" Phúc Lạc Hội - Amy Tan full mobi pdf epub azw3 [Tiểu Thuyết] 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Phúc Lạc Hội - Amy Tan full mobi pdf epub azw3 [Tiểu Thuyết] Ebooks Nhóm Zalo PHÚC LẠC HỘI Amy Tan Making Ebook Project BOOKAHOLIC CLUB Tên sách: PHÚC LẠC HỘI Tác giả: Amy Tan Dịch giả: Đăng Thu Hương, Phạm Thị Bích Thủy Nguyên tác: The Joy Luck Club Nhà xuất bản: Trẻ Năm xuất bản: 1993 Số trang: 363 Giá tiền: 3.000 Đồng Khổ: 13 x 19 cm Đánh máy: Hanki Nguyen, Ngọc Bích, Hạnh, Như Nguyệt, Minh Châu, Hồng Sơn Kiểm tra: Vy Duyên Chế bản ebook: Thảo Đoàn Ngày thực hiện: 15/01/2011 Making Ebook Project #84 - www.BookaholicClub.com Bạn đang đọc ebook PHÚC LẠC HỘI của tác giả Amy Tan do Bookaholic Club chế bản theo Dự án chế bản Ebook (Making Ebook Project). Mong rằng ebook này sẽ mang đến cho bạn một tác phẩm Văn học hay, giàu giá trị biểu cảm và nhân văn, với chất lượng cao. Chúng tôi luôn cố gắng mang đến những chế bản ebook tốt nhất, nếu trong quá trình chế bản có lỗi sai sót nào mong bạn góp ý và cho chúng tôi biết những ebook mà bạn đang mong muốn. Making Ebook Project của Bookaholic Club là một hoạt động phi lợi nhuận, nhằm mục đích mang đến những chế bản ebook hay, có giá trị với chất lượng tốt nhất mà chúng tôi có thể với Cộng đồng đọc - người Việt. Tuy nhiên, nếu bạn có khả năng xin hãy đọc tác phẩm này bằng sách trước hết vì lợi ích cho Nhà xuất bản, bản quyền tác giả và góp phần phát triển xây dựng nền Văn hóa đọc. Hãy chỉ đọc chế bản này trong điều kiện bạn không thể tìm đến ấn phẩm sách. MỤC LỤC GIỚI THIỆU CHƯƠNG I NHỮNG CHIẾC LÔNG CHIM TỪ NGÀN DẶM XA VŨ LINH MUỘI PHÚC LẠC HỘI TÔ AN MỸ VẾT SẸO CHUNG LINH ĐA NGỌN NẾN ĐỎ St. CLAIR CHÂN ẢNH HẰNG NGA CHƯƠNG 2 HAI MƯƠI SÁU CỬA ÁC CHUNG VĨ LÝ LUẬT CHƠI St. CLAIR LENA TIẾNG VỌNG TỪ BỨC TƯỜNG JORDAN TÔ HỒNG HAI NỬA VŨ LINH MUỘI HAI LOẠI CHƯƠNG 3 PHIÊN BẢN MỸ St. CLAIR LENA NGƯỜI CHỒNG MUA GẠO CHUNG VỸ LÝ TỨ PHƯƠNG JRDAN TÔ HỒNG MẠNG MỘC VŨ LINH MUỘI TUYỆT PHẨM CHƯƠNG IV PHẬT BÀ QUAN ÂM CỦA TRỜI TÂY TÔ AN MỸ LŨ CHIM ÁC LÀ St. CLAIR CHÂN ẢNH ĐỢI GIỮA GỐC CÂY CHUNG LINH ĐA HAI MẶT VŨ LINH MUỘI HAI CHIẾC VÉ VỀ NƯỚC GIỚI THIỆU AMY TAN sinh ở OAKLAND, CALIFORNIA vào năm 1952, hai năm rưỡi sau khi cha mẹ có nhập cư vào nước Mỹ. Mặc dù cha mẹ cô mong mỏi cô sẽ theo nghề bác sĩ giải phẫu thần kinh kiêm nghệ sĩ dương cầm nghiệp dư, cô lại trở nên bác sĩ tư vấn cho trẻ em tàn tật, và đồng thời là nhà văn tự do. Cô viếng quê hương Trung Hoa lần đầu tiên năm 1987 và thấy đúng như mẹ cô đã nói: “Ngay khi chân tôi chạm đất Trung Hoa, tôi lập tức trở thành người Trung Hoa”. AMY TAN hiện sống cùng chồng tại San Francisco. PHÚC LẠC HỘI là tác phẩm đầu tay của cô. Người Mỹ là thế nào? Và thế nào là một người phụ nữ, người mẹ, người con gái, người tình, người vợ, người chị, người bạn... Đấy là tất cả những chuỗi liên hệ phức tạp, yêu thương mà AMY TAN đã đúc nên trong 16 câu chuyện phối hợp chặt chẽ với nhau tạo nên quyển tiểu thuyết đầu tay xuất sắc này. Báo SAN FRANCISCO CHRONICLE. Khiêm tốn, cảm động và can đảm tuyệt vời, AMY TAN đã cho chúng ta thấy đất nước Trung Hoa, những người phụ nữ hai dòng máu Hoa - Mỹ và gia đình họ, cùng sợi dây liên hệ kỳ bí giữa mẹ và con gái mà chúng ta chưa từng biết đến trước đây. Báo CHIGAGO TRIBUNE Ðầy chất mơ hồ ngọt đắng của đời thường. Báo NEWSDAY Mạnh mẽ... đầy ma lực... Bạn sẽ không làm được việc gì quan trọng trước khi bạn đọc xong quyển sách này. Báo LOS ANGELES TIMES BOOK REVIEW Nguyên bản : THE JOY LUCK CLUB (NXB : IVY BOOKS - NEW YORK - 1990) NHÂN VẬT MẸ CON GÁI Vũ Tố Uyên Vũ Linh Muội Tô An Mỹ Jordan Tô Hồng Chung Linh Đa Chung Vĩ Lý St Clair Chân Ảnh St. Clair Lena Tặng mẹ tôi và những hồi ức của mẹ Con đã có lần hỏi Mẹ Rằng Mẹ sẽ nhớ gì. Này đây, và còn nhiều nữa. CHƯƠNG I NHỮNG CHIẾC LÔNG CHIM TỪ NGÀN DẶM XA Bà lão nhớ lại chuyện con thiên nga mà bà mua hồi xa xưa ở Thượng Hải bằng một số tiền điên rồ. Con chim này, theo lời khoe của người bán ở chợ, trước kia là một chú vịt đã cố rướn cổ dài ra, hy vọng trở thành thiên nga, và bây giờ, nhìn kìa - nó đẹp đẽ quá, làm sao mà mà nỡ ăn thịt nó! Rồi bà và con thiên nga đã vượt qua hàng dặm biển, cố vươn về phía nước Mỹ. Trên cuộc hành trình, bà thủ thỉ với con thiên nga “Ở Mỹ, ta sẽ có một đứa con gái giống như mi. Nhưng ở đó sẽ không ai cho rằng giá trị của con ta được tính bằng mức ăn to nói lớn của chồng nó. Ở đó sẽ không ai khinh dễ nó, bởi vì ta sẽ bắt nó nói tiếng Anh đặc giọng Mỹ. Và ở đó nó sẽ quá no đủ không còn nuốt được một nỗi buồn nào! Nó sẽ biết ta muốn nói gì, bởi vì ra sẽ cho nó con thiên nga này - một tạo vật; tốt hơn hẳn những điều người ta mong mỏi.” Nhưng khi bà đến đất nước mới, các nhân viên nhập cư đã giật con thiên nga ra khỏi tay bà, để lại trên đôi tay chới với của bà độc nhất một chiếc lông chim làm kỷ niệm. Và rồi bà phải điền vào quá nhiều biểu mẫu đơn từ đến nỗi bà quên mất vì sao bà đến đây và những gì bà để lại phía sau. Giờ thì bà đã già. Và bà có một cô con gái lớn lên chỉ nói toàn tiếng Anh và uống Coca-Cola nhiều hơn là nuốt đi nỗi buồn. Từ lâu, bà muốn trao cho cô ta chiếc lông chim duy nhất đó và bảo cô “Chiếc lông chim này trông có vẻ vô giá trị, nhưng nó đã từ xa đến đây và chất chứa tất cả thiện ý của mẹ”. Bà đã chờ đợi, năm này qua năm khác, chờ đến ngày bà có thể kể cho con gái nghe điều này bằng tiếng Anh, đặc giọng Mỹ. VŨ LINH MUỘI PHÚC LẠC HỘI Ba tôi bảo tôi giữ chân thứ tư trong PHÚC LẠC HỘI. Tôi sẽ thế chỗ mẹ tôi. Từ khi bà chết, chỗ của bà ở bàn mạt chược bỏ trống đã hai tháng nay. Ba tôi cho rằng chính những suy nghĩ của mẹ tôi đã giết chết bà. Ông nói: “Mẹ con có một ý mới trong đầu. Trước khi mẹ con có thể nói ra, ý nghĩ đó đã phát triển quá lớn và vỡ tung, chắc hẳn đó là một ý nghĩ chẳng hay ho tí nào.” Bác sĩ nói mẹ tôi chết bởi chứng phình mạch não. Và những người bạn của mẹ tôi ở PHÚC LẠC HỘI nói bà chết y như một con thỏ: chết một cách nhanh chóng và để lại công việc còn đang dở. Kỳ họp mặt tới của PHÚC LẠC HỘI là tới phiên mẹ tôi đãi đằng. Trước khi chết một tuần, bà gọi tôi, đầy tự hào và sức sống, bà nói: “Dì Linh nấu chè đậu đỏ. Mẹ sẽ nấu chè chế mè phủ”. “Thôi đừng phô trương, mẹ ơi”. “Không phải là phô trương” - bà nói, hai loại chè gần giống nhau, chabudwo. Hoặc là bà có thể nói butong, chẳng giống nhau tí nào hết. Ðây là một trong những cách nói của người Hoa có nghĩa là phần tốt hơn của những ý nghĩ lẫn lộn. Tôi không thể nào nhớ được những gì mà từ thoạt đâu tôi đã không hiểu. Mẹ tôi bắt đầu có ý tưởng lập PHÚC LẠC HỘI ở San Francisco vào năm 1949, trước khi sinh tôi hai năm. Ðó là năm cha mẹ tôi chạy khỏi Trung Quốc chỉ mang theo một chiếc giỏ bằng da cứng chứa đầy những áo dài lụa lạ kỳ. “Không có thời giờ xếp những thứ khác”, mẹ tôi đã giải thích như thế với cha tôi. Sau khi hai người lên tàu. Tuy nhiên, cha tôi vẫn điên cuồng bới tay giữa những tấm lụa trơn để tìm những chiếc áo vải và quần len của mình. Khi đến San Francisco, cha tôi bắt mẹ tôi giấu mớ quần áo bóng bẩy này. Mẹ tôi mặc mỗi chiếc áo xẩm carô nâu đến khi Hội Cứu Tế Người Tị Nạn bố thí cho bà hai chiếc áo cũ, cả hai đều lớn quá cỡ ngay cả cho phụ nữ Mỹ. Hội Cứu Tế bao gồm một nhóm nữ truyền giáo đã lớn tuổi ở nhà thờ rửa tội cho người Trung Hoa đầu tiên. Và vì đã nhận quà, cha mẹ tôi không thể từ chối mời lời gia nhập giáo phái của họ. Hơn nữa, cha mẹ tôi không thể bỏ qua lời khuyên rất thiết thực của những phụ nữ lớn tuổi này. Cha mẹ tôi có thể học thêm tiếng Anh ở lớp học kinh thánh vào tối thứ tư hàng tuần và sau này, hát hợp xướng mỗi sáng thứ Bảy hàng tuần. Ðó là lý do mẹ tôi gặp gia đình họ Tô, họ Chung và họ St. Clair. Mẹ tôi có cảm giác là những người đàn bà trong những gia đình này cũng đã trải qua những nỗi khổ không tả xiết bên Trung Hoa và có những hy vọng họ không thể nào diễn tả được bằng tiếng Anh ít ỏi của mình. Hay ít nhất, mẹ tôi nhận ra được vẻ chết lặng trên khuôn mặt những người đàn bà này. Và bà thấy họ mừng rỡ thế nào khi bà đề xuất ý kiến lập PHÚC LẠC HỘI. PHÚC LẠC là ý nghĩ mẹ tôi nhớ được từ thời bà mới lấy chồng lần đầu ở Quế Lâm, trước khi bọn Nhật tới. Do đó, tôi nghĩ tới PHÚC LẠC như câu chuyện Quế Lâm của bà. Đó là câu chuyện bà thường kể cho tôi nghe mỗi khi bà buồn, mỗi khi không có chuyện gì làm, mỗi khi rửa chén và lau bàn xong, mỗi khi cha tôi đọc báo, hút hết điếu Pall Mall này tới điếu Pall Mall khác, đó là dấu hiệu không được quấy rầy ông. Những lúc đó, mẹ tôi lấy ra cái hộp đựng áo len trượt tuyết cũ do họ hàng chẳng bao giờ gặp bên Vancouver gởi qua. Bà thường cất lại một chiếc áo len, kéo ra một sợi chỉ quăn và đặt sợi chỉ lên một miếng bìa cứng. Và khi bà bắt đầu quấn chỉ nhanh nhẹn, nhịp nhàng, bà bắt đầu kể chuyện. Mười mấy năm ròng rã, bà chỉ kể cho tôi nghe một câu chuyện duy nhất, trừ phần kết thúc câu chuyện ngày càng đen tối hơn, ám ảnh đời bà dai dẳng và cuối cùng, ám ảnh cả đời tôi. “Ta mơ thấy Quế Lâm ngay cả trước khi ta thấy tận mắt”, mẹ tôi bắt đầu kể bằng tiếng Hoa - “Ta mơ thấy những đỉnh núi lởm chởm chạy dài theo một con sông uốn khúc, hai bên bờ phủ rêu xanh rờn. Sương mù trắng lơ lững trên những đỉnh núi. Và nếu như ta thả mình theo dòng nước và lấy rêu làm thức ăn, ta sẽ có đủ sức leo lên tới đỉnh núi. Nếu như không may ta trượt té, ta chỉ ngã vào một thảm rêu êm như nhung và cười lớn. Nhưng một khi ta lên được tới đỉnh, ta có thể nhìn khắp xung quanh và cảm thấy một niềm hạnh phúc vô biên để cả đời không bao giờ cảm thấy lo lắng nữa.” Bên Trung Quốc, mọi người đều mơ về Quế Lâm. Khi ta tới đó, ta mới nhận thấy giấc mơ của ta mới tồi tàn và ý nghĩ của ta mới nghèo nàn làm sao. Khi ta thấy những ngọn đồi, ta vừa cười vừa rùng mình. Những đỉnh núi trông như những đầu cá chiên khổng lồ cố nhảy ra khỏi thùng dầu. Phía sau mỗi ngọn đồi, ta có thể nhìn thấy bóng của một con cá khác, rồi một con khác nữa. Và khi những đám mây chỉ lay động một chút thôi thì bỗng nhiên những ngọn đồi biến thành một đàn voi kỳ quái đang chậm rãi tiến về phía ta. Con có thể tưởng tượng được không? Và ở chân đồi là những hang động bí mật. Bên trong có những tảng đá treo có hình dáng và màu sắc như cải bắp, dưa tây, củ cải, củ hành. Con sẽ chẳng bao giờ có thể tưởng tượng được những tảng đá này kỳ lạ và đẹp đẽ đến dường nào. Nhưng ta không đến Quế Lâm để ngắm cảnh đẹp. Người đàn ông đã từng là chồng ta mang ta và hai con đến QUẾ LÂM vì ông nghĩ rằng chúng ta sẽ an toàn ở đó. Ông là một sĩ quan trong quân đội Quốc Dân Ðảng, và sau khi ông an vị chúng ta trong một căn phòng nhỏ ở một căn nhà hai tầng, ông lại ra đi về hướng Tây - Bắc, đến Trùng Khánh. Chúng ta biết là bọn Nhật đang thắng thế, ngay cả khi báo chí nói không phải vậy. Mỗi ngày, mỗi giờ, hàng ngàn người đổ về thành phố, chen chúc trên vỉa hè, cố tìm chỗ sinh sống. Nghèo có, giàu có, người Thượng Hải có, người Quảng Ðông có, người từ phía Bắc có, và không chỉ người Hoa, mà có cả người ngoại quốc và những vị truyền giáo của đủ thứ tôn giáo. Và dĩ nhiên là có cả Quốc Dân Đảng và những sĩ quan trong quân đội, những người này nghĩ là họ phải hơn hẳn những người khác. Chúng ta là một đám người ô hợp bị bỏ lại phía sau. Giả sử không có bọn Nhật, chắc hẳn sẽ có rất nhiều lý do để những người này đánh nhau. Con có hiểu không? Người Thượng Hải với nông dân vùng biển phía Bắc, thợ rẫy với thợ hớt tóc, phu kéo xe với người tị nạn từ Miến Ðiện. Người này khinh người kia. Chẳng ai để ý là mọi người đều ở chung trên một vỉa hè để khạc nhổ, đều cùng bị dịch tả hoành hành. Ai cũng hôi hám, nhưng người này cứ than phiền người kia hôi nhất. Còn ta? Ta chúa ghét bọn sĩ quan không quân Mỹ cứ suốt ngày bô bô habba - habba, làm ta phải đỏ mặt. Nhưng tệ nhất là bọn nông dân miền Bắc hỉ mũi vào tay, chen lấn với người khác và cuối cùng lây bệnh cho người khác. Do đó, Quế Lâm mất hết vẻ thơ mộng đối với ta. Ta không còn leo lên đỉnh núi để thốt lên rằng những ngọn đồi này mới đáng yêu làm sao! Ta chỉ tự hỏi, bọn Nhật đã đến được những ngọn đồi nào. Ta thường ngồi chờ trong bóng tối của căn nhà, hai tay ẵm hai con, sẵn sàng chạy. Khi còi báo động có máy bay rít lên ta và mấy người bên cạnh đứng bật dậy và hối hả chạy về phía hàng sau để trốn như thú rừng. Nhưng con không thể ở lâu trong bóng tối. Cái gì đó trong con mờ dần và con như trở thành một người chết đói, thèm khát ánh sáng đến điên cuồng. Bên ngoài, ta có thể nghe thấy tiếng bom. Bùm! Bùm! Và rồi tiếng đá rơi như mưa. Và bên trong, ta chẳng còn thèm khát những tảng đá có hình bắp cải hay củ cải. Ta chỉ có thể thấy lòng một ngọn đồi cổ xưa nhỏ nước, lúc nào cũng có thể đổ sập lên đầu ta. Con có thể tưởng tượng được như thế này không, không muốn ở bên trong, cũng không muốn ở bên ngoài, không muốn ở đâu cả, chỉ muốn biến đi. Khi tiếng ném bom chỉ còn ở xa xe, chúng ta lại chui ra như những con mèo con tìm đường về thành phố. Và lúc nào cũng vậy, ta rất ngạc nhiên khi thấy những ngọn đồi trên nền trời nóng bỏng đã không bị xé toạc ra. Ta đã nghĩ ra PHÚC LẠC HỘI vào một tối mùa hè nóng đến nỗi muỗi cũng rơi xuống đất, cái nóng ẩm ướt làm cho cánh chúng quá nặng. Khắp nơi đều đông đúc đến nỗi không thể hít thở không khí trong lành. Mùi cống rãnh không chịu nổi dâng lên cửa sổ lầu hai của ta, và không biết đi đâu, chúng bèn chui vào mũi ta. Suốt cả ngày đêm, ta luôn nghe những tiếng hét la. Ta không biết có phải đó là tiếng một người nông dân gào rát cổ tìm heo đi lạc hay tiếng người sĩ quan đánh đập một người nông dân gần chết vì nằm giữa đường đi của hắn trên vỉa hè. Ta không đi đến cửa sổ để tìm xe. Ích gì? Và đó là lúc ta nghĩ mình đâu phải có người giúp đỡ mới di chuyển nổi. Ta có ý định tụ tập một nhóm bốn phụ nữ, mỗi người giữ một tay ở bàn mạt chược của ta. Ta biết mình muốn mời những người nào. Họ đều còn trẻ như ta, gương mặt đầy khát vọng. Một người là vợ sĩ quan quân đội, giống như ta. Một người là một cô gái dáng điệu rất thanh lịch, xuất thân từ một gia đình giàu có ở Thượng Hải. Cô đã trốn đi, mang theo chỉ một ít tiền bạc. Còn một cô nữa, từ Nam Kinh tới, có mái tóc đen nhánh, ta chưa từng thấy bao giờ. Cô này xuất thân từ một gia đình cấp thấp, nhưng xinh đẹp và vui vẻ. Cô lấy một ông chồng già, sau ông chết để cô ở lại với một cuộc sống khá hơn. Cứ mỗi tuần, một người trong nhóm của ta mời bạn bè họp lại để có dịp phát tài và cũng để phấn chấn tinh thần. Người chủ nhà phải đãi thức ăn đặc biệt, ngõ hầu mang lại may mắn khắp mọi mặt: Bánh bao mang hình nén bạc, bún gạo cọng dài chúc sống lâu, đậu phộng nấu mong sinh con trai, và dĩ nhiên còn có thêm nhiều cam để cuộc sống được đầy đủ, ngọt ngào. Với khả năng đạm bạc mà bọn ta đãi đằng nhau tươm tất đến thế đấy! Bọn ta không để ý rằng bánh bao được nhồi nhân bí, xắt dày, và cam thì lốm đốm đầy những lỗ có sâu. Bọn ta ăn dè xẻn, không phải vì dường như không có đủ thức ăn, nhưng để có thể phân trần vì sao không cắn thêm được miếng nữa, bọn ta phải tự nhồi đầy bụng từ sáng sớm. Bọn ta biết mình có được những thứ xa xỉ mà ít người đạt tới. Bọn ta là những người may mắn. Sau khi no bụng, bọn ta bỏ tiền vào đầy một cái bát và mang đặt trước mặt mọi người. Rồi bọn ta ngồi vào bàn mạt chược. Chiếc bàn của dòng họ nhà ta bằng gỗ đỏ rất thơm, không phải loại gỗ gõ đâu, đấy là loại gỗ hồng đào rất tốt, chưa thấy có tên gọi tiếng Anh về loại gỗ này. Mặt bàn rất dày, khi những quân bài được tung lên bàn, người ta chỉ còn nghe tiếng những thỏi ngà chạm vào nhau. Một khi bọn ta đã bắt đầu chơi, không ai chuyện trò gì với nhau, trừ khi kêu lên “Hên quá!”, hoặc “Ăn rồi!”. Khi cầm một quân bài lên, bọn ta phải chơi một cách nghiêm túc và chẳng nghĩ ngợi đến điều gì khác, ngoại trừ niềm vui khi thắng cuộc. Nhưng sau 16 ván, bọn ta lại ăn uống, lần này là để ăn mừng vận may. Và rồi bọn ta sẽ trò chuyện qua đêm cho tới sáng, kể chuyện về những ngày vui trong quá khứ và những ngày vui sẽ đến. Ồ! Chuyện kể hay làm sao! Bọn ta cười gần chết đi được. Nào là chuyện con gà trống chạy vào nhà, quang quác kêu lên trên đống bát chén mà ngay ngày hôm sau nó lại bị xẻ thịt ra từng miếng để cho vào đấy. Chuyện về cô gái đã viết thư tình giùm cho hai người bạn cùng yêu một chàng. Và chuyện một bà người nước ngoài đã ngất xỉu trong nhà vệ sinh khi người ta đốt pháo gần đó. Có người cho rằng bọn ta sai lầm khi yến tiệc mỗi tuần, trong lúc nhiều người trong thành phố bị chết đói, phải ăn cả chuột, và sau đó còn ăn đến những thứ mà lũ chuột đói khát nhất đã từng dùng để ăn. Người khác lại nghĩ rằng bọn ta bị quỉ ám - họp mặt liên hoan trong khi ngay cả chính gia đình của bọn ta cũng bị mất đi nhiều thế hệ, mất nhà cửa và cơ may, bị phân tán, vợ xa chồng, anh xa em, con xa mẹ. Hừ! Làm sao bọn ta lại có thể cười được nhỉ? Người ta tự hỏi thế. Không phải bọn ta không có tim, không có mắt, nên không biết đau. Tất cả bọn ta đều sợ hãi. Tất cả bọn ta đều khổ sở. Nhưng mơ ước lấy lại những gì đã bị mất đi thì sẽ thất vọng. Hoặc kéo dài những gì đã không chịu đựng nổi. Người ta mơ được bao nhiêu về một chiếc áo ấm từng yêu thích đã treo trong tủ, đặt nơi ngôi nhà cháy rụi mà có cả cha mẹ mình trong đó? Người ta hình dung được bao lâu trong đầu về cảnh chân tay bị treo lên bằng dây điện thoại và cảnh những con chó đói chạy rong xuống phố với bàn tay người đang nhai dỡ, ngậm ló ra ở mõm? Điều gì tệ hơn, bọn ta tự hỏi nhau, ngồi và đợi cái chết đến bằng những gương mặt sầu não đúng điệu? Hoặc chọn lấy một niềm an ủi riêng cho mình? Vì thế bọn ta mở tiệc và giả vờ mỗi tuần đều bắt đầu năm mới. Mỗi tuần, bọn ta có thể quên đi những điều tệ bạc của ngày qua. Bọn ta không được phép nghĩ quẩn. Bọn ta liên hoan, cười đùa, chơi bài, thắng và thua, kể cho nhau nghe những câu chuyện hay nhất và mỗi tuần, bọn ta có thể hy vọng gặp may. Niềm hy vọng ấy là niềm vui độc nhất của bọn ta. Và vì thế, bọn ta gọi nhóm người nhỏ của mình là PHÚC LẠC HỘI.” Mẹ tôi chấm dứt câu chuyện bằng một điểm lưu ý, bà khoe về tài chơi bài của mình: “- Ta thắng hoài và may mắn nhiều đến nổi những người khác trêu ta rằng ta đã học được ngón nghề của một tên bịp đại tài”. - Bà nói: “- Ta đã thắng nhiều vạn Nhân dân tệ. Nhưng ta chẳng giàu có gì. Không đâu. Vào thời đó, tiền giấy xem như vô giá trị.” Tôi chưa bao giờ nghĩ rằng câu chuyện kể về Quế Lâm như một điều gì khác hơn là một câu chuyện cổ tích Trung Hoa. Các đoạn kết luôn luôn thay đổi. Đôi khi bà bảo, bà đã dùng tờ giấy bạc 1.000 Nhân dân tệ vô giá trị đó để mua nửa bát gạo. Rồi bà lại đổi nửa bát gạo đó thành một nồi cháo. Bà đem bán cháo, lấy hai khúc móng giò heo. Hai chiếc móng giò heo trở thành sáu quả trứng, rồi trứng biến thành sáu con gà. Câu chuyện cứ thế luôn luôn phát triển thêm lên. Một buổi tối nọ, tôi năn nỉ bà mua cho tôi một chiếc radio transitor. Sau khi bà từ chối và tôi mặt ủ mày chau lặng thinh hằng giờ, bà bảo: - “Tại sao con lại nghĩ rằng con thiếu một vật con chưa từng có?” - Và rồi bà kể cho tôi nghe một đoạn kết hoàn toàn khác. “Một sĩ quan quân đội đến nhà ta vào một buổi sáng sớm”, - bà nói. - “Và bảo ta đi nhanh đến gặp chồng ở Trùng Khánh. Ta biết những gì đã xảy ra cho sĩ quan và gia đình của họ khi quân Nhật đến. Nhưng làm sao ta đi được? Không có xe lửa khởi hành ở Quế Lâm. Một người bạn của ta từ Nam Kinh đến, rất tử tế với ta. Cô ta hối lộ một người để đánh cắp chiếc xe đẩy dùng để kéo than. Cô ta cũng hứa sẽ báo cho các bạn bè khác biết. Ta gói ghém vật dụng và đặt hai đứa con của ta vào trong chiếc xe và bắt đầu đẩy tới Trùng Khánh, bốn ngày trước khi bọn Nhật tiến vào Quế Lâm. Trên đường đi, ta nghe tin nhiều người bị tàn sát. Thật là khủng khiếp. Ngay đến ngày cuối cùng, Quốc Dân Ðảng vẫn còn nhất mực cho rằng Quế Lâm vẫn an toàn, và được quân đội Trung Quốc bảo vệ. Nhưng sau đó, trong ngày, đường phố Quế Lâm tràn ngập báo chí đưa tin về các chiến thắng của Quốc Dân Ðảng vĩ đại, và trên đầu những trang báo này, từng hàng người, đàn ông, đàn bà, trẻ nít nằm xếp lớp như cá ở chợ, những người không bao giờ đánh mất hy vọng, nhưng thay vào đó đã đánh mất mạng sống của mình. Khi ta nghe tin này, ta càng vào bước nhanh thêm, mỗi bước lại tự hỏi mình: Họ điên à? Hay họ can đảm? Và ta đẩy xe chạy mãi về Trùng Khánh, cho đến khi chiếc xe của ta bị vỡ ra. Ta bỏ lại chiếc bàn chơi mạt chược bằng gỗ hồng đào tuyệt đẹp. Nhưng ta không còn đủ cảm xúc còn lại trong người để bật khóc. Ta cột khăn choàng lại thành những tay nải và mang trên vai mỗi bên một đứa con. Ta xách túi trong tay, một tay là quần áo, một tay là thức ăn. Ta xách những thứ này cho đến khi tay ta khía sâu những vết hằn. Và cuối cùng, ta đánh rơi từng túi khi tay ta bật máu và tự nhiên trơn tuột không cầm nổi vật gì. Dọc đường, ta thấy những người khác cũng làm như vậy, họ dần dần từ bỏ hy vọng. Con đường giống như được khảm bởi các kho tàng. Từng sàng vải vóc, sách vở. Tranh ảnh về tổ tiên và dụng cụ thợ mộc. Mãi đến khi người ta có thể thấy các chuồng vịt, giờ phút này vịt im bặt vì khát nước và sau đó lại thấy các bình bằng bạc bỏ lăn lóc trên đường, nơi đó người ta quá mệt mỏi không còn muốn mang chúng theo để hy vọng gì ở tương lai. Vào lúc ta đến Trùng Khánh, ta đã đánh mất tất cả mọi thứ ngoại trừ ba chiếc áo lụa lộng lẫy mà ta mặc chồng vào nhau trên người. - Mẹ bảo “mọi thứ” nghĩa là sao? - Tôi thảng thốt ở đoạn kết. Tôi sững sờ khi nhận biết được câu chuyện đúng là có thật - Còn về phần hai đứa bé ra sao? Bà không ngừng lại chút nào để suy nghĩ, bà nói một cách đơn giản, cho thấy câu chuyện không còn gì để kể thêm nữa - “Cha của con không phải là người chồng đầu tiên của ta. Con không phải là mấy đứa bé đó”. * * * Khi tôi đến nhà họ Tô, nơi PHÚC LẠC HỘI họp mặt tối nay, người đầu tiên tôi gặp là cha tôi. - “Cô ấy đến rồi đấy! Không bao giờ đúng giờ” - cha tôi kêu lên. Đúng vậy. Mọi người đã tề tựu sẵn nơi đây, bảy người bạn của gia đình trong độ tuổi sáu mươi và bảy mươi. Họ nhìn lên và cười với tôi, luôn luôn chậm trễ, một đứa ở tuổi ba mươi sáu thế đấy. Tôi rùng mình, cố kềm hãm nội tâm. Lần trước tôi gặp họ tại đám tang, khi ấy tôi đang suy sụp tinh thần và khóc nghẹn từng cơn. Ắt hẳn giờ đây họ đang tự hỏi làm thế nào mà một người như tôi có thể thay chỗ mẹ tôi được. Một người bạn đã có lần bảo tôi rằng tôi và mẹ tôi giống nhau, rằng chúng tôi đều có những cử chỉ xoắn tay giống nhau, cũng một nụ cười e ấp thiếu nữ, và tia mắt nhìn nghiêng. Khi tôi bẽn lẽn kể cho mẹ tôi nghe như vậy, bà có vẻ phật lòng và nói: “Con chẳng biết một chút gì về ta cả! Làm sao mà con là ta được?”. Và bà đã đúng. Làm sao tôi có thế là mẹ tôi ở tại PHÚC LẠC HỘI? - Chào dì, chào dượng. Tôi liên tục gật đầu chào từng người ở dây. Tôi đã quen gọi những người bạn cũ của gia đình là Dì và Dượng. Ðoạn tôi bước đến, đứng cạnh cha tôi. Gian nhà họ TÔ sực nức mùi dầu mỡ. Rất nhiều bữa ăn của người Trung Hoa được nấu nướng trong một gian bếp quá nhỏ hẹp, quá nhiều mùi thơm xào nấu quyện vào nhau thành một làn hơi dầu mỡ vô hình. Tôi còn nhớ mẹ tôi đã từng đi vào nhà của những người khác và các quán ăn, khỉnh mũi và thì thào nhận xét: - “Ta thấy được và cảm thấy được mùi dính đặc bằng mũi của ta”. Ðã nhiều năm rồi tôi chưa đến nhà họ TÔ, nhưng gian phòng khách vẫn giữ y nguyên như trong trí nhớ của tôi. Hai mươi lăm năm về trước, khi dì An Mỹ và dượng Giang dời nhà từ khu phố Tàu đến quận Sunset, họ mua sắm bàn ghế mới. Giờ chúng vẫn còn đây, trông vẫn hãy còn mới dưới lớp nilon ngả vàng. Cũng vẫn chiếc trường kỷ màu xanh biếc hình bán nguyệt bọc vải len. Những chiếc bàn bằng gỗ phong dày. Chiếc đèn cẩn các mảnh sứ giả. Chỉ có mành cuốn làm theo chiều dài, được Ngân hàng Quảng Ðông biếu không là còn thay đổi theo mỗi năm. Tôi nhớ rõ hết các đồ đạc này, vì khi tôi còn nhỏ, dì An Mỹ không cho chúng tôi sờ đến những bàn ghế mới của dì qua lớp nilon trong suốt bọc bên ngoài. Vào các đêm PHÚC LẠC HỘI tụ họp, cha mẹ tôi đưa tôi đến viếng gia đình họ Tô. Bởi vì tôi là lớn, tôi phải chăm sóc tất cả lũ trẻ, quá đông trẻ nít, nên dường như luôn luôn có một đứa khóc ré lên vì va đầu vào chân bàn. - Con chịu trách nhiệm đấy! - Mẹ tôi bảo. Thế có nghĩa là tôi sẽ bị quở trách nếu có vật gì bị đánh bể, cháy khét, mất mát, rơi vỡ hoặc lấm lem dơ bẩn. Tôi phải chịu trách nhiệm, dù bất kỳ ai gây ra. Mẹ tôi và dì An Mỹ diện áo dài Trung Quốc trông buồn cười với cổ cao cứng ngắc và những cành hoa thêu dính trên ngực. Y phục này rất rực rỡ đối với người Trung Hoa, tôi nghĩ, và rất lạ lùng đối với người Mỹ. Trong những ngày đó, trước khi mẹ tôi kể cho tôi nghe câu chuyện về Quế Lâm, tôi tưởng tượng PHÚC LẠC HỘI là một hội đáng xấu hổ như hội kín của đảng 3K hoặc chương trình múa tom - tom của người Da Đỏ trên truyền hình khi chuẩn bị chiến tranh. Nhưng đêm nay, không có gì là bí ẩn cả. Các dì trong PHÚC LẠC HỘI thảy đều mặc quần tây, áo kiểu in hoa màu sáng, và mang giày đủ kiểu. Tất cả chúng tôi ngồi quanh chiếc bàn ăn dưới ngọn đèn trông như chùm đèn nến Tây Ban Nha. Dượng Giang mang bình vào và bắt đầu buổi họp bằng bài đọc biên bản, như sau: - Tài khoản vốn của chúng ta hiện giờ có 24.825 đôla, tức mỗi cặp có khoảng 6.206 đôla, 3.103 đôla mỗi người. Chúng ta bán lỗ cổ phần ở Subaru và chúng ta mua 100 cổ phần ở Công ty Smith International. Chúng ta xin cảm ơn Chung Linh Ða và Ty về món chè đậu đỏ ngon đặc biệt. Cuộc họp tháng ba được hoãn lại cho đến khi có thông báo mới. Chúng ta rất tiếc phải quyến luyến chia tay bạn thân của chúng ta là Tố Uyên và xin chia buồn cùng gia đình Vũ Cẩm Ninh. Xin kính chào quí vị. Tô Giang, Hội trưởng kiêm thư ký. Thế đấy. Tôi cứ nghĩ là mọi người sẽ bắt đầu nói chuyện về mẹ tôi, về tình bạn tuyệt vời mà họ đã chia sẻ cùng nhau, và tại sao tôi lại ở đây thay mặt cho bà, và tiếp tục thực hiện ý định bà đã nghĩ ra vào một ngày mùa hè ở Quế Lâm. Nhưng mọi người chỉ gật đầu tán đồng biên bản. Cha tôi cũng gật gù theo thói quen. Tôi nghĩ câu chuyện về cuộc đời của mẹ tôi đã được mọi người gác lại để cùng lo việc làm ăn mới. Dì An Mỹ đứng lên khỏi bàn khoan thai bước vào bếp để chuẩn bị thức ăn. Dì Linh, người bạn thân nhất của mẹ tôi, bước đến chiếc trường kỷ bọc len xanh biếc. Dì Chân Ảnh, lúc nào tôi cũng thấy dì co ro, đang với tay lấy chiếc giỏ và lôi ra một chiếc áo len xanh, nhỏ xíu, vừa được đan những mũi dạo đầu. Các cậu trong PHÚC LẠC HỘI bắt đầu nói chuyện về các loại chứng khoán họ đang quan tâm định mua. Cậu Bách, em trai của dì Chân Ảnh là một tay giỏi làm việc trong một công ty khai thác vàng nọ ở Canada. Cậu cất tiếng dõng dạc: - Lạm phát đã được ngăn chặn nhiều rồi đấy. Cậu nói tiếng Anh giỏi, hầu như không nhấn giọng. Tôi nghĩ mẹ tôi nói tiếng Anh dở nhất, nhưng bà luôn luôn cho rằng bà nói tiếng Hoa hay nhất. Bà nói tiếng Quan thoại hơi pha giọng Thượng Hải. - Ðêm nay chúng ta không chơi mạt chược à? - Tôi nói khá lớn tiếng với dì Chân Ảnh, vì bà hơi bị lãng tai. - Lát nữa đã - Dì đáp - Ðể sau nửa đêm đã! - Này các bà ơi! Các bà còn đang dự họp không đấy? - Dượng Giang lên tiếng gọi. Sau khi mọi người nhất trí biểu quyết tham gia chứng khoán bằng vàng ở Canada, tôi đi vào bếp để hỏi dì An Mỹ tài sản PHÚC LẠC HỘI bắt đầu đầu tư vào chứng khoán. - Chúng ta đã từng chơi mạt chược, người thắng cuộc lấy hết. Nhưng cứ người nào thắng là thắng mãi, người thua luôn thua mãi - Bà nói trong khi đang nhồi món hoành thánh - Cháu không thể gặp may trong khi kẻ khác thật sự có tài. Từ lâu rồi, chúng ta đã quyết định đầu tư vào thị trường chứng khoán. Nơi ấy không cần tài cán gì cả. Ngay cả mẹ cháu cũng đã đồng ý việc ấy. Dì An Mỹ đếm bánh hoành thánh trong chiếc khay trước mặt. Dì đã làm được năm hàng bánh, mỗi hàng tám cái - Bốn mươi bánh, tám người, mỗi người mười cái, thêm năm hàng nữa - Dì tự nói lớn với chính mình, rồi tiếp tục nhồi nhân thịt vào bánh - Chúng ta đã tự sáng suốt ra. Bây giờ thì bọn ta có thể thắng và thua đều nhau. Chúng ta có thể gặp vận may ở thị trường chứng khoán. Và chúng ta vẫn có thể chơi mạt chược cho vui vậy thôi, chỉ một vài đôla, và người thắng có thể lấy hết. Người thua vẫn còn một ít đến để mang về nhà. Vì thế mọi người đều vui vẻ cả. Khôn ngoan đấy chứ, hả? Tôi nhìn dì An Mỹ làm thêm bánh hoành thánh. Dì có những ngón tay nhanh nhẹn, thiện nghệ. Dì làm mà không cần phải chú ý gì cả. Đó là điều mà mẹ tôi hay từng than phiền, rằng dì An Mỹ không bao giờ suy nghĩ về việc đang bàn. Vào một dịp nọ, mẹ tôi nhận xét về dì: - Cô ấy không ngốc đâu, nhưng cô ấy không cương quyết. Tuần trước, ta có một ý hay cho cô ta. Ta bảo cô, chúng ta hãy đi đến Tòa Lãnh sự và xin giấy tờ cho anh trai của cô đi. Cô ta gần như muốn bỏ tất cả mọi việc để đi liền ngay lúc đó. Nhưng sau đó cô lại đi nói chuyện với một người khác. Ai biết được người đó là ai? Và người đó bảo rằng việc cô ta làm có thể gây rắc rối cho anh trai của cô tại Trung Quốc. Người đó nói rằng FBI sẽ đưa tên cô vào danh sách và gây rắc rối cho cô trong suốt quãng đời còn lại ở Mỹ. Người đó lại cho rằng nếu có xin mua nhà chịu, họ sẽ không cho nợ, bởi vì anh cô là Cộng sản. Ta bảo, cô đã có nhà nội kia mà! Ấy vậy mà cô ấy vẫn cứ sợ. Dì An Mỹ cứ nghiêng sang bên này, ngả sang bên kia như thế đấy, - mẹ tôi bảo - và dì ấy cũng không biết tại sao nữa. Tôi quan sát dì An Mỹ, một bà già thấp bé lưng còng đang ở tuổi bảy mươi, ngực nặng nề và đôi chân gầy không hình dạng. Dì có những đầu ngón tay mềm phẳng của một bà già. Tôi tự hỏi dì đã làm gì khiến khơi dậy cả tràng nhận xét, phê bình của mẹ tôi như vậy. Một lần nữa, tôi lại thấy dường như mẹ tôi luôn luôn không hài lòng với tất cả bạn bè của bà, với tôi, và ngay cả với cha tôi. Luôn luôn, bà thấy thiếu một cái gì đó. Luôn luôn cần phải cải thiện một cái gì đó. Rồi lại một điều gì đó chưa được quân bình. Người này hoặc người kia có quá nhiều một yếu tố, nhưng lại không đủ yếu tố khác. Các yếu tố theo sự phân chia hóa hữu cơ của mẹ tôi, bà cho tôi biết, người nào cũng được tạo thành bởi năm yếu tố. Ai mang quá nhiều “hỏa”, sẽ có tính khi nóng nảy. Giống như cha tôi vậy, người luôn luôn bị mẹ tôi chỉ trích vì thói hút thuốc, và luôn luôn hét lại rằng bà biết gì, im đi, đừng lắm điều. Tôi nghĩ chắc bây giờ ông đang cảm thấy có lỗi đã không cho bà bộc bạch hết ý mình qua lời nói. Người nào quá ít “mộc” sẽ nhanh chóng uốn mình tuân theo ý kiến của người khác, không thể nào tự đứng vững được. Chẳng hạn như dì An Mỹ. Quá nhiều “thủy”, người đó sẽ tuôn chảy khắp mọi hướng, như tôi vậy, bắt đầu học ngành sinh vật, lấy bằng cấp đang dang dở, lại học nữa chừng về nghệ thuật, để rồi chẳng tốt nghiệp được bên nào, bèn đi làm thư ký cho một hãng quảng cáo nhỏ, sau lại thành một người viết quảng cáo. Tôi đã từng bỏ ngoài tai những lời chỉ trích của bà, càng không thích nghe những điều dị đoan kiểu Trung Hoa, những niềm tin phù hợp với hoàn cảnh một cách thuận tiện. Khi tôi đang ở độ mới hai mươi, học lớp Tâm lý nhập môn, tôi cố gắng giải thích cho mẹ tôi biết vì sao bà không nên chỉ trích nhiều, tại sao điều ấy không dẫn đến môi trường học hỏi lành mạnh. Tôi bảo: - Có một trường về tâm lý dạy cha mẹ không nên chỉ trích con cái, thay vào đó, nên khuyến khích thì hơn. Mẹ biết không, người ta vươn lên theo niềm kỳ vọng của người khác, và nếu mẹ cứ chỉ trích, có nghĩa là mẹ chỉ kỳ vọng điều thất bại. - Rắc rối là ở chỗ ấy. - Mẹ tôi nói - Con không bao giờ chịu vươn lên. Lười biếng đứng dậy. Lười biếng vươn theo sự kỳ vọng. - Ðến giờ ăn rồi nhé! - Dì An Mỹ vui vẻ thông báo, dì mang ra một xẻng bánh hoành thánh vừa mới gói xong. Hàng lớp thức ăn trên bàn, được dọn theo kiểu tự phục vụ như các buổi tiệc ở Quế Lâm. Mùi nước lèo hoành thánh thật hấp dẫn với những nhánh lá ngò thả bồng bềnh trên mặt. Tôi bị lôi kéo đầu tiên bởi một đĩa to đựng món xá xíu, thịt heo cắt từng lát hình đồng tiền, rồi đến một loạt món ăn nho nhỏ - bánh bột vỏ mỏng nhồi thịt heo, thịt bò, tôm băm và còn các thứ khác không biết tên mà mẹ tôi đã từng diễn tả là “các thức ăn bổ dưỡng”. Ăn uống không phải là một sự kiện thanh lịch tại nơi đây. Dường như mọi người đang chết đói. Họ tọng các nĩa đầy thức ăn vào miệng, rồi ghim thêm thịt mỡ, liền tay lấy thức ăn. Họ không giống các phụ nữ ở Quế Lâm, những người, theo tôi, luôn luôn hình dung ăn uống với một vẻ thanh cao. Sau đó, cũng nhanh nhẹn gần như khi họ bắt đầu, phe đàn ông đứng lên và rời bàn. Phe đàn bà thu vén các mẩu thức ăn sau cùng và mang tất cả bát đĩa vào nhà bếp cho vào bể rửa. Các bà thay phiên nhau rửa tay, kỳ cọ dữ dội. Ai khởi xướng nghi thức này thế nhỉ? Tôi cũng đặt đĩa của tôi vào chậu và rửa tay. Các bà bắt đầu nói chuyện về chuyến đi Trung Quốc của gia đình họ Chung, rồi họ kéo nhau về gian phòng ở phía sau nhà. Chúng tôi đi qua một căn phòng nữa, ngày trước đã từng là phòng ngủ của bốn đứa con trai của gia đình họ Tô. Những chiếc giường đôi với cầu thang xiêu vẹo vẫn còn đó. Các dượng trong PHÚC LẠC HỘI đã ngồi tề tựu vào bàn chơi bài. Dượng Giang đang chia bài thoăn thoắt, làm như học được kỹ thuật này ở sòng bạc vậy. Cha tôi đã hút xong gói Pall Mall, một điếu vẫn còn đong đưa trên môi ông. Chúng tôi đi vào gian phòng ở phía sau nơi từng là phòng của ba cô con gái gia đình họ Tô. Họ đều là bạn của tôi thời nhỏ, giờ thì tất cả đã khôn lớn, đi lấy chồng, và tôi lại đến chơi trong căn phòng của họ một lần nữa. Ngoại trừ mùi long não, mọi thứ khác vẫn như xưa, tưởng chừng đâu Hồng, Luyến, Gia Ninh sắp bước vào với mái tóc quấn tròn lên cao như lon nước cam và buông xuống những chiếc kẹp giống hệt nhau. Mấy tấm drap trắng trải giường dùng quá lâu nên gần như trắng mỏng ra. Hồng và tôi đã từng nằm rứt dây viền khi ngồi kháo chuyện với nhau về đám bạn trai của chúng tôi. Mọi vật đều y như xưa, trừ ra giờ đây có thêm một chiếc bàn mạt chược gỗ đào đặt ở giữa phòng. Và cạnh đó là một cây đèn đặt trên sàn có chân dài màu đen với ba ngọn đèn hình bầu dục gắn vào như ba chiếc lá to bản mọc trên thân cây cao su. Không ai bảo tôi “Ngồi đây đi, đây là chỗ mẹ cháu đã từng ngồi”, thế nhưng tôi biết chỗ nào, ngay cả trước khi mọi người ngồi xuống. Chiếc ghế sát cửa ra vào hãy còn trống, nhưng chiếc ghế thực sự không có gì quan trọng, mà chính là vị trí của bà trên bàn kia. Không ai nói, nhưng tôi biết góc của bà trên bàn ở hướng đông. “Hướng đông là hướng của mọi sự bắt đầu”, mẹ tôi đã có lần bảo với tôi như thế. Hướng mặt trời mọc, hướng ngọn gió bắt nguồn. Dì An Mỹ ngồi phía bên trái tôi để những quân bài xuống mặt bàn nỉ xanh, rồi nói với tôi: - Bây giờ chúng ta xoa bài nhé. - Chúng tôi dùng tay xoa các con bài đi theo vòng tròn, chúng chạm vào nhau rào rào. - Cháu cũng thắng giống mẹ cháu chứ? - Dì Linh ngồi đối diện hỏi tôi, không cười. - Ở trường Ðại học, cháu cũng có chơi chút ít với những người bạn Do Thái của cháu. - A! Mạt chược chơi kiểu Do Thái hả? - Dì nói với vẻ khinh dễ - Không giống kiểu này đâu - Mẹ tôi cũng từng nói như vậy, mặc dù bà không bao giờ giải thích rõ được vì sao. - Có lẽ tối này cháu không chơi. Cháu chỉ ngồi xem thôi - Tôi đề nghị. Dì Linh trông muốn nổi nóng lên, chừng như tôi chỉ là một đứa con nít. - Làm sao chúng ta chơi được nếu chỉ có ba người? Tỉ như một cái bàn chỉ có ba chân, lấy gì thăng bằng? Khi chồng của dì Chân Ảnh mất, dì ấy bảo anh của dì tham gia vào cuộc. Cha của cháu thì bảo cháu. Như vậy mọi sự đã được quyết định rồi. - Mạt chược kiểu Do Thái và kiểu Trung Hoa khác nhau chỗ nào? - Tôi đã có lần hỏi mẹ tôi. Khi bà trả lời, tôi không thể biết được trò chơi ấy khác nhau hay chính thái độ phân biệt của bà giữa người Trung Hoa và người Do Thái khác nhau. - Cách chơi hoàn toàn khác nhau - Bà lên giọng diễn giải - Người Do Thái chơi mạt chược chỉ chăm chú vào quân bài riêng của họ, chỉ chơi bằng mắt mà thôi. Còn người Trung Hoa chơi mạt chược phải dùng tới cái đầu, rất mưu lược. Người phải xem những người khác loại đi những gì và phải ghi nhớ trong đầu. Và nếu không có ai chơi giỏi, bàn chơi sẽ trở thành mạt chược kiểu Do Thái. Tại sao phải chơi làm chi? Không có chiến lược gì cả. Người ta chỉ ngồi rình người khác phạm lỗi mà thôi. Những kiểu giải thích như thế khiến tôi có cảm tưởng mẹ tôi và tôi nói hai thứ tiếng khác nhau. Thật vậy đấy, tôi nói với bà bằng tiếng Anh, bà trả lời lại bằng tiếng Hoa. - Thế mạt chược kiểu Do Thái và kiểu Trung Hoa khác nhau chỗ nào? - Tôi hỏi dì Linh. - Ai da! - Dì kêu lên với vẻ trách móc mỉa mai - Mẹ cháu không dạy cháu gì hết sao? Dì Chân Ảnh phát vào tay tôi - Cháu là một cô gái thông minh. Cháu cứ nhìn các dì đây rồi làm giống như vậy. Giúp các dì chồng những quân bài lại làm thành bốn tụ nào! Tôi làm theo lời dì Chân Ảnh, những hầu như tôi chăm chú nhìn dì Linh hơn. Dì là người chơi nhanh nhất. Dì Chân Ảnh thảy viên xúc xắc ra, và tôi nghe nói dì Linh thành ngọn gió phía đông. Tôi là ngọn gió phía bắc, đi cuối cùng. Dì Chân Ảnh phía nam và dì An Mỹ phía tây. Chúng tôi bắt đầu cầm bài, thảy xúc xắc, đếm trở lại trên tụ bài. - Mẹ cháu chơi giỏi nhất đấy, như một tay nhà nghề - Dì An Mỹ nói, trong khi xếp lại các quân bài của dì, chậm rãi cân nhắc từng quân một. Bây giờ chúng tôi bắt đầu chơi, nhìn xuống tay, ném các quân bài ra, nhặt lấy những quân khác với một nhịp độ tự nhiên, thoải mái. Các dì trong PHÚC LẠC HỘI bắt đầu nói chuyện phiếm, nhưng không thực sự lắng nghe nhau mấy. Họ dùng ngôn ngữ đặc biệt, nửa tiếng Anh lõm bõm, nửa tiếng Hoa địa phương. Dì Chân Ảnh kể mới mua sợi dệt rẻ được một nửa ở đâu đó ngoài đường. Dì An Mỹ khoe về chiếc áo len dì đan cho con mới sinh của Luyến - “Nó cứ nghĩ rằng tôi mua ở tiệm đấy chứ”. - Dì hãnh diện nói. Dì Linh kể chuyện dì đã bực mình cỡ nào khi cô bán hàng không cho dì trả lại chiếc váy bị gãy dây kéo - tôi bị lừa thế đấy - Dì vẫn còn tức giận - Tôi giận đến chết đi được. - Nhưng Linh Ða, chị vẫn còn đây với chúng tôi, đâu có chết! - Dì Chân Ảnh cất tiếng trêu, và khi dì đang cười, dì Linh kêu lên “Hên quá!” và trải các quân bài của dì ra, lần này tới phiên dì cười dì Chân Ảnh trong khi đếm điểm. Chúng tôi lại bắt đầu xoa bài, mọi người lại lặng yên. Tôi bắt đầu cảm thấy chán nản và buồn ngủ. - Ồ, tôi có câu chuyện này đây - Dì Chân Ảnh kêu to làm mọi người giật mình. Dì Chân Ảnh luôn luôn là một người hơi lập dị, kiểu người luôn chìm đắm trong thế giới riêng của mình. Mẹ tôi đã từng nói: “Dì Chân Ảnh không phải lãng tai. Dì ấy ít chịu lắng nghe người khác”. - Cảnh sát đã bắt con của bà Emerson hôm cuối tuần rồi - Dì nói với giọng hãnh diện của người đầu tiên biết được tin quan trọng - Bà Trần kể với tôi ở nhà thờ, người ta tìm thấy rất nhiều máy truyền hình trong xe hơi của anh ta. Dì Linh nói ngay: “Aii-da, bà Emerson đáng kính” - Ý dì muốn nói bà Emerson không dáng có một đứa con kinh khủng như thế. Nhưng giờ tôi cũng vừa nhận ra dì muốn ám chỉ chuyện con trai út của dì An Mỹ cũng bị bắt cách đây hai năm về tội bán máy thu thanh trong xe hơi ăn cắp được. Dì An Mỹ đang vuốt các quân bài cẩn thận trước khi bỏ ra. Trông dì có vẻ đau khổ. - Bây giờ ở Trung Quốc ai cũng có máy truyền hình - Dì Linh đổi đề tài - Gia đình chúng tôi ở đó cũng có, không phải chỉ đen trắng đâu nhé, máy truyền hình màu điều khiển từ xa cơ! Họ có đủ hết. Vì thế khi chúng tôi hỏi họ cần chúng tôi mua thứ gì cho họ, họ bảo không cần gì hết, chúng tôi đến thăm họ, vậy là đủ rồi. Nhưng dù sao chúng tôi cũng có mua cho họ thứ khác, đầu vidéo và máy Sony Walkman cho lũ trẻ. Họ bảo “Thôi! Ðừng cho tụi tôi” nhưng dì biết họ thích lắm. Dì An Mỹ tội nghiệp càng xát tay vào các quân bài mạnh hơn. Tôi nhớ mẹ tôi kể về chuyến du lịch về Trung Quốc của gia đình họ Tô cách đây ba năm. Dì An Mỹ để dành được hai ngàn đô la để chỉ dùng cho phí tổn của cả gia đình. Dì cho mẹ tôi xem bên trong cái túi xách nặng trĩu. Một cái nhét đầy kẹo đậu phộng, kẹo sô-cô-la M&M’s, kẹo hạt điều, sô-cô-la nóng uống liền có hạt thục quì nghiền nhỏ. Mẹ tôi bảo tôi, còn túi xách kia chứa đầy quần áo kiểu cọ kỳ cục, tất cả đều mới tinh: đồ tắm kiểu California màu sáng chói, nón chơi bóng chày, quần tây bằng vải có lưng thun, áo kiểu phi công, áo sơ mi ngắn tay, bít tất v.v... Mẹ tôi bảo dì: - Ai cần những thứ vô dụng này? Họ chỉ cần tiền thôi - Nhưng dì An Mỹ bảo rằng em của dì quá nghèo so với dì. Thế là dì không màng đến lời khuyên của mẹ tôi, xách mấy giỏ đồ hàng và hai ngàn đô la đi Trung Quốc. Khi họ đến Hàng Châu, cả gia đình từ Ninh Ba đã ra đó sẵn để đón họ. Không chỉ có em trai của dì An Mỹ, còn có cả em cùng cha khác mẹ của vợ cậu ta, và một lô họ hàng xa lắc khác. Họ lại còn mang theo tất cả mẹ vợ, con cái, và ngay cả bạn bè trong làng, những người kém may mắn không có thân nhân ở nước ngoài để khoe khoang với mọi người. Mẹ tôi kể: “Dì An Mỹ trước kia đã khóc khi sắp đi Trung Quốc, dì nghĩ rằng sẽ giúp cho em trai của dì giàu có và sung sướng hơn so với tiêu chuẩn Cộng sản. Nhưng khi dì về đến nhà, dì cũng khóc với mẹ rằng mọi người đến chìa tay ra mà dì là người đến bằng tay không.” Mẹ tôi đã khẳng định được sự nghi ngờ của bà. Không ai cần áo sơ mi kiểu cọ và những quần áo vô dụng đó. Kẹo M&M’s bị ném vào khoảng không tan biến. Khi chiếc xách tay được lấy hết đồ đạc ra, thân nhân của dì đã hỏi rằng gia đình họ Tô còn mang theo gì khác cho họ nữa không? Dì An Mỹ và dượng Giang đã sạch túi, không chỉ tiêu hai ngàn đô la để mua máy truyền hình, tủ lạnh, mà còn phải trả tiền trú ngụ qua đêm cho hai mươi sáu người ở khách sạn, ba bàn tiệc ở nhà hàng phục vụ khách nước ngoài, ba món đặc biệt cho mỗi người thân, và cuối cùng, một món nợ trị giá năm ngàn Nhân dân tệ cho một người gọi là chủ của một người bà con muốn mua xe gắn máy, sau đó hắn đã biến mất luôn cùng với số tiền. Khi xe lửa rời Hàng Châu ngày hôm sau gia đình họ thấy mình tiêu sạch chín ngàn đô la vì thiện chí. Nhiều tháng sau đó, sau một buổi lễ Giáng sinh ở nhà thờ Rửa tội của người Trung Hoa, dì An Mỹ cố gắng gỡ gạc bằng cách nói rằng: cho được phước hơn là nhận. Mẹ tôi đồng ý, người bạn thân thiết của bà sẽ được nhiều ân phước ít nhất là mấy đời sau nữa. Nghe dì Linh khoe khoang về những đức tính của gia đình dì ở Trung Quốc, tôi thấy dì quá thờ ơ không nghĩ đến nỗi đau của dì An Mỹ. Dì Linh có xấu tính không hay mẹ tôi không bao giờ kể cho ai nghe khác hơn ngoài tôi về câu chuyện xấu hổ của gia đình dì An Mỹ? - À, Linh Muội, bây giờ cháu còn đi học không? - Dì Linh hỏi. - Cô ấy tên June, bọn nó bây giờ có tên Mỹ hết rồi. - Dì Chân Ảnh nói. - Không sao đâu dì ơi! - Tôi đáp, mà thực là như vậy. Hiện giờ, những người Trung Hoa sinh ra ở Mỹ đang thích dùng tên tiếng Hoa của họ hơn. - Cháu không còn đi học nữa - Tôi nói - Cháu đã nghỉ học từ mười năm về trước rồi. Dì Linh nhướng mắt - Có lẽ dì lầm với con bà khác - Dì nói vậy, nhưng tôi biết dì nói dối. Tôi biết có lẽ mẹ tôi kể cho dì nghe rằng tôi sẽ quay lại học tiếp cho xong cái bằng, bởi vì khoảng sáu tháng trước tôi và mẹ tôi đã tranh cãi về sự thất bại sự gián đoạn học hành nửa chừng của tôi, và về ý định tôi sẽ quay lại học tiếp. Một lần nữa, tôi đã nói với mẹ tôi điều mà bà muốn nghe: “Mẹ đúng đấy. Ðể con xem lại việc đó”. Tôi luôn luôn cho rằng tôi và mẹ tôi có một sự thông hiểu nhau dù không nói ra về việc này: bà không có ý thực sự nghĩ tôi là một kẻ thất bại, và tôi có ý thực sự muốn tôn trọng ý kiến của bà nhiều hơn. Nhưng tối nay nghe dì Linh nói, tôi biết tôi và mẹ tôi chưa bao giờ thực sự thông hiểu nhau. Chúng tôi diễn dịch ý nghĩ của nhau và có vẻ tôi nghe ít hơn những điều bà nói, còn bà lại nghe nhiều hơn những điều tôi nói. Thảo nào bà kể cho dì Linh nghe việc tôi sắp đi học trở lại để lấy bằng. Dì Linh và mẹ tôi vừa là bạn vừa là địch thủ của nhau, luôn luôn đem con cái ra so sánh. Tôi lớn hơn Chung Vỹ Lý, con gái của dì, một tháng. Từ thời chúng tôi còn nhỏ xíu, hai bà mẹ cứ luôn luôn so sánh từng nếp gấp ở rốn chúng tôi, hình dáng vành tai của chúng tôi, khi té trầy đầu gối thì đứa nào mau lành hơn, tóc đứa nào dày và đen hơn, mang mòn bao nhiêu đôi giày trong một năm, và về sau nữa, Vỹ Lý đã chơi cờ thông minh cỡ nào, tháng qua mang về được bao nhiêu giải thưởng, bao nhiêu tờ báo nhắc đến tên nó, bao nhiêu thành phố nó đã viếng thăm. Tôi biết mẹ tôi phật ý khi nghe dì Linh kể về Vỹ Lý trong khi bà không có gì để khoe lại. Ðầu tiên, mẹ tôi cố gắng vun xới những thiên hướng tiềm ẩn trong tôi. Bà làm việc nhà cho một ông thầy dạy đàn già về hưu ở dưới nhà để ông ta dạy tôi và cho tôi dùng đàn để tập miễn phí. Khi tôi thất bại không trở thành nhạc sĩ dương cầm trong ban hòa nhạc hay ngay cả người đệm đàn cho ca đoàn thiếu niên ở nhà thờ, bà lại giải thích rằng tôi chậm phát triển thiên tài, kiểu như Einstein, ai cũng cho rằng ông chậm chạp cho mãi đến ngày ông phát minh được một quả bom. Bây giờ thì lại đến phiên dì Chân Ảnh thắng ván mạt chược này, vì thế chúng tôi đếm điểm và bắt đầu chơi ván mới. - Chị có biết cháu Lena dọn đến ở Woodside không? - Dì Chân Ảnh hành diện nói, dì đang nhìn xuống các quân bài, và có vẻ không rõ đang muốn nói chuyện với riêng người nào. Dì cười nhẹ và cố gắng tạo vẻ khiêm tốn - Dĩ nhiên, đó không phải là căn nhà đẹp nhất ở khu đó, làm gì đến một triệu đôla, nhưng đó là một chuyến đầu tư tốt đẹp. Tốt hơn phải đi thuê nhà. Tốt hơn là để người ta đặt mình dưới ngón tay cái rồi đè bẹp dí đi. Giờ thì tôi biết chắc Lena, con gái dì Chân Ảnh, đã kể cho dì nghe về việc tôi bị đuổi ra khỏi căn hộ ở khu đồi Nga. Mặc dù tôi và Lena là bạn, nhưng chúng tôi thường dè chừng không kể cho nhau nghe quá nhiều. Vậy mà dù ít dù nhiều khi đã kể, câu chuyện thường được nghe lại dưới lớp vỏ khác. Bao giờ cũng thế, người ta thường nhiều chuyện nói đi nói lại lòng vòng. - Trời tối rồi - Tôi nói khi xong ván bài, và bắt đầu đứng lên, nhưng dì Linh đẩy tôi ngồi xuống ghế. - Khoan, ở lại đã. Ðể các dì còn trò chuyện với nhau - dì nói - Lâu quá rồi. Tôi biết đây là một cử chỉ lịch sự của Hội các dì, chỉ là cái cớ các dì muốn giữ tôi lại, trong khi thực sự các dì cũng nóng lòng muốn tiễn tôi đi như chính tôi đang nóng lòng muốn đi - Không, cháu thực sự phải về đây, cám ơn, cám ơn các dì - Tôi đáp, mừng vì mình đã nhớ ra điều giả vờ của các dì. - Cháu phải ở lại chứ! Các dì có điều quan trọng muốn nói với cháu, chuyện của mẹ cháu! - Dì Chân Ảnh bật nói to tiếng. Những người khác trông có vẻ bất an, chừng như họ sắp sửa tiết lộ với tôi một tin không hay. Tôi ngồi xuống lại. Dì An Mỹ thoắt ra khỏi phòng và quay trở lại với một tô đậu phộng, dì nhẹ nhàng đóng cửa lại. Mọi người đều lặng im, dường như không ai biết phải bắt đầu như thế nào. Cuối cùng, chính dì Chân Ảnh đã lên tiếng - Dì nghĩ rằng mẹ cháu chết đi còn vương vấn một chuyện quan trọng trong trí - Dì nói bằng tiếng Anh giọng ngập ngừng, rồi dì bắt đầu chuyển sang nói tiếng Hoa dịu dàng điềm đạm: - Mẹ cháu là một phụ nữ mạnh mẽ, một người mẹ hiền. Bà yêu cháu rất nhiều, nhiều hơn chính bản thân của bà kia. Và đó là lý do tại sao cháu có thể hiểu được vì sao một người mẹ như bà không thể quên những đứa con gái kia của bà được. Bà biết chúng đều còn sống, nên trước khi chết bà muốn tìm lại những đứa con đó ở Trung Hoa. Những đứa bé bị bỏ lại ở Quế Lâm. Tôi không phải là những đứa bé đó. Những đứa bé bỏ trong tay nải, địu trên vai. Tôi cảm thấy chừng như đang ở Quế Lâm, giữa làn bom đạn và tôi thấy được hai đứa bé đang nằm trên vệ đường, miệng ngậm ngón tay cái đỏ hồng, kêu khóc. Một người nào đó đã nhặt chúng về. Chúng được an toàn tính mạng. Và giờ đây mẹ tôi đã rời xa tôi vĩnh viễn để về Trung Quốc tìm lại những người con. Tôi mơ hồ nghe giọng dì nói: - Mẹ cháu đã tìm kiếm nhiều năm liền, viết thư tới lui, và năm vừa rồi bà có được địa chỉ. Bà đã kể chuyện cho cha cháu nghe. Aii-da, thật là đáng tiếc. Một đời chờ đợi. Dì An Mỹ phấn khởi cất lời: - Thế là các dì viết thư về địa chỉ đó. Các dì nói rằng một nhóm người nào đó, chính là mẹ cháu muốn gặp một nhóm nào đó ở Trung Quốc. Rồi nhóm này viết thư lại cho các dì. Họ chính là các chị của cháu đó, Linh Muội. Các chị của tôi, tôi tự lặp lại với chính mình, lần đầu tiên tôi mới gọi tiếng chị trong đời. Dì An Mỹ cầm một tờ giấy mỏng dính. Theo các hàng dọc thẳng tắp tôi thấy các nét chữ Trung Hoa được viết bằng mực viết máy màu xanh. Có chữ bị lem. Nước mắt chăng? Tôi cầm lá thư bằng đôi bàn tay run rẩy, ngạc nhiên, khâm phục các chị phải thông minh lắm mới đọc và viết được chữ Hoa như vậy. Tất cả các dì đang mỉm cười nhìn tôi, hình như tôi là một người chết vừa mới được hồi sinh bằng phép lạ. Dì Chân Ảnh đưa cho tôi một phong bì khác, bên trong là một chi phiếu trị giá 1.200 đô la gửi tên June Vũ. Tôi không tin nổi việc này. - Các chị của cháu gửi tiền này cho cháu à? - Tôi hỏi. - Không, không. - Dì Linh kêu lên với giọng bi thương giả tạo - Mỗi năm các dì để dành lại tiền thắng cuộc thi chơi mạt chược để tổ chức liên hoan tại nhà hàng sang trọng. Phần lớn số tiền này là của mẹ cháu, vì bà hay thắng cuộc nhất. Các dì góp thêm vào chút ít, thế nên cháu có thể đi Hồng Kông, đáp xe lửa về Thượng Hải để thăm các chị. Không sao, các dì có nhiều tiền mà cũng mập quá rồi - Dì vỗ vào bụng như để chứng minh. - Thăm các chị của cháu ư? - Tôi sững sờ nói, cố tưởng tượng viễn ảnh cuộc tương ngộ sẽ như thế nào. Và tôi cảm thấy bối rối khó chịu vì câu chuyện liên hoan cuối năm các dì dựng ra để không cho tôi thấy lòng từ tâm của các dì. Giờ thì tôi cũng bật khóc, vừa khóc lại vừa cười; ghi nhận, nhưng cũng hiểu được trọn vẹn tình nghĩa thủy chung của các dì đối với mẹ tôi. - Cháu phải đi gặp các chị của cháu và kể cho mấy đứa tụi nó nghe về cái chết của mẹ cháu - Dì Chân Ảnh nói - Nhưng quan trọng hơn hết, cháu phải kể cho chúng nghe về cuộc đời của mẹ cháu, người mẹ mà chúng chưa từng bao giờ biết đến, mà giờ đây chúng phải biết. - Gặp các chị của cháu, kể cho họ nghe về mẹ của cháu - Tôi gật đầu lập lại - Cháu sẽ nói những gì? Cháu biết nói gì đây về mẹ cháu? Cháu không biết gì cả. Chỉ biết bà là mẹ của cháu thôi. Các dì nhìn tôi làm như tôi bỗng hóa điên trước mặt họ rồi. - Không biết gì về mẹ ruột của cháu à? - Dì An Mỹ kêu lên bàng hoàng - Sao cháu lại có thể nói như vậy được? Mẹ cháu chính là xương thịt của cháu! - Cháu hãy kể cho chúng nghe chuyện của gia đình cháu ở đây. Mẹ cháu đã thành công như thế nào - Dì Linh gợi ý. - Kể cho chúng nghe những câu chuyện mẹ cháu đã kể cho cháu, những bài học bà dạy cho cháu, những gì bà truyền đạt từ tâm hồn bà giờ đã trở thành của cháu - Dì Chân Ảnh nói - Mẹ cháu là một phụ nữ rất thông minh. Các dì đồng loạt tranh nhau nói - Kể cho chúng nghe đi chứ - Các dì cố nghĩ thêm để kể ra thật nhiều: - Mẹ cháu thật tử tế. - Khôn ngoan nữa. - Tận tụy lo cho gia đình. - Luôn hy vọng, đó là điều quan trọng đối với bà. - Nấu ăn rất khá. - Thử nghĩ xem! Một đứa con gái mà không biết hết về mẹ mình. Trường hợp của tôi là như vậy, nhưng tôi thấy các dì đang sợ, vì qua tôi, các dì thấy được con gái của các dì cũng thế, cũng thờ ơ, cũng không để tâm đến những niềm kỳ vọng mà các bà mẹ đã mang sang nước Mỹ. Họ thấy con gái của họ sốt ruột khi nghe mẹ nói chuyện bằng tiếng Hoa, chê mẹ dốt khi giải thích sự việc bằng tiếng Anh đứt đoạn. Họ thấy rằng niềm vui và điều may mắn không có nghĩa lý đối với các con của họ, rằng trong đầu óc bít kín của những trẻ sinh ra ở Mỹ này, “phúc lạc” không phải là một từ, không hiện hữu. Họ thấy những đứa con gái họ sinh con đẻ cháu mà không hề truyền đạt lại niềm kỳ vọng nào từ thế hệ này sang thế hệ khác. - Cháu sẽ kể hết cho các chị cháu nghe - Tôi đáp gọn, và các dì nhìn tôi bằng những gương mặt nghi ngờ. - Cháu sẽ nhớ hết mọi điều về mẹ cháu và sẽ kể hết cho các chị cháu nghe - Tôi trả lời cứng giọng hơn. Thế là lần lượt từng người một, các dì mỉm cười và vỗ nhẹ vào tay tôi. Trông họ vẫn còn chưa yên tâm, làm như còn lưỡng lự điều gì. Tuy nhiên, trông họ cũng có vẻ hy vọng tôi không nói dối. Họ biết đòi hỏi gì hơn? Tôi biết hứa hẹn gì hơn? Các dì trở lại ăn đậu phộng luộc mềm, kể chuyện cho nhau nghe. Họ như trở lại thời xuân xanh, nhớ về quãng đời tươi đẹp đã qua và mơ ước những điều tốt đẹp sẽ đến. Một người em ở Ninh Ba sẽ làm cho bà chị mừng rơi nước mắt khi gửi lại cho bà chín ngàn đô la kèm theo tiền lời. Một cậu con út với công việc kinh doanh sửa chửa máy truyền hình phát đạt để có tiền dư gửi về Trung Quốc. Những đứa cháu ngoại biết bơi giỏi như cá tại một hồ bơi đẹp đẽ ở Woodside. Những chuyện hay như thế đấy. Hay nhất. Những câu chuyện may mắn. Còn tôi, vẫn đang ngồi nơi chỗ cũ của mẹ tôi tại chiếc bàn mạt chược, tại hướng đông, hướng bắt đầu mọi sự. TÔ AN MỸ VẾT SẸO Khi tôi còn nhỏ, ở Trung Quốc, bà tôi bảo tôi rằng mẹ tôi chỉ là bóng ma. Nói như thế không có nghĩa là mẹ tôi đã chết. Vào thời đó, một bóng ma có nghĩa là điều chúng ta bị cấm không được nói đến. Vì vậy tôi biết bà muốn tôi phải cố tình quên mẹ đi, thế cho nên giờ tôi chẳng còn nhớ gì về mẹ cả. Cuộc đời mà tôi được biết đến bắt đầu trong một ngôi nhà rộng lớn ở Ninh Ba với những hành lang lạnh ngắt và cầu thang cao nghêu. Ðây là nhà của gia đình dì, cậu của tôi, nơi đây tôi sống với bà và em trai tôi. Tôi thường nghe chuyện ma hay bắt trẻ con, đặc biệt là những bé gái cứng đầu, không biết vâng lời. Nhiều lần bà đã nói to cho hết thảy những người chung quanh nghe rằng tôi và em tôi rơi khỏi ruột một con ngỗng ngu ngốc, hai quả trứng không ai màng, ngay cả để đập vào cháo người ta cũng không muốn dùng đến. Bà nói như vậy để ma không bắt chúng tôi đi. Vậy là bạn thấy đó, đối với bà, chúng tôi cũng quí giá lắm đấy chứ. Suốt cả đời tôi, bà luôn luôn làm cho tôi sợ. Tôi càng sợ hơn khi bà ngã bệnh. Dạo đó, vào năm 1923, khi ấy tôi được chín tuổi. Bà bị sưng phù như một quả bí chín quá mức, nên toàn bộ thịt da mềm nhũn và thối rữa thành một mùi khó chịu. Bà đã gọi tôi vào phòng bà đầy mùi hôi kinh khủng và kể cho tôi nghe nhiều câu chuyện - “An Mỹ” - Bà gọi tên ở trường của tôi - Cháu nghe kỹ đây - Rồi bà kể cho tôi nghe những câu chuyện tôi không hiểu được. Có một chuyện kể về một cô gái tham lam bụng càng ngày càng to ra. Cô gái đã uống thuốc độc tự tử sau khi từ chối không tiết lộ cô đang mang thai với ai. Khi thầy cúng cắt người cô ra, họ thấy bên trong có một quả dưa to màu trắng. - Nếu cháu tham ăn, chính vật bên trong cháu là cái khiến cho cháu luôn đói khát - Bà nói. Lần khác, bà kể cho tôi nghe chuyện một cô gái không chịu nghe lời người lớn. Một ngày khi cô lắc đầu quyết liệt không chịu làm theo lời người dì thì một quả banh rơi ra khỏi tai cô rồi não cô cũng tuôn tràn ra theo, trông cứ như là nước luộc gà. Bà bảo tôi: các ý nghĩ của cháu quá bận rộn bơi nhảy bên trong đó nên mọi thứ khác phải bị đẩy ra ngoài. Ngay trước khi bà ngã bệnh nặng đến á khẩu, bà kéo tôi đến gần và nói về mẹ tôi - Ðừng bao giờ gọi đến tên mẹ cháu. - Bà cảnh cáo - Gọi tên mẹ cháu tức là cháu đã phỉ nhổ lên nấm mồ của cha cháu đấy. Người cha duy nhất mà tôi biết đến là một bức chân dung to, treo ở phòng khách. Ðó là một người cao lớn, nghiêm nghị, có vẻ khổ sở vì cứ phải ở mãi trên tường. Ðôi mắt bồn chồn của ông theo dõi tôi khắp nơi. Ngay cả tận phòng tôi ở cuối hành lang, tôi cũng cảm thấy được đôi mắt dõi theo của ông. Bà tôi nói rằng ông canh chừng tôi có dấu hiện gì hỗn hào không. Thế nên đôi khi tôi ném đá vào bạn ở trường, hoặc vô ý làm mất một quyển sách, tôi đi mau đến bên ông với ánh mắt làm như không biết gì và giấu mình trong góc phòng để ông không thấy được mặt tôi. Tôi cảm thấy quá khổ sở trong nhà, nhưng em tôi dường như không nghĩ vậy. Nó chạy xe đạp trong sân đuổi theo đám gà vịt và bọn trẻ con khác, phá lên cười khi gặp nạn nhân nào thét lên to nhất. Bên trong ngôi nhà lặng lẽ, nó nhảy lên nhảy xuống các trường kỷ nhồi lông đẹp nhất của dì cậu khi họ đi thăm viếng bạn bè trong làng. Nhưng rồi niềm sung sướng của em tôi cũng tan biến. Một ngày hè oi bức, lúc ấy bà đã bệnh nặng lắm rồi, chúng tôi đứng bên ngoài xem một đám ma đang hành lễ đi ngang qua sân. Ngay lúc đám rước vừa qua khỏi cổng nhà tôi, bức ảnh lồng khung nặng nề của người chết bỗng rơi khỏi giá đặt và lăn xuống nền đất. Một bà già hét lên và bất tĩnh. Em tôi bật cười và dì tôi tát tai nó. Dì tôi là người rất bẳn tính đối với trẻ con, dì bảo rằng em tôi không có lễ độ, không biết kính trọng tổ tiên và gia đình, giống như mẹ tôi. Dì có giọng nói như kéo xẻ vải, sắc lịm. Khi em trai tôi liếc đi oán hờn, dì nói mẹ tôi thật vô tâm vội bỏ đi ra Bắc, không kịp mang theo của hồi môn khi lấy cha tôi, quên mang theo chục đũa ngà, quên kính bái mộ cha tôi mộ tổ tiên. Khi em tôi buộc tội dì đã làm mẹ tôi kinh sợ phải bỏ đi, dì hét lên rằng mẹ tôi đã lấy một ông tên Vũ Tình, trước đó đã có một người vợ, hai cô hầu và một lũ con hư hỏng. Em tôi cũng hét lại rằng dì là một con gà biết nói mà không có đầu óc, dì đẩy em tôi vào cổng rào và tát vào mặt nó. Dì mắng: - Mày nói hỗn với tao, mà mày chẳng là thứ gì cả. Mày là con của một đứa không biết kính trên nhường dưới, một kẻ phản bội tổ tiên. Mẹ mày hèn kém hơn tất cả mọi người, đến nỗi ma quỷ cũng còn khinh khi. Đó là lúc tôi bắt đầu hiểu được các câu chuyện bà kể cho tôi nghe, đó là bài học về mẹ mà tôi bắt buộc phải biết. Khi cháu bị mất danh dự - Bà thường nói - An Mỹ à, cũng giống như cháu đánh rơi chuỗi đeo cổ xuống giếng, cách duy nhất để có thể tìm lại được nó là cháu phải lao theo nó xuống giếng. Giờ thì tôi có thể hình dung được mẹ tôi, một người vô tâm, hay cười gằn, lắc đầu, nhúng đũa vào đĩa đến mấy lần để gắp một miếng mứt, sung sướng vì được giải phóng khỏi tay mẹ; khỏi người chồng bất hạnh trên tường, và khỏi hai đứa con ngổ nghịch. Tôi cảm thấy bất hạnh vì người ấy là mẹ của tôi và bất hạnh vì mẹ đã bỏ chúng tôi mà đi. Ðó là những điều tôi nghĩ mỗi khi trốn mình trong góc phòng để lẩn tránh ánh mắt của cha tôi. * * * Tôi đang ngồi trên đầu cầu thang khi mẹ đến. Tôi biết ngay đó là mẹ tôi mặc dù tôi không còn nhớ mặt. Mẹ đứng ngay giữa lối đi, gương mặt quay vào trong tối. Mẹ cao hơn dì tôi nhiều, cao gần bằng cậu tôi. Trông mẹ cũng lạ lùng nữa, như các bà truyền giáo ở trường của chúng tôi, nhìn trang nghiêm, uy quyền trong bộ quần áo kiểu ngoại quốc, mang giày cao gót và tóc cắt ngắn. Dì tôi quay ngoắt đi, không thèm gọi tên bà, cũng không mời bà vào uống trà, một lão gia nhân bỏ chạy với một cái nhìn khó chịu. Tôi cố gắng ngồi yên, nhưng tim tôi đập rộn ràng như lũ dế cào cấu tìm đường thoát khỏi lồng giam. Mẹ tôi ắt hẳn cũng nghe được, bởi vì bà đã nhìn lên, và khi ấy tôi bắt gặp chính khuôn mặt của tôi đang nhìn tôi. Đôi mắt mở rộng và đã thấy rất nhiều điều. Nơi phòng của bà tôi, dì tôi phản đối khi mẹ tôi bước đến gần giường của bà - Quá muộn, quá muộn rồi! - Nhưng vẫn không ngăn được mẹ tôi. - Con về rồi, về ở lại đây - Mẹ tôi nói thầm với bà - Con gái của mẹ đã về đây - Ðôi mắt của bà đang mở rộng, nhưng tâm trí bà đang ở tận đâu đâu. Nếu bà còn sáng suốt, chắc bà đã đưa hai tay lên mà tung mẹ tôi ra khỏi phòng. Tôi quan sát mẹ tôi, lần đầu tiên được ngắm nhìn mẹ, người phụ nữ xinh đẹp với nước da trắng và gương mặt trái xoan, không quá tròn như gương mặt dì hoặc quá choắt như gương mặt bà. Mẹ có chiếc cổ cao trắng ngần như cổ con ngỗng bà bảo đẻ ra tôi. Mẹ đi qua lại thoăn thoắt như một bóng ma, đắp khăn mát lên gương mặt sưng húp của bà, thủ thỉ những lời lo lắng cho bà. Tôi quan sát mẹ rất kỹ, giọng nói của mẹ làm tôi phân vân, một giọng nói quen thuộc từ một giấc mơ quên lãng nào đó tôi đã từng trải qua. - Khi tôi quay về phòng vào buổi xế chiều, mẹ đã đứng sừng sững nơi đó. Và vì tôi nhớ bà đã dạy tôi đừng bao giờ gọi tên mẹ, nên tôi cũng đứng lặng im. Mẹ nắm tay tôi đưa đến bên trường kỷ. Rồi mẹ ngồi xuống với dáng điệu quen thuộc như đã từng ngồi ở đây mỗi ngày. Mẹ tôi xổ bím tóc tôi ra và nhẹ nhàng chải tóc cho tôi - An Mỹ, con có ngoan không? - Mẹ hỏi tôi và mỉm cười với một cái nhìn bí ẩn. Tôi nhìn mẹ bằng gương mặt làm như không hay biết gì, nhưng thực sự bên trong tôi đang run rẩy. Tôi là cô bé trong bụng đang có một trái dưa không màu sắc. - An Mỹ, con biết ta là ai chứ? - Mẹ nói với vẻ thoáng một chút trách mắng, lần này tôi không dám nhìn lên vì sợ đầu tôi sẽ nổ tung ra và bao nhiêu não sẽ tuôn chảy ra ngoài tai hết. Mẹ ngừng tay chải. Tôi cảm thấy những ngón tay dài, êm mịn của bà xoa dưới cằm tôi, tìm vết sẹo đã liền da nơi cổ. Khi bà xoa lên vết sẹo, tôi lặng người đi, chừng như bà vừa gợi cho tôi nhớ lại quá khứ. Đoạn bà buông tay xuống và bắt đầu khóc nức nở, giọng bi thương. Khi ấy tôi chợt nhớ lại giấc mơ với giọng nói của bà. * * * Thuở ấy tôi lên bốn. Tôi ngồi, cằm vừa chạm tới mặt bàn, em trai tôi ngồi trong lòng bà kêu khóc với gương mặt giận dỗi. Tôi nghe có giọng nói ca ngợi món cháo sẫm màu bốc khói được đặt trên bàn, có giọng nói dỗ dành nhỏ nhẹ - Nào, ăn đi, ăn nhé! Rồi mọi tiếng im bặt đi. Cậu tôi đứng dậy khỏi ghế. Mọi người quay đầu nhìn ra cửa, một người phụ nữ dong dỏng cao đang đứng nơi đó. Tôi là người duy nhất bật lên tiếng kêu: - Mẹ ơi! - Tôi chồm ra khỏi ghế, nhưng dì tôi đã tát vào mặt tôi và đẩy tôi ngồi xuống. Giờ thì mọi người đều đứng lên và lớn tiếng quát nạt. Tôi nghe giọng mẹ tôi gọi tôi - An Mỹ! An Mỹ! - Nhưng vượt át lên trên, tiếng bà the thé: - Bóng ma này là ai vậy? Ðâu phải một góa phụ đoan trang, chỉ là một con hầu hàng thứ ba. Nếu mày mang con gái mày theo, nó sẽ trở nên giống như mày. Không còn mặt mũi nào. Không bao giờ nó dám ngẩng đầu lên cả. Mẹ tôi vẫn cứ đứng đó gọi tôi đến. Tôi còn nhớ giọng mẹ rất rõ - An Mỹ! An Mỹ! - Tôi có thể thấy gương mặt mẹ tôi bên kia chiếc bàn. Giữa chúng tôi là nồi cháo đặt trên bếp lò, lắc lư, tròng trành. Thêm một tiếng gọi nữa và rồi cả nồi cháo sôi đổ ụp vào cổ tôi, như tất cả sự giận dữ của mọi người vừa trút xuống cho tôi. Ðó là cơn đau đớn kinh khủng mà một đứa bé như tôi không bao giờ nên nhớ lại. Nhưng nó vẫn còn dấu vết trên da tôi. Tôi đã òa khóc to, nhưng không khóc được lâu, vì chẳng bao lâu thịt da bên trong của tôi dường như cũng bị cháy bỏng và cắt nghẹn hơi thở của tôi. Tôi không nói được nên lời vì cảm giác nghẹt thở kinh khủng này. Tôi cũng không trông thấy được gì bởi vì bao nhiêu nước mắt đã tuôn trào ra, dường như muốn rửa sạch cơn đau. Bà và dì kêu to lên, và giọng của mẹ chìm đi mất. Ðêm đó, có tiếng bà nói với tôi: - An Mỹ, cháu nghe kỹ đây! - Giọng bà giống hệt như lúc thường trách mắng tôi chạy đùa giỡn ngoài hành lang - An Mỹ, ta đã cho đặt quần áo liệm và giày liệm cho cháu, tất cả đều hàng vải trắng. Tôi nghe mà kinh hoàng. Bà lại thầm thì nói, giọng càng êm ái hơn: - An Mỹ, quần áo liệm của cháu rất giản đơn, không cầu kì, vì cháu hãy còn nhỏ. Nếu cháu chết, cháu sẽ có một cuộc đời ngắn ngủi, tuy vậy cháu vẫn phải mang nợ của gia đình cháu. Đám tang của cháu sẽ nhỏ thôi, và thời gian chịu tang sẽ ngắn. Bà còn nói thêm một điều còn tệ hơn vết bỏng trên cổ tôi: - Ngay cả khi mẹ cháu đã khóc hết nước mắt và bỏ đi rồi. Nếu cháu không khỏi bệnh nhanh, mẹ cháu sẽ quên mất cháu luôn. Mỗi đêm tôi đều khóc đến nỗi như cả mắt tôi lẫn cổ tôi đều nóng bỏng. Bà ngồi cạnh giường tôi, rót nước mát lên cổ tôi, mãi đến khi tôi thở nhẹ nhàng và ngủ thiếp đi. Buổi sáng bà dùng những ngón tay sắc như lưỡi nhíp để bóc đi những lớp da chết trên vết bỏng. Trong khoảng thời gian hai năm, vết sẹo của tôi nhẵn bóng đi và tôi không nhớ gì về mẹ nữa. Đó là một vết thương, tự khép miệng lành da, và khi đã lành, người ta không còn thấy gì bên dưới nó cả, không thấy được cái gì đã gây ra vết thương. * * * Tôi đã tôn thờ mẹ trong mơ. Nhưng người đàn bà đứng cạnh bên giường bà không giống như người mẹ trong trí nhớ của tôi. Tuy vậy, tôi vẫn thấy yêu mến người mẹ này, không phải bởi vì người đã đến bên tôi và xin tôi tha thứ cho người. Mẹ đã không làm việc đó. Mẹ không cần giải thích rằng bà đã đuổi mẹ ra khỏi nhà lúc tôi đau gần chết. Mẹ không cần bảo với tôi rằng mẹ lấy ông Vũ Tinh là đánh đổi nỗi bất hạnh này lấy một nỗi bất hạnh khác. Tôi biết tất cả. Tôi vào phòng bà lúc đêm khuya. Dì tôi bảo bà đã đến giờ hấp hối và tôi phải cúng bái. Tôi mặc y phục sạch sẽ và đứng giữa dì và cậu ở chân giường bà. Tôi cũng khóc một ít, nhưng không khóc to. Tôi nhìn thấy mẹ tôi ở phía bên kia. Lặng lẽ và buồn bã. Mẹ đang nấu cháo. Bỏ thêm lá thuốc vào một nồi nước đang sôi. Rồi tôi thấy mẹ kéo tay áo lên và lấy ra một con dao sắc. Mẹ đặt lưỡi dao vào phần mềm mại nhất trên tay. Tôi cố nhắm mắt, nhưng không kịp. Mẹ cắt một miếng thịt của mình bỏ vào nồi cháo, theo kiểu chuyện ngày xưa một người con có hiếu đã cứu sống mẹ mình bằng cách nấu thịt như vậy. Mẹ mở miệng của bà ra, giờ đây đã cứng chặt vì cố giữ linh hồn lại. Rồi mẹ cho bà ăn cháo, nhưng đêm đó bà đã mất. Mặc dù tôi còn nhỏ, nhưng tôi hiểu được cơn đau thể xác và giá trị của cơn đau đó. Đấy là cách một người con gái đã tôn kính mẹ mình. Nó tiềm ẩn tận sâu trong xương người ta. Cơn đau thể xác không là gì cả. Cơn đau rồi phải quên đi. Bởi vì đôi khi quên đi là cách duy nhất để nhớ những gì trong xương của mình. Cho đến lúc đó thì không còn gì nữa cả. Không còn sẹo. Không còn da. Không còn thịt. * * * CHUNG LINH ĐA NGỌN NẾN ĐỎ Mẹ đã có lần hi sinh cuộc đời mẹ để giữ tròn lời hứa với song thân. Đối với con, lời hứa chẳng có ý nghĩa gì. Một đứa con gái đã hứa ăn cơm tối, nhưng nếu nó bị nhức đầu, bị kẹt xe, nếu nó muốn xem một phim nó thích trên truyền hình, nó không còn giữ lời hứa nữa. Mẹ cũng xem cùng một cuốn phim ấy, vào lúc con không chịu đến ăn tối. Một chàng lính Mĩ hứa trở về và cưới cô gái. Cô khóc nức nở bằng tình cảm chân thật của mình, còn anh nói - Hứa đi! Hứa đi! Người yêu của anh! Một khi đã hứa lời hứa của anh quí như vàng - Rồi anh đẩy nàng xuống giường. Nhưng anh ta đã không trở lại. Vàng của anh ta cũng giống như của con, chỉ có mười bốn ca-ra! Đối với người Hoa, vàng mười bốn ca-ra không phải là vàng thật. Con xem chiếc vòng tay của mẹ đây. Phải là hai mươi bốn ca-ra, bên trong lẫn bên ngoài đều là vàng ròng. Bây giờ quá muộn để mẹ thay đổi được tính tình con, nhưng mẹ kể cho con nghe câu chuyện này vì mẹ lo lắng cho con của con. Mẹ lo có ngày nó sẽ nói - Cám ơn bà ngoại đã cho cháu chiếc vòng. Cháu sẽ không bao giờ quên bà - Nhưng sau đó, nó sẽ quên đi lời hứa. Nó sẽ quên nó đã có một bà ngoại. Cũng trong cuốn phim chiến tranh ấy, anh lính Mĩ đã trở về nhà, quì gối xuống để cầu hôn với một cô gái khác. Đôi mắt cô gái nhìn quanh, thẹn thùng, dường như cô chưa nghĩ đến điều này trước kia. Đột nhiên cô nhìn thẳng xuống và nhận thấy giờ đây cô quả là có yêu anh ta, yêu rất nhiều đến nỗi cô muốn bật khóc - Vâng - Cô đáp, và họ thành hôn với nhau. * * * Trường hợp của tôi không phải vậy. Thay vào đó, bà mai trong làng đã đến gia đình của tôi lúc tôi chỉ mới lên hai tuổi. Không, không có ai để kể lại cho tôi nghe cả, tôi còn nhớ hết. Đó là một ngày hè, bên ngoài trời nóng bức và bụi bặm, tiếng ve kêu ran trong sân. Mọi người đang ngồi dưới bóng cây trong vườn. Các gia nhân và anh của tôi đang hái lê trên cành cao. Còn tôi đang ngồi trong vòng tay nóng bức nhơm nhớp của mẹ tôi, vẫy tay qua lại, vì trước mặt tôi là một con chim nhỏ có mồng và cánh bằng giấy mỏng đủ màu sắc đang tung tăng chao lượn. Rồi con chim vụt bay đi, và trước mặt tôi giờ đây là hai người đàn bà. Tôi nhớ họ, vì có một bà nói chuyện với giọng sũng nước, có những âm shr … shr… Khi lớn lên tôi mới biết đó là giọng Bắc Kinh, nghe rất nặng đối với người Thái Nguyên. Hai bà nhìn vào mặt tôi và không nói gì cả. Bà có giọng ướt sũng có một gương mặt đang bị chảy bong ra. Bà kia có nét mặt khô khan của một thân cây già cỗi. Bà nhìn tôi trước, rồi nhìn sang bà tô phấn. Đương nhiên bây giờ thì tôi đã biết bà thân cây là bà mai già trong làng, và bà kia là bà Hoàng, mẹ cậu con trai tôi bị buộc phải lấy. Một số người Hoa bảo rằng các bé gái vô giá trị là không đúng. Còn tùy vào đứa bé thuộc loại nào. Trong trường hợp của tôi, người ta có thể thấy được giá trị của tôi. Tôi trông thơm phức như một chiếc bánh sữa với màu da sạch sẽ ngọt ngào. Bà mối khoe khoang về tôi: - Một con ngựa nòi xứng đáng cho một con cừu nòi. Đây là một cuộc kết hợp hôn nhân tốt đẹp nhất - Bà vỗ lên cánh tay tôi, nhưng tôi hất tay bà ra. Bà Hoàng lẩm bẩm bằng giọng nói như shr… shr… của bà rằng có lẽ tính tình tôi nóng nảy khó chịu lắm. Nhưng bà mai bật cười và nói: - Không, không phải thế đâu. Nó là một con ngựa mạnh mẽ. Nó lớn lên sẽ là một người chăm làm và sẽ hầu hạ bà chu đáo lúc tuổi già. Lúc này bà Hoàng cúi xuống nhìn tôi với một gương mặt u ám chừng như bà có thể xuyên thấu các ý nghĩ của tôi và đọc được những dự định tương lai của tôi. Tôi không bao giờ quên được cái nhìn ấy. Đôi mắt bà mở to, tia nhìn của bà lục soát kĩ trên gương mặt của tôi, rồi bà mỉm cười. Tôi có thể thấy một chiếc răng vàng to kềnh lóe sáng trước mặt tôi như ánh mặt trời và cả hàm răng bà mở to như thể bà muốn nuốt chửng lấy tôi. Tôi đã được đính ước với con trai của bà Hoàng như thế đấy, mà sau này tôi mới khám phá ra rằng đó chỉ là một thằng bé, nhỏ hơn tôi một tuổi. Tên hắn là Thiên Di. “Thiên” nghĩa là “Trời”, vì hắn rất quan trọng, và “Di” nghĩa là “để lại” vì khi hắn chào đời, cha hắn bị bệnh nặng và gia đình nghĩ rằng ông ta có thể chết. Thiên Di là phần lưu lại của người cha. Nhưng người cha vẫn còn sống, và bà của hắn rất sợ ma quỉ sẽ chú ý đến đứa bé và bắt nó đi thay vì bắt người cha. Vậy là họ đã canh giữ đứa bé cẩn thận, định đoạt mọi việc cho nó, và đứa bé trở nên rất hư. Nhưng mặc dù biết tôi sẽ có một người chồng tệ như thế, tôi không còn cách lựa chọn nào khác, lúc ấy và cả về sau nữa. Những gia đình miền quê đã lạc hậu đến mức ấy. Dân ở đây luôn luôn là những người cuối cùng từ bỏ những thói tục cổ lỗ. Ở những thành phố khác, một người đàn ông có thể tự chọn vợ cho mình, dĩ nhiên là với sự cho phép của cha mẹ anh ta. Nhưng dân ở vùng miền chúng tôi không bao giờ được biết đến những tư tưởng mới, không bao giờ được nghe thấy những điều hay ở các thành phố khác, họa may có những điều dở thì họ còn nghe được. Chúng tôi nghe nói có những người con trai chịu ảnh hưởng quá mức của mấy bà vợ tệ bạc của họ, nên đuổi cha mẹ ra đường ngồi kêu khóc. Vì thế các bà mẹ ở Thái Nguyên tiếp tục tự chọn con dâu, tìm người thích hợp để nuôi dưỡng con trai của họ, săn sóc người già, và trung thành quét dọn khu nghĩa trang của dòng họ dài lâu, sau khi các bà dâu già vừa nằm xuống. Vì tôi đã được hứa hôn với con trai nhà họ Hoàng, gia đình tôi bắt đầu đối xử với tôi như thể tôi thuộc về một người nào khác. Mẹ tôi sẽ nói với tôi khi tôi đưa tô cháo lên mặt quá nhiều lần - Xem con gái bà Hoàng ăn nhiều chưa kìa! Khi ấy tôi quả thực là một đứa trẻ rất mực ngoan ngoãn, nhưng đôi khi tôi cũng có những ánh mắt khó chịu trên gương mặt, chỉ vì quá nóng nực, mệt mỏi hoặc đau đớn. Thế là mẹ tôi nói: “Thật là một bộ mặt xấu xí, gia đình họ Hoàng sẽ không muốn cưới con nữa và cả nhà ta sẽ bị nhục nhã” - Thế là tôi bật khóc to để làm cho gương mặt càng xấu xí thêm lên. - Không ích gì đâu - Mẹ tôi nói - Cả hai gia đình đã giao ước với nhau rồi, không thể nào hủy bỏ được đâu - Tôi càng khóc rống lên. Mãi đến khi lên tám hoặc chín tuổi, tôi mới được biết mặt chồng tương lai của tôi. Thế giới mà tôi biết đến chỉ là khuôn viên ngôi nhà của tôi trong ngôi làng ở vùng ven Thái Nguyên. Gia đình tôi sống trong một ngôi nhà khiêm nhường có hai tầng với một gian nhà nhỏ có hai phòng sát nhau dành cho đầu bếp, gia nhân và gia đình của họ. Nhà của chúng tôi nằm trên một ngọn đồi nhỏ. Chúng tôi gọi tên ngọn đồi này là Ba - bước - đến - Thiên - Đường, nhưng thật ra đây chỉ là một vùng đất do sông Phần bồi dần qua hàng bao thế kỉ. Ở tường phía đông của khu nhà chúng tôi là con sông, cha tôi bảo nó thích nuốt trẻ con. Ông còn bảo có lần nó đã nuốt gọn một thành phố Thái Nguyên. Vào đầu hè nước sông nâu đục. Mùa đông sông xanh biếc gợn nước lăn tăn. Ở những khúc sông rộng, nước đông lại trắng xóa. Ồ, tôi còn nhớ lúc gia đình tôi đi trên sông và câu cá vào dịp năm mới - những con cá to, bóng nhẩy bị giật lên khi đang say ngủ trong khoảng sông bị đóng băng - tươi rói đến nỗi sau khi bị moi ruột làm sạch, chúng còn giật đuôi nhảy múa khi bị ném vào chảo nóng. Đó cũng là năm mà tôi được gặp chồng tôi lần đầu tiên, khi ấy hãy còn là một cậu bé. Khi thấy pháo nổ, cậu la to: - Oa! Oa! - Miệng mở to, làm như mình không còn là trẻ nít nữa. Về sau tôi còn được gặp cậu ta vào những dịp lễ Trứng Đỏ, ngày lễ đặt tên cho các đứa trẻ đầy tháng. Cậu ta ngồi trên gối của bà, dồn hết sức nặng xuống đôi chân già yếu như muốn gãy sụn. Cậu từ chối không ăn mọi thứ người ta mời cậu, luôn luôn quay mũi đi làm như người ta mời cậu một miếng dưa ngâm hôi thối chứ không phải cái bánh ngọt ngào. Thế đấy, tình yêu đã không nảy sinh ngay lập tức giữa tôi và chồng tôi theo kiểu ngày nay người ta xem thấy trên truyền hình. Tôi nghĩ về cậu bé này như một người em bà con hay quấy rối thì đúng hơn. Tôi phải học cách lễ độ với gia đình họ Hoàng. Mẹ tôi đẩy tôi đến bên bà Hoàng và nói: - Con nói gì với mẹ con đi chứ? - Tôi cảm thấy lúng túng không biết ý bà muốn nói người mẹ nào. Thế là tôi quay sang mẹ ruột của tôi và nói: - Xin lỗi mẹ, - và tôi quay sang bà Hoàng và dâng cho bà một món ăn, tôi nói: - Con kính mời mẹ! Tôi nhớ đó chỉ là một cái bánh tiểu báo, thứ bánh bao nhỏ mà tôi rất thích ăn. Mẹ tôi bảo bà Hoàng rằng tôi đã làm thứ bánh đặc biệt này dành cho bà, mặc dù tôi chỉ chọc ngón tay vào lớp vỏ bốc khói của nó khi người đầu bếp bỏ nó ra đĩa. Cuộc đời tôi hoàn toàn thay đổi khi tôi lên mười hai tuổi, vào mùa hè, khi trời mưa tầm tã. Sông Phần dâng nước lên ngập ruộng đồng, phá hủy toàn bộ lúa mì của gia đình tôi gieo năm đó và làm hỏng đất không dùng được cho những năm tới. Ngay cả nhà của chúng tôi ở trên đỉnh ngọn đồi nhỏ cũng không thể ở được. Từ tầng hai bước xuống, chúng tôi thấy nền nhà và đồ đạc phủ đầy bùn nhớp nhúa. Sân nhà đầy những thân cây bị bật rễ, những mảng tường bị bóc ra và xác gà vịt chết. Chúng tôi nghèo đi giữa đám rác rưởi này. Người ta không thể đi đến công ty bảo hiểm và nói - Một người nào đó đã tàn phá, hủy hoại, hãy bồi thường cho tôi một triệu đô la. Vào thời đó, thật không may nếu người ta đã tận dụng hết những khả năng của mình. Cha tôi bảo không còn cách lựa chọn nào khác, cả nhà phải dọn đến Vô Tích, ở miền Nam, gần Thượng Hải, nơi đó cậu của tôi có một nhà máy xay bột nhỏ. Cha tôi giải thích rằng cả gia đình phải đi ngay, trừ tôi. Tôi đã mười hai tuổi, đủ lớn để tách khỏi gia đình sang ở bên gia đình họ Hoàng. Những con đường ngập đầy bùn và đầy dẫy các ổ gà to tướng đến nỗi không chiếc xe tải nào muốn chạy đến gần nhà. Tất cả các đồ đạc nặng và giường tủ phải bỏ lại, và những thứ đó được hứa với gia đình họ Hoàng là của hồi môn cho tôi. Làm như vậy, gia đình tôi rất đỗi thực tế. Của hồi môn thế là đủ, quá đủ là đằng khác, cha tôi bảo vậy. Nhưng ông cũng không ngăn được mẹ tôi cho thêm tôi một chiếc kiềng làm bằng đá đỏ. Bà đeo nó vào cổ tôi rất trang nghiêm, tôi biết bà rất buồn - Vâng lời gia đình chồng của con nhé, đừng làm xấu hổ gia đình ta - Bà nói - Khi con sang đó, hãy vui vẻ làm việc. Mà thực vậy, con may mắn lắm đấy! * * * Nhà của gia đình họ Hoàng cũng ở bên sông. Khi căn nhà của chúng tôi bị ngập lụt, nhà của họ vẫn không bị gì, vì xây trên cao. Đây là lần đầu tiên tôi nhận biết được rằng nhà họ Hoàng có địa vị cao hơn gia đình tôi. Họ khinh rẻ gia đình chúng tôi, bây giờ tôi hiểu tại sao hai mẹ con bà Hoàng và Thiên Di có những chiếc mũi dài như thế. Khi đi qua chiếc cổng bằng gỗ và gạch đá của nhà họ Hoàng, tôi thấy một chiếc sân rộng với ba bốn dãy nhà nhỏ, thấp. Một vài nhà được dùng như kho chứa, những nhà khác là nhà ở của gia nhân và gia đình họ. Phía sau những mái nhà khiêm nhường này là ngôi nhà chính. Tôi đi đến gần hơn và nhìn sững ngôi nhà sẽ là mái ấm của tôi trong suốt phần còn lại của cuộc đời. Đã bao nhiêu thế hệ từng ở trong ngôi nhà này. Trông nó không thực sự cũ kỹ hoặc có gì đáng chú ý, nhưng tôi có thể biết ngôi nhà đã lớn lên theo dòng họ. Có tất cả bốn tầng lầu, mỗi tầng dành cho một thế hệ: Ông bà cố, ông bà, cha mẹ và con cái. Căn nhà trông có vẻ hỗn tạp, đã được xây dựng gấp rút nên các tầng, các phòng, chái nhà và cách bài trí được bồi thêm bằng đủ mọi kiểu phản ánh quá nhiều ý kiến của mọi người. Tầng trệt được xây bằng đá ở sông lẫn với bùn, quện với rơm. Tầng thứ hai và thứ ba làm bằng gạch nhẵn thín và lối đi đặt bên ngoài, trông như tháp lâu đài. Tầng cuối cùng có tường xây bằng đá phiến màu xám và một mái nhà đỏ che ở trên. Ðể tăng thêm phần long trọng cho ngôi nhà, người ta xây hai chiếc cột tròn to chống đỡ một mái hiên nơi lối vào cửa trước. Những chiếc cột này được sơn đỏ, cùng màu với thanh gỗ viên cửa sổ. Một người nào đó, có thể là bà Hoàng, lại còn gắn thêm những đầu rồng uy nghi vào các góc mái nhà. Bên trong căn nhà có một vẻ giả tạo khác lạ. Căn phòng đẹp duy nhất là phòng khách ở tầng trệt, chỗ bà Hoàng tiếp khách, gồm có bàn ghế bằng sơn mài màu đỏ, các chiếc gối thêu chữ Hoàng theo lối cổ, và nhiều đồ đạc quí giá, tạo nên vẻ giàu có và danh giá. Những phòng khác trong nhà đều đơn sơ, luộm thuộm và ồn ào tiếng than phiền của hai mươi người thân trong gia đình. Tôi cho rằng căn nhà đã nhỏ dần theo từng thế hệ, chật chội hơn. Mỗi phòng đều bị ngăn ra để làm thành hai phòng. Không có tiệc tùng gì lớn mừng ngày tôi đến. Bà Hoàng không treo những giải băng đỏ trong gian phòng rực rỡ ở tầng trệt. Thiên Di cũng không có ở đó để đón tôi. Thay vì vậy, bà Hoàng lại giục tôi đi nhanh lên tầng thứ hai và vào nhà bếp, nơi đây các đứa trẻ trong gia đình thường ít lui tới. Đây là chỗ dành cho đầu bếp và gia nhân. Thế là tôi đã biết chỗ đứng của tôi. Ngày đầu tiên nơi đó, tôi đã mặc chiếc áo tốt nhất, đứng tại chiếc bàn gỗ thấp để băm rau cải. Tôi không thể nào giữ đều tay. Tôi nhớ nhà đau xót trong lòng, biết rằng cuối cùng tôi đã đến nơi mà cuộc đời tôi bảo tôi thuộc về nơi ấy. Dù sao tôi cũng quyết định phải tôn trọng lời nói của cha mẹ tôi, để bà Hoàng không thể bắt lỗi mẹ tôi. Khi tôi đang nghĩ ngợi như vậy, tôi thấy một gia nhân già đang còng lưng làm cá cùng bàn liếc nhìn tôi. Tôi sợ bà ta sẽ mách với bà Hoàng thấy tôi đang khóc, vì thế tôi toét miệng cười và hét lên: - Tôi thật là một cô gái may mắn. Tôi sẽ có một cuộc sống tốt đẹp nhất. - Và trong lúc vụt nghĩ như thế, tôi đã vung tay dao sát bên mặt bà nên bà kêu lên giận dữ - “Cô điên rồi sao?” Tôi gặp Thiên Di vào buổi cơm tối. Lúc ấy, tôi đã cao hơn hắn ta cả tấc, nhưng hắn ta tỏ điệu bộ như một lãnh chúa. Tôi biết hắn thuộc loại chồng nào, vì hắn luôn cố gắng làm cho tôi phải khóc lên được. Hắn phàn nàn món canh chưa đủ nóng và hất đổ cả bát như thể một tai nạn gì lớn lắm vậy. Hắn chờ đến lúc tôi ngồi xuống sắp sửa ăn là gọi tôi làm cho hắn một bát canh khác. Hắn hỏi tại sao tôi mang bộ mặt không vui khi nhìn hắn. Qua những năm kế tiếp, bà Hoàng ra lệnh cho đám gia nhân dạy tôi may các góc nhọn trên áo gối và thêu tên họ tương lai của tôi. - Làm thế nào một người vợ có thể trông nom mọi việc trong nhà chồng cô ta, nếu cô ta chưa hề biết lấm tay lấm chân vào các công việc ấy, bà Hoàng thường dẫn lời như vậy khi bà sắp bày cho tôi một công việc mới. Tôi nghĩ bà Hoàng chẳng có khi nào lấm tay vào công việc, nhưng bà ta ra lệnh và phê bình rất giỏi. Bà nói với người bếp - Phải dạy cô ấy vo gạo cho trắng, nước phải trong. Chồng cô ấy không thể ăn gạo đục ngầu được. Một lần khác, bà bảo một gia nhân dạy tôi đánh bô nước tiểu cho sạch - Bảo cô ấy phải ghé sát mũi vào ngửi để bảo đảm rằng bô đã sạch - Tôi đã học cách làm một người vợ hiền như thế đấy. Tôi phải học nấu ăn thật giỏi đến nước có thể chỉ ngửi mùi là biết được thịt mặn. Tôi có thể dùng những mũi kim rất nhỏ để thêu như vẽ. Ngay cả bà Hoàng cũng giả vờ phàn nàn bà ít khi được quăng áo dơ ra cho tôi giặt, vì thế bà cứ phải mặc bộ quần áo ấy qua nhiều ngày. Sau một thời gian, tôi không còn cho rằng đây là một cuộc sống kinh khủng nữa, thực sự không phải thế. Còn gì sung sướng hơn được thấy mọi người ngấu nghiến món nấm và măng óng mượt mà tôi đã góp tay nấu lên? Còn gì mãn nguyện hơn được bà Hoàng gật gù vỗ đầu tôi khi tôi đã chải xong một trăm nhát lược trên tóc bà? Còn gì hạnh phúc hơn được thấy Thiên Di ăn hết một tô mì đầy mà không phàn nàn về mùi vị lẫn nét mặt của tôi khi dọn lên? Cũng giống những người phụ nữ mà người ta thấy trên truyền hình Mỹ ngày nay, những người trông rất sung sướng khi tẩy được vết dơ trên quần áo để biến chúng trông tốt như mới. Ai có thấy được bà Hoàng gần như dội cả nếp nghĩ thấm vào da của tôi không? Tôi bỗng xem Thiên Di như một vị thần, một người có ý kiến quí giá hơn gấp nhiều lần cuộc đời của riêng tôi. Tôi bỗng xem bà Hoàng như mẹ ruột của tôi, người tôi muốn làm vừa lòng, người tôi phải noi gương và nhất mực vâng lời. Khi tôi lên mười sáu vào đầu năm mới, bà Hoàng bảo tôi, bà sẵn sàng chào đón đứa cháu nội vào mùa xuân tới. Ngay cả nếu tôi không muốn kết hôn, tôi biết đi đâu khác để sống? Dù tôi có khỏe như ngựa, làm thế nào tôi trốn đi được? Quân Nhật đã hiện diện trên khắp nẻo đường Trung Quốc. * * * - Quân Nhật xuất hiện như những vị khách không mời mà đến. Bà của Thiên Di nói - Thế nên những người khác sợ không dám đến. Bà Hoàng hoạch định kế hoạch chu đáo dẫu sao, đám cưới của chúng tôi cũng rất nhỏ. Bà mời hết thân bằng quyến thuộc trong làng và cả những thành phố khác đến dự. Vào thời đó, người ta chưa dùng hình thức RSVP[1]. Nếu không đến được cũng không có gì là bất lịch sự. Còn bà Hoàng lại không cho rằng chiến tranh làm thay đổi thiện ý của mọi người, thế nên bà bảo gia nhân chuẩn bị hàng trăm món ăn. Các bàn ghế cũ của gia đình tôi được đánh bóng ngời và mang bày ở phòng khách. Bà Hoàng để ý truyền cho người nhà cọ rửa sạch bùn đất bám trên đó. Bà còn sai người viết những lời chúc tụng trên băng đỏ, làm như cha mẹ tôi đã trang trí những thứ này để mừng tôi hạnh phúc. Bà còn thu xếp để thuê cả một chiếc kiệu đỏ để khiêng tôi từ nhà của một người láng giềng đến lễ cưới. Có nhiều việc không may đã xảy ra vào ngày cưới của tôi, mặc dù bà mai đã chọn kỹ ngày tốt, ngày rằm tháng Tám, vào dịp trăng tròn nhất trong năm. Nhưng một tuần trước ngày trăng tròn, bọn Nhật đã đến. Chúng xâm lăng tỉnh Tràng Thi, cả những tỉnh ven vùng chúng tôi ở, dân chúng rất hoang mang. Buổi sáng ngày rằm, ngày cưới của tôi, trời lại mưa, một dấu hiệu xấu. Khi trời bắt đầu sấm chớp vang lên, người ta không biết có phải tiếng bom của Nhật hay tiếng sấm, và sợ không dám ra khỏi nhà. Tôi nghe nói bà Hoàng đã chờ đợi hàng nhiều giờ để có thêm người đến dự, và cuối cùng, khi bà biết không thể chờ thêm được nữa, bà cho cử hành hôn lễ. Lúc ấy, tôi đang ở tại nhà người láng giềng. Khi người ta gọi tôi xuống để mời vào kiệu, tôi đang ngồi trên chiếc bàn trang điểm nhỏ kê bên cửa sổ. Tôi bật khóc và cay đắng nghĩ đến lời hứa của cha mẹ. Tôi tự hỏi tại sao định mệnh của tôi phải được người khác quyết định, tại sao tôi phải có một cuộc sống bất hạnh để mang hạnh phúc đến cho một người khác. Từ chỗ ngồi bên cửa sổ, tôi thấy được sông Phần với những làn nước đục bùn nâu. Tôi nghĩ đến việc trầm mình xuống sông để hủy đi niềm sung sướng của gia đình tôi. Người ta thường hay có những ý tường lạ lùng khi người ta thấy cuộc đời mình dường như sắp sửa kết liễu. Trời lại mưa, giờ thì chỉ còn lất phất. Dưới nhà, người ta lại gọi tôi mau xuống để đi. Các tư tưởng càng thôi thúc trong đầu tôi hơn. Tôi tự hỏi, điều gì đúng về một con người? Tôi có thay đổi được như sông đổi mầu nước, nhưng vẫn là tôi không? Rồi tôi thấy gió thổi tốc bức màn, bên ngoài mưa rơi nặng hạt thêm làm mọi người giận dữ hét to lên gọi tôi. Tôi mỉm cười, lần đầu tiên tôi thấy được sức mạnh của gió. Tôi không thể thấy được gió, nhưng tôi thấy gió đã mang nước đổ đầy sông và tạo dáng cho miền quê. Gió làm mọi người hét lên vui mừng và nhảy múa. Tôi lau mắt nhìn vào gương. Tôi ngạc nhiên thấy mình mặc áo màu đỏ đẹp đẽ, nhưng tôi đã thấy một điều khác cũng còn quí giá hơn nhiều. Tôi mạnh mẽ. Tôi trong sạch. Tôi có những tư tưởng chân thật ẩn giấu bên trong không ai thấy được và không ai lấy đi được. Tôi như cơn gió. Tôi ngẩng đầu lên và tự hào cười với chính mình. Rồi tôi quàng chiếc khăn thêu màu đỏ trên đầu như để giấu đi những tư tưởng của mình. Nhưng bên dưới chiếc khăn, tôi vẫn biết tôi là ai. Tôi đã tự hứa với mình: Tôi sẽ luôn luôn nhớ đến những mong muốn của cha mẹ tôi, nhưng tôi không bao giờ quên đi chính bản thân mình. Khi tôi đến nơi cử hành lễ cưới, tôi vẫn còn che mặt bằng tấm khăn đỏ nên không thể thấy gì trước mặt cả. Nhưng khi cúi đầu tới trước, tôi thấy được qua khe vải, rất ít người đến. Tôi thấy gia đình họ Hoàng cùng những người thân trong nhà hay càu nhàu, than phiền, giờ đây đang đứng lúng túng vì số người tham dự quá ít ỏi, tôi thấy ban nhạc chơi vĩ cầm và thổi sáo. Thêm một vài người trong làng đủ can đảm đi ra ngoài để đến dự một bữa ăn miễn phí. Tôi còn thấy gia nhân và con cái họ, những người phải được góp thêm vào cho buổi lễ được đông hơn. Ai đó đã nắm tay và dìu tôi xuống một lối đi. Tôi như người mù đang lần bước đến định mệnh của mình. Nhưng tôi không còn khiếp sợ nữa. Tôi đã có thể thấy được những gì bên trong con người tôi. Một người có chức phẩm cao điều khiển cuộc lễ, và ông ta nói quá nhiều về các nhà hiền triết và những bậc phẩm hạnh. Rồi đến bà mai lại nói về ngày sinh tháng đẻ của chúng tôi, về sự xứng hợp và khả năng phát triển giống nòi. Tôi cố hé tấm khăn che đầu thấy bà đang mở một tấm khăn lụa đỏ trình cho mọi người xem. Cây nến có hai đầu để thắp. Một đầu chạm chữ vàng tên của Thiên Di, và đầu kia là tên của tôi. Bà mai đốt hai đầu nến và tuyên bố “Cuộc hôn nhân bắt đầu”. Thiên Di giật chiếc khăn ra khỏi mặt tôi và mỉm cười với thân nhân và bè bạn, nhưng không màng nhìn đến tôi. Hắn làm tôi nhớ đến một con công hồi trẻ tôi đã nhìn thấy, làm như hắn vừa mới chinh phục cả khoảng sân bằng cách phe phẩy chiếc đuôi hãy còn ngắn ngủn của mình. Tôi thấy bà mai đặt ngọn nến đỏ vừa thắp vào một giá đèn mạ vàng và trao nó cho một gia nhân của bà đang đứng nhìn với vẻ sốt ruột. Người này phải theo giữ ngọn nến suốt buổi tiệc và cả đêm, không cho đầu nào được tắt. Buổi sáng, bà mai hẳn sẽ đến xem kết quả, còn lại một chút tro đen, và bà sẽ tuyên bố - Ngọn nến đã được cháy liên tục ở cả hai đầu không hề tắt, đây là một cuộc hôn nhân không thể cắt chia. Tôi vẫn còn nhớ như thế. Ngọn nến ấy là một sợi dây hôn nhân ràng buộc còn mạnh mẽ hơn lời thề ước không từ bỏ nhau của đạo Thiên chúa. Có nghĩa là tôi không thể ly dị và tôi không thể tái giá, ngay cả nếu Thiên Di có chết đi. Ngọn nến đó xem như đã niêm kín tôi đời đời với chồng tôi và gia đình chồng, không được viện cớ gì để mai sau thoát ra được. Chắc chắn rằng bà mai sẽ lên tiếng tuyên bố vào sáng hôm sau để mọi người thấy bà đã hoàn thành nhiệm vụ. Nhưng tôi biết việc gì thực sự sẽ xảy ra, bởi vì tôi đã thức cả đêm khóc cho cuộc hôn nhân của mình. * * * Sau bữa tiệc, đám người ít ỏi tham dự xô đẩy và gần như khiêng chúng tôi lên tầng lầu thứ ba, đến phòng ngủ nhỏ xíu. Người ta cười đùa vang vang và lôi những đứa bé nấp dưới giường ra. Bà mai giúp lũ trẻ lấy những quả trứng đỏ người ta dấu dưới chăn của chúng tôi. Những cậu trai trạc bằng tuổi Thiên Di bắt chúng tôi ngồi cạnh nhau trên giường và mọi người bắt chúng tôi hôn nhau đến đỏ bừng cả mặt. Pháo nổ vang trên lối đi bên ngoài cửa sổ và có ai đó đã bảo rằng đây là một dịp tốt để tôi lấy cớ hoảng sợ nhảy vào vòng tay của chồng. Sau khi mọi người đã rời khỏi phòng, chúng tôi vẫn ngồi bên nhau lặng yên, lắng nghe những tiếng cười nói xôn xao bên ngoài. Khi tất cả đã lặng im, Thiên Di nói: “Đây là giường của tôi. Cô ngủ trên ghế dài kia!”. - Hắn ném cho tôi một chiếc gối và một chiếc chăn mỏng. Tôi vô cùng mừng rỡ. Tôi chờ đến khi hắn ngủ thiếp đi mới nhẹ nhàng đứng lên và đi xuống cầu thang, bước ra khoảng sân nhà mờ tối. Trời bên ngoài có vẻ như lại sắp sửa mưa. Tôi bật khóc, bước đi bằng đôi chân trần và cảm thấy hơi nóng ẩm vẫn còn âm ỉ bên trong những viên gạch. Tôi đi qua sân và thấy gia nhân của bà mai nơi một cửa sổ thắp đèn vàng. Cô ta đang ngồi ở bàn, trông có vẻ rất buồn ngủ trong khi ngọn nến đặt trên chiếc giá đặc biệt bằng vàng vẫn đang cháy. Tôi ngồi xuống một gốc cây để dõi trông định mệnh quyết định đời tôi. Chắc tôi đã thiếp ngủ đi, vì tôi nhớ đã giật mình sực tỉnh vì tiếng sấm vang rền. Đó là lúc tôi trông thấy ả gia nhân của bà mai từ trong phòng chạy ra, hoảng sợ như một con gà sắp mất đầu. Ồ, thì ra ả cũng đang ngủ gà ngủ gật, và bây giờ cho rằng quân Nhật sắp đến. Tôi bật cười. Cả bầu trời lóe lên sáng rực và sấm chớp càng rền vang. Ả chạy nhanh khỏi sân, ra tới đường và tôi nghe tiếng đá sỏi lào xào dưới chân ả. Ả định chạy đi đâu cho khỏi, tôi tự hỏi và vẫn còn buồn cười. Rồi tôi trông thấy cây nến đỏ với ngọn lửa đang lung linh trong gió. Tôi không nghĩ ngợi gì cả khi chân chạy qua sân, đến bên căn phòng thắp đèn vàng. Tôi đang hy vọng - Tôi cầu nguyện Phật Bà, và cả vầng trăng tròn - cho ngọn nến tắt đi. Tia lửa chao đảo một chút và hơi yếu đi, nhưng cả hai đầu nến vẫn không tắt. Tôi ngập tràn hy vọng ngọn lửa đầu nến bên chồng tôi sẽ tắt đi. Đột nhiên tôi rùng mình sợ hãi. Tôi tưởng như một lưỡi đao sẽ hiện ra để chém tôi ngã xuống chết. Hay trời sẽ mở ra và thổi tôi bay đi. Nhưng không có việc gì xảy ra, và khi hoàn hồn, tôi vội vàng trở về phòng bằng những bước chân tội lỗi. Buổi sáng hôm sau bà mai hãnh diện tuyên bố trước mặt Thiên Di, cha mẹ hắn và chính tôi: “Công việc của tôi đã hoàn tất” - Bà đổ phần tro đen còn sót lại lên trên mảnh vải đỏ. Tôi trông thấy cái nhìn buồn rầu ảm đạm trên gương mặt thoáng vẻ xấu hổ của ả gia nhân. * * * Tôi cố yêu Thiên Di, nhưng không phải kiểu người ta bây giờ nghĩ đâu. Ngay từ đầu tôi luôn luôn cảm thấy ghê tởm khi nghĩ đến một ngày nào hắn sẽ leo lên người tôi để làm việc ấy. Mỗi khi bước vào phòng ngủ, tôi đều cảm thấy dựng tóc gáy. Nhưng suốt mấy tháng liền hắn không hề chạm đến tôi. Hắn ngủ trên giường hắn, tôi ngủ ở dưới chiếc ghế dài của tôi. Trước mặt cha mẹ chồng, tôi luôn luôn là một người vợ phục tùng, đúng như họ dạy tôi. Tôi sai bà bếp mỗi sáng giết thịt một con gà tơ và hấp cho đến khi nước ngọt trong mình gà chảy ra. Tôi gạn nước này vào trong một cái bát, không bao giờ pha thêm nước lã, rồi bê vào cho chồng dùng điểm tâm, và thầm thì những lời chúc sức khỏe hắn. Mỗi đêm, tôi hầm món súp đặc biệt không những rất ngon mà còn có tám vị thuốc bắc để tăng cường tuổi thọ cho mẹ chồng tôi. Điều này đã làm đẹp lòng bà rất nhiều. Nhưng như thế vẫn chưa đủ làm nhà sung sướng. Một buổi sáng nọ, bà Hoàng và tôi đang cùng ngồi thêu trong phòng, tôi đang mơ về thời niên thiếu của mình, về một con ếch tôi nuôi và đặt tên là Ðại Phong. Bà Hoàng có vẻ bồn chồn không yên, dường như bà bị nhọt ngứa ngáy dưới gót chân. Tôi nghe bà kêu lên gắt gỏng rồi bất thình lình đứng bật dậy, bước đến bên tôi và tát vào mặt tôi: “Đồ vợ hư! Nếu mày không chịu ngủ với con ta, ta sẽ không lo cho mày ăn mặc nữa! - Thế là tôi biết chồng tôi đã nói gì để tránh cơn giận của mẹ. Tôi cũng giận sôi lên, nhưng tôi không nói gì hết, vì nhớ lại lời hứa với cha mẹ phải là một người vợ biết phục tùng. Ðêm đó, tôi ngồi trên giường của Thiên Di và chờ hắn chạm vào người tôi. Nhưng hắn không làm gì cả. Tôi cảm thấy nhẹ bớt âu lo. Đêm kế tiếp, tôi nằm hẳn lên giường, sát bên hắn. Hắn vẫn không chạm đến tôi. Đêm tiếp theo nữa, tôi cởi áo ra. Đó là lúc tôi thấy được nội tâm của Thiên Di. Hắn hoảng sợ và quay mặt đi. Hắn không cảm thấy thèm muốn tôi, nhưng chính sự sợ hãi của hắn cho tôi biết hắn không hề biết thèm muốn bất cứ người đàn bà nào khác. Hắn như một cậu bé không bao giờ biết trưởng thành. Sau một lúc, tôi không còn cảm thấy sợ nữa. Tôi bắt đầu nghĩ khác hơn về Thiên Di. Đó không phải là kiểu vợ yêu chồng nữa mà là một người chị che chở cho đứa em. Tôi mặc áo vào nằm xuống bên cạnh, xoa lưng cho hắn. Tôi không còn phải sợ hãi nữa cả. Tôi ngủ chung với Thiên Di. Hắn sẽ không bao giờ chạm đến người tôi và tôi có được một chiếc giường thoải mái để ngả lưng. Nhiều tháng trôi qua, cả bụng lẫn ngực tôi đều nhỏ và phẳng lì, bà Hoàng lại nổi giận nữa - Con ta bảo hắn đã gieo đủ hạt giống cho hàng ngàn đứa cháu nội. Thế mà chúng đâu rồi! - Sau đó bà giam tôi trong giường để những hạt giống của cháu bà không bị vương vãi ra ngoài dễ dàng. Ôi, ai cho rằng được nằm suốt ngày là sướng lắm ư? Nhưng tôi nói cho biết nó còn khổ hơn ở tù nữa. Tôi nghĩ bà Hoàng chắc cũng có hơi điên. Bà bảo gia nhân cất hết những vặt sắc bén ra khỏi phòng, bà cho rằng dao và kéo sẽ cắt đứt thế hệ kế tiếp của bà. Bà cấm tôi không được thêu may. Bà bảo tôi phải tập trung tư tưởng và không nghĩ ngợi chuyện gì khác ngoài chuyện có con. Một ngày bốn lần, một cô tớ gái rất dễ thương được sai đến phòng tôi, luôn miệng xin lỗi phải bắt tôi uống một thứ thuốc có mùi vị kinh khủng. Tôi ganh tỵ với cô gái này, vì cô được thong dong ra khỏi phòng. Đôi khi tôi nhìn cô qua cửa sổ, hình dung cô đang đứng ngoài sân, mặc cả với ông sửa giầy dép dạo, tán gẫu với các cô hầu khác, lên giọng quở trách anh đưa thư bằng vẻ châm chọc. Một ngày kia, sau hai tháng trôi qua và không mang lại kết quả gì, bà Hoàng gọi bà mai già đến nhà. Bà mai xem xét tôi kỹ, tra lại ngày giờ sinh của tôi và hỏi bà Hoàng về tình tình của tôi. Cuối cùng bà đưa ra kết luận: - Giờ thì mọi việc rõ ràng rồi. Một người đàn bà có thể sinh đẻ được nếu thiếu một trong ngũ hành. Con dâu của bà sinh ra đầy đủ mộc, thủy, và thổ, và cô ta còn thiếu kim, đó là dấu hiệu tốt. Nhưng khi cô ta lấy chồng, bà đã chất dìm cô ta xuống bằng những vòng vàng trang sức, nên bây giờ cô ta có đầy đủ ngũ hành rồi, kể cả kim. Cô ta bây giờ thăng bằng quá mức nên không có con được. Ðiều này đối với bà Hoàng là một tin vui, vì bà thích lấy lại vòng vàng nữ trang hơn bất cứ việc gì khác, để giúp tôi có thể sinh sản được. Về phần tôi cũng là tin vui, vì sau khi vàng vòng được lấy ra khỏi người tôi, tôi nhẹ nhàng hơn, tự do hơn. Người ta bảo thế đối với người thiếu chất kim. Người ấy bắt đầu suy nghĩ như một người độc lập. Ngày hôm đó tôi bắt đầu suy nghĩ cách để thoát khỏi cuộc hôn nhân này mà không mất lời hứa với gia đình tôi. Thật đơn giản thôi. Tôi phải làm cho gia đình họ Hoàng nghĩ rằng chính họ đã từ bỏ tôi, rằng họ sẽ là người tuyên bố giao kèo hôn nhân giữa chúng tôi không còn hiệu lực nữa. Tôi suy nghĩ về kế hoạch của mình mất nhiều ngày. Tôi quan sát những người chung quanh tôi, những ý nghĩ hiện lên trên gương mặt họ, thế là tôi đã sẵn sàng. Tôi chọn một ngày tốt lành, ngày mồng ba tháng ba. Đó là ngày lễ Thanh minh. Vào ngày này, người ta giữ tư tưởng trong sáng để nghĩ về các đấng tổ tiên. Đó là ngày mọi người đi thăm mồ mả ông bà, thân nhân. Họ mang cuốc xẻng để phát quang cỏ, mang chổi để quét dọn và mang bánh bao và cam để cúng dâng. Ồ, đó không phải là một ngày u sầu, ngày đó giống như một buổi cắm trại ngoài trời, nhưng đối với một người mong có cháu, ngày ấy lại có một ý nghĩa đặc biệt. Buổi sáng hôm ấy, tôi kêu la rên rỉ đánh thức Thiên Di và cả nhà dậy. Phải mất một lúc lâu sau bà Hoàng mới vào phòng tôi. “- Cô ta làm sao thế”. Bà từ trong phòng kêu lên - “Đi bảo cô ta yên nào” - Mãi sau tôi vẫn không ngừng rên rỉ, nên bà chạy vào và cao giọng mắng tôi. Tôi đưa một tay lên giữ chặt lấy miệng, còn tay kia che ngang mắt. Người tôi oằn oại như đang chịu đựng một cơn đau khủng khiếp. Tôi đã làm cho bà tin, nên bà giật lùi, thu người lại như một con thú đang sợ hãi. - Con có sao không, con gái nhỏ? Nói cho mẹ biết nhanh đi - Bà kêu lên. - Ôi, quá khủng khiếp, con không dám nghĩ đến, không dám nói ra - Tôi nói giữa cơn thở dốc và rên la nhiều hơn. Sau khi kêu gào đã đủ, tôi nói “Con vừa nằm mơ” - Tôi thuật lại - “Tổ tiên của con hiện ra và nói rằng họ muốn trông thấy lễ cưới của con và Thiên Di. Thế là con và Thiên Di cử hành hôn lễ giống như hôm nọ. Con thấy bà mai thắp nến và trao nó cho cô hầu để canh chừng ngọn lửa. Tổ tiên rất đỗi vừa lòng.” Bà Hoàng có vẻ nóng ruột khi tôi bật khóc nức nở trở lại. “- Nhưng cô hầu đã bỏ phòng đi ra ngoài, nên một cơn gió mạnh đã lùa vào và làm tắt nến. Tổ tiên giận lắm. Họ quát lên rằng cuộc hôn nhân của chúng con phải chấm dứt! Họ nói rằng đầu nến bên Thiên Di đã bị thổi tắt, nên Thiên Di sẽ chết nếu anh ấy duy trì cuộc hôn nhân này”. Mặt Thiên Di trắng bệch ra, còn bà Hoàng chỉ cau mày. “- Thật là một con bé ngu ngốc mới nằm mơ xấu như thế”. Rồi bà mắng mọi người đi trở về giường. - Mẹ ơi! - Tôi gọi bà khàn tiếng - Mẹ đừng bỏ con lại, con sợ lắm! Tổ tiên bảo rằng nếu việc này không được giải quyết xong, họ sẽ bắt đầu chu trình tiêu diệt. - Thật là nhảm nhí! - Bà Hoàng kêu lên, quay lưng về phía tôi. Thiên Di theo chân bà, cũng mang sắc mặt giống như mẹ. Tôi biết họ đã bị mắc bẫy rồi, hai chú vịt đang sa vào nồi. - Họ biết mẹ sẽ không tin con - Tôi nói bằng giọng tiếc nuối - Bởi vì họ biết con không muốn rời xa những tiện nghi do cuộc hôn nhân này mang lại. Vì thế tổ tiên nói họ sẽ gieo các dấu hiệu, để cho thấy cuộc hôn nhân của chúng con đang mục nát. - Thật là toàn chuyện nhảm nhí xuất phát từ đầu óc ngu si của mi. - Nhưng bà cũng không dằn được - Thế dấu hiệu chi? - Trong giấc mơ, con thấy một ông râu dài và có nốt ruồi trên má. - Ông nội của Thiên Di à? - Bà Hoàng hỏi. Tôi gật đầu, nhớ lại bức tranh vẽ tôi đã quan sát kỹ trên tường. - Ổng bảo sẽ có ba dấu hiệu. Đầu tiên, ông vẽ một đốm đen trên lưng của anh Thiên Di, và đốm đen này sẽ lan rộng ra và ăn mòn dần thịt của anh. Bà Hoàng quay ngay sang Thiên Di và kéo áo hắn lên - Ai da! - Bà kêu lên, bởi vì ở đó quả có một nốt ruồi đen, cỡ bằng đầu ngón tay, nốt ruồi tôi đã nhìn thấy năm tháng trước đây khi ngủ chung với hắn như chị em. - Rồi tổ tiên còn tát vào miệng con - Tôi vỗ vào má như thể đã bị ai làm đau rồi - Ông nói răng của con sẽ lần lượt rụng hết, cho đến khi con không thể nào chống lại mà phải từ bỏ cuộc hôn nhân này. Bà Hoàng nhìn vào miệng tôi và ngạc nhiên khi thấy một chỗ trống ở hàm trong, nơi mà cách đây bốn năm một chiếc răng sâu đã rụng đi. - Cuối cùng con thấy ông gieo một hạt giống vào lòng của một cô tớ gái. Ông bảo cô này giả vờ xuất thân từ một gia đình bần hàn. Nhưng thực ra cô ta thuộc dòng máu vương giả và... Tôi nằm gieo đầu xuống gối mệt mỏi không còn tiếp tục được nữa. Bà Hoàng lay vai tôi - Ông nói gì nữa? - Ông nói rằng cô tớ gái kia mới chính là người vợ tinh thần đích thực của Thiên Di. Giữa ngày hôm đỏ, họ kéo cô hầu của bà mai về nhà để lấy được lời thú tội khủng khiếp của cô ta. Sau khi thăm dò kỹ, họ tìm ra được cô tớ gái mà tôi rất thích, cô tớ mà tôi đã nhìn thấy qua cửa sổ mỗi ngày. Trước đây, tôi đã thấy đôi mắt của cô càng mở to hơn và lời nói châm chọc của cô được hạ bớt mỗi khi anh chàng đưa thư đến. Sau đó, tôi lại nhìn kỹ thấy bụng cô ngày một tròn và gương mặt cô ngày một chảy dài ra vì lo lắng và sợ hãi. Thế cho nên hãy tưởng tượng cô ta sung sướng đến chừng nào khi người ta bắt buộc cô phải nói lên sự thật về nguồn gốc vương giả của cô. Tôi nghe nói sau đó cô ta rất đỗi sững sờ vì điều huyền diệu cô được lấy Thiên Di, và cô đã trở nên một người chu đáo đến nỗi cô truyền cho người hầu quét dọn mồ mả ông bà không chỉ mỗi năm một lần, mà mỗi ngày đều phải quét. Câu chuyện không còn gì thêm nữa. Họ không phiền trách gì tôi nhiều. Bà Hoàng có cháu nội. Tôi có quần áo, một chiếc vé tàu đi Bắc Kinh và đủ tiền để sang Mỹ. Gia đình họ Hoàng chỉ yêu cầu đừng bao giờ kể cho ai nghe những điều quan trong về cuộc hôn nhân đứt đoạn của tôi. * * * Đó là một câu chuyện có thật, về việc mẹ đã giữ lời hứa đến thế nào, đã hy sinh đời mẹ đến dường nào. Con nhìn vàng mẹ đang đeo đây. Mẹ sinh các anh con và cha tặng mẹ hai chiếc vòng vàng này đây. Rồi mẹ sinh ra con. Cứ cách một vài năm, khi mẹ có dư ít tiền mẹ lại mua vòng. Mẹ biết mẹ đáng giá thế nào. Tất cả đều là vàng hai mươi bốn ca-ra, đều là vàng nguyên. Nhưng mẹ không bao giờ quên. Vào ngày lễ Thanh minh, mẹ cởi bỏ hết tất cả vàng vòng. Mẹ nhớ lại cái ngày mà cuối cùng mẹ nhìn ra được tư tưởng đích thực của mình và có thể theo được sự dẫn dắt của nó. Đó là ngày mẹ còn là một có thiếu nữ dấu khuôn mặt dưới tấm khăn cưới màu đỏ. Mẹ đã hứa không được quên đi chính mình. Giá được trở lại làm cô thiếu nữ ấy thì hay biết bao, để được cởi bỏ khăn choàng, để thấy được điều bên dưới và cảm nhận ánh sáng tràn vào người! St. CLAIR CHÂN ẢNH HẰNG NGA Trong nhiều năm nay tôi kín miệng để những ước muốn ích kỷ không rơi được ra ngoài. Và vì tôi đã im lặng quá lâu nên bây giờ con gái tôi không nghe tôi. Cô ta ngồi bên bờ hồ bơi sang trọng và nghe máy Sony Walkman, máy điện thoại không dây, ông chồng to tướng quan trọng của nó đang hỏi tại sao phải dùng than củi mà không dùng chất đốt nhẹ hơn. Nhiều năm rồi tôi cố giấu bản chất của mình, nó vẫn chạy theo tôi như một cái bóng nhỏ không ai có thể bắt được. Và bởi vì tôi đến quá kín đáo, nên con gái tôi không thấy tôi. Cô ta đang xem xét danh mục những thứ cần mua, chiếc gạt tàn thuốc nằm chênh vênh trên bàn. Tôi muốn nói với cô ta như thế này: chúng ta bị lạc lối, cả cô ấy và tôi, không ai thấy mình và mình không thấy được gì, những người khác không ai biết đến mình. Tôi đã không để lạc lối ngay đâu. Tôi đã chà xát lên mặt nhiều năm rồi để gột rửa đi nỗi đau, như nước chảy in dấu mòn trên đá. Nhưng hôm nay tôi chợt nhớ lại thời tôi đã bỏ chạy và la hét lên, khi tôi không thể đứng yên. Ðó là hồi tưởng đầu tiên của tôi, kể cho Hằng Nga nghe ước muốn thầm kín của tôi. Và bởi vì tôi đã quen điều mình ước, nên kỷ niệm đó đã ẩn dấu bao nhiêu năm nay tôi không nhớ đến. Giờ thì tôi nhớ lại điều ước rồi, và tôi cũng hồi tưởng lại từng chi tiết của trọn ngày, rõ ràng như tôi thấy con gái tôi và những điều ngu xuẩn của đời nó. Năm 1918, năm tôi lên bốn tuổi, tết Trung Thu đến. Vào mùa thu năm ấy ở Vô Tích nóng một cách bất thường, nóng kinh khủng. Khi tôi thức dậy sáng hôm đó, ngày rằm tháng tám, chiếc chiếu cói trải trên giường tôi nhơm nhớp ấm. Mọi thứ trong phòng đều có mùi cỏ ướt. Vào đầu mùa Hè, gia nhân đậy tất cả cửa sổ bằng các tấm phên tre để che nắng. Giường nào cũng phủ chiếu, chúng tôi dùng chiếu suốt những tháng ẩm ướt thường xuyên này. Những viên gạch nóng bỏng trên sàn in bóng phên tre ô chéo. Mùa thu đã đến, nhưng không có được những buổi sáng và buổi tối mát trời. Và vì hơi nóng ôi mốc vẫn còn vương vấn nơi bóng tối phía sau những bức màn, làm bốc mùi gay gắt nơi chiếc bô của tôi, hơi nóng thấm vào trong gối nằm, miết lên gáy tôi và phà lên má, khiến tôi thức dậy sáng hôm đó với tâm trạng bực mình khó chịu. Lại còn thêm một mùi khác nữa ở bên ngoài, một mùi cháy khét, một mùi hăng hăng, nửa ngọt, nửa đắng, - “Mùi gì hôi thế?” - Tôi hỏi bà vú, người luôn luôn lo chạy đến bên giường ngay khi tôi tỉnh thức. Bà ngủ trên một chiếc giường nhỏ ở gian phòng xếp cạnh bên. - “Thì giống như vú đã giảng cho con nghe hôm qua đó” - Bà nói, đỡ tôi ra khỏi giường và đặt tôi ngồi lên đùi. Và đầu óc ngái ngủ của tôi đang cố nhớ lại những gì bà đã kể cho tôi nghe khi đi dạo buổi sáng hôm trước. Chúng ta đang đốt Ngũ quỷ à? - Tôi nói bằng giọng ngái ngủ, rồi vùng vẫy ra khỏi lòng bà. Tôi leo lên đứng trên chiếc ghế con nhìn qua cửa sổ xuống khoảng sân bên dưới. Tôi thấy một đoạn dây màu xanh cuộn thành hình con rắn, với chiếc đuôi đang cuộn lên trong làn khói vàng. Đã có hôm bà vú chỉ cho tôi xem con rắn thò ra khỏi một chiếc hộp sơn đủ màu có vẽ hình Ngũ Quỉ. Một con rắn đang bơi, một con bọ cạp đang nhảy, một con rết đang bay, một con nhện đang sa xuống và một con thạch sùng đang bật tung lên. Những con này đều có thể cắn chết trẻ con, bà vú giảng như thế. Cho nên tôi nhẹ nhõm khi nghĩ rằng người ta đã bắt được ngũ quỉ và đang đốt xác chúng. Tôi đâu biết rằng cuộn dây xanh ấy chỉ là nhang được dùng để lên xua đuổi ruồi muỗi. Ngày hôm đó, thay vì áo khoác bằng vải mỏng và quần rộng, bà vú mang ra chiếc áo khoác lụa vàng dầy và quần áo viền đen. - Hôm nay không có thì giờ để chơi đâu - Bà vú nói và mở chiếc áo có viền ra “Mẹ con đã may cho con bộ quần áo cọp mới này để mặc Tết Trung Thu” - Bà xỏ quần vào cho tôi - “Một ngày rất quan trọng đấy, và, vì bây giờ con đã lớn rồi, nên có thể dự lễ được”. - Lễ là gì thế? - Tôi hỏi khi bà vú mặc chiếc áo khoác lên bộ quần áo lót hàng vải của tôi. - Là phải xử sự cho đúng cách. Con phải làm việc này, việc kia, để Trời đừng trừng phạt con - Bà vú cài khuy cho tôi và nói. - Trừng phạt ra sao? - Tôi hỏi. - Hỏi nhiều quá! - Bà vú kêu lên - Con không cần hiểu vội. Chỉ làm thôi, bắt chước mẹ con ấy. Thắp hương lên nhé, vái chào mặt trăng, cúi đầu xuống. Đừng làm vú xấu hổ chứ, Chân Ảnh. Tôi cúi đầu và bĩu môi. Tôi thấy những dải băng đen trên cánh tay áo, những bông hoa mẫu đơn nhỏ xíu thêu bằng dải vàng. Tôi nhớ còn thấy mẹ tôi xỏ một cây kim bạc lên xuống, nhẹ nhàng, từ từ, những cành hoa cành lá hiện dần lên mặt vải. Tôi chợt nghe có tiếng nói ngoài vườn. Đứng lên ghế, tôi dõi căng mắt tìm kiếm. Có ai đó đang than phiền trời nóng, “- Xem tay tôi này, như tự xương bốc hơi ra” - Nhiều người bà con từ miền Bắc đã đến đây và ở lại cả tuần để chờ dự lễ Tết Trung thu. Bà vú cố luồn một chiếc lược to vào chải tóc cho tôi và tôi giả vờ ngã ra khỏi ghế khi bà bị vướng vào một gút tóc. - Đứng yên nào, Chân Ảnh! - Vú kêu lên, khi tôi cười khúc khích và đứng lắc lư trên ghế. Khi bà túm được tóc tôi như túm dây cương ngựa và trước khi tôi ngã ra khỏi ghế, bà nhanh tay tết tóc tôi lại thành một bím và cột vào năm dải lụa đủ màu. Bà quấn bím tóc lại một cụm như quả banh, rồi xếp, cắt dây băng thành một búi gọn ghẽ. Bà xoay tròn người tôi để ngắm công trình của mình. Tôi như bị quay nóng trong chiếc áo khoác lụa và quần dài có viền, hẳn được may với ý nghĩ dùng trong một ngày mát trời. Da đầu tôi bỏng lên vì đau đớn do công trình chú ý chăm sóc của bà vú. Ngày gì đây mà đáng phải chịu nhiều đau đớn như thế? - Xinh lắm - Bà vú nói, dù tôi đang nhăm nhe cau mày. - Hôm nay ai đến vậy? - Ai da! Hết mọi người trong gia đình - Bà hân hoan nói: - Tất cả chúng ta sẽ đi ra Ðại Hồ. Nhà ta đã thuê một chiếc thuyền với một người quản chèo nổi tiếng. Và đêm nay, tại buổi lễ, con sẽ gặp Hằng Nga. - Hằng Nga, Hằng Nga! Tôi kêu lên nhảy nhót hết sức vui mừng. Và sau khi hết ngạc nhiên vì những từ mới êm tai vừa được dịp tập nói, tôi kéo vai áo bà vú, hỏi: “Hằng Nga là ai thế?”. - Ôi! Bà sống trên mặt trăng, hôm nay là ngày duy nhất con được thấy bà và được thỏa nguyện một điều ước thầm kín của con. - Ðiều ước thầm kín là gì? - Là điều con ao ước nhưng con không dám xin. - Tại sao con không dám xin? - Bởi vì... Bởi vì nếu con... nó sẽ không còn là điều ao ước nữa mà là một điều mong muốn ích kỷ - Bà vú tiếp - Vú đã không từng dạy con đó sao, rằng nghĩ về nhu cầu riêng tư của mình là không đúng. Một cô gái không bao giờ được đòi hỏi, chỉ biết lắng nghe thôi. - Thế thì làm sao Hằng Nga biết được con ao ước điều gì? - Ai da! Con hỏi nhiều quá rồi đấy. Con có thể xin Hằng Nga vì bà không phải là người thường. Cuối cùng tôi cũng thỏa mãn không hỏi nữa, tôi nói ngay: - Như thế con sẽ cho Hằng Nga biết con không muốn mặc thứ quần áo này nữa. - A! Vú mới vừa giải thích cho con xong! Bây giờ con lại nói lên cho vú nghe rồi, vậy đó không còn là điều ước thầm kín nữa đâu! * * * Trong suốt bữa ăn sáng, không ai có vẻ vội vàng muốn đi chơi hồ cả, người này người kia nhẩn nha ăn thêm một món nữa. Rồi sau khi ăn sáng, mọi người lại cứ chuyện trò mãi về những chuyện vặt vãnh không đâu. Tôi cảm thấy bồn chồn và không vui vẻ gì hết. - Trăng Thu ấm áp. Ôi! Những bóng chim ngỗng quay về - Cha tôi đọc một bài thơ dài từ một bản khắc trên đá. - Chữ thứ ba ở dòng kế tiếp - cha tôi giải thích - bị mờ trên phiến đá, nghĩa của nó bị hàng mấy thế kỷ mưa xóa đi, xem như hậu thế bị mất đi vĩnh viễn chữ ấy rồi. - A! Nhưng may thay - Chú tôi nói, mắt ông lấp lánh - Anh là một học giả miệt mài về văn, sử cổ. Em nghĩ là anh có thể giải ra được mà. Cha tôi đọc lên trả lời - Giữa ánh sáng của hoa. Ô... Mẹ tôi trò chuyện với các dì và những bà già về cách pha trộn nhiều vị thảo mộc và côn trùng khác nhau để chế ra một thứ dầu. - Chị xoa nó vào đây, giữa hai điểm này. Xát cho mạnh, đến khi da nóng lên và cơn đau sẽ dịu đi. - Ai da! Nhưng làm sao tôi xoa được lên cái chân sưng? - Một bà già than thở - Cả bên trong lẫn bên ngoài đều nhức buốt. Sờ đến còn không được nữa là! - Tại trời nóng đấy - Một bà già khác phàn nàn - Như nấu khô nấu giòn thịt da người ta. - Và hỏng cả mắt nữa - Bà dì của tôi than. Tôi thở dài mỗi khi họ bắt đầu một đề tài mới. Bà vú cuối cùng nhận thấy được và bà cho tôi một cái bánh Trung Thu hình con thỏ. Bà bảo tôi có thể ra sân ngồi ăn bánh với hai đứa em cùng cha khác mẹ với tôi, bé Nhị và bé Tam. Rất dễ dàng để quên đi chuyện chiếc thuyền khi trẻ con có một chiếc bánh Trung Thu con thỏ trong tay. Ba đứa chúng tôi đi nhanh ra khỏi phòng, và ngay khi chúng tôi vượt qua chiếc cổng dẫn vào sân bên trong, chúng tôi xô đẩy nhau và la hét, chạy thi nhau xem ai đến chiếc băng đá trước nhất. Tôi lớn nhất, nên tôi ngồi nơi phần ghế mát, các em của tôi ngồi ngoài nắng. Tôi bẻ cho mỗi đứa một cái tai thỏ. Phần tai chỉ toàn là bột, không có nhân ngọt mà cũng không có lòng đỏ trứng bên trong, nhưng hai đứa em tôi còn nhỏ quá nên không biết gì hơn. - Chị thương em hơn - Bé Nhị nói với bé Tam. - Thương em hơn cơ - Bé Tam cãi lại. - Đừng làm ồn - Tôi bảo cả hai. Tôi ăn phần bánh thân thỏ, uốn lưỡi quanh môi để liếm hết phần nhân đậu dẻo. Chúng tôi nhặt hết những vụn bánh rơi vãi, và sau khi ăn xong, tất cả im lặng, và tôi lại cảm thấy bồn chồn. Đột nhiên, tôi thấy một con chuồn chuồn với thân hình đỏ thắm và đôi cánh trong suốt. Tôi nhảy ra khỏi ghế chạy theo đuổi bắt, và hai đứa em cũng chạy theo tôi, nhảy tung tăng và đưa tay lên bắt, nhưng chú chuồn chuồn vụt bay đi mất. - Chân Ảnh! - Tôi nghe bà vú gọi và bé Nhị, bé Tam bỏ chạy đi. Bà vú đang đứng trong sân, còn mẹ tôi cùng các bà đang đi ra cổng. Bà vú chạy tới, cúi xuống vuốt thẳng áo tôi - Quần áo của con này! Làm dơ đủ mọi chỗ rồi - Bà kêu lên khổ sở. Mẹ tôi mỉm cười bước đến chỗ tôi. Bà vuốt vài sợi tóc ương ngạnh của tôi vào nếp và xếp chúng vào dưới dải băng. - Con trai có thể chạy đuổi chuồn chuồn, bởi vì đó là bản chất của nó - Bà nói - Nhưng con gái phải đứng yên, nếu con chịu giữ yên một hồi lâu, con chuồn chuồn sẽ không còn thấy con nữa. Khi đó nó sẽ bay đến bên con và nấp bên bóng con. - Các bà già đều gật gù tán thành, và họ kéo nhau đi hết, để tôi đứng lại giữa khoảng sân nóng bỏng. Đứng lặng yên hoàn toàn như thế, tôi khám phá ra được bóng mình. Ðầu tiên nó chỉ là một đốm sẫm trên nền phên tre phủ lên gạch lát sân. Nó có chân ngắn mà tay lại dài ngoằng, thêm một bím tóc cuộn lại, như tôi. Khi tôi lắc đầu, nó lắc đầu. Chúng tôi cùng vỗ tay. Chúng tôi đưa một chân lên. Tôi quay lại, bước đi, và nó đi theo tôi. Tôi nhấc tấm phên tre lên để xem tôi có thể lột được chiếc bóng ra không, thì nó lại ở dưới tấm phên, trên nền gạch. Tôi hét lên thích thú vì chiếc bóng khôn ngoan của mình. Tôi chạy đến bóng râm dưới cây để xem chiếc bóng đuổi theo tôi. Nhưng nó biến đâu mất. Tôi yêu chiếc bóng của tôi, phần sẫm tối này của tôi cũng có một tính khí bồn chồn náo nức như tôi. Tôi lại nghe bà vú gọi tôi “- Chân Ảnh! Ðến giờ rồi. Con sẵn sàng để đi chơi hồ chưa?” - Tôi gật đầu và phóng về phía bà. “- Chậm chậm thôi chứ” - Bà vú mắng tôi. Cả gia đình chúng tôi đã đứng sẵn bên ngoài, bàn tán sôi nổi. Mọi người đều diện quần áo rất sang trọng. Cha tôi mặc bộ đồ màu nâu, trông giản dị nhưng hiển nhiên được may bằng lụa tốt và may cắt khéo. Mẹ tôi mặc áo và váy màu tương phản với tôi: Lụa màu đen có viền vàng. Các em cùng cha khác mẹ với tôi mặc áo màu hồng, và mẹ chúng cũng mặc giống vậy, đó là những hầu thiếp của cha tôi. Còn anh tôi lại mặc một chiếc áo xanh có thêu hình tựa chữ vạn của đức Phật. Ngay các bà dì cũng chọn y phục đẹp nhất để mặc: Dì của mẹ, bà nội, và người chị họ của bà, bà bác, người đẫy đà, bà cứ nhổ tóc cho hói cả trán và luôn luôn bước đi dường như bà đang băng qua một con suối trơn trợt, bà đi từng hai bước nhỏ và nhìn lên sợ hãi. Các gia nhân đã thu xếp và chất lên xe các loại lương thực căn bản để dùng trong ngày: Một giỏ mây đầy “zong-zi” - một loại xôi gói trong lá sen, mấy giỏ đựng thịt heo quay, mấy giỏ đựng mứt hạt sen, một chiếc lò nhỏ để nấu nước sôi pha trà, một giỏ đựng ly tách, bát đũa, một bao vải đựng pháo, lựu, lê, nhiều lọ đất đựng thịt và rau quả muối dưa, hàng đống hộp đựng bánh Trung thu, mỗi hộp đựng bốn cái, và dĩ nhiên còn có thêm nhiều tấm chiếu để trải ra ngủ trưa. Sau đó mọi người lên xe, các trẻ nhỏ ngồi cạnh bên các bà vú của chúng. Vào phút cuối, trước khi khởi hành, tôi vùng ra khỏi vòng tay của bà vú và nhảy ra khỏi xe để leo sang ngồi cùng xe với mẹ tôi. Việc này khiến bà vú của tôi phật ý, bởi vì cử chỉ kiêu căng của tôi và cũng bởi vì vú yêu mến tôi còn hơn chính bản thân bà. Vú đã bỏ đứa con trai ruột của mình khi chồng mất, và đến nhà tôi để ở vú. Nhưng tôi rất hư hỏng cũng tại do vú, bà chưa bao giờ dạy tôi biết suy nghĩ đứng về phía bà. Do đó, tôi xem vú như một người giúp tôi thoải mái, theo kiểu người ta nghĩ đến một cái quạt trong ngày hè hay lò sưởi lúc mùa đông, một ân phúc người ta ghi nhận và chỉ biết yêu mến khi nào người ta không còn có nó nữa. Khi chúng tôi đến hồ, tôi thất vọng khi không thấy gió mát. Những người phu kéo xe của chúng tôi ướt đẫm mồ hôi và há miệng thở dốc như những con ngựa. Tại bến đò, tôi quan sát các ông bà già bắt đầu leo lên chiếc thuyền to mà gia đình chúng tôi đã thuê. Chiếc thuyền trông như một phòng trà nổi, với phần hàng hiên ngoài trời còn rộng hơn hàng hiên trong sân nhà của chúng tôi... Có nhiều cột màu đỏ và một mái ngói có đỉnh nhọn, còn phía sau trông như một gian nhà xây ngoài vườn với các vòm cửa sổ tròn. Đến lượt chúng tôi, bà vú nắm chặt lấy tay tôi và chúng tôi cùng băng qua thanh ván bắc cầu. Ngay khi chân tôi chạm đến sàn tàu, tôi vùng thoát ra và cùng với bé Nhị và bé Tam, tôi len lỏi qua chân của các người lớn, đóng bộ trong quần áo lụa màu sẫm và màu sáng - thi nhau xem ai chạy suốt chiều dài chiếc tàu nhanh nhất. Ngay cả Đại Hồ là chiếc hồ lớn nhất ở Trung Quốc, ngày hôm đó dường như cũng chật chội vì thuyền bè: thuyền bơi chèo, thuyền đạp nước, thuyền buồm, thuyền câu, và những thuyền có mái dù như thuyền của chúng tôi. Chúng tôi lướt qua những người khác đang tựa vào lan can, khuấy tay xuống làn nước lạnh, hoặc trôi nổi bồng bềnh dưới mái dù vải hoặc dù bạt. Thình lình tôi nghe có tiếng reo lên “A! A!”... Tôi nghĩ, ngày vui bắt đầu rồi! Tôi chạy đến bên mái dù và thấy các dì, các cậu đang reo cười khi họ dùng đũa gắp những con tôm vẫn còn vặn cong người, búng tanh tách đôi chân nhỏ xíu. Thì ra chiếc lồng có mắc lưới thả xuống nước đã chứa đầy tôm tươi, cha tới nhúng một con vào sốt tương cay và bỏ vào miệng nhai ngon lành. Nhưng trò vui đó cũng nhanh chóng tàn đi, và buổi chiều trôi qua như những buổi chiều khác ở nhà. Nhiều việc linh tinh, sau bữa ăn. Vừa uống trà nóng vừa lim dim trò chuyện. Bà vú bảo tôi nằm xuống chiếu nghỉ lưng. Yên bình như mọi người, ngủ thiếp qua giờ nóng bức nhất trong ngày. * * * Mặt nước chuyển sang màu vàng sẫm, đỏ ửng, ngả sang tím, rồi cuối cùng thì đen hẳn. Bầu trời tối sầm và ánh đèn lồng đỏ bắt đầu lóng lánh khắp hồ. Tôi nghe tiếng nói cười, lúc vọng ra từ trước mũi thuyền, lúc từ các thuyền bè cạnh bên. Rồi tôi nghe tiếng cửa gỗ ở nhà bếp mở ra và đóng sầm lại, rồi không gian sực nức mùi thơm ngào ngạt. Tiếng người hò reo vui vẻ dưới mái dù - “A! Nhìn cái này xem! Cái này nữa!” - Tôi thèm được ở đó giờ này. Tôi đu đưa chân, lắng nghe tiếng người cười nói trong bữa tiệc. Mặc dù vào đêm, nhưng vẫn sáng đủ để tôi thấy bóng mình, chân tôi, tay tôi tựa mạn thuyền, tôi thấy cả mặt tôi nữa. Tôi biết tại sao lại sáng như vậy. Dưới bóng nước sẫm, tôi thấy vầng trăng tròn, thật to và ấm áp như mặt trời. Tôi quay xung quanh để tìm Hằng Nga nói cho bà nghe ước nguyện thầm kín của tôi. Nhưng ngay lúc ấy, chắc một người nào khác đã thấy được bà, vì pháo nổ vang trời, và tôi rơi tõm xuống nước, không nghe được ngay cả tiếng rơi của mình. Tôi ngạc nhiên vì sự mát lạnh dễ chịu của làn nước, nên thoạt tiên không thấy sợ. Tựa như một giấc ngủ nhẹ tênh. Tôi chợt mong bà vú đến ngay để đưa tôi lên, vì ngay lúc đó tôi bắt đầu cảm thấy ngạt thở. Tôi đập tay đập chân dưới nước. Con nước nhọn xoáy tràn vào mũi tôi, vào cổ họng, vào mắt, làm tôi càng quẫy đập thêm hơn. - “Vú ơi!” - Tôi cố kêu lên, giận bà đã bỏ rơi tôi, để tôi phải đứng chờ đợi và chịu đựng không cần thiết. Chợt một bóng đen ập lên tôi, và tôi nhận ra đó là một vật trong Ngũ Quỷ, một con rắn bơi. Nó quấn lấy tôi, siết lại như một tấm bọt biển, rồi tung tôi lên không. Tôi ngã đập đầu xuống một tấm lưới đan bằng những sợi thừng đầy cá giẫy giụa. Nước vọt ra từ miệng tôi, và tôi rên lên nghẹt thở. Khi quay đầu lại, tôi thấy bốn bóng người với vầng trăng sau lưng họ. Một bóng người ướt sũng nước đang leo lên thuyền, thở dốc và nói: - Nhỏ quá phải không? Ta quăng trở xuống nhé? Hay cũng đáng giá ít tiền đấy chứ? - Những người khác phá lên cười, còn tôi thi lặng im. Tôi biết những người này là ai. Khi vú và tôi đi ngang qua những người này trên đường, bà đã lấy tay che mắt và bịt tai tôi lại. - Thôi đi! - Có tiếng đàn bà trên thuyền mắng - Chúng mày làm cho nó sợ rồi. Nó cho rằng bọn ta là quân cướp bóc định bán nó đi làm nô lệ đấy! - Rồi bà đổi giọng nhẹ nhàng - Em ở đâu đến vậy, em nhỏ? Ông ướt mèm cúi xuống nhìn tôi - Ồ, một con nhỏ hả? Không phải cá à? - Không phải cá! Không phải cá! - Những người khác cười khúc khích khoái trá. Tôi bắt đầu run lên, sợ quá không khóc nổi. Không khí đầy mùi nguy hiểm, mùi hắc nồng của thuốc súng và mùi cá. - Đừng để ý bọn họ - Người đàn bà nói. - Em từ chiếc thuyền khác đến phải không? Chiếc nào? Đừng sợ. Chỉ đi! Xa xa trên mặt nước tôi thấy thuyền chèo, thuyền đạp chân, thuyền buồm, và thuyền câu giống như chiếc này, có một gian nhà nhỏ ở giữa thuyền. Tôi dõi tìm, tim đập liên hồi. - Kia kìa! - Tôi nói và chỉ chiếc thuyền có mái dù đầy ánh đèn lồng và tiếng người cười nói, - Đó, đó! - Và tôi bắt đầu bật khóc, tuyệt vọng khi nghĩ rằng không đến được với gia đình để được an ủi. Chiếc thuyền câu lướt đi về phía mùi thức ăn sực nức. - Ê! Bà trên thuyền câu gọi với sang - Các ông các bà có mất một đứa con gái nhỏ không? Con nhỏ bị rơi xuống nước ấy! Có vài tiếng người kêu lên, và tôi cố nhận ra đâu là gương mặt của bà vú, của cha, của mẹ. Người ta đổ sang một mạn thuyền, tựa vào đấy, chỉ trỏ, nhìn vào thuyền của chúng tôi. Tất cả đều là người lạ, những gương mặt đỏ ửng vui cười, những giọng nói lớn tiếng. Bà vú đâu? Còn mẹ tôi sao không thấy ra? Có một đứa nhỏ len qua chân của các người lớn, bước ra: - Không phải con đâu - Nó kêu lên - Con đây mà. Con đâu có rơi xuống nước - Người trên thuyền cười rộ lên và quay trở vào. - Em nhỏ ơi! Em nhìn lầm rồi - Người đàn bà nói khi chiếc thuyền câu lướt qua khỏi. Tôi không nói gì hết. Tôi lại bắt đầu thấy run rẩy. Tôi biết mình đã bị mất tích mà không ai đoái hoài. Tôi nhìn ra mặt nước mênh mông hàng trăm ánh đèn lồng. Pháo nổ vang rền và tôi nghe càng nhiều tiếng người cười nói thêm. Chúng tôi càng ra xa, thế giới càng mênh mông trải rộng hơn. Và bây giờ tôi cảm thấy mình sẽ vĩnh viễn bị lạc lối. Người đàn bà tiếp tục nhìn tôi trừng trừng. Bím tóc của tôi xổ ra, bộ quần áo ướt đẫm, xám xịt, chân trần vì đôi dép bị lạc đâu mất. - Chúng ta làm gì đây? - Một người đàn ông lặng hỏi - Đâu có ai nhận nó! - Có lẽ con nhỏ này ăn mày - Một người khác nói - Nhìn quần áo nó xem. Con nhỏ này giống như mấy đứa chống bè đi xin tiền ấy mà. Tôi kính hãi tột cùng. Biết đâu đây là sự thực. Tôi đã trở nên một con bé ăn mày, một con bé bị lạc cả gia đình. - A! Bọn mày không có mắt sao? - Người đàn bà kêu lên giận dữ. - Nhìn da nó xem, xanh mét đi rồi. Chân nó, mông nó đều mềm nhũn. - Đưa nó lên bờ thôi - Người đàn ông nói - Nếu thực sự nó có gia đình, người ta sẽ đi tìm nó. - Thật cái đêm gì đâu! - Một người khác thở dài - Sao người ta cứ rơi xuống nước vào những đêm hội hè. Nào là mấy ông thi sĩ say rượu, lại còn lũ con nít nữa. May mà con nhỏ này chưa chết chìm đấy. - Họ trò chuyện như thế trong khi từ từ di chuyển thuyền về hướng bờ hồ. Một ông trên thuyền chống cây sào tre dài để chúng tôi chen lướt giữa đám thuyền bè khác. Khi chúng tôi cập vào bờ, người đàn ông đã vớt tôi dưới nước lên khi nãy nhấc tôi ra khỏi thuyền bằng đôi tay tanh đầy mùi cá. - Lần tới cẩn thận nhé, em nhỏ! - Bà ngồi trên thuyền nói với theo khi chiếc thuyền của họ từ từ tách bến. Trên bến tàu, với vầng trăng sáng sau lưng, một lần nữa tôi lại thấy bóng mình. Lần này nó ngắn ngủi, méo mó và trông hoang dại. Chúng tôi cũng chạy với nhau đến một bụi cây trên lối đi và nấp vào đấy. Ở chỗ nấp này tôi nghe tiếng người trò chuyện khi đi ngang qua, tiếng ếch nhái, giun dế kêu vang. Đột nhiên có tiếng đàn sáo, chiêng trống, chũm chọe khua lên ầm ĩ. Tôi nhìn qua các cành lá và thấy một đám đông trước mặt, với sân khấu dựng bên trên, hướng lên mặt trăng. Một thanh niên từ cánh gà vụt xuất hiện trên san khấu và cất tiếng - Và bây giờ Hằng Nga sẽ đến và kể cho quí vị nghe câu chuyện buồn của nàng trong vở nhạc kịch dưới đây. Hằng Nga! Chính những từ mê hoặc này đã khiến tôi quên đi nỗi lo lắng, phiền muộn. Tôi nghe chiêng trống khua rền vang thêm lên và một bóng phụ nữ xuất hiện, chải tóc dưới vầng trăng. Bà bắt đầu cất tiếng, giọng ngọt ngào than vãn: - Ôi định mệnh của ta, và niềm hối hận! - Bà than thở khi luồn những ngón tay dài vào mái tóc. - Ta phải sống ở đây, trên mặt trăng, trong khi chồng ta lại ở tận mặt trời. Mỗi ngày mỗi đêm chúng ta đi ngang qua nhau mà không hề nhìn thấy mặt nhau, chỉ trừ một đêm, đêm Rằm tháng Tám. Đám đông vây đến gần hơn. Hằng Nga gảy đàn và bắt đầu cất tiếng hát. Ở phía bên kia, tôi thấy bóng một người đàn ông xuất hiện. Hằng Nga giang tay ra - Ồ, Hậu Nghệ, chồng của em, Xạ Thủ Vương của các tầng trời! - Bà hát lên, nhưng chồng bà có vẻ không chú ý đến. Ông đang nhìn lên bầu trời, miệng há to, vì kinh hãi hay hân hoan, tôi không biết được. Hằng Nga đưa tay vịn lấy cổ và ngã quỵ xuống, kêu lên - “Ôi! Mười mặt trời phương đông khô cháy!” - Và ngay khi bà hát lên câu ấy, Xạ Thủ Vương đưa mũi tên thần của ông lên nhắm bắn rơi chín mặt trời, nổ tung đầy màu xám, - Rơi xuống mặt biển sục sôi! - Bà hát lên vui mừng, và tôi nghe tiếng xèo xèo và nứt rạn của mặt trời chết lịm. Bây giờ lại đến một bà tiên xuất hiện - Bà Tây Vương Mẫu - tiến về phía Hậu Nghệ. Bà mở một chiếc hộp lấy ra một quả cầu sáng chói - Không phải một mặt trời con, nhưng là một quả đào tiên, quả đào trường sinh bất tử! Tôi thấy Hằng Nga giả vờ chăm chú thêu thùa, nhưng lại liếc theo dõi chồng bà. Bà thấy ông giấu quả đào vào trong chiếc hộp. Sau đó, Xạ Thủ Vương giương cung thề rằng ông sẽ nhịn ăn chay một năm để chứng tỏ rằng ông đủ kiên nhẫn để trường sinh. Khi ông vừa đi khuất, Hằng Nga không chần chừ một phút nào, vội vàng tìm ngay quả đào và ăn ngay. Ngay khi vừa nếm quả đào, bà lảo đảo bay lên như một con chuồn chuồn gãy cánh “- Bay ra khỏi thế gian này vì tính tọc mạch của ta” - Bà kêu lên khi chồng bà vừa lao trở về và hét to - “Kẻ trộm! Người vợ lấy đi sự sống của ta!” Ông nhặt cung lên, nhắm mũi tên vào người vợ và, trong tiếng chiêng vang rền, bầu trời tối đen đi. Tiếng nhạc buồn lại cất lên khi bầu trời trên sân khấu sáng trở lại. Người đàn bà đáng thương trên sân khấu giờ đây đứng tựa vào mặt trăng sáng rực như mặt trời. Tóc bà buông dài chấm đất, lau đi những giọt lệ đang rơi. Đã rất lâu rồi họ không được gặp nhau, vì đấy là định mệnh của bà: phải ở vĩnh viễn trên mặt trăng, vĩnh viễn tìm kiếm những ước muốn ích kỷ của bà. - Đối với đàn bà là cõi âm, nơi tăm tối, nơi của những khao khát không biết kềm chế. Còn đối với đàn ông là cõi dương, sự thật rực chói sẽ thắp sáng trí tuệ. * * * Khi bà hát xong, tôi bật khóc, run lên vì tuyệt vọng. Dù tôi không hiểu được hết chuyện của bà, nhưng tôi cảm thông với nỗi đau khổ của bà. Chỉ trong một khoảnh khắc, cả hai chúng tôi đều lạc lối, và không còn cách gì để quay trở lại được. Có tiếng chiêng khua rền, Hằng Nga cúi chào và trầm lặng nhìn về một phía. Khán giả vỗ tay nồng nhiệt. Giờ đây, người thanh niên lúc đầu lại bước ra sân khấu và nói: “Hãy khoan đã! Thưa quí vị! Hằng Nga đã đồng ý ban cho mỗi người một điều ước, tại đây...” - Khán giả lao xao, rì rầm - “Và xin quí vị đóng góp chút tiền vào đây” - Anh tiếp tục nói. Đám đông ồ lên, cười to và bắt đầu giải tán. Người thanh niên lại kêu lên - “Mỗi năm chỉ có một cơ hội này thôi!” - Nhưng không ai nghe anh ấy cả, ngoại trừ chiếc bóng của tôi và tôi trong bụi cây. - Cháu có một điều ước đây! Cháu có đây! - Tôi hét lên và chạy ra bằng đôi chân trần, nhưng người thanh niên không để ý gì đến tôi cả, anh bước vào sân khấu. Tôi cứ chạy tiếp về phía mặt trăng đã nói cho Hằng Nga biết điều tôi ao ước. Tôi phóng nhanh như một con thằn lằn ra phía sau sân khấu, và khi thấy bà, tôi sững người lại một giây. Bà đẹp rực rỡ chói lọi dưới hàng chục ngọn đèn thắp sáng. Bà hất mái tóc dài và bắt đầu bước xuống các bậc thang. - Cháu có một điều ước - Tôi thầm thì, và bà vẫn không nghe thấy tôi. Vì thế tôi bước đến gần hơn, cho đến khi tôi có thể thấy gương mặt của bà: Đôi gò má nhăn nheo, chiếc mũi to bóng loáng, những chiếc răng to, loang loáng, và đôi mắt đỏ ngầu. Một gương mặt quá mệt mỏi, và khi bà tháo mái tóc ra, chiếc áo cũng rơi tuột khỏi vai bà. Lời ước vừa được thốt ra trên miệng tôi, Hằng Nga quay lại nhìn, và tôi thấy đó là một người đàn ông. * * * Đã nhiều năm trôi qua rồi, tôi không nhớ được đêm đó tôi đã nhờ Hằng Nga điều gì, hoặc đã ra sao khi được gia đình tìm lại. Cả hai việc đó dường như chỉ là ảo ảnh đối với tôi, một điều ước được ban mà không thể tin cậy được. Và ngay cả dù gia đình tìm lại được tôi - mãi khuya, sau khi cha, mẹ, cậu và những người khác gọi tôi ầm ĩ dọc theo con sông - tôi vẫn chưa bao giờ nghĩ rằng họ đã tìm được chính cùng một đứa con gái như trước kia. Năm tháng trôi qua, tôi quên mất phần còn lại của những gì xảy ra hôm đó. Bài hát thương tâm của Hằng Nga, chiếc thuyền có mái dù che, con chim với chiếc vòng ở cổ, những bông hoa nhỏ xíu nổ trên tay áo, Ngũ Quỷ bị đốt cháy tiêu. Nhưng giờ tôi đã già, mỗi năm mỗi tiến dần đến kết thúc đời người, tôi lại cảm thấy gần gũi với giai đoạn bắt đầu hơn. Và tôi nhớ hết những việc xảy ra hôm đó, vì nhiều lần trong đời tôi đã gặp lại. Cũng tính thơ ngây, cả tin, bất cẩn, sự diệu kỳ, nỗi sợ hãi và niềm cô đơn ấy, và tôi đã tự đánh mất mình ra sao. Tôi nhớ hết mọi việc. Đêm nay, vào đêm Rằm tháng Tám, tôi cũng nhớ lại ngày xa xưa tôi đã cầu xin Hằng Nga điều gì, tôi ước được người ta tìm thấy tôi. CHƯƠNG 2 HAI MƯƠI SÁU CỬA ÁC - Đừng chạy xe đạp ra góc đường con nhé - Bà mẹ bảo con gái khi nó lên bảy tuổi. - Tại sao lại không được chứ? - Nó cãi lại. - Bởi vì mẹ không thấy được con và con sẽ ngã, sẽ khóc, và mẹ sẽ không nghe được tiếng con. - Sao mẹ biết con sẽ ngã? - Con bé cứ vặn vẹo mãi. - Sách nói thế, trong quyển Hai Mươi Sáu Cửa Ác, tất cả những điều xấu đều có thể xảy ra cho người ta bên ngoài sự bảo vệ của ngôi nhà này. - Con không tin mẹ đâu. Đưa cho con xem quyển sách nào! - Sách viết bằng chữ Hoa. Con không hiểu đâu. Thế nên con phải nghe mẹ. - Vậy nó là cái gì chứ? - Con bé nài nỉ - Mẹ kể cho con nghe về hai mươi sáu cửa ác đi! Bà mẹ lặng lẽ ngồi đan áo. - Hai mươi sáu cái đó là gì? - Con bé gào lên. Bà mẹ vẫn không trả lời. - Mẹ không nói con nghe vì mẹ không biết! Mẹ không biết gì hết! - Và con bé chạy ra ngoài, phóng lên xe đạp, và trong lúc vội vã chạy đi, nó ngã xe, ngay cả trước khi đến góc đường. """