"
Quy Tắc Số 1 - Đầu Tư Thành Công Chỉ Với 15 Phút Mỗi Tuần - Phil Town full prc pdf epub azw3 [Tài Chính]
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Quy Tắc Số 1 - Đầu Tư Thành Công Chỉ Với 15 Phút Mỗi Tuần - Phil Town full prc pdf epub azw3 [Tài Chính]
Ebooks
Nhóm Zalo
Về bộ sách chứng khoán của Alpha Books
Đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng trong việc tìm hiểu về cổ phần, cổ phiếu, chứng khoán, chiến lược đầu tư của độc giả, Alpha Books chọn mua bản quyền dịch và xuất bản bộ sách về đầu tư chứng khoán bao gồm những cuốn sách hay nhất và nổi tiếng nhất, được viết bởi những học giả, các nhà đầu tư thành công hàng đầu của thế giới.
Đầu tư vào thị trường chứng khoán là một hoạt động phức tạp, nhiều rủi ro nhưng cũng đầy lý thú. Vậy làm thế nào để có những quyết định đầu tư đúng đắn, giảm đến mức tối thiểu những thất bại? Cuốn sách Quy tắc số 1: Đầu tư thành công chỉ với 15 phút mỗi tuần mà các bạn đang cầm trên tay là một cuốn sách thực tế và hữu ích cho những người mới bắt đầu bước vào một lĩnh vực đầu tư đầy thách thức - đầu tư chứng khoán. Tác giả cuốn sách này, Phil Town, một triệu phú thành công trong đầu tư, đã viết cuốn sách này dựa trên một triết lý đầu tư đơn giản và dễ nhớ: Đừng để mất tiền!
Được tuyển chọn từ những bộ sách về đầu tư, tài chính và chứng khoán nổi tiếng nhất của nhiều tác giả tên tuổi hàng đầu thế giới, hy vọng cuốn sách này sẽ trở thành một món quà giá trị và hữu ích cho tất cả các độc giả quan tâm.
Xin trân trọng giới thiệu tới độc giả loạt sách về đầu tư và chứng khoán này.
Tháng 01 năm 2011
CÔNG TY SÁCH ALPHA
PHẦN GIỚI THIỆU
Làm giàu không khó
“Khi bạn thay đổi cách suy nghĩ, bạn đang thay đổi thế giới của mình”
— NORMAN VINCENT PEALE
(1898 - 1993)
Cuốn sách này là một hướng dẫn đơn giản giúp bạn thu được mức lợi nhuận trên 15% khi kinh doanh trên thị trường chứng khoán mà không gặp rủi ro. Trên thực tế, đầu tư theo Quy tắc số 1 sẽ giúp bạn tránh khỏi những ảnh hưởng từ sự thăng trầm của thị trường chứng khoán. Tôi sẽ chứng minh cho các bạn điều này ở phần cuối cuốn sách.
Ngày nay, việc đầu tư theo Quy tắc số 1 có vai trò rất quan trọng bởi nhiều lý do. Dễ thấy nhất là vì những người sinh sau Thế chiến thứ hai chỉ có trung bình 50.000 đô-la gửi ngân hàng để dành cho hai mươi năm nữa, khi họ nghỉ hưu. Họ nghĩ họ cần 1 triệu đô-la vào thời điểm nghỉ hưu, nhưng họ sẽ không kiếm được chừng đó. Thế hệ những người trẻ hơn thì chật vật với việc thanh toán các khoản nợ, tiết kiệm tiền, nhưng họ cũng nghĩ đến việc đầu tư vào thị trường chứng khoán. Nếu mọi người chỉ đầu tư vào trái phiếu chính phủ ít rủi ro với lãi suất 4%/năm(1), họ khó có thể bảo đảm cuộc sống cho mình khi bước vào tuổi nghỉ hưu. Mặt khác, cố gắng kiếm được 15% lợi nhuận bằng cách phỏng đoán đầu tư (còn gọi là “đầu cơ”) cũng dễ khiến bạn thua lỗ. Quy tắc số 1 giúp giải quyết vấn đề làm thế nào đạt được lợi nhuận cao nhưng ít rủi ro, và quy tắc này cũng giúp bạn kiếm được khoản dự trữ hưu trí mong muốn nhanh hơn, với khoản đầu tư ít hơn nhiều so với hình dung của bạn.
Tôi không phải là người phát minh ra Quy tắc số 1. Quy tắc số 1 lần đầu tiên được Benjamin Graham ở Trường đại học Columbia thiết lập và sau đó được phát triển bởi một người rất nổi tiếng, học trò của Graham và cũng là nhà đầu tư chuyên nghiệp thành công
́ ́
nhất trên thế giới - Warren Buffett. Theo Buffett “Chỉ có hai Quy tắc đầu tư: Quy tắc số 1: Tránh thua lỗ… và Quy tắc số 2: Đừng quên Quy tắc số 1”.
Tôi viết về Quy tắc số 1 vì tôi không phải là Buffett hoặc Graham. Nếu phải là một thiên tài mới có thể sử dụng được Quy tắc số 1 thì chẳng có gì để nói. Tôi là một người bình thường giống như các bạn. Tôi thích mọi thứ đơn giản và dễ hiểu. Tôi không học tại trường kinh doanh hoặc làm việc trên Phố Wall2. Tôi nhận biết được tầm quan trọng của Quy tắc số 1 khi phải trải qua những giai đoạn khó khăn. Nếu bạn có thể đầu tư mà không lo thua lỗ, bạn có sẵn sàng tự mình kiểm soát và tiến hành đầu tư không?
Rõ ràng, câu trả lời là có. Đó là lý do tôi được mời đi thuyết trình cho ít nhất 500.000 người mỗi năm để họ thấy rằng áp dụng Quy tắc số 1 thật dễ dàng. Tôi cũng thuyết trình về Quy tắc số 1 trên diễn đàn lớn vòng quanh nước Mỹ do Peter Lowe tổ chức có tên gọi “Hãy tự khởi động”. Tại đó, tôi được giới thiệu là “người đã giảng dạy về cách thức đầu tư cho nhiều người nhất tại nước Mỹ”. Trong chuyến đi đó, tôi có những buổi diễn thuyết cùng với Rudy Giuliani, Bill Clinton, George H.W. Bush, Gerald Ford, Jimmy Carter, Magaret Thatcher, Colin Powell, Mikhail Gorbachev, tướng Tommy Franks và thuyết trình Quy tắc số 1 cho hơn 2 triệu người. Bây giờ là lúc tôi nói với các bạn về Quy tắc số 1.
Trước khi tôi biết Quy tắc số 1 và bắt đầu chuyến du thuyết, tôi rất nghèo và không dám mơ tới việc mua những bất động sản đắt tiền hoặc du lịch vòng quanh thế giới. Tôi từng làm nhiều công việc như đào cống rãnh, làm sạch các thiết bị cho thuê, bơm xăng, lái xe tải, làm bồi bàn, may những chiếc dây đeo quần. Tôi tốt nghiệp trung học loại trung bình và phải thi đến bốn lần mới đỗ vào trường cao đẳng. Trong suốt bốn năm phục vụ trong quân ngũ, tôi có hai năm phục vụ trong lực lượng đặc biệt (thường được gọi là lính mũ nồi xanh) và có bốn tháng tham gia cuộc chiến tranh tại Việt Nam.
Ngày 1/3/1972, tôi kết thúc nghĩa vụ quân sự tại Việt Nam và trở về Mỹ. Ngày cuối cùng trong quân ngũ, khi tôi rảo bước từ sân bay
̀ ́
SeaTac tại Seattle, tự hào trong bộ đồng phục quân nhân với chiếc mũ nồi xanh thì một người đàn ông chạy lại, nhổ nước bọt vào tôi rồi chạy đi. Tôi rời xa nước Mỹ khá lâu để rồi không hề biết gì về việc người Mỹ khinh miệt tôi đến mức nào do những gì tôi làm khi được gửi ra nước ngoài chiến đấu. Sau nhiều năm phục vụ trong quân ngũ, tôi chỉ cần vài ngày ngắn ngủi làm một thường dân để nhận ra rằng nhiều người Mỹ nghĩ tôi thật ngu ngốc (hoặc còn tồi tệ hơn thế) khi dấn thân ra chiến trường.
Tôi bị thất nghiệp, nhưng cuối cùng tôi cũng tìm được việc làm hướng dẫn viên trên sông. Sau một vài năm làm việc tại California, Utah và Idaho, tôi chuyển tới làm việc tại Grand Canyon. Khi đó, tôi cũng để tóc dài như mọi người, mặc bộ đồ da đen, để chòm râu dê, sống trong một căn lều trong rừng gần Flagstaff, Arizona, và lái một chiếc Harley Davidson màu đen có tiếng động cơ kêu ầm ĩ khiến mọi người khiếp sợ. Cuộc sống của tôi cách xa Phố Wall và thế giới đầu tư chứng khoán. Lúc đó tôi đã ý thức rằng việc kiếm sống rất khó khăn.
Cuộc sống của tôi thay đổi vào năm 1980 khi tôi dẫn các thành viên quản trị của Outward Bound đi xuống hẻm núi trong vòng hai tuần. Outward Bound là một chương trình giáo dục thử thách con người ở mọi độ tuổi trong các môi trường khác nhau, thường là những cuộc thám hiểm tới những vùng hoang vu đầy mạo hiểm, để họ có thể học cách làm việc theo nhóm, cách làm lãnh đạo, xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn, tự khám phá v.v… Bởi vì Outward Bound để cho những người tham gia tự làm tất cả các công việc của họ nên chúng tôi quyết định cũng làm như vậy với các thành viên quản trị; thay vì chèo thuyền chở họ xuôi dòng sông, chúng tôi để họ tự chèo những chiếc bè nhỏ. Sau bảy ngày, chúng tôi tới Crystal, thác nước nguy hiểm nhất ở Grand Canyon. Mỗi giây 2.400m3 nước đổ thẳng từ vách đá granít cao hơn 10m. Tại vách đá, độ cao và khối lượng của nước tạo ra một xoáy nước khổng lồ (được gọi là “Hố xoáy”). Trong tất cả các chuyến hướng dẫn xuôi theo hẻm núi, tôi chưa bao giờ tới gần hố xoáy, và người duy nhất tôi biết đã tới gần xoáy nước phải cố gắng lắm mới sống sót được. Anh nổi lên mặt nước với những vết rách sâu và lưng gần như bị gãy. Chúng tôi luôn luôn lái thuyền về phía phải của xoáy nước và tránh nó ra. ̀ ̀ ̀
Nhưng lần này, chúng tôi đang chèo thuyền, và tôi cần các thành viên khác giúp đỡ để lái con thuyền sang mé phải con sông. Chúng tôi khởi đầu khá suôn sẻ, thuyền trôi xuôi dòng về mé phải, nhưng khi tôi yêu cầu mọi người trên xuồng chèo về phía bờ phải, con thuyền gần như đứng tại chỗ. Trên thực tế, chúng tôi đang chèo ngày càng gần đến hố xoáy. “Hãy chèo hết sức! Mạnh lên nào! Cuộc sống của các bạn phụ thuộc vào đó!”
Thế nhưng, chúng tôi ngày càng bị cuốn gần hố xoáy. Lúc đó, tôi yêu cầu mọi người chèo mạnh hơn nữa như thể cuộc sống của tôi phụ thuộc vào đó, và điều đó khiến mái chèo của họ va vào nhau. Những mái chèo cứ khua trong không khí còn con thuyền vẫn bị kéo ngược lại. Con thuyền xoay vòng và ngày càng tiến thẳng đến hố xoáy. Thế này thì một số người trong chúng tôi có thể sẽ chết. Ngay lúc đó, tôi nhận thấy có một dòng nước chảy giữa vách núi và hố xoáy. Tôi kêu to, át cả tiếng ồn của dòng thác, gọi thuỷ thủ đoàn của tôi chèo hết sức có thể về phía mép trên của hố xoáy với ý nghĩ có thể lướt qua ngọn sóng phía trên ghềnh đá. Đó là sự liều mạng và tôi chợt nghĩ chúng tôi có thể bị nghiền nát khi va chạm vào ghềnh đá trước khi bị nhấn chìm bởi hố xoáy. Có thể mọi người trên thuyền cũng thấy điều đó hoặc họ cuối cùng cũng nhận ra hố xoáy là điểm kết liễu. Dù nghĩ thế nào đi nữa, mọi người đã chèo chiếc xuồng lướt bay đi và chúng tôi trượt dọc theo vành của hố xoáy. Tất cả chúng tôi khi đó đều ngoái lại nhìn chằm chằm vào xoáy nước đang cuồn cuộn như những chú chuột nhìn vào chiếc máy giặt đang hoạt động. Tới bây giờ, tôi vẫn không hiểu làm sao chúng tôi có thể xoay xở để vượt qua thác nước đó. Chúng tôi đã chèo xuống dòng chảy nhỏ an toàn, vượt qua bờ đá, vượt qua cả hố xoáy và lên bờ bên kia. Thậm chí chúng tôi không bị ướt. Thật phấn khích. Khi cập vào bờ, một trong số những người đi trên thuyền nôn thốc nôn tháo trong lúc tôi phải giải thích cho chủ hãng, người tình cờ tham gia cùng chúng tôi trong chuyến đi này rằng thực sự tôi không có lỗi trong việc đưa sáu vị khách quan trọng của hãng tới bên bờ thảm hoạ trong một chuyến đi vui vẻ.
Đêm hôm đó, một trong số những tay chèo đã ôm chặt lấy tôi đầy cảm động và nói: “Không biết tôi phải cảm ơn anh như thế nào vì đã cứu sống tôi?” Tôi không đủ can đảm để nói với ông ấy ̀ ́
rằng tôi suýt làm ông mất mạng. Người đàn ông đó, người mà tôi gọi là “Wolf” là một triệu phú tự thân lập nghiệp. Rất tự nhiên, khi ông bắt chuyện và cảm ơn tôi, tôi nghĩ rằng có lẽ ông ấy sẽ cho tôi một ít tiền vì “cứu sống” ông ấy. Tuy nhiên, thay vì điều đó, ông kể cho tôi câu chuyện cũ về con cá và chiếc cần câu. Bạn biết đấy đưa con cá cho một người, bạn giúp anh ta no được một ngày. Nếu dạy người đó câu cá, bạn giúp anh ta no ấm suốt đời. Tôi thật sự không chú ý nghe lắm. Ông ta có thể giữ lại con cá. Còn tôi chỉ muốn có tiền. Tuy nhiên, ông nhất định dạy tôi cách đầu tư, và không chấp nhận sự thờ ơ và khó chịu của tôi khi trả lời ông.
Ngồi bên ngọn lửa trong đêm hôm đó, ông hỏi tôi kiếm được bao nhiêu tiền. Tôi kể với ông rằng, tôi kiếm được 4.000 đô-la trong mùa chèo thuyền và tôi thất nghiệp trong sáu tháng còn lại của năm. Điều này khiến ông phải suy nghĩ trong một vài ngày. Nhưng ông rất kiên nhẫn gợi tính tò mò của tôi và cuối cùng khiến tôi quyết định đầu tư. Tôi vay 1.000 đô-la và năm năm sau, tôi trở thành triệu phú. Đến thời điểm đó, tôi rất thông thạo về những điều cơ bản mà tôi gọi là đầu tư theo Quy tắc số 1. Lúc đó, tôi không biết rằng quy tắc này đã có từ 80 năm trước và được những nhà đầu tư thành công nhất trên thế giới sử dụng. Tất cả những điều tôi biết là quy tắc này giúp tôi kiếm tiền. Đây cũng chính là lý do tại sao tôi hướng dẫn các bạn Quy tắc số 1 thông qua cuốn sách này.
Có nhiều cách để trở nên giàu có. Bạn có thể học cách đánh bóng chày và ký hợp đồng với một câu lạc bộ chuyên nghiệp; phát minh ra một thứ gì đó có ích; mua một vé số rồi trúng thưởng; hoặc tập luyện để trở thành nghệ sĩ được trả lương cao nhất ở Hollywood. Tuy nhiên, đối với phần lớn những người giống như tôi và các bạn, làm thế nào để đạt được các mục tiêu này? Học cách đầu tư theo Quy tắc số 1 sẽ dễ dàng thành công hơn nhiều. Tôi đã làm như vậy. Bạn cũng không cần phải là người quá thông minh vì quy tắc này rất đơn giản.
Phần lớn người Mỹ đều tham gia vào các quỹ đầu tư. Các quỹ này kiểm soát được những biến động trên thị trường, đa dạng hoá danh mục đầu tư nhằm giảm thiểu rủi ro. Họ tham gia thị trường ́ ́
với mục đích kiếm lợi nhuận dài hạn và hoạt động theo tư vấn của các chuyên gia. Tuy nhiên, nếu thị trường xuống dốc, các quỹ này vẫn bị thua lỗ. Hãy xem xét trường hợp sau: Vào năm 1906, chỉ số công nghiệp Dow Jones - một chỉ số chính cho biết sự tăng giảm của thị trường chứng khoán - đạt đến con số 100 điểm. Vào năm 1942, chỉ số này cũng ở mức 100 điểm. Nói cách khác, trong giai đoạn 1906 - 1942, nếu bạn có một danh mục đầu tư đa dạng hoá với nhiều loại chứng khoán, lợi nhuận bạn thu được sẽ bằng 0 hoặc âm (và thường là âm). Khoảng thời gian này kéo dài suốt 36 năm. Từ năm 1942 đến năm 1965, thị trường biến động, các nhà đầu tư thu được tỷ suất lợi nhuận gộp đáng kể (11% trong khoảng thời gian 22 năm, không tính cổ tức). Tuy nhiên, sau đó, chỉ số Dow Jones đạt mức 1.000 điểm và không hề vượt qua mức này trong vòng 18 năm, cho đến năm 1983. Thời gian tiếp theo, thị trường chứng khoán bùng nổ, chỉ số tăng từ 1.000 lên 11.000 điểm trong vòng 17 năm. Nhưng hiện nay, thị trường lại gần như chững lại. Rõ ràng là với những nhà đầu tư nghiệp dư như chúng ta, thị trường chứng khoán thường có giai đoạn bùng nổ (lúc đó giá các chứng khoán tăng vọt) rồi lại có lúc chững lại trong khoảng thời gian từ hai đến ba thập kỷ. Xin lưu ý đơn vị đo thời gian là thập kỷ.
Tất nhiên, cũng có những khả năng khác xảy đến đối với thị trường chứng khoán ngoài việc chững lại. Khi tôi viết cuốn sách này, Tổng thống Mỹ đang cố gắng sửa đổi điều luật về an sinh xã hội bằng việc chuyển 2 ngàn tỷ đô-la vào tay công nhân để họ có thể tự mình đầu tư. Nếu chính sách của ông thành công, nguồn tiền này sẽ chảy vào các quỹ đầu tư, khiến thị trường chứng khoán tăng vọt trong một giai đoạn nhất định. Sau đó, khi thế hệ những người sinh sau Thế chiến thứ hai bắt đầu bước vào độ tuổi nghỉ hưu, họ có thể rút hàng ngàn tỷ đô-la khỏi thị trường chứng khoán, khiến thị trường này rơi tụt xuống mức năm 2002. Một số người lập luận rằng, Trung Quốc và Ấn Độ sẽ là những thị trường mạnh, tạo cơ hội cho các doanh nghiệp Mỹ tiếp tục tăng lợi nhuận, và do vậy giá chứng khoán sẽ tăng. Nhưng liệu các bạn có hy vọng vào điều đó hay không? Tình trạng thăng trầm hỗn loạn này sẽ buông tha những nhà đầu tư nhỏ, tầm thường như bạn và tôi không? Nó sẽ ít ảnh hưởng đến chúng ta nếu chúng ta áp dụng duy nhất một cách
̀ ́ ́ ́
đầu tư - sử dụng Quy tắc số 1 - trong bối cảnh thị trường hiện nay.
Như Buffett từng điều chỉnh các quy tắc đầu tư nhằm ứng phó với những thay đổi của thị trường, tôi cũng phải điều chỉnh Quy tắc số 1 khi xem xét ba nhân tố ảnh hưởng đến thị trường chứng khoán trong vòng 20 năm qua: (1) Tác động của tiền đầu tư theo tổ chức, ví dụ như các quỹ đầu tư, quỹ hưu trí, quỹ ngân hàng và quỹ bảo hiểm; (2) Tác động của Lý thuyết thị trường hiệu quả (tôi sẽ giải thích ở phần sau); và (3) Tác động của mạng Internet và máy tính cá nhân đối với khả năng tiếp cận thông tin của các cá nhân với chi phí rẻ và sử dụng những thông tin này vì lợi ích cá nhân.
Quy tắc số 1 là kết quả của chiến lược đầu tư đã được thử nghiệm và thành công, đáp ứng sự kiểm soát thị trường của các thể chế tài chính vào thời điểm mà các công cụ đầu tư sẵn có với bất cứ ai sở hữu một chiếc máy tính. Lần đầu tiên trong lịch sử, một người không có đủ tám giờ đồng hồ mỗi ngày để thực hiện những nghiên cứu tốn nhiều công sức về thị trường chứng khoán, có thể
áp dụng Quy tắc số 1, và các công cụ sẵn có trong máy tính giúp bạn có thể trở thành một nhà đầu tư thành công khi đầu tư theo Quy tắc số 1 chỉ với 15 phút mỗi tuần. Ngày nay, bạn đang có nhiều tiện ích được cài đặt sẵn. Từ những gì bạn biết và thông tin bạn có thể tiếp cận được, bạn có thể nhanh chóng gia nhập hoặc rút khỏi thị trường. Toàn bộ những tiện ích này giúp bạn đầu tư hiệu quả hơn cả những chuyên gia. Nếu bạn là một người mua hàng giỏi biết tìm mua những món hàng tốt với mức giá hấp dẫn, bạn sẽ không gặp khó khăn khi học Quy tắc số 1, quy tắc này được xây dựng dựa trên cùng một khái niệm như vậy.
Như được minh chứng trong cuốn sách này, sự kết hợp của công nghệ, tiền và chiến lược đang tạo ra một cuộc cách mạng trong lĩnh vực đầu tư tại thời điểm mà các nhà đầu tư nhỏ như chúng ta cần nhất.
Tôi hy vọng cuốn sách này sẽ khôi
phục niềm tin của bạn đối với việc đầu tư. Nếu bạn tin vào Quy tắc số 1, tôi sẽ
́
Nếu Quy tắc số 1 tuyệt vời như
hướng dẫn bạn làm thế nào để vượt qua những khó khăn về tài chính. Tất cả những gì chúng ta cần là một chút tin tưởng, một chút thực hành và một chút nỗ lực. Tôi sẽ giúp bạn lấy lại niềm tin nếu bạn từng mất niềm tin vào thị trường và tôi sẽ hướng dẫn bạn nếu bạn mới bước vào đầu tư, thậm chí khi bạn không có chút kinh nghiệm nào trong lĩnh vực tài chính và chỉ muốn đầu tư vào một lĩnh vực không có rủi ro và được đảm bảo an toàn tài chính.
Dù bạn là một nhà đầu tư đầy kinh nghiệm hay chỉ là một nhà đầu tư tập
vậy thì tại sao trước đây mọi người lại không sử dụng nó? Đó là vì giờ đây, lần đầu tiên
trong lịch sử, các công cụ trên máy tính đã làm cho tất cả mọi người có thể sử dụng được Quy tắc này mà chỉ mất vài phút mỗi tuần.
sự, hãy vứt bỏ những lý thuyết cũ kỹ sai lầm. Hãy bỏ lại đằng sau bạn các quỹ đầu tư với những nhà quản lý. Khi làm vậy, bạn sẽ thoát khỏi sự tầm thường và học cách tự chủ trong đầu tư để mở cánh cửa đến với sự giàu có thật sự.
Các tác giả Levitt và Dubner đã viết rõ ràng trong cuốn sách Freakonomics (Kinh tế học hài hước) về những gì mạng Internet đem lại cho tất cả chúng ta: khả năng tiếp cận thông tin mà trước đây không được công bố và quyền năng sử dụng những thông tin này vì lợi ích của mình. Họ viết: "Thông tin chính là tiền tệ của mạng Internet. Với vai trò trung gian, mạng Internet rất hiệu quả trong việc chuyển thông tin từ những người có thông tin sang những người không có thông tin… Mạng Internet đặc biệt quan trọng khi việc tiếp xúc với một chuyên gia có thể làm trầm trọng thêm vấn đề thông tin không tương xứng - tình huống mà trong đó một chuyên gia sử dụng lợi thế về thông tin của họ để khiến chúng ta cảm thấy rằng chúng ta thật ngu ngốc, hoặc ngô nghê, hoặc rẻ mạt, hoặc thấp hèn." Trong thế giới đầu tư, hãy đoán xem ai đã khiến bạn nghĩ rằng mình ngu ngốc và phụ thuộc vào thông tin từ họ bằng cách tích trữ thông tin? Chính là những người được gọi là các chuyên gia - ́ ̀ ́
nghĩa là rất nhiều (không phải tất cả) những nhà quản lý tài chính, những người môi giới chứng khoán và những nhà lập kế hoạch tài chính.
Bạn có muốn biết điều gì khiến tôi trở nên giầu có không? Hãy tưởng tượng một thế giới trong đó những đứa trẻ ở trường trung học được học Quy tắc số 1 và ngay từ khi 15 tuổi bắt đầu kiếm tiền với mức lợi nhuận lên đến 20%/năm. Những người trẻ tuổi có thể kiếm được 1.000 đô-la/năm để mua cổ phiếu của những công ty kinh doanh tốt sẽ có trên 45 triệu đô-la khi nghỉ hưu ở độ tuổi 65. Điều này cũng đồng nghĩa với việc họ có thể làm bất cứ việc gì khi đi làm mà không phải lo lắng cho quãng thời gian nghỉ hưu. Họ có thể là chủ doanh nghiệp, giáo viên, quân nhân, phi hành gia, nhà khoa học, lính cứu hoả, nghệ sĩ, hay mục sư. Làm gì cũng không quan trọng vì họ biết họ có khoản tiền đáng giá cả một gia tài khi bước vào độ tuổi 50. Khi tôi trở nên giàu có, tôi nghĩ về thế hệ của mình, những người sinh sau Thế chiến thứ hai, sẽ có thể nghỉ hưu và sống sung túc vì họ đã học cách đầu tư đem lại lợi nhuận cao khi đầu tư vào những chứng khoán mà họ có thể tự hào khi sở hữu chúng, không lo ngại bị mất đi những gì họ phải làm việc vất vả mới kiếm được. Quy tắc số 1 dành cho tất cả mọi người, không kể tuổi tác, sự giàu có, trí thông minh (IQ), hoặc địa vị xã hội. Nếu được sử dụng thích hợp, Quy tắc số 1 sẽ đảm bảo bạn không bao giờ phải lo lắng về tiền bạc. Tôi biết giờ đây các bạn đã sẵn sàng, vậy hãy bắt đầu.
Để thực sự trở thành một nhà đầu tư theo Quy tắc số 1, bạn phải học một vài phép tính cơ bản. Ban đầu, việc này có thể khó khăn, nhưng cũng không khó hơn học một môn học mới ở trường và chờ đợi cho đến khi bạn quen với môn học đó. Hãy tin tôi, tôi không giỏi môn Toán, và tôi cũng rất ghét những điều phức tạp. Điều tôi muốn bạn làm là hãy tưởng tượng mình quay trở về thời học lớp bốn và bạn phải học thuộc bảng cửu chương. Khi bạn quen làm việc với những con số và thực hiện các phép tính một cách trôi chảy, việc học Quy tắc số 1 sẽ dễ dàng như nhẩm phép tính 2 x 2. Đến cuối cuốn sách, bạn sẽ nắm bắt được một số kỹ năng nhận diện mô
̀ ́ ́
hình - khi đó việc đầu tư theo Quy tắc số 1 sẽ trở thành bản năng thứ hai của bạn.
Một trong những lợi ích không hề phóng đại của việc đầu tư theo Quy tắc số 1 là khả năng có được cuộc sống sung túc sau khi nghỉ hưu với một khoản đầu tư ít hơn rất
nhiều. Ví dụ như bạn tiết kiệm được 300.000 đô-la tính tới thời điểm nghỉ hưu (không kể nhà cửa…), và bạn nghe theo lời khuyên của những nhà tư vấn chuyên nghiệp, đầu tư phần lớn khoản tiền 300.000 đô-la vào trái phiếu, trung bình bạn kiếm được khoản thu nhập khoảng 15.000 đô la/năm, tương ứng với khoảng 1.300 đô-la/tháng (và có thể cao hơn một chút nếu theo quy tắc trả dần). Mức thu này không thể đủ để duy trì mức sống trung lưu. Đây cũng là lý do tại sao các nhà lập kế hoạch tài chính khuyên bạn nên tích luỹ khoản tiền gấp khoảng 10 lần mức thu nhập hiện tại - đồng nghĩa với việc cần khoảng 1 triệu đô-la tích trữ. 1 triệu đô-la là số tiền ít người có được và nếu đầu tư an toàn vào trái phiếu, mức thu nhập sẽ vào khoảng 50.000 đô-la/năm.
Tuy nhiên, một nhà đầu tư theo Quy tắc số 1 có thể tạo ra mức thu nhập 50.000 đô-la/năm với chỉ khoảng 300.000 đôla tiền vốn. Chỉ điều này thôi đã nói lên lợi thế của việc đầu tư theo Quy tắc số 1. Nguyên nhân là các nhà đầu tư theo Quy tắc số 1 đã thu được lợi nhuận lên đến 15%/năm. Có rất ít những người sinh sau Thế chiến thứ hai có thể thu được 1 triệu đô-la trong khoảng thời gian 15 năm tới. Những người có thể có được 1 triệu đô-la trong tương lai chính là những nhà đầu tư theo Quy tắc số 1 những người có thể kiếm được mức thu nhập 12.000 đô la/tháng thay vì 4.000 đô-la/tháng. Với mức thu nhập 12.000 đô-la/tháng, một người có thể sống sung túc khi về hưu.
Để tạo thuận lợi cho quá trình học và đơn giản hoá các tính toán hết mức có thể, tôi đã thiết kế một trang web hỗ trợ cho cuốn ́ ́ ̀
sách này. Bạn sẽ tìm thấy rất nhiều thông tin tham khảo tại địa chỉ www.ruleoneinvestor.com và bạn có thể tự mình tìm hiểu trước khi bắt đầu. Ở đó, bạn sẽ tìm thấy nhiều phép tính và các đường dẫn đáng tin cậy tới những trang web chuyên về tài chính. Nhưng phần lớn điều bạn cần học về Quy tắc số 1 nằm ở cuốn sách này. Trang web giống như một tấm bảng cho phép tôi có thể cùng làm việc với các bạn nếu các bạn muốn. Trang web cũng cho bạn cơ hội tiếp cận tấm bảng và thử nghiệm phương pháp bằng các công cụ có sẵn của tôi.
Khi tôi bảo đảm với ai đó rằng, họ có
thể làm được điều này, tôi thường kể câu chuyện về người phụ nữ tôi gặp vài năm trước trong một cuộc hội thảo, người tôi gọi là Julie. Julie từng ở nhà nội trợ 20 năm và trước đó cô dạy nghệ thuật tại trường trung học. Cô ghét môn Toán, không quen làm việc với các con số, và thậm chí không phải thanh toán các hoá đơn của gia đình. Nhưng khi xem quảng cáo về cuộc hội thảo mà tôi là một trong số những người diễn thuyết, cô tò mò muốn tìm hiểu. Sau đó, cô đăng ký tham gia cuộc hội thảo, và chỉ một vài tháng sau cô đã trở thành một nhà đầu tư theo Quy tắc số 1 thành thạo, có thể thao tác các con số nhanh chóng. Chồng của Julie, người trước đây quản lý tất cả các khoản mục đầu tư và tài chính gia đình, đã phải nhường quyền cho cô. Khi Julie quản lý danh mục đầu tư của gia đình, số tiền 45.000 đô-la tăng lên hơn 72.000 đô-la - mức lợi nhuận 60% - chỉ trong vòng vài tháng. Trong khi đó, tài khoản hưu trí (401K) của chồng Julie với số tiền 50.000 đô-la chỉ tăng thêm 462 đô-la trong cùng
́
Trong cuốn
sách, tôi sẽ sử dụng nhiều ví dụ với số liệu minh hoạ, ví dụ
như giá cả các loại chứng khoán, tỷ lệ tăng trưởng, lợi nhuận trên mỗi cổ phiếu… Các số liệu được dùng để giải thích cho các khái niệm và dạy các bạn việc đầu tư theo Quy tắc số 1. Vì những số liệu này là của năm 2005 hoặc trước đó cho nên chúng có thể không phản ánh tình hình thực tế như thời điểm bạn đọc cuốn
sách. Tuy nhiên, điều đó không hề ảnh hưởng đến việc học tập những
̀
thời gian đó. Nếu Julie có thể thực hiện việc tính toán thì các bạn cũng có thể.
Những
kinh nghiệm đầu tư. Hãy xem đó chỉ là những ví dụ.
Tôi sẽ cố gắng định nghĩa thật rõ ràng, nhưng nếu bạn không hiểu một thuật ngữ nào đó, hãy xem trong mục giải thích thuật ngữ tại phần cuối của cuốn sách.
người có thói
quen độc lập, không sử dụng những phép tính tiết kiệm thời gian trên trang web ww.ruleoneinvestor.com, có thể ghé thăm trang web và sử dụng những công cụ tôi cung cấp trên đó. Trang web sẽ giúp bạn thực hiện điều tương tự như khi tính toán với phần mềm Excel. Mặc dù vậy, hãy tin rằng bạn càng quen với cách tư duy theo Quy tắc số 1 thì quá trình thực hiện càng dễ dàng. Cuối
cùng, mục đích cơ bản khi sử dụng trang web là nhằm thu thập các dữ liệu tài chính, tiếp cận với các công cụ thị trường trực tuyến và cập nhật những thông tin mới nhất. Bạn cũng có thể ghé thăm trang web của tôi chỉ với một mục đích là tiếp cận những thông tin mới mà tôi đăng tải, cũng như để kết nối các nguồn thông tin trực tuyến khác.
Thậm chí, khi bạn cần giải đáp một vấn đề nào đó, hãy gửi thư điện tử cho tôi qua trang web. Tôi sẽ đăng bài trả lời những câu hỏi thường gặp nhất.
1 - Những quy tắc đầu tư hoang đường
Chuyên gia là người tránh được những sai lầm nhỏ nhưng lại mắc sai lầm lớn - BENJAMIN STOLBERG -
(1891 - 1951)
Tiêu chuẩn vàng của đầu tư ít rủi ro là đầu tư vào trái phiếu kho bạc Mỹ, cách đầu tư này có thể đem lại lợi nhuận 4% vào thời điểm cuốn sách này được viết ra. Nếu không đầu tư vào đâu khác ngoài trái phiếu kho bạc thì bạn sẽ kiếm được khoản lợi nhuận 4%. Vấn đề duy nhất của chiến lược đầu tư này, đặc biệt đối với thế hệ những người sinh ra sau Thế chiến thứ hai và
sắp bước vào độ tuổi nghỉ hưu, là với lợi nhuận 4% thì phải cần đến 18 năm mới có thể tăng gấp đôi số tiền bạn có. Hơn nữa, sau 18 năm, dù tỷ lệ lạm phát chỉ khoảng 2 - 3%/năm, thì phần lớn lợi nhuận thu được cũng chỉ đủ để bù đắp cho tình trạng trượt giá. Do đó, sức mua chỉ cao hơn một
chút so với sức mua thời điểm 18 năm trước. Bất chấp thực tế này, nhiều nhà đầu tư vẫn đổ hàng tỷ đô-la vào loại trái phiếu đem lại 4% lợi nhuận này.
Tại sao tất cả mọi người đều muốn đầu tư vào các loại trái phiếu mà tỷ suất lợi nhuận thu được chỉ đủ để bù đắp trượt giá và không đem lại lợi nhuận trên thực tế? Đó là vì phần lớn mọi người đều cho rằng lợi nhuận cao luôn đi liền với rủi ro lớn. Họ lo sợ mất tiền nếu cố gắng kiếm được lợi nhuận cao hơn là lo sợ không có khả năng đảm bảo một cuộc sống hưu trí sung túc.
Trên thực tế, tỷ suất lợi nhuận cao hơn không nhất thiết đi liền với nhiều rủi ro hơn. Tôi sẽ giải thích điều này cho các bạn.
Lợi nhuận cao hơn không nhất thiết đi liền với nhiều rủi ro hơn
Trong buổi diễn thuyết tại Diễn đàn Tây Mỹ tổ chức ở Phoenix, bang Arizona, tôi hỏi các thính giả “Những ai đã đi xe riêng tới đây hôm nay?”. Phần lớn mọi người đều giơ tay. “Rất tốt, phần lớn mọi người. Vậy có ai gặp phải rủi ro lớn trong lúc lái xe đến đây không?” Chỉ một vài cánh tay giơ lên. “Các bạn gặp rủi ro lớn khi lái xe đến đây?” Tôi hoài nghi hỏi. “Dù cho các bạn không thực sự gặp rủi ro và chỉ giơ tay cho vui, hay chúng ta chỉ ra vấn đề yếu kém của giao thông tại Phoenix, tức là những người vừa giơ tay đều không biết lái xe, phải không?” Tất cả mọi người đều bật cười. “Được rồi. Như vậy, việc lái xe đến đây cũng không đến nỗi đáng sợ lắm. Nhưng bây giờ, hãy tưởng tượng bạn đang trên đường đến đây và thay vì chính bạn lái xe thì đứa cháu trai mới 11 tuổi của bạn lại ngồi sau tay lái. Có phải bây giờ bạn đang gặp rất nhiều rủi ro không?” Mọi người đều bật cười và gật đầu đồng ý. “Chuyến đi vẫn vậy, vẫn là đi từ địa điểm A đến địa điểm B. Nhưng khi bạn để một người không biết lái xe ngồi sau tay lái thì một chuyến đi tương đối an toàn đã trở thành chuyến đi đầy rủi ro.”
Điều này cũng tương tự như chuyến hành trình tìm kiếm sự dư dả về tài chính. Nếu bạn không biết mình đang làm gì, chuyến đi sẽ rất chậm hoặc đầy nguy hiểm. Đó là lý do tại sao phần lớn mọi người nghĩ rằng việc đi nhanh (tương tự như kiếm được tỷ suất lợi nhuận cao) là rất nguy hiểm - bởi vì họ không biết cách lái chiếc xe tài chính đó, chứ không phải vì đi nhanh luôn gắn liền với rủi ro lớn. Nó chỉ nguy hiểm khi bạn không biết mình đang làm gì. Và bản chất của Quy tắc số 1 là cần phải biết bạn đang làm gì - nếu bạn đầu tư khi hiểu biết rõ ràng, bạn sẽ không bị mất tiền!
Có thể bây giờ bạn đang tự hỏi “Thế còn các quỹ đầu tư thì sao? Rồi các kỹ xảo mà chúng ta học để giảm thiểu rủi ro và tối đa hoá lợi nhuận?”. Thưa các bạn, tôi không muốn trở thành người đem đến những tin xấu, nhưng sự thật là thế này: nhà đầu tư thông qua các quỹ đầu tư sẽ gặp nhiều rủi ro hơn nhà đầu tư theo Quy tắc số 1. Việc đầu tư thông qua các quỹ đầu tư cũng giống như trao chìa khoá xe cho một đứa trẻ 11 tuổi vậy.
Ý ̀ ̀
Ý đồ của các quỹ đầu tư
Nếu các quỹ đầu tư mà bạn đầu tư vào đang cố gắng đánh bại thị trường, và bạn hy vọng rằng nhà quản lý quỹ có thể giúp bạn có được cuộc sống sung túc sau khi nghỉ hưu thì có lẽ bạn đã trở thành nạn nhân của một mưu đồ lớn. Không chỉ có bạn, 100 triệu nhà đầu tư khác cũng trong
hoàn cảnh đó. Theo tạp chí Fortune, từ năm 1985, chỉ có 4% trong tổng số các nhà quản lý quỹ đầu tư vượt được chỉ số S&P 500 (Standard & Poor’s 500 Index, chỉ số bao gồm chứng khoán của 500 công ty có mức vốn hoá thị trường lớn nhất, đa phần là công ty của Mỹ), và những người này chỉ thu được lợi nhuận rất nhỏ. Nói cách khác, gần như không có nhà quản lý quỹ nào thắng được thị trường. Sự thật này không được chú ý trong suốt hai thập kỷ 1980 và 1990, thời kỳ thị trường chứng khoán phát triển mạnh mẽ với tỷ lệ tăng trưởng hai con số. Chính xu hướng phát triển của thị trường giúp các nhà quản lý quỹ dễ dàng thu lợi nhuận. Tuy nhiên, khi giai đoạn thị trường phát triển mạnh mẽ qua đi, các nhà đầu tư bắt đầu nhận ra rằng những nhà quản lý quỹ khá vô dụng. Đây không phải là điều mới mẻ.
Một vài năm trước, Buffett nói về các nhà quản lý quỹ như sau: “Các chuyên gia trong những lĩnh vực khác, ví dụ như các nha sĩ, đem lại nhiều lợi ích cho người dân, nhưng người ta không thu được gì khi trao tiền vào tay những chuyên gia quản lý tiền tệ”. Chú ý là họ không thu được gì. Vậy, bạn đã làm gì? Bạn trao những khoản tiền khó khăn lắm mới kiếm được vào tay các nhà quản lý quỹ với hy vọng họ đem lại cho bạn 15% lợi nhuận hoặc hơn - giống mức bạn thu được trong thập niên 1990. Tại sao? Vì bạn không muốn tự mình đầu tư và bởi vì bạn đã bị toàn bộ ngành dịch vụ tài chính thuyết phục rằng mình không thể tự làm điều đó.
Hãy nhận ra thực tế là từ năm 2000 đến năm 2003, các quỹ đầu tư đã mất một nửa giá trị. Bạn có thể mất 50% số tiền của mình nếu không có sự trợ giúp của một chuyên gia. Trên thực tế, vào năm 1996, một nhà đầu tư nghiệp dư đã thi tài với những nhà quản lý quỹ giỏi nhất tại New York. Hiệu quả làm việc của nhà đầu tư nghiệp dư này vượt xa các nhà quản lý quỹ trong hai năm liền. Khi tôi kể lại câu chuyện này cho thính giả tại Los Angeles, một người từ hàng ghế đầu tại sân khấu Arrowhead Pond thốt lên, “Tên nhà đầu tư đó là gì?”. Có thể thấy rằng một số người sẽ làm bất kỳ điều gì để tránh phải tự đầu tư tiền của mình.
Peter Lynch, một trong những nhà quản lý quỹ thành công, kiếm được lợi nhuận cao hơn mức bình quân thị trường rồi sau đó rời bỏ thị trường trước khi thị trường đảo chiều, viết trong cuốn sách One Up on Wall Street (Trên đỉnh phố Wall) rằng một nhà đầu tư nghiệp dư hiện có “rất nhiều lợi thế, những lợi thế nếu được khai thác tốt sẽ đem lại kết quả cao hơn hẳn mức bình quân thị trường và hơn hẳn kết quả các chuyên gia đạt được.” Nói cách khác, bạn có thể tự mình đầu tư. Nhưng các bạn lại không làm như vậy. Lý do là vì những nhà quản lý quỹ luôn thuyết phục các nhà đầu tư tin vào ba quy tắc rất hoang đường, khiến các nhà đầu tư tiếp tục gắn bó với họ mặc dù hiệu quả hoạt động của họ luôn ảm đạm nếu tính theo những chu kỳ dài.
Ba quy tắc đầu tư hoang đường
Quy tắc 1. Bạn cần phải là một chuyên gia quản lý tiền của mình
Quy tắc hoang đường đầu tiên tôi muốn phá vỡ là: Cần phải có nhiều thời gian và kiến thức chuyên môn để quản lý tiền của mình. Điều này sẽ đúng nếu đầu tư là một môn học khó hoặc cần rất nhiều thời gian thu thập thông tin để đi tới quyết định. Tôi sẽ chứng minh cho các bạn thấy rằng điều này không đúng, dù toàn bộ ngành dịch vụ tài chính muốn chúng ta tin vào điều đó. Những nhà tư vấn tài chính tiếp tục thu được hàng tỷ đô-la tiền hoa hồng, tiền lệ phí nếu họ có thể làm cho các bạn tiếp tục tin rằng các bạn không thể tự mình đầu tư.
Mạng Internet làm thay đổi tất cả. Giờ đây, các công cụ từng có giá lên đến 50.000 đô-la đã trở nên sẵn có với chi phí chưa đến 2 đô-la/ngày và chỉ cần mất một vài phút trong ngày để sử dụng thay vì 50 giờ/tuần. Các công cụ được cung cấp qua mạng Internet hiện cũng hoạt động chính xác hơn, đúng thời gian hơn và dễ dàng ứng dụng hơn bất cứ công cụ nào mà nhà quản lý quỹ của bạn sử
́ ̀ ́
dụng một vài năm trước đây. Tất cả những gì bạn cần là một chút hướng dẫn và một thời gian ngắn để học. Tuy nhiên, nếu muốn tự mình đầu tư, bạn đừng làm phiền các nhà môi giới chứng khoán, nhà lập kế hoạch/tư vấn tài chính, các kế toán viên công chứng (CPA) hoặc các nhà quản lý quỹ của bạn. Bạn chắc hẳn đã biết những gì họ sẽ nói. Đại loại là một điều gì đó như: “Nhưng đó là công việc tôi sẽ làm cho bạn, do đó bạn sẽ không cần phải lo lắng về nó”. Không phải vậy, bạn cần phải lo lắng về việc đầu tư của mình. Bạn sẽ lo lắng nhiều về nó. Đó là tiền của bạn và bạn là người duy nhất thực sự quan tâm đến những gì xảy ra với tiền của mình.
Thậm chí, những chuyên gia hàng đầu như Jim Cramer, một người ủng hộ bạn và muốn bạn tự mình đầu tư, cũng thực sự không ở vào địa vị của bạn. Cũng giống như những chuyên gia hàng đầu khác của ngành tài chính, những chuyên gia cũng được đào tạo từ trường Ivy League mà Jim từng theo học, họ rất thông minh, thích chơi chứng khoán cả ngày lẫn đêm, họ sống và hít thở bầu không khí chứng khoán và không hề biết về mối bận tâm của chúng ta, những người phải làm việc miệt mài và hy vọng có cuộc sống sung túc khi nghỉ hưu. Với những con người đó, thì cũng đầu tư chỉ là một trò chơi. Một trò chơi dù nghiêm túc thì cũng vẫn là một trò chơi. Jim là một thương gia và yêu thích công việc đầu cơ. Theo hướng tiếp cận của ông, bạn sẽ phải dành ít nhất từ 5 đến 10 giờ đồng hồ mỗi tuần và bạn đang rất mạo hiểm với số tiền mà bạn không được phép đánh mất khi đối thủ của bạn là những người rất giàu, thông minh và rất chuyên tâm - những người giống như Jim.
Nếu bạn nghĩ, bạn có thể thắng trong cuộc chơi đó, hãy trở thành độc giả của tôi. Nếu bạn thắng, tôi sẽ ngả mũ kính phục bạn. Bạn thông minh hơn nhiều so với chúng tôi. Phần lớn chúng ta, bao gồm cả tôi, phải làm nhiều công việc khác. Phần lớn mọi người như chúng ta không có đủ
năm tiếng một tuần dành cho việc đầu tư. Hãy lưu ý điều đó. Chúng ta phải chăm sóc, nuôi dưỡng con cái, sống và làm việc, khiến chúng ta mất nhiều thời gian. Chúng ta cũng không muốn lúc nào cũng phải dõi theo thị trường chứng khoán, hoặc trở thành một người kinh doanh chứng khoán có mặt cả ngày tại sàn giao dịch. Thế thì còn gì thú vị nữa? Chúng ta mong muốn đầu tư vào loại chứng khoán đem lại lợi nhuận lớn nhưng không có rủi ro và không tốn nhiều thời gian.
Quy tắc số 1 chính là công cụ đầu tư cho những người như chúng ta.
Quy tắc 2. Bạn không thể thắng được thị trường
Vậy, sự thật là 96% tổng số các nhà quản lý các quỹ đầu tư không có khả năng chiến thắng thị trường trong vòng 20 năm qua. Tuy nhiên, bạn không phải là nhà quản lý quỹ và bạn cũng không bị đánh giá trong việc có thắng được thị trường hay không. Kỹ năng tài chính của bạn được đánh giá thông qua việc bạn có thể sống sung túc vào độ tuổi 75 hay không. Bạn không cần quan tâm đến việc bạn có thắng được thị trường hay không. Nếu thị trường giảm sút 50% nhưng nhà quản lý quỹ của bạn chỉ thua lỗ 40% số tiền của bạn, có thể anh ta thành công trong việc đánh bại thị trường, nhưng điều đó đối với bạn đã phải là điều tốt đẹp chưa? Những nhà đầu tư theo Quy tắc số 1 mong đợi mức tỷ suất lợi nhuận gộp hàng năm ít nhất là 15% hoặc hơn. Nếu chúng ta đạt được mức đó, chúng ta không cần quan tâm đến diễn biến thị trường vì dù sao chúng ta cũng sẽ nghỉ hưu thật sung túc. Nếu đánh giá theo tiêu chuẩn này, các nhà đầu tư theo Quy tắc số 1 là những người thành công.
Quy tắc đầu tư hoang đường cho rằng bạn không thể thắng được thị trường do Giáo sư Burton Malkiel của trường đại học Princeton (cùng với một số người khác) đưa ra vào thập kỷ 1970. Ông đã thực hiện rất nhiều nghiên cứu nhằm chứng minh rằng không một ai có thể thắng được thị trường (chúng ta sẽ đi sâu tìm hiểu các chi tiết trong lý thuyết của Malkiel ở phần sau cuốn sách, nhưng ở đây chúng ta cần nhắc đến ông để phá vỡ quy tắc đầu tư hoang đường này). Cuốn sách của ông với nhan đề A Random Walk Down Wall Street (Bước đi ngẫu nhiên trên phố Wall) vẫn tiếp tục được bán trên thị trường. Ông có ảnh hưởng tới cả một thế hệ các giáo sư giảng dạy ở các trường kinh doanh, những người tin vào Lý thuyết Thị trường Hiệu quả (Efficient Market Theory - EMT). Lý thuyết này cho rằng, các thị trường nói chung (và thị trường chứng khoán nói riêng) là
thị trường hiệu quả, nghĩa là những thị trường này định giá hàng hoá theo giá trị của chúng. Tại thị trường chứng khoán, những thăng trầm của thị trường được tạo ra bởi các nhà đầu tư duy lý, những người từng giây từng phút phản ứng lại trước các sự kiện có thể ảnh hưởng đến việc đầu tư của họ. Theo lý thuyết EMT, thị trường hiệu quả đến mức mọi thông tin về công ty đều được phản ánh ngay lập tức thông qua giá cổ phiếu của nó. Nói cách khác, giá cổ phiếu tại mọi thời điểm đều ngang bằng giá trị của công ty.
Nếu điều này là đúng, theo cách nói của các giáo sư tin vào lý thuyết EMT, thì đơn giản là người ta không tìm thấy một cổ phiếu được định giá dưới giá trị thực và cũng không thể trả giá quá cao cho một cổ phiếu. Tại sao? Bởi vì giá cổ phiếu luôn ngang bằng giá trị thực. Theo đó, không có giao dịch trên thị trường và không có những hành vi gian lận. Những người theo lý thuyết EMT cho rằng, tình huống này giải thích cho thực tế là hầu như không một nhà quản lý quỹ nào từng thắng được thị trường. Những nhà quản lý quỹ này là những người thông minh, và nếu không một ai trong số họ thắng được thị trường trong một thời gian dài thì thị trường đang định giá tất cả mọi thứ thật hoàn hảo.
Tuy nhiên, một số người đã thắng được thị trường trong thời gian dài và mục đích của cuốn sách này là nhằm chỉ cho bạn cách làm điều đó. Bạn sẽ nhanh chóng nhận ra rằng lý thuyết EMT là sai.
Vào năm 1984, Warren Buffett đã có một giờ giảng tại Trường Kinh doanh Columbia. Tại đó, ông chỉ ra rằng ít nhất 20 nhà đầu tư mà ông dự đoán sẽ thu được tỷ suất lợi nhuận cao, đều đạt được mục tiêu 15% lợi nhuận hoặc cao hơn trong thời gian dài hơn 20 năm. Tất cả các nhà đầu tư này đều theo học tại cùng một trường kinh doanh, ngôi trường mà ông gọi là "Graham và Doddsville" vì tất cả đều theo học Giáo sư Graham và Giáo sư Dodd, từ Buffett hoặc ai đó đã sao chép ý tưởng của Buffett - cũng giống như cách tôi học từ người thầy của mình và giờ đây đang nói lại cho các bạn. (Benjamin Graham là thầy của Buffett tại Trường Kinh doanh Columbia. David Dodd cũng là một giáo sư ở đó). Tỷ suất lợi nhuận gộp hàng năm của những nhà đầu tư này trong hơn 8 thập kỷ luôn nằm trong khoảng 18 - 33%/năm. Điều Buffett muốn nói với các sinh viên theo học tại trường Columbia là những người mà ông biết có thể thu được trên 15% lợi nhuận mỗi năm trong khoảng thời gian dài đều hành động giống nhau. Họ đều bắt đầu với Quy tắc số 1.
Sau giai đoạn 2000 - 2003, thị trường chứng khoán sụt giảm mạnh. Giá trị cổ phiếu của một số doanh nghiệp hoạt động tốt giảm tới 90%. Người ta phỏng vấn Giáo sư Malkiel và như chúng ta thấy trong Chương 8, ông đã phải xem xét lại lý thuyết của mình và thừa nhận rằng “thị trường nói chung là hiệu quả… nhưng đôi lúc bất thường”. Như vậy, thị trường hiệu quả nhưng thỉnh thoảng lại không hiệu quả. Điều nực cười là, Buffett và Graham nói về điều này trong suốt 80 năm qua. Buffett châm biếm rằng, ông hy vọng các trường kinh doanh sẽ tiếp tục đào tạo ra những nhà quản lý quỹ tin vào lý thuyết thị trường hiệu quả (EMT) để rồi ông có thể tiếp tục mua được những cổ phiếu mà do thiếu thông tin, các nhà quản lý quỹ sẽ bán chúng với giá thấp và ông sẽ bán lại cho họ khi họ sẵn sàng trả giá cao.
Biểu đồ trên chỉ ra tình hình kinh doanh của các nhà đầu tư theo Quy tắc số 1 trong vài thập kỷ qua khi so sánh với các mức trung bình của chỉ số S&P 500 và chỉ số công nghiệp Dow Jones.
Các nhà đầu tư theo Quy tắc số 1 thu được kết quả thế nào so với mức bình quân của những chỉ số phổ biến nhất. Biểu đồ trên có vẻ không chính xác hoặc được cường điệu quá mức, nhưng không phải vậy. Các nhà đầu tư theo Quy tắc số 1 luôn thu được lợi nhuận vượt mức bình quân của chỉ số S&P 500 và chỉ số công nghiệp Dow Jones về tổng thể. Sự kỳ diệu của tăng trưởng gộp giải thích cho sự khác biệt lớn giữa lợi nhuận gộp 8 hoặc 9% mỗi năm và lợi nhuận gộp trên 23% mỗi năm. Thoạt nhìn thì sự khác biệt lớn này không rõ rệt lắm. Bởi vì 23% lớn gần gấp 3 lần so với 8%, mọi người lập tức nghĩ ngay là số tiền cũng sẽ gấp 3 lần. Nhưng tăng trưởng gộp không phải một đường thẳng, nó là một khái niệm hình học. Việc phức hợp làm tăng tỷ lệ lợi nhuận không chỉ trên số tiền đầu tư gốc, mà còn trên số lợi nhuận tích lũy (lãi mẹ đẻ lãi con). Vì 23% tạo ra khoản lợi nhuận lớn hơn mỗi năm, khoản này cũng có tỷ suất lợi nhuận là 23%, tổng số tiền tăng gia tốc bùng phát sau một số năm và tăng vọt so với mức lợi nhuận gộp thấp 8%.
Quy tắc 3. Cách tốt nhất để giảm thiểu rủi ro là đa dạng hoá và nắm giữ cổ phiếu trong thời gian dài
̀ ́ ́ ́ ́ ̀
Mọi người đều biết đa dạng hoá và nắm giữ cổ phiếu là cách an toàn nhất để đầu tư vào thị trường chứng khoán, phải vậy không? Tuy nhiên, điều này cũng giống như trước đây mọi người nghĩ rằng trái đất là một mặt phẳng. Sự thật là việc đa dạng hoá danh mục đầu tư trong khoảng thời gian dài đem lại tỷ suất lợi nhuận bằng không trong vòng 37 năm từ 1905 đến 1942, trong 18 năm từ 1965 đến 1983, và từ 2000 đến 2005. Tất cả là 60 năm trong số 100 năm. Nếu bạn biết cách đầu tư, nghĩa là bạn hiểu Quy tắc số 1 và biết cách tìm mua chứng khoán của một công ty làm ăn tốt với mức giá hấp dẫn, thì bạn sẽ không đa dạng hoá khi đầu tư khoản tiền của mình vào việc mua 50 loại chứng khoán hoặc vào một quỹ đầu tư đầu tư theo chỉ số chứng khoán. Bạn sẽ tập trung đầu tư vào một số doanh nghiệp bạn hiểu rõ. Bạn sẽ mua vào khi những ông lớn này - những nhà quản lý quỹ kiểm soát thị trường - đang lo ngại, và bạn sẽ bán ra khi họ muốn mua chúng. Điều này có khiến bạn kinh ngạc không? (Nếu bạn không hiểu tôi ngụ ý gì, bạn sẽ hiểu khi đọc đến hết cuốn sách này. Tôi hứa với bạn điều đó).
Ngày nay, hơn 80% số tiền trên thị trường chứng khoán được đầu tư thông qua các nhà quản lý quỹ (các quỹ lương hưu, các quỹ ngân hàng, các quỹ bảo hiểm và các quỹ đầu tư). Như tôi nói trong phần giới thiệu, các khoản tiền này được xem là “tiền đầu tư theo tổ chức”. Trong số 17.000 tỷ đô-la đầu tư, các quỹ đầu tư quản lý trên 14.000 tỷ đô-la. Nói cách khác, các nhà quản lý quỹ chính là thị trường. Khi họ đổ hàng tỷ đô-la vào một loại chứng khoán, giá của chứng khoán này sẽ tăng. Khi họ rút tiền khỏi chứng khoán này, giá nó sẽ sụt giảm. Tác động của những quỹ này đến thị trường lớn đến nỗi nếu họ đột nhiên quyết định bán, họ có thể làm thị trường sụp đổ. Hiểu được điều này chính là trọng tâm của Quy tắc số 1: Các nhà quản lý quỹ kiểm soát giá của gần hết các loại chứng khoán trên thị trường, nhưng họ không thể dễ dàng rút khỏi thị trường ngay khi họ muốn. Nhưng bạn và tôi có thể gia nhập và rút khỏi thị trường gần như ngay lập tức. Trong Chương 11, chúng ta sẽ khám phá chi tiết hơn ý nghĩa của điều này đối với việc đầu tư của chúng ta.
Vậy điều gì sẽ xảy ra về lâu dài nếu khoản tiền đầu tư của thế hệ những người sinh sau Thế chiến thứ hai, khoản tiền đã làm thị trường tăng giá, được rút ra khi họ đến tuổi về hưu? Hoặc sẽ thế nào nếu những sự kiện khác làm các khoản tiền chảy ra khỏi thị trường? Khi các quỹ đầu tư bị giảm giá trị, các nhà đầu tư sẽ phản ứng lại bằng cách nhanh chóng rút tiền ra khỏi đó, việc này rốt cục sẽ làm thị trường rơi tự do. Trớ trêu là trong khi trên lý thuyết, việc đầu tư dài hạn thông qua các quỹ đầu tư đa dạng hoá sẽ giảm thiểu rủi ro thì trên thực tế chiến lược đầu tư như vậy lại làm tăng rủi ro. Trên thị trường chứng khoán, không hề có một “danh mục đầu tư cân bằng” giúp bạn giảm thiểu rủi ro, dù cho các nhà kinh doanh trong ngành dịch vụ tài chính ra sức rao giảng về điều đó.
Nếu bạn cho rằng sự sụp đổ của cả thị trường là khó có thể xảy ra trong nền kinh tế hiện đại, xin hãy nghĩ lại. Điều này vừa xảy ra với Nhật Bản trong 10 năm qua, khi thị trường chứng khoán mất đến 85% giá trị trong khoảng thời gian từ 1992 đến 2002. Hiện tại, thị trường này vẫn chưa hồi phục. Thế hệ những người sinh sau Thế chiến II ở Nhật có độ tuổi cao hơn khoảng 10 năm so với thế hệ này ở Mỹ (các nhân tố kinh tế và chính trị đã khiến dân số bùng nổ tại Nhật trước Thế chiến thứ hai). Nếu thị trường Mỹ sụt giảm 85%, chỉ số Dow Jones sẽ giảm còn khoảng 1.500. Điều này từng xảy ra trong thập kỷ 1930. Và nó có thể lặp lại.
Việc đa dạng hoá khiến bạn ôm đồm quá nhiều và chỉ đảm bảo mức lợi nhuận thị trường, đồng nghĩa với việc những gì xảy ra với thị trường sẽ xảy ra với bạn. Rõ ràng, có hàng trăm doanh nghiệp kinh doanh tốt để lựa chọn mua, nhưng nếu bạn có một công việc, một gia đình và không
muốn lúc nào cũng phải gắn chặt với cái máy vi tính thì bạn không có đủ thời gian để theo đuổi quá nhiều loại chứng khoán. Nếu bạn mua những cổ phiếu mà bạn không thể theo dõi kỹ càng, ở một mức nào đó, bạn rõ ràng đã vi phạm Quy tắc số 1, làm cho tổng lợi nhuận của bạn giảm xuống.
Là người mua theo Quy tắc số 1, chúng ta sẽ chỉ lựa chọn một vài doanh nghiệp trong những lĩnh vực khác nhau. Vì vậy, dù không “đa dạng hoá” như những nhà quản lý các quỹ đầu tư bằng cách mua hàng chục hoặc hàng trăm loại cổ phiếu của nhiều công ty cùng một lúc, chúng ta vẫn thiết lập một danh mục đầu tư phản ánh những phạm trù khác nhau của các công ty. Nhưng chính
́ ̀ ̀
xác bạn có thể mua bao nhiêu loại cổ phiếu phụ thuộc vào việc bạn có bao nhiêu tiền để đầu tư. Tôi sẽ nói cho bạn biết tỷ lệ phân bổ đúng trong đầu tư.
Việc đa dạng hoá dành cho những nhà đầu tư có thể đầu tư trong khoảng thời gian tới 30 năm, không muốn học cách đầu tư, hài lòng với tỷ suất lợi nhuận 8%/năm và mức sống tối thiểu khi nghỉ hưu. Mục tiêu của chúng ta là tìm mua cổ phiếu của những công ty làm ăn tốt với mức giá thực sự hấp dẫn, và để thị trường tự điều tiết. Điều này có nghĩa là cuối cùng thị trường định giá cổ phiếu của các công ty đó theo đúng giá trị của chúng. Chỉ trong vòng một vài tuần, vài tháng hoặc vài năm chúng ta sẽ trở nên giàu có hơn nhiều so với hiện nay. Đó là điều chúng ta muốn làm. Tuy nhiên, để làm được điều đó, chúng ta không nên trở thành những nhà đầu tư thờ ơ bị toàn bộ ngành dịch vụ tài chính lợi dụng, và phải bắt đầu làm một nhà đầu tư theo Quy tắc số 1 có kiến thức. Chúng ta không là con mồi mà sẽ trở thành người đi săn.
Giữa những năm 60, bố tôi gợi ý tôi nên đầu tư tiền vào một quỹ đầu tư. Tôi đã đầu tư 600 đô-la và quên mất khoản đầu tư này. Mười tám năm sau, khoản đầu tư của tôi chỉ còn lại 400 đô-la. Hãy tưởng tượng nếu thời gian đó, tôi 45 tuổi và tôi đã đầu tư 60.000 đô-la chứ không phải là 600 đô-la. Liệu tôi sẽ cảm thấy thất vọng thế nào sau 18 năm khi phát hiện ra khoản tiền 60.000 đô-la chỉ còn lại 40.000 đô-la thay vì số tiền 240.000 đô-la tôi lên kế hoạch cho việc nghỉ hưu? Mục tiêu của cuốn sách này là nhằm tránh cho bạn phải chứng kiến vực thẳm tài chính đó.
Phương pháp trung bình hoá chi phí đầu tư sẽ không bảo vệ bạn
Mặc dù phương pháp trung bình hoá chi phí đầu tư (Dollar cost averaging - DCA) không phải là điều bí ẩn, tôi vẫn nhận được nhiều câu hỏi về nó và luôn phải chứng tỏ với mọi người rằng đó không phải là chiếc phao cứu hộ cho các nhà đầu tư. Là một công cụ được các nhà quản lý quỹ và các nhà môi giới chứng khoán ưa dùng, DCA là chiến lược tháng nào cũng mua chứng khoán hoặc chứng chỉ quỹ của các quỹ đầu tư với số tiền như nhau, bất kể giá của chứng khoán và chứng chỉ quỹ đó như thế nào. Ví dụ bạn mua 100 đô-la cổ phiếu của Microsoft mỗi tháng, không quan tâm đến giá mỗi cổ phiếu là bao nhiêu. Vậy nếu giá xuống, số tiền của bạn sẽ mua được nhiều cổ phiếu hơn. Nếu giá lên, bạn sẽ mua được ít cổ phiếu hơn. Mục tiêu của phương pháp trung bình hoá chi phí đầu tư là nhằm tối thiểu hoá rủi ro thông qua việc làm giảm chi phí bình quân cho mỗi loại cổ phiếu.
Phương pháp này có hai nhược điểm: (1) Trong giai đoạn thị trường bình ổn hoặc suy giảm, chiến lược trung bình hoá chi phí đầu tư rất giống với chiến lược mua và nắm giữ cổ phiếu; và (2) để chiến lược DCA có hiệu quả, bạn phải mua một khoản tiền nhất định mỗi tháng, bất kể ra sao. Vì thế, trong giai đoạn 1929 - 1930, khi 100.000 đô-la giá trị cổ phiếu giảm còn 10.000 đô-la, bạn vẫn phải sẵn sàng mua vào. Trong giai đoạn 2000 - 2002, khi chỉ số Nasdaq giảm 85% giá trị, bạn vẫn phải sẵn sàng mua vào trong lúc giá rớt xuống thảm hại. Thứ nhất, giả sử rằng bạn có một công việc và có khoản tiền nhàn rỗi đầu tư vào chứng khoán trong thời kỳ thị trường suy giảm hoặc suy thoái, và thứ hai, giả sử rằng bạn vẫn sẵn sàng ném tiền vào đầu tư sau khi bị thua lỗ theo cách đó. Thay vì tin tưởng vào chiến lược DCA, những nhà đầu tư theo Quy tắc số 1 biết được giá trị thực của những công ty làm ăn tốt và mua cổ phiếu của những công ty này khi chúng bị định giá thấp. Nói cách khác, như tôi sắp chỉ ra đây, chúng ta mua một cổ phiếu trị giá 1 đô-la với giá chỉ 50 xu và tiếp tục làm như vậy. Chúng ta sẽ không mua một cổ phiếu trị giá 1 đô-la với giá 10 đô-la để rồi hy vọng rằng sự hoang phí đó sẽ được bù đắp lại bằng cơ hội được mua cùng loại cổ phiếu đó với mức giá rẻ vào một thời điểm nào đó.
Với việc sử dụng phương pháp DCA, từ năm 1905 đến 1942, tỷ suất lợi nhuận của bạn khi đầu tư vào một quỹ đầu tư chỉ số Dow Jones là 1% so với con số 0% nếu đầu tư theo cách mua và nắm giữ. Từ 1965 đến 1983, tỷ suất lợi nhuận sẽ là 2% thay vì 0%. Từ năm 2000 đến 2005, tỷ suất lợi nhuận sẽ là 3% thay vì 0%. Nói cách khác, đối với phần lớn
̀ ́
thời gian của 100 năm đầu tư chứng khoán vừa qua thì việc mua trái phiếu chính phủ rồi bỏ đó còn tốt hơn là đầu tư theo chiến lược DCA thông qua một quỹ đầu tư dựa trên chỉ số Dow Jones.
Vì các nhà đầu tư theo Quy tắc số 1 cần phải thu được 15% lợi nhuận nên chúng ta sẽ bỏ qua những chiến lược đã thất bại trong việc đạt được mức lợi nhuận tối thiểu nói trên trên tất cả các thị trường. Do thất bại trong việc đạt được ngay cả tỷ suất lợi nhuận như của trái phiếu chính phủ trong những lúc thị trường bình ổn của 100 năm qua nên chiến lược DCA không thể là chiến lược đầu tư hữu ích đối với các nhà đầu tư theo Quy tắc số 1.
Sự thật là ngành dịch vụ tài chính quan tâm đến tiền của bạn chỉ vì nó kiếm được các khoản hoa hồng và lệ phí dù nó có giúp bạn kiếm lợi nhuận hay không. Ngành tài chính luôn khiến bạn tin vào ba quy tắc đầu tư hoang đường và tán dương những ưu điểm của phương pháp trung bình hoá chi phí đầu tư để bạn và tôi trao tiền cho những nhà quản lý quỹ. Họ không muốn bạn đầu tư thành công. Họ muốn bạn tin rằng bạn sẽ thua lỗ nếu tự mình đầu tư. Họ hy vọng, do sợ thua lỗ bạn sẽ buộc phải tiếp tục trao tiền cho họ, bất chấp thực tế là hiệu quả đầu tư của họ còn kém hơn bạn.
Đầu tư theo Quy tắc số 1 khi so sánh với Đầu tư vào Bất động sản
Có thể bạn không tin vào những quy tắc đầu tư hoang đường, nhưng bạn lại thực sự tin vào một điều hoang đường là đầu tư vào bất động sản tốt hơn so với đầu tư vào các công ty. Tôi sẽ cho bạn thấy rằng bạn đã sai. Nếu bạn nghĩ rằng bất động sản sẽ giúp bạn tăng nhanh số tiền bạn đầu tư, thu được tỷ suất lợi nhuận cao hơn nhiều so với đầu tư vào một công ty/cổ phiếu và đó là nơi tốt hơn để những người mới đầu tư đổ tiền vào, thì hãy suy nghĩ lại.
Suy nghĩ trên của nhiều người hoàn toàn sai. Tôi sở hữu nhiều bất động sản, từ những khu đất cho đến những trang trại lớn, những căn hộ, những bất động sản có mục đích thương mại và những ngôi nhà biệt lập. Tôi đầu tư vào các thị trường bất động sản có tốc độ tăng trưởng nhanh như Del Mar, California, Jackson Hole, Wyoming, và vào cả những thị trường bất động sản có tốc độ tăng trưởng chậm như Fairfield, Iowa. Nếu chúng ta so sánh lợi nhuận thu được từ sở hữu bất động sản với sở hữu công ty/cổ phiếu, chúng ta có thể so sánh lợi nhuận tại những thị trường bất động sản tăng trưởng nhanh nhất với lợi nhuận cao nhất mà những nhà đầu tư theo Quy tắc số 1 thu được. Nhưng có lẽ tốt hơn hết, chúng ta nên sử dụng tỷ lệ tăng trưởng trung bình của thị trường bất động sản và sử dụng kết quả trung bình của một nhà đầu tư theo Quy tắc số 1.
Tỷ lệ tăng trưởng hàng năm vào loại khá cao của một thị trường bất động sản trong một giai đoạn hơn 30 năm vào khoảng 4%. Trong cùng giai đoạn, tỷ suất lợi nhuận hàng năm ở mức khá cao của một nhà đầu tư theo Quy tắc số 1 là khoảng 15%. Trên thực tế, các thị trường bất động sản như Jackson Hole và Del Mar tăng giá khoảng 10%/năm trong vòng 30 năm (trong những cơn sốt giá bất động sản). Trên thực tế, các nhà đầu tư theo Quy tắc số 1 có kinh nghiệm thu được tỷ suất lợi nhuận trên vốn đầu tư (ROI) bình quân 25%/năm. Tuy nhiên, đây là những trường hợp đặc biệt.
ROI (Return on Investment) là lợi nhuận bạn kiếm được khi đầu tư một khoản tiền - số tiền chênh lệch giữa số tiền bạn đầu tư và số tiền bạn có được sau một khoảng thời gian nhất định - con số phản ánh lãi hoặc lỗ. Nó thường được thể hiện bằng tỷ lệ %. Ví dụ, nếu bạn đầu tư 100 đô-la vào một cổ phiếu và bạn thu được 150 đô-la sau năm đầu tiên, khi đó ROI của bạn là 50%. Trong tính toán, ROI được tính bằng cách chia tổng số tiền bạn đầu tư cho lợi nhuận bạn thu được (Thông tin thêm: ROI hơi khác so với ROIC (Thu nhập trên vốn đầu tư - chỉ số có cách tính phức tạp hơn nhiều được dùng để xác định dòng tiền vào và ra. Các bạn sẽ nghiên cứu ROIC ở phần sau, đây là một chỉ số rất tốt cho thấy tình trạng của doanh nghiệp).
Vậy hãy xem sự khác biệt giữa việc đầu tư 50.000 đô-la ngay lúc này vào bất động sản với đầu tư 50.000 đô-la vào một loại cổ phiếu theo Quy tắc số 1. Sự so sánh này sẽ rất thú vị nếu giả sử rằng thị trường chứng khoán và thị trường bất động sản có thể không tăng trong vòng 15 năm tới. (Nếu điều này xảy ra, ví dụ về bất động sản dưới đây có thể là quá lạc quan).
Sau đây là số liệu minh hoạ: Chúng ta mua một căn hộ trị giá 250.000 đô-la và trả 50.000 đô-la trong lần trả đầu tiên, khoản tiền còn lại sẽ trả dần với lãi suất 6%/năm trong vòng 30 năm. Số tiền chúng ta phải trả là 1.200 đô-la/tháng nhưng chúng ta sẽ cho thuê căn nhà với giá 1.200 đô-la và khoản tiền này đủ để bù đắp chi phí trả chậm. Tuy nhiên, chúng ta sẽ phải trả tiền bảo hiểm, tiền duy tu bảo dưỡng, tiền quảng cáo và thuế.
Nói một cách khác, hãy giả sử chúng ta không bao giờ bị chậm tiền thuê nhà và có thể tăng tiền thuê nhà 4%/năm. Đến năm thứ chín, số tiền cho thuê nhà có thể bù đắp tất cả các chi phí. Từ đó cho đến năm thứ 30, chúng ta có lãi là dòng tiền mặt. Tiếp đó, chúng ta bán căn nhà đi. Tại thời điểm đó, ngôi nhà có giá 811.000 đô-la và số tiền được trả một lần. Cũng trong khoảng thời gian này, chúng ta bỏ túi khoản thu nhập từ tiền cho thuê nhà mà chúng ta đã đầu tư thông minh và thu được tỷ suất lợi nhuận tương tự như việc đầu tư mua nhà - khoảng 10%/năm - thu được thêm 230.000 đô-la. Như vậy, tổng lợi nhuận là 1.041.000 đô-la. ROI gộp của chúng ta trong khoảng thời gian 30 năm là 10,6% - một con số rất ấn tượng. Tuy nhiên, ở đây tôi chưa đề cập đến chi phí quản lý và duy tu bảo dưỡng, điều mà tôi cho rằng bạn sẽ tự thực hiện. Đây cũng là vấn đề gây đau đầu không ít và việc thu lại những đồng đô-la đầu tư theo cách này không hề đơn giản. Chúng ta phải làm việc rất nhiều với hy vọng có thể thu được tỷ suất lợi nhuận 11%. Tuy nhiên, hãy so sánh với tỷ suất lợi nhuận tối thiểu một nhà đầu tư theo Quy tắc số 1 có thể thu được là 15%.
Đầu tiên, là nhà đầu tư theo Quy tắc số 1, chúng ta không phải chi trả chi phí quản lý - một lợi thế rất lớn. Chúng ta chỉ phải sử dụng 15 phút/tuần và chỉ có vậy. Tất nhiên, chúng ta cần phải học cách vận dụng Quy tắc số 1 trong đầu tư và một khi bạn thấy được những lợi thế của nó, việc học quy tắc này sẽ dễ hơn nhiều so với việc học cách đầu tư vào bất động sản. Chúng ta mua 50.000 đô-la cổ phiếu của một công ty có kết quả làm ăn tốt với một mức giá hấp dẫn. Tiếp đó, chúng ta bán lại khi nó không còn hấp dẫn và mua vào loại cổ phiếu khác. Chúng ta thực hiện điều này trong 30 năm với lợi nhuận trung bình 15%/năm (như ví dụ bất động sản ở trên, chúng ta không phải trả thuế đối với lợi nhuận thu được. Trong trường hợp này, chúng ta mua và bán dựa trên tài khoản hưu trí cá nhân miễn thuế, loại tài khoản mà bạn sẽ học ở phần sau). Sau 30 năm, khoản đầu tư sẽ trở thành 3,3 triệu đô-la. ROI gộp khoản tôi thu được trong khoảng thời gian 30 năm là 15%, cao hơn 4% so với giao dịch bất động sản, nhưng tôi có thêm 2 triệu đô-la trong tài khoản ngân hàng.
Rõ ràng, đầu tư vào chứng khoán có lợi hơn. Bây giờ hãy so sánh hai phương án đầu tư kể trên khi bạn 60 tuổi và nghỉ hưu. Nếu bạn đầu tư vào bất động sản, điều bạn làm lúc này là có 1,2 triệu đô-la và đầu tư số tiền này vào loại trái phiếu có lãi suất 5%, theo đó sẽ đem lại mức thu nhập 5.000 đôla/ tháng. Sau khi trừ thuế, bạn còn 4.000 đô-la, tính theo giá trị tiền hiện nay, số tiền này xấp xỉ 1.650 đô-la/tháng. Có thể tốt hơn nữa nếu bạn vẫn nhận được lương hưu từ quỹ bảo hiểm xã hội. Hoặc bạn tiếp tục kinh doanh bất động sản, tìm kiếm người thuê nhà và tự tay
́ ́ ̀
lắp những cuộn giấy vệ sinh trong toa lét, và khoản tiền thuê nhà chính là thu nhập của bạn, khoảng 3.800 đô-la/tháng. Bạn chỉ có một lựa chọn khác là tăng số tiền đầu tư và mua thêm bất động sản - điều này hoàn toàn khác so với việc nghỉ hưu, phải vậy không?
Nhưng nếu bạn là một nhà đầu tư theo Quy tắc số 1, sẽ không mất nhiều thời gian khi chỉ dành 15 phút/tuần cho việc đầu tư. Theo đó, bạn tiếp tục đầu tư 3,3 triệu đô-la với mức lãi 15%/năm và sống dư dả với số tiền lãi đó. Điều này đồng nghĩa với việc bạn có thu nhập 40.000 đô-la/tháng. Con số trên không phải là lỗi in ấn. Tất nhiên, bạn sẽ phải trả thuế cho khoản thu nhập này. Bạn sẽ còn lại 30.000 đô-la/tháng khi nghỉ hưu, tính theo giá trị tiền hiện nay là 12.000 đô-la/tháng. Liệu bạn có cảm thấy thích thú khi có thu nhập 12.000 đôla/ tháng, cao hơn nhiều so với việc chỉ có 1.650 đô-la/tháng không?
Đây là những điều tôi nhận thấy. Bạn có thể tiếp tục bỏ
qua Quy tắc số 1, chỉ muốn đầu tư vào bất động sản và cố gắng sống với khoản thu nhập từ đó đến suốt quãng đời còn lại hoặc bạn có thể trở thành một nhà đầu tư theo Quy tắc số 1.
Còn chần chừ gì mà không học Quy tắc số 1?
Sẽ không thừa khi tôi luôn nói rằng: Lý do đầu tiên bạn nên học Quy tắc số 1 là bạn có thể thu được ít nhất 15% lợi nhuận mỗi năm mà hầu như không có rủi ro, và điều này sẽ thay đổi cuộc sống của bạn và gia đình bạn vĩnh viễn. Bạn không thể làm được điều đó nếu đầu tư vào bất động sản, vào một quỹ đầu tư hoặc bằng cách chọn lựa ngẫu nhiên các cổ phiếu để mua. Lý do thứ hai là khi bạn đầu tư theo Quy tắc số 1, số tiền ban đầu là bao nhiêu không quan trọng.
Ít nhất giờ đây bạn biết một sự thật: Bất động sản là đáng giá và tôi đã đầu tư rất nhiều tiền vào đó. Tuy nhiên, nó không thể so sánh được với 15% lợi nhuận khi đầu tư theo Quy tắc số 1. Do đó, lời khuyên của tôi là: Hãy tìm mua cổ phiếu của một công ty làm ăn tốt với mức giá hấp dẫn và sống như một ông hoàng khi nghỉ hưu.
Trong vòng 20 năm, bạn có thể nghỉ hưu thoải mái và sung túc. Hãy quan sát bảng dưới đây.
Tương tự như việc so sánh kết quả đầu tư theo Quy tắc số 1 với đầu tư vào bất động sản, nếu bạn có thể nghỉ hưu với thu nhập luôn được duy trì ở mức 70.000 đô-la/năm trong vòng 20 năm kể từ bây giờ với số tiền đầu tư ban đầu chỉ là 1.000 đôla, liệu bạn có muốn học cách làm được điều đó không? Như chúng ta thấy, điều này là hoàn toàn có thể nếu bạn tích luỹ tiền trong vòng 20 năm và bắt đầu từ thời điểm đó sử dụng lợi nhuận kiếm được, giữ nguyên số tiền gốc. Do đó, nếu số tiền đầu tư ban đầu là 1.000 đô-la, số tiền bạn có sau 20 năm là gần 500.000 đô-la, và nếu bạn tiếp tục duy trì tỷ suất lợi nhuận 15%/năm, bạn sẽ có 70.000 đô la/năm dành cho chi tiêu - vẫn giữ nguyên khoản tiền 500.000 đô-la ban đầu. Nếu bạn bắt đầu với số tiền là 50.000 đô-la, số tiền bạn có sau 20 năm là 1,45 triệu đô-la, cho phép bạn sử dụng số tiền lãi 215.000 đôla (15%) mỗi năm. Hãy nghĩ về thời điểm nghỉ hưu khi đó. Vấn đề chính là bạn cần tích luỹ số lãi 15%/năm hoặc hơn từ khoản tiền bạn cóp nhặt được trong vòng 20 năm đầu (và những năm sau đó), điều này sẽ giúp đem lại lợi nhuận cao hơn. Nếu bạn không nghĩ bạn có đủ 20 năm làm việc trước khi nghỉ hưu, bạn vẫn có thể tạo ra một khoản tiền kha khá khi đầu tư theo Quy tắc số 1. Hãy để những đồng tiền đó làm việc cho bạn trong thời gian bạn nghỉ hưu.
Gặp gỡ Doug và Susan Connelly
̀ ̀ ́ ́ ́
Hãy quan sát bức tranh tổng thể về việc đầu tư theo Quy tắc số 1 trong thực tế.
Đó là thời điểm năm 2003, Doug và Susan Connelly là một cặp vợ chồng ở độ tuổi 40 có hai con đang học trung học. Tổng thu nhập của họ là khoảng 60.000 đô-la/năm. Doug là nhân viên bán hàng cho một hãng kinh doanh nhỏ còn Susan là giáo viên của một trường tư. Họ đã nghe tôi phát biểu tại một buổi hội thảo và quyết định học Quy tắc số 1.
Họ quyết định tự mình đầu tư, đơn giản là vì họ muốn có một cuộc sống khấm khá sau khi nghỉ hưu. Tại thời điểm đó, họ chỉ có 20.000 đô-la trong IRA (tài khoản hưu trí cá nhân), mặc dù họ sẽ bán ngôi nhà trị giá 200.000 đô-la vào thời điểm chuẩn bị nghỉ hưu. Họ nghĩ rằng, họ có thể tích luỹ thêm 5.000 đô-la/năm thu nhập chưa đóng thuế và gửi vào tài khoản. Đây là vấn đề của họ: Họ biết rằng, nếu đầu tư 20.000 đô-la cộng với 5.000 đô-la/năm vào một loại trái phiếu có lãi suất 4%, họ sẽ chỉ có 190.000 đô-la khi nghỉ hưu vào thời điểm 20 năm sau. Số tiền 190.000 đô-la trong tài khoản hưu trí cá nhân với lãi suất 4% khi đó sẽ chỉ đem lại cho họ khoản thu nhập chưa đóng thuế 650 đô-la. Tính thêm cả bảo hiểm xã hội và giá trị ngôi nhà, họ có thể sống tạm ổn. Tuy nhiên, đó không phải là cuộc sống họ mong muốn. Họ muốn đi du lịch, ăn uống tại những nhà hàng ưa thích, lái một chiếc xe không bao giờ bị chết máy. Doug muốn chơi gôn và đây là môn thể thao khá tốn kém. Susan muốn đi thăm New York, xem buổi diễn ở Broadway, tuy nhiên giá vé ở đó là 100 đô-la/ghế, tiền ăn tối là 100 đô-la/người, giá thuê phòng khách sạn là 250 đô-la/đêm. Susan biết rằng, chi phí cho những chuyến đi như vậy là quá đắt đỏ so với thu nhập của họ.
Điều quan trọng hơn đối với Doug và Susan là họ có thể chi trả các hoá đơn y tế. Họ biết chi phí chăm sóc sức khoẻ ngày càng cao hơn và bảo hiểm y tế là không đủ. Họ đã đọc một bài báo trên tạp chí Newsweek trong đó phỏng vấn những người nghỉ hưu, những người đang phải chi trả 600 đôla/ tháng cho các loại thuốc không được bảo hiểm y tế. Gia đình Connellys không muốn tạo gánh nặng cho con cái và họ không muốn mất tất cả hoặc bị buộc phải sống tại các nhà dưỡng lão vì những vấn đề sức khoẻ. Họ biết họ cần nhiều tiền hơn.
Họ rất hứng thú với Quy tắc số 1 khi xét đến bài toán dưới đây: Nếu Quy tắc số 1 đem lại tỷ suất lợi nhuận 15% đối với tài khoản hưu trí cá nhân mà không phải đóng thuế, họ sẽ có trên 840.000 đô-la trong tài khoản này khi nghỉ hưu trong vòng 20 năm tới thay vì chỉ có số tiền là 190.000 đô-la. Thứ hai, họ có thể tiếp tục đầu tư trong lúc nghỉ hưu, đem lại tỷ suất lợi nhuận gộp 15% tính trên số tiền 840.000 đô-la. Điều này giúp họ có thêm khoản thu nhập chưa đóng thuế là 10.500 đô-la/tháng, cộng với bảo hiểm xã hội mà không phải tiêu đến khoản tiền 840.000 đô-la. Điều này tốt hơn rất nhiều so với khoản thu nhập 650 đô-la/tháng họ có thể thu được khi đầu tư vào trái phiếu. Họ nhận thấy việc học Quy tắc số 1 sẽ bảo đảm cho họ một cuộc sống tốt đẹp hơn.
Sức mạnh của “công nghệ” tiền tạo ra tiền (lãi mẹ đẻ lãi con)
Doug và Susan có thể nghỉ hưu sớm hơn nhiều và có cuộc sống tốt hơn họ nghĩ vì sức mạnh của tốc độ tăng trưởng gộp: Không chỉ có tiền vốn tạo ra khoản thu nhập/vốn (ROI) mà ROI này còn tạo ra khoản thu nhập/vốn (ROI) mới. (Hãy nhớ lại sự khác biệt khi so sánh lợi nhuận gộp 8 - 9%/năm với lợi nhuận gộp 23%/năm). Đây chính là lý do của “công nghệ” tiền tạo ra tiền theo thời gian. Ví dụ: Bạn đầu tư 1.000 đô-la và khoản đầu tư này tạo ra khoản thu nhập/vốn là 10%/năm. Sau năm đầu tiên, khoản đầu tư của bạn sẽ trở thành 1.100 đô-la. Trong năm thứ hai, bạn có ROI 10% trên số lãi 100 đô-la và ROI tính trên khoản vốn đầu tư 1.000 đô-la (10%). Điều này khiến
́ ́ ̀ ́ ́ ́
số vốn đầu tư của bạn tăng lên thành 1.210 đô-la và cứ tiếp tục như vậy. Nếu bạn duy trì tỷ suất lợi nhuận gộp 10%/năm thì sau 50 năm, khoản đầu tư 1.000 đô-la ban đầu sẽ trở thành 117.391 đô la… và tiếp tục tăng cho đến khi bạn qua đời. Do đó, chúng ta cần đẩy nhanh tốc độ của “công nghệ” tiền tạo ra tiền. Để làm được điều đó, bạn cần phải thu được ROI cao hơn.
Lý do khiến Quy tắc số 1 trở thành nền tảng cho triết lý đầu tư của chúng ta đó là chúng ta hiểu rằng sức mạnh của việc tăng lượng tiền theo cấp số nhân với tỷ lệ 15%/năm hoặc hơn sẽ phụ thuộc vào việc chúng ta không đánh mất tiền. Một mức giảm 50% sẽ cần một mức tăng 100% để trở lại mức giá cũ. Nếu giá cổ phiếu sụt giảm 80%, cần phải tăng 400% để trở lại mức giá cũ. Cổ phiếu của Oracle có giá 40 đô-la/cổ phiếu vào năm 2000 và giảm xuống chỉ còn 10 đô-la/cổ phiếu. Đây là mức giảm 80%. Theo đó, giá cổ phiếu của Oracle cần phải tăng gấp đôi từ 10 lên 20 đô-la, rồi lại cần tăng gấp đôi, từ 20 lên 40 đô-la để trở lại mức giá cũ. Mức tăng cần thiết là 400%! Hãy nghĩ về điều này. Lấy chỉ số Dow Jones là ví dụ để thị trường tăng trưởng 400%, chỉ số Dow Jones cần phải tăng từ mức 10.000 lên 40.000. Điều này có thể phải cần khoảng thời gian ít nhất là ba thập kỷ! Khi đó, danh mục đầu tư của bạn là thảm hoạ thường trực và bạn không thể đạt được tỷ suất lợi nhuận tối thiểu 15%.
Hãy quay trở lại với Doug và Susan, nhưng giả sử lần này chỉ có Susan đến học về Quy tắc số 1 và mỗi vợ chồng có một danh mục đầu tư riêng (một cặp vợ chồng tự lập, họ thích tự mình thử nghiệm các phương pháp đầu tư hơn là nhập các tài khoản với nhau). Hãy giả sử rằng, mỗi người có 20.000 đô-la lúc này để đầu tư, cộng thêm khoản tiền 5.000 đô-la/năm, tương tự như ví dụ trên. Sau 10 năm đầu tư với tỷ suất lợi nhuận 15%/năm, Doug mất một nửa số tiền do thị trường sụt giảm mạnh. Trong khi đó, là một nhà đầu tư theo Quy tắc số 1, Susan không bị thua lỗ. Tiếp đó, Susan dạy Doug về Quy tắc số 1. Tính từ thời điểm cuối năm thứ 10, cả hai người đều thu được tỷ suất lợi nhuận là 15%/năm. Sau 20 năm kể từ bây giờ, Doug có khoản tiền là 420.000 đô-la trong khi số tiền Susan có là 840.000 đô-la. Điều này đồng nghĩa với việc Doug sẽ có khoản thu nhập 63.000 đô-la/năm trong khi Susan có khoản thu nhập lớn hơn, và do đó có mức sống sung túc hơn, là 126.000 đô-la/năm. Lý do cho sự khác biệt về thu nhập 63.000 đô-la/năm sau 20 năm là do một lần Doug đã vi phạm Quy tắc số 1.
Tuy nhiên, đây cũng chưa phải là điều xảy ra với hàng nghìn học viên của tôi, những người từng trải qua những thất bại đau thương. Ví dụ, tôi gặp Robert trong một buổi thuyết trình tại bang Texas. Ông đầu tư toàn bộ số tiền dành cho nghỉ hưu vào cổ phiếu của Enron theo sự hối thúc của những vị sếp đáng tin cậy. Ông tức giận đến nỗi khi tôi trình bày tại lớp học những bằng chứng cho thấy các nhà quản lý của Enron đang tháo chạy trong khi yêu cầu nhân viên tiếp tục ở lại, ông đã lao về phía hội trường và chỉ bình tĩnh lại sau khi đập phá một số thứ. Những sự tức giận như vậy là có thật vì chúng ta đã phải làm việc vất vả để giàu có hơn mà lại mất đi tất cả chỉ vì bỏ qua Quy tắc số 1. Không ít người trong khán phòng đồng cảm với nỗi đau và sự tức giận của Robert.
Một người khác, tôi gọi là Chris, nói với tôi việc ông bắt đầu đầu tư với số tiền 50.000 đô-la vào năm 1990 và phát triển số tiền đó lên trên 1 triệu đô-la vào năm 2000. Sau đó, ông mất tất cả chỉ đơn giản vì ông tin rằng cổ phiếu sẽ lên giá trở lại và người môi giới chứng khoán của ông liên tục thuyết phục ông áp dụng chiến lược tăng trưởng hai con số - hãy đầu tư nhiều hơn vào cổ phiếu đang giảm giá, nhờ đó sẽ kiếm bộn tiền khi cổ phiếu tăng giá trở lại. Tuy nhiên, cổ phiếu không tăng giá trở lại và ông mất tất cả. Ông bắt đầu lại với 1.000 đô-la và nhận ra rằng, thậm chí khi thị trường tăng trưởng trở lại trong lâu dài thì khoảng thời gian đó cũng rất dài, dài hơn so với thời gian ông có thể đợi.
Đây là những con người đáng khâm phục. Họ gục ngã và đã đứng dậy. Mặc dù, chúng ta ca ngợi sự can đảm và kiên nhẫn của họ, nhưng sự thật là chúng ta không muốn phải trải qua những thất bại họ đã trải qua, nếu chúng ta có thể tránh được việc đó. Tôi nghĩ rằng học Quy tắc số 1 và tránh những sai lầm tương tự chính là ưu tiên hàng đầu.
Bị đánh ngã 7 lần. Đứng dậy 8 lần.
- Ngạn ngữ Nhật Bản -
Nếu bạn chưa từng mua một cổ phiếu nào, không biết cách mở một tài khoản giao dịch chứng khoán, hoặc không biết tài khoản hưu trí cá nhân là gì thì cũng đừng lo lắng. Tôi sẽ hướng dẫn bạn trong Chương 15. Đầu tiên, tôi muốn bạn quen với phương pháp luận của Quy tắc số 1, rồi tiếp đến chúng ta sẽ giải quyết những vấn đề nhỏ, giúp bạn đúng đắn từ những bước đi đầu tiên.
Tác động của tỷ suất lợi nhuận gộp có thể giúp bạn hoặc có thể chống lại bạn. Điều đó phụ thuộc vào việc liệu bạn có thể đầu tư chắc chắn vào những công ty không làm bạn thua lỗ hay không. Chỉ khi đó, tỷ suất lợi nhuận gộp mới chắc chắn mang giá trị dương và đủ lớn để tạo ra sự khác biệt trong cuộc sống của bạn. Mặc dù, bất kỳ giá trị dương nào của tỷ suất lợi nhuận gộp cuối cùng cũng khiến bạn trở nên giàu có, câu hỏi đặt ra là khi nào. Rõ ràng là tỷ suất lợi nhuận gộp dương càng lớn thì bạn càng nhanh giàu có, miễn là bạn không vi phạm Quy tắc số 1.
Hãy nghĩ việc đầu tư giống như chơi một ván cờ, nếu bạn đi một nước cờ sai, bạn sẽ phải trở lại điểm xuất phát và bắt đầu lại từ đầu. Đây chính là lý do khiến các quỹ đầu tư thất bại với các danh mục đầu tư của mình. Tại một số ô trên bàn cờ, tất cả những gã khổng lồ - những nhà quản lý các quỹ đầu tư - đều đi vào. Nhiệm vụ của bạn là phải học cách tránh đi vào những ô này. Nếu bạn không bị trở về điểm xuất phát, bạn có thể nhanh chóng trở nên giàu có.
2 - Quy tắc số 1 và bốn chữ cái M
Có nhiều cách dẫn đến thất bại… trong khi đó chỉ có duy nhất một cách dẫn đến thành công.
-ARI STOTLE (384-322 B.C) -
NICHOMACHEAN ETHICS
(Một nhà đầu tư sớm sử dụng Quy tắc số 1)
Có những thứ không bao giờ thay đổi. Quy tắc số 1 là một trong những thứ đó. Đó là quy tắc đầu tư đem lại kết quả tuyệt vời trong hàng trăm năm qua và sẽ vẫn được các nhà đầu tư tiếp tục áp dụng để thành công trong hàng trăm năm tới. Các nhà đầu tư áp dụng Quy tắc số 1 sẽ chú ý vào cổ phiếu của những công ty có giá trị lớn và sau đó kiên nhẫn chờ đợi những biến động của thị trường để cổ phiếu đó đem lại lợi nhuận to lớn cho họ. Sau đây là những nguyên lý chính của Quy tắc số 1:
Tóm tắt Quy tắc số 1
Trước hết, bạn cần hiểu theo nghĩa đen, Quy tắc số 1 nghĩa là “Đừng Để Mất Tiền”, nhưng trên thực tế ý nghĩa của nó lại là hãy đầu tư thật chắc chắn. Sự chắc chắn sẽ có được bằng cách: mua cổ phiếu của một công ty tuyệt vời với mức giá hấp dẫn. Bạn hãy ghi nhớ điều sau:
Bạn sẽ kiếm được tiền khi mua cổ phiếu của một công ty tuyệt vời với mức giá hấp dẫn.
Từ tuyệt vời thực ra gồm có ba yếu tố đơn giản chúng ta sẽ tìm hiểu sâu hơn trong những chương tiếp theo. Thứ nhất, tuyệt vời có nghĩa là công ty đó có ý nghĩa (Meaning) đối với bạn - nghĩa là bạn hiểu đầy đủ về nó và mong muốn được sở hữu toàn bộ công ty đó nếu có thể, bạn sẽ tự hào khi được sở hữu nó và công ty đó phản ánh được những giá trị của bạn. Thứ hai, tuyệt vời có nghĩa là công ty đó đáp ứng được những tiêu chuẩn nhất định về tiềm lực tài chính và
bạn có khả năng dự đoán tình hình tài chính của công ty này, cụ thể nó phải có được cái gọi là Lợi thế cạnh tranh (Moat)(3). Và thứ ba, nó phải được quản lý tốt (good Management). Xin bạn đừng lo lắng nếu bạn không hiểu thuật ngữ “lợi thế cạnh tranh” và “quản lý tốt” mà tôi dùng. Tôi sẽ giúp bạn hiểu chính xác lợi thế cạnh tranh có nghĩa là gì, làm cách nào để xác định được nó, và làm thế nào để nhận ra công ty có được quản lý tốt hay không. Tôi sẽ đưa ra những tiêu chuẩn giúp bạn xác định được thế nào là một công ty tuyệt vời.
Tuy nhiên, một công ty tuyệt vời vẫn chưa đủ. Chúng ta cần phải mua công ty này với mức giá hấp dẫn. Hấp dẫn nghĩa là chúng ta có thể mua cổ phiếu của công ty đó với biên độ an toàn (Margin of Safety - MOS) rất cao. Đối với tôi, một biên độ an toàn tốt nghĩa là mua 1 đô-la với giá chỉ 50 xu. Vì vậy, nếu tôi biết giá trị của một công ty là bao nhiêu thì tôi muốn mua nó bằng một nửa mức giá đó. Rõ ràng, cách làm như vậy ở một mức độ nào đó sẽ khiến tôi trở nên rất giàu có.
Để tìm ra giá trị của một công ty vừa dễ lại vừa khó. Một công ty “tuyệt vời” có nghĩa là chúng ta có thể dự đoán được tình hình của công ty đó. Nếu chúng ta có thể dự đoán được thì chúng ta có thể xác định được giá trị của nó. Nếu đó là một công ty không thể dự đoán được thì chúng ta sẽ không thể biết được nó đáng giá bao nhiêu. Tôi sẽ nói cho bạn biết chính xác cần làm thế nào để phát hiện được những công ty có thể dự đoán được và có thể xác định được giá trị của nó, cũng như hướng dẫn bạn cách tính toán nhanh chóng giá trị của công ty. Đầu tư theo Quy tắc số 1 bao gồm bốn bước sau:
1. Tìm được một công ty tuyệt vời.
2. Biết được giá trị của công ty đó.
3. Mua nó với 50% mức giá.
4. Tiếp tục làm như vậy cho tới khi bạn trở nên rất giàu có.
Có vẻ như các bước trên đều khá đơn giản. Vậy tại sao mọi người lại không áp dụng? Câu trả lời của Buffett cho câu hỏi này đó là “Tôi rất lấy làm lạ là ý tưởng mua một tờ 1 đô-la với giá 50 xu hoặc sẽ được mọi người chú ý ngay lập tức, hoặc họ không hề chú ý đến nó. Điều này cũng giống như tiêm chủng. Nếu nó không có tác dụng ́ ̀
đối với một người nào đó thì cho dù bạn có nói trong nhiều năm và chỉ cho người đó thấy nó đem lại kết quả tốt đến đâu thì rốt cục bạn cũng không thuyết phục được người đó. Chỉ bởi vì người đó không hiểu được ý tưởng đó, mặc dù trên thực tế nó hết sức đơn giản”.
Khi tôi học đầu tư theo Quy tắc số 1, chân lý đầu tiên tôi học được đó là:
Giá của một vật không phải lúc nào cũng
ngang bằng với giá trị của nó.
Ví dụ, nếu tôi muốn mua một chiếc ô tô mới, tôi biết khá rõ về giá trị của nó trước khi bước chân vào đại lý phân phối. Tôi biết giá trị thực của chiếc xe đó và tôi biết chiếc xe đó được bán với nhiều mức giá khác nhau, thường là thấp hơn giá trị thực. Tôi không có ý định trả bất kỳ giá nào người bán hàng đưa ra. Nhưng giả sử tôi không biết chiếc ô tô đó đáng giá bao nhiêu? Người bán hàng có thể nói cao hơn và bán cho tôi chiếc ô tô đó với mức giá cao hơn nhiều so với giá trị của nó - cao hơn giá trị thực. Nếu tôi trả 200.000 đô-la để mua một chiếc Mercedes - Benz có giá trị thực là 100.000 đô-la thì khi bán nó tôi sẽ mất một số tiền lớn. Nhưng nếu tôi có thể mua chiếc xe đó với giá 50.000 đô-la thì khi bán đi tôi sẽ kiếm được tiền. Mua cổ phiếu cũng tương tự như vậy, chúng ta cần phải tìm ra giá trị thực là bao nhiêu và sau đó trả số tiền ít hơn.
Thực chất, Quy tắc số 1 là làm thế nào để trở thành một người mua hàng giỏi.
Nếu bạn là tuýp người luôn chờ cho tới khi bán hạ giá mới mua, khi mà các món hàng được bán với giá thấp hơn nhiều so với giá trị thực của chúng (bạn biết một chiếc ti vi màn hình phẳng đáng giá 5.000 đô-la nhưng bạn có thể mua nó với giá 2.500 đô-la) thì bạn có thể trở thành một nhà đầu tư giỏi theo Quy tắc số 1. Tất cả những gì bạn cần làm là học cách xác định giá trị của những công ty tuyệt vời và chờ đợi thị trường bán hạ giá cổ phiếu của những công ty đó.
́ ́
Nếu chúng ta không hy vọng một chiếc ô tô luôn được định giá đúng, thì tại sao chúng ta lại hy vọng một công ty luôn được định giá đúng?
Các công ty khác với những chiếc ô tô và hàng hoá ở một khía cạnh quan trọng: Giá trị thực của một công ty được xác định bởi thặng dư có thể tạo ra cho những người sở hữu nó trong tương lai. Các nhà đầu tư theo Quy tắc số 1 có thể quan tâm đến một công ty và nhanh chóng tìm ra thặng dư nó có thể đem lại cho mình và dựa vào đó để xác định giá trị thực. Đó cũng chính là điều tôi muốn chỉ ra cho bạn.
Khi bạn biết cách tính toán giá trị thực của một công ty, mà không cần quan tâm đến giá bán của nó trên thị trường thì bạn đã có thể đầu tư chắc chắn theo Quy tắc số 1.
Bốn chữ cái M
Trong quá trình tìm mua cổ phiếu của những công ty tuyệt vời có mức giá hấp dẫn, bạn nên nghĩ đến những điều tôi đã nêu ra và “bốn chữ cái M”: Ý nghĩa (Meaning), Lợi thế cạnh tranh (Moat), Quản lý (Management), và Biên độ an toàn (Margin of Safety). Ngay bây giờ bốn chữ cái này có thể chưa có nhiều ý nghĩa đối với bạn nhưng tôi sẽ phân tích chi tiết từng chữ cái. Đó là những chỉ dẫn giúp bạn biết cách đầu tư hoàn hảo. Chúng sẽ giúp bạn ngay từ giai đoạn đầu tiên (khi bạn mới chỉ có ý tưởng đầu tư vào một công ty nào đó) cho tới giai đoạn cuối cùng (khi bạn sẵn sàng mua cổ phiếu của công ty đó bằng số tiền bạn khó nhọc kiếm được).
Bí quyết để hiểu được bản chất của bốn chữ cái M đó là chuyển chúng thành những câu hỏi để bạn trả lời khi đánh giá một công ty và xác định xem đó có phải là lựa chọn đầu tư đầu tư tốt hay không. (Làm thế nào để trả lời hợp lý những câu hỏi này sẽ là trọng tâm của những chương tiếp theo).
1. Công ty đó có ý nghĩa (Meaning) đối với bạn không? 2. Công ty đó có lợi thế cạnh tranh (Moat) lớn không? 3. Công ty đó có được quản lý (Management) tốt không?
4. Công ty đó có biên độ an toàn (Margin of Safety) lớn không?
Nếu có thể trả lời “Có” một cách dứt khoát đối với tất cả bốn câu hỏi này thì bạn biết được đây có phải là công ty mình muốn mua hay không. Những câu hỏi này có đi kèm theo một số yêu cầu sau:
Câu hỏi thứ nhất “Công ty đó có ý nghĩa với bạn không” đòi hỏi bạn chỉ mua nó khi bạn sẵn sàng để công ty này trở thành khoản hỗ trợ tài chính duy nhất đối với gia đình bạn trong 100 năm tới. Nói cách khác, bạn nên biết mình đang mua thứ gì, vì nếu nó mất giá, gia đình bạn sẽ chết đói. Hay nói cách khác, bạn nên biết về hoạt động kinh doanh của công ty đó và phải chắc chắn rằng nó hoạt động dựa trên những quy tắc mà bạn cảm thấy yên tâm.
Câu hỏi thứ hai “Doanh nghiệp đó có lợi thế cạnh tranh lớn không?” đòi hỏi công ty đó phải có khả năng bảo vệ chính mình trước sự tấn công của các đối thủ cạnh tranh, như thể họ đang tấn công chống lại những đội quân muốn cướp phá lâu đài của mình. Nói cách khác, bạn nên có khả năng dự báo chính xác triển vọng lâu dài của công ty.
Câu hỏi thứ ba “Công ty đó có được quản lý tốt không?” đòi hỏi bạn phải tin chắc rằng những người điều hành công ty đang hoạt động như thể công ty là phương tiện kiếm sống duy nhất của gia đình họ trong 100 năm tới. Nói cách khác, bạn phải tin chắc rằng họ sẽ không bỏ rơi bạn vì lợi ích trước mặt.
Câu hỏi thứ tư “Công ty có biên độ an toàn lớn không?” đòi hỏi bạn phải biết được giá trị của công ty và có thể bán cổ phiếu của công ty đó. Nói cách khác, bạn phải có khả năng mua cổ phiếu của công ty đó với giá rẻ để sau này bán đi mà không bị thua lỗ - kể cả khi bạn sai lầm ngay ở lần đầu tiên mua.
Đối với một người mới bước vào lĩnh vực
đầu tư, bốn câu hỏi này có vẻ đáng sợ. Người ta thường có xu hướng suy nghĩ như một phản xạ tự nhiên rằng “Tôi không thể trả lời được” và
̀
Có nhiều cơ hội để
mua những
họ đầu tư theo suy nghĩ của chính
mình. Nhưng tôi cũng có một số thông tin tốt như sau. Thứ nhất, trước đây người ta thường phải mất nhiều thời gian để trả lời những câu hỏi này, nhưng hiện nay, nhờ các công cụ thích hợp, việc đó có thể thực hiện rất nhanh chóng.
Thứ hai, bạn chỉ cần phải tìm ra một số doanh nghiệp bạn có thể trả lời đồng ý với bốn câu hỏi trên. Từ thời điểm đó, bạn chỉ cần giám sát các công ty của mình và để tiền tạo ra tiền. Khi tôi chỉ cho bạn cách tiếp cận và sử dụng các công cụ trên, bạn sẽ có thể theo dõi chặt chẽ các công ty của mình và tránh mất tiền - ngay cả khi bạn phạm phải một số sai lầm nhỏ, hoặc khi thị trường có những hiện tượng bất thường.
công ty
tuyệt vời với mức giá
hấp dẫn. Những cơ hội đó thực sự tồn tại, nếu bạn
sẵn sàng
thực hành Quy tắc
số 1 và chia tay các quỹ đầu tư.
Nếu bạn cảm thấy mình hơi bị quá tải, hãy hít thở thật sâu. Trọng tâm của cuốn sách này là tập cho bạn cách trả lời bốn câu hỏi này cho bất kỳ công ty nào để bạn có thể trở thành một nhà đầu tư đầy tự tin. Hãy kiên nhẫn. Có thể ngay bây giờ bạn không thể tưởng tượng ra, nhưng cuối cùng, bạn cũng sẽ thực hành với bốn chữ cái M mà không cần phải nỗ lực. Bạn sẽ quan sát toàn bộ quá trình đầu tư thông qua Quy tắc số 1.
Những việc chúng ta kiên trì thực hiện sẽ trở nên dễ dàng hơn, không phải vì bản thân nhiệm vụ đó dễ hơn mà khả năng thực hiện nó của chúng ta đã được cải thiện.
-RALPH WALDO EMERSON
Bây giờ, chúng ta tìm hiểu chi tiết về bốn chữ cái M.
3 - Mua công ty, không mua cổ phiếu
Sự xâm lược có thể bị chặn lại nhưng không thể biết được thời cơ của ai sẽ đến
-VICTOR HUGO (1802 - 1885 ),
HISTOIRE D’UN GRIME , 1852 -
Câu hỏi với chữ cái M đầu tiên - Công ty đó có ý nghĩa (Meaning) đối với bạn không? - bao gồm hai câu hỏi nhỏ: (1) Bạn có muốn sở hữu toàn bộ công ty không? (2) Bạn có hiểu đầy đủ về công ty đó đến mức muốn sở hữu toàn bộ nó hay không?
Khi chuẩn bị mua một công ty lớn, tôi thường tự nhủ với chính mình rằng “Phil, nếu mua công ty này, ta sẽ sở hữu toàn bộ công ty đó và toàn bộ những gì nó có”. Tôi luôn nhắc đi nhắc lại câu nói này ngay cả khi tôi chỉ mua một phần nhỏ của công ty thông qua việc mua một ít cổ phiếu. Tất nhiên là có lý do chính đáng để học thuộc lòng câu thần chú đó. Nó khiến tôi suy nghĩ giống như một chủ sở hữu công ty chứ không phải một nhà đầu tư cổ phiếu - đây là điều rất quan trọng để trở thành nhà đầu tư theo Quy tắc số 1 thành công.
Hãy tự hào về những gì bạn sở hữu
Nếu chúng ta mua công ty với tư cách là chủ sở hữu công ty chứ không phải người đầu cơ cổ phiếu thì việc đầu tư đó mang tính cá nhân. Tôi muốn khoản đầu tư của mình mang tính cá nhân. Tôi muốn tự hào về những gì mình sở hữu. Đây là một khởi đầu quan trọng để quyết định chúng ta nên đổ tiền vào đâu. Chúng ta đầu tư vào công ty nào, có nghĩa là chúng ta tán thành việc tiếp tục kinh doanh trong lĩnh vực đó, bất kể đó là lĩnh vực gì. Ví dụ, nếu mua hãng Coca-Cola, chúng ta ngầm định rằng, chúng ta ủng hộ công ty đó. Thực ra, chúng ta đang hàm ý rằng, chúng ta muốn có các sản phẩm của Coke và muốn công việc kinh doanh của Coke tiếp tục
́
phát triển mạnh. Còn nếu mua một công ty bóc lột sức lao động trẻ em tại một nước thế giới thứ ba, chúng ta lại đang ngầm ủng hộ hành động ấy. Có thể bạn chấp nhận điều đó, nhưng điểm mấu chốt ở đây là hãy sở hữu cái gì bạn có thể tự hào khi nói nó là của mình. Sự ủng hộ của chúng ta có thể không chiếm nhiều vai trò trong một hòm phiếu, nhưng với tư cách là người sở hữu một công ty thì điều đó lại đóng một vai trò rất quan trọng. Nếu quyết định sở hữu một công ty nào đó của chúng ta ảnh hưởng đến hoạt động của xã hội thì tôi cho rằng chúng ta nên cân nhắc điều chúng ta đang nói.
Đầu tư theo Quy tắc số 1 cho phép bạn xác định được công ty tốt hay xấu và giúp bạn đưa ra quyết định đầu tư đúng đắn cho chính mình. Điều này không có nghĩa là quy tắc này bảo đảm cho bạn mua được những công ty sẽ không thất bại trong kinh doanh, hay gắn giá trị của bạn với công ty để bảo đảm bạn thu được thành công lớn nhất về tài chính. Điều đó chỉ có nghĩa là xã hội có đủ những kẻ đạo đức giả, vậy tại sao bạn lại hợp tác với họ? Nếu bạn nhận thấy một thứ gì đó xấu xa thì bạn đừng nên sở hữu công ty tạo ra nó. Hãy ủng hộ bất kỳ thứ gì mà bạn mong muốn với số tiền của mình và bạn cần hiểu rằng, đó là lựa chọn cá nhân của riêng bạn.
Đầu tư là một trong những việc mang tính đạo đức và quan trọng nhất chúng ta có thể làm. Nếu ta có vinh dự trở thành một trong số ít người có nhiều tiền hơn mức cần thiết để tồn tại thì chúng ta cần phải thận trọng khi phân bổ nguồn vốn đó vì nó có thể ảnh hưởng đến việc xã hội sẽ đối xử như thế nào với các em nhỏ của chúng ta.
Tôi viết cuốn sách này không phải để khuyên các bạn nên đầu tư vào đâu. Tôi hy vọng rằng, các bạn hiểu rõ điều đó. Tôi viết cuốn sách này để giúp các bạn biết cách tìm những nơi đầu tư tốt nhất và bạn có quyền lựa chọn năm hoặc 10 công ty bạn quan tâm nhất. Hãy nghĩ việc đầu tư tiền của bạn cũng giống như việc gieo trồng hạt giống trên mặt đất. Hãy tưởng tượng rằng, chúng ta gieo gì thì sẽ gặt nấy. Hãy hành động như thể điều đó là có thật. ́ ́ ́
Cuối cùng, hãy ghi nhớ Quy tắc 10 - 10 khi mua bất kỳ công ty nào.
Quy tắc 10 - 10
Quy tắc 10 - 10: Tôi sẽ không sở hữu công ty này trong 10 phút nếu tôi không sẵn sàng sở hữu nó trong 10 năm.
Quy tắc 10 - 10 là một cách tư duy đầu tư. Trên thực tế, chúng ta có thể mua công ty nào đó vào ngày hôm nay, sau một tháng lại bán đi, ba tháng sau mua trở lại và vài tuần sau lại bán đi. Chúng ta mua một công ty để giữ nó trong 10 năm không có nghĩa là chúng ta không thể mua đi bán lại công ty đó nhiều lần.
Lý do quan trọng để sử dụng Quy tắc 10 - 10 trong quá trình mua đó là quy tắc này khiến người ta trở thành những nhà đầu tư có kỷ luật hơn.
Hầu hết các nhà đầu tư đều giả định họ sẽ thua lỗ trong một số khoản đầu tư khi cổ phiếu của họ biến động lên xuống trên thị trường. Do kỳ vọng như vậy nên họ thường đa dạng hoá danh mục đầu tư để giảm bớt rủi ro. Nhưng không có người đầu tư nào lại hờ hững khi bị thua lỗ và cho rằng đó là điều bình thường. Bạn có thể tưởng tượng một người đầu tư quyết định mua thêm năm công ty nữa để “giảm rủi ro”? Điều đó điên rồ như thế nào? Nếu một công ty của anh ta có nhiều rủi ro đến vậy, thì tại sao việc đa dạng hoá đầu tư vào năm công ty có thể khiến cho công ty đầu tiên ít rủi ro hơn? Nếu công ty đầu tiên có quá nhiều rủi ro, anh ta có thể bán nó đi và mua một công ty khác anh ta hiểu rõ hơn. Quy tắc 10 - 10 giúp chúng ta nhớ đến việc chúng ta “sẵn sàng” sở hữu một công ty trong thời gian bao lâu để chúng ta luôn nghĩ mình là một nhà đầu tư dài hạn.
Là những nhà đầu tư theo Quy tắc số 1, chúng ta sẽ chỉ sở hữu một số ít công ty. Trong trường hợp đó, chúng ta cần chuẩn bị tinh thần để chắc chắn rằng chúng ta sở hữu một số ít những công ty thực sự tuyệt vời, đó là những công ty không làm cho chúng ta thua lỗ.
̀
Chúng ta cần kiên nhẫn chờ đợi cho tới khi có thể tìm ra những công ty tuyệt vời với mức giá hấp dẫn và tạo nên một thói quen, là không bao giờ bỏ tiền ra cho tới khi chắc chắn rằng mình sẽ không bị mất tiền. Nếu một công ty thực sự tuyệt vời và mức giá của nó thực sự hấp dẫn, chúng ta có thể tin chắc rằng mình sẽ kiếm được tiền.
Nhưng bạn nên mua công ty nào? Bạn và tôi có nên mua cùng một kiểu công ty không? Chúng ta có phải là những người giống nhau không? Chúng ta có yêu thích và hiểu biết mọi thứ giống nhau không? Rõ ràng, mỗi người trong chúng ta là cá thể duy nhất với tài năng khác nhau. Mỗi người tôi từng gặp đều khác nhau ở khía cạnh nào đó. Chúng ta khác nhau về mục đích. Hành động phù hợp với tính cách của bạn đồng nghĩa với đầu tư phù hợp với tính cách của bạn. Vậy bạn nên sở hữu kiểu công ty nào? Câu trả lời là những công ty bạn hiểu rõ, những công ty phản ánh được bạn là ai.
Hiểu rõ công ty của bạn
Tôi tiếp tục nhắc lại mục tiêu của Quy tắc số 1 đó là hãy đầu tư chắc chắn để không thua lỗ. Nếu chúng ta không hiểu chúng ta đang mua cổ phiếu của công ty nào, chắc chắn chúng ta không dự đoán được điều gì sẽ xảy ra với công ty đó trong tương lai. Nếu chúng ta không dự đoán được điều gì sẽ xảy ra trong tương lai thì làm sao chúng ta có thể tính toán được giá trị của công ty đó tại thời điểm hiện tại? Rõ ràng là chúng ta cần phải hiểu rõ công ty để có thể dự đoán được tương lai của nó và sau đó tính toán được giá trị của công ty tại thời điểm hiện tại. Vậy chúng ta sẽ dễ dàng hiểu rõ những công ty đã biết hơn là những công ty chưa bao giờ nghe nói đến. Do vậy, chúng ta sẽ bắt đầu nghiên cứu những công ty tuyệt vời bằng cách khám phá những công ty chúng ta am hiểu.
Bạn có thể băn khoăn tự hỏi mình phải thực sự hiểu một công ty đến mức độ nào. Ví dụ, nếu bạn thực sự thích sản phẩm ngũ cốc, nhãn hiệu ưa thích của bạn là Cheerios, đó là nhãn hiệu do công ty General Mills sản xuất và công ty này cũng chưa bao giờ làm điều gì sai trái. Vậy có thể nói rằng bạn thực sự hiểu công ty General Mills hay không? Hay bạn đã hiểu chi tiết, kỹ lưỡng quy trình sản xuất và
̀ ̀
bán hàng của Cheerios hay chưa? Bạn có phải hiểu về nguồn cung cấp, quy trình sản xuất hộp, chi phí lao động, hoạt động marketing và quảng cáo, cách thức trưng bày hàng hay không? Đây là những câu hỏi hay nhưng đều nằm ngoài phạm vi tôi đề cập đến là “hiểu công ty của bạn”. Ý nghĩa chỉ là bước đầu tiên. Vì vậy, nếu bạn thích Cheerios và có cảm tình với công ty sản xuất ra nhãn hiệu đó - công ty General Mills, thì đó là điều kiện đủ để giúp nắm được chữ cái M đầu tiên. Khi nắm được ba chữ cái M còn lại, bạn sẽ hiểu đầy đủ về công ty đó để đưa ra quyết định đầu tư dựa trên Quy tắc số 1.
Bạn cần biết bao nhiêu để có thể trả lời được chữ cái M đầu tiên này? Thực sự là không cần nhiều lắm. Chỉ đủ để bạn cảm thấy thoải mái, yên tâm. Bạn không cần phải tập trung quá nhiều vào công việc này. Bạn không cần phải biết những chi tiết phức tạp của hoạt động marketing, kênh vận chuyển hàng hoá trong tương lai của công ty hoặc những thông tin khác, ngoại trừ việc bạn thích những hoạt động công ty này đang tiến hành và không khó để bạn nhận ra công ty này có thể tiếp tục kinh doanh tốt hơn so với những công ty khác hay không. Khi đạt được bốn chữ cái M, đó là lúc bạn biết mình có thể tự tin đầu tư khoản tiền của mình. Như bạn có thể thấy, nếu có là kẻ ngốc thì chúng ta cũng có những công cụ giúp chúng ta thoát khỏi tình huống xấu mà không gây hại gì. Ý nghĩa, theo cách hiểu trong Quy tắc số 1, chỉ là hiểu công ty đó làm gì và hoạt động như thế nào. Đây là điều kiện đủ để bạn cảm thấy vui vẻ khi đưa ra quyết định đầu tư vào công ty với hy vọng tiếp tục sở hữu công ty đó trong 100 năm tới hoặc lâu hơn thế nữa. Buffett đã trích dẫn Kinh thánh - Matthew 6:21: "Tiền của bạn ở đâu thì tâm hồn bạn ở đó".
Khi tôi bắt đầu đầu tư, có một điều chắc chắn tôi không biết đó là nhận ra được công ty tuyệt vời bên cạnh những công ty tồi tệ. Điều đầu tiên tôi học được đó là tôi biết nhiều về những công ty đó hơn tôi tưởng.
Chúng ta hãy cùng làm nhanh một bài tập sau: Vẽ ba vòng tròn giao nhau. Vòng tròn thứ nhất có tên “Niềm say mê”. Vòng tròn thứ hai có tên là “Năng khiếu” và vòng tròn thứ ba có tên là “Tiền bạc”. (Tôi phải công nhận tác giả và nhà nghiên cứu doanh nghiệp Jim Collins đã rất giỏi khi nghĩ ra ý tưởng ba vòng tròn này. Ông sử dụng chúng để đánh giá các công ty, đặc biệt là những công ty đi từ “tốt” đến “tuyệt vời”).
Hãy tự hỏi mình ba câu hỏi sau:
1. Bạn thích làm gì, xét trong công việc hoặc trong giải trí? 2. Những việc gì bạn thực sự có năng khiếu?
3. Bạn làm gì để kiếm tiền hoặc bạn tiêu tiền vào những việc gì?
Câu trả lời của bạn - đặc biệt là những câu có liên quan đến ba câu hỏi trên sẽ giúp bạn bắt đầu lựa chọn những công ty tuyệt vời của riêng mình.
Viết tất cả những gì bạn thực sự say mê vào vòng tròn thứ nhất - những thứ bạn thích làm, hoặc sẽ làm nếu bạn có thời gian hoặc có tiền. Viết tất cả những gì bạn có năng khiếu ở vòng tròn thứ hai - những thứ bạn giỏi cả trong công việc hay giải trí. Và ở vòng tròn thứ
ba, bạn hãy viết tất cả những gì giúp bạn kiếm tiền hoặc khiến bạn tiêu tiền.
Ví dụ, nếu tôi làm theo các bước này khi bắt đầu đầu tư, tôi sẽ biết mình thích trở thành hướng dẫn viên trên sông, tôi giỏi làm hướng dẫn viên trên sông và tôi kiếm tiền cũng chính bằng công
́ ́
việc này. Đơn giản chỉ có thế. Ngay khi tôi thấy cụm từ “hướng dẫn viên trên sông” trong tất cả ba vòng tròn, tôi sẽ dễ dàng hiểu được hoạt động của những công ty có tour trên sông. Tôi cũng không mất nhiều thời gian để nhận thấy hoạt động tổ chức tour trên sông cũng giống như những hoạt động kinh doanh khác - như tổ chức đi săn ở châu Phi hay tổ chức tour đi chơi biển. Hơn thế nữa, các công ty này có thể liên kết với các công ty khác như Disneyland hay Magic Mountain - một công viên theo chủ đề nổi tiếng khác.
Điều bạn tìm kiếm trong ba vòng tròn đó là những gì xuất hiện ở ít nhất hai vòng tròn - một dấu hiệu về thấy một sản phẩm, một ngành nghề hay một công ty nào đó. Bất cứ những gì xuất hiện ở hai hoặc ở cả ba vòng tròn đều được bạn hiểu rõ hơn những người khác. Đó có thể là thứ có ý nghĩa với bạn - đó cũng chính là ngành nghề đáng để bạn nghiên cứu.
Hãy truy cập trang “Yahoo” và click mục “Tài chính” sau đó là mục “Các ngành nghề” tiếp đến là mục “Danh mục các ngành nghề”. Bạn có thể thấy gần như mọi nghề nghiệp đều được chia thành 12 hạng mục hoặc “lĩnh vực”. (Việc này giúp bạn nghĩ đến những công ty bạn muốn mua trước khi bạn học các kỹ năng phân tích. Khi bạn học xong tất cả những gì liên quan đến Quy tắc số 1, bạn sẽ dành nhiều thời gian nghiên cứu những ngành nghề này và tìm kiếm những ngành nghề phù hợp để tiếp tục áp dụng Quy tắc số 1 trong quá trình đầu tư.
Danh sách những lĩnh vực được trích từ Yahoo không phải là một danh sách chuẩn. Không có một danh sách các ngành nghề chuẩn nào. Những công ty dữ liệu khác nhau sẽ liệt kê số lượng ngành nghề khác nhau do họ phân chia hay sát nhập một số ngành nghề lại với nhau. Mỗi công ty dữ liệu có cách phân loại hay đặt tên các công ty theo ngành nghề riêng nhưng tất cả những công ty này đều phân chia các ngành nghề theo cách thức tương đối giống nhau. Tôi sẽ hướng dẫn bạn cách tìm kiếm các ngành nghề chi tiết hơn trong Chương 13.
Mỗi lĩnh vực được hình thành từ những ngành nghề có đặc điểm giống nhau. Du lịch mạo hiểm là một trong những ngành nghề này
̀ ́
nhưng nó thuộc lĩnh vực nào? Đừng lo sợ rằng mình phải nhấn chuột nhiều lần và phải tự mình mày mò. Vì du lịch mạo hiểm có gì đó liên quan đến dịch vụ nên bạn hãy thử vào lĩnh vực Dịch vụ. Bạn nhấn chuột vào lĩnh vực “Dịch vụ” và sẽ thấy hàng loạt các ngành nghề có liên quan đến lĩnh vực này hiện ra.
Đây mới chỉ là những lĩnh vực chung chung. Hãy nhìn vào đó và xem liệu trong đó có lĩnh vực nào có bao gồm ngành du lịch mạo hiểm hay không. Các hoạt động mang tính giải trí liệu có được không nhỉ? Hãy nhấn chuột vào mục đó và danh sách sẽ hiện ra.
Có công ty nào có vẻ hoạt động trong lĩnh vực du lịch mạo hiểm không nhỉ? À, đây rồi! Công ty American Classic Voyages, Carnival Corporation, Royal Carribean và Vail Resorts có vẻ liên quan đến
lĩnh vực này. Nhưng cũng có những công ty thú vị khác trong danh sách này: Blockbuster là công ty tôi mua băng video, Netfix là công ty tôi mua DVD và tôi cũng đến công ty Six Flags nhiều lần rồi. Như vậy, tôi đang đứng trước nhiều lựa chọn và tôi - một hướng dẫn viên từng hoạt động trên sông có thể biết một số điều về lĩnh vực này. Hãy đi xuống dưới canô sau khi tất cả các hành khách đang ngủ, chúng ta đôi khi có thể hướng dẫn khách ngồi trong bóng tối và nói về việc đi chơi biển bằng tàu thuỷ tuyệt vời như thế nào và hãy để ai đó chèo thuyền, nhả số, nấu thức ăn và đùa nghịch ở đuôi thuyền. Tổ chức tour trên sông và tour trên biển có rất nhiều điểm giống nhau.
Tôi có thể tìm kiếm được gì nữa? Hầu hết những gì tôi muốn làm hoặc muốn mua đều xuất hiện trong một công ty thuộc lĩnh vực và ngành nghề nào đó.
Nếu tôi cho rằng, tôi hiểu đôi chút về những công ty sản xuất thiết bị ngoài trời, tôi có thể tìm thấy chúng ở lĩnh vực Các sản phẩm giải trí. Có khoảng gần 100 công ty sản xuất những sản phẩm như máy tuyết, xe mô tô, gậy chơi golf, thuyền chạy bằng điện và ván trượt tuyết. Trong nhóm Quần áo, có những công ty cũng rất hấp dẫn đối với tôi. Tôi mua các thiết bị ngoài trời - những thứ hữu ích cho những chuyến đi ngắn và những chiếc ván trượt tuyết tại công ty Columbia Sportswear và Quicksilver. Dựa trên kinh nghiệm trong quân đội và kinh nghiệm của một người hướng dẫn trượt tuyết, một người lái xe máy và một người tiêu dùng bình thường thì có 17 công ty tôi thấy muốn sở hữu.
Khi nghiên cứu những ngành nghề này theo cách của những năm 1980, tôi mất nhiều thời gian do phải lật tìm những cuốn sách chứa đầy dữ liệu trong thư viện công cộng. Nhưng cuối cùng, tôi cũng đạt được chút ít kết quả. Đó là có được danh sách những công ty mà tôi hiểu biết đôi chút. Bạn cũng có thể dễ dàng làm được như thế. Bằng cách trả lời ba câu hỏi: bạn giỏi về lĩnh vực nào, bạn yêu thích những gì và bạn kiếm tiền hoặc tiêu tiền như thế nào, bạn sẽ nhanh chóng lập ra được danh sách những công ty bạn am hiểu. Với danh sách này, bạn có thể bắt đầu nghiên cứu.
́
Nếu bạn từng là một người tiêu dùng sản phẩm hoặc dịch vụ, và làm việc ở một vài nơi, bạn sẽ nắm được hầu hết các ngành nghề. Không cần phải vận dụng đến khoa học mới có thể tìm ra được những gì có ý nghĩa đối với bạn. Hãy nhìn vào những công ty Warren Buffett sở hữu: đồ uống không ga, thức ăn nhanh, bánh kẹo, dao cạo, công viên giải trí, TV, báo chí, ngân hàng, nhà lưu động, cửa hàng bán đồ dùng trong nhà, cửa hàng bán kim cương… Bạn hiểu biết tương đối nhiều về những công ty này. Trên thực tế, có rất nhiều công ty như vậy nên qua quá trình phân tích và đánh giá cẩn thận theo Quy tắc số 1, bạn phải thu hẹp danh sách các công ty của bạn lại.
Các nhà đầu tư theo Quy tắc số 1 không làm những gì họ không chắc chắn. Hoặc họ hiểu rất rõ và chắc chắn về ngành nghề đó hoặc họ không. Khi đọc toàn bộ cuốn sách này, bạn sẽ thấy rất nhiều lần tôi nhắc đi nhắc lại với bạn rằng bạn phải hiểu rõ ngành nghề bạn đang định đầu tư. Là một nhà đầu tư theo Quy tắc số 1, bạn sở hữu mọi thứ nhưng không có gì làm bạn rối bời nhanh như việc bạn không chắc chắn về ngành nghề đang định đầu tư vào.
NHỮNG VÒNG TRÒN MẪU CỦA HỌC VIÊN
KATHY
Tôi khuyến khích tất cả các học viên của mình vẽ ba vòng tròn của riêng họ và quan sát những nội dung xuất hiện trên trang giấy. Khi tham gia buổi hội thảo và làm bài tập này, Kathy rất ngạc nhiên bởi có nhiều ngành nghề xuất phát từ ba vòng tròn này. Sau đây là kết quả của cô:
Kathy nhận thấy ngay rằng dạy học và trẻ em có mặt ở cả ba vòng tròn này trong khi đó đào tạo, máy tính và rạp chiếu phim có mặt ở hai vòng tròn. Năm lĩnh vực học viên đó quan tâm đưa cô đến với tám ngành nghề:
Tám ngành nghề này bao gồm hơn 300 công ty mà khi nhìn vào đó, Kathy cảm thấy hài lòng bởi vì kinh nghiệm là một người mẹ và một người giáo viên đã giúp cô hiểu biết rõ về các công ty thuộc những ngành nghề này.
Khi bắt đầu thực hành Quy tắc số 1, bạn sẽ thấy mảng thị trường nào bạn am hiểu và mảng thị trường nào bạn nên tránh. (Bạn
́
cũng sẽ khám phá ra những lĩnh vực thị trường bạn muốn tìm hiểu hay cố gắng tìm hiểu và thực hiện những bước cần thiết để tiến hành công việc đó). Nhưng có khi bạn phải tự mò mẫm để tìm hiểu những điều đó. Bạn trải qua ít nhất một lần làm việc ở lĩnh vực bạn cho rằng mình am hiểu cũng như ngành nghề liên quan đến nó, nhưng cuối cùng lại thất bại ngay khi đầu tư vào. Kết quả là bạn cảm thấy như bị ai đó tát vào mặt. Tôi từng hiểu sai một ngành nghề và phải chịu hậu quả về việc đó? Tất nhiên là phải chịu hậu quả và đó là một phần trong quá trình học của tôi.
Điều này xảy ra khi tôi đầu tư vào một công ty máy tính có nhiều nhân tài, với ngân sách lớn và có một nhà lãnh đạo nổi tiếng trong lịch sử (Steve Jobs). Đó là thời điểm năm 1985, Steve Jobs rời công ty Apple để xây dựng một hệ điều hành tốt hơn nhiều so với cả Windows và Apple và ông gọi tên hệ điều hành mơi là NeXT. Ông khuyến khích các nhà đầu tư như tôi đầu tư vào NeXT hoặc cả vào những công ty đang phát triển phần mềm chạy trên máy tính NeXT. Do đã dự tính sẽ đầu tư vào một công ty phần mềm nên tôi liên lạc với các nhà lập trình và các chuyên gia máy tính. Tôi cho rằng tôi hiểu lĩnh vực tin học và mọi nhà lập trình đều nói rằng máy tính NeXT là nền tảng tốt nhất cho các nhà phát triển, một hệ thống điều hành tốt nhất, một sản phẩm tuyệt vời nhất, hấp dẫn nhất. Nó có mọi ưu điểm trừ một nhược điểm là không tương thích với Microsoft Windows trong khi các sản phẩm của Microsoft luôn thống trị trên thị trường. Vì bất kỳ mục đích hay toan tính gì Microsoft là một mục tiêu không thể với tới được.
Nếu xem cuộc triển lãm giới thiệu sản phẩm màn hình từ năm 1988 đến năm 1991, bạn có thể phát hiện ra những màn hình có dải màu xám dễ phân biệt của NeXT nhưng chúng hầu như đã biến mất vào khoảng năm 1993. Tôi mất 5 triệu đô-la nhưng so với các nhà đầu tư khác như Ross Perot, các trường đại học Carnegie - Mellon, Stanford và Compaq Computer thì đó chỉ là một số tiền ít ỏi. Tôi thừa nhận ngay từ đầu rằng đó không phải vụ đầu tư tôi áp dụng Quy tắc số 1 bởi vì cả NeXT và cả công ty phần mềm tôi đều không tuân theo quy tắc trả lời câu hỏi về bốn chữ cái M.
Kinh nghiệm này dạy cho tôi hai bài học quý giá: (1) những công ty không có truyền thống lâu đời để ta có thể dự đoán được tương lai vốn chứa đựng rủi ro và (2) đừng lao vào những công ty bạn không am hiểu. Nếu Warren Buffett thừa nhận rằng ông sẽ không đầu tư vào Microsoft bởi vì ông không hiểu công nghệ máy vi tính thì tôi đầu tư vào phần mềm cho một máy tính hoàn toàn mới để làm gì? Tôi là người trẻ tuổi ngốc nghếch và tôi cho rằng tôi có thể phá vỡ quy tắc này. Nhưng bây giờ, tôi đã già dặn hơn và khôn ngoan hơn… dù sao đi nữa cũng có kinh nghiệm hơn và tôi muốn giúp bạn tránh những sai lầm tôi từng phạm phải.
Bạn sẽ bắt đầu quá trình này bằng cách nghiên cứu những công ty bạn nghĩ là bạn am hiểu và từ đó bạn sẽ tiến hành nghiên cứu. Hãy cố gắng tránh những tiếng nói tình cảm hay tiếng nói ngạo mạn có thể dẫn bạn đi sai đường. Quy tắc số 1 đơn giản và dễ hiểu đến mức nhiều người cho rằng có thể mở rộng được. Nếu bạn cố làm như vậy, bạn sẽ mất tiền.
Bạn không cần phải sử dụng Internet khi tiến hành nghiên cứu ban đầu. Điểm xuất phát hiệu quả để tìm ra những công ty bạn am hiểu đơn giản chỉ là xem xét những nơi bạn dừng lại mua hàng nhiều lần và những sản phẩm bạn mua nhiều lần. Bạn có thể không hiểu sự rắc rối, phức tạp của những ngành như ngành công nghiệp giày nhưng nếu bạn chỉ đi giày của hãng Nike và mua những sản phẩm của hãng Nike (và thường thích mọi thứ bạn nhìn và nghe về Nike) thì đó là một sự khởi đầu tốt. Hãy nhìn vào bảng kê khai thẻ tín dụng và sổ séc của bạn để biết bạn thường tiêu tiền vào những khoản mục nào. Sau đó, hãy tự hỏi mình “Tôi tự hào khi sở hữu cái gì?” Tôi đoán rằng bạn sẽ có trong danh sách của mình hơn 15 sản phẩm phục vụ cho cuộc sống và công việc của bạn.
Sau đó bắt đầu bài tập tiếp theo. Bạn phải biết xem liệu những công ty này có lợi thế cạnh tranh hay không.
4 - Xác định lợi thế cạnh tranh
Học tập không phải là thứ có thể ép buộc được… nếu ép buộc sẽ không đem lại hiệu quả
-W.EDWARDS DEMING-
(1900 - 1993)
Câu hỏi thứ hai: Công ty đó có lợi thế cạnh tranh lớn không?
Điều đầu tiên bạn muốn biết khi có ý định mua một công ty (với tinh thần “tôi sẽ mua toàn bộ công ty” bởi vì bạn hiểu về công ty và tự hào khi sở hữu nó) là liệu có thể dự đoán được tương lai của công ty không. Rõ ràng là bạn muốn có một công ty thành công trên thương trường - một công ty tiếp tục phát triển trong nhiều thập kỷ tới. Nhưng nếu bạn không thể chắc chắn với phán đoán của mình về triển vọng phát triển của công ty cũng như khả năng thành công của công ty trong tương lai và nếu là một nhà đầu tư theo Quy tắc số 1, bạn sẽ không mua công ty đó do không biết chắc chắn tương lai của nó.
Chương này đưa ra những chỉ dẫn giúp bạn nhận biết liệu công ty đó có thành công và tiếp tục hoạt động tốt trong vòng ít nhất 20 năm tiếp theo nữa không. Để có thể dự đoán được tương lai của một công ty, cần phải biết công ty đó có khả năng cạnh tranh lâu dài hay không, như Buffett nói “lợi thế cạnh tranh lâu dài bảo vệ công ty khỏi các cuộc tấn công cũng giống như một đường hào bảo vệ lâu đài”. Hay nói cách khác, chúng ta sẽ tìm kiếm những công ty có lợi thế cạnh tranh và “hàng rào” ngăn cản cạnh tranh rộng lớn làm cho các đối thủ khó có thể lọt vào tấn công lâu đài. Chúng ta muốn bảo vệ chắc chắn để tránh các đối thủ cạnh tranh muốn tấn công.
Phát hiện ra một công ty có lợi thế cạnh tranh lớn sẽ là chìa khoá để tìm kiếm và sở hữu một công ty thành công bởi vì việc dự đoán tương lai của một công ty có lợi thế cạnh tranh sẽ dễ dàng hơn một công ty không có lợi thế cạnh tranh.
Một số bạn có thể biết rõ khái niệm lợi thế cạnh tranh. Dù vậy, tôi cũng khuyên các bạn nên tiếp tục đọc để biết được tầm quan trọng của khái niệm này. Sau khi nói sơ qua đặc điểm của lợi thế cạnh tranh, tôi sẽ chỉ cho bạn thấy những chỉ số tài chính nào mà bạn cần để “nhìn” thấy một lợi thế cạnh tranh lớn.
Lợi thế cạnh tranh là gì?
Ý tưởng về lợi thế cạnh tranh thực sự rất đơn giản. Nếu một công ty dễ dàng bị xâm nhập thì có thể công ty đó không có lợi thế cạnh tranh. Ngược lại, nếu như khó xâm nhập và thành công trên thị trường thì có thể công ty đó có lợi thế cạnh tranh lớn.
Ví dụ, khi tôi còn nhỏ, gia đình tôi có một trang trại trồng anh đào ở Oregon. Tôi đã kinh doanh anh đào bằng cách trèo lên cây và hái quả, rồi nhờ ông tôi đưa tới trạm thu gom quả anh đào - đây là nơi họ cân anh đào của tôi, đo kích cỡ quả anh đào được chọn ra ngẫu nhiên và trả tiền cho tôi. Không có gì cản trở tôi trong quá trình buôn bán anh đào. Lý do là bởi vì không ai trong cửa hàng hoa quả đặc biệt quan tâm đến nguồn gốc của những quả anh đào. Anh đào là một loại hàng hoá thông thường, điều này có nghĩa là anh đào của một trang trại rất khó phân biệt với anh đào của các trang trại khác. Những công ty chuyên về hàng hoá thông thường sẽ không có lợi thế cạnh tranh. Nếu bạn sở hữu một công ty như vậy, bạn sẽ không được bảo vệ trước sự tấn công của các đối thủ. Nếu họ muốn chiếm lâu đài của bạn thì khi đó sẽ không có nhiều phương án ngăn cản họ. Nếu họ có thể trồng và bán anh đào với giá rẻ hơn của bạn, bạn có thể bị phá sản. Chúng ta không muốn sở hữu những công ty không có lợi thế cạnh tranh bởi vì chúng ta sẽ gặp khó khăn khi kiếm tiền ở đó. Hãy hỏi những ai sở hữu trang trại, hiệu thuốc, cửa hàng bán thức ăn ngon, trạm xăng hay cửa hàng
̀ ̀ ́ ̀ ̀
bán quần áo. Đây đều là những công ty khó kiếm tiền bởi vì chúng đều là những công ty kinh doanh những mặt hàng cần thiết.
Nhưng thay vì cạnh tranh trên thị trường anh đào, tôi từng bước xâm nhập vào thị trường của Coke và Pepsi thì sao? Có vẻ như ngành này kiếm được rất nhiều tiền. Nhưng bạn có nghĩ là tôi sẽ gặp khó khăn khi xâm nhập vào thị trường này không? Hãy giả sử rằng cây côca của tôi trồng được nhiều lon cola có hương vị giống hệt một lon coca thật. Tôi có thể nhặt cây côca, đến cửa hàng và bán cho họ với giá rẻ và cạnh tranh với Coke không? Không. Chủ cửa hàng còn nhiều chỗ trống trong thùng đá bán hàng của mình. Coke và Pepsi được để đầy vào những khoảng trống đó bởi vì khách hàng đến cửa hàng đó chỉ để mua Coke hoặc Pepsi. Lý do khách hàng muốn mua những nhãn hàng này là bởi vì Coke và Pepsi được quảng cáo trên ti vi suốt ngày. Chủ cửa hàng không phải trả tiền cho những quảng cáo này (hơn thế những người bán buôn còn được nhận một khoản tiền thưởng lớn khi họ nhận bán Coke hay Pepsi trong cửa hàng mình. Tại sao không một chủ cửa hàng có thể dành một chỗ của Coke và Pepsi cho sản phẩm không có tiếng của tôi? Câu trả lời là: không bao giờ. Không nhường một centimet nào cả.
Vậy thì làm cách nào để tôi có thể bán được cola của tôi? Nếu tôi không tìm ra câu trả lời thì chứng tỏ Coke và Pepsi có khả năng bảo vệ lớn - “hàng rào” đó sẽ ngăn những đối thủ cạnh tranh như tôi khỏi tấn công vào lâu đài của họ. Ngay cả nếu tôi có thể tạo ra được cola từ cây của mình thì tôi cũng không có chỗ để bán sản phẩm của mình ở các cửa hàng.
“Hàng rào” ngăn cản cạnh tranh lớn rất có ý nghĩa với người chủ sở hữu công ty bởi vì công ty đó sẽ rất khó bị các đối thủ khác tấn công. Một chai Coke đắt hơn nhiều so với một chai cola bình thường nhưng những ai muốn uống Coke đều không quan tâm đến vấn đề này. Bạn không thể cạnh tranh với Coke bằng cách hạ thấp giá thành của bạn và đó cũng là dấu hiệu của một lợi thế cạnh tranh lớn. Chúng ta rất khó cạnh tranh với eBay bởi vì đó là trang thương mại trực tuyến lớn nhất thế giới. Gillette cũng là công ty khó có thể cạnh tranh bởi họ có rất nhiều fan hâm mộ sản phẩm của Gillette. Điều này cũng tương tự với các công ty Disney, Wrigley và Apple.
Điều kỳ diệu hơn nữa đối với những công ty có lợi thế cạnh tranh lớn đó là khả năng theo kịp lạm phát. Hay nói cách khác, những công ty này có khả năng tăng giá do chi phí tăng lên. Mọi người vẫn mua Coke, dao cạo Gillette hoặc mua các sản phẩm của Starbucks ngay cả nếu giá hiện nay của những hàng hoá này đắt hơn so với giá ngày hôm qua.
Lợi thế cạnh tranh không phải là sự yêu thích một sản phẩm. Nhiều người ghét Microsoft nhưng vẫn sử dụng Windows bởi vì có nhiều phần mềm họ bắt buộc phải sử dụng lại chạy trên nền Windows. (Bạn còn nhớ câu chuyện NeXT của tôi chứ? Những người bạn đầu tư của tôi và tôi không thể vượt qua được “hàng rào” ngăn cản cạnh tranh của Microsoft để tấn công vào lâu đài của họ). Một đối thủ cạnh tranh như Linux có thể tặng hệ điều hành (miễn phí) mà vẫn không chiếm được thị phần lớn của Microsoft. Việc tích hợp một hệ điều hành này với một hệ điều hành khác có thể gây ra nhiều rắc rối bởi vì bạn sẽ phải sử dụng nhiều hệ điều hành. Và mặc dù người dân trong các thị trấn nhỏ có thể không ưa những gì Wal-Mart đã làm đối với các cửa hàng kim khí trong vùng của họ, họ vẫn mua hàng ở Wal- Mart bởi vì giá ở đây rẻ. Wal-Mart có lợi thế cạnh tranh về giá cả.
Một công ty theo Quy tắc số 1 luôn luôn là công ty có thể vượt qua được các đợt lạm phát. Đó là mục đích của đường hào đối với toà lâu đài: bảo vệ khỏi lạm phát và các đối thủ cạnh tranh. Các công ty có lợi thế cạnh tranh không bị ảnh hưởng bởi lạm phát bởi vì họ có khả năng tăng giá khi chi phí kinh doanh tăng lên. Những công ty có lợi thế cạnh tranh lớn - những công ty theo Quy tắc số 1 - có thể làm được điều đó bởi vì họ giữ vị trí độc quyền trên thị trường. Điều cốt yếu của độc quyền đó là khả năng tăng giá theo ý muốn.
́ ́ ́
Các bí quyết kinh doanh có thể tạo ra lợi thế cạnh tranh và hàng rào ngăn cản cạnh tranh khiến các công ty khác không thể sao chép được. Ngoài việc sở hữu một lợi thế cạnh tranh về nhãn hiệu, bí quyết kinh doanh còn được thể hiện qua hương vị tuyệt vời khiến cho chính Coke cũng không thể cạnh tranh được với chính mình. Công ty này đã cố gắng đưa ra một công thức mới - New Coke và bị sụt giảm về doanh thu. Mọi người thích Coke như nó vốn có trong gần 100 năm qua. Nếu các công ty khác có thể sao chép được công thức sản xuất của Coke thì họ có thể tạo ra sản phẩm giống như Coke. Nhưng họ không thể làm sản phẩm y hệt như Coke. Khi bạn muốn mua Coke, bạn sẽ mua Coke. Ngay cả nếu bạn có thể sao chép y nguyên Coke, bạn cũng không thể cạnh tranh được với nhãn hiệu và sự phân phối sản phẩm trên toàn thế giới của họ. Coke có lợi thế cạnh tranh tốt.
Công ty dược phẩm khổng lồ Pfizer có được lợi thế cạnh tranh từ các bằng phát minh sáng chế về các loại thuốc. Đó là lợi thế cạnh tranh được luật pháp hỗ trợ. Intel có được lợi thế cạnh tranh nhờ có kinh nghiệm lâu năm trong việc tạo nên các loại mạch điện tử siêu nhỏ. Phải nhờ những nhân viên của Intel, bạn mới tìm hiểu được về công ty này.
Công ty tiện ích như PG&E tự bảo vệ chính mình bằng luật chính phủ. Đó là công ty duy nhất cung cấp nguồn điện cho cả vùng và do đó độc quyền. Để sử dụng điện ở California, bạn phải mua điện của PG&E, hoặc tự xây dựng nhà máy phát điện cho riêng mình. Những công ty tiện ích giống như những chiếc cầu thu lệ phí. Để vượt qua con sông bạn phải trả phí qua cầu, hoặc bạn phải có thuyền riêng của mình. Những công ty này được độc quyền vì có chính phủ hậu thuẫn nhưng chúng không nhất thiết phải là những công ty độc quyền. Hầu hết những công ty quảng cáo và truyền thông là ví dụ về những chiếc cầu thu lệ phí. Nếu bạn muốn quảng cáo ở thủ đô Washington, bạn có thể đăng ký trên tờ Washington Post. Bạn phải trả phí cho tờ Post. Time Warner là một công ty kiểu như thế. Google cũng vậy.
Thực tế, một công ty có lợi thế cạnh tranh thường được ủng hộ, giúp đỡ lâu dài để bảo vệ khỏi bị cạnh tranh. Họ không cần phải là một công ty “độc quyền” theo đúng nghĩa (nghĩa là có quyền lực to lớn chi phối tới một mảng thị trường nào đó) nhưng nên là công ty đứng ở vị trí số 1 hoặc số 2 trên thị trường đó.
Lý do các nhà đầu tư theo Quy tắc số 1 rất thích lợi thế cạnh tranh đó là bởi vì họ có thể dự đoán được tương lai của những công ty có lợi thế cạnh tranh dễ dàng hơn. Những công ty có một hoặc nhiều hơn một trong năm kiểu lợi thế cạnh tranh có thể tồn tại và tăng trưởng mạnh hơn
̀ ́ ̀
nhiều so với những công ty phải đánh bại đối thủ bằng việc hạ giá thành sản phẩm của mình xuống một mức độ nào đó. Do vậy, là nhà đầu tư theo Quy tắc số 1, chúng ta sẽ mua một công ty như thể nó là nguồn thu nhập duy nhất của gia đình chúng ta trong 100 năm tới. Vì vậy, chúng ta muốn chắc chắn công ty đó có lợi thế cạnh tranh.
Những lợi thế cạnh tranh bền vững
Nếu công ty bạn cam kết bảo vệ chính mình khỏi những đối thủ cạnh tranh tiềm tàng thì lợi thế cạnh tranh của công ty bạn phải có tính bền vững. Hãy nhớ rằng bạn và tôi đều trông cậy vào công ty này trong khoảng thời gian 20 năm, vì vậy tính lâu bền của sản phẩm và ngành nghề đóng vai trò rất quan trọng. Công ty phải làm nhiều việc hơn nữa, chứ không chỉ đưa ra mức giá tốt cho sản phẩm của mình. Coke đã có lợi thế trong khoảng 100 năm. Công ty này duy trì lợi thế của mình bằng cách bảo vệ bí quyết công thức về xirô vì công thức này là nhân tố quyết định sự tồn tại của công ty. Nhưng Coke cũng phải bảo vệ hệ thống phân phối sản phẩm của mình và cũng phải cạnh tranh với Pepsi. Hai phương pháp này bảo vệ lợi thế cạnh tranh của công ty nhưng nếu Coke cứ phó mặc tình hình và không bảo vệ được lợi thế cạnh tranh của mình thì hãng Pepsi sẽ vượt qua và chiếm được thị phần của Coke.
Microsoft tiếp tục bảo vệ lợi thế cạnh tranh của mình bằng cách nâng cao công nghệ và cải tiến kỹ thuật để đáp ứng nhu cầu của công ty và của khách hàng. Microsoft không cho rằng họ vẫn duy trì được vị thế của mình khi dựa trên công nghệ lạc hậu và yếu kém. Khi tôi viết ra điều này, Google đã khiến cho Bill Gates đặc biệt quan tâm bởi vì họ tạo ra được công cụ tìm kiếm thông tin tuyệt vời dưới lợi thế cạnh tranh của tập đoàn Microsoft. Bill Gates đã đúng khi lo lắng, bởi vì Google đang tính toán làm thế nào để kiếm được nhiều tiền mà không buộc mọi người phải thay đổi trang web của họ và không phải thay đổi máy tính hay hệ điều hành. Google được xây dựng dựa trên Linux vì vậy nó không cần sử dụng bất kỳ sản phẩm nào của Microsoft. Lợi thế cạnh tranh của Google - cái mà Gates đang cố gắng tìm cách vượt qua để có thể hạ được đối thủ cạnh tranh - đang dẫn đầu trong các công cụ tìm kiếm thông minh. Google có lợi thế cạnh tranh về bí quyết và lợi thế cạnh tranh về nhãn hiệu. Google có khả năng tạo ra sự liên lạc hiệu quả giữa các khách hàng để không khách hàng nào phải quan tâm đến việc có phải chạy trên Windows nữa không? Bạn có thể thấy cuộc chiến đang xảy ra rất ác liệt. “Hàng rào” ngăn cản cạnh tranh của Microsoft có lâu bền không? Và “hàng rào” ngăn cản cạnh tranh của Google cũng lâu bền chứ?
Bạn không phải xác định nhiều "hàng rào" của một công ty để xem xét xem đó có là nơi đầu tư tốt hay không, mặc dù bạn có thể phát hiện ra rằng "hàng rào" càng lớn thì có khả năng đó là sự kết hợp của nhiều loại "hàng rào". Ví dụ, Coke và Microsoft đều có được những thương hiệu nổi tiếng trong khi đó vẫn sở hữu các đặc điểm "hàng rào" khác.
Đừng quá chú ý đến việc đếm xem có bao nhiêu "hàng rào" trong một công ty, thay vào đó hãy tập trung xác định xem "hàng rào" nào khiến các đối thủ cạnh tranh khó vượt qua nhất và phải có lòng tin là công ty đó có thể duy trì "hàng rào" đó trong một thời gian dài.
Nếu bạn muốn có một chiếc xe máy tốt, bền và được những người đi xe máy ưa chuộng thì chỉ có duy nhất một loại - đó là chiếc Harley. Những chiếc xe là đối thủ cạnh tranh của Harley được giới thiệu ở Sturgis và Daytona hàng năm. Kiểu dáng, âm thanh, cảm giác và đặc tính của những chiếc xe máy này là những gì mà chủ nhân của chiếc Harley muốn. Không có sự lựa chọn thứ hai. Harley đã có mặt trên thị trường hàng thập kỷ nay và sẽ còn tiếp tục trong nhiều thập kỷ nữa. Nhưng quay trở lại những năm 70 của thế kỷ trước, công ty này phải cạnh tranh với các công ty của Nhật Bản. Honda đã dành hàng triệu đô-la nhằm cạnh tranh với Harley. Xe máy của Honda tốt hơn về mặt kỹ thuật và rẻ hơn rất nhiều. Nhưng xe Honda vẫn không giống xe Harley, nó không thể đi được trên đường gồ ghề như Harley và nó cũng không được người tiêu dùng ưa chuộng như Harley. Không có gì ngạc nhiên khi biết rằng Honda không thành công trong việc thuyết phục người đi xe máy rằng xe máy của họ là Harley mặc dù xét bề ngoài chiếc xe này giống gần như hoàn toàn chiếc Harley. Ngày nay, người Nhật nhập khẩu xe Harley bởi vì những chiếc xe này rất khác so với những chiếc xe được sản xuất trong nước họ. Bạn muốn có một chiếc Harley và bạn
́ ́ ́
quyết định sẽ mua một chiếc Harley. Lợi thế cạnh tranh đó đã tạo ra sự độc đáo cho Harley và bảo vệ nó bằng các bằng phát minh sáng chế, bởi luật sư và bởi hoạt động marketing của công ty. Harley duy trì được tính bền vững cho lợi thế cạnh tranh về nhãn hiệu của mình - kiểu dáng, âm thanh và cảm giác Harley. Liệu chúng ta có thể dự đoán chúng vẫn sẽ giữ được vị trí như hiện nay trong 20 năm nữa không?
Một công ty có lợi thế cạnh tranh bền vững thường khó có nguy cơ phá sản. Chúng ta có thể dễ dàng dự đoán thu nhập của công ty trong một thời gian dài. Do đó, chúng ta cũng có thể dễ dàng dự đoán kết quả đầu tư của những công ty có lợi thế cạnh tranh bền vững.
Rất nhiều nhà đầu tư mắc sai lầm khi nghĩ về giá cổ phiếu và sự lên xuống giá cổ phiếu có liên quan đến khả năng công ty có thể cạnh tranh với những công ty khác tốt đến đâu - hoặc theo cách nói của tôi là lợi thế cạnh tranh của công ty lớn bao nhiêu. Ví dụ, trong công ty đó hơn bảy năm qua, giá cổ phiếu của Pepsi tăng hơn rất nhiều so với giá cổ phiếu của Coke. Nhưng xin bạn hãy nhớ cho chúng ta không mua cổ phiếu, chúng ta mua công ty. Là một người mua cổ phiếu, chúng ta phải hiểu rằng, có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến giá cổ phiếu - những yếu tố này thường không có gì liên quan đến chất lượng của công ty hay mức độ lợi thế cạnh tranh của công ty đó.
Đây là một ví dụ rất quan trọng (xem biểu đồ): Năm 1998 giá một cổ phiếu của Pepsi là 44 đô-la và giá một cổ phiếu của Coke là 42 đô-la (chúng ta sẽ nghiên cứu chi tiết cách tính toán giá trị - giá trị thực ở Chương 9). Trên thị trường, Pepsi bán với giá 30 đô-la một cổ phiếu, thấp hơn 30% so với giá trị của nó và ngược lại Coke bán với giá 90 đô-la một cổ phiếu, cao hơn khoảng 200% so với giá trị của nó. Do vậy, kể từ đó, thị giá của Coke giảm xuống và của Pepsi lại tăng lên. Quả là một điều đáng ngạc nhiên!
Bạn cần hiểu rằng, lợi thế cạnh tranh cho chúng ta biết liệu một công ty sẽ diễn biến như thế nào trong 20 năm nữa, chứ không phải giá mà chúng ta trả để mua công ty đó tại thời điểm hiện tại. Những công ty có lợi thế cạnh tranh lớn thường được định giá quá cao và do vậy, có thể bị giảm giá mạnh như thể không có ngày mai. Nhưng nếu trong thực tế, một công ty có lợi thế cạnh tranh lớn thì sự tồn tại của lợi thế cạnh tranh đó có thể đảm bảo rằng tương lai của công ty sẽ tươi sáng hơn so với ngày hôm nay. Tất nhiên, "ngày mai" đó là thứ mà những nhà đầu tư theo Quy tắc số 1 như chúng ta tin cậy: Đó cái giá để mua một cổ phiếu khi mọi người đều định giá thấp nó.
Mọi người học Quy tắc số 1 đôi khi cho rằng, các công ty có lợi thế cạnh tranh thường được định giá cao hơn so với giá trị thực của nó. Không phải như vậy. Thực sự không phải như vậy. Nếu điều đó đúng thì để có biên độ an toàn lớn thì bạn và tôi phải tìm kiếm những công ty có lợi thế cạnh tranh lớn trước khi người khác nhận ra. Tôi không biết bạn thế nào nhưng tôi không phải là người đủ thông minh để kiên định làm việc này. Về phần tôi, tôi sẽ chỉ làm những việc có ý nghĩa: xác định những công ty có lợi thế cạnh tranh lớn và sau đó, mua chúng với giá thấp hơn nhiều so với giá trị đáng có của nó bất cứ khi nào tôi có thể.
Nếu bạn mua Coke năm 1980 thì tỷ suất lợi nhuận vào năm 2005, 25 năm sau sẽ là 12%. Nếu bạn mua Pepsi năm 1980 thì tỷ suất lợi nhuận sẽ là 12%. Như vậy, chúng ta có hai công ty sản xuất ra sản phẩm gần giống nhau, cùng có lợi thế về nhãn hiệu và có lợi nhuận dài hạn gộp trên thị trường bằng nhau. Nhưng hãy nhìn vào biểu đồ giá và xem sự khác biệt rõ ràng như thế nào. Không có sự khác biệt về tỷ suất lợi nhuận nhưng có vẻ như Pepsi hoạt động hiệu quả hơn. Trong thực tế, Coke được định giá quá cao trong những năm cuối của thế kỷ trước nhưng sau đó đã được thị trường định giá lại.
Nhiệm vụ của chúng ta là tìm kiếm những công ty có lợi thế cạnh tranh lớn, mua chúng khi thị trường định giá nhầm ở mức thấp sau đó bán ra khi thị trường định giá quá cao. Làm công việc ngược lại, mua Coke với giá 90 đô-la khi nó chỉ đáng 40 đô-la là một
̀ ́ ́
việc làm sai lầm. Chúng ta muốn bán ra với mức giá 90 đô-la. Những công ty có lợi thế cạnh tranh lớn được định giá quá cao có thể đem lại cho chúng ta cơ hội mua lại với giá cao và giữ chúng trong 10 hoặc 20 năm nữa cho đến khi chúng được định giá quá cao một lần nữa. Nhưng để làm được điều này, bạn cần phải tự tin vào lợi thế đó.
Tìm kiếm công ty có lợi thế cạnh tranh có thể khó khăn nếu bạn cố gắng làm việc đó chỉ dựa vào bản năng. Tuy nhiên, các nhà đầu tư theo Quy tắc số 1 đã tính toán cách xác định một lợi thế cạnh tranh bằng cách nhìn vào năm chỉ số cụ thể. Năm chỉ số này là lăng kính về tình hình của cả một công ty, cho phép chúng ta thấy điều gì đang thực sự diễn ra bên trong công ty và liệu chúng ta có thể tiếp tục giữ những công ty này trong danh sách các công ty tuyệt vời không.
Năm chỉ số tài chính chủ yếu
Nếu một công ty có ít nhất một trong năm lợi thế cạnh tranh thì nó sẽ được thể hiện qua năm chỉ số chủ yếu. Những con số này là bằng chứng về sự tồn tại của lợi thế cạnh tranh. Những công ty không có lợi thế cạnh tranh sẽ không có năm chỉ số chủ yếu này. Nếu bạn không thể phát hiện ra những chỉ số này thì tôi tin rằng bạn đang ở một vị trí rất ít “hy vọng” trong việc cố gắng dự đoán tương lai của công ty đó. Công ty có thể không có lợi thế cạnh tranh - hay tương lai - như suy
́ ́
nghĩ của bạn. Những con số này quan trọng đến mức tôi không bao giờ mua một công ty có năm con số này kém. Đây là năm chỉ số:
1. Tỷ suất lợi nhuận trên vốn đầu tư (ROIC).
2. Tỷ lệ tăng trưởng doanh thu.
3. Tỷ lệ tăng trưởng của lợi nhuận trên mỗi cổ phiếu (EPS).
4. Tỷ lệ tăng trưởng giá trị sổ sách trên mỗi cổ phiếu (BVPS)
5. Tỷ lệ tăng trưởng dòng tiền tự do (FCF)
Tất cả năm chỉ số này nên bằng hoặc lớn hơn 10% mỗi năm trong vòng 10 năm qua. Mặc dù có hàng trăm chỉ số dành cho nhiều công ty được đưa ra
Hãy truy cập vào trang
trên các trang web tài chính như Yahoo! Finance và MSN Money, nhưng năm chỉ số này thường không được cung cấp miễn phí. Là nhà đầu tư theo Quy tắc số 1 luôn tập trung vào năm chỉ số trên, tôi sẽ
www.ruleoneinvestor.com
để tìm được những thông tin có ích và những đường link
đáng tin cậy tới các trang web về tài chính giúp bạn thu thập những dữ liệu thô bạn cần để đánh giá chính xác các công ty.
chỉ cho các bạn làm thế nào tự mình xác định được năm chỉ số về tỷ lệ tăng trưởng quan trọng này từ những nguồn thông tin hoàn toàn miễn phí. Chương 6 sẽ tập trung nói rõ cách thức này.
Trong chương tới, chúng ta tìm hiểu xem mỗi một năm chỉ số trong chỉ số này nói lên điều gì và cách thức nhận dạng các công ty có lợi thế cạnh tranh lớn. Để làm quen với những chỉ số này cần phải có thời gian. Vì vậy, các bạn hãy kiên nhẫn. Hãy hồi tưởng cảm giác chán nản như thế nào khi học phép tính 2 + 2 = 4 hồi lớp một. Có thể phép tính toán này không khó khăn đối với bạn, nhưng khi bắt đầu học, bạn phải đếm bằng các ngón tay. Công việc này dễ dàng hơn nhiều khi chúng ta có sự hỗ trợ của máy tính.
5 - Năm chỉ số tài chính chủ yếu
Loài người ác cảm với lao động trí óc; nhưng ngay cả đối với những kiến thức phụ trợ có thể dễ dàng đạt được, vẫn có nhiều người thà bằng lòng với việc không biết còn hơn là phải nhọc lòng đôi chút để được có kiến thức.
-SAMUEL JOHNSON (1709 - 1784)-
Trích dẫn từ cuốn Cuộc đời của Samuel Johnson của tác giả Boswel l .
Cho dù chúng ta nghĩ rằng có thể nhận dạng được lợi thế cạnh tranh ở một công ty mà không phải nỗ lực thì điều này cũng không có nghĩa là chúng ta sẽ dừng lại ở đó, chúng ta sẽ tiếp tục xem xét cơ chế quản lý tại đó (chữ M thứ ba). Trước tiên, chúng ta phải khẳng định được sức mạnh của doanh nghiệp qua việc xem xét năm chỉ số tài chính chủ yếu. Đây là năm chỉ số được tôi sử dụng để xác định xem liệu một doanh nghiệp có thể mang lại cho tôi ít nhất 15% lợi nhuận một năm hay không. Nói cách khác, năm chỉ số này là một đầu mối quan trọng để xem liệu công ty này có khả năng dự đoán hay không và có thể hy vọng đem lại tỷ suất lợi nhuận dự tính trong tương lai hay không. Sau đó, chúng ta cũng hãy liếc nhanh tới chỉ số nợ. Tôi không coi chỉ số nợ của một công ty là một trong năm chỉ số quan trọng nhưng đây là chỉ số chúng ta sẽ phải xem xét tới khi hoàn thành việc kiểm tra năm chỉ số này. (Nếu năm chỉ số này của chúng ta đều có vẻ tốt thì nợ cũng vậy).
Hãy nhớ rằng: Tất cả năm chỉ số chủ yếu này sẽ bằng hoặc lớn hơn 10% mỗi năm trong ít nhất 10 năm. Chúng ta cũng phải xem xét tới các chỉ số trong năm năm và một năm, và so sánh chúng với các chỉ số của 10 năm để tin chắc rằng doanh nghiệp không phát triển chậm lại. Nhưng nếu muốn tập trung vào ít chỉ số ở mức tối thiểu để làm quen với quy trình đánh giá này, bạn có thể bắt đầu từ chỗ chỉ xem xét đơn thuần chỉ số trung bình của 10 năm và nếu nó lớn hơn 10% thì chuyển tiếp sang bước tiếp theo. Hãy xem xem mỗi số trong năm chỉ số đó nói lên điều gì. Tại thời điểm hiện tại, bạn đừng bận tâm về xuất xứ của những con số này. Hãy tập trung để hiểu xem chúng có ý nghĩa gì và sau đó chúng ta sẽ học cách tính toán chúng.
ROIC
Lợi nhuận trên vốn đầu tư (ROIC) là tỷ suất lợi nhuận một công ty thu được trên số tiền mặt công ty đó đầu tư mỗi năm. Ví dụ, các con của bạn đầu tư kinh doanh một cửa hàng bán nước chanh với số tiền là 200 đô-la dành cho sắp xếp, tổ chức và quản lý cửa hàng này. Sau một tuần, các con của bạn quay trở về nhà với số tiền là 300 đô-la. Sau khi trừ chi phí 200 đô-la dùng để trả cho người cung ứng, trả lương, và cho tờ rơi mà chúng đã phát ở Kinko thì lợi nhuận lũ trẻ thu được là 100 đô-la. ROIC là lợi nhuận của chúng chia cho số vốn mà chúng đầu tư. Trong trường hợp này, lũ trẻ có lợi nhuận đầu tư lớn: 100 đô-la chia cho 200 đô-la bằng 50%. Một khoản tiền lời đáng kinh ngạc chỉ trong một tuần lễ. Hãy so sánh, nếu chúng gửi 200 đô-la vào ngân hàng để hưởng lãi suất là 2% một năm thì khoản vốn đầu tư này sẽ chỉ tăng lên thêm được dưới 10%. Hãy so sánh giữa: 100 đô-la hoặc 0,10 đô-la - khoản nào tốt hơn? Điều này có thể đem lại một bài học nào đó cho những đứa trẻ của bạn.
Trong bất kỳ trường hợp nào ROIC cũng là tỷ lệ % lợi nhuận bạn thu được từ khoản tiền bạn đầu tư vào doanh nghiệp của mình. Đây là thước đo mức độ hiệu quả trong việc một công ty sử dụng tiền (đi vay hoặc của riêng mình) để đầu tư vào các hoạt động của mình. Hiểu theo cách đó, đây cũng là chỉ số cho biết mức độ hiệu quả mà đội ngũ quản lý của công ty đạt được khi sử dụng tiền để đầu tư vào các hoạt động của công ty. ROIC tốt và vững chắc là một trong những dấu hiệu đầu tiên chứng tỏ các nhà quản lý của doanh nghiệp đứng về phía những người chủ đầu tư của họ, đây là vấn đề rất quan trọng khi chúng ta tiếp tục nghiên cứu.
́ ́ ́ ́ ̀
Nếu bạn hỏi tôi đâu là chỉ số quan trọng nhất trong năm chỉ số trên tôi sẽ nói với bạn rằng, trước hết bạn nên bắt đầu với ROIC. Nếu một doanh nghiệp không có ROIC lớn - trung bình trên 10% mỗi năm trong vòng 10 năm vừa qua - thì hãy chuyển sang một doanh nghiệp khác. Nếu một doanh nghiệp có lợi thế cạnh tranh lớn thì doanh nghiệp đó sẽ luôn kiêu hãnh về một ROIC hấp dẫn bởi vì lợi thế cạnh tranh bảo vệ doanh nghiệp trước áp lực liên tục về giá từ phía các đối thủ cạnh tranh. Trên thực tế, một doanh nghiệp được hàng rào ngăn cản cạnh tranh bảo vệ sẽ buộc các doanh nghiệp khác phải cạnh tranh bằng giá cả. Đây là một cách kiếm tiền khó khăn.
Chúng ta muốn ROIC ở mức cao trong một thời gian dài - ít nhất đạt trung bình 10% mỗi năm trong vòng ít nhất 10 năm. Chúng ta không muốn nhìn thấy ROIC đi xuống, chúng ta muốn nó đi lên hoặc ít nhất là đứng im. Mặc dù có thể chỉ tập trung vào ROIC trung bình của 10 năm nhưng tốt nhất là xem xét ba chỉ số ROIC sau: (1) số trung bình của 10 năm, (2) số trung bình của năm năm qua, và (3) số trung bình của năm ngoái. Khi có được ba chỉ số ROIC trung bình đó, chúng ta có thể phán đoán tốt hơn về hoạt động của công ty.
Hãy xem xét ROIC của một số công ty cho tới đầu năm 2005 và xem những con số này nói lên điều gì. Những số liệu này là của các công ty cạnh tranh với nhau. Ví dụ, Apollo cạnh tranh với ITT Educational; Oracle cạnh tranh với Sybase; General Motors có một mảng kinh doanh cạnh tranh với Harley - Davidson; Whole Foods cạnh tranh với Alberstons; và Dell cạnh tranh với Gateway. Hãy đọc sơ đồ này theo chiều từ trái sang phải: trước tiên, hãy xem ROIC của 10 năm, sau đó xem của năm năm, và cuối cùng thì hãy xem ROIC của một năm - năm gần đây nhất. Rõ ràng, chúng ta muốn thấy tất cả các con số đều lớn hơn 10% trong mọi hạng mục, và những con số này tăng dần khi chúng ta di chuyển từ số trung bình của 10 năm sang của năm năm và tới của một năm.
Chỉ dựa trên các con số về ROIC nhìn thấy ở đây bạn sẽ chọn công ty nào để đầu tư?
Khi so sánh các chỉ số ROIC theo thời gian, chúng ta có thể thấy ROIC đi lên hoặc duy trì ổn định đối với Apollo, Harley - Davidson, Whole Foods, và Dell. Chỉ số này lúc tăng lúc giảm ở Oracle và ITT nhưng vẫn theo hướng cao hơn mức yêu cầu tối thiểu 10% của chúng ta. Sybase đã hồi phục đôi chút trong thời gian gần đây. GM và Albertsons gần đây đang duy trì ổn định. ROIC của Gateway đang rớt xuống nhanh.
Hãy nhớ rằng: Chúng ta muốn chỉ số ROIC duy trì ổn định hoặc tăng. Apollo và ITT đều hoạt động trong ngành giáo dục. Cả hai tập đoàn đều có ROIC cao mặc dù Apollo có mức độ ổn định hơn. Whole Foods cạnh tranh với Albertsons. Trước hết, ngành kinh doanh tạp phẩm có lợi nhuận biên thấp nên chúng ta hãy nới lỏng chỉ số này cho họ đôi chút nhưng hãy xem sự khác biệt về ROIC giữa hai công ty. ROIC của Whole Foods đang tăng lên. ROIC của Albertsons đang giảm xuống. Theo bạn, công ty nào có lợi thế cạnh tranh?
General Motors và Harley là những công ty giống nhau. Hãy xem xét ROIC thấp và đang biến mất của GM. Đây là dấu hiệu của một công ty đang trên bờ tụt dốc. Trong khi đó, tình hình kinh doanh của Harley rất tốt.
CHÚ THÍCH VỀ SƠ ĐỒ NÀY:
Tập đoàn Apollo (APOL): Nhà cung cấp các chương trình giáo dục; tập đoàn này có các trường học và các trung tâm học tập ở Mỹ, Puerto Rico và Columbia thuộc Anh.
ITT Educational Services (EIT): Một nhà cung cấp các chương trình giáo dục khác, ở đó cung cấp các chương trình có cấp bằng và không cấp bằng trên toàn nước Mỹ.
Oracle (ORCL): Một công ty phát triển, chế tác, bán và phân phối phần mềm máy tính cho các doanh nghiệp.
Sybase (SY): Một công ty phần mềm khác có chức năng hỗ trợ doanh nghiệp. General Motors (GM): Một trong những công ty ô tô lớn, lâu đời của Mỹ.
Harley - Davidsons (HDI): Nhà chế tạo xe máy hạng nặng mang nhãn hiệu là tên của công ty.
Whole Foods (WFMI): Một hệ thống các cửa hàng phụ gia thực phẩm và chất dinh dưỡng từ thiên nhiên. Albertsons (ABS): Một hệ thống siêu thị điều khiển các cửa hàng thực phẩm và thuốc.
Dell (DELL): Chế tạo một máy tính có thương hiệu, bao gồm các hệ thống, màn hình, máy tính xách tay, và các hệ thống mạng doanh nghiệp.
Gateway (GTW): Một nhà chế tạo máy tính khác, sản xuất các sản phẩm màn hình, máy tính để bàn, máy tính cá nhân và các sản phẩm liên quan tới máy tính cá nhân.
Thế còn Dell và Gateway? Công ty nào sẽ có lợi thế cạnh tranh? Trả lời câu hỏi này không khó? Dell đã và đang xây dựng được một rào chắn khổng lồ mà Gateway phải cố gắng vượt qua. Dường như Gateway mắc kẹt trong rào chắn của Dell. Bạn có muốn đầu tư vào Gateway và hy vọng công ty này sẽ sử dụng đồng tiền ấy tốt hơn trước đây không? Hay bạn muốn đầu tư vào một công ty dễ dự đoán hơn, chẳng hạn như Dell? Tôi thích đầu tư vào Dell - với một mức giá hợp lý.
Thật không may, đối với Quy tắc số 1, không có một “mức giá hợp lý” nào cho Gateway. Công ty này không thoả mãn yêu cầu về lợi thế cạnh tranh, có nghĩa là nó không đáp ứng yêu cầu dự đoán trước được. Vì vậy, chúng ta không thể quyết định tương lai của công ty này. Nếu không thể quyết định được, chúng ta cũng không thể xác định giá trị của công ty này. Không biết giá trị thì cũng không biết được hiện tại công ty đáng giá bao nhiêu. Nếu chúng ta mua công ty mà không
́ ̀ ́
biết hiện nó đáng giá bao nhiêu thì đó là vì chúng ta nghĩ rằng cổ phiếu đang rẻ và sẽ phải lên giá. Chúng ta không thể biết giá của cổ phiếu đang rẻ vì chúng ta không thể đánh giá giá trị của nó. Vì vậy, chúng ta đang mạo hiểm, đang cầu mong hoặc đang hy vọng. Dù bạn muốn gọi là gì đi nữa thì đó cũng không phải là hành động đầu tư. Hãy xem xét một vài dữ liệu để kết luận thật rõ ràng.
ROIC không phải là chỉ số duy nhất cần xem xét để khẳng định công ty có lợi thế cạnh tranh chắc chắn. Chúng ta cũng cần biết rằng doanh nghiệp đang tăng trưởng vì lợi ích của chúng ta - những chủ đầu tư. Để có được thông tin đó, chúng ta cần xem xét bốn tỷ lệ tăng trưởng: (1) tỷ lệ tăng trưởng của doanh thu; (2) tỷ lệ tăng trưởng của lợi nhuận trên cổ phiếu; (3) tỷ lệ tăng trưởng của vốn cổ phần; (4) tỷ lệ tăng trưởng của dòng tiền mặt tự do.
Năm chỉ số tài chính chủ yếu được một số trang web chuyên nghiệp tính toán cho chúng ta, nhưng chúng ta phải trả tiền truy cập những trang web này. Một số trang web miễn phí như trang Tiền tệ của MSN (MSN Money) hoặc trang Tài chính của Yahoo (Yahoo! Finance) chỉ tính toán một số trong năm chỉ số đó. Sau đó, chúng ta phải tự làm phần việc còn lại từ những số liệu thô này. Tôi đã đưa các phép tính về Quy tắc số 1 cho từng chỉ số lên trang web www.ruleoneinvestor.com. Nhưng để bạn có thể dễ dàng tính được các chỉ số tăng trưởng trên ngay cả khi không có trang web của tôi, trong chương tới, tôi sẽ chỉ cho các bạn một cách tính nhẩm ngắn gọn những con số này. Tất cả những gì bạn cần là các số liệu trong 10 năm. Bạn có thể lấy chúng từ các trang web như MSN Money hoặc từ trang web trực tuyến của nhà môi giới, nếu họ có các công cụ tìm kiếm. Bạn cũng có thể làm quen với một trang web cụ thể để nắm vững các điều kiện về phương pháp luận của Quy tắc số 1, sau đó, bạn có thể thử nghiệm với các trang web khác và tìm được một (hoặc nhiều) trang bạn cho là dễ nhất. Trong cuốn sách này, chúng ta sử dụng những số liệu chủ yếu được lấy từ MSN Money và Yahoo! Finance. Điều này không có nghĩa là bạn không thể truy cập những thông tin tương tự ở nơi khác. Hãy nghiên cứu trang web của tôi để liên kết tới các trang về số liệu tài chính.
Bốn tỷ lệ tăng trưởng
Chúng ta cần tìm ra số liệu về tỷ lệ tăng trưởng của doanh thu, EPS, vốn cổ phần, và tiền mặt. Những số liệu đó cho chúng ta biết tỷ lệ tăng trưởng của doanh nghiệp mỗi năm so với những năm trước. Nếu nhất quán, những số liệu này sẽ là một dự báo quan trọng về tỷ lệ tăng trưởng có thể kỳ vọng trong tương lai. Điều này rất quan trọng khi tính toán giá trị của doanh nghiệp trong thời điểm hiện tại.
Doanh thu là tổng số tiền doanh nghiệp thu được từ việc bán sản phẩm. Cửa hàng nước chanh của các con bạn thu được 300 đô-la. Đây là số liệu về doanh thu. Khá đơn giản. Đôi khi, doanh thu được xem như con số “hàng đầu” bởi vì nó được đặt ở hàng trên cùng của các báo cáo tài chính (cụ thể là trong báo cáo lợi nhuận). Hàng năm, doanh nghiệp báo cáo doanh thu của mình (và cả các số liệu khác nữa) - nhờ thế, chúng ta biết được doanh thu có tăng so với năm ngoái không. Chúng ta muốn biết số liệu trong 10 năm để biết doanh thu của doanh nghiệp có tăng trưởng nhất quán không. Nếu nhất quán, ta có thể tính toán tỷ lệ tăng trưởng so với doanh thu của năm ngoái.
Nếu cửa hàng nước chanh của con bạn có doanh thu là 300 đô-la trong năm nay và năm sau doanh thu là 1.000 đô-la thì doanh thu tăng thêm của chúng là 700 đô-la. Đây là một tin tốt nhưng con số thực sự quan trọng là tỷ lệ tăng trưởng của doanh thu là bao nhiêu. Hãy để cho máy tính làm phép chia 1.000 đô-la cho 300 đô-la và chúng ta được 3,33. Điều này có nghĩa là doanh thu là số tương tự cộng với 2,3 hay 233%. Do đó, tỷ lệ tăng trưởng doanh thu cho năm nay là 233%. Nếu muốn tính toán tỷ lệ tăng trưởng doanh thu cho nhiều năm, chúng ta có thể dễ dàng làm được điều đó. Chúng ta hãy tiếp tục tiến về phía trước và giả sử bọn trẻ có cửa hàng đó trong năm năm. Trong năm thứ năm, chúng ta kiểm tra doanh nghiệp đó bằng cách tính tỷ lệ tăng trưởng trung bình cho năm năm. Doanh nghiệp đang phát triển nhanh đúng hướng và doanh thu đạt tới 3.000 đô-la cho năm cuối cùng. Năm năm trước, doanh thu chỉ là 1.000 đô-la.
́ ́
Để thực hiện chính xác phép tính này hãy sử dụng máy tính của tôi; kết quả cho chúng ta biết rằng tỷ lệ tăng trưởng là 25% cho năm năm. (Các máy tính trên trang web của tôi khiến cho tính toán trở nên dễ dàng. Trong chương tới, tôi sẽ hướng dẫn các bạn thực hiện tất cả các bước tính nhẩm hoặc tính trên giây của phép tính này). Chúng ta có thể thực hiện phép tính tương tự cho 10 năm, năm năm và một năm (năm gần đây nhất) và xem tỷ lệ tăng trưởng của doanh thu tăng lên hay giảm xuống. Chúng ta cũng sẽ lặp lại bài tập này cho tất cả bốn số liệu về tỷ lệ tăng trưởng - doanh thu, EPS, vốn cổ phần và tiền mặt. Khi bạn tính toán vài lần, bạn sẽ thấy công việc này không khó.
Chỉ số tiếp theo là EPS (lợi nhuận trên mỗi cổ phiếu), chỉ số này cho chúng ta biết công ty thu được bao nhiêu lợi nhuận trên mỗi cổ phần sở hữu. Ví dụ, kể từ khi cửa hàng nước chanh của bọn trẻ thực sự phát triển, chúng cần mua thêm hàng dự trữ để đáp ứng kịp thời nhu cầu. Chúng sẽ cần một khoản tiền bên ngoài. Để có tiền, lũ trẻ có thể bán một phần quyền sở hữu của mình. Giả sử thời điểm đó là vào năm thứ bảy và chúng muốn bán một nửa quyền sở hữu cho bố hoặc mẹ. Đầu tiên, chúng biến cửa hàng nước chanh thành một công ty để có thể tạo ra nhiều phần sở hữu nhỏ. Những phần sở hữu nhỏ đó được gọi là các cổ phần. Như vậy chúng sẽ có cổ phần để bán cho bạn. Chúng quyết định phát hành 2.000 cổ phiếu. Chúng có thể quyết định bất kỳ một số lượng cổ phiếu nào, ví dụ 10.000 hoặc 1 triệu cổ phiếu. Điều đó không làm thay đổi quy mô của “chiếc bánh” - mà chỉ tạo ra nhiều phần hơn.
Tiếp theo, lũ trẻ cần tính xem công ty của mình đáng giá bao nhiêu để từ đó tiến hành đặt giá cho mỗi phần sở hữu. Ồ, trong năm năm, lợi nhuận của công ty tăng lên đáng kể - với 25% mỗi năm. Năm ngoái, lợi nhuận của công ty là 2.000 đôla. Bạn nói với bọn trẻ rằng nếu chúng sở hữu một công ty có thành tích hoạt động trong quá khứ cũng tốt như thế thì rất nhiều nhà quản lý quỹ sẽ hài lòng khi trả gấp hai lần tỷ lệ tăng trưởng, hay khoảng 50 lần số lợi nhuận của năm ngoái để được sở hữu một phần công ty đó. Do vậy, nếu công ty này có quy mô lớn và kinh doanh công khai, thì với nhiều nhà đầu tư, nó đáng giá 100.000 đô-la. Nhưng bạn cần biết rằng, doanh nghiệp đó không lớn nên đối với các nhà đầu tư cá nhân nó không có giá trị lớn. Có quá nhiều rủi ro. Những rủi ro như “Bạn sẽ bán cổ phần của mình cho ai nếu bạn muốn rời bỏ công ty?” hoặc vì công ty mới chỉ có năm năm tuổi và thực sự có quy mô nhỏ nên liệu nó có thể tăng trưởng với tỷ lệ như vậy không khi phát triển với quy mô lớn hơn? Bọn trẻ sẽ lấy thêm tiền ở đâu nếu chúng muốn tiếp tục xây dựng công ty lớn mạnh nhanh chóng như vậy? Điều gì xảy ra nếu ban quản lý muốn rời bỏ công ty để đi học đại học?
Vì vậy, bạn và bọn trẻ đồng ý là công ty đó không đáng giá 100.000 đô-la mà chỉ đáng giá 1/4 con số đó. Giả sử là 25.000 đô-la. Nếu công ty đó đáng giá 25.000 đô-la thì một nửa của nó sẽ là 12.500 đô-la. Như vậy, bọn trẻ sẽ đồng ý bán một nửa công ty cho bạn với giá 12.500 đô-la. Để đổi lấy 12.500 đô-la của bạn, chúng đưa cho bạn một nửa số cổ phần đã phát hành: 1.000 cổ phiếu. Vì bạn đã nhận 1.000 cổ phiếu khi trả 12.500 đô-la, nên bạn đã trả 12,50 đô-la cho mỗi cổ phiếu. Chúng cũng tự phát hành cho mình số cổ phần đại diện cho quyền sở hữu một nửa còn lại của công ty đó, do đó bọn trẻ cũng có 1.000 cổ phiếu. Chúng không phải trả một khoản tiền nào cho số cổ phần đó. Chúng là những người sáng lập công ty và thông thường những người sáng lập được nhận cổ phần của mình mà không phải trả tiền vì họ đã làm tất cả mọi việc để đưa doanh nghiệp đến thành công.
Với 12.500 đô-la vốn đầu tư vào công ty cộng với số dư tiền mặt bọn trẻ kiếm được từ lợi nhuận 2.000 đô-la, trong một vài năm đó, công ty của các con bạn sẽ tiếp tục phát triển tới mức thu được lợi nhuận hàng năm là 6.000 đô-la. Bởi vì những người chủ công ty (bạn và các con của bạn) có 2.000 cổ phiếu nên 6.000 đô-la lợi nhuận chia cho 2.000 cổ phiếu có nghĩa là mỗi cổ phiếu đáng giá 3 đô-la. Đây là cách chúng ta tính lợi nhuận trên mỗi cổ phiếu hay EPS. Trong trường hợp này, EPS là 3 đô-la. EPS thường được gọi là số “dòng cuối” bởi vì nó thường được đặt ở dòng cuối cùng của bản báo cáo tài chính (cụ thể là báo cáo thu nhập).
Cũng như đối với doanh thu, điều chúng ta thực sự quan tâm ngay lúc này là tỷ lệ tăng trưởng của EPS. Cũng như tỷ lệ tăng trưởng của doanh thu, tỷ lệ tăng trưởng của EPS là lượng tăng trưởng từ
̀ ̀ ́
năm này qua năm khác được biểu hiện bằng phần trăm. Nếu EPS của 10 năm trước là 10 xu trên một cổ phiếu (100 đô-la chia cho 1.000 cổ phiếu, bởi vì cha mẹ của bọn trẻ chưa mua cổ phần) và EPS của ngày hôm nay là 3 đôla một cổ phiếu thì tính toán tỷ lệ tăng trưởng của EPS sẽ cho chúng ta biết tỷ lệ tăng trưởng EPS 10 năm là 41%.
Đây là một con số tuyệt vời. Bây giờ chúng ta muốn biết xem liệu những người chủ nên giữ lại số tiền đó hay đầu tư mua một loạt thiết bị để tạo ra tỷ lệ tăng trưởng ngoạn mục trong năm tới. Để tìm ra câu trả lời, chúng ta hãy xem xét tỷ lệ tăng trưởng của vốn cổ phần.
Vốn cổ phần là những gì còn lại của bạn và các con bạn sau khi bọn trẻ bán đi mọi thứ, thanh toán nợ nần, và lấy ra số tiền mặt còn lại. Nếu lũ trẻ quyết định từ bỏ công ty thì tất nhiên chúng sẽ cố gắng bán công ty. Nếu không ai muốn mua công ty, bọn trẻ có thể chỉ bán phần dự trữ đường và chanh và thanh toán mọi khoản nợ nần. Giả sử chúng có trong tay 8.000 đô-la chanh dự trữ, đường, máy làm nước đá, cốc thuỷ tinh và bàn, cộng với 10.000 đô-la tiền mặt và một vài chiếc xe tải trị giá 10.000 đô-la (đây là phần còn lại từ lợi nhuận và từ 12.500 đô-la vốn đầu tư sau khi mua thêm hàng dự trữ và thiết bị). Vì bọn trẻ không nợ ai nên vốn cổ phần sẽ là 28.000 đô-la (8.000 đô-la từ bán hàng trữ, 10.000 đô-la từ bán xe tải, và 10.000 đô-la tiền mặt). Bạn và các con bạn sẽ chia số vốn đó trên cơ sở mỗi cổ phiếu. Vì có 2.000 cổ phiếu và 28.000 đô-la để chia nên mỗi cổ phiếu sẽ được 14 đô-la. 14 đô-la này được gọi là giá trị sổ sách trên mỗi cổ phiếu (BVPS) và 28.000 đô-la được gọi là vốn cổ phần hay giá trị sổ sách. (Một số người gọi là giá trị thanh lý - giá trị của doanh nghiệp khi nó không tồn tại nữa).
Tại sao tăng trưởng vốn cổ phần lại quan trọng đến vậy? Một số học viên của tôi hỏi tôi câu hỏi này và muốn biết tại sao nếu vốn cổ phần chỉ thực sự là một "giá trị thặng dư" thì tỷ lệ tăng trưởng cổ phần lại là một chỉ số tốt để đánh giá sức mạnh của một công ty.
Vậy, nếu vốn cổ phần ("số thặng dư") của một doanh nghiệp không tăng thì doanh nghiệp đó sẽ không có kinh phí mở rộng thị trường hay phát triển sản phẩm mới. Tiền lãi có thể chỉ được chuyển trở lại để duy trì doanh nghiệp - ví dụ, để xây dựng các nhà máy chế tạo mới (những nhà máy có thể trở nên vô giá trị trong vòng năm năm). Hoặc có thể công ty đang theo đuổi chiến lược "tăng trưởng vì mục tiêu tăng trưởng". Loại tăng trưởng không có mục đích như vậy thường được nhận biết thông qua tỷ lệ ROIC rất thấp, hay nói cách khác, khi đó chúng ta, những nhà đầu tư Quy tắc số 1 - đang bị lợi dụng.
Bản thân số liệu thô này không có ý nghĩa quan trọng trong việc quyết định giá trị bởi vì các doanh nghiệp với nhiều bất động sản và máy móc, chẳng hạn như Mc Donald, có thể có vốn cổ phần tương xứng với giá trị của công ty, trong khi đó có những công ty chỉ có tài sản trí tuệ, như Google, thì vốn cổ phần có thể nhỏ hơn so với giá trị của công ty này. Nói cách khác, các con số về vốn cổ phần rất khác nhau khi bạn so sánh một doanh nghiệp sản xuất với một doanh nghiệp kinh doanh tri thức. Nhưng tỷ lệ tăng trưởng của vốn cổ phần có thể bằng nhau và rất quan trọng. Nó cho chúng ta biết doanh nghiệp có thể tích luỹ giá trị thặng dư, và tự thân doanh nghiệp đó có làm cho mình trở nên khác biệt. Vì vậy, chỉ riêng vốn cổ phần sẽ gần như không được như tỷ lệ tăng trưởng của vốn cổ phần, và điều này lý giải vì sao chúng ta tập trung vào tỷ lệ tăng trưởng nhiều hơn vào các con số tuyệt đối.
Khi xuất bản cuốn Security Analysis (Phân tích sự an toàn) năm 1934, tác giả Benjanmin Graham giải thích rằng: hầu hết các doanh nghiệp không có khả năng tích luỹ nhiều từ thặng dư vốn cổ phần bởi vì họ chi tiêu tất cả những gì kiếm được để duy trì tình hình hiện tại bằng cách thay thế hoặc đáp ứng những gì họ cần để tiếp tục duy trì hoạt động (thiết bị, R&D…). Nhận ra điều này, Warren Buffett bắt đầu tìm kiếm ngoại lệ: một doanh nghiệp hàng năm tích luỹ ngày càng nhiều giá trị thặng dư. Việc tìm kiếm những ngoại lệ đó là vấn đề then chốt đối với việc đầu tư theo Quy tắc số 1. Do đó, chúng ta sẽ tìm kiếm những doanh nghiệp tích luỹ giá trị thặng dư. Đó là lý do giải thích tại sao chúng ta theo dõi sự tăng trưởng của vốn cổ phần.
́ ̀ ́ ́ ̀
Vốn cổ phần, hay giá trị sổ sách của các cổ phiếu, cũng là một chỉ số tuyệt vời về tăng trưởng dài hạn mà Buffett gọi là giá trị nội tại còn tôi gọi là “giá trị thực” - giá trị hợp lý của một doanh nghiệp. Trong bức thư của chủ tịch hãng Berkshire Hathaway vào tháng 2 năm 2005, Buffett viết: “Mặc dù có những hạn chế, nhưng những số liệu hàng năm về giá trị sổ sách rất bổ ích đối với Berkshire. Nó như một thước đo có phần hơi thấp hơn giá trị để đo tỷ lệ tăng trưởng dài hạn đối với giá trị thực của chúng tôi”. Vì vậy, chúng ta sẽ xem xét kỹ lưỡng tỷ lệ tăng trưởng của vốn cổ phần để xác định tỷ lệ tăng trưởng dài hạn và quyết định giá trị thực của một doanh nghiệp.
Chúng ta tính tỷ lệ tăng trưởng vốn cổ phần giống như tính tỷ lệ tăng trưởng doanh thu và EPS. Quay trở lại thời điểm lần đầu tiên bọn trẻ bán cổ phần của công ty chúng cho bạn, sau khi bạn đầu tư 12.500 đô-la vào công ty thì vốn cổ phần của doanh nghiệp chủ yếu là tiền mặt - tăng lên là 14.500 đô-la. Nếu doanh nghiệp này giải thể năm năm trước đó thì mỗi cổ phiếu của doanh nghiệp có giá trị là 7,25 đô-la. Nếu hiện tại, các con bạn quyết định giải thể, nghĩa là sau đó năm năm, vốn cổ phần sẽ là 28.000 đô-la và giá trị sổ sách trên cổ phiếu là 14 đô-la. Chúng ta đưa hai con số - 14.500 là giá trị vốn cổ phần của năm năm trước và 28.000 đô-la giá trị vốn cổ phiếu hiện tại - vào máy tính chúng ta biết tỷ lệ tăng trưởng của vốn cổ phần hay của giá trị sổ sách trong năm năm qua là 14%. (Tôi sẽ hướng dẫn các bạn thực hiện những phép tính này trong chương tiếp theo. Ở đây, tôi chỉ đơn thuần truyền đạt cho bạn ý nghĩa của những con số này. Tôi sử dụng thuật ngữ “máy tính” linh hoạt bởi vì bạn sẽ sớm phát hiện ra cách thực hiện những phép tính này, hoặc tính nhẩm hoặc với sự hỗ trợ của máy tính).
Cuối cùng, chỉ số về tiền mặt cho chúng ta biết tiền mặt của công ty có phù hợp với lợi nhuận không. Cụ thể, tăng trưởng tiền mặt cho chúng ta biết tiền mặt có tăng cùng với lợi nhuận hay không hay lợi nhuận có phải chỉ có trên giấy hay không. Chúng ta muốn có tăng trưởng thực về tiền mặt.
Vốn cổ phần là khoản tiền còn lại được chia cho nhà đầu tư sau khi bán doanh nghiệp (không phải dưới dạng một doanh nghiệp đang hoạt động mà là bán thanh lý, máy móc, hàng dự trữ, bất động sản). Số tiền thu được sẽ được bổ sung vào lượng tiền mặt trong ngân hàng, thanh toán nợ nần, và số tiền còn lại được chia cho chủ sở hữu. Vốn cổ phần không góp phần tạo ra giá trị của doanh nghiệp, nó là một phần quan trọng trong giá trị thực của bất kỳ một doanh nghiệp nào và thuộc sở hữu của chủ doanh nghiệp. Tỷ lệ tăng trưởng ban đầu mang lại cho chúng ta nhận thức rất tốt về tỷ lệ tăng trưởng giá trị thực của doanh nghiệp. Chúng ta có thể sử dụng con số này để tính toán giá trị của doanh nghiệp trong 10 năm tới. (Để hiểu rõ hơn về vốn cổ phần, xin xem bảng chú giải thuật ngữ).
Công ty kinh doanh nước chanh của lũ trẻ là một doanh nghiệp có nhiều tiền mặt. Doanh nghiệp này có một số máy vắt chanh, nghiền nước đá, phục vụ nước quả, và một số chiếc xe tải. Điều này có nghĩa là chúng ta không cần đem lợi nhuận của doanh nghiệp tái đầu tư vào dụng cụ đắt tiền để rồi cuối cùng những thứ đó lại trở thành vô giá trị và phải thay thế liên tục. Nếu doanh nghiệp thu được lợi nhuận thì hầu như tất cả lợi nhuận sẽ trở thành tiền mặt ở ngân hàng.
Khoản tiền đó có thể được sử dụng cho các mục đích của doanh nghiệp hoặc có thể được trao cho chủ đầu tư dưới dạng cổ tức. Cổ tức đơn thuần là tiền được phân chia từ số tiền dư thừa doanh nghiệp không thể sử dụng hiệu quả để phát triển. Do hơi lười biếng và thích câu cá hơn nghiên cứu các báo cáo hàng năm nên tôi thực sự thích những doanh nghiệp có khả năng giúp tôi đầu tư hơn là tôi phải tự đầu tư. Vì vậy, tôi thích những doanh nghiệp có tỷ lệ tăng trưởng cao (và không trả cổ tức, nhưng tôi sẽ cho các bạn biết sự thật về cổ tức ở phần cuối của chương này). Năm năm trước, doanh nghiệp kinh doanh nước chanh của các con bạn có 1.000 đô-la tiền mặt. Hiện nay, chúng có 10.000 đô-la tiền mặt. Chúng ta đưa các con số này vào máy tính và tính được tỷ lệ tăng trưởng tiền mặt là 58%.
Cuối mỗi quý, doanh nghiệp tính lượng tiền mặt của mình. Sau đó đến quý tiếp theo, họ sử dụng tiền mặt của quý trước để thay thế tư liệu sản xuất. Phần còn lại được gọi là "tiền mặt tự do" và được sử dụng để trả cổ tức hoặc làm vốn lưu động - nghĩa là tiền để phát triển doanh nghiệp.
Sự nhất quán
Chúng ta đang tìm kiếm các số liệu nhất quán. Doanh nghiệp kinh doanh nước chanh của bọn trẻ không cho chúng ta đủ số liệu để biết doanh nghiệp có tăng trưởng đều đặn hay không (tôi nghĩ rằng chúng ta có thể thu thập tất cả các số liệu nhưng doanh nghiệp không có đủ số liệu cho ít nhất 10 năm). Tôi thích nhiều số liệu và tôi muốn nhìn thấy các con số đó tăng lên hàng năm. Đây là một ví dụ về năm chỉ số tài chính chủ yếu trong 10 năm của Tập đoàn Apollo:
Chú thích: Tất cả mọi giá trị ngoại trừ EPS có đơn vị là triệu đôla (EPS có đơn vị là đô-la).
ROIC luôn ở dạng phần trăm còn các giá trị về doanh thu, vốn cổ phần và tiền mặt thường là số liệu tuyệt đối với đơn vị triệu đô-la. (EPS luôn được tính bằng đô-la.) Tuy nhiên, chúng ta phải lấy những con số này và tính phần trăm để thể hiện tỷ lệ tăng trưởng. Chỉ tới lúc đó, chúng ta mới chắc chắn các chỉ số này đáp ứng tiêu chuẩn trung bình tối thiểu 10% mỗi năm của chúng ta.
Trong ví dụ này, ROIC của Apollo duy trì ổn định và các chỉ số về doanh thu (lợi nhuận gộp), EPS, vốn cổ phần và tiền mặt hầu như đều tăng hàng năm cho tới năm 2004. Rõ ràng là doanh nghiệp này tăng trưởng đều đặn. Ở đây, bốn chỉ số này được biểu thị trên đồ thị như sau.
́
Bốn tỷ lệ tăng trưởng
Như tôi vừa đề cập, tỷ lệ tăng trưởng khác với các số liệu thô. Đồ thị trên cho thấy tỷ lệ tăng trưởng của tất cả các chỉ số - doanh thu, EPS, vốn cổ phần, tiền mặt - xác định quy mô của lợi thế cạnh tranh và giá trị tương lai của doanh nghiệp, do vậy, chúng rất quan trọng. Như bạn có thể dự đoán, các tỷ lệ được thể hiện ở dạng phần trăm chứ không ở dạng số tuyệt đối. Trong Chương 6, tôi sẽ hướng dẫn các bạn cách tính tỷ lệ tăng trưởng ở dạng phần trăm cho tất cả bốn hạng mục - doanh thu, EPS, vốn cổ phần, tiền mặt - nhưng bây giờ tôi muốn bạn làm quen với việc xem xét tỷ lệ tăng trưởng và có thể sử dụng chúng để quyết định tỷ lệ tăng trưởng trong tương lai của doanh nghiệp.
Những trang web miễn phí như MSN Money có tính toán tỷ lệ tăng trưởng nhưng chưa đầy đủ. Các trang web khác tính toán và trình bày tất cả các tỷ lệ tăng trưởng cho nhiều năm khác nhau nhưng phải trả tiền khi sử dụng dịch vụ của họ. (Những trang web trên cũng có mức giá khác nhau, do vậy, bạn nên biết rõ mình cần lấy thông tin gì và lập kế hoạch sử dụng những thông tin đó như thế nào.) Mặc dù, bạn có thể truy cập một trang web như vậy để tìm kiếm những thông tin trên (như hầu hết các chuyên gia vẫn làm) nhưng sẽ tốt hơn nếu biết cách tự tính toán các chỉ số này. Việc này cũng giống như tôi biết cách trồng ngô nhưng tôi thích trả tiền cho ai đó trồng ngô hơn và chỉ mua ngô ở cửa hàng.
Một doanh nghiệp có thể tăng lợi nhuận 15% mỗi năm sẽ có giá trị lợi nhuận tính trên mỗi đô-la lớn hơn so với một doanh nghiệp tăng trưởng 5% mỗi năm. Hơn nữa, khi một doanh nghiệp có thể làm cho lợi nhuận tăng trưởng 15% mỗi năm thì có lẽ doanh nghiệp đó sẽ có lợi nhuận cạnh tranh lớn và có nhiều khả năng tăng lợi nhuận hơn so với doanh nghiệp chỉ tăng trưởng 5%. Sẽ rất tuyệt nếu có thể mua công ty có lợi thế cạnh tranh lớn làm cho lợi nhuận tăng trưởng nhanh chóng ở cùng mức giá với một công ty không có lợi thế cạnh tranh, đang hoạt động chậm chạp. Nhưng thường, không ai ngu ngốc đến mức định giá hai công ty đó như nhau. Điều đó khiến cho tỷ lệ tăng trưởng trở nên quan trọng. Mức giá chúng ta trả hôm nay nói lên tỷ lệ tăng trưởng kỳ vọng. Tỷ lệ tăng trưởng kỳ vọng cao hơn chứng tỏ được lợi thế cạnh tranh và lợi thế cạnh tranh làm cho kỳ vọng trở nên chắc chắn hơn.
Hãy nhớ rằng chúng ta muốn doanh thu, lợi nhuận trên mỗi cổ phiếu, vốn cổ phần, và tiền mặt có tỷ lệ tăng trưởng trung bình hơn 10% mỗi năm trong thời gian 10 năm. Để bảo đảm tỷ lệ tăng trưởng không giảm xuống, chúng ta sẽ xem xét các số liệu của năm năm và một năm. Đây là những số liệu về bốn tỷ lệ tăng trưởng của Tập đoàn Apollo, được tính toán vào năm 2005 cho 10 năm, sau đó là năm năm và 1 năm:
Hãy đọc từ trái sang phải. Đầu tiên hãy xem xét trước tiên tỷ lệ tăng trưởng của 10 năm, sau đó tỷ lệ của năm năm và cuối cùng tỷ lệ của một năm - năm gần đây nhất. Trước tiên, chúng ta muốn bảo đảm rằng, tất cả các chỉ số đều ở mức tối thiểu là 10% và sau đó, chúng ta muốn biết những chỉ số này đang tăng hay giảm khi chúng ta đi từ tỷ lệ tăng trưởng trung bình của 10 năm cho đến của một năm.
Từ những con số này, chúng ta có thể thấy rằng, mặc dù tỷ lệ tăng trưởng doanh thu đang tăng dần nhưng tỷ lệ tăng trưởng của EPS, của vốn cổ phần và tiền mặt lại giảm. Nếu chúng ta chỉ xem xét đồ thị biểu thị các chỉ số này thì có vẻ Apollo đang tăng trưởng tốt.
́ ́
Nếu bạn muốn mua Apollo, bạn sẽ phải tìm hiểm xem tỷ lệ tăng trưởng của tập đoàn giảm xuống có phải là tình huống chỉ xảy ra một lần và đang được Apollo giải quyết hay đó là sự bắt đầu của tình trạng giảm sút lâu dài khiến bạn không muốn sở hữu doanh nghiệp này. Do vậy, hiểu biết về doanh nghiệp là điều rất quan trọng. Nếu bạn không dám chắc mình hiểu về công ty thì đây không phải là ngành để bạn đầu tư. Bởi vì những số liệu này cho bạn thấy có một hàng rào ngăn cản cạnh tranh bị chọc thủng lâu dài và vô phương cứu chữa.
Hãy thật điềm tĩnh khi xem xét sự khác biệt giữa các chỉ số này với các tỷ lệ tăng trưởng được suy ra từ chúng. Tính toán tỷ lệ tăng trưởng trên cơ sở những chỉ số này thật dễ dàng, và tôi sẽ hướng dẫn các bạn làm việc đó ở chương tiếp theo. Khi tính tỷ lệ tăng trưởng của hai công ty đang cạnh tranh với nhau, bạn có thể nhìn thấy những gì sẽ xảy ra và ai thắng thế (lợi nhuận cạnh tranh lớn hơn) trong ngành này.
Ở đây, Tập đoàn Apollo được so sánh với ITT Educational.
(Hãy nhớ rằng: Các con số này phản ánh những chỉ số đã định hình khi tôi viết cuốn sách này, vào năm 2005).
Chú thích: Tất cả các số liệu đều là số trung bình năm
Hãy xem xét tỷ lệ phần trăm trong mỗi hạng mục tăng trưởng tính bằng phần trăm của năm chỉ số quan trọng. ROIC và doanh thu của cả hai doanh nghiệp đều lớn (tất cả đều trên 10%), nhưng EPS của Apollo giảm mạnh còn EPS của ITT duy trì ổn định. Tỷ lệ tăng trưởng EPS của Apollo trong năm vừa qua giảm xuống còn 41% trong khi đó ITT vẫn tiếp tục tăng trưởng với tỷ lệ 26%. Tương tự như thế, chỉ số vốn cổ phần của Apollo giảm còn 2% trong khi đó của ITT vẫn giữ ở mức 23%. Nhưng tỷ lệ tăng trưởng tiền mặt của ITT giảm, tới mức còn - 1%. Tôi cần biết điều gì sẽ xảy ra trước khi cảm thấy tự tin khi mua một trong hai công ty ngay tại thời điểm này.
Đây là số liệu Oracle so sánh với Sybase.
Chú thích: Tất cả các số liệu đều là số trung bình năm
Chú thích: Tất cả các số liệu đều là số trung bình năm Oracle và Sybase là hai công ty cạnh tranh với nhau trên thị trường cơ sở dữ liệu, năm chỉ số chính của cả hai đều có vấn đề. Hãy nghiên cứu Sybase. Bạn có nhìn thấy các con số âm không? Tỷ lệ tăng trưởng của công ty này đang đi xuống. Đây không phải là một dấu hiệu tốt. Bây giờ hãy xem xét Oracle. Tỷ lệ tăng trưởng của EPS giảm từ 26% xuống còn 18% và còn 16%. Tỷ lệ tăng trưởng tiền mặt giảm từ 35% xuống 16% và rồi còn 11%. Doanh thu và vốn cổ phần giảm, sau đó lại tăng trở lại. Vậy, Oracle phát triển không ổn định. Có thể đây là tình trạng suy giảm của công ty. Có thể một công nghệ mới đang tấn công vào cả hai công ty. Nhưng ai biết điều đó? Cả bạn và tôi đều không cần biết. Chúng ta chỉ cần biết công ty này đang có vấn đề và chúng ta không muốn sở hữu các công ty có những vấn đề chúng ta không hiểu rõ. Hãy gạch hai công ty này đi.
Dưới đây là General Motors so sánh với Harley - Davidson:
Chú thích: Tất cả các số liệu đều là số trung bình năm
Tỷ lệ tăng trưởng EPS của General Motors thật đáng ngạc nhiên, nhưng tỷ lệ tăng trưởng doanh thu lại thấp hơn khá nhiều so với yêu cầu 10% của chúng ta. Và tăng trưởng vốn cổ phần đang đi chệch hướng cho dù tiền mặt đã tăng trở lại. Đây lại là những tín hiệu không rõ ràng về sự tăng trưởng. Bạn có biết công ty này sẽ đi tới đâu trong 20 năm tới? Tôi cũng không biết. Cả những người điều hành công ty cũng không biết. Harley cũng có những số liệu khó dự đoán. Lưu ý là doanh thu hiện tại của họ đang giảm xuống dưới mức yêu cầu tối thiểu của chúng ta. EPS cũng đang giảm. Hãy coi chừng. Có thể chấp nhận một thực tế là thế hệ sau không còn muốn sở hữu chiếc xe Harley như cha anh họ từng yêu thích không? Cần lưu ý là tỷ lệ tăng trưởng vốn cổ phần và tiền mặt đang tăng lên. Harley cũng tăng trưởng không rõ ràng, phải không?
Dưới đây là Whole Foods so sánh với Albertsons:
Chú thích: Tất cả các số liệu đều là số trung bình năm
Tỷ lệ tăng trưởng doanh thu, EPS và vốn cổ phần của Whole Foods thật ấn tượng. EPS giảm xuống nhưng vẫn là một con số tuyệt vời (gấp đôi tỷ lệ 10% yêu cầu tối thiểu của chúng ta). Đây là điều chúng ta mong muốn. Nhưng tỷ lệ tăng trưởng của tiền mặt lại đi xuống. Chúng ta cần hiểu điều gì khiến cho tiền mặt của họ bị ngốn sạch.
Ngược lại, tăng trưởng của Albertsons đang giảm sút ở mọi hạng mục. Nếu các doanh nghiệp là các thành trì thì Albertsons sẽ bị gió dập thành những mảnh nhỏ. Mọi số liệu ngoại trừ doanh thu trong thời gian gần đây đều giảm. Đặc biệt, không một số liệu nào cao hơn mức tối thiểu.
Dưới đây là Dell so sánh với Gateway:
Chú thích: Tất cả các số liệu đều là số trung bình năm
Dễ dàng trả lời câu hỏi: Một công ty làm gì để sử dụng lượng tiền mặt tự do của mình. Trong ví dụ về Whole Foods, tôi truy cập trang web của họ và lắng nghe những thông điệp lặp đi lặp lại hàng quý của họ. Các nhà quản lý thông báo cho các nhà đầu tư rằng họ phân bổ nhiều tiền mặt để xây dựng các cửa hàng mới. Vậy thì tốt. Chúng ta sẽ xem lợi ích của việc làm đó trong thời gian tới. Tôi sẽ nói chi tiết hơn về cách trả lời những câu hỏi như vậy trong chương sau.
Tỷ lệ tăng trưởng của doanh thu và vốn cổ phần của Dell đang hồi phục, EPS tiếp tục giảm và tỷ lệ tăng trưởng tiền mặt dường như bị mắc kẹt ở một con số yếu ớt - 6%. Dell có những con số
́ ́ ̀ ́
cao đến mức có thể khẳng định họ có lợi thế cạnh tranh lớn, ngay cả khi nhiều chỉ số giảm xuống trong thời gian gần đây. Khi xem xét Dell và Gateway, bạn dễ dàng nhận ra công ty nào mạnh hơn, có phải thế không? (Câu trả lời: Dell). (Nếu bạn không dám chắc như vậy thì hãy quay trở lại từ đầu chương này và đọc thật kỹ).
Nếu bạn nghiên cứu tỉ mỉ về Dell với hy vọng mua công ty này vào một ngày nào đó thì bạn sẽ phát hiện ra rằng Dell sử dụng một nửa số tiền mặt tự do của mình để mua lại cổ phần của chính công ty này. Các nhà đầu tư được trả 12 tỷ đô-la để từ bỏ vốn của mình và bán cổ phần của họ tại Dell.
Đây thực sự không phải là việc làm tồi. Nếu tôi sở hữu Dell và nghĩ rằng giá cổ phiếu thấp hơn nhiều so với giá trị thực (hay giá hợp lý) thì tôi cũng muốn sử dụng phần tiền mặt dư thừa để mua cổ phiếu của Dell. Tại sao? Bởi vì tôi sẽ kiếm được 1 đô-la chỉ với 50 xu và nếu những người chủ khác sẵn lòng bán ra với giá rẻ thì điều đó thật tốt cho tôi. Tôi sẽ được sở hữu phần bánh to hơn và tôi chỉ trả một nửa giá cho phần bánh đó. Một thoả thuận mua bán tuyệt vời! Các nhà quản lý của Oracle đang làm một việc tương tự với gần như tất cả luồng tiền mặt tự do của họ. Có thể các nhà quản lý này nghĩ rằng cổ phiếu của họ đang được bán dưới mức giá trung bình. Nếu đúng như vậy thì hành động mua lại cổ phiếu này giúp cho những cổ đông còn lại thu được lợi ích lớn nhất. Buffett yêu thích những công ty mua lại cổ phiếu của mình khi giá đang rẻ. Tuy nhiên, nếu họ mua lại cổ phiếu khi giá đang cao thì việc làm đó sẽ có tác dụng chống lại quyền lợi của cổ đông. Chúng ta cần phỏng đoán khi nào giá cổ phiếu rẻ và khi nào giá cổ phiếu đắt để biết công ty có được quản lý tốt không. Chúng ta sẽ đi sâu vào vấn đề này ở chương sau.
Hãy ghi nhớ: Khi một công ty mua lại cổ phiếu của chính mình khi cổ phiếu rẻ thì đó là một điều tốt cho chúng ta nếu chúng ta mua cổ phiếu công ty đó. Nhưng khi một công ty mua lại cổ phiếu của chính mình với giá cao thì điều này không thực sự tốt. Có thể họ đang tự đầu tư, nhưng họ làm việc đó theo cách của một người ăn tiêu hoang phí.
Tìm năm chỉ số tài chính chủ yếu ở đâu
Rất may là, để kiếm được những thông tin cần thiết, chúng ta không phải vất vả như tìm mỏ vàng thông qua hàng loạt các báo cáo dài lê thê và khó hiểu. (Đây là việc tôi vẫn thường làm!). Các trang web miễn phí như MSN Money và Yahoo!Finance tính toán cho chúng ta một vài chỉ số để chúng ta có thể lựa chọn. MSN có các số liệu 10 năm về doanh thu, EPS, và giá trị sổ sách trên cổ phiếu (một chỉ số giống như vốn cổ phần) nhưng đối với tiền mặt, trang này chỉ cho ta số liệu trong năm năm. Trang web này cũng có số liệu về lợi nhuận trên vốn (tương tự như ROIC) trong năm năm. Tất nhiên, các trang web chuyên nghiệp làm việc đó tốt hơn, nhưng chúng ta phải trả tiền để thu thập dữ liệu, bởi vì việc đó giúp bạn tiết kiệm được thời gian - mà thời gian, đối với các chuyên gia là tiền. Trước tiên, bạn có thể sao chép dữ liệu từ MSN và vẽ một sơ đồ giống như sơ đồ của Apollo trong chương này. Trang MSN có tất cả các số liệu thô được sắp xếp từ năm 1995 tới năm 2004. Điều này cho phép bạn xem xét bốn trong năm chỉ số chính và chỉ những công ty tuyệt vời mới được đưa lên trang web này.
Một lời khuyên ngắn gọn khi xem xét các tài liệu và số liệu kế toán: Không ai say mê công việc này (tôi thì chắc chắn là không rồi). Do đó, cách tốt nhất là tập trung vào những số liệu then chốt. Bạn sẽ tìm thấy hầu hết các số liệu được trình bày theo một mẫu chung - dù ở trang MSN Money hay Yahoo! Finance, hoặc ở một số trang khác. Bạn sẽ định vị vào báo cáo thu nhập của công ty (đôi khi được gọi là báo cáo lợi nhuận và thua lỗ), bảng cân đối kế toán, và luồng tiền mặt. Báo cáo thu nhập trình bày các số liệu phản ánh hoạt động của doanh nghiệp, chi phí doanh nghiệp, và kết quả thu được (và vì vậy bao gồm cả doanh thu và lợi nhuận). Bảng cân đối kế toán trình bày các con số phản ánh những gì doanh nghiệp sở hữu, số tiền doanh nghiệp nợ, và tài sản còn lại cho những chủ sở hữu của nó (trong đó có số liệu về vốn cổ phần). Luồng tiền mặt cho thấy các con số phản ánh khoản tiền mặt nào “chảy vào”, khoản tiền mặt nào “chảy ra”, và khoản tiền mặt nào còn lại (do đó, có số liệu về luồng tiền mặt tự do). Vì vậy, thông qua ba báo cáo này của
́ ̀ ́ ́ ́
doanh nghiệp, chúng ta bắt đầu thấy được năm chỉ số tài chính chủ yếu và sử dụng chúng để đánh giá các công ty tiềm năng theo Quy tắc số 1.
Bạn có thể tình cờ truy cập các trang web, ở đó sử dụng các thuật ngữ khác, làm quá trình chắt lọc thông tin của bạn trở nên phức tạp hơn. Ví dụ, số liệu về EPS có thể được trông thấy dưới cái tên “EPS bình thường hoá bị pha loãng (do phát hành thêm cổ phiếu)” hay chỉ là “EPS bị pha loãng” (EPS điều chỉnh). Nhưng nếu bạn nắm vững tất cả những ví dụ tôi sử dụng trong cuốn sách này, học cách sử dụng MNS Money và Yahoo! Finance, thì bạn sẽ có đủ kinh nghiệm để cải thiện cách khai thác hầu hết các trang web (và đọc các báo cáo tài chính). Thông qua thực hành, bạn sẽ trở thành một thiên tài định vị và vận dụng các số liệu, cho dù trang web bạn đang sử dụng là trang nào và cho dù thuật ngữ lạ được sử dụng như thế nào. (Nếu bạn gặp khó khăn trước cách tổ chức và đặt tên các giá trị ở một trang web cụ thể nào đó, xin hãy gửi thư điện tử cho tôi.)
Sự thật là, hầu hết các nhà đầu tư chuyên nghiệp đều phân tích quá nhiều. Đối với chúng ta, việc mua doanh nghiệp sẽ là một giao dịch tốt hoặc không phải như vậy. Nếu không, chúng ta bỏ qua. Nếu có, chúng ta đi tiếp tới bước sau.
CÁC BÁO CÁO TÀI CHÍNH
Có thể dễ dàng tìm kiếm trên Internet báo cáo tài chính của các công ty. Cần phải mất thời gian để đọc các báo cáo đó và nhanh chóng chắt lọc ra những con số bạn cần (đồng thời quên đi các con số còn lại), nhưng vì tất cả các báo cáo này đều có một mẫu chung, nên dù bạn sử dụng trang điện tử nào, bạn cũng sẽ dễ dàng làm quen với các báo cáo. Các báo cáo tài chính bao gồm:
Bảng cân đối kế toán: là một bản tóm tắt về tài sản có (những gì doanh nghiệp sở hữu), tài sản nợ (cái mà doanh nghiệp nợ) và giá trị tài sản ròng (những gì còn lại sau khi lấy tài sản có trừ đi tài sản nợ - được gọi là vốn chủ sở hữu) trong một giai đoạn xác định. Đây là tài liệu giúp bạn tìm các con số về vốn và nợ.
Báo cáo thu nhập: bao gồm thu nhập của công ty (doanh thu), chi phí, và lợi nhuận. Hãy nhìn vào đây để lấy các số liệu về doanh thu, EPS.
Luồng tiền mặt (báo cáo): những thay đổi về tiền mặt từ các hoạt động kinh doanh, đầu tư, cấp vốn. Đây là nơi để bạn tìm số liệu về lượng tiền mặt tự do và cổ tức đã trả.
TRUY CẬP TRANG ĐIỆN TỬ MSN MONEY
Bước đầu tiên cần làm để truy cập các số liệu tài chính của công ty là nhập mã của công ty đó. Tại MNS Money, hộp đó được ghi là "Symbol" ("Biểu tượng") ở trên đầu màn hình (ở phía bên phải tại thời điểm viết cuốn sách này), ở đó bạn gõ, ví dụ, chữ "NKE" đối với Nike. Nếu bạn gõ sai mã, chương trình sẽ hoặc tự động luận ra mã đúng cho bạn hoặc sẽ hỏi bạn một số thông tin. Nhờ đó, bạn sẽ tìm được đúng mã chứng khoán. Khi MNS hiển thị những số liệu về NIKE bạn sẽ thấy xuất hiện một cột ở bên trái (rất giống như lề tờ giấy), ở đó liệt kê các đường liên kết thông tin. Dưới tiêu đề "Research" ("Nghiên cứu"), đi tới "Financial Results" ("Các kết quả tài chính"). Đây là nơi bạn tìm đường liên kết tới "Các báo cáo" ("Statements").
Đối với ROIC, nhắp chuột vào "Key Ratios" ("Các tỷ số chính") ở dưới tiêu đề "Financial Results" ("Các kết quả tài chính"), sau đó nhắp chuột vào "Investment Returns" ("Lợi nhuận đầu tư"). ROIC được liệt kê dưới tiêu đề "Return on Capital" ("Lợi nhuận trên vốn").
Đối với các chỉ số về vốn chủ sở hữu, hãy xem phần vốn chủ sở hữu được thể hiện dưới cái tên "Book Value per Share" ("Giá trị sổ sách trên cổ phiếu”), được đặt dưới "Key Ratios" ("Các tỷ số chính") và sau đó tới "10 - Year Summary" ("Tổng kết 10 năm").
Đối với các số liệu về EPS và doanh thu, hãy đi tới phần "Financial Results" ("Các kết quả tài chính"), nhắp chuột vào "Statements" ("Các báo cáo"), và sau đó nhắp chuột vào hộp "10 - Year Summary" ("Tổng kết 10 năm").
Đối với các chỉ số về luồng tiền mặt, mở bản báo cáo "luồng tiền mặt" và tìm đến dòng cuối cùng - "Free Cash Flow" ("Luồng tiền mặt tự do").
TRUY CẬP TRANG ĐIỆN TỬ YAHOO! FINANCE
Yahoo! rất có ích trong việc tìm kiếm thông tin về ngành nghề nhưng lại chỉ có số liệu tài chính của ba năm, vì thế, nó không thật sự có ích để phân tích bốn chữ M. Để có thông tin về ngành nghề, hãy vào trang www.yahoo.com, sau đó nhắp chuột vào nút "Finance" ("Tài chính") ở bên trái trên đầu màn hình. Cuộn xuống và xem xét trình đơn ở bên lề trái. Nhắp chuột vào "Industries" ("Các ngành nghề") và trang "Industry Center" ("Trung tâm ngành nghề") sẽ xuất hiện.
Để có một danh mục đầy đủ các ngành, hãy nhắp chuột vào "Complete Industry List…" ("Danh mục đầy đủ các ngành nghề"). Mỗi ngành nghề được liệt kê dưới tựa đề của ngành lớn. Nhắp chuột vào bất kỳ một trong những danh sách này để xem bản tóm tắt về ngành nghề đó. Để xem tất cả các doanh nghiệp trong ngành, hãy nhắp chuột vào "Industry Browser" ("Xem các công ty trong ngành"). Để xem công ty tốt nhất và tồi tệ nhất trong ngành đó, hãy nhắp chuột vào "Leaders and Laggards" ("Những công ty dẫn đầu và những công ty tụt hậu"), sau đó chọn bất kỳ tiêu chí nào bạn muốn trong hộp liệt kê.
SỬ DỤNG CÁC TRANG ĐIỆN TỬ CHUYÊN NGHIỆP
Nếu sử dụng các trang điện tử chuyên nghiệp phải trả tiền, bạn có thể thu thập được những số liệu chi tiết hơn. Trên trang web của tôi (www.ruleoneinvestor.com), bạn có thể tìm được đường liên kết tới những trang như vậy. Ví dụ:
Công việc kinh doanh hàng ngày của nhà đầu tư: www.investors.com
Zacks: www.zacks.com.
Ngôi sao buổi sáng: www.morningstar.com.
Thành công: www.sucess.investools.com.
Nói chung, trang web càng có nhiều thông tin thì giá càng đắt. Tuy nhiên, bạn có thể làm được nhiều, nếu không nói là 99% công việc của Quy tắc số 1 từ các trang web miễn phí và khi đã thành thạo trong việc đánh giá, bạn sẽ cảm thấy dễ chịu hơn khi phải trả tiền để có số liệu chất lượng cao hơn (nghĩa là số liệu đã được sắp xếp).
Về các khoản nợ?
Khi bắt đầu chương này, tôi nói rằng, nợ là một chỉ số trong năm chỉ số tài chính chủ yếu. Một số người hỏi tôi, tại sao tôi không coi nợ là một trong năm chỉ số chính. Ở đây, tôi sẽ nói về điều đó. Các doanh nghiệp cũng như các gia đình - họ vay tiền khi cần chi tiêu trong hiện tại và không muốn chờ đợi. Hầu hết chúng ta đều vay để mua ô tô hoặc mua nhà, bởi vì nếu chúng ta chờ cho tới khi trả được bằng tiền mặt thì chúng ta có thể sẽ không bao giờ mua được. Tương tự, một doanh nghiệp như Whole Foods có thể sẽ vay tiền khi cần xây một cửa hàng mới. Không có vấn đề gì khi doanh nghiệp có một khoản nợ. Mọi người và mọi doanh nghiệp đều làm như vậy. Vấn đề chỉ bắt đầu nảy sinh khi bạn vay nhiều đến mức phải để ra một khoản thu nhập hàng tháng, cố định hoặc tăng dần để thanh toán cho khoản của mình, cho đến khi bạn không còn khả năng thanh toán nợ nữa. Trong tình trạng vỡ nợ, bạn phải bán nhà (hoặc bán xe, hoặc bất kỳ vật gì mà bạn vay tiền để mua) để thanh toán nợ. Đôi khi người ta vay rất nhiều với hy vọng kiếm được một việc làm tốt hơn (nghĩa là, họ vay dựa trên “thu nhập tương lai”), và sau đó, họ mất việc. Thế rồi, họ không kịp bán nhà hoặc phải sử dụng đến các thẻ tín dụng và họ phải tuyên bố phá sản để
́
những người đi thu nợ không đeo bám họ nữa. Doanh nghiệp cũng giống như một gia đình có thể vay quá nhiều để rồi lâm vào cảnh nợ chồng chất.
Khi một doanh nghiệp vay nhiều hơn khả năng trả nợ bằng doanh thu của mình thì các nhà quản lý sẽ cố gắng thoát khỏi cảnh nợ nần giống như cách làm của bạn: họ cố gắng vay thêm tiền từ một số chủ nợ khác, hoặc họ bán tài sản để thanh toán nợ. Hoặc họ có thể bán một phần doanh nghiệp và sử dụng số tiền đó để thanh toán nợ. Vào thời điểm bạn thực sự cần tiền thì các ngân hàng lại không cho vay và bạn cũng không thể bán đi một thứ gì đó. Các doanh nghiệp cũng có thể vấp phải khó khăn này. Các nhà quản lý vay một đống tiền để xây thêm các cửa hàng mới, nhưng sau đó, nền kinh tế đi xuống, khách hàng bắt đầu lo lắng và mua sắm ít hơn trong các cửa hàng. Doanh nghiệp lâm vào tình trạng thiếu tiền mặt nghiêm trọng và không thể trả khoản vốn vay trong tháng đó. Họ không thể bán cửa hàng bởi vì doanh nghiệp đang gặp khó khăn nên không ai muốn mua một phần của doanh nghiệp đó. Khi đó, để thoát khỏi chủ nợ, họ tuyên bố phá sản. Khi điều đó xảy ra, nhiều nhà đầu tư sẽ bị bất ngờ.
Với Quy tắc số 1, các nhà đầu tư muốn những khoản đầu tư chắc chắn sinh lời. Để bảo đảm rằng chúng ta sẽ kiếm được tiền, chúng ta phải đầu tư vào một doanh nghiệp có thể dự đoán được kết quả kinh doanh. Một doanh nghiệp (hoặc một gia đình) còn đang mắc nợ nhiều hơn thu nhập sẽ có một tương lai tài chính không dự đoán trước được. Nếu có bất kỳ vấn đề gì với nền kinh tế thì một doanh nghiệp mắc nợ nhiều có thể bị lâm vào tình trạng rắc rối, giống như một gia đình mắc nợ nhiều có thể sẽ gặp phải những vấn đề nghiêm trọng khi người kiếm tiền chính trong gia đình bị mất việc và thu nhập bị giảm đáng kể. Chúng ta không muốn điều đó. Vì vậy, chúng ta không thích một doanh nghiệp nợ nần nhiều.
Một khoảng nợ hợp lý là số nợ bằng 0. Nhưng như tôi đã nói, nhiều công ty vay tiền vì những lý do chính đáng. Do vậy, chúng ta chỉ nói rằng, chừng nào công ty còn có thể nhanh chóng trả hết nợ thì công ty đó còn hoạt động tốt. Điều tương tự cũng đúng với một gia đình. Tốt nhất là không nợ nần, nhưng nếu bạn có thể thanh toán hết nợ bằng tiền tiết kiệm trong vòng một năm thì nợ của bạn là nợ có thể quản lý được. Điều này cũng sẽ đúng với một doanh nghiệp. Nếu bạn có thể thanh toán hết nợ trong vòng một năm bằng luồng tiền mặt tự do thì khi đó món nợ này của bạn là lành mạnh. Chúng ta đặt thời hạn tối đa để thanh toán hết nợ là ba năm. Sau thời gian đó, chúng ta sẽ không quan tâm nữa.
Có những cách khác để đánh giá nợ. Chúng ta có thể xem xét nó dưới dạng tỷ lệ phần trăm của vốn chủ sở hữu và tài sản nợ hoặc chỉ đơn giản là tỷ lệ phần trăm của vốn chủ sở hữu (“chỉ số nợ/vốn chủ sở hữu”). Nhưng các doanh nghiệp có thể nguỵ tạo các chỉ số này vì nhiều lý do, cả tốt lẫn xấu. Cách tốt hơn là tìm hiểu xem phải mất bao nhiêu lâu họ có thể trả xong món nợ đó và thận trọng theo dõi con số này. Đấy chính là điều tôi sẽ hướng dẫn cho bạn. Bạn sẽ nhận ra bạn cần biết tổng số nợ dài hạn và luồng tiền mặt tự do hiện tại của công ty. Những số liệu này được thể hiện bằng triệu đô-la. Nếu tất cả số liệu nợ bạn tìm thấy được liệt kê bằng tỷ lệ phần trăm thì hãy thử tìm trên các trang web khác và săn lùng các số liệu về nợ dài hạn và luồng tiền mặt tự do tính bằng đô-la của công ty xung quanh các báo cáo tài chính của họ.
Quy tắc số 1 về nợ: Để xác định nợ của doanh nghiệp có hợp lý hay không, hãy xem doanh nghiệp đó có thể trả hết nợ trong vòng ba năm hay không bằng cách chia tổng số nợ dài hạn cho luồng tiền mặt tự do hiện hành.
Đừng lo lắng nhiều về nợ ngắn hạn. Chúng ta cần theo dõi nợ dài hạn và bạn sẽ tìm thấy số liệu đó trên bảng cân đối với tiêu đề “Nợ dài hạn” (“Long - term debt”).
Hãy xem xét một công ty với một khoản nợ nhất định và cố gắng tìm hiểu xem đó là “nợ chấp nhận được” hay là nợ quá khả năng chi trả.
̀ ̀
Công ty H&R Bloc có những khoản nợ. Dưới đây là nợ dài hạn và luồng tiền mặt tự do của H&R Bloc năm 2005.
Bây giờ chúng ta hãy tự hỏi, với số nợ dài hạn và luồng tiền mặt tự do này, công ty sẽ mất bao nhiêu thời gian mới trả hết nợ? Đây là một phép tính đơn giản: Chia 923 triệu đô-la cho 304 triệu đô-la (923 triệu đô-la ÷ 304 triệu đô-la) và chúng ta có được con số 3. H&R Bloc có thể trả hết nợ của mình từ luồng tiền mặt tự do trong ba năm. Vì vậy, nợ của H&R là hợp lý.
Mặc dù, tôi không coi nợ là “con số thứ sáu” để đánh giá nhưng bạn có thể xem xét nợ khi đánh giá tiềm lực tài chính của một doanh nghiệp. Bên cạnh đó, bạn sẽ tình cờ gặp các số liệu về nợ khi xem xét bảng cân đối và muốn biết xem phải làm gì với những số liệu này. Khi bạn trả lời đồng ý với năm chỉ số chính thì hãy đi tiếp và xác định khoản nợ đó có chấp nhận được không. Đơn giản là hãy chia tổng số nợ dài hạn của công ty cho luồng tiền mặt tự do hiện hành.
Nếu tất cả năm chỉ số chính được sắp xếp thành hàng và có giá trị tốt thì nợ sẽ được kiểm soát. Nhưng nếu bạn thấy có vấn đề về nợ thì hãy tìm một doanh nghiệp với các con số tốt hơn và không có nợ.
Áp dụng Quy tắc số 1 cho một số doanh nghiệp trong năm 2000
Chúng ta hầu như đã sẵn sàng học cách tìm ra các tỷ lệ tăng trưởng của năm chỉ số chính, hãy lựa chọn những doanh nghiệp có vẻ tuyệt vời và tiếp tục tính toán giá trị thực của chúng. Nhưng trước khi lấy máy tính ra, tôi muốn chỉ cho các bạn thấy điều gì xảy ra khi tôi áp dụng Quy tắc số 1 là chiến lược trong năm 2000 cho nhóm cổ phiếu sau - Hayrley, GM, Dell và Apollo. Trong năm 2000, quy tắc này giúp tôi quyết định mua Harley - Davidsons và Apollo mà không mua GM và Dell. (Hãy nhớ rằng quyết định đó được đưa ra vào năm 2000 chứ không phải năm 2005, do đó mặc dù Apollo và Hayrley có những thời khắc không chắc chắn trong những năm gần đây, nhưng trong năm 2000, quy tắc này khuyên bạn hãy mua cổ phiếu của các công ty đó).
Kể từ năm 2005, lợi tức đầu tư chứng minh việc tôi mua và giữ cổ phiếu đó trong năm năm này là đúng (hãy nhớ rằng bạn sẽ học cách tính những giá trị đó ở những chương tiếp theo):
Harley: Theo Quy tắc số 1, ban hãy mua cổ phiếu của công ty với giá 27 đô-la. Các chuyên gia nghĩ rằng, cổ phiếu của công ty này tiếp tục tăng và đáng giá 120 đô-la vào năm 2005. Trên thực tế, sự việc không diễn ra suôn sẻ với Harley như các chuyên gia hy vọng. Đầu thế kỷ XXI, nước Mỹ rơi vào tình trạng trì trệ. Nhiều người bị mất việc làm và tiền lãi của Harley - Davidsons thậm chí không tăng được như mức các chuyên gia kỳ vọng. Mặc dù vậy, bằng việc sử dụng quy tắc này, năm năm sau đó, khoản đầu tư vẫn tạo ra mức lãi hấp dẫn là 100% ngay cả khi cổ phiếu này được bán với giá bằng một nửa giá dự báo cho năm 2005. Một nửa. Chúng ta vẫn thu được một khoản tiền khá lớn.
General Motors: Theo quy tắc, bạn không mua General Motors mặc dù các chuyên gia kỳ vọng công ty tăng trưởng 50% trong năm năm tới. Vấn đề là, nếu các chuyên gia đúng thì giá cổ phiếu trong năm 2000 cao hơn đáng kể so với giá trị của nó theo cách tính của nhà đầu tư. Quy tắc này cho chúng ta thấy các công ty được định giá cao hơn giá trị của mình sẽ là những công ty đầu tiên đi xuống trong một thị trường có xu thế đi xuống. Đây chắc chắn là trường hợp của GM. Được định giá gấp đôi so với giá trị, cổ phiếu này bị giáng những đòn nặng nề trong 5 năm sau đó. Nếu tôi đầu tư vào công ty này thì thay vì lãi 50%, tôi sẽ lỗ khoảng 70%. Cổ phiếu của công ty này hiện đang được bán với giá bằng khoảng 1/3 giá mong đợi nếu các nhà phân tích đúng. Một phần ba.
́ ́ ́
Một trong những lý do khiến Quy tắc số 1 trở nên quan trọng là nó không để cho bạn lâm vào tình trạng thua lỗ. Nếu không có Quy tắc này thì sau năm năm bị mất tiền ở GM, nhà đầu tư vẫn còn giữ cổ phiếu này sẽ thấy nó tăng lên 300% tới điểm hoà vốn. Một cổ phiếu tăng 300% trong vòng năm năm tới sẽ có mức lãi hàng năm là 25%. Những nhà đầu tư giữ cổ phiếu GM qua giai đoạn lỗ 70% chắc chắn đang cầu nguyện để công ty này tăng trưởng thần kỳ với tốc độ mà chính các nhà phân tích cũng không dự báo được. Bằng việc nắm giữ cổ phiếu này, các nhà đầu tư ấy đang sống ở xứ mơ.
(Xứ mơ là nơi nhiều nhà đầu tư nghiệp dư - những người không muốn đối đầu với hiện thực và những người không hiểu quy tắc này - đang sống. Với Quy tắc số 1, các nhà đầu tư chưa bao giờ sống theo kiểu viển vông. Nếu một nhà đầu tư theo Quy tắc số 1 đầu tư cho GM năm năm trước đó thì tôi thề với bạn rằng anh ta sẽ không nắm giữ cổ phiếu công ty cho tới khi lỗ 70% trừ phi anh ta bị rối loạn tâm thần. Quy tắc số 1 trang bị cho các nhà đầu tư các công cụ và tri thức để xem xét tình trạng thực tế của doanh nghiệp họ đầu tư, và hiểu rằng còn có những doanh nghiệp đáng đầu tư hơn).
Dell: Một trong những doanh nghiệp tốt nhất trên thế giới nếu bạn cho rằng bạn hiểu biết về doanh nghiệp công nghệ cao. Trong năm 2000, các chuyên gia nghĩ rằng công ty này sẽ mang lại cho các nhà đầu tư mức lãi 50% vào năm 2005, nhưng mức giá thị trường chứng khoán muốn có vào năm 2000 là quá cao đối với Quy tắc số 1. Các nhà đầu tư trả tiền mua cổ phiếu của công ty này đã mất 20% số tiền của họ. Thật đáng kinh ngạc, vì bạn sẽ thấy nếu bạn mua cổ phiếu ấy vào năm 2002, thay vì vào năm 2000, dựa trên những dự báo của các chuyên gia vào năm 2002 thì chỉ trong ba năm bạn tăng được gấp đôi số tiền của mình.
Tập đoàn Apollo: Doanh nghiệp này vững chắc đến mức các chuyên gia dự báo nó có thể đem lại cho chúng ta mức lãi khổng lồ 700% vào năm 2005. Trên thực tế, sự việc tiến triển tốt hơn rất nhiều so với kỳ vọng, và tới năm 2005, cổ phiếu đó mang lại cho các nhà đầu tư theo Quy tắc số 1 mức lãi 900%. Đây là một khoản đầu tư tuyệt vời khi mua trong năm 2000, và mặc dù tăng trưởng EPS và vốn chủ sở hữu của công ty có giảm xuống vào năm ngoái nhưng tỷ suất lợi nhuận chung trong năm năm thật tuyệt.
Như vậy, dựa trên phân tích của chuyên gia, Harley được kỳ vọng tăng 400% và tăng được 100%, trong khi đó GM kỳ vọng tăng 50% và đã giảm 70%. Dell được kỳ vọng tăng 50% và đã giảm 20% và Tập đoàn Apollo kỳ vọng 700% và đã tăng 900%. Nếu rủi ro và phần thưởng thường đi kèm với nhau như mọi người nghĩ thì khi đó GM và Dell với “phần thưởng” 50% là những khoản đầu tư ít rủi ro hơn so với Tập đoàn Harley và Apollo với mức thưởng dự báo lần lượt là 400% và 700%. Điều đó hoá ra không phải là sự thật, có đúng thế không? Trên thực tế, tại thời điểm đó, theo quy tắc này, các khoản đầu tư có lợi nhuận tiềm năng cao hơn ở trong trường hợp này lại là các khoản đầu tư có rủi ro thấp hơn. Các nhà đầu tư theo Quy tắc số 1 bằng kinh nghiệm cá nhân biết rằng, trong bất kỳ một thị trường chứng khoán nào họ cũng có khả năng tìm được các khoản đầu tư với rủi ro rất thấp và mức thưởng tiềm năng cao. Ngược lại, từng ngày, thị trường chứng khoán mời chào những khoản đầu tư có mức thưởng thấp nhưng lại đi kèm với rất nhiều rủi ro.
Cuối cùng là đôi lời về cổ tức…
Cổ tức
Cho tới lúc này, doanh nghiệp tuyệt vời của chúng ta là một doanh nghiệp có năm lợi thế cạnh tranh, với năm chỉ số tài chính khá đẹp, và có ít hoặc không có nợ. Điều đó có thể có nghĩa là hàng năm, doanh nghiệp này đều dư thừa tiền mặt. Vì chúng ta có tư duy giống như những chủ doanh nghiệp nên chúng ta sẽ xem khoản tiền dư thừa này là của chúng ta. Nhưng tổng giám đốc điều hành (CEO) phải quyết định chia số tiền đó cho chúng ta hay sử dụng vào một số việc như phát triển sản phẩm mới, tăng số nhân viên bán hàng, xây dựng các cửa hàng, tăng ngân sách tiếp thị, xây dựng thương hiệu…. Rõ ràng, nếu ông ta không chia khoản tiền đó cho chúng ta thì chúng ta
́ ̀ ̀
muốn ông ta sử dụng tiền của chúng ta để đầu tư thu lợi nhuận cao. Chừng nào ROIC còn ổn định thì có thể ông ta vẫn đang đầu tư hiệu quả tiền của chúng ta. Trong trường hợp này, chúng ta muốn ông ta tiếp tục phát triển doanh nghiệp, hơn là đưa lại tiền cho chúng ta. Bởi vì nếu ông phân chia số tiền đó cho chúng ta, chúng ta sẽ lại phải tái đầu tư vào một doanh nghiệp khác có khả năng làm cho số tiền đó sinh lời. Việc này sẽ đơn giản hơn nhiều nếu vị CEO giữ số tiền đó lại.
Nhưng điều gì sẽ xảy ra nếu CEO không thể đầu tư trở lại doanh nghiệp tất cả số tiền của chúng ta mà vẫn duy trì ROIC khá cao đối với khoản tiền này? Điều gì xảy ra nếu ông chỉ có thể sử dụng hiệu quả một phần nhất định trong số đó để phát triển doanh nghiệp, số còn lại không thúc đẩy được doanh nghiệp tăng trưởng? Điều đó không có nghĩa là ông sẽ quẳng đi một phần tiền của chúng ta hoặc chỉ đơn giản là bỏ quên nó. Đấy là những việc làm tồi tệ. Chúng ta không muốn người điều hành công ty lãng phí bất kỳ một khoản tiền nào. Chúng ta muốn ông phân chia cho chúng ta một phần số tiền đó, theo cách này, chúng ta có thể đầu tư khoản tiền đó vào một doanh nghiệp có khả năng làm cho nó sinh lời.
Khi người điều hành công ty trả lại cho chúng ta một phần trong số tiền chúng ta đầu tư thì số tiền đó được gọi là cổ tức. Một công ty trả cổ tức hay không trả cổ tức sẽ không liên quan đến việc công ty đó có lợi thế cạnh tranh lớn hay không. Một vài công ty có lợi thế cạnh tranh lớn như Procter&Gamble và Microsoft quyết định không sử dụng tiền mặt dư thừa để đầu tư thêm. Vì vậy, công ty đem trả lại cho những chủ đầu tư. Những doanh nghiệp có lợi thế cạnh tranh lớn khác như Starbucks nghĩ rằng, họ có thể sử dụng từng đồng lợi nhuận để tăng trưởng và do vậy, họ chưa bao giờ trả cổ tức. Là các nhà đầu tư Quy tắc số 1, chúng ta không loại trừ một doanh nghiệp bởi vì nó trả (hay không trả) cổ tức. Trả hay không trả cổ tức không phải là một dấu hiệu cho thấy tăng trưởng chậm hay tăng trưởng nhanh. Nó chỉ là lựa chọn của ban quản lý về phương cách quản lý tốt nhất tiền mặt của những chủ đầu tư. Nhiều công ty tăng trưởng nhanh thường trả cổ tức. Việc công ty có trả cổ tức hay không không liên quan tới cách bạn áp dụng Quy tắc số 1.
Cổ tức, tự thân nó không tốt mà cũng chẳng xấu. Cổ tức hấp dẫn là cổ tức được trả từ số tiền mà CEO không thể phân bổ hiệu quả cho tăng trưởng. Họ nghĩ rằng, nếu giữ số tiền đó thì ROIC sẽ giảm đi. Chúng ta yêu mến những CEO có lối suy nghĩ như vậy. Đây là một trong những lý do để chúng ta theo dõi ROIC. Bằng việc trả tiền cho chủ đầu tư, người điều hành tạo điều kiện cho chúng ta phân bổ số vốn đó hiệu quả hơn. Cổ tức tồi là cổ tức được trả từ số tiền CEO có thể sử dụng để phát triển doanh nghiệp. Ví dụ, General Motors lẽ ra có thể phát triển hơn khi tái đầu tư số tiền mặt quý giá của mình vào phát triển doanh nghiệp, thay vì phân bổ cho các cổ đông dưới dạng cổ tức.
Hãy xem xét điều này về cổ tức: Trước khi doanh nghiệp trả cổ tức, họ phải trả thuế. Khoảng 35%. Với 65% còn lại, doanh nghiệp có thể trả cổ tức. Nếu doanh nghiệp trả tất cả số lợi nhuận đó dưới dạng cổ tức cho bạn thì bạn phải trả thuế thu nhập ngắn hạn đối với toàn bộ số tiền đó. Toàn bộ số tiền đó bị đánh thuế một lần nữa với một mức nào đó tuỳ thuộc vào quyết định của Nghị viện. Việc này có thể khiến bạn, người chủ công ty, chỉ còn lại số tiền khoảng 40% số lãi ban đầu mà công ty có được. Chính phủ sung công số còn lại bằng cách đánh thuế gấp đôi. Nếu bạn được trả cổ tức và phải nộp thuế tới mức 60% số lãi của mình thì nên để doanh nghiệp phân bổ hiệu quả số lợi nhuận này. Khi đó, kết quả của chính sách đánh thuế gấp đôi của chính phủ sẽ khiến các doanh nghiệp của Mỹ hoạt động kém hiệu quả hơn so với các công ty nước ngoài.
Tại sao CEO lại trả cổ tức khi thực sự không nên làm như vậy? Nhiều người sở hữu cổ phần nghĩ bản thân họ là “nhà đầu tư” hơn là “người sở hữu” và theo đúng nghĩa họ muốn thấy công ty tăng trưởng đều đặn và ổn định. Đối với những nhà đầu tư thiếu kiến thức, cổ tức cố định có thể khiến họ lầm tưởng là mọi thứ đều tốt đẹp và CEO vẫn đảm bảo hoạt động của công ty. Đây là điều xảy ra tại General Motors.
́ ̀ ́ ́ ́ ̀ ́
Vấn đề mấu chốt để biết công ty bạn đầu tư có lợi thế cạnh tranh hay không là xem xét dưới góc độ năm chỉ số tài chính chủ yếu và chỉ số nợ. Các nhà đầu tư theo Quy tắc số 1 không thể bỏ qua yếu tố này trong khâu dự đoán tương lai. Chúng ta đương nhiên muốn đầu tư vào một công ty hoàn hảo. Nếu công ty có một hoặc năm lợi thế cạnh tranh, năm chỉ số tài chính chủ yếu
và chỉ số nợ được xem là hiệu quả, chúng ta sẽ phân tích tiếp bước sau. Nếu không, chúng ta sẽ loại bỏ khỏi danh mục. Có thể công ty sẽ trả cổ tức không thoả đáng. Khi Whole Foods trả tôi cổ tức, thông thường tôi mua thêm cổ phiếu của Whole Foods. Nhưng nếu giá của cổ phiếu đó tăng cao hơn giá trị thực, tôi bắt đầu tìm kiếm những giao dịch tốt hơn - tức là tôi bán cổ phiếu Whole Foods và chia tay với cổ tức đó.
Bây giờ bạn sẽ học cách tìm ra năm chỉ số tài chính chủ yếu.
Cổ tức và sự tăng trưởng vốn cổ phần
Cổ tức được tính giảm vào vốn chủ sở hữu. Hầu hết các công ty trả cổ tức nhiều hoặc ít theo tỷ lệ phần trăm cố định của phần thặng dư. Bản thân tôi không quan tâm đến việc cộng cổ tức vào vốn chủ sở hữu trước khi tính toán tỷ lệ tăng trưởng vốn chủ sở hữu. Tuy nhiên, khi công ty trả nhiều cổ tức một lần - như Microsoft từng làm một năm trước đây khi trả trên 52 tỷ đô-la cho các cổ đông - bạn phải cộng khoản cổ tức lớn đó vào vốn chủ sở hữu và sau đó tính toán tỷ lệ tăng trưởng. Dễ dàng nhận ra đó chính là một khoản lợi nhuận vì bạn sẽ thấy vốn chủ sở hữu giảm đột ngột. Sau đó, nhìn vào chỉ số dòng tiền để xem liệu đó có phải là một khoản lợi nhuận lớn trong năm hay không. (Những khoản lợi nhuận như thế này được xem là thông tin quan trọng về công ty).
6 - Tính toán năm chỉ số tài chính chủ yếu
Vấn đề chúng ta kiên trì giải quyết trở nên dễ dàng hơn không phải do nó tự trở nên dễ hơn mà do năng lực giải quyết vấn đề của chúng ta hoàn thiện hơn.
-RALPH WALDO EMERSON -
(1803 - 1882)
Trong Chương 4 và 5, chúng ta đã tìm hiểu năm chỉ số tài chính chủ yếu và chỉ số nợ, những chỉ số này cho thấy công việc kinh doanh có thể đem lại lợi nhuận nhưng cũng có thể đánh lừa chúng ta và làm chúng ta vi phạm Quy tắc số 1. Khi tôi đưa ra những số liệu này và chỉ ra cho bạn biết chúng được thể hiện như thế nào ở một vài công ty, tôi chỉ đơn thuần đưa cho bạn những dữ liệu không phải mất thời gian tính toán. Bây giờ, chúng ta sẽ xem xét năm chỉ số tài chính chủ yếu. Từ đó, chúng ta sẽ dễ dàng tìm ra các tỷ lệ tăng trưởng. Bạn sẽ cảm thấy quen thuộc với những con số khi bạn xem xét công việc kinh doanh. Do đó, bạn cũng có thể đồng ý rằng năm chỉ số tài chính này, cùng một vài thực hành và một chút kiên nhẫn sẽ trở nên dễ dàng đối với bạn như thực hiện phép tính 2 + 2 = 4. Bạn có thể thực hiện được, đúng không? Nếu không, đừng quá lo lắng, máy tính sẽ làm công việc đó giúp bạn. Chúng ta thực sự không phải thực hiện bất cứ phép tính nào, chúng ta chỉ nhập những con số cần thiết vào máy tính, và máy tính sẽ làm những việc còn lại. Chúng ta hãy bắt đầu ngay từ bây giờ.
Garmin
Chúng ta hãy so sánh hai công ty: Garmin (GRMN) và General Motors (GM). Tôi sẽ hướng dẫn bạn từng bước tính toán các số liệu tăng trưởng của Garmin và GM. Phương pháp này cũng được vận dụng tương tự khi tính toán những tỷ lệ tăng trưởng khác. Do đó, với bất kỳ tỷ lệ tăng trưởng nào sau
này, tôi sẽ không thực hiện từng bước cho bạn, hãy tiếp tục và cố gắng thực hiện tính toán cho đến khi bạn quen với phương pháp này.
Garmin là công ty thiết bị định vị toàn cầu hàng đầu trên thị trường thế giới. Đó là công ty tương đối mới trong một lĩnh vực mới. GM bán ô tô trên toàn thế giới. Họ bán được nhiều ô tô trên thế giới hơn bất kỳ đối thủ nào. GM có mức vốn hoá thị trường lớn hơn khoảng năm lần so với Garmin. GM có bề dày lịch sử, quy mô lớn, nổi tiếng và là công ty Mỹ. Ngược lại, Garmin trẻ trung, đang phát triển nhưng tên tuổi chưa được biết đến nhiều và là một công ty Đài Loan.
GARMIN 1995 - 2004
* Đơn vị doanh thu là tỷ đô-la.
́ ́
Bảng số liệu trên tương tự bảng thể hiện số liệu của Appolo, chúng ta xem xét trong chương trước, tôi thu thập tất cả số liệu chúng ta cần để tìm ra các tỷ lệ tăng trưởng. Lưu ý rằng, ROIC luôn được đưa ra dưới dạng phần trăm (%) (bạn sẽ không phải tính toán tỷ lệ tăng trưởng ROIC giữa các năm). Bạn có thể lấy hầu hết số liệu từ các trang web trực tuyến như MSN Money bằng việc kích chuột vào nút “Stock” (Cổ phiếu) và sau đó tìm ô trống để nhập mã cổ phiếu. Nhập “GRMN” hoặc “GM” và tìm kiếm các báo cáo tài chính. (Chú ý: tìm kiếm báo cáo thu nhập, bảng cân đối kế toán, và báo cáo lưu chuyển tiền tệ).
Điều đầu tiên cần làm là kiểm tra mức độ tăng trưởng ổn định và đi lên của số liệu bằng việc xem xét chúng. Nếu tôi chuyển những con số này thành dạng biểu đồ, tôi sẽ nhìn thấy đường xu hướng ổn định và đi lên. Dưới đây là số liệu về lợi nhuận trên mỗi cổ phiếu (EPS - Earning per Share) thể hiện dưới dạng biểu đồ:
Khá tốt. Ổn định và có xu hướng đi lên. Đó là cái chúng ta cần. Bạn không cần phải tạo ra một biểu đồ như tôi làm ở đây (tôi chỉ muốn cung cấp cho bạn ví dụ cụ thể). Bạn có thể xem xét các con số từ 1995 - 2004 một cách đơn giản và chú ý là chúng phải tăng lên mà không giảm xuống.
Bây giờ hãy vẽ biểu đồ dựa vào số liệu của GM. Bắt đầu với số liệu của GM trong 10 năm qua, từ năm 1995:
GM 1995 - 2004
* Đơn vị doanh thu là tỷ đô-la.
Tương tự như trên, đầu tiên chúng ta cũng tìm kiếm mức độ tăng ổn định ở những con số này. Nếu tôi vẽ biểu đồ của GM, tôi hy vọng nó sẽ là một đường xu hướng ổn định và đi lên. Dưới đây là hình vẽ tôi xây dựng từ số liệu EPS của GM.
Không đẹp lắm. Các số liệu lên xuống thất thường trong suốt thời gian qua. Đây không phải là điều chúng ta mong muốn. Chúng ta đang dự đoán. Chúng ta muốn có độ tin cậy cao về khả năng công ty này hoạt động tốt trong tương lai. Nếu các kết quả này lên xuống trong quá khứ, chúng ta có thể sẽ không chắc chắn về xu hướng biến động trong tương lai. Tất cả sự biến động lên xuống chứng tỏ số liệu không thể hiện được những gì các nhà quản lý và chủ sở hữu mong muốn. Chúng ta không muốn đầu tư vào những công ty đang đi chệch hướng. Có rất nhiều công ty hoạt động ổn định và chúng ta phải tìm ra.
Bây giờ hãy tính bốn tỷ lệ tăng trưởng ở hai công ty này. Có bốn cách để thực hiện:
1. Học cách sử dụng bảng tính tỷ lệ trong Excel. Nếu bạn cảm thấy thích thú công việc tính toán này, tôi đã đưa tất cả hướng dẫn trên trang web của tôi, www.ruleoneinvestor.com. Những phép tính này trở nên dễ dàng khi bạn sử dụng quen - nhưng phải dần dần. (Tuy nhiên, khi bạn thực hành một hoặc hai lần, bạn sẽ trở nên thuần thục).
2. Học cách sử dụng bảng tính Quy tắc số 1 trên trang web của tôi. Các bảng tính này sử dụng khá nhanh nhưng yêu cầu bạn phải thực hành. Hãy vào trang web của tôi và thực hiện theo hướng dẫn.
3. Học cách tính bằng tay (hoặc tính nhẩm), bạn sẽ trở nên thuần thục khi thực hành một vài lần. Tôi sẽ hướng dẫn bạn quy trình này ở phần dưới đây.
4. Xem xét tỷ lệ tăng trưởng trên trang web về dữ liệu cổ phiếu. Đây không chỉ là cách thức nhanh nhất để có được thông tin mà bạn còn tìm được tất cả tỷ lệ tăng trưởng bạn muốn trên mạng. Những trang web thực hiện tất cả các công việc tính toán đặc biệt này có giá rất đắt.
Chúng ta phải chọn giữa cách có được thông tin bằng trả phí và cách không phải trả phí. Tuy nhiên, nếu chúng ta muốn có thông tin, không mất phí, chúng ta phải học cách tính những tỷ lệ tăng trưởng từ dữ liệu thô, đồng thời phải tính toán tỷ lệ tăng trưởng trong năm năm và một năm. Không ai tính toán tỷ lệ tăng trưởng trong 10 năm để cung cấp miễn phí cả.
Để chứng minh việc cung cấp có giới hạn về những số liệu trên các trang web miễn phí, hãy vào trang MSN Money và gõ chữ “GRMN”, kích ô “Financial Results” (“Các kết quả tài chính”), “Key ratios” (“Các tỷ số chính”) và sau đó là “Growth rates” (“Tỷ lệ tăng trưởng”). Chúng ta chỉ tìm ra tỷ lệ tăng trưởng EPS và doanh thu.
Chú ý, tỷ lệ tăng trưởng EPS trong năm năm là 19,92%, trong khi tỷ lệ tăng trưởng EPS năm trước là 33,7%. Tương tự, tỷ lệ tăng trưởng doanh thu trong năm năm là 23,45% trong khi năm trước tỷ lệ tăng trưởng này là 39,5%, đó là hai trong bốn chỉ số tăng trưởng và nó chỉ cung cấp cho chúng ta tỷ lệ trong một năm và năm năm. Sẽ tốt hơn nếu chúng ta biết được các tỷ lệ cho năm năm hoặc ́
10 năm và ba năm. Nhưng trang web này không thể cung cấp cho chúng ta những tỷ lệ này. Chúng ta phải tính toán tỷ lệ tăng trưởng vốn chủ sở hữu và tỷ lệ tăng trưởng tiền mặt nếu muốn, cũng như các tỷ lệ tăng trưởng EPS và doanh thu trong các giai đoạn khác nhau.
Tính nhẩm các tỷ lệ tăng trưởng
Tôi sẽ hướng dẫn bạn một vài phép tính và bạn có thể tính nhẩm (không cần sử dụng chương trình tính toán giống những chương trình sẵn có trên trang web của tôi), và bạn có thể làm phần còn lại một khi hiểu rõ cách thức tiến hành. Nếu có thể thực hiện một phép tính tỷ lệ tăng trưởng, bạn cũng có thể thực hiện được các phép tính tương tự khác. Hãy bắt đầu bằng việc tính toán tỷ lệ tăng trưởng vốn chủ sở hữu trong sáu năm của GARMIN. Trước tiên bắt đầu bằng việc xử lý những dữ liệu thô:
VỐN CỔ PHẦN CỦA GARMIN 1995 - 2004
Như bạn có thể thấy vốn cổ phần tăng từ 136 - 936 trong sáu năm. Hãy tự hỏi rằng, 136 phải nhân đôi bao nhiêu lần để được 936? Đầu tiên, chúng ta làm tròn 136 đến một con số thích hợp để có thể dễ dàng nhân đôi, chẳng hạn 150. Sau đó, chúng ta nhân đôi thành 300. Chúng ta tiếp tục nhân đôi cho đến khi chúng ta đạt được một con số xấp xỉ bằng 936, trong khi thực hiện công việc này chúng ta phải đếm số lần chúng ta nhân đôi. Do đó, 150 đến 300 là một lần nhân đôi; 300 đến 600 là hai lần nhân đôi; 600 đến 1200 là ba lần nhân đôi. Vì vốn cổ phần không đạt đến 1200 nên gần như không được ba lần nhân đôi.
Bây giờ, hãy xem chúng ta tính toán số liệu cho bao nhiêu năm? Đó có phải là sáu năm không? Từ 1998 đến 1999 là một năm; đến 2000 là hai năm; đến 2001 là ba năm; đến 2002 là bốn năm; đến 2003 là năm năm; đến 2004 là sáu năm. Tất cả là sáu năm.
Do đó, nếu vốn cổ phần của GARMIN gấp gần ba lần trong sáu năm, hãy tự hỏi rằng: GARMIN sẽ mất bao nhiêu năm để tăng gấp đôi một lần? Nếu chúng ta có chính xác ba lần tăng gấp đôi trong sáu năm, thì việc tính toán rất dễ dàng - hai năm để tăng gấp đôi một lần, hai năm nữa để tăng gấp đôi lần thứ hai, hai năm tiếp theo để tăng gấp đôi lần thứ ba. Do vậy, cứ hai năm tăng gấp đôi một lần. Bây giờ xem xét một thủ thuật: 2 phải gấp đôi bao nhiêu lần để bằng 72? (thủ thuật này được gọi là quy tắc 72 và chúng ta sẽ sử dụng quy tắc 72 giải bài toán này trước khi chúng ta có máy tính. Quy tắc 72 là một phương pháp tính toán tỷ lệ tăng trưởng được chấp nhận rộng rãi nếu bạn biết phải mất bao nhiêu năm để gấp đôi số tiền một lần. Thầy giáo tôi dạy tôi cách giải bài toán này, và tôi giới thiệu lại cho các bạn). 2 đến 72 chính xác là 36 lần nhân đôi, đúng không? Do vậy, tỷ lệ tăng trưởng vốn cổ phần của GARMIN sẽ thấp hơn một chút vì chúng ta không có đủ ba lần gấp đôi. Do đó, tỷ lệ này vào khoảng 30%. Rất tuyệt phải không? Không cần sử dụng đến máy tính.
QUY TẮC 72: ĐIỀU BÍ MẬT
Hầu như tôi không cần thiết phải đi sâu vào vấn đề toán học để giải thích tại sao sử dụng quy tắc 72 và quy tắc này được thực hiện như thế nào. Vì có hàng tá vấn đề phức tạp mà bạn cũng không muốn tôi đề cập tại đây liên quan đến toán học, logic học và cơ chế trả lãi kép hành năm được thực hiện như thế nào. Để đơn giản hoá vấn đề chúng ta gọi nó là quy tắc 72 vì ở mức 10% tiền gấp đôi sau mỗi 7,2 năm và khi bạn chia 7,2 cho 10% bạn có 72. Quy tắc căn bản này giúp bạn tính toán khi nào tiền của bạn (hoặc bất kỳ đơn vị nào) sẽ tăng lên gấp đôi với mức lãi suất cho sẵn (hoặc tỷ lệ tăng trưởng cho sẵn). Ví dụ, nếu bạn muốn biết phải mất bao lâu để tăng gấp đôi số tiền ở mức lãi suất
9%, hãy chia 72 cho 9 được tám năm. Bạn cũng có thể thực hiện ngược lại, và tính toán được lãi suất (hay tỷ lệ tăng trưởng). Ví dụ, nếu tiền của bạn phải tăng gấp đôi trong hai năm để có thể có một chuyến du lịch châu Âu ý nghĩa, bạn sẽ cần 72/2 = 36% tỷ suất lợi nhuận trên số tiền tiết kiệm ban đầu của bạn.
Do đó quy tắc 72 chỉ mang tính tương đối, nhưng đó là một quy tắc chính xác, đáng chú ý mà chúng ta tin cậy sử dụng khi tính toán theo Quy tắc số 1.
Bây giờ, hãy xem xét lượng tiền lưu chuyển. Chúng tôi muốn biết dòng tiền tự do đang tăng lên như thế nào, đó là lượng tiền còn lại sau khi đầu tư khoản tiền sẵn có vào công cụ, dụng cụ, nghiên cứu và phát triển, v.v… chúng ta sẽ tính toán tỷ lệ tăng trưởng trong bảy năm (từ 1997 đến 2004):
DÒNG TIỀN CỦA GARMIN 1997 - 2004
Lượng tiền mặt của GARMIN tăng từ 37 lên 130 trong bảy năm. Làm tròn 37 thành 40 để đơn giản hoá việc tính toán. Do vậy 40 gấp đôi một lần được 80, 80 gấp đôi lần hai được 160, như vậy chúng ta vừa vượt qua 130. Có nghĩa là GARMIN sẽ mất 3,5 năm để tăng trưởng gấp đôi mỗi lần - cũng có thể là bốn năm vì khoảng cách đó rất ngắn. Bây giờ, sử dụng quy tắc 72 và chia 72 cho 4
để tính tỷ lệ tăng trưởng: 72/4 = 18. Tỷ lệ tăng trưởng tiền mặt của GARMIN qua bảy năm là 18%/năm.
Bây giờ để thực hành, chúng ta có thể tính toán tỷ lệ tăng trưởng doanh thu và EPS của GARMIN trong chín năm:
DOANH THU CỦA GARMIN 1995 - 2004
Doanh thu tăng từ 102 lên 763, làm tròn tương ứng là 100 đến 800. Thực hiện việc tính toán như sau:
100 đến 200 là một lần nhân đôi, 200 đến 400 là hai lần nhân đôi, 400 đến 800 là ba lần nhân đôi. Do đó, chúng ta có ba lần tăng gấp đôi trong chín năm. Tức là, cứ ba năm tăng gấp đôi một lần. Áp dụng quy tắc 72: 72/3 =24. Do đó, tỷ lệ tăng trưởng doanh thu bình quân chín năm là khoảng 24%.
TRẬT TỰ ƯU TIÊN CÁC TỶ LỆ TĂNG TRƯỞNG
Không phải cả bốn tỷ lệ tăng trưởng đều thể hiện cùng một mức độ như nhau hoặc có cùng mức độ quan trọng. Mặc dù, tất cả chúng đều nằm trên mức tối thiểu 10%, nhưng mức độ quan trọng của chúng được sắp xếp theo thứ tự theo mức quan trọng nhất như sau:
1. Tăng trưởng vốn chủ sở hữu/vốn cổ phần.
2. Tăng trưởng EPS
3. Tăng trưởng doanh thu (hoặc tăng trưởng lợi nhuận gộp)
4. Tăng trưởng dòng tiền
Điều này có nghĩa là khi phải tham chiếu đến các tỷ lệ tăng trưởng hoặc đưa ra những dự đoán khác từ các tỷ lệ tăng trưởng, bạn nên tập trung vào tăng trưởng vốn sở hữu và EPS trước tiên, sau đó là tỷ lệ tăng trưởng doanh thu và dòng tiền. Tăng trưởng
vốn chủ sở hữu và EPS nói lên nhiều điều về tương lai của công ty và mức độ chắc chắn chúng ta có thể đưa ra khi dự đoán tương lai, đây là một phần quan trọng của Quy tắc số 1.
EPS tăng từ 0,26 lên 1,89 trong chín năm. Bắt đầu nhân đôi: 25 đến 50 là một lần nhân đôi; 50 đến 100 là hai lần nhân đôi; 100 đến 200 là ba lần nhân đôi. Do vậy, EPS tương tự cũng xấp xỉ nhân đôi ba lần. Chúng ta vừa biết câu trả lời cho vấn đề này: 72/3 = 24. Doanh thu và EPS có tỷ lệ tăng trưởng bằng nhau là 24% trong chín năm qua. Đó chỉ là một trong năm chỉ số tăng trưởng chủ yếu của GARMIN. Bạn có thể thực hiện những phép tính này bằng cách sử dụng một tập hợp số liệu khác nhau để có được những con số trung bình cho những khoảng thời gian khác nhau. Lý do sử dụng những số liệu ở các giai đoạn khác là tốt nhất vì nó cho biết liệu có sự thay đổi theo chiều hướng xấu nào không. Ví dụ, giả sử bạn nắm giữ cổ phiếu của GARMIN từ năm 2001 đến 2004, bạn sẽ nhận ra rằng tỷ lệ tăng trưởng bình quân ba năm của nó là khoảng 27%. Nếu bạn tính tỷ lệ tăng trưởng trong một năm thì bạn sẽ có 25%. Chú ý rằng tăng trưởng vốn chủ sở hữu đang có xu hướng chậm dần nhưng tỷ lệ tăng trưởng vẫn rất tốt - trên mức yêu cầu tối thiểu của chúng ta là 10%. Đó là một con số rất lớn đối với chúng ta bởi vì về cơ bản tăng trưởng vốn chủ sở hữu là con số chúng ta muốn thấy hơn bất kỳ chỉ số tăng trưởng nào khác. Bởi tăng trưởng của giá trị thực của công ty - luôn theo sát tăng trưởng vốn cổ phần.
Bạn sẵn sàng tính toán tỷ lệ tăng trưởng của GM chưa? Hãy thực hiện tương tự: Hãy xem những tỷ lệ tăng trưởng nào bạn có thể thu thập trực tuyến không mất nhiều thời gian, và thực hiện phần việc còn lại bằng cách tính toán giống như chúng ta vừa làm đối với công ty Garmin. Tôi lấy số liệu doanh thu trong 10 năm của GM làm ví dụ:
DOANH THU CỦA GENERAL MOTORS 1995 - 2004
* Đơn vị số liệu doanh thu là tỷ đô-la.
Doanh thu tăng từ 164 lên 194 trong 9 năm. Bắt đầu thực hiện việc nhân đôi: Ồ! Bạn không thể! Vì không có sự tăng gấp đôi nào trong chín năm cả. Đó là con số 0. Ban đầu chúng ta thực hiện tính toán cho GM theo cách trên. Nhưng bạn chỉ vừa mới học, do vậy, hãy thử tính toán tỷ lệ tăng trưởng khác. Chẳng hạn là EPS:
LỢI NHUẬN TRÊN MỖI CỔ PHIẾU CỦA GENERAL MOTORS 1995 - 2004
EPS giảm từ xấp xỉ 7 đô-la xuống 5 đô-la. EPS thụt lùi? Hãy quên nó đi. Chỉ là sự tăng trưởng EPS bằng 0 trong chín năm. Vốn chủ sở hữu tăng từ 23 đến 27. Bỏ qua tiếp. Luồng tiền giảm từ 8 xuống 5. Lại một tỷ lệ tăng trưởng 0% khác. (Thông tin thêm: Bằng việc mua cổ phiếu một cách thông minh, giá trị sổ sách của GM có vẻ vẫn rất tốt, mặc dù vốn chủ sở hữu khó có thể tăng thêm). Do đó, chúng ta có bốn tỷ lệ tăng trưởng tương ứng bằng 0, 0, 0, 0 cho GM. Bạn có thể tìm kiếm số liệu doanh thu và EPS trong năm năm và một năm trên trang web MSN và xem hoạt động của GM có bất thường hay không, vì theo quan sát qua chín năm, công ty này suy giảm rất nhiều.
́ ́
Nếu bạn có đủ quyết tâm để tính toán toàn bộ tỷ lệ tăng trưởng của GM để chứng minh đó là khoản đầu tư tồi, bạn sẽ thấy kết quả như sau:
Tỷ lệ tăng trưởng doanh thu: 9 năm = - 4%; 5 năm = - 11%; 3 năm = - 8%.
Tỷ lệ tăng trưởng vốn chủ sở hữu: 9 năm = 2%; 5 năm = 5%; 3 năm = 11%.
Tỷ lệ tăng trưởng dòng tiền tự do: 9 năm = - 5%; 5 năm = - 24%; 3 năm = 8%.
Chúng ta không phải tính toán tất cả các tỷ lệ tăng trưởng để xem GM có đáng đầu tư không, bởi vì qua 10 năm không có tỷ lệ nào tăng. Khi bạn xem xét số liệu năm năm, ba năm và một năm, chúng tôi có thể chỉ ra sự tiến triển, nhưng vẫn không phải là những con số thú vị. Sự mâu thuẫn của GM đủ để chúng ta quyết định không đầu tư. Chúng ta không thể chắc chắn là công ty này sẽ phát triển đến mức nào.
Tính toán lợi nhuận trên vốn đầu tư (ROIC)
Số liệu riêng lẻ cuối cùng nhưng quan trọng nhất, đó là ROIC (Lợi nhuận trên vốn đầu tư - Return on Investment Capital), như tôi đề cập trong chương trước, tôi xếp ROIC vào hàng quan trọng nhất trong tất cả các số liệu).
Nếu bạn thích thực hành với những con số và thu thập dữ liệu chính xác, hãy sử dụng bảng tính trực tuyến để nhanh chóng tìm ra những con số tại trang
www.ruleoneinvestor.com. Hãy kích chuột vào "Rule#1 Calculators" (Các bảng tính Quy tắc số 1) để truy cập bảng tính chủ:
Bảng tính tỷ lệ tăng trưởng doanh thu.
Bảng tính tỷ lệ tăng trưởng EPS.
Bảng tính tỷ lệ tăng trưởng vốn chủ sở hữu (hoặc giá trị sổ sách trên mỗi cổ phiếu). Bảng tính tỷ lệ tăng trưởng dòng tiền.
Bảng tính ROIC.
Bảng tính tỷ lệ nợ.
Bảng tính giá giao dịch và MOS.
Bảng tính tỷ suất vốn đầu tư (ROI).
Những bảng tính này thực hiện công việc tính toán cho bạn; tất cả bạn cần cung cấp là số liệu thô mà bạn có thể lấy được từ báo cáo tài chính tại bất kỳ trang web tài chính nào. Hãy thực hiện theo những hướng dẫn trên trang web của tôi.
Quy tắc 72 không được áp dụng để tính toán ROIC, nhưng may mắn là chúng ta có thể tra cứu trên trang web tài chính và thực hiện công việc này.
Không giống các tỷ lệ tăng trưởng, việc tính toán chỉ số ROIC của một công ty sẽ không thực hiện theo thông thường, vì bạn có thể tra cứu trên một số trang web. Nhưng tôi biết rằng, một vài bạn muốn khám phá chỉ số ROIC này. Dưới đây là những nội dung được tổng hợp lại:
Lợi nhuận hoạt động ròng sau thuế được viết tắt là NOPAT (Net operation profit after tax). Để có NOPAT, bắt đầu từ thu nhập ròng từ hoạt động kinh doanh cộng với chi phí trả lãi và chi phí khấu hao. May mắn là chúng ta không phải thực hiện những phép tính này. (Nếu bạn muốn học cách ghép những con số từ báo cáo tài chính để tính tỷ lệ phần trăm (%) ROIC cho một giai đoạn nhất định của một công ty, hãy vào trang web www.ruleoneinvestor.com, tôi sẽ hướng dẫn bạn quy
́ ́ ̀ ́
"""