"Quả Chuông Ác Mộng - Sylvia Plath & Trần Quế Chi (dịch) full mobi pdf epub azw3 [Tâm Lý Xã Hội] 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Quả Chuông Ác Mộng - Sylvia Plath & Trần Quế Chi (dịch) full mobi pdf epub azw3 [Tâm Lý Xã Hội] Ebooks Nhóm Zalo ebook©vctvegroup Sylvia Plath Quả Chuông Ác Mộng Trần Quế Chi dịch Phát hành: Tao Đàn Nhà xuất bản Hội Nhà Văn 2019 Tặng Elizabeth và David Một Đó là một mùa hè dị thường, ngột ngạt và oi bức, mùa hè mà người ta đưa vợ chồng nhà Rosenberg lên ghế điện, còn tôi thì chẳng biết mình đang làm gì ở New York nữa. Tôi mù tịt về những vụ hành hình. Ý nghĩ phải lên ghế điện làm tôi phát ốm, nhưng đó là tất cả những gì có thể đọc được từ những tiêu đề giật gân trên báo chí cứ đập vào mắt tôi nơi các góc phố và ở mỗi lối xuống ga tàu điện ngầm ẩm mốc bốc mùi đậu phộng. Chúng chẳng liên quan gì đến tôi, nhưng tôi không thể không tự hỏi sẽ như thế nào khi các dây thần kinh bị thiêu sống. Tôi nghĩ đó hẳn là điều kinh khủng nhất trần đời. New York quả thực tồi tệ. Tầm 9 giờ sáng, sự tươi mát ẩm ướt giả tạo rỉ ra trong đêm đã tan biến như đoạn kết của một giấc mơ ngọt ngào. Chỉ còn lại vẻ xám xịt dưới đáy các thung lũng hoa cương, những con đường nóng rẫy loang loáng dưới ánh mặt trời, những mui xe kêu ri rỉ và lấp lánh sáng, bụi khô như than đỏ đâm vào mắt, tràn vào tận họng. Tôi vẫn tiếp tục nghe về nhà Rosenberg trên radio nhiều đến nỗi khi ở văn phòng làm việc tôi không thể dứt bỏ nó ra khỏi tâm trí. Cũng giống như lần đầu tiên tôi nhìn thấy xác chết. Nhiều tuần sau, cái đầu thi thể - hay đúng hơn là những gì còn sót lại của nó - cứ lềnh bềnh lên món trứng và thịt nguội trong bữa sáng và đằng sau là gương mặt của Buddy Willard, người phải chịu trách nhiệm vì đã chỉ cho tôi thấy nó đầu tiên. Ngay sau đó, tôi cảm thấy như lúc nào cũng phải mang bên mình cái đầu lâu lơ lửng trên một sợi dây, tựa như một quả bong bóng màu đen không có mũi, hôi mùi giấm. (Tôi biết mình có gì đó không ổn vào mùa hè ấy, bởi lúc nào tôi cũng chỉ nghĩ tới vụ án nhà Rosenberg và tôi ngu ngốc hết mức khi mua một lô quần áo đắt tiền, nhưng không chút tiện dụng nào chỉ để treo đầy tủ, và tất cả những thành công nho nhỏ mà tôi đã hạnh phúc khi gặt hái được ở trường trở nên vô nghĩa hoàn toàn khi đứng trước những cửa hiệu bằng đá cẩm thạch và kính, dọc theo đại lộ Madison.) Tôi phải tận hưởng thời khắc đẹp đẽ của cuộc đời. Tôi phải trở thành đối tượng ghen tị của hàng ngàn nữ sinh viên đại học ở khắp nước Mỹ, những cô gái không có mong muốn gì hơn là được dạo chơi với đôi giày da bóng cỡ số bảy mà tôi đã mua ở hiệu Bloomingdale nhân một lần đi ăn trưa, cùng với chiếc thắt lưng và túi xách đồng màu da đen bóng. Rồi khi ảnh tôi xuất hiện trên tờ tạp chí, nơi mười hai đứa chúng tôi đang làm việc, uống martini ở Starlight Roof, mình mặc áo yếm lấp lánh ánh kim cùng chiếc váy phồng bằng vải tulle trắng, được vây quanh bởi nhóm thanh niên xa lạ với cấu trúc xương kiểu Mỹ, thuê riêng cho những dịp thế này - hẳn mọi người sẽ cho rằng tôi đang quay cuồng thực sự. Họ sẽ bảo, hãy nhìn xem cái gì đang xảy ra ở cái đất nước này. Một cô gái tỉnh lẻ sống ở vùng sâu vùng xa nào đó suốt mười chín năm trời, nghèo đến nỗi không mua nổi một tờ tạp chí, đột nhiên nhận được một học bổng đại học, rồi giành hết giải thưởng này sang giải thưởng khác, và tạo ảnh hưởng ở New York ngon lành như thể lái chiếc xe riêng của mình vậy. Chỉ có điều tôi chẳng lái cái gì cả, kể cả bản thân mình. Tôi chỉ đi từ khách sạn đến nơi làm việc hoặc các bữa tiệc, rồi lại từ các bữa tiệc trở về khách sạn và tiếp tục đi làm như một chiếc xe điện tê cóng. Tôi nghĩ mình cũng có thể bị kích động như phần lớn những cô gái khác, nhưng tôi không thể tự phản ứng lại được. Tôi cảm thấy rất bình yên và trống trải tựa như mắt bão khi di chuyển một cách chậm chạp giữa tiếng mưa gào gió thét xung quanh. Mười hai đứa chúng tôi đều ở khách sạn. Chúng tôi vừa đoạt giải trong kỳ thi do một tạp chí thời trang tổ chức dự thi những bài luận, truyện ngắn, thơ và quảng cáo thời trang. Giải thưởng là một công việc ở New York trong vòng một tháng, mọi chi phí đều đã được đài thọ, thêm vào đó là hàng lô hàng lốc những món thưởng khác: vé ba lê, xem trình diễn thời trang, làm tóc tại một tiệm danh tiếng và cơ hội gặp được những người thành đạt trong lĩnh vực mà chúng tôi mơ ước, để nhận được những lời khuyên thích hợp với mình. Tôi vẫn còn giữ cái hộp trang điểm mà họ đã tặng, vốn hợp với một cô nàng mắt nâu tóc vàng: một lọ mascara màu nâu với bàn chải nhỏ xíu, một ô phấn mắt màu xanh hình tròn chỉ vừa đủ lớn bằng đầu ngón tay, và ba thỏi son môi từ đỏ đến hồng, tất cả đều đặt trong một cái hộp nhỏ mạ vàng, mặt trong có kèm gương. Tôi cũng có một cái hộp đựng kính mát bằng nhựa trắng, được khảm xà cừ đủ màu và đính một con sao biển bằng nhựa màu xanh lá cây. Tôi nhận ra rằng việc trao tặng những món quà này chính là cách quảng cáo miễn phí của các doanh nghiệp, nhưng tôi không thể không giữ chúng. Tôi từng hất văng tất cả những món quà trong tầm tay. Suốt một thời gian dài, tôi giấu biệt chúng đi, nhưng rồi khi bình tâm lại, tôi lôi chúng ra và bày khắp nhà. Đôi khi tôi dùng son môi, và mới tuần trước tôi đã cắt con sao biển bằng nhựa khỏi bao kính để làm đồ chơi cho một đứa bé. Cả bọn mười hai đứa chúng tôi đều ở khách sạn, cùng một bên dãy ở cùng một tầng gồm các phòng đơn. Phòng nọ kế tiếp phòng kia làm cho tôi nhớ đến các phòng ở ký túc xá. Đây không phải là một khách sạn đúng nghĩa - tôi muốn nói đến khách sạn mà đàn ông và đàn bà ở lẫn lộn trên cùng một tầng. Khách sạn Amazon này chỉ dành cho phái nữ, phần lớn là những cô gái cùng lứa tuổi tôi, gia cảnh giàu có, mong ước cho con gái mình sống ở một nơi mà bọn đàn ông không thể lui tới và lừa dối được: tất cả bọn họ đều theo học những trường sang trọng chuyên đào tạo thư ký như Katy Gibbs, nơi họ phải mang mũ, tất dài và găng tay đến lớp; hoặc những người vừa tốt nghiệp các trường như Katy Gibbs và trở thành thư ký cho các ủy viên cao cấp, và cứ quanh quẩn ở New York mong tìm được một anh chàng thành đạt nào đó để kết hôn. Với tôi, những cô gái này buồn tẻ một cách khủng khiếp. Tôi thấy họ nằm phơi nắng, vừa ngáp vừa sơn móng tay và cố giữ cho làn da Bermuda rám nắng, nom họ nhạt nhẽo chết đi được. Tôi lân la tán chuyện với một người trong đám, cô nàng cho biết đã chán ngấy những chiếc thuyền buồm, chán ngấy những chuyến du hành bằng máy bay, và cả việc đi trượt tuyết ở Thụy Sĩ vào dịp Giáng sinh lẫn cánh đàn ông ở Brazil nữa. Đám con gái đó làm tôi phát ốm. Họ khiến tôi ghen tỵ nhưng không dám nói thành lời. Mười chín tuổi đầu, tôi chưa từng bước chân ra khỏi New England trừ chuyến đi New York này. Đây là cơ hội lớn đầu tiên của tôi, thế nhưng giờ đây, nó đang như những giọt nước dần dần trôi tuột qua kẽ tay. Tôi nghĩ một trong những phiền nhiễu của tôi chính là Doreen. Tôi chưa từng quen một đứa con gái nào như Doreen. Cô nàng tới từ một trường nữ sinh dành cho giới thượng lưu ở miền Nam. Cô có mái tóc bạch kim bồng bềnh như một cây kẹo bông quanh đầu, cặp mắt xanh như hai viên mã não trong trẻo, cô cứng cỏi, thanh lịch và ương ngạnh, nụ cười giễu cợt luôn nhếch trên môi. Tôi không cho rằng đó là sự cay độc, mà là kiểu giễu nhại, pha chút thần bí, như thể tất cả mọi người xung quanh đều ngốc nghếch và cô ta có thể buông lời bỡn cợt họ bất cứ lúc nào. Doreen để mắt tới tôi ngay lập tức. Cô làm tôi cảm thấy mình sắc sảo hơn mọi người, còn cô lại là con người rất hài hước. Doreen thường ngồi cạnh tôi mỗi lần hội họp và khi những vị khách danh tiếng tới thăm phát biểu, cô ta thì thầm vào tai tôi mấy lời nhận xét châm chọc tếu táo. Cô ta bảo với tôi rằng trường của cô ta rất chú trọng chuyện thời trang. Tất cả nữ sinh phải có túi xách may cùng một loại với quần áo, thành thử mỗi lần thay đồ lại phải đổi túi xách cho phù hợp. Kiểu chi tiết tỉ mỉ này khiến tôi rất ấn tượng. Nó biểu thị một cuộc sống tuyệt diệu, xa hoa mà suy đồi, và thu hút tôi như một thanh nam châm. Lần duy nhất mà Doreen hoạch họe tôi là về chuyện hoàn thành công việc đúng thời hạn. “Cậu đổ mồ hôi cho việc đó làm gì?” Doreen hỏi, cô nàng mặc nguyên bộ đồ bằng tơ màu hồng đào ngả ngốn trên giường tôi, lấy một miếng giấy ráp giũa những móng tay dài vàng khè vì nicotin, trong khi tôi đánh máy lại bài phỏng vấn một tiểu thuyết gia thuộc dạng best-seller. Đó lại là chuyện khác - còn thường thì chúng tôi khoác những bộ quần áo ngủ mùa hè bằng vải bông và áo choàng mặc ở nhà, hoặc có thể là những loại áo dài bằng vải kiểu mặc ngoài bãi biển. Duy có Doreen mới mặc những loại áo cực mỏng hay bằng ren gần như trong suốt, hoặc váy áo màu da, khiến người cô lúc nào cũng lách tách tình điện. Ở cô có một điểm thú vị nữa là luôn phảng phất một mùi mồ hôi hấp dẫn gợi tôi nhớ tới mùi hương khi ta vò nát những chiếc lá dương xỉ hình quạt giữa các ngón tay. “Cậu nên biết mụ Jay Cee sẽ không nổi điên lên nếu cậu gác câu chuyện này đến mai hoặc thứ Hai đâu.” Doreen châm một điếu thuốc và nhả khói chầm chậm qua lỗ mũi, khiến đôi mắt cô trở nên mơ hồ. “Mụ Jay Cee xấu như quỷ,” Doreen lạnh lùng nói tiếp. “Mình dám cá là lão chồng già của mụ phải tắt hết đèn trước khi gần gũi mụ, bằng không lão sẽ phát nôn ngay.” Jay Cee là sếp của tôi, và tôi rất quý bà, bất kể Doreen có nói gì đi nữa. Bà không phải là loại người phù phiếm vẫn thường thấy trên các tạp chí thời trang với hàng lông mi giả và đồ trang sức hào nhoáng. Jay Cee là người có đầu óc, nên vẻ xấu xí của bà xem ra chẳng có gì hệ trọng cả. Bà nói được vài thứ tiếng và biết rõ những tay viết cứng cựa trong nghề. Tôi cố hình dung ra cảnh bà Jay Cee cởi bộ đồng phục cứng nhắc cùng chiếc mũ dự tiệc, lên giường với lão chồng béo ị của bà, nhưng không tài nào hình dung được. Tôi luôn luôn rất khó khăn khi phải tưởng tượng ra cảnh người ta đang ngủ với nhau. Jay Cee luôn muốn dạy dỗ tôi, tất cả những bà lớn tuổi khác mà tôi quen biết đều như vậy, nhưng tôi cho rằng họ chẳng có điều gì để chỉ bảo tôi cả. Tôi đóng nắp máy chữ rồi khóa lại. Doreen cười nhăn nhở: “Thông minh đấy!” Chợt có tiếng gõ cửa. “Ai đấy?” Tôi không buồn đứng dậy. “Betsy đây. Cậu có đi dự tiệc không?” “Chắc có đấy.” Tôi vẫn không ra mở cửa. Betsy được đưa thẳng từ Kansas về đây cùng mái tóc hoe vàng tết kiểu đuôi ngựa và nụ cười kiểu những cô nàng thiện tâm. Tôi nhớ một lần hai đứa chúng tôi được mời tới văn phòng của một đạo diễn truyền hình mặc bộ đồ sọc, để xem thử có góc độ nào nơi chúng tôi khả dĩ phù hợp với một chương trình của ông không. Và Betsy bắt đầu nói về loại ngô đực ngô cái ở Kansas. Cô nàng hào hứng với thứ ngô chết tiệt này đến mức nhà đạo diễn phải rưng rưng mắt lệ, nhưng sau đó ông ta nói rằng lấy làm tiếc bởi chẳng có gì hữu dụng cả. Sau này, người phụ trách thẩm mỹ thuyết phục Betsy cắt tóc và cho cô nàng lên bìa báo, tôi thi thoảng còn thấy khuôn mặt của cô đang tươi cười trên mẫu quảng cáo “Vợ của P.Q mặc đồ nhà B.H. Wragge.” Betsy lúc nào cũng rủ tôi làm việc cùng cô và vài cô nàng khác nữa, cứ như thể đang cố cứu vớt tôi không bằng. Cô chẳng bao giờ rủ Doreen cả. Doreen lén gọi riêng với tôi là con nhỏ cao bồi Pollyanna. “Cậu có muốn đi cùng taxi với bọn tớ không?” Betsy hỏi vọng vào. Doreen lắc đầu. “Được rồi, Betsy.” Tôi nói. “Tớ sẽ đi cùng với Doreen.” “Ừ!” Tôi nghe tiếng Betsy đi xuống đại sảnh. “Tụi mình ghé qua một lát, khi nào oải quá thì về.” Doreen bảo tôi, dụi tắt điếu thuốc lá vào đế cây đèn đọc. “Rồi tụi mình xuống phố. Những buổi tiệc tùng ở đây làm mình nhớ lại những lần khiêu vũ trong phòng thể chất ở trường. Tại sao chúng nó cứ phải bám lấy bọn Yale? Chúng ngốc bỏ xừ!” Buddy Willard đã tới Yale học, giờ nghĩ lại, tôi thấy vấn đề của Buddy đúng là anh ta ngốc thật. Ồ, anh ta đã xoay xở để đạt thành tích tốt, và rồi có quan hệ lăng nhăng với một cô hầu bàn vớ vẩn ở Cape tên là Gladys. Nhưng anh ta không có một chút trực giác nào. Doreen thì trực giác rất tốt. Mọi điều cô nói ra đều giống như đi guốc trong bụng tôi. Chúng tôi bị tắc đường bởi giờ mở cửa nhà hát. Chiếc taxi của chúng tôi chen vào giữa đuôi xe của Betsy với mũi một chiếc xe khác chở bốn cô gái, không nhích lên được chút nào. Doreen trông rất tuyệt. Cô mặc một chiếc váy bằng ren trắng, khóa kéo tới tận chiếc áo nịt ngực, chiếc váy bó sát lấy eo thon phô diễn những đường cong ở cả ba vòng trên cơ thể, làn da Doreen mịn màng được thoa một lớp phấn nhạt, cả người cô ngào ngạt mùi nước hoa. Còn tôi thì mặc một cái váy lụa Sơn Đông màu đen giá bốn mươi đô la. Một trong những thứ tôi mua bằng tiền học bổng ngay khi biết tin mình là một trong những người may mắn được đi New York. Cái váy được thiết kế kỳ cục tới độ tôi không thể mặc coóc xê bên trong, nhưng điều đó không có gì quan trọng bởi tôi gầy nhom như một cậu nhóc, cả người hầu như chẳng có lấy đường cong nào. Hơn nữa tôi thích cảm thấy gần như khỏa thân trong những đêm hè nóng nực. Cuộc sống nơi thành thị đã làm nước da rám nắng của tôi nhợt nhạt dần. Tôi trở nên vàng vọt như một người Trung Hoa. Bình thường tôi có thể sẽ lo lắng về trang phục và màu da kỳ quặc của mình, nhưng đi cùng Doreen làm tôi quên mọi lo lắng. Tôi cảm thấy khôn ngoan và hài hước hết sức. Khi trông thấy gã đàn ông mặc sơ mi xanh, quần đen và đi đôi bốt cao bồi bằng da thuộc tiến lại từ hàng hiên, nơi hắn không rời mắt khỏi chiếc taxi, tôi không có một ảo tưởng nào hết. Tôi thừa hiểu là hắn tới đón Doreen. Hắn len lỏi giữa những chiếc xe đang dừng bánh, đến tựa một cách duyên dáng vào cửa xe đang mở của chúng tôi. “Tôi có vinh dự được biết hai quý cô xinh đẹp đang làm gì một mình trong taxi vào một đêm tuyệt vời như thế này không?” Hắn cười toét cả miệng, để lộ hàm răng trắng muốt như một quảng cáo kem đánh răng. “Chúng tôi đang trên đường tới dự một bữa tiệc,” tôi buột miệng nói, vì Doreen đột nhiên ngây như phỗng và lúng túng đùa nghịch với cái nắp ví màu trắng. “Nghe thật nhàm chán!” Hắn nói. “Sao hai cô không cùng tôi tới quán bar đằng kia làm vài ly? Tôi cũng có vài người bạn đang chờ ở đó.” Rồi hắn gật gật đầu về phía một đám người ăn mặc tùy tiện đang tụ tập dưới hàng hiên. Họ đang dõi mắt theo và phá lên cười khi thấy hắn liếc về phía họ. Lẽ ra tiếng cười ấy đã cảnh báo tôi. Đó là một tiếng cười thâm trầm ra vẻ ta đây, nhưng lúc này các phương tiện giao thông đã bắt đầu có thể tiếp tục di chuyển, tôi biết nếu mình cứ ngồi yên, chỉ hai giây thôi, tôi sẽ hối hận vì bỏ lỡ cơ hội để hiểu thêm về một New York, ngoài những gì được người ta sắp xếp một cách cẩn thận cho chúng tôi được thấy trên các tạp chí. “Cậu nghĩ sao Doreen?” Tôi hỏi. “Em nghĩ sao, Doreen?” Gã đàn ông lặp lại, vẫn nụ cười rộng mở trên môi. Đến giờ tôi chịu không nhớ nổi hắn trông thế nào lúc không cười. Tôi nghĩ chắc lúc nào hắn cũng cười thì phải. Cười như thể một điều tất lẽ dĩ ngẫu với hắn vậy. “Thôi cũng được.” Doreen nói với tôi. Tôi mở cửa và chúng tôi bước ra khỏi taxi đúng lúc nó sắp sửa tiếp tục nhích về phía trước, rồi đi về phía quán bar. Có tiếng bánh xe phanh cháy đường rít lên, rồi uỳnh uỳnh hai tiếng. “Này mấy cô,” gã tài xế của chúng tôi ló đầu ra khỏi xe, mặt tím bầm vì giận. “Mấy cô làm trò gì vậy?” Gã ngừng xe đột ngột khiến chiếc xe sau đụng phải, và chúng tôi có thể thấy bốn cô gái trên đó xô nhau ngã dúi dụi xuống sàn. Gã đàn ông cười lớn, bỏ chúng tôi bên lề đường rồi quay lại trả tiền cho người tài xế giữa tiếng còi xe và la hét inh ỏi, sau đó chúng tôi trông thấy mấy cô gái ở tạp chí theo nhau xuống xe, mấy chiếc taxi nối đuôi nhau như trong một lễ cưới chỉ gồm toàn phù dâu. “Đi nào, Frankie,” gã đàn ông nói với một người bạn trong nhóm, và một gã lùn xủn tách ra, đi vào quán rượu với chúng tôi. Gã này thuộc tuýp người mà tôi không thể chịu nổi. Tôi cao khoảng một mét bảy tám lúc đi chân không, khi tôi đứng bên người đàn ông thấp bé, tôi phải khom người và nghiêng hông bên thấp bên cao cho có vẻ lùn hơn, và tôi cảm thấy mình như một kẻ vụng về và yếu ớt vậy. Trong thoáng chốc tôi có một hy vọng điên rồ là chúng tôi sẽ bắt cặp theo vóc dáng, tôi sẽ cặp với gã đàn ông đã trò chuyện với chúng tôi lúc đầu và rõ ràng là hắn phải cao trên mét tám, nhưng hắn đã tiến về phía Doreen và chẳng thèm liếc qua tôi một lần. Tôi vờ như không thấy Frankie đang bám sát lấy tôi, và ngồi xuống kế bên Doreen. Quán rượu tối đến nỗi tôi không nhìn thấy nổi cái gì ngoài Doreen. Với mái tóc bạch kim và chiếc váy trắng, trông cô nàng như tạc bằng bạc. Tôi nghĩ ánh đèn neon trong quán đã tạo nên hiệu ứng ấy. Còn tôi thì cảm thấy mình đang tan chảy vào trong bóng tối như thể một âm bản của một người tôi chưa từng gặp trong đời. “Chúng ta uống gì nhỉ?” Gã đàn ông hỏi, vẫn với nụ cười cởi mở. “Tớ nghĩ là sẽ uống một ly cổ điển.” Doreen nói với tôi. Việc gọi đồ uống luôn khiến tôi bối rối. Tôi thậm chí còn không phân biệt nổi whisky và gin, cũng như chẳng ưa gì hương vị của chúng. Buddy Willard và mấy anh chàng khác ở trường mà tôi quen đều nghèo mạt, làm gì có tiền mua rượu mạnh, hoặc giả họ cũng coi thường việc nhậu nhẹt. Thật đáng ngạc nhiên là các anh chàng sinh viên chẳng hề rượu chè hút xách gì thì tôi biết ráo cả. Lần xôm nhất là hôm Buddy Willard mua một chai Dubonnet; anh chàng làm vậy chỉ để thể hiện rằng mình cũng có khiếu thẩm mỹ dẫu chỉ là một gã sinh viên y khoa. “Cho tôi một ly vodka.” Tôi nói. Gã đàn ông nhìn sát tôi hơn. “Có pha gì không?” “Nguyên chất.” Tôi nói “Tôi luôn luôn uống nguyên chất.” Tôi nghĩ mình sẽ tự làm trò cười khi nói uống kèm đá, gin hoặc một thứ gì đó. Tôi mới xem quảng cáo rượu vodka có một lần, một ly đầy vodka ở giữa một miền tuyết trắng dưới ánh sáng màu xanh, ly vodka trông trong suốt và tinh khiết như nước, vì thế tôi cho rằng gọi vodka không pha là ổn cả thôi. Niềm mơ ước của tôi là một ngày nào đó gọi thứ đồ uống này và cảm nhận được hương vị tuyệt vời của nó. Người hầu bàn bước đến, gã đàn ông gọi đồ uống cho cả bọn. Hắn xem ra hết sức tự nhiên thoải mái trong quán rượu này đến nỗi tôi nghĩ đây hẳn là một người khá nổi tiếng. Doreen không nói một câu nào, cô nàng đang đùa nghịch với chiếc nút chai và cuối cùng châm một điếu thuốc, nhưng gã đàn ông dường như không để ý. Hắn cứ tiếp tục nhìn cô nàng theo kiểu người ta ngắm một con chim anh vũ trắng ở sở thú, chờ nó cất lên tiếng người. Đồ uống được mang tới, ly của tôi trông trong suốt và tinh khiết y hệt trong quảng cáo. “Anh làm nghề gì?” Tôi hỏi gã đàn ông để phá vỡ sự yên lặng đang bủa vây quanh tôi như giữa rừng cỏ dại. “Ý tôi là anh đang làm gì ở New York này?” Gã đàn ông chầm chậm ra vẻ rất miễn cưỡng rời mắt khỏi bờ vai Doreen: “Tôi là DJ,” hắn nói. “Có lẽ cô đã nghe nói đến. Tôi tên là Lenny Shepherd.” “Tôi biết anh rồi.” Doreen bất chợt nói. “Anh rất sung sướng khi nghe vậy cưng ạ!” Gã đàn ông nói rồi phá lên cười. “Điều đó cũng tự nhiên thôi. Anh nổi tiếng chết đi được.” Sau đó Lenny Shepherd nhìn Frankie hồi lâu. “Này, mấy em từ đâu tới?” Frankie hỏi và đột nhiên ngồi thẳng dậy. “Em tên gì nhỉ?” “Đây là Doreen,” Lenny luồn tay mình qua cánh tay trần của Doreen và ôm chặt cô nàng. Điều làm tôi ngạc nhiên là Doreen vờ như không thấy hành động này của anh ta. Cô chỉ ngồi đó, mù mịt như một ả da đen tóc hoe trong chiếc váy trắng, nhấm nháp ly nước của mình. “Em là Elly Higginbottom.” Tôi nói. “Em từ Chicago đến.” Nói xong tôi cảm thấy vững tâm hơn. Tôi không muốn bất cứ điều gì mình nói hoặc làm đêm hôm đó liên quan đến tên thật và gốc gác của tôi ở Boston. “Tuyệt, Elly! Chúng ta nhảy vài bản chứ?” Ý nghĩ phải nhảy với một gã lùn tịt đi đôi giày da lộn màu cam, mặc một chiếc áo thun bần tiện và áo khoác thể thao màu xanh lòng thòng khiến tôi bật cười. Nếu có một điều gì khiến tôi phải khinh rẻ, thì đó là một gã mặc quần áo màu xanh. Đen, xám hoặc nâu thì còn tàm tạm. Nhưng màu xanh thì thật buồn cười. “Em đang không có hứng nhảy nhót.” Tôi lạnh lùng đáp, rồi quay lưng lại phía gã, dịch ghế tới gần Doreen và Lenny. Anh ả trông cứ như đã biết nhau từ lâu lắm rồi. Doreen đang dùng chiếc thìa bạc xúc những miếng trái cây ở dưới đáy ly, còn Lenny thì lầm bầm mỗi lúc thấy cô nàng đưa thìa lên miệng, lại còn đóng giả làm một con cún hay đại loại thế, cố đớp miếng trái cây khỏi chiếc thìa. Doreen cười khúc khích và cứ tiếp tục xúc trái cây. Rốt cuộc tôi bắt đầu cho rằng vodka là đồ uống thích hợp nhất với tôi. Tư vị nó không giống bất cứ thứ gì khác, lao thẳng vào dạ dày như một diễn viên xiếc vừa nuốt lưỡi gươm, khiến tôi thấy mình mạnh mẽ như thần thánh. “Tôi phải đi đây.” Frankie nói và đứng dậy. Tôi không trông thấy gã rõ lắm vì trong quán hơi tù mù, nhưng lần đầu tiên tôi nghe gã cao giọng với vẻ ngu ngốc như vậy. Chẳng ai thèm để ý tới gã. “Này, Lenny, cậu còn nợ tớ đấy nhé! Cậu nhớ còn nợ tớ cái gì không Lenny?” Tôi nghĩ thật lạ lùng khi Frankie đòi nợ Lenny ngay trước mặt chúng tôi, những người hoàn toàn xa lạ, nhưng Frankie cứ đứng đó nhắc đi nhắc lại cho đến khi Lenny thò tay vào túi và lôi ra một nắm giấy bạc xanh, rút một tờ đưa cho Frankie. Tôi nghĩ đó là tờ mười đô la. “Câm mồm và biến đi.” Trong một thoáng, tôi nghĩ Lenny cũng bảo cả tôi như thế, nhưng rồi tôi nghe Doreen nói: “Em sẽ không đi đâu hết nếu không có Elly.” Tôi phải chắp tay bái phục cái cách cô nàng xướng lên cái tên giả của tôi. “Ồ, Elly sẽ đi chứ, phải không em?” Lenny vừa nói vừa nháy mắt với tôi. “Chắc chắn em sẽ đi.” Tôi nói. Frankie đã cuốn xéo trong màn đêm, vì thế tôi nghĩ mình sẽ theo đuôi Doreen. Tôi muốn nhìn càng nhiều càng tốt. Tôi thích quan sát kẻ khác trong những hoàn cảnh nguy kịch. Nếu xảy ra một tai nạn giao thông, một vụ đánh nhau ngoài phố hay một đứa bé bị ngâm trong bình thí nghiệm mà tôi trông thấy, tôi luôn luôn đứng lại và nhìn kỹ đến mức không bao giờ quên. Chắc chắn tôi đã học được nhiều điều mà nhẽ ra tôi không thể biết nếu chẳng dùng cách này, kể cả khi chúng làm cho tôi ngạc nhiên hay phát ốm, tôi cũng không để lộ ra, và vẫn vờ như đó là phương cách trước giờ giúp tôi biết được mọi việc. Hai Tôi không thể bỏ lỡ cơ hội tới thăm nơi ở của Lenny. Nó được xây dựng giống y như bên trong một căn nhà ở trang trại, chỉ khác đây là giữa một khu chung cư ở New York. Hắn bảo rằng mình đã phải phá bỏ một số tường ngăn để căn nhà được rộng hơn, thế vào đó là vách bằng ván thông, rồi lắp đặt quầy bar đặc biệt cũng bằng ván thông hình móng ngựa. Tôi nghĩ sàn nhà chắc cũng làm bằng gỗ thông luôn. Những tấm da gấu trắng lớn được trải trên mặt sàn và những món nội thất duy nhất là vài chiếc giường thấp, trải những tấm thảm Ấn Độ. Thay cho những bức tranh treo tường là những gạc hươu, sừng trâu và một cái đầu thỏ nhồi rơm. Lenny chọc ngón tay cái vào cái mõm nhỏ xam xám hiền lành và đôi tai dài cứng đơ của chú thỏ. “Anh chẹt phải nó ở Las Vegas.” Anh ta bước ngang qua căn phòng, đôi bốt cao bồi vọng lại nghe như tiếng súng lục. “Hiệu ứng âm thanh”, anh nói. Tiếng chân mỗi lúc một nhỏ dần cho tới khi anh biến mất sau khung cửa phía xa. Đột nhiên tiếng nhạc bắt đầu phát ra từ bốn phương tám hướng. Rồi chợt ngừng lại, chúng tôi nghe giọng của Lenny: “Đây là chương trình Âm nhạc đêm khuya, Lenny Shepherd sẽ điểm qua các ca khúc pop số một. Đứng vị trí thứ mười trong tuần này không gì khác ngoài bài hát nói về một cô nhóc tóc vàng mà gần đây các bạn đã được nghe nhiều… ca khúc độc nhất vô nhị Hoa Hướng Dương!” Tôi sinh ra ở Kansas, tôi lớn lên ở Kansas. Và khi cưới vợ tôi sẽ cưới ở Kansas… “Thật là một thằng cha dở hơi!” Doreen nói. “Hắn có dở người không đấy?” “Hẳn rồi!” Tôi đáp. “Elly này, làm ơn giúp mình một tay nhé.” Lúc này cô dường như đã xem tôi thực sự là Elly. “Tất nhiên.” Tôi nói. “Loanh quanh đây thôi nhé. Nhỡ hắn giở trò gì, mình e không đỡ nổi. Cậu có thấy cơ bắp hắn chưa?” Doreen cười khúc khích. Lenny xuất hiện từ căn phòng phía sau. “Anh có mớ thiết bị thu âm đáng giá hai mươi nghèn trong ấy đấy.” Anh ta bước tới quầy bar, lấy ra ba cái ly, một xô nước đá bằng bạc, một bình nước lớn và bắt đầu pha rượu từ nhiều chai khác nhau. …Tôi sẽ cưới một cô nàng chung thủy, em hứa sẽ đợi tôi. Em là bông hoa hướng dương của tiểu bang Hoa hướng dương. “Tuyệt phải không?” Lenny bước tới, rót ba ly đều nhau. Những giọt nước lớn ngưng trên thành ly trông như những giọt mồ hôi, những viên đá kêu leng keng trong ly khi anh lắc qua lắc lại. Sau đó, tiếng nhạc ngừng lại, chúng tôi nghe thấy giọng Lenny giới thiệu bài tiếp theo. “Không gì bằng nghe chính giọng mình nói. Này…” Ánh mắt Lenny ngừng lại ở tôi. “Thằng Frankie chuồn rồi, em cũng phải có ai đó bầu bạn chứ. Anh sẽ gọi một bạn của anh nhé!” “Em ổn mà.” Tôi nói. “Anh không cần làm vậy đâu.” Tôi không muốn nói thẳng ra cái việc mình muốn một gã to con hơn Frankie. Lenny xem ra yên lòng. “Em không phiền thì tốt rồi. Bởi anh không muốn có điều chi bất tiện với bạn của Doreen.” Anh ta nở một nụ cười phô hàm răng trắng muốt với Doreen. “Phải vậy không cưng?” Anh ta chìa tay cho Doreen, rồi chẳng nói chẳng rằng, họ bắt đầu khiêu vũ, trên tay vẫn cầm ly. Tôi ngồi khoanh chân trên một cái giường, cố tỏ ra thờ ơ, lãnh đạm, giống như một vài doanh nhân mình từng thấy đang xem một vũ nữ Algerie múa bụng. Nhưng ngay khi tôi vừa dựa lưng vào tường, phía dưới con thỏ nhồi rơm, thì chiếc giường bắt đầu trượt vào giữa phòng, thế là tôi đành ngồi lên tấm da gấu trải dưới sàn và dựa lưng vào giường. Ly rượu của tôi thật loãng và đáng thất vọng. Cứ mỗi lần nhấp, tôi lại thấy nó càng lúc càng giống như một thứ nước nhạt nhẽo. Giữa thân của ly rượu có vẽ một dải màu hồng điểm những chấm vàng. Tôi uống đến qua dải màu hồng chừng một inch rồi ngừng một chút, khi tôi nhấp lần nữa, rượu đã lại dâng lên tới mức ngang dải này. Giọng của Lenny vang vang trong không gian “Seo, vì seo tôi phải rời Wyoming?” Hai người bọn họ thậm chí chẳng ngừng nhảy giữa chừng hai ca khúc. Tôi chỉ muốn thu mình lại thành một chấm đen nhỏ trên những tấm thảm đỏ và trắng trên tường ván thông. Tôi thấy mình tựa như một cái lỗ trên mặt sàn. Có chút gì đó hơi bại hoại khi ngồi nhìn hai người càng lúc càng quấn lấy nhau hơn, đặc biệt là khi bạn lại là người thừa duy nhất trong phòng. Điều đó cũng giống như ngắm Paris từ trên một con tàu tốc hành mà lại ngồi theo hướng ngược lại - mỗi giây phút thành phố lại càng nhỏ đi, chỉ khác là ở đây, chính bạn đang trở nên mỗi lúc một bé mọn hơn, cô độc hơn, lìa xa chốn phồn hoa đô thị rực rỡ với tốc độ cả triệu dặm một giờ. Cứ một chốc, Lenny và Doreen lại xoắn lấy nhau và hôn hít, rồi lại buông nhau ra để uống một chặp, sau đó lại quấn vào nhau. Tôi nghĩ mình nên ngả lưng trên tấm da gấu làm một giấc cho tới khi Doreen sẵn sàng quay về khách sạn. Đột nhiên Lenny rống lên. Tôi nhổm dậy, Doreen đang dùng răng cắn vào dái tai bên trái của Lenny. “Con đĩ, nhả ra.” Lenny gập người xuống và Doreen vọt lên trên vai của anh ta, ly của cô vuột khỏi tay, văng đi một quãng xa rồi đập xuống sàn đánh choang một tiếng. Lenny vẫn tiếp tục rống lên và quay mòng mòng nhanh đến nỗi tôi nhìn không ra khuôn mặt của Doreen. Tôi nhận ra, theo cách thông thường người ta vẫn nhìn ra màu mắt của một ai đó, rằng cặp vú của Doreen đã bung ra khỏi áo và khe khẽ lúc lắc như hai trái dưa nâu khi cô nàng quay cuồng trên vai của Lenny, đôi chân khua loạn xị còn miệng thì hét ầm lên. Sau đó cả hai phá lên cười và quay chậm lại, Lenny tìm cách cắn xuyên qua làn váy vào hông của Doreen khi tôi chuồn ra khỏi cửa trước khi những sự kiện khác có thể xảy ra. Tôi cố đi xuống bên dưới bằng cách dùng cả hai tay tỳ vào lan can, nửa bước nửa trượt suốt quãng đường. Tôi không nhận ra căn hộ của Lenny có máy điều hòa nhiệt độ cho tới khi loạng choạng xuống tới vỉa hè. Lòng đường hấp hơi cái nóng nhiệt đới suốt ngày hắt trở lại vào mặt tôi như một lời chửi rủa cuối cùng. Tôi chẳng biết mình đang tồn tại ở cái thế giới nào nữa. Trong một thoáng, tôi bỗng nảy ý định bắt taxi để tới dự bữa tiệc, nhưng rồi lại thôi bởi có lẽ buổi khiêu vũ giờ này đã kết thúc và tôi không thích xuất hiện lúc phòng nhảy đã vắng teo, chỉ còn lại những mẩu giấy vụn, đầu mẩu thuốc lá hay vài chiếc khăn ăn vương vãi trên sàn. Tôi cẩn thận bước đến góc phố gần nhất, vịn vào bức tường của những tòa nhà bên trái mình bằng mấy đầu ngón tay để giữ thăng bằng. Tôi nhìn bảng tên phố, rồi lấy tấm bản đồ New York trong túi xách ra. Tôi còn cách khách sạn của mình đúng bốn mươi ba khối phố. Tôi chẳng bao giờ ngán cuốc bộ. Tôi chỉ việc xác định phương hướng và thầm đếm từng khối phố, khi về đến sảnh khách sạn, tôi hoàn toàn tỉnh táo, chân chỉ sưng một chút, nhưng đó là lỗi của tôi vì không chịu mang tất chân. Đại sảnh vắng hoe ngoại trừ một người trực đêm đang gà gật dưới ánh đèn sáng, giữa những chùm chìa khóa và điện thoại im lìm. Tôi chui vào thang máy tự phục vụ và nhấn nút lên tầng của mình. Cửa đóng lại lặng lẽ như một cây đàn accordeon. Rồi tai tôi trở nên lùng bùng kỳ lạ, cảm giác như thấy một người phụ nữ Trung Hoa to lớn với cặp mắt kèm nhèm đang nhìn chằm chằm vào mặt tôi một cách ngu ngốc. Tất nhiên ở đây chỉ có mình tôi thôi. Tôi kinh hoảng khi thấy mình nhàu nhĩ và suy sụp đến thế. Chẳng có ma nào ở hành lang. Tôi lê bước về phòng. Căn phòng mù mịt khói. Thoạt tiên tôi ngỡ khói đột ngột hiện hình như thể mào đầu cho một kiểu phán quyết nào đó, nhưng sau đó tôi nhớ ra là khói thuốc của Doreen, bèn ấn nút mở cửa sổ để thông gió. Nhưng cánh cửa đã bị đóng cố định, không thể mở rộng và thò người ra ngoài được, điều này làm tôi phát điên lên. Đứng bên trái cạnh cửa sổ, tựa cằm vào khung gỗ, tôi có thể nhìn xuống trung tâm thành phố nơi tòa nhà Liên Hiệp Quốc sừng sững trong bóng đêm, trông như một tổ ong kỳ lạ màu xanh nào đó trên Sao Hỏa. Tôi thấy cả những vệt sáng đỏ và trắng di động dọc theo con đường cũng như ánh đèn từ những cây cầu mà tôi chẳng biết tên. Sự im lặng làm tôi sầu não. Đó không phải là một thứ im lặng đích thực mà là im lặng của riêng tôi. Tôi biết rõ những chiếc xe kia đang nổ máy ồn ào, những người ngồi trong đó, cũng như đằng sau những ô cửa sổ lấp lánh trên các cao ốc cũng đang ồn ào, và cả những dòng sông đang ồn ào, nhưng tôi không nghe thấy gì hết. Thành phố hờ hững treo trên khung cửa sổ của tôi phẳng như một tấm áp phích, lấp lánh và nhấp nháy sáng; nhưng với tất cả những gì tốt đẹp nó mang lại cho tôi, thì nó tựa như không hề tồn tại. Chiếc máy điện thoại trắng như sứ đặt bên cạnh giường kết nối tôi với thế giới, nhưng nó đang nằm đó, im lìm như cái sọ người chết. Tôi cố nghĩ tới những người mà mình đã cho số điện thoại, để rồi có thể lập ra danh sách những người khả dĩ gọi điện tới cho mình. Nhưng tất cả những gì tôi nhớ ra là chỉ có mẹ của Buddy Williard được thông báo cho số điện thoại này, để bà có thể chuyển nó tới một phiên dịch viên cabin quen biết tại trụ sở Liên Hiệp Quốc. Tôi khẽ bật ra một tiếng cười khan. Tôi có thể tưởng tượng ra phiên dịch viên cabin mà bà Williard muốn giới thiệu với tôi là loại người thế nào khi bà ta cứ luôn muốn tôi cưới Buddy, hiện đang điều trị bệnh lao ở một chốn nào đó trong tiểu bang New York. Thậm chí mẹ của Buddy còn thu xếp để tôi nhận công việc điều dưỡng tại dưỡng đường mùa hè năm đó để Buddy khỏi cô đơn. Bà ta và Buddy không thể hiểu được tại sao thay vào đó tôi lại chọn thành phố New York này. Tấm gương đặt phía trên bàn làm việc dường như cho hình ảnh hơi méo vì lớp bạc tráng quá dày. Khuôn mặt trong đó trông tựa như hình ảnh hiện ra trên gương cầu thủy ngân của nha sĩ. Tôi định rúc mình vào trong chăn đi ngủ, nhưng chợt nhận ra là người tôi đầy bụi bặm bẩn thỉu, thật giống như bỏ bức thư lem luốc vào một phong bì mới tinh, sạch sẽ. Tôi quyết định đi tắm nước nóng đã. Hẳn là cũng có nhiều việc mà tắm nước nóng không thể xoa dịu được, nhưng tôi lại chẳng biết rõ mấy. Cứ mỗi khi lòng buồn muốn chết, hoặc lo lắng mất ngủ, hoặc đương cơn yêu đương mà xa cách người thương cả tuần, đến mức tinh thần suy sụp, tôi lại tự nhủ: “Tắm nước nóng cái đã.” Tôi trầm ngâm suy nghĩ trong bồn tắm. Nước phải thật là nóng, nóng đến mức bạn không dám nhúng chân vào. Rồi bạn từ từ thả mình xuống, từng ly từng tí một, cho tới khi nước ngập tới cổ. Tôi luôn ghi nhớ hình ảnh những cái trần nhà mỗi lần xoải người trong bồn tắm. Tôi nhớ chất liệu của chúng, những vết nứt, những vết màu, những vết ướt và cả những thiết bị chiếu sáng trên đó. Tôi cũng ghi nhớ những cái bồn tắm: loại bồn kiểu cổ có chân, loại tân thời có hình dáng quan tài, và cả những cái thời thượng tựa như chiếc hồ bằng đá cẩm thạch màu hồng. Tôi cũng ghi nhớ hình dáng và kích thước của những vòi nước, các loại đĩa đựng xà bông khác nhau. Không lúc nào tôi thấy thoải mái bằng khi được ngâm mình trong nước nóng. Tôi nằm trong chiếc bồn tắm ở tầng thứ mười bảy của một khách sạn dành riêng cho phụ nữ, vượt lên mọi thứ ồn ào bát nháo của New York, cứ như thế gần một tiếng đồng hồ, và tôi thấy mình thanh khiết trở lại. Tôi chẳng tin vào lễ rửa tội hay việc rửa tội trên sông Jordan, hay những việc đại loại thế, nhưng tôi ngờ rằng việc sùng bái tắm nước nóng của mình cũng tương tự như những người ngoan đạo sùng bái nước thánh vậy. Tôi tự nhủ thầm: “Doreen tan biến đi, Lenny Shepherd tan biến đi, Frankie tan biến đi, New York tan biến đi, tất cả đều tan biến đi và không có gì đáng kể nữa. Tôi không hề biết họ, chưa bao giờ biết họ và tôi rất thanh khiết. Rượu, những chiếc hôn nồng nàn mà tôi đã thấy, cả bụi bặm đã bám vào da thịt tôi trên đường về, đều được tẩy uế trở thành tinh khiết.” Càng ngâm mình trong nước nóng tôi càng cảm thấy thanh khiết hơn, và cuối cùng khi bước ra khỏi bồn tắm, quấn mình trong chiếc khăn trắng mềm mại của khách sạn, tôi cảm thấy mình tinh khiết và thơm tho như một em thơ. Tôi không biết mình đã ngủ được bao lâu cho tới khi nghe tiếng gõ cửa. Thoạt tiên tôi cũng không để ý, vì người gọi cửa cứ liên tục kêu: “Elly, Elly, Elly mở cửa cho tớ.” Tôi chẳng quen Elly nào cả. Sau đó có tiếng gõ mạnh hơn kèm theo một giọng nói dõng dạc: “Greenwood, có người bạn tìm cô.” Tôi biết ngay là Doreen. Tôi vùng dậy và định thần một lát giữa căn phòng tối đen như mực. Tôi điên tiết vì Doreen đã làm tôi thức giấc. Tất cả cơ may để tôi thoát khỏi cái đêm u buồn này là một giấc ngủ ngon, vậy mà cô đã phá hỏng nó bằng cách đánh thức tôi dậy. Tôi nghĩ nếu mình cứ vờ như ngủ say thì tiếng gõ cửa sẽ chấm dứt, trả lại cho tôi sự yên bình, nhưng tôi cứ đợi mà nó vẫn vậy. “Elly, Elly, Elly,” giọng thứ nhất lẩm bẩm, trong khi giọng kia cứ tiếp tục gào lên: “Cô Greenwood, cô Greenwood, cô Greenwood,” như thể trong tôi có sự phân thân hay đại loại thế. Tôi mở cửa, mắt quáng gà vì ánh sáng ngoài hành lang. Tôi có cảm giác bấy giờ không phải đêm cũng chẳng phải ngày, mà là một khoảng thời gian thứ ba nào đó xen vào và không bao giờ kết thúc. Doreen đang khuỵu xuống bên khung cửa. Khi tôi bước ra, cô bổ nhào vào lòng tôi. Khó mà nhìn được khuôn mặt cô vì cô đang gục đầu xuống sát ngực, mái tóc hoe hoe rũ rượi để lộ ra chân tóc đen đen, tả tơi như một mớ tua rua. Tôi cũng nhận ra ngay người đàn bà béo lùn có ria mép, mặc bộ đồng phục đen trực đêm, ban ngày bà ta là quần áo trong một gian buồng nhỏ và đông đúc cùng tầng của chúng tôi. Tôi không hiểu tại sao bà ta nhận biết Doreen cũng như vì sao bà ta lại giúp cô kêu tôi dậy thay vì lặng lẽ đưa cô về phòng riêng. Thấy Doreen nằm trong vòng tay tôi, im lặng trừ một vài tiếng nấc ướt rượt, người đàn bà lui về hành lang, trở lại gian buồng nhỏ với chiếc máy may Singer cũ kỹ và chiếc cầu là màu trắng. Tôi muốn chạy theo bà để thanh minh rằng mình chẳng quan hệ gì với Doreen, bởi bà ta có cái vẻ nghiêm khắc, chăm chỉ và đạo đức như một mẫu người di dân châu Âu cổ điển, khiến tôi nhớ tới bà ngoại người Áo của mình. “Cho tớ nằm xuống, cho tớ nằm xuống,” Doreen thầm thì. “Cho tớ nằm xuống, cho tớ nằm xuống.” Tôi biết nếu đỡ Doreen qua ngưỡng cửa vào phòng tôi, rồi đặt lên giường mình thì không bao giờ tôi dứt khỏi cô được. Người Doreen ấm áp và mềm mại như một đống gối, cô dồn hết trọng lượng tỳ vào tay tôi, cặp chân dài cùng giày cao gót bị kéo lê một cách thảm hại. Cô quá nặng đến mức tôi không thể dìu đi suốt dọc hành lang dài. Tôi quyết định việc duy nhất có thể làm được là đặt cô nàng xuống tấm thảm dưới sàn, đóng sập rồi khóa cửa lại, và trở về giường ngủ. Khi Doreen thức dậy, cô sẽ chẳng nhớ nổi chuyện gì đã xảy ra và sẽ nghĩ rằng mình đã say gục trước cửa phòng tôi trong lúc tôi đang ngủ. Cô sẽ tự đứng dậy và tất nhiên trở về phòng của mình. Tôi nhẹ nhàng đặt Doreen xuống tấm thảm màu xanh trải ở hành lang, cô khẽ rên lên một tiếng rồi lại đổ nhào khỏi tay tôi. Miệng cô ói ra một thứ chất lỏng nâu nâu, đọng thành vũng dưới chân tôi. Đột nhiên Doreen trở nên nặng hơn. Đầu cô rũ xuống cái bãi nôn ấy, mớ tóc hoe hoe nhúng hẳn vào nhìn tựa đám rễ cây trong một bãi sình, tôi nhận ra cô đã ngủ say. Tôi đành bỏ đi vì thấy mắt mình cũng díu lại. Tôi có một quyết định về Doreen đêm hôm đó. Tôi quyết định sẽ quan sát cô, xem cô nàng nói những gì, chứ sâu thẳm trong lòng tôi chẳng muốn dây dưa gì với Doreen nữa. Tâm trí tôi đã hướng về Betsy và những bạn bè trong trắng của cô. Betsy và tôi giống nhau tự bản chất. Tôi lặng lẽ trở về phòng và đóng cửa lại. Suy đi nghĩ lại, tôi không khóa cửa. Tôi không cho phép mình làm điều đó. Tôi uể oải thức dậy trong cái nóng oi bức vào buổi sáng hôm sau, tôi thay đồ, rửa mặt bằng nước lạnh, tô nhẹ son lên môi và từ từ mở cửa. Tôi đinh ninh sẽ vẫn thấy Doreen nằm trong bãi nôn nhầy nhụa, một bằng cớ cụ thể về bản chất xấu xa của tôi. Nhưng chẳng có ai ngoài hành lang cả. Tấm thảm trải từ đầu này tới đầu kia vẫn sạch sẽ và vẹn nguyên một màu xanh, trừ một vết ố nhàn nhạt, loang lổ ngay trước cửa phòng tôi, hệt như có ai đó đã tình cờ làm đổ một ly nước, nhưng đã lau khô nó đi. Ba La liệt trên bàn tiệc được tạp chí Ladies’ Day tổ chức là những trái bơ bổ đôi nhồi thịt cua và nước sốt mayonnaise, những chiếc đĩa đựng thịt bò nướng tái và thịt gà nguội, thi thoảng, những đĩa thủy tinh đầy trứng cá đen caviar lại được mang lên. Sáng hôm đó, tôi không có thì giờ để ăn điểm tâm tại khách sạn, chỉ uống vội một tách cà phê quá lửa, đắng đến nỗi mũi tôi chun lại, nên bụng đói cồn cào. Trước khi đặt chân đến New York, tôi chưa từng được đi ăn tại nhà hàng nào ra hồn cả. Dĩ nhiên không kể tới tiệm Howard Johnson, nơi tôi thường đến ăn khoai tây chiên, burger phô mai và hoa quả dầm kem vani với bạn bè kiểu như Buddy Willard. Tôi không biết vì lẽ gì, nhưng tôi mê chuyện ăn uống hơn bất cứ việc gì trên đời. Bất kể ăn uống bao nhiêu tôi cũng không tăng cân. Như một ngoại lệ, suốt mười năm trời tôi vẫn giữ nguyên cân nặng. Tôi mê những món ngập bơ, phô mai và kem chua. Ở New York, chúng tôi có nhiều lần được tham dự các bữa “ăn chùa” với bạn bè trong tạp chí hay cùng những vị khách danh giá viếng thăm, tôi dần dần có thói quen nhìn lướt xuống những tờ thực đơn viết tay đồ sộ, nơi mà một đĩa đậu tí xíu cũng lên tới năm mươi hoặc sáu mươi xu, cho tới khi chọn những món cao quý nhất, đắt tiền nhất để gọi một lượt. Chúng tôi luôn luôn được thanh toán các khoản chi phí này, nên tôi chẳng có gì phải lo lắng. Tôi ăn nhanh đến nỗi không đợi ai cả, dù có người chỉ gọi mỗi món salad bếp trưởng và nước nho ép để giảm béo. Hầu hết những người tôi gặp ở New York đều đang cố làm mình gầy bớt đi. “Tôi muốn gửi lời chào mừng tới các cô gái xinh đẹp nhất, thông minh nhất mà ban biên tập chúng tôi được hân hạnh đón tiếp,” vị chủ trì bữa tiệc vừa mập vừa hói ồ ề cất giọng vào chiếc micro cài ve áo. “Bữa tiệc này chỉ là một bằng chứng nhỏ nhỏ của lòng hiếu khách mà ban Nấu và Nếm của tạp chí Ladies’ Day dành cho chuyến viếng thăm của quý vị.” Một tràng vỗ tay thanh tao đầy vẻ nữ tính vang lên, rồi chúng tôi ngồi cả vào chiếc bàn rất lớn có trải khăn lanh. Mười một đứa con gái chúng tôi làm ở tạp chí, cùng với hầu hết những người phụ trách biên tập, và toàn thể nhóm Nấu và Nếm trong những chiếc áo blu trắng toát, tóc tai buộc lại gọn gàng và đều trang điểm một cách tuyệt mỹ bằng màu trái đào. Chỉ có mười một người chúng tôi vì Doreen vắng mặt. Vì lý do nào đó, họ đã xếp chỗ cô nàng ngồi cạnh tôi, chiếc ghế vẫn đang để trống. Tôi giữ tấm card ghi chỗ ngồi cho cô - một chiếc gương nhỏ có viết chữ “Doreen” một cách hoa mỹ ở trên đầu và những bông hoa cúc viền quanh một vòng tròn bạc nơi có khuôn mặt của cô. Doreen đang suốt ngày chơi bời cùng Lenny Shepherd. Cô dành hết thời giờ rảnh rỗi của mình với Lenny Shepherd. Một giờ trước khi bữa tiệc bắt đầu tại tạp chí Ladies’ Day - tờ tạp chí lớn dành cho phái đẹp với một trang đôi in ảnh màu rực rỡ về các bữa ăn, chủ đề và địa điểm thay đổi theo từng tháng - chúng tôi được dẫn đi tham quan những căn bếp sang trọng vô ngần, và được dạy cho thấy việc chụp ảnh một cái bánh táo dưới ánh sáng chói lòa khó khăn ra sao, vì kem cứ liên tục tan ra, phải được chống bằng những cây tăm ở đằng sau, và phải thay cái mới mỗi khi nó bắt đầu chảy nhoe nhoét. Đồ ăn la liệt bày trong những căn bếp làm tôi choáng váng. Không phải vì ở nhà chúng tôi không được ăn tử tế, mà bởi bà ngoại tôi luôn luôn nấu nướng những món xương xẩu bạc nhạc. Câu cửa miệng của bà mỗi lần chúng tôi đưa miếng thịt đầu tiên lên là: “Bà mong các cháu sẽ cảm thấy ngon vì nó gần tám mươi xu một cân đấy,” điều đó luôn làm cho tôi cảm thấy như mình đang nhai những đồng xu thay vì xơi những món ăn ngon ngày Chủ nhật. Trong khi chúng tôi đứng đằng sau ghế của mình lắng nghe bài diễn văn, tôi lén cúi đầu và kín đáo tăm tia vị trí đặt những bát caviar. Một bát được đặt rất chiến thuật giữa tôi và chiếc ghế trống của Doreen. Tôi nhận thấy cô nàng ngồi đối diện với tôi không thể với tới nó do có cả một núi bánh ngọt hạnh nhân ngăn ở giữa, còn Betsy ngồi ở bên phải tôi chắc cũng ngoan ngoãn không vòi tôi chia phần cho, nếu tôi cứ để nó xa khỏi tầm với, tận cùi chỏ của tôi, gần đĩa bánh mì bơ. Vả lại, còn một bát caviar khác được đặt ngay bên phải của cô gái ngồi cạnh Betsy, cô nàng có thể ăn phía bên đó. Ông ngoại tôi và tôi có một câu truyện tiếu lâm. Ông làm bồi bàn trưởng tại một câu lạc bộ gần thành phố tôi ở, mỗi Chủ nhật bà ngoại tôi lái xe đưa ông về nhà vì ông được nghỉ ngày thứ Hai. Anh trai tôi và tôi luân phiên đi cùng bà, và ông tôi thường phục vụ bữa ăn tối Chủ nhật cho bà ngoại và một trong hai anh em tôi, như thể chúng tôi là khách thường xuyên của câu lạc bộ. Ông thích giới thiệu cho tôi những món cao lương mỹ vị, rồi khi lên chín tuổi tôi đặc biệt khoái khẩu món súp khoai tây nghiền, trứng cá caviar và cá cơm tẩm bột. Câu truyện tiếu lâm là sau này trong đám cưới của tôi, ông tôi thấy rằng tôi đã có đủ số caviar mà tôi có thể ăn. Gọi là tiếu lâm bởi vì tôi chưa từng có ý định lấy chồng và ngay cả khi tôi có ý định đó, ông tôi cũng không thể có đủ caviar trừ phi cướp sạch chúng trong bếp của câu lạc bộ và mang ra ngoài trong một chiếc va li. Dưới những tiếng leng keng của ly nước, đồ bạc và đồ sứ xương, tôi lấy đầy một đĩa thịt gà rồi phủ lên đó một lớp caviar dày như thể người ta trét bơ lạc lên một miếng bánh mì. Sau đó tôi nhón tay bốc từng miếng thịt gà, cuộn chúng lại để trứng cá không rơi ra, rồi đánh chén. Sau một hồi băn khoăn không biết nên dùng loại thìa nào cho món này, tôi phát hiện ra rằng nếu bạn làm một điều sai sót ở bàn tiệc, nhưng với vẻ ngạo mạn như thể bạn rất tự tin là đã làm việc ấy một cách đúng đắn, bạn sẽ lọt lưới ngon lành và không ai nghĩ bạn là người hạ đẳng hoặc kém học thức. Họ sẽ nghĩ rằng bạn là một mẫu người độc đáo và rất hóm hỉnh. Tôi học được mẹo này chính vào hôm Jay Cee dẫn tôi đi ăn trưa với một thi sĩ nổi tiếng. Ông ta bận một cái áo khoác bằng vải tuýt nâu nhàu nhĩ và đầy vết bẩn, quần màu xám và một cái áo len hở cổ hai màu xanh đỏ, vào một nhà hàng cực kỳ trang trọng với nhiều vòi phun nước, những ngọn đèn chùm, nơi tất cả mọi thực khách đều mặc comple tối màu cùng sơ mi trắng tinh. Vị thi sĩ đó ăn salad bằng tay, hết lá nọ tới lá kia, trong khi đàm luận với tôi về sự đối nghịch giữa thiên nhiên và nghệ thuật. Tôi chẳng thể rời mắt khỏi những ngón tay chuối mắn trắng nhợt qua lại tới lui giữa đĩa salad ẳ và miệng của thi sĩ kèm từng lá rau xà lách một. Chẳng có ai cười cợt hoặc thì thầm bình phẩm cả. Nhà thơ đã biến việc ăn salad bằng tay là cách tự nhiên và hợp lý duy nhất. Không có ai trong ban biên tập hoặc thành viên của tờ Ladies’ Day ngồi gần tôi, còn Betsy thì dễ thương và thân thiện, thậm chí cô còn tỏ ra không hứng thú gì món caviar, vì thế tôi càng tự tin hơn. Khi tôi chén hết đĩa gà kèm caviar thứ nhất, tôi làm một đĩa nữa. Tiếp đó quay sang tấn công món salad và quả bơ nhồi thịt cua. Bơ là loại hoa quả khoái khẩu của tôi. Chủ nhật nào ông tôi cũng mang về một trái lén giấu dưới đáy túi đồ, nằm dưới sáu chiếc sơ mi bẩn thỉu và tờ Họa báo Chủ nhật. Ông dạy tôi cái cách ăn, dùng xoong chưng nho và nước xốt kiểu Pháp rồi rưới vào ly đựng bơ. Tôi nhớ món nước xốt đượm mùi cố hương ấy. Món thịt cua thành ra nhạt nhẽo vô vị. “Show diễn áo lông thế nào?” Tôi hỏi Betsy khi không còn lo lắng về việc tranh giành món caviar nữa. Tôi lấy thìa súp gom nốt những vụn trứng mặn màu đen cuối cùng trên đĩa rồi liếm sạch. “Tuyệt vời.” Betsy mỉm cười. “Họ đã chỉ cho chúng mình thấy cách làm một cái khăn quàng cổ đa năng từ đuôi chồn cùng với dây chuyền vàng, loại mà bạn có thể kiếm được hàng mĩ ký ở tiệm Woolworth’s với giá một đô la chín mươi tám xu. Hilda đã chạy đến kho bán sỉ lông thú ngay sau đó và mua một bó đuôi chồn đại hạ giá, rồi ghé qua tiệm Woolworth’s, sau đó khâu toàn bộ lại với nhau ngay trên xe buýt.” Tôi nhìn về phía Hilda, cô nàng đang ngồi ở phía bên kia của Betsy. Quả thực, cô đang mang một chiếc khăn quàng cổ trông có vẻ đắt tiền làm bằng lông đuôi thú, một đầu còn treo toòng teng sợi dây chuyền mạ vàng. Tôi không thân thuộc lắm với Hilda. Cô nàng cao khoảng một mét tám, đôi mắt xanh to hơi xếch, đôi môi dày, đỏ mọng đúng chuẩn người Slav. Cô làm mũ và đang tập sự tại ban Biên tập Thời Trang, nên không gần gũi với nhóm viết lách như Doreen, Betsy và tôi, chúng tôi chuyên viết những bài báo, đôi khi cũng đề cập tới đề tài sức khỏe và sắc đẹp. Tôi không hiểu Hilda hay đọc không, nhưng cô làm được những cái mũ khiến người ta phải sửng sốt. Hilda học tại một trường chuyên dạy làm mũ ở New York, mỗi ngày cô lại đội một chiếc mũ mới tới sở, mũ do chính tay cô làm từ những cọng rơm, lông thú, dải ruy băng hoặc vải mạng, tất cả đều rất tinh tế. “Thật là kỳ diệu.” Tôi nói. “Kỳ diệu!” Tôi lại nhớ tới Doreen, cô nàng hẳn sẽ thì thầm một vài câu mỉa mai nhạo báng món lông lá tuyệt diệu mà Hilda đang mang để chọc cười tôi. Lòng tôi chợt nặng trĩu. Sáng hôm trước tôi mới vừa bị lột mặt nạ bởi chính tay Jay Cee, lúc này tôi thấy mọi nghi ngờ khó chịu về chính bản thân mình đang dần trở thành sự thực, và tôi không thể giấu giếm sự thật lâu hơn nữa. Sau mười chín năm trời chạy theo điểm số, các giải thưởng và những khoản trợ cấp nọ kia, tôi đang cố ngừng lại, chậm lại và rũ bỏ mọi cuộc đua. “Sao cậu không đi xem buổi trình diễn áo lông với bọn tớ nhỉ?” Betsy hỏi. Tôi có cảm tưởng như cô đang lặp lại câu hỏi của cô một phút trước đó, nhưng tôi không để ý. “Cậu đi chơi với Doreen phải không?” “Không!” Tôi đáp. “Tớ cũng muốn đi xem buổi trình diễn đó, nhưng Jay Cee gọi điện bảo tớ tới văn phòng.” Tôi bịa ra cái chuyện mình muốn đi xem buổi trình diễn, nhưng cố thuyết phục mình rằng đó là sự thực, vì thế những điều Jay Cee đã làm có thể thực sự khiến tôi bị tổn thương. Tôi bảo Betsy rằng sáng hôm diễn ra buổi trình diễn áo lông, tôi phải nằm lì trên giường. Nhưng tôi không kể cho cô nghe là trước đó Doreen đã vào phòng tôi và nói: “Cậu đi dự buổi trình diễn đó làm quái gì, Lenny và tớ sẽ tới đảo Coney, sao cậu không đi với bọn tớ luôn? Lenny sẽ kiếm cho cậu một anh chàng điển trai, hôm ấy rồi cũng chẳng ra cái quỷ gì với tiệc tùng buổi trưa rồi đến chiều là buổi công chiếu phim, sẽ chẳng ai nhớ tới bọn mình đâu.” Điều ấy hấp dẫn tôi trong thoáng chốc. Buổi trình diễn hẳn là sẽ rất ngốc nghếch. Tôi chưa bao giờ quan tâm tới áo lông thú cả. Cuối cùng tôi quyết định sẽ ở lỳ trên giường tới chán thì thôi, sau đó ra công viên trung tâm nằm cả ngày trên bãi cỏ nào dài nhất mà tôi có thể tìm thấy tại chốn trụi lủi, toàn ao tù nuôi vịt trời thế này. Tôi bảo Doreen rằng mình sẽ không đi xem buổi trình diễn, không tới dự tiệc và không xem công chiếu phim, nhưng tôi cũng chẳng đến đảo Coney nốt, tôi sẽ chỉ ở trên giường thôi. Doreen đi rồi, tôi liền tự hỏi tại sao mình lại không thể thỏa chí theo đuổi những gì mình nên làm. Điều đó khiến tôi buồn bã và mệt mỏi. Sau đó tôi lại tự nhủ tại sao mình lại không thể thỏa chí theo đuổi những gì mình không nên làm, giống như Doreen ấy, và điều này lại càng làm cho tôi buồn bã và mệt mỏi hơn. Tôi không biết lúc ấy là mấy giờ, nhưng tôi nghe tiếng bọn con gái í ới gọi nhau ngoài hành lang chuẩn bị đi xem buổi trình diễn áo lông, và sau đó hành lang trở lại yên tĩnh. Rồi khi tôi đang nằm ngửa trên giường mắt đăm đăm nhìn lên trần nhà trống trải, trắng xóa, sự yên tĩnh mỗi một dâng cao đến mức tôi cảm thấy màng nhĩ có thể nổ tung ra, thì đột nhiên chuông điện thoại reo. Tôi nhìn chằm chằm vào chiếc máy điện thoại đến cả phút. Ống nghe vẫn hơi rung rinh trên cái đế màu xương, nên tôi có thể khẳng định rằng chuông vừa đổ. Tôi nghĩ có thể mình đã cho ai đó số điện thoại ở một buổi khiêu vũ hay tiệc tùng gì đó rồi quên bẵng đi. Tôi nhấc ống nghe lên và nói bằng một giọng khàn khàn nhưng dễ nghe. “Alô.” “Jay Cee đây,” bà ta bắn liền một tràng nhanh như máy. “Tôi băn khoăn không biết cô có định đến văn phòng hôm nay không?” Tôi co mình vào trong chăn. Tôi không hiểu tại sao Jay Cee lại nghĩ rằng tôi sẽ tới văn phòng. Chúng tôi có thời gian biểu in rõ ràng để có thể theo dõi hoạt động của tất cả mọi người, và chúng tôi dành phần lớn các buổi sáng, buổi chiều để tham gia các sự kiện trong thành phố. Tất nhiên, một số sự kiện đi hay không tùy bạn. Tôi im lặng một lát rồi nhẹ nhàng nói: “Tôi cũng đang định đi xem buổi trình diễn áo lông thú đây ạ.” Dĩ nhiên là tôi chưa hề có ý nghĩ như thế, nhưng tôi chẳng nghĩ ra cách nào khác để đáp. “Tớ bảo với bà ấy là tớ định đi xem buổi trình diễn,” tôi nói với Betsy. “Nhưng bà yêu cầu tớ đến văn phòng gặp bà ta một chút, và có đôi việc cần làm.” “À ừm,” Betsy thốt lên đầy cảm thông. Cô nàng hẳn đã trông thấy những giọt nước mắt nhỏ xuống đĩa đồ tráng miệng có bánh trứng đường và kem brandy của tôi, bởi vì cô đẩy đĩa tráng miệng chưa hề đụng đến của mình sang cho tôi, còn tôi bắt đầu lơ đãng tấn công chúng khi đã chén hết phần của mình. Tôi có chút lúng túng và những giọt nước mắt, nhưng lần này tôi khóc thực sự. Jay Cee đã nói với tôi những điều tồi tệ. Khi tôi bước vào văn phòng lúc khoảng 10 giờ, bà Jay Cee đứng dậy, đi vòng qua bàn để đóng cửa lại. Tôi ngồi trong chiếc ghế xoay trước bàn máy chữ đối diện bà. Bà ta cũng ngồi trong một chiếc ghế xoay sau bàn làm việc phía đối diện tôi, cửa sổ đằng sau lưng bà đầy ắp những chậu cây cảnh, sum suê như một mảnh vườn nhiệt đới. “Công việc này không hấp dẫn cô phải không, Esther?” “Ồ, có chứ, có chứ ạ!” Tôi nói. “Tôi thấy nó rất hấp dẫn.” Tôi có cảm giác như mình đang hét lên để tăng sức thuyết phục, nhưng tôi kiềm chế được. Suốt đời tôi luôn tự nhủ rằng việc học, đọc, viết và làm như điên chính là sở thích của tôi, và điều đó xem ra là sự thực. Tôi đã làm mọi việc khá ổn để luôn đạt điểm A, rồi khi tôi đăng ký vào học trường Cao đẳng, chẳng có ai đọ nổi với tôi nữa. Tôi là ký giả của tờ báo địa phương tại trường học, là biên tập viên của một tạp chí văn học kiêm thêm chân thư ký của Hội đồng kỷ luật chuyên giải quyết những vi phạm trong trường và ngoài xã hội - một loại tổ chức khá phổ biến, tôi lại còn được một nữ thi sĩ danh tiếng đồng thời là giáo sư đại học đỡ đầu và giới thiệu tới các trường đại học lớn nhất ở bờ Đông, với lời hứa hẹn về một học bổng toàn phần. Giờ đây tôi đang học việc với biên tập số dzách của một tạp chí thời trang trí thức, và tôi đã làm được cái quái gì ngoài việc quanh đi quẩn lại như một con ngựa thồ ngu xuẩn? “Tôi rất thích mọi thứ ở đây.” Những lời lẽ tuôn xuống mặt bàn làm việc của Jay Cee thớ lợ, vô giá trị như mớ tiền âm phủ. “Vậy thì tốt,” giọng Jay Cee hơi châm chọc. “Cô có thể học được rất nhiều điều ở tạp chí trong một tháng này, cô biết đấy, chỉ cần cô xắn tay áo lên thôi. Cô gái ở đây trước cô không ngại ngần gì bất cứ buổi trình diễn thời trang nào. Cô ấy đã đi thẳng từ văn phòng này tới làm cho tờ Time đấy.” “Chà,” tôi vẫn tiếp tục bằng một giọng ủ ê. “Nhanh như vậy sao.” “Tất nhiên là cô còn một năm nữa ở trường Đại học,” Jay Cee tiếp tục nói, giọng đã dịu đi một chút. “Cô có dự tính gì sau khi tốt nghiệp?” Tôi luôn bị ám ảnh trong đầu rằng phải cố kiếm được một học bổng lớn hoặc một khoản trợ cấp sung túc để có thể sang du học đâu đó bên châu Âu, sau đó tôi nghĩ mình sẽ trở thành một giáo sư và ra một vài tập thơ, hoặc ra một vài tập thơ rồi thành một biên tập viên gì đấy. Thường thì những kế hoạch đó luôn sẵn sàng ở ngay đầu lưỡi tôi. “Tôi thực chưa biết nữa.” Bản năng của tôi chợt lên tiếng. Tôi cảm thấy sốc khi nghe bản năng mình nói thế, bởi ngay lúc thốt ra điều đó, tôi hiểu là đấy là sự thực. Điều đó có vẻ đúng, tôi nhận ra liền, cũng giống như bạn nhận ra một người vô danh nào đấy vẫn thường quanh quẩn hàng năm trời trước cửa nhà bạn, rồi đột ngột đi vào, tự giới thiệu như là bố của bạn và ngoại hình giống y hệt bạn, đến mức bạn hiểu rằng ông ta thực sự là bố của mình, còn cái người cả đời bạn vẫn gọi bằng bố lại chỉ là một người giả mạo. “Tôi thực chưa biết nữa.” “Nếu thế thì cô sẽ chẳng bao giờ tiến lên được,” Jay Cee ngưng lại. “Cô biết ngoại ngữ chứ?” “Ồ, tôi có thể đọc được một chút tiếng Pháp, tôi nghĩ thế, và tôi luôn mong muốn được học tiếng Đức.” Tôi vẫn nói với mọi người là mình muốn học tiếng Đức suốt năm năm nay rồi. Mẹ tôi nói tiếng Đức suốt thời niên thiếu của bà ở Mỹ nên bị bọn trẻ ở trường ném đá trong suốt chiến tranh thế giới lần thứ nhất. Người cha chỉ biết nói tiếng Đức của tôi đã chết từ khi tôi mới lên chín, ông đến từ một xóm làng tăm tối nào đấy bên nước Phổ. Anh trai của tôi tham gia chương trình Thử nghiệm lối sống quốc tế, bấy giờ đang ở Berlin và nói tiếng Đức như một người bản địa. Điều tôi không nói ra là cứ mỗi lần tôi cầm một cuốn tự điển tiếng Đức hay một cuốn sách tiếng Đức lên, thì những dòng chữ chi chít màu đen và nhằng nhịt làm cho trí óc tôi khép chặt như miệng ngao. “Tôi luôn nghĩ là mình thích làm ở ngành xuất bản,” tôi cố gắng quay lại chủ đề nhằm có thể khôi phục khả năng mồm mép con buôn của mình. “Tôi nghĩ mình sẽ xin vào làm việc tại một nhà xuất bản.” “Cô cần phải biết tiếng Pháp và tiếng Đức,” Jay Cee tàn nhẫn nói. “Và có lẽ thêm một vài ngoại ngữ khác nữa, tiếng Tây Ban Nha và tiếng Ý, tốt hơn nữa thì tiếng Nga. Cứ vào tháng Sáu, hàng trăm cô gái tràn về New York muốn được làm biên tập viên. Cô phải tỏ ra có gì đó trội hơn đám người loàng xoàng này. Cô nên học thêm vài ngoại ngữ.” Tôi không dám tiết lộ cho bà Jay Cee biết rằng tôi chẳng còn một khoảng trống nào trong thời gian biểu của năm cuối để dành cho việc học ngoại ngữ. Tôi đang theo một chương trình dành riêng cho sinh viên ưu tú, dạy người ta suy nghĩ một cách độc lập, và ngoại trừ một khóa về Tolstoy và Dostoevsky cùng với một buổi hội thảo về sáng tác thơ ca nâng cao, còn lại tôi dành hết thời giờ để viết về chủ nghĩa mơ hồ trong các tác phẩm của James Joyce. Tôi chưa chọn được đề tài cho mình vì chưa đọc xong cuốn Finnegans Wake, nhưng giáo sư rất thích luận đề này và hứa sẽ cung cấp cho tôi các tài liệu về ý tưởng những đứa trẻ sinh đôi. “Tôi sẽ cố thu xếp ạ,” tôi bảo Jay Cee. “Có lẽ tôi sẽ theo một lớp cấp tốc dạy tiếng Đức căn bản mới mở.” Lúc đó tôi nghĩ mình có thể thực hiện được điều này. Tôi có cách để thuyết phục cô trưởng khoa cho phép tôi làm những việc ngoại lệ. Bà luôn coi tôi như là một loại thử nghiệm thú vị. Tại trường, tôi có hai môn học bắt buộc là Vật lý và Hóa học. Tôi đã theo học một khóa thực vật học và đạt kết quả rất tốt. Suốt năm học, tôi chưa từng trả lời sai một câu hỏi kiểm tra nào, và có lúc tôi đã nảy ra ý định sẽ trở thành một nhà thực vật học, nghiên cứu những loài cỏ dại ở châu Phi và các khu rừng mưa Nam Mỹ. Bởi lẽ bạn dễ nhận được những khoản trợ cấp lớn khi nghiên cứu những vấn đề bất thường ở những vùng đất khắc nghiệt hơn là trợ cấp khi nghiên cứu về nghệ thuật ở Ý hoặc học tiếng Anh tại Anh. Không có nhiều cạnh tranh trong lĩnh vực đó. Thực vật học cũng ổn, bởi tôi thích cắt lá, đặt chúng dưới kính hiển vi, vẽ lại sơ đồ của bánh mỳ mốc, hay những chiếc lá dương xỉ trong chu kỳ sinh trưởng có hình trái tim kỳ quặc, điều đó xem ra hết sức chân thực với tôi. Còn môn Vật lý, ngày đầu tiên đi học quả là tiến vào địa ngục. Thầy giáo người thấp bé, da ngăm ngăm, giọng nói the thé, tên là Manzi, mặc bộ comple bó màu xanh đứng trước lớp, tay cầm một quả cầu nhỏ bằng gỗ. Thầy đặt quả cầu trên một đường rãnh dốc rồi thả cho nó lăn xuống. Sau đó thầy bắt đầu thao thao bất tuyệt về việc gọi a là gia tốc, gọi t là thời gian, rồi bất thình lình ông viết nguệch ngoạc đầy một bảng đen những chữ, số và ký hiệu khiến tôi nhìn mà chết ngất. Tôi mang cuốn sách Vật lý về ký túc xá. Đó là một cuốn sách dầy cộp bằng giấy xốp in roneo, bốn trăm trang không một hình ảnh hay tranh vẽ nào cả, chỉ toàn là sơ đồ và công thức, sách bìa cứng màu đỏ như gạch. Cuốn sách này do thầy Manzi viết để giảng dạy môn Vật lý cho các nữ sinh, nếu có hiệu quả tốt thì ông sẽ cố gắng để xuất bản nó. Thế là tôi nghiền ngẫm những công thức đó, đến lớp tôi quan sát những quả cầu lăn xuống đường dốc và lắng nghe tiếng chuông reo. Đến cuối học kỳ, đa phần lớn bạn bè đều thi trượt, còn tôi thì đạt điểm A. Tôi nghe thầy Manzi nói với một nhóm nữ sinh đến than phiền môn học quá khó rằng: “Không, nó đâu có quá khó, có người đạt điểm A đấy thôi.” “Ai vậy hả thầy?” Họ hỏi, nhưng thầy chỉ lắc đầu không đáp, và nở một nụ cười ngọt ngào với tôi. Kinh nghiệm này khiến tôi có ý tưởng thoát được môn Hóa vào học kỳ tới. Tôi đã có thể đạt được điểm A môn Vật lý, nhưng đó là cả một quá trình kinh khủng. Môn này khiến tôi phát ốm mỗi khi học nó. Điều khiến tôi không thể chịu đựng được là nó đem tất cả mọi thứ quy về một vài chữ hay số. Thay vì những hình vẽ chiếc lá, sơ đồ hệ hô hấp của chúng được phóng to hay những từ ngữ mê ly như diệp hồng tố và diệp hoàng tố trên bảng, là những công thức gớm ghiếc, tù túng, ngoằn ngoèo như giun mà thầy Manzi viết bằng một thứ phấn đỏ đặc biệt. Tôi biết Hóa học còn đáng sợ hơn, vì tôi đã thấy một bảng tuần hoàn lớn của chín mươi có lẻ nguyên tố treo trong phòng thí nghiệm và tất cả những từ ngữ đẹp đẽ hoàn hảo như vàng, bạc, cobalt và nhôm đều bị rút gọn lại thành những chữ viết tắt xấu xí với các số thập phân đằng sau. Nếu phải căng óc thêm với mớ này, tôi sẽ phát điên. Tôi sẽ tiêu đời mất. Nửa đầu năm học vừa rồi, tôi lết qua nổi là nhờ nỗ lực khủng khiếp. Vì thế tôi đến gặp cô trưởng khoa với một kế hoạch khôn ngoan. Kế hoạch đó là tôi cần thêm thời gian để theo một lớp về Shakespeare, dẫu thế nào thì tôi cũng là học viên khoa Anh ngữ mà. Cô cũng như tôi đều thừa hiểu rằng tôi sẽ lại đạt điểm A môn Hóa, vậy thì cần gì phải tham gia thi cử? Sao không để tôi chỉ đến lớp tham dự và lắng nghe rồi bỏ qua điểm số cùng tín chỉ? Đó là một trường hợp vinh dự giữa những người danh giá với nhau, nội dung thì quan trọng hơn hình thức, còn điểm số cũng là một việc ngớ ngẩn khi bạn đã biết chắc rằng mình sẽ đạt điểm A, phải thế không? Kế hoạch của tôi càng được củng cố bởi thực tế là nhà trường từ khóa sau sẽ bỏ tín chỉ các môn Tự nhiên ở năm học thứ hai, vì thế chúng tôi là lớp cuối cùng phải theo quy chế cũ. Thầy Manzi hoàn toàn đồng ý với kế hoạch của tôi. Tôi nghĩ ông lấy làm hãnh diện vì tôi thích thú những giờ giảng của thầy, không vì một lý do vật chất nào như tín chỉ hay điểm A, mà vì vẻ đẹp của chính môn Hóa học. Tôi nghĩ mình khá là khéo léo khi đề nghị được tham dự các buổi dạy môn Hóa, ngay cả khi đã chuyển sang học Shakespeare. Điều đó không hẳn là cần thiết, nhưng để tỏ ra rằng tôi không dễ dàng từ bỏ môn Hóa học. Tất nhiên, kế hoạch của tôi sẽ chẳng thành công nếu tôi không đạt được một điểm A ở học kỳ đầu. Giả như bà trưởng khoa hiểu được rằng tôi đã sợ hãi và buồn bã đến mức nghiêm túc suy nghĩ đến một biện pháp tuyệt vọng là xin giấy chứng nhận của bác sĩ là thể trạng tôi không hợp với môn Hóa học, những công thức làm cho tôi đại loại như xây xẩm mặt mày, hẳn bà sẽ thèm không lắng nghe tôi lấy một phút, và không đắn đo bắt tôi theo phải học ngay. Kết quả là Hội đồng nhà trường thông qua đơn của tôi, sau này cô trưởng khoa kể lại với tôi rằng nhiều vị giáo sư cảm động vì việc đó. Họ cho rằng đây là một bước thực sự của quá trình trưởng thành trí thức. Tôi phá lên cười khi nghĩ đến phần còn lại của năm học ấy, tôi đến dự giờ học Hóa mỗi tuần năm lần, không bỏ một buổi. Thầy Manzi đứng ở dưới cùng giảng đường lớn, cũ kỹ, ọp ẹp, đang tạo ra những ngọn lửa xanh, đỏ, và những đám khói vàng bằng cách đổ dung dịch từ một ống nghiệm này vào một ống nghiệm khác. Tôi bỏ ngoài tai những lời giảng của thầy, giả vờ như đó chỉ là tiếng vo ve của con muỗi ở xa xăm, ngồi thưởng thức ánh sáng chói lòa và những ngọn lửa đủ màu sắc rồi viết đầy các trang vở những điệu dân ca Ý hay những bài sonnet. Thầy Manzi thi thoảng lại ngước nhìn và thấy tôi đang hí hoáy ghi chép, thầy liền nở một nụ ngọt ngào khen ngợi. Tôi đoán thầy nghĩ rằng tôi đang chép tất cả những công thức đó không phải vì chuyện thi cử như những nữ sinh khác, mà bởi không cưỡng nổi sức hấp dẫn của buổi thuyết trình này. Bốn Tôi không hiểu tại sao việc thoát được môn Hóa học lại lởn vởn trong đầu tôi khi đang ở trong văn phòng của Jay Cee. Suốt thời gian bà nói chuyện, tôi thấy hình ảnh thầy Manzi lờ mờ phía sau đầu của Jay Cee như thể phòi ra từ cái mũ, tay thầy cầm quả cầu gỗ nhỏ và cái ống nghiệm mù mịt khói màu vàng và bốc mùi trứng thối giống như tiết học trước lễ Phục sinh khiến cả lớp và chính bản thân thầy phải phá lên cười. Tôi cảm thấy mình có lỗi với thầy Manzi. Tôi muốn chạy tới chắp tay quỳ gối trước mặt ông và xin thứ tội vì đã dối trá một cách trắng trợn đến thế. Jay Cee đưa cho tôi một tập bản thảo truyện ngắn và nói chuyện với tôi dịu dàng hơn. Tôi dành thời gian còn lại của buổi sáng để đọc và đánh máy những cảm nhận của mình trên một loại giấy màu hồng liên lạc nội bộ, sau đó gửi chúng đến phòng biên tập của Betsy, để cô đọc vào ngày hôm sau. Jay Cee thỉnh thoảng lại chen ngang công việc của tôi, kể một điều gì đó về công việc hoặc một câu chuyện tào lao. Jay Cee sẽ đi ăn trưa với hai văn sĩ nổi tiếng, một nam và một nữ. Ông văn sĩ đã bán sáu truyện ngắn cho New Yorker và sáu truyện khác cho Jay Cee. Điều này làm tôi ngạc nhiên, tôi không hiểu tại sao các tạp chí lại mua từng lô sáu truyện một như vậy, và tôi sửng sốt khi nghĩ tới món nhuận bút mà sáu truyện ngắn mang lại. Jay Cee nói rằng bà ta phải rất cẩn trọng trong bữa trưa này vì nữ văn sĩ cũng viết truyện ngắn, nhưng chưa bao giờ được đăng trên New Yorker còn Jay Cee cũng chỉ mua một truyện của bà ta trong suốt năm năm trời. Jay Cee vừa phải tâng bốc ông nhà văn này nổi tiếng hơn, đồng thời vừa phải cẩn thận để tránh làm tổn thương bà nhà văn kém tiếng nọ. Khi thiên thần nhỏ trên chiếc đồng hồ treo tường kiểu Pháp của Jay Cee vẫy đôi cánh và đưa chiếc kèn mạ vàng lên môi thổi lần lượt mười hai tiếng, Jay Cee bảo tôi hôm nay làm việc thế là đủ, hãy đến dự bữa tiệc chiêu đãi của tạp chí Ladies’ Day và buổi công chiếu phim; cũng như muốn thấy tôi ở văn phòng sáng sớm ngày hôm sau. Sau đó bà ta khoác một chiếc áo vét ra ngoài áo sơ mi màu tử đinh hương, đội chiếc mũ có gắn hoa tử đinh hương giả, thoa chút phấn lên cánh mũi và chỉnh lại cặp kính dày cộm. Bà ta trông thật kinh khủng, nhưng rất thông thái. Trước khi rời văn phòng, với bàn tay đeo găng màu tử đinh hương, bà vỗ vai tôi và bảo: “Cô đừng để cho thành phố đồi bại này làm sa đọa.” Tôi yên lặng ngồi trên chiếc ghế xoay ít phút, suy nghĩ về Jay Cee. Tôi cố tưởng tượng mọi việc sẽ ra sao nếu mình là Ee Gee, một biên tập viên nổi tiếng làm việc trong một văn phòng đầy ắp chậu cây cao su và violet Phi châu mà thư ký phải tưới nước mỗi buổi sáng. Tôi cũng ước mình có một người mẹ như Jay Cee. Và tôi sẽ biết mình phải làm gì. Mẹ ruột tôi không giúp gì nhiều được cho tôi. Bà dạy ghi tốc ký và đánh máy để nuôi chúng tôi kể từ ngày bố tôi mất, bà thầm oán giận bố tôi, hận vì ông qua đời mà không để lại chút tiền bạc nào, bởi vì ông đã không tin vào mấy gã bán bảo hiểm nhân thọ. Bà thường ép tôi học tốc ký mỗi khi đi học về, để có một kỹ năng thực tế song song với bằng đại học. “Các Thánh tông đồ còn đi dựng lều nữa là,” bà nói. “Ai cũng phải kiếm sống cả, chúng ta cũng vậy.” Tôi nhúng ngón tay vào bát nước ấm mà cô hầu bàn đã đặt vào chỗ hai đĩa kem đã sạch trơn. Sau đó cẩn thận chùi sạch từng ngón vào chiếc khăn ăn hãy còn sạch sẽ. Rồi tôi gập chiếc khăn bằng vải lanh đó lại, đặt vào giữa đôi môi rồi mím lại. Khi tôi để chiếc khăn xuống bàn, hình đôi môi màu hồng nhàn nhạt hiện lên rõ chính giữa khăn, trông như một trái tim bé xíu. Tôi nghĩ mình đã trải qua một quãng đường dài. Lần đầu tiên tôi thấy bát nước rửa tay là tại nhà vị ân nhân của tôi. Người phụ nữ nhỏ nhắn mặt đầy tàn nhang thuộc ban xét duyệt học bổng đã nói cho tôi biết rằng theo thông lệ ở trường, nếu bạn nhận được học bổng, bạn phải viết thư cám ơn người đã trao suất học bổng đó cho bạn, nếu người đó còn sống. Tôi nhận được học bổng của Philomena Guinea, một nữ tiểu thuyết gia giàu có từng tới thăm trường tôi vào những năm đầu của thế kỷ 20, tiểu thuyết đầu tay của bà được dựng thành phim câm do Bette Davis đóng, đồng thời được đọc trên hàng loạt sóng phát thanh còn tồn tại cho tới ngày nay. Hóa ra bà ta vẫn còn sống, trong một lâu đài rộng lớn không xa câu lạc bộ nơi ông tôi làm việc. Thế là tôi viết cho bà Philomena Guinea một bức thư dài bằng mực đen trên giấy xám có dập nổi tên trường tôi bằng mực đỏ. Tôi tả về những chiếc lá mùa thu khi tôi đạp xe dạo trên những ngọn đồi và thật tuyệt vời biết bao khi được học nội trú thay vì ở nhà rồi đi tới trường bằng xe buýt. Và cả về vô vàn tri thức đang rộng mở trước mắt tôi, biết đâu một ngày nào đó, tôi cũng viết được những cuốn sách tuyệt vời như bà. Tôi từng đọc một trong những cuốn sách của bà Guinea tại thư viện thành phố - và một lý do nào đó thư viện của trường không lưu trữ chúng - và từ đầu tới cuối cuốn truyện đầy ắp những câu hỏi nghi vấn dài dòng như “Liệu Evelyn có nhận ra rằng Gladys đã quen biết Roger trong quá khứ không? Hector bồn chồn tự hỏi” hoặc “Làm sao để Donald có thể cưới cô khi anh biết rằng bé Elsie đang bị giấu biệt cùng với bà Rollmop tại một nông trại hẻo lánh? Griselda hỏi chiếc gối thảm đạm, đẫm ánh trăng.” Những cuốn sách này đã mang lại cho Philomena Guinea hàng triệu đô la, dù sau này bà có kể cho tôi rằng bà rất kém hồi còn đi học. Bà Guinea viết thư trả lời và mời tôi đến nhà ăn trưa. Đó chính là nơi mà lần đầu tiên tôi trông thấy bát nước rửa tay. Bát nước bồng bềnh một vài cánh hoa anh đào, tôi tưởng đó là món súp loãng Nhật Bản dùng để tráng miệng, và thế là tôi húp sạch trơn, kể cả những cánh hoa bé xíu. Bà Guinea không nói năng gì cả, mãi sau này khi tôi kể cho một đứa bạn vừa nhập trường về bữa ăn đó, tôi mới hiểu ra mình đã làm gì. Khi chúng tôi bước ra khỏi văn phòng tràn ngập ánh sáng của tạp chí Ladies’ Day, đường phố đã xám xịt, mưa bay khói tỏa. Đó không phải là thứ mưa bụi gột rửa đường xá mà là một thứ mưa tưởng chừng chỉ có ở Brazil. Từng giọt mưa lớn như giọt cà phê rơi thẳng từ trời đánh bộp một cái xuống mặt đường trải nhựa nóng bỏng làm bốc lên từng làn hơi nước. Mơ ước thầm kín của tôi, được trải qua buổi chiều một mình ở công viên trung tâm đã tan vỡ đằng sau cánh cửa xoay thủy tinh của tạp chí Ladies’ Day. Tôi thấy mình bị tống ra ngoài xuyên qua làn nước mưa âm ấm vào một cái động âm u và nhộn nhạo của một chiếc taxi cùng với Betsy, Hilda và Emily Ann Offenbach, một cô ả nhỏ nhắn nghiêm nghị, tóc đỏ buộc thành búi, có chồng và ba đứa con ở Teaneck, New Jersey. Bộ phim dở tệ. Vai nữ chính là một cô gái đẹp tóc vàng trông giống June Allyson nhưng chắc chắn không phải, và một cô gái tóc đen sexy giống Elizabeth Taylor nhưng cũng không phải nốt, thêm hai gã vai u thịt bắp có tên là Rick và Gil gì đó. Đó là một bộ phim màu lãng mạn về bóng đá. Tôi ghét phim màu. Có cảm giác những diễn viên trong phim màu đều thấy bị bó buộc, khi phải mặc những bộ trang phục nhợt nhạt trong mỗi cảnh phim, tự biến mình thành những cái giá phơi quần áo, với hàng đống cây cối xanh lét, hoặc lúa mì thì vàng rực hay đại dương xanh thẳm trải dài vô tận về mọi hướng. Phần lớn cảnh phim diễn ra trên khán đài của một sân bóng; hai cô gái ăn mặc diêm dúa với bông hoa cúc màu cam to bằng cây bắp cải cài trên ve áo, đang vẫy tay cổ vũ, hoặc trong phòng khiêu vũ, nơi hai cô ả bò lê bò toài trên sàn với bạn trai của mình, phục trang y như trong phim Cuốn theo chiều gió, nhưng rồi lẻn sang phòng trang điểm để kể cho nhau nghe những chuyện tục tĩu. Cuối cùng cô gái đẹp tóc vàng kết đôi được với anh chàng danh thủ bóng đá, còn cô nàng sexy chẳng cặp được với ai, vì gã Gil chỉ muốn bồ bịch tạm bợ chứ không muốn lấy vợ, giờ gã sắp cuốn gói sang châu Âu với vé một chiều. Xem đến đây tôi bắt đầu cảm thấy kỳ quái. Tôi nhìn chung quanh tất cả mọi hàng ghế nơi những mái đầu nhỏ nhắn đang chăm chú xem phim, ánh sáng màn bạc hắt lên đằng trước họ, phía sau đều một bóng đen như nhau, họ trông giống như một lũ ngáo bại não ngây ngốc không hơn không kém. Tôi cảm thấy buồn nôn một cách khủng khiếp. Không biết là do cuốn phim tệ hại kia khiến tôi lên cơn đau dạ dày hay do đống caviar tôi đã chén. “Tớ về khách sạn đây.” Tôi thì thầm với Betsy trong bóng tối lờ mờ. Betsy đang chăm chú nhìn màn ảnh với sự tập trung cao độ. “Cậu thấy không ổn à?” Cô mấp máy môi hỏi. “Ừ,” tôi nói. “Khó chịu muốn chết vậy.” “Tớ cũng thế. Tớ sẽ về cùng với cậu.” Chúng tôi rời chỗ ngồi và luôn miệng nói xin lỗi suốt dọc cả hàng ghế giữa những tiếng càu nhàu của những người phải dẹp ủng đi mưa và ô để cho chúng tôi qua. Tôi giẫm lên chân của bất cứ ai tôi đi ngang qua để dời sự chú ý của tâm trí tôi ra khỏi cơn buồn nôn đang phồng lên nhanh chóng như cái bong bóng, khiến tôi chẳng thấy được gì ngoài nó cả. Những giọt mưa âm ấm vẫn lắc rắc rơi khi chúng tôi ra tới đường. Betsy hiện ra trước mắt tôi thật ghê rợn. Đôi má không chút huyết sắc, khuôn mặt xanh mét và nhễ nhại mồ hôi. Má nhợt, mặt khô rốc, xanh tái và đầy mồ hôi. Chúng tôi nhảy lên một chiếc taxi màu vàng lúc nào cũng đợi sẵn ở góc đường, bạn sẽ luôn thấy chúng mỗi khi băn khoăn về việc có nên bắt xe hay không. Dọc đường về khách sạn, tôi ói một lần còn Betsy hai lần. Gã tài xế taxi vào cua gấp đến nỗi chúng tôi ở băng ghế sau cứ xô nhào hết bên nọ đến bên kia. Cứ mỗi khi một trong hai đứa muốn ói, chúng tôi lại khẽ khàng cúi người xuống như thể đang cố lượm cái gì đó vừa đánh rơi xuống, còn người kia vừa nói lầm bầm vừa giả vờ ngó ra ngoài cửa sổ. Dẫu vậy, gã tài xế thừa biết chúng tôi đang làm trò gì. “Này,” gã vọt lên khi vừa chuyển đèn đỏ và la lên. “Không được làm thế trong xe, ra ngoài và ói ra đường ấy.” Nhưng chúng tôi chẳng đáp lời, tôi nghĩ gã cũng biết là sắp về đến khách sạn nên không bắt chúng tôi rời xe cho tới khi đỗ lại trước cổng chính. Không dám chờ tính tiền, chúng tôi giúi đại vào tay gã một nắm tiền, che vội mấy tờ khăn giấy Kleenex lên bãi nôn trên sàn xe, rồi chạy băng qua hành lang vào một chiếc thang máy trống. Thật may mắn cho chúng tôi vì đó là giờ vắng khách. Betsy lại buồn nôn trong thang máy, tôi phải nâng đầu cô lên, sau đó đến lượt tôi, cô lại phải nâng đầu tôi. Thông thường sau khi nôn, bạn sẽ thấy khá hơn ngay tức khắc. Chúng tôi ôm hôn nhau từ biệt rồi mỗi người rẽ về một hành lang để về nằm dài trong phòng riêng của mình. Chẳng có gì dễ kết bạn chí cốt hơn là cùng nhau nôn mửa cả. Ngay khi đóng sập cánh cửa sau lưng, cởi đồ rồi vật mình ra giường, tôi cảm thấy tồi tệ hơn bao giờ hết. Tôi thấy mình phải vào toilet. Tôi ráng khoác chiếc áo choàng trắng có thêu hoa thanh cúc và loạng choạng đi tới phòng tắm. Betsy đã có mặt ở đó. Tôi nghe tiếng cô ậm ọe phía sau cửa, vì thế tôi vội vòng qua hành lang khác tới khu nhà tắm kế tiếp. Tôi nghĩ mình chết đến nơi rồi. Tôi ngồi trên bồn cầu, tựa đầu vào lavabo và nghĩ thầm cả bữa ăn lẫn mật xanh mật vàng đều đã đi tong hết. Cơn buồn nôn cứ cuộn trào từng đợt trong tôi. Cứ mỗi lần trào lên rồi dịu xuống, tôi lại cảm thấy mình lả đi như một chiếc lá ướt đầm, toàn thân run rẩy, thế rồi cơn nôn lại trào lên, tôi như đang lọt vào trong căn phòng tra tấn, dưới chân, trên đầu và khắp bốn phía là những viên gạch men trắng lấp lánh muốn ép vụn tôi ra từng mảnh. Tôi không biết mình còn trụ được bao lâu nữa. Tôi cứ để cho vòi nước lạnh trong lavabo chảy ào ào để ai đó đi ngang qua đều nghĩ rằng tôi đang giặt quần áo, rồi khi cảm thấy tương đối ổn hơn, tôi nằm xoải xuống sàn bất động. Dường như không còn là mùa hè nữa, tôi cảm thấy cái rét mùa đông khiến xương cốt tôi run lẩy bẩy và hai hàm răng va vào nhau lập cập, chiếc khăn tắm lớn màu trắng của khách sạn mà tôi cuộn lại để gối đầu tê cóng như một mảng tuyết. Tôi nghĩ người ta thật bất lịch sự khi nện thình thình vào cửa phòng tắm như họ vừa làm lúc này. Họ nên vòng qua một ngả khác, kiếm một phòng tắm khác giống như tôi ban nãy và để cho tôi được yên. Nhưng người đó vẫn tiếp tục đập cửa và nài nỉ tôi cho vào, tôi mơ hồ nhận ra được giọng nói. Nghe có chút giống giọng của Emily Ann Offenbach. “Chờ một phút.” Tôi nói. Lời lẽ của tôi bật ra đặc quánh như mật. Tôi xốc lại tinh thần, từ từ nhổm dậy, xả nước bồn cầu lần thứ mười và cọ cái lavabo sạch tưng không còn dấu nôn mửa gì hết. Sau đó tôi mở cửa và bước ra ngoài hành lang. Tôi nghĩ mình sẽ ngã quay lơ nếu nhìn vào Emily Ann hoặc bất cứ ai khác, vì thế tôi ghim ánh mắt vô hồn của mình vào khung cửa sổ đang lộn tùng phèo ở cuối sảnh, trong khi chân bước tới một ô cửa sổ khác. Vật kế tiếp lọt vào mắt tôi là chiếc giày của ai đó. Một chiếc giày da rạn màu đen đã cũ với những lỗ li ti hình vỏ sò ở đầu ngón chân và đã được đánh xi. Mũi giày quay về phía tôi. Hình như nó được đặt nằm trên mặt phẳng cứng màu xanh đang làm cho xương gò má phải của tôi bị đau. Tôi nằm im một chỗ, chờ ai đó bảo cho biết nên làm gì. Tôi lại thấy lơ mơ ngay bên trái chiếc giày là một đống hoa thanh cúc nằm trên một nền trắng, và điều này làm cho tôi muốn la lên. Đó chính là tay của chiếc áo choàng tắm tôi đang mặc, còn bàn tay trái nhợt nhạt như một con cá tuyết của tôi thì đang nắm lấy nó. “Cô ta ổn rồi.” Thanh âm văng vẳng từ đâu đó xa xăm lạnh lẽo, lý tính phía trên đầu tôi. Thoạt tiên tôi chẳng nhận ra điều gì bất thường cả, nhưng rồi tôi lại nghĩ khác. Đó là giọng đàn ông, mà không một người đàn ông nào được phép vào khách sạn của chúng tôi bất kể ngày hay đêm. “Còn mấy người nữa?” Giọng nói đó tiếp tục. Tôi chăm chú lắng nghe. Sàn phòng xem ra rất mực vững chắc. Thật thoải mái khi biết rằng mình đã ngã rồi và không thể ngã được thêm. “Tôi nghĩ là mười một người.” Một giọng nữ trả lời. Tôi đoán bà ta đang xỏ chân trong chiếc giày đen. “Tôi nghĩ là còn mười một người nữa, nhưng vắng một cô nên chỉ còn lại mười.” “Được rồi, bà mang cô này về giường, tôi sẽ lo cho những người còn lại.” Những tiếng lùng bùng trong tai phải của tôi mỗi lúc một mờ dần. Rồi từ đằng xa, một cánh cửa mở ra, có tiếng người trò chuyện cùng tiếng rên rỉ vọng tới, và cửa đóng sập lại. Hai tay xốc nách tôi, người phụ nữ nói: “Cố lên nào cưng, một tẹo là xong thôi!” và tôi thấy mình được nâng lên, lướt qua từng ô cửa đang từ từ rộng mở, cuối cùng tới một cánh cửa mở toang và bước vào. Chăn trên giường đã được vén lên, người phụ nữ đỡ tôi nằm xuống, đắp chăn cho tới tận cằm, ngồi xuống chiếc ghế bành bên cạnh giường một lát, bà dùng bàn tay hồng hào, mũm mĩm phe phẩy thay quạt. Bà mang cặp kính gọng vàng và đội một chiếc mũ y tá màu trắng. “Bà là…?” Tôi hỏi bằng một giọng yếu ớt. “Tôi là y tá của khách sạn.” “Tôi bị làm sao vậy?” “Ngộ độc,” bà nói ngắn gọn. “Tất cả mấy cô đều bị ngộ độc. Tôi chưa từng thấy chuyện như thế bao giờ. Chỗ này một bãi nôn, chỗ kia một bãi nôn. Không hiểu các quý cô của tôi đã ăn món gì thế?” “Tất cả những người khác cũng nôn mửa sao?” Tôi ôm ấp một tia hy vọng. “Tất tần tật,” bà hào hứng khẳng định. “Bệt xề lệt như chó ốm luôn và la khóc đòi mẹ.” Căn phòng nhẹ nhàng quay mòng mòng xung quanh tôi, như thể bàn ghế, những bức tường tự trở nên không trọng lượng để cảm thông với sự yếu đuối của tôi lúc này. “Bác sĩ vừa tiêm cho cô xong,” y tá nói khi ra đến cửa. “Cô sẽ ngủ ngay thôi.” Rồi cánh cửa thế chỗ bà ta như một tờ giấy trắng, rồi một tờ giấy lớn hơn thế chỗ cho cánh cửa, tôi hướng về phía đó, mỉm cười và chìm vào giấc ngủ. Ai đó đang đứng bên gối tôi, tay cầm một cái chén màu trắng. “Uống đi,” người ấy nói. Tôi lắc đầu. Cái gối lạo xạo như một nùi rơm. “Uống vào cô sẽ thấy khỏe hơn.” Một chiếc chén sứ dày màu trắng được đưa sát xuống mũi tôi. Trong ánh sáng nhàn nhạt không phân biệt nổi là hoàng hôn hay bình minh, tôi chăm chú nhìn thứ chất lỏng trong như hổ phách. Một lớp váng bơ nổi trên bề mặt và mùi thịt gà thoang thoảng nhập mũi tôi. Ánh mắt tôi dời sang chiếc váy đằng sau cái chén. “Betsy,” tôi kêu lên. “Betsy cái khỉ, là tớ đây.” Tôi ngước mắt lên, thấy mái đầu của Doreen đang in bóng trên song cửa sổ, mái tóc vàng óng phía sau trông tựa vầng hào quang vàng ròng. Khuôn mặt Doreen ẩn trong bóng tối nên tôi không nhận ra biểu cảm của cô, nhưng tôi cũng cảm được sự dịu dàng toát ra từ những đầu ngón tay. Đó cũng có thể là Betsy, là mẹ tôi hoặc một nữ y tá nào đó đượm mùi lá dương xỉ. Tôi cúi đầu xuống và uống một hớp nước súp. Tôi cứ ngỡ miệng mình làm bằng cát. Tôi uống thêm một hớp, rồi lại một hớp nữa cho tới khi cạn chén. Tôi cảm thấy như được gột rửa và trở lại tinh khiết, sẵn sàng cho một cuộc đời mới. Doreen đặt cái chén lên bậu cửa sổ và ngồi xuống ghế bành. Tôi ngạc nhiên nhận thấy cô chẳng hề lấy thuốc ra hút, bởi cô là con nghiện thuốc lá. “Suýt chết nhá,” cuối cùng cô nàng nói. “Tớ nghĩ là do món caviar.” “Caviar cái khỉ! Tại món cua đấy! Họ đã đem đi xét nghiệm, kết quả là nó đã bị nhiễm khuẩn chứa đầy chất độc ptomaine.” Tôi đã từng tham quan những căn bếp trắng ngần như mây ở trụ sở tạp chí Ladies’ Day, trải dài đến vô tận. Tôi đã thấy những trái bơ nhồi thịt cua và xốt mayonnaise được chụp hình dưới ánh sáng lộng lẫy. Tôi thấy những chiếc càng cua lốm đốm hồng rất quyến rũ dưới lớp mayonnaise, còn những trái bơ thịt vàng, vỏ xanh thì được dùng làm đĩa để đựng cái món hỗn độn ấy. Chất độc. “Ai đã xét nghiệm?” Tôi tưởng tượng cảnh ông bác sĩ hút dạ dày của ai đó ra rồi đem phân tích những gì tìm thấy trong phòng thí nghiệm của khách sạn. “Mấy mụ ở tạp chí Ladies’ Day ấy mà. Ngay khi tất cả các cậu đổ vật ra như những con ki, một ai đó đã gọi điện cho văn phòng và văn phòng lại gọi tới tạp chí. Họ đã xét nghiệm ngay những gì còn thừa lại sau đại tiệc. Hừ!” “Hừ!” Tôi lặp lại như vẹt. Thật là tuyệt khi Doreen trở lại. “Họ gửi quà tới,” cô nói thêm. “Chúng ở trong thùng các tông lớn ngoài sảnh kia.” “Sao chúng được gửi tới nhanh thế nhỉ?” “Dịch vụ giao hàng hỏa tốc mà, cậu nghĩ sao vậy? Họ không thể chịu được khi cả bọn các cậu đi khắp nơi rêu rao rằng mình bị trúng độc ở tạp chí Ladies’ Day. Thậm chí cậu còn có thể kiện họ trắng tay, rỗng túi luôn nếu cậu có luật sư giỏi đấy.” “Quà gì thế nhỉ?” Tôi bắt đầu cảm thấy rằng nếu đó là một món quà hậu hĩnh, tôi sẽ bỏ qua hết những gì đã xảy ra, bởi vì giờ đây tôi thấy mình rất thanh khiết. “Đã ai mở thùng đâu, mọi người còn nằm bệt xà lệt. Tớ phải mang súp đến cho từng người, vì lẽ chỉ có mỗi tớ là còn đứng được trên đôi chân của mình, nhưng tớ mang tới cho cậu trước tiên đấy.” “Mở xem quà gì đi?” Tôi van vỉ. Sau đó tôi chợt nhớ ra và nói. “Tớ cũng có một món quà tặng cậu đấy.” Doreen bước ra ngoài sảnh. Tôi nghe tiếng cô lạch cạch một hồi rồi có tiếng giấy bị xé. Cuối cùng cô trở lại với một cuốn sách dày cộp có bìa trơn láng và tên vài người được in trên đó. “Ba mươi truyện ngắn hay nhất năm.” Cô đặt cuốn sách lên lòng tôi. “Còn mười một cuốn thế này trong thùng. Tớ đoán họ muốn các cậu có cái gì để đọc khi dưỡng bệnh.” Cô ngừng lại. “Quà của tớ đâu?” Tôi lục túi xách và đưa cho Doreen chiếc gương có viết tên cô và những đóa hoa cúc. Doreen nhìn tôi, tôi nhìn lại rồi cả hai phá lên cười. “Cậu có thể ăn phần súp của tớ nếu muốn,” cô nói. “Họ dọn nhầm mười hai phần súp ra khay. Lenny và tớ đã chén đẫy hotdog trong khi đang trú mưa, tớ không thể nhét thêm gì vào mồm được nữa.” “Mang vào đây,” tôi nói. “Tớ đói ngấu rồi.” Năm Bảy giờ sáng hôm sau, chuông điện thoại reo vang. Tôi chậm chạp thoát ra khỏi cơn mộng mị nặng nề. Có một bức điện tín do Jay Cee gửi cho tôi gắn ở tấm gương soi, bảo tôi khỏi quan tâm đến công việc, cứ nghỉ ngơi một ngày cho lại sức đã, rằng bà rất lấy làm tiếc về món thịt cua tồi tệ đó. Do vậy tôi không đoán được ai đang gọi điện cho mình. Tôi với tay bắt máy đặt lên gối, một đầu tựa trên xương đòn và đầu kia tỳ lên vai. “Alô!” Một giọng đàn ông cất lên: “Có phải cô Esther Greenwood đó không?” Tôi nhận ra một giọng của người nước ngoài. “Chính tôi đây,” tôi đáp. “Tôi là Constantin…” Tôi không nghe rõ họ của anh ta, đầy những âm s và k. Tôi không quen ai tên Constantin cả, nhưng không dám nói ra điều ấy. Rồi tôi chợt nhớ tới bà Willard và người phiên dịch viên cabin bạn bà. “Tất nhiên, tất nhiên rồi,” tôi la lên và ngồi dậy, giữ chặt ống nghe bằng cả hai tay. Tôi chưa từng được bà Willard giới thiệu cho người nào tên Constantin cả. Tôi điểm lại những người đàn ông mình quen với những cái tên đáng lưu ý. Tôi biết một anh chàng tên Socrates. Anh ta cao, xấu trai nhưng có vẻ trí thức, con một nhà sản xuất phim lớn người Hy Lạp ở Hollywood, nhưng cũng là tín đồ Công giáo, điều này làm tổn hại quan hệ của chúng tôi. Ngoài Socrates, tôi còn biết một người Bạch Nga tên là Attila tại trường Quản trị Kinh doanh Boston. Dần dần tôi nhận ra Constantin đang cố thu xếp một cuộc gặp gỡ với tôi trong hôm nay. “Chiều nay mời cô tới thăm trụ sở Liên Hiệp Quốc.” “Tôi đang thấy nó đây này,” tôi khẽ cười khúc khích và đáp. Anh ta xem chừng bối rối. “Tôi có thể nhìn thấy nó qua cửa sổ phòng.” Tôi nghĩ có lẽ mình nói tiếng Anh hơi nhanh khiến anh không nghe kịp. Im lặng một lát. Anh ta nói tiếp: “Có lẽ sau đó cô muốn đi ăn một miếng gì đấy chăng?” Tôi nhận ra câu cửa miệng của bà Willard và lòng tôi chùng xuống. Bà Willard luôn mời mọc “đi ăn một miếng gì đấy”. Tôi nhớ ra anh chàng này từng đến làm khách nhà bà Willard trong lần đầu tiên đến Mỹ - bà Willard luôn có quan niệm rằng nếu bạn chào đón nồng hậu người ngoại quốc thì khi bạn ra nước ngoài, họ sẽ đón tiếp bạn tương tự. Bây giờ tôi vở lẽ rằng bà Willard đã đơn giản đánh đổi sự tiếp đón nồng hậu ở Nga dành cho bà lấy việc đi ăn một miếng gì đấy của tôi ở New York. “Được, tôi sẵn lòng đi ăn một miếng gì đấy,” tôi đáp dõng dạc. “Mấy giờ anh đến?” “Tôi sẽ đánh xe đến đón cô vào khoảng 2 giờ. Khách sạn Amazon phải không?” “Vâng.” “Ồ, vậy tôi biết chỗ đó rồi.” Trong khoảnh khắc, tôi cho rằng lời anh mang một ẩn ý đặc biệt nào đó, nhưng rồi tôi nghĩ có một vài cô gái ở khách sạn Amazon là thư ký ở Liên Hiệp Quốc, và cũng có thể anh ta đã từng dẫn một trong số ấy đi chơi rồi. Tôi để anh ta gác máy trước rồi mới cúp theo, nằm vật ra gối, cảm thấy mình nhẫn tâm. Một lần nữa tôi suy tưởng, đầu tiên là mơ mộng về hình ảnh quyến rũ của một chàng trai sẽ yêu tôi say đắm ngay phút đầu gặp gỡ, nhưng rồi thực tại sẽ lại vô cùng tầm thường nhạt nhẽo, một chuyến tham quan nghĩa vụ Liên Hiệp Quốc, rồi một cái sandwich ở cổng sau tòa nhà. Tôi gắng xốc lại tính thần. Biết đâu anh chàng phiên dịch viên cabin của bà Willard là một gã lùn xủn xấu trai và tôi sẽ coi thường anh ta theo kiểu từng đối xử với Buddy Willard. Ý nghĩ ấy khiến tôi có cảm giác thỏa mãn. Bởi vì thực sự tôi đã khá coi thường Buddy Willard, dẫu cho mọi người vẫn nghĩ tôi sẽ cưới anh ta khi anh khỏi bệnh lao. Kể cả khi đàn ông trên thế giới này có tuyệt chủng thì tôi cũng không đời nào cưới anh ta. Buddy Willard là một kẻ đạo đức giả. Dĩ nhiên, ban đầu tôi không nhận ra điều này. Tôi vẫn nghĩ đó là chàng trai tuyệt vời nhất mà tôi từng gặp. Tôi thầm ngưỡng mộ anh ta suốt năm năm trời trước khi anh ta thèm để mắt tới tôi. Một khoảnh khắc tuyệt diệu xảy đến khi tôi vẫn đang say sưa ngưỡng mộ anh, còn anh thì bắt đầu để ý tới tôi, khi anh ta ngày một quan tâm tới tôi hơn, thì hết sức tình cờ tôi nhận ra anh ta là một kẻ đạo đức giả khủng khiếp. Giờ thì Buddy Willard mong mỏi được cưới tôi, còn tôi thì ghét cay ghét đắng anh ta. Điều tồi tệ nhất là tôi không thể nói thẳng vào mặt anh ta những điều tôi nghĩ, bởi anh ta đã mắc bệnh lao trước mất rồi, tôi phải nén giận làm vui tới khi anh ta bình phục và có thể chấp nhận được sự thật trần trụi. Tôi quyết định không xuống lầu ăn điểm tâm, vì điều đó có nghĩa là phải thay quần áo, và chẳng có lý do gì phải làm vậy khi bạn định nằm trên giường suốt buổi sáng. Tôi đoán mình có thể gọi yêu cầu mang đồ điểm tâm lên phòng, nhưng nếu thế tôi sẽ phải típ cho người phục vụ mà tôi lại chẳng biết phải cho bao nhiêu cả. Tôi đã có một vài kinh nghiệm không vui về việc cho tiền típ ở New York này rồi. Lần đầu tiên đến khách sạn Amazon, một gã lùn, hói, mặc đồng phục nhân viên mang va li vào thang máy và mở cửa phòng cho tôi. Tất nhiên tôi chạy ngay đến cửa sổ và nhìn quang cảnh bên ngoài thế nào. Một hồi sau tôi mới nhận ra gã nhân viên vẫn đang vặn vòi nước nóng và lạnh ở trong lavabo và nói lớn với tôi: “Bên này là nóng, bên kia là lạnh,” rồi gã vừa mở radio vừa kể cho tôi nghe tên tất cả các nhà ga ở New York. Tôi bắt đầu cảm thấy khó chịu, thế là tôi quay lưng lại và nói một cách kiên quyết: “Cám ơn đã mang va li lên giúp tôi.” “Cám ơn! Cám ơn! Cám ơn! Hừ!” Giọng của gã đầy bóng gió khó chịu, rồi trước khi tôi kịp quay lại xem là làm sao, gã đã bỏ đi sau khi sập cánh cửa đánh rầm một cái. Sau này, khi tôi kể lại cho Doreen nghe thái độ kỳ quặc của gã, cô bảo: “Ngốc ạ, hắn đòi tiền típ đấy!” Tôi hỏi nên cho gã bao nhiêu thì Doreen nói ít nhất là 25 xu hoặc 35 xu nếu va li quá nặng. Rõ ràng tôi hoàn toàn có thể tự mang va li về phòng, chẳng qua gã phục vụ tỏ ra quá sốt sắng nên tôi mới để gã làm đấy chứ. Tôi cứ nghĩ loại dịch vụ này đã được tính gộp trong tiền phòng rồi. Tôi rất ghét phải trả tiền cho những việc mà tôi có thể dễ dàng tự làm lấy. Điều đó làm tôi bực mình. Doreen bảo nên típ mười phần trăm chi phí, nhưng lần nào cũng thế, tôi chẳng bao giờ có tiền lẻ đúng số như vậy. Tôi thấy thật ngớ ngẩn khi đưa cho ai đó nửa đô la rồi nói: “Mười lăm xu là tiền típ, anh hãy trả lại tôi ba mươi lăm xu.” Lần đầu tiên đi taxi ở New York, tôi típ bác tài mười xu. Cước xe là một đô la, nên tôi nghĩ mười xu là vừa xoẳn, tôi đưa đồng mười xu cho bác tài và nhoẻn miệng cười. Nhưng bác ta chỉ cầm trong tay và nhìn chằm chằm vào nó; rồi khi tôi bước ra khỏi xe, hy vọng là mình không đưa nhầm cho bác đồng mười xu Canada, bác ta bắt đầu lớn tiếng: “Thưa tiểu thư, tôi cũng phải kiếm sống như cô và những người khác chứ,” bác gào lên làm tôi sợ đến nỗi vùng bỏ chạy. May mà đèn đỏ khiến bác phải dừng xe, không thì tôi nghĩ bác sẽ lẽo đẽo lái xe theo tôi vừa la lối theo cái kiểu khó chịu ấy. Khi tôi hỏi lại Doreen về việc này, cô bảo tiền típ đã tăng từ mười lên mười lăm phần trăm so với lần cô ở New York trước đây. Mà cũng chưa chắc, cũng có thể gã tài xế giở ngón sư tử ngoạm. Tôi với lấy cuốn sách mà tạp chí Ladies’ Day đã gửi tặng. Khi mở sách, một tấm bưu thiếp xổ ra. Mặt ngoài tấm bưu thiếp vẽ hình một con chó lông xù, mặc chiếc áo hoa, vẻ mặt buồn bã ngồi trong một cái giỏ. Mặt trong cũng là hình một con cún miệng mỉm cười đang nằm trong một cái giỏ khác, cún con đang ngủ bên dưới hàng chữ thêu “Nghỉ ngơi thật nhiều sẽ làm cho bạn khỏe lại”. Dưới cùng của tấm thiệp là dòng chữ viết tay bằng mực tím “Tất cả bạn bè ở tạp chí Ladies’s Day chúc cậu mau bình phục!” Tôi lướt qua hết truyện này đến truyện khác tới khi gặp câu chuyện viết về một cây vả. Cây vả này mọc trên bãi cỏ xanh, khoảng giữa nhà một người Do Thái và một tu viện. Anh chàng Do Thái và người nữ tu có nước da bánh mật xinh đẹp thường gặp nhau chỗ cây vả để hái quả. Một ngày kia, họ thấy một quả trứng đang được ấp trong tổ chim trên cành cây, ngay khi thấy con chim nhỏ chui ra khỏi vỏ trứng, bàn tay của họ vô tình chạm vào nhau, rồi sau đó người nữ tu không còn tới hái vả cùng anh chàng Do Thái nữa, thay vào đó là một bà phụ bếp theo đạo Công giáo có bộ mặt cau có. Bà ta đếm từng quả vả mà người đàn ông đã lấy cho tới khi biết chắc rằng anh ta không được phần hơn, điều ấy khiến anh chàng kia phát cáu. Tôi nghĩ đó là một truyện ngắn dễ thương, nhất là phần tả cây vả mùa đông bị vùi trong tuyết, nhưng xuân sang lại trĩu nặng quả xanh. Tôi lấy làm tiếc vì đã đọc đến hết trang cuối. Ước gì tôi được bò qua giữa hàng chữ đen kia như người ta chui qua hàng rào để được ngủ dưới bóng cây vả xanh tươi đẹp đẽ đó. Tôi lại nghĩ dường như Buddy Willard và mình cũng giống như anh chàng Do Thái và người nữ tu ấy, mặc dù không ai theo Do Thái hoặc Công giáo mà đều thuộc Nhất Thể. Chúng tôi cũng từng gặp nhau dưới bóng cây vả tưởng tượng của riêng mình, điều chúng tôi đã nhìn thấy không phải là một chú chim non chui ra khỏi vỏ mà là một em bé sinh ra từ bụng mẹ, và rồi một điều gì đó thật kinh khủng đã xảy ra khiến chúng tôi ai đi đường nấy. Giờ đây cô đơn và yếu ớt nằm trên chiếc giường đệm trắng của khách sạn, tôi ngỡ mình vừa ngủ dậy trong dưỡng đường Adirondacks, và thấy mình là một kẻ bất tài đốn mạt. Trong những lá thư gửi tôi, Buddy Willard kể rằng anh ta đang đọc thơ của một thi sĩ kiêm bác sĩ, anh cũng phát hiện ra vài nhà văn quá cố người Nga chuyên viết truyện ngắn cũng kiêm nghề bác sĩ, có lẽ bác sĩ và nhà văn là hai nghề rất hạp nhau. Bây giờ thái độ của Buddy Willard hoàn toàn thay đổi so với hồi hai năm trước chúng tôi biết nhau. Tôi còn nhớ cái hôm anh mỉm cười với tôi và nói: “Esther, em có biết thơ là gì không?” “Không! Là gì?” Tôi hỏi. “Chỉ là một hạt bụi thôi.” Anh ta dường như hết sức tự hào về ý nghĩ này, đến mức tôi cứ nhìn chăm chăm vào mái tóc hoe vàng, đôi mắt xanh lơ và hàm răng trắng muốt - hàm răng anh có vẻ vững chắc - và nói: “Em cũng nghĩ thế!” Chỉ khi ở giữa lòng New York, tròn một năm sau, rốt cuộc tôi mới nghĩ ra câu trả lời. Tôi mất rất nhiều thời gian để tưởng tượng ra những cuộc trò chuyện cùng Buddy Willard. Anh ta lớn hơn tôi đôi ba tuổi, mọi việc anh làm đều rất khoa học, thấu tình đạt lý. Khi ở bên anh, tôi luôn phải gắng hết sức để mình khỏi chìm nghỉm. Những cuộc trò chuyện trong tâm tưởng này thường khởi đầu giống những lần trò chuyện của tôi với Buddy trong thực tế, nhưng kết thúc bằng những cú đáp sắc sảo của tôi thay vì chỉ ngồi thừ ra và nói “em cũng nghĩ thế.” Lúc này, nằm ngửa trên giường, tôi tưởng tượng Buddy hỏi rằng: “Esther, em có biết thơ là gì không?” “Không! Là gì?” Tôi hỏi. “Chỉ là một hạt bụi thôi.” Ngay lúc anh ta tự hào và mỉm cười, tôi sẽ đốp chát: “Thì những xác chết anh đang mổ xẻ cũng vậy. Những người mà anh nghĩ là mình đang cứu chữa cũng vậy. Tất cả đều là cát bụi, không hơn không kém. Em nghĩ một bài thơ hay còn tồn tại lâu hơn một trăm người như thế cộng lại.” Dĩ nhiên Buddy chẳng còn gì để đáp lại vì tôi nói quá chuẩn. Con người vốn là cát bụi sẽ trở về với cát bụi, và tôi thấy việc chữa trị đám cát bụi đó cũng chẳng có gì tốt đẹp hơn so với việc sáng tác những bài thơ mà người ta thuộc lòng và ngâm nga mỗi khi gặp bất hạnh, ốm đau hoặc mất ngủ. Vấn đề của tôi là luôn luôn xem những gì Buddy Willard nói như lời vàng ý ngọc của Chúa. Tôi nhớ lại đêm đầu tiên anh hôn tôi. Đó là lúc kết thúc buổi vũ hội dành cho sinh viên năm thứ ba ở Yale. Cách Buddy mời tôi đi dự vũ hội thật là kỳ quặc. Anh ta bất ngờ xuất hiện ở nhà tôi trong kỳ nghỉ lễ Giáng sinh, mặc một cái áo len cổ lọ màu trắng, trông bảnh trai đến nỗi tôi cứ trố mắt ra nhìn. Anh nói: “Hôm nào anh ghé qua trường thăm em nhé?” Tôi sửng sốt. Tôi chỉ mới nhìn Buddy từ xa, tại nhà thờ vào những Chủ nhật khi cả hai chúng tôi rời trường về nhà. Tôi không hình dung nổi điều gì đã xảy ra trong tâm trí anh khi định ghé qua thăm tôi. Anh bảo đã chạy suốt hai dặm đến nhà tôi cũng là để luyện tập môn chạy việt dã. Dĩ nhiên mẹ hai chúng tôi là đôi bạn thân. Họ học chung với nhau, cùng kết hôn với thầy giáo của mình, cùng cư ngụ ở chung một thành phố; tuy nhiên Buddy luôn luôn vắng nhà hoặc vì anh ta kiếm được một học bổng ngoại khóa vào mùa thu, hoặc đi cạo rỉ sắt kiếm tiền ở Montana vào mùa hè. Vì vậy việc mẹ của chúng tôi là bạn đồng học cũng chẳng ý nghĩa gì mấy. Sau lần tới chơi bất ngờ ấy, tôi chẳng nhận được tin tức gì về Buddy cho tới một buổi sáng thứ Bảy đẹp trời đầu tháng Ba. Tôi vừa thức giấc trong phòng ký túc xá, định lôi sách ra đọc về Peter Ẩn sĩ và Walter Tay trắng để chuẩn bị cho kỳ thi Lịch sử về cuộc Thập tự chinh vào thứ Hai tới thì chuông điện thoại ngoài hành lang reo vang. Thường thì mọi người phải thay phiên nhau trực điện thoại, nhưng vì chỉ mình tôi là sinh viên năm nhất của tầng, còn lại đều là sinh viên lớp trên nên công việc này hầu như toàn do tôi bị ép phải làm. Tôi đợi một phút xem thử có ai bắt máy trước tôi không, đến khi nhận ra rằng mọi người đã đi chơi bóng squash hoặc rong chơi cuối tuần cả, tôi đành tự mình cầm máy. “Cô Esther phải không?” Cô gái trực tầng dưới hỏi và khi tôi đáp phải, cô liền nói: “Có một người đàn ông tới thăm cô đấy.” Tôi ngạc nhiên khi nghe vậy, bởi cả năm nay, những người tôi hẹn hò vu vơ đều một đi không trở lại. Tôi quả kém may mắn. Vì vậy tôi rất ghét phải đầm đìa mồ hôi và hớt hơ hớt hải đi xuống dưới mỗi tối thứ Bảy, để được một chị lớp trên giới thiệu với con trai người bạn thân của dì chị ta, một anh chàng xanh mét, lùn lùn như một cây nấm, tai chuột, răng thỏ, hoặc đi cà nhắc. Tôi nghĩ mình xứng đáng hơn thế. Suy cho cùng, tôi đâu phải là kẻ tàn tật, tôi chỉ hơi quá mọt sách thôi. Thế là, tôi vội chải đầu, tô chút son lên môi và cầm theo cuốn sách lịch sử đi xuống, giả như gặp một anh chàng xấu xí nào đấy, tôi có thể nói là mình đang định đến thư viện. Hóa ra Buddy Willard đứng tựa vào cái tủ thư tín, mặc một cái áo khoác kaki có dây kéo và quần vải thô màu xanh, chân đi đôi giày thể thao màu xám đã sờn, anh nhìn tôi và mỉm cười: “Anh chỉ ghé qua thăm em chút thôi,” anh ta nói. Tôi thấy thật là lạ khi anh ta từ tận Yale đến đây, thậm chí phải xin quá giang để tiết kiệm tiền, chỉ để thăm tôi chút thôi. “Chào anh,” tôi nói. “Ta ra ngoài hiên ngồi nhé.” Tôi muốn đi ra ngoài hiên bởi vì cô gái đang trực là một sinh viên lớp trên và đang nhìn tôi với cặp mắt soi mói. Hiển nhiên cô ta nghĩ rằng Buddy Willard đang mắc phải sai lầm lớn. Chúng tôi vai sánh vai ngồi trên hai chiếc ghế xích đu bằng liễu gai. Mặt trời tỏa ánh sáng trong trẻo, trời đứng gió và hơi nóng. “Anh chỉ ghé vài phút thôi.” Buddy nói. “Ồ không, ở lại ăn trưa với em nhé,” tôi bảo. “Không được đâu. Anh lên đây dự buổi hòa nhạc của sinh viên năm hai cùng với Joan.” Tôi cảm thấy mình thật ngốc nghếch nhất trần đời. “Joan sao rồi?” Tôi lạnh lùng hỏi. Joan Gilling ở cùng một thành phố với chúng tôi, đi chung nhà thờ nhưng học đại học trước tôi một năm. Cô ta là chủ tịch hội sinh viên của lớp, học chuyên ngành Vật lý và là nhà vô địch khúc côn cầu của trường. Cô ta luôn làm tôi lúng túng bởi đôi mắt màu sỏi đá, hàm răng lấp lánh như mộ bia và giọng nói hổn hển. Cô ta còn to như con tịnh nữa. Tôi bắt đầu nghĩ rằng khiếu thẩm mỹ của Buddy thật nghèo nàn. “Joan hả,” anh ta nói. “Cô nàng mời anh đi dự cuộc khiêu vũ này trước hai tháng, rồi mẹ cô ấy còn hỏi mẹ anh nhờ anh đưa cô nàng đi, anh còn biết làm sao nữa?” “Vậy tại sao anh nhận lời đưa cô ả đi nếu anh không muốn?” Tôi khinh khỉnh hỏi. “Ồ, anh thích Joan. Cô ấy chẳng bao giờ để tâm xem người ta có trả tiền hộ mình hay không, và cô ấy thích vui chơi ngoài trời. Lần trước cô ấy tới Yale tham gia hoạt động ngoại khóa cuối tuần, tụi anh đạp xe tới East Rock và đấy là cô gái duy nhất mà anh không phải đẩy lên đồi. Joan cũng hay đấy.” Tôi rùng mình vì ghen tức. Tôi chưa bao giờ đến Yale và Yale là nơi các sinh viên lớp trên ở ký túc xá này thích đến nhất vào những ngày nghỉ cuối tuần. Tôi quyết định là không mong chờ gì ở Buddy Willard nữa. Không mong chờ đồng nghĩa với không bao giờ thất vọng. “Anh nên đi tìm Joan thì hơn,” tôi nói với vẻ chân thực. “Em có hẹn ngay bây giờ và bạn trai em không thích thấy em ngồi với anh đâu.” “Hẹn hò á?” Buddy lộ vẻ ngạc nhiên. “Ai vậy?” “Hai người cơ,” tôi nói. “Peter Nhà ẩn sĩ và Walter Tay trắng.” Buddy không nói gì, vì thế tôi nói: “Đó là biệt danh của họ.” Sau đó tôi còn thêm: “Họ đến từ Dartmouth.” Tôi đoán là Buddy chẳng bao giờ đọc nhiều sử, vì miệng anh ta cớ há hốc ra. Anh đong đưa chiếc ghế xích đu và đẩy mạnh hơn mức cần thiết. Rồi anh ta đặt một cái phong bì màu xanh nhạt có phù hiệu của trường Yale vào lòng tôi. “Đây là lá thư mà anh định gửi lại trong trường hợp em không có nhà. Trong đó có một câu hỏi mà em có thể viết thư trả lời. Anh không định hỏi thẳng em ngay bây giờ.” Sau khi Buddy về, tôi mở lá thư đọc. Đó là lá thư mời tôi đi dự buổi khiêu vũ dành cho sinh viên năm ba ở Yale. Tôi ngạc nhiên tới mức hú hét thành tiếng, vừa chạy vào nhà tôi vừa la lớn: “Tôi sẽ đi, tôi sẽ đi, tôi sẽ đi.” Vừa từ ngoài hiên chói nắng vào, cảnh vật bên trong bỗng tối sầm lại đến nỗi không nhận ra được vật gì. Lát sau tôi nhận ra mình đang ôm chầm lấy chị sinh viên đang trực. Khi biết rằng tôi sẽ đi dự buổi khiêu vũ dành cho sinh viên năm ba ở Yale, cô ta nhìn tôi đầy ngạc nhiên và ngưỡng mộ. Thật kỳ diệu, mọi việc ở đây dường như thay đổi hẳn sau sự kiện ấy. Những sinh viên năm trên ở cùng tầng bắt đầu nói chuyện với tôi, và thỉnh thoảng một trong số họ tự động đi trả lời điện thoại. Không ai còn đứng ngoài cửa phòng tôi lớn tiếng nhận xét rằng thật lãng phí những ngày vàng tháng ngọc ở đại học khi cứ chúi mũi vào sách vở. Ừm, suốt buổi khiêu vũ, Buddy xử sự với tôi như với một người bạn hoặc một cô em họ. Chúng tôi khiêu vũ cách nhau cả dặm, tới khi ban nhạc cử bài “Auld Lang Syne” anh ta đột nhiên tựa cằm vào đỉnh đầu tôi như thể đã quá mệt. Sau đó dưới đêm đen giá lạnh và lúc 3 giờ sáng, chúng tôi chậm rãi đi bộ năm dặm đường để về nhà trọ, nơi tôi ngủ trên một cái đi văng quá ngắn tại phòng khách, vì chỉ mất năm mươi xu một đêm thay vì hai đô la như những nơi có giường nệm đàng hoàng khác. Tôi cảm thấy buồn bã, tẻ nhạt và đầy những ảo ảnh tan vỡ. Tôi tưởng tượng ra rằng Buddy đã yêu tôi kể từ ngày nghỉ cuối tuần đó, và tôi chẳng còn phải lo lắng sẽ làm gì vào những tối thứ Bảy còn lại trong năm học nữa. Khi vừa tới gần căn nhà mà tôi đang ở, Buddy nói: “Chúng mình tới phòng thí nghiệm Hóa học đi.” Tôi kinh ngạc: “Phòng thí nghiệm Hóa học á?” “Ừ,” Buddy nắm tay tôi. “Phong cảnh phía sau phòng thí nghiệm đẹp lắm.” Quả là vậy, có một quả đồi thấp phía sau phòng thí nghiệm, từ đó bạn có thể trông thấy ánh đèn của vài ngôi nhà ở New Haven. Tôi đứng giả vờ thưởng thức chúng trong khi Buddy đứng trên mặt đất mấp mô. Khi anh hôn tôi, tôi cứ mở mắt và cố ghi nhớ khoảng cách của những ánh đèn đến nỗi tôi không bao giờ quên được. Cuối cùng Buddy lùi lại và ồ lên một tiếng. “Ồ gì cơ?” Tôi ngạc nhiên hỏi. Đó là một cái hôn khô khốc, vô hồn và tôi còn nhớ đã rất tiếc vì miệng của chúng tôi nứt nẻ bởi năm dặm đường cuốc bộ dưới gió lạnh. “Ồ, cảm giác hôn em rất tuyệt.” Tôi đơn giản là chẳng nói gì cả. “Anh nghĩ em đã hẹn hò với cả tá người nhỉ,” sau đó Buddy nói. “Em cũng nghĩ thế.” Tôi nghĩ lẽ ra cứ mỗi tuần mình phải hẹn hò với một gã trai khác trong suốt năm. “Ồ, anh học hành đến bù cả đầu.” “Em cũng vậy mà,” tôi vội vàng nói. “Em phải giữ học bổng bằng mọi giá.” “Tuy vậy, anh nghĩ mình có thể thu xếp tới thăm em vào dịp cuối tuần thứ ba của mỗi tháng.” “Hay quá.” Tôi gần như té xỉu và chỉ muốn cắm đầu cắm cổ về trường kể lại cho mọi người nghe. Buddy hôn tôi lần nữa trên thềm nhà, và mùa thu tiếp đó, khi anh kiếm được học bổng tại trường Y, tôi đến đó thăm anh thay vì đến Yale. Đó cũng chính nơi tôi nhận ra anh đã lừa gạt tôi trong suốt bấy nhiêu năm ra sao và anh là một kẻ đạo đức giả đến nhường nào. Tôi phát hiện ra điều đó vào cái ngày chúng tôi chứng kiến một đứa bé chào đời. Sáu Tôi vẫn nài nỉ Buddy dẫn tôi đi xem những điều thú vị ở bệnh viện, vì thế một ngày thứ Sáu, tôi cúp học để có một kỳ nghỉ cuối tuần dài, nhưng anh ta lại cho tôi một vố nhớ đời. Thoạt tiên, tôi mặc một chiếc áo khoác trắng và ngồi trên một cái ghế băng cao trong một căn phòng với bốn cái xác chết, nhìn Buddy và đồng nghiệp giải phẫu. Những cái xác này đã không còn ra hình người nên chẳng còn khiến tôi sợ hãi chút nào. Da chúng đã trở nên cứng như da thuộc, đen sậm, và bốc mùi giấm cũ. Sau đó, Buddy dẫn tôi vào trong một căn phòng lớn nơi đặt vài cái bình thủy tinh cỡ đại, trong đựng đầy xác những đứa bé đã chết trước khi lọt lòng. Đứa bé trong bình thứ nhất có một cái đầu lớn trắng bệch, cúi gập xuống thân mình bé xíu chỉ bằng một con ếch. Đứa bé trong bình kế tiếp lớn hơn một chút, cứ như vậy độ lớn tăng dần cho tới bình cuối cùng, đứa bé trong đó có kích thước bằng đứa trẻ sơ sinh và nhìn tôi mỉm cười như một chú lợn con. Tôi tự hào về sự bình tĩnh của mình trước những vật thể khủng khiếp này. Lần duy nhất tôi nhảy chồm lên là lúc tôi tựa khuỷu tay vào bụng của xác chết khi quan sát Buddy mổ xẻ một lá phổi. Sau một, hai phút, tôi có cảm giác nóng rực nơi khuỷu tay, nó gợi cho tôi ý nghĩ có lẽ cái xác chưa chết hẳn bởi nó vẫn còn âm ấm, vì thế tôi bật khỏi ghế và thốt lên một tiếng nho nhỏ. Bấy giờ, Buddy mới giải thích cảm giác nóng rát ấy là do chạm phải dung dịch tẩy, tôi bèn trở về chỗ ngồi. Một tiếng trước giờ ăn trưa, Buddy dẫn tôi đi nghe một buổi thuyết trình về chứng thiếu hồng cầu và một vài chứng bệnh đáng sợ khác, ở đó họ mang những người bệnh vào, đặt nằm trên bục giảng, hỏi dăm ba câu rồi lại đẩy ra, sau đó cho chúng tôi xem những tấm phim chụp màu. Tôi nhớ có một tấm chụp một cô gái đẹp đang cười, trên má có một nốt ruồi đen. “Hai mươi ngày sau khi nốt ruồi này xuất hiện, cô gái chết.” Vị bác sĩ nói như thế. Cả hội trường im lặng và rồi tiếng chuông reo, vì thế đến giờ tôi vẫn chẳng biết nốt ruồi đó là gì hoặc tại sao cô gái chết. Buổi chiều, chúng tôi đi xem một đứa trẻ chào đời. Thoạt tiên chúng tôi tới tủ trang phục ở hành lang bệnh viện, Buddy lấy ra chiếc khẩu trang trắng cho tôi đeo, và một ít băng gạc. Anh chàng sinh viên Y khoa, to béo như tài tử điện ảnh Sydney Greenstreet, lượn lờ tới gần nhìn Buddy quấn băng quanh đầu tôi, tới khi bít kín hết tóc tai chỉ lộ ra đôi mắt trên chiếc khẩu trang trắng, anh khúc khích cười đùa cợt. “Ít nhất cô còn được mẹ cô yêu.” Tôi đang bận suy nghĩ về sự béo tốt của anh ta và tự nhủ quá béo đúng là bất hạnh cho một chàng trai, nhất là chàng trai trẻ, bởi vì phụ nữ khó mà vượt qua cái bụng bự ấy để hôn anh ta. Thế nên ngay lúc ấy, tôi không nhận ra điều anh chàng sinh viên vừa nói là một sự sỉ nhục. Về sau, tôi nghĩ rằng chắc hẳn hắn tự cho mình là một gã bảnh bao, và nghĩ ra được một lời cay độc để đáp trả rằng chỉ có mẹ hắn mới yêu nổi một gã mập thì hắn đã đi rồi. Buddy đang xem xét một tấm bảng gỗ kỳ lạ gắn trên tường, trên đó có đục một hàng lỗ, bắt đầu là một cái lỗ nhỏ bằng đồng xu bạc và lỗ cuối cùng lớn bằng một cái đĩa ăn. “Hay quá,” anh ta nói với tôi. “Có một người sắp sinh ngay bây giờ.” Đứng ở cửa phòng hộ sinh là một sinh viên Y khoa gầy gò, lưng gù, quen với Buddy. “Chào Will,” Buddy nói. “Ai phụ trách ca này thế?” “Là tớ,” Will uể oải nói, tôi nhận thấy trên vầng trán cao, xanh xao của anh chàng lấm tấm những giọt mồ hôi. “Là tớ, đây là ca đầu tiên của tớ.” Buddy bảo tôi rằng Will là sinh viên năm ba và phải đỡ đẻ cho tám đứa bé trước khi được công nhận tốt nghiệp. Sau đó anh ta để ý tới tiếng ồn ào ở cuối hành lang. Một vài người mặc áo choàng xanh biếc, đội mũ bác sĩ đi cùng với một vài nữ y tá đang tiến về phía chúng tôi, đẩy một chiếc xe trên đó có một đống màu trắng lớn. “Cô không nên xem cái này,” Will thì thầm vào tai tôi. “Nếu thấy, cô sẽ không bao giờ muốn có con nữa. Lẽ ra họ không nên cho phụ nữ xem. Vì như vậy chính là sự kết thúc của loài người.” Buddy và tôi bật cười, sau đó Buddy bắt tay Will và chúng tôi cùng bước vào phòng. Tôi sửng sốt không nói nên lời khi nhìn thấy cái bàn nơi người ta đặt người phụ nữ. Nó giống như một cái bàn tra tấn khủng khiếp, với những bàn đạp bằng kim loại gắn lơ lửng ở một đầu và đủ loại dụng cụ cùng những ống những dây ở đầu kia. Buddy và tôi cùng đứng cạnh cửa sổ, cách người phụ nữ vài bước, nơi chúng tôi có thể quan sát khá rõ. Bụng người đàn bà nhô cao khiến tôi không thể trông thấy khuôn mặt cũng như phần trên của thân hình cô. Dường như cô ta chẳng còn gì ngoài cái bụng khổng lồ như con nhện và đôi chân mảnh khảnh xấu xí treo trên hai cái bàn đạp, trong suốt thời gian sinh nở, cô ta không ngớt gào thét bằng một giọng thảm thiết không còn là của con người. Về sau, Buddy cho tôi biết cô ta đã được tiêm thuốc làm cho quên hết mọi đau đớn, nên khi la hét và rên rỉ, cô cũng chẳng còn biết mình đang làm gì, giống như trong một giấc ngủ mê man vậy. Tôi nghĩ rằng thứ thuốc này chỉ có đàn ông mới phát minh ra. Người đàn bà đang đau đớn khủng khiếp, chắc chắn cô ta phải cảm thấy hết mọi thứ, nếu không, cô đã chẳng rên rỉ như vậy. Rồi cô sẽ trở về nhà, lại bắt đầu thai nghén một đứa bé khác, bởi vì thứ thuốc này làm cho cô quên đi đã đau đớn nhường nào, và nỗi đau đớn trong chốn sâu thẳm nhất của cô, cái hành lang kín mít, mù quáng và dài dằng dặc ấy, bất cứ lúc nào cũng chực mở ra để nhốt kín cô lại. Vị bác sĩ trưởng, người giám sát Will, không ngớt nói với người phụ nữ: “Rặn đi, cô Tomolillo, rặn nữa đi, nào bé ngoan, cố lên!” Và cuối cùng qua kẽ hở giữa đôi chân xanh nhợt vì thuốc sát trùng của cô, tôi thấy một thứ màu sẫm xuất hiện. “Đầu đứa bé đấy,” Buddy thì thầm giữa tiếng rên rỉ của người mẹ. Nhưng vì một lý do nào đó, đầu đứa bé bị kẹt lại, vị bác sĩ bảo Will rạch một đường. Tôi nghe tiếng kéo cắt da của người thiếu phụ như cắt vải và máu bắt đầu ào ào tuôn ra - một màu đỏ tươi. Ngay tức khắc đứa bé chừng như bật ra ngoài, lọt vào đôi tay Will, trong một màu mận xanh trộn với chất nhờn màu trắng và những vệt máu đỏ. Will không ngớt la lên bằng một giọng sợ hãi: “Tôi đánh rơi nó mất, tôi đánh rơi nó mất, tôi đánh rơi nó mất.” “Không sao đâu,” vị bác sĩ vừa nói vừa đón đứa bé trên tay Will và bắt đầu xoa bóp cho nó, màu xanh biến mất, đứa bé bắt đầu khóc bằng một giọng khàn khàn, đáng thương, tôi nhận ra đó là một bé trai. Điều đầu tiên đứa bé làm là tè thẳng vào mặt của vị bác sĩ. Sau này, tôi bảo Buddy rằng tôi không thể tưởng tượng được điều đó, nhưng anh bảo điều đó vẫn có thể xảy ra, dù không thường xuyên. Ngay khi đứa bé vừa chào đời, mọi người trong phòng chia thành hai nhóm, các cô y tá buộc một tấm thẻ bằng kim loại vào cổ tay của đứa bé, lau mắt cho nó bằng một đầu tăm quấn bông, bọc đứa bé lại rồi đặt nó vào trong chiếc nôi vải nhỏ. Trong khi vị bác sĩ và Will bắt đầu dùng kim và một sợi chỉ dài khâu vết cắt của người mẹ. Một người nào đó nói: “Là con trai, cô Tomolillo,” nhưng người mẹ không trả lời, cũng chẳng ngẩng đầu lên. “Em thấy thế nào?” Buddy hỏi với một vẻ hài lòng khi chúng tôi đi qua khoảng sân màu xanh để về phòng anh. “Tuyệt,” tôi nói. “Em có thể xem những điều như vậy hằng ngày.” Tôi những muốn hỏi anh liệu còn cách nào khác cho đứa bé chào đời không. Vì một lý do nào đó, điều quan trọng nhất đối với tôi lúc này là được thấy tận mắt đứa trẻ sinh ra từ chính bụng ta và đích thực nó là con của ta. Tôi nghĩ ta vẫn có thể tỉnh táo dù phải chịu tất cả những nỗi đau đớn này. Tôi luôn luôn tưởng tượng ra cảnh bản thân gồng mình trên khuỷu tay trên bàn sinh lúc mọi sự đã xong xuôi - mặt trắng bệch sau khi trải qua một thử thách khủng khiếp, dĩ nhiên là không chút trang điểm, nhưng khuôn mặt lại mỉm cười và rạng rỡ, tóc xõa ngang lưng, tay ôm ấp đứa con đầu lòng và gọi tên nó, bất kể là tên gì. “Tại sao nó lại bê bết bột thế?” Tôi hỏi để tiếp tục câu chuyện và Buddy nói cho tôi nghe về chất sáp có tác dụng bảo vệ da cho trẻ sơ sinh. Chúng tôi trở lại phòng của Buddy, nơi gợi cho tôi nhớ đến phòng của một thầy tu, với những bức tường, giường và sàn nhà trống không, bàn làm việc chất đầy sách Giải phẫu học của Gray và những cuốn dầy cộp khác. Buddy thắp nến và mở một chai Dubonnnet. Chúng tôi nằm bên nhau, Buddy nhấm nháp từng hớp rượu, còn tôi đọc lớn bài Một nơi nào tôi chưa từng đến[1] và những bài khác trong tập thơ mà tôi mang theo. Buddy bảo rằng chắc phải có một điều gì đó trong thi ca mới khiến một cô gái như tôi phải bỏ hết thời gian vào đó, vì vậy mỗi lần gặp nhau tôi sẽ đọc cho anh nghe vài bài thơ và giải thích cho anh ta hiểu những gì tôi cảm nhận trong đó. Đó là ý kiến của Buddy. Anh ta luôn sắp xếp kỳ nghỉ cuối tuần sao cho chúng tôi không thấy tiếc vì đã lãng phí thời giờ. Bố của Buddy là thầy giáo, tôi nghĩ Buddy cũng có thể trở thành giáo viên, anh ta luôn cố giải thích mọi việc cho tôi hiểu và giới thiệu cho tôi những kiến thức mới. Bất thình lình, sau khi tôi đọc xong một bài thơ, anh nói: “Esther, em đã bao giờ thấy một người đàn ông chưa?” Cách nói của anh ta khiến tôi hiểu rằng anh không nói đến một người đàn ông hay cánh đàn ông nói chung, tôi hiểu anh ám chỉ một người đàn ông trần truồng. “Chưa,” tôi đáp. “Chỉ những bức tượng thôi.” “Tốt! Vậy em có muốn thấy anh không?” Tôi không biết phải nói sao. Mẹ và bà ngoại tôi luôn ám chỉ Buddy ngoan ngoãn và tử tế thế nào, rằng anh xuất thân từ một gia đình danh giá, mọi người ở nhà thờ đều nói anh là người đàn ông kiểu mẫu, luôn lễ phép với cha mẹ và người lớn tuổi, lại còn khỏe mạnh, đẹp trai và thông minh nữa. Tất cả những gì tôi nghe về Buddy đều cho thấy anh ta là một người đàng hoàng, tử tế và với người thế này, một cô gái cũng phải phải cư xử đàng hoàng và tử tế. Vì thế tôi thực sự không thấy một chút nguy hiểm nào trong bất cứ điều gì Buddy định làm. “Ồ, tốt thôi, em nghĩ vậy,” tôi nói. Tôi nhìn chằm chằm vào Buddy trong khi anh ta kéo khóa quần xuống, cởi hẳn ra rồi ném lên ghế, sau đó anh cởi luôn quần lót làm bằng một thứ vải như lưới nylon. “Loại này rất mát mẻ,” anh ta giải thích. “Mẹ anh bảo rằng nó cũng dễ giặt.” Sau đó anh ta đứng trước mặt tôi, còn tôi thì cứ nhìn chằm chằm vào anh. Điều duy nhất mà tôi có thể nghĩ tới là cái cổ và mề của một con gà tây và tôi thấy hết sức chán nản. Buddy hơi phật ý vì tôi chẳng nói gì cả. “Anh nghĩ em nên quen với việc nhìn anh thế này,” anh ta nói. “Bây giờ cho anh thấy em!” Nhưng chuyện cởi đồ trước mặt Buddy đột nhiên làm tôi liên tưởng tới việc chụp ảnh các tư thế ở trường, khi đó ta như phải trần truồng đứng trước ống kính, và ta biết rõ rằng mình trần truồng, cả ảnh chụp chính diện lẫn chụp trông nghiêng, và được lưu lại trong hồ sơ thể chất của trường để đánh giá A, B, C, hoặc D tùy theo tư thế mạnh mẽ của ta. “Ồ, để dịp khác đi,” tôi nói. “Cũng được,” Buddy mặc quần áo vào. Sau đó, chúng tôi hôn nhau và ôm ghì lấy nhau một lúc, tôi liền cảm thấy khá hơn. Tôi uống nốt chỗ Dubonnet còn lại, ngồi bắt chéo chân cuối giường của Buddy và hỏi mượn một cái lược. Tôi bắt đầu chải tóc rũ xuống mặt để Buddy không nhìn thấy nó. Bất chợt tôi hỏi: “Anh đã làm chuyện ấy với ai chưa Buddy?” Tôi không hiểu điều gì đã khiến tôi nói vậy, lời lẽ cứ đột nhiên tuôn ra khỏi miệng. Tuyệt nhiên tôi chẳng dám nghĩ Buddy đã làm chuyện ấy với bất cứ ai. Tôi mong anh sẽ nói: “Không, anh giữ mình nguyên vẹn đến khi nào cưới được một người trong trắng và trinh bạch như em.” Nhưng Buddy không nói gì, mặt đỏ lên. “Sao, có chưa?” “Ý em chuyện ấy nghĩa là gì?” Buddy hỏi lại bằng một giọng giả tạo. “Anh biết rồi còn gì, anh đã bao giờ ngủ với ai chưa?” Tôi rũ tóc xuống phía mặt gần với Buddy nhất và cảm thấy một luồng điện chạy qua đôi má nóng bỏng của mình khiến tôi muốn la lên “Thôi, thôi, đừng kể cho em, đừng nói gì hết.” Nhưng tôi không nói. Tôi vẫn im lặng. “Có, anh đã làm chuyện ấy rồi.” Cuối cùng Buddy nói. Tôi gần như gục xuống. Từ đêm đầu tiên Buddy Willard hôn tôi và nói rằng hẳn tôi đã đi chơi với hàng tá con trai, anh làm tôi tin rằng mình phóng đãng, có kinh nghiệm hơn anh ta nhiều, mọi hành động của Buddy ẳ như ôm hôn, âu yếm đối với tôi chẳng qua chỉ là chuyện bột phát, anh chẳng đừng được và cũng không hiểu làm thế nào mà nó xảy ra. Lúc này tôi mới hiểu suốt thời gian đó anh ta chỉ ngây thơ cụ mà thôi. “Kể cho em chuyện đó đi,” tôi chậm chạp chải đi chải lại mái tóc, cảm thấy từng cái răng lược đâm sâu vào má. “Ai vậy?” Buddy thở phào nhẹ nhõm vì tôi không tức giận. Thậm chí anh còn nhẹ cả người vì có dịp bộc lộ với người khác về chuyện mình đã bị quyến rũ như thế nào. Dĩ nhiên là người quyến rũ Buddy, chứ anh không đâu bắt đầu chuyện đó trước nên anh ta thực ra không có lỗi. Đó chính là ả hầu phòng tại khách sạn nơi anh làm bồi bàn phụ mùa hè năm ngoái tại Cape Cod. Buddy để ý cô ả hay nhìn mình không chớp mắt và hay ưỡn cặp vú về phía mình lúc lộn xộn ở trong bếp, cuối cùng một hôm anh ta hỏi thẳng cô ả về chuyện đó, cô ả nhìn thẳng vào mắt anh và nói: “Em muốn anh.” “Ăn kèm rau mùi tây chứ?” Buddy ngây thơ cười lớn. “Không,” cô ả nói. “Một đêm nào đó.” Thế là Buddy đánh mất sự trong trắng và trinh tiết của mình. Thoạt tiên tôi cứ tưởng anh ta chỉ ngủ với ả hầu phòng có một lần duy nhất, nhưng khi tôi hỏi rằng bao nhiêu lần cho chắc ăn, anh ta trả lời là không nhớ nổi, độ đôi lần một tuần suốt mùa hè còn lại. Tôi lấy ba nhân mười là ba mươi, một con số vượt ngoài sức tưởng tượng. Sau lần gặp này, một điều gì đó trong tôi chợt đông cứng lại. Quay lại trường, tôi bắt đầu hỏi các sinh viên lớp trên xem họ sẽ làm gì nếu một gã trai đột nhiên cho họ biết là mình đã ngủ ba mươi lần với một ả hầu phòng đàng điếm suốt mùa hè. Nhưng họ nói phần lớn bọn con trai đều vậy, bạn không có tư cách gì hoạch họe chúng, chí ít là cho đến khi hai người gắn bó keo sơn hoặc đã hứa hôn cùng nhau. Thực ra, chẳng phải ý nghĩ Buddy ngủ với ai đó khiến tôi phiền lòng. Tôi muốn nói là mình đã đọc nhiều về chuyện trai gái lên giường với nhau, và nếu bữa ấy là một gã con trai nào khác, tôi sẽ đơn giản là hỏi anh ta về những chi tiết thú vị nhất, để rồi có thể chính tôi sẽ đi chơi và ngủ với một ai đó, lấy lại thăng bằng, rồi bỏ qua mọi chuyện. Điều tôi không chịu được là Buddy vẫn giả vờ cho rằng tôi quá phóng đãng còn anh ta thì thanh khiết, trong khi anh ta đã làm chuyện ấy bao lần ẳ với ả hầu phòng đàng điếm và ắt hẳn đang thích thú cười vào mặt tôi. “Mẹ anh nghĩ sao về cô hầu phòng ấy?” Tôi hỏi Buddy cuối tuần ấy. Buddy gần gụi với mẹ một cách đáng ngạc nhiên. Anh ta luôn luôn trích dẫn những gì bà nói về quan hệ trai gái, và tôi biết bà Willard là một mẫu người cuồng tín về chữ trinh của cả nam lẫn nữ. Khi tôi tới nhà bà ăn tối lần đầu tiên, bà nhìn tôi một cách quái lạ, săm soi, dò xét, tôi hiểu là bà đang cố gắng tra cứu xem tôi có còn trinh tiết hay không. Đúng như tôi nghĩ, Buddy tỏ ra bối rối thú nhận: “Mẹ có hỏi anh về Gladys.” “Ồ, thế anh nói sao?” “Anh bảo Gladys còn tự do, da trắng và mới hai mươi mốt tuổi.” Giờ tôi đã biết Buddy không bao giờ nói chuyện với mẹ một cách sỗ sàng như vậy về tôi. Anh ta luôn lặp cách bà nói: “Đàn ông cần một người bạn, đàn bà cần vô hạn an toàn,” hoặc “đàn ông là mũi tên bắn vào tương lai, còn đàn bà là nơi phóng mũi tên đó.” Tôi phát mệt với những câu nói ấy. Mỗi lần tôi cố tranh luận, Buddy đều nói rằng mẹ anh ta vẫn hài lòng về chồng mình, chẳng phải đó là điều tuyệt vời với những người đã ngần ấy tuổi sao, điều đó có nghĩa là bà biết rõ cái gì ra cái nấy. Cuối cùng tôi đã quyết định chia tay với Buddy Willard vĩnh viễn, không phải vì anh ta đã ngủ với một cô hầu phòng, mà vì anh ta không thành thực thừa nhận điều đó với mọi người và không dám đối diện với nó như tính cách của anh vẫn vậy. Lúc đó chuông điện thoại ngoài sảnh reo vang và một giọng nói nhỏ nhẹ đều đều cất lên: “Gọi cậu đấy, Esther, từ Boston.” Tôi biết ngay là có gì đó không ổn, bởi vì Buddy là người duy nhất ở Boston mà tôi quen biết, anh ta không bao giờ gọi điện thoại đường dài cho tôi, vì cước phí rất đắt so với gửi thư. Một lần, có việc muốn nhắn tôi gấp, anh ta đã quanh quẩn ở cổng trường Y, dò hỏi xem có ai lái xe đến trường tôi vào ngày nghỉ cuối tuần không, rồi khi tìm được người, anh bèn gửi nhờ một lá thư mà tôi nhận được ngay trong ngày. Thậm chí anh ta còn chẳng hề mất tiền tem. Đúng là Buddy thật. Anh ta cho biết trong đợt khám hàng năm, kết quả chụp X-quang cho thấy anh mắc lao phổi, anh sẽ nhận được trợ cấp dành cho các sinh viên Y khoa mắc bệnh lao đến một nơi chữa trị ở Adirondacks. Sau đó anh ta bảo tôi đã không viết thư cho anh ta kể từ cuối tuần trước, hy vọng là sẽ không có chuyện gì xảy ra giữa chúng tôi. Rồi xin tôi viết thư cho anh ta mỗi tuần một lá, và đến thăm anh ta tại nơi chữa trị vào kỳ nghỉ Giáng sinh được không? Tôi chưa bao giờ thấy Buddy buồn bã đến thế. Anh ta vốn rất tự hào về sức khỏe hoàn hảo của mình và luôn bảo rằng chứng viêm xoang và khó thở của tôi là do phương diện tâm lý gây ra. Tôi cho rằng đây là thái độ kỳ lạ đối với một bác sĩ, có lẽ anh ta nên học để trở thành bác sĩ tâm lý mới đúng, nhưng dĩ nhiên là tôi không nói ra. Tôi bảo Buddy là mình rất lấy làm tiếc về căn bệnh lao và hứa sẽ viết thư, nhưng khi gác máy, tôi chẳng thấy buồn chút nào cả. Tôi chỉ thấy như trút được gánh nặng. Tôi nghĩ bệnh lao phổi có thể là một hình phạt cho kiểu sống lá mặt lá trái của Buddy mà lúc nào cũng tỏ ra hơn người. Bây giờ cũng vừa tiện lúc để tôi khỏi cần báo cho mọi người biết là mình đã cắt đứt quan hệ với Buddy, và lại bắt đầu lần nữa cái công việc buồn nản của những cuộc hẹn hò xem mặt. Tôi chỉ đơn giản nói cho mọi người biết là Buddy mắc bệnh lao và chúng tôi trên thực tế là đã hứa hôn. Khi tôi ở lại học mỗi tối thứ Bảy, họ đều đối xử tử tế với tôi vì cho rằng tôi hết sức kiên cường, ra sức học hành để giấu đi một trái tim tan vỡ. Bảy Tất nhiên, Constantin quá lùn, nhưng anh đẹp trai theo cách riêng của mình, với mái tóc màu nâu nhạt, đôi mắt xanh thẫm tinh nhanh ngời vẻ thách thức. Anh ta trông gần như là người Mỹ bởi làn da rám nắng và hàm răng trắng, nhưng tôi có thể nói ngay rằng không phải. Anh có cái mà không một người Mỹ nào tôi từng gặp có được, đó là trực giác. Ngay từ đầu, Constantin đã đoán rằng tôi không phải là người dưới tay bà Willard. Có lúc, tôi nhướn lông mày lên, khi khác lại buông ra một tiếng cười khẩy, chẳng mấy chốc cả hai chúng tôi đã đem bà Willard ra xài xể, tôi nghĩ bụng: “Gã Constantin này không phiền gì về việc tôi quá cao, ngoại ngữ kém, và cũng chưa bao giờ tới châu Âu, hẳn là gã muốn xuyên qua đó khám phá ra con người đích thực của mình đây.” Constantin chở tôi đến tòa nhà Liên Hiệp Quốc trong chiếc xe mui trần cũ màu xanh có ghế bọc lớp da màu nâu hơi sờn ngồi khá thoải mái. Anh ta bảo tôi rằng làn da rám nắng là do chơi tennis, khi chúng tôi sóng vai nhau phi như bay qua các đường phố tràn ngập ánh nắng, anh cầm tay tôi siết chặt, tôi cảm thấy chưa bao giờ mình hạnh phúc như vậy, kể từ năm chín tuổi, chạy chơi trên bãi biển cát trắng nóng bỏng cùng bố tôi vào mùa hè trước khi ông mất. Trong khi Constantin và tôi ngồi trong một thính đường lộng lẫy, tĩnh lặng của trụ sở Liên Hợp Quốc, bên cạnh một cô gái Nga cơ bắp, nghiêm nghị với khuôn mặt không trang điểm, vốn cũng là một phiên dịch viên cabin như Constantin, chợt tôi nghĩ đến một điều kỳ lạ là mình chưa hề nhận ra thuở trước năm lên chín, tôi hoàn toàn vô lo và hạnh phúc. Sau đó, mẹ tôi đã chắt bóp để cho tôi đủ tiền tham gia khóa học Nữ hướng đạo, học piano, vẽ màu nước, vũ đạo và chèo thuyền buồm, rồi tới khi học Cao đẳng, dậy khi trời còn mờ sương, ăn nhoáng nhoáng bữa sáng bằng bánh ngọt phủ sô cô la, rồi cả ngày phải nhồi nhét hàng tỷ thứ tư tưởng lung tung bát nháo vào đầu, tôi không còn biết thế nào là hạnh phúc thực sự nữa. Tôi chăm chú nhìn cô gái Nga mặc bộ vét xám khuy đôi, đang liến thoắng đọc hết thành ngữ này đến thành ngữ khác bằng thứ thổ ngữ không thể nào hiểu được của cô ta - Constantin cho rằng đó là phần khó nhất vì người Nga không có những thành ngữ tương tự với chúng ta - trong thâm tâm, tôi ước ao được nhập vào trong cô gái, dành cả đời mình để đọc lớn hàng tràng các thành ngữ. Có thể điều đó có lẽ chẳng làm tôi hạnh phúc hơn, nhưng nó sẽ là một dạng tích tiểu thành đại. Thế rồi Constantin, cô gái phiên dịch cabin người Nga và một đám người da đen, da trắng và da vàng vừa lùi ra xa vừa tranh luận với nhau phía sau những chiếc micro có gắn nhãn riêng của họ. Tôi thấy miệng của mọi người mấp máy mà không phát ra một âm thanh nào, như thể họ đang ngồi trên boong của một chiếc tàu đang rời bến, bỏ tôi lại giữa nỗi im lặng mênh mang này. Tôi liền bắt đầu đếm những điều mình chưa biết. Tôi bắt đầu bằng nấu nướng. Bà ngoại và mẹ tôi đều giỏi nấu nướng nên tôi thường phó mặc mọi việc cho hai người. Họ luôn luôn cố dạy tôi món này hoặc món kia, nhưng tôi chỉ đứng nhìn và nói: “Vâng, vâng, con biết rồi.” thì mọi hướng dẫn trôi qua đầu tôi như nước đổ lá khoai, thế là tôi làm hỏng mãi đến nỗi chẳng ai bắt tôi làm gì nữa. Tôi còn nhớ một buổi sáng, Jody, cô bạn thân duy nhất của tôi hồi còn học năm Nhất, một buổi sáng làm trứng bác cho tôi ăn ở nhà. Chúng có mùi vị lạ lùng và khi tôi hỏi, cô liền bảo đã cho thêm phô mai và tỏi muối. Tôi thắc mắc ai đã dạy cô điều đó, cô bảo chẳng ai cả, tự mình nghĩ ra thôi. Nhưng cô là người có đầu óc thực tế và đang theo chuyên ngành Xã hội học. Tôi cũng chẳng biết tốc ký. Điều này có nghĩa tôi không thể kiếm được một công việc ngon lành sau khi tốt nghiệp. Mẹ vẫn thường bảo tôi rằng không ai cần đến một người chỉ giỏi tiếng Anh. Nhưng một người giỏi tiếng Anh và biết tốc ký lại là một chuyện khác. Mọi người sẽ cần cô ta. Cô sẽ có cả tá công tử nọ kia đứng xếp hàng nhờ cô sao chép lại những bức thư lâm ly bi thảm. Vấn đề là tôi rất ghét phục vụ bọn đàn ông dưới bất kỳ hình thức nào. Tôi muốn tự mình đọc và viết những bức thư lâm ly. Ngoài ra, những ký hiệu tốc ký nhỏ xíu trong cuốn sách mẹ tôi, xem ra cũng khó nhằn như kiểu gọi thời gian là t và gọi khoảng cách là s vậy. Danh sách của tôi còn dài thêm nữa. Tôi là một người khiêu vũ tồi. Tôi không bao giờ hát được đúng giai điệu và chẳng có khái niệm gì về thăng bằng. Mỗi khi chúng tôi phải dang tay đi trên cầu thăng bằng trong giờ thể dục, đầu đội một cuốn sách, tôi luôn luôn bị ngã. Ngay cả hai môn hằng ao ước là cưỡi ngựa và trượt tuyết, tôi cũng không biết vì chúng quá tốn tiền. Tôi không biết nói tiếng Đức, cũng chẳng đọc được tiếng Hebrew hoặc viết được chữ Tàu. Thậm chí tôi còn không biết phần lớn những quốc gia xa xôi diệu vợi, quê hương của mấy nhân viên Liên Hiệp Quốc đang đứng trước mặt kia, là nằm ở góc nào trên bản đồ. Lần đầu tiên trong đời, tôi cảm thấy mình không xứng đáng khi ngồi trong tòa nhà chính cách âm của trụ sở Liên Hiệp Quốc, ở giữa Constantin biết chơi tennis cũng như phiên dịch cabin, và cô gái Nga thuộc lòng nhiều thành ngữ. Vấn đề là tôi biết mình vô năng từ lâu rồi, chỉ là chưa từng suy nghĩ về nó mà thôi. Việc duy nhất tôi làm tốt là giành những học bổng và giải thưởng, nhưng thời kỳ đó cũng sắp kết thúc rồi. Tôi thấy mình như một con ngựa đua trong một thế giới không có trường đua, hay một nhà vô địch bóng đá của trường đại học bất ngờ lạc bước tới phố Walls, khoác lên mình bộ cánh doanh nhân, những ngày vinh quang của anh ta rốt cuộc thu vén lại trong chiếc cúp vàng đặt trên lò sưởi có ghi ngày tháng như một tấm mộ bia. Tôi thấy đời mình đang đâm cành trổ nhánh như cây vả xanh tươi trong truyện ngắn đã đọc. Ở đầu mỗi cành, như một trái vả tím mọng, một tương lai tươi sáng đang lấp lánh chào đón tôi. Trái đầu tiên là một người chồng, ngôi nhà và những đứa trẻ, một trái khác là thi sĩ nổi danh, một trái khác nữa là giáo sư kiệt xuất, một trái khác là Ee Gee, biên tập viên tuyệt vời, một trái nữa là châu Âu, châu Phi, và Nam Mỹ, một trái nữa là Constantin, Socrates, Attila và hàng tá người tình với những cái tên kỳ quặc, nghề nghiệp khác thường, một trái nữa là huy chương vàng Olympic môn đua thuyền nữ. Rồi trên cao, vượt lên những trái vả này là những trái khác mà tôi không thể nào nhận ra. Tôi thấy chính mình đang ngồi trên chạc của cây vả này, người đói lả, chỉ vì không thể quyết định mình sẽ chọn trái nào. Trái nào trong số đó tôi cũng muốn, nhưng chọn một trái nghĩa là bỏ lỡ số còn lại, thế nên tôi ngồi trơ đó, băn khoăn chọn lựa, rồi những trái vả bắt đầu nhăn nheo sạm màu, từng trái, từng trái một rụng rơi xuống chân tôi. Nhà hàng mà Constantin đưa tôi tới thoảng mùi thảo dược, gia vị và kem chua. Suốt quãng thời gian ở New York, tôi chưa từng thấy một nhà hàng nào như vậy. Tôi mới tới những nơi như Heavenly Hamburger, chỗ người ta bán những chiếc humberger khổng lồ và một thứ súp theo ngày, cùng bốn loại bánh ngọt tại một cái quầy hết sức sạch sẽ, đối diện với một tấm gương sáng và dài. Để tới được nhà hàng này, chúng tôi phải leo xuống bảy bậc thang mờ mờ dẫn vào một gian tựa như căn hầm. Áp phích quảng cáo du lịch dán đầy những bức tường ám khói, tựa như những ô cửa sổ nhìn ra sông hồ Thụy Sĩ, núi non Nhật Bản và thảo nguyên châu Phi, những cây nến to và bụi bặm đặt trong chai tựa hồ hàng thế kỷ nay đã nhỏ những giọt sáp tầng tầng lớp lớp đỏ, xanh da trời, xanh lá, rọi từng vòng sáng chung quanh bàn soi những bộ mặt chơi vơi và đỏ lựng. Tôi không biết mình đang ăn gì, nhưng cảm thấy dễ chịu hơn rất nhiều sau miếng thứ nhất. Tôi chợt nghĩ rằng ảo ảnh về cây vả với những trái vả tím mọng dần nhăn nheo và rụng rơi xuất hiện là do cái dạ dày hoàn toàn trống rỗng. Constantin không ngừng rót đầy ly của chúng tôi một thứ rượu Hy Lạp ngọt ngào có mùi vỏ thông, rồi tôi thấy mình huyên thuyên với anh về việc sẽ học tiếng Đức, sang châu Âu, và trở thành phóng viên chiến trường như Maggie Hinggins. Tôi cảm thấy rất tuyệt lúc ăn tới món sữa chua và mứt dâu, đến nỗi quyết định sẽ để cho Constantin quyến rũ mình. Kể từ khi Buddy Willard kể cho tôi nghe về ả hầu phòng, tôi luôn nghĩ rằng mình cũng phải đi chơi và ngủ với một ai đó. Ai cũng được trừ Buddy, bởi anh ta dù sao cũng đã làm điều ấy đó trước tôi, nên tôi phải làm với một người nào khác. Kẻ duy nhất mà tôi từng bàn về chuyện ăn nằm là một gã người miền Nam mũi khoằm, học trường Yale. Gã đến trường tôi vào cuối tuần chỉ để biết rằng cô bạn gái của mình đã trốn đi với một tên tài xế taxi ngày hôm trước. Vì cô gái đó sống cùng nhà với tôi, mà đêm đó lại chỉ có mình tôi ở nhà, nên tôi có nhiệm vụ phải an ủi gã. Tại quán cà phê gần nhà, ẩn trong một góc khuất, phía sau là bức vách gỗ cao ngất có khắc tên hàng trăm người, chúng tôi uống hết ly cà phê đen này đến ly cà phê đen khác, và trao đổi thẳng thắn với nhau về sex. Gã con trai đó tên là Eric, bảo rằng gã rất ghê tởm việc bọn con gái trường tôi đứng loanh quanh dưới ánh đèn nơi hành lang, hoặc trong các bụi rậm dễ thấy, âu yếm nhau một cách điên cuồng trước giờ giới nghiêm, đến nỗi ai đi qua đó cũng thấy. Eric cay đắng nói: “Hàng triệu năm tiến hóa, chúng ta là gì? Vẫn là thú vật.” Sau đó, Eric kể cho tôi nghe gã đã ngủ với người phụ nữ đầu tiên như thế nào. Gã từng học ở một trường dự bị ở miền Nam chuyên đào tạo ra các quý ông, có một quy tắc bất thành văn là khi tốt nghiệp, bạn phải biết phụ nữ. “Biết theo nghĩa Kinh Thánh ấy,” Eric nói. Thế là một ngày thứ Bảy, Eric cùng vài người bạn bắt xe bus vào thành phố gần nhất tìm tới một nhà chứa khét tiếng. Cô gái điếm tiếp Eric thậm chí còn chẳng cởi hết quần áo ra. Đó là một phụ nữ trung niên to béo, mái tóc nhuộm đỏ, đôi môi dày một cách đáng ngờ và nước da màu lông chuột. Ả không tắt đèn, nên Eric buộc phải làm chuyện ấy với ả dưới một ngọn đèn hai mươi lăm watt lốm đốm đen và chẳng có gì hay ho như mọi người thường khoe cả. Thật chán như con gián. Tôi nói nếu với người mình yêu thì có lẽ không chán đến vậy, nhưng Eric cho rằng điều đó sẽ trở nên hỏng bét vì sẽ nảy sinh ý nghĩ phụ nữ cũng chẳng khác gì loài thú vật, vì thế nếu anh ta yêu một người, anh sẽ không khi nào lên giường với cô ta. Anh ta sẽ tới nhà chứa nếu bị bắt buộc và sẽ giữ cho người đàn bà mình yêu thoát khỏi những chuyện bẩn thỉu này. Một ý nghĩ lướt qua đầu tôi rằng có thể lên giường với một mẫu người tốt như Eric, bởi vì anh ta đã làm chuyện ấy, lại không giống như mọi gã con trai khác, tâm trí anh ta xem ra cũng không xấu xa hoặc ngốc nghếch khi bàn tới chuyện đó. Nhưng sau đó, Eric viết cho tôi một lá thư nói rằng có lẽ anh ta đã thực sự yêu tôi, vì tôi thông minh, hay giễu nhại, và tôi có một khuôn mặt tử tế, thật tình cờ giống với người chị của anh ta. Thế là tôi biết mình công cốc rồi, tôi là mẫu người mà không bao giờ Eric tính ngủ cùng, tôi bèn viết cho Eric một lá thư bảo rằng mình sắp kết hôn với một người bạn thanh mai trúc mã. Càng nghĩ về điều đó, tôi càng thích thú với ý tưởng bị một chàng phiên dịch cabin thành phố New York quyến rũ. Constantin xem ra thành thục và ân cần trong mọi phương diện. Lại chẳng có người nào tôi biết để anh ta khoe khoang, giống như bọn con trai ở trường khoác lác với bạn cùng phòng hay đồng đội bóng rổ về chuyện ngủ với gái ở băng sau xe. Và quả là một sự châm biếm thú vị khi được ngủ với chính người đàn ông do bà Willard giới thiệu, loanh quanh một chút còn có thể đổ lỗi này lên đầu bà ta. Khi nghe Constantin mời tới nhà anh ta nghe một vài đĩa nhạc balalaika, tôi liền cười thầm. Mẹ vẫn thường dặn tôi rằng trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng không được đi cùng một người đàn ông lên phòng của anh ta sau khi đi chơi khuya về, vì điều đó chỉ mang một ý nghĩa duy nhất. “Tôi rất thích nhạc balalaika,” tôi nói. Phòng của Constantin có một ban công, từ đó nhìn xuống được dòng sông, chúng tôi có thể nghe được tiếng còi tàu hụ bên dưới trong bóng tối. Tôi cảm thấy xao động và biết rõ việc mình sắp làm. Tôi biết mình rất có thể mang bầu, nhưng ý nghĩ này mông lung xa vời, chẳng làm tôi lo lắng chút nào. Không có cách nào trăm phần trăm tránh nổi việc dính bầu, tôi đã đọc nó trong một bài báo mà mẹ cắt từ tạp chí Reader’s Digest và gửi tới trường cho tôi. Bài báo này do một nữ luật sư đã lập gia đình và có con viết với tựa đề Để bảo vệ trinh tiết. Bài báo đưa ra đủ các lý do để khuyến cáo rằng một người con gái không nên ngủ với bất cứ ai khác ngoài chồng mình và chỉ sau khi đã kết hôn. Điểm chính yếu mà bài báo nói tới là thế giới của đàn ông khác với thế giới của phụ nữ, cảm xúc của đàn ông cũng khác với cảm xúc của phụ nữ và chỉ có hôn nhân mới có thể nối hòa hợp kết hai thế giới và hai loại cảm xúc này. Mẹ tôi thường bảo đó là điều mà khi người con gái nhận ra thì đã muộn rồi, vì thế cần phải theo lời khuyên của những chuyên gia, kiểu một phụ nữ đã có gia đình chẳng hạn. Vị nữ luật sư này cho rằng những người đàn ông ưu tú đều muốn mình còn tân đối với vợ, và ngay cả khi họ không còn trong trắng nữa, họ cũng muốn trở thành người dạy dỗ cho vợ mình về tình dục. Tất nhiên họ luôn cố thuyết phục một cô gái làm tình với mình và hứa rằng sẽ lấy cô ta, nhưng ngay khi cô ta nhượng bộ, họ sẽ không còn tôn trọng cô ta nữa và bắt đầu nói rằng nếu cô ta làm điều đó với họ, cô ta cũng có thể làm với những người đàn ông khác và thế là họ đã hủy diệt cuộc đời cô gái khốn khổ. Kết thúc bài báo, tác giả khuyên rằng “Phòng bệnh hơn chữa bệnh”, ngoài ra, không có một phương thức chắc chắn nào để tránh việc dính bầu, và một khi như vậy, cuộc đời bạn sẽ toàn chua với xót. Lúc này, điều duy nhất mà tôi quan tâm thì bài báo lại không đề cập tới, là cô gái cảm thấy như thế nào. Cũng có lẽ giữ được trinh tiết, rồi lấy một người đàn ông còn tân là một điều tốt, nhưng nếu sau khi kết hôn, anh ta bất ngờ thú nhận mình không còn trong trắng, kiểu Buddy Willard thì sao? Tôi không chịu được ý tưởng đàn bà buộc phải chính chuyên trong khi đàn ông có thể chơi trò lá mặt lá trái, mặt này chính chuyên và mặt kia hoang đàng. Cuối cùng tôi đi tới quyết định là nếu khó tìm được một người đàn ông cường tráng, thông minh và còn tân ở tuổi hai mươi mốt, thì chính tôi cũng có thể quên đi việc giữ gìn trinh tiết rồi sẽ lấy ai đó cũng không còn trong trắng. Thế rồi nếu hắn ta hành cho đời tôi khốn khổ, tôi cũng có thể hành ngược lại. Khi tôi mười chín, trinh tiết là một vấn đề trọng đại. Thay vì nhìn thế giới bị phân chia thành Công giáo và Kháng cách, phe Cộng hòa và phe Dân chủ, người da trắng và người da màu, thậm chí đàn ông và đàn bà, tôi chỉ thấy thế giới bị phân chia thành: người đã ngủ với một ai đó và người chưa làm chuyện này, và điều đó xem ra là sự khác biệt có ý nghĩa duy nhất giữa người nọ và người kia. Tôi nghĩ một sự thay đổi ngoạn mục sẽ xảy ra với mình khi tôi bước chân vượt qua ranh giới. Đối với tôi, điều đó cũng giống như những gì mình cảm nhận được nếu từng được sang châu Âu. Khi trở về nhà, nhìn kỹ trong gương, tôi sẽ có thể nhận ra hình ảnh dãy núi Alp tuyết phủ thu nhỏ đọng lại trong đáy mắt. Giờ đây tôi nghĩ rằng nếu ngày mai soi gương, tôi sẽ thấy Constantin bé bằng con búp bê ngồi trong mắt tôi, đang mỉm cười cùng tôi. Thế rồi suốt khoảng một tiếng đồng hồ, chúng tôi ngồi ngoài ban công nhà Constantin, trên hai chiếc ghế riêng, nghe máy quay đĩa, một chồng đĩa balalaika ở giữa chúng tôi. Một thứ ánh sáng lung linh huyền ảo, có thể là từ đèn đường, từ mảnh trăng bán nguyệt, từ những chiếc xe qua lại, hoặc từ các vì sao, không thể phân biệt được. Constantin chỉ nắm tay tôi mà không tỏ vẻ muốn quyến rũ tôi chút xíu nào. Tôi hỏi xem anh ta đã hứa hôn hoặc có bạn gái đặc biệt nào chưa, nghĩ rằng có thể vấn đề là ở chỗ đó, nhưng anh ta bảo rằng chưa, thậm chí quan điểm của anh là phải dứt ra khỏi những dính dấp như thế. Cuối cùng tôi cảm thấy buồn ngủ ghê gớm, có lẽ là do thứ rượu mùi vỏ thông mà tôi vừa uống. “Tôi muốn vào và ngả lưng một chút,” tôi nói. Tôi thản nhiên đi vào phòng ngủ và cúi xuống cởi giày. Chiếc giường sạch sẽ bồng bềnh trước mắt tôi như một con thuyền an toàn. Tôi nằm dài ra và nhắm mắt lại. Sau đó tôi nghe tiếng Constantin thở dài và trở vào từ ban công. Từng chiếc giày của anh ta rớt xuống sàn, anh nằm xuống bên tôi. Tôi lén nhìn anh qua lọn tóc rủ. Anh nằm ngửa, gối đầu lên tay, mắt nhìn chăm chăm lên trần nhà. Tay áo sơ mi trắng xắn lên tận khuỷu, sáng lên một cách kỳ ảo trong bóng tối lờ mờ, làn da rám nắng gần như đen sẫm lại. Tôi nghĩ hẳn anh phải là người đàn ông đẹp trai nhất mà tôi từng gặp. Tôi ước giá mà mình có một vóc dáng cân đối và sắc sảo hơn, hoặc có thể bàn luận chính trị một cách khôn ngoan, hoặc là một nhà văn nổi tiếng, có lẽ Constantin sẽ thấy tôi đủ hấp dẫn để ngủ cùng. Rồi tôi băn khoăn giả như anh thích tôi, anh lại sẽ chìm đắm trong những điều tầm thường, nếu Constantin yêu tôi, tôi sẽ nhận thấy ở anh hết khuyết điểm này đến khuyết điểm nọ, kiểu như với Buddy và những gã trai trước nữa. Liên tục giẫm vào vết xe đổ. Tôi sẽ nhìn thấy một chàng trai hoàn hảo nào đó từ đằng xa, nhưng khi tới gần hơn, tôi lập tức thấy rằng anh ta không phải như vậy. Đó cũng là một trong những lý do khiến tôi không bao giờ muốn kết hôn. Mong muốn cuối cùng của tôi là sự an toàn tuyệt đối và trở thành nơi bắn ra của một mũi tên. Tôi thích sự biến hóa và kích thích để từ đó bắn mình ra khắp mọi hướng, tựa như những mũi tên sặc sỡ bung ra từ hỏa tiễn trong ngày Quốc khánh mùng 4 tháng Bảy. Tôi tỉnh giấc vì tiếng mưa rơi. Đêm đen như mực. Mãi một lúc tôi mới nhận ra được đường nét lờ mờ của một khung cửa sổ xa lạ. Chốc lát lại có một quầng sáng lóe lên trong không khí loãng, lướt qua bức tường như một bóng ma, mò mẫm ngón tay, rồi lại tan vào hư không. Sau đó tôi nghe có tiếng ai đó đang thở. Thoạt tiên tôi cứ nghĩ đó chính là mình và tôi đang nằm giữa bóng tối trong phòng khách sạn sau khi bị ngộ độc. Tôi nín thở nhưng âm thanh đó vẫn còn. Một con mắt màu xanh lóe lên trên giường bên cạnh tôi. Nó được chia thành bốn phần trông như một chiếc la bàn. Tôi chầm chậm vươn tay nắm lấy nó và nâng lên. Cùng với nó là một cánh tay nặng như của một xác chết, nhưng ấm áp dễ chịu. Chiếc đồng hồ đeo tay của Constantin chỉ đúng 3 giờ. Anh ta mặc nguyên áo sơ mi, quần dài và cả tất nằm đó hệt như lúc tôi chìm vào giấc ngủ. Khi mắt tôi đã quen dần với bóng tối, tôi nhận ra đôi mí mắt nhợt nhàn nhạt, chiếc mũi thẳng, cái miệng đẹp đẽ toát lên vẻ khoan dung của anh, nhưng chúng dường như hơi mờ ảo tựa sương khói. Tôi nghiêng người, chiêm ngưỡng anh vài phút. Chưa bao giờ tôi cảm thấy buồn ngủ bên cạnh một người đàn ông. Tôi cố tưởng tượng ra mọi việc sẽ như thế nào nếu Constantin là chồng mình. Điều đó sẽ có nghĩa là phải thức dậy lúc 7 giờ sáng, chiên trứng cho anh, cùng thịt xông khói, bánh mì, cà phê, rồi khi anh đi làm, tôi sẽ cứ mặc nguyên đồ ngủ và đeo cuộn tóc mà rửa bát đĩa và dọn giường. Sau một ngày làm việc đầy sôi động và say mê, anh trở về nhà mong đợi một bữa tối tươm tất, thế là tôi lại mất cả buổi tối để rửa đống bát đĩa còn nhiều hơn ban sáng, cho tới khi hoàn toàn kiệt sức, nằm vật ra giường. Đây dường như là một cuộc sống nặng nề và uổng phí với một cô gái luôn đạt điểm A trong suốt mười lăm năm trời, nhưng tôi biết hôn nhân là như thế đó, bởi nấu nướng, lau chùi, giặt giũ là tất những gì mà mẹ của Buddy Willard làm từ sáng đến tối, mà bà lại là vợ của một giáo sư đại học còn chính bản thân bà từng là một giáo viên tư thục. Một hôm tới thăm Buddy, tôi thấy bà Willard đang đan một tấm thảm bằng những sợi len lấy từ mấy bộ đồ cũ của ông Willard. Bà đã mất hàng tuần lễ cho tấm thảm đó và tôi rất ngưỡng mộ những dải màu nâu, xanh lá và xanh da trời đan xen nhau. Nhưng sau khi làm xong, thay vì treo tấm thảm lên tường như tôi sẽ làm, bà lại đặt nó vào trong bếp làm thảm chùi chân và chỉ ít ngày sau đó nó trở nên lem luốc, xấu xí chẳng khác với bất cứ tấm thảm nào bạn có thể mua với giá dưới một đô la trong chuỗi cửa hàng Five and Ten. Và tôi biết rõ rằng bất chấp bấy nhiêu những hoa hồng, những nụ hôn, những lần đi ăn nhà hàng mà chàng thường dành cho nàng trước khi cưới, nhưng khi lễ thành hôn vừa kết thúc, điều âm thầm mong mỏi của chàng là cô nàng phải nằm dài ra dưới chân mình như tấm thảm trong bếp của bà Willard vậy. Mẹ cũng kể cho tôi nghe rằng ngay khi bà và bố tôi rời Reno đi nghỉ tuần trăng mật, bố tôi trước đây đã có vợ và ly hôn, ông bảo bà: “Ồ, giờ thì nhẹ nhõm rồi, chúng mình hãy thôi giả vờ và trở về con người thực của mình.” Từ hôm ấy trở đi, mẹ không có nổi một giây phút bình yên. Tôi nhớ Buddy Willard từng nói bằng một giọng nham hiểm, anh hiểu rằng khi có con, tôi sẽ cảm thấy khác hẳn, tôi sẽ không còn muốn làm thơ nữa. Vì thế tôi bắt đầu nghĩ là sự thật chăng nếu việc kết hôn và có con cũng giống như một cuộc tẩy não, từ đó trở đi hành động của bạn sẽ trở nên ngây dại, như một tên nô lệ tại một đất nước độc tài chuyên chế nào đó. Trong lúc tôi ngắm Constantin theo kiểu bạn nhìn một viên sỏi lấp lánh nơi đáy giếng, cặp mí của anh máy động, anh nhìn tôi, đôi mắt tràn ngập yêu thương. Tôi chăm chú quan sát cánh cửa của tâm hồn chớp chớp một cách dịu dàng mơ hồ, đôi đồng tử mở lớn, sáng láng, không hề sâu thẳm như tráng một lớp sơn. Constantin ngồi dậy và ngáp: “Mấy giờ rồi?” “Ba,” tôi đáp bằng một giọng buồn chán. “Có lẽ em phải về. Sáng mai còn phải đi làm.” “Anh sẽ lái xe đưa em về.” Trong khi chúng tôi ngồi quay lưng lại với nhau trên hai mép giường, lóng ngóng đi giày vào trong ánh đèn ngủ màu trắng sáng chói, tôi có cảm giác Constantin quay người lại. “Tóc em luôn thế này hả?” “Như thế nào cơ?” Anh không trả lời nhưng ngồi sát lại, đưa tay vào chân tóc tôi, những ngón tay của anh ta chầm chậm vuốt đều ra tới ngọn tóc như một cái lược. Một luồng điện nhỏ chạy dọc người tôi, và tôi ngồi yên lặng hoàn toàn. Từ ngày thơ ấu, tôi vẫn thích được người ta chải đầu cho mình. Nó làm cho tôi cảm thấy buồn ngủ và thanh thản. “A! Anh biết rồi,” Constantin nói. “Em vừa mới gội đầu.” Và anh ta cúi xuống buộc dây giày thể thao. Một tiếng sau, tôi đã nằm trên giường ở khách sạn, lắng nghe tiếng mưa rơi. Thậm chí không giống tiếng mưa mà giống tiếng vòi nước chảy. Cơn đau ở xương ống chân bên trái lại trỗi dậy, tôi chẳng còn hy vọng ngủ lại trước 7 giờ, khi đồng hồ báo thức trên máy thu thanh thức tôi dậy bằng những giai điệu mạnh mẽ của Sousa. Mỗi lần trời mưa, lại khiến tôi nhớ tới cái chân từng gẫy của mình, nỗi nhớ đi kèm với cơn đau dấm dứt. Và tôi nghĩ: “Buddy Willard đã khiến mình bị gẫy chân.” Nhưng rồi tôi nghĩ lại: “Không, chính mình đã tự làm nó gẫy, quả báo cho hành vi đê tiện của mình.” Tám Ông Willard lái xe đưa tôi tới Adirondacks. Hôm đó là một ngày sau lễ Giáng sinh, bầu trời xám xịt lơ lửng trên đầu, xung quanh toàn là tuyết. Tôi cảm thấy nhộn nhạo trong dạ dày, ngơ ngẩn và thất vọng, tôi luôn trở nên như vậy ngay sau lễ Giáng sinh, như thể những cành thông và đèn nến, những món quà lấp lánh trang kim, ngọn lửa trong lò sưởi, con gà tây dành cho Giáng sinh và cả tiếng đàn hát được hứa hẹn, cuối cùng đều khiến tôi hụt hẫng. Cứ đến lễ Giáng sinh, hầu như tôi lại ước mình là người Công giáo. Ban đầu, ông Willard lái xe rồi tới phiên tôi lái. Tôi không biết chúng tôi đang nói về chuyện gì, nhưng cảnh đồng quê chìm sâu dưới những lớp tuyết phủ, bày ra một triền núi ảm đạm, những cây linh sam mọc tràn từ những ngọn đồi xám vươn tới tận ven đường, một màu xanh thăm thẳm chuyển sắc đen, tôi mỗi lúc lại cảm thấy buồn chán hơn. Tôi thực muốn bảo ông Willard đi tiếp một mình, còn tôi sẽ đi nhờ xe trở về nhà. Nhưng khi thoáng nhìn khuôn mặt của ông Willard - mái tóc bạc húi cua như trẻ con, cặp mắt xanh trong, đôi má hồng hào, tất cả pha tuyết sương như chiếc bánh ngọt trong đám cưới, toát lên vẻ ngây thơ, đáng tin cậy - tôi biết là mình không thể làm vậy. Tôi phải thực hiện chuyến thăm viếng này tới cùng. Trưa đến, bầu trời bớt xám xịt đi đôi chút, chúng tôi đậu xe tại một khúc quẹo phủ băng, chia nhau những chiếc sandwich kẹp cá ngừ, bánh quy yến mạch, vài trái táo và một bình cà phê đen mà bà Willard đã chuẩn bị sẵn cho bữa trưa của chúng tôi. Ông Willard hiền hậu nhìn tôi. Sau đó ông hắng giọng và phủi những mẩu bánh vương trên áo. Tôi tin rằng ông sắp sửa nói ra một điều gì đó hệ trọng bởi vì ông rất nhút nhát, tôi đã nghe ông hắng giọng kiểu đó trước diễn thuyết một buổi hội thảo quan trọng về kinh tế học. “Nelly và bác luôn muốn có một đứa con gái.” Trong một thoáng điên rồ, tôi cứ tưởng ông Willard sắp sửa bảo rằng bà Willard mang bầu và họ đang mong đợi một đứa con gái. Rồi ông nói: “Nhưng bác chưa thấy một đứa con gái nào tốt hơn cháu.” Ông Willard hẳn sẽ nghĩ rằng tôi phải phát khóc vì sung sướng khi ông nói muốn trở thành bố tôi. “Nào, nào,” ông vỗ nhẹ lên vai tôi rồi hắng giọng một hay hai lần nữa. “Bác nghĩ chúng ta hiểu nhau mà.” Ông mở cửa xe phía bên mình rồi vòng qua phía bên tôi, hơi thở của ông phả lên thành làn khói ngoằn ngoèo trong không khí màu xám. Tôi chuyển sang chỗ mà ông vừa để lại, ông nổ máy xe và chúng tôi đi tiếp. Tôi không chắc mình đang mong chờ gì nơi dưỡng đường Buddy đang điều trị. Tôi nghĩ mình mong chờ một biệt thự bằng gỗ nằm trên đỉnh một ngọn núi thấp, với những thanh niên nam nữ có đôi má ửng hồng, tất cả đều đẹp đẽ chỉ trừ đôi mắt ánh lên bệnh lao phổi, đang nằm dưới những tấm chăn dày trên ban công ngoài trời. “Mắc bệnh lao cũng giống như sống với một trái bom trong phổi,” Buddy từng gửi thư cho tôi như thế. “Ta chỉ biết nằm yên lặng, hy vọng nó sẽ không nổ.” Tôi thấy khó tưởng tượng ra cảnh Buddy nằm yên. Toàn bộ triết lý sống của anh là phải hoạt động từng giây một. Ngay cả dạo chúng tôi đi nghỉ hè ở bãi biển, anh cũng không bao giờ chịu nằm yên phơi nắng giống như tôi. Anh chạy tới chạy lui, chơi bóng hoặc hít đất liên tục để giết thời gian. Ông Willard và tôi ngồi trong phòng tiếp khách đợi giờ tĩnh dưỡng điều trị buổi chiều chấm dứt. Toàn bộ dưỡng đường xem ra được thiết kế toàn một màu nâu đỏ của gan. Đồ gỗ màu đen thẫm, ghế da màu nâu xém, những bức tường trước đây hẳn là màu trắng nhưng đã phải đổi màu bởi mốc meo và ẩm thấp. Một tấm thảm nâu lốm đốm được trải kín sàn nhà. Trên một chiếc bàn cà phê thấp, những vệt bẩn tròn và bán nguyệt hằn lên lớp gỗ sẫm, tôi thấy một vài số tạp chí cũ Time và Life. Tôi giở trang giữa tờ gần nhất. Khuôn mặt của Eisenhower đang rạng rỡ nhìn tôi, cái đầu hói và sắc diện vô hồn tựa khuôn mặt của một bào thai đựng trong bình. Một lúc sau, tôi nghe tiếng nước chảy ri rỉ. Thoạt tiên tôi cứ nghĩ là do hơi ẩm tích tụ trên vách tường nứt nhỏ xuống, nhưng rồi tôi nhận ra nó xuất phát từ một vòi phun nhỏ ở góc phòng. Vòi phun này là một đoạn ống chỉ vài inch nhô ra từ một đường ống thô ráp, từ đó yếu ớt phun lên một ít bọt nước nhỏ, và rớt ngay xuống một chậu đá chứa thứ nước vàng khè, chẳng làm sủi chút tăm nào. Đáy chậu lót bằng gạch trắng hình lục lãng thường thấy trong các phòng vệ sinh công cộng. Có tiếng chuông reo, tiếng mở cửa và khép lại từ xa. Sau đó Buddy bước vào. “Chào bố.” Buddy ôm lấy bố, và ngay lập tức mặt mày rạng rỡ, anh đi về phía tôi và chìa tay ra. Chúng tôi bắt tay nhau, bàn tay anh mập mạp và ẩm ướt. Ông Willard và tôi ngồi xuống ghế đi văng bọc da. Buddy ngồi trên mép của chiếc ghế bành đối diện. Anh không ngừng mỉm cười như thể có một sợi dây vô hình nào đó treo khóe miệng anh lên. Tôi ngàn vạn lần không mong muốn Buddy sẽ phát phì. Bất cứ lúc nào tôi hình dung về anh ở dưỡng đường này, tôi đều thấy đôi má hóp trơ xương và đôi tròng mắt lọt giữa những hốc mắt không chút thịt. Nhưng giờ những chỗ lõm trên người Buddy đột nhiên phình ra. Bụng anh căng phồng dưới lớp áo nylon màu trắng chật ních, đôi má tròn trĩnh và hồng hào như một cặp trái hạnh. Ngay cả tiếng cười của anh cũng đầy vẻ no đủ. Anh bắt gặp ánh mắt của tôi. “Do ăn nhiều đấy,” anh nói. “Hết ngày này qua ngày khác, họ nhồi nhét và chỉ cho bọn anh nằm thôi. Nhưng đừng lo, bây giờ anh đã được phép có giờ đi dạo ra ngoài, chắc chắn anh sẽ gầy bớt sau vài tuần nữa.” Anh nhảy nhót, cười tươi tắn ra vẻ chủ nhà. “Em có muốn tham quan phòng anh không?” Tôi nối bước Buddy, còn ông Willard theo sau tôi, đi qua đôi cánh cửa lùa bằng thủy tinh mờ, xuống một hành lang âm u màu nâu sẫm như gan, phảng phất mùi sáp và một mùi mơ hồ như hoa dành dành bị vò nát. Buddy mở một cánh cửa màu nâu và chúng tôi bước vào trong một căn phòng hẹp. Chiếc giường lộn xộn, trải ga trắng có sọc nhỏ màu xanh, chiếm phần lớn không gian. Cạnh đó là bàn ngủ có đặt bình nước và một cái ly, chiếc nhiệt kế bạc cắm trong một cái bình khử trùng màu hồng. Một cái bàn khác, chất hàng đống sách, giấy má và một lô chậu đất nung lớn nhỏ có phủ sơn nằm giữa chân giường và cánh tủ. “Ồ,” ông Willard hít một hơi. “Xem ra cũng tiện nghi đấy.” Buddy bật cười. “Những cái này là gì?” Tôi cầm lên một cái gạt tàn bằng đất sét có hình lá hoa súng với những nét gân vàng tinh tế trên nền xanh. Buddy vốn không hút thuốc. “Cái gạt tàn,” Buddy nói, “dành cho em đấy.” Tôi đặt cái gạt tàn xuống: “Em có hút thuốc đâu.” “Anh biết,” Buddy nói. “Dẫu vậy anh nghĩ có thể em sẽ thích nó.” “Nào,” ông Willard mím đôi môi mỏng dính như tờ giấy. “Bố nghĩ mình phải đi thôi. Để cánh trẻ các con lại với nhau…” “Vâng. Bố cứ đi đi ạ.” Tôi rất ngạc nhiên. Tôi cứ tưởng thế nào ông Willard sẽ ngủ lại đây một đêm để sáng hôm sau đưa tôi về. “Cháu cũng về chứ ạ?” “Ồ không,” ông Willard rút vài tờ giấy bạc trong ví ra đưa cho Buddy. “Kiếm cho Esther một chỗ ngồi tốt trên xe lửa. Nó có thể ở lại đây một vài ngày.” Buddy tiễn bố ra cửa. Tôi cảm thấy như bị ông Willard bỏ rơi. Hẳn ông đã lên kế hoạch từ trước, nhưng Buddy cho rằng không phải thế, đơn giản chỉ vì bố anh ta không chịu nổi cảnh ốm đau, đặc biệt là của chính con trai mình. Ông nghĩ rằng mọi bệnh từ tâm sinh. Cả đời ông chưa bao giờ ốm lấy một ngày. Tôi ngồi xuống giường của Buddy. Đơn giản vì chẳng còn chỗ nào khác để ngồi. Buddy lục lạo trong đống giấy má ra vẻ nghiêm túc. Rồi anh ta trao cho tôi một tờ tạp chí mỏng bìa xám: “Mở trang mười một.” Tờ tạp chí xuất bản đâu đó ở Maine đầy ắp thơ và những đoạn văn tự thuật, ngăn cách nhau bằng những dấu hoa thị. Ở trang mười một tôi đọc được một bài thơ nhan đề Bình minh ở Flonda. Tôi lướt qua hết bức hình này đến bức hình khác, những ngọn đèn hình trái dưa, những cây cọ màu xanh đồi mồi và những vỏ sò có khía như những kiến trúc cổ Hy Lạp. “Không tệ.” Mặc dù tôi thấy chúng dở ẹc. “Ai viết thế?” Buddy hỏi với nụ cười ngây ngô, kỳ lạ. Mắt tôi nhìn xuống tên tác giả phía dưới, bên góc phải của trang giấy: B.S. Willard. “Em không biết,” nhưng tôi nói liền lúc đó. “Tất nhiên rồi, em biết là anh, Buddy. Anh đã viết bài thơ đó.” Buddy dấn về phía tôi. Tôi dịch ra sau. Tôi biết rất ít về bệnh lao phổi, và tôi cho rằng đó là một thứ bệnh rất nguy hiểm, bởi diễn biến âm thầm của nó. Tôi nghĩ Buddy chắc chắn đang mang trong mình những mầm bệnh lao chết người đó. “Đừng lo,” Buddy cười lớn. “Không phải dương tính đâu.” “Dương tính?” “Em sẽ không bị lây đâu.” Buddy ngừng lại lấy hơi, như thể đang leo giữa chừng một con dốc thẳng đứng. “Anh muốn hỏi em một điều,” gần đây anh chàng học được một thói quen xấu, xoáy cái nhìn vào mắt tôi như muốn xuyên vào đầu để biết rõ những gì đang diễn ra trong đó. “Anh từng nghĩ nên viết thư hỏi em.” Một chiếc phong bì xanh nhạt có phù hiệu Yale ở mặt sau lướt qua mắt tôi. “Nhưng rồi anh quyết định tốt hơn nên chờ em tới,” anh ngưng lại. “Em không muốn biết đó là chuyện gì sao?” “Chuyện gì vậy?” Tôi hỏi bằng một giọng không hứa hẹn. Buddy ngồi xuống bên cạnh tôi. Anh lấy tay ôm ngang lưng tôi, vuốt lọn tóc xuôi từ tai tôi xuống. Tôi ngồi yên. Rồi nghe tiếng anh ta thì thầm: “Em muốn trở thành bà Buddy Willard không?” """