"Proust Có Thể Thay Đổi Cuộc Đời Của Bạn Như Thế Nào - Alain de Botton full prc pdf epub azw3 [Best seller] 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Proust Có Thể Thay Đổi Cuộc Đời Của Bạn Như Thế Nào - Alain de Botton full prc pdf epub azw3 [Best seller] Ebooks Nhóm Zalo Proust Có Thể Thay Đổi Cuộc Đời Bạn Như Thế Nào Tác giả: Alain de Botton Dịch giả: Trần Quốc Tân Nhã Nam phát hành Nhà Xuất Bản Thế Giới 1/2018 —★— ebook©vctvegroup 12/06/2019 Chương một LÀM CÁCH NÀO ĐỂ YÊU CUỘC SỐNG HÔM NAY Hiếm có điều gì khiến con người ta dành nhiều tâm trí cho như là cảm giác không hạnh phúc. Nếu như chúng ta bị một đấng sáng tạo tai quái cho hiện diện trên thế gian này chỉ với mục đích chịu đau khổ, ta hẳn có lý do chính đáng để khen ngợi mình vì phản ứng nhiệt thành của chúng ta với tác vụ ấy. Lý do khiến ta không thể dứt bỏ cảm giác ấy nhiều vô kể: sự yếu đuối của thể xác ta, tính bấp bênh của tình yêu, sự giả dối của đời sống xã hội, sự tương nhượng trong tình bạn, hay tác dụng xoa dịu của thói quen. Vì con người phải đối mặt với những tâm bệnh dai dẳng như thế, hiển nhiên ta có thể trông đợi rằng sự kiện được dự liệu nhiều hơn hết là thời khắc tuyệt diệt của chính ta. Ai năng đọc báo ở Paris vào thập niên 1920 có thể bắt gặp tờ báo có nhan đề L’Intransigeant[1]. Tờ báo nổi tiếng về những phóng sự điều tra, chuyện đồn đại chốn thành thị, rao vặt tổng hợp và những bài xã luận sắc bén. Tờ báo cũng hay đặt ra các câu hỏi đao to búa lớn và nhờ những người nổi tiếng ở Pháp cung cấp câu trả lời. Chẳng hạn, “Ông/ bà nghĩ sự giáo dục lý tưởng dành cho con gái ông/ bà là gì?” Hay là “Ông/ bà có đề xuất gì để cải thiện tình trạng tắc đường ở Paris?” Mùa hè năm 1922, tờ báo đặt ra một câu hỏi rất phức tạp cho những người cộng tác: Một nhà khoa học Mỹ tuyên bố rằng thế giới sẽ cáo chung, hoặc ít nhất một phần lớn lục địa này sẽ bị phá hủy, và bằng cách bất ngờ như thế, cái chết sẽ là số mệnh chắc chắn cho hàng trăm triệu người. Nếu lời tiên đoán này được xác nhận là đúng, theo ông/ bà, nó sẽ tác động thế nào tới con người từ lúc họ biết được điều chắc chắn nói trên cho đến thời khắc thảm họa ấy xảy ra? Cuối cùng, bản thân ông/ bà sẽ làm gì vào giờ khắc cuối cùng ấy? Người nổi tiếng đầu tiên trả lời kịch bản tàn nhẫn về sự tận diệt cá nhân và hoàn cầu ấy là một nhà văn tiếng tăm lừng lẫy thời bấy giờ, dù giờ đây đã rơi vào quên lãng, Henri Bordeaux; theo ông, biến cố ấy sẽ đẩy một phần đông nhân loại đến ngay nhà thờ gần nhất hoặc cái giường gần nhất, mặc dù bản thân lại né tránh lựa chọn khó khăn ấy, ông nói rằng mình sẽ dành cơ hội cuối cùng này để leo một ngọn núi hòng chiêm ngưỡng vẻ đẹp của phong cảnh và thảm thực vật vùng núi Alps. Một ngôi sao khác ở Paris, nữ diễn viên đã thành danh, Berthe Bovy, không chọn cách tiêu khiển nào cho riêng mình mà chia sẻ với độc giả nỗi e ngại rằng loài người sẽ gỡ bỏ tất cả những sự kiềm chế một khi hành động của họ không còn kéo theo các hậu quả về lâu dài. Lời dự báo u ám ấy cũng giống với ý của một nhà xem tướng tay nổi tiếng ở Paris, Madame Fraya, bà cho rằng con người, thay vì dành giờ phút cuối đời chiêm nghiệm về tương lai ngoài trái đất, sẽ mải mê với những khoái lạc trần tục đến nỗi chẳng còn mấy tâm trí mà sửa soạn tâm hồn cho hậu kiếp - mối hoài nghi ấy được khẳng định khi một nhà văn khác, Henri Robert, hồn nhiên tuyên bố sẽ dành trọn thời gian cho ván bài Bridge, trận tennis và golf cuối cùng. Người nổi tiếng cuối cùng được hỏi ý kiến về dự định tiền tận thế là một tiểu thuyết gia ẩn dật, ria mép rậm, không hứng thú với golf, tennis hay bài Bridge (mặc dù ông đã thử chơi cờ đam một lần, và hai lần hỗ trợ người khác thả diều), trước đó đã dành mười bốn năm nằm trên cái giường hẹp dưới một đống chăn len mỏng để viết một cuốn tiểu thuyết dài bất thường mà không có lấy một cái đèn ngủ cho tử tế. Từ khi tập đầu tiên ấn hành năm 1913, Đi tìm thời gian đã mất đã được xem là một kiệt tác; một nhà điểm sách Pháp ví tác giả với Shakespeare, một nhà phê bình Ý so sánh ông với Stendhal và một công chúa Áo còn ngỏ ý muốn kết hôn với ông. Mặc dù ông chưa bao giờ đề cao bản thân (“Giá như tôi có thể đánh giá mình cao hơn! Trời ạ! Đó là điều không thể”), và từng ví mình như con bọ chét và sự viết lách của mình như một cục mè xửng không thể tiêu hóa, Marcel Proust vẫn có lý do để hài lòng. Ngay cả Đại sứ Anh ở Pháp, một người giao thiệp rộng và đánh giá cẩn mực, cũng thấy xứng đáng khi dành tặng Proust một lời vinh danh vĩ đại, nếu không phải là một danh hiệu văn chương, và mô tả ông là “người đáng chú ý nhất mà tôi từng gặp - bởi ông ấy vẫn mặc nguyên áo choàng khi ăn tối.” Vốn vẫn nhiệt tình cộng tác với báo chí, và dù gì đây cũng là chuyện lý thú, Proust gửi câu trả lời cho tờ L’Intransigeant và nhà khoa học người Mỹ chuyên nghiên cứu về thảm họa của nó như sau: Tôi nghĩ cuộc sống sẽ bỗng nhiên trở nên tuyệt vời nếu chúng ta bị đe dọa là sẽ chết như ông nói. Hãy nghĩ đến bao dự án, chuyến đi, mối tình, công trình nghiên cứu mà nó - tức là cuộc đời - vẫn giấu chúng ta, và bị thói lười biếng của chúng ta, vốn đoan chắc sẽ có một tương lai nào đó, biến thành vô hình và trì hoãn vô thời hạn. Nhưng nếu như toàn bộ mối đe dọa ấy không bao giờ có thể xảy ra, thì cuộc sống sẽ lại trở nên tuyệt vời làm sao! À ha! Chỉ cần sự diệt vong không xảy đến lần này, chúng ta sẽ không bỏ lỡ việc thăm thú những cuộc triển lãm tranh mới mở ở Louvre, phủ phục xuống chân cô nàng X, làm một chuyến tới Ấn Độ. Sự diệt vong không xảy ra, chúng ta chẳng làm gì cả, vì ta thấy mình trở lại guồng quay của cuộc sống thường nhật, nơi sự lơ là làm thui chột khao khát. Tuy vậy ta không cần đến sự diệt vong để thấy yêu cuộc sống hôm nay. Chỉ cần nghĩ rằng ta là con người, và cái chết có thể đến ngay tối nay. Cảm xúc chợt gắn chặt với cuộc đời khi ta nhận ra cái chết lơ lửng trước mặt cho thấy cái chúng ta đã thấy chán ngán chừng nào còn không có cái kết trước mắt, hóa ra, không phải bản thân cuộc sống, mà là phiên bản thường ngày của nó trong cảm nhận của chúng ta, rằng những bất mãn của chúng ta là kết quả của một lối sống cụ thể nào đó, chứ không phải là do bất cứ thứ gì thê lương không thể thay đổi trong kinh nghiệm của con người. Khi ta từ bỏ niềm tin lâu đời về sự bất diệt của con người, ta sẽ được nhắc nhở về các khả năng ta chưa từng thử qua, lẩn quất bên dưới bề mặt của một sự tồn tại dường như không đáng mong muốn, dường như vĩnh hằng. Tuy nhiên, nếu sự thừa nhận thích đáng về cái chết khuyến khích ta đánh giá lại các mối ưu tiên của mình, ta có thể hỏi các mối ưu tiên ấy nên là gì. Chúng ta có thể mới chỉ sống được nửa đời người khi bắt đầu phải đối mặt với những dấu hiệu của cái chết, nhưng chính xác thì một đời trọn vẹn bao hàm những điều gì? Nhận thức giản đơn về kết cục tất yếu của mình không đảm bảo rằng ta sẽ nghiệm ra được câu trả lời sáng suốt nào đấy khi ta phải điền nốt vào phần còn lại của cuốn nhật ký. Chỉ cần nghe tiếng tích tắc của đồng hồ, ta đã hoảng loạn đến mức có thể phải viện tới một hành động điên rồ ngoạn mục nào đó. Những câu trả lời mà các nhân vật nổi tiếng ở Paris gửi cho tờ L’Intransigeant khá là mâu thuẫn: chiêm ngưỡng khung cảnh dãy Alps, chiêm nghiệm về tương lai ngoài trái đất, chơi tennis, chơi golf. Nhưng liệu có điều gì trong số ấy là cách sử dụng thời gian hiệu quả trước khi lục địa này tan rã? Các gợi ý của Proust (về Louvre, tình yêu, Ấn Độ) cũng chẳng giúp ích hơn là bao. Trước tiên, chúng trái với những gì người ta biết về tính cách của ông. Ông chưa từng là người năng ghé các bảo tàng, ông không đặt chân đến Louvre từ hơn chục năm, và thà ngắm nghía những bức tranh chép còn hơn là phải đối diện với tiếng trò chuyện của đám người đi xem triển lãm trong bảo tàng (“Người ta nghĩ tình yêu văn chương, hội họa và âm nhạc đã trở nên cực kỳ phổ biến, trong khi thực tế chẳng có người nào biết một tí gì về chúng cả”). Người ta cũng không rõ về mối quan tâm của ông với tiểu lục địa Ấn Độ, và dẫu sao chuyến đi gian nan ấy - phải đáp xe lửa xuống Marseilles, từ đó lên tàu thủy chở bưu phẩm đến thành phố cảng Port Said, rồi lại mất mười ngày trên con tàu chở khách của hãng vận tải P&O băng qua biển Ả Rập - cũng khó mà là lịch trình lý tưởng cho một người hầu như không muốn bước chân ra khỏi giường. Còn với cô nàng X, mặc cho nỗi buồn rầu của mẹ ông, Marcel chưa bao giờ tỏ ra xao động trước vẻ hấp dẫn của cô, hay của bất kỳ cô gái nào, từ cô A tới cô Z; và đã từ rất lâu rồi ông không còn buồn thắc mắc liệu cô có người em trai nào không, sau khi kết luận rằng một cốc bia lạnh còn mang đến nguồn khoái cảm đáng tin cậy hơn là làm tình. Nhưng hóa ra ngay cả nếu muốn làm theo các khuyến nghị của mình, Proust cũng ít có cơ hội. Chỉ bốn tháng sau khi gửi câu trả lời đến L’Intransigeant, với dự đoán rằng một chuyện như thế này sẽ kéo dài đến vài năm, ông bị cảm và qua đời, hưởng dương năm mươi mốt tuổi. Ông đã được mời đến một bữa tiệc và, mặc dù có triệu chứng của một cơn cúm nhẹ, ông vẫn quấn ba cái áo khoác trên người, cộng thêm hai tấm chăn và đi ra ngoài nguyên như thế. Trên đường về nhà, ông phải đứng đợi taxi ở một khoảng sân lạnh lẽo, thế là ông bị cảm lạnh. Trận cảm tiến triển thành một cơn sốt cao, lẽ ra đã bị kiềm chế nếu Proust không bỏ ngoài tai lời khuyên của các bác sĩ được mời đến nhà khám cho ông. Sợ rằng họ sẽ cản trở việc viết lách của mình, ông không để họ tiêm tinh dầu long não, và vẫn tiếp tục viết, không ăn hay uống được bất cứ thứ gì ngoài sữa nóng, cà phê và trái cây hầm. Cơn cảm lạnh chuyển thành viêm phế quản, rồi biến chúng thành viêm phổi. Những tia hy vọng phục hồi được nhen lên trong chốc lát khi ông ngồi dậy trên giường và đòi ăn món cá bơn nướng, nhưng đến khi cá được mua về và nấu xong thì ông lại có cảm giác buồn nôn và không thể ăn được miếng nào. Ông qua đời vài tiếng sau đó vì khối áp xe trong phổi vỡ ra. May mắn thay, những suy nghĩ của Proust về cách sống không chỉ giới hạn trong một câu trả lời quá ngắn ngủi và có phần khó hiểu cho một câu hỏi giả tưởng trên báo - bởi vì, cho đến lúc chết, ông vẫn miệt mài viết ra một cuốn sách hòng đưa ra câu trả lời, dù với một hình thức hơi quá mở rộng và phức tạp về cách kể, cho một câu hỏi vốn không phải là không tương đồng với câu hỏi được gợi ý từ dự báo của nhà khoa học giả tưởng người Mỹ kia. Nhan đề của cuốn sách dài ấy cũng nói lên điều đó. Mặc dù Proust chưa bao giờ thích cái tên này, nhiều lần ông nhắc đến nó như là “không thích hợp” (1914), “sai lạc” (1915) hay “xấu xí” (1917), Đi tìm thời gian đã mất vẫn có ưu điểm là đã chỉ ra chủ đề trung tâm của cuốn tiểu thuyết một cách khá rõ ràng: cuộc đi tìm những nguyên do đằng sau sự uổng phí và mất mát thời gian. Nó hoàn toàn không phải hồi ức lần tìm về một thời kỳ lãng mạn hơn, mà là một câu chuyện mang tính thực tế, áp dụng với toàn thể nhân loại, về cách ngưng hoài phí thời gian và bắt đầu chấp nhận cuộc đời. Mặc dù lời tiên báo về một tận thế sắp đến hẳn nhiên khiến cho điều đó trở thành mối quan tâm hàng đầu trong tâm trí của bất cứ ai, cuốn cẩm nang của Proust vẫn thắp lên hy vọng rằng chủ đề này có thể neo giữ tâm trí chúng ta chút ít trước khi sự hủy diệt cá nhân và hoàn cầu đến gần; và rằng nhờ thế mà ta có thể học cách điều chỉnh các mối ưu tiên của mình trước khi bắt đầu chơi ván golf cuối cùng và khuỵu ngã. Chương hai LÀM CÁCH NÀO ĐỂ ĐỌC CHO CHÍNH BẢN THÂN Proust sinh ra trong một gia đình rất coi trọng việc giúp cho người khác cảm thấy dễ chịu hơn. Cha ông là bác sĩ, một người bệ vệ, để râu quai nón với tướng mạo điển hình của thế kỷ 19, dáng vẻ uy quyền và ánh nhìn hữu ý có thể khiến ai nhìn vào cũng cảm thấy mình yếu đuối. Ở ông toát lên sự vượt trội về đạo đức vốn có sẵn trong những người làm nghề y, một nhóm hiển nhiên có giá trị với xã hội được bất kỳ ai từng khổ sở vì chứng bệnh từ ho khan hoặc vỡ ruột thừa công nhận, và bởi thế có thể gợi ra cảm giác thừa thãi không dễ chịu ở những ai theo nghề nghiệp ít được chứng nhận về giá trị hơn. Bác sĩ Adrien Proust có xuất phát điểm khiêm tốn, là con một người bán tạp hóa tỉnh lẻ chuyên làm nến sáp cho giáo dân và nhà thờ. Sau khi theo đuổi ngành y một cách xuất sắc, với đỉnh cao là luận văn Các hình thức khác nhau của chứng nhũn não, bác sĩ Proust chuyên tâm vào việc nâng cao tiêu chuẩn chung về vệ sinh công cộng. Ông đặc biệt quan tâm đến việc ngăn chặn lây lan dịch tả và dịch hạch, đi tới nhiều nơi bên ngoài nước Pháp để tư vấn cho các chính phủ nước ngoài về các bệnh truyền nhiễm. Ông được tưởng thưởng xứng đáng cho những nỗ lực của mình, được tặng thưởng huân chương Hiệp sĩ Bắc Đẩu Bội tinh và phong học hàm giáo sư về dịch tễ học ở Trường Y thuộc Đại học Paris. Thị trưởng thành phố cảng Toulon, nơi một thời bị dịch tả hoành hành, đã trao cho ông chìa khóa biểu tượng vào thành phố và tên ông được đặt cho một bệnh viện dành cho bệnh nhân bị cách ly để kiểm soát dịch bệnh ở Marseilles. Khi ông mất vào năm 1903, Adrien Proust là một bác sĩ có tên tuổi trên thế giới, và hầu như không ai hoài nghi khi ông tóm tắt sự tồn tại của mình bằng suy nghĩ, “Tôi đã hạnh phúc suốt cả cuộc đời mình!” Quả thực không khó hiểu nếu như Marcel cảm thấy mình hơi vô giá trị khi đặt cạnh cha và e sợ mình là nhân tố phá hoại trong cuộc đời mãn nguyện ấy. Ông chưa bao giờ nung nấu một khát vọng nghề nghiệp nào được coi như biểu hiện của sự bình thường trong một gia đình tư sản vào cuối thế kỷ 19. Văn chương là điều duy nhất ông quan tâm, mặc dù trong phần lớn tuổi trẻ, ông không có vẻ quá quyết tâm, hay tỏ ra có khả năng, với việc viết lách. Vì là đứa con trai ngoan, trước tiên ông cố gắng làm điều gì đó được cha mẹ ưng thuận. Ông từng có suy nghĩ xin vào làm tại Bộ Ngoại giao, hoặc trở thành một luật sư, một nhà môi giới chứng khoán hay một phụ tá ở bảo tàng Louvre. Tuy vậy cuộc săn tìm sự nghiệp của ông có vẻ khá khó khăn. Hai tuần làm việc với một luật sư đã đủ làm ông khiếp hãi (“Trong những thời khắc kinh khủng nhất của mình, tôi chưa từng tuởng tượng được ra thứ gì khủng khiếp hơn một văn phòng luật”) và ý nghĩ trở thành một nhà ngoại giao bị gạt bỏ khi ông nhận ra mình sẽ phải đi khỏi Paris và xa rời người mẹ yêu quý. “Tôi còn biết làm gì nữa, khi mà tôi đã quyết định không trở thành luật sư, bác sĩ hay tu sĩ...?” Chàng Proust hai mươi hai tuổi ngày một tuyệt vọng tự hỏi. Đáng lẽ ông đã có thể trở thành một thủ thư. Ông nộp đơn và được chọn vào một vị trí không được trả lương ở thư viện Mazarine[2]. Đó lẽ ra là một chốn lý tưởng cho ông, nhưng Proust thấy nơi này bụi bặm đến mức lá phổi của ông không chịu nổi bèn xin một đợt nghỉ ốm cứ kéo dài ra mãi, trong đó có những ngày ông nằm trên giường, có những ngày ông đi nghỉ dưỡng, nhưng chẳng mấy khi ông ngồi bên bàn viết. Cuộc sống của ông hình như khá hấp dẫn, ông năng tổ chức những bữa tiệc tối, ra ngoài dự tiệc trà và tiêu tiền như nước. Người ta có thể tưởng tượng nỗi buồn phiền của cha ông, một con người thực tế, chưa bao giờ tỏ ra hứng thú với nghệ thuật cho lắm (mặc dù ông từng phục vụ trong đội y tế của đoàn opéra Comique và quyến rũ được một ca sĩ opera người Mỹ, người gửi cho ông một bức hình chụp bà bận đồ như đàn ông trong chiếc quần nhiều tầng diêm dúa dài đến gối). Sau khi liên tục không đi làm, xuất hiện ở chỗ làm hầu như mỗi năm chỉ một ngày hoặc ít hơn, thì ngay cả những người quản lý thư viện bao dung hiếm thấy của Marcel rốt cuộc cũng mất kiên nhẫn và sa thải ông sau năm năm kể từ khi ông được nhận vào làm. Đến lúc ấy thì không chỉ người cha vốn đã thất vọng mà tất cả mọi người cũng đều thấy rõ rằng Marcel sẽ không bao giờ có được một công việc tử tế - và sẽ mãi mãi phải dựa vào tiền của gia đình để theo đuổi sở thích văn chương vốn không đem lại lợi lộc gì và mang tính tài tử. Bởi thế thật khó mà hiểu được mối tham vọng mà Proust giãi bày với người hầu gái[3] khi cả cha và mẹ ông đều đã qua đời, và rốt cuộc ông đã bắt tay vào viết cuốn tiểu thuyết của mình. “Céleste này,” ông nói, “giá mà tôi có thể chắc chắn về việc mình làm với những cuốn sách như cha tôi làm với người bệnh nhỉ.” Làm việc với những cuốn sách giống như cách ngài Adrien đã từng làm với người mắc bệnh tả và dịch hạch ư? Người ta không cần phải là thị trưởng Toulon để nhận ra bác sĩ Proust có khả năng giúp cải thiện tình trạng sức khỏe của người khác, còn Marcel định chữa lành cái gì với bảy tập của bộ sách Đi tìm thời gian đã mất? Công trình ấy có thể là một cách để vượt qua một chuyến đi bằng xe lửa chậm chạp băng qua vùng thảo nguyên Siberia, nhưng liệu có ai muốn tuyên bố rằng nó hữu ích ngang với một hệ thống vệ sinh công cộng được vận hành bài bản? Nếu chúng ta gạt bỏ những tham vọng của Marcel, thì đó là bởi nỗi hoài nghi cụ thể với các đặc tính chữa lành của tiểu thuyết, hơn là vì nghi ngờ toàn bộ giá trị của các tác phẩm in ấn. Ngay cả bác sĩ Proust, tuy khó cảm thông với thiên hướng của con trai về nhiều mặt, cũng không ác cảm với mọi thể loại sách, và thực ra, ông cũng là một tác giả có nhiều đầu sách, và trong một thời gian dài từng được biết đến ở các hiệu sách nhiều hơn con trai mình. Tuy vậy, không giống cậu con trai, tính thiết thực trong các trước tác của bác sĩ Proust thì không có gì phải bàn cãi. Trong ba mươi tư cuốn sách, ông tận tụy với việc tìm hiểu những cách thức phong phú nhằm cải thiện tình trạng sức khỏe của người dân, các tựa sách của ông trải rộng từ một nghiên cứu về Việc phòng ngừa dịch hạch của châu Âu cho đến một vấn đề thuộc chuyên môn sâu và mới mẻ ở thời điểm đó, Chứng nhiễm độc chì quan sát thấy ở các công nhân sản xuất pin. Nhưng có lẽ bác sĩ Proust nổi tiếng nhất với giới độc giả nhờ một số cuốn sách truyền tải cô đọng, sinh động và bằng thứ ngôn ngữ dễ hiểu tất cả những vấn đề mà người ta có thể muốn biết về một cơ thể khỏe mạnh. Sẽ không có gì là mâu thuẫn với tinh thần chung của các tham vọng của ông khi miêu tả ông là nhà tiên phong và bậc thầy về viết sách hướng dẫn cách tự chăm sóc sức khỏe. Cuốn sách hướng dẫn độc giả tự thực hành thành công nhất của ông có tên Các yếu tố về vệ sinh; sách được xuất bản năm 1888, với đầy đủ minh họa và nhắm đến các thiếu nữ, những người được cho là rất cần lời khuyên về việc cải thiện sức khỏe để sinh ra một thế hệ công dân Pháp mới khỏe mạnh cường tráng, bù đắp cho sự hao hụt sau một thế kỷ tiến hành những cuộc phiêu lưu quân sự hao tổn xương máu. Vì mối quan tâm đến một lối sống lành mạnh chỉ nổi lên kể từ thời bác sĩ Proust, nên có lẽ cũng hữu ích khi điểm qua một vài lời khuyến nghị sâu sắc của vị bác sĩ này. BÁC SĨ PROUST CÓ THỂ THAY ĐỔI SỨC KHỎE CỦA BẠN NHƯ THẾ NÀO (i) Đau lưng Xuất hiện hầu như do sai tư thế. Khi một thiếu nữ khâu vá, cô nên chú ý không cúi về phía trước, bắt tréo chân hay ngồi bên một cái bàn thấp, bởi như thế sẽ chèn ép các cơ quan tiêu hóa quan trọng, ngăn cản sự lưu thông máu và kéo căng cột sống, vấn đề này được minh họa trong hình vẽ cảnh báo bên dưới: Thay vào đó cô nên làm theo tư thế của thiếu nữ này: (ii) Áo nịt ngực Bác sĩ Proust không che giấu mối ác cảm với những vật dụng thời trang này, ông mô tả chúng như là thứ để tự gây hại cho cơ thể và phi lý (để phân biệt rõ cho những ai lo lắng về mối tương quan giữa thon và đẹp, ông cảnh báo độc giả, “Một phụ nữ gầy khác xa với một phụ nữ mảnh mai”). Nhằm cảnh báo các cô gái từng bị áo nịt ngực cuốn hút, bác sĩ Proust thêm vào một hình minh họa để cho thấy tác động tai hại của chúng với cột sống. (iii) Tập thể dục Thay vì giả vờ mảnh mai và cân đối nhờ các dụng cụ nhân tạo, bác sĩ Proust đề xuất một chế độ tập thể dục thường xuyên, bao gồm một số bài tập mẫu thiết thực, không quá sức, ví dụ như nhảy từ tường xuống... ... nhảy lò cò vòng quanh... ... vung tay... và giữ thăng bằng trên một chân. Có người cha am tường về thể dục thẩm mỹ, về tác hại của áo nịt ngực và các tư thế ngồi khi may vá thêu thùa, Marcel hẳn đã có thể bị coi là hấp tấp hoặc đơn giản là quá tham vọng nếu so sánh công trình của đời mình với thành tựu của tác giả cuốn sách Các yếu tố về vệ sinh. Thay vì chỉ trích ông là không có cơ sở, hãy đặt câu hỏi là liệu ta có thể trông mong bất kỳ cuốn tiểu thuyết nào chứa đựng các đặc tính chữa lành, và liệu bản thân thể loại này có thể mang lại sự giải tỏa nào đó lớn hơn một viên aspirin, cuộc dạo bộ đồng quê hay ly martini nguyên chất. Bớt khắt khe hơn, ta có thể cho đó là khuynh hướng thoát ly thực tại. Bị bỏ lại ở những chốn quen thuộc, biết đâu ta lại hứng thú mua một cuốn sách bìa mềm trên sạp báo ở ga tàu (“Tôi bị cuốn hút bởi ý tưởng đến với một phạm vi độc giả rộng hơn - kiểu người mua một bản sách in kém chất lượng trước lúc lên tàu”, Proust nói rõ). Một khi ta bước lên toa tàu, ta có thể tách mình ra khỏi khung cảnh hiện tại và bước vào một thế giới dễ chịu hơn, hay ít nhất là khác một cách dễ chịu, thỉnh thoảng dứt ra để ngắm cảnh vật vụt qua, trong khi tay vẫn giữ trang sách in kém chất lượng ở đoạn vị nam tước cáu bẳn đeo kính một mắt chuẩn bị bước vào phòng khách - cho tới khi ga đến của chúng ta được báo trên loa, phanh tàu phát ra những tiếng rít miễn cưỡng và ta lại trở về với thực tại, với biểu tượng là nhà ga và bầy bồ câu xám lảng vảng đang mổ miếng bánh bị vứt lại với vẻ gian giảo (trong hồi ký của mình, Céleste, cô giúp việc của Proust, nhắn nhủ những ai cảm thấy lo lắng khi mới tiếp xúc với cuốn tiểu thuyết của Proust là nó được viết ra không phải để đọc trong khi đi từ bến tàu này đến bến tàu khác). Dù những cái thú của việc dùng một cuốn tiểu thuyết làm công cụ để đưa ta bay lên một thế giới khác là gì, thì đó cũng không phải phương cách duy nhất để đối đãi với thể loại này. Đó chắc chắn không phải là phương cách của Proust, và có lẽ không phải phương pháp hiệu quả cho lắm để thỏa mãn những tham vọng chữa lành cao đẹp mà Proust bày tỏ với Céleste. Để hình dung suy nghĩ của Proust về việc chúng ta nên đọc sách thế nào, tốt nhất là xem cách Proust ngắm tranh. Sau khi Proust mất, bạn ông, Lucien Daudet, viết về quãng thời gian bên cạnh ông, trong đó có mô tả về lần họ ghé thăm bảo tàng Louvre cùng nhau. Mỗi khi xem tranh, Proust đều có thói quen cố gắng tìm ra sự tương đồng giữa các nhân vật được vẽ trong tranh với những người ông biết trong đời thực. Daudet kể là họ đi vào phòng tranh treo một bức vẽ của Domenico Ghirlandaio[4]. Bức tranh có tên Ông già và cậu bé, được vẽ vào những năm 1480, mô tả một người đàn ông có vẻ mặt nhân hậu với một cụm nhọt ở chóp mũi. Proust ngắm bức tranh của Ghirlandaio một lát, rồi quay sang Daudet và bảo rằng người đàn ông này giống hệt Hầu tước de Lau, một nhân vật có tiếng trong giới giao tế của Paris thời đó. Quả là ngạc nhiên khi có người lại đồng nhất vị hầu tước, một quý ông sống tại Paris vào cuối thế kỷ 19, với một chân dung được vẽ ở Ý vào cuối thế kỷ 15. Tuy nhiên, có một bức hình chụp ngài hầu tước còn lưu lại đến ngày nay. Đó là hình ông ngồi trong vườn với một hội quý bà mặc những bộ váy áo cầu kỳ tới độ phải cần tới năm hầu gái để giúp cho họ mặc. Ông bận một bộ âu phục màu tối, cổ áo cánh én, có khuy măng sét và đội mũ chóp cao, nhưng nếu bỏ qua trang phục cầu kỳ thế kỷ 19 lẫn chất lượng của bức ảnh, ta vẫn thấy ông quả thực tương đồng lạ lùng với người đàn ông có nhọt được Ghirlandaio vẽ ở nước Ý thời Phục hưng, một người anh em thất lạc đã lâu bị chia cắt qua mấy đất nước, mấy thế kỷ. Khả năng liên hệ về thị giác giữa những người sống trong các thế giới hoàn toàn khác nhau lý giải cho lời khẳng định của Proust rằng: “Về mặt thẩm mỹ, chỉ có một số típ người giới hạn, nên ta luôn phải lấy làm thích thú, ở bất cứ đâu có thể, ngắm nhìn những người mà ta quen biết.” Và niềm vui đó không chỉ dừng lại ở khía cạnh thị giác, bởi một số lượng típ người giới hạn có nghĩa là ta có thể đọc lại nhiều lần về những người mình biết ở những nơi chốn không ngờ tới. Chẳng hạn, ở tập hai trong bộ tiểu thuyết của Proust, người kể chuyện tới khu nghỉ dưỡng Balbec nằm bên bờ biển Normandy, nơi anh gặp và ngã lòng yêu một người mà tôi biết, một phụ nữ trẻ mang vẻ mặt táo tợn, đôi mắt rạng rỡ biết cười, hai má bầu bĩnh, và thích đội mũ polo đen. Đây là lời Proust mô tả tiếng của Albertine khi cô nói: Trong lúc nói, Albertine giữ đầu bất động, lỗ mũi chun lại và hầu như không cử động môi. Kết quả là một giọng mũi kéo dài, tạo thành một thứ hợp âm có lẽ cùng với giọng di truyền tỉnh lẻ, điệu phớt Ăng-lê bắt chước không phải lối, cách dạy phát âm của một nữ gia sư ngoại quốc và chứng phì đại sung huyết của dịch nhầy mũi. Kiểu phát âm này hóa ra sẽ sớm biến mất khi cô biết người ta rõ hơn để nhường chỗ cho một giọng nữ tính, hẳn có thể bị cho là khó nghe. Nhưng với tôi nó lại đặc biệt hấp dẫn. Mỗi khi tôi đi đâu vài ngày mà không được trông thấy cô, tôi sẽ tự động viên tinh thần mình bằng cách liên tục nói với mình câu: “Chúng tôi chưa từng thấy anh chơi golf bao giờ”, với giọng mũi giống như cách cô từng phát âm những từ này, thẳng tưng, không hề cử động cơ mặt. Và khi ấy tôi nghĩ không có ai trên đời lại cuốn hút đến như thế. Khi đọc sự mô tả về nhân vật hư cấu nào đó, thật khó mà không đồng thời tưởng tượng ra những người ta quen trong đời, dù ta không hề ngờ tới, tương đồng với họ nhất. Chẳng hạn, tôi không tài nào tách rời hình ảnh nữ công tước de Guermantes của Proust khỏi hình ảnh người mẹ kế năm mươi lăm tuổi của một bạn gái cũ, mặc dù người phụ nữ cả tin ấy không biết nói tiếng Pháp, không có tước hiệu và sống ở Devon. Thêm nữa, khi nhân vật cả thẹn, e dè Saniette của Proust hỏi liệu ông ta có thể ghé thăm người kể chuyện tại khách sạn của anh ta ở Balbec, giọng điệu vừa kiêu hãnh vừa thủ thế ông ta dùng để che đậy ý định kết thân giống y một bạn học thời đại học của tôi, người có thói quen kỳ quặc là không bao giờ đặt anh ta vào hoàn cảnh mà anh ta có thể bị từ chối. “Nếu như anh không biết sẽ làm gì trong vài ngày tới, thì có thể tôi sẽ ở đâu đó loanh quanh Balbec. Dù sao cũng chẳng có gì hệ trọng, tôi chỉ nghĩ cần phải hỏi anh thôi,” Saniette nói với người kể chuyện, y như cách Philip từng đề cập đến các kế hoạch cho buổi tối. Còn nhân vật Gilberte của Proust, cô này trong tâm trí tôi dứt khoát là tương đồng với Julia, cô gái tôi gặp trong một kỳ nghỉ trượt tuyết năm mười hai tuổi, hai lần mời tôi tới uống trà (cô ấy ăn bánh ngàn lá rất chậm rãi, đánh rơi những mẩu vụn xuống chiếc váy in hoa) và tôi đã hôn cô vào đêm giao thừa rồi không bao giờ gặp lại nữa, vì cô sống ở châu Phi, có lẽ giờ đây đã trở thành y tá như ước muốn của cô thời niên thiếu. Proust thật có ích khi nhắc nhở rằng, “Đọc một cuốn tiểu thuyết ta không khỏi gán cho nữ nhân vật chính các đặc điểm của người ta yêu”. Lời nhắc này khiến thói quen của tôi trở nên đáng trọng - thói quen tưởng tượng rằng Albertine, đoạn cô dạo bước ở Balbec với đôi mắt rạng rỡ biết cười và mũ polo đen, giống đến kỳ lạ cô bạn gái Kate của tôi, người chưa bao giờ đọc Proust và thích đọc George Eliot, hay tạp chí Marie-Claire sau một ngày vất vả hơn. Kate/Albertine Sự tương thông gần gũi giữa cuộc đời của chúng ta và những cuốn tiểu thuyết ta đọc có thể là lý do khiến Proust biện luận rằng: Trong thực tế, mỗi độc giả, khi đọc, đều đang đọc chính bản ngã của anh ta. Tác phẩm của nhà văn chỉ đơn thuần là một dạng công cụ quang học mà nhà văn mang cho độc giả nhằm giúp anh ta nhận rõ điều mà, nếu không có cuốn sách, có thể anh ta sẽ không bao giờ nghiệm thấy ở bản thân. Và việc độc giả nhận ra trong bản ngã của chính anh ta thông điệp cuốn sách là bằng chứng cho tính xác thực của nó. Nhưng tại sao độc giả lại muốn làm người đọc chính bản thân họ? Tại sao Proust lại chú trọng vào mối liên hệ giữa bản thân ta và các tác phẩm nghệ thuật, ở trong tiểu thuyết của ông cũng như trong thói quen thưởng ngoạn bảo tàng của ông? Một cách trả lời là vì đó là cách duy nhất nghệ thuật có thể tác động thích đáng thay vì chỉ giúp chúng ta tạm dứt khỏi cuộc sống, và vì có một chuỗi lợi ích phi thường gắn với cái có thể gọi là Hiện tượng hầu tước de Lau (MLP), gắn với khả năng nhận ra Kate trong phác họa về Albertine, Julia trong sự miêu tả về Gilberte và rộng hơn là bản thân chúng ta trong những cuốn sách in kém chất lượng bày bán ở các ga tàu. CÁC LỢI ÍCH CỦA MLP (i) Cảm thấy ở đâu cũng là nhà Việc chúng ta có thể thấy bất ngờ khi nhận ra ai đó ta biết trong một bức chân dung được vẽ cách đây bốn thế kỷ cho thấy sự khó khăn trong việc bám víu vào thứ gì đó rộng hơn là một niềm tin lý thuyết vào một bản tính con người phổ quát. Proust nhìn nhận vấn đề đó như sau: Con người của những thời đại đã qua dường như cách xa chúng ta vô tận. Ta không cảm thấy hợp lý khi gán cho họ các mục đích kín đáo nằm ngoài những gì họ thể hiện một cách chính thức; ta sửng sốt khi bắt gặp một xúc cảm tương tự những gì ngày nay ta cảm thấy ở một nhân vật anh hùng trong sử thi của Homer... cứ như thể ta tưởng tượng nhà thơ viết anh hùng ca... ở cách xa bản thân ta cũng như một con vật ta thấy trong sở thú. Cũng không có gì bất thường nếu như thôi thúc ban đầu khiến chúng ta muốn được làm quen với các nhân vật trong Odyssey là nhìn họ như thể một gia đình thú mỏ vịt đang đi dạo vòng quanh chuồng tại một sở thú trong thành phố. Hẳn ta sẽ hoang mang không kém khi nghĩ rằng mình đang lắng nghe một nhân vật ám muội, có ria mép rậm, đứng giữa đám bạn bè trông đặc biệt lỗi thời: Nhưng lợi thế của những cuộc đương đầu dài hơi hơn với Proust hoặc Homer là các thế giới có vẻ như xa lại mang đầy vẻ đe dọa về bản chất hóa ra lại giống thế giới của chính ta đến vậy, chúng mở rộng thêm những nơi chốn ta cảm thấy thân quen. Nghĩa là, ta có thể mở cánh cổng sở thú và phóng thích một nhóm các sinh vật bị tóm từ thời cuộc chiến thành Troy hay khu ngoại ô Saint-Germain, những kẻ trước đó ta nhìn nhận với mối hồ nghi không có cơ sở về người tỉnh lẻ, vì họ mang cái tên như Eurycleia và Telemachus hoặc chưa bao giờ biết đến fax. (ii) Phép chữa lành nỗi cô đơn Ta cũng có thể thả chính mình ra khỏi sở thú. Điều mà một người cảm thấy là bình thường ở bất cứ nơi đâu, vào bất cứ thời điểm nào, có thể là một phiên bản tóm lược của những gì trên thực tế là bình thường, vì thế kinh nghiệm của các nhân vật hư cấu cho ta thấy bức tranh mênh mông về hành vi của con người, và bởi thế đó là sự xác nhận cho tính bình thường vốn là bản chất của những ý nghĩ hoặc cảm xúc không được nhắc đến trong môi trường lân cận ta. Sau trận cãi vã như trẻ con với người yêu vì trông có vẻ thờ ơ với mình trong bữa tối, thật nhẹ nhõm khi nghe người kể chuyện của Proust thú nhận với ta rằng “ngay khi tôi thấy Albertine không đối xử tốt với mình, thay vì nói với cô ấy là tôi buồn, tôi lại trở nên cáu kỉnh”, và tiết lộ rằng “tôi chưa bao giờ bày tỏ mong muốn cắt đứt với cô ấy, trừ khi tôi không thể sống nếu không có cô”, để rồi sau đó những trò hề tình cảm của chính chúng ta có vẻ bớt giống những hành vi của một con thú mỏ vịt mắc dịch. Tương tự, các MLP có thể giúp chúng ta cảm thấy bớt cô đơn. Sau khi bị tình nhân bỏ rơi, sau khi người đó đã bày tỏ theo cách tử tế nhất có thể tưởng tượng được về nhu cầu dành thêm chút thời gian cho chính họ, thật nhẹ nhõm biết bao khi nằm trên giường và chứng kiến người kể chuyện của Proust đúc kết thành lời ý nghĩ sau đây: ”Khi hai người chia tay, ai không yêu sẽ là người nói ra những lời êm ái.” Thật dễ chịu khi chứng kiến một nhân vật hư cấu (kỳ diệu thay, người đó cũng là chính bản thân ta khi ta đọc) cũng hứng chịu những nỗi đau đớn gây ra bởi sự cắt đứt ngọt ngào và, quan trọng là, sau đó vẫn sống sót. (iii) Khả năng chạm thấy Giá trị của một tiểu thuyết không dừng lại ở sự mô tả các cảm xúc và con người giống như trong đời thực, nó còn vươn đến khả năng mô tả những điều này tốt hơn chúng ta có thể nhiều, khả năng chạm một ngón tay vào các nhận thức mà ta nhận ra là của chính ta, nhưng không thể tự mình hình thành. Ta có thể từng quen ai đó giống nữ công tước hư cấu de Guermantes, và cảm thấy có vẻ gì đó bề trên và thô lỗ trong cung cách của bà, mà không thực sự biết đó là gì, cho đến khi Proust kín đáo chỉ ra trong ngoặc, cách nữ công tước phản ứng khi, trong một bữa tối tao nhã, quý bà de Gallardon mắc lỗi là tỏ ra hơi thân mật quá với nữ công tước, người còn được biết đến với tên Oriane des Laumes, và gọi bà bằng tên tục: “Oriane” (lập tức bà des Laumes tỏ vẻ sửng sốt đến buồn cười với một người thứ ba vô hình mà bà đã triệu tới để chứng kiến là bà chưa bao giờ cho phép bà de Gallardon gọi tên thánh của mình)... Tác động của việc đọc một cuốn sách biết dành sự chú ý cho những xung động thoảng qua nhưng hệ trọng như thế nằm ở chỗ: khi ta đặt cuốn sách xuống và trở lại đời sống thực, ta có thể để tâm vào chính xác những điều hẳn sẽ nhận được phản ứng của tác giả nếu họ ở cùng chúng ta. Tâm trí ta sẽ giống như một cái ra đa mới được điều chỉnh để bắt lấy những đối tượng nhất định trôi qua miền nhận thức; hệ quả của việc đó sẽ giống như mang một cái radio vào một căn phòng ta tưởng là yên lặng, và nhận ra rằng sự yên lặng chỉ tồn tại ở một tần số cụ thể nào đó và thật ra ta đang ở trong căn phòng đó cùng với những sóng âm thanh đến từ một trạm phát ở Ukraine hay tiếng liên lạc qua sóng vô tuyến vào ban đêm của một hãng taxi. Chúng ta sẽ dành sự chú ý cho các sắc thái của bầu trời, cho những nét mặt biến đổi, cho tính đạo đức giả của một người bạn hay cho nỗi buồn chìm khuất về một tình huống mà trước đó ta thậm chí còn không biết là ta có thể thấy buồn vì nó. Cuốn sách sẽ khiến chúng ta trở nên nhạy cảm, kích thích các ăng ten không hoạt động của ta với bằng chứng về sự nhạy cảm của nó đã được tăng cường. Đó là lý do Proust đề xuất, trong những lời mà vì khiêm nhường ông sẽ không bao giờ dùng cho tiểu thuyết của chính mình, rằng: Đọc kiệt tác mới của một thiên tài, chúng ta mừng rỡ phát hiện trong nó các suy tưởng của chính ta mà ta từng khinh bỉ, những niềm vui và nỗi khổ mà ta đã kìm nén, cả một thế giới cảm xúc mà ta đã khinh miệt và giá trị của chúng do chính cuốn sách nơi ta khám phá ra bất ngờ dạy cho chúng ta. Chương ba LÀM SAO ĐỂ SỐNG THONG DONG Dù tác phẩm của Proust có giá trị thế nào, ngay cả một người ngưỡng mộ nhiệt thành nhất cũng khó mà phủ nhận một đặc tính bất tiện nhất của nó: độ dài. Như em trai của Proust, Robert[5], cho biết, “Đáng buồn là người ta phải lâm bệnh nặng hoặc bị gãy một chân mới có cơ hội đọc Đi tìm thời gian đã mất”. Và khi nằm trên giường với cái chân mới bó bột hay hai lá phổi bị chẩn đoán nhiễm vi khuẩn lao, họ lại phải đối mặt với thách thức khác, ấy là độ dài của mỗi một câu văn theo kiểu Proust, những cấu trúc loằng ngoằng, trong đó câu văn dài nhất, nằm trong tập thứ năm, mà nếu được bố trí thẳng tắp như một câu văn với cỡ chữ thông thường, sẽ dài ngót nghét bốn mét và có thể quấn mười bảy vòng quanh phần đáy của một chai rượu vang. Afred Humblot chưa bao giờ thấy thứ gì giống như thế. Đứng đầu nhà xuất bản danh tiếng Ollendorf, đầu năm 1913, ông từng được nhờ xem bản thảo của Proust để cân nhắc việc xuất bản; người tìm cách giúp Proust ra sách cũng là một trong những tác giả của Ollendorf, Louis de Robert. “Bạn quý của tôi, thứ lỗi cho đầu óc tôi tăm tối,” Humblot trả lời sau khi xem lướt qua, với cảm giác hoang mang thấy rõ, đoạn đầu cuốn tiểu thuyết, “nhưng tôi không hiểu nổi tại sao có người lại cần đến ba mươi trang để mô tả anh ta trằn trọc và xoay trở trên giường thế nào trước khi ngủ.” Nhận định này không ngoại lệ. Jacques Madeleine, người đọc bản thảo của nhà xuất bản Fasquelle, vài tháng trước đó cũng được nhờ xem xét chồng giấy đó. “Đến cuối bảy trăm mười hai trang của tập bản thảo,” ông báo cáo lại, “sau biết bao khổ ải vì bị nhận chìm trong những diễn biến không thể hiểu nổi, và sự sốt ruột ức chế do không thể ngoi lên được - ta vẫn không thể phát hiện nổi một manh mối về việc nó nói về cái gì. Mục đích của tất thảy những thứ này là gì? Tất cả chúng có ý nghĩa gì? Tất cả chúng dẫn đến đâu? Không thể biết được một cái gì! Không thể nói được một cái gì về bản thảo này!” Tuy vậy Madeleine đã thử tóm tắt các sự kiện trong mười bảy trang đầu tiên: “Một anh chàng bị mất ngủ. Anh ta xoay trở trên giường, cố nắm bắt những ấn tượng và ảo giác trong lúc nửa thức nửa ngủ của mình, một số có liên quan đến sự khó ngủ khi anh ta còn bé, trong phòng mình ở ngôi nhà miền quê của bố mẹ ở Combray. Mười bảy trang! Thậm chí còn có một câu văn (ở cuối trang 4 và 5) kéo dài bốn mươi bốn dòng.” Bởi lẽ tất cả nhà xuất bản khác đều đồng cảm với những nhận định ấy, Proust buộc phải chi tiền để tự in tác phẩm của mình (và được nhận hàng tràng những lời bày tỏ sự hối tiếc và hối lỗi muộn màng chỉ vài năm sau đó). Song những lời than phiền về sự dài dòng không phải chóng mà hết. Cuối năm 1921, tác phẩm lúc này đã được công nhận rộng rãi, Proust nhận được lá thư từ một người Mỹ, nói cô ta hai mươi bảy tuổi, ngụ ở Rome và vô cùng xinh đẹp. Cô ta cũng giải thích rằng ba năm trước đó cô ta chẳng làm gì khác để giết thời gian ngoài đọc cuốn sách của Proust. Tuy nhiên, có một vấn đề. “Tôi không hiểu gì, tuyệt đối không hiểu một cái gì. Marcel Proust thân mến, hãy thôi làm một kẻ màu mè và trở lại mặt đất. Chỉ cần nói với tôi trong hai dòng rằng anh thực sự muốn nói cái gì.” Nỗi tức tối của cô gái Rome xinh đẹp cho thấy kẻ màu mè đã vi phạm một nguyên tắc căn bản về độ dài, quy định số lượng từ thích hợp để thuật lại một kinh nghiệm. Thực ra, ông cũng không hẳn viết quá nhiều; chỉ là, ông đã dông dài quá sức, nếu xét đến tầm quan trọng của các sự kiện. Đi ngủ ư? Chỉ hai từ là đủ, hoặc bốn dòng nếu nhân vật chính bị khó tiêu hay một con chó giống Alsat đang sinh con ở khoảnh sân dưới nhà. Nhưng kẻ màu mè không chỉ dông dài về chuyện ngủ, ông lặp lại cùng lỗi đó với những bữa tiệc tối, cảnh ve vãn, nỗi ghen tuông. Điều này lý giải ý tưởng của “Cuộc thi tóm tắt Proust toàn nước Anh”, chương trình do Monty Python đăng cai tại một khu nghỉ dưỡng ở bờ biển miền Nam nước Pháp, cuộc thi đòi hỏi người tham gia phải tóm tắt bảy tập tác phẩm của Proust trong không quá mười lăm giây, và trình bày trong khi bận bộ đồ tắm, sau đó là bận đầm dự tiệc tối. Thí sinh đầu tiên là Harry Baggot đến từ Luton, người vội vã đưa ra câu trả lời sau: “Cuốn tiểu thuyết của Proust bề ngoài kể về sự bất khả quy hồi của thời gian đã mất, của sự ngây thơ và kinh nghiệm, sự khôi phục các giá trị nằm ngoài thời gian và thời gian được tìm lại. Trên hết, cuốn sách vừa có tính lạc quan, vừa đặt trong bối cảnh kinh nghiệm về tôn giáo của con người. Trong tập đầu tiên, Swann ghé thăm...” Nhưng mười lăm giây không cho phép nhiều hơn thế. “Một nỗ lực đáng khen,” người dẫn chương trình tuyên bố với sự chân thành đáng ngờ, “nhưng không may anh ta lại chọn một lời tán dương chung chung về tác phẩm trước khi đi vào các chi tiết cụ thể.” Người chơi được cảm ơn vì sự cố gắng, được khen ngợi về bộ đồ bơi và mời xuống khỏi sân khấu. Mặc cho thất bại mang tính cá nhân này, cuộc thi, xét về tổng thể, vẫn lạc quan cho rằng người ta có thể đưa ra một tóm tắt khả dĩ cho tác phẩm của Proust, tức là tin rằng những gì khởi thủy cần đến bảy tập sách để bày tỏ có thể được cô đọng hợp lý trong chưa đến mười lăm giây, mà không làm mất đi quá nhiều tính nhất quán hay ý nghĩa, miễn là tìm thấy một ứng cử viên thích hợp. Proust dùng gì trong bữa sáng? Trước khi bệnh tật của ông trở nên trầm trọng, hai tách cà phê đặc pha với sữa, đựng trong một cái ấm bạc được khắc những chữ cái đầu của tên ông. Ông thích cà phê được nén chặt trong phin nước sôi để nước nhỏ từng giọt. Ông cũng dùng một cái bánh sừng bò, được cô giúp việc mua về từ một tiệm bánh nhìn chung là biết cách làm, nó giòn và ngậy bơ, rồi ông sẽ nhúng nó vào cà phê trong lúc nhìn rảo qua thư và đọc báo. Ông có những cảm xúc phức tạp đối với hoạt động sau cùng ấy. Dẫu cho nỗ lực nén bảy tập của một cuốn tiểu thuyết vào trong mười lăm giây có bất thường đến đâu, có lẽ không gì vượt qua được, xét cả về tính thường xuyên lẫn mục đích, sức nén mà một tờ nhật báo đòi hỏi. Các câu chuyện đáng lẽ thoải mái lấp đầy hai mươi tập sách có thể được thu vào những cột báo hạn hẹp, tranh giành sự chú ý của độc giả với vô số truyện kịch tính một thời sâu sắc nhưng nay thì khá nhạt nhẽo. “Hành động đáng tởm và đầy nhục cảm được gọi là đọc báo ấy,” Proust viết, “nhờ đó mà tất cả những bất hạnh và tai ương xảy ra trong vũ trụ trong suốt hai bốn giờ đã qua, các trận chiến làm tiêu hao sinh mạng của năm mươi nghìn người, các vụ giết người, biểu tình, phá sản, hỏa hoạn, đầu độc, tự sát, ly dị, cảm xúc tàn nhẫn của các chính khách và diễn viên, đã được truyền tải tới chúng ta, những người thậm chí còn không quan tâm, như một món điểm tâm sáng, hòa quyện tuyệt vời, theo một cách đặc biệt kích thích và bổ dưỡng, với khẩu phần khuyến nghị là vài ngụm cà phê sữa.” Tất nhiên, ta chẳng nên lấy làm ngạc nhiên khi ý nghĩ về một ngụm cà phê nữa có thể phá ngang cố gắng của ta nhằm xem xét một cách cẩn trọng những trang báo được nén chặt, có lẽ giờ này đã rơi đầy vụn bánh. Một bài viết càng bị nén thì càng có vẻ là nó không đáng có thêm không gian so với quy định. Thật dễ dàng biết bao nếu tưởng tượng là không có gì xảy ra hôm nay, quên đi năm mươi nghìn người bỏ mạng trong chiến tranh, rồi thở dài, ném tờ báo sang một bên và nếm trải nỗi ư sầu nhẹ dâng trước sự tẻ ngắt của thói lệ thường ngày. Nhưng đó không phải cách của Proust. Toàn bộ triết lý của ông, không chỉ về sự đọc mà cả cuộc đời, có thể tóm tắt trong nhận xét sau của Lucien Daudet: Ông đọc báo vô cùng cẩn trọng. Ông thậm chí còn không bỏ qua mục tin vắn. Một tin vắn do ông kể biến thành một thiên tiểu thuyết sầu thảm hay hài hước, nhờ vào óc tưởng tượng và cả huyễn tưởng của ông ấy. Mục tin vắn trên tờ Le Figaro, tờ nhật báo Proust hay đọc, không dành cho người tâm lý yếu. Vào một buổi sáng tháng Năm năm 1914, độc giả hẳn sẽ được thết đãi những mẩu tin dạng như: Tại một ngã tư đông đúc ở Villeurbanne, một con ngựa nhảy vào toa sau một xe điện, khiến tất cả hành khách lộn nhào, ba trong số họ bị thương nặng và được đưa đến bệnh viện. Trong lúc giới thiệu cho một người bạn về cách vận hành của trạm phát điện ở Aube, ông Marcel Peigny chạm một ngón tay vào dây điện cao thế và bị giật chết ngay tức khắc. Một giáo viên, ông Jules Renard, đã tự tử ngày hôm qua ở tàu điện ngầm, bến République, ông dùng súng lục tự bắn vào ngực. Ông Renard đã mắc phải một chứng bệnh vô phương cứu chữa. Liệu những mẩu tin vắn này sẽ được mở ra thành những kiểu truyện bi hay hài nào? Mẩu tin về Jules Renard chẳng hạn? Một giáo viên dạy Hóa bị hen suyễn, có đời sống hôn nhân không hạnh phúc, dạy trong một trường nữ học ở Tả ngạn sông Seine, bị chẩn đoán mắc bệnh ung thư ruột kết gợi nhắc tới truyện của Balzac, Dostoyevsky và Zola. Còn vụ Marcel Peigny bị điện giật chết? Mất mạng trong lúc gây ấn tượng với một người bạn bằng kiến thức về thiết bị điện để khuyến khích sự kết giao giữa Serge, đứa con trai sứt môi của ông, với Mathilde, đứa con gái không mang coóc xê của ông bạn. Còn con ngựa ở Villeurbanne? Một cú nhào lộn vào chiếc xe điện, bị kích động bởi nỗi hoài nhớ sai lạc về nghề nhảy ngựa, hoặc sự trả thù chiếc xe buýt mới đây đã đâm chết người anh em của nó ở quảng trường lớn, sau đó người ta còn mổ thịt làm món steak ngựa nữa chứ, rất hợp cho đăng dưới hình thức feuilleton[6]. Một ví dụ chừng mực hơn về nỗ lực thổi phồng của Proust vẫn còn lưu truyền. Tháng Một năm 1907, trong lúc đọc báo, ông bắt gặp nhan đề của mẩu tin vắn Một bi kịch đến từ cơn điên. Một anh chàng thị dân, Henri van Blarenberghe, ”trong cơn quẫn trí”, đã đâm chết mẹ mình bằng một con dao làm bếp. Bà hét lên, “Henri, Henri, con đã làm gì ta?” giơ hai tay lên trời và đổ gục xuống sàn. Henri sau đó nhốt mình trong phòng và cố dùng dao cứa cổ mình, nhưng anh ta không thể cắt đúng ven, thế nên anh ta đã gí súng vào thái dương. Song anh ta cũng không phải chuyên gia về loại vũ khí này, và khi cảnh sát đến hiện trường (một trong số họ tình cờ có tên Proust), họ phát hiện thấy anh ta trong phòng, nằm trên giường mình, khuôn mặt là một đống bầy nhầy, một con mắt lủng lẳng dính vào sợi cơ nối với hốc mắt đầy máu. Họ bắt đầu thẩm vấn anh ta về sự cố với bà mẹ ở phòng ngoài, nhưng anh ta chết trước khi họ lấy được lời khai thỏa đáng. Proust có thể mau chóng lật trang và làm một hớp cà phê nữa, nếu như không phải hóa ra ông lại là người quen biết với hung thủ. Ông đã gặp con người lịch lãm và nhạy cảm Henri van Blarenberghe ở vài bữa tiệc tối, sau đó họ đã trao đổi với nhau vài lá thư; quả thực, Proust đã nhận được một lá thư chỉ vài tuần truớc, trong đó anh ta hỏi han về sức khỏe của ông, băn khoăn không biết năm mới sẽ mang đến cho cả hai những gì, và hy vọng anh ta và ông sẽ sớm gặp lại. Alfred Humblot, Jacques Madeleine và cô gái viết thư người Mỹ xinh đẹp ở Rome hẳn đã cho rằng phản ứng văn chương thích đáng dành cho tội ác kinh khủng này là một hoặc hai từ thể hiện nỗi kinh hãi. Nhưng Proust đã viết một bài báo dài đến năm trang, trong đó ông tìm cách đưa câu chuyện ghê rợn về hai con ngươi lủng lẳng và các đồ dùng nhà bếp vào một bối cảnh rộng hơn, đánh giá nó không chỉ như một vụ giết người kỳ quái bất chấp tiền lệ hay hiểu biết thông thường, mà như một sự phản ánh về khía cạnh bi thảm trong bản tính con người vốn luôn ở trung tâm của nhiều tác phẩm vĩ đại nhất của nghệ thuật phương Tây kể từ thời Hy Lạp. Với Proust, sự mù quáng của Henri khi đâm mẹ mình kết nối hắn với cơn cuồng nộ quẫn trí của Ajax[7] khi hạ sát những mục đồng Hy Lạp và đàn gia súc của họ. Henri chính là Oedipus[8], con mắt lủng lẳng của hắn gợi nhắc lại cảnh Oedipus lấy cái khóa thắt lưng vàng từ váy của Jocasta đã chết để chọc vào mắt của mình. Sự hủy diệt tâm hồn mà Henri hẳn đã cảm thấy khi nhìn người mẹ đã chết nhắc Proust nhớ tới cảnh vua Lear ôm thân thể Cordelia[9] và gào lên: “Con bé đã ra đi mãi mãi. Nó đã chết cứng như hòn đất. Ôi không, không, cuộc đời ơi! Tại sao một con chó, con ngựa, con chuột thì sống, vậy mà con thì không còn chút hơi tàn?” Và khi viên sĩ quan-Proust đến thẩm vấn Henri trong lúc hắn nằm chờ chết, nhà văn-Proust lại cảm thấy thích hành động như Kent lúc ông ta bảo Edgar đừng đánh thức vua Lear đã vào cõi vĩnh hằng: “Đừng quấy rầy linh hồn của ngài: Ôi! Để bệ hạ ra đi; ngài không muốn bị tra tấn bởi thế gian khắc nghiệt này lâu hơn nữa.” Những trích dẫn văn chương trên không đơn thuần nhằm gây ấn tượng (mặc dù Proust đã có lúc cảm thấy rằng “ta không bao giờ được bỏ lỡ cơ hội trích dẫn người khác, nếu những gì họ nói luôn hấp dẫn hơn cái ta tự nghĩ ra”). Hơn nữa, chúng gợi lên các ám chỉ phổ quát về tội giết mẹ. Với Proust, tội ác của anh chàng Van Blarenberghe có gì đó để nói với mọi người, chúng ta không thể phán xét nó như thể mình hoàn toàn không can hệ gì tới những động lực của nó. Chỉ cần chúng ta quên gửi cho mẹ mình một bức thiệp chúc mừng sinh nhật, ta đã cảm thấy một dấu vết tội lỗi của ta trong tiếng oán than trước khi chết của bà Van Blarenberghe. ”’Con đã làm gì ta! Con đã làm gì ta!’ Nếu suy nghĩ ta sẽ thấy, có lẽ bất cứ người mẹ yêu thương nào cũng có thể dành lời trách cứ ấy, trong ngày bà chết, và cả trước đó nữa, cho con trai mình. Sự thật là khi chúng ta lớn lên, ta giết tất cả những người yêu thương ta bằng mối quan tâm ta dành cho họ, bằng tình âu yếm đầy bất an mà ta khơi gợi và không ngừng khuấy động trong lòng họ,” Proust viết. Bằng những nỗ lực ấy, một câu chuyện, tưởng như chỉ đáng mô tả bằng vài dòng khủng khiếp trong một mẩu tin vắn, đã được gia nhập vào lịch sử của bi kịch và mối quan hệ mẫu tử, người ta nhìn nhận những động lực của nó với lòng cảm thông phức tạp mà ta sẽ luôn dành cho Oedipus trên sâu khấu, nhưng lại coi là không thích hợp, thậm chí sai trái, nếu phí phạm cho một kẻ giết người trong tờ báo sáng. Điều đó cho thấy phần lớn trải nghiệm của con người dễ bị sự tóm lược làm tổn hại đến thế nào, và những chỉ dẫn rõ ràng hơn mà chúng ta dựa vào để xác định tầm quan trọng dễ dàng bị gạt bỏ ra sao. Dễ hình dung phần lớn văn chương và kịch nghệ hẳn sẽ hoàn toàn chẳng hấp dẫn chút nào, và sẽ không tiết lộ bất cứ điều gì với chúng ta nếu chúng ta thoạt tiên bắt gặp đề tài của nó, trong bữa sáng, dưới hình thức một mẩu tin vắn. Kết cục bi thảm cho cặp tình nhân ở Verona: sau khi ngộ nhận người tình của mình đã chết, một chàng trai tự sát. Biết được số phận người yêu, đến lượt cô gái tự kết liễu đời mình. Tại Nga, một người mẹ trẻ gieo mình xuống đường ray và thiệt mạng sau những khúc mắc gia đình. Một người mẹ trẻ nuốt thạch tín và chết tại một thị trấn tỉnh lẻ nước Pháp sau những khúc mắc gia đình. Nhưng không may, chính tài năng của Shakespeare, Tolstoy và Flaubert đã cho thấy, rõ ràng là ngay cả từ một mẩu tin vắn, cũng vẫn có điều gì đó quan trọng về Romeo, Anna và Emma khiến cho bất cứ con người có đầu óc nào cũng đều sẽ nhận thấy rằng đó là những nhân vật thích hợp với tác phẩm văn chương lớn hay một vở kịch ở Nhà hát Hoàn cầu, mặc dù tất nhiên là sẽ chẳng có gì để phân biệt họ với con ngựa nhào lộn ở Villeurbanne hay Marcel Peigny bị điện giật chết ở Aube. Vì thế, Proust khẳng định rằng sự vĩ đại của tác phẩm nghệ thuật không liên quan gì tới tính chất hiển hiện của đề tài, mà chỉ liên quan đến sự xử lý đề tài diễn ra sau đó. Và bởi thế, kèm với nó là tuyên bố của Proust rằng mọi thứ đều có tiềm năng là đề tài phong phú cho nghệ thuật và chúng ta có thể tạo ra những khám phá giá trị cho một mẩu quảng cáo xà phòng cũng như cho tác phẩm Tư tưởng của Pascal. Blaise Pascal sinh năm 1623, ngay từ nhỏ đã được xem là một thần đồng, và nhận định đó không chỉ giới hạn trong gia đình đầy hãnh diện của ông. Năm mười hai tuổi, ông chứng minh được ba mươi hai định đề đầu tiên của Euclid; ông tiếp tục khai sinh ra toán xác suất; ông đo áp suất không khí, chế tạo máy tính cơ học đầu tiên, thiết kế xe ngựa kéo[10], mắc bệnh lao và viết một loạt châm ngôn đầy trí tuệ nhưng bi quan nhằm bảo vệ đức tin Kitô giáo, trong cuốn sách mang tên Tư tưởng. Những điều có giá trị được khám phá trong tác phẩm Tư tưởng không khiến người ta sửng sốt. Tác phẩm này chiếm một địa vị đầy ưu ái trong văn hóa, điều này khuyến khích chúng ta dành thời gian để đọc nó và tưởng tượng ra rằng chúng ta, chứ không phải tác giả, đáng bị trách cứ nếu rốt cuộc vẫn không thể hiểu ra vấn đề nêu trong đó. Không phải là điều này dễ xảy ra, bởi vì nó được viết với sự gần gũi đầy lôi cuốn, về các chủ đề được quan tâm rộng rãi với sự súc tích mang tính hiện đại. Trong tác phẩm này có câu, “Ta không chọn thuyền trưởng là người có xuất thân cao quý nhất trên tàu”, và chúng ta có thể ngưỡng mộ tài mỉa mai phớt tỉnh của câu cách ngôn phản đối đặc quyền được thừa hưởng, vốn là vấn đề nhức nhối trong xã hội không trọng tài năng thời Pascal sống. Thói quen đưa người vào những vị trí quan trọng chỉ bởi họ thuộc những gia đình quyền thế bị chế giễu kín đáo bằng cách so sánh công việc quản lý nhà nước và chỉ đạo hàng hải: độc giả thời Pascal có thể bị hăm dọa và khiến cho phải im lặng bởi lập luận tinh vi của một nhà quý tộc rằng anh ta có quyền Chúa ban cho để hoạch định chính sách kinh tế, mặc dù anh ta còn không thuộc hết cột bảy bảng cửu chương, nhưng không có vẻ là họ sẽ chịu ngậm đắng nuốt cay trước một lập luận tương tự từ một công tước nếu biết anh ta mù tịt về việc đi biển mà vẫn được cất nhắc vào vị trí chỉ huy cho hành trình đi vòng qua Mũi Hảo Vọng. Mẩu quảng cáo xà phòng đặt cạnh tác phẩm này trông mới phù phiếm làm sao. Chúng ta đã trôi xa biết bao khỏi địa hạt tinh thần với hình ảnh cô thiếu nữ tóc dài, một tay ôm ngực, mê ly nghĩ tới cục xà phòng trong nhà tắm, được giữ ngăn nắp cùng với sợi dây chuyền trong một hộp trang sức lót bông. Có vẻ khó mà lập luận rằng niềm hạnh phúc với cục xà phòng ấy cũng có tầm quan trọng ngang với tác phẩm Tư tưởng của Pascal. Nhưng ý định của Proust không phải đưa ra sự so sánh ấy; ông chỉ muốn nói rằng, một mẩu quảng cáo xà phòng có thể là xuất phát điểm của những ý tưởng cuối cùng cũng sẽ sâu sắc không kém những gì đã được trình bày mạch lạc và phát triển sáng rõ trong tác phẩm Tư tưởng. Nếu trước đây, ta chưa từng có ý nghĩ sâu sắc nào được khơi gợi bởi cục xà phòng, thì có thể đó chỉ là do ta quá lệ thuộc vào các quan niệm mang tính quy uớc về chuyện từ đâu ta có được những ý nghĩ đó, những quan niệm ấy chống lại tinh thần đã khiến Flaubert biến một câu chuyện trên báo về vụ tự sát của một cô vợ trẻ thành Bà Bovary, hay tinh thần đã dẫn dắt Proust chọn một đề tài thoạt nghe chẳng có vẻ gì hấp dẫn là việc đi ngủ và dành đến ba mươi trang cho nó. Có vẻ như một tinh thần tương tự đã dẫn dắt việc đọc của Proust. Bạn ông, Maurice Duplay, cho biết rằng thứ Marcel thích đọc nhất khi ông không thể ngủ là lịch giờ tàu chạy. Giờ khởi hành của chuyến tàu xuất phát từ Saint-Lazare[11] không phải là một điều đáng quan tâm của người không tìm thấy lý do nào để rời Paris trong tám năm cuối đời. Tuy nhiên, lịch giờ tàu chạy được đọc và thưởng thức như một cuốn tiểu thuyết hết sức cuốn hút về cuộc sống thôn dã, bởi lẽ chỉ riêng những cái tên ga tỉnh lẻ cũng đủ cung cấp cho trí tưởng tượng của Proust chất liệu để bồi dựng nên những thế giới trọn vẹn, vẽ ra những câu chuyện gia đình đầy kịch tính ở các làng quê, những trò ma mãnh trong chính quyền địa phương, và cuộc sống trên những cánh đồng. Proust lập luận rằng niềm thích thú với việc đọc những nội dung trái với xu hướng thông thường như vậy là đặc trưng của một nhà văn, người mà ta có thể mong đợi sẽ nảy sinh lòng nhiệt tình với những thứ rõ ràng nằm ngoài khuôn khổ của nghệ thuật kỳ vĩ, và đối với anh ta: một buổi nhạc tệ hại ở một nhà hát tỉnh lẻ, hay một buổi khiêu vũ mà những người có gu cảm thấy lố bịch, sẽ gọi lên những ký ức hoặc được liên hệ tới một loạt mơ tưởng và ưu tư, còn hơn cả một buổi biểu diễn đáng ngưỡng mộ nào đó ở nhà hát Opéra[12] hay một buổi dạ tiệc tráng lệ ở khu ngoại ô Saint-Germain[13]. Tên của các nhà ga xe lửa phía Bắc trong một tờ lịch tàu chạy, những chỗ ông hẳn sẽ tưởng tượng chính mình đang bước xuống tàu trong một tối mùa thu, khi những cây đã trụi lá và tỏa hương nồng đậm trong bầu không khí rét căm căm, vốn chỉ là một tờ giấy in tẻ ngắt cho những kẻ có gu, nhưng lại đầy những tên ông chưa từng nghe từ tấm bé, có thể mang lại cho ông giá trị lớn hơn nhiều so với các pho sách triết học tuyệt tác, và khiến những người có gu nói rằng, là một người tài năng, ông có những gu rất ngớ ngẩn. Hoặc ít nhất, những gu trái với thông thường. Những ai gặp Proust lần đầu và bị hỏi về những khía cạnh trong cuộc sống của họ mà trước đó họ vẫn dành cho sự chú tâm sơ sài như với các mẩu quảng cáo về đồ gia dụng và lịch tàu chạy từ Paris tới Le Havre đều nhận thấy rõ điều này. Năm 1919, nhà ngoại giao trẻ Harold Nicolson được giới thiệu với Proust tại một bữa tiệc ở Ritz[14]. Nicolson được cử đến Paris cùng với đoàn đại biểu Anh tại hội nghị hòa bình sau Thế chiến thứ nhất[15], một nhiệm vụ ông thấy rất thú vị, nhưng rõ ràng không thú vị như cách Proust thấy. Trong nhật ký, Nicolson thuật lại bữa tiệc: Một bữa tiệc đặc sắc. Proust da trắng, không cạo râu, luộm thuộm, mặt hơi vát. Ông ấy hỏi tôi rất nhiều. Liệu tôi có thể kể cho ông ấy cách các Ủy ban hoạt động không. Tôi bảo, “Nhìn chung chúng tôi họp lúc 10 giờ, có các thư ký đi cùng...” “Ồ không, ồ không, ông đi quá nhanh rồi. Bắt đầu lại. Ông lên xe dành cho đại biểu đoàn. Ông xuống ở ke d’Orsay. Ông lên thang máy. Ông vào phòng lớn. Rồi sau đó? Ông vui lòng nói kỹ hơn được không, kỹ hơn.” Thế nên tôi kể ông ấy nghe mọi thứ. Sự thân mật vờ vịt của tất cả công chuyện đó: những cái bắt tay; các bản đồ; tiếng giấy loạt xoạt; trà ở phòng kế bên; bánh hạnh nhân. Ông ấy lắng nghe mê mải, thỉnh thoảng ngắt lời - ”Kỹ càng hơn, ông thân mến, đừng đi quá nhanh.” Đó có thể là một câu khẩu hiệu kiểu Proust: đừng đi quá nhanh. Và một lợi thế của việc không đi nhanh quá là thế giới có cơ hội trở nên thú vị hơn trong quá trình đó. Với Nicolson, một buổi sớm được tóm gọn bằng một câu ngắn ngủn, “Nhìn chung chúng tôi họp lúc 10 giờ”, đã được mở rộng để tiết lộ về những cái bắt tay và những tấm bản đồ, tiếng giấy loạt xoạt và những chiếc bánh hạnh nhân - bánh hạnh nhân là một biểu tượng hữu ích, bởi sự ngọt ngào quyến rũ, của những gì được chú ý đến khi chúng ta không đi quá nhanh. Ít tham lam hơn, quan trọng hơn, việc tiến chậm lại có thể đòi hỏi ở ta khả năng cảm thông lớn hơn rất nhiều. Chúng ta trở nên dễ cảm thông hơn với anh chàng van Blarenberghe điên rồ bằng cách viết một khảo luận dài về tội ác của y thay vì thốt ra hai tiếng “điên rồ” và lật sang trang khác. Sự mở rộng cũng mang lại những lợi ích tương tự cho các hoạt động không phải là tội ác. Người kể chuyện của Proust dành số trang nhiều bất thường trong cuốn tiểu thuyết để mô tả một sự do dự đầy đau đớn; anh ta không biết liệu có nên cầu hôn với người bạn gái Albertine hay không, bởi có lúc anh ta nghĩ mình không thể sống thiếu cô, và những lúc khác thì chắc chắn là không bao giờ muốn gặp lại cô. Vấn đề này có thể được tóm gọn trong chưa đầy hai giây nhờ một thí sinh tài năng đến từ cuộc thi Tóm tắt Proust toàn nước Anh: Chàng trai trẻ không chắc có nên ngỏ lời cầu hôn. Mặc dầu không ngắn đến mức này, nhưng lá thư mà một ngày nọ người kể chuyện nhận từ mẹ mình đã diễn tả tình thế tiến thoái lưỡng nan trong chuyện cầu hôn của anh ta dưới góc độ khiến cho sự phân tích dài dòng trước đó của anh có vẻ như bị thổi phồng đến mức đáng xấu hổ. Đọc xong thư, người kể chuyện tự nhủ: Mình vẫn đang mơ mộng mà thôi, vấn đề thực ra khá đơn giản... Mình là một chàng trai do dự, và đây là một cuộc hôn nhân cần đến thời gian để biết nó có xảy ra hay không. Chẳng có gì trong chuyện này liên quan cụ thể đến Albertine. Những cách mô tả đơn giản không phải là không có cái lý thú riêng. Bỗng dưng, chúng ta chỉ là những kẻ “bất an”, “nhớ nhà”, “đang hòa nhập”, “đối mặt với cửa tử” hay “sợ phải buông bỏ”. Tìm được một từ để miêu tả cho một vấn đề nào đó, khiến sự đánh giá trước đó trở nên phức tạp không cần thiết, có thể giúp ta cảm thấy dễ chịu. Nhưng không phải lúc nào cũng như vậy. Sau khi đọc xong lá thư, người kể chuyện cân nhắc và nhận ra ắt hẳn phải có nhiều vấn đề trong chuyện của anh với Albertine hơn những gì mẹ anh đã chỉ ra, và một lần nữa anh lại dông dài, kéo theo hàng trăm trang, lần theo mọi biến chuyển trong mối quan hệ của anh với Albertine (đừng đi quá nhanh), và bình luận: Mọi chuyện, nếu người ta xem xét ở khía cạnh xã hội của chúng, dĩ nhiên đều có thể được tiết giảm thành những mẩu tin tầm thường nhất của báo lá cải. Nếu đứng ngoài cuộc, có lẽ chính tôi cũng sẽ nhìn nhận như thế. Nhưng tôi biết rất rõ rằng cái đúng, cái ít ra cũng đúng, là mọi thứ mà tôi đã nghĩ đến, là những gì tôi đã đọc thấy trong mắt Albertine, những nỗi sợ giày vò tôi, vấn đề liên quan đến Albertine mà tôi không ngừng đặt lên bản thân mình. Câu chuyện về kẻ cầu hôn do dự và cuộc đính ước đổ vỡ có thể thích hợp với chuyện này như bài báo về một buổi diễn kịch do một ký giả thông minh viết có thể cho ta đề tài của một trong những vở kịch như của Ibsen[16]. Nhưng phải có thứ gì đó ngoài các sự kiện được thuật lại. Bài học là gì? Hãy chú tâm vào màn trình diễn, hãy đọc báo như thể đó là đầu mối của một cuốn tiểu thuyết bi hoặc hài, và hãy dùng ba mươi trang giấy để miêu tả việc chìm vào giấc ngủ nếu cần. Và nếu không có thời gian, ít nhất hãy cưỡng lại cách tiếp cận của Alfred Humblot ở nhà xuất bản Ollendorf và Jacques Madeleine ở Fasquelle, mà Proust mô tả là “cảm giác tự mãn của những người ‘bận rộn’ - dù công việc của họ ngớ ngẩn đến thế nào - khi kêu ca ‘không có thời gian’ để làm những việc bạn đang làm.” Chương bốn LÀM THẾ NÀO ĐỂ ĐAU KHỔ ĐÚNG CÁCH Một cách hay để đánh giá sự thông tuệ trong tư tưởng của ai đó là xem xét cẩn trọng trạng thái tâm trí và sức khỏe của họ. Xét cho cùng, nếu những lời tuyên bố của họ quả thực đáng cho ta chú ý, thì ta nên hiểu rằng chính họ sẽ là người hưởng thụ lợi ích trước tiên. Liệu điều này có thể biện hộ cho mối quan tâm nhắm tới cả cuộc sống của nhà văn, thay vì chỉ nhắm vào tác phẩm? Sainte-Beuve, nhà phê bình đáng kính thế kỷ 19, mau chóng đồng tình: Người ta không thể bảo đảm hiểu hết một tác giả chừng nào họ chưa đặt cho mình những câu hỏi nhất định về tác giả ấy và tự trả lời, cho riêng mình và chỉ thì thầm mà thôi, dẫu rằng những câu hỏi có thể khá xa lạ với bản chất của các trước tác của tác giả: Tư tưởng tôn giáo của ông ta là gì? Cảnh tượng tự nhiên tác động ông ta ra sao? Ông ta xử lý thế nào với vấn đề phụ nữ, tiền bạc? Ông ta giàu hay nghèo; bữa ăn của ông ta ra sao, lịch hoạt động hằng ngày của ông ta như thế nào? Tội lỗi hay điểm yếu của ông ta là gì? Mọi câu trả lời đều ít nhiều quan trọng. Nhưng dù vậy, những câu trả lời thường có chiều hướng gây bất ngờ. Dù tác phẩm xuất chúng ra sao, thông thái đến thế nào, vẫn có thể tin rằng cuộc đời nghệ sĩ sẽ phô bày một chuỗi dằng dặc những sự rối loạn, khổ đau và xuẩn ngốc. Đó là lý do Proust chống lại luận đề của Saint-Beuve, và tranh luận mạnh mẽ rằng chính những cuốn sách, chứ không phải cuộc đời, mới là quan trọng. Theo đó, người ta có thể chắc chắn đánh giá được cái gì là quan trọng (“Đúng là có những người xuất sắc hơn những cuốn sách của họ, nhưng đó là bởi những cuốn sách ấy không phải là Sách”). Có thể Balzac là người cư xử kém, Stendhal không biết cách giao tiếp, và Baudelaire bị mối ám ảnh đè nặng, nhưng tại sao lại để điều ấy ảnh hưởng đến cách ta tiếp cận tác phẩm của họ, vốn không hề bị phương hại bởi những khiếm khuyết của chủ nhân chúng? Dù còn phải bàn về sức thuyết phục của lập luận, ta có thể hiểu vì sao Proust lại đặc biệt tha thiết sự tách biệt này. Trong khi văn của ông logic, có bố cục rõ ràng chặt chẽ, thường sáng sủa, thậm chí nghe như lời của bậc hiền triết vậy, nhưng ông lại có một cuộc đời đau đớn khủng khiếp cả về thể xác lẫn tinh thần. Một mặt, có thể hiểu lý do người ta thích học theo cách tiếp cận cuộc đời của Proust, mặt khác, một người tỉnh táo sẽ không bao giờ muốn có một cuộc đời như của ông. Có thể nào mức độ đau đớn dường ấy lại thật sự được phép cho qua mà không hề gây nên chút nghi ngờ nào? Liệu Proust có thật sự biết nhiều đến thế, có thể nào ông nói lời khuyên răn chúng ta, nhưng vẫn sống một cuộc đời khó khăn, thiếu mẫu mực đến vậy? Và chứng cứ ấy có được phép cách xa lập luận của Sainte-Beuve đến thế? Cuộc đời là một sự thử thách, tất nhiên là vậy. Chỉ riêng những vấn đề về tâm lý cũng đã quá đủ mệt: Vấn đề của một bà mẹ Do Thái Proust từ khi sinh ra đã được bảo bọc với sự cực đoan đến mất kiểm soát. “Tôi luôn là đứa trẻ bốn tuổi đối với bà,” Marcel nói về bà Proust, còn được biết với tên Maman, hoặc thường xuyên hơn “Maman bé nhỏ yêu dấu”. “Ông ấy không bao giờ nói ‘mẹ tôi’ hay ‘cha tôi’, mà luôn là ‘Papa’ và ‘Maman’ bằng giọng của một cậu bé dễ xúc động, nước mắt tự động dâng đầy khóe mắt ngay khi những tiếng đó được thốt lên, trong khi âm thanh khàn đục của tiếng thổn thức nghẹn ngào phát ra từ cổ họng thắt lại của ông ấy,” Marcel Plantevignes, bạn của Proust, nhớ lại. Bà Proust yêu con mình mãnh liệt đến độ có thể khiến một người tình nồng cháy phải thấy thẹn, một tình thương đã tạo ra, hoặc ít nhất là làm trầm trọng thêm, khuynh hướng bất lực của cậu con trai cả của bà. Bà cảm thấy nếu không có bà thì con bà sẽ không thể làm được việc gì ra hồn. Họ sống cùng nhau từ khi ông được sinh ra cho đến khi bà mất, khi ấy ông đã ba mươi tư tuổi. Thậm chí, nỗi lo lắng lớn nhất của bà là liệu Marcel có thể tồn tại được trên thế gian này sau khi bà qua đời không. “Mẹ tôi muốn sống để tôi không lâm vào trạng thái khổ não mà bà biết, nếu thiếu vắng bà, tôi sẽ không tránh khỏi,” ông lý giải sau khi bà mất. “Tất thảy cuộc đời chúng tôi chỉ là một cuộc huấn luyện, bà dạy tôi cách sống mà không có bà vào ngày bà rời bỏ tôi... Và về phần mình, tôi thuyết phục bà rằng tôi có thể sống ổn mà không có bà.” Mặc dù có ý tốt, nhưng mối quan tâm của bà Proust cho con trai không bao giờ tách khỏi sự can thiệp theo kiểu bề trên. Ở tuổi hăm bốn, vào một thời khắc hiếm hoi họ không ở cùng nhau, Marcel viết thư cho bà, kể rằng ông ngủ khá ngon (chất lượng giấc ngủ, sự ngon miệng và việc đại tiện của ông là mối bận tâm thường xuyên trong thư từ của họ). Nhưng Maman than phiền là ông viết chưa đủ tỏ tường: “Con yêu ạ, chuyện con nói ‘ngủ nhiều giờ đồng hồ’ vẫn không mang lại cho mẹ thông tin gì hoặc đúng hơn là thông tin gì đáng kể. Mẹ chỉ muốn hỏi con lần nữa: Con đi ngủ lúc... Con thức dậy lúc...” Marcel luôn vui lòng thỏa mãn nỗi khao khát kiểm soát của bà mẹ bằng những thông tin cụ thể (bà và Sainte-Beuve hẳn sẽ có nhiều chuyện để nói với nhau). Thỉnh thoảng, Marcel tự động gợi ra thứ gì đó để hỏi ý kiến gia đình: “Maman hỏi Papa xem tại sao khi đi tiểu lại có cảm giác bỏng rát đến mức phải ngừng lại, rồi sau đó lại bắt đầu lại y như thế, năm hay sáu lần trong mười lăm phút. Dạo này con uống bia nhiều lắm, có lẽ vì thế chăng,” chàng trầm ngâm trong lá thư gửi cho mẹ mình - khi đó Maman năm mươi ba, Papa sáu mươi tám, còn Marcel ba mươi mốt tuổi. Trả lời câu hỏi khảo sát “Quan niệm của ông về bất hạnh”, Proust đáp, “Là bị tách khỏi Maman.” Khi ông không ngủ được vào ban đêm và mẹ ông ngủ trong phòng bà, ông sẽ viết thư rồi để dưới cửa phòng để bà tìm thấy vào sáng hôm sau: “Maman bé nhỏ yêu dấu của con,” một dòng đặc trưng, “con viết cho mẹ mấy dòng này khi con không thể ngủ, để nói với mẹ rằng con đang nghĩ về mẹ.” Mặc dù ông viết thư như vậy, nhưng ta vẫn có thể đoán ra những mối căng thẳng ngấm ngầm. Marcel có cảm giác rằng mẹ ông muốn ông bệnh tật và phụ thuộc thay vì khỏe mạnh và tiểu tiện tốt. “Sự thật là ngay khi con khỏe hơn, vì cuộc sống làm con khỏe hơn sẽ khiến mẹ khó chịu, nên mẹ sẽ hủy hoại mọi thứ cho tới khi con ốm trở lại,” ông viết trong một con bùng nổ hiếm hoi, nhưng đáng kể, trước mong muốn bệnh hoạn của bà Proust là giữ mối quan hệ y tá - bệnh nhân với ông. ”Thật đáng buồn là không thể vừa có tình thương vừa có sức khỏe cùng một lúc.” Những ham muốn kỳ quặc Sau đó là tới sự phát giác dần dần rằng Marcel không giống những cậu bé khác. “Thoạt tiên không ai xác định được là cậu là người đồng tính, là nhà thơ, hay kẻ hợm hĩnh, hay gã vô lại. Cậu bé từng đọc thơ khiêu dâm hay xem những bức tranh tục tĩu, nếu lúc đó cậu áp cơ thể mình vào một bạn học, thì chỉ là để tưởng tượng được gần gũi cậu bạn đó trong nỗi khao khát y hệt đối với một người nữ. Việc gì cậu phải cảm thấy mình khác với những người khác khi nhận ra những điều cậu cảm thấy thật sự hiện diện trong tác phẩm của bà de La Fayette, Racine, Baudelaire, Walter Scott[17]?” Tuy nhiên, dần dà, Proust nhận ra viễn cảnh một đêm ái ân với Diana Vernon[18] không hấp dẫn ông như việc áp người vào một bạn học, một nhận thức đầy khó khăn do nước Pháp thời của ông vẫn chưa được khai sáng về vấn đề đó, và người mẹ vẫn mong mỏi con trai bà sẽ kết hôn, bà có thói quen nhờ bạn ông dẫn theo những cô gái trẻ khi họ rủ Marcel đến rạp hát hay nhà hàng. Những rắc rối trong chuyện hẹn hò Giá mà bà đã bỏ công mời những đối tượng khác giới, vì chẳng dễ gì mà tìm được những chàng trai dửng dưng với Diana Vernon như vậy. “Cậu nghĩ tớ mệt mỏi và kiệt quệ. Cậu nhầm rồi,” Proust phản đối một ứng viên ngoan cố, cậu bạn học mười sáu tuổi xinh trai tên Daniel Halévy[19]. ”Nếu cậu thơm tho, nếu cậu có đôi mắt đáng yêu... nếu cơ thể và tâm trí cậu... mềm mại và nhạy cảm đến độ tớ có thể hòa hợp sâu sắc hơn với suy nghĩ của cậu khi ngồi lên lòng cậu..., thì không có gì trong tất cả những điều đó đáng để cậu buông ra những lời khinh bỉ.” Những sự cự tuyệt khiến Proust phải biện minh cho nỗi khao khát của mình bằng cách viện dẫn có chọn lọc lịch sử triết học phương Tây. “Tớ rất vui khi nói cho cậu hay rằng tớ có những người bạn rất thông tuệ, nổi tiếng vì sự tinh tế đầy đạo đức, mà vẫn có lúc vui vẻ với một cậu trai,” Proust cho Daniel biết. “Đó là vào thời kỳ đầu tuổi trẻ của họ. Về sau họ trở lại với phụ nữ... Tớ muốn nói với cậu về hai bậc thầy thông thái tột bậc, những người cả đời chỉ ngắt hoa ở độ mãn khai, Socrates và Montaigne. Họ bảo, đàn ông, khi tuổi trẻ mới chớm, được phép ‘thỏa mãn mình’, hòng biết được chút gì đó về tất cả mọi lạc thú và phóng thích sự mềm yếu dư thừa. Họ cho rằng những tình bạn vừa mang tính nhục cảm vừa mang tính trí tuệ ấy sẽ tốt cho một chàng trai có cảm thức sâu sắc về cái đẹp và những ‘giác quan’ đươc đánh thức, hơn là những mối tình với đám phụ nữ ngu ngốc, sa đọa.” Tuy vậy, cậu bé thiển cận kia vẫn tiếp tục theo đuổi sự ngu ngốc và sa đọa ấy. Thái độ bi quan về tình ái “Tình yêu là một căn bệnh không thể chữa trị.” “Trong tình yêu, đau đớn là bất tận.” “Những người đang yêu không thể đồng thời là những kẻ hạnh phúc.” Ngay cả kẻ đối địch vững vàng nhất với Sainte-Beuve cũng có thể nghi ngờ rằng nghệ thuật, trong địa hạt này, từng chịu ảnh hưởng của một nỗi đau khổ trong cuộc đời tác giả. Thái độ bi quan về tình ái của Proust ít nhất một phần xuất phát từ việc nhà văn có nhu cầu tha thiết về tình yêu nhưng lại vụng về một cách bi hài trong việc giành lấy nó. “Niềm an ủi duy nhất của tôi khi tôi thực sự buồn là yêu và được yêu,” ông tuyên bố, và định nghĩa nét tính cách chủ đạo của mình là: “Nhu cầu được yêu, chính xác hơn là nhu cầu được vỗ về và làm hư chứ không phải nhu cầu được ngưỡng mộ.” Nhưng tuổi vị thành niên mang trong lòng những cám dỗ lầm lạc với bạn học nhiều bao nhiêu thì tuổi trưởng thành cũng trở nên vô vọng bấy nhiêu. Proust bị say nắng với nhiều chàng trai nhưng không hề được đáp lại. Tại khu nghỉ dưỡng ven biển Cabourg năm 1911, Proust bày tỏ nỗi chán chường với chàng trai Albert Nahmias: ”Ước gì tôi có thể thay đổi giới tính và tuổi tác, mang dung mạo của một phụ nữ trẻ đẹp để có thể ôm lấy anh bằng tất cả trái tim mình.” Cũng có lúc, ông từng có được một chút hạnh phúc với Alfred Agostinelli[20], một người lái taxi đã cùng vợ chuyển vào căn hộ của Proust, nhưng Alfred sớm từ giã cõi đời trong một tai nạn máy bay ở Antibes, và sau đó Proust không nhắc tới một sự dính líu sâu sắc nào về tình cảm, mà chỉ có thêm những tuyên bố về mối quan hệ không thể tách rời giữa tình yêu và nỗi đau. Thất bại trong sự nghiệp kịch nghệ Mặc dù nhận định dựa trên các chi tiết liên quan tới tâm lý - tự truyện có thể võ đoán, nhưng dường như vẫn tồn tại những khó khăn tiềm ẩn liên quan đến cảm xúc, tập trung vào sự kết hợp những cảm xúc của tình yêu và của tình dục, điều đó được minh họa rõ ràng nhất qua đoạn trích trong một đề xuất cho một vở kịch mà Proust gửi cho Reynaldo Hahn[21] vào năm 1906: Một cặp đôi ngưỡng mộ nhau, tình cảm người chồng dành cho vợ sâu đậm, thánh thiện, thuần khiết (và đương nhiên là chung thủy). Nhưng đây lại là một kẻ có thói ác dâm, nên ngoài tình yêu dành cho vợ, anh ta còn có quan hệ với gái điếm, vì anh ta tìm thấy khoái cảm bằng cách làm vấy bẩn cảm xúc của anh ta. Cuối cùng, gã ác dâm đó, vốn luôn cần thứ gì đó mạnh mẽ hơn, bắt đầu làm vấy bẩn vợ mình bằng việc nói chuyện với những cô gái điếm, bắt họ nói những điều xấu xa về vợ minh, và anh ta cũng tự mình nhắc lại (nhưng chỉ năm phút sau là anh ta lại cảm thấy ghê tởm hành động đó). Một lần nọ, khi anh ta đang nói những điều này thì người vợ bất chợt đi vào phòng. Cô không thể tin vào điều mình vừa nhìn thấy và nghe thấy rồi ngã quỵ. Sau đó cô rời bỏ người chồng. Anh ta van lơn nhưng không có kết quả. Những cô gái điếm lại muốn đến với anh ta, nhưng thói ác dâm giờ đây lại khiến cho anh ta vô cùng đau đớn, và sau khi cố gắng lần cuối để giành lại vợ mình, nhưng cô thậm chí còn không trả lời, anh ta tự sát. Đáng buồn thay, không nhà hát Paris nào tỏ ra quan tâm. Không được bạn bè thấu hiểu Một vấn đề thường gặp ở các thiên tài. Khi Bên phía nhà Swann đã hoàn tất, Proust gửi cho các bạn mình đọc, nhiều người trong số họ còn chẳng buồn mở bì thư. “Này, anh bạn Louis mến, anh đã đọc quyển sách của tôi chưa?” Proust nhớ lại lời đã hỏi gã ăn chơi thuộc giới quý tộc Louis d’Albufera. “Đọc quyển sách của anh ư? Anh đã viết một quyển sách à?” d’Albufera hỏi lại với vẻ sửng sốt. “Vâng, dĩ nhiên, Louis, và tôi còn gửi cho anh một cuốn cơ mà.” “À, anh bạn Marcel bé bỏng, nếu anh đã gửi nó cho tôi, thì ắt là tôi đã đọc rồi. Chỉ là tôi không chắc đã nhận được hay chưa.” Bà Gaston de Caillavet là một người nhận biết cảm kích hơn. Bà viết thư cảm ơn tác giả vì món quà với những lời lẽ nồng ấm nhất. “Tôi đọc đi đọc lại đoạn trong Swann về lễ ban thánh thể đầu tiên,” bà nói, “bởi tôi cũng từng trải qua nỗi kinh sợ cùng sự tan vỡ ảo tưởng y như thế.” Suy nghĩ mà Bà Gaston de Caillavet chia sẻ quả là cảm động; nó sẽ có thể còn cảm động hơn nữa nếu bà chịu khó đọc quyển sách và phát hiện ra rằng chẳng có nghi lễ tôn giáo nào trong đó cả. Proust kết luận, “với một quyển sách mới xuất bản được vài tháng, chưa bao giờ người ta nói với tôi về nó mà không có những nhầm lẫn, điều đó cho thấy họ hoặc chẳng nhớ gì hoặc chưa hề đọc.” Ở tuổi ba mươi, theo đánh giá của chính ông “Không lạc thú, mục đích, hoạt động hay tham vọng, cuộc đời trước mắt tôi đã chấm dứt, cùng với việc nhận ra nỗi đau tôi đã gây ra cho cha mẹ mình, tôi hầu như không có hạnh phúc.” Còn một danh sách những đau đớn thể xác: Bệnh hen Khởi phát từ khi ông lên mười và kéo dài suốt cuộc đời. Chứng bệnh này ở ông đặc biệt nghiêm trọng, mỗi cơn hen kéo dài hơn cả giờ, xuất hiện cả chục lần mỗi ngày. Vì nó thường diễn ra vào ban ngày hơn là ban đêm, nên Proust hình thành thói quen sinh hoạt về đêm, ông đi ngủ lúc bảy giờ sáng và thức dậy lúc bốn hay năm giờ chiều. Ông thấy không thể đi ra ngoài nhiều, nhất là vào mùa hè, và khi cần thì ông chỉ làm thế bên trong một chiếc taxi đóng kín. Cửa sổ phòng ông đóng im ỉm suốt ngày và rèm luôn luôn buông; ông không thấy ánh nắng, hít thở không khí trong lành, hay tập thể dục bao giờ. Ăn uống Dần dà ông không thể ăn nhiều hơn một bữa một ngày, nhưng là một bữa ngồn ngộn không giúp ích gì cho sức khỏe của ông, vốn phải được phục vụ trước giờ ông đi ngủ ít nhất tám tiếng. Mô tả một bữa ăn điển hình của ông cho vị bác sĩ nghe, Proust nêu rõ thực đơn bao gồm hai quả trứng với nước xốt kem, một cái cánh gà nướng, ba chiếc bánh sừng bò, một đĩa khoai tây chiên, vài trái nho, chút cà phê và một chai bia. Tiêu hóa “Tôi đi đại tiện khá thường xuyên, và khá khó khăn,” ông nói thản nhiên với vị bác sĩ trên. Bệnh táo bón gần như trở thành kinh niên, chỉ giảm nhẹ nhờ một liều mạnh thuốc nhuận tràng cứ hai tuần một lần, nhưng lại luôn kéo theo những con co thắt dạ dày. Như trên đã nói, ông đi tiểu cũng không dễ dàng hơn: nó đi kèm với một cảm giác thiêu đốt buốt nhói, thường là không đi được, và kết quả cho thấy sự dư thừa urê và axit uric. Kết luận của ông là: “Việc xin cơ thể ta rủ lòng thương giống như thuyết trình trước một con bạch tuộc, ở đó những lời ta nói không có ý nghĩa gì hơn tiếng sóng vỗ.” Quần trong Cần có nó quấn chặt bụng thì ông mới có cơ hội ngủ được. Nó sẽ được cài chặt lại bằng một cái kim băng đặc biệt mà nếu thiếu, như khi Proust vô tình làm rơi mất vào một buổi sáng sớm nào đó trong nhà tắm, ông sẽ thức cả ngày hôm đó. Da nhạy cảm Không dùng được bất cứ loại xà phòng, kem hay nước hoa nào. Ông cần phải lau người bằng khăn tắm ẩm dệt mảnh, rồi thấm khô với khăn lanh sạch (một lần tắm trung bình cần hai mươi chiếc khăn, Proust còn chỉ rõ là phải đem đến tiệm giặt dùng đúng loại bột không gây kích thích, nhãn hiệu Lavigne, cũng là nhãn hiệu bột giặt ưa dùng của Jean Cocteau[22]). Ông phát hiện ra mình hợp với quần áo cũ hơn quần áo mới, và ông cũng gắn bó sâu sắc với giày và khăn mùi soa cũ. Chuột Proust rất khiếp chuột. Khi Paris bị quân Đức ném bom năm 1918, ông tâm sự rằng ông khiếp chuột còn hơn cả họng pháo. Lạnh Luôn thấy lạnh. Ngay cả giữa mùa hè, ông cũng mặc một áo choàng và bốn áo gió nếu buộc phải ra khỏi nhà. Ở tiệc tối, ông luôn khoác trên mình một chiếc áo choàng lông. Tuy vậy, những người đón tiếp ông vẫn ngạc nhiên phát hiện ra bàn tay ông lạnh đến mức nào. Sợ tác động của khói, ông không để phòng mình được đốt lò sưởi giữ ấm đúng mức, và chủ yếu giữ ấm bằng các chai đựng nước nóng và áo khoác chui đầu. Tức là ông thường cảm thấy lạnh và, đặc biệt hơn, xổ mũi. Vào cuối lá thư gửi cho bạn mình Reynaldo Hahn, ông nhắc rằng ông đã lau mũi tám mươi ba lần kể từ khi bắt đầu viết thư. Lá thư dài ba trang. Nhạy cảm với độ cao Trở lại Paris sau khi đến thăm cậu mình ở Versailles, Proust bắt đầu cảm thấy một nỗi khó chịu và không thể leo cầu thang để lên căn hộ của mình. Trong một lá thư gửi cho ông cậu, về sau ông quy nỗi khó chịu này cho việc thay đổi độ cao nơi ở mà ông trải qua khi tới Versailles. Versailles nằm cao hơn Paris tám mươi ba mét. Ho Ông ho rất lớn. Ông thuật lại một lần ho vào năm 1917: “Những người hàng xóm, khi nghe thấy tiếng ho ầm ĩ liên tiếp, vang lên từng chặp, hẳn sẽ nghĩ là tôi đã mua một cỗ đại phong cầm dùng cho nhà thờ hoặc một con chó, hoặc là vì một mối quan hệ bất chính vô luân (và hoàn toàn tưởng tuợng) nào đó với một quý cô, tôi đã làm cha một đứa trẻ bị ho gà.” Du lịch Dị ứng với bất cứ sự ngắt quãng nào đối với thói quen và thông lệ, Proust luôn nhớ nhà và sợ rằng bất cứ chuyến đi nào cũng sẽ giết chết ông. Ông giải thích rằng trong mấy ngày đầu ở một chốn mới tới, ông thấy bất an như một số loài thú khi đêm xuống vậy (tuy không rõ ông đang nghĩ đến những loài thú nào). Ông dần dà hình thành ước muốn là được sống trên một du thuyền và nhờ đó có thể đi khắp nơi mà không phải ra khỏi giường. Ông đề xuất ý tưởng này với bà Straus[23] đang hạnh phúc với hôn nhân: “Bà có muốn chúng ta thuê một con thuyền, ở đó không có tiếng ồn và ta có thể ngắm tất cả thành phố đẹp nhất thế gian bên bờ biển lướt qua trước mắt mà không phải ra khỏi giường của tôi cũng như của bà không?” Lời đề nghị không được chấp nhận. Không muốn ra khỏi giường Proust thích dành hầu hết thời gian trên giường. Ông biến nó thành bàn và nơi làm việc. Liệu chiếc giường có mang lại sự phòng vệ trước thế giới tàn nhẫn ngoài kia không? “Khi người ta buồn, thật dễ chịu biết bao khi được nằm trong chăn ấm nệm êm, và tại đó, với tất cả nỗ lực và vật vã cuối cùng, thậm chí có lẽ còn vùi đầu trong chăn, buông mình cho cơn oán than, như nhành cây trước ngọn gió thu.” Tiếng ồn ào từ hàng xóm Ông nhạy cảm đến phát rồ với tiếng ồn. Sống trong một tòa nhà chung cư ở Paris chẳng khác nào địa ngục, nhất là khi ai đó đang tập nhạc ở trên tầng. “Có một đồ vật vô tri có khả năng gây bực bội hơn bất cứ con người nào: chiếc đàn dương cầm.” Ông suýt chết khi tình hình trầm trọng thêm: căn hộ sát vách với căn hộ của ông bắt đầu được sửa sang lại vào mùa xuân năm 1907. Ông giải thích vấn đề này với bà Straus: các công nhân đến lúc bảy giờ sáng, “một mực thể hiện tinh thần hứng khởi buổi sáng bằng việc nện búa uỳnh uỳnh và kéo cưa xoèn xoẹt ngay bên dưới chỗ giường tôi nằm, sau đó yên được nửa giờ, rồi lại bắt đầu nện uỳnh uỳnh liên hồi khiến tôi không tài nào ngủ lại... Tôi đã hết sức chịu đựng, và bác sĩ riêng khuyên tôi nên chuyển đi vì thể trạng của tôi quá yếu, không thể chống đỡ nổi tất cả chuyện này.” “Hơn nữa, (xin bà bỏ quá cho!) họ chuẩn bị lắp đặt một cái bồn rửa mặt và bệ xí trong toa lét của bà ta ngay cạnh bức tường phòng ngủ của tôi.” Và ông kết thúc bài ca thán với thông tin: ”Có một quý ông khác vừa chuyển vào tầng bốn tòa nhà này, và tôi có thể nghe thấy rõ mồn một mọi thứ ở căn hộ đó như thể trong phòng ngủ của tôi vậy.” Ông cầu viện đến việc gọi bà hàng xóm là đồ bò cái, và khi đám công nhân phải thay đổi kích cỡ bệ xí toa lét của bà ta tới ba lần, ông bóng gió rằng làm vậy là để vừa với cặp mông vĩ đại của bà. Tiếng ồn khủng khiếp tới nỗi ông phải kết luận rằng chuyện sửa sang nhà cửa của bà hàng xóm phải sánh ngang với việc tu bổ kim tự tháp của Pharaoh, và ông nói với bà Straus như thể bà là nhà Ai Cập học xuất chúng: “Cả chục công nhân quai búa mỗi ngày với sự điên cuồng như vậy trong nhiều tháng trời hẳn phải dựng lên thứ gì đó kỳ vĩ như Kim tự tháp Cheops khiến khách qua đường phải ngỡ ngàng khi gặp giữa trung tâm mua sắm Printemyos và nhà thờ Saint-Augustin.” Không ai nhìn thấy kim tự tháp nào cả. Những bệnh tật khác “Người ta nghĩ rằng những ai lúc nào cũng ốm yếu thì sẽ không mắc các chứng bệnh của người khác” Proust nói với Lucien Daudet[24], “nhưng họ vẫn mắc như thường.” Trong hạng mục này, Proust liệt kê: sốt, cảm cúm, cảm lạnh, thị lực yếu, khó nuốt, đau răng, đau khuỷu tay và hay bị choáng. Không được người khác tin tưởng Proust thường phải hứng chịu những lời ám chỉ gây ức chế rằng ông không bệnh tật như ông nói. Khi Thế chiến thứ nhất nổ ra, hội đồng quân y triệu tập ông đến để kiểm tra sức khỏe. Mặc dù ông đã nằm giường gần như liên tục kể từ năm 1903, ông hoảng sợ khi nghĩ rằng tình trạng ốm đau nghiêm trọng của ông sẽ không được cân nhắc thích đáng, và ông sẽ bị gọi đi chiến đấu trong chiến hào. Viễn cảnh ấy khiến Lionel Hauser, người môi giới chứng khoán cho Proust, thích thú, ông ta bày tỏ thẳng thắn với Proust rằng lâu nay ông ta vẫn hy vọng một ngày nào đó sẽ được thấy Chiến công Bội tinh trên ngực Proust. Vị khách hàng của ông ta tỏ ra phật ý với ý tưởng ấy: “Ông biết rất rõ là với tình trạng sức khỏe như thế này, tôi sẽ mất mạng chỉ trong vòng 48 giờ”. Ông không bị gọi đi lính. Vài năm sau chiến tranh, một nhà phê bình chỉ trích Proust là gã công tử bột, suốt ngày nằm dài trên giường mơ mộng với ngọn chúc đài và những trần nhà rộng lớn, và chỉ rời phòng mình lúc sáu giờ tối để dự những bữa tiệc sang trọng với đám nhà giàu mới nổi, cái đám sẽ chẳng bao giờ mua sách của ông. Tức giận, Proust đáp rằng ông là một người tàn tật, không có khả năng ra khỏi giường, dù là sáu giờ tối hay sáu giờ sáng, và ốm yếu đến nỗi đi lại trong phòng mình còn khó (ngay cả đi ra mở cửa sổ, ông nói thêm) chứ nói gì đến đi dự tiệc. Tuy nhiên, chỉ vài tháng sau, vẫn thấy ông loạng choạng đi nghe opera. Cái chết Mỗi khi kể cho người khác về tình hình sức khỏe của mình, Proust đều nhân tiện nói rằng ông sắp từ giã cõi đời. Ông thông báo điều này với sự đoan chắc và thường trực trong suốt mười sáu năm cuối đời. Ông mô tả tình trạng thông thường của ông là ‘lơ lửng giữa caffeine, aspirin, chứng hen suyễn, chứng đau thắt ngực, và mỗi tuần thì hết sáu ngày ông rơi vào tình trạng sống dở chết dở.” Phải chăng ông là một kẻ mắc bệnh tưởng trầm trọng? Người môi giới chứng khoán của ông, Lionel Hauser, tin là vậy và cuối cùng quyết định nói thẳng thắn với ông theo cách mà không ai dám nói. “Cho phép tôi nói với ông, ngay cả khi ông năm mươi tuổi, ông vẫn y hệt như hồi tôi mới biết ông lần đầu, tức một đứa trẻ hư. Vâng, tôi biết ông sẽ phản đối, tìm cách cho tôi thấy rằng theo A + B - C thì không phải ông hư hỏng, mà rằng ông luôn là một đứa trẻ bị đọa đày không được ai hiểu, nhưng đó là lỗi của ông hơn là lỗi của người khác.” Nếu ông luôn bệnh tật, Hauser cáo buộc rằng cái tổn hại ấy chủ yếu là do chính ông gây ra, thì đó là hậu quả của việc cứ nằm ườn trên giường cả ngày, rèm cửa đóng kín, bởi thế từ chối hai điều mang lại sức khỏe tốt: ánh nắng mặt trời và không khí trong lành. Dù sao, khi Châu Âu sa vào hỗn loạn sau Thế chiến thứ nhất, Hauser vẫn hối thúc Proust nên tránh xa một chút những sự khổ sở về thể chất của mình: “Ông sẽ phải thừa nhận sức khỏe của ông còn tốt hơn nhiều so với thể trạng châu Âu, dầu cho nó vốn cực kỳ không ổn định.” Mặc cho sức hùng biện của lập luận này, Proust qua đời vào năm sau đó thật. Vậy khi ấy Marcel có đang nói quá lên? Cùng một con vi rút có thể khiến một người nằm liệt giường suốt một tuần, nhưng ở một người khác thì nó lại được xem là sự uể oải không đáng ngại sau bữa trưa. Gặp ai đó co rúm lại vì đau đớn khi bị xước ngón tay, thay vì kết án họ diễn kịch, ta có thể tưởng tượng rằng vết xước đó với một sinh vật có làn da mỏng manh cũng đau đớn không kém một nhát dao chém vào thân thể ta - và vì thế ta không thể cho phép mình đánh giá nỗi đau của người khác có chính đáng hay không chỉ dựa trên giả định về mức độ đau đớn của ta nếu ta cũng rơi vào cảnh ngộ tương tự. Proust rõ ràng là có làn da mỏng manh; Léon Daudet[25] gọi ông là người sinh ra không có da. Thật khó mà ngủ nổi sau một bữa ăn thừa mứa. Quá trình tiêu hóa giữ cho cơ thể bận rộn, thức ăn nằm nặng nề trong dạ dày, dường như ngồi thì thoải mái hơn là nằm. Nhung trong trường hợp của Proust, một phần tử thức ăn hay chất lỏng nhỏ nhoi nhất cũng đủ làm mất giấc ngủ của ông. Ông nói với một bác sĩ rằng ông có thể uống một phần tư ly nước khoáng Vichy trước khi đi ngủ, nhưng nếu uống quá nhiều, một ly đầy chẳng hạn, ông sẽ mất ngủ bởi những cơn đau bụng quằn quại. Là bạn đồng bệnh của nàng công chúa vốn chỉ cần một hạt đậu cũng có thể mất ngủ, tác giả có lẽ đã bị ám bởi lời nguyền là có một năng lực thần bí nhận ra từng mililít chất lỏng đổ vào bộ ruột của mình. So với Robert Proust, người em kém ông hai tuổi, cũng là bác sĩ phẫu thuật giống như cha mình (tác giả của một công trình nghiên cứu được đánh giá cao, Giải phẫu cơ quan sinh dục ngoài của giới nữ) và cường tráng như bò mộng. Trong khi Marcel có thể bị giết chết bởi một cốc rượu, Robert là người không-thể-tiêu-diệt. Năm mười chín tuổi, Robert đi xe đạp đôi ở Reuil, một ngôi làng nằm bên bờ sông Seine cách Paris vài dặm về phía Bắc. Tại một ngã giao đông đúc, ông bị ngã xe và trượt xuống dưới bánh một chiếc xe goòng chở năm tấn than đang trờ tới. Chiếc xe cán qua người, ông được đưa ngay tới bệnh viện, mẹ ông hốt hoảng, vội vã từ Paris đến, nhưng con trai bà hồi phục một cách nhanh chóng và khác thường, không bị bất kỳ di chứng vĩnh viễn nào như các bác sĩ đã lo sợ. Khi Thế chiến thứ nhất nổ ra, chàng bò mộng, lúc này đã là một bác sĩ phẫu thuật, được điều đến một bệnh viện dã chiến ở Étain gần Verdun, sống trong một cái lán và làm việc cật lực trong điều kiện không đảm bảo vệ sinh. Một ngày nọ, một quả đạn pháo rơi xuống bệnh viện, và mảnh đạn văng ra khắp xung quanh chiếc bàn nơi Robert đang phẫu thuật cho một người lính Đức. Mặc dù bản thân bị thương, bác sĩ Proust vẫn một mình chuyển bệnh nhân đến một khu nhà tập thể gần đó và tiếp tục cuộc phẫu thuật trên cáng. Vài năm sau, ông gặp một tai nạn xe hơi nghiêm trọng khi người lái xe của ông ngủ gật và chiếc xe tông phải một xe cứu thương. Robert bị văng vào vách ngăn bằng gỗ và rạn xương sọ, nhưng hầu như ngay trước khi gia đình ông được báo tin và hốt hoảng vì tin dữ đó, ông đã trên đà hồi phục và trở lại với cuộc sống năng động. Vậy người ta mong trở thành ai, Robert hay Marcel? Các lợi thế của việc trở thành Robert có thể được tóm gọn như sau: thân thể tràn đầy năng lượng, có năng khiếu chơi tennis và lái xuồng máy, phẫu thuật giỏi (Robert được ca ngợi về kỹ thuật cắt tuyến tiền liệt kể từ đó kỹ thuật phẫu thuật này được giới y học Pháp gọi là proustatectomy[26], sung túc về tiền bạc, là cha của một cô con gái xinh đẹp, Suzy (được bác Marcel ngưỡng mộ và chiều chuộng hết mức, suýt mua cho một con chim hồng hạc khi cô bé chỉ buột miệng ao ước có một con hồi còn nhỏ). Còn Marcel thì sao? Thân thể thiếu sinh khí, không thể chơi tennis hay lái xuồng máy, không kiếm ra tiền, không có con, không được kính trọng cho mãi đến gần cuối đời, nhưng tới lúc ấy lại cảm thấy ốm yếu đến mức chẳng tìm được chút hứng thú nào từ sự kính trọng ấy (vốn ưa thích rút ra những sự tương đồng giữa mọi việc với bệnh tật, ông ví mình như người bị sốt quá cao nên chẳng thể tận hưởng món bánh soufflé tuyệt hảo). Tuy nhiên, có một khía cạnh ở Robert có vẻ kém anh mình là khả năng để ý. Robert không phản ứng gì mấy khi cửa sổ để mở vào một ngày tràn ngập phấn hoa hay năm tấn than nghiến qua người; ông có thể chu du từ đỉnh Everest đến thành Jericho mà chẳng lưu ý lắm tới sự thay đổi độ cao, hay nằm ngủ trên năm hộp đậu mà không nghi ngờ là có thứ gì đó bất thường bên dưới nệm. Mặc dù sự trơ lì về cảm giác ấy thường khá cần thiết, nhất là với ai đó đang thực hiện một cuộc phẫu thuật dưới hàng rào đạn pháo trong Thế chiến thứ nhất, nhưng cũng cần phải chỉ ra rằng việc cảm nhận các thứ (thường có nghĩa là cảm nhận một cách đau đớn) ở mức độ nào đó có liên quan đến sự thu nhận tri thức. Bị bong gân nhanh chóng dạy chúng ta biết về sự phân phối sức nặng cơ thể; bị nấc buộc chúng ta lưu ý và điều chỉnh những khía cạnh từ trước tới nay ta không biết đến trong hệ hô hấp; bị người yêu phụ tình là một cách hoàn hảo để giới thiệu cho ta về các cơ chế của sự phụ thuộc cảm xúc. Thực ra, theo cách nhìn của Proust, chúng ta không thực sự học được điều gì một cách thích đáng cho tới khi có chuyện rắc rối xảy ra, cho tới khi ta phải chịu đau khổ, cho tới khi có chuyện xảy ra không như ta hy vọng: Chỉ riêng sự ốm yếu mới khiến ta để ý và học hỏi, và cho phép ta phân tích các quá trình mà nếu không như vậy ta sẽ không biết tới. Một người mà tối tối đặt lưng xuống giường là ngủ thẳng cẳng, và ngưng sống cho tới thời khắc anh ta thức dậy, hẳn nhiên sẽ không bao giờ mơ tới việc đưa ra ngay cả những nhận định không mấy quan trọng về giấc ngủ, chưa nói đến có những khám phá lớn lao. Anh ta hầu như không biết rằng anh ta ngủ. Một chút mất ngủ cũng ít nhiều có giá trị trong việc giúp ta trân trọng giấc ngủ, soi rọi một tia sáng lên cái vùng tối tăm đó. Một trí nhớ hoàn hảo sẽ không thúc đẩy mạnh mẽ việc nghiên cứu hiện tượng ghi nhớ. Mặc dù đương nhiên là ta có thể sử dụng trí óc mình mà không cần phải chịu đau khổ, Proust vẫn cho rằng chúng ta chỉ trở nên tò mò thích đáng những khi nào buồn khổ. Ta đau khổ, vì thế ta suy nghĩ, và ta làm thế bởi vì suy nghĩ giúp chúng ta đặt nỗi đau vào bối cảnh. Nó giúp ta hiểu được những căn nguyên của nó, hình dung được các chiều kích của nó, và làm cho bản thân ta chấp nhận sự hiện diện của nó. Theo đó thì những ý tưởng nảy sinh mà không do đau khổ thiếu mất một nguồn động lực quan trọng. Với Proust, có vẻ như hoạt động trí óc được chia làm hai loại: có những cái có thể gọi là những suy nghĩ không đau đớn, nảy sinh không phải từ nỗi khó chịu cụ thể nào và được gọi hứng đơn thuần bởi một mong muốn vô tư là tìm hiểu cách vận hành của giấc ngủ hay tại sao con người lại quên; và những suy nghĩ đau đớn, nảy ra từ sự phiền não vì không thể ngủ được hoặc không thể nhớ ra một cái tên - và Proust đặc biệt coi trọng loại thứ hai. Chẳng hạn, ông nói với chúng ta rằng có hai phương pháp để người ta thu được hiểu biết: cách thứ nhất là thông qua giáo viên và không đau đớn; cách thứ hai là thông qua cuộc đời và phải chịu đau đớn. Và ông cho rằng loại hiểu biết có được từ sự đau đớn thì ưu việt hơn rất nhiều - quan điểm này được nhân vật họa sĩ Elstir[27], người đã tặng cho người kể chuyện một cuộc tranh luận tán thành việc phạm sai lầm: Không có ai, dù thông thái đến đâu, ở thời điểm nào đó của tuổi trẻ, không từng nói, hoặc thậm chí sống theo cách khiến anh ta sẽ cảm thấy khó chịu trong chặng đời sau này đến mức, nếu có thể, anh ta sẵn lòng xóa bỏ khỏi trí nhớ của mình. Nhưng anh ta không nên hoàn toàn hối tiếc, vì anh ta không thể chắc chắn rằng mình quả thực đã trở thành một người thông thái - cứ cho là có ai đó trong chúng ta có thể thông thái đi - nếu anh ta chưa kinh qua tất cả các hiện thân trì độn hay không khỏe mạnh để đạt đến giai đoạn tột đỉnh ấy. Tôi biết có những người trẻ... được giáo viên truyền cho tư tưởng cao quý và tinh hoa đạo đức ngay từ những ngày đầu họ đi học. Có lẽ họ không có gì muốn rút lại khi nhìn lại đời mình; nếu chọn, họ có thể công bố một bản tường trình có chữ ký chứa đựng tất cả những gì họ từng nói hay làm; nhưng họ vẫn là những sinh vật đáng thương, là hậu duệ yếu ớt của các nhà giáo điều, và hiểu biết của họ vừa tiêu cực vừa vô ích. Chúng ta không thể được dạy để trở nên hiểu biết, chúng ta phải tự mình khám phá nó trong một hành trình không ai có thể làm thay, một nỗ lực không ai có thể miễn thứ cho chúng ta. Tại sao họ không thể? Tại sao hành trình đau đớn đó lại thiết yếu cho việc đạt tới sự hiểu biết đích thực? Elstir không nói rõ, mặc dù có lẽ việc anh xác định mối quan hệ giữa mức độ đau đớn một người phải trải qua với độ sâu sắc của suy nghĩ họ rút ra được cũng đã là đủ rồi. Như thể tâm trí là một cơ quan hết sức thận trọng, khước từ thu nhận những sự thật khó chấp nhận trừ phi có những biến cố khó khăn khuyến khích nó làm thế. ”Hạnh phúc tốt cho cơ thể, nhưng chính đau khổ mới giúp phát triển các thế mạnh của tâm trí,” Proust nói. Những nỗi đau khiến tâm trí ta trải qua một dạng rèn luyện trí não mà ta hẳn sẽ né tránh ở những thời điểm hạnh phúc hơn. Quả thật, nếu ta đặt sự phát triển của các khả năng trí tuệ làm ưu tiên thực sự, thì hàm ý sẽ là ta thà không hạnh phúc còn hơn là hài lòng, thà theo đuổi những mối tình chỉ đem lại dằn vặt, khổ đau còn hơn là đọc Plato hay Spinoza[28]. Người phụ nữ ta cần và khiến ta đau đớn làm dấy lên trong ta tất cả những cảm xúc sâu sắc và dạt dào hơn nhiều so với một người đàn ông tài năng khiến ta thích thú. Có lẽ, cũng là bình thường nếu chúng ta vẫn cứ ngu ngơ khi mọi điều xảy đến đều tốt đẹp. Khi chiếc xe chạy tốt, liệu còn thôi thúc nào khiến ta muốn tìm hiểu cách vận hành phức tạp bên trong nó? Khi người yêu thề thốt chung thủy, hà cớ gì ta phải đau đáu về những động cơ của sự phản bội ở con người? Cái gì có thể khuyến khích ta tìm hiểu về những nỗi nhục trong đời sống xã hội khi mà ta chỉ toàn nhận được sự tôn trọng? Chỉ khi rơi vào đau khổ, ta mới cảm thấy bị thôi thúc đối mặt với những sự thật khó chấp nhận, cũng như khi ta than khóc dưới đống chăn gối, như nhành cây trong cơn gió thu. Điều này có thể lý giải mối nghi ngờ của Proust dành cho nghề bác sĩ. Các bác sĩ đứng ở vị trí quái đản theo lý thuyết về tri thức của Proust, bởi họ tự xưng mình hiểu cách vận hành của cơ thể, ngay cả khi kiến thức họ có chủ yếu không xuất phát từ bất cứ nỗi đau đớn nào trong cơ thể của chính họ. Họ chỉ học mất mấy năm ở trường y mà thôi. Chính sự kiêu ngạo về vị thế này đã giày vò một Proust luôn đau ốm, một sự kiêu ngạo càng trở nên vô căn cứ hơn do nền tảng kiến thức y khoa trong thời của ông vốn không vững chắc. Ngày còn nhỏ, ông từng được đưa đến một bác sĩ Martin nào đó, người được cho là đã khám phá ra cách đặc trị vĩnh viễn cho bệnh hen. Cách này bao gồm đốt mô cương ở mũi trong một liệu trình kéo dài hai giờ. “Giờ cậu có thể đi về miền quê,” bác sĩ Martin cam đoan với cậu bé Proust sau khi ông thực hiện ca phẫu thuật đầy đau đớn đó. “Cậu không thể mắc chứng viêm mũi dị ứng nữa đâu.” Nhưng, dĩ nhiên, ngay khi vừa thấy một bông tử đinh hương đang nở, Proust bị lên cơn hen dữ dội, dai dẳng khiến tay chân ông tím tái và khiến nhiều người sợ rằng ông sẽ chết. Các bác sĩ trong tiểu thuyết của Proust cũng không tạo được tin tưởng hơn là mấy. Khi bà của người kể chuyện bị bệnh, gia đình lo lắng mời một nhân vật nổi danh và có tiếng trong ngành y, bác sĩ du Boulbon. Mặc dù bà đang phải chịu cơn đau đớn dữ dội, ông bác sĩ du Boulbon vẫn tiến hành khám nhanh trước khi quyết định là ông đã có một giải pháp hoàn hảo. “Bà sẽ được chữa khỏi, thưa bà, vào cái ngày - có thể là hôm nay, điều đó còn tùy ở bà - bà nhận ra rằng bà chẳng có gì bất ổn và trở lại cuộc sống bình thường. Bà nói với tôi rằng bà đã không ăn gì, không đi ra ngoài ư?” “Nhưng bác sĩ ơi, tôi đang sốt mà.” “Dù sao cũng không phải ngay lúc này. Hơn nữa, cái cớ ấy mới hay làm sao! Bà không biết rằng chúng tôi phải tẩm bổ cho bệnh nhân lao sốt 39 độ và bắt họ phải ra ngoài trời ư?” Không thể phản bác những luận điểm của ông thầy thuốc đang được đề cao này, bà buộc phải nhấc mình khỏi giường, dắt theo đứa cháu trai, và vật lộn với cơn đau trên đường đi đến đại lộ Champs-Élysées để hít thở khí trời trong lành. Dĩ nhiên, chuyến đi ấy đã giết chết bà. Vậy, liệu một tín đồ Proust có nên đi khám bệnh không? Marcel, con trai và là anh trai của các vị bác sĩ phẫu thuật, cuối cùng đi đến một phán quyết lấp lửng, thậm chí hơi quá rộng lượng, với nghề này: Tin vào y học là hết sức điên rồ, nhưng không tin vào nó thì thậm chí còn điên rồ hơn. Tuy vậy, logic kiểu Proust vẫn dẫn tới một điểm sáng suốt là hãy đi tìm các bác sĩ vốn thường trải qua những cơn bạo bệnh. Giờ thì có vẻ như ta không nên để mức độ bất hạnh của Proust khiến ta hoài nghi giá trị tư tưởng của ông. Quả thực, chúng ta nên xem mức độ đau khổ của Proust chính là bằng chứng về điều kiện tiên quyết hoàn hảo cho các suy tư sâu sắc của ông. Khi chúng ta biết rằng người tình của Proust chết trong một vụ rơi máy bay ở bờ biển Antibes, hay Stendhal trải qua một chuỗi những mối tình đơn phương đau đớn, hay Nietzsche là một đứa trẻ bị đẩy ra ngoài lề xã hội và thường bị chế nhạo ở trường, ta có thể chắc chắn đã khám phá ra những con người có thẩm quyền về tri thức. Phần lớn những lời chứng nhận sâu sắc về ý nghĩa của việc được sống không phải do những người có cuộc sống mãn nguyện hay thành đạt để lại. Có vẻ như hiểu biết ấy vẫn luôn là đặc quyền, và ân phước được dành riêng, của kẻ thống khổ. Tuy vậy, trước khi tán thành mà không hề có tư duy phê phán sự sùng bái có tính chất lãng mạn đối với sự khổ đau, ta cũng nên biết thêm rằng sự khổ đau, nếu chỉ có mình nó, chưa bao giờ là đủ. Không may thay, việc đánh mất một người tình vẫn dễ dàng hơn là hoàn thành cả pho tiểu thuyết Đi tìm thời gian đã mất, việc trải qua một khao khát không được hồi đáp vẫn dễ hơn là viết Về tình yêu[29], trở thành kẻ cô độc trong xã hội dễ hơn là trở thành tác giả của Sự khai sinh của bi kịch[30]. Biết bao kẻ mắc bệnh giang mai bất hạnh có viết được Hoa ác[31] đâu, mà lại đi tự sát đấy chứ. Có lẽ vì thế sự khẳng định lớn lao nhất người ta có thể dành cho sự đau khổ là việc nó mở ra các khả năng cho sự truy vấn có tính trí tuệ, có óc tưởng tượng - những khả năng có thể dễ dàng, và thường xuyên nhất là, bị bỏ qua hoặc khước từ. Liệu ta có thể làm gì khác? Dù việc sáng tạo ra một kiệt tác không dính líu gì đến tham vọng này, làm cách nào để chúng ta có thể học cách chịu đựng đau khổ tốt hơn? Mặc dù các triết gia từ xưa tới nay vẫn quan tâm đến chuyện mưu cầu hạnh phúc, nhưng có vẻ như sự minh triết lớn lao hơn nhiều lại nằm trong việc theo đuổi các cách để được bất hạnh đúng nghĩa và nhiều nhất. Nỗi thống khổ cứ trở lại một cách bướng bỉnh trong đời sống con người cho thấy việc phát triển một cách tiếp cận hữu hiệu với nó chắc chắn phải bỏ xa giá trị của bất cứ sự mưu cầu hạnh phúc mang tính không tưởng nào. Proust, một cựu binh chiến đấu cho đau khổ, hiểu rõ điều đó: Toàn bộ nghệ thuật sống nằm ở chỗ biết tận dụng những cá nhân khiến ta nếm trải đau khổ. Một nghệ thuật sống như thế sẽ bao hàm những gì? Với một người ái mộ Proust, nhiệm vụ là thấu hiểu thực tại hơn. Nỗi đau thật đáng ngạc nhiên: ta không thể hiểu tại sao ta bị bỏ rơi trong tình yêu hay bị gạt ra khỏi danh sách khách mời, tại sao ta không thể ngủ hằng đêm hay rảo bước lang thang qua những đồng cỏ đầy phấn hoa vào mùa xuân. Việc xác định lý do cho những nỗi băn khoăn như thế không miễn cho ta khỏi phải chịu đựng nỗi đau một cách ngoạn mục, nhưng nó có thể tạo nền tảng cốt yếu cho sự hồi phục. Vừa đảm bảo rằng không chỉ mình ta bị đày ải, việc hiểu ra lý do vừa mang lại cho ta ý thức về các ranh giới và logic cay đắng đằng sau, nỗi đau khổ của ta: Những đau khổ, vào thời khắc biến thành tư tưởng, sẽ mất đi một phần sức mạnh làm tổn thương trái tim ta. Tuy vậy, rất thường xuyên, đau khổ không thể chuyển hóa thành tư tưởng, và, thay vì cho ta nhận thức sâu sắc hơn về thực tại, nó lại đẩy ta sang một hướng đi tai hại nơi ta không học được gì mới, thậm chí còn gặp nhiều ảo tưởng hơn và có ít suy nghĩ giàu nghị lực hơn so với trường hợp, từ khởi đầu, ta chưa bao giờ trải qua nỗi đau khổ nào. Cuốn tiểu thuyết của Proust chứa đầy những kẻ ta có thể gọi là người bệnh nặng, các linh hồn khốn khổ từng bị phản bội trong tình yêu, hay không được mời đến các bữa tiệc, những kẻ đau đớn bởi cảm giác rằng mình thiếu hụt về trí tuệ hay có vị thế xã hội thấp kém, nhưng lại chẳng học được gì từ các chứng bệnh ấy, và đáp lại bằng cách tạo ra các cơ chế phòng vệ tiêu cực, dẫn đến thói tự phụ và ảo tưởng, sự độc ác và nhẫn tâm, thù oán và giận dữ. Để tránh bất công với họ, ta có thể nhấc một số người bệnh nặng này ra khỏi tiểu thuyết, để xem xét điều gì làm họ phiền não, sự khiếm khuyết trong cơ chế phòng vệ của họ theo quan niệm của Proust, và đề xuất, theo tinh thần trị liệu một cách nhẹ nhàng, những cách phản ứng nào đó hiệu quả hơn. BỆNH NHÂN THỨ NHẤT Bà Verdurin: xuất thân tư sản, là bà chủ của một salon bàn luận về nghệ thuật và chính trị mà bà gọi là “thị tộc bé nhỏ” của bà. Vốn rất dễ xúc động trước nghệ thuật, bà thấy nhức đầu khi bị choáng ngợp bởi vẻ đẹp của âm nhạc, và có lần còn bị sái quai hàm do cười quá nhiều. Vấn đề: bà Verdurin suốt đời chỉ tìm cách leo lên các nấc thang xã hội, nhưng rồi nhận ra là mình bị những người mình muốn gặp nhất phớt lờ. Bà không có tên trong danh sách khách mời của những gia đình quý tộc hạng nhất; bà không được chào đón tại salon của nữ công tước de Guermantes; salon của bà chỉ toàn những thành viên cùng tầng lớp xã hội với bà; và Tổng thống Cộng hòa Pháp chưa """