"Quãng Đời Đánh Mất - Dương Thu Hương full mobi pdf epub azw3 [Tiểu Thuyết] 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Quãng Đời Đánh Mất - Dương Thu Hương full mobi pdf epub azw3 [Tiểu Thuyết] Ebooks Nhóm Zalo Quãng Đời Đánh Mất Dương Thu Hương vietmessenger.com Mặt trời mù sau lớp mây bạc, nhưng vòm trời và mặt đất trắng ánh lên. Các đồi cây đan tiêu hớn hở nô giỡn trước gió, ném vào không trung ngọn lửa cuồng nhiệt và thất thường của những vòm lá đỏ như đồng. Trên con lộ chạy vắt qua những trái đồi ngoại ô, chợt xuất hiện một cỗ xe thổ mộ. Nó tiến thẳng vào thành phố, tiếng vó ngựa và tiếng lục lạc mỗi lúc mỗi rõ dần. Lão già Ngạn dỏng tai nghe. Rồi từ trong bếp, hấp tấp lao ra sân, đưa mắt dõi theo, cỗ xe ngựa vượt qua tòa biệt thự trắng, xưa là nhà nghỉ của quan công sứ Pháp, nay lũ trẻ đọc sách và chơi đu quay. Rồi cỗ xe lăn qua khuôn viên, khu trường phổ thông, nhà trẻ... Vượt qua hai cánh cổng để ngỏ của lão, nó đi hút về cuối phố. Lão già bất giác thở dài, đôi vai như còng xuống. Từ mảnh sân bên kia, phân cắt bởi hàng đỗ leo, một ông già cao lớn bước sang. Đưa mắt nhìn khuôn mặt ủ ê của lão Ngạn, ông cất tiếng: - Thôi đi, đừng mất công vô ích. Về được, nó khắc về. - Nhưng tôi nóng ruột... Lão Ngạn đáp, vẻ hằn học không che đậy: Ông có con đâu mà ông biết xót?... Ông già hàng xóm không mảy may phật ý, đáp: - Tôi không có con nhưng trên đời này chẳng riêng ông được quyền làm cha. Không người cha nào xử sự như ông cả...Nhưng thôi, đừng cãi cọ nhau buổi sớm. Pha ấm trà đi. Nói xong, ông kéo ghế ngồi, đôi chân bắt chéo lại. Lão Ngạn súc ấm, bỏ trà pha nước mới. Vừa làm, lão vừa nghĩ: Lúc nào hắn cũng đàng hoàng, mạnh mẽ hơn ta. Dù ngồi ở xó rừng hay ngồi trên ghế của người khác...Trông kìa, dường như chính hắn mới là chủ nhân ngôi nhà này, bộ bàn ghế mây đáng tiền này, cả bình trà bằng sứ đời Thanh này nữa. Đến con trai ta cũng thuộc về hắn. Nó tin hắn như dân đạo tin Chúa Jesu. Cái thằng khốn... Ông già láng giềng vẫn ngồi yên lặng, mắt đăm đăm nhìn dãy đồi đan tiêu nơi chân trời. Tóc ông dày và đen, lưng thẳng. Lão Ngạn đặt bình trà xuống bàn: - Được rồi đây. Ông già rót nước: - Ông uống luôn cho nóng. Lão Ngạn gật đầu: - Phải...Nhưng tôi vào bếp đã. Chặn lại cái thớt kẻo sổng mấy con cua. Chúng nó cạo nồi cả đêm, không ngủ được. Lão vào bếp vì không muốn người láng giềng đọc được ý nghĩ của mình. Thực tình, lão căm ghét ông Hai đến mức thầm ước rằng bỗng dưng có cơn gió độc thổi tới, ông Hai trúng phong ngã lăn quay trên mảnh sân này, lão sẽ hả hê bao nhiêu. Trong chiếc nồi đồng lớn, lũ cua biển giương những đôi mắt lồi tí xíu nhìn lão. Móng cua sắc cạo xào xạo nghe rợn tai. Bất chợt, lão già đập chiếc thớt gỗ lên miệng nồi: - Lũ khốn, trưa nay ta đem luộc ráo. Lão quay ra sân. Ông già Hai đã uống xong chén trà, khoan thai bước về mảnh sân bên kia. Lão Ngạn nhìn theo, nghẹn cổ. Trưa hôm ấy, lão luộc cả mớ cua biển. Một mình, ăn mãi tới nửa đêm mới hết. Dù uống nửa lít rượu, lão vẫn bị đau bụng. Từ hai giờ rưỡi đêm, lão chạy đi chạy lại từ nhà trên xuống chuồng tiêu như con thoi. Lũ nhặng đêm kêu như ong trong không, gian hôi thối. Lão đành uống năm viên rửa có á phiện. Rồi sau đó, khoảng bốn giờ sáng, lão ngủ thiếp đi cho tới non trưa ngày hôm sau. Giữa đám sương bồng bềnh, lãng đãng những vệt nắng vàng. Lão già nghe tiếng xe lăn ngoài phố. Lần này, xe dừng lại trước cổng. Đứa con trai bước xuống, nện gót giày trên sân: - Chào ba, con đã về. Nó giơ cao chiếc mũ dạ xanh thẫm, đính mỏ neo vàng. Mắt lão hoa lên. Lão ngắm nghía bộ đồng phục bó sát tấm thân trai trẻ của nó, nước mắt rớt xuống má... - Thình thình...thình...Thình thình... - Ba ơi i i... Hai cánh cửa rung bần bật. Và giọng một người đàn bà: - Chú Hai, ba cháu ốm à? - Không rõ. Đêm qua tao thấy ông ấy chong đèn tới ba giờ sáng. - Mọi ngày ông cụ tỉnh ngủ lắm, ho khẽ đã trở dậy rồi. - Có thể ngủ mệt không nghe được. - Cháu phá cửa đây. - Hãy gọi thêm lát nữa xem sao?... Tiếng gọi cất lên: - Ba ơi, ba ơi i i... Lão Ngạn rùng mình. Không phải tiếng nói của thằng Cường, đứa con trai lão chờ đợi. Giọng của một người đàn bà, như từ cõi âm vọng tới. Lão già cố mở mắt, nhìn thấy cánh tay xanh nhợt của mình vắt trên ngực. Lão cố định thần, lắng nghe tiếng gọi: - Ba ơi... Lão Ngạn thầm kêu: - Con Bích. Rồi chống tay ngồi lên, lão lê từng bước ra mở cửa. Bàn tay lão lạnh ngắt, run run đặt trên quả đấm sứ: - Tao đây. Cánh cửa bật mở. Cô con gái kêu: - Ba làm sao vậy? Thay vì trả lời con, lão Ngạn quay sang người hàng xóm: - Tôi bị tháo dạ, vì lũ cua biển hôm qua. Ông Hai hỏi: - Ông có cần thuốc không? - Không. Giờ cầm rồi. - Có cần gì thì gọi tôi. Người láng giềng quay đi. Lão Ngạn lần về giường nằm, chút nữa bật tiếng rên thất vọng: - Mình mong thằng bé. Lại hóa ra con trời đánh này. Lão đã kịp nuốt những lời đó vào họng. Kê đầu trên tấm gối sa tanh cáu ghét, lão he hé mắt nhìn đứa con gái người vợ trước. Bích đang xếp mấy hộp bánh lên bàn, lưng xây lại. Vai xuôi, lưng núng nính: Sao nó giống mụ ta đến thế?...Ba mươi tuổi đã phát phì. Hai năm rưỡi, biệt tăm tích. Hẳn có chuyện gì mới dẫn xác về đây... - Ba già rồi, ăn cua làm gì cho sinh chuyện?...Giờ ba đã đỡ chưa? - Chưa. - Con nấu cháo nhé? - Thôi. - Thế thì cụ nghỉ đi. Rồi có việc phải giúp con đấy... Bây giờ, con rửa mặt đã... Nói xong, cô con gái rút chiếc khăn bông trong làn, ra sân sau. Lão Ngạn nằm nghe tiếng trục quay cọt kẹt, tiếng gầu va vào thành giếng, và tiếng nước xối xuống thau. Bất chợt, lão bật tiếng rên: - Trời hành ta. Sao nó giống mụ ấy đến như vậy?... Một gương mặt luôn luôn đỏ rực. Cặp môi ướt dầy và cháy bỏng. Đôi mắt nhỏ đờ đẫn, người biết xem tướng thường gọi là Trư nhãn, lúc nào cũng phủ làn khói của cơn say ái ân. Phải, gương mặt ấy đã hiện ra trong ánh sáng nhập nhoạng của một rạp chiếu bóng, năm lão mười chín tuổi. Lúc ấy, lão là một chàng trai khờ khạo. Cậu ấm Ngạn, con trai thứ bảy trong đàn con chín đứa của ông thủy sư đô đốc. Kết quả của một cuộc mây mưa trong cơn say rượu, Ngạn oèo oặt từ nhỏ. Mẹ anh đã nuôi anh bằng sữa cộng với nhân sâm. Cha anh, bù lại cho con phần thiếu hụt thể lực và hình thức đã cho anh một hiệu đại lý thuốc tây từ năm anh mười tám. Năm sau, Ngạn mười chín, nhân dịp Tết Nguyên tiêu, ông lại cho anh quyền sở hữu một cửa hàng kem có hai máy. Với gia tài đó, Ngạn trở thành con mồi khiến tất cả các gia đình có con gái lớn trong thành phố thèm khát. Người ta săn đuổi anh tứ phía. Nhưng anh vẫn còn là một thiếu niên to xác: thích xem phim Tác-dăng, thích đánh tam cúc và bài tây ăn tiền với đám trẻ quanh nhà. Anh đi chơi với đám trẻ, lộc ngộc như con gà trống giữa bày gà choai, ngang nhiên gác chân lên hàng ghế chuồng gà trong rạp hát, ngang nhiên mút kem rong trên hè phố, ngang nhiên hát những bài hát tục tĩu tụi lính kèn du nhập vào phố biển...Bỗng dưng, một tối, trong rạp chiếu bóng, có ai đó áp bộ ngực nóng hổi vào lưng Ngạn. Chàng trai giật thót người, quay lại. Và anh hoàn toàn sửng sốt khi thấy trước mặt mình hiện ra một gương mặt thiếu nữ. Ngạn không nói được gì, há miệng nhìn. Cô gái cười, hai má đỏ như gấc chín. Rồi cô nói, tự nhiên: - Đổi vé cho em nhé, đầu anh cao thế em làm sao xem được?... Trong thành phố không gia đình nào dám cho con gái đi xem phim cao bồi. Vì thế, Ngạn bàng hoàng mãi như mê ngủ. Khi anh chưa đáp lời, cô gái lạ đã đặt bàn tay lên vai anh: - Nào, đi đi... Chàng trai mềm nhũn ra tức khắc, theo bàn tay cô gái điều khiển ngồi xuống chiếc ghế phía sau. Buổi xem phim ấy, Ngạn như bị ma ám. Người anh lúc nóng bừng, lúc lạnh toát tùy thuộc vào những tiếng thì thầm, những nụ cười, những cái va chạm nhẹ nhàng nhưng đầy nhục tính. Hình ảnh những anh chàng vạm vỡ, phi ngựa như gió, phóng dao và bắn súng lục thiện nghệ không còn hút hồn anh như xưa. Anh đã bị chi phối bởi một gương mặt khác...Nụ hôn đầu tiên cô ta ban phát cho anh, sau tấm phông rách lỗ chỗ và nhàu nát của một gánh hát rong, vừa cay vừa mặn vì có mùi thịt bò khô nộm đu đủ. Cô bá cổ anh, cọ bên má nóng rực vào má anh, thì thầm: - Thích không?... Rồi cô chìa cho anh một nắm lạc ngọt của người Tàu, dặn: - Mai anh mang nhiều tiền đi, chúng mình đến tiệm chú Voòng. Hôm sau, anh theo cô tới tiệm chú Voòng, một quán ăn thụt sâu trong ngõ, cái ngõ đó nằm giữa khu phố cổ mà anh ít bén mảng tới. Quán nhỏ, bốn bức tường quét vôi vàng nhờn mỡ và các vết ố, lúc nào cũng quần tụ một thứ khói hương trầm lẫn khói đèn dầu hỏa. Chủ quán lẫn những người phục vụ đều béo tốt, nhớp nhúa và hiện ra trong làn ánh sáng vàng vọt như những bóng ma. Ngạn sợ, anh bảo cô: - Tối quá. Mình tìm hiệu ăn khác ngoài phố. Cô bĩu môi: - Ngốc. Quán chú Voòng ngon nhất cảng. Anh chàng nhát nhúa ngồi im. Cô bắt đầu gọi các món ăn, không cần bảng thực đơn. Những tiếng “Dạ” kéo dài vọng giữa đám hơi nước mù mịt trong bếp. Và sau đó, người hầu bàn mặc quần áo Tàu vải thô, lần lượt bưng lên. Cô nói đúng, các món ăn ở cái tiệm kỳ quái này ngon nhất thành phố biển. Chốc lát, một tay thủy thủ già, dáng trụy lạc hoặc một gã trai da xanh mướt bước vào, lẳng lặng ném mũ xuống bàn và ngồi tựa vào bức tường dơ dáy với dáng điệu của kẻ sắp trẫm mình. - Dạ, ông dùng gì? - Tiết kẻ tử tù. - Dạ, vâng Boóc-đô. Có ngay. Và sau đó? - Cồn bóp tim. - Rượu mạnh, thưa ông, có thứ thượng hạng đấy. - Cậu dùng như mọi bữa? - Không. Súp-lơ trắng với nấm hương. Ngạn ngơ ngác, anh hỏi cô rằng tại sao người ta tìm được rau súp-lơ giữa mùa này?...Cô cười và giải thích cho chàng công tử hiểu súp-lơ trắng nghĩa là những chiếc chân vịt rút xương tẩm bột trứng rán giòn lên, hình giống những miếng súp-lơ thái mỏng. Cô còn giải thích cho anh nhiều điều nữa, tất cả mớ từ ngữ và kiến thức của các tiệm ăn đen, các quán trà đen, các ngõ tối nơi tụ hội những số kiếp oái oăm, cắc cớ nhất của cõi đời. Trong mê cung của cô, cậu ấm Ngạn không còn tìm thấy lối ra. Người thầy đầu tiên về tình ái bao giờ cũng là người nắm giữ sinh mệnh học trò đối với những tâm hồn yếu mềm, trơ trọi. Cậu ấm Ngạn vốn trơ trọi về đời sống tâm linh, cậu đã đi theo cô như một kẻ tòng phục Ngọc Bảo, tên cô. Một căn nhà gỗ ven chợ nơi trú náu của mẹ con cô. Ngạn đã tới... Tiếng chân bước của đứa con gái khiến lão giật mình. Bích cất giọng hỏi: - Sao ba không ngủ đi?... Lão Ngạn đưa mắt nhìn Bích: - Mày về đây có việc gì? Cô gái ngồi xuống ghế: - Sao ba hỏi con thế? Lão già nhắc lại bướng bỉnh: - Mày về đây có việc gì? - Thăm ba, điều đó không được hay sao? - Hai năm rưỡi trời mày không có lấy một dòng chữ, thăm nom gì. - Con bận. Có phải suốt ngày ngồi ngóng ra ngõ như ba được đâu? - Tao không ăn đến hạt cơm của mày. Ngồi hay đứng là quyền của tao. Cô con gái nhìn bố hồi lâu, hạ giọng: - Thôi, ba bỏ qua cho con. Ba khó tính khiếp lên được. - Mày cần gì tao? - Ba già quá rồi, không nên ở hiu quạnh mãi thế này. Lúc trái gió trở trời, con và em Cường làm sao biết được? - Tao đã ở một mình mười mấy năm nay. Mày không cần lo. - Mọi việc khó khăn nhờ cậy chú Hai. Nhưng ba không thể nhờ chú ấy mãi. Lão Ngạn nhỏm dậy: - Tao không cần nhờ cậy ai hết. Bích cười nhạt: - Thôi, ba nằm xuống đi. Lão Ngạn chống tay nhìn con. Nụ cười còn đọng trên cặp môi dày của cô ta. Nụ cười khinh thị và hiểm độc. Cặp môi không trộn lẫn được với bất kỳ cặp môi nào khác, với lớp da mọng như ứ máu, nét gợn nơi khóe mép, hứa hẹn no nê tình dục và ẩn giấu những lời lẽ nhọn như gai đâm. Hơn ba năm trước, mỗi nụ cười ấy kéo theo một cơn xốc của lão, những tràng ho bỏng rát lồng ngực, và lão cúi xuống, cúi xuống chiếc ống nhổ sứ trắng miệng loe đặt cuối giường...từng dòng máu đỏ vọt ra. - Mày cút khỏi đây... Lào Ngạn rít lên, trước khi nằm vật xuống giường. Bích đến gần bố nhìn hồi lâu gương mặt xám ngoét, cạn kiệt sinh khí và in rõ những nét hằn đau khổ. Cô ta hối hả chạy sang sân bên kia: - Chú Hai ơi, chú sang xem giùm. Ba cháu vừa ngất... - Chờ tôi lấy túi thuốc. Lại cãi cọ nhau phải không?...Lần nào cô về ông ấy cũng ngất. Tại sao?... ° ° ° Trời tím dần một cách mau lẹ rồi sau đó, các lớp mây tro tan vào mặt sóng. Không còn gì ngoài một vệt đen thẫm chạy vòng quanh chân mây. Phía trên vành cung đen ấy, trời lục, nhẹ như khói với dăm bảy vì sao tan vụn ra thành bụi, sau đó chúng hợp lại và chuẩn bị cho một lần tan vỡ khác. Anh nhấm nháp từng hột lạc rang cháy. Anh nhấm nháp như thế từ chiều khi nhận chân gác tàu cho anh em lên thành phố. Túi lạc đã vơi quá nửa, Cường rút cuốn sách trong ngăn kéo dưới giường ngủ. Cuốn sách nhàu nát, sực mùi dầu máy mùi mồ hôi và mùi tanh khó tả của tất thảy những con tàu. Cường lật trang 87 đánh dấu bằng mảnh nhựa mỏng anh vẫn dùng gảy ghi-ta. Chuyện kể về vụ án mà tội nhân là người da đỏ. Y đã từ bỏ xứ xở của mình, đã tìm đủ phương pháp để xóa đi màu da, dấu vết tổ tông, âm sắc của tiếng nói mẹ đẻ để rượt theo kẻ thù từ Châu Mỹ qua Châu Úc, từ Châu Úc qua Châu Âu và cuối cùng hạ thủ y trong một lâu đài đổ nát vùng Scốt-len. Cường đặt cuốn truyện lên gối, đọc tiếp. Đoạn văn miêu tả cảnh tên tội đồ trở lại vùng quê, sau khi đã đạt được mục đích cuộc trả thù: “...Trăng sáng đến nỗi y thấy lạnh. Trăng là một thứ tuyết đá tan chảy, nhuốm bụi vàng. Y lột giầy, đạp trên cỏ nháp, nghe những ngọn cỏ sắc cọ vào lớp da chân đã mỏng qua nhiều năm quen đi giày. Hồi bé, y đã lăn trong cỏ, chơi đùa như chú ngựa non. Hồi đó, Hét-tơ thường mang cho y những miếng bánh ngô tẩm mật ong ngọt sắc. Hồi đó... thôi dừng thèm nghĩ tới tuổi thơ vì những ý nghĩ ấy chỉ làm cho người đàn ông yếu lòng. Cái chính là phải sống cho tương lai... Tương lai... Y ngước nhìn những ngọn núi chọc vào bầu trời như răng cá sấu. Chưa ở nơi nào, núi có hình dáng ghê rợn như những ngọn núi quê hương. Các thớ đá bóng như sừng mà ánh trăng quét lên lượt nhũ vàng thấm trên các khe núi âm u đâm vào tim con người như lưỡi dao. Còn những con thác nhỏ óng ánh, chảy như reo. Y ngồi phệt xuống cỏ, nhìn mãi. Ngày hôm nay, ở các lữ quán dọc đường bộ hành, những người dân xứ xở này đều chối bỏ y. Họ không chấp nhận gã đàn ông để ria kiểu Anh, mặc bộ đồ như những tay bán thịt ngoại ô Luân-đôn và đi đôi giày giá một trăm năm mươi bảng. Còn y, khi trở lại núi non này, ngồi xuống cỏ, y thấy mình tan hòa vào núi, vào cỏ, vào ánh trăng, vào khí trời xứ xở. Những thành phố trong ký ức rơi lả tả như tàn tro: Nào Săng-chi- a-gô, nào Niu-ước, nào Pa-ri, nào Luân-đôn, Cai-rô, Síp... Tất thảy chỉ là các phòng trọ với khung cửa vuông, bồn rửa mặt hoặc sạch sẽ hoặc nhơ bẩn, tấm chăn dấp và chiếc giường,... Không, y vẫn chỉ là đứa con của xứ xở này. Bởi vì khi y từ bỏ màu da, y phục, tiếng nói của mẹ đẻ, chính là để cho tái cả ân huệ và tai ương của tổ tông sống lâu bền mãi mãi trong huyết quản y, trong tâm hồn sâu kín của y, và trong mối thù độc địa của y... ” Một tiếng quát thô lỗ vang lên, cắt dứt những dòng chữ: - Đồ con lợn, mày không tìm được trò gì khác hay sao mà suốt ngày ru rú như con lợn chờ xuất chuồng thế này? Cường chưa kịp trả lời, Đính đã xô anh vào sát vách. Đính ngồi xuống giường, lột đôi giày và đôi tất ném vào góc phòng. Hai bàn chân anh ta bốc mùi thối. Cường quay đi. Đính đã thấy. Anh ta cười gằn: - A, chân tao thối lắm phải không? Cường im lặng không đáp. Nhưng Đính đã túm tóc anh, quay mặt anh lại và nhìn chằm chăm vào mắt anh bằng đôi mắt vằn đỏ tia máu: - Công tử Cường không chịu được mùi chân thối. Công tử quen hít nước hoa. Thế mà dân đi biển thì chỉ bốc lên mùi tanh và mùi thối. Hơi thở Đính nồng nặc rượu. Hẳn anh ta đã uống liên miên suốt buổi chiều, cả tàu, không ai uống rượu như Đính. Anh ta có thể nốc hai ba lít rượu trong một ngày. Nếu lượng rượu đó làm người khác đứt mạch máu não thì chỉ khiến Đính đập tan chiếc cối đá, đạp bẹp dí chiếc xoong nhôm dày năm ly rồi sau đó ngủ liền hai ngày không nhúc nhích. Cường ôn tồn nói: - Anh về phòng ngủ đi. Đính trừng mắt: - Mày đuổi tao về, phải không? Cường lắc đầu: - Anh mệt rồi. Anh đi ngủ cho dễ chịu. - Tao không muốn ngủ, tao ngồi đây dễ chịu hơn. - Vậy thì tùy anh. Cường đáp, cầm cuốn truyện định đọc tiếp. Nhưng Đính giật cuốn sách trên tay anh: - Mày không thèm nói chuyện. Mày khinh tao phải không, thằng nhãi? - Nhưng tôi biết nói chuyện gì với anh bây giờ? Anh say rồi. - Tao mà say à?... Này, bố bảo cho con biết, ba mươi năm nữa bố cũng chưa say. - Anh Đính. Cường gần như van vỉ: - Tốt nhất là anh nên đi ngủ, cho dịu thần kinh. Anh uống nhiều hơn cả lần trước đấy. Đính không nghe Cường nói. Mắt anh ta đỏ vằn. Những đường gân xanh tím bằng chiếc đũa nổi lên trên cần cổ vạm vỡ: - Thằng nhãi... Tôi biết nói chuyện gì với anh bây giờ?...Mày khinh tao. Mày khinh tao từ lâu rồi...đừng hòng che dấu điều đó. Bàn tay cứng như thép của anh ta bóp chặt cổ Cường lắc như lắc chai rượu: - Mày là thá gì mà dám khinh tao?... Lẽ ra, tao phải bóp cổ mày như bóp một con nhái mà quảng xuống biển. Cái điệu bộ của mày chỉ đáng làm thằng thợ may suốt ngày kéo thước dây đo đùi đo đít lũ đàn bà. Cái mớ chữ nghĩa trong đầu mày đem mà bán lấy vài đồng xu rỉ. Đối với dân đi biển, mớ chữ nghĩa ấy không đáng là mớ giẻ cọ sàn tàu. Nước bọt của Đính phun ra bắn vào mặt Cường. Anh không dám đưa lay lau. Cử chỉ đó sẽ kích động Đính và khiến gã đánh đập anh tàn nhẫn hơn. Con người này, khi đã lên cơn hung bạo, không gì kiềm chê nổi. Vả lại, tay gã xiết chặt cổ anh như hai gọng kìm. Chàng trai nhắm mắt, anh không dám nhìn lâu bộ mặt đỏ rực của Đính, với hai nhãn cầu lồi lên như mắt cá vàng chạy ngoằn ngoèo những tia máu. Đính thở hào hển, những tràng chửi rủa tuôn xối xả: - Bao lâu nay, chúng tao đã chịu dựng mày như chịu chở theo tàu một cái xác thối, cả mày, cả những bãi nôn vàng ệnh của mày, bộ mặt tái xanh tái tử của mày... Tất cả đều làm ngứa mắt tao. Biển không cần thứ mèo ốm mặc áo thủy thủ. Biển chỉ cần những thằng đi biển thật như tao. Mày hiểu chưa? Thằng thối thây...loài ăn bám. Hết tràng chửi rủa, chừng đã hả cơn tức, Đính buông Cường ra. Anh ta nhếch môi cười, bọt sùi trắng xóa. Một dòng nước bọt chảy từ mép Đính xuống cằm. Anh ta đưa tay chùi, đoạn quẹt bàn tay dây đầy nước rãi vào môi Cường. Cường định giơ tay đẩy Đính ra, nhưng kinh nghiệm của những lần trước khiến anh phải buông thõng cánh tay xuống. Chàng trai ngồi im, cố chịu đựng cơn say của Đính, vẻ cam chịu của anh khiến gã dịu đi. Gã nhổ bọt phì phì, tỏ vẻ khinh miệt. Rồi, móc túi lấy một nắm tiền, gã ném vào mặt Cường: - Cầm lấy, vào phố mua rượu cho tao. Nửa tiếng nữa chưa mang rượu về tao sẽ cho mày nếm bã trầu. Cường nghĩ: Đây là dịp tốt nhất để mình thoát khỏi hắn. Anh cầm tiền, xách chiếc vỏ chai, lên cầu tầu. Đính co chân đạp gối và cuốn sách của chàng trai xuống sàn, nằm vật ra. Phút đó, gã còn ném theo chàng trai một cái nhìn thù ghét, cay độc. Cường leo qua cầu tàu, xuống bến. Anh đi về phía khu nhà bảo vệ cảng, múc nước trong phuy, rửa mặt. Ông già gác cảng hỏi vọng ra: -Ai thế? - Cháu, Cường đây. Cháu xin ít nước rửa mặt. - Sao không vào bể trong này, nước ấm hơn. Tiếng ông già khàn như bị viêm phế quản. Thanh âm vọng trong không gian yên tĩnh. Nước ấm hơn... Cường bỗng trào nước mắt. Anh vốc nước rửa mãi vết nước rãi nhơ nhớp của gã say trên môi, rửa cả những dòng nước mắt nóng hổi tràn xuống hai má... Lúc ấy, trên khoảng xi- măng trống vắng, có một người đàn ông bước tới. Anh ta cao lớn, vóc dáng chắc chắn với những bước đi sải dài, đều đặn. Người đàn ông dừng lại trước khu nhà bảo vệ một lát, chăm chú nhìn và nhận ra Cường. Anh bước tới sau lưng chàng trai: - Cường. Chàng trai sực tỉnh, ngẩng đầu lên. Anh nhận ra thợ máy trưởng Bá. Bá ngạc nhiên hỏi: - Sao cậu xuống đây? - Anh Đính đang ở trên tàu. Anh ấy bắt em đi mua rượu. - Lại thằng Đính. Nó có gây sự với cậu không? - Không. Cường đáp. Nhưng chính anh và Bá đều hiểu rằng đó là một câu nói dối. Hai người im lặng. Rồi Cường nuốt nước bọt, hạ giọng: - Chuyện ấy...anh đừng để tâm. Anh ta cũng có lý. -Lý gì? - Vì…vì em là kẻ vô dụng. Còn Đính, dù có bao nhiêu thói xấu vẫn là một thủy thủ giỏi. Tầu cần anh ta. Bá dằn giọng: - Cậu thật lạ lùng... Tôi không hiểu... Anh bỏ lên tàu. Bóng anh lướt qua khoảng không màu lục treo lơ lửng giửa trời với cây cầu tàu lắt lẻo. Cường ngồi xuống kè. Đá thấm hơi sương làm ẩm lớp vải quần. Chàng trai khẽ rùng mình vì lạnh. Anh khoanh hai tay, dựng cổ sơ mi lên. Lúc đó, một câu hỏi quen thuộc lại lởn vởn trong tâm trí: - Tại sao?... Tại sao gã đàn ông tàn bạo ấy thù hằn anh? Tại sao anh phải cam chịu sự hà hiếp trơ tráo của gã? Tại sao mọi cố gắng hòa dịu của anh và thiện chí của những người xung quanh hoàn toàn vô nghĩa. Càng ngày, mối thù độc địa của Đính với anh càng cay nồng và luôn luôn, trong đôi mắt vằn máu của gã, hiện lên ước muốn điên cuồng và âm hiểm của kẻ sát nhân... Bất giác, chàng trai đưa hai tay ôm đầu. Anh nhớ lại buổi chiều hôm ấy, một chiều hè ấm nóng cách đây đã ngót năm năm. Tàu cũng neo tại bến này. Lúc đó khu nhà bảo vệ chưa xây lại, chỉ là một gian nhỏ lợp ngói xi măng đen sỉn. Hàng đã dỡ xong, chờ ăn hàng mới. Đám thủy thủ tụ họp trên boong vì buổi tối có cuộc tổng kết các chuyến đi trong ba tháng qua. Họ vẫn còn thèm xuống phố chơi, nên ai nấy nhấp nhỏm mong tàu trưởng từ tổng công ty tàu biển trở về. Vài anh sắm sửa đồ đạc, là quần áo. Vài anh ăn mặc tươm tất, đứng hóng gió. Còn tất cả xúm quanh Tuấn hói, danh ca của đám thủy thủ cảng. Tuấn hói ngoại bốn mươi, to béo, bụng bắt đầu phệ, tóc chỉ còn một vành đai bao từ hai tai tới gáy. Anh ta khỏe hơn bất cứ người đàn ông nào cùng lứa tuổi. Trí nhớ tốt, thuộc bài hát, có giọng hát nghiệp dư nhưng cũng khá điêu luyện, sổ tay anh ta có ảnh các ca sĩ nổi tiếng trong và ngoài nước. Ngoài ảnh của các ca sĩ là ảnh đàn ông khỏa thân. Tuấn hói có cái thú kỳ lạ là sưu tập ảnh đàn ông khỏa thân. Tới thành phố nào anh ta cũng lùng sục, mua bằng được. Trong va ly quần áo của anh ta có tới sáu cuốn sổ ngoại, hàng tư bản đờ-luých, cực kỳ đắt tiền và đẹp. Sáu cuốn sổ đầy ắp ảnh ca sĩ và đàn ông khỏa thân, vừa màu, vừa đen trắng. Anh ta buôn giỏi và có kha khá tiền vì ngoài thú chơi ảnh và gảy đàn, anh ta không ham mê gì khác. Hình như Tuấn hói đã có vợ con ở nhà quê, quê anh ta ở một làng xa tít mù khơi tỉnh Thanh, nhưng Tuấn mập mờ lảng tránh mỗi bận đụng chạm tới điều đó nên cũng không ai rõ thực hư. Nói chung, Tuấn hói là một người đàn ông dễ chịu, ngoại trừ thói ăn cắp vặt. Anh ta không thể từ bỏ thói quen đó. Cứ trông thấy vật gì đó khả dĩ, dù chiếc bật lửa, chiếc đồng hồ đeo tay, cuốn an- bom xinh xẻo, thậm chí hộp kẹo cao su của ai hớ hênh, Tuấn hói phải lấy cho kỳ được. Anh ta không thiếu nhưng thích lấy của người khác. Thế thôi. Đó là một căn bệnh, và đám thủy thủ, vì cuộc đời lênh đênh sóng nước cần tới sự liên kết giữa các cá nhân và vì đều giàu có coi rẻ đồng tiền, đã bỏ qua thói xấu của chàng danh ca. Vả chăng, Tuấn hói cũng là một tay võ nghệ cao cường. Anh la ít tham gia các cuộc đánh lộn, nhưng những kẻ hiểu biết đoán chắc rằng anh ta là một cao thủ trong làng võ Thiếu Lâm. Chiều đó, Tuấn hói ngồi trên chiếc ghế vải bố, gảy ghi-ta và hát. Giọng mượt, có đôi phần trau chuốt: Biển hiền hòa muôn cánh buồm xa xa Lòng ta như muốn hát ngàn câu ca... Càng yên tĩnh, tiếng hát vang động bầu không gian êm ả, hòa nhập với tiếng nước vỗ dào dạt quanh tàu. Đám thủy thủ lắng nghe, người ru lắc nhè nhẹ trong cơn chao lắc của con tàu và nỗi buồn muôn thủa của kiếp sống trên sóng nước. Lấn trong tiếng ca diệu vợi, là tiếng còi tàu nào đó ngoài khơi, chắc hẳn ở phao số 0 vọng tới. Tiếng còi kéo là là như một giải khói bay trên mặt biển, nhắc nhở tới những chân trời, đại dương xanh hoang vu, những nỗi âu lo và tình yêu cách trở. Các chàng trai trẻ mơ màng mãi khi bài ca đã kết thúc. Tuấn hói bỗng thả cây đàn xuống sàn tàu, vươn vai: - Cậu nào cho tớ một chai bia lạnh. - Nhưng anh phải hát nữa cơ... Một chàng thủy thủ nài: - Rồi em sẽ đãi anh ba chai bia hẳn hoi. Có cả xúc xích Hà Lan nữa. Tuấn hói cười: - Được rồi, nhưng hãy mang bia ra đây trước. Phía sau, Đính đang ngồi trên đống xích bỗng cất tiếng: - Hôm nay ông hát hay đấy. Nhưng không phải vì giọng hát mà là vì bài hát. Bài này của thằng cha nhạc sĩ Liên Xô. Chính nó làm bài “Chiều Mát-xcơ-va” nữa đấy. Tuấn hói nhìn chằm chằm vào mặt Đính. Rồi đôi mắt nhỏ như chuột nhắt của anh ta bỗng tóe lên những tia lửa giễu cợt, nhạo báng. Anh ta phá lên cười, cười sằng sặc. Rồi, khi chàng thủy thủ trẻ đưa chai bia ra, Tuấn vừa cầm chai bia vừa gặng hỏi Đính: - Thế nào, ông nói lại tôi nghe. Nhạc sĩ Liên Xô phải không? Mà lại sáng tác cả bài “Chiều Mát-xcơ-va” nữa chứ? Mặt Đính đỏ rực lên. Cả cổ và hai bắp tay anh ta cũng đỏ. Các đường gân bắt đầu nổi quanh cổ. Anh ta trừng mắt: - Đúng. Chính tai tôi nghe đài Tiếng nói Mát-xcơ-va... Hai mắt Đính đỏ vằn lên, nhưng trong giọng nói gay cấn đã biểu hiện rõ sự thua cuộc. Anh ta vùng đứng dậy, hoa tay: - Thằng em tôi làm phiên dịch trên Bộ ngoại giao cũng nghe nhé. Nó bảo thằng cha nhạc sĩ này đã biểu diễn cả một chương trình tại nhà hát Ban-xôi... Càng nói, Đính càng thua một cách thảm hại. Trong khi đó Tuấn hói đã tu nửa chai bia, nửa chai còn lại cầm trong tay, mắt chăm chú nhìn Đính với ánh mắt của một con mèo nhìn con chuột ngọ nguậy trong nanh vuốt của mình. Đám thủy thủ im lặng. Họ lo ngại trước bầu không khí nhiều độc tố. Tuấn hói vẫn cười cợt, chờ Đính nói xong. Và anh ta hỏi: - Thế cái Ban-xôi ấy là gì vậy? - Nhà hát lớn. Đính hét lên, cảm nhận rõ rệt Tuấn đang chòng ghẹo mình. Tuấn hói bảo: - Thế mà tôi không biết đấy. Tôi đã bao giờ đặt chân lên đất Mát xcơ-va đâu... Còn cái thằng cha nhạc sĩ ấy tên gì hả ông? - Tên là...tên là... Tới đấy, Đính tắc họng, mặt anh ta từ màu đỏ chuyển sang tím ngắt. Bỗng dưng, anh ta hét lén: - Tên là...dài bỏ mẹ đi. Đ...ai mà nhớ được. Tuấn hói ngọt ngào nói tiếp: - Thế hả?...Nhưng dù tên dài hay ngắn thì ông ta cũng sinh ra trên đất Ý. - Sao lại thế được? Đính tròn mắt hỏi: - Người Nga chính cống cơ mà?. Tuấn hói mỉm cười, nói rẽ rọt: - Bởi vì bản Sê-rê-nát ấy là của một nhạc sĩ khác. Rồi, quay sang Cường, Tuấn bảo: - Mày hãy đọc cho ông Đính nghe tên tác giả bản nhạc ấy. Tao đãng trí, quên rồi. Cường ngần ngại, nhưng rồi cảm thấy không thể im lặng được, anh đáp: - Nếu em không nhầm, đó là Tô-ri-xen-li. Tuấn hói, một lần nữa ném vào mặt Đính cái nhìn cao ngạo của kẻ thắng trận, và lại ôm cây ghi-ta lên. Còn Đính, toàn thân tím ngắt như kẻ trúng phong, trừng trừng nhìn Cường. Tuấn hói là một đối thủ khá mạnh, còn thằng nhãi ranh mọt chữ kia chỉ là thứ gà què bất cứ lúc nào hắn cũng có thể vặt trụi lông đuôi lông cánh, Đính khạc nước bọt xuống sàn tàu, dằn giọng: - Vứt mẹ nó thằng Tô-ri-xen-li của mày cho chó gặm. Đồ mọt chữ... Đoạn, gã đút tay vào túi quần như một thằng cà lơ mười sáu tuổi, khệnh khạng bước lên cầu tàu... Phải, chính từ chiều hôm ấy, tai họa đã giáng xuống đầu anh. Chàng trai lùa tay vò mái tóc. Anh biết mình không có lỗi, hoàn toàn không có lỗi. Nhưng số phận oan nghiệt xô đẩy anh. Anh phải chấp nhận nó, như người chơi tam cúc phải chấp nhận cỗ bài được chia dù chỉ cọc cạch vài quân tốt với những pháo lẻ và xe thiếu cặp. Trên tàu, Bá cất tiếng gọi vọng xuống: - Cường, lên đây. Cường đứng lên. Anh bỗng thấy đôi vai như còng xuống vì mang vật nặng. Cây cầu tàu treo lơ lửng giữa khoảng trời lục huyền ảo. Nó chênh vênh. Giống như sợi dây treo không bảo hiểm của người làm xiếc. Chàng trai rùng mình, thấy trong bầu không gian bao la sóng, trong cơn say mê mệt của những con tàu nơi vụng nước, trong mùi tanh mặn muôn thuở của biển nỗi hiểm nguy mà anh không dò biết được. ° ° ° - Ba ơi, tới nơi rồi. Bích vỗ nhẹ lên vai lão Ngạn khi chiếc ô tô lượn vào bến. Lão Ngạn choàng mắt hơi choáng váng. Vài giây sau, lão định thần, nhận được khung cảnh bến xe ngoại vi thành phố, người ta thường gọi là bến phụ cách cảng ngót nghét hai chục cây số. Cuối cùng, lão đã chấp nhận gửi nhà cho ông Hai để đi theo Bích, đứa con gái lão không mảy may yêu quý. Tất nhiên, với dụng tâm lão không nói cho ai biết là nhân cơ hội này lão sẽ tới cảng thăm Cường. - Xuống xe đi ba. Cô con gái nói. Xe đã đỗ lại hẳn, sau khi tuôn ra làn khói hôi xì làm hành khách nhức dầu. Lão già xuống xe, đưa mắt nhìn khung cảnh cái bến xe đã lâu không tới. Không có gì thay đổi ở nơi đây. Vẫn các quán cơm chạy thành hai dãy ven đường, treo các tấm biển xiên lệch: Cơm bình dân, xin kính mời. Có cơm. Thịt cày bảy món. Những dòng chữ nhố nhăng, không theo kiểu gì, sơn quét sặc sỡ với các hình vẽ minh họa vụng dại như bất kỳ thứ nghệ thuật quảng cáo ba xu nào ở các tỉnh lẻ ven đường. Phía trước bến xe vẫn còn tấm biển trắng loang lổ hình ngọn lửa, tín hiệu cho trạm bơm xăng ngày xưa. Lão Ngạn thấy hai thái dương nhức, lão tìm chỗ vắng. Cô con gái chạy đi tìm người đàn ông mà cô đã giới thiệu với lão: “Rồi ba sẽ thích bạn trai của con. Anh ấy tên là Trọng, hiền ơi là hiền”. Chỉ lát sau, Bích quay lại, dắt theo một người đàn ông vạm vỡ, cao tới gần một thước tám, da đen, tóc đen. Anh ta bận đồ bộ cỏ úa, như nhiều sĩ quan chuyển ngành. Một gương mặt dầu dãi nhưng thành thực: - Cháu chào bác ạ. Người đàn ông đưa cả hai tay nắm tay lão, vồn vã chào, và ánh mắt thân thiện của anh tố cáo niềm si mê anh đã giành cho Bích. - Vâng chào anh. Lão già đáp, thầm so sánh hình vóc người đàn ông với tên Ân Kiều bán vải, nhân tình của mụ vợ trước: To gần như nhau, da đen gần như nhau, nhưng thằng này hiền hơn... Lòng lão dấy lên mối thương hại. Người đàn ông đỡ chiếc túi quần áo trong tay lão: - Bác đi đường có mệt không ạ? - Cảm ơn anh, cũng thường thường. - Cháu sẽ đưa bác về nhà ngay. Đoạn, quay sang Bích: - Đưa ba về nhà rồi anh sẽ quay lại đón em. Giọng yêu chiều của người chồng tận tụy. Lão già ngồi lên xe, nhắm mắt lại: - Con quỷ cái, nó cũng ghê gớm như mẹ nó ngày xưa. Lão không nghe tiếng Trọng nhắc nhở: - Đường xóc lắm, bác ngồi cho vững nhé... Non nửa giờ sau, Trọng đã đưa lão Ngạn tới nhà. Đó là một biệt thự nhỏ, nếu có thể gọi như thế, một ngôi nhà hai tầng xinh xắn như tổ chim cu với những khuôn cửa sổ nhỏ sơn màu ghi và cẩm thạch, lắp kinh mờ, với những bồn hoa nhỏ trồng thứ hoa giấy hai màu với những mảng vôi còn thơm nồng mùi nắng. Nơi trú náu thần tiên cho một cặp uyên ương - lão già thầm nghĩ - nhưng khốn thay cho mày, hỡi gã đàn ông khờ khạo kia, nó cũng sẽ là nấm mộ táng. Lão lại nhớ tới căn nhà rộng rênh, sang trọng của mình ngày xưa, giờ chỉ còn là những vụn gạch vùi dưới một cửa hàng bán sơn, vôi ve, kính vụn khả ố trong thành phố. Trọng dìu lão Ngạn ngồi vào sa-lông, pha trà như một chủ nhân hiếu khách rồi mới quay xe đón Bích. Lão Ngạn ngồi nhấm nháp chén trà đen, thứ trà trồng trên cao nguyên Blao. Từ khuôn cửa sổ phòng khách, một khóm nhài tỏa mùi hương đĩ thõa, lẫn mùi sơn cửa hăng hăng vì chưa kịp khô dầu. Ước chừng non nửa giờ sau, cô con gái trở về thay quần áo rồi nhanh chóng bước ra phòng khách: - Ba chờ con có lâu không hả ba? Bích hỏi, không chờ ông bố trả lời đã quay sang bảo người yêu: - Cho em cốc nước chanh, ít đường thôi nhé. Lão già khinh khỉnh nhìn cô con gái, không nói gì. Bích ngửa cổ về phía sau, kêu: - Ôi chao, mệt quá. Giọng nói nhỏ, lời nọ dính vào tiếng kia, nhưng lại kéo dài sau mỗi âm tiết... Khốn nạn, đến cả giọng nói nó cũng giống mụ ấy. Thế mà mụ ấy đã bỏ nó không thương tiếc chạy theo trai. Còn mình, cho tới lúc già lọm khọm này vẫn chưa thoát nợ. Trọng đã quay ra với cốc nước quả. Anh ta đặt cốc nước xuống bàn, đoạn đưa mắt âu yếm nhìn Bích. Trái tai anh đỏ hồng lên. Trọng mặc may ô, ngực và cổ nổi cuồn cuộn những thớ thịt màu đồng hun, như được đẽo ra từ loài gỗ tứ thiết. Hai bả vai và cánh tay cũng thế, giống như vai và tay của chàng bốc-xơ chính hiệu. “Mặt mũi vậy, thân xác vậy, kiếm đâu chẳng được một đứa con gái ngon lành. Sao nó lại dính vào quỷ cái này cơ chứ... Nhưng mà, chính mình, chính mình ngày xưa cũng bị con mẹ nó trói bằng cái lưới của bà Nữ Oa. Không sao tính xuể sự mù lòa của kiếp người...” Lão bỗng thấy thương Trọng, lần này không chỉ là sự thương hại mà là mối đồng cảm. Rồi lão sực nhớ tới Nghĩa, chàng rể lão đang ở với đứa con gái sáu tuổi trong thành phố. Nghĩa hơn Bích mười sáu tuổi, gương mặt đẹp nhưng dáng người thanh mảnh yếu ớt. Anh ta mắc chứng đau gan. Năm họ cưới nhau, Nghĩa là phó ty thương nghiệp còn Bích mới tham gia hoạt động không lương ở khối phố. Anh chồng tuyển dụng cô vợ trẻ vào làm nhân viên mậu dịch. Đã mười một năm qua, giờ đây Nghĩa được cử làm trưởng ty, có chân trong thường vụ tỉnh, còn Bích đã là cửa hàng trưởng cửa hàng bách hóa lớn nhất thành phố. Nghĩa là một anh chồng lý tưởng, theo cách đánh giá của mọi người. Ngoại trừ việc săm sắn, lo tạo đủ điều kiện cho vợ leo lên bậc thang danh vọng, anh ta còn chú ý săn sóc vợ con đến từng chi tiết. Từ đôi dép kiểu mới, từ tấm áo ngủ, lọ nước hoa đến mảnh vải trải giường. Anh ta yêu đứa con gái một cách đặc biệt, si mê và thờ phụng. Con bé có cặp mắt nai, khác hẳn mẹ, vẻ đẹp của nó trong trắng. Nghĩa thường nói với mọi người rằng đứa bé rất giống bà nội. Mẹ Nghĩa chết từ năm anh còn ở chiến khu Việt Bắc. Chắc hẳn, xưa kia anh đã từng yêu mẹ với tình yêu tôn giáo. Khi bà đã xa, tình yêu ấy được ký thác vào đứa nhỏ. Người ta chứng kiến nhiều lần Nghĩa ngồi ngắm đứa bé ngủ đam mê hơn tất cả những họa sĩ nhìn ngắm tác phẩm của mình. Bích uống hết cốc nước, cất tiếng hỏi đột ngột khiến lão giật thót: - Ba đỡ mệt chưa? Tim lão Ngạn đập thình thình. Thay vì trả lời con gái, lão cau có hỏi: - Mày đưa tao đến đây làm gì? - Ba ơi... Cô con gái nài nỉ: - Rồi chuyện đâu có đó. Ba đừng làm con mất mặt với người ta. Anh ấy lên đây bây giờ. Quả thực, Trọng đã bưng mâm cơm lên, tươi cười: - Mời cả nhà xơi cơm. Hôm nay, bác thử kiểm tra tài nấu ăn của cháu xem sao. ° ° ° Cái ngày anh chàng Ngạn tuyên bố thành hôn với cô Ngọc Bảo, con bà buôn ngũ cốc ở Chợ Chính, cả nhà rầu rĩ như có tang. Bà mẹ nhỏ như chim sẻ, nhưng chẳng mấy tinh ranh khóc sưng mắt, một điều rằng sẽ nhảy xuống sông, hai điều rằng sẽ đâm đầu vào đường ray chết nếu con trai dại dột như thế. Các bà cô, bà thím, các ông chú, ông bác từ dưới quê lên, các ông anh làm đốc học, làm thẩm phán từ trong Nam ra, từ mạn ngược xuống đều răn đe, dọa nạt Ngạn. Bà nội anh, tám mươi tư nhưng mắt chưa đeo kính, có giọng nói trong trẻo, im lặng. Một tối, bà gọi Ngạn tới, dỗ sẽ sàng: - Con ơi, nghĩ lại đi. Trời sinh ra cho con người đủ thứ, có may lại có rủi, có nhân duyên lại có duyên nghiệt. Mày lấy nó, sợi dây oan nghiệt quấn quanh cổ không gỡ được ra. Ngạn cúi đầu, lắp bắp: - Thưa bà, cô ấy... Bà lão nhìn hồi lâu vào đôi mắt bạc nhược của đứa cháu trai, rồi lắc đầu. Bà cụ không nói thêm lời nào nữa. Ngạn lẩn tránh các cuộc gặp gỡ với mọi người thân. Suốt ngày anh lang thang trong thành phố với cô Ngọc Bảo. Da thịt cô ấm nồng, các trò vui, các quán rượu, các màn kịch hay các bộ phim cô đưa anh đi xem đều hấp dẫn hơn mọi lời khuyên nhủ của gia đình. Hai người thường xuyên hú hí với nhau trong ngôi nhà gỗ vá víu của Bảo ở gần kề chợ Chính. Ở đó, mùi bụi cám, bụi ngô bám vào các bức vách gỗ, vào chăn màn, vào quần áo. Cái bến nhỏ phía sau nhầy nhụa thức ăn thừa và thỉnh thoảng những con chuột ngày to bằng bắp chuối non đủng đỉnh bò trong cống ra ngó nghiêng nhìn mọi vật. Cái nhà tắm che tạm bợ bằng mấy tấm gỗ thùng sữa hiệu Tổ chim. Bảo tắm trong đó hở từng mảng da thịt trắng phốp, chẳng những Ngạn ngồi trong nhà mà cả khách qua đường cũng nhìn rõ mồn một. Bên nhà hàng xóm tiếng những đám người đánh bạc chửi bới, cãi cọ cả ngày lẫn đêm vẳng sang. Đôi khi tiếng rú man rợ của một gã thua bạc hoặc tiếng dao chém, tiếng đấm đá vật lộn kéo đám người bốn xung quanh bu lại, hệt như một đàn kiến cụng râu quanh giọt mật rơi. Không khí nồng mùi xào nấu, mùi cống rãnh, mùi thối rữa của các đống lá rau già, bắp cải thối, ruột lợn, ruột cá... Tất cả, kích thích một tâm hồn nhạy cảm nhưng bạc nhược và thiếu từng trải. Ban ngày, mẹ Bảo đi chợ. Chiều về, rũ bộ quần áo trắng xóa bụi ngũ cốc, bà bận một bộ đồ lụa, sức thứ nước hoa mua ở quán tạp hóa trong chợ, gài một chiếc trâm có gắn mặt đá giả lên búi tóc. Bà gọi Ngạn: - Chàng công tử, chẳng mấy khi rồng hạ cố xuống nhà tôm, xin mời nâng với chúng tôi ly rượu đắng. Trong lúc nói, mắt bà đã khám xét chiếc giường, và ghi nhận dấu vết cuộc mây mưa của cô con gái với chàng công tử con ông thủy sư đô đốc, vẻ đắc thắng. Hai mẹ con bà chuốc rượu cho chàng công tử say khướt, rồi khiêng chàng vào giường. Cứ như thế, ngày nọ nối tiếp ngày kia. Tới một ngày, bà không vực Ngạn vào giường mà khiêng thẳng ra chiếc xích-lô, kéo tới nhà ông thủy sư đô đốc. Bà biết chắc chắn dịp đó, ông chủ từ hải cảng trở về. Tàu của ông, có ba lá cờ đuôi nheo vẫy gió vừa cập bến. Trước sự náo loạn của gia đình, ông thủy sư cất tiếng cười hảo hớn mà rằng: - Không một ai được khóc, không một ai được bàn tán. Cho cậu Ngạn làm lễ cưới ngay. Nó thích nếm quả đắng cho ăn hẳn mật cá mè. Khi nó tỉnh ra khắc tính lại. Đời thằng con trai cưới năm bảy lượt cũng là lẽ thường... Đám cưới được cử hành ngay, sau lời tuyên bố của ông thủy sư đô đốc bốn mươi tám giờ. Cô Ngọc Bảo từ giã căn nhà gỗ ngột ngạt bụi cám mặc áo gấm vàng, đội khăn vành dây kiểu hoàng hậu Nam Phương, đi hài gấm lên chiếc Xi-tờ-rô-oen trở về nhà chồng. Ngày hôm sau cô nghiễm nhiên thành bà chủ đại lý thuốc tây Thủy Tiên, và hãng kem sữa gói. Sáng sáng, cô cùng chồng đi ăn điểm tâm bằng xe riêng của nhà rồi trở về đại lý, ngồi sau chiếc bàn bầu dục dài một thước tám, rộng một thước hai, sai phái người ăn kẻ ở. Cô bắt đầu ăn nói nhẹ nhàng thưa dạ, bắt đầu học thói cảnh vẻ của các cô gái trâm anh thế phiệt, đi lại một cách từ tốn và may sắm một tá quần áo mới cho tương xứng với địa vị mới của mình. Lúc đầu, Ngạn thấy ngộ nghĩnh. Sau anh chàng đâm hoảng sợ vì những thay đổi đột ngột của cô con gái bà buôn ngũ cốc. Trước kia, mỗi lần đói, Ngọc Bảo thường làm một chảo cơm rang, hoặc bánh đa thái chỉ, rồi cô đổ tất tật những thứ thức ăn thừa bữa trước vào thành món hẩu lốn, sau đó rút hai cái thìa nhôm ngắn cán, cô chìa cho Ngạn một chiếc, một chiếc cho mình, không ra một hiệu lệnh nào khác ngoài cái hất hàm ra hiệu: Ăn. Cô vục thìa vào chảo, cắm cúi xúc ăn, vừa há miệng hà hơi cho bớt nóng. Giờ, cô bắt chồng ngồi vào bàn rải khăn trắng lên đầu gối, rung chuông chờ chị bếp bưng mâm cơm lên mới thong thả so đũa. Trước, cô thì thầm rót vào tai công tử Ngạn những chuyện ái tình tục tĩu, những chuyện tiếu lâm dọc cầu chợ, máy nước, những chuyện vô luân bại lý mà đám dân kẻ chợ góp nhặt từ khắp các ngả đường, khắp các quán trọ mang về. Và khi chàng thiếu niên đỏ mặt tía tai vì xấu hổ, vì bị kích thích bởi ham muốn của thân xác thì cô dẫn chàng đi vào hang động lạc thú một cạch hờ hững và bí ẩn như thầy phủ thủy làm phép ếm hồn ma. Giờ, bất cứ ai đùa cợt hoặc nhắc tới chuyện lứa đôi, cô cau mày nghiêm mặt bỏ đi tức khắc. Và những quan khách bẽ bàng trước một bà chủ quá đoan chính, không còn cách nào hơn là cắp mũ lễ phép cúi chào... Gia đình Ngạn cũng ngạc nhiên không kém gì anh. Bà mẹ chồng bán tín bán nghi nhiều lần tới tận nơi xem xét. Bà cho là cung phúc đức của họ nội, họ ngoại quá tốt nên đã cải hoán được cô con dâu. Nhân dịp cô sinh cháu gái đầu lòng, bà đã tới tận nơi đặt tên cháu là Ngọc Bích và thửa cho cháu một cặp khánh vàng lẫn chiếc vòng ngọc bích đắt tiền nhất thành phố. Chỉ riêng ông thủy sư đô đốc là không tin phép màu nhiệm đó. Ngồi ngả lưng vào chiếc ghế bành lớn bọc nhung, ông đang cặp chân khỏe như chân ngựa trên tấm thảm Ba-Tư, và cất tiếng cười ha hả: - Quạ là quạ mà công vẫn là công. Có nhổ hết lớp lông này nó cũng sẽ mọc lớp lông khác. Rồi đấy mà xem... Nhưng thôi, cũng là dịp để thằng bé trưởng thành. Đối với một người đàn ông, không có trường học nào tốt hơn là những kinh nghiệm rút ra từ chính cuộc sống chung với cô vợ của họ... Bà vợ ông nghe tới đó mặt đỏ như vông vang. Và ông, lại tiếp tục cười ha hả mà rằng: - Như bà chẳng hạn. Bà đã dạy cho tôi biết rằng người vợ là một thiên thần bé nhỏ...và ngốc nghếch. Vợ ông im lặng, mặt lại càng đỏ hơn. Ông thủy sư thôi cười, và tiếp: - Nhưng bà yên tâm, tôi thừa sức cưới cho thằng bé ba lần vợ nữa. Chỉ có điều, tôi sẽ khuyên nhủ nó đôi câu. Nó khờ khạo quá, dễ tin người quá. Một thứ công tử bọc nhung. Cứ thế này, tới lúc nào đó gặp cơn nguy biến, người ta sẽ lột da nó ra. Để lần sau, tôi gọi thằng bé xuống tàu trò chuyện. Chuyến đi này có lẽ cũng đến vài tháng... Chuyến đi ấy ông không trở về. Ông đã trúng phong chết ngay trên tàu, khi neo chờ ăn hàng mới ở cảng Tu- lông. Ông không kịp khuyên nhủ đứa con trai khờ khạo. Ngạn, đã sang tên cửa hiệu kem Đại Dương lẫn đại lý tân dược Thủy Tiên cho vợ, chiều theo mọi gợi ý cô đưa ra trong hơi ấm của những ái ân. Đám ma ông thủy sư đô đốc vừa xong, nhang khói nghi ngút trên bàn thờ, sáng hôm sau, ông chủ Ngạn lững thững sang nhà mẹ liền bị vợ gọi giật lại. - Anh ở nhà. Ngạn hỏi: - Sao cơ? Ngọc Bảo đáp: - Từ nay anh ở nhà làm kế toán. Tôi cho ông Hạnh thôi việc rồi. Chàng công tử lắc đầu: - Thôi, tôi ngại lắm. Bà chủ cười nhạt, giọng lạnh tanh: - Chơi quen rồi. Nhưng thời buổi làm ăn khó khăn muốn giữ được đại lý phải bớt đi một xuất lương. Đám ma ông cụ tốn kém thế, mình cũng phải góp một phần, anh không biết hay sao? Ngạn cáu: - Từ xưa tôi đã ghét tính toán. Tôi không làm sổ sách bao giờ. Ngọc Bảo đáp: - Xưa chưa làm, nay phải làm. Từ giờ trở đi, không còn ông bố nào nữa để chìa tay xin tiền đâu. Ngạn đáp: - Còn hai cửa hiệu đấy. Chúng mình vẫn sống cơ mà. Bà chủ nói: - Cả hai cửa hiệu đều là của tôi. Tên tôi ghi trên môn bài. Công tử Ngạn đứng chưng hửng giữa khoảng trống trong phòng khách giữa những Sa-lông bọc gấm sang trọng, những tủ kính sáng choang và những chùm đèn lồng giả óng ánh. Chàng chưa tin nổi những điều vừa nghe. Đầu óc mung lung, chàng đặt ra mọi hồ nghi, mọi giả định. Vợ chàng, đứng phía sau tấm bình phong, nhìn chàng lạnh lùng, dằn từng tiếng: - Ở nhà làm sổ. Không làm, không có gì mà hốc đâu. Sau ba năm, ngôn ngữ thật lại xuất hiện trên khuôn miệng đầy ứ của cô. Ngạn lạnh toát sống lưng. Đấy là lời nói thật sự của cô Ngọc Bảo. Và cô Ngọc Bảo sẽ làm đúng những điều cô nói. Tay chân rụng rời, anh ngồi phịch xuống ghế, ôm mặt khóc. Quá vãng trở về, như cuốn phim quay chậm, lần giở từng trang ký ức. Lão Ngạn thẫn thờ buông tay. Chén rượu đổ nghiêng xuống mặt bàn khiến mùi rượu thơm sực lên, tỏa đầy gian phòng. Ngoài trời vẫn mưa sầm sập. Mưa này, lão không thể vào thành phố tìm Cường. Ngồi đây, chỉ nhớ lại toàn những chuyện cay đắng. Bởi lẽ con gái lão giống mẹ nó quá, giống đến rùng mình. Sáng nay trước khi đi làm, nó từ buồng ngủ bước ra trong bộ quần áo lụa mỏng như cánh chuồn chuồn. Lão nhìn rõ những ngấn thịt bụng hằn thành từng tầng dưới lớp lụa ấy. Ngày xưa, mụ Ngọc Bảo cũng có những tầng thịt bụng như thế. Khi bỏ quần áo ra, mụ trắng như lợn cạo. Trắng khiến lão sởn gai ốc. Tại sao mụ lại trắng thế khi mà bộ mặt dài và nục nạc luôn luôn ửng đỏ như hoa mào gà?... Vì tầng thịt bụng của đứa con gái mà lão nhớ lại cái dĩ vãng buồn của lão. Và hình ảnh mụ Ngọc Bảo lại lởn vởn trong tâm trí không sao xua được. Lão tìm chai rượu, rót chén nữa. Từ phòng trong, Trọng bước ra. Sáng nay, anh chàng hì hục trang trí căn buồng hạnh phúc, sau khi cọ rửa bóng loáng các khuôn cửa sổ. Trọng đặt các chậu hoa cảnh nhỏ xíu lên đó. Rồi anh lồng kính vào khung, treo các tấm ảnh chụp thẳng chụp nghiêng của cô Ngọc Bích, xoay ngang xoay dọc, ngắm nghía chán chê mới đặt lên nóc chiếc tủ ly lót gương ở góc phòng. Giờ, chừng công việc đã xong, anh rửa tay bước ra ngoài: - Mưa lâu quá bác nhỉ. Lão Ngạn đưa mắt nhìn bộ mặt hớn hở như bắt được vàng của Trọng khẽ gật đầu. Rồi lão rót một chén rượu khác: - Anh ngồi xuống đây, uống với tôi một chén. - Cháu xin bác. - Anh vẫn chờ việc phải không? - Vâng. - Con Bích nó bảo sao? - Bích bảo rằng đầu tháng sau mới có quyết định chính thức. Bởi vì ông trưởng phòng tổ chức đi họp ngoài trung ương, cuối tháng mới về. - Đàn ông, hay hớm gì theo đuổi cái nghề buôn bán lời lãi. Trước, anh làm ở đâu? - Trước, cháu làm trên nhà máy thủy điện An Hoa. - Ở chỗ đó khó sống lắm à? - Không. Trên ấy công việc thuận lợi, và anh em đối với cháu rất chân tình. Quá nửa số cán bộ kỹ thuật, công nhân nhà máy là bộ đội phục viên và chuyển ngành. Chúng cháu dễ hòa hợp với nhau. - Trên đó không có đàn bà hay sao? - Có chứ ạ. Trọng đáp lời, sửng sốt trước câu hỏi hiểm hóc, và xấu hổ. Mặt anh đỏ rần lên. Hớp một ngụm hết chén rượu, đặt chén xuống, anh phân bua: - Với Bích, hoàn toàn là chuyện khác. Một người phụ nữ nhiều năng lực, khao khát sống nhưng gặp toàn cảnh éo le, trắc trở. Cháu thương Bích...Chúng cháu yêu nhau. Tuổi thơ của cháu, cũng như Bích, đói khổ và bơ vơ. Mẹ cháu cũng qua đời năm cháu lên ba. Bà dì ghẻ thì... Lão Ngạn nhìn chằm chằm vào hàng ria mép của Trọng: - Khoan đã, nó nói với anh là dì ghẻ rất ác nghiệt? Trọng lúng túng, anh lảng tránh ánh mắt lão già: - Cháu không muốn làm bác buồn phiền... Nhưng sự thực là... Nhân gian đã có câu: Mấy đời bánh đúc có xương... Lão Ngạn tiếp: - Nó có nói với anh là bà vợ sau của tôi đuổi nó khỏi nhà? Và vì thế nó phải kiếm sống từ năm mười bốn tuổi?... Trọng nài nỉ: - Thôi, bác ạ, chuyện đã qua hãy để nó qua... Vì bác hỏi nên cháu mới lỡ miệng nhắc tới dĩ vãng. Nhưng chẳng ai sống bằng dĩ vãng. Chúng cháu bây giờ có tất cả những gì chúng cháu ước muốn. Cuộc đời ở trong tay, quá khứ chỉ là một cuốn sổ lưu niệm thỉnh thoảng lật lại xem chơi. Lão Ngạn gật gù, môi nhếch lên cười. Một nụ cười lạ lùng, chẳng ra vui sướng, chẳng ra mai mỉa. Trọng tưởng những lời lẽ văn hoa của mình đã trấn an được lão, anh rút lui vào phòng trong. Còn lão, lão nhớ tới những năm tháng khác... ... Năm một ngàn chín trăm bốn mươi tám, lão Ngạn bỏ chiến khu kháng Pháp trở lại vùng tề. Cùng về với lão là đốc-tờ Hải. Hải cũng ngoại bốn mươi, béo trắng, vợ thanh mảnh như cây sậy nhưng đã có tới bốn thằng con trai. Trước kia, cặp vợ chồng này cũng ở thành phố, cách đại lý Thủy Tiên vài chục căn nhà. Sau thời gian tiêu thổ kháng chiến, tất cả bọn họ bị cuốn vào dòng thác cách mạng, bồng bế dắt díu nhau ra chiến khu. Nhưng cuộc sống khó khăn ở những dãy phố rừng không dung nạp được đám dân đô thị đã quen sung sướng. Qua một cái Tết đạm bạc nữa trong những dãy nhà nứa lá, nghe tin vùng tề đã lập lại yên ổn, họ lục đục kéo nhau trở về. Tới thị trấn ven sông Cam, cả hai bị mắc nghẽn vì loạt đạn bên kia những dãy đồi đan tiêu đỏ rực. Quân du kích đang đánh nhau với Pháp ở đó. Lão Ngạn lẫn đốc-tờ Hải không đủ can đảm vượt qua vùng tranh chấp về thành phố cảng. Họ dừng lại, sinh cơ lập nghiệp tại thị trấn Cam. Cùng mức gia sản, cùng cảnh ngộ, hai người thân thiết nhau mau lẹ. Chiều chiều, chị vợ gày gò của đốc-tờ Hải lúi húi tráng bánh cuốn hoặc đổ bánh ca-ra-men mời bố con lão Ngạn sang ăn. Ban đêm, họ chụm đầu trên bàn mạt chược. Các buổi sáng lão Ngạn pha cà-phê mời đốc-tờ Hải sang uống với thứ bánh quế bỏ lò giòn tan mà lão rất nghiện, cửa hàng tạp hóa của lão Ngạn cũng như phòng mạch của đốc-tờ Hải khá thịnh vượng. Thị trấn Cam không phải nơi buôn bán phát đạt gì nhưng dân cư trú trong các phố và các làng lân cận đều cần tới kim chỉ băng phiến, sách bút học trò cùng trăm thứ nhu yếu phẩm lặt vặt khác. Lão Ngạn có đủ mối lấy hàng, vả lại, lão còn tích trữ được một số hàng đắt tiền từ trước thời kháng chiến. Dân chúng cũng cần tới đơn thuốc trị bệnh, thương hàn, cảm cúm, viêm phế quản, lao xương, lao phổi, các bệnh xã hội và bệnh da liễu. Đơn thuốc của đốc-tờ Hải hiệu nghiệm hơn đơn thuốc của các thầy thuốc ăn lương làm công trong nhà thương. Nghiễm nhiên, hai người trở thành những kẻ có máu mặt trong thị trấn. Mùa hè, sau bữa cơm họ thường sóng vai đủng đỉnh đi dạo vài vòng quanh phố, trước ánh mắt thèm muốn của đám người xung quanh. Dạo ấy, Bích lên tám nhưng phổng phao như con nhà khác mười một, mười hai. Con bé dạn dĩ, quyến luyến ông hàng xóm vui tính. Ông đặt cho nó biệt hiệu Mi Mi. - Thơm chú đi nào, Mi Mi. Trông cháu còn đẹp hơn cả con Tây đấy. Anh Ngạn, bà vợ anh ngày xưa tốt da tốt thịt lắm phải không?... Ngạn ừ hữ không đáp. Bích cười tít mắt, leo lên đầu gối ông chú đốc-tờ. Năm sau, nhờ mối lái, lão Ngạn cưới vợ kế, một người đàn bà yếu ớt, xinh đẹp nhưng rầu rĩ. Cô ta sống trong mấy gian phòng của lão như cái bóng, lướt từ phòng này qua phòng kia không một tiếng động, mắt lúc nào cũng ngơ ngác như nhìn vào cõi vĩnh hằng. Thỉnh thoảng, cô lại cúi mặt vào tường hoặc ngăn tủ tạp hóa giấu giếm những giọt nước mắt. Cô sợ Ngạn, mặc dù lão yêu chiều. Cô sợ cả đứa con gái táo tợn của lão. Không bao giờ cô dám đối mặt hoặc gọi tên nó. Mười lăm tháng sau, cô cho Lão một đứa bé trai nặng ba cân mốt và chết luôn khi chưa kịp rời bàn đẻ. Gánh nặng nuôi dưỡng đặt trên vai lão Ngạn. Lão thuê vú em, nhưng suốt ngày vẫn bận bịu với đứa con trai quý. Ngoại trừ những giờ buôn bán, coi sóc cửa hàng, lão ngồi bên nôi thằng bé, ngắm nghía, ve vuốt, mơ tưởng tới tương lai của nó, hát những câu hát không mạch lạc. Trong suốt khoảng thời gian ấy, Bích lớn lên như thổi. Càng ngày, con bé càng gần gũi thân thiết với ông chú láng giềng hơn. Năm năm trôi qua, lúc ông bố còn mê mải chăm sóc cậu con trai, cô con gái đã thành một thiếu nữ dậy thì. Dân thị trấn bắt đầu thầm lén đưa ánh mắt dõi theo Bích, khi nó bá vai bá cổ đốc-tờ Hải đi qua phố. Hai người dạo quanh khuôn viên hoặc đi lên đồi cây đan tiêu hóng gió. Đứa con gái mười ba tuổi phốp pháp như các cô gái mười bảy khác. Hai má đỏ như cà chua, cổ trắng nõn nà. Bích thường mặc váy, lần nào nó đi ra phố, những gã đàn ông dâm đãng cũng núp sau cánh cửa nhìn theo bứt rứt. Những người đàn bà lắc đâu ái ngại. Con bé nửa thơ ngây, nửa ý nhị như một thiếu phụ từng trải. Mọi cử chỉ của nó giống cánh cửa nửa khép nửa mở, hứa hẹn và gợi nỗi tò mò. Lũ đàn ông vô sỉ ghen tị với đốc-tờ Hải ra mặt. Y thường khoác vai hoặc dắt tay con bé đi dọc phố, vừa đi vừa to tiếng trò chuyện như một ông chú thật sự, một kẻ có chủ quyền bảo vệ cái sinh lực phập phồng, hàm chứa nhiều bí ẩn kia... Tới một chiều oi nồng, dân thị trấn đổ ra sông tắm. Họ chợt nghe tiếng kêu điên dại của thằng khùng vang lên trong cánh rừng nhỏ bên kia sông. Xen vào đó là tiếng vụt của cành khô, tiếng cây gẫy, tiếng nói ú ớ không rõ nghĩa. Đám người tắm sông cụm lại xì xào. Kẻ cam đoan thằng khùng lên cơn tự cào cổ hoặc đập đầu vào thân cây tự vẫn. Người đoán nó bị gã lưu manh nào đó cướp số tiền bán kem nên chống lại quyết liệt. Sau rốt, một người đàn ông đứng tuổi, để ria mép kiểu sĩ quan Nhật lên tiếng: - Chẳng lẽ cả lũ đàn ông đứng đây mà sợ một thằng khùng?... Bơi sang đi. Nói xong, ông ta nhảy ùm xuống nước. Như căn bệnh hay lây, lòng quả cảm kích thích đám đông. Người nọ nối người kia bơi sang bờ bên kia, cả thanh thiếu niên lẫn các vị trung niên và các ông già. Họ vào rừng, nơi tiếng la man rợ của thằng khùng mỗi lúc mỗi rõ. Chừng trăm thước sau, họ tới một đám cỏ lọt giữa rừng cây. Đốc-tờ Hải trần truồng như nhộng đang cầm cành cây quật thằng khùng. Thằng này, bận bộ áo quần rách tướp cũng cầm một khúc cành to hơn bắp tay, chống trả hăng hái. Vừa đánh, nó vừa rú lên những tiếng kêu ú ớ, rối loạn, bọt sùi dây hai mép. Cách đó mười lăm mét, sau bụi gai quả đỏ, Bích ngồi thu hình như con mèo nhúng nước, hai tay kẹp giữa đùi, trần truồng hệt như ông chú. Sau cùng, đám người thị trấn thấy trên ngọn cây dâu da rừng, cao tới tám mét, mớ áo quần của đốc-tờ Hải và con bé Bích. Chiếc sơ-mi trắng chấm nâu, chiếc quần Ga-ba-đin trắng, chiếc quần lót kẻ ô của ông đốc-tờ. Tấm váy dài màu thanh thiên lẫn chiếc quần lụa lót trong của cô cháu gái. Tất cả mắc giữa đám cành cây và đều bị xé tơi tả. Chuyện thế này: Thằng khùng bán kem đã đem lòng say mê con bé Bích từ hơn một năm nay. Nó mười tám tuổi, con một mụ đàn bà dở điên dở dại chuyên nghề xay bột thuê. Từ năm lên bảy, thằng bé đã tự bán kem nuôi thân. Nó không được học, cũng không đủ trí khôn nhớ mặt chữ. Nhưng nó không lẫn một hào tiền lời bán kem. Vốn liếng cất trong chiếc túi mề gà dắt bụng, nó sống lang thang. Thi thoảng, nó về ngủ nhà với mẹ. Mùa hè, nó ngủ trên ghế đá công viên, thùng kem buộc ngang bắp chân. Mùa đông, nó rúc vào bếp tiệm hủ tiếu của chú khách, ở đó vừa được ăn các tô hủ tiếu thừa vừa được hưởng hơi than ấm áp. Trí óc nửa sáng nửa tối của nó không hoàn hảo như những đứa bé khác, nhưng tấm thân niên thiếu vẫn lớn theo thời gian. Trong huyết mạch nó, đốm lửa tình dục nảy nở theo thông lệ. Vào một sớm hè rạo rực, thăng khùng chợt thấy cặp đùi nần nẫn của con bé Bích hiện dưới lần váy xanh làm nó tê dại chân tay. Nó sững sờ, há miệng như bị câm hẳn. Bích cầm que kem, thấy thằng khùng nhìn chòng chọc vào đùi liền đưa mắt lườm, ném tiền vào nắp thùng kem rồi bỏ đi. Lũ trẻ trong phố bắt gặp cảnh đó, hò reo chế nhạo. Chúng đặt vè ghép đôi thằng khùng với Bích, tất nhiên là sau lưng con bé. Chúng làm đủ động tác tục tĩu đùa cợt. Gã thiếu niên cùng khốn sướng rơn. Ngày nào nó cũng ôm thùng kem lượn qua cửa hiệu tạp hóa của lão Ngạn, nhìn trộm đứa con gái. Những câu chòng ghẹo của lũ trẻ tựa những viên sỏi rơi vào khoảng trống âm u trong óc đứa con trai bất thành nhân, lấp đầy dần bằng những hy vọng của kẻ đang yêu. Ngày một ngày hai, ý tưởng mập mờ phôi thai về tình ái được tô đậm dần trong cái đầu nửa tỉnh nửa mê của nó. Chiều ấy, thằng khùng đi tắm. Tắm xong, nó chợt nảy ý định hái quả gai chua ngọt, thứ quả trời cho vừa lành dạ vừa dễ kiếm nó đã quen thuộc từ thuở nhỏ. Khi luồn sâu vào các bụi gai, nó chợt thấy đứa con gái nó hằng tơ tưởng đang cùng một gã đàn ông to béo làm cái công việc của gà trống với gà mái. Cái phần tinh khôn có được cộng với nỗi đau đớn âm u trong bản năng loài giống khiến thằng khùng hiểu được nỗi mất mát của mình. Nó đờ đẫn nhìn. Rồi nó hét lên, vồ xé đống quần áo của hai người ném cạnh đó. Đốc-tờ Hải trong cơn hoan lạc chợt tỉnh vì tiếng hét của thằng khùng. Nó vẫn xé vải roàn roạt, hệt như con khỉ xé vỏ chuối mà kẻ tinh nghịch dấu bọc mắm tôm bên trong, vừa xé vừa rít lên những tiếng oán hận. Đốc-tờ Hải đứng lên, chưa kịp xô tới thằng khùng đã tung mớ vải lên ngọn cây. Đốc tờ Hải vơ vội một đoạn cành cây, vụt mạnh vào vai thằng khùng. Ngọn đòn xé rách vai nó, máu bắn tóe ra. Cơn đau nhục thể khiến thằng khùng trở nên điên dại. Nó xông tới gã đàn ông, cắn ngập hai hàm răng vào cổ gã. Đốc-tờ Hải giáng cho nó ngọn đòn thứ hai rồi đá bật nó ra. Trời xui đất khiến, thằng khùng vớ được ngay một khúc cành cây có mắt gỗ cứng. Thế là, có vũ khí trong tay, nó lao vào cuộc chiến... Khó khăn lắm, dân thị trấn mới kìm giữ được thằng con trai cùng khốn. Họ giúp gã đốc-tờ khều đống áo quần trên ngọn cây xuống rồi bỏ đi. Từng người một bơi trở lại bờ bên kia. Gã đốc-tờ mặc quần áo, ngồi trong rừng cho tới lúc trời tối mịt mới dám đưa con bé trở về. Sau câu chuyện nhục nhã ấy hai hôm, Hải biến khỏi thị trấn. Vài tuần sau, chị vợ với lũ con biến theo. Nghe đâu gã trở về thành phố, bán ít tư trang trong số của hồi môn của vợ, xin vào làm trong nhà thương tỉnh. Cũng từ ngày ấy, Bích xấu hổ không dám tới trường. Nửa năm sau, nó biến mất, đem theo sợi dây chuyền mặt kim cương tháo ở cổ đứa em trai cùng bố khác mẹ. Lão Ngạn không đi tìm, không nhắn nhe dò hỏi bất kỳ ai. Ba tháng sau ngày con bé trốn đi, một người bà con đem hàng từ thành phố lên thị trấn Cam báo cho lão biết rằng đốc-tờ Hải đã thuê một căn phòng nhỏ gần rạp hát Tân Hưng cho con bé ở. Bích bán ô-mai, các loại kẹo, các thứ lạc ngọt lạc mặn và hạt bí cho đám người đi xem hát. Đêm đêm, nó là vợ lẽ lão đốc-tờ. -Ông có nhắn gì cháu không? Người bà con hỏi lão, sau khi kể chuyện. - Không nhắn. Cũng đừng ai nhắc nhở tới nó với tôi. Lão đáp, và quay đi... Từ đó tới nay, năm tháng qua. Bao nhiêu biến đổi. Nhưng lão khó quên được các biến cố, các đổi thay. Lúc nào lão cũng sửng sốt ngơ ngẩn... Giờ, lại là chuyện Bích bị xua đuổi khỏi nhà. Tấn kịch dì ghẻ con chồng từ xửa từ xưa. Mà cái gã đàn ông khờ khạo kia lại vì thế mà đem lòng thương yêu nó... Trời hỡi trời, nhưng lão thề một ngày nào đó, lão sẽ đem bộ mặt con yêu quái phơi dưới nắng ngày, cho dù trong huyết mạch nó có một phần dòng máu lão. Cho dù nó vẫn mang dòng họ Phạm như một thứ thẻ căn cước, một thứ giấy chứng chỉ không đổi thay... ° ° ° Hai người xuống cầu tàu, đi dọc theo kè đá, vẫn còn giọng hát của ca sĩ Tuấn hói vọng theo: Em ơi, vì sao trời xanh mãi?...và tình yêu không mòn mỏi, tháng năm qua... Trưởng máy Bá bật cười: - Cái thằng suốt đời mê lũ đàn ông khỏa thân lại hát bài kêu gọi tình yêu... Cường tủm tỉm cười, không đáp. Hai người ra khỏi bến cảng, đi dọc theo bờ biển. Họ sục chân vào cát, dưới bóng bờ dương. Dương xanh ngắt, đan nối nhau như đường riềm của bờ bể. Đôi chỗ, người ta trồng tỉa chúng thành hình những con thú, xen lẫn các luống cát trồng hoa tứ quý, cúc đỏ, cúc tím và cỏ kim để tạo ra một thứ khuôn viên sơ sài. Dưới các gốc dương có đặt ghế đá. Lũ trẻ vô gia cư và dám khách bộ hành lỡ độ đường túi không đủ tiền trọ thường ngủ ở đó. Bá hỏi: - Cậu có hay ra đây buổi tối không? - Không. Cường đáp. - Em không ham. Tìm được một cuốn truyện mới đọc vẫn thú hơn đi lang thang. Bá nói: - Tối ở đây nhung nhúc bóng. Công an đuổi đầu này họ chạy ra đầu kia. Giống như chơi trò ú tim vậy. Cường dè dặt hỏi: - Anh mà cũng thích ra đây sao? Bá đáp: - Không. Nhưng tôi tò mò. Tôi muốn chính mình chứng nghiệm mọi vẻ mặt của đời sống. Trước đây, tôi cũng ham đọc. Sau, tôi thấy sống cần thiết hơn. Cái đám nhà văn ấy mà, họ hay lừa dối chúng ta. Họ thích thi vị hóa cuộc đời, thích rắc rối, phức tạp hóa những điều đơn giản, thích lu loa, che giấu những nỗi đớn đau thiết cốt của con người, cái khu vực họ không dám và không có quyền xử lý. Tới đó, hai người im lặng. Họ tiếp tục đi song song những bước dài nhưng không vội vã. Mặt trời lặn sau các dãy núi phía Tây, biển nhòa đi xóa bóng những cánh buồm, những cặp tình nhân ngồi bên bờ cát, những cánh chim âu. Đèn thành phố bật sáng trong những tiếng chuông thánh thót của nhà thờ Tin Lành vọng tới. Hai người chợt nghe tiếng cười sau lưng: - Các anh đi chơi sớm nhẻ? Họ quay lại. Trong ánh tà dương, một nụ cười nham nhở hiện trên gương mặt úa héo phô những chiếc răng dài, cao đã ăn đen hết chân. Hai gò má cao chi chít vết nhăn trát phấn. Món tóc uốn loăn xoăn kéo xuống trán che phủ phần sọ hói trơ lớp da. Mấy bông hoa lan cài bên tai người đàn bà tỏa mùi hương dập nát. Thấy Bá và Cường im lặng, chị ta lại nói tiếp: - Các anh trên tàu xuống? Bá hỏi: - Tại sao chị biết chúng tôi ở trên tàu? - Biết chớ. Người đàn bà ngoẹo đầu rinh rích cười. Dân phố biển sao không biết các chàng thủy thủ.. "Nhổ neo ra khơi, tàu anh sẽ nhổ neo ra khơi..." Chị ta lấy hơi, hát cho hết một câu. Những sợi gân to bằng chiếc đũa nổi trên cổ. Hai người im lặng, nhìn người đàn bà đang cố gắng làm duyên một cách thê thảm, nhìn bộ áo quần nhàu nát, nhìn hai bàn chân dơ dáy xỏ trong đôi dép nhựa xanh lè... Chừng như hiểu cái nhìn đó, người đàn bà hát xong ngẩng đầu nói: - Tôi hả?... Không đâu. Thứ tôi chỉ dành cho ba lão xích-lô già vô gia cư, năm vài lần vớ được món khách sộp, rửng mỡ lên muốn nếm mùi đời. Nhưng tôi biết lối đưa các chàng thủy thủ đến những nơi thú vui đáo để. Chị ta cười, những nếp nhăn xô vào hai đuôi mắt. Rồi chị ta rút trong túi áo một sập ảnh, xòe ra như xòe cỗ tam cúc. Mỗi quân bài là một cô gái, cô chụp thẳng cô quay nghiêng, cô ngửa cổ lên, cô cúi đầu xuống. Các gương mặt và các kiểu tóc. Những làn môi tô son đậm với nụ cười treo trên đó như một thứ mặt nạ hổ phù phô bày không thương tiếc vẻ trụy lạc của nỗ lực tồn sinh. Nhìn các tấm ảnh ấy, người ta thấy đám phụ nữ ở đây như một bày rắn nước, cố ngoi lên thở trong mảnh đầm bị phủ váng dầu. Người đàn bà nghênh mặt nhìn họ: - Khá chứ hả? Toàn gái thành phố chính hiệu đấy. Mấy ả bò lạc không lọt được vào đây. Chúng nó ở ngoài ga... Chưa nói hết câu, chị ta bỗng cụp vội cỗ bài độc đáo thu trước bụng rồi lủi vào bụi dương. Cường đưa mắt nhìn ra quãng đường phía trước, thấy một công an trẻ thong thả qua bờ cây cọ cảnh, lên hè. Điếu thuốc lập lòe trên môi, anh ta vào quán bán đồ lưu niệm và giải khát ngay kề đó. Người đàn bà sau gốc dương bước ra, mắt nhớn nhác liếc quanh rồi thở phào: - Hú vía. Bá hỏi: - Chị có bị bắt lần nào không? - Có... Người đàn bà gật đầu: - Trước đã có lần tôi phải tập trung vào trại cải tạo. Bây giờ, các trại chật chỗ, họ chỉ nhốt chúng tôi trong đồn vài ngày rồi thả ra. Nhưng bị tóm ngày nào khốn đốn ngày ấy. Mình thì sao cũng được, nhưng lũ trẻ nó có chịu nhịn đói cho đâu?... Loáng qua đôi mắt đục của chị, nỗi lo lắng, niềm trìu mến, cả bóng dáng của cái lũ trẻ thân thương kia. Một tích tắc sau, đôi mắt trở lại tinh ranh, trơ tráo: - Thế nào, các anh định chấm đứa nào tôi liệu. Đoạn, đưa mắt lục soát kỹ càng từng người một, chị ta hạ giọng: - Trông bộ kén lắm. Có đủ đạn không, tôi bán tem cho. Cường hỏi: - Tem là cái gì? Bá vội đập tay anh, rồi hỏi: - Tem loại nào? Người đàn bà đáp: - Không chê vào đâu được. Bá khẽ cười: - Tin vào đầu lưỡi của các bà... Chị ta quắc mắt: - Xem ngay. Và sau một lát, buông từng tiếng nặng nề: - Nó là cháu tôi. Cả nhà sống dở chết dở, vừa từ khu kinh tế mới về. Mắt chị cúp xuống, không nhìn vào mặt họ. Bá nói: - Thôi được. Giá bao nhiêu? - Hai ngàn. Người đàn bà đáp, vẫn không ngẩng lên. - Đấy là của cô ta hay cả phần chị? - Tôi chỉ kiếm hoa hồng của người ngoài, còn nó... Thôi đi đi... Chị ta quay ngoắt, bước đi đột ngột. Bá ra hiệu cho Cường theo anh. Họ qua lối cát, ẩn dưới các tán dương. Ánh sao mờ trộn ánh đèn đường khúc đậm khúc nhợt. Thi thoảng, lại gặp một cặp đứng dưới gốc dương, thì thầm, hổn hển. Những đôi trai gái yêu nhau thường ngồi lui dưới kia, sát với mép sóng, ngắm những làn bọt trắng tắm ánh sao, những con tàu sáng rực nổi lênh đênh trên biển đêm như thành phố thần thoại, bàn chuyện tương lai. Đại dương vẫn dạt dào, tiếng sóng che lấp cả những câu ân ái lẫn những tiếng hổn hển tục tằn và cùng khốn. Người đàn bà đưa họ xuyên qua bãi dương, tới khoảng bờ cát, nơi trơ trụi một cây dương già, cành vươn bờm xờm như mái tóc không được cắt tỉa. Chị ta cất tiếng: - An ơi. Cháu vẫn ở đây chứ? Sau gốc dương, bóng một cô gái bước ra, câm lặng. Người đàn bà bảo họ: - Đây rồi. Cường bất giác đưa tay nắm vai Bá. Chàng trai thấy tim đập rộn một nỗi sợ vu vơ lẫn sự khắc khoải tràn ngập tâm hồn. Hai người bước lên vài bước. Người đàn bà nói: - Hai anh ấy bằng lòng trả hai ngàn. Xong rồi đấy. Giờ, dì đưa cháu đưa khách tới cửa hàng. Đã thỏa thuận hết với mụ Liên. Cô gái vẫn câm lặng như cái bóng cúi đầu lùi lũi đi trước. Người đàn bà cười gượng, phân bua. - Tính nết con bé thật là... Hai anh thông cảm. Đoạn, rảo bước để theo kịp cô gái, chị gọi giật giọng: - An, từ từ đã... Nắm vạt áo cô, chị hạ giọng nài nỉ: - Hãy chào hỏi, làm quen với hai anh ấy đi nào. Cô gái dừng lại, quay đầu nhìn họ. Hai người sững sờ. Đó là một gương mặt trẻ thơ. Cô ta chỉ mười lăm mười sáu tuổi. Lớp lông tơ phủ trên hai má mượt như lông trái đào. Cái nhìn ném vào mặt họ không phải lời chào. Đó là cái nhìn căm ghét, hờn oán. Bá cất tiếng: - Khoan đã, cho tôi hỏi. Người đàn bà quay mặt lại: - Có chuyện gì hả anh? Bá nói: - Chị đưa chúng tôi đi đâu? Người đàn bà đáp với vẻ ngạc nhiên: - Tới nhà hàng? Anh định đi đâu?... Hay xuống tàu?... Bá lắc đầu: - Không. Chúng tôi muốn xem nhà cô bé. - Không, không... Không được đến nhà tôi... Cô gái đột ngột cất tiếng kêu. Đoạn, dứt tiếng kêu tấm tức ấy, cô ngồi thụp xuống cát, khóc nức nở. Người đàn bà đứng ngây. Chị bối rối nhìn hai chàng thủy thủ, lắp bắp: - Tôi không ngờ...tôi không... Bá nói: - Chúng tôi không tới nhà cô ta để mua chữ trinh. Chúng tôi không động tới cô ấy... Nhưng chị yên tâm, chúng tôi sẽ trả tiền... Người đàn bà cau mày, ngờ vực nhìn Bá. Chị dứt khoát từ chối: - Không. Chúng tôi không quen các anh. Chúng tôi không liên quan tới những người lạ. Đoạn, chị ta gọi giật giọng: - An, đứng lên. Về thôi... Rồi chị dìu cô gái đi: - Thôi, rủi lại hóa may... Biết đâu tối nay thằng Hưng lại đem gạo về?... Nín đi cháu... Nín đi... Bá giữ tay Cường đứng lại, chờ cho họ đi xa. Anh bảo: - Ngay lòng tốt bây giờ cũng trở nên khó tin. Người ta sẽ ngỡ mình có âm mưu xấu xa nào đó, còn khủng khiếp hơn cái việc bỏ tiền mua cô con gái kia... Hoặc mình là một thứ mẹ mìn, hoặc là công an trá hình, dò xét. Cậu thấy chưa? Ngừng lại một lát, Bá nói tiếp: - Nhưng sao tôi thấy nhói trong ruột. Cái cô bé này giống hệt con bé em út của tôi. Cũng trạc tuổi ấy, gương mặt ấy, cả cái vẻ bướng bỉnh ấy... Có lẽ gia đình cô ta gặp một hoàn cảnh gay cấn, không thoát được... Cường này, cậu có muốn vào phố không? Nếu không, ta đi tới nhà cô ấy để xem sao. Cũng là dịp để cậu bớt đi một chút cái chất sách vở và thêm hiểu phần đời. Cường đáp: - Tùy anh. Nói thế, có nghĩa như một lời tòng phục. Chàng trai không dứt được cảm giác khắc khoải từ khi ánh mắt oán hờn của cô gái lóe lên như tia lửa thiêu đốt anh. Bá nói: - Đi đi. Hai người đàn bà đã khuất sau lùm dương bên trái bãi cát, cách họ chừng hơn trăm thước. Bá và Cường hối hả đuổi theo. Tới bãi dương ven thành phố, người đàn bà lẩn vào trong đó, còn cô gái tiếp tục men theo bờ biển, đi ngược lên phía Bắc. Chẳng mấy chốc, họ đã đuổi gần kịp. Bây giờ, cô ta chỉ đi trước họ chừng năm chục thước. Nhưng cô không quay đầu lại. Vả chăng, nhiều du khách thường lững thững đi dọc mép sóng rong chơi, nên cô chẳng thể nghi ngờ hai chàng thủy thủ bám gót mình. Cái bóng nhỏ của cô phiêu diêu bên mặt biển mênh mông. Trong khoảng nước tối, thi thoảng ánh lân tinh của loài mực ma lóe lên tia lửa xanh non yếu, chập chờn. Cô gái đi hết bờ cát, tới bãi đá. Có những đám dây rau muống biển bò từ dưới chân núi đá ra tận mép nước. Bãi đá dài ước chừng năm trăm thước. Tận cùng là mỏm núi từ giải núi phía trong nhô ra như mũi một con tàu. Nhiều dòng nước róc rách chảy qua lớp đá vụn và sỏi dưới mỏm núi. Cô gái đi khá nhanh, chẳng máy chốc đã lấp sau mỏm núi. Bá bảo Cường: - Rảo bước lên. Họ cố đuổi kịp cô. Lúc này, không còn mặt biển trống vắng mà là những nếp nhà tranh, những mái lều thấp lụp xụp của ngư dân xen lẫn các bụi cây, bụi mía. Đèn dầu hỏa hoặc cây tọa đăng thắp sáng phía sau các bức vách, thùng gỗ, hoặc tôn gỉ. Bóng người đi lại, làm lay động các vầng sáng. Thoắt cái, đã thấy mất hút cô gái. Hai người rạch bụi mía, vượt qua khoảng sân cát của một ngôi lều khiến con chó trong lều chạy vụt ra, sủa ầm ĩ. - Đừng quay lại, nó đuổi đấy. Bá bảo Cường. Họ qua mấy cái chum chượp mắm bốc mùi nồng nặc. Nghe rõ một bà già càu nhàu phía sau: - Đồ ôn vật. Cứ tối đến là chạy quáng lên như chó đực... Vá, thôi vào nhà... Cường chợt đứng lại, kéo tay Bá. Anh thấy cô gái, gần như ngay trước mặt mình. Cô cách anh chừng ba bốn bước chân. Cường kéo Bá giật lùi, núp sau bụi mía lau gần đó. Họ thấy cô dừng lại trước một căn lều được dựng sơ sài bởi hai chiếc thuyền mục úp vào nhau, hai cây trụ chính bằng tre. Phía trên, những tấm bìa các-tông lớn xen lẫn những tấm cốt ép và ni-lông lợp dày cộm. Chỗ mảnh ván thuyền mục ải được khoét thành cửa ra vào, treo tấm chiếu buồm thay cho cánh cửa. Cô gái nép mình bên mảnh chiếu nát nhìn vào. Phía trong, ánh đèn hoa kỳ soi lờ mờ những đồ vật cũ nát. Một chiếc bàn thờ nhỏ bằng gỗ, gãy chân, kê chồng gạch tạm. Vài chiếc ghế đẩu xiêu vẹo đặt phía dưới. Chiếc ấm sứt vòi với dăm chiếc chén đủ loại gom góp bày trong đĩa nhôm. Bên trái, kê chiếc giường rẻ quạt, trên vắt đầy quần áo. Một người nằm trùm chăn mặt quay vào trong. Lát sau một phụ nữ trạc ngoại tứ tuần mặc bồ đồ thẫm màu từ phía đuôi thuyền khuất lấp bóng tối đi ra. Tới giường, bà ta cúi hỏi người bệnh: - Anh cố ăn nửa bát cháo loãng nhé? Không có tiếng trả lời. Người đàn bà buông tiếng thở dài, vén manh chiếu, bước ra. - Mẹ ơi.. Cô gái cất tiếng gọi, rồi chạy tới: - Mẹ ơi... Cô nói - Con đã không...con không đem được tiền về... Cô ôm mẹ, gục đầu vào ngực bà. Người đàn bà khẽ vuốt tóc con, mắt thẫn thờ. Cô gái bắt đằu khóc, tấm tức rung đôi vai mảnh dẻ: - Mẹ tha tội cho con... Mẹ tha cho... Mẹ cô vẫn không ngừng vuốt tóc con, và thì thầm như để riêng mình nghe: - Cha con sốt cao quá, không ăn được gì... Nhà cũng không còn bơ gạo nào hết. Cô gái ngước mắt nhìn mẹ, gương mặt đầm đìa: - Anh Hưng con vẫn chưa về? Mẹ cô không nhìn cô, hạ giọng: - Mẹ không dám cho cha biết. Anh Hưng con bị tai nạn trên đèo Lau từ thứ Bảy tuần trước, cả xe không sót người nào. Bà móc túi, lấy mảnh giấy gập tư đưa cho con. An ghé mắt vào khe cửa, lật bật mở tờ giấy. Cô đọc dòng chữ ghi trên đó, đọc đi đọc lại mấy lần rồi kêu rú lên: - Mẹ ơi... Cô ngã vào lòng mẹ. Hai người ôm nhau khóc. Nhưng ngay lúc tiếng khóc của cô gái vỡ òa, bà mẹ đã hốt hoảng bụm miệng con: - Khẽ chứ, An ơi... Cha con biết bây giờ... Trong lều, nổ ra một tràng ho. Người ốm gọi: - Hạnh ơi, cô Hạnh đâu rồi... Mẹ An buông cô con gái, hối hả: - Em đây... Bà tới bên chồng, quỳ xuống để giấu gương mặt đẫm lệ: - Bố nó đã tỉnh chưa? Người chồng không đáp, chống tay nhìn quanh: - Con đâu? Bà vợ đáp: - Con nó vào trong xóm. Em sai nó đi mua dầu. Người chồng bảo: - Ba hôm nay còn đồng xu nào mà mua dầu? Cô đừng nói dối quanh. Người vợ đáp: - Sao anh lại nghĩ thế. Em vừa vay được mấy chục sáng nay. Em vay dì Lan... Người ốm bỗng đập tay xuống giường. - Tôi cấm cô, tôi cấm cô gặp mặt con điếm ấy...đem trả tiền nó ngay. Dù tôi chết, dù cô chết, dù có phải cho thằng Hưng đi ăn cướp cũng không thể bán con bé đi... Tôi không... Tới đó, ông ta lại bật ho rũ rượi một tràng dài. Mái tóc mềm rũ xuống, và đôi vai nhọn nhô lên dưới tấm vải chăn. Dứt cơn ho, người bệnh đưa tay lau mép, rồi ngẩng đầu lên nói: - Gọi con bé về đây cho tôi... An đâu?... Con An đâu?... Ông ta lại nấc lên, toàn thân lảo đảo. Bên ngoài cô gái bịt chặt miệng, cố nén tiếng khóc khỏi bật khỏi môi. Tiếng người cha vẫn vọng ra, mỗi lúc mỗi thúc hối: - Gọi nó về đây... Tôi sẽ đâm chết nó trước khi tôi chết... Người đàn bà nức nở: - Em lạy anh... Chưa có chuyện gì với con bé hết. Chưa có chuyện gì xảy ra. Tin em đi. Người chồng lắc đầu: - Không. Trước đây tôi tin cô. Tôi tin cô cả đời. Nhưng lần này tôi không tin cô được... Cô muốn cứu sống tôi bằng cái cách khả ố ấy?... Thế là cô giết tôi hai lần. Hai mươi năm sống mà cô không hiểu được tính tôi. Ông ta đưa tay lên lau mắt. Hình như ông ta khóc, và giọng nói của ông ta chùng xuống: - Tin nhau cả đời để trước khi nhắm mắt không tin nhau nữa. Thương nhau cả đời để trước khi chết oán hận nhau. Cô làm cái điều ngu xuẩn ấy làm gì?... Giờ thì ông ta khóc thật, ông khóc ồ ồ, giơ bàn tay xương xẩu che mặt. Người vợ vẫn nửa ngồi nửa quỳ dưới chân giường thút thít khóc theo. Một khoảng thời gian câm lặng trôi qua. Người ốm gọi: - An ơi...con gái tôi. Tiếng gọi ấy che giấu một biển sâu thương yêu, xa xót. Những ngón tay gày gò của người cha rung lên từng cơn, từng cơn. Chòm râu loăn xoăn không được cạo rửa dưới cằm ông ta óng ánh vì những giọt nước mắt rơi xuống. - An ơi... Cô gái vụt nức lên, chạy đâm sầm về phía hai chàng thủy thủ. Cô băng qua bụi mía, qua mảnh sân nhà láng giềng rồi biến vào bóng dêm. Bên trong lều, giọng người cha vẫn rung lên, như những nốt ngân của một sợi dây đàn sắp đứt. - Tôi sinh nó ra cõi đời này làm gì? Khốn khổ thân con. Thật ngu xuẩn cho cái kiếp sống này. Có đủ hai bàn tay, hai con mắt mà không kiếm đủ miếng cơm độ nhật. Đẻ con ra mà không thể chở che... An ơi, cha có tội với con... Người đàn bà ngẩng lên, níu tay chồng: - Tin em đi...em xin mình. Chưa có chuyện gì xảy ra cho con đâu... Dường như người chồng không nghe những lời nói ấy. Ông ta vẫn khóc lặng lẽ, toàn thân run rẩy, đắm mình trong cơn đau. Đột nhiên, ông ta ngẩng phắt lên, đôi mắt long lanh sáng quắc: - Cút đi... Đừng để tôi nhìn thấy mặt nữa... Đồ độc ác, cô đã hại tôi... Sau tiếng hét, ông ta vung cánh tay lên, toàn thân chồm về phía trước trong tư thế chuẩn bị giáng cho người đàn bà một cái tát trời giáng. Người đàn bà không né tránh, không van xin, không giơ tay che đỡ. Bà ta vẫn nửa quỳ nửa ngồi trước giường bệnh, ngước mắt nhìn chồng. Và chắc hẳn, bà ta vẫn khóc vì đôi vai run lên, và những tiếng thút thít đã chuyển thành cơn nức nở. Đôi mắt sáng lóe của người chồng mờ dần đi, làn môi ông ta đang bặm lại trong cơn tức giận từ từ giãn ra. Cánh tay người đàn ông rơi chầm chậm. Nửa chừng, ông ta lấy can đảm giơ nó lên lần nữa, lần này nó lại mềm rũ ra, như không còn xương cốt và rơi thõng xuống. Hai chàng thủy thủ lặng lẽ chứng kiến cảnh tượng ấy. Tới đó, Bá bảo Cường: - Lúc này, ta xuất hiện là hợp lý nhất. Cường ngần ngừ: - Đừng, ông ta hổ thẹn. Bá gạt đi: - Không. Người đàn ông cư xử như thế là người đầy lòng phục thiện. Điểm này tôi nhiều kinh nghiệm hơn là cậu. Vào đi... Họ tới trước tấm chiếu buồm che cửa lều, hắng giọng hỏi: - Có ai trong nhà không đấy? Cả hai người im bặt. Không nghe cả đến hơi thở của họ. Rồi lát sau, người đàn bà hốt hoảng đáp lời: - Ai gọi chúng tôi đấy ạ? Bá nói: - Chúng tôi, thủy thủ dưới tàu An Khánh. Không làm phiền gì tới ông bà đâu. Vợ chồng chủ lều khe khẽ nói gì đó với nhau, rồi người đàn bà bước ra, vén manh chiếu: - Mời hai ông vào. Bà ta vặn to ngọn đèn hoa kỳ không bóng. Lửa cháy cao lên, tuôn làn khói đen xì. Mùi muội dầu tỏa khắp gian lều hôi khét. Bá và Cường chào người chồng, lúc này đã ngồi thẳng lên, trùm chăn kín vai. Ông ta đưa mắt nhìn họ với vẻ ác cảm không che giấu. Phía sau vẻ ác cảm ấy, còn là tia lửa của sự liều lĩnh, báo hiệu những hành động điên rồ có thể xảy ra đối với một kẻ đã hết hoàn toàn hy vọng vào cuộc đời. Người vợ mời họ ngồi bằng hai chiếc ghế đẩu vững nhất trong đám ghế xiêu vẹo đặt dưới chân bàn thờ. Bá nói: - Xin lỗi ông bà, nếu sự xuất hiện của chúng tôi làm ông bà phiền lòng. Mắt mgười đàn ông dịu đi đôi chút nhưng mối ngờ vực vẫn còn nguyên. Vợ ông ta rót nước ra hai chiếc chén, mời họ. Nước trắng, không có chè. Chén sứ mỗi chiếc mỗi kiểu nhưng được đánh trắng bóng. Ngay cả chiếc đĩa nhôm cũ cũng sáng nhoáng lên. Bàn thờ long vẹo cả chân, mộng hở ra, nhưng những hình khắc chạm cầu kỳ còn giữ nguyên vẻ tuyệt mỹ. Trên bàn cố đôi chân nến cũng bằng gỗ khắc, thứ gỗ đen bóng như sừng trâu chuốt dầu, chạm con hạc xòe hai cánh nâng mặt trời, chiếc cổ dài mềm mại vươn lên cao, mỏ há ra hớp gió. Đồ vật nơi đây khiến ta đau lòng vì vẻ đẹp bị dãi dầu, tàn phá, và cả vì sự gắng gỏi đến cùng của những bàn tay giữ gìn... Bá đưa mắt liếc qua căn lều, anh ngẫm nghĩ đôi chút rồi cất tiếng: - Chúng tôi không phải bọn người say vào nhà dân sục tìm mua rượu nặng. Cũng không tới xóm nghèo này tìm các cô gái... Anh dừng lại, lưỡng lự không biết nên hay không nên thuật lại cái cảnh trên bờ biển vừa rồi. Hai vợ chồng chủ lều vẫn hau háu nhìn anh, chờ đợi. Họ ước chừng mới ngót nghét tuổi năm mươi. Người chồng cao gầy, khuôn mặt dài, mũi thẳng và râu rậm. Người vợ thấp nhỏ, mặt tròn, mũi hơi hếch, đôi mắt đen đuôi rất dài như nét mực vẽ. Họ đúng là một cặp vợ chồng lý tưởng, vẻ đẹp của họ tương phản và bổ sung cho nhau. Chắc hẳn, ở tuổi hoa niên, họ đã từng cố một thời gian sung sướng. Bá quyết định nói lại sự thật. Anh nhìn thẳng vào đôi mắt trong cơn sốt, rực như hòn than của người chồng, nói: - Trước đây một tiếng rưỡi đồng hồ, chúng tôi đi dạo dọc bãi bể trong thành phố. Ở đoạn Rừng Dương, gặp người đàn bà dẫn mối. Chị ta bảo có một cô gái còn trinh, muốn bán thân với giá hai ngàn... Người chồng mím môi, hai bàn tay ông bất giác cũng nắm lại và ông ta phải cố gắng lắm để tự cưỡng chế mình. Bá thấy chiếc cằm đầy râu của ông ta giật liên hồi. Lúc đó, người đàn bà cúi đầu xuống. Không thấy gương mặt bà ta, vì khuất lấp trong bóng tối. Bá vội nói: - Xin bảo đảm với ông bà là chưa có chuyện rủi ro nào xảy ra... Cô con gái ông bà vẫn còn nguyên vẹn... Ông bà hãy bình tĩnh, tôi kể trình tự câu chuyện. Hai chúng tôi không ham gái, nhưng mà tò mò nên đã gặp cô bé An, lúc đó đứng chờ sau gốc dương... Cô bé quá trẻ. Chắc chắn, trong gia đình ông bà, cô ta là một đứa con ngoan... Người đàn bà chợt nức lên. Ông chồng ngồi im, gương mặt tê dại. Mắt ông ta vẫn nhìn chằm chặp vào mắt anh. Bá nói tiếp: - Người dẫn mối đưa chúng tôi và cô gái tới nơi nào đó gọi là nhà hàng mụ Liên. Dọc đường, tôi bảo chị ta dừng lại, đòi đưa chúng tôi tới nhà cô gái. Nhưng cô ta cương quyết chối từ, đoạn khóc òa lên... Cuộc mua bán như vậy là đổ vỡ. Nhưng chúng tôi đã theo cô gái tới đây...như ông bà đã biết...cả người chồng lẫn người vợ đều im lặng. Bá cũng ngừng lời. Xóm mạc yên ắng theo. Chỉ còn tiếng sóng làm đầy không gian bởi những cồn cào. Ngọn đèn dầu hỏa nổ lách tách trong hơi gió lùa, sợi khói đen uốn ngoằn ngoèo theo... Lát sau, Bá hạ giọng tiếp: - Vô tình, chúng tôi biết được tình cảnh ông bà. Vài hôm nữa chúng tôi xuống tàu, không bao giờ quay về thành phố này nữa. Vì thế, ông bà sẽ không bao giờ phải gặp mặt chúng tôi. Sự giúp đỡ của chúng tôi với ông bà hoàn toàn không kèm theo một điều kiện nào hết. Ông bà hãy nhận cho, trước hết để sinh sống trong vài tháng khó khăn. Và để tránh cho cô bé nỗi đau khổ. Bá rút trong túi ra một xếp bạc, đặt trên bàn thờ, dưới chân con hạc gỗ. Hẳn anh không muốn họ nhìn rõ xấp bạc, nó quá lớn, nó là cả một gia tài đối với cảnh túng quẫn của họ. Vợ chồng chủ lều ngồi đờ ra như tượng gỗ. Ánh mắt của họ vừa như hoảng loạn, vừa như hồ nghi. Bá quay sang bảo Cường: - Ta về đi. Đoạn, anh đứng lên: - Chúng tôi phải về cảng, xuống tàu. Xin chào ông bà. Chúc ông bà mọi sự tốt lành. Và chúc cho cô An hạnh phúc... Cường đứng lên theo anh. Họ xoay lưng định vén tấm chiếu buồm bước ra sân. Tới lúc đó, người đàn ông mới choàng tỉnh. Ông ta hớt hải gọi: - Hai ông... Hai anh... Xin mời quay lại đã... Các chàng trai vẫn đứng giữa khuôn cửa nham nhở của căn lều, ngoái đầu lại nhìn chủ nhân. Ông ta tung tấm chăn, run rẩy quơ chân tìm đôi guốc gỗ dưới đất: - Xin chờ cho...chờ tôi một chút... Tôi muốn gửi biếu hai anh một vật này... Người vợ vội chạy lại, tìm đôi guốc đặt sẵn dưới chân chồng. Rồi bà ta choàng tấm chăn lên vai ông ta. Người đàn ông lách vào sau lưng bàn thờ, cúi xuống mở chiếc hòm nào đó đặt trong bóng tối, lục lọi một cách hối hả. Chừng dăm phút sau, ông ta ngẩng lên, thở hồng hộc. Rồi ông ta đặt lên bàn thờ một cục giẻ lớn, buộc chằng chịt những sợi dây cước, thứ cước dân chài dùng dệt lưới trù. Dưới đôi tay trắng xanh, nổi chằng chịt những đường tĩnh mạch của người đàn ông, từng lớp vải rách được gỡ ra, hết lớp này tới lớp khác. Trong cùng, một mảnh lụa trắng đã hoen ố. Lớp lụa được giật lên, tức khắc hai chàng trai cùng nhào tới bàn thờ. Trước mắt họ là một pho tượng gỗ chạm tinh xảo. Một người đàn bà, thân thể mềm mại, tươi mát, những đường cong êm ái tạc nên một vẻ đẹp sung mãn đang rót bình rượu xuống hồ. Những con sóng say ngả nghiêng dưới dòng rượu tuôn chảy. Gương mặt tuyệt mỹ của người đàn bà tựa như bông lan cách diệu, tựa như niềm hạnh phúc và nỗi đau khổ cùng hiển hiện trong một thời khắc, nơi chân trời ngưỡng vọng, lừa mị thế gian... Bá cất tiếng kêu: - Đẹp quá. Người đàn ông nói, giọng khản đục: - Đã thất lạc hết cả. Chỉ còn được vài pho. Cái này, tôi thích hơn cả. Bá hỏi, bỗng dưng giọng gay gắt: - Sao bác không làm? Người đàn ông nhìn anh: - Ai cho làm?... Họ lùa tất cả chúng tôi lên vùng khai hoang, bảo cái nghề này không phục vụ gì cho sản xuất, không có lợi cho cách mạng... Trên đó chúng tôi trồng sắn, nhưng không đủ ăn. Gạo không có. Trước, còn bán cho năm cân mỗi tháng, sau rút xuống ba. Rồi chẳng còn. Vợ tôi sốt rét, mấy đứa con trai chết đuối dưới suối... Tan nát cả cơ nghiệp. Cha mẹ tôi đã trót sinh ra tôi với cái nghề này. Chúng tôi hèn lắm, không kiếm nổi miếng ăn bằng nghề nông... Ông ta đặt pho tượng vào tay anh: - Xin tặng hai anh, gọi là một chút, để đa tạ tấm lòng nhân ái... Bá xiết chặt bàn tay ông ta, hạ giọng: - Thôi, chào ông...cảm ơn ông... Nói rồi, anh hấp tấp bước khỏi căn lều. Cường đi theo. Họ lạc hồi lâu trong xóm chài mới tìm thấy lối ra. Hai người không ai nói với ai lời nào, men theo bờ nước mà đi. Lát sau, họ thấy ánh đèn thành phố. ° ° ° Trọng thức dậy đã lâu, nhưng chưa xuống giường. Anh cầm chiếc bình gạt tàn vào trong màn, nằm hút thuốc. Những con muỗi ngày vo ve bên ngoài, có dăm con lớn gần như ruồi, bụng vằn đen. Thứ muỗi ấy đốt đau như chó cắn. Những ngày trở trời, muỗi từ các xó xỉnh bay ra từng đàn dày đặc như đám mây. Trọng không dám đọc sách hoặc ngồi cộng sổ buổi tối. Anh phải dong ngọn đèn điện vào trong màn, và làm mọi việc bên trên chiếc giường chiều dài hai mét, chiều rộng mét tư, hệt như một gái đẻ. Trọng đã có quyết định chính thức về làm thống kê tại cửa hàng bách hóa huyện Sơn Thanh, cách thành phố hai mươi lăm cây số, nhưng cách nhà có ngót nghét một cây. Cả đi cả về chưa đầy nửa giờ. Cửa hàng khá lớn, chừng hai chục nhân viên, đa phần là nữ. Bà trưởng cửa hàng trên năm mươi tuổi nhưng còn khỏe mạnh và tinh ranh. Từ hôm đầu tiên gặp Trọng, bà đã nửa nạc nửa mỡ bảo: - Này, làm quen sẵn một tay công an quản tù đi... Đàn bà đến giết nhau vì cậu thôi. Trọng đáp lại bà bằng nụ cười khiêm nhường, lặng lẽ. Anh ưa nhìn các cô gái đẹp, nhưng anh không có tính trăng hoa. Anh đã thương yêu Bích, thế là đủ. Tổ ấm của họ đã xây xong. Tấm giấy ly hôn của Bích với người chồng cũ đã được ký ngày mồng tám tháng trước: - Chờ qua vài tháng nữa, cho chuyện này cũ đi... Bích bảo anh: - Ở xã hội mình, vừa bỏ chồng mà đã lấy chồng ngay họ dễ dị nghị. Đến giáp tết Nguyên Đán, lúc thiên hạ đâm đầu đổ đuôi lo sắm sửa, bánh trái chúng mình sẽ làm lễ thành hôn. Trọng bảo: - Cưới vào dịp đó ai đi dự được? Bích cười: - Thế càng may chứ sao? Tội gì tốn chè tốn rượu cho thiên hạ được dịp vừa uống vừa đàm tiếu. Chỉ một mình anh với em đã đủ vui hơn cả địa cầu này... Một câu nói cũ kỹ, nhưng làm anh cảm động. Chưa người đàn bà nào, chưa cô gái nào nói với anh những lời ngọt ngào đó trong đời. Tuy nhiên, anh vẫn muốn cuộc sống chung của họ nhanh chóng được hợp pháp hóa, anh muốn đưa Bích đi chơi thành phố, ra quê anh, muốn cùng cô thăm thú lại những mảnh đất đầy kỷ niệm thời chiến tranh - nơi anh đã sống qua tuổi trẻ, đã trưởng thành, đã đổ máu. Anh nói: - Em đừng sợ thiên hạ dị nghị. Chúng ta yêu nhau, đã sống chung, đằng nào sự thật cũng không thể thay đổi. Cô bảo: - Có gì thêm vào trong cuộc sống của chúng mình đâu?... Cưới hay không cưới em vẫn là của anh, anh vẫn có em đêm ngày. Trọng lắc đầu. Thường anh hay nhượng bộ cô, Nhưng đôi lúc anh gan lỳ: - Khác chứ. Trong cuộc sống của ta hiện nay có cái gì đó khuất tất. Tại sao chúng ta không thể khoác vai nhau đi chơi như tất cả những cặp vợ chồng khác, không thể thăm thú xóm giềng, bè bạn, không thể hẹn người này người khác tới nhà dự một bữa ăn tươi hay tham gia với họ một ngày chủ nhật du lịch. Tại sao em không thể là cô Bích, vợ anh Trọng mà lại là cô Hường?...Bởi vì em không phải một nhà văn, hoặc phóng viên báo, hoặc chính khách... Trong ngôi nhà này, chúng ta biệt lập với cả thế gian. Dù em có đưa ba lên trông nhà, cuộc sống của chúng ta vẫn bất thường so với mọi cuộc sống lứa đôi khác... Bầu không khí lập lờ không minh bạch này không hợp với tính cách của anh. Trước ngày em có quyết định ly hôn anh không dám nói. Giờ, việc chia tay của em với Nghĩa đã chính thức, chẳng còn trở lực chính đáng nào trong việc hôn nhân của chúng ta. Bích lắng nghe anh một cách chăm chú. Cô đáp: - Tất nhiên anh hoàn toàn có lý. Nhưng ngoài cái lý của anh, có cái lý khác nữa... Một trăm trường hợp ly hôn xong đã kết hôn ngay, cả một trăm trường hợp ngoại tình. Thiên hạ họ tinh khôn lắm. Họ đoán ra ngay. Trọng cười: - Cuộc sống chung của em với anh từ hơn một năm nay là cuộc sống ngoài hôn thú. Chẳng lẽ em không biết hay sao? Mặt Bích đỏ lên, cô nói: - Đã đành thế. Nhưng không ai muốn mặt mình có vết nhọ. Trọng bảo: - Thà rằng mặt có vết nhọ còn hơn ăn gian. Chúng ta đã yêu nhau ngoài luật pháp, chúng ta hãy chịu án ngoại tình. Như thế vẫn hơn chơi trò bạc bịp. Bích kêu lên: - Anh gàn lắm... Xã hội muốn mình thế nào, mình hãy sống như vậy. Thế là khôn ngoan nhất. Xem xem, thiên hạ đều sống vậy thôi. Trọng bảo: - Điều sỉ nhục cho con người là miệng họ nói những lời mô phạm, trung thực mà hành vi của họ lại đểu giả, gian dối. Xã hội nào còn dung nạp lối sống ấy, xã hội đó không thể phát triển. Sự gian dối có thể vì vụ lợi, cũng có thể vì hèn nhát, cả hai thứ đều xấu xa... Nói chung, anh không phù hợp với kiểu thích nghi này. Chiến tranh đã dạy anh những nguyên tắc quá đơn giản: viên đạn bao giờ cũng đi thẳng, nếu nhắm trúng đích thì anh thắng, nếu trệch anh sẽ bại và sự thất bại phải trả giá bằng máu hoặc sinh mạng của chính mình. Cuộc sống bây giờ phức tạp, viên đạn đi hình chữ chi...anh không hình dung được đồ thị của nó... Em đừng giận, đôi lúc anh cảm thấy hổ thẹn như mình là thằng ăn cắp khi buột miệng gọi tên em: Bích ơi... Và em quay lại lườm anh, giơ ngón tay ra hiệu phải gọi em bằng cái tên giả hiệu: Thanh Hường... Rồi mỗi lần bạn bè anh hỏi chuyện riêng tư, anh phải nhắc lại những câu chuyện, những lý lẽ em dặn. Em đã gà anh, như một thí sinh giỏi gà bài cho thí sinh kém, như đạo diễn tập vai cho diễn viên... Nhưng anh không có năng khiếu sân khấu. Anh là một diễn viên tồi... Anh không thể chịu cảnh sống tù túng và cắc cớ này mãi được... Nói xong, Trọng hắt cả một cốc nước lọc để nguội vào mặt vì anh thấy máu nóng bốc phừng phừng hai bên thái dương. Bích tới bên anh, cụp đôi mắt xuống với vẻ cam chịu. Cô cầm hai tay anh đặt lên ngực, và nói như van: - Em xin anh, anh đừng nóng giận...vì tình cảnh của ta ngang trái nên anh phải chịu nhiều thua thiệt. Nhưng cũng chính vì những thua thiệt ấy, em yêu anh gấp trăm lần... Trong đời, chưa người đàn ông nào khí phách như anh. Anh đã hy sinh quá nhiều cho em, nếu chúng ta cố sống với nhau một trăm năm, em cũng không đủ trả món nợ ân nghĩa đó. Trọng im lặng, anh cảm thấy trái tim nồng nàn của người đàn bà đang đập thúc hối dưới hai bàn tay mình. Làn da thịt quen thuộc của cô truyền sang anh cảm giác bình an, dễ chịu. Bích nói tiếp: - Thực ra, em định nói với anh một điều từ lâu, nhưng không dám... Em sợ điều đó làm anh đau lòng... Trọng bảo cô: - Em cứ nói. Bích cúi gằm mặt xuống, anh không nhìn thấy mắt cô, chỉ thấy món tóc phủ trên vầng trán: - Nói đúng ra, không phải em sợ dư luận xã hội mà trì hoãn lễ cưới của chúng ta. Em sợ con gái em đau lòng. Nó chưa đầy sáu tuổi, chưa đủ khôn để hiểu rằng em không thể sống chung với ba con nó. Nếu vắng em nó sẽ thiếu thốn rất nhiều. Chưa biết chừng, nó sẽ bỏ học hoặc đổ đốn ra như nhiều đứa trẻ khác. Trọng an ủi cô: - Em đừng buồn. Đã nhiều lần anh giục em đón con lên đây. Chúng ta sẽ cùng nuôi nó. Nó sẽ có em bé làm bầu bạn. Rồi lớn lên, nó sẽ hiểu mọi sự. Bích lắc đầu: - Nghĩa thương con bé lắm. Không bao giờ anh ấy chịu để cho nó đi. Trọng buông tiếng thở dài, đoạn anh nói: - Thôi được, tình cảnh đã thế, chúng ta đành phải chờ đợi. Nhưng tại sao em không nói rõ nguyên do từ đầu. Nếu là chuyện lợi ích của đứa trẻ, anh không bao giờ phàn nàn cả. Bích úp mặt vào ngực anh, thì thầm: - Vì tình yêu bao giờ cũng muốn độc chiếm. Em muốn anh chỉ là của em. Và em biết anh cũng thế. Dù là con trẻ, việc san sẻ tình yêu dễ mấy ai chịu nổi... Trọng định nói với cô ý nghĩ của cô sai lạc. Rằng anh yêu mẹ và bà cũng yêu anh bằng một tình yêu thấm sâu đến nỗi anh không thể hình dung được một người đàn bà trên cõi đời này ra sao nếu người đó không có một đứa con và không yêu nó với một tình yêu xương tủy... Nhưng anh im lặng. Anh vốn không thích nói nhiều, cuộc chuyện trò với cô vừa qua đã rút hết lòng hăng hái trong anh. Anh buông Bích ra để đi uống một cốc nước lạnh vì cổ họng khô rang. Rồi họ lại cùng nhau làm món bún bung sườn... Cuộc chuyện trò ấy cách đây đã hơn ba tháng. Mùa thu sang thật sự rồi. Thoạt tiên, chỉ là hơi gió rung rẩy trên lớp cỏ làm rơi rụng những hạt cỏ may xuống vệ đường. Sau rồi, ánh nắng bớt chói chang, chuyển sang màu vàng rơm tươi tắn. Nó không nung chảy những con lộ trải nhựa, mà chỉ làm các sườn đồi óng ánh như lông nhung, cỏ đẹp như thế ngày mai sẽ tan biến trong bụi cát, những con chim lích chích nhỏ hơn nắm tay trẻ con nhảy từ sườn đồi này sang sườn đồi kia, tìm sâu trong các lùm cây gai quả đỏ. Các dòng suối cạn bớt, nước trong veo, chảy róc rách giữa các trái đồi cách đường cái chính không bao xa. Chiều chiều, lũ trẻ đi hái quả rừng và chặt cây chổi dừng lại ven suối tắm rửa, cất tiếng hát: Chim là chim ơi Sao mày rũ rối Bao nhiêu là sợi Của ông trăng Già. Lác đác, đã có những nhà đốt pháo cưới. Cặp trai gái trẻ trung nào đó hối hả tìm hạnh phúc, hay cặp vợ chồng muộn nào đó cố gắng cướp lại thời khắc bất tuyệt của cuộc đời...tiếng pháo cưới làm người đàn ông buồn. Anh không muốn lặp lại chuyện cũ một lần nữa. Nhưng tháng ngày lần lữa trôi, và niềm khao khát một đứa con càng ngày càng vò xé. Trọng ít soi gương nhưng thi thoảng, anh đứng trước tấm kính tráng thủy ngân gắn vào cánh tủ, tần ngần nhìn mấy nếp nhăn vừa xuất hiện dưới đôi mắt. Hai món tóc bạc lẫn vào đám tóc đen dày, tựa như hai vành trăng liềm buồn thảm. Ba mươi tám rồi, liệu đến bao giờ anh mới được làm cha? Bích không nhắc nhở tới chuyện cưới xin. Dạo này, cô bận lắm. Cô đang phấn đấu vào Đảng. Với thế lực của cô, chỉ cần được kết nạp là trong vòng ba năm sau, cô sẽ trúng Đảng ủy của Ty thương nghiệp. Chưa biết chừng còn có thể lên tới tỉnh ủy viên. Khó khăn nhất vẫn là cái cửa ải đầu tiên: chi bộ, cái tổ chức Đảng còm cõi nhất bao gồm toàn những con người chung sống với cô ngày ngày..Bích ở lại dưới thành phố luôn. Cuộc sống chung của họ bị gián đoạn. May còn có ông bố của cô. Nhưng ông lão câm lặng như bóng ma. Suốt ngày ủ dột ngồi nhìn chai rượu, và đôi lúc lắng nghe tiếng còi tàu từ thành phố vọng lên. Ông nói như vậy, có lẽ đó là cơn vọng tưởng của người già. Kỳ thực, chưa bao giờ Trọng nghe thấy tiếng còi tàu. Cách thành phố những hai chục cây số đường chim bay, làm sao làn sóng âm truyền tới. Ông già như người mắc chứng mộng du, lang thang trong những cơn mộng tưởng về đứa con trai yêu dấu. Trọng chưa gặp mặt chàng trai đó. Còn mỗi Tân anh nói chuyện về Bích, ông thường giữ một vẻ im lặng bí ẩn, hoặc ông lảng tránh những câu hỏi của anh bằng lối trả lời vơ vẩn của người già... Làn khói thuốc bay lên, vòng vèo trong không gian trước khi lẫn vào khí trời trong suốt. Sau những cơn mưa, muỗi nhiều nhưng trời lại trong như lọc. Cát bụi đã lắng xuống. Các vườn cây được tắm gội xanh thắm lại. Cả những bông hoa tàn ướt sũng nước, chỉ chực rời rã từng mảnh cũng đẹp. Còn những đám lá non bóng như được quang dầu. Trọng ném mẩu thuốc vào chiếc gạt tàn, xoay người nằm nghiêng. Anh thấy ngoài cửa sổ mấy ngọn nhài vừa vươn lên, run rẩy. Nắng sớm soi vào, nhìn rõ cả những đường gân nhỏ và thẫm chạy trên phiến lá non tơ. Mùi thơm tràn đầy căn phòng. - Sao nó ngái lắm vậy... Trọng thầm hỏi, cảm giác bực dọc rất mơ hồ len vào con tim. Lần đầu tiên anh thấy khó chịu bởi mùi hương lẳng lơ của loài hoa đêm. Bụi nhài ấy, chính anh đã đánh từ vườn cảnh của một người bạn thiết cốt từ trên nhà máy thủy điện An Hoa đem về. Bao nhiêu cây số đường trường gìn giữ một nắm đất được gói ghém bởi mấy lớp giây báo. Cũng chính anh đã xây bồn hoa đó, bằng những viên gạch vỡ thu lượm được sau khi xây nhà. Và bên ngoài lớp vữa trát, anh đã gắn những mảnh men kính vụn khiến bồn cây cảnh lúc nào cũng lấp lánh như mạ thủy ngân. Ngoại trừ cụm nhài, anh còn trồng cả một bụi trúc vàng, vài gốc hồng xiêm với một luống hoa cúc đại đóa. Cái công trình tu tạo cho ngôi nhà hạnh phúc lấy mất của anh rất nhiều mồ hôi và sự say mê. Mồ hôi đã thấm xuống cát, còn niềm say mê đã bắt đầu rạn nứt. Trọng nhìn những ngọn nhài non vươn lên ngoài khung cửa, thấy xa lạ. Trước kia, anh có thể bỏ từng giờ ngồi ngắm. Giờ, nó chỉ là vật vô hồn chẳng đáng ghét bỏ cũng chẳng đáng yêu. Một bộ phận của ngôi nhà này, cái thánh đường anh dành cho tình yêu của anh, niềm hy vọng của anh về một đời sống gia đình bền chặt và êm ấm, nó không còn ý nghĩ lớn lao như anh vẫn tưởng. Bất cứ người đàn ông nào cũng có thể nhặt một cụm nhài từ xó vườn của ai đó đem về trồng bên rãnh nước, bên sân, thậm chí bên chuồng nuôi lợn. Loài hoa mọc sàm sỡ như cỏ dại. Thứ hương thơm đĩ thỏa ban phát còn sàm sỡ hơn sức sinh thành của chúng. Vậy mà anh đã cất công đem từ mấy trăm cây số về... Lão Ngạn hắng giọng ho ở phòng ngoài. Rồi cất tiếng: - Anh Trọng thức dậy chưa? Trọng đáp: - Con dậy lâu rồi, còn hút thuốc. Có việc gì đấy ạ? Lão Ngạn nói: - Có lẽ tôi phải vào thành phố. Trọng ngồi dậy, khoác chiếc áo sơ mi đi ra: - Lần trước bác vào có gặp chú Cường đâu? - Phải. Họ bảo tàu nó vừa nhổ neo ba tiếng đồng hồ. Nhưng hôm qua có người quen ghé qua đây tình cờ gặp tôi. Họ bảo gặp nó trong quán nước mía ven bờ biển. - Mới được trên mười ngày... Không có chuyến đi nào ngắn thế. Có thể là họ nhầm chăng? - Không, người quen cũ, thường cất hàng cho tôi từ hồi chúng tôi dinh tê về thị trấn Cam. Nói để anh rõ, hồi đó chúng tôi bỏ chiến khu vào vùng tề, năm bốn tám. Ông ta không nhầm được. - Vâng, nếu bác muốn đi, con không dám cản. Nhưng thế nào Bích về đây cũng la lối. Trước khi lên xe, cô ấy dặn đi dặn lại rằng không để cho bác vào phố. - Nó dặn anh phải giam tôi trong căn nhà này? Tôi làm sãi giữ chùa không công?... - Bác đừng nói vậy, oan cho cô ấy... Bích ngại bác yếu, không thể đi xa mà không có người đi theo. Lão Ngạn cười nhạt, đưa mắt nhìn Trọng như lần đầu gặp anh. Rồi lão hỏi: - Mấy hôm nó chưa về đây nhỉ? - Năm hôm rồi. - Nó bảo với anh là bận việc gì? - Cô ấy đang thu mua hàng cuối quý để hoàn thành vượt mức kế hoạch Ty thương nghiệp giao. Người ta đang thử thách Bích lần cuối trước khi kết nạp. Lão già cúi xuống, trầm ngâm nhìn chén trà đã nguội lạnh trước mặt. Rồi, lát sau ngẩng lên: - Này tôi hỏi thật, hình như anh yêu con Bích lắm? Một câu hỏi chẳng ăn nhập gì với chuyện đang bàn. Trọng đỏ bừng hai tai. Anh chưa bao giờ phải trả lời một câu hỏi thật thà đến thô bạo như thế. Anh lúng búng hồi lâu, sau khẽ đáp: - Vâng. Lão già không nhìn anh, hỏi: - Trước đó anh chưa có chuyện...đàn bà phải không? Mặt Trọng càng đỏ hơn, hai thái dương anh cũng nóng rực lên. Anh cúi xuống: - Vâng. - Đi lính từ năm mười sáu? - Vâng. - Thế thì tôi hiểu... Lão nói rất khẽ, như để cho riêng lão nghe. Rồi đôi mắt đục của lão trở nên xa xôi, bí ẩn. Trọng biết rằng lão không mảy may nghĩ tới anh vào phút này. Lão đã lạc vào một thế giới riêng biệt, thế giới mộng mị và hồi tưởng, khu rừng cấm của mỗi người, đám rong rêu tối tăm và rối như tơ vò không ai lần được đầu mối... Nhưng sao anh bỗng thấy buồn nản, thấy chán chường, cảm giác chưa từng có. Vẻ ủ dột bí hiểm của lão già có mối dây nào đó hệ lụy tới anh, tình yêu, niềm hy vọng hoặc những đau khổ chờ đợi anh trong tương lai?... Tất cả chỉ như những ảo ảnh mờ nhạt hiện trong sương mù. Nhưng tim anh thấp thỏm... - Bác ơi, bác đoán bao giờ Bích về? Anh hỏi lão Ngạn, thầm mong lão quả quyết được một lần. Nhưng lão không nghe anh hỏi. Lão đang phiêu diêu trong cơn du mộng. Mắt lão như đầy sa mù. ° ° ° Đang cọ rửa sàn tàu, chợt Cường nghe Tuấn hói gọi: - Chàng còm, hình như ông già mày đang ở dưới kè đá. Cường vứt nắm giẻ bẩn xuống, kiễng chân nhìn qua ô cửa tròn trong phòng. Anh thấy cha mình đứng dưới kè thật. Lão Ngạn khoác chiếc áo ca-pốt lính cũ, trông lướt thướt như cha cố trong bộ trùng thâm, cái dáng vóc thấp bé của lão trông càng nhỏ nhoi hơn. Anh hốt hoảng bảo Tuấn: - Anh làm ơn nói dùm là em đi vắng. Tuấn hói ngạc nhiên: - Sao lại thế?... Vừa lúc trưởng máy Bá dưới khoang tàu leo lên. Cường túm lấy Bá van vỉ: - Anh xuống kè nói với ba em là em đi vắng. Em không muốn gặp mặt ông cụ. Em rất sợ... Bá không hỏi gì thêm, lau đôi tay dầu mỡ vào miếng giẻ khô anh đem theo, đoạn thong thả bước lên cầu tàu. Cường vào phòng, đứng nép bên ô cửa, ghé mắt nhìn xuống. Anh thấy lão Ngạn đứng ngơ ngẩn nhìn đám tàu dưới vùng biển, hết tàu này tới tàu kia, tìm kiếm. Gương mặt tái xám đầy nếp nhăn. Đôi lúc tiếng máy cẩu rú và những tay cẩu khổng lồ quay trục hàng khiến lão giật thót, mắt lão kinh hãi nhìn chúng như nhìn những con dã thú đầy sức mạnh chế ngự và quyền uy. Cằm lão không cạo, những sợi râu thưa thớt quăn lại, trông yếu ớt, bẩn thỉu. Chàng trai đau lòng. Đã lâu không gặp cha, anh không ngờ ông lão chóng suy kiệt như vậy. Anh thèm muốn ngồi với lão buổi tối, nghe mưa rơi ngoài mái hiên, nghe tiếng xe thổ mộ đi qua phố vắng, nghe tiếng rao quà vặt vọng vào. Anh thèm được đi song song với lão lên đồi đan tiêu những chiều tĩnh lặng, trời êm dịu nhưng gió biển từ dưới thành phố thổi lên còn đủ sức xao động những vòm lá đan tiêu, khiến chúng đỏ như lửa cháy, tỏa sáng và tỏa hơi ấm cho khung cảnh hoang liêu muôn đời nơi thị trấn. Anh thèm bưng cho lão một bát cháo nóng, có rắc hành và lá cây hao thái nhỏ... Anh thèm... Nhưng tất cả những khoảnh khắc hạnh phúc như vậy chỉ có được, khi lão là một người cha ngu ngơ, hiền thục, khi lão quên đi giấc mơ cuồng dại. - Giá như không có chuyện đó. Giá như... Cường thầm nghĩ... Dưới kè, lão Ngạn đang túm lấy hai người phu khuân vác, hỏi gì đấy. Họ lắc đầu, bỏ đi. Ông già đứng nhìn theo, dúm dó, chơ vơ giữa khung cảnh chẳng hòa nhập với con người như lão. Lão bước vài bước, tới sát mép kè đá, ngó xuống biển. Nước như thâm lại vì trời không nắng, đầy những vệt dầu loang, những đám rong nhớt nhát và rác rển. Anh thấy cha mình không dám cúi đầu thấp hơn, nhưng cũng không lùi lại một bước. Hình như làn nước mặn dơ dáy kia có sức hút kỳ lạ với lão, như lão bị thôi miên bởi vẻ đẹp mặn mòi và nguy hiểm của chính nó... Bá đã xuống kè, đi dọc theo mép nước, tới sau lưng lão. Anh cất tiếng chào khá lớn, đứng trên tàu, Cường nghe rõ mồn một. Cha anh quay lại, đáp lễ với vẻ sửng sốt. Ông già đưa cả hai tay nắm tay Bá, ngửa mặt nhìn chàng thủy thủ vì lão chỉ đứng tới ngực anh. Bá mời lão tới căng-tin của cảng, phía gần cổng ra vào. Hai người đi qua khoảng sân rộng mênh mông, qua những dãy kho tạm, những cần trục hàng và đám người khuân vác chạy đi chạy lại như đàn kiến. Mỗi lúc họ mỗi xa giống như hai cái chấm di động. Cường bất giác buông tiếng thở dài rồi nắm lấy mảnh giẻ tiếp tục cọ sàn tàu... Tuấn hói đã cọ rửa xong sàn phòng, đang rống lên trong buồng tắm. Vừa xối nước ào ào, anh ta vừa hát. Giữa chừng lời ca, đột ngột Tuấn hỏi vọng ra: - Mày có vào phố với tao không Cường? - Không. - Ở tàu làm gì? - Em chẳng làm gì cả. Hoặc đọc sách. - Mày không ngán mùi tàu sao? - Bây giờ em cũng đã quen. - Nếu thế thì tao chúc mừng chú em. Mày sẽ thành thủy thủ giỏi... Nhưng có lẽ điều đó không xảy ra. Vì đến tao cũng chẳng thú gì với mùi tàu, một thứ tổng hợp của mùi hàng hóa, mùi gỉ sắt, mùi dầu máy, mùi nước mặn và mùi phòng vệ sinh tiết kiệm nước rửa... Đúng không? - Vâng. - Thế thì xuống phố đi. Sao mày cứ ru rú suốt tháng trong phòng tàu. Tuấn hói đã tắm xong, không thấy tiếng dội nước ào ào mà là tiếng vò xát quần áo. Ca sĩ nói tiếp: - Đi với tao không lát nữa tàu vắng, thằng Đính về lại gây sự. Không có thằng Bá, không có tao thì nó nhai gỏi mày... Cường bỗng thấy nóng mặt: - Chẳng lẽ chỉ vì sợ anh ta mà em phải lánh mặt xuống phố hay sao? Tuấn nói: - Đừng tự ái. Tao bảo thật đấy. Thằng ấy thuộc loại sát nhân bẩm sinh. Không ai có thể đoán trước hành động của nó. Cường đáp: - Nếu anh ta thích đánh, cho đánh... Nhưng nói xong, sống mũi chàng trai bỗng cay như ăn dưa cải xanh. Cường miết mạnh mảnh giẻ xuống sàn, cố ghìm nước mắt. Nếu anh có mẹ, chắc anh sẽ thầm gọi: Mẹ ơi. Nhưng vì mẹ anh đã chết ngay lúc anh cất tiếng khóc chào đời, nên đó chỉ còn là một danh từ hư ảo, một giấc mộng xa xôi dựa trên những đoán định và liên tưởng khác của đời sống. Cường nhúng mảnh giẻ bẩn vào thùng nước, vò thật mạnh để khỏi có những ý nghĩ mềm yếu. Tuấn hói đã giặt xong, bước ra trong bộ quần áo mới. Tóc anh ta chải bóng mượt, trông càng hói hơn. Nhưng vẻ mặt anh ta tươi rói, mãn nguyện vì sạch sẽ, vì tự tin ở thân mình. Hai vồng ngực Tuấn nổi phồng lên, tràn trề sinh lực. - Chưa xong cơ à? Anh ta hỏi Cường, đưa mắt liếc thùng nước bẩn, bảo chàng trai: - Đừng sạch sẽ quá, vô ích. Cái phòng này có phải lầu kén chồng của các tiểu thư thời xưa đâu. - Vâng. Cường đáp, thèm khát vô biên cái vẻ mãn nguyện và tự tin của người đàn ông đứng trước mặt mình. Những người đàn ông khác nữa, sao họ khỏe khoắn thế, họ tự tin đến thế?... Cuộc sống với họ thật dễ dàng: làm việc họ thích làm, yêu người đàn bà họ ưng thuận, ăn món ăn họ chọn lựa. Tuấn hói vào phòng riêng, lát sau anh ta bước ra, thơm sực mùi nước hoa. Tuấn giơ tay xoa đầu Cường: - Thôi, ở nhà gác tầu vậy. Lát nữa về tao mua quà cho. Mày thích ăn bánh bao xá-xíu hay bánh dầy kẹp chả? Cường đứng nhìn theo Tuấn hói, chàng ca sĩ kiêm võ sư ưỡn bộ ngực ra một cách kiêu mạn đi qua cầu tàu. Sau hình ảnh của một người đàn ông luôn luôn tự bằng lòng mình, anh ta còn là một thủy thủ giỏi. Bước trên cầu tàu, mắt Tuấn hói không hề ngó xuống dè chừng làn nước, cân nhắc bước chân trước khoảng rộng của tấm thép. Anh ta bước đi với vẻ ung dung của một chủ vườn dẫm trên các lối cát quen. Bên kia cây cầu tàu, những con tàu khác đậu xin xít, tầu chờ cẩu hàng lên bờ, tầu chờ ăn hàng mới. Bờ kè đá chạy nửa đường cong pa-ra-bôn. Những chiếc cẩu rồ máy, trục quay ken két hết ngoạm lại nhả những kiện hàng khổng lồ. Đám công nhân khuân vác chạy đi chạy lại không ngừng, làm khung cảnh sinh động, rộn rã hơn. Và trên tất cả, là bầu trời không giông gió, không chói chang nhưng vẫn quần tụ những đám mây xám lớn, giống như đàn ngựa hoang và những cánh chim âu chấp chới, dự báo một hiểm nguy không tính trước vì tính chất bất tường của biển cả, cái đặc tính không một vùng bình nguyên hay núi non nào có thể có. Khung cảnh ấy thật hợp với người đàn ông kia, như tấm áo vừa khít lưng của cô gái. Dường như anh ta sinh ra để sống với tàu bè, sóng nước, và thở hít làn không khí mặn của biển khơi... Nắm giẻ lau bẩn vẫn nhỏ nước tong tong xuống thùng. Bỗng dưng, chàng trai thấy chán ngắt mọi thứ. Cả cái công việc khổ sai này nữa. Cường ném nắm giẻ vào thùng nước, khiến nó sánh ra sàn tàu. Anh nằm vật xuống giường... ...Trong hồi ức tuổi thơ của chàng trai, mặt trời lặn theo những chiếc nan gỗ trên bánh xe thổ mộ. Hồi ấy, người ta chưa dùng bánh cao su bơm hơi mà dùng bánh gỗ bọc cao su. Thị trấn Cam hẻo lánh chợt giòn giã vui vẻ trong tiếng nhạc ngựa lanh canh. Bánh xe lọc cọc lăn qua đường. Cường cùng đám con trẻ trong phố chạy theo xe, reo hò ầm ĩ. Những con ngựa béo mượt, đầu cắm lông trĩ nhuộm phấn sặc sỡ, có đủ yên cương, đai thắng ưỡn cái ức nở trước hàng trăm cặp mắt thán phục của lũ trẻ huyện ly. Cái mũi ướt của chúng phập phồng, và hai lỗ mũi như nở to ra. Mùa đông, từ hai lỗ mũi ấy tuôn ra hai làn hơi trắng xóa. Cường tròn mắt ngắm nghía luồng hơi nóng hực, có mùi ngựa, tưởng như hai ống khói của lò vôi được Phật Bà Quan Âm thu nhỏ. Thường, lũ trẻ chạy theo xe hàng cây số, mệt nhoài chúng mới quay về, tóc tai mướt mồ hôi và bụi. Và mỗi bận, chúng đều bị mắng, thậm chí còn xơi vài ngọn roi. Riêng Cường là không. Cha anh chiều anh. Anh là đứa con duy nhất, nguồn vui duy nhất của ông chủ cửa hiệu tạp hóa Mỹ Dung, một người đàn ông khá giả nhưng cô đơn, gương mặt lúc nào cũng ủ dột, tái xanh như mắc chứng thiếu máu. Trước, Cường cũng có một cô chị cùng cha khác mẹ, nhưng năm anh lên sáu, chị ta biến mất. Sau này, khi Cường đã trưởng thành, thi thoảng nọ mới gặp nhau. Kỷ niệm về người chị này, với Cường, chỉ là mùi phấn rôm thơm lừng được vỗ ra từ hộp phấn màu hồng. Cô chị rất thích lấy trộm phấn rôm của em dùng. Và thêm nữa, là những cái cấu véo thầm vụng. Chàng trai vẫn nhớ một lần Bích cấu trộm anh đã bị cha đánh mười roi phất trần rồi bắt quỳ vào xó nhà phía sau tủ đựng giấy bút và các loại mũ áo cho trẻ đi học. Mặc dù vú em chăm bẵm Cường rất cẩn trọng, bám sát anh như cái đuôi nhưng không lúc nào cha anh rời mắt khỏi đứa con trai. Kể cả khi ông nhận hàng hoặc bán hàng, hoặc ngồi cộng trừ những dãy số dài dặc sau chiếc bàn gỗ nhẵn bóng. Cha anh đã yêu anh với một tình yêu không bình thường. Ngay cả những người đàn bà đầu óc cạn cợt cũng không yêu con với tình yêu như thế. - Con trai của ba, cưỡi lên bụng ba nữa đi... Vú xem này, thằng Cường nó lại đòi sờ tí tôi... A ha ha. - Con trai ba khỏe quá nhỉ... Nào, đấm nữa, đấm nữa đi... Ông chìa bộ mặt xanh xao ra trước con trai, cổ vũ nó đấm. Sau này, vú em kể lại chuyện ấy với anh. Cha anh nuôi anh bằng sữa hiệu Tổ chim, bằng nhân sâm Cao-ly chính phẩm bằng thịt bò ép nước hầm đậu xanh, bằng sườn lợn ninh gạo nếp... Tất cả các loại thực phẩm đắt tiền nhất mà ông có thể mua được. Nhưng cậu bé Cường vẫn là đứa bé còm cõi nhất trong phố. Anh gày, nhút nhát, đôi mắt lúc nào cũng như e ngại, như phòng hờ một tai nạn bất trắc. Cậu bé ít tham gia những trò chơi của lũ trẻ trong phố, phần vì cậu yếu sức, phần vì thấy không hấp dẫn. Bọn trẻ cùng tuổi với Cường thích tập trận giả, thích chơi trò cưỡi lưng ngựa, thích đấu kiếm gỗ, thích bơi... Trong lúc chúng tham dự trò chơi, cậu đứng ngoài xem, vỗ tay khích lệ. Cường khác hẳn chúng, cậu thích chơi búng nịt với lũ con gái, chơi chuyền, chơi búng hạt nóng hạt na... - Thằng lai gái...ê ê ê...đồ mặc váy kia. - Cường ơi, suốt ngày mày bám đít tụi con gái...xem tụi nó ị thối hay thơm... Ê ê è... - Đuổi cổ thằng Cường lai gái đi, chúng mày ơi. Không bao giờ anh quên nổi cảm giác cô đơn ngày ấy, khi lũ bạn trai độc ác giật tóc, đá đít anh đuổi đi... Anh lảng tránh bọn chúng. Hết giờ học, Cường thui thủi ở nhà. Anh học bài, làm thủ công rồi theo chú Hai, ông già láng giềng tốt bụng vào vườn cây. Chú Hai có hơn một mẫu vườn trồng toàn cây ăn quả. Những người lái buôn từ thành phố và các huyện ly lân cận đánh xe tới tận vườn mua trái chín. Mùa nào thức nấy, không lúc nào ông già vơi túi tiền. Ông làm một chiếc chòi sàn gỗ mái lá ở chân đồi dứa, nơi vườn cây được bao bọc bởi hàng rào gai găng, có cửa trổ ra dãy đồi bát ngát phía sau. Ông xách bầu rượu, túi thức nhắm lên chòi. Cường lẽo đẽo theo sau. Hai chú cháu ngồi, ông già uống rượu, Cường ăn lạc luộc, mực khô nướng hoặc bánh đa. Ông Hai không vợ không con, ông yêu thằng bé lúc nào chẳng biết. Thoạt đầu, Cường rạch hàng rào đỗ leo sang chơi với ông. Sau, tới lượt ông bước qua bờ dậu sang tìm thằng bé. Ngày nào Cường ốm hoặc đi vắng, ông ngơ ngẩn xách túi thức nhắm đi đi lại lại quanh chòi. Ông biết nhiều chuyện, ông đã kể cho anh nghe, ngày nọ qua ngày kia. Giữa những câu chuyện, ông thủ thỉ với anh về cách thức ươm hạt chiết cành, cách bón phân cho mỗi loại cây, cách lai ghép chúng... Rồi ông rèn cho Cường một chiếc xẻng tí xíu, cho đứa bé tập sự làm vườn... Như thế, ngày tháng trôi qua, cho tới năm Cường lên chín. Một chiều hè, anh đang lúi húi cắt dán hình vẽ bằng giấy màu vào cuốn vở thủ công, chợt nghe gọi: - Cường ơi, ra ba bảo. - Thưa ba vâng. Cường đáp. Cậu bé xếp thứ tự những tấm hình muông thú, hoa lá bằng giấy nến vào vở. Chiếc kéo bé tí xíu và lọ cồn Cường bỏ trong chiếc hộp gỗ. Xong xuôi, anh chạy ra ngoài. Cha anh vừa thu xếp hàng hóa xong, ngẩng khuôn mặt nhễ nhại mồ hôi lên: - Lấy quần áo sạch, cha con mình đi tắm. Ông bảo anh, và nói thêm: - Chiều nay không tắm ngoài giếng. Cha con mình ra sông. Lúc ấy, cậu bé Cường thích chí nhảy cẫng lên. Chưa lần nào Cường được cha cho hưởng thú vui ấy. Lũ trẻ cùng lớp ngày nào cũng ra sông bơi ùm ùm và chúng kể lại chuyện đó một cách thản nhiên, trước vẻ tò mò lẫn thèm muốn của anh. Cường vào nhà lấy quần áo. Từ năm anh lên bảy, vú em bỏ về quê. Người chồng tệ bạc của vú sau mười tám năm lăn lóc từ Nam ra Bắc với một ả tình nhân đã mất hết gia sản, trở về quê. Mắt ông ta mù dở nhưng lưỡi ông ta sắc như lưỡi dao. Ông tỉ tê thế nào mà chỉ vài giờ đồng hồ, vú đã quên mọi oán thù cũ, quên những trận đòn ác nghiệt ngày xưa, quên chuyện ông ta đã bán sạch vườn tược, nhà cửa, bán đến tận manh áo cưới của vú để gói cục tiền đi theo gái, và đẩy vợ vào tình cảnh lang thang suốt ngần ấy năm trời, nay ở đợ nhà này, mai ở vú cửa kia... Vú khóc, từ giã cha con Cường, trở về cày sâu cuốc bẫm nuôi gã đàn ông phụ bạc nay đã thành phế nhân. Tự ngày ấy, mọi việc Cường đều tự làm lấy. Cậu bé sắp xếp quần áo cho cha, cho mình rồi đứng chờ ông. Lão Ngạn hài lòng: - Ta đi thôi. Đoạn, lão nói thêm: - Từ chiều nay, ba sẽ dạy con bơi. Cậu bé nói: - Con chỉ thích xem tụi nó bơi thôi. Con sợ lắm. Cha anh đưa mắt lườm: - Đừng ăn nói nhảm nhí. Cường im bặt. Cậu bé không dám cãi cha nhưng cảm thấy ông mắng mình một cách bất công. Họ im lặng qua phố, qua giải đồi thấp, ngược lên sông Cam. Mặt trời chưa lặn, đỏ như trái bòng bong chín. Dòng sông tươi sáng, rực rỡ vì những làn phản quang hòa trộn. Nước sông trong và ấm. Lũ trẻ thị trấn bơi ùm ùm, vừa bơi vừa la hét, vừa té nước giỡn chơi. Cuối bến, các chủ ngựa đua và chủ xe tắm cho lũ ngựa, tiếng quát tháo ồn ĩ của họ vang động cả hai bờ. Cường đứng ngây người trước quang cảnh kỳ thú ấy, sửng sốt vì đám trẻ táo tợn đang nhào lộn như những con cá kình trên mặt nước, mê mẩn vì cùng lúc, cậu nhìn thấy hàng chục con ngựa tụ tập trên bến sông. Nhưng cha cậu đã vắt quần áo lên cành cây, chạy xuống: - Cường. -Dạ. - Lại đây ba bảo. Cường chạy tới. Ông cầm tay con trai lôi tuột nó xuống dốc lát toàn thứ sỏi nhỏ, trơn. Cường suýt ngã, loạng choạng trượt theo bờ dốc. Theo đà, cậu bé lội tõm xuống nước. Lão Ngạn vẫn cầm tay con: - Nào, bơi đi. Lão hét lên, ra lệnh một cách tự tin và vui vẻ. Sau đó, đẩy Cường ra xa. Làn nước ập tới, đột ngột tràn vào họng cậu bé: - Ba ơi... Cường hét to, uống một ngụm nước khác lớn hơn. Cậu bé nắm chặt tay cha, cuống quýt lội vào bờ. Lũ trẻ thị trấn thấy cảnh đó, cười rộ lên: - A ha, thằng Cường lai gái tập bơi... - Chúng mày trông kìa, nó chạy vãi đái ra quần... Ê.. ê.. ê... Cha Cường quắc mắt nhìn con: - Mày xem chúng nó bơi kia kìa. Rồi giữ tay Cường, ông hạ giọng ôn tồn: - Tay đập thế này nhé, chân choãi ra đạp nước theo, cổ ngoi lên hớp hơi thở...có gì đâu?. Con xem này... Lão Ngạn nhào xuống nước bơi làm mẫu. Bơi được vài chục thước lão quay lại, thở hổn hển như vừa đánh vật, môi thâm xì. Cường nhìn cha, sợ hãi. - Bây giờ con cứ làm như thế cho ba... Nào, bắt đầu. Một tay lão nâng bụng con, tay kia cầm tay thằng bé quạt nước. Trong tay cha, đứa con trai cử động như một hình nhân, như thằng nộm đuổi chim trên ruộng lúa chín. Lúc ấy, Cường không nghe cha anh nói gì, không nhớ gì, chỉ cảm giác đau buốt hai bên màng tang khiến đầu óc tê dại. Làn nước mênh mông, dập dềnh như cái lưỡi của loài dã thú thời mông muội, nó sẵn sàng nuốt chửng cậu trong cái họng khổng lồ. Nỗi sợ hãi khiến cậu bé mờ mắt. Cậu không nghe tiếng người cha hạ lệnh bên tai: - Chú ý, ba buông tay ra đấy nhé... Hai ba... Ngay khi lão Ngạn rút bàn tay khỏi bụng đứa con trai, nó đã chìm nghỉm. Nó uống no nước, quẫy đạp một cách tuyệt vọng xuống lớp bùn nhão, cố dò tìm lối lội vào bờ sông. Lão Ngạn kéo con lên, mắt long sòng sọc: - Sao mày ngu thế hả?... Tao đã tập bao nhiêu lần rồi?... Cường khóc. Nước mắt chảy lẫn với nước nhỏ từ trên tóc xuống. Tiếng la hò chế giễu của lũ trẻ làm nó nhục nhã thêm: - Ông Ngạn ơi, bắt cho nó con chuồn chuồn... Ông có thuê, mai cháu bán cho con chuồn chuồn ngô cỡ bự?... - Cường lai gái ơi, cho chuồn chuồn cắn rốn đi rồi hãy tập bơi. - Lêu lêu lêu, khóc nhè chè thiu... Chịu khó gọi tao bằng cậu mai tao tập bơi cho... Chúng cười ré lên, la hét ồn ĩ. Rồi dăm đứa té nước ràn rạt về phía cậu bé. Lão Ngạn gầm lên: - Cút ngay, có muốn tao bảo bố mẹ chúng bay không hả?. Mặt lão tái, mồi thâm xì. Một nỗi hổ thẹn không thể che đậy khiến chân tay lão run bắn lên. Xách tay Cường lôi lên bờ, lão Ngạn nghiến răng bảo: - Hoặc mày chết, hoặc mày phải biết bơi, tao không thể đẻ ra một thằng hèn như vậy. Buổi tối Cường sốt. Cậu bé phải nghỉ học liền một tuần lễ. Nhưng ngay khi Cường khỏi bệnh, tới trường cha cậu đã đưa cậu ra sông. Lần này, lão đưa con trai đi tập bơi vào buổi sớm, lúc lũ trẻ trong thị trấn đi học hoặc đi bán rong, quay bột hoặc quai búa phụ trong các lò rèn. Ông chủ hiệu tạp hóa Mỹ Dung đóng cửa hàng mười hôm liền. Thời gian đó, nhất quyết tập cho đứa con trai biết bơi. Ông dìm con xuống nước khi dỗ dành nó chán chê mà không được. Ông tát thằng bé, lấy roi quất hai mông nó đỏ nhừ những lằn ngang lằn dọc, ông sỉ nhục, ông van vỉ đủ trò. Cường đã năn nỉ, đã ương bướng từ chối, đã gào khóc, uống no nước, sặc sụa, quẫy lộn... Cuối cùng cậu bé học được cách ngoi lên mặt nước, thoát khỏi cơn chết ngạt... Nó biết bơi. Nhưng dòng sông với cậu là ám ảnh ghê rợn, là mối thù không phân xẻ... Một tiếng nói đột ngột vang bên tai chàng trai: - Cậu ngủ à?... Cường ngồi nhỏm dậy: - Không. Em vừa ngả lưng cho đỡ mỏi. Bá ngồi xuống giường, tiếp tục rít điếu thuốc đang cháy dở: - Ông cụ về rồi. Tôi nói rằng cậu được biệt phái sang tàu khác trong ba tháng. Cường nhìn Bá: - Ba em có tin không? Bá gật đầu: - Tin. Còn những niềm tin cao hơn thế. Anh nhíu mày, rít nốt hơi thuốc cuối cùng. Cường buông tiếng thở dài. Bá hỏi: - Chẳng lẽ cậu đã vun đắp cho ông già những giấc mộng ấy? - Không. Em biết đó là chuyện hão huyền. - Tự ông cụ đẻ ra chúng? - Vâng. - Tại sao?... ít nhất cũng phải có một căn đế?... - Căn đế nào, chính em cũng không biết... Ba em là người đàn ông thất bại trong cuộc sống. Ông chỉ có một niềm kiêu hãnh, đó là quá khứ vẻ vang của gia đình. Con một thủy sư đô đốc lừng danh, giàu sang và được trọng nể khắp xứ. Thế thôi... - Bây giờ, ông cụ tin chắc rằng cậu sẽ tiếp tục khả năng đem lại vinh quang cho gia tộc? - Vâng. Tin chắc. Tin đến mức em không dám cho cụ biết sự thật - Như thế, lại là cách tự sát hiệu nghiệm nhất. - Nhưng giá có nói rõ sự thực, ba em cũng chẳng chịu nghe. Lần nào em về phép, cụ cũng thấp thỏm mừng rỡ, hy vọng rằng em đã được cất nhắc, được bổ nhiệm một chức trách nào đó quan trọng trên tàu. Lần nào gặp em, cụ cũng nhìn em với cặp mắt chứa chan hy vọng. Cụ thêu dệt nên những hy vọng ấy, không cho ai can thiệp, không cho ai phân giải, bất chấp mọi điều kiện có thực trong đời... Như người đi trong đám mù ông cụ lạc mãi. Còn em, em nhìn thấy mà đành bó tay. Bá chăm chú nghe. Đoạn anh rút điếu thuốc khác, châm lửa hút. Hai người ngồi im lặng một lúc lâu, nghe tiếng bọt sóng vỡ quanh thân tàu. Rồi, Bá hỏi: - Tại sao cậu lại chấp thuận sự lựa chọn ấy?... Vào phút đầu tiên, nhưng lại là quyết định cho cuộc đời? - Em là con. Em phải tuân thủ ý muốn của ba em. - Tuân thủ vô điều kiện? - Vâng. Hồi ấy, em đã nộp đơn thi vào trường đại học Lâm nghiệp. Em thích làm vườn, thích sống như chú Hai, ông già láng giềng gần gũi. Một buổi trưa, từ trường trở về, em thấy ông cụ ngồi bó gối uống rượu trên giường, mặt tái xanh. “Ngồi xuống trước mặt tao, có chuyện.” Ông cụ bảo em với giọng cục cằn khiến em lạnh sống lưng. Em kéo ghế ngồi. Ba em nhìn em bằng đôi mắt đục ngầu của người say: “Mày nộp đơn vào trường Lâm nghiệp?” Em đáp: “Thưa ba, vâng”. Ông cụ bảo: “Mày định trở thành thằng làm vườn?” Em đáp: “Vâng. Con muốn...” Tới đó, ông cụ hét lên, tay chân run lật bật: “Khốn nạn... Thật khốn nạn, mơ ước trở thành đứa làm vườn... Sao mà hèn mọn thế... Mày là đứa con trai độc nhất của tao. Tao đã nuôi mày từ thuở lọt lòng. Tao đã chờ đợi hai mươi năm... Tao đã hy vọng... Giá như tao là kẻ thất phu mù chữ. Giá như tao là con cháu của một gia đình bần tiện, suốt tháng năm cắm mặt xuống bùn, móc hạt thóc ăn... Nhưng ông nội mày lại là quan thủy sư đô đốc, lừng danh khắp xứ. Các hải cảng từ Âu qua Mỹ, các thành phố lớn Viễn Đông, chẳng nơi nào ông cụ chẳng đặt chân lên...” Rồi ba em ôm ngực ho. Trước, ông cụ bị lao cắt mất một bên phổi. Từ dạo ấy, cứ mỗi lần xúc động, ông cụ lại ho từng cơn và nghẹt thở. Người ông cụ rũ xuống như tàu lá héo. Em hoảng hốt van xin cụ. Ba em bảo: “Con ơi, bất cứ thằng con trai đần độn nào cũng có thể trở thành gã làm vườn. Nhưng ba nuôi con ăn học bấy nay không phải để con làm nông phu hay điền chủ. Làm trai phải nuôi chí lớn. Con hãy noi theo nghiệp của ông nội, con sẽ trở thành thủy sư đô đốc, đem lại hiển vinh cho dòng họ Phạm chúng ta. Đời ba đã tàn tạ, mỏi mòn trong phố xép. Ba mong ngày nào đó, khi con hiển đạt, ta sẽ trở về thành phố xây lại ngôi nhà nguy nga của ông nội ngày xưa... Hãy nghe ba, ba xin con...” Rồi ba em khóc... Anh tính xem, làm sao em khước từ được lời kêu gọi ấy?... Em đã rút đơn khỏi trường đại học lâm nghiệp, xin thi vào trung cấp hàng hải. Ở trường, em là một học sinh trên trung bình, nhưng đặc biệt kém trong các môn thực hành. Nhờ sự đùm bọc dắt díu của mọi người, em vẫn có tấm bằng tốt nghiệp và trở về tàu sau thời gian mãn khóa. Bá gật đầu: - Ván cờ định mệnh của cậu nằm trong tay người khác. Dẫu rằng người đó là cha đẻ của cậu. Rồi đây, cậu sẽ toan tính ra sao? Bởi vì, người ta chỉ có một cuộc đời. Không ai được may mắn ban thêm một cuộc đời dự phòng khác. Vừa lúc, tàu trưởng vào, gọi Bá đi bàn công việc. Ông từ công ty về, đang đầy ắp kế hoạch về các chuyến đi sắp tới. Ông đưa cho trưởng máy Bá hai bao thuốc nặng của Anh và cho Cường một nắm kẹo cao su. Cường ít hút. Tàu trưởng bảo: - Để mà nhai cho đỡ buồn khi đọc sách. Hai người đi khỏi, chỉ còn chàng thủy thủ ở lại buồng. Anh đổ xô nước bẩn, rửa tay rồi lấy cây đàn ghi-ta bên phòng ca sĩ Tuấn hói về gảy. Những nốt nhạc rời rạc không làm Cường đoạn tuyệt được dòng suy tư đang ám ảnh. Anh đập một hợp âm giọng Mi thứ rồi chán nản ném cây đàn xuống giường: - Tại sao?... Con người, đôi khi buông theo dòng đời như dám bèo bập bềnh trên mặt nước. Anh đã chấp thuận đời sống, đã cam chịu những thua thiệt, đã nhấm nháp nhiều đắng cay, buồn tẻ và đôi chút niềm vui mà số phận keo kiệt bố thí. - Tại sao?... Câu hỏi vang trong cõi u tối. Anh đã đuổi theo giấc mơ của người cha một cách vô vọng. Giấc mơ huy hoàng ông ký thác cho anh còn ở tít mù khơi. Anh là một thủy thủ hạng bét. Trên tàu, chẳng ai cần tới anh. Người ta dung nạp anh theo thói quen, một cơ số tổ chức, một sự đã rồi... Phía sau tất cả những lý do ấy là lòng thương hại... ° ° ° Quãng này bờ biển vắng, khách du lịch và đám người tắm biển không xuống tới đây. Bãi cát vàng xỉn, nhiều sỏi không trắng và mịn như quãng trong thành phố. Gai trinh nữ bò từng đám, tới gần mép sóng. Những ngôi nhà nện đất thó nung lẫn đá hộc của dân chài tụ thành từng khóm, các hàng rào nứa bao vây một cách cẩu thả, phía trong là những mạn ván thủng kê nghiêng nghiêng làm bàn đổ đường. Ở đây ngoài nghề chài lưới người ta còn nấu đường mía và mật. Lúc này, các lò đường tạm nghỉ nên đỡ ruồi. Chỉ có nhặng vo ve không mệt trên những vại hoặc chum đựng mắm cá. Giữa những khóm nhà dân chài, mọc lên vài quán ăn lụp xụp. Thường chúng thưng bằng gỗ, lợp lá. Mùa đông, chủ quán treo thêm những mảnh ni-lông hoặc tôn cũ rỉ. Quán ăn nhưng có cả nước trà và kẹo bánh. Cả thông phong đèn, bấc đèn, xà phòng, dấm chua nước mắm hoặc xì dầu... Tóm lại một thứ cửa hàng tạp-pí-lù theo tiếng gọi của người Tàu, để phục vụ đám thanh niên chưa vợ con trong các xóm chài, và những cặp tình nhân muốn tìm nơi vắng vẻ. Bích đã hẹn Trọng chờ cô trong một cái quán loại như thế, có cái tên mĩ miều: Lan Hương. Một chiếc mẹt cũ treo toòng teeng trên cây cọc tre, kẻ dòng chữ vôi ngoằn ngoèo: Lan Hương, Có đồ ăn và giải khát, Hàng tiêu dùng. Trước quán, một chậu cây xương rồng không có hoa. Một con chó mực gày nhom, mắt toét nằm thiu thiu ngủ ngay dưới chậu cảnh. Chủ quán, một người đàn bà lép dẹp, có đôi mắt sắc như dao ngồi sau tủ kính bày thuốc lá và bánh kẹo: - Anh cần gì ạ? Bà ta hỏi Trọng, vừa lê đôi dép nhựa mòn vẹt tới gần anh. Trọng tìm một chiếc ghế đẩu tựa vào vách quán, sát cửa sổ. Ở đấy, anh nhìn thấy biển. - Bà bán những gì? Người đàn bà liếc nhìn Trọng, đáp gọn lỏn: - Gì cũng có. Đọc được vẻ nghi ngờ trong mắt anh, bà ta tiếp luôn: - Đồ nhắm. Rượu các loại: từ rượu quốc lủi tới Mác- ten, Na-pô lê-ông, Bờ-lách. Bia hộp ngoại. Nếp đen... Anh muốn thứ gì? Giọng tự tin của chủ quán khiến anh càng hồ nghi. Trọng hỏi: - Bà lấy hàng ở tận đâu? - Ở đây. Bà ta đáp lại, giọng rắn như sành. Trong túi Trọng có cả một mớ tiền lương, tiền thưởng, tiền mẹ anh vừa gửi bưu điện vào. Anh nói: - Cho tôi vài hộp bia. - A-sa-hi chứ? - Vâng. Bà có đồ nhắm gì? - Đặc sản: Cua biển luộc, tôm he bóc nõn tẩm gừng rang ngọt. Cả lạp-sường, mực khô. Lạc rang trong tủ kia. - Bà làm một đĩa tôm he xem sao. Anh chưa uống bia với món tôm này bao giờ. Quán trông xoàng xĩnh quá. Nhưng người ta bảo anh rằng những quán hàng vẻ nhem nhuốc thường lại có các món ăn ngon. Ngay ở thành phố, những hiệu cao-lâu của người Tàu trong phố cổ, vừa chật hẹp tối tăm vừa bẩn, lại là những cửa hiệu rút tiền túi khách ăn chơi như vơ vỏ sò. Bà chủ quán đi tới chiếc giường kê sát vách gỗ, cuốn chiếu lên. Ném chiếc chiếu đã cuộn gọn xuống dưới sàn nhà, bà lật tấm ván. Hóa ra đó là chiếc hòm khổng lồ, vừa làm sập ngủ vừa làm kho chứa hàng. Trọng thấy trong đó tất cả những thứ bà chủ đã xướng lên với anh. Bà chủ nhặt lấy ba hộp bia, phủi bụi, xếp lên bàn. Rồi, thận trọng đậy mảnh ván lại, trải chiếu như cũ. Xong xuôi, bà mang bia tới cho anh, cùng với một đĩa lạc rang và chiếc cốc: - Anh nhấm nháp tạm vài hột lạc, chờ tôi rang tôm. Nhanh thôi... Bà vào gian bếp phía trong, ngăn cách với gian ngoài bằng tấm mành tre cũ. Trên tấm mành tre, có treo ảnh một cô đào hát, có lẽ là ảnh bóc ra từ cuốn lịch treo tường cũ. Khói ám vào gương mặt mĩ miều. Những vết cứt ruồi lấm chấm đen bám dầy tấm áo lụa hồng sang trọng và ba chuỗi hạt trai quấn quanh cổ cô. Trọng mở bia, uống một ngụm nhỏ. Anh nhấm phải viên lạc mốc, đắng cả lưỡi. Cô đào hát trong tấm ảnh nhìn anh bằng đôi mắt tô vẽ, đắm đuối một cách gượng gạo. Người đàn ông quay nhìn ra mặt biển, nỗi buồn dâng lên. Lát sau, bà chủ quán bưng lên một đĩa tôm rang ngậy mỡ và nước ớt, thơm ngào ngạt. Món nhắm mới lạ cũng không còn quyến rũ được anh. Anh nhìn giờ lâu làn nước biển vô tình, không xao động, không thay đổi. Ngay những con sóng uốn lượn ven bờ cát cũng nhàm chán. Bà chủ quán lê dép lẹp kẹp phía sau: - Anh thấy món tôm ngon chứ? - Vâng. Trọng đáp, hững hờ. Bà ta hỏi, mắt nháy một cách tinh quái: - Chắc anh chờ chị ấy, đúng không? - Vâng. Trọng đáp lần thứ hai, bỗng dưng khó chịu với bà ta. Phải, chẳng gì che dấu được cặp mắt sắc như dao kia. Loại quán này chỉ dành riêng cho những cặp tình nhân vụng trộm, những kẻ không dám công nhiên sống cùng nhau giữa thanh thiên bạch nhật, trước mắt người đời... Bích đã hẹn anh ở đây. Phải chăng nơi cô đã từng quen thuộc? Cái xó hẻo lánh không ai ngờ tới được trong thành phố. Một thoáng ngờ vực khiến tim đau nhói. Trọng hớp một ngụm bia lớn, vị đắng đọng lại nơi cuống họng. Anh vô tình dằn hộp bia quá mạnh, khiến chiếc cốc thủy tinh đặt cạnh đó lăn xuống vỡ tan. Bà chủ quán cười, tươi roi rói. - Không sao đâu. Thế là điềm lành. Người ta bảo rằng ở bên Tây tiệc càng vui họ càng đập vỡ nhiều các chén... Bà cúi xuống, lượm những mảnh thủy tinh vỡ bỏ vào tấm tôn hốt rác, rồi đem ra phía sau. Khi bà ta đi, Trọng thấy lưng bà thẳng đứng lên như cột sống của bà không cấu tạo bằng các đốt xương mà bằng cây thép cứng. Ném các mảnh thủy tinh vào sọt rác, bà quay vào, kéo ghế ngồi trước mặt Trọng: - Nếu anh không phiền lòng, tôi sẽ tiếp anh một lúc. Bờ biển này vắng lắm, ngày chỉ vài lượt khách tới thăm. Nhưng đã tới quán, chí ít cũng phải ngồi vài ba giờ đồng hồ... Tới đó, bà móc trong túi áo cánh một nắm hạt bí, bắt đầu cắn. Vẻ tự nhiên của bà ta khiến Trọng không còn bực. Vả chăng nhìn mãi làn nước bất biến ngoài kia cũng mỏi mắt. Anh chọn vài hạt lạc chưa xám vỏ, nhấm nháp: - Vùng này, ngoài quán Lan Hương tôi còn thấy năm sáu quán khác. Kiếm đâu đủ khách mà người ta mở nhiều như vậy? - Đủ chứ. Anh tưởng vậy thôi. Chúng tôi chờ đón khách đêm. Đám dân buôn hàng chuyến từ thành phố ra hoặc từ nơi khác đến. Đám thủy thủ dưới cảng lên, cả đám con gái vô nghề nghiệp. - Họ tới đây làm gì? - Ngồi cắn hạt dưa, hạt bí. May mắn thì vớ được món tình nhân nào đấy. Không may thì qua đêm kiếm ít hào độ nhật. - Thật xấu xa. Sao họ không chịu lao động?... - Chẳng biết. Cũng có thể vì lười. Nhưng đa phần chúng là con nhà tử tế...Người tử tế cũng sa ngã được chứ anh? - Tôi không nghĩ như vậy. """