" Quái Vật - Tess Gerritsen full prc pdf epub azw3 [Trinh Thám] 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Quái Vật - Tess Gerritsen full prc pdf epub azw3 [Trinh Thám] Ebooks Nhóm Zalo Lời cảm ơn Trong suốt quá trình viết cuốn sách này, tôi đã có một đội ngũ tuyệt vời cổ vũ, cho tôi những lời khuyên và cung cấp những món ăn tinh thần mà tôi cần để có thể vững bước. Cảm ơn rất nhiều người đại diện và người bạn, ánh sáng soi đường của tôi - Meg Ruley. Đồng thời cám ơn Jane Bery, Don Cleary và rất nhiều những người bạn tuyệt vời ở văn phòng Jane Rotrosen. Tôi cũng xin cảm ơn nhà biên tập tuyệt vời Linda Marrow cùng Gina Centrello vì những giúp đỡ nhiệt tình của cô ấy. Cám ơn Louis Mendez vì đã luôn giúp tôi vững vàng. Cám ơn Gilly Hailparn và Marie Côlman vì đã hỗ trợ tôi, giúp tôi vượt qua những ngày tăm tối buồn rầu sau ngày 11 tháng Chín và đã chỉ dẫn tôi về nhà được an toàn. Cám ơn Peter Mars vì những thông tin của anh về phòng cảnh sát Boston. Cũng cám ơn Selina Walker - đội trưởng đội cổ vũ bên kia bờ hồ của tôi. Cuối cùng, xin gửi những lời cảm ơn sâu sắc nhất tới Jacob - chồng tôi - người biết sống với một nhà văn là khó khăn đến thế nào nhưng vẫn luôn sát cánh bên tôi. Mở đầu Hôm nay tôi đã chứng kiến một người đàn ông chết. Nó là một sự kiện bất ngờ và tôi vẫn còn cảm thấy ngạc nhiên vì hóa ra vở kịch vẫn chưa khép lại. Có quá nhiều điều thú vị xảy ra trong cuộc đời của chúng ta mà chúng ta không hề ngờ tới và chúng ta nên nhấm nháp, thưởng thức hương vị tuyệt vời của chúng khi chúng xuất hiện, đồng thời cũng cần trân trọng những giây phút tẻ nhạt đã trôi qua khiến ta ngán ngẩm. Nơi đây, ngày tháng trôi qua chậm chạp, trong cái thế giới đằng sau các bức tường này, con người chỉ được gọi bằng các con số chứ không được phân biệt bằng tên gọi của mình, cũng không bằng sự thông minh bẩm sinh mà bằng phẩm chất của những người đi ngang qua. Ở đây chúng tôi mặc giống nhau, ăn cùng loại thức ăn và đọc cùng những cuốn sách rách nát trong cùng một khu của nhà tù. Ngày nào cũng giống như ngày nào. Rồi bỗng nhiên một vụ xô xát nào đó xảy ra bỗng nhiên nhắc nhở chúng tôi rằng cuộc đời này có thể có cái kết giống như một cuốn tiểu thuyết rẻ tiền. Và chuyện đó xảy ra đúng hôm nay, ngày mùng 2 tháng 8. Trời hôm nay rất nóng nực, mặt trời rực rỡ và chín mọng theo đúng cách mà tôi vẫn thích. Trong khi những người khác toát hết mồ hôi và cố lẩn tránh ánh mặt trời như đám gia súc thì tôi lại ra đứng giữa sân tập thể dục, hướng mặt lên trời như con thằn lằn đang nằm sưởi nắng. Mắt tôi nhắm lại, vì thế mà tôi đã không nhìn thấy cú đâm bằng dao, tôi cũng không nhìn thấy anh chàng kia lảo đảo và đổ xuống. Nhưng tôi nghe được những tiếng la hét, nghe được âm thanh náo loạn xung quanh nên tôi mở mắt ra nhìn. Một người đàn ông đang nằm ở góc sân, máu chảy xối xả. Tất cả những người khác đều lùi hết lại và khoác trên mặt cái vẻ không biết gì thường thấy. Không nhìn thấy gì, không biết gì - những cái mặt nạ thờ ơ. Chỉ mình tôi bước lại phía người đàn ông ấy. Tôi đứng nhìn xuống cậu ta một thoáng. Mắt cậu ta mở to và vẫn còn đang nhận biết được. Đối với cậu ta chắc tôi chỉ là một mảng đen trên bầu trời sáng lòa phía trên. Cậu ta còn trẻ, mái tóc hoe vàng, bộ ria mép rậm. Mồm cậu ta đang mở, sùi ra ngoài những bong bóng bọt màu hồng. Một vệt màu đỏ chạy ngang ngực. Tôi quỳ xuống cạnh cậu ta, xé rách áo ngoài để lộ vết thương trần ngay bên trái của xương ức. Lưỡi dao đâm xuyên qua các rẻ xương sườn, chắc chắn đã chạm vào phổi và có thể cũng đã đâm vào màng ngoài của tim. Đó là vết thương chí tử và cậu ta cũng biết điều đó. Cậu ta cố gắng nói với tôi, môi cậu ta chuyển động nhưng không tạo ra âm thanh nào, đôi mắt cố gắng tập trung. Cậu ta muốn tôi cúi xuống gần hơn, có lẽ là để thú tội lúc lâm chung nhưng tôi chẳng có chút hứng thú nào với bất cứ thứ gì cậu ta phải nói ra. Thay vì vậy tôi chỉ tập trung vào vết thương của cậu ta. Vào máu của cậu ta. Tôi đã quá quen thuộc với máu me. Tôi biết rõ đến từng thành phần của nó. Tôi đã từng cầm không biết bao nhiêu ống đựng máu, ngưỡng mộ những sắc đỏ đa dạng ấy. Tôi đã quay nó trong máy ly tâm, tách các tế bào và huyết thanh. Tôi biết rõ bề ngoài của nó, cấu tạo mềm mại của nó. Tôi cũng thấy nó chảy thành dòng như suối ra khỏi những phần da bị thương. Máu đổ ra từ ngực cậu ta như nước thánh chảy ra từ dòng suối thiêng. Tôi ấn tay mình vào vết thương, tắm da tôi trong thứ chất lỏng ấm áp đó. Máu phủ lên tay tôi như một chiếc găng tay màu đỏ. Cậu ta tin rằng tôi đang cố để giúp cậu ta vì thế trong mắt cậu ta lấp lánh ánh nhìn biết ơn. Có vẻ như cậu trai này rất hiếm khi nhận được lòng từ thiện trong cuộc đời ngắn ngủi của mình. Vậy mà mỉa mai sao tôi lại được nhìn nhầm thành người biết rủ lòng thương xót. Phía sau tôi vang vang tiếng giày và tiếng quát ra lệnh: “Lùi lại ! Tất cả lùi lại.” Ai đó kéo áo tôi và lôi tôi đứng dậy. Tôi bị đẩy về phía sau, cách xa cậu thanh niên đang chết dần. Không khí đầy gió bụi, ngột ngạt với những tiếng la hét, nguyền rủa khi chúng tôi bị lùa vào một góc. Vũ khí giết người nằm trơ trên mặt đất. Những người bảo vệ yêu cầu một lời giải thích nhưng không ai nhìn thấy gì, không ai biết chuyện gì. Chẳng ai làm gì cả. Trong cái sân hỗn loạn đó, tôi đứng im, cách xa các tù nhân khác - những ngườí đã luôn luôn lảng tránh tôi. Tôi nâng tay lên, máu của người chết vẫn nhỏ thành giọt xuống từ bàn tay ấy. Tôi hít vào cái mùi hương của kim loại, hít hà hương vị êm mượt của nó. Chỉ qua hương vị tôi sẽ biết được đó chính là máu còn non, chảy ra từ da thịt của một người trẻ tuổi. Những tù nhân khác nhìn tôi chằm chằm và càng lùi xa hơn. Họ biết tôi khác biệt. Họ đã luôn cảm nhận thấy điều đó. Độc ác và láu cá như họ vẫn thường như thế. Bọn họ phớt lờ tôi vì họ biết tôi là ai, là người như thế nào. Tôi dò tìm những gương mặt, tìm kiếm người anh em của tôi trong số họ, người cùng nòi giống với tôi. Nhưng tôi không thấy anh ấy, không phải nơi này, không phải trong cái ngôi nhà của những gã độc ác này. Nhưng anh ấy có tồn tại. Tôi biết tôi không phải người duy nhất trong nòi giống của mình trên trái đất này. Đâu đó sẽ có người khác và anh ấy đang đợi tôi. Chương 1 Ruồi nhặng đã nhanh chóng tụ tập. Bốn tiếng liền cái nóng như rang đá nướng chín những phần thịt vụn trên vỉa hè của Nam Boston, như tiếng chuông báo giờ cơm để lũ ruồi nhặng tập hợp. Không khí trở nên náo nhiệt với những tiếng ruồi nhặng vo ve. Mặc dù lúc này, những phần còn lại của cái xác đã được dùng vải phủ thì vẫn còn rất nhiều mảng mô khác có thể làm nên một bữa tiệc thịnh soạn cho chúng. Một số mảng màu xám và những mảng không thể xác định được vướng đầy trên đường trong vòng bán kính 9 mét. Mảnh sọ vỡ đã được hạ cánh xuống ngăn thứ hai của chiếc hộp hoa, còn những mảng mô thì dính vào những chiếc xe đang đỗ. Thám tử Rizzoli luôn được coi là người mạnh mẽ, cứng cỏi đến thế mà cô vẫn phải đứng yên, mắt nhắm chặt, tay nắm lại giận điên người vào thời điểm cô thấy thực sự yếu đuối này. Không được yếu đuối! Không được yếu đuối. Cô là thám tử nữ duy nhất tại phòng điều tra án mạng Boston và cô cũng hiểu cái mình luôn để mắt tới. Mỗi lỗi lầm, mỗi thắng lợi của cô đều sẽ được mọi người để ý. Đồng sự của cô Barry Host đã dùng bữa sáng và cô thì đang ngồi thư giãn trong chiếc xe có máy điều hòa, tựa đầu lên đầu gối, chờ cho dạ dày của anh xuôi xuống. Cô không thể để mình là nạn nhân của việc buồn nôn này. Cô là nhân viên thi hành pháp luật dễ nhận thấy nhất tại hiện trường và phía sau cái dây chắn của cảnh sát kia là dân chúng đang tò mò dõi theo nhất cử nhất động của cô, kể cả sắc mặt. Trông cô trẻ hơn nhiều so với tuổi ba mươi tư của mình và cô hoàn toàn tự tin, tỉnh táo để thi hành phận sự của một người cầm quyền. Cô có chiều cao khiêm tốn nhưng bù lại cô có cái nhìn chính trực, ngay thẳng và đôi vai khỏe mạnh. Cô đã học được cách chế ngự hiện trường, chỉ bằng cách tập trung vào công việc mình làm. Nhưng cái nóng đang làm cô mệt mỏi. Cô đã đến hiện trường với đồng phục cảnh sát và mái tóc được chải gọn gàng. Giờ chiếc áo ngoài phải cởi ra còn chiếc blouse của cô thì thấm đẫm mồ hôi và mái tóc cũng bị mồ hôi làm cho mất đi trật tự ban đầu. Cô thấy kiệt sức trước tất cả những mùi ấy, những con ruồi và ánh nắng gay gắt. Có quá nhiều thứ phải tập trung cùng lúc. Thêm nữa, tất cả các ánh mắt đều đang chăm chú dõi theo cô. Những âm thanh ầm ĩ làm cô chú ý. Một người đàn ông mặc áo sơ mi, đeo cà vạt đang cố tranh cãi để có thể qua được người kiểm soát. “Nghe này, tôi cần phải tới một cuộc hội thảo kinh doanh, được chứ? Chỉ vì chuyện này mà tôi đã bị muộn một tiếng rồi đấy. Các anh đang rào xe tôi lại với mớ dây khốn kiếp kia và giờ thì anh lại bảo tôi không thể lái xe đi nữa à? Nó là xe của tôi.” “Đây là hiện trường vụ án, thưa ông.” “Nó chỉ là một vụ tai nạn!” “Chúng tôi vẫn chưa khẳng định được.” “Vậy các anh phải mất một ngày chỉ để xác định điều đó chắc? Sao các anh không nghe chúng tôi chứ? Cả cái khu này đã nghe thấy thế!” Rizzoli tiến lại gần phía người đàn ông mặt đang toát mồ hôi. Lúc này là 11 giờ 30 phút, mặt trời đang gần tới giữa đỉnh đầu, chiếu ánh nắng chói chang xuống mặt đất. “Chính xác là anh đã nghe thấy gì?” cô hỏi. Anh ta khịt mũi. “Giống như điều tất cả mọi người cùng biết.” “Một tiếng nổ to?” “Đúng thế. Khoảng 7 giờ 30 phút tôi vừa tắm xong, nhìn qua cửa sổ đã thấy anh ta nằm đó gần vỉa hè. Cô có thể thấy đó là một nơi rất tệ. Tài xế lái như bay qua đoạn đó. Chắc một chiếc xe tải nào đó đã tông vào anh ta.” “Anh có thấy chiếc xe tải không?” “Không.” “Có nghe thấy nó không?” “Không.” “Anh cũng không nhìn thấy chiếc xe nào đúng không?” “Xe hơi, xe tải nào chúng chẳng đâm rồi bỏ chạy,” anh ta vừa nhún vai vừa nói. Đó vẫn là câu chuyện được những người hàng xóm của người đàn ông lặp lại cả chục lần. Khoảng giữa 7 giờ 15 và 7 giờ 30, có một tiếng nổ lớn trên phố. Không ai thực sự thấy sự việc xảy ra. Họ đơn thuần chỉ nghe thấy tiếng nổ rồi thấy xác người đàn ông. Rizzoli đã thừa nhận rồi lại phủ nhận việc anh ta nhảy lầu tự sát. Đây là khu vực với những dãy nhà hai tầng, không cớ bất cứ thứ gì có đủ độ cao để tạo nên cái xác thảm hại như thế này. Và cô cũng không thấy bất cứ bằng chứng nào của một vụ nổ có mức độ tàn phá thân thể nạn nhân một cách kinh hoàng thế này. “Này, tôi có thể lấy xe ra được không?” người đàn ông hỏi. “Nó là chiếc Ford màu xanh lá cây.” “Chiếc xe với những mảnh sọ vướng lên trên nóc hả?” “Đúng thế.” “Anh nghĩ gì thế?” Cô rời bước khỏi đó, tới bên nhân viên giám định pháp y - người đang ngồi xụp giữa đường nghiên cứu mặt đường. “Những người trên phố này đều thật lạ lùng,” cô nói. “Không ai có thể cho biết bất cứ điều gì về nạn nhân cả. Cũng không ai biết anh ta là ai.” Bác sĩ Ashfond Tierney không ngước lên mà chỉ chăm chú nhìn con đường. Mồ hôi lấp lánh dưới những sợi tóc bạc của ông. Trông ông lúc này có vẻ già và mệt mỏi hơn so với những lúc cô từng nhìn thấy ông. Ông đang cố đứng dậy, đưa tay ra để nhờ giúp. Cô nắm tay ông và qua bàn tay ấy cô có thể thấy được sự mệt mỏi của những khớp xương và khớp nối. Ông là một ông già miền Nam lịch sự, một người dân gốc Georgia và ông cũng chưa từng tỏ ra gần gũi với tính thẳng thừng theo kiểu Boston của Rizzoli, cũng như cô chưa bao giờ quen với kiểu hình thức trịnh trọng của ông. Giữa họ chỉ có một điểm chung là những người đã được chuyển tới bàn khám nghiệm tử thi của Rierney. Nhưng lúc cô giúp ông đứng dậy, cô đột nhiên thấy buồn vì ông làm cô nhớ lại ông nội mình, người đã rất yêu quý cô, có lẽ vì ông nhận ra chính mình trong sự kiêu hãnh cũng như bản tính ngoan cường của cô. Cô nhớ đã từng giúp ông ra khỏi ghế, nhớ bàn tay run run của ông vịn vào cánh tay xương xẩu của cô. Ngay cả một người mạnh mẽ như Aldo Rizzoli cũng có lúc quỳ xuống vì xương, khớp thoái hóa. Giờ cô thấy nó biểu hiện ở bác sĩ Tierney mệt mỏi trong cái nắng gay gắt đang rút khăn tay lau mồ hôi trên trán. “Đây chính là vụ sẽ kết thúc sự nghiệp của tôi,” ông nói. “Hãy cho tôi biết cô sẽ đến bữa tiệc nghỉ hưu của tôi chứ thám tử?” “Bữa tiệc nào cơ?” “Bữa tiệc mà mọi người đang định làm cho tôi ngạc nhiên ấy.” Cô thở dài, thừa nhận, “Vâng, tôi sẽ tới.” “Ha ha! Tôi luôn nhận được câu trả lời thẳng thắn từ cô. Nó vào tuần tới phải không?” “Hai tuần nữa. Tôi không nói cho ông biết đúng không?” “Tôi vui vì cô đã không nói.” Ông cúi nhìn, “Tôi không thích những điều bất ngờ lắm.” “Vậy chúng ta đang có gì ở đây, bác sĩ? Đâm xe rồi bỏ chạy?” “Có vẻ như thế là hợp lý nhất!” Rizzoli cúi nhìn máu loang rộng trên mặt đường, rồi cô lại nhìn đến cái xác giờ đã được phủ vải đang nằm cách vỉa hè khoảng hơn ba mét. “Ông cho rằng đầu tiên anh ta bị đâm ở đây rồi sau đó bị vướng đến tận đằng kia?” “Nó có vẻ như thế.” “Vậy đó phải là một chiếc xe tải cỡ lớn mới có thể làm anh ta bung bét như vậy.” “Không phải xe tải,” Tierney trả lời. Xong ông bắt đầu đi dọc theo con đường, mắt chăm chú nhìn xuống dưới đường. Rizzoli đi theo ông, vừa đi vừa xua những con ruồi bay đi. Tierney đến một nơi cách chỗ cũ khoảng chín mét rồi chỉ vào một nhúm màu xám. “Chỗ này có nhiều mảng não hơn,” ông ghi nhận. “Một chiếc xe tải thì không thể làm thành thế này được sao?” Jane hỏi. “Không. Xe hơi bình thường cũng không.” “Thế còn những vết bánh xe trên áo nạn nhân?” Tierney đứng thẳng người lên, mắt nhìn khắp đường phố một lượt, nhìn cả vỉa hè và các tòa nhà. “Cô có nhận thấy điều gì rất thú vị ở hiện trường này không, thám tử?” “Ngoài sự việc có một anh chàng bị mất bộ não nằm chết đằng kia ư?” “Hãy chú ý đến mức độ va chạm,” Tierney chỉ về phía mặt đường mà ban nãy ông đã cúi xuống quan sát. “Cô thấy những phần cơ thể bị phân tán khắp nơi không?” “Có. Anh ta bị bắn tung tóe ra khắp mọi hướng. Điểm va chạm chính là ở giữa.” “Chính xác.” “Đây là một con phố đông xe cộ qua lại. Các phương tiện đi qua góc phố đó quá nhanh. Thêm nữa, nạn nhân lại còn có vết bánh xe trên áo.” “Hãy đến nhìn lại mấy vết bánh xe đó xem.” Lúc họ đi lại phía cái xác, Barry Frost cũng tham gia cùng. Anh vừa mới ra khỏi xe, trông có vẻ uể oải và hơi chút ngượng ngùng. “Ôi, Chúa ơi!” anh thốt lên. “Anh không sao chứ?” cô hỏi thăm. “Cô nghĩ chắc tôi bị bệnh dạ dày hay cái gì đại loại thế à?” “Một cái gì đó.” Cô lúc nào cũng yêu quý Frost, luôn quý trọng bản chất vui vẻ, không bao giờ phàn nàn của anh. Nhưng cô ghét nhìn thấy lòng kiêu hãnh của anh hạ xuống quá thấp. Cô đập nhẹ tay lên vai anh, nở nụ cười của một người mẹ. Frost có vẻ thích thú với điều dó, anh chấp nhận điều ấy, kể cả là nó đến từ Rizzoli - một người chưa từng làm mẹ. “Lần tới tôi sẽ nhớ mang cho anh vài cái túi để nôn.” “Cô biết đấy,” anh vừa nói vừa đi theo cô, “tôi nghĩ chắc là cúm vi rút thôi.” Họ đã tới bên cái xác. Tierney càu nhàu khi ông ngồi xổm xuống, xương khớp ông đang phải cố gắng làm việc khi ông cúi người nhấc tấm vải phủ lên. Frost tái người, lùi lại một bước. Rizzoli thì cố gắng kìm mình để không phải làm giống anh. Cái xác đã bị chia làm đôi từ phần rốn. Nửa phía trên có một chiếc áo sơmi cotton màu be, bị dãn ra từ đông sang tây. Nửa dưới mặc một chiếc quần jeans, nằm dạng từ bắc sang nam. Hai nửa được nối với nhau chỉ bằng vài mảnh da và thịt. Nội tạng bị tràn hết ra ngoài trông như một đống bầy nhầy. Phần sọ phía sau đã vỡ toác, não bị phụt hết ra ngoài. “Nam, còn trẻ, được nuôi dưỡng tốt, có vẻ là người Tây Ban Nha hoặc người vùng Địa Trung Hải, tầm khoảng 20 đến 30 tuổi,” Tierney phỏng đoán. “Tôi thấy những mảnh vỡ của xương sườn, xương sống, xương đòn và sọ.” “Một chiếc xe tải không thể làm thế này sao?” Rizzoli hỏi. “Chắc chắn là một chiếc xe tải có thể gây nên những vết thương lớn thế này.” Ông nhìn Rizzoli, đôi mắt màu xanh nhạt có vẻ như đang thách thức cô. “Nhưng không có ai nhìn hay nghe thấy cái xe đó, đúng không?” “Thật không may là không,” cô thừa nhận. Frost cuối cùng cũng cố góp ý kiến. “Các vị biết không, tôi không nghĩ những vết trên áo anh ta là vết bánh xe.” Rizzoli tập trung nhìn những đường sọc màu đen vắt ngang mặt áo đằng trước của nạn nhân. Dùng tay đã đeo găng, cô chạm vào những vết ấy rồi nhìn ngón tay mình. Một vệt màu đen đen đã in lên ngón tay đeo găng của cô, cô chăm chăm nhìn nó, cố chuyển tải thông tin mới này. “Anh nói đúng,” cô bảo. “Đây không phải là vết bánh xe tải. Nó là vết dầu.” Cô đứng thẳng người dậy, nhìn xuống con đường. Cô không thấy bất cứ vết bánh xe dính máu nào trên đường, không có bất cứ tàn tích nào, không có mảnh thủy tinh hay mảnh nhựa nào va chạm với cơ thể người này. Trong một lát, không ai nói với ai câu gì. Họ chỉ nhìn nhau trong khi cùng suy nghĩ về một lý giải duy nhất. Như thể để khẳng định lại giả thuyết của họ, một chiếc máy bay lên thẳng kêu ầm ĩ trên đầu. Rizzoli ngoảnh mặt nhìn lên, thấy một chiếc 747 vừa bay qua trên chặng bay tiếp cận sân bay quốc tế Logan, cách đó 5 dặm về phía bắc. “Ôi, Chúa ơi,” Frost kêu lên, nheo mắt lại dưới nắng. Đó chính là lý do tại sao. Làm ơn hãy nói với tôi là anh ta đã chết trước khi bị rơi xuống. “Rất có thể là thế,” Tierney bảo. “Tôi đoán chắc xác anh ta bị rơi khi mấy cái bánh xe của máy bay đang hạ xuống. Đó có thể là một chuyến bay hồi hương.” “Đúng thế,” Rizzoli đồng ý. “Có bao nhiêu người đi lậu vé đang cố để ra khỏi đất nước?” Cô nhìn người đàn ông nằm chết trên đường, anh ta có nước da màu oliu. “Vậy là anh ta đã trên một chuyến bay, có thể là từ Nam Mĩ…” “Vậy thì độ cao phải ít nhất là chín nghìn mét,” Tierney nói. “Những vòng bánh xe không bị nén. Một người đi lậu vé sẽ phải đối mặt với không khí loãng. Bị tổn thương do quá lạnh. Kể cả vào cao điểm mùa hè thế này thì nhiệt độ ở tầm cao ấy vẫn cực kỳ thấp, có thể gây đóng băng. Chỉ cần vài giờ trong điều kiện như thế anh ta sẽ bị giảm thân nhiệt và bị bất tỉnh vì thiếu oxy. Hoặc anh ta cũng có thể đã bị xiết chặt khi bánh răng quay chuẩn bị cho máy bay cất cánh. Một chặng đường dài nằm trong bánh xe cũng có thể kết liễu anh ta.” Điện thoại của Rizzoli làm gián đoạn bài giảng - một bài giảng mà kiểu gì cũng có kết quả là: bác sĩ Tierney vừa mới bắt đầu những suy luận của một giáo sư. Rizzoli liếc nhìn số điện thoại nhưng không nhận ra số của ai. Đầu số của Newton. Cô ấn máy gọi lại. “Thám tử Korsak đây,” một người đàn ông trả lời. “Tôi là Rizzoli. Anh gọi tôi phải không?” “Cô dùng di động chứ thám tử?” “Vâng.” “Cô có thể gọi bằng điện thoại dây được không?” “Lúc này thì không được.” Cô không biết thám tử Korsak là ai và cô thấy hơi lo lắng khi ngừng cuộc điện quá sớm. “Sao anh không nói cho tôi luôn là có chuyện gì?” Im lặng. Cô nghe trong điện thoại có tiếng điện đàm của cảnh sát. “Tôi đang ở hiện trường tại Newton,” anh ta trả lời. “Tôi nghĩ cô nên đến đây để nhìn cái này.” “Anh đang yêu cầu hỗ trợ từ bên Boston à? Vì nếu thế tôi sẽ giúp anh cử người khác trong đội đến.” “Tôi đã cố liên lạc với thám tử Moore, nhưng họ nói anh ấy đang nghỉ phép. Đó là lý do tại sao tôi gọi cho cô.” Lại im lặng, rồi có thêm một thông tin khẽ khàng. “Đây là về vụ án mà cô và anh Moore đã theo đuổi mùa hè năm ngoái. Cô biết vụ nào rồi đấy.” Cô im lặng. Cô biết chính xác anh đang nói đến vụ nào. Những ký ức về vụ điều tra đó vẫn còn ám ảnh cô, vẫn còn hiển hiện trong những cơn ác mộng của cô. “Nói tiếp đi,” cô khẽ bảo. “Cô muốn biết địa chỉ chứ?” Cô lấy tập giấy ra. Một lát sau cô cúp máy rồi quay trở lại chú ý vào bác sĩ Tierney. “Tôi đã thấy những vụ tai nạn tương tự của mững người nhảy dù. Dù của họ mở ra không đúng lúc và từ độ cao như thế cơ thể họ bị rơi xuống sẽ đạt vận tốc tối đa. Tức là vào tầm khoảng 60 mét trên giây. Vận tốc đó đủ để gây ra việc cơ thể bị tan nát như chúng ta đang thấy.” “Đó là cái giá khốn nạn phải trả cho việc đi tới đất nước này,” Frost bình phẩm. Lại một chiếc máy bay khác kêu ầm ầm trên không, bóng nó đổ xuống như bóng của một con diều hâu. Rizzoli ngước, mắt nhìn trời. Cô nghĩ đến cảnh cái xác đang bị rơi xuống, cách mặt đất cả nghìn mét. Cô nghĩ về không khí lạnh ở tít trên tầng cao và không khí ấm hơn khi tới gần mặt đất. Cô nhìn phần thi thể của người đàn ông đang được phủ vải - người đã dám mơ ước tới một thế giới mới, một tương lai tươi sáng hơn. Chào mừng tới nước Mỹ. Viên cảnh sát Newton đứng chốt phía trước căn nhà là một người mới nên cậu ta không nhận ra Rizzoli. Cậu ta đến chặn cô tại vòng ngoài của dây rào cảnh sát và nói bằng cái giọng rất hợp với bộ đồng phục mới của cậu. Trên ngực áo thấy đề tên: RIDGE. “Đây là hiện trường vụ án thưa cô.” “Tôi là thám tử Rizzoli, thuộc phòng cảnh sát Boston. Tôi đến đây để gặp cảnh sát Korsak.” “Xin cho xem thẻ.” Cô không hề mong đợi yêu cầu này, nhưng cô vẫn cho tay vào túi để lấy thẻ. Trong cái thành phố Boston này gần như tất cả mọi cảnh sát đều biết cô là ai. Chỉ một chặng đường lái xe ngắn ngủi ra khỏi địa phận của mình, tới vùng ngoại ô đột nhiên cô lại thành một người hoàn toàn xa lạ và phải xuất trình thẻ. Cô giơ nó ngang mũi của người lính mới. Cậu ta nhìn tấm thẻ rồi nghiêm trang, “Tôi thành thật xin lỗi. Cô biết đấy, mới chỉ vài phút trước đã có một viên nhà báo chết tiệt vượt qua rào ngăn. Tôi sẽ không để chuyện đó xảy ra một lần nữa.” “Cảnh sát Korsak có trong đó không?” “Thưa có.” Cô liếc nhìn dãy dài các phương tiện giao thông đang đậu trên đường phố, giữa chúng là một chiếc xe tải nhỏ có đề chữ PHÒNG KHÁM NGHIỆM TỬ THI, BANG MASSACHUSETTS. “Có bao nhiêu nạn nhân tất cả,” cô hỏi. “Thưa, có một. Người ta đang sắp chuyển anh ta ra đấy.” Viên cảnh sát nhấc dải dây chắn để cô bước qua vào bên trong sân. Những chú chim đang hót và không khí ngọt như cỏ non. Mày không còn ở Nam Boston nữa đâu - cô nghĩ thầm. Quang cảnh ở đây rất tinh khiết với những hàng rào gỗ và bãi cỏ xanh rờn như những thảm cỏ nhân tạo Astro Turf. Cô dừng lại trên vỉa hè lát gạch và nhìn chằm chằm lên rìa mái nhà theo kiểu Tudor(2). Ông chủ của một thái ấp giả Anh - đó là điều ngay lập tức hiện lên trong đầu cô. Đây không phải một ngôi nhà bình thường, cũng không phải một vùng cư dân đông đúc mà một cảnh sát lương thiện có thể có được. “Cô tìm thấy gì rồi hả,” viên cảnh sát Ridge nói với đến phía cô. “Anh chàng đó kiếm sống bằng nghề gì thế?” “Tôi nghe nói anh ta là một bác sĩ phẫu thuật gì đó.” Bác sĩ phẫu thuật. Đối với cô cái từ này có một ý nghĩa rất đặc biệt và khi vang lên nó như một cái kim nhọn chích vào da cô, làm cô sởn gai ốc ngay cả khi thời tiết nóng ấm thế này. Cô nhìn cánh cửa trước, đã thấy tay nắm cửa được phủ đầy bột để nhận dạng dấu vân tay. Cô hít một hơi sâu, kéo chiếc găng tay nhựa lên và cho chân vào đôi giày giấy. Phía trong cô nhìn thấy sàn nhà trơn láng bằng gỗ sồi và cầu thang cao ngang với tầm cao của một ngôi nhà thờ. Cửa sổ bằng kính đổi màu phản ánh những tia sáng lấp lánh màu sắc từ bên ngoài. Cô nghe thấy tiếng chép chép của lớp phủ giày bằng giấy và một người đàn ông to như một con gấu phía trong sảnh. Mặc dù anh ta mặc theo kiểu một doanh nhân với cà vạt gọn gàng nhưng vẫn không giấu được mồ hôi thấm đẫm dưới hai cánh tay. Hai tay áo đã được cuốn lên cao, để lộ cánh tay to lực lưỡng lởm chởm lông đen. “Rizzoli hả?” “Có một và duy nhất.” Anh ta tiến lại phía cô, đưa tay ra rồi đột nhiên nhớ rằng mình đang đeo găng tay nên lại hạ tay xuống. “Tôi là Vince Korsak. Xin lỗi vì đã không thể nói nhiều hơn qua điện thoại nhưng vào thời này ai cũng có một cái máy scan, cũng vừa có một mụ phóng viên đột nhập vào tận trong này đấy. Đúng là đồ quỷ cái.” “Tôi cũng có nghe qua.” “Nghe này, tôi biết là cô có thể đang phân vân không biết cô đang làm cái quái gì ở đây. Nhưng tôi cũng có theo dõi vụ năm ngoái của cô. Cô biết đây, những vụ giết người của tay bác sĩ phẫu thuật ấy mà. Vậy nên tôi nghĩ là cô nên xem cái này.” “Anh có gì,” cô hỏi với cái họng khô khốc. “Những thứ của nạn nhân trong phòng ngủ. Bác sĩ Richard Yeager, 36 tuổi, bác sĩ phẫu thuật chỉnh hình. Đây là dinh cơ của ông ấy.” Cô ngước nhìn khung cửa kính đổi màu. “Vậy là cảnh sát Boston các anh đã có những vụ ngoài tầm của mình.” “Này, phòng cảnh sát Boston cũng có thể có những vụ đó mà. Người ta không nghĩ chuyện này xảy ra ở đây. Đặc biệt là những vụ kỳ lạ như thế này.” Korsak dẫn đường dọc theo hàng lang, vào trong phòng lớn của gia đình. Trước mắt Rizzoli là ánh nắng mặt trời rực rỡ chiếu từ bức tường của căn nhà hai tầng tới tận những cửa sổ trên trần nhà. Mặc dù ở đây có cả đống các trang thiết bị dùng nghiên cứu hiện trường vụ án nhưng căn phòng trông vẫn rất rộng rãi và lạnh lẽo, tất cả đều là tường trắng và sàn gỗ sáng loáng. Và máu nữa. Bất kể là có bao nhiêu hiện trường vụ án cô đã từng tới thì hình ảnh máu me đầu tiên vẫn luôn làm cô thấy giật mình. Những vệt máu làm thành một hình đuôi sao chổi quất ngang tường sau đó chảy xuống thành những dòng nhỏ. Máu đó là của bác sĩ Richard Yeager đã bị đẩy ngồi sát vào tường, cánh tay bị trói quặt ra phía sau. Anh ta chỉ mặc duy nhất chiếc quần ngắn của những tay boxer, chân duỗi thẳng ra phía trước, mắt cá chân bị trói bằng băng dính với nhau. Đầu anh ta gục về phía trước, để lộ cho cô thấy một vết thương chí tử, nơi đã chảy máu cho đến khi anh ta chết. Cô không cần nhìn tận nơi vết cắt để xem nó sâu như thế nào tới động mạch chủ và khí quản. Cô đã quá quen thuộc với cách tính toán tác động của một vết thương như thế và cô cũng có thể thấy những giấy phút cuối cùng của vị bác sĩ dựa vào những vệt máu: động mạch phình ra, phổi ứ máu, nạn nhân thở qua khí quản bị chết ngạt trong chính máu của mình. Những tia bắn ra từ khí quản đã khô trên ngực trần của anh ta. Nhìn vào đôi vai rộng và các cơ bắp trên cơ thể anh ta, có thể thấy anh ta là người rất khỏe mạnh - chắc chắn là có đủ khả năng chống trả một kẻ tấn công mình. Thế nhưng anh ta đã chết với đầu cúi gục, trong tư thế của một người hoàn toàn tuân mệnh. Hai nhân viên nhà xác đã mang cáng vào và đang đứng cạnh cái xác, xem xét xem làm thế nào để chuyển cái xác một cách tốt nhất khi nó đã cứng đờ trong tư thế như thế kia. “Khi nhân viên khám nghiệm tới nơi thì xác chết đã hoàn toàn đông cứng lại rồi. Cô ấy ước đoán thời gian anh ta chết là vào khoảng nửa đêm đến 3 giờ sáng.” “Ai đã tìm thấy anh ta?” “Y tá trong văn phòng của anh ta. Sáng nay, khi thấy anh ta không có mặt ở phòng khám và cũng không thấy anh ta nghe máy, cô ấy lái xe qua để kiểm tra và đã tìm thấy anh ta lúc khoảng 9 giờ sáng. Không thấy dấu hiệu gì của vợ anh ta.” “Vợ ư?” Rizzoli hỏi. “Cô ấy tên là Gail Yeager, 31 tuổi. Cô ta đã mất tích.” Rizzoli nhìn chằm chằm vào Richard Yeager - người đàn ông mà mọi cơ bắp trên cơ thể đã phục tùng thần chết. “Hãy nói cho tôi biết về những người này. Đời sống hôn nhân của họ nữa.” “Một cặp hạnh phúc. Đó là điều mọi người đều nói.” “Đó là điều mà người ta thường nói.” “Trong trường hợp này thì có vẻ là đúng như thế. Họ mới kết hôn được hai năm. Mua ngôi nhà này năm ngoái. Cô ấy là một y tá trong bệnh viện của anh ta, họ có cùng những người bạn, cùng lịch làm việc.” “Vậy là có rất nhiều thứ để làm cùng nhau.” “Đúng thế. Còn tôi chắc tôi điên mất nếu suốt ngày có vợ kè kè bên cạnh. Nhưng họ thì có vẻ lại rất dễ chịu. Tháng trước anh ta còn nghỉ suốt hai tuần chỉ để ở bên vợ khi mẹ cô ấy mất. Cô cũng biết là một bác sĩ phẫu thuật thẩm mỹ có thể kiếm được bao nhiêu trong hai tuần rồi đấy. Mười lăm hoặc có thể là hai mươi nghìn đô ấy chứ, nhỉ? Đó là sự an ủi khá đắt đỏ mà anh ta dành tặng vợ.” “Cô ấy nên được nhận điều đó.” “Thì thế,” Korsak nhún vai. “Vậy là anh không tìm được lý do tại sao cô ấy lại bỏ anh ta mà đi.” Rizzoli liếc nhìn tất cả cửa sổ trong căn phòng gia đình. Phía bên ngoài cây cối um tùm che khuất những nhà hàng xóm xung quanh. “Anh nói thời gian chết là tầm nửa đêm tối 3 giờ sáng, đúng không?” “Đúng thế.” “Có ai nghe thấy gì không?” “Hàng xóm bên tay trái thì đang ở Paris. Ô la la. Bên phải thì có vẻ mấy người đó cả đêm đã ngủ rất say.” “Có dấu hiệu đột nhập không?” “Cửa sổ nhà bếp, kính bị cắt. Có dấu chân cỡ 11 trên thảm cỏ. Trong phòng này cũng có dấu chân cùng cỡ, có dính máu.” Anh nói rồi rút ra chiếc khăn tay lau mồ hôi trên trán. Korsak là một trong số các anh chàng không may mắn, không thể ngăn mồ hôi túa ra. Chỉ trong có vài phút trò chuyện mà mồ hôi trên áo sơ mi của anh đã loang khắp người. “Thôi được. Hãy khiêng anh ta dịch ra khỏi bức tường,” một trong số những người khiêng xác nói. “Đặt anh ta xuống cáng.” “Cẩn thận cái đầu đấy. Nó đang trượt ra.” “Chúa ơi!” Rizzoli và Korsak đứng im nhìn bác sĩ Yeager được đặt nằm nghiêng trên tấm vải. Anh ta đã chết và đông cứng trong tư thế theo một góc vuông 90 độ vì thế nên các nhân viên khiêng xác phải tính toán làm cách nào để có thể đặt được anh ta lên cáng, tránh để theo kiểu kỳ cục như thế. Bất chợt một mảnh vỡ màu trắng trên nền nhà - nơi cái xác vừa ngồi làm Rizzoli chú ý. Cô cúi xuống và nhận thấy nó là một mảnh gốm nhỏ. “Tách trà bị vỡ,” Korsak bảo. “Gì cơ?” “Có một cái tách và một cái đĩa bên cạnh nạn nhân. Trông có vẻ như nó bị rơi khỏi đùi anh ta hay đại loại như thế. Chúng tôi đã gói chúng lại để lấy dấu vân tay,” Thấy trong mắt cô lộ vẻ bối rối nên anh nhún vai. “Đừng có hỏi tôi.” “Hình ảnh tượng trưng ư?” “Đúng thế. Nghi thức tiệc trà dành cho người chết!” Cô nhìn chăm chăm vào mảnh gốm nhỏ trên lòng bàn tay đeo găng của mình và băn khoăn không biết nó có ý nghĩa gì. Ruột cô như thắt lại. Một cảm giác bàng hoàng về những sự tương đồng. Cổ họng bị cắt. Dây trói bị bỏ lại. Đột nhập qua cửa sổ. Các nạn nhân bị bất ngờ trong khi đang ngủ. Và một phụ nữ bị mất tích. “Phòng ngủ ở đâu?” Cô hỏi dù trong lòng không hề muốn trông thấy nó, cô sợ phải thấy nó. “Được. Đó cũng chính là nơi tôi muốn cô nhìn.” Hành lang dẫn tới phòng ngủ được treo các bức tranh màu đen trắng lồng trong khung ảnh. Không phải những bức ảnh gia đình đang cười vui vẻ như hầu hết các gia đình khác hay treo mà tất cả đều là ảnh phụ nữ khỏa thân, gương mặt được làm mờ đi hay quay theo hướng ngược lại với ống quay, những bức hình bán thân dấu tên. Lúc thì là người phụ nữ đang ôm một thân cây, làn da mềm mại ép nhẹ lên thân gỗ sần sùi. Lúc lại là người phụ nữ đang ngồi cúi xuống phía trước, mái tóc dài đổ xuống giữa hai đùi. Khi thì người phụ nữ đang vươn tay với tới trời cao, cơ thể lấp lánh mồ hôi. Rizzoli dừng lại để nhìn bức hình đã bị xô nghiêng. “Tất cả những hình đó đều là cùng một người phụ nữ.” “Là cô ấy.” “Bà Yeager ư?” “Trông có vẻ họ có sở thích kỳ cục đấy nhỉ?” Cô nhìn chăm chú vào những đường nét cơ thể mềm mại của Gail Yeager, “Nó chẳng kỳ cục chút nào. Đó là những bức ảnh đẹp mà.” “Công nhận là thế. Phòng ngủ ở trong này,” anh nói và chỉ tay vào cánh cửa phía trước. Cô dừng lại trước ngưỡng cửa. Giường ngủ cỡ lớn ngang với giường ngủ của hoàng đế. Mền bị cuốn xô về phía sau như thể những người trên giường ấy đã đột ngột bị kéo ra khỏi giấc ngủ. Trên tâm thảm hồng lộ rõ hai đường cắt từ giường ngủ tới cửa phòng vì những sợi nylon bị đè phẳng ra. Rizzoli thì thầm nhận định, “Họ đã bị kéo ra khỏi giường.” “Đối tượng của chúng ta đã làm họ kinh ngạc khi họ đang nằm trên giường. Khuất phục họ theo một cách nào đó. Trói cổ tay và cổ chân của họ. Lôi họ dọc theo tấm thảm vào trong hành lang chỗ bắt đầu có sàn gỗ.” Rizzoli bị những hành động của kẻ giết người chi phối. Cô tưởng tượng thấy hắn đang đứng ngay nơi cô đang đứng bây giờ, nhìn cặp vợ chồng đang ngủ. Cánh cửa sổ cao phía trên giường ngủ không buông rèm sẽ cho đủ ánh sáng để có thể nhận biết được đâu là người đàn ông, đâu là người đàn bà. Trước tiên hắn ta sẽ tiến về phía bác sĩ Yeager. Đó là cách làm logic để kiểm soát người đàn ông. Để người phụ nữ lại. Rizzoli chỉ có thể tưởng tượng được chừng đó. Tiếp cận, tấn công trước. Điều cô không hiểu là chuyện gì xảy ra tiếp theo. “Tại sao lại phải dời họ đi? Sao không giết bác sĩ Yeager ngay ở đây? Đưa họ ra khỏi phòng ngủ là có ý gì?” Rizzoli hỏi. “Tôi không biết,” anh nói rồi chỉ vào phía trong cánh cửa. “Tất cả đều đã được chụp hình lại. Cô có thể vào trong để xem xét.” Hơi chần chừ, cô bước vào bên trong phòng, tránh những vết kéo lê trên thảm, tiến về phía giường ngủ. Cô không thấy có vết máu nào trên chăn cũng như trên ga. Trên một chiếc gối có một sợi tóc dài màu vàng - đó là phía bà Yeager nằm - cô nghĩ. Cô quay sang nhìn bàn trang điểm, chỗ có khung hình hai vợ chồng và khẳng định chắc chắn Gail Yeager có mái tóc vàng. Một người phụ nữ đẹp, mắt xanh nhẹ, tàn nhang lấm chấm trên làn da rám nắng. Bác sĩ Yeager khoác tay ngang vai cô, với vẻ đầy tự tin của một người có cơ thể cường tráng chứ không phải một người đàn ông một ngày nào đó phải ngồi chết với bộ đồ lót và tay chân bị trói. “Nó ở trên ghế,” Korsak bảo. “Cái gì cơ?” “Nhìn vào cái ghế đi.” Cô quay nhìn góc phòng và thấy một chiếc ghế dựa lưng kiểu cổ. Trên mặt ghế là một bộ đồ ngủ được gấp gọn. Lại gần hơn cô thấy có những vệt máu sáng màu trên nền sa tanh màu kem. Tóc sau gáy của cô đột nhiên dựng đứng cả lên. Trong một thoáng cô thấy mình như không thể thở được. Cô cúi xuống, nâng một góc tấm vải lên. Phía dưới cũng đầy những vệt máu. “Chúng tôi không biết máu đó là của ai. Nó có thể là của bác sĩ Yeager, cũng có thể là của vợ ông ta,” Korsak bảo. “Nó đã khô trước khi hắn ta gập nó lại.” “Nhưng không có máu nào khác trong căn phòng này. Vậy có nghĩa là máu đó bị bắn vào trong một phòng khác. Sau đó hắn ta mang nó lại phòng này, gấp gọn gàng, đẹp đẽ, đặt nó lên ghế, như một món quà tạm biệt,” Korsak ngừng lại một chút rồi hỏi. “Nó có gợi nhớ cho cô tới ai không?” Cô nuốt khan, “Anh biết là có mà.” “Tên giết người này đang copy lại tín hiệu cũ của gã của cô.” “Không, cái này khác. Tất cả những thứ này đều khác. Bác sĩ phẫu thuật chưa bao giờ tấn công một cặp cả.” “Thì bộ đồ ngủ được gấp gọng gàng. Dây trói. Những nạn nhân bị làm kinh ngạc khi đang ngủ đấy thôi.” “Warren Hoyt chọn những phụ nữ độc thân. Những nạn nhân mà hắn có thể dễ dàng khống chế.” “Nhưng nhìn vào những thứ này. Chúng chẳng rất giống nhau sao? Tôi đang nói với cô là chúng ta đang có một con mèo bắt chước. Một tên khùng nào đó đã từng đọc về vụ Bác sĩ phẫu thuật(1) mà dân trong ngành còn gọi tên giết người trong vụ đó là bác sĩ phẫu thuật.” Rizzoli đứng yên nhìn bộ đồ ngủ, nhớ lại những phòng ngủ khác, những hiện trường vụ án khác. Nó cũng đã từng xảy ra vào mùa hè khi cái nóng ngột ngạt đến mức không thể chịu đựng được, khi những người phụ nữ nằm ngủ với cửa sổ để mở và một gã đàn ông tên Warren Hoyt bò vào nhà họ. Hắn mang theo mình những hình ảnh tăm tối và những con dao mổ - thứ dụng cụ mà hắn dùng để thực thi những nghi lễ đầy máu me trên những nạn nhân vẫn còn thức và nhận biết rõ lưỡi dao sắc lẻm của hắn. Cô nhìn bộ đồ ngủ và trong đầu cô hiện rõ mồn một hình ảnh gương mặt Hoyt - gương mặt đã luôn ám ảnh cô trong những cơn ác mộng. Nhưng đây không phải việc hắn làm. Warren Hoyt đang bị nhốt ở một nơi an toàn - nơi hắn không tài nào thoát ra được. Mình biết, vì chính mình đã tống tên khốn ấy vào đó. “Tờ Boston Globe đã in lên mặt báo tất cả những chi tiết thú vị nhất,” Korsak bảo. “Thậm chí cậu bé của cô còn cho nó lên cả tờ New York Times nữa. Vậy nên giờ thì đối tượng này đang bắt chước lại những việc hắn ta đã làm.” “Không đúng. Kẻ giết người của anh đang làm những việc mà Hoyt chưa từng làm. Hắn lôi cặp này ra khỏi phòng ngủ, tới một phòng khác. Hắn đặt người đàn ông ngồi ở ghế rồi sau đó cắt cổ ông ta. Nó có vẻ giống một việc hành quyết hay một phần của nghi thức hơn. Tiếp đó là người đàn bà. Hắn ta giết người chồng, thế còn người vợ, hắn ta làm gì với người vợ?” cô ngừng lại, đột nhiên nhớ tới mảnh gốm nhỏ trên sàn nhà. Một chiếc tách bị vỡ. Cô có cảm giác như có một cơn gió lạnh thổi qua mặt mình. Không nói câu nào, cô bước ra khỏi phòng ngủ, quay lại phòng gia đình. Cô nhìn bức tường, nơi xác bác sĩ Yeager đã ngồi. Cô nhìn xuống sàn và bắt đầu bước rộng hơn thành vòng tròn, xem xét những vết máu trên sàn gỗ. “Cô Rizzoli,” Korsak gọi. Cô quay nhìn cửa sổ và nheo mắt lại vì ánh nắng chói. “Ở đây sáng quá và có quá nhiều kính nữa. Chúng ta không thể nhìn thấy hết mọi thứ. Chúng ta sẽ phải quay lại đây vào ban đêm.” “Ý cô là chúng ta sẽ cần dùng đến đèn Luma?” “Chúng ta sẽ cần dùng đến tia cực tím để nhìn thấy nó.” “Cô định tìm gì chứ?” Rizzoli quay lại phía bức tường, “Bác sĩ Yeager đã ngồi đó khi anh ta chết. Mục tiêu chưa biết của chúng ta đã lôi anh ta ra khỏi giường, ép anh ra ngồi dựa vào tường, buộc anh ta phải đối mặt với khu giữa căn phòng.” “Đúng vậy.” “Tại sao hắn ta lại phải làm như thế? Tại sao phải rắc rối như thế trong khi nạn nhân vẫn còn sống? Chắc chắn phải có một lý do nào đó.” “Lý do gì?” “Anh ta đã bị ép ngồi đó để chứng kiến một điều gì đó. Anh ta ngồi đó để làm nhân chứng cho những gì đã xảy ra trong căn phòng này.” Cuối cùng thì trên mặt Korsak cũng lộ vẻ là anh đã hiểu ra vấn đề. Anh nhìn chằm chằm vào bức tường, nơi bác sĩ Yeager đã ngồi, để làm khán giả cho một vở kịch kinh hoàng. “Ôi, lạy Chúa! Bà Yeager,” anh thốt lên. Chương 2 Rizzoli mang về từ một cửa hàng ở góc phố chiếc pizza và lôi trong tủ lạnh ra ít rau diếp đã cất lâu ngày. Cô bỏ những lá úa cho đến khi thấy lớp lá bên trong có thể ăn được. Đó là món rau trộn héo và chẳng ngon chút nào, cô cũng không hề thấy thích thú chúng. Cô không có thời gian để thích chúng. Cô ăn chỉ để nạp năng lượng, dùng cho đêm dài phía trước - một đêm mà cô không hề mong chờ nó đến. Ăn được vài miếng cô liền đẩy chúng, ra xa, nhìn chăm chăm vào những vệt cà chua lòe loẹt dính trên chiếc đĩa. Những cơn ác mộng đang đeo bám mày - cô thầm nghĩ - mày nghĩ mày đã miễn dịch, mày đủ khỏe mạnh, đủ khôn ngoan để có thể sống chung với chúng. Hơn nữa mày còn biết cách để đóng một vai nào đó nhằm giả vờ như đã tống được chúng ra khỏi đầu mày. Nhưng những gương mặt đó vẫn còn ở đây với mày. Những con mắt chết vẫn còn ở đây. Liệu có Gail Yeager giữa những đôi mắt ấy? Cô cúi nhìn tay mình, nhìn những vết rạch trên hai bàn tay như những vết cắt hình thập giá đã lành. Mỗi khi trở trời thì hai bàn tay cô cũng đau buốt, một hình phạt, nhắc nhở về việc Warrent Hoyt đã làm với cô một năm về trước vào cái ngày hắn đã dùng lưỡi dao sắc lẻm của mình cứa vào da thịt cô. Ngày đó cô đã nghĩ nó là ngày cuối cùng của đời mình. Những vết thương cũ giờ đang trở-đau, nhưng cô không thể đổ tại thời tiết được. Rõ ràng nó đau như thế là vì những thứ cô đã nhìn thấy ở Newton ngày hôm nay. Chiếc váy ngủ được gấp gọn gàng. Những vệt máu trên tường. Cô đã bước vào trong một căn phòng mà không khí sặc mùi tai ương và cô cũng đã cảm thấy sự hiện diện của Warrant Hoyt thấp thoáng đâu đây. Tất nhiên không thể nào như thế được. Hoyt đang ở trong tù, đó chính xác là nơi hắn nên ở. Nhưng lúc này, cô đang ngồi đây với cảm giác ớn lạnh khi nghĩ lại những hình ảnh về căn nhà ở Newton bởi vì cô cảm thấy những thảm kịch ấy quá giống nhau. Cô đã rất nôn nóng, muốn gọi cho Thomas More - người đồng sự của cô trong vụ của Hoyt hồi năm ngoái. Anh ấy biết chính xác từng chi tiết mà cô biết và anh ấy cũng hiểu nỗi sợ hãi dai dẳng mà Hoyt gây lên như một cái mạng nhện bao quanh họ. Nhưng từ khi Moore kết hôn, cuộc sống của anh đã tách khỏi cuộc sống của cô. Hạnh phúc mới tìm được của anh là điều đã làm họ trở nên xa lạ. Những người hạnh phúc thường hay dè dặt, ít cởi mở; họ hít thở một bầu không khí khác và là chủ thể cho một quy luật hấp dẫn khác. Dẫu rằng Moore có vẻ như không nhận ra sự thay đổi giữa họ, nhưng Rizzoli thì cảm nhận được nó rõ ràng. Cô thầm than khóc cho sự mất mát ấy, thậm chí còn thấy hổ thẹn với chính mình vì đã có đôi lúc cô thèm muốn hạnh phúc của anh. Hổ thẹn vì đã có lúc cô ghen tị với người phụ nữ đã nắm được trái tim Moore. Vài ngày trước cô có nhận được bưu thiếp gửi về từ London của anh - nơi anh và Catherine đang đi nghỉ. Đó là một tấm thiệp lưu niệm từ viện bảo tàng Yard - Scotland, với vỏn vẹn một câu chào ngắn được viết phía sau, chỉ vài từ để báo cho Rizzoli biết là họ đang rất vui vẻ trong thế giới của mình. Suy nghĩ về những từ đầy vui vẻ lạc quan đó, Rizzoli biết rằng mình không thể làm anh ấy phải phiền não về việc này; cô không thể đem cái bóng đen tối của Warrant Hoyt phủ lên cuộc sống của họ. Cô ngồi yên lặng, lắng nghe tiếng xe cộ chạy dưới phố - cái duy nhất đáng kể trong sự yên lặng đến lạnh người trong căn hộ của cô. Cô nhìn quanh căn phòng khách của mình, nhìn những bức tường trống trơn, chỉ treo có mỗi một bức tranh. Đó là vật trang trí duy nhất trong căn phòng nếu có ai đó gọi nó như thế. Nó là một tấm bản đồ thành phố, được treo trên tường, ngay bên trên bàn ăn. Một năm trước đây tấm bản đồ này được đánh dấu chi chít bằng những cái đinh ghim nhiều màu, nhằm đánh dấu những nơi giết người của tên bác sĩ phẫu thuật. Cô đã khát khao muốn được biết tới. Cô muốn đồng nghiệp phải nhận ra, phải công nhận rằng cô hoàn toàn bình đẳng với họ, rằng cô đã thở và sống cùng với cuộc săn đuổi. Ngay cả ở nhà cô cũng vừa ăn vừa nhìn những dấu chân của kẻ sát nhân. Bây giờ những chiếc đinh ghim ấy đã không còn nữa, nhưng tấm bản đồ vẫn còn đó, đang chờ đợi những chiếc đinh ghim mới đánh dấu những bước di chuyển của một tên sát nhân khác. Cô băn khoăn không hiểu nó nói gì về cô, về cái sự đáng buồn của cô khi sau hai năm sống trong căn hộ này thì vật trang trí duy nhất treo trên những bức tường lại là tấm bản đồ của Boston. Cuộc săn đuổi của mày đấy, Cô thầm nghĩ. Thế giới của mày đấy. Những ngọn đèn trong khu dinh thự của Yeager đã tắt khi Rizzoli lái xe vào con đường dành cho xe chạy lúc 9 giờ 10 phút tối. Cô là người đến đầu tiên và vì cô không có quyền vào trong nhà nên cô ngồi yên trong xe, để cửa mở cho không khí trong lành tràn vào, đợi những người khác tới. Ngôi nhà nằm ở một con phố cụt yên tĩnh, cả hai nhà xung quanh đều tối om. Điều này sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho họ vì sẽ không có những ánh đèn tò mò chiếu sáng trong khi họ đang làm việc. Nhưng vào lúc này, ngồi một mình, trầm ngâm nhìn tòa nhà đầy kinh hoàng trước mặt cô lại khao khát được thấy một ánh đèn sáng và có người nào đó ở cùng. Những cánh cửa sổ bằng kính nhà Yeager đang nhìn cô chằm chằm như đôi mắt của cái xác. Bóng tối xung quanh cô muốn hình vạn trạng nhưng chẳng có cái nào đẹp đẽ cả. Cô lấy súng ra, mở chốt an toàn và đặt lên đùi. Chỉ có đến lúc ấy cô mới cảm thấy bình tĩnh hơn một chút. Có ánh đèn pha chiếu trong kính hậu của cô. Quay đầu nhìn, cô thấy đó là chiếc xe tải nhỏ với những dụng cụ dùng cho hiện trường vụ án. Cô cho lại súng vào trong túi. Một người đàn ông trẻ với đôi vai lực lưỡng bước ra khỏi xe, lại gần xe của cô. Lúc anh ta cúi xuống để nhìn qua cửa kính, cô thấy chiếc khuyên tai vàng của anh ta lấp lánh. “Chào Rizzoli,” anh lên tiếng. “Chào Mick. Cám ơn vì đã đến.” “Một khu đẹp đấy nhỉ?” “Hãy chờ cho đến khi anh thấy ngôi nhà đã.” Có ánh đèn pha rọi vào góc phố cụt. Korsak đã tới. “Mọi người đều đã ở đây. Bắt tay vào việc thôi.” Korsak và Mick không biết nhau. Trong ánh sáng từ cái đèn chụp của chiếc xe tải, Rizzoli giới thiệu hai người, cô thấy Korsak hơi lưỡng lự khi đưa tay bắt tay Mick, vì anh nhìn thấy chiếc khuyên tai của anh ta. Cô cũng có thể thấy những nhận định trong đầu Korsak. Khuyên tai. Mảnh người. Đích thị là một tên đồng tính. Mick bắt đầu dỡ những thiết bị xuống. “Tôi mới mua chiếc kính chống phạm mini 400 này. Nó có đèn 400 watt, sáng gấp ba lần so với chiếc GE 300 watt cũ. Đây là chiếc đèn có cường độ lớn nhất mà chúng ta từng dùng đến. Cái này thậm chí còn sáng hơn cả đèn Xenon 500 watt,” anh nói và liếc Korsak. “Anh có thể mang mấy thứ dụng cụ chụp ảnh vào được chứ?” Korsak chưa kịp phản ứng thì đã thấy Mick ấn vào tay mình cái giá đỡ bằng nhôm, sau đó anh ta quay về chiếc xe để lấy thêm các dụng cụ khác. Korsak đứng im như phỗng một lát, tay vẫn giữ cái giá và đeo bộ mặt với vẻ không thể tin được. Rồi anh cũng đi thẳng về phía ngôi nhà. Lúc Rizzoli và Mick tới trước cửa ngôi nhà với một đống những giá đỡ, có cả ống kính chống phạm, dây điện, kính bảo vệ thì Korsak đã bật điện trong nhà lên và cửa đã được mở rộng. Họ kéo lớp giấy phủ giày lên rồi bước vào nhà. Cũng giống Rizzoli hồi sáng, Mick đứng trên lối vào, ngước mắt nhìn chiếc cầu thang hoành tráng với vẻ đầy ngưỡng mộ. “Có kính đổi màu trên mái đó, anh nên nhìn chúng khi có ánh nắng chiếu vào,” Rizzoli bảo. Tiếng Korsak khó chịu vang lên từ phòng gia đình, “Chúng ta đến đây để làm việc hay làm gì thế?” Mick liếc Rizzoli để trao đổi cái nhìn với suy nghĩ ‘đúng là tên khốn’, cô nhún vai. Họ cùng bước theo hành lang. “Đây, chính là phòng này,” Korsak bảo. Anh mặc một chiếc sơmi khác với chiếc hồi hôm. Nhưng chiếc này, cũng như chiếc trước, đã đẫm mồ hôi. Anh đứng đó, với quai hàm bạnh ra, hai chân dang rộng, như thuyền trưởng nóng tính Bligh đang đứng trên bong tàu của mình - Chúng ta sẽ tập trung vào đây - khu vực này của sàn nhà. Những vệt máu vẫn chưa hề làm mất đi cảm giác giật mình khi nhìn thấy chúng. Mick đang lắp đặt thiết bị, cắm dây điện, sẵn sàng máy chụp để trên chiếc giá ba chân. Rizzoli thấy mình chăm chú nhìn bức tường. Dù có lau chùi thế nào cũng không thể xóa được những dấu tích thầm lặng đầy kinh hoàng đó, dấu tích của một tội ác dã man. Những dấu vết sinh hóa vẫn in hằn một cách ma quái. Nhưng tối nay họ không đi tìm những vết máu. Họ đang kiếm tìm cái gì đó khó nhìn hơn nhiều và cái đó cần có một nguồn ánh sáng thích hợp, đủ mạnh để phơi bày chúng - thứ mà hoàn toàn vô hình trước những con mắt trần. Rizzoli biết ánh đèn đó đơn giản chỉ là năng lượng điện từ được chuyển thành sóng. Ánh sáng có thể nhìn thấy mà mắt người có thể nhận biết được là những sóng dài tầm từ 400 đến 700 nano mét. Những sóng điện từ ngắn hơn, nằm trong khoảng tia cực tím là những sóng không thể nhìn thấy được. Nhưng khi có ánh sáng đèn UV chiếu vào số lượng chất tự nhiên khác nhau do con người tạo ra thì thỉnh thoảng nó kích thích những hạt electron trong các chất đó, tạo ra tia sáng có thể nhìn thấy được. Nó là một quá trình được gọi là huỳnh quang phát. Tia UV có thể làm hiện rõ những phần bên trong cơ thể, những vết nứt xương, những kết cấu bên trong của tóc và gỗ. Đó là lý do vì sao chúng ta lại cần ống kính chống phạm mini. Dưới ánh đèn UV, toàn bộ hiện trường vụ án với những chứng cứ mới có thể được nhìn thấy. “Chúng ta đã sẵn sàng,” Mick bảo, “giờ có lẽ chúng ta cần làm cho căn phòng này tối hết mức có thể.” Anh nhìn Korsak, “Anh có thể bắt đầu bằng cách tắt hết các đèn ngoài hành lang không thám tử Korsak?” “Chờ đã. Thế còn kính thì sao? Tia UV có thể hủy hoại mắt tôi, phải không?” “Tôi sẽ dùng những sóng dài trước. Nó không có hại gì đâu.” “Dù gì tôi cũng muốn có một cặp.” “Nó ở trong hộp đó. Có đủ kính cho tất cả mọi người.” “Để tôi tắt đèn hành lang,” Rizzoli bảo. Cô bước ra khỏi phòng và nhấn nút, tắt đèn. Lúc cô quay lại, Korsak và Mick vẫn đứng xa nhau hết mức có thể, như sợ có căn bệnh nào sẽ lây qua đường giao tiếp. “Thế giờ chúng ta sẽ tập trung vào khu vực nào?” Mick hỏi. “Hãy bắt đầu từ cuối phòng, nơi đã tìm thấy nạn nhân,” Rizzoli nói, “sau đó sẽ dịch dần ra phía ngoài, rồi ra toàn bộ căn phòng.” Mick liếc nhìn quanh. “Đằng kia có một tấm thảm màu be. Cái đó có thể sẽ phát quang. Cái giường trắng kia cũng sẽ sáng lên dưới tia UV. Tôi chỉ muốn cảnh báo anh là nó sẽ hơi khó khăn để định vị bất cứ thứ gì trên cái nền như thế,” anh nói khi liếc nhìn Korsak, lúc này đã đeo kính sẵn sàng và trông anh như một gã thua cuộc trung niên nào đó đang cố gắng trông cho thật ấn tượng với vỏ bọc của cặp kính râm. “Tắt hết đèn trong các phòng đi, để xem chúng ta có thể làm cho nó tối đến mức nào,” Mick nói tiếp. Korsak tắt công tắc, căn phòng đột ngột trở nên tối đen. Ánh sáng yếu ớt từ những vì sao chiếu qua những khung cửa sổ rộng không rèm. Không có trăng và lớp cây cối dày đặc phía sau nhà che khuất ánh sáng từ các nhà hàng xóm. “Cũng không tệ lắm,” Mick bảo. “Tôi có thể làm việc trong điều kiện như thế này. Còn tốt hơn chán mấy hiện trường vụ án khác, chỗ mà tôi phải lần mò dưới tấm chăn để làm việc. Anh biết đấy, người ta đang phát triển hệ thống hình ảnh để có thể sử dụng được ánh sáng ban ngày. Một ngày nào đó chúng ta sẽ không phải lần mò như những người mù thế này nữa.” “Chúng ta có thể không đi lòng vòng nữa mà bắt tay luôn vào công việc được không,” Korsak chặn ngang. “Tôi chỉ nghĩ là có thể anh cũng quan tâm đến chủ đề công nghệ này.” “Lúc khác được chứ?” “Gì cũng được,” Mick nói trổng. Rizzoli đeo cặp kính vào khi ngọn đèn xanh của ống kính chống phạm được bật lên. Cái ánh sáng kỳ ảo của những hình dạng phát quang hiện lên như những bóng ma trong căn phòng tối. Tấm thảm và chiếc giường bất chợt sáng lên đúng như Mick đã dự đoán. Ánh sáng xanh di chuyển ra phía trước, thẳng tới bức tường đối diện nơi xác của Yeager đã ngồi và ánh sáng bạc bừng lên trên tường. “Trông đẹp đấy chứ nhỉ?” Mick hỏi. “Đó là gì vậy?” Korsak băn khoăn. “Những sợi tóc đã dính vào các vệt máu.” “À đúng rồi. Nó đẹp thật đấy.” “Chiếu xuống sàn nhà đi,” Rizzoli đề nghị. “Đó là nơi ta sẽ thấy nó đẹp thế nào.” Mick cho ống kính UV chiếu xuống phía dưới và cả thế giới của tóc và các loại sợi sáng bừng dưới chân họ. Các chứng cứ còn lại của việc hút chân không của đội CSU lúc trước đã để lại. “Ánh sáng càng mạnh thì việc phát quang càng mạnh,” Mick vừa nói vừa quét quanh sàn nhà. “Đó là lý do tại sao cái thứ này lại rất hay. Với 400 watt, nó đủ sáng để có thể nhặt được tất cả mọi thứ. Bên FBI đã mua 71 thứ như thế này. Nó rất gọn gàng đúng không? Anh có thể cầm nó lên máy bay như đồ xách tay.” “Anh là người quái gì thế? Một tên nghiện công nghệ à?” Korsak giễu. “Tôi thích những đồ công nghệ cao. Tôi là một chuyên gia kỹ thuật mà.” “Anh á?” “Sao anh lại có vẻ ngạc nhiên thế nhỉ?” “Tôi không nghĩ những anh chàng như anh lại có thể làm những việc đó.” “Những anh chàng như tôi là sao?” “Ý tôi là cái bông tai, rồi tất cả những thứ khác, anh biết rồi đấy.” Rizzoli thở dài, “Anh mở miệng ra rồi nhét chân mình vào đi.” “Cái gì cơ?” Korsak hỏi. “Tôi đâu có ý phỉ báng gì bọn họ đâu. Tôi chỉ tình cờ nhận ra rằng có rất ít người trong số họ đi theo con đường kỹ thuật. Thường thì nhiều người theo con đường nghệ thuật hay sân khấu gì đó, đại loại thế. Ý tôi là điều đó cũng tốt mà. Chúng ta cần có các nghệ sĩ.” “Tôi đã tới học ở trường Mass,” Mick nói mà không hề có ý chống trả. Anh vẫn tiếp tục dò theo sàn nhà. “Trường dạy kỹ thuật điện.” “Này, những anh chàng thợ điện kiếm được khối tiền đấy.” “Ừm, nó không hẳn là những nghề giống nhau.” Họ vẫn đang dịch chuyển theo hướng không bao giờ tiếp cận nhau. Ánh sáng của tia UV tiếp tục rọi chiếu làm lộ ra những đốm sáng từ tóc và các loại sợi cũng như những thứ không thể xác định khác. Đột ngột họ tiến tới một khu mà ánh sáng làm cho họ phải giật mình. “Tấm thảm,” Mick bảo. “Bất kể nó được làm từ loại sợi nào thì nó cũng đang bừng sáng lên như điên ấy. Sẽ khó mà nhìn thấy được nhiều thứ trên cái nền thế này.” “Cứ dò đi,” Rizzoli khẳng định. “Chiếc bàn trà đang vướng lối. Cô dịch nó ra chỗ khác được không?” Rizzoli cúi về phía trước nơi có thứ gì đó như một cái bóng trên nền màu trắng của ánh sáng huỳnh quang. “Korsak, anh giúp tôi khiêng mé kia đi,” cô bảo. Khi chiếc bàn trà đã được di dời, tấm thảm bừng sáng thành cái ao hình ovan đang bừng lên ánh sáng trắng xanh. “Làm thế nào chúng ta có thể định vị được bất cứ thứ gì trên cái nền đó?” Korsak hỏi. “Nó giống như cố nhìn kính nổi trên mặt nước vậy.” “Kính không nổi trên nước,” Mick cãi. “Vâng, đúng rồi. Anh là kỹ sư mà lại. Thế vậy Mick có nghĩa là gì vậy? Chuột Mikey hả?” “Làm tới cái giường đi!” Rizzoli chen vào. Mick chuyển hướng ống kính. Chiếc giường cũng phát quang nhưng yếu hơn, như tuyết dưới ánh trăng. Mick chầm chậm dò quanh khung giường, sau đó đến đệm giường, nhưng không phát hiện bất cứ vết gì khả nghi, chỉ thấy có vài sợi tóc dài rải rác và chút bụi. “Mấy người này thật ngăn nắp,” Mick nhận xét. “Không có vết bẩn, rất ít bụi. Tôi cá chiếc giường này là hàng mới ra.” “Chắc chắn thế rồi. Cái giường mới mà tôi mua gần đây nhất là hồi tôi kết hôn,” Korsak cằn nhằn. “Thôi được rồi. Còn nhiều khoảng sàn nhà cần phải dò nữa. Đi tiếp theo hướng đó đi.” Rizzoli cảm thấy Korsak xô vào mình, cô ngửi thấy mùi mồ hôi chua loét của anh ta. Hơi thở ồn ào như thể anh ta có vấn đề về xoang và bóng tối càng làm anh ta khụt khịt mạnh hơn. Khó chịu, cô bước tránh ra khỏi chỗ anh ta, đá ngay chân vào chiếc bàn. “Chết tiệt.” “Này, để ý xem cô đang đi đâu chứ,” Korsak nhắc nhở. Cô lại va phải thứ gì đó cứng trong phòng. Cúi xuống xoa chân, cô thấy chóng mặt, mất phương hướng vì bóng tối và vì thay đổi đột ngột vị trí. Cô phải ngồi xuống để tránh bị mất thăng bằng. Cô chìm trong bóng tối trong giây lát, hy vọng rằng Korsak sẽ không bước ngang người cô vì anh ta đủ nặng để đè bẹp cô. Cô có thể nghe tiếng hai người đàn ông đang dịch chuyển cách xa mình vài bước chân. “Dây điện đang rối vào nhau rồi,” Mick bảo. Ánh sáng từ ống kính chống phạm đột ngột chiếu đến phía Rizzoli trong lúc anh gỡ rối dây điện. Ánh đèn chạy ngang qua tấm thảm nơi Rizzoli đang ngồi cúi người vì đau. Cô chăm chăm nhìn. Được bao bọc bởi ánh sáng huỳnh quang từ những loại sợi trên tấm thảm là một điểm tối khác thường, nhỏ hơn một đồng xu. “Mick!” cô gọi. “Anh có thể nhấc phía kia của chiếc bàn không? Tôi nghĩ là dây điện bị vướng quanh chân bàn.” “Mick!” “Gì cơ?” “Mang ống kính qua đây. Tập trung vào tấm thảm. Ngay ở chỗ tôi đang ngồi ấy.” Mick tiến gần lại chỗ cô. Korsak cũng vậy. Cô có thể nghe được tiếng thở như bị xoang của anh đang tiến gần phía mình. “Rọi vào phía bàn tay tôi. Tôi đang để ngón tay rất gần điểm đó.” Ánh sáng xanh bừng lên trên tấm thảm và bàn tay cô thành một cái bóng đen mờ trên cái nền huỳnh quang đó. “Ở đó,” cô bảo. “Nó là cái gì vậy?” Mick cũng ngồi xổm xuống cạnh cô. “Một vết bẩn gì đó. Tôi nên chụp nó lại.” “Nhưng nó là một điểm đen. Tôi nghĩ là chúng ta đang kiếm tìm một thứ gì phát sáng mà,” Korsak bảo. “Khi phông nền được phát quang ở mức độ mạnh giống như những sợ bông trên tấm thảm này thì những phần cơ thể có thể trông đen như thế này vì chúng không thể phát sáng như thế được, vết bẩn này có thể là bất cứ thứ gì. Bên phòng thí nghiệm sẽ khẳng định cho ta biết.” “Vậy chúng ta sẽ cắt một miếng thảm đẹp đẽ này ra chỉ vì chúng ta đã tìm thấy một vệt café bị giây lên hay cái gì đó hả?” “Chúng ta cũng có thể dùng mẹo khác,” Mick cắt ngang. “Mẹo gì?” “Tôi sẽ thay đổi độ dài của bước sóng. Tôi sẽ làm nó thành một tia UV ngắn.” “Cái đó để làm gì?” “Sẽ rất thú vị đấy.” Mick điều chỉnh cài đặt, sau đó tập trung ánh sáng vào phần thảm có vệt đen. “Nhìn này,” anh nói rồi tắt nguồn chiếc máy chống phạm. Căn phòng trở thành một màu đen kỳ quái. Chỉ có duy nhất một đốm sáng ngay ở chân họ. “Cái đó là cái quái gì vậy?” Rizzoli cảm thấy như mình bị ảo giác. Cô nhìn chằm chằm vào hình ảnh ma quái đó - thứ mà như đang bừng cháy với ngọn lửa xanh lá cây. Cô nhìn nó nhưng thấy thứ ánh sáng đó nhạt dần rồi vài giây sau họ đã hoàn toàn trong bóng tối. “Hiện tượng phát lân quang,” Mick bảo. “Đó là huỳnh quang bị ngăn lại. Nó xảy ra khi tia UV làm kích thích các electron trong một số vật. Các electron cần một chút thời gian để chuyển về trạng thái năng lượng căn bản. Trong quá trình đó chúng giải phóng các photon ánh sáng. Đó là thứ mà chúng ta vừa nhìn thấy. Chúng ta có một vết bẩn mà phát lân quang xanh lá sau khi bị chiếu vào một tia UV với bước sóng ngắn. Điều này rất có ý nghĩa.” Anh nói xong rồi đứng dậy bật điện trong phòng. Trong ánh sáng điện đột ngột, tấm thảm với ánh sáng đầy mê hoặc họ đang nhìn vào bỗng trở lại một tấm thảm bình thường. Nhưng lúc này Rizzoli không thể nhìn nó mà không cảm thấy rợn người vì cô biết chuyện gì đã xảy ra ở đó. Bằng chứng về sự vật lộn của Gail Yeager vẫn còn đó, bám vào những thớ sợi. “Đó là tinh dịch,” cô nói. “Rất có thể là thế,” Mick tán thành trong khi lắp đặt lại chiếc giá và lắp bộ lọc Kodak để chuẩn bị chụp ảnh. “Sau khi tôi chụp xong cái này chúng ta sẽ cắt mảng thảm này ra. Bên phòng thí nghiệm sẽ dùng acid phospatase và kính hiển vi để khẳng định nó.” Nhưng Rizzoli chẳng cần khẳng định nào hết. Cô quay lại phía bức tường đầy những vệt máu. Cô nhớ vị trí cơ thể bác sĩ Yeager và cô cũng nhớ lại chiếc tách đã rơi khỏi đùi ông, vỡ tan trên nền nhà gỗ. Cái vết có phát lân quang trên tấm thảm đã khẳng định chắc chắn điều mà cô sợ hãi. Cô đã hiểu chuyện gì xảy ra chắc chắn như thể cảnh đó đang diễn ra ngay trước mắt cô. Mày kéo họ ra khỏi giường, lôi họ tới phòng này, căn phòng có sàn gỗ. Mày trói tay và cổ chân người bác sĩ, dán băng keo bịt miệng để anh ta không thể gào hét làm gián đoạn công việc của mày. Mày đặt anh ta ngồi đó, dựa vào tường, bắt anh ta làm một khán giả câm lặng của mày. Richard Yeager vẫn còn sống và nhận thức được đầy đủ điều mày định làm. Nhưng anh ta không thể chống trả. Anh ta không thể bảo vệ được vợ mình. Rồi để báo trước về những di chuyển của anh ta, sự kháng cự của anh ta, mày đã đặt chiếc tách và chiếc đĩa trên đùi anh ta như một hệ thống báo động sớm. Nó sẽ rơi vỡ ngay lập tức trên nền nhà cứng này ngay khi anh ta cố đứng dậy. Ngay trong lúc đang sung sướng hưởng thụ chiến tích của mình, mày không thể để mắt đến bác sĩ Yeager xem anh ta đang làm gì, vậy nên mày làm như thế để không bị gây kinh ngạc. Nhưng mày muốn anh ta phải chứng kiến việc mày làm. Cô nhìn chằm chằm vào cái vệt đã phát ánh sáng xanh lá. Nếu họ không dịch chuyển cái bàn, nếu họ không tìm kiếm những dấu vết để lại thì họ có thể đã để lỡ mất nó. Mày ép cô ấy, ngay trên tấm thảm này. Mày giữ cô ấy trước mắt người chồng - người không thể làm được gì để cứu vợ mình, kể cả cứu chính bản thân anh ta. Rồi sau đã xong việc, sau khi đã giành xong chiến lợi phẩm thì một giọt tinh trùng nhỏ đã bị để lại trên tấm thảm, dính vào những sợ bông, bị khô đi và trở thành không thể nhìn thấy. Việc giết người chồng liệu có phải là một phần của trò tiêu khiển? Liệu trong lúc ngừng nghỉ hắn ta có giữ riết lấy con dao để giết thời gian? Hay đó chỉ là một kết thúc thường thấy cho những sự kiện đã xảy ra trước đó? Liệu hắn ta có cảm thấy bất cứ thứ gì vào cái lúc hắn túm tóc Richard Yeager và dí dao vào cổ anh ta? Đèn trong phòng tắt phụt. Máy ảnh của Mick nháy hết lần này đến lần khác, chụp lại vết đen được bọc bởi ánh sáng huỳnh quang trên tấm thảm. Và rồi khi công việc đã xong, bác sĩ Yeager ngồi đó với đầu cúi xuống, máu chảy thành dòng, tưới trên tường phía sau anh ta thì mày lại cố làm trò khác - một nghi thức đi mượn từ một tên sát nhân khác. Mày gập chiếc váy ngủ dính máu của bà Yeager lại rồi đặt nó trong phòng ngủ, giống như Warrant Hoyt đã từng làm. Nhưng mày vẫn chưa kết thúc. Cái này mới chỉ là màn đầu tiên. Còn nhiều trò thú vị, nhiều trò tiêu khiển kinh hoàng đang nằm phía trước. Vì vậy mà mày đã đưa người phụ nữ đi. Đèn trong phòng sáng trở lại, ánh sáng làm nhức mắt cô. Cô thấy choáng váng, run rẩy bởi nỗi kinh hoàng mà nhiều tháng nay cô không cảm thấy. Đó quả là một sự yếu đuối đáng bẽ mặt mà cô đang để hai người đàn ông ở đây nhìn thấy, qua gương mặt trắng bệch và đôi tay run rẩy. Đột nhiên cô thấy không tài nào thở được. Cô bước ra khỏi căn phòng, ra khỏi ngôi nhà. Đứng trong sân trước nhà, cố hít chút không khí. Những bước chân cũng theo cô ra ngoài, nhưng cô không quay lại để xem người đó là ai. Chỉ khi anh ta cất tiếng thì cô mới biết đó là Korsak. “Cô không sao chứ, Rizzoli?” “Tôi không sao.” “Nhưng trông cô không được khỏe.” “Tôi chỉ cảm thấy hơi chóng mặt chút thôi.” “Đó là do hồi tưởng lại vụ của Hoyt đúng không? Xem này, nó đang làm cô run lên đây này.” “Sao anh lại biết?” Một thoáng ngập ngừng sau đó là tiếng khịt mũi. “Đúng rồi, cô đã đúng. Làm thế quái nào mà tôi lại biết chứ?” Anh nói rồi rảo bước quay lại ngôi nhà. Cô xoay người gọi với theo, “Korsak!” “Gì thế?” Họ nhìn nhau một thoáng. Không khí ban đêm không phải không dễ chịu và mùi cỏ có vẻ rất ngọt và mát. Nhưng nỗi sợ hãi trong dạ dày cô như đang cồn lên. “Tôi hiểu điều mà cô ấy đã cảm thấy,” cô nó nhỏ. “Tôi biết cô ấy đã phải trải qua những gì.” “Bà Yeager à?” “Anh phải tìm ra cô ấy. Anh phải làm chuyện này dừng lại.” “Ảnh cô ấy xuất hiện trên khắp mặt báo. Chúng ta cũng đang lần theo các cuộc điện thoại và tất cả những dấu hiệu.” Korsak lắc đầu thở dài. “Nhưng cô biết đấy, tại thời điểm này tôi đang băn khoăn liệu hắn có để cô ấy còn sống không.” “Hắn ta có. Tôi biết là hắn ta có.” “Sao cô có thể chắc chắn như thế?” Cô vòng tay ôm lấy mình để đỡ run rồi nhìn ngôi nhà, “Đó là điều mà Warrant Hoyt sẽ làm.” Chương 3 Trong số tất cả nhiệm vụ của mình với vai trò là thám tử trong đội phá án Boston thì những cuộc thăm viếng tới tòa nhà bằng gạch khiêm tốn trên phố Albany là điều Rizzoli không ưa nhất. Dù cô có nghi ngờ mình không hề khắt khe hơn những đồng nghiệp nam thì cô cũng không thể không bộc lộ những nhược điểm. Đàn ông quá giỏi trong việc chỉ ra các điểm yếu và họ sẽ cứ thế mà nhè vào đó để chế giễu, đùa cợt. Rizzoli đã học được cách đeo một vẻ mặt khắc kỷ để nhìn mà không hề nao núng trước những tình huống xấu nhất lúc trên bàn khám nghiệm tử thi. Không ai có thể nghi ngờ về thần kinh thép của cô khi đã trải qua quá nhiều những thứ trong tòa nhà đó. Cô biết những người đàn ông nghĩ về cô, coi cô như là Jane Rizzoli không biết sợ, mụ phù thủy với những viên kẹo đồng. Nhưng lúc này ngồi trong xe đậu ở bãi đỗ xe sau văn phòng M.E cô chẳng hề cảm thấy mình không sợ hãi cũng như cứng cỏi. Tối qua cô đã không được ngủ ngon. Lần đầu tiên trong nhiều tuần, Warrant Hoyt lại quay về trong giấc mơ của cô và cô đã tỉnh giấc với mồ hôi ướt đầm, bàn tay đau nhức vì những vết thương cũ. Cô cúi nhìn những vết rạch trên lòng bàn tay và đột ngột có ý muốn khởi động xe và lái đi thật xa, để trốn tránh bất cứ thứ gì đang đợi chờ cô trong tòa nhà kia. Cô không nhất thiết phải có mặt ở đó. Sau tất cả mọi thứ thì đây là vụ giết người thuộc thẩm quyền của bên Newton, chứ không phải trách nhiệm của cô. Nhưng Jane Rizzoli chưa bao giờ hèn nhát và cô quá kiêu hãnh để có thể rút lui vào lúc này. Cô bước ra khỏi xe, đóng sầm cửa lại rồi bước vào trong khu nhà. Cô là người đến phòng khám nghiệm sau cùng, ba người khác trong phòng gật đầu chào cô. Korsak đã khoác lên mình chiếc áo choàng O.R cỡ lớn và đội trên đầu chiếc mũ giấy phồng. Trông anh ta cứ như một bà nội trợ béo phì vậy. “Tôi đã bỏ lỡ mất điều gì thế?” Cô vừa hỏi vừa khoác lên mình chiếc áo choàng để tránh những vết bắn bất ngờ. “Không nhiều lắm. Chúng tôi mới vừa nói chuyện về dải băng dán.” Bác sĩ Maura Isles đang làm nhiệm vụ trong phòng khám nghiệm. Nữ hoàng xác chết là biệt danh mà đội phá án đã đặt cho cô một năm về trước khi cô tham gia vào phòng khám nghiệm bang Massachuset lần đầu tiên. Bác sĩ Tierney đã cố mời cô về Boston từ vị trí béo bở của cô bên trường y U.C San Francisco. Báo chí không mất quá nhiều thời gian để gọi cô bằng nickname là Nữ hoàng xác chết. Trong lần xuất hiện đầu tiên của cô tại tòa án Boston để chứng tỏ khả năng làm nhân viên giám định pháp y, cô đã mặc bộ đồ màu đen theo kiểu Gôtic. Những ống kính máy quay được truyền hình trực tiếp đã dõi suốt theo từng bước chân vương giả của cô trong phòng xử án. Đó là một phụ nữ hơi xanh xao nhưng rất ấn tượng với đôi môi bôi son đỏ, mái tóc ngang vai đen nhánh và phong thái ung dung, lạnh lùng. Tại bục của mình không ai có thể làm cô xao lãng. Trong lúc luật sư bào chữa ve vãn, tán tỉnh rồi cuối cùng dùng đến bạo lực một cách tuyệt vọng để bảo vệ cho bên phạm tội. Bác sĩ Isles đã trả lời các câu hỏi của anh ta một cách cực kỳ logic và lúc nào cũng giữ trên môi nụ cười kiểu Mona Lisa. Báo chí yêu mến cô. Các luật sư bào chữa sợ hãi cô. Còn cảnh sát điều tra thì vừa đùa cợt vừa thấy thích thú người phụ nữ này - người đã quyết định dành những ngày tháng của mình bên cạnh các xác chết. Bác sĩ Isles lại là người giữ vai trò chủ đạo bên bàn khám nghiệm với thái độ lãnh đạm thường thấy. Trợ lý của cô là Yoshima - chính xác đến từng cử động khi anh lắp đặt các thiết bị và chỉnh góc chiếu của đèn. Cả hai người đều nhìn nhận xác của Richard Yeager dưới góc nhìn của những nhà khoa học. Xác chết cứng đờ mà hôm qua Rizzoli thấy giờ nằm đó, đã mềm hơn. Dải băng dính dán đã được cắt đi, chiếc quần ngắn của võ sĩ đấm bốc cũng được bỏ, phần lớn máu đã khô trên da. Anh ta được đặt nằm thẳng, cánh tay duỗi dọc theo cơ thể, cả hai bàn tay đều sưng phồng và chuyển sang màu tím, giống như đang đeo một đôi găng tay, do dây trói gây nên. Nhưng lúc này tất cả mọi người đều dồn sự chú ý vào vết cắt trên cổ anh ta. “Phát đâm chí mạng,” Isles nói khi cầm thước để đo kích thước vết thương. “Mười bốn xăng ti mét.” “Kỳ lạ thật, sao nó trông có vẻ như không đến mức như thế nhỉ?” Korsak băn khoăn. “Đó là vì vết cắt cứa qua những đường Langer. Co dãn của da đã kéo các gờ lại khiến cho vết thương không há miệng to. Nó sâu hơn nhiều so với bề ngoài ta nhìn thấy.” “Dụng cụ hạ lưỡi chứ?” Yoshima hỏi. “Cám ơn,” Isles nói rồi cầm lấy vật đó từ tay Yoshima. Cô từ từ, nhẹ nhàng trượt nó qua gờ của vết thương tròn, đi sâu vào trong vết thương, thì thào trong hơi thở. “Nói A đi nào…” “Cái quái gì thế?” Korsak lại hỏi. “Tôi đang đo độ sâu của vết thương. Gần năm xăng ti mét.” Lúc này Isles lấy ra một chiếc kính lúp, soi trên vết thương và cả phần trong với lớp thịt đỏ. “Động mạch và tĩnh mạch trái đã bị cắt, cổ họng cũng bị rạch. Với cái kiểu vết thương như thế ngay phía dưới sụn của tuyến giáp thì tôi cho rằng cổ nạn nhân bị mở rộng trước, trước cả khi có vết cắt,” cô nói rồi ngước lên nhìn hai viên thám tử. “Đối tượng điều tra của các vị đã kéo giật đầu nạn nhân ra phía sau, sau đó thì đã cắt một vết rất thận trọng và chính xác.” “Một cuộc hành hình,” Korsak nhận định. Rizzoli vẫn nhớ ống kính chống phạm đã làm sáng những sợi tóc còn dính vào các vết máu trên tường như thế nào. Đó là tóc của bác sĩ Yeager, đã bị đứt khi lưỡi dao cắt vào cổ họng anh ta. “Kiểu dao gì thế?” Rizzoli hỏi. Isles không trả lời luôn câu hỏi của Rizzoli mà thay vào đó cô lại quay qua Yoshima bảo anh, “Băng dính!” “Tôi đã đặt ở đây rồi.” “Tôi sẽ gắn mép của nó. Anh dùng băng dính dán nhé.” Korsak cười khùng khục khi anh nhận ra điều họ đang làm, “Mấy người định dán vết thương của anh ta lại hả?” Isles nhìn anh bằng ánh nhìn lạnh lùng. “Anh thích dùng keo con voi hơn chứ gì?” “Làm thế để giữ cho đầu anh ta thẳng lên hay để làm gì chứ?” “Thôi nào thám tử. Băng dính không thể làm cho cái đầu thẳng lên, kể cả đầu của anh,” cô nói rồi nhìn qua kính lúp, gật đầu. “Được rồi Yoshima. Tôi có thể thấy nó rồi.” “Cô thấy gì?” “Thấy sự tuyệt vời của loại băng dính Scotland. Thám tử Rizzoli, cô đã hỏi tôi loại dao nào hung thủ đã dùng đúng không?” “Đừng nói với tôi đó là loại dao mổ nhé.” “Không, nó không phải là dao mổ. Hãy nhìn này.” Rizzoli bước lên phía trước chiếc kính lúp rồi nhìn xăm soi vào vết thương. Mép vết thương đã được kéo lại gần nhau nhờ có miếng băng dính và lúc này cô có thể nhìn thấy hình dạng của vật giết người một cách rõ ràng hơn. Có những đường kẻ song song dọc theo gờ vết thương. “Một lưỡi dao có răng cưa,” cô nhận định. “Nếu thoáng nhìn thì nó có vẻ là như thế.” Rizzoli nhìn lên, bắt gặp ánh mắt thách thức âm thầm của Isles. “Nhưng nó không phải như thế?” “Cái gờ cắt tự thân nó không có răng cưa như thế vì rìa bên kia của vết thương lại hoàn toàn bằng phẳng. Thêm nữa, cũng cần chú ý là những vết rạch song song ấy chỉ xuất hiện trên một phần ba vết cắt. Sao nó lại không phải trên toàn bộ độ dài vết thương? Những vết rạch đó được tạo thành khi lưỡi dao rút ra. Tên sát nhân đã bắt đầu vết cắt ở dưới quai hàm bên trái rồi trượt thẳng về phía trước cổ họng, rồi dừng lại ở phía bên kia của ống khí quản. Những vết xước kia xuất hiện khi hắn ta kết thúc đường cắt của hắn và xoắn nhẹ lưỡi dao khi hắn rút nó ra.” “Vậy cái gì đã tạo ra các vết xước này?” “Nó không phải là do gờ lưỡi dao tạo ra. Vũ khí này có các đường răng cưa trên rìa phía sau và chúng tạo ra các vết xước song song khi nó được rút ra,” Isles nhìn Rizzoli. “Đây là kiểu đặc trưng của dao Rambo - hay còn gọi là dao lấy mạng. Thứ mà một tên thợ săn có thể dùng.” “Thợ săn.” Rizzoli nhìn đôi vai chắc, khỏe vạm vỡ của Yeager và nghĩ: Đây không phải là kiểu người dễ ngoan ngoãn làm một con mồi. “Được rồi, vậy để tôi nói luôn mọi thứ nhé,” Korsak chen vào. “Người nạn nhân này - ông bác sĩ chuyên làm giảm cân đang nằm đây, ngồi nhìn đối tượng của chúng ta kéo con dao Rambo tổ bố ra, sau đó anh ta cũng vẫn ngồi đó và để hắn ta cắt cổ họng mình, đúng không?” “Cổ tay và cổ chân của anh ta bị trói chặt,” Isles bảo. “Tôi không quan tâm là anh ta có bị trói nghiến lại như Tutankhamen hay không. Nhưng bất cứ một người máu đỏ nào cũng sẽ cuộn người, quằn quại lên như bò bị chọc tiết.” “Anh ấy nói đúng đấy. Ngay cả khi cổ tay, cổ chân bị trói thì ta vẫn có thể đá. Thậm chí ta có thể dùng đầu nữa. Nhưng anh ta chỉ ngồi yên, dựa vào tường,” Rizzoli nhận xét. Bác sĩ Isles thẳng người dậy. Cô không nói gì trong một lát. Cô chỉ đứng yên, nghiêm nghị như cái áo mổ cô đang mặc là chiếc áo của một tu sĩ âu sầu. Cô nhìn Yoshima. “Đưa tôi chiếc khăn ướt. Chỉnh đèn chiếu thẳng vào đây. Lau cho anh ta từ trên xuống dưới, lau từng phân một.” “Cô đang kiếm thứ gì thế?” Korsak hỏi. “Tôi sẽ nói cho anh biết khi tôi nhìn thấy nó.” Một lúc sau, Isles nhấc tay phải lên chỉ vào những vết bên mé ngực cái xác. Dưới ống kính lúp hai vết sưng phồng màu đỏ nhạt hiện ra rõ ràng. Isles đưa dọc ngón tay đang đeo găng trên da nạn nhân. “Đó là phản ứng Lewis nhân ba.” “Lewis là gì?” Rizzoli hỏi. “Phản ứng Lewis nhân ba. Nó có hiệu quả đáng kể trên da. Đầu tiên cô chỉ thấy những nốt ban đỏ, những nốt đỏ, sau đó là vệt mờ mờ do giãn nở các mao mạch trên da. Sau đó đến giai đoạn thứ ba thì nó sưng lên do các mạch máu bị phồng.” “Tôi thấy nó giống như các vết do máy Taser gây ra,” Rizzoli bảo. Isles gật đầu. “Chính xác. Đó là phản ứng căn bản trên da khi bị sốc điện từ một thiết bị giống như Taser. Cái này chắc chắn sẽ làm tê liệt Yeager. Tất nhiên nó cũng làm tê liệt các dây thần kinh của anh ta. Chắc chắn là đủ thời gian cho ai đó có thể trói chân tay anh ta lại.” “Hiệu ứng này kéo dài trong bao lâu?” “Trên các cơ thể sống thì nó thường mất đi sau khoảng hai giờ.” “Còn trên người chết?” “Người chết sẽ hãm quá trình xử lý trên da. Đó là lý do tại sao chúng ta vẫn có thể nhìn thấy nó. Dù vậy thì chúng cũng đã khá mờ.” “Vậy anh ta chết trong khoảng hai tiếng khi bị sốc điện hả?” “Chính xác.” “Nhưng máy Taser chỉ có thể làm cho ta bị tê liệt trong vòng vài phút,” Korsak băn khoăn. “Năm phút, nhiều nhất là mười phút. Để giữ anh ta yên lặng, chắc chắn phải sốc điện thêm nữa.” “Đó là lý do chúng ta tiếp tục tìm kiếm thêm,” Isles bảo rồi hướng ánh sáng xuống phần bên dưới cái xác. Ánh sáng chiếu vào bộ phận sinh dục của Richard Yeager một cách không thương tiếc. Cho đến tận lúc này Rizzoli vẫn cố tránh để khỏi nhìn vào khu vực bụng dưới của anh ta. Nhìn chằm chằm vào bộ phận sinh dục của người khác luôn khiến cô có cảm giác như đang xúc phạm họ. Hơn nữa ở đây không phải chỉ một mà có rất nhiều người đang cùng nhìn. Lúc này ánh sáng chiếu vào phần dương vật mềm nhũn của anh ta, rồi đến phần bìu phía dưới và gần như hoàn tất quá trình xâm phạm những nơi kín đáo nhất của nạn nhân. “Có nhiều vệt đỏ mờ hơn nữa,” Isles nói khi lau đi những vết máu dính trên da nạn nhân. “Ở đây, ngay phía dưới bụng dưới.” “Và cả trên đùi anh ta nữa,” Rizzoli nói nhỏ. “Ở đâu?” Isles liếc nhìn hỏi. Rizzoli chỉ đến những điểm dấu hiệu, ngay phía bên trái của bìu dương vật. Vậy đây chính là những khoảnh khắc kinh hoàng cuối cùng của Richard Yeager - cô nghĩ thầm. Anh ta hoàn toàn tỉnh táo và cảnh giác, nhưng lại bó tay bất lực. Anh ta không thể di chuyển, không thể bảo vệ chính bản thân mình. Những cơ bắp rắn chắc hàng giờ liền tập luyện trong các phòng thể hình đến những phút cuối đời lại chẳng có ý nghĩa gì vì lúc đó cơ thể anh ta không còn nghe theo lệnh anh ta nữa. Những cánh tay nằm bất động, vô dụng trước những lần sốc điện liên tiếp. Não bộ cũng gần như tê liệt trước những tác động ấy. Anh ta đã bị lôi ra khỏi phòng ngủ, vô dụng như một con bò đang trên đường đến lò sát sinh. Rồi anh ta bị đè vào tường, ngồi đó mà chứng kiến những gì xảy đến tiếp theo. Nhưng hiệu ứng của máy Taser không lâu dài, nên anh ta tỉnh dậy, cơ bắp cuộn lên, ngón tay nắm chặt thành nắm đấm khi phải chứng kiến cảnh vợ mình chống trả với tên sát nhân. Anh ta bị kích thích trước cảnh đó và anh cố, anh cố gắng để di chuyển. Những cơ bắp của anh lúc này đã chịu nghe lời anh. Anh cố gắng đứng dậy nhưng chiếc tách rơi từ trên đùi anh, vỡ nát trên sàn nhà đã phản lại anh. Chỉ cần thêm một lần sốc điện nữa và anh đã hoàn toàn sụp đổ, hoàn toàn tuyệt vọng như Sisyphus ngã lăn xuống đồi. Cô nhìn vào gương mặt Richard Yeager, nhìn vào mi mắt hơi hé mở và nghĩ về những hình ảnh cuối cùng mà anh đã phải chứng kiến. Chân anh duỗi ra một cách vô dụng trong khi vợ anh đang phải vật vã chống chọi lại với tên sát nhân trên tấm thảm màu kem. Rồi lưỡi dao, lưỡi dao được nắm chặt trong tay của tên thợ săn đang tiến lại gần anh, báo hiệu một cái chết. Trong phòng sinh hoạt chung thật ồn ào. Ở đây người ta đi lại cứ như những con quái vật đang bị nhốt trong chuồng vậy. Đến cả chiếc TV cũng om sòm cả lên. Còn những nấc thang dẫn lên tầng giam phía trên thì lại vang lanh lảnh mỗi khi có ai đó bước chân xuống. Chúng tôi không bao giờ thoát khỏi tầm nhìn của những người coi ngục. Những chiếc camera giám sát được đặt khắp nơi. Kể cả trong phòng tắm và phòng vệ sinh. Từ cửa sổ của trạm gác, những người quản tù nhìn xuống chúng tôi khi tất cả chúng tôi đều đang hòa hợp với nhau. Họ thấy tất cả, đến từng bước di chuyển của chúng tôi. Trại cải tạo Souza-Baranomki là một khu với tiêu chuẩn cấp sáu - là nơi mới nhất trong hệ thống trại cải tạo của Massachusetts. Nó cũng có nghĩa là sẽ được trang bị các trang thiết bị hiện đại và cực kỳ đảm bảo. Khóa cửa không cần dùng chìa khóa, nó được hoạt động nhờ máy tính trên tháp bảo vệ. Mệnh lệnh được chuyển đến chúng tôi qua hệ thống điện thoại nội bộ với giọng nói chẳng thấy người đâu. Các cánh cửa dẫn tới mỗi phòng giam trong cái hộp này có thể mở hoặc đóng bằng điều khiển từ xa chứ không cần đến sự xuất hiện của bất cứ một người nào. Đã có những ngày tôi thầm hỏi không biết liệu có ai trong số các bảo vệ của chúng tôi bằng xương bằng thịt hay không. Tôi cũng băn khoăn không biết những cái bóng mà chúng tôi vẫn nhìn thấy liệu có phải là bóng của một con Robot với thân hình lắc lư và cái đầu biết gật gật. Dù đó có là người hay robot thì tôi cũng vẫn đang bị theo dõi. Một vị thần Hy Lạp cổ đại Nhưng điều đó chẳng làm tôi khó chịu vì chúng chẳng thể nhìn thấy những thứ trong đầu tôi. Chúng không thể bước vào được vùng bóng tối với đầy tưởng tượng phong phú của tôi. Nơi đó chỉ thuộc về tôi mà thôi. Lúc mình đang ngồi trong phòng, xem bản tin lúc 6 giờ trên TV cũng là lúc mình đang đi dạo loanh quanh toàn bộ khu vực đó. Có một nữ phóng viên trên màn hình đang mỉm cười, đang cùng trong chuyến hành trình với mình. Mình hình dung đến mái tóc đen của cô ả như một dải suối mềm mại đổ dưới gối. Mình nhìn thấy mồ hôi lấp lánh trên da thịt nàng. Và trong thế giới đó của mình, cô nàng sẽ không mỉm cười nữa; không, không cười đâu. Mắt cô nàng to, mở rộng như một hồ nước không thấy đáy và đôi môi thì méo xệch trong trạng thái kinh hoàng. Tất cả những hình ảnh ấy hiện lên trong đầu mình khi mình trông thấy cô phát thanh viên trong bộ đồ màu xanh lá ấy. Mình nhìn cô ấy cười, nghe giọng nói ngọt ngào của cô và mình băn khoăn không biết tiếng hét của cô ấy sẽ thế nào. Rồi một hình ảnh khác xuất hiện trên TV, tất cả những ý nghĩ về cô nàng phát thanh viên cũng đột ngột biến mất. Một phóng viên nam đang đứng trước ngôi nhà ở Newton của Ricliard Yeager. Với giọng nói buồn bã anh ta nói rằng hai ngày sau khi ông bác sĩ bị giết và bà vợ bị mất tích thì người ta vẫn chưa bắt được bất cứ đối tượng tình nghi nào. Mình cảm thấy vụ này thật quen thuộc. Giờ thì mình đang cúi người về phía trước, nhìn chăm chăm vào màn hình, chờ đợi một thứ gì đó. Rồi cuối cùng thì mình cũng đã thấy cô ấy. Chiếc máy quay bất ngờ quay hướng về phía ngôi nhà và đã bắt được hình ảnh của cô ấy với khoảng cách rất gần lúc cô đang bước ra khỏi cửa nhà. Một người đàn ông to con đi ngay phía sau cô. Họ đứng nói chuyện trước sân nhà, không biết rằng máy quay đang hướng về phía mình và hình ảnh họ đang được phóng to lên. Gã đàn ông trông thô lỗ và béo như lợn với mái tóc lưa thưa được chải ngược trên đầu. Quai hàm anh ta bạnh ra, bè bè. Bên cạnh gã ta, trông nàng thật nhỏ bé, mỏng manh. Đã lâu lắm rồi mình không được gặp nàng và có vẻ có nhiều thứ về nàng đã thay đổi. Ồ, mái tóc nàng vẫn là những lọn xoăn ngang ngạnh như cũ và nàng đang mặc một bộ đồ xanh hải quân. Chiếc áo khoác khoác hờ trên vai, chẳng phù hợp với vóc dáng của nàng. Nhưng gương mặt của nàng thì có khác lần cuối mình gặp. Nó đã từng rất nghiêm nghị và tự tin, không phải vẻ đẹp như thường thấy nhưng sáng bừng vì vẻ thông minh trong đôi mắt. Còn giờ trông nàng có vẻ mệt mỏi và lo lắng. Nàng đã bị sút cân. Mình nhìn thấy những điều đó trong những góc tối trên gương mặt nàng, trên gò má hốc hác của nàng. Bất thình lình nàng nhận ra người quay phim và nàng nhìn chằm chằm vào máy, nhìn thẳng vào mình, mắt nàng trông như đang nhìn thấy mình vậy và mình cũng đang nhìn nàng như thể nàng đứng ngay trước mắt bằng da bằng thịt. Chúng ta đã có kỷ niệm với nhau, nàng và mình. Chúng ta đã chia sẻ cùng nhau những giây phút mà ngỡ như chúng ta là những kẻ yêu nhau mãi mãi vậy. Tôi đứng dậy khỏi ghế, đi lại phía TV. Đặt tay lên màn hình. Tôi không còn nghe thấy tiếng của gã phóng viên nữa. Tôi chỉ tập trung duy nhất vào gương mặt nàng. Janie bé bỏng của tôi. Tay em còn làm em đau không? Em có xoa hai tay vào nhau như cái kiểu mà em đã làm trong phòng xử án như đang lo lắng về một điều gì đó? Em có nghĩ về những vết cứa mà anh đã làm như một kỷ niệm tình yêu - một nhắc nhở nho nhỏ về sự quan tâm của anh dành cho em? “Tránh xa khỏi cái TV đi đồ chết tiệt! Bọn tao không nhìn thấy gì cả,” ai đó trong phòng hét lên. Tôi vẫn không dịch chuyển. Tôi đứng ngay phía trước màn hình, chạm vào mặt nàng và nhớ lại đôi mắt đen lánh ấy đã nhìn vào tôi như thế nào, nhớ lại làn da mềm mịn của nàng. Đó là một làn da hoàn hảo, không có bất cứ tô điểm nào của mấy cây cọ trang điểm “Khốn kiếp! Tránh ra!” Đột ngột, nàng biến mất khỏi màn hình. Nữ phát thanh viên trong bộ đồ màu xanh xuất hiện trở lại. Chỉ một thoáng trước đây thôi tôi đã thấy cô ả như một thứ gì đẹp đẽ, đáng giá lắm. Nhưng giờ thì tôi thấy cô ta thật nhạt nhẽo cũng như mọi gương mặt xinh đẹp và những cổ họng thanh thoát khác. Chỉ cần một thoáng nhìn thấy Jane Rizzoh thôi, tôi đã được nhắc nhở về cái đẹp thực sự. Chính Rizzoh đã giúp tôi nhớ lại được cái gì mới là con mồi đáng giá. Tôi quay lại ghế, ngồi xem tiếp một vụ buôn bán những chiếc Lexus. Nhưng tôi không còn xem TV nữa. Thay vào đó tôi nhớ lại cảm giác khi mình được bước đi trong tự do. Lúc đó tôi được lang thang khắp phố phường, hà hà mùi hương của những phụ nữ đi qua tôi. Đó không phải là mấy mùi hương hóa học được chưng cất rồi đóng trong các chai lọ mà là mùi hương cơ thể thực sự - mùi mồ hôi đàn bà hoặc mùi tóc của họ dưới ánh nắng mặt trời ấm áp. Vào những ngày hè tôi sẽ nhập hội cùng những người đang đứng chờ đèn xanh để sang đường. Trong một đám đông trên phố như thế thì ai sẽ để ý một người đang đứng sát phía sau mình, hít hà mùi tóc của mình chứ? Ai sẽ nhận ra rằng ngay bên cạnh mình có một người đang nhìn chằm chằm vào cổ mình, nhận biết những mạch máu trên cổ - nơi mà anh ta biết đó sẽ là nơi có hương thơm ngọt ngào nhất? Nhìn chung là sẽ chẳng ai để ý cả. Đèn dành cho người đi bộ chuyển sang màu xanh, cả đám đông sẽ vội vàng sang đường. Rồi người phụ nữ bước đi, không bao giờ biết, không bao giờ nghi ngờ rằng tên thợ săn đã bắt được mùi của cô. “Chiếc áo ngủ được gấp gọn gàng không thể nói lên rằng cô đang phải đối mặt với một con mèo bắt chước,” Bác sĩ Lawrence Zucker nói. “Đây chỉ là một biểu hiện về việc kiểm soát. Tên sát nhân muốn cho thấy khả năng kiểm soát hoàn toàn của mình đối với nạn nhân. Kiểm soát toàn bộ hiện trường.” “Đó là cách Warrant Hoyt đã từng làm,” Rizzoli bảo. “Những tên sát nhân khác cũng đã làm như thế. Không phải chỉ có tên Bác sĩ phẫu thuật mới làm thế.” Bác sĩ Zucker nhìn cô với ánh mắt lấp lánh tia khó chịu. Anh ta là nhà tâm lý tội phạm tại trường Đại học Northeastern và anh ta thường tư vấn cho phòng cảnh sát Boston. Anh ta đã làm việc cùng với đội điều tra trong suốt vụ Bác sĩ phẫu thuật một năm về trước và hồ sơ tội phạm anh ta đã biên soạn về đối tượng điều tra hồi đó khá chính xác. Đôi khi Rizzoli băn khoăn không biết Zucker bình thường đến mức nào. Phải là một người quen sống, làm việc trong một địa hạt với đầy tội ác, tội phạm thì mới có thể len lỏi sâu như thế vào đầu óc một kẻ như Warrant Hoyt. Cô chưa bao giờ cảm thấy thoải mái với người đàn ông này - người với giọng nói thì thào, ranh mãnh và cái nhìn soi mói khiến cô cảm giác khó chịu như bị xúc phạm. Nhưng anh ta lại là một trong số ít người có thể hiểu rõ về Hoyt; vậy nên có thể anh ta cũng sẽ hiểu được con mèo bắt chước anh ta. “Nó không chỉ là một chiếc váy ngủ được gấp lại. Còn có nhiều điều tương tự nữa, như băng dính dùng để trói nạn nhân,” Rizzoli nhận xét. “Cũng chỉ là lặp lại, không phải duy nhất. Cô từng xem chương trình truyền hình Macieyer không? Anh ta đã chỉ cho ta biết ngàn lẻ một cách để dùng băng dính.” “Thế còn việc đột nhập qua cửa sổ. Nạn nhân bị bất ngờ trên giường ngủ…” “Đó là khi họ yếu đuối nhất. Đó là một thời điểm hợp lý để tấn công.” “Vậy vết cắt ngang cổ?” “Một cách giết người nhẹ nhàng và hiệu quả,” Zucker nhún vai. “Nhưng khi chúng ta gộp tất cả những chi tiết ấy với nhau: chiếc váy ngủ gấp lại, băng dính, cách đột nhập, vết cắt chí tử…” “Và điều cô nhận được sẽ là một đối tượng điều tra đang chọn cách thức thông thường nhất để gây án. Kể cả chiếc cốc sứ trên đùi nạn nhân, nó cũng đã được dùng rất nhiều lần bởi những kẻ hãm hiếp, giết người hàng loạt. Chúng đặt những chiếc đĩa, bát hay đồ vật gì đó trên đùi chồng nạn nhân. Nếu anh ta di chuyển, thì những đồ sứ sẽ rơi vỡ, báo động cho tên tội phạm biết. Đó là cách thông thường vì chúng có tác dụng.” Bực mình, Rizzoli lấy ra những bức ảnh hiện trường vụ án và đặt chúng trên bàn của anh ta. “Chúng tôi đang cố tìm kiếm một người phụ nữ bị mất tích, bác sĩ Zucker. Đến giờ chúng tôi vẫn chưa có manh mối nào. Thậm chí lúc này tôi còn không muốn nghĩ đến những điều mà cô ấy đang phải trải qua nếu cô ấy còn sống. Vậy nên anh có thể chú tâm đến những thứ này một chút rồi hãy nói cho tôi biết về tên sát nhân. Hãy nói cho tôi biết làm thế nào để tìm ra hắn ta. Hay làm thế nào để tìm ra cô ta.” Bác sĩ Zucker đeo cặp kính lên rồi nhặt lên bức ảnh đầu tiên. Anh ta không nói gì, chỉ nhìn chằm chằm một lát, sau đó lại với lấy tấm khác. Âm thanh duy nhất phát ra là tiếng động từ chiếc ghế da của anh ta và tiếng anh ta lẩm bẩm, thú vị trước mỗi tấm hình. Từ cửa sổ văn phòng anh ta Rizzoli có thể quan sát thấy quang cảnh bao quanh trường Đại học Northeastern. Xung quanh gần như vắng lặng, không một bóng người vì lúc này đang là mùa hè. Chỉ có vài sinh viên đang nằm trên bãi cỏ phía bên ngoài; túi xách, sách vở vứt đầy xung quanh. Cô thấy ghen tị với những cô cậu sinh viên ấy, ghen tị với những ngày rảnh rang của họ và sự vô tư lự của họ. Tương lai của họ đang ở phía trước, còn những giấc ngủ của họ không bị ngáng trở bởi những cơn ác mộng đen tối. “Cô nói các cô đã tìm thấy tinh dịch?” Zucker hỏi. Rizzoli miễn cưỡng thôi không nhìn đám sinh viên đang phơi nắng nữa, quay lại nhìn anh ta. “Đúng vậy. Trên tấm thảm hình ovan trong bức ảnh. Phòng thí nghiệm đã khẳng định đó là loại máu khác với máu của người chồng. DNA cũng đã được nhập vào hệ thống dữ liệu CODIS.” “Dù sao thì tôi cũng thấy nghi ngờ đối tượng gây án này lại có thể bất cẩn đến mức để mình bị nhận dạng qua hệ thống dữ liệu nhận dạng quốc gia. Mà không, tôi cá là ADN của anh ta sẽ không có trong CODIS,” anh ta nhìn lên nói tiếp. “Tôi cũng cá là anh ta không để lại bất cứ dấu vân tay nào.” “Không có dấu nào trên hệ thống AFIS. Thật không may là gia đình nhà Yeagers đã có ít nhất năm mươi vị khách tới viếng thăm sau đám tang mẹ ông ấy. Điều đó có nghĩa là chúng ta đang có rất nhiều dấu vân chưa xác định.” Zucker liếc nhìn bức hình bác sĩ Yeager ngồi sụp trên ghế, dựa vào bức tường đầy vệt máu phía sau. “Vụ giết người này xảy ra ở Newton.” “Đúng thế.” “Không phải là một trong số các vụ điều tra mà cô thường tham gia. Sao giờ cô lại tham gia vào vụ này?” anh ta nhìn cô với vẻ soi mói khó chịu. “Thám tử Korsak đã yêu cầu tôi…” “Đó là người chịu trách nhiệm vụ đó, đúng không?” “Đúng. Nhưng…” “Không phải ở Boston đã có quá nhiều vụ làm cô bận rộn sao thám tử? Sao cô lại thấy có nhu cầu tham gia vào vụ này nữa chứ?” Cô nhìn anh ta, cảm giác như anh ta đang thò những móng vuốt vào trong não bộ mình, cố tìm kiếm điểm trọng yếu nhất để giày vò cô. “Tôi đã nói với anh rồi. Người phụ nữ rất có thể vẫn còn sống.” “Và cô muốn cứu cô ta?” “Còn anh thì không ư?” “Tôi chỉ tò mò thôi, thám tử,” Zucker khá bình tĩnh khi thấy cô nổi nóng. “Cô đã từng kể cho bất cứ ai về vụ Hoyt chưa? Ý tôi là những điều riêng tư, những tác động của nó lên bản thân cô ấy.” “Tôi không chắc tôi hiểu ý của anh.” “Cô có nhận được bất cứ lời chỉ dẫn nào không?” “Ý anh là tôi có từng thấy cần phải lùi bước không chứ gì?” “Đó chắc phải là một trải nghiệm kinh hoàng. Những điều đã xảy đến với cô trong tầng hầm ấy. Những điều mà Hoyt đã làm với cô cũng sẽ ám ảnh bất cứ một cảnh sát nào. Hắn để lại những vết cứa cả ở thể xác lẫn tinh thần. Hầu hết mọi người sẽ thấy đó là một vết thương dai dẳng. Những hồi ức, những cơn ác mộng. Suy nhược.” “Những ký ức chẳng có gì vui cả. Nhưng tôi có thể đối phó với chúng được.” “Đó có là cách cô luôn làm đúng không? Cứng cỏi đối đầu, Không bao giờ phàn nàn.” “Tôi làm những điều mà người khác vẫn làm.” “Nhưng đừng bao giờ làm thế với bất cứ thứ gì mà nó có thể khiến cô yếu đuối, kiệt sức.” “Tôi không thích những kẻ hay than vãn. Tôi sẽ không bao giờ như thế.” “Tôi không nói về sự than vãn. Tôi chỉ đang nói rằng cô nên nhìn vào lòng mình để nhận ra là cô đang gặp một số chuyện.” “Chuyện gì chứ?” “Điều đó thì cô nên nói cho tôi biết.” “Không, anh mới phải nói cho tôi biết. Vì chính anh là người thấy tôi có vấn đề.” “Tôi không nói thế.” “Nhưng anh nghĩ thế.” “Chính cô mới là người dùng từ có vấn đề. Có phải đó là điều cô đang cảm thấy không?” “Nghe này. Tôi đến đây là vì chuyện đó,” cô chỉ tay vào bức ảnh của Yeager. “Tại sao anh lại nói về tôi?” “Bởi vì khi cô nhìn vào những bức ảnh này, tất cả những thứ cô có thể thấy đó là Warrent Hoyt. Tôi chỉ đang băn khoăn không biết tại sao mà thôi.” “Vụ đó đã khép lại rồi. Tôi đang tiếp tục với vụ khác.” “Thật chứ? Có đúng là cô đang làm thế?” Câu hỏi ấy được anh ta hỏi rất nhẹ nhàng, làm cô đột nhiên im lặng. Cô thấy bực mình với giả thuyết của anh ta. Và trên hết đó là cô bực mình vì anh ta đã nhận ra sự thật cô không muốn thừa nhận. Warrant Hoyt đã để lại những vết cứa. Tất cả những thứ cô phải làm là cúi nhìn tay mình để nhớ lại những thiệt hại mà hắn ta đã gây ra. Nhưng sự phá hủy lớn nhất lại không phải là thể xác. Điều lớn nhất cô đã đánh mất trong cái tầng hầm đó là cảm giác về sự không thể khuất phục, sự tự tin của cô. Warrant Hoyt đã cho cô biết mình yếu đuối như thế nào. “Tôi không ở đây để nói về Warrant Hoyt.” “Nhưng hắn ta là lý do để cô đến đây.” “Không. Tôi ở đây vì tôi thấy có sự tương đồng giữa hai kẻ giết người. Tôi không phải người duy nhất nhận ra điều đó. Thám tử Korsak cũng thấy điều đó. Vậy nên hãy quay trở lại vấn đề, được chứ?” “Được thôi,” anh ta nói và nhìn cô với nụ cười ngọt ngào. “Vậy đối tượng này thế nào?” Cô đập tay vào những tấm ảnh. “Anh có thể nói gì về đối tượng này?” Zucker nhìn lại bức ảnh của bác sĩ Yeager thêm lần nữa rồi bảo, “Đối tượng chưa biết này của cô là người biết cách tổ chức. Điều này thì cô cũng đã biết rồi. Hắn ta đến hiện trường khi đã được chuẩn bị kỹ lưỡng với dao cắt kính, súng giảm thanh và băng dính để trói. Hắn ta cố khống chế cặp vợ chồng kia một cách nhanh chóng, nó làm cho cô băn khoăn…” anh ta liếc nhìn cô. “Không có cơ hội nào cho một kẻ khác hay sao? Một cộng sự chẳng hạn?” “Chỉ có dấu chân của một người.” “Vậy thì cậu bé của cô rất có năng lực đấy. Rất kỹ lưỡng nữa.” “Nhưng hắn ta đã để lại tinh dịch trên chăn. Hắn đã trao cho chúng ta chìa khóa để mở ra được nhân dạng của hắn. Đó là một sai lầm nghiêm trọng.” “Đúng thế. Chắc chắn là chính hắn ta cũng biết điều đó.” “Vậy tại sao lại phải cưỡng hiếp cô ấy ngay trong nhà? Sao không để đến lúc sau, ở một nơi an toàn? Nếu như anh ta là người có đầu óc tổ chức đủ để đột nhập vào một ngôi nhà, khống chế người chồng thì tại sao…” “Có thể đó mới thực sự là một đòn trừng phạt.” “Gì cơ?” “Hãy nghĩ về bác sĩ Yeager. Anh ta đang ngồi đó, bị trói chặt và vô dụng. Anh ta bị ép phải chứng kiến cảnh một kẻ khác cướp lấy tài sản của mình.” “Tài sản,” Rizzoli lặp lại. “Trong tâm trí tên tội phạm ấy thì người đàn bà chính là tài sản. Tài sản của một người đàn ông khác. Hầu hết những con thú dâm dục sẽ không dám mạo hiểm tấn công một cặp. Bọn chúng thường chọn những người phụ nữ độc thân, đó là mục tiêu dễ dàng khống chế. Có thêm một người đàn ông trong tình huống đó sẽ làm mọi thứ trở nên nguy hiểm. Nhưng tên này chắc chắn đã biết rõ rằng có người chồng ở đó. Và hắn ta đã chuẩn bị để đối phó với chuyện ấy. Đó chẳng phải là một phần của sự thích thú, một phần hài lòng khi có người chồng làm khán giả hay sao?” Một khán giả của vở kịch. Cô cúi nhìn bức ảnh của Richard Yeager đang ngả vào tường. Đúng thế. Đó chính là ấn tượng ngay lập tức của cô khi cô bước vào phòng gia đình. Zucker chuyển ánh nhìn ra phía cửa sổ. Một thoáng im lặng. Khi anh ta bắt đầu nói, giọng anh ta có vẻ nhẹ nhàng, buồn ngủ như thể những lời nói được thoát ra trong một giấc ngủ. “Tất cả đều là về sức mạnh và sự kiểm soát. Chế ngự một con người bằng xương bằng thịt. Không chỉ có người phụ nữ mà cả người đàn ông nữa. Có thể chính người đàn ông mới là người làm hắn có hứng thú. Đối tượng của chúng ta hiểu rõ những nguy cơ có thể xảy đến với hắn ta nhưng hắn buộc phải làm tới vì những động cơ trong lòng hắn thúc giục. Những ý nghĩ kỳ quặc cùng những hình ảnh tưởng tượng khống chế hắn, thế rồi đến lượt hắn khống chế các nạn nhân. Hắn rất mạnh. Hắn là Kẻ chinh phục. Kẻ thù của hắn phải ngồi bất động và không thể làm được điều gì, còn đối tượng của chúng ta lại có sức mạnh của đội quân luôn dành thắng lợi. Hắn giành lấy phần thưởng của mình. Hắn cưỡng hiếp người phụ nữ. Và hắn sẽ thấy càng hưng phấn hơn trước cảnh bác sĩ Yeager phải khuất phục. Vụ tấn công này không đơn thuần là vì tình dục. Nó nhằm phô trương sức mạnh của giống đực. Một người đàn ông chiến thắng một người đàn ông khác. Kẻ xâm lược hưởng thụ những chiến lợi phẩm mình cướp giật được.” Phía bên ngoài các sinh viên trên bãi cỏ đang thu gom đồ của mình, phủi cỏ khỏi quần áo. Nắng chiều làm tất cả mọi thứ lấp lánh ánh vàng ruộm. Những sinh viên đó sẽ có thêm gì sau đó? - Rizzoli băn khoăn. Có lẽ là một buổi tối thú vị với những trò giải trí và các cuộc nói chuyện cùng pizza và bia. Sau đó là một giấc ngủ ngon, không hề có ác mộng. Giấc ngủ vô tư lự. Một điều gì đó mà mình không bao giờ được biết đến nữa. Di động của cô chợt kêu. “Xin lỗi,” cô nói rồi mở điện thoại. Cuộc gọi từ Erin Volchko nói về tóc, các sợi bông và các dấu vết để lại. “Tôi đã kiểm tra những dải băng dính làm dây buộc được lấy ra khỏi cơ thể bác sĩ Yeager,” Erin nói. “Tôi cũng đã fax bản báo cáo cho thám tử Korsak. Nhưng tôi biết cô cũng muốn biết những điều ấy.” “Chúng ta có được gì?” “Có rất nhiều sợi lông ngắn màu nâu bị dính trên đó. Lông từ tay chân, bị giựt ra khỏi cơ thể nạn nhân khi dây băng được lột ra.” “Còn về các sợi bông?” “Chúng cũng có ở đó. Nhưng có điều thực sự thú vị về những thứ đó. Trên một dải băng lột ra khỏi mắt cá chân của nạn nhân có một sợi tóc màu nâu đen, dài 2cm.” “Tóc vợ anh ta màu vàng.” “Tôi biết. Chính vì thế sợi tóc này mới thú vị.” Đối tượng, Rizzolo nghĩ thầm. Nó là từ tên giết người. Cô hỏi thêm, “Đã kiểm tra các mô chưa?” “Đã có kết quả.” “Vậy chúng ta có thể lấy ADN từ sợi tóc đó. Nếu nó khớp với tinh dịch thì…” “Nó không khớp với tinh dịch.” “Sao anh biết điều đó?” “Bởi vì sợi tóc đó không thể nào là của tên giết người,” Erin ngừng lại một chút. “Trừ khi hắn ta là một thây ma sống lại.” Chương 4 Đối với các thám tử làm tại phòng điều tra án mạng Boston thì chuyến viếng thăm phòng thí nghiệm tội phạm chỉ mất một đoạn đường trong hành lang thoáng mát, không thấy ánh mặt trời, tới dãy nhà phía nam của Schroeder Plaza mà thôi. Rizzoli đã đi qua cái hành lang ấy hàng ngàn lần và ánh nhìn của cô thường hướng về những ô cửa sổ trông ra khu Roxbury đầy rắc rối đó - nơi những cửa hàng luôn phải chèn chặt bên trong và dùng khóa chắc bên ngoài. Nơi những chiếc xe ô tô đang đỗ sẽ luôn phải trang bị sẵn gậy gộc để đề phòng. Nhưng hôm nay tâm trí cô chỉ theo đuổi đúng một vấn đề vì thế cô không hề liếc nhìn phía bên mà đi thẳng xuống phòng S269 - phòng thí nghiệm về tóc, các loại sợi và các chứng cứ còn lại tại hiện trường. Trong căn phòng không có cửa sổ, đầy các loại kính và những màu sắc quang phổ khác nhau đó, chuyên gia trong lĩnh vực tội phạm - Erin Volchko là người có quyền hành tối thượng. Thoát khỏi ánh nắng mặt trời và khung cảnh phía ngoài cô sẽ tập trung hơn vào thế giới phía dưới các ống kính. Lúc Rizzoli bước vào phòng, Erin xoay người để đối diện với cô. “Tôi đã đặt nó dưới kính hiển vi cho cô rồi đây. Cô lại xem đi.” Rizzoli ngồi xuống, nhìn vào mắt kính. Cô thấy một sợi tóc được trải dài trên mặt phẳng phía dưới. “Đây là sợi tóc nâu dài tôi đã lấy ra từ đoạn băng dính dùng để trói mắt cá chân bác sĩ Yeager. Có duy nhất một sợi như thế dính ở đó. Những sợi khác đều ngắn, bị kéo ra khỏi tay chân nạn nhân, có thêm một trong số những sợi tóc trên đầu nạn nhân được lấy ra từ dải băng dán miệng anh ta. Nhưng sợi tóc này là sợi tóc lạc loài. Nó cũng là một câu đố cho chúng ta. Nó không khớp với tóc của nạn nhân, cũng không khớp với những sợi tóc mà ta lấy được từ lược của người vợ.” Rizzoli xăm soi sợi tóc. “Nó có chắc là của người chứ?” “Là của con người.” “Vậy tại sao nó lại không thể là tóc của đối tượng mà chúng ta đang săn tìm?” “Hãy xem kĩ nó rồi cho tôi biết cô nhìn thấy gì.” Rizzoli dừng lại một chút, nhớ lại những điều mình đã học được từ việc giám định pháp y về tóc. Cô biết Erin có lý do để bắt cô phải làm mọi thứ có trình tự, hệ thống như thế. Cô có thể nghe thấy sự thích thú bật lên trong giọng nói của mình. “Sợi tóc này bị cong. Góc cong khoảng 0.1 hoặc 0.2. Anh nói độ dài của nó chừng 21 xăng ti mét.” “Đó là độ dài phù hợp với tóc của phụ nữ. Hơi dài so với đàn ông,” Erin bảo. “Có phải độ dài sợi tóc làm anh quan tâm?” “Không. Độ dài sợi tóc không nói cho chúng ta biết về giống được.” “Vậy tôi nên tập trung vào điều gì?” “Đoạn đầu của tóc. Phần chân tóc ấy. Cô có nhận thấy điều gì lạ không?” “Phần chân tóc có vẻ thô, xước. Giống như răng lược.” “Đó chính xác là từ mà tôi định dùng. Chúng tôi gọi đó là phần chân răng lược. Nó là phần tập trung của rễ tóc. Bằng cách khám nghiệm chân tóc, chúng tôi có thể nói được sợi tóc đang phát triển ở giai đoạn nào. Cô muốn đoán không?” Rizzoli tập trung nhìn phần chân như hình củ hành với lớp bọc mỏng như tơ. “Có cái gì đó trong suốt bám vào chân nó.” “Biểu mô.” “Điều đó có nghĩa là nó đang trong quá trình phát triển.” “Đúng thế. Chân tóc tự thân nó cũng lớn thêm một chút vậy nên sợi tóc này đang ở trong quá trình phát triển của giai đoạn sau. Nó vừa mới kết thúc giai đoạn phát triển tích cực. Phần mô ấy có thể cho chúng ta biết ADN.” Rizzoli ngước nhìn Erin. “Tôi không thấy chuyện đó thì có liên quan gì đến thây ma cả?” “Tôi không nói với nghĩa đen,” Erin cười nhẹ. “Ý anh là sao?” “Cô nhìn kĩ sợi tóc lần nữa đi. Hãy xem từ phần gốc trở nên.” Rizzoli lại nhìn vào kính hiển vi lần nữa, tập trung vào mảnh tối hơn của sợi tóc. “Màu của nó không đồng đều.” “Tiếp đi.” “Có một dải đen trên sợi tóc, cách chân tóc một đoạn. Đó là gì vậy?” “Đó được gọi là phần ngoại biên, là nơi có ống tiết chất bã. Sự tiết các chất bã bao gồm các enzyme làm vỡ mô trong quá trình tiêu hóa. Nó làm cho chỗ đó phồng lên và hình thành dải màu tối gần chân tóc. Đó là thứ tôi muốn cô nhìn thấy. Dải ngoại biên. Nó khẳng định rằng sợi tóc này không thể là từ đối tượng truy lùng của cô. Nó có thể rơi ra từ quần áo của hắn ta. Nhưng chắc chắn không phải từ đầu hắn.” “Tại sao không?” “Dải ngoại biên cùng phần cuối chân tóc như răng lược là những thay đổi chỉ xuất hiện sau khi chết.” Rizzoli ngẩng đầu lên nhìn Erin. “Sau khi chết ư?” “Đúng thế. Sợi tóc đó là từ một da đầu đang phân hủy. Những sự thay đổi trên sợi tóc ấy có thể thấy rõ là điển hình của quá trình phân hủy. Trừ khi tên giết người đó đội mồ sống dậy, không thì sợi tóc kia không tài nào là của hắn được.” Rizzoli phải mất một lúc mới cất được giọng. “Vậy người ta phải chết bao lâu để có thể thấy sự thay đổi trên tóc?” “Thật không may là những thay đổi của dải ngoại biên không giúp ta khẳng định được khoảng thời gian sau khi chết là bao lâu. Nó có thể được dứt ra khỏi da đầu đang phân hủy bất cứ lúc nào trong khoảng từ tám tiếng đến vài tuần sau khi chết. Tóc từ những xác ướp cách đây hàng năm trời cũng có thể trông giống như thế.” “Vậy nếu như ta dứt một sợi tóc ra khỏi đầu ai đó khi họ vẫn đang sống thì sao? Để sợi tóc đó một lát thì có xuất hiện những thay đổi đó không?” “Không. Những sự thay đổi do phân hủy chỉ xuất hiện khi tóc vẫn còn trên da đầu của người chết. Chúng chắc chắn là bị dứt ra sau khi người đó chết.” Erin nhìn ánh mắt sửng sốt của Rizzoli rồi nói tiếp, “Con mồi của cô đã có mối liên hệ gì đó với một cái xác. Sợi tóc của người chết đã dính vào quần áo của hắn ta sau đó thì dính vào dải băng dính trong khi hắn trói bác sĩ Yeager.” “Hắn ta đã có một nạn nhân khác,” Rizzoli nói nhẹ. “Đó cũng là một khả năng. Nhưng tôi có một ý khác.” Erin đi tới ngăn tủ rồi quay lại với chiếc khay nhỏ có đoạn băng dính trên đó. “Đây là đoạn băng đã được lột khỏi cổ tay của bác sĩ Yeager. Tôi muốn cho cô xem nó dưới tia UV. Cô ấn công tắc trên tường giúp tôi được chứ?” Rizzoli nhấn công tắc. Trong bóng tối đột ngột, ngọn đèn UV của Erin phát ra tia sáng xanh kỳ quái. Đó là nguồn sáng yếu hơn ánh sáng phát ra từ chiếc kính chống phạm mà Mick đã dùng trong nhà của Yeager. Nhưng lúc ánh sáng ấy quét qua đoạn băng dính, nó làm hiện lên những thứ mà nếu chỉ nhìn bình thường ta sẽ không nhận ra được. Một đoạn băng dính hung thủ để lại hiện trường có thể là một đầu mối quý giá để giúp các thám tử điều tra, phá án. Những sợi lông, sợi bông, dấu vân, kể cả ADN của hung thủ cũng có thể để lại trong các mô da hoặc bị dính vào đó. Dưới tia UV Rizzoli có thể nhìn thấy một chút bụi bẩn và vài sợi lông ngắn. Ngoài ra bên mép của đoạn băng dính còn thấy một thứ gì trông như nhúm sợi bông rất đẹp. “Cô có thấy những sợi bông bên mép của đoạn băng không? Nó chạy dọc theo chiều dài của đoạn băng dính được lột ra khỏi tay của ông bác sĩ, cả ở đoạn băng trói cổ chân anh ta cũng có. Trông chúng giống như sản phẩm của một xưởng sản xuất nào đó.” “Nhưng chúng không phải như thế?” “Không, không phải thế. Nếu cô đặt một cuộn băng dính nằm trên một bề mặt nào đó, nó sẽ dính theo những thứ mà nó được đặt lên. Chúng ta đi đến đâu cũng mang theo những vết tích của môi trường mà chúng ta đã ở trước đó. Sau đó chúng ta lại để lại các dấu tích đó ở những nơi chúng ta tới. Đối tượng của cô cũng thế,” Erin nói rồi bật công tắc đèn lên làm Rizzoli lóa mắt trước ánh sáng đột ngột. “Đó là loại sợi gì?” “Tôi cho cô xem giờ đây.” Erin nói rồi di chuyển bản kính có chứa sợi tóc và thay vào đó bằng một bản kính khác. “Hãy nhìn qua kính, sau đó tôi sẽ giải thích những thứ mà cô đang thấy.” Rizzoli cúi mắt nhìn vào kính và thấy có một sợi bông tối màu, uốn cong thành hình chữ c. “Cái này được lấy ra từ gờ của đoạn băng dính,” Erin bảo. “Tôi đã dùng lực của không khí nóng để tách các lớp của đoạn băng. Những sợi bông màu xanh sẫm như thế này chạy dọc suốt chiều dài của nó. Giờ tôi sẽ cho cô thấy phần giao nhau như thế nào.” Erin nói rồi với tay lấy le tài liệu, từ đó cô lấy ra một bức ảnh. “Đây là hình ảnh của nó dưới kính hiển vi. Cô nhìn xem sợi bông có hình dạng delta như thế nào. Trông giống như một hình tam giác nhỏ. Nó được sản xuất như thế này để giảm thiểu độ bám bụi. Hình dạng delta là hình dạng đặc trưng của những sợi bông dùng cho thảm.” “Vậy đây là vật liệu bông nhân tạo?” “Đúng thế.” “Vậy còn việc song chiết?” Rizzoli hiểu rằng khi ánh sáng chiếu qua một sợi tổng hợp, nó thường xuất hiện thành hai đường khác nhau như kiểu ánh sáng chiếu qua đồ bằng pha lê vậy. Việc khúc xạ gấp đôi đó được gọi là song chiết. Mỗi loại bông lại có các đặc điểm về chỉ số khác nhau và nó có thể được hiển thị qua một kính hiển vi phân cực. “Đây là loại sợi xanh rất đặc biệt,” Erin bảo. “Nó có chỉ số song chiết là 0.063.” “Nó có phải được dùng cho thứ gì đó đặc biệt không?” “Loại sợi nylon 6.6 thường được dùng cho các tấm thảm vì nó có tác dụng chống bám bẩn, có tính đàn hồi cao và rất bền. Nói theo cách riêng thì cấu tạo và quang phổ hồng ngoại của loại sợi này khớp với loại sản phẩm Dupont có tên gọi là Antron, được sử dụng trong sản xuất thảm.” “Nó có màu xanh đen đúng không? Đó không phải là màu nhiều người chọn cho ngôi nhà của họ. Nó giống loại thảm dành cho ôtô hơn.” “Thực ra thì loại màu đặc trưng này,” màu xanh loại 802 đã từ lâu là một lựa chọn chuẩn mực dành cho các loại xe sang trọng của Mỹ như Cadillac và Lincoln. Ngay lập tức Rizzoli hiểu ra được loại sợi này từ đâu ra. Cô nói, “Cadillac dùng làm xe tang.” “Lincoln cũng thế,” Erin mỉm cười tán thành. Cả hai người cùng đang nghĩ về một thứ. Kẻ giết người làm việc với những xác chết Rizzoli xem xét tất cả những người có thể có mối liên hệ với người chết. Cảnh sát và các nhân viên pháp y được gọi đến hiện trường. Nhà nghiên cứu bệnh học và trợ lý của anh ta cũng có thể. Người ướp xác và người tổ chức lễ tang, rồi người phục chế - người sẽ làm nhiệm vụ gội đầu, trang điểm cho người chết để những người thân yêu của họ có thể đến nhìn mặt lần cuối mà không kinh hãi. Xác chết này cũng được chuyển qua rất nhiều các nhân viên bảo vệ và sợi tóc đó có thể bám vào bất cứ người nào để tay lên người chết ấy. Cô nhìn Erin, bảo, “Người phụ nữ bị mất tích, Gail Yeager…” “Có chuyện gì về cô ấy?” “Mẹ cô ấy mất hồi tháng trước.” Joey Valentine đang làm cho xác chết trông như người đang còn sống. Rizzoli và Korsak đứng trong căn phòng đầy ánh sáng của nhà tang lễ trong nhà thờ Whitney. Họ đứng quan sát trong khi Joey làm việc với bộ đồ trang điểm Graftobian của anh ta. Phía trong hộp đồ là những chiếc bình nhỏ đựng phấn màu kem, phấn hồng, son môi. Trông nó cũng giống như những bộ đồ trang điểm của các diễn viên kịch. Chỉ khác là phấn màu kem và màu hồng ấy dùng để tạo sức sống cho làn da xạm tro của các xác chết. Giọng ca mượt mà của Elvis Presley đang vang vang trong ca khúc Love me tender khi Joey đang xát phấn nền lên hai bàn tay của xác chết để che các vết tiêm do truyền dịch và những vết cứa vào động mạch. “Đây là bản nhạc yêu thích của bà Ober,” anh ta vừa nói vừa liếc nhìn lên ba bức hình đính ở khung để trên chiếc bàn gần đó. Rizzoli đoán chắc đó là ảnh của bà Ober dù người đàn bà trong những bức hình đó chỉ hơi giống cái xác xám xịt đang được Joey chăm chút. “Người con trai nói bà ấy là một tín đồ của Elvis,” Joey nói tiếp. “Đã từng tới Graceland ba lần. Anh ta đã mang cái đài đến cho tôi để tôi có thể vừa mở nó vừa trang điểm cho bà ấy. Các vị biết đấy tôi luôn cố gắng để mở những bản nhạc hay bài hát yêu thích cho họ. Điều đó cũng giúp tôi có các cảm nhận về họ. Chúng ta có thể biết khá nhiều về một người chỉ cần nghe loại nhạc mà họ thích.” “Vậy một fan hâm mộ của Elvis thì có thể như thế nào?” Korsak hỏi. “Anh biết đấy. Son môi màu sáng. Tóc xù. Không có gì giống với những người nghe loại nhạc khác, ví dụ những người nghe Shostakovich chẳng hạn” “Thế bà Hallowell thì nghe loại nhạc nào?” “Tôi không nhớ lắm.” “Anh mới trang điểm cho bà ấy hồi tháng trước mà.” “Đúng vậy, nhưng không phải lúc nào tôi cũng nhớ được các chi tiết cụ thể,” Joey lúc này đã làm xong việc quét phấn cho bàn tay người chết. Anh ta di chuyển về đầu bàn và đang đứng gật gật đầu theo điệu nhạc của bài You Ain’t Nothing but a Hound Dog. Trong chiếc quần Jeans đen và chiếc áo theo kiểu của bác sĩ trông anh ta giống như một nghệ sĩ trẻ tuổi đang đứng ngắm tấm vải căng trống trơn để chuẩn bị vẽ. Nhưng tấm vải vẽ của anh ta lúc này là lớp da thịt lạnh ngắt và dụng cụ của anh ta là đám cọ dùng để trang điểm và lọ đựng phấn hồng. “Tôi nghĩ phấn hồng sẽ dùng loại màu hồng nhẹ có pha màu đồng,” anh ta nói rồi với tay lấy lọ đựng phấn có màu thích hợp. Với dụng cụ dùng để trộn phấn, anh ta bắt đầu pha trộn các màu với nhau. “A, màu này có vẻ phù hợp cho một người phụ nữ hâm mộ Elvis đây.” Nói rồi anh ta bắt đầu quét phấn lên má của xác chết, từ đó quét tới tận chân tóc phía trên trán, nơi có phần tóc bạc lộ ra vì chưa nhuộm lại. Một trong những nhà soạn nhạc vĩ đại nhất thế kỷ 20. “Có thể anh vẫn còn nhớ những điều đã nói với con gái của bà Hallowell,” Rizzoli bảo. Cô rút ra bức ảnh của Gail Yeager và cho Joey nhìn thấy. “Cái này thì cô nên hỏi ông Whitney. Ông ấy sắp xếp hết mọi chuyện ở đây. Tôi chỉ là trợ lý của ông ấy…” “Nhưng anh và bà Yeager chắc đã thảo luận về chuyện trang điểm cho người chết để chuẩn bị đám tang. Vì anh là người chuẩn bị những thứ đó.” Ánh mắt của Joey dán vào tấm hình của Gail Yeager. “Tôi nghĩ cô ấy là một người phụ nữ rất tốt,” anh ta nói nhẹ. “Gì cơ?” Rizzoli nhìn anh ta với câu hỏi trong mắt. “Nghe này. Tôi có theo dõi các bản tin. Thực sự cô không nghĩ cô Gail Yeager vẫn còn sống đúng không?” Joey hỏi rồi quay nhìn Korsak đang đi loanh quanh xem xét căn phòng trang điểm và ngó vào mấy ngăn tủ. “Ừm,…ngài thám tử? Anh đang tìm gì vậy?” “Không có gì. Tôi chỉ băn khoăn không biết các anh có thể cất những thứ gì trong nhà xác thôi,” anh nói khi với tới một trong các ngăn tủ. “Này, đây có phải đồ dùng để uốn xoăn tóc không?” “Đúng thế. Chúng tôi gội đầu và uốn tóc, cả cắt da móng tay nữa. Làm tất cả mọi thứ miễn làm sao các khách hàng của chúng tôi trông tuyệt vời nhất.” “Tôi có nghe là anh khá giỏi trong chuyện đó.” “Người ta vẫn luôn hài lòng với công việc của tôi.” “Mấy xác chết đó tự mình nói cho anh biết hả?” Korsak cười bảo. “Không. Ý tôi là gia đình họ kìa. Gia đình của họ thấy hài lòng.” Korsak đặt cái máy uốn tóc xuống. “Anh đã làm việc cho ông Whitney được bao lâu rồi, bảy năm rồi phải không?” “Cũng tầm đó.” “Thế chắc chắn là ngay khi anh học hết phổ thông.” “Tôi bắt đầu bằng việc rửa những chiếc xe tang của ông ấy, dọn dẹp phòng trang điểm, rồi trả lời các cuộc điện thoại gọi chở xác vào ban đêm. Sau đó thì ông Whitney để tôi giúp ông việc ướp các chất thơm cho xác. Sau một thời gian thì tôi làm gần như tất cả mọi thứ ở đây.” """