"
Pollyanna - Mặt Trời Đã Lớn Khôn - Eleanor H. Porter & Hàn Băng Vũ (dịch) full mobi pdf epub azw3 [Kinh Điển]
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Pollyanna - Mặt Trời Đã Lớn Khôn - Eleanor H. Porter & Hàn Băng Vũ (dịch) full mobi pdf epub azw3 [Kinh Điển]
Ebooks
Nhóm Zalo
Pollyanna - Mặt Trời Đã Lớn Khôn Tác giả: Eleanor H. Porter
Người dịch: Hàn Băng Vũ
Nhà xuất bản Văn Học 01/2018 —★—
ebook©vctvegroup
28/03/2020
CHƯƠNG I
DELLA BÀY TỎ SUY NGHĨ
D
ella Wetherby bước lên những bậc thềm bề thế trước nhà chị gái ở Đại lộ Commonwealth, ấn mạnh ngón tay lên chuông điện trên cửa. Từ chóp chiếc mũ lông chim cho đến gót đôi giày đế thấp, cô đều toát lên vẻ khỏe khoắn, năng động và quyết đoán. Ngay cả giọng nói khi cô cất tiếng chào cô hầu gái ra mở cửa cũng tràn đầy sức sống.
“Chào buổi sáng, Mary. Chị tôi có ở nhà không?”
“Dạ... có, thưa tiểu thư, phu nhân Carew đang ở trong ạ,” cô hầu gái dè dặt đáp; “nhưng phu nhân ra lệnh cho tôi là đừng để bà gặp ai cả.” “Thế sao? Vậy tôi là không ai cả đây,” tiểu thư Wetherby mỉm cười, “thế nên chị ấy sẽ gặp tôi. Đừng lo, tôi sẽ chịu trách nhiệm,” cô khẽ gật đầu đáp lại ánh mắt tỏ vẻ sợ bị quở trách của cô hầu gái. “Chị ấy đang ở đâu, trong phòng nghỉ à?”
“V-vâng, thưa tiểu thư; nhưng... Nhưng mà phu nhân đã nói...” Mặc cho cô hầu gái nói vậy, tiểu thư Wetherby đã đi lên lưng chừng cầu thang; cô hầu gái chỉ còn biết nhìn theo với ánh mắt bất lực rồi quay đi.
Đến sảnh tầng trên, Della Wetherby không ngại ngần bước thẳng tới, gõ lên cánh cửa đang khép hờ.
“Ôi, Mary,” một giọng nói với vẻ “khổ-thân-tôi-gì-nữa-đây” đáp lại. “Không phải tôi đã... Trời ơi, Della!” Giọng nói bỗng trở nên ấm áp, tình cảm và đầy ngạc nhiên. “Em gái thân yêu, sao em lại ở đây?” “Vâng, là em, Della đây,” cô gái trẻ mỉm cười và bước vào phòng một
cách rất tự nhiên. “Vừa kết thúc ngày Chủ nhật ở bãi biển cùng với hai cô y tá nữa là em đến đây ngay. Em đang trên đường về Nhà an dưỡng nên nhân tiện ghé qua, nhưng em sẽ không ở lại lâu đâu. Em đến vì cái này.” Dứt lời, cô liền tặng cho chủ nhân của giọng nói “khổ-thân-tôi-gì-nữa-đây” một nụ hôn thân mật.
Phu nhân Carew tỏ vẻ không hài lòng, lạnh lùng lùi lại ra sau. Chút vui vẻ và cao hứng trên gương mặt cô vừa thoáng xuất hiện, giờ cũng đã biến mất, chỉ còn lại nét cáu kỉnh vô hồn như thường ngày.
“Ồ, đáng lẽ chị phải biết chứ nhỉ,” cô nói. “Em chẳng bao giờ chịu ở đây cả.”
“Ở đây sao!” Della Wetherby cười vui vẻ rồi làm một cử chỉ phác tay; rồi giọng nói và phong thái của cô bất ngờ thay đổi theo cái phác tay ấy. Cô nhìn chị mình với ánh mắt nghiêm túc nhưng trìu mến. “Ruth yêu quý của em, em không thể. Chỉ là em không thể sống trong căn nhà này. Chị hiểu mà,” cô nhẹ nhàng nói.
Phu nhân Carew cựa người khó chịu.
“Chị không hiểu tại sao hết,” cô chống chế.
Della Wetherby lắc đầu.
“Có, chị hiểu mà, chị thân yêu. Em hoàn toàn không thể hòa hợp được với tất cả những thứ này: sự u ám, lối sống vô định, sự sầu não đau khổ kéo dài đằng đẵng.”
“Nhưng chị đang sầu não đau khổ mà.”
“Chị đâu có cần phải làm vậy chứ.”
“Sao cơ? Chị còn làm được gì khác cơ chứ?”
Della Wetherby trở nên mất bình tĩnh.
“Ruth, chị hãy nghe em nói này,” cô tiếp tục cố gắng. “Chị mới chỉ ba mươi ba tuổi thôi. Chị có sức khỏe, có lẽ thế nếu chị chịu chăm sóc bản thân mình tử tế, và rõ ràng chị thừa thời gian rảnh rỗi, lại còn có đầy tiền. Chắc chắn ai cũng sẽ khuyên chị nên kiếm việc gì đó làm vào một buổi sáng đẹp trời thế này chứ không phải ngồi ủ rũ trong cái ngôi nhà như hầm mộ này rồi bảo người hầu không muốn gặp ai như vậy.”
“Nhưng chị không muốn gặp ai cả.”
“Nếu là em, em sẽ bắt mình phải muốn.”
Phu nhân Carew thở dài một cách mệt mỏi rồi quay đi.
“Ôi, Della, sao em vẫn không chịu hiểu nhỉ? Chị không như em, chị không thể quên được.”
Gương mặt cô gái trẻ thoáng hiện ra nét đau khổ.
“Chắc ý chị là Jamie chứ gì? Em không quên chuyện đó, chị thân yêu ạ. Tất nhiên là em không thể quên được. Nhưng cứ ủ rũ như vậy cũng đâu có giúp chúng ta tìm thấy thằng bé được cơ chứ.”
“Cứ như thể chị đã không cố tìm thằng bé trong suốt tám năm qua ngoài việc ngồi ngơ ngẩn ấy,” phu nhân Carew nói giọng bực tức xen lẫn nức nở cùng lúc.
“Dĩ nhiên là chị có tìm, chị thân yêu ạ,” cô gái kia vội dỗ dành; “chúng ta vẫn nên tiếp tục tìm kiêm, cả hai chúng ta, cho tới khi tìm ra thằng bé hay xác nhận được nó đã chết. Nhưng những chuyện chị làm ở đây không giúp được gì cả.”
“Nhưng chị không muốn làm gì khác nữa hết,” phu nhân Carew nói nhỏ đầy uể oải.
Cả không gian chợt rơi vào khoảng lặng trong chốc lát. Cô em gái ngồi
đối diện nhìn chị mình bằng đôi mắt âu lo lẫn không vừa ý. “Ruth,” cô lên tiếng, cuối cùng cô cũng xả ra cơn tức giận của mình. “Tha lỗi cho em vì nói thế này, nhưng mà chị cứ định như thế này mãi à? Chị là một quả phụ, em công nhận; nhưng cuộc hôn nhân của chị kéo dài vỏn vẹn có một năm thôi, chồng chị còn lớn tuổi hơn chị rất nhiều. Lúc đó chị chẳng lớn hơn một đứa trẻ là bao, một năm đó cũng không hơn gì một giấc mơ cả. Chị không nên để chuyện đó khiến chị đau khổ cả đời chứ!” “Không, không,” phu nhân Carew vẫn lầm bầm ủ rũ.
“Thế chị định cứ thế này mãi à?”
“Tất nhiên là, nếu chị tìm thấy Jamie...”
“Vâng, vâng, em biết; nhưng Ruth thân yêu của em, chẳng lẽ trên đời này không có chuyện gì khác ngoài Jamie có thể khiến chị vui vẻ sao?” “Chị nghĩ là không có đâu,” phu nhân Carew hờ hững thở dài. “Ruth!” Cô em gái gắt lên, gần như là nổi giận. Nhưng rồi cô gái bỗng nhiên cười phá lên, “Ôi, Ruth ơi, Ruth, chắc em phải chữa trị cho chị bằng Pollyanna mới được. Không một ai khác cần thứ thuốc này hơn chị!” Phu nhân Carew tỏ ra hơi khó chịu.
“Chị chẳng biết Pollyanna đó là cái gì, mà có là gì đi nữa thì chị cũng không cần đến nó,” cô đáp lại gắt gỏng với vẻ tức giận không kém. “Ở đây không phải là Nhà an dưỡng thân thương của em, chị cũng không phải là bệnh nhân để em chữa trị hay ra lệnh, hãy ghi nhớ điều đó.”
Ánh mắt Della Wetherby lấp lánh nhảy múa, nhưng miệng cô vẫn không hề mỉm cười.
“Pollyanna không phải là thuốc, chị yêu quý ạ,” cô nhẹ nhàng nói, “mặc dù em từng nghe vài người gọi cô bé là liều thuốc bổ. Pollyanna chỉ là một
đứa bé thôi.”
“Một đứa bé? Chà, làm sao chị biết được,” người chị gái buồn bực đáp trả. “Em có đơn thuốc “belladonna” thì cũng có khả năng thêm một “Pollyanna” lắm chứ. Với lại, lúc nào em cũng bảo chị nên uống thuốc này, thuốc kia, rõ ràng nãy em còn nói “chữa trị” nữa mà. Chữa trị thì lúc nào mà chẳng liên quan tới thuốc thang.”
“Thật ra, cũng có thể coi Pollyanna là một phương thuốc như thế,” Della cười. “Vả lại, tất cả các bác sĩ ở Nhà an dưỡng đều nói rằng cô bé hữu hiệu hơn bất kì loại thuốc nào họ kê đơn. Chỉ là một cô bé thôi, Ruth ạ, khoảng mười hai hoặc mười ba tuổi, đã từng ở Nhà an dưỡng suốt mùa hè vừa rồi và hầu như hết mùa đông. Em mới chỉ tiếp xúc với cô bé được một, hai tháng, vì em đến chưa được bao lâu thì cô bé rời đi rồi. Mà chừng đó thời gian cũng đủ để em bị cô bé bỏ bùa rồi. Cả Nhà an dưỡng vẫn còn nhắc đến Pollyanna và chơi trò chơi của cô bé.”
“Trò chơi ư!”
“Đúng vậy,” Della gật đầu với nụ cười kì lạ. “Trò chơi vui mừng. Em không thể quên được lần đầu em được nghe giới thiệu về nó. Có một trong những liệu trình trị liệu cho cô bé rất khó chịu, có thể nói là cực kỳ đau đớn ấy. Liệu trình trị liệu đó diễn ra vào sáng thứ Ba hàng tuần, em tiếp nhận việc trị liệu cho cô bé ngay sau khi em đến. Em đã rất hoang mang, bởi vì em có kinh nghiệm trị liệu cho trẻ em từ trước mà, chúng luôn cáu kỉnh và khóc lóc, có khi còn tệ hơn thế nữa ấy chứ. Thế nhưng cô bé này chỉ mỉm cười chào em và nói rằng rất vui vì được gặp em khiến em vô cùng kinh ngạc. Hãy tin em đi, chẳng mấy khi môi cô bé hé ra kêu rên nửa lời mỗi khi trị liệu đâu, mặc dù em biết cô bé đau kinh khủng ấy.”
“Chắc là em đã tỏ ra kinh ngạc quá nên cô bé thành thật nói: “Vâng, em
cũng đã từng cảm thấy rất đau đớn và thấy sợ lắm, cho đến một lần em chợt nghĩ chuyện này cũng giống như ngày tổng giặt giũ định kỳ của chị Nancy mà thôi, em có thể trở nên vui vẻ nhất vào thứ Ba, bởi vì suốt cả tuần sẽ không có thêm một ngày nào như vậy nữa cả.”
“Sao kì lạ vậy!” phu nhân Carew hơi cau mày, không hiểu cho lắm. “Nhưng chị chẳng thấy trò chơi nào ở đây cả.”
“Em cũng thế, nhưng lúc sau, cô bé kể với em. Cô bé là con gái của một Đức cha ở miền Tây tội nghiệp. Cô bé mồ côi mẹ và được người của Hội Phụ nữ cưu mang, gửi những chiếc thùng đồ trợ cấp đến cho cô bé. Hồi cô bé còn nhỏ xíu, cô bé từng ao ước có một con búp bê, lúc nào cũng hy vọng trong thùng trợ cấp tiếp theo sẽ có một con búp bê nhưng cuối cùng lại chẳng có gì ngoài đôi nạng nhỏ.
Lúc đó cô bé đã khóc, dĩ nhiên rồi, nhưng sau đó cô bé được cha dạy cho trò chơi tìm kiếm niềm vui trong bất cứ chuyện gì; cha cô bé nói rằng có thể bắt đầu ngay bằng cách mừng vì cô bé không cần đến đôi nạng này. Đó là sự khởi đầu. Pollyanna nói đó là một trò chơi đáng yêu, cô bé đã chơi trò đó suốt từ hồi ấy; càng khó tìm thấy niềm vui thì lại càng thú vị, trừ khi nó khó kinh khủng như cô bé thỉnh thoảng gặp phải.”
“Sao kì lạ vậy!” Phu nhân Carew vẫn chưa hiểu hết.
“Chị sẽ thấy vậy nếu chị có thể thấy kết quả của trò chơi ở Nhà an dưỡng,” Della gật gù; “cả bác sĩ Ames cũng bảo, ông ấy nghe nói cô bé đã làm thay đổi hoàn toàn tinh thần của cả thị trấn quê nhà của cô bé bằng cách đó. Ông ấy có quen với bác sĩ Chilton, chồng của dì Pollyanna. Mà em tin cuộc hôn nhân đó cũng là nhờ công của cô bé. Cô bé đã đả thông những bất đồng giữa đôi tình nhân lớn tuổi này.”
“Khoảng hơn hai năm trước, cha Pollyanna qua đời, cô bé được gửi tới
nhà người dì ở miền Đông. Vào tháng Mười, cô bé bị một chiếc ô tô đâm phải, họ nói cô bé sẽ không thể đi lại được nữa. Tháng Tư, bác sĩ Chilton đưa cô bé tới Nhà an dưỡng, cô bé đã ở đó tới tháng Ba năm ngoái - được gần một năm trời. Cô bé trở về nhà, hồi phục gần như hoàn toàn. Chị phải gặp đứa trẻ đó! Chỉ có một điểm mờ duy nhất trong niềm vui của cô bé thôi, đó là cô bé không thể đi bộ cả quãng đường trở về. Theo thông tin chính xác nhất mà em biết, toàn bộ thị trấn cùng với cả ban nhạc đã mang theo biểu ngữ ra đón cô bé cơ đấy.
Với Pollyanna thì chị không thể đoán trước được điều gì. Nhất định phải gặp cô bé một lần, chị ạ. Đó là lý do mà em hy vọng Pollyanna có thể chữa trị cho chị. Đối với chị, đó sẽ là một chuyện vô cùng tốt.” Phu nhân Carew hơi ngẩng lên.
“Thật là, chị xin từ chối em,” cô lạnh lùng trả lời. “Chị không quan tâm tới việc được ‘thay đổi tinh thần’ và chị cũng chẳng có bất đồng trong tình yêu để cần được đả thông. Nếu có điều gì khiến chị không thể chịu đựng được thì đó là có một Quý cô Đức hạnh nhỏ bé với khuôn mặt dài thuột lúc nào cũng rao giảng rằng chị phải cảm tạ nhân thế. Chị không bao giờ chịu nổi đâu.” Một giọng cười vang lên cắt ngang lời cô.
“Ôi, Ruth ơi là Ruth,” người em gái vui vẻ cười, hơi thở dồn dập. “Quý cô Đức hạnh - Pollyanna sao! Ôi trời ơi, giá như chị có thể gặp cô bé ngay bây giờ! Đáng lẽ em phải biết trước rồi mới phải. Em đã nói là không ai có thể nói gì trước về Pollyanna cả mà. Dĩ nhiên chị sẽ chẳng bao giờ muốn gặp cô bé ấy. Nhưng mà Quý cô Đức hạnh ư!”. Nói xong cô lại cười một tràng lớn. Nhưng gần như ngay lập tức; cô lấy lại vẻ nghiêm túc và lại nhìn chị mình bằng đôi mắt ưu tư.
“Chị yêu quý, thật sự không thể được sao?” cô van nài. “Chị không
nhất thiết phải lãng phí cuộc đời mình như vậy. Sao chị không cố thử bước ra ngoài kia và gặp mọi người?”
“Sao chị phải làm như vậy trong khi chị không muốn? Chị chán ghét mọi người. Em biết chị luôn không ưa giao tiếp xã hội mà.” “Vậy chị có thể thử làm từ thiện?”
Phu nhân Carew tỏ ra thiếu kiên nhẫn.
“Della yêu quý, chúng ta đã từng nói về chuyện này rồi. Chị đã bỏ tiền, rất nhiều tiền, thế là đủ rồi. Thật ra chị cũng không rõ là bao nhiêu nhưng thực sự là rất nhiều. Chị không có niềm tin với những người nghèo khổ.”
“Nhưng chị cần phải để tâm một chút, chị yêu,” cô nhẹ nhàng thử vận may. “Nếu chị có thể thích một thứ gì đó ngoài cuộc sống hiện tại, thì sẽ tốt hơn nhiều; và...”
“Della thân yêu,” người chị gái chen ngang, không thể nhẫn nại được nữa. “Chị rất yêu em, chị rất vui vì em đã đến đây; nhưng chỉ đơn giản là chị không thể chịu đựng bị rao giảng mãi thế này. Em có thể biến mình thành thiên thần cứu rỗi, ban chén nước lạnh và băng bó những cái đầu bị thương. Có lẽ em có thể quên Jamie bằng cách đó; nhưng chị thì không. Nó sẽ chỉ khiến chị càng nghĩ đến thằng bé, tự hỏi liệu nó có được ai cho một chén nước và băng đầu cho hay không. Với lại, chuyện này đối với chị thật ghê tởm - khi đứng cùng với những loại người như thế.”
“Đã bao giờ chị thử chưa?”
“Tại sao phải thử, dĩ nhiên là không rồi!” phu nhân Carew cất giọng phẫn nộ đầy khinh bỉ.
“Vậy nếu chị không thử làm sao chị biết được?” Cô y tá trẻ hỏi; hơi mệt mỏi đứng lên. “Em phải đi rồi. Em đã hẹn các cô ấy ở ga phía Nam.
Chuyến tàu của bọn em khởi hành lúc mười hai rưỡi. Em xin lỗi nếu đã khiến chị tức giận,” cô nói và hôn tạm biệt chị gái.
“Chị không giận em, Della,” phu nhân Carew thở dài; “chỉ là giá như em có thể hiểu được!”
Một phút sau Della Wetherby rời khỏi căn nhà u ám tĩnh mịch. Gương mặt, bước đi và cả phong thái của cô hoàn toàn khác so với lúc cô bước lên căn hộ gần nửa tiếng trước. Tất cả sự cẩn trọng, khoan thai, đầy sức sống đều biến mất. Cô bước những bước chân rệu rã qua nửa khu nhà. Rồi cô bỗng ngửa cổ thở dài.
“Ở lại căn nhà này một tuần thôi cũng đủ giết mình rồi,” cô rùng mình. “Mình không tin Pollyanna có thể làm được gì ở cái nơi u ám ảo não này! Cô bé sẽ vui mừng vì không phải ở lại đây.”
Lời nói rằng cô không tin tưởng Pollyanna có khả năng thay đổi bầu không khí tại nhà phu nhân Carew thực chất không phải là ý nghĩ thật sự của Della Wetherby. Tuy nhiên, lời thú nhận đó lại được chứng minh ngay; bởi ngay sau khi đặt chân xuống Nhà an dưỡng và nhận được thông tin, cô y tá lại lên đường quay lại Boston cách đó năm mươi dặm ngay ngày hôm sau.
Tình hình tại nhà chị gái cô vẫn y xì như lần trước cô đến, như thể phu nhân Carew không hề di chuyển tẹo nào từ lúc cô rời khỏi. “Ruth,” cô hào hứng nói to sau khi đáp lại lời chào tràn đầy sự kinh ngạc của người chị, “Em thấy mình phải tới đây, lần này chị phải nhường em và để em quyết. Nghe này! Chị có thể gặp cô bé Pollyanna ở đây, nếu chị muốn.”
“Nhưng chị không muốn,” phu nhân Carew cố nhẹ nhàng trả lời. Della Wetherby ra vẻ không nghe thấy. Cô đang say sưa nói một cách
thích thú.
“Ngày hôm qua, lúc về, em được biết bác sĩ Ames nhận được thư của bác sĩ Chilton, chồng của dì của Pollyanna mà em đã kể cho chị ấy. Hình như trong thư ông ấy nói ông ấy sẽ đi Đức vào mùa đông này vì một ca bệnh đặc biệt. Ông ấy sẽ đưa vợ mình đi cùng nếu ông ấy có thể thuyết phục vợ rằng Pollyanna hoàn toàn ổn khi ở lại trường nội trú. Nhưng phu nhân Chilton không muốn để cô bé như thế, nên bác sĩ Chilton lo vợ mình sẽ không chịu đi cùng. Đây là cơ hội của chúng ta, Ruth. Em muốn chị đón Pollyanna về đây vào mùa đông này và xin cho cô bé vào học ở một trường quanh đây.”
“Một ý tưởng thật vô lý, Della ạ! Cứ như là chị muốn một đứa bé làm phiền mình lắm ấy!”
“Cô bé không phiền chút nào cả đâu. Cô bé cũng gần mười ba tuổi rồi. Cô bé sẽ là một cô bé cừ khôi nhất chị từng thấy.”
“Chị không thích trẻ con ‘cừ khôi’ gì cả,” phu nhân Carew ngoan cố bắt bẻ nhưng lại bật cười; thế là nhờ nụ cười ấy mà em gái cô bỗng có thêm động lực để cố gắng hơn nữa.
Có thể vì lời đề nghị quá đỗi bất ngờ hay quá mới mẻ, có thể vì câu chuyện về Pollyanna đã chạm đến trái tim Ruth Carew, cũng có thể vì không nỡ từ chối sự nài nỉ tha thiết của em gái; nhưng dù là gì đi nữa, cuối cùng lời đề nghị cũng được chấp nhận. Nửa tiếng sau, Della Wetherby vội vàng rời đi cùng với lời hứa của Ruth Carew sẽ nhận trông nom Pollyanna tại nhà mình.
“Em phải nhớ,” phu nhân Carew cảnh cáo khi cô rời đi. “Hãy nhớ rằng, chỉ cần cô bé thuyết giáo hay bảo chị phải biết ơn gì đó thì ngay lập tức, cô bé sẽ được trả về cho em luôn, em thích làm gì thì làm đấy. Chị sẽ không
giữ đứa trẻ đó đâu!”
“Em sẽ nhớ dù em chẳng lo về chuyện đó tí nào cả,” cô gái trẻ gật đầu từ biệt. Cô thì thầm với bản thần khi vội vã rời khỏi ngôi nhà: “Đã hoàn thành một nửa nhiệm vụ. Nửa còn lại là đón Pollyanna đến đây. Cô bé cần phải đến. Mình sẽ viết thư để họ phải đưa cô bé đến mới được!”
CHƯƠNG II
NHỮNG NGƯỜI BẠN CŨ
M
ột ngày tháng Tám ở Beldingsville, phu nhân Chilton đợi đến lúc Pollyanna đi ngủ rồi mới nói với chồng mình về bức thư bà nhận được trong hòm thư buổi sáng. Vì chuyện đó nên bà phải ngồi đợi đến giờ, bởi công việc bận rộn cùng với việc chuẩn bị cho hai chuyến đi xa khiến vị bác sĩ cũng chẳng còn thời gian nào để thảo luận việc nhà nữa.
Đến tận lúc chín giờ rưỡi, vị bác sĩ mới bước vào phòng nghỉ của vợ. Gương mặt mệt mỏi của ông sáng lên khi nhìn thấy vợ mình, nhưng ánh mắt ông lại hiện lên sự thắc mắc ngay.
“Có chuyện gì vậy, Polly?” ông lo lắng hỏi.
Vợ ông cười buồn rầu.
“À, là một bức thư thôi. Em không cố ý để anh mới nhìn đã nhận ra như vậy.”
“Vậy thì em không nên trông dễ đoán như thế,” ông cười. “Nhưng có chuyện gì?”
Phu nhân Chilton e dè, mím chặt môi và cầm bức thư bên cạnh bà lên. “Em sẽ đọc cho anh nghe,” bà nói. “Thư của Tiểu thư Della Wetherby ở Nhà an dưỡng của bác sĩ Ames.”
“Được rồi, em đọc đi,” người chồng nói, rồi nằm dài trên chiếc sô pha cạnh ghế ngồi của vợ.
Nhưng vợ ông không đọc ngay lập tức. Bà đứng lên lấy một chiếc chăn
len màu xám đắp lên người chồng. Phu nhân Chilton mới cưới được một năm. Bây giờ bà đã bốn mươi hai tuổi. Có vẻ như trong một năm hôn nhân ngắn ngủi vừa qua, bà đã cố gắng thể hiện tất cả những hành động yêu thương và “săn sóc” được dồn nén trong hai mươi năm cô đơn và thiếu vắng tình yêu. Vị bác sĩ - người đã chạm tuổi bốn mươi lăm vào ngày cưới và cũng chẳng có gì khác ngoài sự cô đơn và thiếu vắng tình yêu - không phản đối chút nào sự “quan tâm chăm sóc” ấy. Ông làm ra vẻ mình rất thích điều đó, mặc dù ông cố gắng không tỏ ra quá nhiệt tình; ông nhận ra rằng bà Polly đã từng là một Tiểu thư Polly quá lâu nên có xu hướng trở nên hoảng loạn và coi việc mình làm là “ngu ngốc” nếu như nhận được quá nhiều sự chú ý và hăm hở. Cho nên ông tự thỏa mãn với cái vỗ nhẹ nhàng lên tay vợ mình khi bà khẽ vuốt chăn len rồi ngồi xuống đọc thư cho ông nghe.
“Phu nhân Chilton kính mến,” Della Wetherby viết. “Tôi đã viết đoạn mở đầu lá thư này sáu lần nhưng rồi tôi lại xé đi; lần này tôi quyết định không ‘mở đầu’ nữa mà sẽ nói luôn với phu nhân mục đích của tôi. Tôi muốn Pollyanna. Liệu tôi có thể chăm sóc cho cô bé không?
Tôi đã từng gặp phu nhân và chồng bà vào cuối tháng Ba năm ngoái, khi phu nhân đến đón Pollyanna về nhà, nhưng tôi đoán là phu nhân không nhớ tôi đâu. Tôi đã nhờ bác sĩ Ames (người hiểu tôi rất rõ) viết thư cho chồng của phu nhân, cho nên có thể là (tôi hy vọng vậy) phu nhân sẽ không còn e sợ việc giao đứa cháu họ nhỏ bé của mình cho chúng tôi.
Tôi hiểu phu nhân sẽ đi Đức cùng chồng mà phải để Pollyanna ở lại; thế nên tôi mạnh dạn đề nghị hãy để chúng tôi chăm sóc cho cô bé. Tôi cầu xin phu nhân hãy để chúng tôi chăm sóc cô bé, thưa phu nhân Chilton kính mến. Bây giờ tôi sẽ giải thích lý do với phu nhân.
Chị tôi, phu nhân Carew, là một người phụ nữ buồn rầu, bất mãn, đau khổ và cô đơn. Chị ấy sống trong một thế giới u ám, ánh sáng mặt trời cũng khó lọt vào. Tôi tin rằng điều duy nhất trên thế giới này có thể đem ánh sáng tới cuộc sống của chị ấy chỉ có thể là cháu gái của phu nhân, Pollyanna. Bà có thể để cho cô bé thử được không? Tôi ước mình có thể kể cho phu nhân biết cô bé đã làm gì cho cả Nhà an dưỡng ở đây, nhưng không ai có khả năng kể lại cả. Phu nhân phải chứng kiến tận mất cơ. Tôi đã nhận ra một điều từ rất lâu rồi, là không ai có thể đoán trước về Pollyanna. Ngay lúc bà thử làm vậy, cô bé sẽ có vẻ bướng bỉnh và thích thuyết giáo, và không thể chịu được. Dù tôi với phu nhân đều biết cô bé không phải là người như thế. Phu nhân chỉ phải đưa cô bé đến và để cô bé tự mình lên tiếng. Tôi muốn đưa cô bé đến chỗ chị tôi và để cô bé tự mình nói. Cô bé sẽ vẫn đến trường, tất nhiên rồi, đồng thời tôi cũng tin tưởng rằng cô bé sẽ chữa lành vết thương trong lòng chị tôi.
Tôi không biết làm thế nào để kết thúc lá thư này, việc này khó khăn hơn cả mở đầu. Tôi sợ là mình không muốn kết thúc nó chút nào. Tôi chỉ muốn nói liên tục vì sợ rằng nếu tôi ngừng lại, thì phu nhân sẽ có cơ hội từ chối. Cho nên, nếu phu nhân dự định nói cái từ đáng sợ đó, liệu bà có thể cân nhắc lại rằng tôi vẫn đang nói để tỏ rõ cho phu nhân thấy chúng tôi cần và muốn Pollyanna tới mức nào.
Hy vọng nhận được hồi đáp từ phu nhân,
DELLA WETHERBY.”
“Đó!” phu nhân Chilton thốt lên, bà đặt lá thư xuống. “Đã bao giờ anh đọc một lá thư kì lạ hay nghe một đề nghị vô lý và lố bịch như vậy chưa?” “Thực ra, anh cũng không chắc lắm,” vị bác sĩ mỉm cười. “Anh không nghĩ muốn chăm sóc cho Pollyanna là lố bịch.”
“Nhưng cái cách cô ta nói về việc chữa trị vết thương trong lòng của chị cô ta. Người này đang coi con bé là một phương thuốc!” Vị bác sĩ cười lớn, hơi nhướn đôi lông mày.
“Thực sự, anh không chắc nhưng con bé là vậy, Polly ạ. Lúc nào anh cũng muốn kê con bé lên đơn thuốc và hy vọng có thể mua con bé giống như mua một hộp thuốc vậy. Charlie Ames còn nói những người ở Nhà an dưỡng lúc nào cũng muốn cho bệnh nhân một liều chữa trị Pollyanna khi họ mới nhập viện, chuyện đó diễn ra trong suốt cả năm trời con bé ở đó.”
“‘Chữa trị’, trời ạ!” Phu nhân Chilton tỏ vẻ khinh bỉ.
“Vậy em không định cho con bé đi à?”
“Đi? Vì sao, dĩ nhiên là không rồi! Anh nghĩ là em sẽ để con bé đi với những người hoàn toàn xa lạ lại còn kì quái như thế à? Sao hả, Thomas, chẳng lẽ em nên hy vọng sẽ nhìn thấy cảnh cái cô y tá đó đóng chai và dán nhãn hướng dẫn sử dụng lên người con bé khi em từ Đức trở về?”
Một lần nữa vị bác sĩ lại ngửa cổ cười lớn. Một lúc sau, vẻ mặt của ông thay đổi ngay khi ông sờ vào túi của mình và lấy ra một lá thư. “Sáng nay, anh cũng đã nhận thư từ bác sĩ Ames,” ông nói, kèm theo một chút kì lạ trong giọng nói khiến vợ ông nhướng mày khó hiểu. “Có lẽ anh nên đọc lá thư của mình.”
“Tom yêu quý,” ông bắt đầu. “Tiểu thư Della Wetherby nhờ tôi “giới thiệu” cô ấy và chị gái cô ấy, tôi rất sẵn sàng làm vậy. Tôi đã biết các cô gái nhà Wetherby từ khi họ còn bé. Họ thuộc một gia đình có truyền thống lâu đời và đều là những quý cô. Anh không cần lo lắng về điểm này.
Họ có ba chị em, Doris, Ruth và Della. Doris kết hôn với một người đàn ông tên là John Kent, bất chấp hoàn toàn sự phản đối của gia đình.
Kent có xuất thân tốt nhưng bản thân lại không được như vậy, tôi đoán thế, đó là một người đàn ông quái gở và khó kết thân được. Anh ta rất thù oán về thái độ của gia đình Wetherby đối với mình nên họ rất ít liên lạc cho đến khi đứa bé chào đời. Gia đình Wetherby vô cùng yêu quý bé trai đó, James hay như cách họ thường gọi ‘Jamie’. Mẹ cậu bé, Doris, qua đời khi nó bốn tuổi, cả gia đình Wetherby đã huy động hết sức lực để khiến người cha trao lại cậu bé hoàn toàn cho gia đình, rồi bỗng Kent biến mất, đưa theo cậu bé đi cùng anh ta. Từ đó đến nay không một ai nhận được tin tức gì của anh ta, dù đã tìm kiếm khắp thế giới này.
Sự mất mát đó đã giết chết đôi vợ chồng già nhà Wetherby. Hai người qua đời sau đó không lâu. Ruth lúc đó cũng đã kết hôn và trở thành góa phụ. Chồng cô ấy tên là Carew, một người đàn ông rất giàu có, cũng lớn tuổi hơn cô ấy rất nhiều. Ông ấy chỉ sống được một năm sau khi kết hôn, để lại vợ cùng đứa con trai nhỏ cũng qua đời một năm sau đó.
Từ lúc Jamie bé nhỏ biến mất, Ruth và Della chỉ còn một mục tiêu duy nhất trong đời, đó là tìm ra cậu bé. Họ tiêu tiền như nước, làm mọi thứ chỉ còn thiếu việc lên trời xuống biển, nhưng vẫn chẳng thu được kết quả gì. Sau đó Della trở thành y tá. Cô ấy đang làm việc rất tốt, và trở thành một người phụ nữ tích cực, làm việc có hiệu quả và vui vẻ giống như đáng lẽ cô ấy phải vậy tuy nhiên cô ấy không bao giờ quên người cháu mất tích của mình, và chưa bao giờ bỏ qua mọi manh mối có khả năng tìm ra cậu bé.
Nhưng còn phu nhân Carew thì khác. Sau khi mất con trai, có vẻ như cô ấy dành hết tình cảm của người mẹ cho con trai của chị gái. Anh có thể tưởng tượng cô ấy điên cuồng thế nào khi cậu bé biến mất. Đó là chuyện tám năm trước; với cô ấy, đó là tám năm u ám, khổ sở và cay đắng. Mọi
thứ có thể mua bằng tiền, dĩ nhiên chỉ cần cô ấy ra lệnh; nhưng chẳng có gì có thể khiến cô ấy vui vẻ, không có gì có thể khiến cô ấy thỏa mãn. Della cảm thấy đã đến lúc để cô ấy bước ra khỏi vỏ bọc, bằng mọi giá; Della cũng tin rằng, cô cháu gái bé nhỏ của vợ anh, Pollyanna, đang sở hữu chiếc chìa khóa thần kì có thể mở ra cánh cửa cho một con người mới xuất hiện. Với trường hợp này, tôi hy vọng anh có thể tìm cách đáp ứng nguyện vọng của cô ấy. Tôi xin bổ sung rằng cá nhân tôi cũng rất trân trọng sự giúp đỡ này; bởi vì Ruth Carew và em gái cô ấy là những người bạn lâu năm và đáng quý của vợ chồng tôi; giúp họ cũng như giúp chúng tôi vậy. Bạn của anh, CHARLIE.”
Bức thư kết thúc, căn phòng chìm vào im lặng rất lâu, lâu đến mức vị bác sĩ phải lên tiếng phá vỡ sự im lặng, “Polly à?”
Vẫn là một sự im lặng. Vị bác sĩ quan sát thật kĩ gương mặt của vợ mình, ông thấy đôi môi và chiếc cằm thân thương kia đang run lên. Rồi ông lại yên lặng đợi vợ mở lời.
“Anh nghĩ bao lâu nữa... họ sẽ đón con bé?” Cuối cùng bà cũng hỏi. Bác sĩ Chilton hơi ngồi thẳng dậy.
“Ý em... là em sẽ để con bé đến đó?” ông thốt lên.
Vợ ông nổi giận.
“Sao hả, Thomas Chilton, anh hỏi kiểu gì thế! Chẳng lẽ anh nghĩ, sau khi nghe một bức thư như thế, em có thể làm gì khác ngoài việc để con bé đi sao? Với lại, không phải bác sĩ Ames đích thân nhờ vả chúng ta à? Anh nghĩ, sau tất cả những gì anh ấy làm cho Pollyanna, em có thể từ chối sao dù nó là gì đi nữa?”
“Em yêu, ôi! Giờ thì anh hy vọng ông ấy sẽ không có suy nghĩ tìm đến em, tình yêu của anh ạ,” người chồng mới một năm kinh nghiệm khẽ vỗ
về vợ với một nụ cười kì lạ. Nhưng vợ ông chỉ dành cho ông một cái lườm trách móc và nói:
“Anh nên viết thư trả lời bác sĩ Ames rằng chúng ta sẽ đưa Pollyanna đến và nhờ anh ấy chuyển lời tới Tiểu thư Wetherby cho chúng ta hướng dẫn cụ thể. Nên thực hiện trước ngày mùng mười tháng tới, dĩ nhiên là vì chuyến đi của anh; em muốn tự mình thấy con bé ổn định trước khi em đi, chắc chắn là phải thế rồi.”
“Em định lúc nào nói cho Pollyanna?”
“Chắc là ngày mai.”
“Em định sẽ nói gì với nó?”
“Em cũng không biết nữa; nhưng chắc chắn chỉ nói những gì cần thiết. Dù bất cứ chuyện gì xảy ra, Thomas, chúng ta đều không muốn làm hại Pollyanna; không có bất cứ đứa trẻ nào không bị tổn thương khi mà nó biết mình chỉ là một loại...”
“Một chai thuốc được dán nhãn hướng dẫn sử dụng chi tiết?” Vị bác sĩ mỉm cười, nói chen vào.
“Vâng,” phu nhân Chilton thở dài. “Con bé chỉ vô tình giúp ích trong việc này thôi. Anh biết mà.”
“Ừ, anh biết.” Người chồng gật đầu.
“Con bé biết, rằng anh và em, cùng hơn nửa thị trấn này đang chơi trò chơi cùng nó, rằng chúng ta vui vẻ hơn vì chúng ta đang chơi trò chơi đó.” Giọng phu nhân Chilton hơi run rẩy rồi chuyển sang chắc chắn. “Nhưng nếu con bé cố ý, con bé sẽ trở nên trái ngược hẳn con người hồn nhiên, vui vẻ và hạnh phúc khi chơi trò chơi đã được cha dạy cho, con bé sẽ giống như lời cô y tá đó nói - ‘không thể đoán trước được’. Cho nên em
không thể nói với nó rằng nó sẽ tới nhà phu nhân Carew để làm cô ấy vui lên,” phu nhân Chilton kết luận, đứng dậy một cách quyết đoán và dọn dẹp mọi thứ.
“Anh thấy em rất sáng suốt,” vị bác sĩ đồng tình.
Pollyanna được nghe chuyện vào ngày hôm sau. Sau đây là thái độ của nó.
“Cháu yêu,” người dì mở lời, trong lúc hai dì cháu ở riêng với nhau vào buổi sáng, “Cháu có muốn ở Boston vào mùa đông tới không?” “Với dì ạ?”
“Không; ta vừa quyết định sẽ đi Đức cùng với dượng. Nhưng phu nhân Carew, một người bạn của bác sĩ Ames có ngỏ ý muốn mời cháu đến sống cùng cô ấy vào mùa đông này, ta đang nghĩ sẽ gửi cháu tới đó.” Pollyanna xị mặt xuống.
“Nhưng ở Boston không có Jimmy, chú Pendleton, cô Snow, không có bất cứ ai cháu quen cả, dì Polly ạ.”
“Đúng, cháu yêu ạ, nhưng cháu cũng đâu có quen họ khi cháu mới tới đây, cho tới lúc cháu tìm ra họ.”
Pollyanna bỗng mỉm cười.
“Vậy sao, dì Polly, vậy là cháu từng không quen họ! Thế có nghĩa là, ở Boston cũng sẽ có một vài Jimmy, chú Pendleton và cô Snow nào khác đang đợi cháu mà cháu không biết phải không ạ?”
“Đúng rồi, cháu yêu.”
“Vậy thì cháu phải vui mừng vì điều đó. Giờ thì cháu tin là dì chơi trò chơi giỏi hơn cháu rồi, dì Polly ạ. Cháu chưa từng nghĩ tới chuyện những người ở đó đang đợi cháu đến làm quen với họ. Lại còn rất nhiều người
nữa chứ! Cháu đã từng gặp vài người ở đó trong chuyến đi cùng cô Gray, hai năm trước. Chúng cháu đã ở đó suốt hai tiếng liền, trên đường cháu từ phía Tây tới đây.
Có một người đàn ông ở nhà ga, chú ấy rất đáng yêu, chú ấy đã chỉ cho cháu chỗ lấy nước. Liệu chú ấy có còn ở đó không hả dì? Cháu muốn làm quen với chú ấy. Còn cả một người phụ nữ cùng một em gái nhỏ. Họ sống ở Boston. Họ nói với cháu như thế. Em gái nhỏ tên là Susie Smith. Có lẽ cháu cũng có thể quen họ. Dì có nghĩ là cháu có thể không? Còn có cả một cậu con trai, một người phụ nữ khác cùng một em bé chỉ có họ là sống ở Honolulu, chắc là cháu không thể tìm thấy họ ở Boston rồi. Nhưng dù sao vẫn có cô Carew. Cô Carew là ai vậy, dì Polly? Có phải họ hàng của chúng ta không?”
“Khổ thân tôi, Pollyanna ơi!” Phu nhân Chilton kêu lên, nửa cười nửa bất lực. “Làm sao mọi người có thể theo kịp cái miệng của cháu, chứ đừng nói đến suy nghĩ, khi nó nói đến Honolulu rồi quay lại Boston chỉ trong hai giây như vậy! Không, cô Carew không có họ hàng gì với chúng ta cả. Cô ấy là chị gái của tiểu thư Della. Cháu có nhớ cô Wetherby ở Nhà an dưỡng không?”
Pollyanna vỗ tay.
“Chị gái cô ấy ạ? Chị gái cô Wetherby? Ôi, thế thì chắc là cô ấy đáng yêu lắm. Cô Wetherby cũng thế. Cháu rất thích cô Wetherby. Cô ấy có các nếp nhăn mỉm cười quanh mắt và miệng, cô ấy còn biết rất nhiều câu chuyện tuyệt nhất. Cháu mới chỉ quen cô ấy được hai tháng, bởi vì cô ấy mới đến không lâu thì cháu đi. Lúc đầu cháu rất tiếc vì không được cô ấy điều trị suốt cả thời gian ở đó, nhưng sau đó cháu lại thấy vui mừng; dì biết mà, nếu cháu được gặp cô ấy suốt cả thời gian ở đó thì sẽ khó tạm
biệt cô ấy hơn so với việc chỉ được gặp một thời gian ngắn. Bây giờ có thể coi như cháu lại được gặp cô ấy rồi, vì cháu sắp được gặp chị của cô ấy.”
Phu nhân Chilton hít vào và cắn môi.
“Nhưng Pollyanna, cháu yêu, cháu không nên hy vọng rằng họ sẽ giống nhau đâu,” bà mạo hiểm nói.
“Vì sao ạ, họ là chị em mà dì Polly,” cô bé cãi lại, đôi mắt mở to. “Cháu nghĩ là chị em thì luôn giống nhau chứ. Ở Hội Phụ nữ có hai cặp chị em như vậy cơ. Một cặp là chị em sinh đôi, các cô ấy giống nhau đến mức dì không thể nào phân biệt được đâu là cô Peck, đầu là cô Jones cho đến khi trên mũi cô Jones mọc ra một cái mụn cóc, tất nhiên là sau đó bọn cháu phân biệt được vì bọn cháu luôn nhìn nốt mụn ấy đầu tiên. Một hôm, cô ấy cứ than phiền mãi việc mọi người gọi cô ấy là cô Peck, cháu bảo nếu họ nhìn vào chiếc mụn cóc giống cháu thì họ sẽ phân biệt được ngay. Nhưng cô ấy lại tỏ ra tức giận, ý cháu là không vui ấy ạ, cháu e là cô ấy không thích điều đó dù cháu không hiểu là vì sao; theo cháu cô ấy phải vui mừng vì cô ấy có một điểm gì đó khiến mọi người nhận ra chứ, đặc biệt là khi cô ấy là Hội trưởng, cô ấy không thích việc mọi người không đối xử với cô ấy như đối với Hội trưởng - kiểu có chỗ ngồi đặc biệt, màn giới thiệu và sự chú ý đặc biệt tại các bữa ăn của nhà thờ ấy. Thế mà cô ấy lại không thích. Sau đó cháu nghe cô White nói với cô Rawson là cô Jones đã tìm mọi cách để loại bỏ cái mụn cóc, kể cả rắc muối lên đuôi chim[1] nữa cơ đấy. Nhưng cháu lại chẳng thấy ích lợi gì cả. Dì Polly, rắc muối lên đuôi chim có làm mất mụn cóc trên mũi không ạ?”
“Tất nhiên là không rồi, cháu yêu! Sao cháu lại tiếp tục rồi, lại còn nói cả chuyện các cô Hội Phụ nữ nữa!”
“Thế ạ, dì Polly?” Cô bé rầu rĩ hỏi. “Chuyện đó có làm phiền dì không ạ? Cháu không cố ý làm phiền dì, dì Polly. Với cả, nếu chuyện các cô Hội Phụ nữ có khiến dì bị quấy rầy, thì dì cũng nên vui mừng ạ, bởi vì nếu giờ có nghĩ đến họ, chắc chắn cháu cũng sẽ thấy vui mừng vì cháu không còn thuộc về các cô ấy nữa, mà cháu đã có dì ruột của riêng mình rồi. Dì có vui về chuyện đó không ạ, dì Polly?”
“Có, có, cháu yêu, dĩ nhiên là ta vui, dĩ nhiên là ta vui rồi,” phu nhân Chilton cười nói rồi đứng dậy rời khỏi phòng, rồi đột nhiên bà cảm thấy có lỗi vì thỉnh thoảng tính cáu kỉnh cũ của bà lại cản trở niềm vui bất tận của Pollyanna.
Trong mấy ngày tiếp theo, trong khi những lá thư về việc Pollyanna sẽ tới Boston vào mùa đông này được trao đổi qua lại, Pollyanna đã tự mình chuẩn bị cho chuyến đi bằng một loạt lời tạm biệt tới những người bạn ở Beldingville.
Tất cả mọi người trong làng Vermont nhỏ bé này giờ đều đã biết Pollyanna, và hầu hết tất cả mọi người đều chơi trò chơi ấy cùng cô bé. Thỉnh thoảng có vài người không chơi chỉ vì họ không biết trò chơi vui mừng là gì. Và cứ thế Pollyanna mang tin tức mình sẽ tới Boston vào mùa đông này tới từng nhà, rồi những tiếng la hét ầm ĩ phản đối tăng dần lên, từ Nancy trong bếp riêng nhà dì Polly cho tới tòa nhà lớn trên đồi của chú John Pendleton.
Nancy không hề ngại ngùng mà nói với mọi người, ngoại trừ bà chủ, rằng chị thấy chuyến đi Boston này thật ngu ngốc, rằng chị sẽ rất vui nếu được đưa tiểu thư Pollyanna về nhà cô ở Corners, chị sẽ thật sự rất vui đấy; còn phu nhân Chilton muốn đi Đức đến bao giờ cũng được.
Trên ngọn đồi, John Pendleton cũng nói tương tự như vậy, chỉ có điều
ông không ngại nói thẳng với phu nhân Chilton. Còn đối với Jimmy, cậu bé mười hai tuổi mà John Pendleton đưa về nhà mình vì Pollyanna muốn thế và cũng là cậu bé mà ông đã nhận nuôi bởi vì chính ông muốn thế; cậu cảm thấy giận dữ và cũng chẳng ngại gì không thể hiện ra ngoài.
“Cậu vừa mới về mà,” cậu trách móc Pollyanna, dùng giọng điệu của một cậu bé thường dùng để che giấu tình cảm của mình.
“Gì cơ, tớ ở đây từ tháng Ba năm ngoái rồi mà. Với lại tớ không định ở lại hẳn đó. Chỉ trong mùa đông này thôi.”
“Tớ không quan tâm. Cậu đã đi mất cả năm trời rồi, gần cả năm, nếu tớ biết cậu đã đi ngay như thế, chắc chắn là tớ đã không giúp chăng cờ với ban nhạc với cái gì đó nữa vào cái hôm cậu đang về từ Nhà an dưỡng ấy. [2]”
“Sao thế, Jimmy Bean!” Pollyanna giận dữ, bất bình trong ngạc nhiên. Sau đó, với cảm giác tổn thương lòng tự trọng, cô bé chỉ trích: “Chắc chắn là tớ không bảo cậu phải đón tớ với ban nhạc và các thứ. Mà cậu mắc hai lỗi trong câu nói vừa rồi. Cậu không nên nói ‘cậu đã’; và tớ nghĩ cậu dùng từ ‘cậu đang về’ là sai. Dù sao thì nghe nó cũng không đúng.”
“Ai mà thèm quan tâm chứ?”
Ánh mắt không đồng tình của Pollyanna càng rõ hơn.
“Cậu bảo với tớ là cậu quan tâm. Hè vừa rồi cậu bảo tớ nhắc cậu mỗi khi cậu nói sai, bởi vì chú Pendleton muốn cậu phải nói đúng ngữ pháp.” “Nếu cậu mà lớn lên ở cái trại trẻ mồ côi mà chẳng có ai thèm quan tâm, ngoại trừ một đám bà già không có việc gì làm lúc nào cũng muốn dạy người khác nói đúng, có thể cậu sẽ nói “cậu đã” và cả một đống thứ tệ hại nữa, Pollyanna Whittier ạ!”
“Sao thế hả Jimmy Bean!” Pollyanna làm ầm lên. “Các cô ở Hội Phụ nữ không phải là bà già, không có nhiều cô già lắm,” nó vội vàng sửa lại, thói quen nói sự thật theo đúng nghĩa đen của nó khiến nó nổi nóng, “và còn...”
“Ừ thì tớ cũng không phải là Jimmy Bean,” cậu bé hất cằm lên, nói chen vào.
“Cậu không phải gì cơ, Jimmy Be... Ý cậu là sao?” Nó gặng hỏi. “Tớ đã được nhận nuôi, hợp pháp. Chú ấy đã định làm thế từ đầu rồi, chú ấy bảo thế, chỉ là chú ấy chưa làm xong thôi. Bây giờ thì đã hoàn tất thủ tục rồi. Tớ sẽ được gọi là ‘Jimmy Pendleton’ và tớ sẽ gọi chú ấy là dượng John, chỉ là tớ vẫn chưa quen, cho nên tớ vẫn chưa gọi chú ấy như thế.”
Cậu vẫn tức giận nói một cách buồn rầu, tuy nhiên mọi dấu hiệu của sự buồn bực trên gương mặt cô gái nhỏ đều đã biến mất khi lắng nghe cậu nói. Cô bé vỗ tay sung sướng.
“Ôi, thật tuyệt vời! Bây giờ thì cậu đã có người thân rồi người quan tâm đến cậu. Giờ cậu sẽ không phải giải thích chú ấy không phải họ hàng của cậu nữa, bởi vì hai người cùng họ rồi. Tớ mừng quá, mừng, mừng!”
Cậu bé bỗng đứng bật dậy khỏi bức tường đá mà hai đứa thường ngồi rồi bỏ đi. Đôi má cậu nóng bừng, đôi mắt đẫm nước cay xè. Nhờ có Pollyanna mà cậu có mọi điều tuyệt vời này đến với cậu; cậu biết điều đó. Cũng chính vì Pollyanna mà giờ cậu mới nói...
Cậu tức giận đá văng viên đá nhỏ, rồi lại một viên. Cậu nghĩ những giọt nước mắt này sẽ cứ chảy mãi và lăn xuống má cậu. Cậu đá thêm một viên nữa, lại thêm một viên nữa; sau đó cậu nhặt viên đá thứ ba lên, lấy hết sức ném đi thật xa. Một phút sau, cậu đi trở về bức tường đá có Pollyanna
đang ngồi.
“Tớ cá tớ có thể chạy tới chỗ cây thông kia trước cậu,” cậu nhẹ nhàng thách thức.
“Cá là cậu không thể,” Pollyanna hét lên, trườn xuống khỏi chỗ ngồi. Cuộc đua cuối cùng cũng không diễn ra, vì Pollyanna kịp nhớ ra chạy thật nhanh là một điều quá mức xa xỉ với cô bé vào lúc đó. Nhưng đối với Jimmy, chuyện đó không quá quan trọng. Đôi má cậu không còn nóng nữa, đôi mắt thì không còn sợ ướt đẫm nước mắt. Jimmy lại là chính cậu.
CHƯƠNG III
MỘT LIỀU POLLYANNA
N
gày mùng tám tháng Chín đang tới gần, cái ngày mà Pollyanna sẽ đến - điều đó khiến phu nhân Ruth Carew càng lúc càng trở nên vô cùng căng thẳng. Một lần, cô từng tuyên bố hối hận rằng mình đã hứa nhận đứa bé, nhưng chỉ một lần thôi. Chưa đầy hai mươi tư tiếng sau khi nói ra lời hứa đó, cô viết thư cho em gái mình để thông báo rút lại thỏa thuận; nhưng Della trả lời rằng đã quá muộn vì cả cô và bác sĩ Ames đều đã gửi thư tới nhà Chilton.
Ngay sau đó là lá thư của Della thông báo rằng phu nhân Chilton đã đồng ý, bà ấy sẽ đến Boston trong mấy ngày tới để bàn bạc về việc đi học và các việc khác. Không thể làm gì khác ngoại trừ để cho mọi thứ diễn ra theo tự nhiên. Phu nhân Carew nhận ra điều đó và chấp nhận mọi thứ với vẻ miễn cưỡng. Cô cố tỏ ra lịch sự khi Della và phu nhân Chilton xuất hiện, nhưng cô cũng lấy làm mừng vì thời gian gấp gáp khiến phu nhân Chilton chỉ ở lại trong thời gian ngắn để hoàn toàn tập trung vào công việc thu xếp cho chuyến đi.
Có lẽ cũng tốt khi cô bé Pollyanna sẽ đến muộn nhất là vào mùng Tám; bởi thời gian chờ đợi, thay vì giúp phu nhân Carew làm quen với sự sắp xuất hiện của thành viên mới trong gia đình, thì lại khiến cô phát điên về việc mà cô gọi là “sự khuất phục ngu xuẩn trước kế hoạch điên rồ của Della”.
Không phải Della không để ý đến thái độ của chị mình. Bề ngoài cô vẫn
tỏ ra kiên định nhưng bên trong cô lại đang lo ngại kết quả mình sẽ phải đón nhận; tuy nhiên cô vẫn giữ vững niềm tin vào Pollyanna, bởi thế nên cô dứt khoát chấp nhận đặt cược để cô bé bắt đầu trận chiến một mình mà không có sự giúp đỡ nào. Cô dự tính phu nhân Carew sẽ tới gặp mọi người tại nhà ga; ngay sau khi đã chào hỏi và giới thiệu xong xuôi, cô sẽ lấy cớ có hẹn để nhanh chóng rời đi trước. Thế thì phu nhân Carew sẽ chẳng còn mấy thời gian để soi xét trước khi kịp nhận ra rằng chỉ còn một mình mình với đứa trẻ.
“Ôi, nhưng mà Della này, Della, em không được... Chị không thể...” cô bối rối gọi với theo bóng dáng của cô em y tá.
Nhưng dù Della có nghe thấy, cô cũng không để ý. Điều đó khiến phu nhân Carew vô cùng khó chịu và bực tức, cô quay lưng về phía đứa trẻ. “Chao ôi, thật đáng tiếc! Cô ấy không nghe thấy phải không ạ?” Pollyanna lên tiếng, ánh mắt nó nuối tiếc nhìn theo cô y tá. “Cháu cũng không muốn cô ấy đi một chút nào cả. Nhưng bây giờ cháu đã có cô rồi, đúng không ạ? Cháu mừng vì điều đó.”
“Ừ, đúng, cháu có ta và ta có cháu,” cô trả lời, không được hòa nhã cho lắm. “Đi thôi, chúng ta đi lối này,” cô hướng về phía bên phải. Pollyanna ngoan ngoãn đi theo và chạy lon ton về phía phu nhân Carew, họ đi xuyên qua nhà ga khổng lồ; cô bé ngước nhìn lên một, hai lần với ánh mắt đầy lo âu vào khuôn mặt hoàn toàn không có bóng dáng nụ cười của người phụ nữ. Cuối cùng nó e dè nói.
“Cháu cho là có thể cô đã tưởng cháu là một đứa xinh xắn,” nó đánh liều nói với giọng bồn chồn.
“Xinh... xinh xắn?” phu nhân Carew nhắc lại.
“Vâng ạ, với những lọn tóc uốn xoăn, cả những điểm khác nữa. Tất
nhiên là cô hẳn đã tự hỏi cháu trông như thế nào, cũng giống như cháu muốn biết cô trông như thế nào vậy. Chỉ là cháu biết cô sẽ rất xinh đẹp và tốt bụng, giống như em gái của cô. Cháu đã được một người tuyệt vời như cô ấy chăm sóc, cô lại chẳng có ai. Mà cháu lại chẳng xinh xắn tí nào vì đống tàn nhang này; trong khi cô đang hy vọng có một cô bé xinh xắn mà lại gặp phải đứa như cháu thì đúng là không vui chút nào; và…”
“Vớ vẩn, đứa bé này!” phu nhân Carew cắt ngang, giọng hơi đanh lại. “Đi thôi, chúng ta sẽ đi lấy hòm đồ của cháu, rồi đi về nhà. Ta đã hy vọng là em gái ta sẽ đi cùng chúng ta; nhưng có lẽ con bé vẫn thấy không thích, dù chỉ một buổi tối hôm nay.”
Pollyanna cười và gật đầu.
“Cháu biết, nhưng có lẽ là cô ấy không thể. Chắc là có ai đó cần cô ấy. Có rất nhiều người cần cô ấy ở Nhà an dưỡng. Thật là phiền khi mà lúc nào mọi người cũng cần tới mình, đúng không ạ? Bởi vì nhiều khi mình cũng không thể dành thời gian cho bản thân mình nữa. Nhưng mà cô ấy có thể vui mừng vì điều đó, vui mừng vì người khác cần mình, đúng không ạ?”
Không có tiếng trả lời. Có lẽ đây là lần đầu tiên trong cuộc đời phu nhân Carew tự hỏi rằng liệu có ai trên thế giới này thực sự cần cô; không phải vì cô ước người ta cần mình, dĩ nhiên là vậy, cô bực tức tự nhủ với bản thân, rướn thẳng người dậy, rồi nhíu mày nhìn xuống đứa trẻ đang đi bên cạnh cô.
Pollyanna không thấy cái nhíu mày đó. Đôi mắt nó còn đang mải nhìn chằm chằm vào đám đông vội vã trước mặt.
“Ôi chao! Nhiều người quá,” nó thốt lên vui vẻ. “Chỗ này bây giờ còn đông người hơn cả cái cái hồi cháu từng tới đây; nhưng cháu nhìn khắp
mọi nơi rồi mà vẫn chưa thấy những người cháu từng gặp. Tất nhiên là quý cô và em bé đó sống ở Honolulu; cho nên có lẽ họ không thể có mặt ở đây được; nhưng có một bé gái; Susie Smith; em ấy ở ngay tại Boston này. Có lẽ cô biết em ấy đó ạ. Cô có biết Susie Smith không ạ?”
“Không; ta không biết Susie Smith,” phu nhân Carew trả lời khô khan. “Không ạ? Em ấy đáng yêu khủng khiếp, lại còn xinh nữa, con bé có tóc đen và xoăn ạ; giống kiểu tóc cháu ước mình sẽ có khi lên Thiên đàng ấy. Không sao ạ, có lẽ cháu sẽ tìm được em ấy để cô có thể gặp em ấy. Ôi chao! Chiếc ô tô thật là dễ thương! Chúng ta sẽ đi xe này ạ?” Pollyanna vỡ òa khi họ bước đến một chiếc xe hơi sang trọng bóng bẩy, cửa xe đã được tài xế mở ra sẵn.
Người tài xê cố gắng giấu đi nụ cười nhưng thất bại. Phu nhân Carew chỉ có thể đáp lại Pollyanna với cái vẻ mệt mỏi của một người coi “đi xe” thực chất chỉ là việc di chuyển từ một nơi phiền phức này đến một nơi phiền phức không kém khác.
“Ừ, chúng ta sẽ đi xe này.” Sau đó cô nói thêm với người tài xế đáng kính “Về nhà thôi, Perkins.”
“Ôi chao, xe này là của cô ạ?” Pollyanna hỏi khi nhận ra phong thái sở hữu rõ ràng trong cách hành xử rất bà chủ này. “Sao mà tuyệt vời thế! Chắc là cô phải giàu khủng khiếp, cực kỳ giàu luôn ý, hơn cả những người trải thảm ở khắp các phòng trong nhà và ăn kem vào các ngày chủ nhật, giống như gia đình White - một cô trong Hội Phụ nữ, cô biết đấy. (Chuyện là, cô cũng từng trong Hội Phụ nữ.) Cháu nghĩ họ giàu lắm nhưng bây giờ cháu đã biết giàu thực sự là phải có nhẫn kim cương, hầu gái và áo khoác lông, hàng ngày mặc váy vóc bằng lụa và nhung, với cả có ô tô nữa. Cô có tất cả những thứ đó chứ ạ?”
“Hả, ừ, có, chắc là ta có,” phu nhân Carew thú nhận, với một nụ cười yếu ớt.
“Thế thì cô là người giàu rồi, chắc chắn luôn,” Pollyanna gật gù ra vẻ hiểu biết. “Dì Polly của cháu cũng có những thứ đó, ngoại trừ xe của dì là xe ngựa. Ôi chao! Nhưng cháu cũng thích đi những thứ thế này nữa,” Pollyanna hớn hở, khẽ nhún nhảy vui vẻ. “Cháu chưa từng đi ô tô bao giờ, trừ một lần ngồi trên chiếc xe đâm vào cháu. Họ cho cháu vào xe sau khi đưa cháu ra khỏi cái gầm xe; nhưng tất nhiên là cháu mê man không biết được gì hết nên cháu không thể cảm nhận nó. Từ lúc đó, cháu chưa từng được ngồi ô tô lần nào cả. Dì Polly không thích ô tô. Dượng Tom thì thích, thậm chí dượng còn muốn có một chiếc. Dượng nói dượng nhất định phải mua một chiếc để phục vụ công việc. Dượng là bác sĩ, cô thấy đấy, tất cả các bác sĩ trong thành phố đều có ô tô cả. Cháu không biết vì sao lại thế. Nhưng dì Polly không thích. Dì ấy muốn dượng Tom làm những điều dượng thích, chỉ là dì ấy muốn dượng Tom làm những điều mà dì ấy muốn dượng Tom thích làm. Cô hiểu không ạ?”
Phu nhân Carew bật cười.
“Có, cháu ạ, ta nghĩ là ta hiểu,” cô e dè trả lời, mặc dù đôi mắt cô hơi có gì đó long lanh rất bất thường.
“Vâng ạ,” Pollyanna thở nhẹ hài lòng. “Cháu nghĩ là cô hiểu, mặc dù cháu nói nghe có hơi loạn. Mà, dì Polly nói dì ấy sẽ không ngại có một cái ô tô đến thế nếu dì ấy là người duy nhất trên thế giới có ô tô, để không có cái xe thứ hai nào có thể đâm vào dì ấy; nhưng mà... Ôi chao! Nhiều nhà quá đi mất!” Pollyanna hét lên, nhìn xung quanh với đôi mắt kinh ngạc. “Chẳng lẽ mọi người không ngừng nghỉ sao ạ? Có bao nhiêu là nhà cho mọi người vào ở, dĩ nhiên là cháu đã nhìn thấy ở ga tàu rồi, lại còn bao
nhiêu nhà ở trên đường phố nữa. Và tất nhiên là có nhiều người hơn nữa, còn nhiều người để làm quen nữa. Cháu yêu con người. Cô cũng thế đúng không ạ?”
“Yêu con người sao!”
“Vâng, con người ấy ạ. Tất cả mọi người.”
“À, không, Pollyanna, ta không thể nói là ta yêu tất cả mọi người được,” phu nhân Carew lạnh lùng trả lời, đôi lông mày cau lại. Đôi mắt phu nhân Carew mất đi vẻ long lanh của nó. Chúng chuyển sang vẻ ngờ vực đối với Pollyanna. Phu nhân Carew tự nói với bản thân mình: “Sắp đến bài thuyết giáo đầu tiên rằng mình có nhiệm vụ phải hòa đồng với mọi người; đúng kiểu của cô em Della.”
“Cô không yêu sao ạ? Còn cháu thì có,” Pollyanna thở dài. “Họ đều rất tốt bụng và đặc biệt. Ở khu dưới này chắc phải có nhiều người tốt bụng và đặc biệt hơn nữa. Ôi, cô không biết cháu vui mừng vì đã nhanh chóng đến đây thế nào đâu! Cháu đã biết vậy ngay từ lúc cháu biết cô là chị của cô Wetherby. Cháu yêu quý cô Wetherby, nên cháu biết cháu cũng sẽ yêu quý cô; tất nhiên là vì các cô giống nhau, hai cô là chị em mà, dù không phải là chị em sinh đôi như cô Jones và cô Peck, mà hai cô ấy cũng không giống nhau cho lắm bởi vì cái mụn cóc. Nhưng cháu là chắc là cô không hiểu ý cháu đâu nên cháu sẽ kể cho cô nghe.”
Thế là phu nhân Carew, dù đã phòng bị sẵn cho bài thuyết giáo về đạo đức xã hội, cảm thấy vô cùng ngạc nhiên và hơi có cảm giác thất bại khi lắng nghe câu chuyện về cái mụn cơm trên mũi của cô Peck, một người trong Hội Phụ nữ.
Lúc câu chuyện kết thúc cũng là lúc chiếc xe rẽ vào Đại lộ Commonwealth, Pollyanna bắt đầu chuyển sang trầm trồ về vẻ đẹp của
con đường vì “nó có một khoảng sân thênh thang vô cùng xinh đẹp chạy dọc ở giữa” và vì nó là con đường đẹp nhất, cô bé nói thế, “so với những con đường nhỏ xíu.”
“Chỉ là cháu nghĩ ai cũng sẽ muốn sống trên khu đất này mất,” nó đánh giá đầy hào hứng.
“Có khả năng lắm, nhưng chuyện đó rất khó,” phu nhân Carew hơi nhướng lông mày lên đáp lại.
Pollyanna nhầm tưởng biểu cảm trên mặt cô vừa rồi là sự buồn bã vì nhà của cô không nằm trên Đại lộ xinh đẹp này, thế nên nó vội vàng chữa lời.
“Dạ, không, không phải đâu ạ,” con bé đồng tình. “Cháu không có ý nói mấy con đường hẹp hơn không đẹp,” nó nhanh nhảu; “hơn nữa, cô cũng có thể vui mừng vì cô sẽ không phải đi xa khi muốn qua đường vay tạm quả trứng hay soda, và... Ôi, nhưng cô có sống ở đây không ạ?” Nó tự ngắt lời mình ngay khi chiếc xe đỗ lại trước cửa nhà Carew. “Cô sống ở đây ạ, cô Carew?”
“Gì cơ, đúng vậy, dĩ nhiên là ta sống ở đây,” cô trả lời, có vẻ hơi bực mình.
“Ôi, thật đáng mừng, mừng vì cô sống ở một nơi đẹp tuyệt thế này!” Cô bé con hớn hở nói, nhảy xuống vỉa hè và háo hức nhìn quanh. “Cô có mừng không ạ?”
Phu nhân Carew không trả lời. Cô bước xuống xe với đôi lông mày chau lại và đôi môi không hé nụ cười.
Lần thứ hai trong vòng năm phút, Pollyanna vội vàng sửa lời. “Dĩ nhiên cháu không có ý nói tới kiểu vui mừng một cách ngạo mạn
đâu ạ,” nó giải thích, đôi mắt lo lắng quan sát vẻ mặt phu nhân Carew. “Có lẽ cô nghĩ cháu có ý như vậy, cũng giống như dì Polly từng nghĩ. Cháu không có ý nói tới kiểu vui mừng về những gì cô có mà người khác không có; mà là kiểu... khiến cô muốn hét lớn, gào lên và đập cửa ấy ạ, dù nó không được đúng đắn cho lắm,” nói xong nó khẽ nhún người lên xuống trên các ngón chân.
Người tài xế vội vàng quay lưng đi và tự làm mình bận rộn với cái xe. Phu nhân Carew vẫn chau mày và mím môi đi thẳng lên những bậc thềm đá.
“Đi nào, Pollyanna” là tất cả những gì cô nói, rất rõ ràng. Năm ngày sau, Della Wetherby nhận được thư của chị mình, cô háo hức mở ra. Đây là bức thư đầu tiên kể từ khi Pollyanna tới Boston. “Em gái thân yêu của chị,” phu nhân Carew viết. “Vì Chúa, Della, tại sao em không nói cho chị biết chị nên mong đợi gì từ đứa bé mà em cứ năn nỉ chị nhận về chăm sóc? Chị gần như phát điên rồi, và đơn giản là chị không thể cứ gửi trả nó lại được. Chị đã thử ba lần rồi, nhưng lần nào cũng vậy, mỗi khi chị chuẩn bị nói ra miệng, con bé lại chặn lại bằng việc nói cho chị biết thời gian nó đang ở đây thật vui sướng biết bao, nó mừng vì được đến đây như thế nào, chị đã tốt bụng thế nào khi cho nó ở đây cùng chị trong khi dì Polly của nó đi Đức. Vậy nên, làm sao chị có thể quay lại và nói, “Này, cháu làm ơn đi về nhà cháu đi được không; cô không thích cháu?” Đã vậy, điều ngu ngốc nhất là, chị không tin chuyện chị không thích nó có thể đi vào đầu nó; hình như là chị cũng không thể làm nó hiểu điều đó.
Dĩ nhiên, nếu con bé bắt đầu thuyết giáo và bắt chị phải biết ơn, chị sẽ đưa nó đi ngay lập tức. Chuyện đó chị đã nói với em rồi, từ đầu chị đã
không đồng ý chuyện đó. Sẽ không bao giờ đồng ý. Đã khoảng hai, ba lần chị nghĩ con bé định làm thế (ý chị là thuyết giáo), nhưng rồi cuối cùng con bé toàn kết thúc bằng những câu chuyện nực cười về những bà cô trong Hội Phụ nữ của nó; nên bài thuyết giáo đi sang một hướng khác may cho con bé, nếu như nó còn muốn ở lại.
Nhưng mà Della, thật sự là con bé không thể chịu nổi. Nghe này. Đầu tiên con bé vô cùng thích thú với ngôi nhà. Ngày đầu con bé tới đây, nó đã nài nỉ chị mở cửa từng phòng một; nó vẫn không thỏa mãn cho đến khi từng cái rèm trong căn nhà được kéo hết lên, để nó có thể nhìn thấy ‘toàn bộ những thứ đẹp đẽ’ mà con bé nói là còn đẹp hơn cả đồ trong nhà ông John Pendleton, một người nào đó ở Beldingsville, chị nghĩ thế. Chị còn tìm hiểu được là anh ta không phải người của Hội Phụ nữ.
Rồi cứ làm như khiến chị đi hết phòng này sang phòng khác còn chưa đủ (cứ như chị là người hướng dẫn riêng vậy), con bé phát hiện ra cái áo choàng vải satanh mặc buổi tối mà chị đã không mặc nhiều năm nay rồi van vỉ chị mặc vào. Thế rồi chị cũng phải mặc - vì sao nào, đến chị còn không tưởng tượng nổi, cuối cùng chị phát hiện mình hoàn toàn vô vọng trong tay con bé.
Đó mới chỉ là bắt đầu thôi. Rồi nó nài nỉ chị cho xem tất cả những thứ chị có, nó cũng vô cùng hài hước với những câu chuyện về chiếc rương từ thiện, nơi mà nó có thể ‘lấy đồ mặc’, khiến chị phải cười, dù chị gần như phát khóc khi nghĩ đến những thứ tồi tàn mà đứa trẻ nghèo rớt đó đã phải mặc. Dĩ nhiên là áo choàng rồi thì sẽ đến đồ trang sức, con bé cứ rối rít về vài ba chiếc nhẫn của chị đến mức chị đã ngu ngốc mở cả két ra để nhìn nó rớt tròng mắt khi ngó vào bên trong. Della ạ, chị nghĩ con bé phát điên lên. Nó đeo lên người chị từng chiếc nhẫn, cái trâm, vòng tay và vòng cổ
mà chị có, khăng khăng đòi cài chặt cả hai cái miện gắn kim cương vào tóc chị (khi nó phát hiện ra chúng là cái gì), cho đến khi chị ngồi đó, trên người đầy ngọc trai, kim cương và bích ngọc giống như một nữ thần ngoại lai trong một ngôi đến Ấn Độ vậy. Đặc biệt là khi đứa trẻ kì lạ đó nhảy vòng vòng quanh chị, vỗ tay rồi hô lên, ‘Ôi chao, đẹp quá đi mất, đẹp quá đi mất! Cháu chỉ muốn treo cô lên cửa sổ thôi, cô sẽ thành cái lăng kính tuyệt đẹp!’
Chị đang định hỏi ý con bé là gì thì nó bỗng ngồi thụp xuống mặt đất và bắt đầu khóc. Em nghĩ là con bé khóc vì cái gì? Bởi vì nó mừng là nó có đôi mắt để nhìn! Em nghĩ thế nào về điều ấy?
Dĩ nhiên đó không phải là tất cả. Mới chỉ là bắt đầu thôi. Pollyanna mới ở đây được bốn ngày mà nó đã mê hoặc tất cả mọi người. Con bé đã liệt vào danh sách bạn bè của nó từ người quét dọn, cảnh sát tuần tra, thằng bé giao báo và khỏi phải nói tới những người làm trong nhà chị. Hình như họ đều bị con bé bỏ bùa, tất cả mọi người. Nhưng em làm ơn đừng nghĩ có cả chị trong đó, không đâu. Nếu không phải chị buộc phải giữ lời hứa với em là giữ con bé ở lại đây trong mùa đông này thì chị đã gửi trả con bé cho em rồi. Để con bé khiến chị quên Jamie và nỗi đau của chị, đó là điều không thể. Con bé chỉ càng khiến chị cảm thấy mất mát hơn thôi, bởi vì bên cạnh chị không phải là Jamie. Nhưng như chị đã nói, chị sẽ giữ nó cho tới lúc nó bắt đầu thuyết giáo. Khi ấy nó sẽ bị trả về với em. Còn bây giờ thì con bé vẫn chưa làm thế.
Người chị yêu quý nhưng đang quẫn trí của em,
RUTH.”
“Hẳn là ‘vẫn chưa thuyết giáo’!” Della Wetherby cười khúc khích một mình, cô gấp lá thư dày đặc chữ của chị mình lại. “Ôi, Ruth ơi là Ruth!
Chị đã thừa nhận rằng mình chịu đi mở cửa từng phòng, kéo từng cái rèm, mặc lên mình bộ satanh và đeo lên người bộ trang sức trong khi Pollyanna ở đó còn chưa được đến một tuần. Thế nhưng con bé còn chưa thuyết giáo... Ôi, con bé còn chưa thuyết giáo!”
CHƯƠNG IV
TRÒ CHƠI VÀ PHU NHÂN CAREW B
oston đối với Pollyanna là một trải nghiệm mới mẻ; còn Pollyanna đối với Boston - đúng hơn là một phần của nó có đặc quyền được biết cô bé - rõ ràng cũng là một trải nghiệm vô cùng mới.
Pollyanna nói nó rất thích Boston nhưng nó ước rằng thành phố này không rộng lớn như thế.
“Cô biết không,” nó giải thích rất nghiêm túc cho phu nhân Carew, vào cái ngày hôm sau, sau khi nó đến, “cháu muốn nhìn và biết tất cả mọi thứ, nhưng cháu không thể. Nó giống như bữa tiệc ở công ty của dì Polly vậy, có quá nhiều thứ để ăn, ý cháu là để nhìn... đến mức cô không thể ăn nổi, ý cháu là nhìn, bất cứ thứ gì, bởi vì cô đang bận nghĩ xem nên ăn cái gì, ý cháu là nhìn cái gì ạ.”
“Dĩ nhiên cô có thể vui mừng vì có rất nhiều thứ,” Pollyanna nói tiếp sau khi lấy hơi, “bởi có nhiều bất cứ thứ gì cũng tốt cả, - ý cháu là những thứ tốt đẹp, dĩ nhiên không phải là tang lễ với thuốc thang rồi ạ! Nhưng đồng thời cháu không thể không ước rằng những bữa tiệc của công ty dì Polly có thể kéo dài thêm mấy ngày dù nó chẳng có bánh nướng bánh ngọt gì cả ạ; ở Boston cháu cũng thấy như thế. Cháu ước cháu có thể mang một phần của Boston về nhà cháu ở Beldingsvile để cháu có một thứ mới mẻ vào mùa hè này. Nhưng dĩ nhiên là cháu không thể rồi. Thành phố đâu có giống một chiếc bánh kem cơ chứ; với cả, kể cả là bánh thì cũng không thể giữ nó mãi được. Cháu đã thử rồi, nó khô cứng lại, đặc biệt là phần kem.
Cháu cho là thời gian để phết kem cũng như tận hưởng sự vui vẻ là vào những chuyến đi; vì thế cháu muốn nhìn thấy mọi thứ có thể khi cháu ở đây.”
Không giống như người khác quan sát thế giới từ điểm xa nhất, Pollyanna bắt đầu việc “nhìn ngắm Boston” bằng cách khám phá kĩ càng những gì đang có ngay xung quanh nó - căn hộ xinh đẹp trên đại lộ Commonwealth mà hiện nay đang là nhà của nó. Riêng chuyện này cùng với việc học tập của nó cũng đã chiếm hết toàn bộ thời gian và sự chú ý của nó trong vài ngày.
Có rất nhiều thứ để nhìn ngắm và rất nhiều thứ để học hỏi; tất cả đều thật kỳ diệu và đẹp đẽ, từ những chiếc nút bé xíu trên tường khiến những căn phòng sáng trưng, cho đến phòng khiêu vũ rộng rãi mà yên tĩnh treo đầy gương và tranh xung quanh. Còn có rất nhiều còn người thú vị để làm quen nữa, ngoài phu nhân Carew ra còn có Mary, người phụ trách quét dọn phòng vẽ, ra mở cửa và đưa đón Pollyanna đi học mỗi ngày; Bridget, người sống và nấu ăn tại phòng bếp; Jennie, phụ trách phục vụ bàn ăn, còn cả Perkins là tài xế lái ô tô. Tất cả mọi người đều rất thú vị và khác biệt!
Pollyanna đến đây vào ngày thứ Hai, vậy nên nó đã ở đó gần một tuần trước ngày Chủ nhật đầu tiên. Nó đi xuống cầu thang với gương mặt vui vẻ.
“Cháu yêu những ngày Chủ nhật,” nó vui vẻ nói.
“Vậy à?” Giọng phu nhân Carew mang sự uể oải của một người chẳng thích bất cứ ngày nào hết.
“Vâng, vì những ngày này có thể đi lễ nhà thờ và trường đạo. Cô thích cái nào nhất, nhà thờ hay trường đạo ạ?”
“À, thật ra là ta...” phu nhân Carew nói, cô là một người hiếm khi đi
nhà thờ và chẳng bao giờ đến trường đạo.
“Khó nói lắm sao ạ?” Pollyanna xen vào với đôi mắt sáng nhưng nghiêm túc. “Cháu thì thích nhà thờ nhất vì cha cháu. Cha cháu là một Cha xứ, bây giờ dĩ nhiên cha đang ở trên Thiên đàng cùng mẹ và những người khác, nhưng cháu thường cố tưởng tượng rằng cha đang ở dưới này, rất nhiều lần rồi ạ; việc tưởng tượng dễ dàng hơn khi ở nhà thờ, trong khi Đức cha đang giảng đạo. Cháu nhắm mắt và tưởng tượng rằng cha cháu đang đứng ở đó; nó khá hiệu quả. Cháu mừng vì chúng ta có thể tưởng tượng, cô có mừng không ạ?”
“Ta cũng không chắc lắm, Pollyanna.”
“Ồ, nhưng thử nghĩ xem những tưởng tượng của chúng ta đẹp hơn hiện thực bao nhiêu; dĩ nhiên, của cô thì khác ạ, bởi vì hiện thực của cô đã quá đẹp rồi.” Phu nhân Carew tức giận chuẩn bị nói nhưng Pollyanna đã nhanh hơn. “Hiện thực của cháu bây giờ cũng tốt đẹp hơn ngày xưa rất nhiều. Toàn bộ thời gian khi cháu bị ốm, chân cháu không đi được, cháu chỉ còn cách để trí tưởng tượng bay xa nhất có thể. Dĩ nhiên bây giờ cháu vẫn rất hay tưởng tượng về cha cháu và những điều khác. Vậy nên hôm nay cháu sẽ chỉ tưởng tượng rằng cha đang đứng giảng kinh. Mấy giờ chúng ta đi ạ?”
“Đi?”
“Ý cháu là đến nhà thờ ạ.”
“Nhưng, Pollyanna à, ta không... Ta không định...” Phu nhân Carew hắng giọng và cố nói lại một lần nữa rằng cô không có ý định đi nhà thờ một tí nào; rằng cô hầu như không đi mấy. Nhưng trước gương mặt bé nhỏ đầy tự tin và đôi mắt vui vẻ của Pollyanna, cô không thể làm vậy được.
“Vậy, ta nghĩ... khoảng mười giờ mười lăm, nếu chúng ta đi bộ,” cô
nói, gần như gắt gỏng. “Chỉ có một đoạn ngắn thôi.”
Cứ như thế, vào một sáng tháng Chín đẹp trời, phu nhân Carew lần đầu tiên trong nhiều tháng xuất hiện tại khu vực dành riêng cho gia đình Carew trong nhà thờ sang trọng và tao nhã mà cô đã từng đến khi còn là một bé gái, cũng là nhà thờ cô vẫn đang đổ tiền vào hỗ trợ.
Đối với Pollyanna, phúc lợi vào sáng Chủ nhật hôm đó là một sự vui vẻ ngạc nhiên. Những âm thanh kì diệu của dàn hợp xướng nhà thờ, những tia sáng bạc xuyên qua ô cửa sổ kính màu, giọng nói truyền cảm của Cha xứ và bầu không khí trang nghiêm của buổi lễ khiến nó ngây ngất đến lặng thinh. Mãi đến khi gần về đến nhà, nó mới nói rất nhiệt tình:
“Ôi, cô Carew, cháu vừa mới nghĩ là cháu rất mừng vì chúng ta có thể sống ngày nào hay ngày đấy!”
Phu nhân Carew nhíu mày và lạnh lùng nhìn xuống. Phu nhân Carew không có nhã hứng nghe thuyết giáo. Vừa rồi cô đã phải chịu đứng nghe Cha xứ giảng đạo, cô tức giận tự nhủ, thế nên cô sẽ không nghe con nhóc con này giảng đạo nữa đâu. Hơn nữa, cái giáo điều “sống ngày nào hay ngày đấy” là một học thuyết vô cùng yêu thích của Della. Lúc nào Della cũng nói: “Chị chỉ cần sống một phút thả mình thôi, Ruth, ai cũng có thể chịu đựng bất cứ điều gì trong một phút!”
“Vậy sao?” Phu nhân Carew trả lời cụt lủn.
“Vâng. Cháu sẽ chỉ nghĩ đến việc cháu sẽ làm gì nếu cháu phải sống cùng một lúc ngày hôm qua, ngày hôm nay và ngày mai,” Pollyanna thở phào. “Còn có bao nhiêu thứ tuyệt vời, cô ạ. Nhưng cháu đã có ngày hôm qua, bây giờ cháu đang sống ngày hôm nay và cháu còn có một ngày mai đang tới nữa, rồi cả ngày Chủ nhật tới nữa. Thực sự thì, cô Carew ạ, nếu hôm nay không phải là ngày Chủ nhật và cháu đang đứng tại một khu phố
xinh đẹp yên tĩnh, cháu sẽ nhảy múa và hét lên thật lớn. Cháu không thể nhịn nổi. Nhưng hôm nay lại là Chủ nhật, cho nên cháu sẽ phải đợi đến khi về tới nhà rồi hát một bài thánh ca tươi vui nhất cháu có thể nghĩ ra. Bài thánh ca nào tươi vui nhất hả cô? Cô có biết không ạ, cô Carew?”
“Không, ta không biết,” phu nhân Carew trả lời yếu ớt, trông giống như thể là cô đang tìm thứ gì đó mà mình đã đánh mất. Đối với một người phụ nữ tưởng rằng người ta sẽ bảo mình chỉ cần chịu đựng một ngày trong một lần vì mọi thứ quá tồi tệ, thật là dễ chịu hơn nhiều khi có người bảo rằng thật may mắn vì cô có thể dần sống qua từng ngày bởi vì mọi thứ đều tốt đẹp!
Vào sáng thứ Hai ngày hôm sau, lần đầu tiên Pollyanna tới trường một mình. Bây giờ nó đã nhớ rõ đường rồi, nó chỉ cần đi bộ một quãng khá ngắn thôi. Pollyanna rất thích trường của mình. Đây là một ngôi trường tư thục nhỏ dành cho nữ sinh, theo một hướng nào đó thì đây là một trải nghiệm mới, còn Pollyanna thì đã luôn thích những trải nghiệm mới.
Trong khi đó, phu nhân Carew lại không hề như vậy, nhưng gần đây cô lại gặp khá nhiều những trải nghiệm như thế. Đối với một người đang chán ngán mọi thứ, mối quan hệ quá thân thiết với một người luôn cảm thấy mọi thứ đều mới mẻ và đáng mừng thì phải nói là phiền phức, ít ra là vậy. Phu nhân Carew thấy còn hơn cả phiền. Cô phát cáu. Bản thân cô cũng phải công nhận rằng nếu có người hỏi lý do cô phát cáu, nguyên nhân duy nhất cô có thể nói là “Vì Pollyanna cái gì cũng mừng được”, dù phu nhân Carew không thích mang cái lý do này ra trả lời.
Trong bức thư gửi Della, phu nhân Carew đã viết về cảm giác khó chịu với từ “mừng” của mình, rằng thỉnh thoảng cô ước mình không bao giờ phải nghe từ đó nữa. Cô vẫn thừa nhận rằng Pollyanna vẫn chưa thuyết
giảng, rằng con bé chưa từng một lần muốn cô thử chơi trò chơi của nó. Việc cô bé đó làm là lúc nào cũng cho sự vui mừng của phu nhân Carew là một điều hiển nhiên, mà đối với một người không bao giờ vui mừng thì điều đó thật sự rất phát bực.
Trong tuần thứ hai Pollyanna ở đó, phu nhân Carew cảm thấy phiền phức đến nỗi muốn nổi cáu. Nguyên nhân trực tiếp chính là câu chuyện đầy hào hứng của Pollyanna về một người trong Hội Phụ nữ.
“Cô ấy đang chơi một trò chơi, cô Carew ạ. Nhưng chắc là cô không biết đó là trò gì đâu. Để cháu kể cho cô nghe. Đó là một trò chơi rất dễ thương.”
Phu nhân Carew giơ một tay lên.
“Không cần đâu, Pollyanna,” cô phản ứng. “Ta biết hết về trò chơi đó rồi. Em gái ta đã nói cho ta nghe, và... và ta phải nói rằng ta không quan tâm đến nó.”
“Dạ, không phải đâu, cô Carew!” Pollyanna nhanh chóng kêu lên đầy hối lỗi. “Ý cháu không phải bảo cô chơi trò đó. Dĩ nhiên là cô không thể chơi trò đó rồi ạ!”
“Ta không thể chơi sao!” Phu nhân Carew thốt lên, cô luôn cho rằng mình sẽ không chơi trò chơi ngu ngốc đó, chứ không phải là không thể chơi nó.
“Dạ, cô không thấy sao ạ?” Pollyanna cười vui vẻ. “Trò chơi là tìm một điều gì đó trong mọi chuyện để vui mừng về nó. Còn cô, cô thậm chí còn không thể bắt đầu tìm được, vì xung quanh cô toàn là những điều đáng vui mừng. Cho nên nó không thể trở thành trò chơi của cô được! Cô không thấy vậy ạ?”
Phu nhân Carew giận đỏ cả mặt. Trong cơn tức giận, cô đã nói cả những
điều bản thân cô không có ý định nói.
“À, không, Pollyanna, ta nghĩ là không!” Cô lạnh lùng phủ nhận. “Như cháu thấy, ta chẳng thấy có gì để mà vui mừng cả.”
Trong một thoáng, Pollyanna trống rỗng nhìn cô. Rồi nó trở nên vô cùng kinh ngạc.
“Vì sao vậy ạ, cô Carew!” nó thì thào.
“Thì, có gì để ta vui mừng?” Người phụ nữ hỏi, lúc này hẳn cô đã quên rằng cô không bao giờ chấp nhận việc bị Pollyanna “thuyết giáo.” “Trời, mọi thứ ạ,” Pollyanna yếu ớt nói, nó vẫn đang trong tình trạng không thể tin nổi. “Cô có một ngôi nhà rất đẹp.”
“Chỉ là một chỗ để ăn và ngủ, còn ta không muốn ăn và ngủ.” “Nhưng nó có bao nhiêu là thứ đẹp đẽ ạ,” Pollyanna ngập ngừng. “Ta chán ghét chúng.”
“Ô tô của cô có thể đưa cô đến những nơi cô muốn.”
“Ta chẳng muốn đi đâu cả.”
Pollyanna há hốc kinh ngạc.
“Cô Carew, còn những người và những thứ khác cô có thể thấy nữa.” “Ta không có hứng thú với những chuyện đó, Pollyanna.” Một lần nữa Pollyanna lại điếng người vì kinh ngạc. Gương mặt nó ngày càng trở nên phiền muộn.
“Nhưng cô Carew, cháu không hiểu,” nó nài nỉ. “Lúc nào cũng có những chuyện tồi tệ để cho mọi người tiếp tục trò chơi, chuyện càng tồi tệ sẽ càng vui khi tìm ra những điều để vui mừng ạ. Nhưng nếu không có chuyện gì xấu cả, cháu không biết phải chơi trò chơi thế nào.”
Một lúc lâu không có câu trả lời. Phu nhân Carew ngồi xuống, mắt
hướng ra cửa sổ. Dần dần, vẻ tức giận trên gương mặt cô dần chuyển sang một nỗi buồn vô vọng. Cô chầm chậm quay lại rồi nói:
“Pollyanna, ta từng nghĩ sẽ không nói với cháu chuyện này; nhưng ta vừa quyết định sẽ nói cho cháu biết. Ta sẽ kể cháu nghe tại sao không có thứ gì có thể khiến ta vui mừng.” Rồi cô kể câu chuyện về Jamie, cậu bé bốn tuổi của cô tám năm trước đã bước sang một thế giới khác, để lại cánh cửa đóng sập trước mắt cô.
“Cô chưa từng gặp lại bạn ấy ở đâu ạ?” Pollyanna ấp úng, đôi mắt ươn ướt sau khi nghe hết câu chuyện.
“Chưa từng.”
“Nhưng chúng ta sẽ tìm ra bạn ấy, cô Carew. Cháu chắc chắn chúng ta sẽ tìm ra bạn ấy.”
Phu nhân Carew lắc đầu buồn bã.
“Nhưng ta không thể. Ta đã tìm khắp nơi rồi, kể cả ở nước ngoài.” “Nhưng bạn ấy phải ở đâu đó chứ ạ.”
“Có thể thằng bé đã chết, Pollyanna ạ.”
Pollyanna òa khóc.
“Ôi, không, cô Carew. Cô đừng nói thế! Cô hãy nghĩ bạn ấy còn sống. Chúng ta có thể làm vậy, thế sẽ có ích đấy ạ; khi chúng ta nghĩ bạn ấy còn sống chúng ta cũng có thể nghĩ rằng mình sẽ tìm ra bạn ấy. Chuyện đó sẽ cực kỳ hiệu quả đấy ạ.”
“Nhưng ta e là thằng bé đã chết, Pollyanna ạ,” phu nhân Carew nghẹn ngào.
“Cô vẫn chưa biết chắc chắn đúng không ạ?” Cô bé lo âu van nài. “K... không.”
“Vậy thì đó chỉ là suy nghĩ thôi ạ,” Pollyanna tiếp tục, giọng chắc nịch. “Nếu cô có thể nghĩ rằng bạn ấy đã chết, cô cũng có thể nghĩ bạn ấy vẫn còn sống, làm như thế sẽ tốt hơn rất nhiều ạ. Cô không thấy thế sao ạ? Rồi một ngày nào đó, cháu chắc chắn cô sẽ tìm ra bạn ấy. Đấy, cô Carew, bây giờ cô có thể chơi trò chơi này rồi! Cô có thể nghĩ về Jamie để chơi. Cô có thể vui mừng mỗi ngày, vì mỗi ngày trôi qua lại đưa cô đến gần thời điểm sẽ tìm thấy bạn ấy hơn một ngày. Đúng không ạ?”
Nhưng phu nhân Carew không thấy “đúng” ở đâu cả. Cô đứng lên ủ rủ rồi nói:
“Không, không, cô bé! Cháu không hiểu, cháu không hiểu đâu. Bây giờ cháu đi đi, xin cháu, đọc sách hoặc làm gì mà cháu thích ấy. Ta đau đầu quá, ta cần nằm nghỉ một lát.”
Còn Pollyanna, nó đành lặng lẽ rời khỏi phòng với vẻ mặt nặng nề và bối rối.
CHƯƠNG V
POLLYANNA ĐI DẠO
V
ào chiều ngày thứ Bảy thứ hai, Pollyanna đã có một cuộc đi dạo đáng nhớ. Trước đây Pollyanna chưa từng đi dạo một mình trừ khi đi học. Phu nhân Carew chưa từng nghĩ nó muốn tự mình khám phá các con phố ở Boston, nên cô cũng chưa từng ngăn cấm chuyện đó. Ngay từ đầu ở Beldingsville, Pollyanna đã phát hiện ra trò tiêu khiển chủ yếu của mình khi đi tản dạo là lang thang trên các con đường làng cũ để tìm kiếm những người bạn mới và những cuộc phiêu lưu mới.
Vào buổi chiểu thứ Bảy đặc biệt này, phu nhân Carew đã nói như cô vẫn thường nói: “Ra kia đi, cô bé, cháu làm ơn đi đi. Cháu cứ đi đâu cháu thích và làm gì cháu muốn, chỉ cần, làm ơn, hôm nay cháu đừng hỏi ta thêm gì cả!”
Cho tới bây giờ, khi chỉ còn một mình, Pollyanna luôn tự tìm thấy cho mình rất nhiều thứ để tiêu khiển trong không gian bốn bức tường của ngôi nhà; nếu có thất bại vì quá nhạt nhẽo, nó vẫn còn Mary, Jennie, Bridget và Perkins. Nhưng hôm nay, Mary thì bị đau đầu, Jennie đang may mũ mới, Bridget thì đang nướng bánh táo, còn Perkins thì chẳng thấy đâu cả. Hơn nữa hôm nay là một ngày tháng Chín đẹp trời, chẳng có thứ gì trong ngôi nhà này có thể lôi cuốn nó hơn ánh mặt trời rực rỡ và bầu không khí êm dịu ngoài kia. Vậy nên Pollyanna đã ra ngoài và ngồi trên thềm cửa.
Nó ngồi đó một lúc, nhìn những người đàn ông, phụ nữ và trẻ em ăn mặc thật diện, bước rất nhanh ngang qua ngôi nhà, hoặc nhàn nhã tản bộ
trên phần đường đi bộ mở rộng dọc theo đại lộ. Rồi nó đứng dậy, bước xuống bậc thềm và đứng nhìn hết phải rồi qua trái.
Pollyanna đã quyết định rằng nó cũng phải đi dạo. Hôm nay là một ngày đẹp trời để đi dạo, mà chưa một lần nào nó đã từng đi dạo thật sự. Đi bộ từ nhà tới trường và ngược lại thì không tính. Cho nên hôm nay nó sẽ đi dạo. Cô Carew không để ý mà. Chẳng phải cô bảo nó cứ làm gì nó thích miễn là nó không hỏi han gì thêm sao? Nó lại còn cả một buổi chiều. Thử nghĩ xem, nó sẽ nhìn thấy biết bao nhiêu thứ trong cả buổi chiều hôm nay! Đã vậy thời tiết hôm nay lại tuyệt đẹp. Nó sẽ đi hướng này! Nó xoay tròn một cái và nhảy chân sáo rất vui vẻ, Pollyanna quay lại và hồn nhiên bước xuống đại lộ.
Pollyanna nhìn vào mắt những người nó gặp và nở nụ cười rất vui vẻ. Nó thất vọng, nhưng không chút ngạc nhiên vì nó không nhận được nụ cười đáp lại nào. Nó đã quen bị như thế ở Boston. Nó vẫn cười với hy vọng rằng: một lúc nào đó, sẽ có một người cười lại với nó.
Nhà phu nhân Carew ở ngay đầu đại lộ Commonwealth, nên chẳng mấy mà Pollyanna đến ngã tư ở mé đường bên phải. Bên kia con phố là một sắc thu rực rỡ, đối với Pollyanna đó là cái “sân vườn” đẹp nhất mà nó từng thấy: Vườn hoa công cộng Boston.
Trong một thoáng, Pollyanna e ngại, mắt nó dán chặt vào vẻ đẹp choáng ngợp trước mắt. Nó chắc chắn đó là khu đất tư nhân của một quý ông, quý bà giàu có nào đó. Có một lần, nó đã được bác sĩ Ames ở Nhà an dưỡng đưa tới thăm một quý bà đang sống trong một ngôi nhà tuyệt đẹp xung quanh là đường đi bộ, cây cỏ và những thảm hoa như vậy.
Bây giờ Pollyanna đang rất muốn đi sang đường và tản bộ trong khu đất này, nhưng nó không biết nó có được phép làm thế không. Để chắc
chắn, nó nhìn thấy có người đang đi lại trong đó; nhưng dĩ nhiên họ cũng có thể là khách khứa được mời đến. Sau khi nhìn thấy hai người phụ nữ, một người đàn ông và một bé gái bước qua cánh cổng rất tự nhiên và rảo bước trên lối vào, Pollyanna kết luận rằng chắc nó cũng có thể đi vào. Thấy cơ hội, nó nhanh chóng qua đường và đi vào Khu vườn.
Khu vườn khi nhìn gần đẹp hơn rất nhiều so với lúc nhìn từ xa. Chim chóc hót líu lo trên đầu, một chú sóc đang nhảy nhót phía trước nó. Trên những hàng ghế là những người đàn ông, những người phụ nữ và cả trẻ em đang ngồi. Phía sau những hàng cây là ánh mặt trời lấp lánh phản chiếu trên mặt nước; đâu đó vang lên tiếng trẻ con cười đùa và cả tiếng nhạc nữa.
Một lần nữa Pollyanna lại dè dặt; rồi nó hơi bẽn lẽn lại gần một quý cô ăn vận phóng khoáng đang đi lại gần nó.
“Xin lỗi cho cháu hỏi, đây là một bữa tiệc ạ?” nó hỏi.
Người phụ nữ nhìn chằm chằm nó.
“Bữa tiệc sao!” Cô ngạc nhiên nhắc lại.
“Vâng ạ. Cháu muốn hỏi cháu được phép ở lại đây không ạ?” “Được phép ở lại? Dĩ nhiên là được rồi. Tất cả mọi người đều được!” Người phụ nữ khẳng định.
“Ôi, thế là được ạ. Cháu mừng vì mình đã đến đây,” Pollyanna sung sướng.
Người phụ nữ trẻ không nói gì thêm; nhưng cô quay lại nhìn Pollyanna với ánh mắt vẫn mang vẻ kinh ngạc rồi vội vã rời đi.
Pollyanna hoàn toàn không ngạc nhiên trước việc người chủ của nơi đẹp đẽ này lại có thể hào phóng đến mức tổ chức tiệc cho tất cả mọi
người, nó tiếp tục đi. Tại khúc rẽ nó nhìn thấy một bé gái và một chiếc xe đẩy em bé. Nó dừng lại với một tiếng thốt mừng rỡ, nhưng nó chưa kịp nói một chữ nào thì có một người phụ nữ trẻ vội vã đi tới, giọng nói mang vẻ rất không hài lòng; người phụ nữ trẻ nắm lấy tay bé gái và khắt khe nói:
“Lại đây, Gladys, Gladys, đi với mẹ nào. Mẹ đã bảo con không được nói chuyện với những đứa trẻ lạ rồi mà?”
“Cháu không phải là một đứa trẻ lạ,” Pollyanna vội vàng giải thích. “Cháu đang sống ở Boston, và...” Nhưng người phụ nữ trẻ và cô bé gái cùng với chiếc xe đẩy em bé đã bỏ đi rất xa; Pollyanna khẽ thở dài và lùi lại. Nó đứng yên lặng một lát, vô cùng thất vọng; sau đó nó lại hiên ngang ngẩng mặt và đi tiếp.
“Dù sao thì mình cũng mừng vì việc đó,” nó gật đầu tự nhủ, “Có lẽ bây giờ mình sẽ gặp được người khác tốt hơn, có lẽ là Susie Smith, hay Jamie nhà cô Carew. Dù sao, mình có thể tưởng tượng rằng mình sẽ thấy họ; còn nếu mình không thấy họ thì mình có thể tìm thấy người khác!”. Nó nói rồi đưa đôi mắt đăm chiêu nhìn những con người đang bận rộn xung quanh mình.
Không thể phủ nhận Pollyanna khá cô độc. Nó được cha và Hội Phụ nữ nuôi nấng ở một thị trấn nhỏ miền Tây, nó đã đếm từng ngôi nhà trong ngôi làng nó ở, kết bạn với từng người đàn ông, từng người phụ nữ và từng đứa trẻ. Khi đến nhà dì ở Vermont lúc nó mười một tuổi, nó đã vội vã cho rằng điểm khác biệt duy nhất là sẽ có những ngôi nhà và người bạn mới, thế nên lại càng đáng mừng bởi vì tất cả đều “mới mẻ” - mà Pollyanna luôn yêu những thứ “mới mẻ” và những con người “mới mẻ”! Niềm vui thú đầu tiên và mãi mãi của nó ở Beldingsville là những lần ngao du vào thị trấn và những cuộc viếng thăm những người bạn mới của
nó. Âu cũng là tự nhiên khi mà mới thấy nơi đây, Pollyanna đã thấy Boston có vẻ hứa hẹn sẽ còn vui thú hơn nữa.
Tuy nhiên Pollyanna cũng phải thừa nhận rằng nó hơi thất vọng; nó đã ở đây gần hai tuần rồi mà vẫn chưa quen một ai sống ở bên kia phố hay thậm chí là ở nhà bên cạnh. Khó hiểu hơn nữa là, đến phu nhân Carew cũng chẳng quen ai mấy, lại càng không thân với ai cả. Cô có vẻ hoàn toàn lãnh đạm với những hàng xóm xung quanh, đó là điều đáng kinh ngạc nhất theo quan điểm của Pollyanna; nhưng chẳng có điều gì nó nói có thể thay đổi thái độ của phu nhân Carew hết.
“Họ chẳng có gì thú vị cả, Pollyanna ạ,” đó là tất cả những gì cô nói, khiến cho Pollyanna, người luôn cho rằng họ rất thú vị, buộc phải chịu thua.
Hôm nay, khi đi dạo, Pollyanna đã xuất phát với nhiều hy vọng, rồi nó vẫn phải thất vọng. Xung quanh nó có bao nhiêu là người cực kỳ thú vị; giá như mà nó quen họ. Nhưng nó không biết một ai cả. Tệ hơn nữa, có vẻ như không có tí tiềm năng nào về việc nó sẽ làm quen được với họ, bởi lẽ họ hình như không muốn làm quen với nó cho lắm: Pollyanna vẫn còn bị ám ảnh bởi lời cảnh báo của cô y tá rằng nó là “đứa bé kì quặc”.
“Mình chỉ cần để họ thấy mình không phải đứa trẻ kì quặc là được,” nó tự nói với bản thân lần cuối rồi tự tin đi lên.
Theo lối tư tưởng đó, Pollyanna đã nhìn thẳng vào người tiếp theo và mỉmcười ngọt ngào: “Ngày hôm nay đẹp quá, đúng không ạ?” “Ơ, hả? À, ừ ừ, trời đẹp,” cô gái được hỏi lẩm bẩm, rồi nhanh chóng bỏ đi.
Pollyanna thử làm vậy thêm hai lần nữa, kết quả vẫn đáng buồn. Chẳng bao lâu nó đi đến chỗ cái hồ nhỏ mà nó nhìn thấy ánh mặt trời phản chiếu
lấp lánh qua các hàng cây. Cái hồ đó thật đẹp, trên mặt nước có vài chiếc thuyền nhỏ xinh chở những đứa trẻ đang cười đùa vui vẻ. Nhìn thấy khung cảnh đó lại khiến Pollyanna càng cảm thấy buồn phiền. Sau đó, nó phát hiện một người đàn ông đang ngồi một mình cách nó không xa lắm, nó bèn từ từ tiến lại gần và ngồi xuống đầu kia của chiếc ghế. Bình thường nó sẽ không e ngại mà nhảy phắt đến cạnh người đó để bắt chuyện làm quen với sự tự tin và nồng nhiệt rõ ràng; nhưng những lời từ chối dứt khoát vừa rồi đã khiến nó thiếu tự tin hẳn. Bây giờ nó chỉ dám lén lút nhìn người đàn ông đó.
Người đàn ông nhìn không quá chỉn chu. Quần áo ông ấy mặc tuy mới nhưng khá bụi bặm và hiển nhiên là thiếu sự chăm chút. Đó là kiểu đồ (dĩ nhiên là Pollyanna không biết) mà Nhà nước cho tù nhân mặc khi được thả tự do. Người đàn ông có một gương mặt xanh xao, trắng nhợt cùng với một bộ râu quai nón lún phún dường như một tuần chưa cạo. Chiếc mũ trên đầu kéo sụp xuống mắt. Với đôi bàn tay đút túi quần, người đàn ông ngồi bất động nhìn ra khu vườn.
Sau vài phút im lặng dài đằng đẵng, nó cất tiếng nói tràn trề hy vọng: “Hôm nay trời đẹp quá, chú nhỉ?”
Người đàn ông giật mình quay đầu sang.
“Hả? Ờ mà... cháu vừa nói gì?” Người đàn ông hỏi, rồi nhìn xung quanh với ánh mắt bàng hoàng khó hiểu để chắc chắn rằng người nó hỏi là mình.
“Cháu bảo là, hôm nay trời đẹp quá,” Pollyanna vội vàng chân thành giải thích; “nhưng cháu không quan tâm chuyện đó lắm. Tất nhiên là cháu mừng vì hôm nay thời tiết đẹp, nhưng cháu chỉ nói thế để mở đầu thôi ạ, cháu sẽ sớm nói thêm về những chuyện khác, về bất kì chuyện gì ạ. Chỉ vì
cháu muốn chú cũng nói với cháu về chuyện gì đó, thế đó ạ.” Người đàn ông khẽ bật tiếng cười trầm. Pollyanna thấy tiếng cười này nghe có vẻ là lạ, mặc dù nó không biết (cả người đàn ông cũng vậy) rằng người đàn ông này đã không hề cười trong suốt vài tháng qua. “Vậy là cháu muốn ta nói chuyện hả?” Người đàn ông buồn bã nói. “Ta không hiểu gì cả, nhưng ta sẽ làm thế. Dù vậy, ta vẫn nghĩ một quý cô nhỏ bé đáng yêu như cháu đáng lẽ phải tìm những người tốt đẹp hơn để nói chuyện hơn là một tên lừa đảo già đầu như ta chứ.”
“Ôi, cháu thích những tên lừa đảo già đầu,” Pollyanna nhanh nhảu đáp; “đúng ra là cháu thích phần già, vì cháu không biết ‘tên lừa đảo’ là gì nên cháu không thể không thích nó được. Với lại, nếu chú là tên lừa đảo, thì chắc là cháu cũng thích những tên lừa đảo. Dù sao thì cháu cũng thích chú,” nó nói xong cũng là lúc nó tự mình ngồi sang cùng ghế với cựu tù nhân một cách rất hài lòng.
“Ây da! Ta hãnh diện quá,” người đàn ông nở nụ cười mỉa mai. Gương mặt và lời nói của người đàn ông vẫn giữ nét ngờ vực lịch sự, tuy nhiên có thể thấy rằng người đàn ông ngồi hơi thẳng lưng lên một chút. “Vậy, mời cháu, chúng ta sẽ nói chuyện gì nhỉ?”
“Chuyện vụn vặt thôi ạ. Ý cháu là chuyện gì cũng được, phải không ạ?” Pollyanna hỏi cùng một nụ cười rạng rỡ. “Dì Polly bảo cháu là, dù cháu có đang nói chuyện gì đi nữa, cuối cùng cháu cũng sẽ quay lại chuyện các cô trong Hội Phụ nữ thôi ạ. Nhưng cháu phải công nhận rằng đó là do các cô ấy là người đã nuôi cháu đầu tiên mà, phải không chú? Chúng ta có thể nói về bữa tiệc này. Cháu thấy đây là một bữa tiệc quá tuyệt vời; giờ cháu còn làm quen được với người khác nữa.”
“Bữa... Bữa tiệc?”
“Vâng, bữa tiệc này ạ, đây ạ. Có biết bao nhiêu người đến đây. Chẳng lẽ nó không phải là bữa tiệc ạ? Có quý cô nói bữa tiệc này dành cho tất cả mọi người cho nên cháu đã ở lại, mặc dù cháu vẫn chưa thấy ngôi nhà của gia chủ, người tổ chức bữa tiệc đâu cả.”
Đôi môi người đàn ông giật giật.
“Thưa quý cô bé nhỏ, có lẽ đây đúng là một bữa tiệc theo cách nào đó,” người đàn ông cười; “nhưng chủ nhân của bữa tiệc này là chính quyền thành phố Boston. Đây là Vườn hoa thành phố, công viên công cộng, cháu hiểu không, nó dành cho tất cả mọi người.”
“Vậy sao ạ? Lúc nào cũng thế ạ? Thế cháu có thể đến đây lúc nào cháu muốn cũng được ư? Ôi chao, quá tuyệt vời! Còn tuyệt vời hơn cả những gì cháu nghĩ. Cháu đã lo là sau hôm nay, cháu không thể lại đến đây nữa. Cháu mừng quá là mình đã không biết chuyện này từ đầu, nên bây giờ nghe còn thích hơn. Mọi chuyện đều trở nên tốt đẹp hơn khi trước đó chú lo rằng nó không được tốt đẹp lắm, đúng không ạ?”
“Có lẽ là thế, nếu chúng có bao giờ trở nên tốt đẹp,” người đàn ông âu sầu thừa nhận.
“Vâng, cháu cũng nghĩ vậy,” Pollyanna gật đầu, không chú ý tới vẻ buồn rầu đó. “Nhưng chú không thấy ở đây đẹp sao ạ?” Nó hào hứng, “Cháu tự hỏi liệu phu nhân Carew có biết nơi này dành cho tất cả mọi người không. Bởi vì cháu nghĩ mọi người lúc nào cũng sẽ muốn tới đây và ở lại để ngắm cảnh.”
Vẻ mặt người đàn ông trở nên cứng đơ.
“Thật ra, có một số người trên thế giới này còn có công việc; họ có việc khác để làm ngoài việc đến đây và ngắm cảnh như thế; có điều ta lại không phải họ.”
“Vậy ạ? Thế thì chú có thể mừng vì điều đó, đúng không ạ?” Pollyanna nói, ánh mắt nó đang rạng rỡ nhìn theo con thuyền vừa đi qua. Đôi môi người đàn ông hé ra giận dữ, nhưng không có một lời nào được phát ra cả. Còn Pollyanna vẫn tiếp tục nói.
“Cháu ước cháu không phải làm gì ngoài việc này cả. Cháu vẫn phải đi học. Ơ mà, cháu thích trường học; nhưng vẫn còn nhiều thứ khác cháu thích hơn. Cháu vẫn mừng vì cháu có thể đi học. Cháu còn đặc biệt vui mừng khi nhớ về mùa đông năm ngoái, khi mà cháu không nghĩ mình còn có thể đi được nữa. Chú biết không, cháu đã mất đôi chân một thời gian; ý cháu là, chúng không đi được; chú sẽ không bao giờ biết mình cần dùng mọi thứ đến mức nào cho đến khi không còn chúng nữa. Cả mắt cũng thế. Chú có bao giờ nghĩ chú sử dụng mắt nhiều đến thế nào không? Cháu thì không cho tới khi cháu tới Nhà an dưỡng. Ở đó có một cô bị mù khoảng một năm, cháu đã cố rủ cô ấy chơi trò chơi - đi tìm điều gì đó đáng mừng ấy ạ - nhưng cô ấy nói rằng cô ấy không thể, rằng nếu cháu muốn biết lý do vì sao, cháu có thể lấy khăn tay bịt mắt mình lại trong một tiếng đồng hồ. Cháu đã làm thế. Việc đó thật tồi tệ. Chú đã thử bao giờ chưa ạ?”
“Gì cơ, không, ta chưa từng.” Người đàn ông vừa bực tức, vừa lúng túng đáp.
“Vậy thì chú đừng thử ạ. Nó thực sự kinh khủng. Chú sẽ không thể làm bất cứ chuyện gì, chú không muốn làm gì hết. Nhưng cháu đã bịt mắt mình cả một tiếng đồng hồ. Vì thế sau đó cháu rất vui mừng, thỉnh thoảng khi cháu nhìn thấy cái gì đó thật đẹp như vậy cháu sẽ vui mừng đến mức muốn khóc; vì cháu có thể nhìn thấy được. Bây giờ cô ấy cũng đang chơi trò chơi rồi, cô bị mù ấy ạ. Cô Wetherby nói với cháu thế.”
“Trò chơi?”
“Vâng, trò chơi vui mừng. Cháu đã kể cho chú chưa ạ? Tìm kiếm một cái gì đó để vui mừng về nó trong tất cả mọi việc. Vâng, bây giờ cô ấy đã tìm ra rồi, về đôi mắt của cô ấy ạ. Chồng cô ấy là người giúp tạo ra các bộ luật, cô ấy đã nhờ chồng mình đề xuất một điều luật giúp đỡ người mù, đặc biệt là cho những em nhỏ. Cô ấy đã tự mình tới và nói với những người làm luật về cảm giác khi bị mù. Thế là họ đã tạo ra một đạo luật. Họ nói cô ấy đã làm nhiều hơn bất cứ ai, kể cả chồng cô ấy, để tạo ra đạo luật đó, họ không tin là sẽ có bất cứ đạo luật nào như vậy nếu như không có cô ấy. Nên bây giờ cô ấy nói rằng cô ấy mừng vì đã mất đôi mắt, bởi vậy cô mới có thể ngăn không cho những em nhỏ lớn lên bị mù giống mình. Chú thấy đấy, cô ấy đang chơi trò chơi. Nhưng chắc là chú vẫn chưa biết về trò chơi đó; nên cháu sẽ kể cho chú nghe. Nó bắt đầu như vậy ạ.” Pollyanna, với đôi mắt đang lấp lánh nhìn cảnh đẹp trước mắt, kể lại câu chuyện đôi nạng nhỏ hồi xưa của nó mà đáng lẽ phải là một con búp bê.
Khi câu chuyện kết thúc, không khí trở nên im lặng rất lâu; sau đó, người đàn ông bỗng đứng lên.
“Ôi, bây giờ chú định đi ạ?” Nó hỏi tràn trề thất vọng.
“Ừ, ta đi đây.” Người đàn ông mỉm cười với nó với vẻ hơi kì quặc. “Nhưng thỉnh thoảng chú sẽ quay lại đây chứ ạ?”
Người đàn ông lắc đầu, nhưng rồi lại mỉm cười.
“Ta hy vọng là không, và ta tin là thế, cô bé ạ. Ta đã có một khám phá rất lớn vào hôm nay. Ta tưởng đời ta thế là xong rồi. Ta nghĩ mình chẳng còn nơi nào để đi cả. Nhưng ta vừa phát hiện ra rằng, ta còn có hai con mắt, đôi tay và đôi chân. Bây giờ ta sẽ sử dụng chúng; ta sẽ khiến cho người ta hiểu rằng ta biết cách sử dụng chúng!”
Sau đó người đàn ông bỏ đi.
“Ôi, chú ấy thật là vui tính!” Pollyanna ngẫm nghĩ. “Chú ấy còn tốt bụng và khác biệt nữa,” nó kết luận, lại đứng lên và tiếp tục đi dạo. Pollyanna bây giờ lại vui vẻ như con người thường ngày của nó, nó bước đi với sự tự tin ngập tràn. Chẳng phải người đàn ông đó đã nói đây là công viên công cộng sao, nó có quyền ở đây giống như những người khác. Nó đi lại gần cái hồ và bước qua cầu để tới chỗ bến thuyền. Nó đứng một lúc nhìn những đứa trẻ một cách vui vẻ, vẫn giữ ánh mắt quan sát tinh tường để tìm kiếm Susie Smith tóc xoăn đen. Nó cũng muốn được lên ngồi thử trên những con thuyền xinh đẹp này, nhưng nó thấy tấm bảng ghi “Năm xu” cho mỗi lượt, mà nó thì không có đồng nào trong người cả. Nó mỉm cười đầy hy vọng với một vài người phụ nữ và hai lần thử bắt chuyện thăm dò. Nhưng không ai chủ động trả lời nó cả, những người nó hỏi còn nhìn nó với ánh mắt lạnh lùng và thờ ơ hoàn toàn.
Một lúc sau nó đổi hướng sang một cung đường khác. Nó nhìn thấy một cậu bé có gương mặt nhợt nhạt đang ngồi trên xe lăn. Nó đã có thể nói chuyện với cậu bé, nhưng cậu bé lại đang đắm chìm vào quyển sách của mình nên nó quay đi sau một hồi nhìn chằm chằm tiếc nuối. Sau đó nó bắt gặp một cô gái trẻ xinh đẹp nhưng hơi buồn đang ngồi một mình, nhìn vào hư vô, rất giống người đàn ông lúc nãy. Pollyanna vội thốt lên một tiếng rồi nhanh chóng chạy tới.
“Ôi, chào chị ạ,” nó vui vẻ nói. “Em mừng vì em đã tìm ra chị! Em tìm chị mãi mới được đấy,” nó quả quyết rồi ngồi ngay xuống phần ghế còn trống.
Cô gái xinh đẹp giật mình quay sang nhìn nó với đôi mắt vô cùng mong đợi.
“Ôi!” cô thốt lên, rồi lại tỏ vẻ thất vọng. “Chị tưởng là... Mà, ý em là
gì?” cô gặng hỏi một cách buồn bã. “Chị chưa từng gặp em trước đây.” “Vâng, em cũng chưa từng gặp chị mà,” Pollyanna cười; “nhưng em đã tìm chị suốt, cũng như nhau thôi ạ. Dĩ nhiên là em không biết rằng người đó sẽ là chị. Chỉ là em muốn tìm một người trông có vẻ cô độc và không có ai bên cạnh. Giống như em ấy. Hôm nay cũng có khá nhiều người như vậy. Chị thấy không?”
“Ừ, chị thấy,” cô gái gật đầu, rồi lại trở về trạng thái hững hờ. “Nhưng, cô bé đáng thương ạ, thật tệ là em đã tìm ra sớm như vậy.” “Tìm ra gì ạ?”
“Rằng nơi cô độc nhất trên thế giới này là ở giữa đám đông trong một thành phố lớn.”
Pollyanna cau mày suy nghĩ.
“Vậy ạ? Em không hiểu sao có thể như vậy. Em không hiểu sao chị có thể cô độc khi có bao nhiêu người xung quanh chị. Mà…” Cô bé dè dặt và nhíu mày chặt hơn. “Buổi chiều nay em cũng thấy cô độc, mà ở đây còn có rất nhiều người; chỉ là hình như họ không để ý tới em.”
Cô gái xinh đẹp mỉm cười cay đắng.
“Là vậy đấy. Họ chẳng bao giờ nghĩ tới hay quan tâm đâu, không bao giờ họ làm vậy cả.”
“Nhưng có vài người vẫn quan tâm mà chị. Chúng ta có thể mừng vì điều đó,” Pollyanna kiên trì. “Khi em...”
“Ừ đúng, có vài người,” cô gái cắt ngang. Vừa nói cô vừa khẽ rùng mình và nhìn xuống con đường cạnh Pollyanna đầy hoảng sợ. “Có vài người quan tâm quá nhiều.”
Pollyanna lùi lại một bước, mất hết tinh thần. Bị cự tuyệt liên tục trong
buổi chiều hôm nay khiến nó trở nên nhạy cảm.
“Ý chị nói... em ạ?” nó lắp bắp. “Chị hy vọng là em không để tâm... đến chị nữa ạ?”
“Không, không, bé con! Ý chị là những người khác, không phải em. Những người đáng lẽ không nên để tâm. Chị mừng vì có em đến nói chuyện với chị, chỉ là lúc đầu chị tưởng em là người nhà chị.”
“Thế là chị cũng không sống ở đây, cũng giống như em, ý em là sống suốt đời.”
“À, có, giờ chị sống ở đây,” cô gái nói; “nếu em có thể gọi việc chị làm là sống.”
“Chị làm gì ạ?” Pollyanna thích thú hỏi.
“Làm gì? Chị sẽ kể cho em biết chị làm gì nhé,” cô gái bỗng nhiên đáp với vẻ rầu rĩ. “Từ sáng sớm đến tối mịt, chị bán dải dây đăng ten và nơ cho những cô gái hay cười nói và quen biết nhau. Rồi chị về nhà là một căn phòng trên tầng ba chỉ đủ rộng cho một cái giường thấp nhỏ xíu, một cái bệ rửa mặt bị sứt, một cái ghế ọp ẹp và có mình chị. Mùa hè, nó nóng như một cái lò còn mùa đông thì lạnh như cái thùng đá vậy; nhưng đấy là nơi duy nhất chị có, và chị phải ở đó những lúc chị không đi làm. Nhưng hôm nay chị đã đi ra ngoài. Chị không muốn ở trong căn phòng đó, chị cũng không muốn đến cái thư viện cũ kĩ nào để đọc sách cả. Đây là kì nghỉ nửa ngày cuối cùng của bọn chị năm nay và còn một kì nghỉ nữa, chị dự định sẽ vui vẻ một lần. Chị còn trẻ, chị muốn nói cười, chơi đùa cũng giống như những cô gái chị bán nơ cho mọi ngày. Vậy nên, hôm nay chị sẽ vui đùa.”
Pollyanna tươi cười và gật đầu đồng tình.
“Em mừng vì chị thấy như vậy. Em cũng thế. Sẽ vui hơn rất nhiều khi
ta thấy hạnh phúc, đúng không chị? Với lại, trong Kinh thánh cũng dạy như thế; ý em là hãy vui mừng và cảm thấy toại nguyện. Nó nhắc chúng ta thế phải tám trăm lần ấy. Chắc là chị biết việc đó rồi, những đoạn kinh vui vẻ ấy ạ.”
Cô gái xinh đẹp lắc đầu. Trên mặt cô xuất hiện vẻ kì lạ.
“Ôi, không,” cô thốt lên khô khan. “Chị không đang nghĩ về Kinh thánh.”
“Chị không nhớ ạ? Chắc là thế; nhưng mà chị biết không, cha em là một Cha xứ đấy, và cha em...”
“Một Cha xứ ư?”
“Vâng. Sao vậy, cha chị cũng thế ạ?” Pollyanna reo lên khi nhìn đáp án trên gương mặt người đối diện.
“Ừ đúng.” Vầng trán cô gái trở nên tái nhợt.
“Ôi, cha chị cũng giống cha em, đã về với Chúa và các thiên thần rồi ạ?”
Cô gái quay đi.
“Không. Ông ấy vẫn còn sống ở quê,” cô thì thào trả lời. “Ôi, chị thật là sướng”, Pollyanna thở dài ghen tị. “Thỉnh thoảng em hay nghĩ, giá như em có thể nhìn thấy cha em một lần; nhưng chị vẫn gặp cha mình đúng không ạ?”
“Không thường xuyên lắm. Tại chị ở đây mà.”
“Nhưng chị vẫn có thể gặp cha, còn em thì không. Cha em đi theo mẹ lên Thiên đàng yên nghỉ mất rồi. Vậy chị có mẹ không ạ, mẹ vẫn đang còn ở Trái Đất ấy?”
“Chị có.” Cô gái bồn chồn như thể sắp đứng dậy mà đi mất.
“Ôi, vậy chị có thể gặp cả hai người,” Pollyanna nói với vẻ mặt đăm chiêu. “Ôi, chị hạnh phúc thật đấy! Không ai thật sự quan tâm và chăm lo cho chúng ta hơn cha mẹ sinh thành đâu chị ạ. Em biết bởi vì cha em còn sống với em tới khi em mười một tuổi; thay cho mẹ thì em có các cô ở Hội Phụ nữ đã bên em rất rất lâu, cho tới khi dì Polly nhận nuôi em. Các cô Hội Phụ nữ rất đáng mến, nhưng rõ ràng là họ không thể nào như mẹ thật sự được, hay cả dì Polly cũng thế; và...”
Pollyanna nói thao thao bất tuyệt. Pollyanna đang miên man trong dòng cảm xúc của mình. Pollyanna rất thích nói chuyện. Pollyanna chưa bao giờ thấy việc cởi mở tâm sự thân tình về cảm xúc và câu chuyện cuộc đời mình với một người hoàn toàn xa lạ trên một băng ghế công viên ở Boston là kì lạ, khờ dại hay bất thường gì cả. Đối với Pollyanna, mọi đàn ông, phụ nữ và trẻ em đều là bạn, dù quen hay không quen; đến tận lúc này nó vẫn cảm thấy những người không quen cũng thú vị như những người đã quen vậy, bởi với họ luôn có sự bí ẩn để khám phá và trải nghiệm trong khi biến đổi họ từ những người không quen thành người quen.
Đối với cô gái trẻ bên cạnh nó, Pollyanna không hề e ngại kể về cha nó, về dì Polly, ngôi nhà ở miền Tây và cuộc hành trình của nó tới Vermont ở miền Đông. Nó kể về những người bạn mới và những người bạn cũ của nó, dĩ nhiên có cả trò chơi của nó nữa. Pollyanna hầu như lúc nào cũng kể cho tất cả mọi người nghe về trò chơi, trước sau gì nó cũng kể. Có quá nhiều chuyện về bản thân nó nên nó khó có thể kiềm chế không nói cho người khác.
Còn cô gái này, cô ấy nói rất ít. Bây giờ, cô không còn ngồi với vẻ thờ ơ như lúc đầu nữa, thái độ của cô đã hoàn toàn khác. Đôi gò má đỏ bừng, lông mày nhíu lại, ánh mắt lo âu và những ngón tay căng thẳng không yên
đều là những đặc điểm cho thấy trong tâm trí cô đang bấn loạn. Hết lần này tới lần khác cô cứ lo lắng nhìn sang con đường bên phía Pollyanna, rồi cô bỗng cầm chặt lấy tay cô bé con.
“Nghe này, cô nhóc, lúc này em không được rời khỏi chị đâu đấy. Em có nghe không? Ở yên chỗ em đang ngồi ấy? Có một người đàn ông chị quen đang đến; nhưng hắn ta có nói gì, em cũng đừng để ý và không được bỏ đi. Chị phải ở bên cạnh em. Hiểu không?”
Pollyanna chưa kịp thắc mắc thì đã há hốc miệng vì kinh ngạc và bất ngờ, có một người đàn ông trẻ và rất điển trai đang ở ngay trước mặt nó, dừng lại ở chỗ hai người ngồi.
“Ồ, em đây rồi,” hắn cười vẻ hài lòng, bỏ chiếc mũ xuống chào cô gái cùng Pollyanna. “Anh e là mình phải bắt đầu bằng một lời xin lỗi vì anh đến muộn.”
“Không sao đâu, thưa ngài,” cô gái trẻ vội vã trả lời. “Tôi... Tôi vừa quyết định sẽ không đi nữa.”
Người đàn ông trẻ khẽ cười.
“Ôi, thôi nào, em yêu, đừng nóng giận chỉ vì một anh chàng đến muộn một tí thế chứ!”
“Không phải như vậy đâu,” cô gái phủ nhận, hai má cô đỏ bừng bừng. “Ý tôi là tôi sẽ không đi.”
“Vớ vẩn!” Người đàn ông không cười nữa. Hắn nói sắc lạnh, “Hôm qua em nói em sẽ đi cơ mà.”
“Tôi biết; nhưng tôi đổi ý rồi. Tôi đã nói với người bạn nhỏ này tôi sẽ ở lại cùng em ấy.”
“Ôi, chị cứ đi cùng quý ông trẻ trung lịch thiệp này đi ạ,” Pollyanna nói
áy náy, nhưng lại im bặt khi thấy ánh mắt cô gái nhìn nó. “Tôi nói là tôi không đi. Tôi sẽ không đi.”
“Tại sao đột nhiên em lại trở mặt như vậy?” người đàn ông trẻ chất vấn với thái độ khiến Pollyanna đột nhiên thấy hắn không còn điển trai lắm nữa. “Hôm qua, em đã nói...”
“Tôi biết là như vậy,” cô gái luống cuống cắt ngang. “Nhưng tôi biết mình không nên làm thế. Cứ coi như là bây giờ tôi đã hiểu thấu đáo hơn đi. Thế thôi.” Rồi cô cương quyết quay đi.
Nhưng chuyện vẫn chưa xong. Người đàn ông còn nói gì đó thêm hai lần nữa. Hắn dỗ dành cô gái, rồi lại nhạo báng cô với vẻ khinh ghét. Cuối cùng hắn gằn giọng nói gì đó với vẻ vô cùng giận dữ mà Pollyanna không hiểu nổi. Sau đó hắn quay người sải bước bỏ đi.
Cô gái căng thẳng nhìn hắn cho đến khi bóng hắn khuất dạng, rồi mới nhẹ nhõm đặt bàn tay run rẩy lên vai Pollyanna.
“Cảm ơn bé con. Chị nợ em hơn những gì em hiểu. Tạm biệt em.” “Chị không định đi bây giờ mà!” Pollyanna than thở.
Cô gái thở dài mệt mỏi.
“Chị phải đi đây. Hắn ta sẽ quay trở lại, lần sau chị có thể sẽ không...” Cô bỏ lửng câu nói rồi đứng dậy. Cô bỗng ngần ngừ một chút rồi nghẹn ngào, chua chát nói: “Anh ta là loại người can thiệp quá nhiều và không nên can thiệp tới chị chút nào!” Rồi cô bỏ đi.
“Thật là một quý cô kỳ lạ,” Polyanna lẩm bẩm, nuối tiếc nhìn theo hình bóng đang mờ dần. “Chị ấy tốt bụng nhưng cũng khá kỳ quặc,” cô bé nhận xét, rồi đứng lên từ từ bước xuống đường.
CHƯƠNG VI
JERRY TỚI GIẢI CỨU
C
hẳng mấy chốc, Pollyanna đã tới rìa Vườn hoa ở góc ngã tư đường. Một góc đường thú vị vô cùng với ô tô, xe ngựa nhộn nhịp cùng người đi bộ đang vội vã qua lại. Một cái chai màu đỏ to đùng sau ô cửa sổ hiệu thuốc đập vào mắt nó, rồi sau đó nó nghe thấy vang lên dưới đường là tiếng đàn quay. Lúc đầu Pollyanna hơi do dự, sau đó nó phóng như bay qua góc đường rồi dừng lại ở con phố hướng về phía thứ âm thanh lôi cuốn.
Pollyanna bây giờ đã phát hiện ra rất nhiều thứ thú vị. Trong các cửa hàng có vô vàn thứ kì diệu, khi nó tìm tới chỗ chiếc đàn quay, nó thấy xung quanh đó là một tốp trẻ em đang nhảy múa trông vô cùng hấp dẫn. Trò giải trí này có vẻ vui vẻ đến nỗi cuốn hút Pollyanna từ xa đi men theo tiếng đàn quay chỉ để nhìn bọn trẻ nhảy múa. Giờ nó mới nhận ra mình đang ở một góc phố đông đúc đến nỗi một người đàn ông cao lớn mặc áo khoác màu xanh dương có đai thắt lưng to bản đang phải bận rộn giúp mọi người qua đường. Nó cứ đứng lặng lẽ nhìn ông trong một lát, rồi mới bắt đầu dè dặt sang đường.
Đó là một trải nghiệm tuyệt vời. Người đàn ông cao lớn, mặc áo choàng xanh dương trông thấy nó và ra hiệu cho nó ngay lập tức. Sau đó, ông ấy tiến lại gần giúp đỡ nó qua đường. Lòng đường rộng thênh thang đầy những động cơ nổ giòn và những con ngựa mất kiên nhẫn, nhưng nó cứ thế đi sang bên kia đường mà không mảy may xây xước. Chuyện này
cho nó một cảm giác vô cùng mới mẻ, vui vẻ đến nỗi sau đúng một phút, nó lại sang đường lần nữa. Chỉ trong chốc lát, nó được bước qua con đường hấp dẫn được rẽ ra dưới bàn tay của người đàn ông cao lớn này thêm hai lần nữa. Nhưng lần cuối, người dẫn đường cho nó để nó lại bên lề đường, cau mày nhìn nó khó hiểu.
“Này, cô bé, cháu vẫn là đứa trẻ vừa mới qua đường một phút trước đúng không?” người đàn ông hỏi. “Và một lần ngay trước đó nữa?” “Vâng, thưa chú,” Pollyanna tươi cười. “Cháu qua đường bốn lần rồi ạ!”
“Vậy cơ đấy!” Người sĩ quan bắt đầu to tiếng; nhưng Pollyanna vẫn còn đang nói.
“Mỗi lần qua đường lại càng vui hơn chú ạ!”
“Ồ - ồ, thế cơ à?” Người đàn ông to cao lầm bầm rồi tỏ ra dữ dằn thêm một chút: “Cháu nghĩ ta làm gì ở đây hả, để đưa cháu đi đi lại lại thế à?” “Dạ, không ạ,” Pollyanna chúm chím đôi lúm đồng tiền. “Dĩ nhiên là không chỉ có cháu rồi! Còn có những người khác nữa ạ. Cháu biết công việc của chú mà. Chú là cảnh sát. Chỗ cháu ở cùng cô Carew cũng có một người như vậy, nhưng chú ấy chỉ đi trên vỉa hè thôi. Hồi xưa cháu nghĩ các chú là các binh sĩ, vì cháu thấy hàng cúc vàng trên áo cùng với những cái mũ xanh. Chỉ là cháu nghĩ chú cũng là một kiểu chiến sĩ, bởi chú rất gan dạ: chú đứng ở đây, ngay giữa dòng người và xe cộ, giúp mọi người qua đường.”
“Ha ha! Brrrr!” Người đàn ông cao lớn phì cười, đầu ngửa ra sau cười vui vẻ trông giống như một cậu học sinh. “Hô hô! Cứ như là...” Ông chợt im bặt và giơ tay ra để dìu một bà lão bé nhỏ rõ ràng đang có vẻ hoảng sợ khi sang đường. Ông cố sải bước khoa trương hơn, lồng ngực ưỡn cao
hơn, cố ra dáng cho cô bé con đang đứng bên vệ đường nhìn. Sau đó, ông vẫy tay một cách dứt khoát ra hiệu cho các tài xế đi tiếp, rồi quay lại chỗ Pollyanna.
“Ôi, tuyệt quá!” nó hoan hô với đôi mắt sáng rực. “Cháu rất thích xem chú làm như thế giống như là con dân Isarael vượt qua biển Đỏ, đúng không ạ? Chú là người rẽ sóng cho mọi người băng qua. Chắc là chú lúc nào cũng mừng lắm vì lúc nào chú cũng được làm như thế! Hồi xưa cháu cứ nghĩ được làm bác sĩ là việc đáng mừng nhất cơ, nhưng bây giờ cháu công nhận, làm cảnh sát còn đáng vui mừng hơn nhiều - khi có thể giúp đỡ những người đang hoảng sợ. Và lại một tiếng “Brrr!” cùng tiếng cười ngại ngùng, người đàn ông cao lớn mặc áo khoác xanh dương quay trở lại lòng đường, để lại Pollyanna đứng một mình trên vỉa hè.
Pollyanna đứng nhìn cảnh “biển Đỏ” thêm một lúc, sau đó tiếc nuối rời ánh mắt và quay đi.
“Mình nghĩ là mình nên về nhà thôi,” nó trầm tư. “Sắp gần đến giờ ăn tối rồi.” Rồi nó nhanh chóng quay lại con đường mình đã đi. Chỉ đến khi nó lúng túng ở mấy góc phố và rẽ sai đường hai lần, Pollyanna mới hiểu ra một sự thật rằng “trở về nhà” không dễ như nó tưởng. Và cũng chỉ đến khi nó bước tới một căn nhà lạ lẫm mà nó biết chắc mình chưa từng thấy bao giờ, nó mới nhận ra rằng nó đã hoàn toàn lạc đường.
Nó đang đứng ở một con đường nhỏ, bẩn thỉu và mấp mô. Các khu nhà nhếch nhác và vài cửa hàng đìu hiu ở trước mặt. Gần đấy có những người đàn ông tán chuyện luyên thuyên và những người phụ nữ ngồi lê đôi mách, nhưng Pollyanna không hiểu một chữ nào trong lời họ nói cả. Hơn nữa nó không chịu được cái cách họ nhìn nó dò xét như thể họ biết nó không
thuộc về nơi này.
Nó thử hỏi đường vài lần nhưng vô ích. Có vẻ không ai biết phu nhân Carew sống ở đâu; thêm hai lần nữa, những người nó hỏi cứ có những cử chỉ và từ ngữ rối rắm đến mức sau một hồi suy nghĩ, Pollyanna cho rằng đó hẳn phải là “tiếng Đức”, giống thứ tiếng mà gia đình Haggermans - gia đình người nước ngoài duy nhất ở Beldingsville - sử dụng.
Cứ thế, Pollyanna lang thang đi hết đường này tới đường khác. Nó hoàn toàn hoảng sợ. Nó thấy đói cồn cào và mệt lả. Chân thì đau, mắt nó rơm rớm nước dù nó đã cố gắng lắm để kìm nén. Tệ hơn nữa là trời đang đã bắt đầu tối dần.
“Dù sao thì,” nó nghèn nghẹn tự nhủ, “Mình sẽ mừng vì mình đã bị lạc, vì đến lúc mình được tìm thấy đường về thì sẽ rất tuyệt. Mình có thể mừng vì điều đó!”
Đến một góc phố ồn ào nơi giao nhau của hai con phố lớn, Pollyanna cuối cùng cũng mất hết tinh thần và dừng lại. Lần này nước mắt nó trào ra, vì không có khăn tay nên nó đành lấy mu bàn tay lau nước mắt.
“Chào nhóc, sao khóc thế?” một giọng nói vui vẻ hỏi nó. “Sao vậy hả?” Pollyanna thở phào nhẹ nhõm rồi quệt nước mắt, quay lại nhìn một cậu bé đang ôm một chồng báo dưới cánh tay.
“Ôi chao, tớ mừng vì gặp được cậu quá!” nó thốt lên. “Tớ đang hy vọng được gặp người nào đó không nói tiếng Đức!”
Cậu bé nhe răng cười.
“Đức cái gì!” cậu chế giễu. “Tớ đoán là cậu nói đến người Dago.” Pollyanna hơi nhăn nhó.
“Tóm lại là không phải tiếng Anh,” nó ra vẻ ngờ vực; “họ không thể trả
lời câu hỏi của tớ. Nhưng có lẽ cậu có thể. Cậu có biết phu nhân Carew sống ở đâu không?”
“Hông! Cậu có thể khám người tớ.”
“Cái gì?” Pollyanna hỏi, càng thêm nghi ngờ.
Cậu bé lại nhe răng.
“Ý tớ là không. Tớ không quen người đó!”
“Nhưng chẳng lẽ không có ai ở đâu đó biết à?” Pollyanna nằn nì. “Tớ chỉ ra ngoài đi dạo thôi mà bị lạc. Càng lúc tớ lại đi càng xa mà chẳng tìm thấy nhà đâu cả; còn có bữa... tớ muốn nói tới giờ ăn tối rồi và trời thì càng ngày càng tối nữa. Tớ muốn trở về nhà. Tớ phải về.”
“Ây da! Tớ phải lo rồi!” cậu bé đồng tình.
“Ừ, tớ cũng sợ làm cho cô Carew lo,” Pollyanna nói.
“Thật là! Thế thì cậu đừng quá trớn chứ,” cậu bé bỗng cười khoái trá. “Nhưng mà này! Cậu có biết tên đường nhà mình không?” “Không. Đại khái đó là một đại lộ,” Pollyanna chán nản nói. “Đại nộ phải không? Được rồi, cũng có vai vế đấy! Biết rồi. Nhà cậu số mấy? Có biết không? Cố vắt nát óc ra nghĩ xem!”
“Vắt nát óc mình ra?” Pollyanna nhíu mày thắc mắc, rồi ngập ngừng đưa tay lên đầu.
Cậu bé nhìn nó khinh khỉnh.
“Eo, đừng có kiểu cách dở hơi! Cậu hâm vừa thôi. Tôi hỏi là cậu có biết số nhà mình không?”
“Không không, tớ chỉ nhớ có số bảy thôi,” Pollyanna trả lời với hy vọng mong manh.
“Đời thuở nào lại có người thế chứ?” cậu bé chế giễu. “Chỉ có số bảy
mà người ta cũng hy vọng mình biết cái nhà đó thì tài thật!” “À, tớ sẽ nhận ra nếu tớ nhìn thấy nó,” Pollyanna vội vàng phân bua; “Tớ nghĩ là tớ nhớ con phố đó, vì nó có một cái khoảnh sân rất dài ngay giữa con phố trải dọc theo con đường.”
“Sân?” cậu bé hỏi, “ngay giữa con phố?”
“Ừ, có cây cỏ, ở giữa có một con đường bộ, có ghế ngồi, và...” Cậu bé bỗng reo lên vui vẻ cắt ngang.
“Giời ạ! Đại lộ Commonwealth, chắc chắn là cậu sống ở đó rồi! Còn tức vụ con dê đó không?”
“Ôi, cậu thật sự biết à?” Pollyanna khẩn khoản. “Hình như là thế, chỉ là tớ không hiểu ý cậu về vụ con dê. Ở đó không có con dê nào cả. Tớ nghĩ họ không cho phép...”
“Dê cái gì mà dê!” cậu bé nhạo báng. “Cam đoan với cậu là tớ biết chỗ đó rồi! Hôm nào mà tớ chả đi cùng Cha James tới Vườn hoa? Tớ sẽ đưa cậu đi. Cậu cứ ở đây đợi tớ làm xong việc, bán hết chỗ báo này đã. Rồi chúng ta sẽ tìm đường về cái Đại lộ đó trong chớp mắt thôi.”
“Ý cậu là cậu sẽ đưa tớ về á?” Pollyanna, vẫn chưa hiểu hết lời cậu nói. “Dĩ nhiên rồi! Chuẩn đai ngựa, nếu cậu nhớ ngôi nhà đó.” “Có, tớ nhớ ngôi nhà,” Pollyanna lo lắng đáp, “nhưng tớ không biết
liệu có đai ngựa không. Nếu không có, cậu có thể không...” Cậu bé lại ném cho nó một cái nhìn coi thường rồi chen vào đám đông. Một giây sau, Pollyanna nghe thấy tiếng cậu rao “Báo đây, báo đây! Herald, Globe. Mời ngài mua báo?”
Pollyanna thở dài nhẹ nhõm rồi trở lại đầu đường đứng đợi. Nó đã thấm mệt nhưng nó vẫn cảm thấy hạnh phúc. Ngoại trừ mấy điểm khó
hiểu lặt vặt ra, nó tuyệt đối tin cậu bé đó và nó hoàn toàn tự tin rằng cậu bé đó có thể đưa nó về nhà.
“Cậu ấy thật tốt bụng, mình thích cậu ấy,” nó tự nhủ, mắt nó nhìn theo cậu bé dáng vẻ nhanh nhẹn và hoạt bát. “Cậu ấy nói chuyện cũng khá vui tính. Từ ngữ của cậu có vẻ giống tiếng Anh, tuy là hơi khó hiểu. Nhưng dù sao mình cũng mừng vì cậu ấy đã tìm thấy mình,” nó hài lòng thở phào nhẹ nhõm.
Chẳng mấy chốc, cậu bé quay lại, tay trống trơn.
“Đi thôi, nhóc. Lên đường nào,” cậu bé gọi vui vẻ. “Tớ mà giàu, thì tớ đã thuê xe đưa cậu về rồi; nhưng mà tớ chả có đồng nào cả, nên chúng ta vẫn phải cuốc bộ thôi.”
Cả đoạn đường đi, hai đứa hầu như im lặng. Lần đầu tiên trong đời, Pollyanna cảm thấy quá mệt mỏi để nói chuyện, thậm chí có là nói về Hội Phụ nữ đi chăng nữa, mặc dù cậu bé đã cố tình chọn con đường ngắn nhất để đi. Khi đến được Vườn hoa công cộng, Pollyanna reo lên sung sướng:
“Ôi, cuối cùng cũng đến! Tớ nhớ chỗ này. Tớ đã có một buổi chiều tuyệt vời ở đây. Chỉ còn một đoạn ngắn nữa là về nhà rồi.” “Đúng rồi đấy! Bây giờ chúng ta sẽ đi về đó,” cậu bé cũng reo lên. “Tớ đã nói gì nào? chúng ta chỉ cần đi qua đây là đến đại lộ, sau đó việc tìm nhà là do cậu đấy.”
“Tớ có thể tìm ra ngôi nhà,” Pollyanna hớn hở trong tâm thế tự tin của một người vừa về tới chốn thân quen.
Trời đã xẩm tối khi Pollyanna dẫn hai đứa bước lên bậc thềm bề thế trước nhà Carew. Người trong nhà trả lời rất nhanh sau khi cậu bé nhấn chuông, rồi Pollyanna phát hiện mình không phải chỉ đối diện với mỗi Mary thôi mà còn cả phu nhân Carew, Bridget và Jennie nữa. Cả bốn
người phụ nữ mặt đều trắng nhợt với đôi mắt đầy lo lắng. “Cô bé con này, cháu đã ở đâu?” phu nhân Carew khẩn trương hỏi han. “Dạ, cháu... cháu chỉ đi dạo thôi,” Pollyanna bắt đầu nói, “cháu bị lạc, cậu bé này đã...”
“Cháu tìm thấy con bé ở đâu?” Phu nhân Carew cắt ngang, quay sang sẵng giọng với người đã hộ tống Pollyanna, lúc đó cậu bé đang ngưỡng mộ nhìn ngắm cái sảnh tuyệt đẹp mà mình đang đứng.
“Cháu tìm thấy ở đâu hả cậu bé?” Cô nhắc lại đanh thép. Trong một tích tắc, cậu bé nhìn thẳng cô không một chút nao núng; rồi bỗng mắt cậu sáng lên, giọng nói cậu bỗng trở nên nghiêm nghị. “Cháu thấy bạn ấy ở khu Quảng trường Bowdoin, nhưng chắc là bạn ấy đã đi qua khu North End, chỉ là bạn ý không hiểu tiếng của người Dago, nên cháu không nghĩ là bạn ấy đã chào hỏi họ nồng nhiệt, thưa bà.” “Ở North End ư? Một mình con bé sao! Pollyanna!” Phu nhân Carew rùng mình.
“Cháu đâu có một mình, cô Carew,” Pollyanna chống chế. “Ở đấy chẳng phải là có đầy người đấy thôi, đúng không cậu?”
Nhưng cậu bé với nụ cười tinh quái đã biến mất đằng sau cánh cửa. Suốt cả nửa tiếng đồng hồ sau đó, Pollyanna đã học được rất nhiều thứ. Nó được dạy rằng những cô bé không được đi dạo một mình ở những khu phố lạ, không được ngồi ở ghế công viên và nói chuyện với người lạ. Nó còn học được rằng, chỉ có “phép màu kỳ diệu” mới giúp nó về được đến nhà an toàn như vậy, rằng nó đã suýt gặp phải rất nhiều hậu quả cực kỳ tệ hại gây ra bởi sự ngu ngốc của nó. Nó học được Boston không phải là Beldingsville, nó không được cho là hai nơi giống nhau.
“Nhưng, cô Carew,” ngán ngẩm quá, cuối cùng nó cãi lại. “Cháu đã ở đây rồi, cháu không bị mất tích. Có lẽ cháu nên vui mừng thay vì suốt ngày nghĩ đến những việc tồi tệ có thể xảy ra chứ ạ.”
“Ừ, rồi, cô nhóc, ta cũng nghĩ thế, ta cũng nghĩ thế,” phu nhân Carew thở dài; “nhưng cháu làm ta sợ quá, và ta muốn cháu chắc chắn rằng, phải chắc chắn rằng cháu không bao giờ làm như thế nữa. Bây giờ thì đến đây nào, cháu yêu, cháu chắc phải đói lắm rồi.”
Đêm đó khi Pollyanna đi ngủ; nó tự lầm bầm với chính mình: “Điều tiếc nuối nhất là mình chưa hỏi tên cậu ấy và nơi cậu ấy sống. Giờ thì mình còn không thể nói lời cảm ơn cậu ấy!”
CHƯƠNG VII
MỐI QUAN HỆ MỚI
M
ọi nhất cử nhất động của Pollyanna đều được để ý cẩn thận sau chuyến đi dạo mạo hiểm của nó vào buổi chiều hôm đó; ngoại trừ lúc đi học, nó không được phép ra khỏi nhà trừ khi có Mary hay phu nhân Carew đi cùng. Chuyện này, đối với Pollyanna, lại không có gì đáng buồn cả, vì nó yêu quý cả phu nhân Carew lẫn Mary, thế nên nó vui khi được ở cạnh họ. Ban đầu, họ cũng khá thoải mái về thời gian. Đến cả phu nhân Carew, người vừa lo sợ những gì đã có thể xảy ra vừa nhẹ nhõm vì chúng đã không xảy ra, cũng cố gắng để chơi đùa cùng đứa trẻ.
Cứ thế, Pollyanna đã được đi đến các buổi hòa nhạc và nhạc kịch, tới Thư viện công cộng và Bảo tàng nghệ thuật cùng với phu nhân Carew; còn Mary đi cùng nó trong những chuyến “thăm quan Boston” rất thú vị, đến tòa Nghị viện và Nhà thờ cổ phía Nam.
Pollyanna thích ô tô bao nhiêu thì nó lại còn thích xe điện hơn bấy nhiêu; điều này khiến phu nhân Carew hết sức ngạc nhiên khi biết được vậy.
“Chúng ta sẽ đi bằng xe điện ạ?” Pollyanna háo hức hỏi.
“Không. Perkins sẽ đưa chúng ta đi,” phu nhân Carew trả lời. Sau đó, cô nhìn thấy sự thất vọng rõ ràng hiện trên khuôn mặt Pollyanna, cô ngạc nhiên hỏi: “Sao thế, ta tưởng cháu thích ô tô mà?”
“Vâng, đúng là cháu thích ô tô ạ,” Pollyanna nhanh nhảu đáp; “cháu không phản đối gì đâu ạ, dù sao thì dĩ nhiên là cháu biết đi ô tô rẻ hơn đi
xe điện, và...”
“Rẻ hơn xe điện sao!” Phu nhân Carew ngạc nhiên thốt lên. “Dạ, vâng,” Pollyanna giải thích với đôi mắt xoe tròn. “Đi xe điện mỗi người phải mất năm xu, còn ô tô thì không, bởi vì nó là xe của cô mà. Dù sao cháu cũng rất thích xe ô tô,” nó nhanh nhảu trước khi phu nhân Carew kịp mở miệng. “Chỉ là trên xe điện có rất nhiều người và nhìn họ rất thú vị! Cô có thấy thế không ạ?”
“À, không, Pollyanna ạ, ta nghĩ là không,” phu nhân Carew khô khan trả lời rồi quay đi.
Rồi tình cờ, chưa đến hai ngày sau, phu nhân Carew lại được nghe thêm về Pollyanna và xe điện, lần này là từ Mary.
“Thật là lạ lùng, thưa bà,” Mary thành thật trả lời câu hỏi của bà chủ, “cái cách tiểu thư Pollyanna làm thân với tất cả mọi người mà không tốn sức một chút nào thật lạ lùng. Cô ấy không phải làm gì cả. Cô ấy không làm gì hết. Cô ấy chỉ luôn vui vẻ, tôi thấy mỗi vậy. Tôi thấy cô ấy bước lên một chiếc xe điện đầy những người đàn ông và phụ nữ đang cau có, còn trẻ em thì gào khóc, nhưng rồi năm phút sau, bà sẽ không còn nhận ra nơi đó được nữa. Những đàn ông và phụ nữ thôi cáu kỉnh, còn trẻ con thì quên luôn cả việc khóc lóc. Có khi là do họ nghe thấy tiểu thư Pollyanna nói chuyện với tôi. Có khi là do câu “Cảm ơn” cô ấy nói khi có người nhường ghế, và lần nào họ cũng đều nhường ghế cho chúng tôi cả. Có khi là cách cô ấy cười với một em bé hay một chú cún con. Tất cả các chú cún đều vẫy đuôi khi nhìn thấy tiểu thư, và cả những em bé từ nhỏ tới lớn đều cười toe toét và đưa tay ra với tiểu thư. Nếu chúng tôi trễ chuyến thì đó là một câu chuyện cười, còn nếu bắt nhầm xe thì đó là chuyện hài hước nhất quả đất. Thế đấy. Mọi người không thể giữ vẻ cộc cằn với tiểu thư
Pollyanna được, dù cho đó là trên xe điện chật kín người và chẳng ai quen ai đi chăng nữa.”
“Hừm; có vẻ như vậy,” phu nhân Carew lẩm bẩm, rồi rời đi. Tiết tháng Mười năm đó khá ấm áp và quang đãng; khi những ngày nắng vàng rực rỡ kéo dài, thì việc theo kịp đôi chân háo hức của Pollyanna đúng là một nhiệm vụ mang tính thử thách đối với thời gian và sức kiên nhẫn của người khác. Phu nhân Carew là người có đầy thời gian nhưng không có một khắc kiên nhẫn, cô cũng không sẵn lòng cho phép Mary dành quá nhiều thời gian (dù cô ấy có rất kiên nhẫn đi nữa) để phục vụ mọi ý tưởng bất chợt của Pollyanna.
Để giữ chân được đứa trẻ này trong nhà vào tất cả các buổi chiều tháng Mười đẹp đẽ này là việc bất khả thi. Vì thế, chẳng được bao lâu mà Pollyanna lại một lần nữa đứng trong “khu vườn to lớn xinh đẹp” - Vườn hoa công cộng Boston - một mình. Nhìn thì có vẻ nó vẫn được đi lại tự do như trước, nhưng thực tế nó đang bị đóng khung bởi một hàng dài các quy định.
Nó không được phép nói chuyện với người lạ; không được phép chơi với trẻ con lạ; trong mọi trường hợp nó không được phép đi đâu ra khỏi vườn hoa trừ khi về nhà. Thêm vào đó, Mary, người đưa nó đến vườn hoa và để cho nó chơi ở đó, phải tuyệt đối đảm bảo rằng nó biết đường về nhà: nó phải biết góc phố giao nhau của Đại lộ Commonwealth với phố Arlington đi từ hướng nào của vườn hoa. Tuyệt đối phải về nhà ngay khi nghe tiếng chuông đồng hồ của nhà thờ điểm bốn giờ rưỡi.
Sau chuyện đó, Pollyanna thường tới vườn hoa hơn. Thỉnh thoảng, nó đi cùng những cô bé học cùng trường. Nhiều lúc nó đi một mình. Mặc dù chán chường vì những điều luật tẻ nhạt, bản thân nó vẫn cảm thấy khá vui
vẻ. Nó vẫn có thể nhìn ngắm mọi người kể cả khi không được phép nói chuyện; nó có thể nói chuyện với lũ sóc, những chú chim bồ câu và đàn chim sẻ, chúng rất háo hức với số hạt dẻ và lúa mạch mà nó đã chuẩn bị sẵn để mang theo mỗi khi tới.
Pollyanna lúc nào cũng tìm kiếm những người bạn cũ nó từng làm quen trong ngày đầu tiên: người đàn ông vui mừng vì vẫn còn đôi mắt, đôi chân và đôi tay, cô gái xinh đẹp không chịu đi cùng anh chàng điển trai; nhưng mãi mà nó không thấy. Nó thường hay thấy cậu bé ngồi xe lăn, nó ước nó có thể nói chuyện với cậu bé đó. Cậu bé cũng cho chim và sóc ăn, chúng quen với cậu đến mức những con chim bồ câu còn đậu lên vai và đầu cậu bé, còn lũ sóc thì lục lọi túi cậu tìm hạt dẻ. Pollyanna quan sát từ xa và luôn thấy lạ: dù cậu rất vui vẻ khi mở bữa đại tiệc cho chim và sóc, nhưng chẳng mấy chốc mà chỗ thức ăn hết sạch khiến cậu tỏ vẻ thất vọng y như lũ sóc sau khi không tìm thấy hạt dẻ nào nữa, nhưng chẳng bao giờ thấy cậu chịu mang nhiều thức ăn hơn vào hôm sau. Pollyanna thấy thế là khá thiển cận.
Khi cậu bé không chơi với chim và sóc, cậu thường ngồi đọc sách; lúc nào cậu cũng phải đọc gì đấy. Trên ghế của cậu lúc nào cũng có hai đến ba cuốn sách cũ, thỉnh thoảng là một hai tờ tạp chí. Lúc nào cũng chỉ thấy cậu ở một nơi duy nhất, Pollyanna thường tự hỏi làm cách nào cậu đến đó được. Vào một ngày không thể quên, nó đã phát hiện ra. Đó là vào dịp nghỉ lễ của trường, nó đến vườn hoa vào buổi sáng; ngay sau khi đến nơi nó đã thấy cậu bé ngồi xe lăn đang được đẩy đi trên đường bởi một cậu bé mũi hếch có mái tóc màu vàng cát. Nó nhìn chăm chăm gương mặt cậu bé có mái tóc vàng cát rồi chạy thẳng đến chỗ cậu bé mà mừng khôn tả.
“Ôi, cậu! Là cậu! Tớ biết cậu, mặc dù tớ không biết tên cậu. Cậu đã tìm
thấy tớ! Cậu có nhớ không? Ôi, tớ mừng vì được gặp lại cậu! Tớ đã rất muốn nói cảm ơn cậu đấy!”
“Ôi giời, nhóc con bị lạc sống ở Đại nộ đây mà!” cậu bé chế nhạo. “Thế nào, làm gì thế! Lại bị lạc à?”
“À, không!” Pollyanna khẳng định, nó không thể kìm được mà nhảy cẫng lên sung sướng. “Tớ không thể bị lạc nữa đâu, tớ phải ở yên đây mà. Tớ cũng không được nói chuyện với người lạ. Nhưng mà tớ có thể nói chuyện với cậu, vì tớ quen cậu rồi; tớ cũng có thể nói với cậu ấy, sau khi cậu giới thiệu tớ cho cậu ấy,” nó nói, rạng rỡ nhìn cậu bé khuyết tật và đứng im chờ đợi đầy hy vọng.
Cậu bé tóc màu vàng cát khẽ khúc khích cười, rồi vỗ vào vai cậu bé đang ngồi trên xe lăn.
“Có nghe thấy không hở? Là thật đúng không? Cứ đợi tớ dới thiệu cậu xong nhá!” Rồi cậu bắt đầu bằng một dáng vẻ phô trương. “Thưa quý cô, đây là bạn tôi, Ngài James, Huân tước con hẻm Murphy, và...” Cậu bé ngồi trên xe lăn ngăn lại.
“Jerry, đừng có đùa nữa!” cậu hét lên bực tức. Rồi cậu quay ra nhìn Pollyanna với gương mặt rạng rỡ. “Tớ đã nhìn thấy cậu tới đây nhiều lần rồi. Tớ thấy cậu cho lũ sóc và lũ chim ăn nữa; cậu mang cho chúng rất nhiều! Tớ nghĩ cậu thích Ngài Lancelot nhất. Dĩ nhiên còn có cả Phu nhân Rowena nữa, nhưng hôm qua nó bất lịch sự với Guinevere lắm. Ai lại đi cướp bữa ăn của bạn như thế cơ chứ?”
Pollyanna chớp mắt và cau mày, nhìn từ cậu bé này sang cậu bé kia đầy khó hiểu. Jerry lại cười khúc khích. Nó đẩy xe lăn nốt một đoạn đến vị trí thường ngày rồi quay đi. Cậu quay mặt ngoảnh lại qua vai rồi gọi Pollyanna:
“Này, nhóc, nói cho cậu biết một chút nhé. Thằng ranh này không say mà cũng không khùng đâu. Biết chưa? Đây là mấy cái tên nó đặt cho lũ bạn nhỏ của nó ở đây thôi,” rồi cậu chỉ tay về phía đám động vật lông vũ, lông thú đang tụ tập. “Lại còn chả phải tên của người thật nữa. Toàn là tên mấy nhân vật trong sách thôi. Biết chưa? Nó lại còn thích cho bọn chúng ăn hơn là cho mình ăn. Chả biết đằng nào mà lần? Chà chà, Ngài James,” cậu nhăn mặt nói thêm với cậu bé ngồi xe lăn. “Lượn đây, giờ thì coi chừng cái túi đồ ăn của cậu đấy! Gặp lại sau nhé.” Rồi nó rời đi.
Lúc Pollyanna vẫn đang còn chớp chớp mắt và nhăn mày thì cậu bé khuyết tật quay sang nhìn nó mỉm cười.
“Cậu đừng để ý Jerry. Cậu ấy hay thế lắm. Jerry sẵn sàng hy sinh vì tớ, cậu ấy sẵn sàng đấy; nhưng lúc nào cậu ấy cũng thích trêu chọc tớ. Cậu gặp cậu ấy ở đâu? Cậu ấy quen cậu à? Cậu ấy không nói với tớ tên cậu.”
“Tớ là Pollyanna Whittier. Tớ bị lạc và cậu ấy đã đưa tớ về nhà,” Pollyanna trả lời, nó vẫn đang còn hơi ngây người.
“Tớ hiểu rổi. Cậu ấy là thế,” cậu gật gù. “Chẳng phải hôm nào cậu ấy cũng đưa tớ tới đây sao?”
Trong mắt Pollyanna vụt lên tia đồng cảm.
“Cậu hoàn toàn không thể đi sao, Ngài James?”
Cậu bé cười vui vẻ.
“Hẳn là ‘Ngài James’! Jerry đùa đấy, tớ không phải Ngài gì đâu.” Pollyanna tỏ ra rất thất vọng.
“Không phải à? Cũng không phải là Huân tước, giống như cậu ấy nói à?”
“Chắc chắn là không.”
“Ôi, tớ cứ mong là thật, giống như tiểu Huân tước Fauntleroy ấy,” Pollyanna hớn hở. “Và...”
Nhưng cậu bé đã mau chóng cắt ngang lời nó.
“Cậu cũng biết tiểu Huân tước Fauntleroy à? Vậy cậu có biết Ngài Lancelot, Chén Thánh, Vua Arthur và Hội Bàn tròn, với Phu nhân Rowena, với Ivanhoe và cả những người khác không? Cậu có biết không?” Pollyanna lắc đầu mơ hồ.
“À, tớ e là tớ không biết hết họ đâu,” nó thừa nhận. “Họ đều ở trong sách à?”
Cậu bé gật đầu.
“Tớ có mang theo vài quyển đây,” cậu nói. “Tớ thích đọc đi đọc lại chúng. Lúc nào cũng có gì đấy mới mẻ ẩn chứa trong chúng. Với lại, tớ cũng không còn quyển nào khác. Đây đều là sách của cha tớ. Này, nhãi kia, thôi ngay!” Cậu bật cười, mắng mỏ con sóc đuôi xù lông vừa nhảy lên đùi cậu và đang chúi mũi vào cái túi. “Thiệt tình, chắc phải cho chúng ăn tối nếu không chúng sẽ ăn cả chúng ta mất,” cậu khúc khích cười. “Nó là Ngài Lancelot. Lúc nào nó cũng nhào lên đầu tiên.”
Không biết cậu lấy từ đâu một cái hộp nhỏ bằng bìa cứng rồi thận trọng mở ra, cẩn thận trước vô vàn những con mắt đang sáng lên quan sát theo từng hành động của cậu. Vây quanh cậu hiện tại là tiếng đập cánh phần phật, tiếng gù của bồ câu, tiếng ríu rít vui nhộn của lũ sẻ. Ngài Lancelot đang rất cảnh giác và háo hức đậu trên một bên thành ghế xe lăn. Lại thêm một chú sóc đuôi xù lông nữa, nhưng nó ít liều lĩnh hơn, ngồi khuỵu chân ngóng cách chỗ cậu năm bước chân. Con sóc thứ ba thì đang ríu rít ầm ĩ từ cành cây bên cạnh.
"""