?” Lula nhìn tôi bằng đôi mắt to màu hạt dẻ rồi gật đầu nhưng không-thể-mở-lời. Tôi nhận thấy mình đang ghen tức vì Lula không bị tra tấn về đầu tóc; mái tóc vàng bạch kim nhợt nhạt của Lula được thắt thành hai chiếc bím gọn gàng sau lưng. Tôi cố pha trò để Lula bớt căng thẳng. Tôi hích nhẹ bạn ấy rồi thì thào, “Nhìn họ làm đầu tóc tớ ra nông nỗi này nè, tệ đến thế là cùng đúng không?” Nhưng môi của Lula cứ mím chặt lại, chỉ phản ứng bằng một hơi thở dài run rẩy qua mũi mà thôi. Lúc này tôi có cảm giác như bạn ấy quên mất phải nói tiếng mẹ đẻ như thế nào rồi thì phải. “Lula này,” tôi bảo, “cậu sẽ ổn thôi mà. Cậu đã tập đoạn nhạc đó hàng triệu lần rồi, bây giờ thì hít thở sâu vào. Còn nếu không cảm thấy đỡ hơn thì đã có cái xô của cậu mà.” Rồi tôi nhìn ra xung quanh, thấy Harry đang đứng trước gương, đầu vuốt sáp thơm mùi oải hương bóng nhẫy, tẩn mẩn chải đi chải lại mái tóc. Từ trước đến nay tôi không hề biết Harry lại quan tâm đến bề ngoài như vậy. Harry là học sinh lớn tuổi nhất nên anh sẽ chơi cuối, nhưng anh ấy vẫn phải ngồi trên sân khấu chờ đợi tất cả bọn tôi. Một lúc sau, cô Brown trở lại, các phụ huynh dặn dò con cái lần cuối rồi hối hả ra ngoài. Lời thì thầm cuối cùng văng vẳng bên tai tôi của cô Viola: “Ðừng có động vào đầu tóc nhé. Cô nói nghiêm túc đấy.” Bọn tôi im lặng xếp thành hàng dọc, không hó hé lời nào, chẳng cựa quậy, cũng chẳng đùn đẩy nhau. Từ cuối hàng, Harry nháy mắt khích lệ tôi. Còn trước mặt tôi, Lula run rẩy hết từ đầu đến chân, cả hai bím tóc của bạn ấy cũng lẩy bẩy. “Lula,” cô Brown nghiêm trang bảo, “em để cái xô đó xuống đi.” Lula chẳng nhúc nhích nổi. “Calpurnia, lấy cái xô khỏi tay bạn ấy đi.” Tôi vỗ vai Lula rồi bảo, “Lula, đưa cho tớ nào. Tới giờ rồi.” Bạn ấy nhìn tôi kháng cự trong im lặng. Cuối cùng tôi phải giật nó ra khỏi đôi tay ướt đẫm của Lola. Cô Brown mở cửa bên hông của thính phòng, cả bọn diễu hành theo sau, tiếng bước chân vang vang như một cơn mưa nặng hạt trên mái tôn. Một tràng pháo tay chợt vang lên làm Lula giật mình chùn bước như chú nai vàng ngơ ngác. Lúc đó, tôi có cảm giác bạn ấy sẽ quay lưng bỏ chạy mất. Trong đầu tôi chớp nhoáng hiện ra những phép tính nhẩm về những khả năng tôi bị khiển trách nếu chuyện đó xảy ra, nhưng thật may mắn, Lula đã giữ được bình tĩnh và tiếp tục cất bước. Chợt tôi trông thấy cô Brown đang uy nghi bồng bềnh bay lên từ phía đầu hàng. Tại sao nhỉ? Bằng cách nào vậy ta? Chuyện gì đang xảy ra thế này? Mất một giây sau tôi mới chợt nhớ ra rằng có mười mấy bậc thang trước sân khấu, và đơn giản là cô đang bước lên mà thôi. Ôi những bậc thang! Tôi quên mất là trên đời này còn tồn tại những bậc thang, hàng trăm hàng ngàn bậc ấy chứ. Tôi vẫn thường trông thấy chúng nhưng không để ý tới, và trong tâm nhãn của tôi thì không phải lúc nào chúng cũng hiện diện. Bỗng chân tôi lảo đảo, tôi cảm thấy nóng lạnh từng cơn. Lula lướt lên trước mặt tôi chẳng có vấn đề gì cả. Tôi sợ hãi bước theo và chẳng biết bằng cách nào đã lên tới nơi mà không bị té dập mặt. Rồi tôi dừng chân ngay khi thấy được ánh đèn đánh dấu mép của bục sân khấu. Khi bọn tôi ngồi xuống ghế, tràng pháo tay chợt tan biến như một cơn giông vừa đi qua. Cô Brown ra tận mép sân khấu, khẽ nhún người chào khán giả. Cô bắt đầu bài diễn văn ngắn gọn về sự kiện trang trọng này, về nền văn hóa đã hội nhập vào tỉnh Caldwell, à, còn về những tâm hồn và những ngón tay trẻ trung đã truyền đạt lại tác phẩm của những nhà soạn nhạc lừng danh ra sao, và cô luôn muốn phụ huynh thấy được mình đã nhọc tâm đào tạo con em của họ biết trân trọng Sự Kì Diệu Của Cuộc Sống này như thế nào, trong khi tất cả chúng ta còn tồn tại trên bờ vực của vùng Wild Frontier này. Cô nhận được một tràng pháo tay nhiệt liệt rồi trở về chỗ ngồi. Bọn tôi bắt đầu bước ra biểu diễn từng người một, sự tự tin cứ bay đi đâu mất khỏi tâm hồn, còn nỗi sợ hãi cứ làm cơ thể như tê liệt. Có cần tôi phải thuật lại cho bạn nghe về diễn biến buổi biểu diễn không? Thật là một sự đại bại. Có phải kể cho các bạn nghe rằng Georgie ngã ngửa khỏi ghế đàn không kịp đánh lấy một nốt nhạc, rồi bỏ chạy và nức nở trong vòng tay mẹ; Lula thì kết thúc phần biểu diễn một cách hoàn hảo nhưng bệnh nặng ngay sau đó; còn Hazel Dauncey trượt chân khỏi bàn đạp trước khi chơi tạo ra một tiếng sprrrroiiiiiinnnggg inh ỏi khắp thính phòng; anh Harry thì chơi tốt nhưng chẳng hiểu vì lý do gì mà cứ nhìn về một nhóm khán giả; còn về phần tôi thì chơi như một cái đồng hồ lên dây cót với mấy ngón tay bằng gỗ và còn quên nhún mình chào làm cô Brown phải xùy hơi nhắc nhở? TÔI KHÔNG NHỚ rõ lắm về những việc xảy ra hôm đó, hay nói đúng hơn là tôi cố gắng xóa nó ra khỏi kí ức của mình. Nhưng tôi nhớ rất rõ là trên đường trở về, tôi đã tự thề với lòng rằng sẽ không bao giờ tham gia thêm một lần nào nữa. Về nhà tôi lặp lại lời thề này cho bố mẹ nghe, và có vẻ lời nói của tôi có trọng lượng. Năm tiếp theo, cho dù mẹ có cố gắng đến mức nào thì tôi cũng từ chối, và cả Lula cũng vậy, bạn ấy may mắn lắm mới sống sót sau khi tham gia buổi biểu diễn đó. CHƯƠNG 7 HARRY CÓ BẠN GÁI Nhiều chủng loại trong cùng một loài... đôi khi lại có những đặc tính khác nhau... Thường có những bộ phận cực kì khác biệt nhau. KHÔNG LÂU SAU BUỔI TRÌNH DIỄN DƯƠNG CẦM, hiểm họa lại xuất hiện và rình rập gia đình tôi. Tôi lờ mờ nhận ra rằng một ngày nào đó Harry sẽ phải cưới vợ và có gia đình riêng, nhưng tôi đoán việc đó chắc phải vài chục năm sau nữa mới xảy ra. Nói cho cùng, Harry cũng đã có gia đình lớn này rồi cơ mà, đặc biệt là tôi, con thú cưng của anh ấy. Vài ngày sau thất bại ở Lockhart, Harry bắt đầu biểu hiện lạ lùng. Anh cứ nhìn thơ thẩn vào không trung, nét mặt thì đờ đẫn đần độn đến nỗi nhìn là muốn tát cho vài bạt tai. Ai hỏi gì anh ấy cũng chẳng mảy may trả lời, hồn phách cứ bay đi đâu mất. Tôi chẳng hiểu chuyện gì đang xảy ra nhưng đây chắc chắn không phải anh trai Harry thông minh, yêu dấu của tôi. Đây chỉ là bản sao yếu đuối và nhạt nhẽo của Harry mà thôi. Tôi chặn Harry lại ở hiên nhà, “Harry à.” “Gì đấy?” “Harry! Chuyện gì xảy ra với anh vậy? Anh bị ốm hả? Anh có làm sao không?” “Ừm,” Harry nhoẻn miệng cười đáp lại. “Anh có sao không? Có cần đi bác sĩ không vậy?” “Đừng lo cho anh. Anh không sao cả. Thật ra anh đang cảm thấy rất phấn chấn đó chứ,” Harry đáp. “Vậy đó là chuyện gì?” Harry cười bí hiểm rồi lôi trong túi ra một tấm danh thiếp loại mới có in chân dung. (theo lời mẹ thì nó là “Sự kệch cỡm cao cấp”.) Nhìn chân dung xem nào. Một phụ nữ trẻ (chắc chắn không còn là thiếu nữ) với đôi mắt lồi to; chiếc miệng nhỏ mềm mại ướt át hợp thời trang; cần cổ thon dài; cả một đống tóc đưa ra trước nhìn như một đóa bồ công anh căng phồng trước khi bị gió cuốn phăng đi. “Ôi thật là một nàng tiên,” anh thốt lên bằng giọng nói như bị nghẹn mà tôi chưa từng nghe thấy trước đây và thoáng nghe đã ghét ngay. Và tôi cũng ghét cô ta ngay tức khắc khi trông thấy một sự thật rõ ràng về ả: một mụ phù thủy độc ác, một ả đàn bà luồn cúi, một kẻ đói khát thịt tươi của những anh em trai yêu dấu. Chính xác là Một Kẻ Phá Hoại Hạnh Phúc Của Gia Đình Tôi. Và bóp nát hạnh phúc của chính tôi nữa. Tôi nhìn chăm chăm vào con quỷ hiện hình này. “Nàng tiên ư?” đầu óc tôi quay cuồng. Harry đang dần dần bốc hơi trước mắt tôi, và tôi phải tìm cách ngăn chặn cuộc bắt cóc man rợ này mới được. Ý nghĩ của tôi phân tán khắp nơi như bầy ong vỡ tổ, phải một lúc sau tôi mới tập trung tư tưởng lại được. Nhưng trước khi ra tay, tôi phải suy nghĩ cho thật chín chắn. “Anh gặp chị ấy ở đâu vậy Harry?” tôi hỏi vô tư như những điệp viên vẫn thường làm như vậy. Ngay lập tức, sự đờ đẫn trong mắt Harry biến mất và anh ấy phấn chấn hẳn lên. Chắc hẳn tôi đã gãi trúng chỗ ngứa rồi đây, nhưng chẳng biết lý do chính là gì. “Thế nào nhỉ, ừm, đêm ấy anh ăn khuya gần Prairie Lea. Bọn họ thấy anh và mời lại ngồi ăn cùng.” Xem nào, có hai nhà thờ ở Prairie Lea: Nhà thờ Tin Lành được cho phép vào, còn Nhà thờ Độc Lập thì không. Những người địa phương Ngoại Đạo bị xem là rác rưởi và thuộc vào tầng lớp hạ lưu. Cả bố mẹ tôi, những con chiên ngoan đạo của Tin Lành cũng quan niệm như vậy. (Còn ông nội thì tỏ rõ rằng ông đã nghe quá nhiều bài thuyết giáo rồi nên bây giờ vào những ngày chủ nhật ông không đi lễ nhà thờ nữa mà chỉ thích lang thang ngoài đồng mà thôi. Mặc dù cha Barker thích sự có mặt của ông nhưng cũng đã thông cảm. Chỉ có mẹ là cảm thấy xấu hổ về điều này.) Có một hai lần gì đó mẹ từng đón tiếp người Ngoại Đạo trong nhà tôi và cứ cho họ là cá mè một lứa - cho dù điều đó có công bằng hay không, từ người nuôi rắn, tiều phu, người buôn xà phòng và cả những người nuôi gà nữa. Một phần tâm trí tôi như ngây dại ra, nghĩ vẩn vơ đến khi những hình ảnh đó trôi qua hết, tức thời, tôi sực tỉnh như một vị đại tướng quân tới lúc cần ra mệnh lệnh. Tôi chuẩn bị hết vũ khí, quan sát địa thế và xác định mục tiêu. Tôi như đang thấy rõ mồn một thời gian và không gian của cuộc chiến phía trước. “Gặp ở Nhà thờ Tin Lành chứ hả anh Harry?” tôi hỏi giọng ngọt như đường phèn. “Không, cô ấy thuộc Nhà thờ Độc Lập ở Prairie Lea.” Một dòng điện như vừa chạy qua cơ thể, địch thủ của tôi đây rồi. “Harry,” tôi hỏi với sự chân tình của một cô em gái. “Chị ấy là dân Ngoại Đạo à?” “Ừ đúng đấy, thì sao nào?” Harry đáp, đầy vẻ ương bướng. “Và đừng gọi họ như vậy, họ là những người Độc Lập.” “Anh nói cho bố mẹ biết chưa?” tôi hỏi. “Chưa.” Harry tỏ vẻ cáu kỉnh. Sự phủ đầu của tôi có vẻ có tác dụng. Nói rồi anh lại nhìn tấm hình, trông phấn chấn hẳn lên. “Chị ta bao nhiêu tuổi rồi?” tôi tiếp tục dấn tới. “Nhìn có vẻ già nhỉ!” “Đâu có già,” Harry thốt lên đầy phẫn nộ. “Chỉ mới thành niên được năm năm thôi.” Thành niên là mười tám tuổi, cộng năm nữa... “Vậy chị ấy hai mươi ba tuổi,” tôi thảng thốt - nhưng lại âm thầm mừng rỡ. “Vậy rõ ràng là bà cô rồi còn gì. Anh thì chỉ mới mười bảy tuổi thôi đấy.” “Điều này chẳng có nghĩa lý gì cả,” Harry đáp. Rồi anh giật tấm danh thiếp khỏi tay tôi và bực bội bỏ đi. Trong bữa ăn tối, Harry xin phép lấy xe ngựa, thắng con Ulysses và đưa nó ra ngoài đi tập. “Sao con không cưỡi nó luôn?” bố hỏi. “Con đâu cần kéo thêm xe làm gì.” “Lâu rồi nó đâu có đeo yên cương. Kéo thêm xe tốt hơn,” Harry biện hộ. Tới lúc tôi tiếp tục tấn công rồi đây. Tôi lên giọng hỏi, “Anh đi gặp chị ấy chứ gì?” Cả bàn đều nhận thấy đây là vấn đề hay ho và đồng loạt bất động. Tất cả mọi người trừ ông nội đều dừng ăn và tò mò nhìn Harry, cả mấy đứa em trai còn nhỏ chưa hiểu gì cũng bắt chước theo. Mẹ quay qua nhìn tôi rồi xoay lại nhìn Harry. Ông nội thì vẫn thản nhiên thưởng thức miếng thịt bò bít-tết của mình. Harry đỏ bừng mặt rồi ném cho tôi ánh nhìn “hãy đợi đấy”. Trước đây anh ấy chưa nhìn tôi như thế bao giờ; một ánh mắt như muốn ăn tươi nuốt sống đối phương làm tôi chột dạ, cảm giác như có ngàn cây kim đang đâm khắp người. “Đang nói về cô gái nào thế hả?” Mẹ hỏi. Con dao của ông nội kêu ken két trên đĩa ăn. Ông dùng chiếc khăn ăn lớn bằng vải nilen trắng tinh buông trên cổ ông chấm chấm nhẹ mù tạt. Ông nói giọng nhẹ nhàng với con dâu của mình, “Tốt đó, Margaret. Phải là ‘cô ấy là ai’, chứ không phải ‘cô gái nào thế’. Phải nói cho đúng ngữ pháp. Hẳn là con biết điều đó mà phải không?” Ông nhìn chằm chằm vào mẹ và nói, “Tại sao chứ, con bao nhiêu tuổi rồi, hả Margaret? Hình như cũng sắp 30 phải không? Bố nghĩ con đủ lớn để thông cảm chuyện này chứ,” nói rồi ông lại tiếp tục ăn. Mẹ tôi cũng ngoài 40 rồi, nhưng bà để mặc ông. “Trả lời đi chứ Harry?” mẹ hỏi và ném cho Harry một ánh mắt sắc lẹm. Da gà tôi nổi lên thành từng dề đỏ ửng. Tương lai của gia đình tôi đang trong cảnh ngàn cân treo sợi tóc. “Dạ, con định chở một cô gái - à không, một phụ nữ trẻ - ở khu cắm trại Prairie Lea đi chơi một vòng tối nay mẹ ạ,” Harry lắp bắp. “Chỉ một lúc thôi à.” “Ừm,” mẹ lạnh lùng hỏi, “vậy chính xác con nhỏ này là ai? Chúng ta có biết nó không và cả gia đình của nó nữa?” “Tên cô ấy là Minerva Goodacre. Gia đình của cô ấy ở Austin. Hiện giờ thì cô ấy đang ở chơi một tháng với dì và chú ở Prairie Lea.” “Vậy họ là ai?” mẹ hỏi tiếp. Tình hình ngày càng căng thẳng. “Là Mục sư Goodacre và vợ của ông ấy,” Harry đáp. “Con đang nói về Mục sư Goodacre của Nhà thờ Độc Lập ở Prairie Lea đó hả?” mẹ gằn giọng. Ôi, thế là dây đàn sắp đứt tới nơi rồi. “Vâng,” Harry mặt đỏ như trái gấc. Rồi anh từ từ lùi xa ra khỏi bàn ăn và chuồn thẳng, còn cố nói vọng lại, “Vậy nhé! Con sẽ về sớm.” Bố nhìn mẹ hỏi, “Chuyện gì vừa xảy ra vậy?” Lúc này mẹ mới để ý thấy mọi người đều ngồi há hốc mồm ra nên bực bội đáp, “Đôi lúc anh chậm hiểu quá đi mất Alfred ạ. Mình sẽ bàn bạc sau.” Sul Ross ngồi kế tôi, nó năng động hơn rất nhiều so với tuổi thật của nó, rêu rao: “Harry có bồ, Harry có bồ...” Nghe đến đây là mẹ đã tức sôi máu rồi. Tôi xùy nó, “Im đi Sully,” rồi thúc vào ba sườn nó một cú rõ đau. Chợt ông nội phá vỡ bầu không khí ngột ngạt, “Xong rồi đây. Thằng bé làm ta hơi lo rồi đấy. Tới lúc rồi, hôm nay món tráng miệng là gì ấy nhỉ?” Phải thừa nhận một điều cực kì thú vị là ta không biết được khi nào ông xuất hiện hoặc là ngược lại. Bữa tối như dài bất tận, món tráng miệng hôm nay vào miệng tôi chẳng khác nào đống tro. Đến khi SanJuanna dọn bàn thì mẹ lên tiếng, “Mọi người làm gì thì làm đi, riêng Calpurnia thì ở lại đây.” Mọi người lần lượt rút khỏi bàn ăn trong khi tôi nhấp nhổm không yên trên ghế. Bố châm điếu xì gà rồi rót một ly rượu vang lớn hơn bình thường. Còn mẹ thì có vẻ rất cần một ly như vậy để giữ bình tĩnh. “Nào, bây giờ nói đi Calpurnia, con biết gì về... quý cô này?” Tôi chột dạ nhớ lại ánh mắt của Harry rồi ấp úng. “Con chẳng biết gì đâu mẹ ạ,” những tiếng gọi rút quân gấp rút văng vẳng trong tâm trí tôi. “Nào, nói đi, chắc chắn Harry đã kể gì cho con nghe rồi.” “Con không biết gì thật mà,” tôi đáp. “Dẹp đi Calpurnia, nếu không thì làm sao con biết về cô ta? Mặt con bị sao vậy, nhìn bẩn thỉu quá.” “Harry chỉ cho con xem danh thiếp của cô ấy thôi ạ,” tôi đáp. “Danh thiếp?” Mẹ tôi lên giọng. “Cô ta còn có cả danh thiếp nữa cơ à? Cô ta bao nhiêu tuổi rồi?” “Con không biết gì mà,” tôi vẫn khăng khăng. Mẹ nhìn bố, “Alfred, con nhỏ đó có cả danh thiếp nữa đấy.” Bố có vẻ thích thú nhưng không phản ứng gì, rõ ràng việc này chả có gì quan trọng đối với ông cả. Mẹ đứng dậy đi qua đi lại. “Con nhỏ đó đến tuổi có danh thiếp rồi, con trai của tôi thì lén lút qua lại với nó sau lưng tôi. Harry đang đeo đuổi nó mà chúng ta thì chả biết gì về nó cả. Alfred à, nó còn là dân Ngoại... à không, dân Độc Lập nữa chứ.” Mẹ xoay qua tôi. “Nó là thuộc phe Độc Lập phải không, Calpurnia?” “Con chả biết gì cả.” “Chậc, vô dụng quá! Về phòng đi và đừng có hé môi cho ai về việc này đấy. Con lại bị phát ban đỏ à? Đi lấy bột baking soda và băng lại.” Tôi tụt xuống ghế rồi chạy vội vào bếp. Cô Viola đang ngồi trên bàn nghỉ ngơi một lúc, đợi SanJuanna xả nước để bắt đầu chiến đấu với núi bát đĩa chồng chất trên quầy bếp. “Mẹ bảo em vào lấy bột baking soda,” tôi làu bàu. “Lạy Chúa Tôi, cháu bị làm sao vậy?” cô Viola thảng thốt khi nhìn thấy tình trạng của tôi. “Cháu bị phát ban ấy mà, chỉ cần làm dịu lại là xong thôi,” tôi nói dối cho qua chuyện. Cô Viola liếc tôi rồi định mở miệng nói gì đó nhưng lại thôi. Cô đứng dậy, nhúng mảnh giẻ vào soda rồi đưa cho tôi mà không hé lời. Còn SanJuanna thì nhìn tôi dè chừng như sợ bị truyền nhiễm. Lên lầu, tôi còn nghe vọng lên từ phòng ăn tiếng mẹ giận dữ, còn bố thì cố sức xoa dịu bà. Sul Ross và Lamar nằm ở đầu cầu thang chờ đợi và đeo theo tôi vào phòng. “Có chuyện gì vậy chị? Harry bị sao thế? Mặt chị bị sao vậy? Nói cho chúng em nghe đi.” Tôi bỏ mặc chúng rồi chạy về phòng, chườm miếng khăn ướt lên gò má đang ngứa rát. Điều gì làm tôi phản ứng, mất hết cả tự chủ như thế nhỉ? Bây giờ tôi như một viên chỉ huy non nớt đang bàng hoàng vì binh đoàn mà mình rèn luyện bao lâu nay bị diệt vong. Cả đêm hôm đó, tôi thao thức trên giường đợi Harry về nhà. Vầng trăng khuyết đã lên cao khi tôi nghe được tiếng lanh canh của bộ yên cương và tiếng lọc cọc của bánh xe lăn trên con đường trải sỏi dẫn vào nhà. Tôi nín thở lắng nghe. Cả căn nhà im ắng một cách kì lạ. Rồi tôi mường tượng đến bố mẹ, hay ít nhất là mẹ, đang nằm thao thức trên chiếc giường to bằng gỗ gụ chạm khắc đầy hình trái cây và thiên sứ. Tôi mò xuống giường, xỏ dép vào rồi rón rén trườn theo vách tường để tránh tạo ra tiếng động to như súng nổ vang lên từ sàn gỗ. Những bậc thang cũng nổi tiếng kêu to nên tôi vén gọn váy ngủ lại rồi tuột xuống lan can như thường lệ. Cách này tỏ ra nhanh chóng và hiệu quả nhưng trong bóng đêm thật khó để định hướng nên tôi thắng lại quá muộn và va vào trụ đỡ tay vịn ở đầu cầu thang, kết quả là bị bầm tím sau lưng ít nhất hai tuần sau đó. Theo ánh trăng, tôi mon men ra chuồng ngựa. Đến cửa, tôi len lén nhìn vào trong. Dưới ánh đèn dầu le lói, Harry đang buộc chú ngựa Ulysses lại, miệng ngâm nga một khúc nhạc, nghe loáng thoáng như bài “Anh thật lòng yêu em”. Nhìn anh ấy thật vui vẻ, trước giờ tôi chưa từng thấy Harry được vui như vậy. “Harry,” tôi khẽ gọi. Anh ấy quay sang nhìn tôi, mặt đanh lại rồi hỏi “Em làm gì ở đây? Đi về ngủ đi.” Nói rồi Harry tiếp tục chải lông cho con ngựa. Ôi, ánh mắt lạnh lùng ấy lại xuất hiện rồi. Trước đây, thỉnh thoảng tôi thường cãi vã với anh ấy, mặc dù có khó chịu như thế nào thì nó cũng trôi qua thật nhanh. Cứ như thế, tôi luôn chắc mẩm rằng tôi mãi mãi sẽ là đứa em yêu quý nhất của anh; tôi ôm lấy tình thương của anh bằng tất cả niềm tin và đắm chìm trong hơi ấm ấy. Nhưng lần này thì khác. Trong khi cố gắng bảo vệ cho gia đình và cho anh, hay nói cho cùng, chính là bảo vệ cho bản thân tôi, tôi đã vô tình làm tổn thương anh ấy. Và lần đầu tiên trong đời, nỗi tiếc thương làm buốt giá tim tôi. Lặng người, tôi lùi ra khỏi quầng sáng của bóng đèn, đứng một mình bơ vơ dưới ánh trăng. Chợt một tiếng nấc - hay sụt sùi - bật ra khỏi tôi. Tôi quay đầu, loạng choạng chạy vào nhà trên đôi chân mềm nhũn. Tôi vào được cửa nhà nhưng đến cầu thang thì hoàn toàn quỵ xuống. Nửa tiếng sau Harry vào nhà và bắt gặp tôi vẫn còn ngồi lì ở đấy, trông chẳng khác nào một mớ hỗn độn khốn khổ trong chiếc váy ngủ trắng, vẫn sụt sùi, chẳng buồn cử động; lúc này chỉ có Idabelle nhẹ nhàng bước từ trong bếp ra an ủi mà thôi. Trong bóng tối, tôi chỉ nhìn thấy được Harry đang đứng chống nạnh. “Harry ơi, cho em xin lỗi,” tôi thì thào. “Trên đời này có những việc của người lớn, không dành cho trẻ con đâu,” Harry đáp. Có bao giờ tôi nghĩ Harry là người lớn đâu, chúng tôi luôn là những đứa trẻ ở bên nhau cơ mà. Nhưng qua cách nói ấy, tôi biết rằng từ giây phút này, Harry đã chính thức vạch ra một đường ranh ngăn cách vô hình và sẽ chẳng bao giờ trở về với vùng đất tuổi thơ nữa. “Em chẳng cố ý đem lại rắc rối cho anh đâu,” tôi rên rỉ. “Có đấy. Anh chẳng hiểu vì sao em lại làm như vậy.” Tôi muốn thét lên rằng tôi làm điều đó vì gia đình và vì anh ấy đấy chứ! Nhưng sâu thẳm trong lòng, tôi biết rõ rằng hành động đó thật ra dành cho chính bản thân mình mà thôi và tôi lấy làm xấu hổ vì điều đó. Chiếc đồng hồ treo tường cũ kĩ ngân vang ba tiếng. “Em đi ngủ đi,” Harry hờ hững nói. Tôi cố bám víu vào câu nói lạnh lùng này vì dù sao nó cũng đỡ gay gắt hơn những gì Harry nói lúc ở trong chuồng ngựa và cho rằng mọi thứ sẽ ổn thôi, rồi Harry sẽ bồng tôi lên gác và cho tôi rúc vào lòng anh mà thôi. Nhưng sự thật đã không diễn ra như vậy mà Harry chỉ thì thầm “Phải chi em đừng hành động như vậy,” sau đó bỏ mặc tôi ngồi tận hưởng thành quả về sự chỉ huy của mình và bước lên lầu. Chiến dịch của tôi đã diễn ra thành công, và vì nó, tôi đã đánh mất anh trai của mình. Đêm đó, đến khi đồng hồ gõ bốn tiếng tôi mới bò về giường. Sáng hôm sau, tôi mệt mỏi rã rời nên giả vờ bị bệnh, chập chờn trong giấc ngủ vùi. Với gương mặt bơ phờ và chứng phát ban của mình tôi dễ dàng gạt được mẹ. Bà và Viola đem vào phòng tôi nào là nước cốt bò hầm, rồi bột đắp baking soda. Đến chiều thì họ còn dự định cho tôi uống thuốc bổ, thuốc xổ và cả dầu cá nữa, nhưng lúc đó thì tôi đã bắt đầu đi lại được và ăn vài quả trứng luộc, tránh được những biện pháp chữa trị tới nơi tới chốn ấy. Đứa trẻ nào nằm liệt giường hơn một ngày trong nhà tôi đều được cho uống dầu cá, và kì diệu thay, nó chữa khỏi bệnh rất nhanh. Travis ghé thăm và điều nàng mèo Doc Holiday vào giải khuây cho tôi (Jesse James không còn hữu dụng nữa). J.B. trèo lên giường nô đùa làm tôi thấy khá hơn lên. Còn Sul Ross thì đặt lên chiếc bàn đầu giường một bó hoa dại đủ loại rồi tự hào khoe vết tích trên người chỗ bị tôi huých cùi chỏ vào. Tôi thì không tiện khoe lại vết tích trầm trọng hơn vì nó nằm ở vùng nhạy cảm. Còn Harry thì chẳng thấy tăm hơi. Sáng hôm sau, tôi trườn xuống nhà ăn sáng và thấy lòng nhẹ lại một chút khi bắt gặp ánh mắt của Harry khẽ liếc qua mình. Trước lúc mọi người phân tán khỏi bàn ăn, mẹ tuyên bố “Chiều thứ 6 chúng ta sẽ có khách, mọi người hãy có mặt vào lúc 6 giờ 15 nhé.” “Chết tiệt,” ông buột miệng. “Lại là ai nữa đây?” “Bố à, chúng con không dám làm phiền nếu bố có hẹn trước ạ.” Mẹ thừa biết rằng ông chẳng có hẹn với ai cả, nhưng luôn có điệp khúc về phòng thí nghiệm và thư viện. Mẹ cũng chỉ biết hi vọng, nhưng qua biểu hiện của bà thì tôi nhận thấy mẹ chẳng bao giờ muốn ông có mặt trong những cuộc hội họp vui vẻ (hay bà còn gọi là “dạ hội”) của mình cả. Ngoài việc ông có đầu óc cổ hủ, ông còn thường làm lệch vấn đề trong các cuộc nói chuyện và tôi biết mẹ không ưa gì. Ví dụ sự tồn tại của hóa thạch đi ngược lại với thuyết giáo trong Sách Sáng Thế; kinh nghiệm của người đồng sự Mendel về sự sinh sản hữu tính của cây đậu hoa; những quan niệm sai lầm về mủ. Có lần tôi thấy mẹ rùng mình khi nghe ông giảng giải cho các bà cô về các tư thế giao hợp của những côn trùng thuộc Bộ Chân Dài (cụ thể là nhện chân dài). Ngoài ra ông còn dự đoán rằng con người sẽ chế tạo ra máy bay và một ngày nào đó sẽ lên đến mặt trăng, và rất nhiều tiên đoán khác thường xuất phát từ những cụ già hiểu biết và tinh khôn; mặc dù vậy tôi vẫn âm thầm đồng tình với ông và tin rằng nó sẽ thành hiện thực vài ngàn năm sau đó. “Ai sẽ đến vậy mẹ?” Sam Houston hỏi. “Nhà Lockett, nhà Longoria, cô Brown. Mục sư và bà Goodacre. Còn có cô Minerva Goodacre nữa,” mẹ vừa trả lời vừa ngắm nghía con dao quết bơ. Ố ồ. Tôi nhìn qua Harry, anh có vẻ cũng thích thú nghiên cứu con dao của mình như chưa bao giờ được thấy nó. Tôi chợt nuốt trọng. Phải làm gì đây? Tôi tự bảo rằng mình chỉ còn ba ngày để lên kế hoạch, tôi đăm chiêu trong lều trại của mình tính toán chẳng khác gì Napoleon. Mấy ngày sau, mỗi lần đi lên lầu ngang qua Harry, tôi chỉ biết cười gượng gạo, còn anh thì vẫn tỏ ra dửng dưng. Tôi tự an ủi mình rằng Harry không cau có với mình là tốt lắm rồi. Thứ sáu đã đến mà tôi vẫn chưa nghĩ ra được gì hay ho cả. Tôi đành gội đầu, sấy tóc, giữ niềm kiêu hãnh và ngồi ủ rũ chải tóc một trăm lần. Tôi khoác lên người chiếc váy bằng vải ba-tít, đôi ủng trẻ con mà tôi từng mang khi đi độc tấu âm nhạc, thắt lên tóc chiếc ruy băng xanh da trời, màu mà Harry thích tôi dùng nhất. Sau đó tôi xuống nhà tham gia cùng mọi người. Harry trông thật bảnh bao, tóc bóng nhẫy lớp keo mùi hoa oải hương và dầu thơm nhẹ dùng sau khi tắm. Một sự náo nức nào đó đang ngầm cuộn trào trong anh, và lòng Harry có vẻ đã dịu lại một ít khi khẽ nhếch mép cười với tôi. Bọn tôi xếp hàng theo độ tuổi từ lớn đến nhỏ ngoài sảnh, Sam Houston bụm hết cả mồm miệng lại khi ngửi thấy mùi bốc ra từ người Harry. Mẹ xuống thị sát từng đứa một. Hôm nay mẹ khoác chiếc áo lụa màu lục tươi, xâu chuỗi ngọc ôm gọn quanh cổ - một trong những món trang sức đẹp nhất của bà - tạo lên những tiếng rít khẽ theo mỗi bước đi của mẹ. Bà săm soi từ giày dép, đến răng cỏ và cả móng tay của bọn tôi. “Trời đất, Calpurnia, con bị gì vậy, đứng thẳng lên nào. Jim Bowie, móng tay bẩn quá, trông cứ như mới đi cào đất ngoài vườn về vậy. Calpurnia, đi rửa tay cho em đi con.” Tôi dẫn J.B. vào phòng tắm, mừng thầm vì có việc để làm. Đang cọ rửa chợt J.B. buột miệng hỏi “Anh Harry sắp lấy vợ hả chị?” làm tôi chết đứng người, đánh rơi cả bàn chải. “Em lấy đâu ra cái ý nghĩ đó vậy?” “Em nghe mẹ nói vậy đấy. Anh Harry sắp ra đi hả chị?” “Chị mong là không J.B à.” “Em cũng vậy.” Tôi cọ rửa cho J.B đến khi người khách đầu tiên xuất hiện. Bọn tôi lại phải xếp hàng ra trước cửa. Khi cô Brown đến, tôi bắt tay cô và nhún người chào đầy điệu bộ. Nhưng có vẻ tôi đã làm hơi phô trương quá nên cô ta gượng cười mỉa mai, “Xem nào, chào cháu, Calpurnia, sao lúc nào cũng ‘quyến rũ’ thế này nhỉ?” Nói rồi bàn tay gân guốc của cô siết mạnh làm tôi tru lên thảm thiết. Buổi tối bắt đầu rất suôn sẻ nhưng chưa thấy bóng dáng của cô Minerva Goodacre đâu cả. Tôi bưng chiếc đĩa bạc đựng hàu xông khói mời mọi người trong phòng, Viola dặn rất kĩ rằng tôi phải đếm xem mấy anh em trai của tôi đã ăn bao nhiêu. Nhưng thật chẳng khó gì vì khi tụi nó nhìn thấy mấy con hàu xám xịt, nhăn nhúm là sợ hãi quay mặt đi ngay; có cho tiền tụi nó cũng chẳng dám bỏ vào miệng. Harry lượn lờ giữa phòng khách và sảnh để chờ đợi nhân vật quan trọng của mình. Ông nội xuất hiện, bộ râu được cắt tỉa gọn gàng, tóc bết trên trán, một nụ hồng cài lên khuy áo. Ngoại trừ chiếc áo khoác bị nhậy gặm nhấm ra thì ông trông thật lịch lãm. Khi nhà Longoria đến, Travis lôi bọn trẻ ra chuồng ngựa để khoe bầy mèo của nó. Tôi nhìn quanh gia đình mình và chợt thấy hơi ấm của hạnh phúc ngập tràn. Họ thật vô tư, không một chút ngờ vực. Tôi thật muốn ghi lại khoảnh khắc này, gói chặt lại, và cất giữ thật sâu trong tâm trí mình. Vì khoảnh khắc này có thể tan biến bất cứ lúc nào. Chợt Harry vội vã chỉnh lại cà-vạt và đầu tóc trước tấm gương trong sảnh một lần nữa. Tôi nhìn ra ngoài và thấy ngài Goodacre đang cột ngựa. Harry hăm hở bước ra đỡ hai người phụ nữ từ trên xe ngựa xuống, một người tròn trịa và một người thon thả. Rồi anh đưa tay ra cho người thon thả - mụ hồ ly tinh đây mà - cùng nhau bước lên thềm nhà, đầu tựa vào nhau, thầm thì to nhỏ gì đó,điều họ chẳng bao giờ chia sẻ với những người xung quanh. Bố mẹ tôi đón họ ở cửa, sau những lời giới thiệu hoan hỉ, mẹ mời họ vào phòng khách. Tôi thật khâm phục mẹ, bà tỏ ra vui vẻ và bình tĩnh trong hoàn cảnh này hơn tôi nghĩ. Chắc bà đã uống vài viên thuốc bổ rồi. Ngắm xem nào: cô ta cao hơn tôi tưởng, thon thả trong chiếc váy màu đào cầu kì, đầy những chiếc nút đen nhánh. Cái miệng có nét hờn dỗi, cần cổ dài, cặp mắt lồi và búi tóc đồ sộ. Cô ta còn cầm theo chiếc quạt màu đào dát bạc, mỗi lần tiếp chuyện với ai đó lại mở ra đánh xoạch một cái. Lúc Harry vẫy tôi lại, tôi chỉ muốn trốn quách vào bếp cho xong. “Goodacre à, xin giới thiệu đây là Calpurnia Virginia Tate, em gái của anh. Callie, còn đây là chị Minerva Goodacre.” Chiếc quạt màu đào lại xòe ra như một con bướm khổng lồ. Cô ta nhìn tôi bằng con mắt lồi to rồi cất giọng the thé, “Ôi, Calpurnia, cô bé thật dễ thương mà còn tài năng nữa chứ. Chị nghe em từng độc diễn dương cầm phải không.” Nói rồi chị ta gõ gõ đầu quạt lên má tôi một cách đùa cợt hơi quá trớn. Chẳng lẽ tôi phải chịu sự hành hạ này cả đêm hay sao? “Chị Goodacre khỏe không ạ?” Rốt cuộc tôi cũng lên tiếng được. “Rất vui được làm quen với chị.” “Ồ, chắc chắn rằng chị em mình sẽ thành bạn thân nhanh thôi. Nào, Harry ơi, très amusant gran-père[14] mà anh hay nhắc tới đâu nhỉ?” Ặc, lại còn xổ tiếng Pháp nữa chứ. Harry dắt chị ta sang giới thiệu với ông, ông cúi rạp mình xuống, đặt hàng ria xồm xoàm lên bàn tay chị ta, “Enchanté, madermoiselle”[15]. Tôi cảm thấy như ông đang luống cuống, chân va cả vào nhau. Chị ta đáp lại bằng một giọng nói như một tràng giai điệu cười, “Ôi Chúa ơi, ông quả thật quá ư lịch thiệp.” Rồi cứ thế, chị ta chẳng đoái hoài gì đến tôi nữa trong suốt buổi tối. Còn tôi thì cứ bưng hết cái khay này rồi lại cất cái ly khác, nhất quyết bám đuôi theo chị ta và Harry vòng vòng trong phòng. Chị ta cứ vung vẩy cái quạt suốt đêm, huyên thuyên về thời trang ở Paris, New York, rằng thật mất mặt cho vợ ngài thống đốc Culberson về bộ đầm kinh khủng mà bà ta mặc trong lễ nhậm chức của ông; lẽ ra với tầm cỡ của họ thì phải mua được một bộ khá khẩm hơn, hay ít nhất cũng tham khảo ý kiến của một nhà thời trang có gu thẩm mỹ. Gu thẩm mỹ hẳn rất quan trọng, n’est-ce pas[16]? Và một khi đã nhận thức về gu thẩm mỹ rồi thì mọi người có để ý rằng có hằng hà sa số những quý bà ăn mặc lỗi mốt khi đi dự các buổi lễ kiểu đó hay không... Mẹ tôi cố gắng chen vào một ít về đề tài âm nhạc nhưng chị ta chẳng hưởng ứng. Bố tôi thì muốn nghe ý kiến chị ta về đường dây điện thoại sắp được lắp đặt nhưng chị ta cũng không đếm xỉa. Chị ta chỉ biết cười duyên, ngúng nguẩy với Harry rồi sai anh ấy làm đủ thứ mà thôi. Chị ta thật sự làm tôi phát ốm lên mất. Buổi tối cứ thế tiếp diễn. Rồi bữa tối dường như vô tận đó cũng qua đi, cô Brown lướt nhanh ngón đàn bài “The Minute Walzt” mà cô luôn dành để góp vui trong các bữa tiệc trong vòng 52 giây chiếu theo chiếc đồng hồ bỏ túi của bố. Sau đó cô đệm đàn cho chị Goodacre bản “Cạn ly này với em chỉ bằng ánh mắt anh thôi nhé”, chị ta hát hoàn toàn trật tông và bày tỏ cảm xúc về phía Harry một cách lố bịch. Cạn ly này với em chỉ bằng ánh mắt anh thôi nhé, Và em sẽ đáp lại bằng chính ánh mắt của em; Hoặc để lại một nụ hôn trong lòng cốc, Để em chẳng cần đến giọt rượu nào hơn. Tôi để ý thấy ánh mắt mê mẩn của ông nội trong suốt màn trình diễn tệ hại của chị ta làm tôi càng thất vọng đến cùng cực. Một Harry thôi chưa đủ, chị ta còn phải mê hoặc hết cả những người đàn ông quan trọng xung quanh tôi hay sao. Tiếp đó, Harry hát bản “Kẻ mơ mộng đẹp xinh” trong ánh mắt xoe tròn của chị Goodacre. Đến lượt cô Brown đáng ghét buộc tôi trình diễn độc tấu. Trong cơn đau đầu như búa bổ và nụ cười gượng gạo dán trên môi, tôi đem lại một màn biểu diễn quá sức tầm thường. Sau đó, tôi phải xuống bếp ngay để xin chị Viola cho một viên thuốc nhức đầu. “Cô ta như thế nào?” Viola hỏi. “Nhìn từ đây thì cũng chẳng xinh lắm. Chỉ có Harry là luôn đẹp trai rạng ngời mà thôi.” “Chị ta thật kinh khủng, cô Viola ạ và ngoài chuyện quần quần áo áo thì chẳng biết gì hay ho hơn.” “Ừm, quần áo cũng hấp dẫn đó chứ,” Viola đáp. “Nhưng chỉ biết có thế thì hay ho gì,” tôi vặn lại. “Ừ cũng đúng. Mà cô ta hát hò cũng chẳng ra hồn gì. Mẹ cháu ổn không?” “Chắc cũng ổn cô ạ.” “Tốt rồi. Thuốc này, mang cả đĩa sô-cô-la này ra ngoài luôn đi nhé, nhớ kiểm kê số lượng đấy.” cô Viola bảo. Tôi quay lại với buổi tiệc, mời sô-cô-la vòng vòng và tránh không cho mấy đứa anh em trai động vào. Chị SanJuanna lùa bọn trẻ về giường ngủ. Mục sư Goodacre thảo luận với bố về sự thay đổi thất thường của thị trường vải cô-tông. Ông nội thì giữ chặt lấy Harry và chị Goodacre bằng những giảng giải chi tiết về sự khác nhau giữa châu chấu khổng lồ đực và cái. Chị Goodacre cứ nhoẻn miệng cười suốt. “Vào thư viện với ông, ông có hai mẫu vật chỉ rõ sự khác nhau này”. Ông nói rồi nắm lấy cùi chỏ và lôi chị ta xềnh xệch ra khỏi phòng. “Đừng dẫn cô ấy đi quá lâu, đừng cướp cô ấy khỏi mọi người lâu quá ông nhé, ha ha.” Harry cười vọng theo. Cả người Harry như có vầng hào quang tỏa sáng. Tôi đứng cạnh và đưa cho anh một thanh bánh xốp sô-cô-la. Tôi muốn lấy lại được tình cảm của anh trai mình bằng mọi giá. Tôi thỏ thẻ một câu nói dối trắng trợn “Chị ta rất ổn Harry ạ.” Cổ tôi chợt hằn lên những lằn đỏ, chắc là vết tích của đạo đức giả. “Đấy thấy chưa, anh chắc là em sẽ thích chị ta khi có dịp gặp gỡ rồi mà, thật là một cô gái tuyệt vời đúng không? Bánh ngon nhỉ, cho anh một cái nữa nào.” Thật mù quáng, anh thật mù quáng. Tôi nghĩ thầm. Ngay lúc đó, chợt chị Goodacre xông vào phòng, có vẻ rất căng thẳng. Chị ta chạy lại bên bà Goodacre rồi xì xào qua lại trông rất kích động. Bà Goodacre quay sang đám đông phân trần, “Minerva chợt bị đau đầu dữ dội, có lẽ chúng tôi phải đưa nó về nhà. Thật lấy làm tiếc vì buổi tiệc này rất dễ thương nhưng chúng tôi đã hứa với mẹ của nó rằng sẽ chăm nom nó cẩn thận. Tôi nghĩ rằng mọi người đều hiểu được điều này.” Họ gom áo khoác rồi vội vã cáo từ trong khi Harry và ông Goodacre chuẩn bị xe ngựa. Rất nhiều lời cảm ơn thốt ra nhưng chẳng có một sự hứa hẹn trở lại nào cả. Và rồi họ biến mất trong màn đêm. Harry trầm ngâm. “Ông nội à, lúc trong thư viện thì Goodacre có vấn đề gì không?” “Ổn mà. Cô ấy có vẻ thích thú với lũ bướm cánh tơ nhện. Nhưng ông nghĩ cô ta sẽ thích bộ sưu tập xác bọ chết thối rữa, đây mới là cái độc nhất vô nhị.” Ông châm điếu xì-gà. “Nhưng nói chung ông thấy trò chuyện vui vẻ thôi mà.” Hôm sau, mẹ tôi nhận được nhiều lá thư cảm ơn trao tay từ khách, bà bày chúng ra bàn ăn để làm gương tốt cho chúng tôi về cách cư xử. Hầu hết những bức thư đều dạt dào tình cảm và đầy hoa mỹ, chỉ trừ thư của bà Goodacre là cụt ngủn. Hai ngày sau, Harry cố gắng gọi điện thoại tìm chị ta nhưng dì của chị ta bảo không có nhà. Và ba hôm sau thì chị Goodacre lẳng lặng trở về Austin. Chỉ đến khi Harry đến nhà tìm và được thông báo bởi cô hầu gái thì anh mới biết, anh trở về nhà và ở lì trong phòng. Mấy anh tôi kháo nhau xem Harry có phải uống dầu cá hay không. Nếu không thì đến tuổi nào mới không phải uống nữa? Mười sáu hay mười bốn? Vấn đề vẫn căng thẳng không lời giải đáp. Rốt cuộc Harry không phải uống dầu cá. Thay vào đó, anh bị chôn vùi trong buồn bã và bối rối khi những lá thư anh viết cho chị Goodacre bị trả lại trong tình trạng chưa được mở ra. Anh loay hoay trong nhà suốt mấy ngày như người bị thương gắng gượng di chuyển. Thật tội nghiệp. Tôi tự phục hồi vết bầm tím trong lòng mình cho nó nhợt nhạt bớt đi và tự hứa rằng sẽ thôi không làm kẻ quấy rối nữa. CHƯƠNG 8 SOI KÍNH HIỂN VI Vỏ trái đất là một viện bảo tàng khổng lổ... SAU CUỘC CHẠM TRÁN CHÓNG VÁNH với chị Goodacre, cả nhà tôi bị xáo trộn mất vài tuần vì Harry cứ nhăn nhó thở than suốt ngày. Tôi đã giữ đúng lời hứa của mình là không gây ra phiền phức, ngoại trừ việc nghe lén ngoài cửa thư viện về cuộc nói chuyện giữa ông nội và Harry vài ngày sau đó. Vài thứ gì đó về Định luật chọn lọc của Tự nhiên, chúng luôn đúng trong thế giới Tự Nhiên nhưng đôi khi lại bị phá vỡ một cách khó hiểu bởi con người. Sau đó thì Harry có vẻ cũng nguôi ngoai, nhưng cũng phải mất một thời gian để anh ấy hoàn toàn trở lại như bình thường. Chẳng biết anh ấy có trách ông nội một phần nào đó vì đã cho chị Goodacre xem bộ sưu tập xác bọ thối rữa hay không nữa. Nhưng nếu chỉ vì vậy mà chị ta rời bỏ anh Harry thì rõ ràng chị ấy chẳng xứng đáng với anh một tẹo nào cả. Nhưng tôi chắc rằng mẹ đang cảm thấy nhẹ nhõm vì nàng Goodacre phiền phức kia biến mất. Mẹ đã tỏ thái độ biết ơn một cách trịnh trọng nhưng thầm kín, hay hơn nữa là yêu mến đối với ông nội. Bà ân cần hỏi thăm sức khỏe của ông trong mỗi bữa ăn và lấy cho ông những phần thức ăn ngon nhất, nhưng có vẻ ông chẳng để ý thấy điều đó. Còn Harry thì đã tha lỗi cho tôi. Thật ra, nói cho cùng thì tôi cũng đã không thể làm hỏng cơ hội của anh ấy với chị Goodacre. Tôi cũng đã cư xử rất đúng mực trong bữa tiệc nên không bị dư luận đánh giá gì cả. Chuyện gì xảy ra đêm đó đều không phải lỗi của tôi, bản thân tôi chẳng làm điều gì khiến chị ta phi thẳng ra khỏi nhà nhanh như vậy cả. Và rồi dù sao đi nữa, tôi vẫn là con thú cưng độc quyền của anh ấy bao nhiêu năm nay, người mà anh ấy ôm ấp nâng niu từ thời thơ ấu cơ mà. Tôi như đắm chìm vào cảm giác sung sướng khi được trở lại thành vật cưng của anh ấy. MÙA HÈ CỨ THẾ TRÔI QUA. Đôi lúc bố hỏi ông cho lời khuyên về trang trại hay về xưởng tỉa hột bông nhưng rồi bất lực khi thật khó để tách ông nội ra khỏi công việc nghiên cứu về thế giới tự nhiên để thật sự tập trung vào một vấn đề thương mại nào đó. Ông đã một tay tạo dựng lên cơ nghiệp này và đạt được những thành công nhất định, nhưng bây giờ thì ông chẳng màng tới nó nữa. Tôi cảm thấy thật kì lạ khi chính bố mẹ tôi cũng không hiểu vì sao ông lại có thể ngoảnh mặt với cuộc sống ngày xưa của mình như vậy. Đến khi ông tâm sự hết nỗi niềm của mình thì tôi hoàn toàn ngộ ra sự việc. Trong lúc hai ông cháu đang ngồi trong phòng thí nghiệm, ông ôn tồn bảo, “Ông không còn sống bao lâu nữa. Tại sao ông lại phải để ý đến những vấn đề về hệ thống thoát nước hay những sổ sách quá hạn nữa cơ chứ? Ông phải tiết kiệm và dùng khoản thời gian còn lại của mình một cách hợp lý nhất. Thật hối hận khi đến năm mươi tuổi ông mới nhận ra được điều này. Calpurnia à, cháu có thể làm được điều này sớm hơn, hãy hoạch định thời gian của mình một cách cẩn thận.” “Vâng, thưa ông, cháu sẽ cố gắng hết sức ạ,” tôi đáp. Trong này chẳng có ghế cho khách nên tôi phải ngồi trên chiếc ghế gác chân xiêu vẹo, hình như là cái yên lạc đà thì phải. Nhìn nó chẳng giống mấy cái yên lạc đà thông thường, nó tỏa ra một thứ mùi rất lạ và phủ đầy lông nhỏ màu be giống lông chó Chihuahua nên tôi đoán nó là hàng thật. Tôi chưa bao giờ thấy nhàm chán khi ngắm những vật sưu tầm của ông nội: chiếc kính thiên văn nhỏ bằng đồng từ thời chiến; mấy ngăn tủ rộng và nông chứa những con thằn lằn, nhện và chuồn chuồn sấy khô xếp thành hàng; chiếc đồng hồ trang trí hình chim cu màu đen cứ mỗi 15 phút lại hót lên báo hiệu bằng âm thanh thô thiển, buồn cười. Một phù hiệu hoa hồng màu xanh mục nát, bên trên còn in lờ mờ dòng chữ “Bộ sưu tập đồ sộ tuyệt nhất, Hội chợ Fentress, 1877.” Một tập phong bì dày, mịn, giống như bằng da thuộc được niêm phong mấy dấu mộc bằng sáp đỏ cấp bởi Hiệp hội Địa lý Quốc tế. Kế đó là nàng tiên cá chạm khắc từ gỗ nâng trên mình chiếc tẩu thuốc. Đến cả bộ da gấu luôn ngoác to mồm (mỗi lần để chân vào đó tôi cũng lặng cả người đi không thốt lên được lời nào). Trong ngăn kéo được khóa lại nằm trên mấy quyển sách trên kệ là con ta-tu[17] nhồi bông, nó thật là một mẫu nhồi bông xấu nhất mà tôi từng thấy. Tôi tự hỏi vì sao ông vẫn giữ nó trong khi tất cả những mẫu vật còn lại của ông đều thuộc vào hàng cực phẩm? “Ông nội à, sao ông vẫn giữ con ta-tu nhồi bông này vậy? Ông thừa sức mua một con khác đẹp hơn nhiều mà.” “Đương nhiên là mua được, nhưng ông giữ con này làm kỉ niệm vì nó là mẫu vật có vú đầu tiên ông tự tay nhồi bông mà. Ông học kỹ năng này qua lớp hàm thụ[18], và ông khuyên rằng không nên học theo cách này. Nếu như cháu cảm thấy thích việc này thì hãy học hành và thực tập một cách nghiêm túc để trở thành chuyên gia. Có rất nhiều điều huyền ảo, tinh tế của nghệ thuật không thể đạt được nếu chỉ đơn thuần đọc qua sách vở.” “Cháu không nghĩ là mình thích việc làm nhồi thú bông đâu ạ.” Tôi chõ mũi vào cái kệ để đầy những mẫu hóa thạch và những mẫu xương cũ kĩ. “Một lựa chọn khôn ngoan đấy, chỉ nói đến cái mùi của nó thôi cũng đủ làm nản lòng những người mới thực tập rồi. Nhưng ông tự nhận thấy rằng mẫu nhồi bông thứ hai hoàn thiện hơn rất nhiều. Nó ổn đến mức ông đã gửi tặng người đàn ông vĩ đại đó để tỏ lòng ngưỡng mộ của mình,” ông bảo. Tôi đang nhấc một mẫu hóa thạch bọ ba thùy[19] và không để tâm nghe lời ông nói lắm. Tôi hoàn toàn bị cuốn hút bởi cấu trúc của những đốt xương từng thuộc về con động vật biển thân mềm này. “Ông ấy từng nghiên cứu về con ta-tu vùng Nam Mỹ nên ông nghĩ rằng ông ấy cũng sở hữu cả mẫu vật của vùng Bắc Mỹ nữa. Sau mấy con ta-tu, ông chuyển sang chú linh miêu Bắc Mỹ, bây giờ nhìn lại ông phải thừa nhận là mình đã đi quá đà. Việc tạo hình cho khuôn mặt của nó thật khó khăn, ông cố tạo lại gương mặt lúc nó gầm gừ khi mỗi khi bị làm phiền lúc còn sống nơi hoang dã, nhưng rốt cuộc thì con vật tội nghiệp nhìn có vẻ như đang cau có phụng phịu gì đấy.” Con vật hóa thạch trên tay tôi đã bao nhiêu triệu tuổi rồi và đã từng lặn ngụp ở vùng biển cổ đại nào? Bản thân tôi còn chưa được chứng kiến biển lần nào; chỉ có thể cảm nhận đến những con sóng, gió lộng và nước biển xanh qua trí tưởng tượng của mình thôi. “Dù sao đi nữa, cuối cùng ngài cũng gửi lại cho ông con vật đóng lọ làm quà cảm ơn, ông để trên kệ cạnh con ta-tu, nó là vật sở hữu có giá trị nhất của ông đấy.” “Cái nào ông?” tôi rời mắt khỏi con ta-tu rồi ngước mặt lên hỏi. “Con vật trong lọ trên kệ đó, cháu nhìn đi.” Tôi ngắm con quái vật nằm trong lọ thủy tinh bọc da dày cộp, nó mang đầy những con mắt kì quái và hằng hà chân cẳng. “Đó là con mực nang mà ngài đã đã thu thập được ở mũi Hảo Vọng.” “Ai thu thập nó ạ?” “Người mà ta đang nhắc tới là ngài Darwin.” “Thật à, ông ấy gửi cho ông thật à?” tôi không thể tin được. “Thật chứ sao không. Cả đời ông ấy hay đi thảo luận với rất nhiều nhà tự nhiên học trên toàn thế giới và cũng có trao đổi mẫu vật với vài người.” “Ông đang đùa với cháu phải không.” “Calpurnia à, ông không ‘đùa’ bao giờ cả. Ông và mẹ cháu cùng đồng quan điểm rằng việc dùng từ lóng là biểu hiện của tri thức thấp và vốn từ yếu kém.” Tôi không thể tin nổi. Trong nhà tôi không những có sách của ngài Darwin mà còn có cả mẫu vật mà chính ông đã thu thập nữa. Tôi nhìn chăm chăm vào mẫu vật và cố tìm hiểu xem hàng loạt tay chân của nó là gì. “Cái này là gì ông nhỉ?” “Cháu nghĩ nó là gì?” Mặt tôi sa sầm lại. “Ông nói cứ như mẹ vậy, mỗi khi cháu không biết đánh vần từ nào là mẹ đều bắt cháu tra từ điển ngay.’’ “Tốt, lại thêm một đồng quan điểm nữa.’’ Tôi tiến sát lại cái lọ, cố đọc mảnh giấy nhỏ treo trên cổ chai. Chữ viết trên đó thuộc kiểu cổ và đã phai gần hết. Tôi không thể đọc được gì nhưng cũng cảm thấy phấn khích vì nó là chữ viết tay của ngài Darwin. “Cháu có thể lấy nó ra không? Nhồi nhét cả đống trong đấy khó nhìn quá.’’ “Nó được ngâm bằng rượu trong đó suốt 70 năm rồi. Ông sợ nếu mình lấy ra nó sẽ rã ra hết.’’ Tôi nhìn nó chăm chú. Đất liền? Biển? Hay trên không? Mặc dù có nhiều chi nhưng đều mềm như cao su và không đủ vững chắc để tải một trọng lượng nào cả nên chắc chắc nó phải thuộc loại bơi lội. Vậy là động vật biển. Nhưng nó lại không có vẩy. Làm sao nó có thể bơi mà không có vẩy nhỉ? Có nghi vấn rồi. Rồi tôi cũng chẳng thấy mang ở đâu. Lại thêm nghi vấn nữa. Mắt thì to như mấy cái bát quá khổ. Sao nó lại cần mắt to như vậy? Trả lời: để nhìn trong bóng tối, chắc là vậy rồi. Con vật này phải từng sống ở khu vực có ánh sáng yếu, nói cách khác là dưới đáy biển sâu. Tôi kết lại, “Nó là một loài cá, sống gần đáy biển. Nhưng mà trông nó chẳng giống với một loại cá nào mà cháu từng thấy cả. Cháu không biết được nó di chuyển và hô hấp như thế nào nữa.’’ “Những gì cháu suy luận ra đều đúng cả. Thật ra rất khó để cháu đoán được thêm nữa vì đúng là nó bị nhồi nhét cả đống trong chiếc lọ đó mà. Nó là con mực nang, thuộc họ Sepiida, loài Sepia. Nó di chuyển bằng cách hút nước vào trong lớp biểu bì rồi nén ra ngoài từ cơ vòi hút. Mang của nó được giấu trong lớp biểu bì. Khi bị đe dọa bởi con vật ăn thịt, nó sẽ phun ra một đám mây mực màu nâu đen để trốn thoát. Chúng ta dùng lớp vỏ hóa vôi bên trong làm chất mài mòn. Chủ của mấy con chim săn mồi thường dùng nó để mài mỏ cho chúng.’’ Mọi thứ cuốn hút lấy tôi, một mảng lịch sử rất ư kì lạ. Tôi lặng lẽ đặt ngón tay mình lên chiếc lọ thủy tinh mát lạnh. SAU ĐÓ TÔI KỂ cho Harry nghe về con quái vật nhốt trong lọ kì thú đó. Harry giật mình, rời mắt khỏi cuốn sách rồi hỏi, “Em vào trong thư viện rồi à?’’ “Vâng,’’ tôi đáp và nói thêm, “Ông nội mời em vào đấy chứ.’’ “Ồ, vậy à. Em có để ý chiếc tàu nằm trong chai không? Theo anh đó là vật thú vị nhất mặc dù chưa có cơ hội để quan sát hết tất cả mọi thứ của ông. Ông được Sở Cứu hỏa Tự nguyện tặng nhiều năm trước vì ông quyên góp tiền và mua xe bơm nước cho họ. Anh hi vọng rằng ông sẽ di chúc nó cho anh.’’ Harry nhìn tôi tò mò. “Có vẻ em đã dành nhiều thời gian cho ông nhỉ.’’ “Thỉnh thoảng thôi ạ.’’ “Em và ông nội nói gì với nhau?’’ Bất giác tôi cảm thấy mình phải cẩn trọng. Tôi chẳng lo lắng gì về Harry rồi, nhưng nếu lũ nhỏ biết được ông là người tìm ra những sự thật lạ lùng và lôi cuốn về trận chiến của thổ dân, những cây ăn sâu bọ khổng lồ, khinh khí cầu thì sao? Ông sẽ chẳng bao giờ là của riêng tôi nữa. “Thì nói chuyện tầm phào thôi ạ,’’ tôi nói rồi chợt đỏ mặt. Thật sự tôi rất ghét phải che giấu sự thật với Harry. Anh lại tiếp tục đọc sách, tôi thơm lên má anh và chợt anh lơ đãng nắm tóc tôi. “Em vẫn là thú cưng của riêng anh phải không?’’ “Vâng ạ,’’ tôi khẳng định. Tôi không nhận ra rằng những thành viên khác trong gia đình bắt đầu để ý việc tôi hay dành nhiều thời gian cho ông đến khi Jim Bowie có ý kiến, “Sao dạo này chị lại chơi với ông nhiều hơn em vậy, Callie?’’ “Đâu phải, J.B. Chị vẫn thường xuyên chơi với em mà. Hơn nữa, chị với ông không phải chơi đùa mà đang nghiên cứu Khoa học,’’ tôi đáp và chợt nhận ra mình đã phát biểu một cách quá trịnh trọng. “Là gì hả chị?’’ “Là nghiên cứu về những sự vật xảy ra xung quanh mình và hiểu được chúng hoạt động ra sao.’’ “Em có thể tham gia không?’’ “Có lẽ khi em lớn bằng chị thì được.” J.B. nghĩ một lúc rồi nói, “Em không thèm đâu. Ông đáng sợ lắm chị Callie ạ, ông hiếm khi cười và bốc mùi kì lắm.’’ Sự thật là từ người ông bốc ra mùi len, thuốc lá, băng phiến và bạc hà, đôi khi còn có mùi rượu nữa. J.B. nói tiếp, “Ông chẳng vui vẻ gì cả. Freddy bạn em có một người ông rất dễ chịu. À, còn một người ông nữa đâu chị nhỉ? Chẳng phải mình có hai người ông sao? Freddy có hai, sao mình lại không có hai nhỉ?’’ “Người ông kia qua đời trước khi em được sinh ra. Ông bị mắc bệnh sốt Rickettsia và chết rồi.’’ “Ồ ra vậy.’’ ngẫm nghĩ một lát J.B. lại hỏi tiếp. “Vậy mình tìm thêm một người ông nữa được không?’’ “Không J.B. ạ. Ông là người sinh ra mẹ chúng mình, sau đó bị nhiễm bệnh sốt Rickettsia rồi qua đời.’’ J.B. có vẻ bối rối khi nghĩ về việc mẹ mình từng là một đứa trẻ. “Thế sao mình lại không tìm được một người ông khác hả chị?’’ “Điều này khó giải thích lắm J.B. ạ, một ngày nào đó em sẽ hiểu thôi,’’ tôi đáp. “Thôi được.’’ Mỗi khi tôi nói câu này, thay vì nhặng xị lên như Sul Ross, J.B. bao giờ cũng ngoan ngoãn chấp nhận số phận cả. Rồi J.B. dang tay ra đòi hôn. “Người chị yêu quý nhất của em là ai nào?’’ tôi hỏi. “Chị Callie Vee ạ.’’ Nó cười khúc khích. “Ôi, J.B.,’’ tôi thì thầm vào mái tóc mềm mại như tơ của J.B., ngập tràn trong sự ngọt ngào của em mình. “Gì vậy chị?’’ “Không có gì. Chị sẽ chơi với em thường xuyên hơn, được không nào?’’ tôi thật lòng bảo. “Vâng ạ,” Nhưng từ ngày hôm đó, tôi lại có quá nhiều việc để làm. Trong khi đang thả nổi mình trên sông, ngắm lên bầu trời, bất chợt một tia sáng lóe lên trong đầu và tôi chợt khao khát được hiểu về thế giới của cào cào. Ngay khi lồm cồm bò lên bờ tôi đã chuyển mình thành một nhà thám hiểm thực thụ, và thành quả đầu tiên là một thành viên khác trong bộ sưu tập kì lạ của mình sống ngay đầu kia của sảnh nhà. Đang có một kho tàng sống hiện hữu ngay trong nhà nhưng trừ tôi ra thì tất cả những anh em khác đều không phát hiện ra điều đó ở ông. “CHÁU CÓ ĐI KHÔNG, Calpurnia?” ông gọi. “Vâng, cháu đi ạ!” Tôi nhảy chân sáo xuống sảnh rồi vào thư viện, chiếc giỏ đựng cá vắt vẻo trên vai. Chiếc rọ bằng liễu gai cũ kĩ của ông, bên trong gần như chẳng còn tí mùi cá nào. Trong rọ là Sổ Tay đầy những ghi chép của tôi, mấy cái lọ để thu thập mẫu vật, một chiếc bánh sandwich phô mai, một chai nước chanh bịt nút cẩn thận, và một cuộn giấy sáp hồ đào. “Hôm nay ông nghĩ chúng ta sẽ dùng tới kính hiển vi,” ông vừa nói vừa cẩn thận nhét nó vào túi. “Cái kính này tuy cũ rồi nhưng thấu kính vẫn còn trong suốt và hoạt động tốt chán. Ông đoán rằng ở trường cháu có nhiều cái mới hơn.” Thật ra kính hiển vi lúc đấy là thứ quý hiếm và đắt tiền, ở trường làm gì có cái nào. Tôi dám cá rằng đây là cái kính hiển vi duy nhất trong vùng Austin và San Antonio. “Ở trường cháu chẳng có cái nào đâu ông.” Ông sững người. “Thật à? Ông chẳng hiểu nổi cái hệ thống giáo dục tân thời này nữa.” “Cháu cũng vậy mà. Bọn cháu phải học may vá, đan len và thêu vải trang trí. Trong lớp học Phép cư xử, bọn cháu còn phải để cuốn sách lên đầu và đi khắp phòng nữa cơ.” Ông bảo, “Ông thấy đọc sách bổ ích hơn rất nhiều.” Tôi phì cười, phải nói lại điều này cho Lula nghe thôi. “Hôm nay ông cháu mình nghiên cứu gì ông nhỉ?” tôi hỏi. “Mình sẽ quan sát nước hồ nuôi tảo. Van Leeuwenhoek[20]là người đầu tiên chứng kiến điều mà hôm nay cháu xem được thấy. Ông ấy từng là nhà buôn len, như ông từng là nhà buôn vải cô-tông vậy.” Ông cười bảo. “Đấy, để khích lệ cho những người tập sự, phải nói là những gì ông ấy thấy là không thể tưởng tượng được. À há, ông còn nhớ rõ trải nghiệm đầu tiên của mình, cứ như rơi qua thấu kính vào một thế giới hoàn toàn khác vậy đó. Cháu có đem Sổ Tay theo không? Sẽ có nhiều thứ để ghi chép đấy.” “Dạ, sẵn sàng rồi ạ.’’ Chúng tôi đi về phía dòng sông. Trên đường đi, chúng tôi khuấy động một đàn hươu làm chúng lao về phía mấy bụi cây thấp và trong vòng hai giây ngắn ngủi chúng đã mất hút. Và hiển nhiên là hươu trở thành vấn đề bàn thảo, ông nói về chuỗi thức ăn, về thứ tự của từng loài trong tự nhiên, con nào sẽ ăn con nào. Chúng tôi đi đến một con rạch nông nằm ở vị trí khuất, được bao quanh bởi một lớp rêu xanh dày. Trong không gian mát lạnh là mùi bùn và mục rữa bốc lên từ ao nước đọng. Bóng hai ông cháu phủ tới đâu là mấy con nòng nọc cứ nguẩy đuôi bơi theo hình dích dắc tránh xa tới đó; có mấy con vật kích cỡ to hơn đang vung vẩy bơi ngược dòng trốn bọn tôi, hình như là con rái cá hay chuột nước gì đó. Gần đó, một đôi nhạn đang chao lượn sát mặt nước tìm mồi. Hai ông cháu đặt túi đeo vai xuống, ông lôi cả bộ kính hiển vi ra, lắp ráp phần thân và thấu kính, mỗi phần đều được để trong hộp bọc vải nhung tinh xảo. Ông chỉ cho tôi cách ráp từng cái một. “Cháu phải ráp như thế này này,” ông bảo. Chiếc ống bằng đồng thau mát lạnh và nặng trịch trong tay tôi. Tôi biết rằng mình đang được tin tưởng giao phó một vật rất quý báu. Sau đó ông đặt chiếc hộp xuống phiến đá bằng phẳng rồi để kính hiển vi lên trên. “Nào,” ông đưa cho tôi hai mảnh kính mỏng và bảo, “chọn một giọt nước đi cháu.” “Giọt nào cũng được hả ông?” tôi hỏi. “Ừ, giọt nào cũng được cả.” “Nhưng có quá nhiều nước để chọn mà ông,” tôi đáp. Ông mỉm cười. “Lấy nước ở gần bờ chỗ có nhiều thực vật màu xanh kia kìa, cháu sẽ thấy nhiều điều thú vị hơn.” Tôi cúi người nhúng tay xuống nước, lấy một giọt nước lên rồi thả nó xuống mảnh kính. Ông chỉ tôi nhỏ thêm một giọt lên trên nữa. “Bây giờ để nó lên trên bệ soi đi,” ông bảo. “Đúng rồi đấy. Việc khó nhất là xoay gương phản xạ đến góc bắt được ánh sáng tốt nhất. Cháu cần đủ ánh sáng để làm nổi bật mẫu vật nhưng không quá sáng sẽ làm chói lòa hết các hình ảnh chi tiết.” Tôi sờ sẫm cái gương phản xạ và đưa mắt vào ống ngắm, tin chắc rằng một điều gì đó rất quan trọng sắp hiện ra. Nhưng tất cả những gì tôi thấy được chỉ là một màn sương xám mờ nhạt, thật thất vọng quá. “Ông ơi... cháu chẳng thấy gì cả.” “Này, vặn nút chỉnh độ nét đi” - ông cầm lấy tay tôi - “vặn cho nó từ từ đi xa ra. Đừng nhìn lên. Vừa nhìn vừa vặn đi cháu.” Thật là một bài tập làm tôi phát ngượng. “Cháu có đủ ánh sáng chưa?” ông bảo. “Đừng quên chỉnh gương phản xạ đấy nhé.” Và rồi nó cũng xuất hiện. Một thế giới lúc nhúc những sinh vật bơi loằng ngoằng đập vào mắt tôi làm hết cả hồn. “Oái!” Tôi thét to và nhảy dựng lên, tí nữa là làm lật nhào chiếc kính hiển vi. “Eo ôi,” tôi vừa làu bàu vừa giữ cho chiếc kính thăng bằng lại rồi nhìn ông. “Vậy là cháu đã thấy được những sinh vật đầu tiên qua kính hiển vi rồi phải không,” ông mỉm cười bảo. “Nhà hiền triết Hy Lạp cổ Plato đã từng phát biểu rằng khoa học bắt nguồn từ sự kinh ngạc mà.” “Lạy Chúa tôi,” tôi nói rồi nheo mắt nhìn lại vào thấu kính. Có mấy con gì đó đầy tóc phóng ngang qua; một con gì đó đập đuôi vụt lại; một quả cầu gai nhìn như quả chùy thời trung cổ lăn xuống; những chiếc bóng mờ nhạt mỏng manh thoắt ẩn thoắt hiện trong tầm quan sát của thấu kính. Mọi thứ thật hỗn độn, hoang dại,... và kì diệu nhất mà tôi được thấy từ trước tới giờ. “Đây là những thứ mà cháu thường đụng phải khi tắm sông đây sao?” tôi thốt lên, ước rằng mình chưa từng thấy chúng. “Những thứ này là gì vậy ông?” “Đó là những gì chúng ta tìm thấy. Có lẽ cháu nên phác họa lại một vài con để dễ phân biệt sau này khi đọc về chúng.” “Phác họa mấy con này hả ông? Nhưng chúng di chuyển nhanh quá.” “Đúng, vậy mới là thử thách chứ. Này, cầm bút chì đi cháu.” Tôi ngồi cạnh chiếc kính, hì hục nhìn rồi vẽ, vẽ rồi lại nhìn bằng mọi khả năng của mình. Một lúc sau, tôi nhận thấy có một số sinh vật quen thuộc xuất hiện lại làm cho việc phác họa lại chúng trở nên dễ dàng hơn. Ông ngân nga một điệu nhạc của Vivaldi và lăng xăng bên cạnh với chiếc lưới biến dạng của mình. Tôi vừa gặm nhấm cán bút chì vừa nhăn nhó với bức vẽ, trông nó chẳng khác nào một cục tròn tròn nham nhở vắt ngang tờ giấy vậy. “Cháu rất tiếc phải thừa nhận rằng bức vẽ này chẳng đẹp tí nào cả ông ạ,” tôi đưa cho ông xem. “Nếu nói về phác họa thì nó hoàn toàn đầy đủ phẩm chất. Nhưng điều quan trọng hơn là nó có đủ để chúng ta so sánh và nhận ra chúng trong bản đồ sinh vật trong phòng thí nghiệm hay không? Nếu như được thì cháu vẽ như vậy là ổn rồi.” “Cháu nghĩ là cháu sẽ nhận ra được, nhưng còn việc có dám xuống sông bơi lội nữa hay không thì không biết ạ.” Tôi đáp. “Mấy sinh vật này đều vô hại cả Calpurnia à, và chúng đã tồn tại dưới sông bao nhiêu niên kỷ trước khi cháu xuất hiện mà. Thêm vào đó, cháu cũng hãy tự an ủi rằng khi cháu tắm sông làm động nước thì bọn chúng cũng đâu thích thú gì phải không.” “Vâng thưa ông,” tôi gượng gạo đáp nhưng trong lòng vẫn e ngại. Chợt bụi cây sột soạt và con chó Ajax của ông phóng ra, tỏ vẻ mãn nguyện khi tìm thấy chúng tôi. Chắc chắn là nó đang đi tìm con chó săn gấu trúc đốm xanh tên Matilda của ông Gates để ve vãn rồi, nàng cẩu này hay đổi từ giọng trầm sang giọng tru inh ỏi cả thị trấn. Ajax mừng hết ông đến tôi, dụi mõm vào hai ông cháu để được vỗ đầu rồi nhảy qua khu nước cạn và sục sạo mảng nước lợ. Chợt một chú rùa to cỡ nắm tay chui đầu ra từ khúc gỗ mục làm Ajax luýnh quýnh chạy theo. Nó cũng thường thích đuổi bắt rùa và những con thú nhỏ dưới nước nhưng tôi chưa bao giờ thấy nó bắt con nào cả. Có vẻ nó là một chuyên gia nghiên cứu về loài chim thì đúng hơn. Nhưng lần này thật ngạc nhiên khi thấy nó vục hết cả đầu xuống nước rồi bối rối ngóc lên với một chú rùa cũng đang hốt hoảng trong mõm. “Ajax, mày làm gì vậy? Thôi ngay và để nó lại chỗ cũ đi.” Tôi bảo. Nhưng nó vẫn nhảy cỡn về phía hai ông cháu, tỏ vẻ hài lòng và cẩn trọng đặt chú rùa xuống dưới chân chúng tôi trước khi lắc mình làm nước văng tung tóe. Xong nó ngồi xuống và nhìn tôi chờ đợi. “Nó nghĩ rằng vừa hoàn thành nhiệm vụ đấy. Cháu nên khen nó đi, không thì thành quả huấn luyện của bố cháu sẽ trở thành công cốc đấy,” ông bảo. “Ôi, Ajax ngoan, Ajax giỏi.” Tôi vỗ nhẹ lên đầu nó. “Chúng ta phải làm gì với con rùa này đây? Travis đang nuôi một con trong phòng rồi, chắc chắn mẹ sẽ không chịu đựng thêm một con nào nữa đâu. Chắc ông phải giữ vòng cổ nó để cháu thả con rùa này đi thôi.” “Ông sẽ dẫn nó ra bờ sông,” ông bảo. “Đừng để nó thấy cháu thả con rùa đi, nếu không nó sẽ tự nghi ngờ về hành động của bản thân và rồi sẽ từ từ mất nhuệ khí đi đấy.” Nói rồi ông dẫn Ajax đi, đến khi cả hai khuất bóng thì tôi bắt đầu quan sát chú rùa. Tại sao nó lại để cho một con vật trên cạn to lớn và ngu ngốc bắt đi như vậy? Nó già rồi ư? Hay nó đang bị ốm? Tôi chẳng thấy nó có vấn đề gì cả, nhìn nó cũng giống như bao con rùa khác trên sông mà. Chắc đơn giản là nó ngu ngốc thôi. Hay là nó thà chết để không phải sản sinh ra thêm những thế hệ rùa con ngu ngốc sau này nữa nhỉ. Nhưng muộn rồi, tôi đã can thiệp và dĩ nhiên là phải chịu trách nhiệm cho sự an nguy của nó. Tôi chợt vu vơ nghĩ về bản thân mình sẽ xử trí ra sao để tồn tại trong trường hợp bất khả kháng như vậy, rồi thả chú rùa xuống nước và nó biến mất tăm ngay trong chớp mắt. “Được rồi, ông thả nó ra đi.” Tôi ngoảnh lại thét to. Tôi leo ra bờ sông theo sau họ, lên đến nơi thì gặp Ajax, nó ngửi ngửi tôi để tìm chú rùa. “Nó đi rồi,” tôi vừa xòe hai bàn tay trắng ra vừa bảo. “Thấy rõ chưa?” Tôi thề rằng Ajax hiểu tôi nói gì vì tai nó cụp xuống và quay mặt đi chỗ khác. “Nó bò đi rồi Ajax ạ, tao xin lỗi mà. Lại đây và ngoan nào.” Tôi làm xù lông nó lên và cù vào hai bên sườn như nó vẫn thường thích mặc dù biết rằng sẽ dính mùi ẩm của chó đến hết ngày. “Nào, chó ngoan của chị, ngoan nhé.” Có vẻ nó vui lên được đôi chút và đủ vị tha để đi cùng tôi đuổi theo ông. Ajax tìm thấy một cái hang rất to, lâu rồi mới thấy một cái như vậy. Nhìn và ngửi ra thì có vẻ là hang con lửng, loài đang khan hiếm dần trên thế giới. Ajax tự đùa nghịch bằng cách dụi mõm sâu vào trong rồi hít lấy hít để rất phấn khích. “Ông thấy cái gì đằng kia vậy?” tôi kêu vọng sang phía ông, ông đang thích thú nhìn chăm chú vào một cây thực vật chẳng hay ho gì cả. “Đi nào Ajax.” Tôi phải lôi mạnh vòng cổ để kéo Ajax ra, tránh cho nó bị mất chóp mũi vì một cú quất thình lình của gia chủ khét tiếng cáu kỉnh của cái hang này. “Đậu tằm[21],” ông bảo. “Trông thì giống cây đậu tằm lông nhưng hình như đã bị biến dị rồi. Nhìn cái lá phụ lạ lùng ở dưới gốc kìa.” Ông ngắt một ít cuống rồi đưa cho tôi. “Cất nó đi cháu.” Mẫu thực vật này chán phèo, nhưng tôi vẫn cất nó vào lọ và chú thích ĐẬU TẰM LÔNG (BIẾN DZỊ?). Ông bảo, “ông còn tìm thấy một con sâu bướm lông mịn ở đây nữa này. Cháu từng nuôi một con như vậy bao giờ chưa?” Nói rồi ông giơ nhánh cây lên, trên đó một chú sâu bướm to và nhiều lông nhất mà tôi từng thấy, dài khoảng 2 inch. (Hay chính xác hơn là dài 5cm. Ông từng bảo tôi một nhà khoa học thực thụ phải dùng hệ thống đo lường lục địa của Pháp, và sẽ sớm được ứng dụng rộng rãi ở Mỹ). Con sâu bướm nằm trong lớp lông dày nhìn giống một tấm vải nhung và tạo ra cảm giác gọi mời như lông mèo, nhưng tôi biết rõ rằng không nên động vào nó. Từ trước đến nay tôi đều được bảo rằng lông sâu bướm chích rất đau. Tôi chỉ không biết là rất đau hay đau đớn cùng cực nữa. “Nó thuộc loài nào vậy ông?” tôi hỏi. “Ông cũng không chắc nữa. Nhìn bằng mắt thường thì chúng đều giống nhau cả. Chỉ có thể biết rõ khi nó thành bướm thôi.” “Vậy nó chích đau đến cỡ nào hả ông?” Ông bảo, “Ông nghĩ cháu có thể tự chạm vào thử. Điều này cũng khá thú vị: Cháu dám hi sinh đến đâu khi nhân danh là một nhà khoa học? Cũng là một điều đáng suy xét đấy.” Ừm, thật ra tôi chỉ cần cho mấy cậu em một đồng rồi xui chúng làm thay tôi. Nhưng nghĩ về cái giá phải trả từ sự trừng phạt của mẹ làm tôi chùn bước, chắc chắn là không đáng rồi. “Đem nó về nhà đi ông, cháu sẽ nuôi nó và đặt tên nó là Petey,” tôi bảo. “Calpurnia, không nên đặt tên cho mẫu vật thí nghiệm của mình đâu.” “Sao vậy ông?” tôi vừa hỏi vừa bỏ Petey và nhánh cây của nó vào lọ Mason lớn nhất, loại một lít, có đục lỗ trên nắp. “Nó sẽ làm hỏng độ khách quan của thực nghiệm.” “Cháu không hiểu lắm ông ạ!” Ông không để ý lời tôi nói mà chăm chú vào dấu chân của mấy con vật. “Hình như là dấu chân cáo,” ông lẩm bẩm. “Nhìn có vẻ còn có mấy con mèo con nữa. Thật thú vị. Ông nghĩ chúng bị xơi hết rồi.” Khi về đến nhà, tôi thấy Sam Houston và Lamar bắt được một con cá trê, đặt lên cân của xưởng tỉa hột bông, nó nặng hơn 20kg. Cái miệng vĩ đại và nhăn nhở của nó dính chặt mấy sợi râu ngoe nguẩy to như cây bút chì. Trông nó thật đáng sợ. Nhưng con to nhất của giống cá này cũng không chống trả dữ dội lắm khi cắn câu nên mấy ông anh của tôi chẳng thấy vất vả. Thử thách lớn nhất là làm sao kéo nó lên bờ và lôi về nhà mà không bị mấy cái ngạnh đầy nọc độc chích phải. Tối đó nhà tôi chiên xù khứa cá lớn, phần thịt trắng phau vẫn còn vương vấn chút mùi bùn tanh nhưng có vẻ chẳng ai để ý cả. Còn tôi thì chẳng muốn ăn và chẳng muốn nhìn thấy nó. Nói về kích thước thì nó to bằng J.B. ấy chứ. Nó to đến nỗi có thể nuốt chửng cả cái chân của tôi trong khi tôi thì suốt ngày bơi lội trên dòng sông ấy. Cứ thử nghĩ đến lúc nó cắn chặt và lôi tôi xuống đáy rồi giữ ở đó quá lâu hay chỉ cần vừa đủ lâu, tùy thuộc là nhìn từ phía nó hay phía tôi mà thôi. Gia đình tôi sẽ tìm thấy tôi sau đó với mái tóc bù xù như nàng Ophelia[22] tội nghiệp. Hay họ chẳng thể tìm thấy phần cơ thể nào đủ lớn để làm đám tang mà chỉ còn cái áo lót thôi. Có ai đời đi làm đám tang cho cái áo lót không nhỉ? Chắc là không rồi. Còn một cái chi thì sao nhỉ? Chẳng phải cánh tay của tướng Jackson[23] cũng được cử hành tang lễ long trọng đấy sao? Hay cái đầu? Tôi nghĩ cái đầu là ổn nhất. Đến đó thì tôi thấy rằng mình đã phân tích vấn đề đầy đủ rồi và cố gắng không nghĩ tới nó nữa. Nhưng vài tháng sau, mỗi lần xuống sông tôi lại nghĩ đến một bên là con thủy quái đang rình rập chờ chực xâu xé tôi, một bên là lũ sinh vật siêu vi vùng đầm lầy kia đang âm thầm chui vào trong tôi. Thật tiếc khi phải thừa nhận rằng đôi khi kiến thức lại làm hỏng cả ngày hay ít nhất là làm tăm tối đi một ngày của bạn. CHƯƠNG 9 PETEY Đặc tính riêng của con tằm thường sẽ xuất hiện vào thời kì thành sâu bướm hoặc giai đoạn làm kén. MÙA HÈ CỨ THẾ TRÔI QUA, tôi dành nhiều thời gian hơn để nghiên cứu khoa học và dĩ nhiên là ít tập đàn dương cầm hơn. Nhưng việc này có vẻ chẳng hay ho chút nào vì mỗi lần trốn học là tôi phải tập lại và còn phải tập thêm nửa tiếng đồng hồ nữa chứ. Vào thứ 7, sau khi tập suốt hai tiếng đồng hồ (!), tôi chuồn ra thư viện với cuốn Sổ Tay. “Vào đi cháu,” ông nói vọng ra. Ông đang săm soi mấy hình ảnh trong Bản đồ sinh vật siêu vi vùng ao hồ. “Cháu vừa thực hiện xong nghĩa vụ văn hóa của ngày hôm nay phải không?” ông nói mà chẳng buồn ngẩng mặt lên, lúc đầu tôi thoáng ngỡ ngàng nhưng rồi tôi chợt nghiệm ra rằng với ô cửa sổ mở toang thế này thì dĩ nhiên ông nghe được tôi dập tay ầm ầm lên đàn từ phòng khách hết cả rồi. “Thật sự là ông cũng thích bài Nhạc nước đó, và ông hi vọng rằng cháu sẽ không chán nó vì phải tập quá nhiều đến nỗi ghét nó cả đời. Đó là hậu quả nghiêm trọng của việc phải tập đàn quá tải đấy. Ông hi vọng rằng Margaret có thể hiểu ra điều đó.” “Mẹ bảo cháu tập lại nửa tiếng vào ngày mai. Ồ,” tôi thốt lên khi nhìn thấy mấy hình ảnh qua vai ông, “đó là hình mà cháu từng vẽ phải không?” Nói rồi tôi mở Sổ Tay đến chỗ mấy tấm ảnh phác họa sinh vật ao hồ siêu vi đã vẽ hôm nọ. Chiếc chùy trung cổ tôi vẽ nhìn có vẻ giống một con trong sách. “Volvox,” tôi đọc lên “Vôn-vóc-xờ. Đọc như vậy đúng không ông?” “Ừm, đúng rồi. Thật là một hình dáng không chê vào đâu được. Ông phải thừa nhận rằng trong các con thuộc bộ Chlorophyta thì ông luôn bị rung động bởi nó.” “Nhìn kìa,” tôi kêu lên, “thêm một con nữa này.” Hình ảnh phác họa của tôi không còn là thứ tầm phào nữa rồi, tôi tự cảm thấy hài lòng quá thể. “Hãy chú thích lại tên của chúng trong Sổ Tay của cháu đi,” ông bảo, “đồng thời ghi lại số trang trong cuốn bản đồ để cháu có thể tra cứu lại chúng mỗi khi cần thiết.” Tôi quyết định dùng bút mực thay vì bút chì làm cho công việc trở nên căng thẳng hơn hẳn, nhưng rốt cuộc nhìn nó như một vết lem nhỏ mà thôi. Rồi tôi hỏi ông, “Cháu phải cho Petey ăn gì ông nhỉ?” “Ai cơ chứ?” ông hỏi. “Petey, con sâu bướm á.” “Calpurnia, chẳng lẽ ông phải chỉ cho cháu từng chút một như em bé à? Chắc chắn là cháu có thể tự nghiệm ra chứ. Hãy nghĩ về vấn đề này đi, cháu có nhớ là đã tìm thấy nó ở đâu không? Nó sống trên cây gì?” “À,” tôi chợt nghĩ ra và lon ton chạy đi tìm loại lá giống cái cây nơi hai ông cháu đã nhận nuôi Petey. Mọi thứ cũng hợp lý nhỉ. Công việc duy nhất của sâu bướm là ăn cho nên chẳng bao giờ tìm thấy nó lảng vảng ở nơi nào có thức ăn mà nó không thích cả. Tôi vừa bỏ lá vào lọ thì Petey liền mê mẩn cuộn mình lại ngay. Tôi thay luôn cành cây ngắn ngủn hôm nọ bằng một nhánh cây to hơn để tiện hơn cho Petey vận động và tiêu khiển theo nhu cầu tất yếu của nó. Tôi để chiếc lọ chứa Petey cạnh cái tổ chim ruồi và một tô nòng nọc mà tôi đang nghiên cứu trên bàn trang điểm làm nó ngày càng chật chội hơn. Nửa tiếng sau khi tôi nhìn lại đã thấy Petey nhóp nhép trên nhúm lá và trông có vẻ hài lòng lắm, nhưng thật ra nó buồn hay vui thì tôi làm sao biết rõ được? Trước khi đi ngủ tôi lại ghé thăm Petey, nó nằm im bất động, giãn hết cả người ra trên nhánh cây, hình như đang ngủ. Tôi cũng mong rằng nó chỉ đang ngủ thôi chứ không phải là đã chết. Tôi quan sát xem Petey có mắt hay không và nó có đang nhắm mắt hay không. Nhìn hai đầu của nó đều như nhau, nhưng khi soi kĩ bằng kính lúp, tôi phát hiện ra hai chấm đen nhỏ tí nằm ẩn mình dưới lớp lông ở một đầu. Chắc là mắt của nó rồi, nhưng hình như chẳng thấy mí mắt đâu cả. Tôi liền viết câu hỏi vào Sổ Tay: Vì sao sâu bướm lại không có mí mắt? Chẳng phải nó tiếp xúc với ánh nắng mặt trời suốt ngày như vậy thì lẽ ra phải có mí mắt chứ nhỉ! Đến sáng hôm sau đến lượt Travis săm soi Petey và đưa ra một quan điểm mà tôi chưa từng nghĩ tới, “Tại sao chị lại đặt tên nó là Petey, làm sao biết được nó là con đực cơ chứ?” “Thật tình chị cũng không biết nữa,” tôi đáp.“Có lẽ chúng ta sẽ biết được khi nó thành bướm. Hơn nữa chị cũng chẳng biết là nó sẽ hóa thân thành loài bướm nào nữa kìa.” Lại thêm vài câu hỏi vào trong Sổ Tay: Sâu bướm có phân biệt giống đực và cái hay không? Có khi nào chúng chuyển hóa giới tính từ trong kén hay không? Ông từng nói cho tôi nghe về ong vò vẽ có thể lựa chọn giống đực hay cái trong giai đoạn phôi thai. Thật là một điều thú vị, tôi không hiểu vì sao trẻ con lại không được quyền chọn như vậy trong giai đoạn còn hôi sữa nhỉ, đến khoảng năm tuổi ấy. Với tất cả những gì tôi chứng kiến từ cuộc sống của con trai và con gái, chắc chắn tôi sẽ chọn làm con trai rồi. MẸ CHẲNG THÍCH THÚ gì sự có mặt của Petey nhưng vẫn bao dung vì biết nó sẽ hóa thành một con bướm xinh đẹp. Mẹ luôn yêu quý cái đẹp trong cuộc sống này. Bà tài trợ cho Dàn hợp xướng Lockhart và cho chúng tôi đi xem múa ba-lê ở Austin mỗi năm một lần. Đi mất nửa ngày bằng xe lửa để đến đó, rồi nghỉ lại tại khách sạn Driskill nơi bọn tôi sẽ được ăn kem sô-đa cạnh đài phun nước và uống trà chiều tại phòng Pha Lê. Tháng nào mẹ cũng nghiền ngẫm mấy tờ tạp chí đặt gửi qua đường bưu điện: The Ladies’ Home Journal và McCall’s. Từ đấy bà vẽ hoa văn, cắt may những bông hoa lụa để trưng trong phòng khách. Mặc dù chúng tôi có cả cánh đồng hoa dại nở rộ mỗi độ xuân về nhưng mẹ chẳng bao giờ động đến cả. Đôi lúc tôi cũng hái cả bó rồi cắm vào lọ hoa cạnh đầu giường, nhìn cũng đẹp đấy nhưng một hai ngày sau là héo hết cả, chỉ còn lại chiếc bình đầy nước nặng mùi. Petey chẳng màng gì đến cuộc sống xung quanh cả, hay nói đúng hơn là nó chẳng để ý tới bất kì thứ gì khác ngoài bó lá tôi bỏ vào mỗi ngày. Nó chỉ ngủ rồi ăn, ăn rồi ngủ, thỉnh thoảng giữa hai hoạt động đó, nó thải ra mấy hạt đặc keo màu xanh từ phần đuôi. Thế là ngày nào tôi cũng phải dành thời gian để dọn dẹp chỗ ở cho nó cả. Tôi đã không chuẩn bị để làm việc này nên một thời gian sau là bắt đầu cảm thấy ngán ngẩm, nhưng rồi lại tự nhủ với bản thân rằng hãy tiếp tục cố gắng vì sau này sẽ được đền đáp bằng một con bướm tuyệt đẹp. Petey lớn nhanh như thổi, tròn quay như cây xúc xích. Một hôm tôi hái nhầm lá, thế là nó hờn dỗi không thèm ăn. Tôi bực bội định vứt nó ra đường để bớt phiền phức, hơn nữa nó cũng chẳng phải là vật nuôi dễ thương gì cả. Khi tôi bày tỏ ý định này thì bị ông mắng cho một trận, “Calpurnia, cháu phải nhớ rằng Petey không phải thú nuôi của cháu mà chỉ là một thành phần trong chuỗi sinh vật tự nhiên mà thôi. Những con vật cấp cao sẽ thú vị hơn nhiều, ông cũng phải thừa nhận rằng chính bản thân mình đôi cũng khi chán nản, nhưng không phải vì thế mà chúng ta có thể bỏ qua việc nghiên cứu các động vật cấp thấp. Điều này chỉ chứng tỏ cho việc làm không có mục đích và học thức kém mà thôi.” Và vì khoa học, tôi lại tiếp tục dọn phân cho sâu bướm. Rồi chẳng rõ vì lý do gì Petey không chịu ăn gì cả. Tôi kiểm tra lại thức ăn, vẫn đúng loại lá đó, nhưng nó lại chẳng màng quan tâm tới. Tôi nghĩ, Mày tiêu rồi phải không con sâu bướm hay hờn dỗi kia. Chắc tao phải ném mày ra bãi cỏ cho mày đi chơi với mấy con chim, xem lúc đó mày sẽ thế nào. Sáng hôm sau, tôi ngỡ ngàng khi thấy Petey đã đóng thành kén. Vậy không phải nó đang hờn dỗi mà là đang chuẩn bị cho quá trình chuyển hóa của mình. Suýt chút nữa tôi đã quẳng đi con sâu bướm vô tội ấy đi. Cả ngày nó cứ phun ra những sợi xám từ miệng (tôi đoán vậy) rồi miệt mài cuộn qua cuộn lại, tô điểm cho cái kén hỗn độn ấy hết hướng này qua hướng khác, nhìn thấy thật cẩu thả. Trình độ đan len của nó chẳng khá gì hơn tôi cả, làm tôi cảm thấy đồng cảm hơn. Nó dần dần bao bọc thân mình vào chiếc bao con nhộng. “Ngủ ngon nhé Petey,” tôi ra lệnh cho nó. Petey khẽ trở mình lần cuối rồi lại nằm im trong chiếc cũi tự tạo. Cái kén cứ thế bất động suốt hai tuần liền, ở trong đó, Petey đang chậm rãi tiến hành cuộc chuyển hóa diệu kỳ, sắp xếp lại các bộ phận của mình trong giấc ngủ. Tôi cảm thấy có gì đó rất kì diệu và huyền bí, sâu xa hơn nữa là một cảm giác rợn người, làm cho ta nghĩ đến Sự Sống và Cái Chết. Tôi chưa từng chứng kiến người chết bằng xương bằng thịt nào cả, gần nhất là hình chụp bằng phương pháp Daguerre của chú Crawford Steele, chú ấy mất lúc 3 tuổi vì bệnh bạch cầu và được quấn trong một mớ dây trắng. Nhìn thấy những phần trắng trên đôi mắt trũng sâu làm tôi biết chắc rằng chú ấy không phải đang ngủ, và điều này chẳng ổn chút nào. Tôi lại gần Harry rồi hỏi, “Anh có nhìn thấy người chết bao giờ chưa?” Anh đáp, “Chưa. Mà sao em lại hỏi anh như vậy?” “Chẳng có lý do gì đặc biệt cả.” “Tại sao em lại nảy ra những ý nghĩ đó nhỉ? Thỉnh thoảng em làm anh sợ đấy.” “Em ư? Làm anh sợ ư?” Cái ý nghĩ rằng tôi có thể hù dọa ông anh lớn to khỏe của mình thật nực cười. “Em đang tưởng tượng quá trình Petey sắp xếp lại bộ phận của nó làm em nghĩ đến những động vật sống, rồi lại nghĩ đến những động vật chết. Lúc nào có đám tang trong thị trấn anh dẫn em đi xem nhé!” “Callie Vee à.” “Đâu có gì ghê gớm lắm đâu, là nghiên cứu khoa học thôi mà. Ông Backy Medlin nhìn có vẻ già yếu hom hem lắm rồi đấy. Anh có biết ông ấy bao nhiêu tuổi rồi không?” “Sao em không tự đi mà đếm răng ông ấy luôn đi?” “Ý hay đấy anh Harry ạ, nhưng chắc ông ấy chẳng còn chiếc nào đâu. Ông ấy sẽ chết sớm thôi, anh nhỉ?” Ngày nào tôi cũng đi học ngang qua trước xưởng tỉa hột bông, chỗ ông Backy Medlin thường ngồi tụ tập cùng mấy ông lão lẩm cẩm khác, la lối, văng nước bọt tranh luận những câu chuyện về thời chiến, rằng nó xảy ra thế này, không phải thế kia và nhiều thứ vớ vẩn khác. (Cái tên Backy xuất phát từ việc ông ta thường nhai rất nhiều thuốc lá rồi luôn nhổ trật khỏi bô rác. Ông ta hay nhổ liên tục, thô tục và bừa bãi, bởi vậy xung quanh ông ta lúc nào cũng la liệt những bã thuốc màu nâu, ai đi ngang cũng phải dè chừng). Chẳng còn ai thèm đoái hoài đến đám người già này nữa cả. Đôi lúc khi chán tán gẫu, họ lại ngồi chơi đô-mi-nô với những quân cờ cũ mèm được dùng hàng triệu lần đến nỗi chẳng thể đọc nổi có mấy chấm trên đó nữa. Những quân cờ lách cách trên bàn, thỉnh thoảng một ông hô lên “Ha!” báo hiệu vừa quẳng ra một nước đi tốt. “Vậy anh sẽ dẫn em đi đám tang của ông Backy chứ?” Tôi hỏi. Harry đáp, “Có phải em không vậy Callie, ăn nói thế chẳng hay ho gì đâu.” “Em đâu có trù ông ấy chết đâu. Em chỉ tò mò thôi mà. Ông bảo sự tò mò là yếu tố qu... quy... ế...”. “Quyết định chứ gì?” “Đúng rồi, yếu tố quyết định cho nghiên cứu khoa học của thế giới.” “Được thôi. Nhưng em đã tập đàn chưa? Ngày mai cô Brown sẽ đến đấy.” “Anh càm ràm chẳng khác mẹ chút nào cả. Em chưa tập, nhưng em sẽ tập đây. Harry này, mình còn phải học bao nhiêu năm nữa nhỉ? Em chán tập piano lắm rồi, còn anh thì sao? Sao không để mấy đứa khác học nhỉ? Em còn vô khối thứ hay ho hơn để làm.” “Mấy thứ hay ho khác làm với ông chứ gì.” “Dạ, vâng.” “Lần trước anh có hỏi qua nhưng em không trả lời. Nào, bây giờ thì cho anh biết em thường làm gì với ông vậy?” “Tuyệt lắm Harry ạ, có nhiều thứ để kể lắm. Nào là sâu bọ, rắn rết, chó mèo, đến cả mèo hoang, cây cối, ong bướm, chim chóc, mây mưa, nắng gió, gấu, rái cá nữa... mặc dù khó mà tìm thấy chúng ở gần đây. Còn cả chuyện về tàu săn cá voi và...” “Rồi rồi, đủ rồi.” “Về những vùng biển phía Nam và Grand Canyon[24]. Rồi về những hành tinh và những ngôi sao.” “Rồi rồi.” “Cả những nguyên tắc về công đoạn chiết xuất. Anh biết ông đang nghiên cứu để làm rượu hồ đào đúng không? Thú thật là chẳng đâu vào đâu cả, nhưng đừng nói lại với ông là em nói vậy nhé!” “Được mà,” Harry đáp. “Nào là định luật Newton này, lăng kính, kính hiển vi...” “Anh biết rồi.” “Trọng lực, ma sát, thấu kính...” “Đủ rồi nghe không!” “Chuỗi thức ăn này, nguyên tắc tuần hoàn của mưa này, quy luật thứ tự trong tự nhiên này. Anh đi đâu vậy Harry? Còn có nòng nọc, cóc, thằn lằn và ếch nữa. Đừng đi chứ. Em còn được thấy siêu vi, mấy con vi trùng ấy, qua kính hiển vi. Rồi còn bướm và sâu bướm, bởi vậy em mới đem Petey về đấy; đừng quên nó nhé anh! Harry ơi?” MỘT BUỔI SÁNG tôi bị đánh thức bởi tiếng lích chích như lũ chuột thường huyên náo trong tường, nhưng lần này nó lại phát ra từ chiếc lọ đựng Petey. Trong phòng tối quá nên tôi kéo rèm ra rồi đặt chiếc lọ lên bệ cửa sổ. Cái kén phập phồng tứ phía. Khi ánh sáng tràn dần qua ô cửa, Petey vùng vẫy và từ từ đục cái kén, nó chẳng thấy mặt tôi đang gí sát bên thành lọ, mà chắc cũng chẳng thèm để ý làm gì. Rốt cuộc nó cũng đục thủng được một lỗ to ở đầu kén rồi cố hết sức dần dần trồi ra. Và kìa, khác với trí tưởng tượng của tôi về một sinh vật đẹp rạng ngời, thay vào đó là một con bướm thân hình mập mạp với đôi cánh ẩm ướt đang cụp lại. Nó rùng mình, cố tự tách cánh ra. Tôi chợt nhận ra rằng nó không còn là Petey ngày nào nữa, phải tìm tên mới cho nó để biểu đạt cho vẻ đẹp mà tôi từng mong chờ bấy lâu thôi. Gì nhỉ... là Fleur vì nó sống trên mật hoa, hay là Shapphire, hay Ruby, tùy vào màu cánh của nó. Cuối cùng tôi quyết định để cho nó tiếp tục một mình và xuống nhà ăn sáng. Tôi công bố hùng hồn trên bàn ăn, “Petey đã nở rồi và đang đợi cho cánh khô.” “Tuyệt quá, nó màu gì?” mẹ hỏi. “Con chưa biết nữa mẹ à. Nó vẫn chưa tách xong cánh. Nhưng chắc chắn phải có tên mới vì nó không còn là sâu bướm Petey nữa rồi.” “Nào các con, có ý kiến gì không?” mẹ hỏi. Bé Sul Ross bảy tuổi tuyên bố, “Mình nên đặt tên nó là... là...,” nó bối rối, “... là Bướm.” “Cũng được đấy cưng ạ,” mẹ bảo. “Tên Belle, đại diện cho sắc đẹp có được không,” Harry nói. “Cũng hay đấy Harry. Còn ý kiến nào khác không?” Ông chen vào, “Cháu nên chờ xem nó nom ra sao đã.” Thật là một lời góp ý kì quặc, nhưng nếu nói đến sự hiểu biết về loài bướm thì không ai hơn được ông, chắc chắn phải có lý do chính đáng. “Vâng, vậy chờ xem nó nhìn ra sao rồi hãy đặt tên vậy, mặc dù tên Belle nghe cũng được đấy.” Sul Ross tiu nghỉu cố nói thêm, “Bướm nghe cũng hay vậy chị Sully. Hay em gọi nó là Bướm Belle nhé.” “Nó là đực hay cái vậy Callie?” Travis hỏi. “Chẳng biết nữa,” tôi vừa nhồm nhoàm bánh rán vừa đáp. “Đừng có vừa ăn vừa nói như thế chứ,” mẹ mắng. Ăn sáng xong, ba đứa em trai nối gót tôi lên phòng để làm lễ đặt tên cho chú bướm vừa chào đời. Kìa, Petey, hay Belle, đang tự hào dang rộng đôi cánh to tướng choán hết cả chiếc lọ. Nó thật vĩ đại, nhợt nhạt và phủ đầy lông lá. Nó chắc là con nhậy to nhất thế giới. “Con bướm này nhìn ngộ nhỉ,” Sul Ross bảo.“Nó bị làm sao ấy nhỉ?” “Nó đâu phải bướm, Sully,” Travis nói. “Nó là con nhậy. Chị có biết nó là nhậy không vậy Callie?” “Ừm,” tôi hơi lùi lại bên cạnh em mình, “cũng không rõ nữa.” “Lạy Chúa, em chưa bao giờ thấy con nhậy nào to như vậy cả,” Travis thốt lên. “Em cũng vậy, nhìn nó ghê ghê phải không?” Sul Ross bảo. “Ừ...” Thật sự là nó ghê ghê thật, nhưng tôi chẳng bao giờ thừa nhận đâu. Tôi chẳng ngờ là nhậy có thể to như vậy, nhất là con này chỉ mới nở thôi đấy. “Chị định làm gì với nó đây?” Travis hỏi. “Dĩ nhiên chị sẽ nghiên cứu nó,” tôi nói nhưng trong lòng chẳng hiểu mình phải làm cái quỷ gì với con quái vật này nữa. “Được rồi, nhưng chị định nghiên cứu về cái gì đây?” “À, xem nào... thói quen ăn uống, đại loại vậy á. Rồi thói quen chọn bạn đời. Đúng rồi, khu vực sống, kích thước cánh, mấy thứ giống vậy á.” “Chị có phải chạm vào nó không?” Sul Ross rụt rè.“Còn em thì chắc chắn là không muốn đụng vào nó rồi.” “Chắc là chưa đâu, nó mới bung kén thôi mà, cần thời gian để thích nghi chứ.” Tôi đáp. “Chị phải nhanh chóng tìm cho nó một cái lọ khác to hơn thôi Callie ạ, nó sắp làm vỡ cái này rồi đấy.” “Chị không nghĩ là nó sẽ lớn hơn thêm đâu.” “Hay là chị để cho nó bay vòng vòng trong phòng này cũng được đấy,” Travis đề nghị. Còn lâu mới được. “Eo ôi,” Sul Ross giật lùi người lại thốt lên.“Thôi em đi đây.” “Em cũng vậy,” Travis đồng tình.“Tới giờ đi học rồi.” “Này!” Tôi gọi với theo, “Quay lại đây đi, đâu có gì phải sợ, chị sẽ không thả nó ra đâu!” Giờ thì tính sao đây? Tên Petey hay Belle hay một cái tên bất kì nào đây hỡi cái con vật đang đập cánh loạn xạ trong lọ kia ơi. Tiếng đập cánh thật khô khan, yếu ớt như báo hiệu điềm gở. Tôi chuẩn bị đi học, cố không nhìn về phía nó, nhưng mỗi khi nghe tiếng đập cánh, lòng tôi lại nao nao. Tôi hiểu rõ rằng mình phải thả nó ra khỏi cái lọ đó thôi, nhưng tôi lại gạt ý nghĩ ấy đi. Và hôm đó, mỗi giây phút trôi qua trên ghế nhà trường tôi đều phải cố gắng để không phải nghĩ về Petey. Về đến nhà, sau khi bị mẹ bắt lên lầu thay áo khoác, tôi trườn xuống nhà tập đàn. Sau đó tôi lết lên phòng, khi chạm vào tay nắm cửa, chợt một nỗi lo lắng dâng đầy trong tim: Nếu nó bay mất rồi thì sao? Lúc sáng tôi đã vặn chặt nắp lọ chưa nhỉ? Nếu như nó đang bay nhởn nhơ trong phòng thì sao? Rồi tôi tự tĩnh tâm lại. Nào nào Calpurnia Virginia Tate, mày thật vớ vẩn, mày có phải là một nhà khoa học hay không. Thôi nào, dù sao nó cũng chỉ là một con nhậy thôi mà. Sau khi tự trấn an mình, tôi bước vào và lia mắt một vòng quanh phòng. Kia rồi, Petey vẫn ở lì trong lọ y như lúc sáng, nó quá to để có thể quay đi hướng khác. Nó cục cựa, hai cánh đập liên hồi vào thành lọ. “Petey à, tao phải làm gì với mày đây? Tao phải tìm ra mày thuộc giống gì và phải cho mày một chỗ ở rộng rãi hơn,” tôi thì thầm. Tôi lôi quyển Phân loại thế giới côn trùng của ông từ trên kệ sách và lật đến phần Lepidoptera (bộ cánh phấn). Dựa trên màu sắc và kích thước khủng thì nó phải thuộc loài Saturniidae (Bướm ngài). Để phân biệt được chủng loại này thì phải xem độ dang rộng của cánh nhưng hiện giờ không đủ không gian để thực hiện. Tôi cũng đang không tìm được cái gì hay hơn, một là phải tìm một cái lọ to hơn, hai là phải thả nó đi thôi. Tôi dán mắt vào nó một lúc, thật ra nhìn quen cái kích thước khủng của nó rồi thì cũng chẳng có vấn đề gì, và nó cũng có hai cái râu mỏng manh dễ thương đấy chứ. Tôi đã nuôi dưỡng nó đến lúc này. Bây giờ nó đang kẹt trong cái lọ kia cũng vì tôi, tôi không thể bỏ mặc coi như không có nó trên đời này được. “Được rồi, Petey à, đi gặp và xem ông nói gì nhé.” Tôi cầm cái lọ lên, giơ ra xa rồi đem xuống nhà, trên đường đi nó vẫn tiếp tục vẫy vùng. Chợt tôi va vào Harry trong tiền sảnh. Anh liếc mắt qua Petey rồi thốt lên, “Trời đất, con bướm của em đó hả? Trông to như chim hải âu ấy nhỉ.” “Hả,” tôi ngỡ ngàng, “hả.” “Em có biết là nó sẽ nở ra cái thứ này không?” Harry hỏi. “Dĩ nhiên rồi,” tôi miễn cưỡng đáp. Harry nhìn tôi chăm chăm và bảo, “Cho anh xem nó nào. Nếu như Hội chợ Fentress có cuộc thi cho loài nhậy thì nó sẽ chiến thắng là cái chắc đấy.” Cũng là ý hay đấy nhỉ. Bên cạnh heo, gia súc và vật nuôi trong nhà thì cũng có thể có một phân khúc cho nhậy chứ. Điều này bất chợt làm tôi nhớ lại phần thi thú cưng của trẻ em được tổ chức thường niên tại hội chợ. Lũ trẻ thường đem đến mèo, chó, vẹt đuôi dài, đại loại là những con vật quen thuộc và nhàm chán. Tại sao lại không có một con thú vị hơn như con nhậy chẳng hạn nhỉ? “Harry, anh nói xem, Petey có thể tham gia cuộc thi thú cưng được không?” tôi hỏi. “Nó đâu phải thú cưng đâu Callie Vee,” Harry cười khẩy đáp lại. “Thì đã sao nào? Năm ngoái Dovie Medlin đem đến con cá vàng Bubbles đó, cũng đâu phải thú cưng gì đâu. Vả lại bọn chúng đâu phải biểu diễn hay làm trò gì đâu, chỉ nằm đó cho ban giám khảo xem qua thôi mà. Nhiều khi nó lại còn được thêm điểm vì sự khác biệt của nó nữa phải không anh?” “Cũng có thể, nhưng còn mấy tháng nữa mới đến hội chợ mà,” Harry bảo. “Em định sẽ nuôi nó thế nào? Em đâu thể nhốt nó trong cái lọ đó mãi được.” “Dĩ nhiên là không rồi,” tôi đáp lại.“Em đang tìm nhà cho nó đây. Nhưng nhậy sống được bao lâu nhỉ?” “Anh đâu biết, em mới là nhà tự nhiên học mà. Theo anh đoán thì chỉ chừng vài tuần mà thôi.” Harry đáp. Chợt mẹ bước ra từ bếp rồi đứng bất động nhìn Petey như không tin vào mắt mình. “Con đựng cái quái gì trong lọ vậy Calpurnia?” mẹ lên giọng. Tôi thở dài đáp.“Petey đấy mẹ ạ,” rồi tôi lí nhí thêm vào, “hay mẹ gọi nó là Belle cũng được.” Cứ như một cái tên đẹp có thể che đậy được cái vật quái gở này vậy. Petey khẽ cựa quậy một cách khô khan làm mẹ lùi lại một bước, mắt vẫn dán chặt vào Petey. “Chuyện gì xảy ra với con... con bướm xinh đẹp của con rồi?” Mẹ hỏi. “Nó không nở ra thành bướm mà lại thành nhậy mẹ à,” tôi vừa nói vừa đưa cái lọ ra cho bà nhìn rõ hơn làm mẹ lùi lại thêm bước nữa. “Con vứt nó ngay cho mẹ. Trời ạ, nó là nhậy đấy. Hãy tưởng tượng xem to như nó thì sẽ làm hại đến đồ len tới cỡ nào!” Tôi quên rằng mẹ và SanJuanna luôn luôn tuyên chiến với hàng ngàn con nhậy nâu nhỏ bé để bảo vệ lấy chăn mền và quần áo mùa đông, nhưng vũ khí thô sơ bằng vỏ bào tuyết tùng và tinh dầu hoa oải hương chẳng thể nào ngăn được thế lực của Tự nhiên cả. “Nó không ăn len đâu mẹ ạ,” tôi bảo. “Con nghĩ vậy đấy. Nó chỉ ăn mật hoa hay không ăn gì tùy theo nó thuộc loài nào. Một số khi lớn lên không cần ăn gì cả, nhưng con chưa tìm hiểu được cho rõ ràng thôi.” Mẹ đưa cả hai tay lên. “Đừng bao giờ để nó thoát ra và bay trong nhà này ở bất cứ trường hợp nào nghe chưa. Mẹ muốn nó biến khỏi đây. Con có nghe không?” “Vâng, con nghe rồi.” Bà lấy tay xoa thái dương rồi quay người lên lầu. Harry lên tiếng, “Tiếc quá. Anh rất muốn thấy nó có mặt trong buổi trình diễn thú cưng đấy. Nào nào, các bạn hãy đứng lên và lại gần đây xem Calpuria Virginia Tate và con nhậy khổng lồ của cô ấy nào!” “Thôi dẹp anh đi, chả có gì buồn cười cả. Được thôi, em sẽ thả nó đi, nhưng trước hết phải cho ông xem qua đã.” Tôi đi tìm ông nhưng không thấy trong thư viện. Tôi có thể đi vòng ra ngoài cửa chính rồi đi đường dài qua phòng thí nghiệm hay cắt ngang bếp để rồi đón nhận lấy thêm nỗi khiếp sợ và giải thích cho nhiều người. Tôi quyết định giấu nó trong tay rồi đi ngang qua bếp. Viola liếc qua rồi hỏi, “Cháu mang theo cái gì vậy?” “Chẳng có gì đâu ạ,” tôi đáp rồi tiếp bước ra cửa sau. Petey vẫn cựa mình trong lọ, tôi ước gì nó nằm yên giùm một lát. Tôi đã quen với kích thước của nó nhưng cái âm thanh đó thì không, nó vẫn mang điều gì đó hoang sơ và đầy điềm gở làm cho lông măng trên tay tôi cứ dựng đứng hết cả lên. Rồi tôi tìm thấy ông đang lom khom trên chồng sổ tay kế toán. “Ông ơi, nhìn xem cháu có gì này,” tôi đưa chiếc lọ ra. “Xem nào, thật là một mẫu vật khỏe mạnh đấy. Ông chưa bao giờ thấy con nào to như vậy. Cháu có biết được nó thuộc loài nào chưa?” “Cháu nghĩ nó thuộc loài Saturniidae hoặc Sphingidae (Bướm sư tử),” tôi vừa nói vừa tự hào với khả năng phát âm của mình. “Cháu định làm gì với nó?” “Cháu định sẽ cho nó đi trình diễn thú cưng ở hội chợ, nhưng Harry nghĩ nó không sống lâu được vậy, còn ông thì luôn bảo cháu nó không phải là thú nuôi, và mẹ thì nhất quyết đuổi nó ra khỏi nhà. Nghĩa là cháu có thể giết nó rồi để vào bộ sưu tập hoặc thả nó đi.” Ông nhìn tôi rồi hai ông cháu cùng nhìn Petey đang đập cánh loạn xạ trong lọ. “Nó là một mẫu vật tuyệt vời đấy. Có thể cháu chẳng bao giờ có được con thứ hai như vậy đâu,” ông bảo. “Cháu biết chứ,” tôi chau mày lại.“Ông đã từng cảnh báo cháu đừng đặt tên cho nó. Nhưng cháu đã nuôi nấng nó đến bây giờ rồi, làm sao mà nỡ sát hại nó được.” KHI HOÀNG HÔN BUÔNG XUỐNG, bọn tôi túm tụm lại trên bãi cỏ trước nhà đợi chờ những chú đom đóm đầu tiên xuất hiện, mấy cậu em ngồi trước hiên nhà còn chiếc lọ đựng Petey chễm chệ giữa bãi cỏ. Ông đong đưa trên chiếc xích đu vừa nhâm nhi rượu whisky ngô mua ở cửa hàng. Tôi mở nắp lọ rồi đứng lùi lại. Petey co mình lại nằm im trong vòng một phút, sau đó trồi lên miệng lọ, ra khỏi chiếc kén bằng thủy tinh của mình. Trong khi Petey đang lảo đảo trên bãi cỏ thì Ajax lon ton xuất hiện từ góc nhà. Petey run rẩy dang rộng đôi cánh. Nhưng quá muộn rồi, tôi liếc xéo thấy Ajax đang lao tới, hai tai phấp phới, có vẻ hứng thú tột cùng với trò chơi đuổi bắt mới. Petey yếu ớt tung mình lên không trung nhưng chỉ được vài chục centimet, trong khi Ajax vẫn phóng tới rất nhanh. Nó đang chuẩn bị nuốt chửng mất mẫu vật đẹp nhất, dự án khoa học hay chính Petey của tôi rồi. Đồ con chó ngu ngốc, cơn giận trong tôi chợt sục sôi! Tôi chạy về phía Ajax rồi thét lên Ajax!, lớn đến nỗi chính tôi cũng phải giật mình, không ngờ là tôi có nhiều hơi đến vậy. Mấy chú chim trên cây bay tán loạn, còn Ajax thì thoạt lưỡng lự. Tôi định chụp lấy vòng cổ của Ajax nhưng nó tránh sang một bên, chắc đang nghĩ đây là trò tiêu khiển mới. Rồi nó lại vồ lấy Petey, lần này Petey phóng lên được tới tầm ngang ngực, trông như gà mái đang tập đập cánh vậy. “Không!”, tôi hét lên, và lần này Ajax dường như nhận ra hiệu lệnh quen thuộc. Thoáng bối rối, nó nhìn tôi trong khi Petey đang nằm trong tầm với mấy móng vuốt của mình. Chắc chỉ là trò vận động hay ho đối với Ajax thôi phải không? Nhiệm vụ của nó là săn bắt chim mà đúng không? Tôi lại vội vàng phóng về hướng con chó trong khi Petey nỗ lực hết sức mình vụt lên không trung, vào giây phút đó nó đã chính thức chuyển từ cư dân mặt đất thành một thứ khác, một sinh vật trong gió lộng, một thành viên của trời mây. Tôi ngạc nhiên đứng nhìn. Dường như Petey sẽ bay, bay cao mãi. Ajax thì giận dỗi kéo rị vòng cổ và tôi thả nó ra, giờ này thì không thể đuổi bắt được Petey nữa rồi. “Wao!”, mấy cậu em trai huyên náo. “Chị tuyệt lắm Callie, thế mà em cứ nghĩ con nhậy ấy tiêu đời là cái chắc rồi.” Ông nâng ly lên chúc mừng khi nhìn thấy Petey khuất bóng sau bụi cây. Đêm đó tôi ngồi một mình trước hiên nhà nhìn màn đêm dần buông xuống, cố gắng thức đến khi những chiếc hoa loa kèn ở lối đi trước nhà cũng chìm vào bóng tối. Chúng mập mờ trong đêm như những ngôi sao nhạt nhòa vừa hạ thế xuống trái đất này. Chợt có con gì đó bay vèo qua hướng thẳng tới mấy đóa hoa loa kèn, sục sạo hết bông này đến bông khác. Nghe chừng như chim ruồi nhưng tôi không thể nhìn thấy rõ. Chẳng lẽ chim ruồi bay vào ban đêm sao? Tôi không nghĩ vậy đâu. Hay là một con dơi ăn mật hoa nhỉ? Tôi cũng chẳng biết nữa, nhưng dù không thấy gì tôi cũng nghĩ đó là Petey. Tôi tự nhủ với lòng mình như vậy. Tôi thích có một kết thúc có hậu hơn. CHƯƠNG 10 LULA RẮC RỐI (DÙ KHÔNG CỐ Ý) Bồ câu núi ở Guiana, những chú chim ở Paradise và nhiều loài chim khác nói chung đều có một quy luật nhất định. Những chú chim đực sẽ khoe bộ lông mượt mà và làm ra những trò kì lạ trước mặt các nàng chim, cuối cùng các nàng sẽ biết chọn ra người bạn đời ấn tượng nhất cho mình. PHẢI MẤT MỘT THỜI GIAN DÀI thì cô bạn Lula Gates của tôi mới vơi đi sự hổ thẹn vì đã đổ bệnh trước mặt mọi người trong buổi trình diễn piano và bạn ấy chẳng nói về điều gì khác ngoài chuyện đó trong suốt mấy tuần liền. Tôi càng ngày càng ngán ngẩm việc này và bảo bạn ấy rằng mọi chuyện có thể còn diễn ra tồi tệ hơn nữa cơ, đến cả Maestro Frédéric Chopin còn có lần bị tương tự như vậy khi đang chỉ huy dàn nhạc biểu diễn cho đức vua và hoàng hậu nước Phổ nữa mà. “Thật vậy à?” Lula có vẻ tươi tắn lên hẳn. Thật ra là không, tôi chỉ bịa ra thôi. Nhưng điều này có vẻ đã giúp cho Lula cảm giác dễ chịu hơn và thôi không còn ca cẩm nữa. Theo tôi thì Lula rất đẹp, mặc dù vào thời điểm đó tôi chưa ý thức được điều này. Bạn ấy có bím tóc dài vàng óng như mật ong buông thõng sau lưng, và đung đưa tràn đầy sức sống, nó như có linh hồn thực sự mỗi khi Lula chơi một khúc nhạc hùng hồn nào đó trên đàn piano. Bạn ấy còn có đôi mắt màu nhạt lạ lùng hòa trộn giữa màu xanh da trời và xanh lá cây, đôi khi màu sắc của chúng thay đổi theo màu dải băng buộc tóc mà Lula dùng. Lula sở hữu một đặc điểm rất lạ mà tôi rất thích: Trên phần ngang sống mũi của bạn ấy luôn hiện hữu một lớp sương mỏng manh bất kể vào mùa đông hay mùa hạ. Lớp sương đó chỉ đủ làm ẩm một đầu ngón tay thôi, nhưng khi quẹt đi thì nó lại lập tức xuất hiện. Nghe thì có vẻ chẳng hấp dẫn gì nhưng nó lại trở thành một thú tiêu khiển hơn là một sự phiền phức. Lúc còn nhỏ, tôi sẵn sàng lặp đi lặp lại động tác quẹt khô rồi đứng chờ nó xuất hiện đến khi nào Lula bắt tôi dừng lại mới thôi. Và tôi cũng chẳng thể lý giải được hành động đó của mình nữa. Nghe đến đây hẳn mọi người đều nghĩ rằng có một người bạn như Lula thật là một niềm may mắn của tôi ngoài việc phải đối mặt với lũ anh em trai ở nhà, và điều này thật ra cũng đúng thôi, mặc dù đôi lúc bạn ấy cũng hơi bị ngớ ngẩn. Bạn ấy chẳng bao giờ chịu đi tìm mẫu vật với tôi ở con đập (như tìm rắn). Bạn ấy chẳng thèm đi cùng tôi đến Bãi Tập Huấn Liên Bang (vì sợ rắn và sợ bị phồng chân). Bạn ấy cũng không dám đi tắm sông cùng tôi (sợ rắn và không chịu tắm truồng). Nhưng ở trường chúng tôi luôn ngồi chung bàn học với nhau, từ đó tình bạn giữa hai đứa bắt đầu và trở nên bền vững. Thêm vào đó, mẹ của Lula cũng ủng hộ tình bạn này vì có vẻ bà ấy cho rằng thân thiết với thành viên trong gia đình họ Tate sẽ rất tốt. Và sâu trong đáy lòng, có lẽ bà ấy thật sự mong con gái mình sẽ trở thành dâu trong nhà họ Tate đấy nhỉ? Cũng có thể lắm chứ. Tôi cảm thấy rằng gia đình mình thuộc loại giàu có nhất tỉnh. Còn nhà Lula cũng khá giả, cũng đủ ăn đủ mặc. Bố bạn ấy sở hữu một trại nuôi ngựa, họ có tiền cho Lula học piano và có cả người giúp việc, chỉ không có đầu bếp riêng thôi. Lula còn có một cậu em trai Toddy bị bệnh thiểu năng. Cậu ta không đi học mà chỉ suốt ngày ngồi lì trong góc phòng, ôm ấp mảnh chăn rách nát cũ kĩ và không ngừng run lẩy bẩy. Toddy sẽ ngoan ngoãn trừ khi ai đó lấy đi mảnh chăn đó, cậu ta sẽ trở nên căng thẳng, tru lên liên hồi đến khi nào được trả lại mới chịu thôi. Gia đình bên đó cảm thấy cứ để cho cậu ta ôm lấy mảnh chăn cũ nát ấy còn đỡ rắc rối hơn là đem nó đi giặt cho sạch sẽ, vì thế mảnh chăn ngày càng hôi thối. Ngoài điều này ra thì nhà họ Gate còn có vẻ im ắng so với sự ồn ào náo nhiệt của gia đình tôi. Lula giật được giải đan len, trong khi thành phẩm của tôi thì trông thật hỗn độn đến tội nghiệp. Tôi chẳng hiểu nổi bạn ấy lấy đâu ra sức tập trung để kết được nút thắt kiểu Pháp hay may được cái cổ áo đăng-ten trong lớp Nữ công gia chánh ở trường nữa. “Quy tắc cũng giống như học piano thôi Callie ạ,” Lula sẽ trả lời như vậy, “và cậu cũng sẽ làm được thôi. Chỉ cần cậu kiên trì luyện tập nhiều lần thì mọi việc sẽ ổn thôi mà.” Tôi cân nhắc và cho rằng Lula có lý. Nhưng tại sao tôi lại thấy âm nhạc và may vá chẳng có gì liên quan đến nhau nhỉ? Khi đánh đàn, nốt nhạc sẽ tan vào không trung ngay sau đó và chẳng để lại gánh nặng gì cho mình. Còn nữa, âm nhạc khi tan đi rồi vẫn đem lại niềm vui, chơi một bản nhạc tiết tấu vui nhộn sẽ làm cho mọi người nhảy nhót vòng quanh vui vẻ trong phòng khách nữa ấy chứ. Còn việc thêu thùa thì được tích sự gì? Tôi thừa nhận rằng đôi khi việc trang trí hay làm tóc cũng đem lại hiệu quả nhưng tôi luôn cảm thấy nó thật nhạt nhẽo và buồn tẻ, chỉ hợp với một ngày mưa buồn trong tiếng tích tắc đều đặn của đồng hồ thôi. Thật là việc vô bổ. Tôi từng thuyết phục bạn ấy chơi những bản Sousa dành cho bốn tay và bọn tôi phối hợp rất nhuần nhuyễn, hai đứa tấu lên gấp đôi dòng chảy những nốt nhạc và hợp âm có tiết tấu phức tạp, thật vô cùng hứng khởi. Một chiều nọ, ông anh Lamar 13 tuổi xích lại kề bên khi tôi đang kiểm lại Lepidoptera[25] trước hiên nhà. “Callie này...” “Gì đấy anh?” “Em có nghĩ rằng Lula thích anh không?” “Đương nhiên rồi Lamar ạ.” “Không, ý anh hỏi là em có nghĩ Lula ‘thật sự thích anh’ không?” Thật bất ngờ, Lamar chưa bao giờ để ý đến con gái cả. “Sao anh hỏi em vậy?” Tôi hỏi. “Sao không đi hỏi thẳng cô ấy?” Anh Lamar tỏ vẻ hoảng hốt. “Anh đâu hỏi được.” “Sao không?” “Ừ... anh chẳng biết nữa,” anh ấy ngượng ngùng đáp. “Vậy thì em cũng chẳng biết trả lời anh sao nữa.” Chợt tôi nảy ra một ý. “Sao anh không đi hỏi Harry thử đi?” Mắt anh sáng ngời. “Đúng rồi, ý hay đấy. Nhưng em đừng nói cho Lula biết nhé?” “Không đâu.” “Và cũng không được tiết lộ cho ai khác biết đâu đấy?” “Không đâu anh.” “Rồi được rồi, cảm ơn em nhé Callie.” Tôi chẳng để ý đến cuộc nói chuyện này lắm cho đến vài hôm sau, tới lượt ông anh 14 tuổi Sam Houston trườn đến cạnh tôi trong sảnh lớn rồi thì thầm qua kẽ răng. “Callie à, anh có chuyện muốn hỏi em. Em có thấy Lula Gates thích anh không?” “Cái gì nữa đây?” tôi giật bắn người. Anh ấy có vẻ lưỡng lự. “Đừng có nhảy dựng lên như thế chứ. Anh chỉ nghĩ vẩn vơ rằng cô ấy có thích anh không thôi mà.” “Trời ạ, Sam.” “Sao cơ?” anh hỏi. Tôi hơi nóng vội. “Em nghĩ anh nên đi tự hỏi thì tốt hơn.” Anh tỏ vẻ hốt hoảng.“Anh đâu hỏi được.” Tôi bảo, “Anh nên hỏi anh Harry ấy. Anh Harry có nhiều kinh nghiệm trong chuyện này mà.” Ai bảo chiêu cũ không xài được nào? “Ừ hay đấy Callie. Anh sẽ đi hỏi anh ấy. Nhưng em đừng nói với Lula nhé?” “Không, không bao giờ đâu.” “Hứa nhé?” “Hứa mà.” “Em thề sống thề chết đi.” “Em thề sống thề chết này.” “Lời thề sống chết của hai anh em vùng Bắc Mỹ nhé?” “Hai anh em vùng Bắc Mỹ.” “Phải nói hết mới có hiệu nghiệm chứ.” “Lời thề sống chết của hai anh em vùng Bắc Mỹ,” tôi thề. “Bây giờ thì để cho em yên nào.” “Ôi, sau này em sẽ trở thành một mụ già cáu gắt đấy,” anh bảo rồi đi ngay, chắc chắn là tìm đến Harry rồi. Bất giác tôi xoa thái dương vì đầu chợt thấy nhức nhối. Hai ngày sau, tôi đang ngồi im đọc sách trong góc phòng thì cậu em Travis 10 tuổi thẩn thơ đi lại với vẻ mặt kì lạ. Tôi lườm nó rồi buột miệng, “Muốn gì đấy nhóc?” Nó giật mình. “Em chỉ muốn hỏi chị cái này thôi mà.” “Em không định hỏi chị là Lula Gates có thích em không đấy chứ hả Travis?” Nó há hốc mồm, mặt mày co rúm lại hốt hoảng. “Cái gì?” nó hét lên. “Không, không, em chỉ định hỏi xem chị ấy có thích mèo hay không thôi.” “Chị chẳng biết là chị ấy có thích em, thích mèo hay một ai đó cả đâu. Chị chán ngấy câu hỏi này rồi. Đi mà hỏi anh Harry ấy.” Tôi gom mấy cuốn sách lại rồi bật dậy lầm bầm.“Sao có nhiều thứ khủng khiếp xảy ra xung quanh mình vậy trời.” “Chị chán cái gì chứ? Chị đang nói cái gì vậy? Cái gì khủng khiếp đang xảy ra?” nó hỏi vọng theo tôi. Tôi phớt lờ nó, một sự thật rành rành là cả thị trấn này chẳng có thằng con trai nào quấy rầy chị em gái nó để hỏi xem Callie Vee có thích nó hay không. Và việc này có ý nghĩa gì không? Tôi có quan tâm không? Không, không hề. Một giờ sau, Harry qua phòng tôi cười lớn. “Em đừng có đẩy tụi nó qua anh nữa nhé. Anh chẳng thể yên được một phút nào cả. Em hãy tự cho chúng lời khuyên đi chứ.” “Em chẳng biết nói gì với họ cả. Lại chỉ có một Lula mà thôi. Chuyện gì xảy đến với họ vậy?” “Cái này là bệnh dịch của tình yêu đầu đời đấy, bọn nó đến tuổi rồi.” “Ừm, vậy bảo bọn họ thôi ngay đi.” “Vào thời điểm này thì không có điểm dừng đâu,” anh bảo. “Nó sẽ ngày càng nghiêm trọng hơn đấy. Mà anh cũng tò mò đấy, cô ấy có thích ai trong bọn nó không?” “Ừm, thật sự em cũng không rõ nữa. Em có nên đi hỏi cô ấy không?” “Chỉ trong trường hợp em muốn đứng giữa Cuộc chiến thứ 3 ở Manassas thì hãy hỏi. Nếu là anh thì anh sẽ không dây vào đâu.” Tôi thấy rằng anh nói đúng, “Vâng đúng đấy anh Harry. Em sẽ coi như không biết gì.” “Sẽ không khó lắm đâu,” anh nói rồi lui ra khỏi phòng. “Vô duyên!” lẽ ra tôi định ném cái gì đó vào anh ấy, nhưng gần nhất chỉ có cuốn Sổ Tay và tôi không bao giờ đùa giỡn với nó cả. Hôm sau trên đường đến trường tôi gặp Lula ở đường cái như thường lệ rồi cùng bạn ấy đi bộ hết quãng đường còn lại, trò chuyện vu vơ. Chợt tôi ngoái đầu lại và thấy 3 anh em của tôi đang lẽo đẽo theo sau, giữ một khoảng cách nhất định, mắt thì dán chặt vào Lula. Ôi trời đất ơi, mọi việc phức tạp hơn tôi nghĩ nhiều rồi đây. Sự thay đổi đột ngột của họ làm tôi lo lắng. Họ có còn quá nhỏ để yêu đương thế này, đúng không nhỉ? Tại sao tôi lại không được sống trong một gia đình bình thường như bao cô gái khác vậy? Tại sao việc này lại xảy đến với cả bọn họ cùng một lúc như vậy nhỉ? Vào giờ giải lao, cả ba anh em tìm cách để đứng gần ranh giới vô hình được thỏa thuận chia sân trường ra hai khu vực nam nữ riêng biệt. Bọn họ đứng tựa vào mấy gốc cây trên sân như những kẻ vô công rồi nghề, chỉ trừ ánh mắt cứ dán chặt lên Lula, quan sát hững hờ rồi chợt liếc ngang qua nhau đầy thù hận. Lúc đó tôi và Lula đang chơi cò cò, bím tóc ánh bạc của cô nàng chói chang trong nắng như một vật thể sống. Chiếc váy xòe ra đến ngang gối theo mỗi bước nhảy của Lula làm Lamar há hốc mồm đến phát nghẹn. Tôi quắc mắt nhìn anh ấy. Một tháng trước, cho dù Lula có mặc áo lót đi ngang qua sân thì anh ấy cũng chẳng thèm để ý. Bây giờ thì thế đấy. Thời kỳ sóng gió đã tới rồi đây. “Lula này,” tôi vừa thảy viên sỏi vừa nói. “Gì vậy?” “Không có gì đâu.” “Nào, cậu định hỏi gì vậy Callie?” “Ừm... cậu có...” tôi đã lỡ thề độc là không nói rồi. Và bản thân tôi chưa biết có ai không mất mạng khi phản lại lời thề hay không nên cũng chẳng dám liều tiết lộ ra. “Tớ có gì nào?” bạn ấy gặng hỏi. Tôi đáp nhanh. “Cậu có nghĩ là mình nên rủ Dovie chơi cùng không?” “Tớ nghĩ cậu không thích Dovie chứ.” “Tớ có nói không thích Dovie bao giờ đâu...” tôi vừa nhảy vừa nói. “Có mà Callie. Tuần trước chính cậu nói rõ ràng như vậy mà.” “Vì lòng vị tha của Chúa, mình mời cậu ấy chơi cùng nhé?” Lula nhìn tôi tỏ vẻ ngờ vực. “Nếu cậu muốn thì được thôi.” Tôi chẳng muốn, tôi không thể chịu nổi Dovie, tôi miễn cưỡng tiến về phía cô ta. Tôi vừa định mở miệng rủ thì cô Harbottle rung chuông báo giờ vào học. Dovie ném cho tôi một cái nhìn kì quặc. Dạo này tôi hay bị nhìn kiểu này, mà thật ra tôi có làm gì để bị nhìn như vậy đâu nhỉ? Bọn tôi xếp thành hai hàng trai gái lũ lượt vào lớp. Tôi bắt đầu cảm thấy sợ đoạn đường về nhà và cố gắng nghĩ cách để được đi riêng một mình. Cô Harbottle bắt gặp ngay tôi đang ngồi thừ người ra đó và gọi tôi đứng lên trả lời hàng loạt các ngày tháng trong lịch sử Texas, dĩ nhiên là hầu hết tôi không trả lời được dẫn đến việc làm trò cười cho cả lớp. “Calpurnia Tate, mọi người đang cắt ngang việc gì của em à?” cô hỏi. “Cắt ngang gì ạ thưa cô? Em có đang làm gì đâu?” “Chính xác đấy. Đầu óc của em hôm nay để đâu vậy?” “Chắc em để quên ở nhà mất rồi thưa cô Harbottle,” tôi đáp. Cả lớp cười khúc khích. """