"
Phù Sinh Lục Ký - Thẩm Phục full mobi pdf epub azw3 [Kinh Điển]
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Phù Sinh Lục Ký - Thẩm Phục full mobi pdf epub azw3 [Kinh Điển]
Ebooks
Nhóm Zalo
Mục Lục
Lời giới thiệu
Về tác giả
Vui khuê phòng
Thú nhân tình
Sầu trắc trở
Khoái lãng du
Trải Trung Sơn
Nhàn dưỡng sinh
Phụ lục
Đề Phù Sinh Lục Ký của xử sĩ Thẩm Tam Bạch Lời tựa sách “Phù Sinh Lục Ký” của Cận Tăng Lời tựa sách “Phù Sinh Lục Ký” của Dương Dẫn Truyền cư sĩ Lời bạt sách “Phù Sinh Lục Ký” của Vương Thao
Tặng Tâm Thần muội muội, mong muội muội luôn vui vẻ, dù trong tình cảnh nào!
Hốn Nịn Ca Ca!
Lời giới thiệu
Cách đây ít năm, tôi tình cờ đọc một bài trả lời phỏng vấn trên báo của nhà văn nổi tiếng Trung Quốc - Phùng Ký Tài về công việc sáng tác tản văn, trong đó có một đoạn hỏi đáp khiến tôi chú ý; khi phóng viên hỏi: “Nếu phải ở trên một hòn đảo cách biệt được chăm lo đầy đủ, nhưng chỉ được mang theo một cuốn tản văn yêu thích, thì ông sẽ mang theo cuốn sách nào? Vì sao?” Phùng Ký Tài đã không ngần ngại trả lời ngay rằng: “Cuốn sách ấy là Phù sinh lục ký, vì nó có thể đọc đi đọc lại, giống như thơ vậy, đọc lên thấy thích thú và gợi cho mình nhiều suy nghĩ khác nhau.”
Câu trả lời ấy của Phùng Ký Tài khiến tôi rất tò mò về cuốn Phù sinh lục ký mà ông nhắc đến, đồng thời, cũng thấy một cảm giác rất quen thuộc, tựa hồ mình đã được nghe về cuốn sách đó ở đâu rồi. Sau khi lục soát lại trí nhớ của mình, tôi mới à lên một tiếng: Hóa ra tôi đã từng được nghe đến tên cuốn sách, và được đọc một vài phiến đoạn của nó qua cuốn Sống đẹp của Lâm Ngữ Đường, được Nguyễn Hiến Lê dịch. Trong tôi chợt dấy lên một mong muốn tìm hiểu trọn vẹn tác phẩm mà Lâm Ngữ Đường Phùng Ký Tài đều đánh giá cao, thậm chí dẫn dụng trong tác phẩm của mình này, cũng như về tác giả của nó.
Phù sinh lục ký là một tiểu thuyết tản văn, thể tự truyện đặc sắc của nhà văn đời Thanh - Thẩm Phục. Thẩm Phục tự Tam Bạch hiệu Mai Dật, xuất thân trong một gia đình sĩ tộc Tô Châu. Theo như tự thuật trong tác phẩm, ông sinh năm 1763, không rõ năm mất. Có thể nói, Phù sinh lục ký là một bông hoa lạ trong khu vườn văn học Trung Quốc. Tác giả là một người có tình cảm phong phú, tính cách hào sảng, tài hoa dồi dào, có thể gây lên một tình điệu cao nhã, và phát hiện ra những điều thú vị độc đáo ngay từ cuộc sống bình thường. Cho nên, tuy phải sống trong cảnh nghèo khó, trải qua nhiều nỗi trắc trở, ông vẫn có một tâm thái lạc quan trước cuộc đời, khiến cho cuộc sống bình thường trở nên tràn đầy xúc cảm nghệ thuật. Trên một bình diện nào đó, cuốn sách đã trở thành kim chỉ nam cho việc phẩm vị hóa cuộc sống cũng như nhã thú của văn nhân.
Tiếc rằng, do tác giả của cuốn sách không có danh vị cao trong xã hội, gia cảnh lại khốn quẫn, nên tác phẩm đã không được ấn hành ngay thời ông còn sinh tiền, mà chỉ có bản chép tay lưu truyền ở đời. Đến năm Quang Tự
thứ ba (1877), khi Dương Dẫn Truyền lần đầu tiên ấn hành tác phẩm, thì “sáu ký đã mất hai”, khiến cho bản Phù sinh lục ký truyền thế giống như bức tượng thần Vệ Nữ bị mất cánh tay, chỉ còn lại bốn ký đầu mà thôi. Tuy nhiên, văn chương của Phù sinh lục ký đã lập tức khiến văn đàn sửng sốt và hâm mộ, đến nỗi không lâu sau đó, trên thị trường đã xuất hiện một bản được gọi là Túc bản Phù sinh lục ký (Phù sinh lục ký bản đầy đủ), bổ sung thêm quyền kỷ thứ 5: Trải Trung Sơn, và thứ 6: Nhàn dưỡng sinh. Song, qua khảo chứng của rất nhiều học giả, thì đều có một nhận định chung rằng: hai quyển ký bổ sung ấy đều là ngụy tác. Có thể nói, trong lịch sử văn học Trung Quốc, các tác phẩm, hoặc một phần tác phẩm nguy tác là không ít, song một tác phẩm xuất hiện muộn, ngay trong đời Thanh mà có những phần được ngụy tác, cũng là hiếm có và phải vô cùng đặc biệt.
Lâm Ngữ Đường, trong lời tựa bản dịch tiếng Anh cuốn Phù sinh lục ký năm 1936, có nói: “Tôi đoán chừng rằng, trong các tầng thư gia đình ở Tô Châu, hay các tiệm sách cũ, nhất định sẽ có một bản toàn vẹn, nếu có may mắn ấy, thì có thể chúng ta sẽ phát hiện được.” Đến nay, tuy chưa ai phát hiện được một bản toàn vẹn như Lâm Ngữ Đường nói (không tính bản ngụy tác), nhưng cũng rất may mắn, vào năm 2005, nhà sưu tập Bành Lệnh, đã sưu tầm được một cuốn sách viết tay có nhan đề là Ký sự châu của Tiền Vịnh - học giả, nhà thư pháp nổi tiếng đời Thanh, người sống cùng thời với Thẩm Tam Bạch, trong đó đã tìm thấy có những đoạn ghi chép của Tiền Vịnh về Phù sinh lục ký, đặc biệt là thiên: Sách phong Lưu Cầu quốc ký lược,((1) Lưu Cầu: tức quần đảo Ryukyu, thuộc tỉnh Okinawa, cực nam của Nhật Bản ngày nay.) đã được rất nhiều học giả nhận định là sao lục từ quyển thứ 5 - Trải Trung Sơn (hay còn gọi Hải quốc ký) của Thẩm Tam Bạch. Tuy những phần Tiền Vịnh sao lục chưa đầy đủ quyển kỷ thứ 5 - Trải Trung Sơn - đã thất truyền của Thẩm Tam Bạch, nhưng cũng cho chúng ta thấy phần nào trong nguyên tác của ông.
Kể từ lần đầu tiên ấn hành cho đến nay, Phù sinh lục ký đã được xuất hơn 120 lần ở Trung Quốc. Quyển 2 – Thú nhàn tình của tác phẩm còn được trích một đoạn dùng trong sách Ngữ văn cho học sinh phổ thông Trung Quốc như là một khuôn mẫu về cổ văn. Đồng thời, tác phẩm được dịch ra nhiều ngôn ngữ như: Anh, Đức, Pháp, Đan Mạch, Thụy Điển, Nhật Bản, Mã Lai... và ở nhiều nước khác. Tuy nhiên cho đến nay, tác phẩm vẫn chưa
từng được dịch và giới thiệu một cách đầy đủ ở Việt Nam. Trong lần xuất bản đầu tiên này, chúng tôi lựa chọn cách giới thiệu tác phẩm tới các bạn độc giả như là một “Túc bản” với phần chính đầy đủ sáu quyển ký, để độc giả có thể hình dung được diện mạo chung của tác phẩm, dẫu rằng hai quyển sau được cho là ngụy tác. Ngoài ra, chúng tôi có dịch bổ sung thiên Sách phong Lưu Cầu quốc ký lược từ Ký sự châu của Tiền Vịnh, cùng một số lời tựa, lời đề bạt của sách trong phần Phụ lục để độc giả tiện tham khảo.
Văn chương Phù sinh lục ký cô đọng, súc tích, giàu chất thơ, dịch giả tuy đã cố gắng, nhưng cũng chưa thể truyền đạt hết được cái hay cái đẹp của tác phẩm, rất mong các bậc cao minh bác nhà lượng tình cảm thông (chỉ giáo giúp thêm ý kiến để tác phẩm có thể hoàn thiện hơn nữa.
Tháng đầu thu, Mậu Tuất, 2018
Dịch giả
Về tác giả
Thẩm Phục tự Tam Bạch hiệu Mai Dật, xuất thân trong một gia đình sĩ tộc ở Tô Châu. Theo như tự thuật trong tác phẩm, ông sinh năm 1763, không rõ năm mất.
Có thể nói, Phù sinh lục ký là một bông hoa lạ trong khu vườn văn học Trung Quốc. Tác giả là một người có tình cảm phong phú, tính cách hào sảng, tài hoa dồi dào, có thể gây lên một tình điệu cao nhã, và phát hiện ra những điều thú vị độc đáo ngay từ cuộc sống bình thường.
Cho nên, tuy phải sống trong cảnh nghèo khó, trải qua nhiều nỗi trắc trở, ông vẫn có một tâm thái lạc quan trước cuộc đời, khiến cho cuộc sống bình thường trở nên tràn đầy xúc cảm nghệ thuật. Trên một bình diện nào đó, cuốn sách đã trở thành kim chỉ nam cho việc phẩm vị hóa cuộc sống cũng như nhã thú của văn nhân.
Vui khuê phòng
Tôi sinh ngày hăm hai tháng Mười một, mùa đông năm Quý Mùi niên hiệu Càn Long,(Tức năm 1763)gặp thuở thái bình thịnh thế, lại xuất thân nhà áo mũ, ở bên đình Thương Lang, Tô Châu. Ông trời hậu đãi tôi, có thể nói là
rất mực vậy. Đông Pha có câu: “Việc như xuân mộng, hết khôn lưu!”, (Nguyên văn chữ Hán: Sự như xuân mộng liễu vô ngân. Đây là câu thơ trong bài Nữ Vương thành họa thi của Tô Đông Pha) nếu chẳng đem bút mực mà ghi lại thì sao khỏi có lỗi với tình hậu ái của ông xanh. Nhân nghĩ đến thơ Quan thư là đứng đầu trong ba trăm thiên(Ba trăm thiên: chỉ Kinh Thi. Sách Luận ngữ có câu “Thi tam bách thiên” nghĩa là Kinh Thi có ba trăm bài (thực tế hiện có 305 bài),
nên người ta dùng chữ “Tam bách thiên” để chỉ Kinh Thi. Bài Quan thư thuộc Chu Nam - Quốc Phong, là bài đầu tiên trong Kinh Thi, nói về tình yêu đôi lứa), nên mới sắp chuyện phu phụ ở đầu tiên, rồi sẽ lần lượt mà nói đến những chuyện khác. Chỉ thẹn rằng tuổi trẻ thất học, biết dăm ba chữ xoàng, chẳng qua là ghi lại tình thực việc thực mà thôi. Nếu như có ai khảo đính đến văn pháp, thì tất thành ra tấm gương mờ vậy.
Lúc còn nhỏ tôi có hỏi cưới Vu thị ở Kim Sa, nhưng khi tám tuổi thì yêu vong. Lại lấy Trần thị. Nàng tên là Vân, tự Thục Trần, là con gái Tâm Dư tiên sinh, cậu của tôi. Vân sinh ra đã dĩnh ngộ thông tuệ, khi học nói, được dạy truyền khẩu bài Tì Bà hành liên thuộc ngay. Lên bốn thì mất cha, chỉ còn mẹ là Kim thị, em trai là Khắc Xương, nhà chỉ có bốn bức tường trống. Vần lớn lên, giỏi kim chỉ thêu thùa, nhà ba miệng ăn đều nhờ vào mười ngón tay nàng cung cấp, Khắc Xương theo thầy học chữ, tiền lưng gạo góp không thiếu bao giờ. Một bữa, Vân tìm được một bản Tì Bà hành trong rương sách, lần lượt theo từng câu mà nhận mặt, bèn biết chữ. Những lúc thêu thùa rảnh rỗi, dần hiểu việc ngâm vịnh, từng làm câu thơ rằng: “Sương giăng hoa cúc mập; Thu lấn bóng người gầy.”
Năm tôi mười ba, theo mẹ về quê, hai đứa bé chúng tôi không tị hiềm gì, được thấy văn chương của nhau, tuy khen ngợi tài tứ dung nhan, mà trộm lo mình chẳng dày phúc trạch, nhưng trong lòng tôi luôn thương nhớ không nguôi, bảo với mẹ rằng: “Nếu muốn chọn vợ cho con, thì phi chị Thục sẽ ẳ
chẳng lấy ai” Mẹ tôi cũng mến Vân tính nết nhu mì, bèn lập tức tháo chiếc nhẫn vàng trên tay mà đính nhân duyên. Hôm ấy là ngày mười sáu tháng Bảy, năm Ất Mùi niên hiệu Càn Long.
Đông năm ấy, nhân có người em gái họ xuất giá, tôi lại theo mẹ về quê. Vân cùng tuổi với tôi, mà hơn tôi mười tháng, từ nhỏ đã gọi nhau là chị em, nên vẫn gọi là chị Thục. Bấy giờ thấy đầy nhà quần áo tươi mới rực rỡ, duy Vân mặc quần áo trắng giản dị, chỉ có đôi hài là mới mà thôi. Thấy hài được thêu may tinh xảo, hỏi ra là vẫn tự mình làm lấy, mới biết thêm rằng tuệ tâm của nàng chẳng phải chỉ ở bút mực vậy. Hình dong Vân vai nhỏ cổ cao, gầy mà không lộ cốt, mày cong mắt đẹp, ánh nhìn đầy thần thái, chỉ có hai chiếc răng hơi lộ, tựa hồ không phải tướng tốt. Một vẻ yểu điệu thướt tha, thật khiến người khác phải tiêu hồn. Tôi đòi xem thi cảo của nàng, thấy có khi chỉ có một cặp đối, hoặc ba, bốn câu, phần đa chưa tròn bài. Vặn hỏi duyên do, Vân cười nói: “Thiếp viết mà chẳng ai dạy dỗ, mong được người tri kỷ chịu làm thầy mà sửa cho thành vậy.” Tôi đùa đề trên đầu tập mấy chữ “Cẩm nang giai cú” (Câu thơ đẹp trong túi gấm)( Lý Thượng Ẩn trong Lý Hạ tiểu truyện có : “Lý Hạ mỗi khi cưỡi lừa ra ngoài, lại dẫn
theo một tiểu đồng đeo chiếc túi gấm, gặp khi nghĩ được câu thơ hay nào thì liền ghi lại bỏ vào túi.” Vì Lý Hạ chết khi mới hai mươi chín tuổi, nên tác giả mới nói câu mình đề trên đầu tập cho nàng Vân là điềm xấu). Nào có ngờ đâu cái cơ thọ yểu đã ẩn tàng sẵn trong đó vậy.
Tối hôm đó, đưa dâu ra ngoài thành, đến khi quay về thì giọt đồng hồ đã điểm canh ba, tôi đói bụng đi tìm cái gì ăn, mấy bà bõ đem mứt táo ra, nhưng tôi không thích đồ ngọt. Vân thầm kéo tay áo tôi, đi theo đến phòng mình, thì thấy có để sẵn cháo ấm và mấy món nhỏ, tôi mừng quá cầm ngay lấy đũa. Bỗng nghe tiếng anh họ của Vân là Ngọc Hành gọi: “Thục muội, mau lại đây!” Vân vội vàng đóng cửa nói: “Em mệt lắm, sắp đi nằm rồi.” Ngọc Hành lách mình chen vào, thấy tôi đang sắp ăn cháo, bèn cười nháy mắt với Vân, bảo: “Vừa nãy ta hỏi cháo thì muội nói “Hết rồi. Hóa ra là đem giấu ở đây đợi cho riêng cậu rể đấy?” Vân ngượng cuống chạy đi, khắp mọi người trên dưới đều cười ồ cả lên. Tôi cũng tức mình, kéo lão bộc về trước.
Từ khi cho tôi ăn cháo bị trêu chọc, lần sau tôi trở lại, là Vân lại lẩn tránh, tôi biết là nàng sợ bị người khác trêu cười vậy.
Cho đến đêm hoa chúc ngày hăm hai tháng Giêng năm Canh Tý, niên hiệu Càn Long, tôi vẫn thấy Vân vóc người gầy nhỏ sợ sệt y như thuở trước. Khăn phủ đầu gỡ xuống, bốn mắt ngây ngất nhìn nhau. Uống chén hợp cần xong, chúng tôi cùng sánh vai ngồi ăn bữa tối. Tôi ngầm nắm chặt lấy cổ tay nàng dưới bàn, thấy cổ tay nhỏ ấm, trơn mịn, trống ngực bất giác đập thình thịch. Tôi mời Vân ăn trước, khi ấy đúng dịp nàng ăn chay, thói quen ấy đã mấy năm nay rồi. Tôi thầm tính, khi Vân mới bắt đầu ăn chay là đúng khi tôi bị lên đậu, bèn cười bảo: “Nay tôi mình mẩy trơn tru bóng bẩy không hề gì, nàng có thể thôi ăn chay từ giờ được chứ?” Vân gật gật đầu ánh mắt tươi cười.
Hôm hăm tư là ngày nàng vu quy, hăm ba là ngày quốc kỵ, không được nổi nhạc, nên tối hăm hai là ngày chúng tôi mời tiệc cưới. Vân ra nhà ngoài mời tiệc, tôi ở buồng trong uống rượu với mấy người phù dâu, chơi đoán ngón tay bị thua hoài, uống say nằm ngủ, đến khi tỉnh dậy thì Vân đang trang điểm buổi sáng chưa xong.
Hôm ấy, thân bằng nối gót nhau đến, sau khi lên đèn mới nổi nhạc.
Đúng giờ Tý ngày hăm tư, tôi làm chàng rể mới tiễn bên đằng vợ về, cuối giờ Sửu mới quay về nhà, thì đèn đã tắt, mọi người đều ngủ cả. Lặng lẽ vào buồng, vú già ngủ gật dưới giường, còn Vân đã gỡ đồ trang sức nhưng chưa đi nằm, đuốc bạc còn chầm cao, cổ phần đường cúi thấp, không biết đọc sách gì mà say sưa như thế. Tôi nhận vỗ vai hỏi: “Nàng mấy ngày nay vất vả, sao vẫn còn không biết mệt như thế?” Vân vội ngoảnh lại, đứng dậy nói: “Vừa nãy thiếp đã định đi nằm, mở tủ thấy cuốn sách này, đọc xem mà bất giác quên cả mệt. Cái tên Tây sương, nghe quen đã lâu, mà nay mới được thấy, thực không hổ danh tài tử, nhưng không tránh khỏi hình dung khắc bạc vậy.” Tôi cười bảo: “Duy có tài tử, bút mực mới có thể khắc bạc được như thế.” Vú già ở bên giục giã đi ngủ, bảo đóng cửa rồi đi trước. Hai chúng tôi bèn ngồi sánh vai cười đùa, tựa như đôi bạn thân vừa gặp lại. Tôi đùa sờ vào ngực áo nàng, thấy rõ tim nàng đang đập rộn. Tôi cúi đầu ghé tai nàng nói nhỏ: “Sao tim đập mạnh thế?” Vân đưa mắt nhìn tôi mỉm cười. Tôi cảm thấy như có một sợi tơ tình lay động cả hồn phách, bèn ôm nàng bế vào trong màn, chẳng biết ngoài kia hừng đông đã rạng.
Vân làm dâu mới, ban đầu rất ít nói, trọn ngày không có chút nóng giận bao giờ, cùng nói chuyện thì chỉ biết mỉm cười mà thôi. Thờ người trên thì cung kính, với kẻ dưới thì ôn hòa, lúc nào cũng nghiêm cẩn chưa từng lầm lỗi bao giờ. Mỗi khi thấy ánh mặt trời vừa lên cửa sổ, là liền khoác áo trở dậy, như có người thúc gọi vậy. Tôi cười bảo: “Nay đâu phải thuở ăn cháo khi trước, mà còn sợ người trêu chọc?” Vân nói: “Xưa giấu cháo đãi chàng, thành ra câu chuyện cười cho người ta. Bây giờ không phải sợ trêu cười, mà là e cha mẹ nhà trên bảo nàng dâu lười nhác.” Tôi tuy tham ngủ lười, nhưng khen Vân như vậy là đúng, nên cũng dậy sớm theo. Từ đó chúng tôi đầu gối má kề, như hình với bóng, tình yêu dấu chẳng lời nào có thể tả xiết được.
Nhưng vui sướng dễ qua, chớp mắt đã hơn một tháng. Khi ấy cha tôi là Giá Phu công(Giá Phu là tên hiệu, công là cách gọi tôn kính) ở mạc phủ Cối Kê, sai người đặc biệt đến đón tôi tới thụ nghiệp dưới của Triệu Tỉnh Trai tiên sinh ở Vũ Lâm(Vũ Lâm: một biệt danh xưa của Hàng Châu). Tiên sinh dẫn dụ dạy bảo lần lần, đến ngày nay tôi có thể cầm bút mà viết được thế này, ấy là nhờ công sức của tiên sinh vậy. Hôm tôi về nhà thành hôn, vốn có hẹn ngày sẽ trở lại học quán hầu thầy. Nay thầy gửi thư tới hỏi, tôi nhận thư mà lòng buồn bã vô cùng, sợ rằng Vân biết chuyện sẽ khóc với mình. Nhưng ngược lại, Vân gượng tỏ ra vui vẻ mà khuyên nhủ, rồi giúp tôi chuẩn bị hành trang. Tối ấy, chỉ thấy thần sắc nàng hơi khác một chút mà thôi. Lúc lên đường, Vân nhìn tôi nói nhỏ: “Không có ai chăm giúp đỡ, xin chàng hãy tự giữ lòng cẩn trọng.
Kịp lên thuyền, nhổ sào, buổi ấy chính mùa đào mận tranh nhau khoe sắc, thế mà tôi thì chỉ thấy hốt hoảng như chim rừng lạc bầy, trời đất tối sầm một sắc!
Đến học quán rồi, cha tôi lại lập tức qua sông sang miền đông. Ở đó ba tháng mà thấy xa cách tựa mười năm. Vân tuy Ở thi thoảng vẫn có thư qua, nhưng thảy chỉ hỏi hai đáp một, quá nửa là những câu khuyên nhủ, còn lại đều là những lời phù phiếm, trong lòng tôi buồn bực vô cùng. Mỗi khi gió qua sân trúc, trăng hiện song tiêu, trông cảnh nhớ người, mộng hồn điên đảo. Thầy tôi biết tình ấy, liền gửi thư cho cha tôi, ra mười đề bài, rồi cho về nhà tạm nghỉ. Tôi vui sướng không khác gì lính thú được tha vậy.
Lên thuyền về rồi, càng thấy một khắc tựa năm. Kịp tới nhà, qua chỗ mẹ tôi vấn an xong, liền vội vào buồng, Vân đứng lên đón, cầm tay chửa nói nên lời, mà cả hai hồn phách phiêu diêu như hóa thành mây thành khói, thấy trong tai như có tiếng nổ ùng, chẳng hay rằng vẫn còn tấm thân này vậy.
Khi ấy là tháng Sáu, trong buồng nóng như hun, may là chúng tôi ở vách mé tây của Ái Liên cư, đình Thương Lang, trong cầu ván có cái hiên vươn ra dòng nước, đặt tên là “Ngã Thủ”, lấy ý từ câu “Thanh tứ trạc anh, trọc tư trực túc” (trong thì ta giặt lèo mũ, đục thì ta rửa chân)(Câu này trong thiên Ly lâu thượng sách Mạnh Tử, nói về nước sông Thương Lang, đầy đủ là: “Thanh tư trực
anh, trọc tư trực túc, tự thủ chi dã.” (Trong thì giặt lèo mũ, đục thì rửa chân, ấy là (nước) tự giành lấy cho mình như vậy.) Nên tác giả mới giải thích về ý nghĩa cái tên hiên “Ngã thử” như vậy) vậy. Trước mái hiên có một cây cổ thụ, bóng rợp che song cửa, khiến mặt người cũng hóa màu xanh. Bên bờ đối diện khách du lại qua không ngớt. Ấy là nơi Giá Phu công - cha tôi, buông rèm tiếp khách. Tôi bèn bẩm mệnh với mẹ, rồi dắt Vân ra ở đó đến qua hết mùa hè. Vì nắng nóng nên lần thôi việc thêu thùa, cả ngày chỉ cùng đọc sách luận cổ, phẩm nguyệt bình hoa với tôi mà thôi. Vân không giỏi uống rượu, ép lắm thì được ba chén, tôi bèn bày cho trò xạ phúc(Xạ phúc: một trò chơi dùng làm tửu lệnh khi uống rượu thời xưa. Cách chơi là người ta dùng âu hay bát... úp kín
một vật gì đó, rồi để mọi người đoán xem là thứ gì. Nếu đoán sai thì phải uống một chén rượu) để làm tửu lệnh, tự cho rằng sự hoan lạc ở nhân gian, chẳng có gì hơn được thế nữa.
Một hôm, Vân hỏi: “Các loại cổ văn, tông theo đầu là hơn?”
Tôi nói: “Quốc sách, Nam hoa thì hay ở chỗ linh hoạt; Khuông Hành, Lưu Hướng thì hay ở chỗ nhã khỏe; Sử Thiên, Ban Cố thì hay ở chỗ rộng lớn; Xương Lê thì hay ở chỗ hồn hậu; Liễu Châu thì hay ở chỗ cao vọi, Lư Lăng thì hay ở chỗ mênh mang; Tam Tô thì hay ở chỗ biện bác; Còn các cái khác như: sách đối của Giả, Đổng, biến thể của Dữu, Từ tấu nghị của Lục Chí, những cái có thể lấy làm vốn chẳng thể nói ra hết được, chỉ ở tuệ tâm lĩnh hội của người ta thôi.”(Trong đoạn này: Quốc sách chỉ Chiến Quốc sách - một tác phẩm sử học về thời kỳ Tiên Tần, không rõ tác giả, sau được Lưu Hướng
biên tập san định lại. Nam Hoa tức Nam Hoa kinh của Trang tử. Khuông Hành, Lưu Hướng: hai học giả nổi tiếng đời Tây Hán. Khuông Hình nổi tiếng về chú giải Kinh Thi, Lưu Hướng cũng có nhiều tác phẩm, như Biệt lục, Thuyết uyển, Liệt nữ truyện... Sử Thiên: tức Tư Mã Thiên, nhà sử học đời Tây Hán, tác giả bộ Sử ký. Ban Cố: cũng là nhà sử học đời Tây Hán, tác giả bộ Hán thư. Xương Lê: tức Hàn Dũ, tự Xương Lê, nhà văn đời Đường. Liễu Châu: tức Liễu Tông Nguyên, nhà văn đời Đường, từng làm chức Liễu Châu Tư mã. Lư Lăng: tức Âu Dương Tu, nhà văn đời Tống, vốn sinh ở Cát Thủy, Lư Lăng. Tam Tô: chỉ ba cha con anh em: Tô Tuân, Tô Thức, Tô Triệt đời Tống. Giả, Đồng: chỉ nhà văn Giả Nghị, và nhà Kinh học Đồng Trọng Thư đời Hán. Dữu, Từ: chỉ hai nhà văn Dữu Tín và Từ Lăng đời Nam Bắc triều. Lục Chí: tác gia đời Đường, sở trường về văn chính luận)
Vân nói: “Cổ văn thảy đều kiến thức cao vời, khí thế hùng vĩ, nữ nhân e khó học đến nơi được. Riêng có môn làm thơ, thì thiếp còn hơi có chút lĩnh ngộ.”
Tôi nói: “Nhà Đường lấy thơ để chọn kẻ sĩ, mà những bậc thầy về thơ tất phải suy tôn Lý, Đỗ”(Lý, Đỗ: chỉ hai nhà thơ lớn đời Đường Lý Bạch và Đỗ Phủ). Nàng muốn tông theo người nào?”
Vân luận rằng: “Đỗ thị thì lão luyện tinh thuần, Lý thi thì tiêu sái tự nhiên. Học theo cái thầm nghiêm của họ Đỗ, chẳng bằng học theo cái hoạt bát của họ Lý vậy.”
Tôi nói: “Công Bộ(Công Bộ: chỉ Đỗ Phủ. Vì ông từng làm chức Kiếm hiệu Công bộ Viên ngoại lang, nên được người đời gọi là Đỗ Công Bộ) là bậc đại thành của thi gia, những kẻ học giả phần nhiều đều tông theo, riêng nàng lại học theo họ Lý là như thế nào?”
Vân nói: “Cách luật nghiêm cẩn, ngôn từ lão luyện, thực là sở trường riêng có của Đỗ. Nhưng thơ của Lý uyển chuyển như tiên nữ trên núi Cô Xạ(Theo Trung tử - Tiêu Diêu du núi Cô Xạ là nơi thần tiên cư ngụ), có cái thú vị của hoa rơi nước chảy, khiến người ta yêu mến. Không phải là Đỗ kém hơn Lý một bậc, chẳng qua là ý riêng của thiếp, nhẹ lòng học Đỗ, mà nặng lòng mến Lý vậy.”
Tôi cười bảo: “Thật lúc đầu ko thể ngờ rằng Trần Thục Trân chính là tri kỷ của Lý Thanh Liên.”( Thanh Liên: là tên hiệu của Lý Bạch)
Vẫn cười nói: “Thiếp còn có người thầy vỡ lòng là tiên sinh Bạch Lạc Thiên( Bạch Lạc Thiên: tức Bạch Cư Dị tự Lạc Thiên, là tác giả bài Tì bà hành), thiếp vẫn luôn cảm kích trong lòng, chưa quên bao giờ.”
Tôi nói: “Nói vậy là thế nào?”
Vân nói: “Chẳng phải đó là người đã viết bài Tì bà hành ư?” Tôi cười bảo: “Lạ thay! Lý Thái Bạch là tri kỷ, Bạch Lạc Thiên là thầy vỡ lòng, ta là chồng nàng, lại vừa vặn có tên tự là Tam Bạch. Nàng sao mà có duyên với chữ Bạch đến thế?”
Van cười nói: “Có duyên với chữ Bạch, sau này e là lại gắn liền với chữ Biệt vậy.” (Giọng đất Ngô, đọc chữ Biệt thành Bạch). Rồi, cả hai cùng cười lớn với nhau.
Tôi nói: “Nàng đã hiểu thơ, hẳn cũng biết cái hay cái dở của phú.”
Vân nói: “Sở từ là ông tổ của thể phú, thiếp học cạn khó mà hiểu được. Còn trong số những người đời Hán, đời Tấn, tình điệu cao vợi, ngôn ngữ điêu luyện, thì dường Tương Như(Tương Như: tức Tư Mã Tương Như, tự Trường Khanh, người Tứ Xuyên, là nhà từ phủ nổi tiếng đời Tây Hán) là hơn nhất.”
Tôi đùa bảo: “Thuở ấy, Văn Quân(Văn Quân: tức Trác Văn Quân, là con gái Trác Vương Tôn, dung mạo xinh đẹp, ở góa tại nhà, Tư Mã Tương Như trông thấy, bèn
gảy đàn cầm trêu ghẹo. Văn Quân nghe đàn, bèn bỏ nhà theo Tư Mã Tương Như) chạy theo Trường Khanh, nhẽ chẳng phải vì ở tiếng đàn, mà là ở lời phú ấy chăng?” Cả hai lại cùng cả cười với nhau, rồi thôi.
Tính tôi hào sảng thẳng thắn, thoải mái không câu nệ. Vân lại như kẻ hủ nho, tuân thủ theo nhiều nghi lễ. Ngẫu nhiên có khi tôi làm việc chỉnh áo, sửa tà giúp cho, thì nàng tất liên mồm nói câu: “Đắc tội!”. Hoặc có khi tôi đưa khăn, trao quạt cho, cũng tất đứng dậy đón nhận. Tôi lấy làm không thích, nói: “Nàng muốn lấy lễ mà trói buộc ta ư? Có câu: Lễ nghi nhiều tất là giả dối đấy.” Vân hai má đỏ bừng nói: “Thiếp cung kính nên giữ lễ, làm
sao lại nói rằng giả dối?” Tôi nói: “Cung kính là ở trong lòng, chứ đâu phải ở lời nói bên ngoài.” Vân nói: “Chí thân chẳng ai bằng cha mẹ, nhưng có thể chỉ kính trong lòng mà bề ngoài tùy ý buông thả ư?” Tôi bảo: “Câu ta nói khi nãy là đùa nàng thế thôi.” Vân nói: “Người thế gian giao giờ với nhau, phần đa do đùa cợt gây nên. Từ sau xin chớ nói oan cho thiếp, khiến người ta ức chết như thế!” Tôi bèn kéo Vân ôm vào lòng mà an ủi, nàng mới nguôi lòng vui vẻ mỉm cười. Từ đó những câu “Không dám”, “Đắc tội” càng thành những câu trợ ngữ không thể thiếu vậy.
Nâng án ngang mày(Đây chỉ tích vợ chồng Lương Hồng, Mạnh Quang kính trọng lẫn nhau như khách, mỗi khi vợ mang cơm cho chồng đều nâng mâm cao đến ngang
mày) ăn ở với nhau hai mươi ba năm, thời gian càng dài tình càng khắng khít. Ở trong gia đình, có khi gặp nhau nơi ngõ hẹp, chốn buồng không, tất cũng cầm tay nhau hỏi: “Mình đi đâu thế?” mà trong lòng thấp thỏm như sợ người ngoài trông thấy. Thực thì chuyện cùng đi cùng ngồi, lúc đầu còn tránh người, lâu rồi mới không còn để ý nữa. Có khi Vân đang ngồi nói chuyện với người khác, trông thấy tôi đến, tất khép nép đứng dậy, tôi đến bên cạnh, đôi bên đều chẳng biết phải làm thế nào, mới đầu cũng lấy làm thẹn, về sau quen đi dần cho là thường. Riêng lấy làm lạ rằng, những vợ chồng lâu năm vẫn hay nhìn nhau như cừu thù, chẳng biết là ý thế nào? Có người lại nói: “Chẳng như ў thế, thì làm sao được bạch đầu giai lão?” Câu ấy là đúng ru?
Thất tịch năm ấy, Vân bày hương nến dưa quả, để cùng lễ bái Thiên Tôn(Thiên Tôn: tên sao, tức Chức Nữ. THÁNH THÀNH) ở hiên Ngã Thủ. Tôi khắc câu “Nguyện sinh sinh thế thế gi phu phụ” (Nguyện đời đời kiếp kiếp làm vợ chồng) làm hai con dấu, tôi giữ con dấu khắc nổi, vẫn giữ con dấu khắc chìm, để dùng khi viết thư qua lại cho nhau. Tối ấy, trăng sáng rất đẹp, cái nhìn dòng sông, sóng vờn như lụa, chúng tôi cầm cây quạt lụa mỏng, ngồi bên nhau cạnh song cửa trên bờ nước, ngừng nhìn mây bay ngang trời, biến hóa muôn hình vạn trạng.
Vân nói: “Vũ trụ bao la, cũng như một mặt trăng này. Chẳng biết trên thế gian hôm nay, còn ai cũng có tình thú như hai ta chăng?”
Tôi nói: “Hóng mát trông trăng, nơi nào chả có. Nhưng nếu là phẩm bình mây ráng, hay tầm cầu buồng thêu khuê các, thì hẳn những kẻ tuệ tâm thấu
ngộ cố nhiên không ít. Còn như chúng ta, phu phụ cùng thưởng trắng thì cái điều thưởng thức phẩm bình e chẳng phải là ở mây ráng này vậy.”
Không mấy lâu, thì nến tắt trăng tàn, bèn dọn quả bánh về buồng nằm.
Rằm tháng Bảy, tục gọi là Tết vong. Vân chuẩn bị chút rượu nhắm, dự tính vợ chồng trông trăng uống rượu vui. Đến tối, bỗng mây đen như đêm ba mươi, Vân rầu rĩ nói: “Nếu thiếp có thể sống cùng chàng đến bạch đầu giai lão, thì trăng sẽ ló ra.” Tôi cũng buồn bã. Chỉ thấy bờ bên kia muôn vàn ánh đóm chập chờn khi sáng khi tối, đan dệt giữa những bãi rong ngàn liễu. Tôi với Vân cùng nổi thơ liên cú giải khuây, mà mới được đôi vần, càng nối càng rời rạc, không ăn nhập ý tứ gì, chỉ tiện miệng đọc bừa. Vẫn cười không ra tiếng, chảy cả nước mắt nước mũi, gục vào lòng tôi. Tôi chợt thấy bên tóc mai nàng, mùi hương nhài ngan ngát đưa vào cánh mũi, bèn vỗ lưng Vân, lựa lời hỏi dò: “Cứ ngỡ cổ nhân cho hoa nhài hình dạng màu sắc tựa như ngọc châu, cho nên dùng cài lên mái tóc mà trang điểm, nào hay hoa này đem sức cho tóc keo má phấn, mùi hương thơm lại càng đáng yêu, hương phật thủ vẫn dùng đáng phải chịu lui ba xá(Một xá là ba mươi dặm) vậy.” Vân liền ngừng cười, nói: “Phật thủ là quân tử trong đám hương thơm, chỉ phảng phất trong khoảng hữu ý vô ý. Còn hoa nhài là tiểu nhân trong đám hương thơm, cho nên phải mượn thế người khác, hương của nó cũng tựa như so vai cười nịnh vậy.” Tôi nói: “Thế sao nàng lại xa quân tử mà gần tiểu nhân?” Vân bảo: “Thiếp cười bậc quân tử yêu kẻ tiểu nhân đấy!”
Đang còn trò chuyện, thì giọt đồng hồ đã điểm canh ba, dần thấy gió đưa mây tản, một vầng trăng vụt hiện ra, hai chúng tôi đều mừng rỡ. Tựa song đối ẩm, rượu chưa được ba tuần, bỗng nghe thấy dưới cầu thăm một tiếng, như có người rơi xuống nước. Chạy ra cửa sổ nhìn kĩ, thì thấy mặt nước sáng phẳng như gương, chẳng thấy một vật gì, chỉ nghe tiếng con vịt chạy vội trên bãi sông. Tôi biết bên đình Thương Lang vốn có ma chết đuối, nhưng sợ Vân khiếp hãi, chẳng dám nói ra. Vân nói: “Ôi chao! Cái tiếng ấy ở đâu mà ra thế nhỉ?” Rồi không ngăn được sởn cả gai ốc, vội vàng đóng cửa sổ, xách rượu về buồng. Một ngọn đèn hạt đậu, màn trưởng chừng buông, mà thần hồn nát thần tính, mãi vẫn chưa hết sợ hãi. Tắt đèn vào màn, Vân đã hàn nhiệt phát bệnh. Tôi cũng kế theo ốm, khốn đốn mất
hai chục ngày. Đúng thực như người ta nói “vui quá hóa buồn”, cũng là cái điềm chẳng trọn bạc đầu vậy.
Ngày Trung thu, bệnh tôi mới khỏi. Thấy Vân về làm dâu đã nửa năm mà chưa từng đến đình Thương Lang ở ngay sát vách nhà bao giờ, bèn trước hết bảo lão bộc sang hẹn với người coi đình, chớ để cho người vãng lai vào. Chiều gần tối, tôi cùng Vân, và em gái nhỏ của mình, có một vú già và một con sen theo hầu đỡ, có lão bộc đi trước dẫn đường, qua cầu đá, vào cửa rồi rẽ sang phía đông, theo lối quanh co đi vào. Có đá xếp thành núi, cây cối xanh um. Đình dựng trên đỉnh núi đất, men theo bậc mà lên đến giữa đình, nhìn ra khắp xung quanh có thể xa tới mấy dặm, chỉ trong bốn phía khói mờ, ráng chiều rực rỡ. Nơi bờ đối diện gọi là Cận Sơn lâm, là nơi tụ hội yến ẩm của Đại hiến, Hành đài,(Đại hiến: chỉ các chức Tuần phủ, Án sát; Hành đài: chỉ chức Hành thượng thư đài) bấy giờ Chính Nghị thư viện còn chưa được dựng. Chúng tôi mang theo một tấm thảm, trải ra giữa đình, rồi cùng ngồi quây tròn dưới đất, người coi đình đã pha trà dâng lên.
Một lát, vầng trăng sáng đã lên đến đầu cây, dần thấy gió đùa tay áo, trăng in lòng sông, nỗi tục lòng trần, chợt tan biến thư thái. Vân nói: “Buổi du ngoạn hôm nay vui quá! Giá được cưỡi một lá thuyền con, qua lại dưới đình, chẳng phải càng khoái ý ư!” Bấy giờ đã lên đèn, nhớ lại nỗi kinh hãi tối hôm rằm tháng Bảy, chúng tôi bèn đỡ nhau xuống định về nhà. Tục đất Ngô, tối hôm Trung thu này, phụ nữ chẳng phân biệt nhà giàu nhà nghèo thảy đều ra đường kết từng đội đi chơi, gọi là “đi chơi giăng”. Đình Thương Lang u nhã thoáng rộng, thì lại chẳng có một ai đến cả.
Giá Phu công - cha tôi, thích nhân nghĩa tử, vì cớ ấy mà tôi có tới hai mươi sáu người anh em khác họ. Mẹ tôi cũng có chín người nghĩa nữ, trong số chín người ấy, thì có hai Vương, cô sáu Du là thân thiết với Vân nhất. Vương ngờ nghệch mà giỏi uống rượu, Du thì hào sảng lại hay chuyện. Mỗi khi mấy người ấy cùng nhau tụ tập, tất đuổi tôi ra ở phòng ngoài, để được ba chị em nằm một giường. Đó chính là kế của cô sáu Du. Tôi cười bảo: “Đợi sau khi cô lấy chồng, tôi sẽ mời chồng cô đến, mỗi lần ở chục hôm liền cho biết.” Du nói: “Em cũng đến đây, ngủ cùng giường với chị dâu, thế chẳng hay lắm ư?” Vân với Vương nghe vậy chỉ mỉm cười mà thôi.
Lúc em trai tôi là Khải Đường lấy vợ, chúng tôi dời sang ngõ Thương Mễ, gần cầu Ẩm Mã. Phòng ốc tuy rộng rãi, nhưng không có được cái u nhã như ở đình Thương Lang.
Bữa sinh nhật mẹ tôi, nhà mời gánh kịch tới diễn, Vân mới thấy cho là lạ lẫm lắm. Cha tôi vốn chẳng kiêng kỵ gì, bèn chọn diễn mấy vở buồn như Thảm Biệt, nhà trò khéo diễn, ai xem cũng cảm động. Tôi nhìn qua rèm, thấy Vân bỗng đứng dậy đi vào, rất lâu vẫn không quay ra. Tôi đi vào buồng tìm, Du và Vương cũng nối gót đến sau. Chỉ thấy Vân hai tay chống cằm, ngồi một mình bên hộp gương trang điểm. Tôi hỏi: “Làm sao nàng lại không vui thế?” Vân nói: “Xem kịch vốn để thư thái tâm tình, vở kịch hôm nay lại khiến người ta đau lòng làm vậy.” Du với Vương đều cười. Tôi bảo: “Đây đúng là người nặng tình.” Du nói: “Chị dâu định ngồi một mình ở trong này cả ngày ư?” Vân nói: “Đợi có vở nào khá hơn thì chị lại ra vậy.” Vương nghe thấy thế đi ra trước, xin mẹ tôi chọn mấy vở như Thích Lương, Hậu Sách,(Thích Lương: tên một màn trong vở Ngư Gia Lạc của Chu Tá Triều - nhà viết kịch đời Thanh, nói về chuyện cô gái thuyền chài ] Phi Hà
đâm chết Lương Ký báo thù cho cha. Hậu Sách: tên một màn trong vở Hậu Tầm Thần Ký của nhà viết kịch Diêu Từ Ý đời Thanh) rồi mời Vân ra xem, bấy giờ nàng mới lộ vẻ vui thích.
Bác tôi là Tố Tồn công mất sớm, không có con trai, cha tôi cho tôi thừa tự bác. Mộ bác ở bên cạnh mộ ông nội tôi trên núi Phúc Thọ, cạnh đầm Tây Khoa. Hàng năm, cứ đến tiết xuân, tôi đều đưa Vân đến tảo mộ bái tế. Cô hai Vương nghe nói ở đó có Qua Viên là nơi cảnh đẹp, cũng xin cùng đi theo. Vân trông thấy đá cuội dưới đất có rêu bám thành hoa văn, loang lổ rất đẹp, bèn chỉ cho tôi xem, rồi nói: “Lấy đá này về xếp thành hòn non bộ, thì còn có vẻ cổ kính tinh tế hơn đá bạch thạch của Tuyên Châu.” Tôi nói: “Những viên như thế e là chẳng nhiều.” Vương nói: “Nếu chị dâu thích thì em nhặt cho.” Rồi liền mượn của người coi mộ một cái túi gai, nhảy chân sáo đi nhặt đá, mỗi khi được một viên, tôi khen “Đẹp”, thì bèn thu lấy, tôi bảo “Không!” thì lại vứt đi. Chả bao lâu, Vương đã mồ hôi mồ kê nhễ nhại, kéo túi quay về nói: “Nhặt thêm nữa thì không có sức đâu mà xách nổi!” Vân vừa nhặt vừa bảo rằng: “Tôi nghe người ta thu hoạch trái cây trên núi, tất phải nhờ đến sức lũ khỉ, quả nhiên là vậy!” Vương tức giận, giơ mười đầu ngọn tay ra bộ chực cào, tôi vội ngăn lại, trách Vân:
“Người ta vất vả cho nàng được nhàn, lại còn nói câu ấy, chớ trách em Vương tức giận nhé!”
Trên đường về, vào chơi vườn Qua Viên, hoa đỏ lá xanh, đua nhau khoe sắc. Vương vốn ngốc nghếch, thấy bông hoa nào cũng bứt, Vân nạt rằng: “Đã chẳng có bình cắm, lại không cài tóc, em hái nhiều thể làm gì?” Vương nói: “Chúng có biết đau đớn đầu, hái thì hại gì?” Tôi cười trêu bảo: “Sau này phạt em gả cho chàng rể mặt rỗ rậm râu, để rửa hờn cho hoa!” Vương lừ mắt nhìn tôi vẻ tức giận, ném hoa xuống đất, lại lấy chân đá xuống dưới hồ, bảo: “Sao bắt nạt người ta quá thế!” Vân cười xòa khuyên giải đi mới thôi.
Vân hồi đầu thường lặng lẽ ít nói, chỉ thích nghe tôi nghị luận. Tôi đem lời khiêu khích, như người ta lấy lá cỏ khích dế chọi, nàng mới dần dà cùng tranh luận. Vân hàng ngày ăn cơm đều lấy nước trà chan, lại thích ăn cải muối đậu phụ, tục đất Ngô gọi là “đậu phụ thối”, và thích ăn trái dưa muối tôm. Hai món ấy, bình sinh tôi chúa ghét, nhân nói đùa Vân rằng: “Chó không có dạ cho nên ăn được phân, là vì không biết đến mùi xú uế; Bọ hung về phân mà hóa thành ve,( Truyền thuyết xưa cho rằng bọ hung sau hóa thành ve sầu) là vì muốn rèn sửa bản thân cho trở nên cao cả vậy. Nàng là chó chăng? Hay là ve chăng?” Vân nói: “Đậu phụ thì giá rẻ mà có thể ăn được với cháo với cơm, từ nhỏ thiếp ăn quen rồi, nay đến nhà chàng, đã như bọ hung hóa ra ve, nhưng vẫn còn thích ăn, là vì không quên gốc vậy. Đến như vị dưa muối tôm, thì tới đây mới được nếm” Tôi nói: “Như vậy thì nhà ta là cái ổ chó hẳn?” Vân quẫn bí, nhưng vẫn gắng giảng giải rằng: “Phân thì người ta ai mà chẳng có, khác nhau chủ yếu là ở chỗ ăn với không ăn mà thôi. Như chàng thích ăn tỏi, thiếp cũng gượng mà ăn. Đậu phụ thiếp không dám ép, nhưng dưa muối thì chàng có thể bịt mũi mà nếm thử, nuốt vào cổ rồi sẽ thấy mùi ngon của nó, ấy cũng như Vô Diêm (Vô Diêm: tức Chung Ly Xuân, người ấp Vô Diêm đời Chiến Quốc, nên còn được gọi là
Chung Vô Diêm (sau ngoa truyền thành Chung Vô Diệm/Diễm), dung mạo xấu xí, nhưng có đức, từng tự đến gặp Tề Tuyên vương, và được nạp làm Vương hậu) vẻ ngoài xấu xí mà có đức tốt vậy.” Tôi cười nói: “Nàng buộc ta phải làm chó ư?” Vân nói: “Thiếp làm chó đã lâu rồi, phiền chàng thử nếm xem sao.” Nói rồi, gắp một đũa cứ nhét vào miệng tôi. Tôi bịt mũi mà nhai, tựa hồ
cũng thấy vị giòn ngon. Thả mũi ra nhai, rốt lại thành một mùi vị khác, từ đó cũng thích ăn món ấy. Vẫn dùng dầu vừng, cho thêm chút đường trắng đánh đều cùng với đậu phụ muối, cũng thành một thứ rất ngon. Lấy dưa muối giã nát, nguấy với đậu phụ muối, gọi tên là “Song tiên tương”, cũng có một vị rất lạ. Tôi nói: “Ta mới đầu ghét món này mà rốt cuộc lại thích, thật không hiểu là lẽ gì?” Vân nói: “Vì tình chung đúc nên, dù xấu cũng chẳng hiềm.”
Người vợ của Khải Đường - em trai tôi, là cháu gái của Vương Hư Chu tiên sinh. Khi “thôi trang”(Thôi trang: tục hôn lễ xưa, khi con gái xuất giá, nhà trai phải nhiều lần đưa đồ trang sức giục giã, mới trang điểm khởi hành (để tỏ ý quyến
luyến nhà cha mẹ), gọi là “thôi trang”) ngẫu nhiên thiếu một chiếc hoa ngọc, Vân bèn đem cái mà mình nhận được hôm làm lễ nạp thái đưa trình mẹ tôi. Mấy vú già, đứa ở đứng bên lấy làm tiếc, Vân bảo: “Phàm là đàn bà, đã thuộc khí thuần âm, mà ngọc châu lại là tinh của khí thuần âm, đem dùng trang sức, sẽ khắc hết dương khí, có gì mà quý hóa?” Ấy thế nhưng với những bức họa tàn, sách nát, thì nàng lại cực kỳ trân quý. Những cuốn sách nào tàn khuyết không toàn vẹn, thì tất sưu tập các chương, gom đóng lại thành quyển, thảy đều đặt tên là “Đoạn giản tàn biên”(Tức giấy rách, quyển tàn). Những bức thư họa rách hỏng, tất đều tìm giấy cũ dán bồi thành bức, có chỗ nào khuyết thiếu, lại bảo tôi bổ vào cho đầy đủ, rồi làm thành trục cuốn, gọi là “Khí dự tập thưởng”(Tức thu thập thưởng ngoạn từ những thứ đã bị vứt bỏ). Ngoài những khi làm việc nữ công bếp núc, nàng lại bận rộn cả ngày với những việc lặt vặt, nhưng chẳng hề kêu ca mệt nhọc gì. Trong những đống giấy nát quyển rách, ngẫu nhiên tìm thấy mảnh nào chữ nghĩa đẹp đẽ, thì Vân cứ như bắt được của báu. Bà lão Phùng hàng xóm vẫn thường gom những sách vở cũ đem sang bán cho.
Sở thích của Vân cũng giống tôi, lại giỏi hiểu ý, ánh mắt nét mày, nhất cử nhất động, chỉ cần lộ ra vẻ mặt, là chẳng gì nàng không hiểu rõ.
Tôi từng nói: “Tiếc rằng nàng là phận gái, chứ nếu có thể hóa nữ thành nam, rồi chúng ta cùng đi thăm danh sơn, tìm thắng tích, ngao du thiên hạ, chẳng cũng thích lắm à?”
Vân nói: “Việc ấy nào có khó gì, đợi đến khi thiếp bạc mái đầu rồi, tuy chẳng thể xa chơi Ngũ Nhạc, nhưng những chỗ gần đây như Hổ Phụ, Linh Nham,(Tên hai ngọn núi ngoài thành Tô Châu) nam đến Tây Hồ, bắc đến Bình Sơn, thảy đều có thể cùng chàng tới chơi được.”
Tôi nói: “E là khi nàng bạc mái đầu, thì một bước đi cũng khó.” Vân nói: “Kiếp này chẳng thể, thì hẹn kiếp sau.”
Tôi nói: “Kiếp sau nàng nên là trai, còn ta là gái theo nàng.” Vân nói: “Tất không được quên kiếp này, thì mới thấy hết tình thú.”
Tôi cười bảo: “Chuyện một bát cháo hồi nhỏ mà còn nói mãi không hết, nếu như kiếp sau lại không quên kiếp này, thì đêm hợp cần, nói lại chuyện kiếp trước, chắc chúng ta cả đêm không chợp mắt được.”
Vân bảo: “Người đời truyền rằng Nguyệt Hạ lão nhân chuyên lo việc hôn nhân của thế gian, kiếp này vợ chồng ta đã nhờ ơn tác hợp, chuyện nhân duyên kiếp sau cũng nên nhờ ở sức thần, sao chúng ta không họa một bức chân dung ngài mà thờ cúng?”
Bấy giờ có Thích Liễu Đê, tên là Tuân, người Thiều Khê, rất giỏi vẽ tranh nhân vật. Tôi bèn nhờ vẽ bức tranh Nguyệt lão, một tay cầm dây tơ đỏ, một tay cầm cây gậy, trên treo cuốn sổ nhân duyên, vẻ mặt như trẻ con, mà tóc bạc như cước, đi lại giữa khoảng chẳng phải mây chẳng phải khói. Đó là một bức tranh đắc ý của Thích quân. Người bạn tôi là Thạch Trác Đường(Thạch Trác Đường: tên là vấn Ngọc, tự Chấp Như, người Ngô Giang, Tô Châu, đã Trạng nguyên năm Càn Long thứ 5, từng làm Sơn Đông Án sát sứ, sau bãi
quan và chủ trì Tử Dương thư viện ở Tô Châu hơn hai mươi năm) lại đề cho lời tán ở phía trên, rồi đem treo trong nhà. Mỗi khi gặp tuần sóc, vọng, vợ chồng tôi thảy đều thắp hương cầu khấn. Về sau, vì gia đình xảy nhiều biến cố, bức tranh ấy rốt cuộc bị mất, chẳng biết là đã lưu lạc đến nhà nào vậy. “Kiếp sau chưa bói, kiếp này xong!”, hai kẻ si tình, chẳng biết có được thần minh chứng giám cho chăng?
Dời sang ở ngõ Thương Mễ, tôi bèn đề biển ngạch chỗ ở buồng ngủ trên gác của mình là Tân Hương các, ấy là lấy ý từ tên của Vân và hàm nghĩa Tương kính như tân (Trọng nhau như khách) vậy. Sân hẹp, tường cao, không có gì đáng kể. Phía sau, có lầu chái, thông đến chỗ cất sách, mở cửa
sổ là nhìn ra khu vườn bỏ không của nhà họ Lục, duy chỉ thấy một vẻ hoang lạnh. Vân lúc nào cũng khắc khoải trong lòng phong cảnh ở Thương Lang.
Có bà lão sống ở phía đông cầu Kim Mẫu, mé bắc ngõ Canh, vây quanh nhà đều là vườn rau, ken hàng rào làm cửa, ngoài cửa có ao rộng ước một mẫu, bóng cây sắc hoa, xen nhau bên dậu. Đất ấy chính là nền cũ vương phủ của Trương Sĩ Thành(Trương Sĩ Thành: cuối đời Nguyên, từng khởi binh chống lại triều đình, sau phải đầu hàng, bị tướng nhà Minh bắt làm tù binh rồi tự tử)
cuối đời Nguyên vậy. Mẹ tây nhà, cách mấy bước chân, mảnh gạch ngói còn chất đống thành núi. Trèo lên trên đỉnh, có thể nhìn được ra mãi xa, đất rộng người thưa, thú quê dào dạt. Bà lão ngẫu nhiên kể chuyện cho hay, Vân bèn canh cánh ghi lòng, bảo tôi rằng:“Từ khi xa cách Thương Lang, mộng hồn vẫn thường vấn vít. Nay không làm sao được, chợt nghĩ đến chỗ khác, là chỗ mà bà lão ở ấy!” Tôi bảo: “Liền mấy bữa nắng thu hun người ta cũng đang nghĩ muốn tìm một nơi mát mẻ để tránh nóng ít hôm. Nếu nàng muốn tới đó, ta sẽ tới trước xem nhà cửa ở đây có thể ở được không, rồi lập tức sắp xếp hành lý tới đó, ở lại một tháng, có được không?” Vân nói: “Chỉ emẹ không cho.” Tôi bảo: “Ta tự sẽ xin mẹ.” Qua hôm sau, tôi tới nơi ấy, thấy nhà chỉ có hai gian, trước sau cách biệt, mà chia làm bốn buồng, cửa giấy giường tre, rất có nhã thú. Bà lão biết ý tôi, vui vẻ đem buồng ngủ cho thuê, bốn bên vách lại lấy giấy trắng dán lại, chốc lát chợt thấy khác hẳn.
Tôi bèn bẩm mệnh với mẹ, rồi dắt Vân đến đó ở. Hàng xóm chỉ có một đôi vợ chồng già, sống bằng nghề trồng rau. Biết vợ chồng tôi đến nghỉ mát ở đó, bèn sang trước thăm hỏi ân cần, lại câu cá dưới ao, hái rau trong vườn đem cho. Chúng tôi trả tiền, hai người không lấy. Vẫn bèn khâu hài tặng lại, họ mới cảm tạ mà nhận.
Bấy giờ mới tháng Bảy, cây xanh rợp bóng, mặt nước gió đùa, tiếng ve ra rả. Ông lão hàng xóm lại làm cần câu cho, tôi với Vân cùng ẩn sâu trong bóng liễu ngồi câu cá. Khi mặt trời lặn, thì lên núi ngắm ráng chiều tịch dương, tùy ý nối thơ ngâm ngợi, có câu rằng: “Con thú mây nuốt dừng dương lặn; Câu cung trăng bắn đạn sao sa.” Chốc lát, ánh trăng in xuống mặt ao, tiếng trùng nổi lên bốn phía, kể chống tre dưới dậu, bà lão nói rượu đã ấm, Cơm đã chín, bèn cùng nhau chuốc chén dưới trăng, ngà say thì ăn
cơm. Đi tắm xong, xẻ đôi dép lê cầm quạt lá chuối, hoặc nằm hoặc ngồi, nghe ông lão hàng xóm kể chuyện nhân quả báo ứng. Trống canh ba, thì về buồng ngủ, thân thể thanh mát, tựa hồ không còn biết mình từng ở nơi phố thị vậy.
Tôi lại nhờ ông lão hàng xóm mua hoa cúc về trồng đầy dưới dậu. Tháng Chín, hoa nở, lại cùng Vân đến đó ở mươi ngày. Mẹ tôi cũng vui vẻ đến thăm, mang theo cua để vừa ăn vừa ngắm cúc,(Tục tiết Trùng cửu, người Trung Quốc hay ngắm hoa cúc, ăn thịt cua, vì cua mùa này thịt ngon chắc) thưởng ngoạn cả ngày. Vân vui vẻ bảo: “Sau này, thiếp với chàng tìm chỗ làm nhà ở đây mà ở, mua chục mẫu vườn rau quanh nhà, bảo ban thì bộc trồng rau dưa mà lấy tiền củi gạo. Chàng vẽ tranh, thiếp thêu thùa, để có cái mua rượu. Mặc áo vải, ăn cơm rau, mà khá trọn đời vui thú, bất tất phải tính kế viễn du làm chi.” Tôi rất lấy làm phải. Nay, đã có được mảnh đất như thế, thì tri kỷ lại không còn nữa, làm sao cho khỏi thở than!
Cách nhà tôi độ nửa dặm, ở ngõ Thổ Khố có đền thờ Động Đình quân, tục vẫn gọi là miếu Thủy Tiên. Trong miếu, hành lang quanh co uốn khúc, có tòa đình trên vườn hoa nhỏ. Vào dịp đản nhật của thần, mỗi dòng họ trong
vùng lại nhận một góc, treo đầy đèn pha lê, ở giữa đặt cỗ ngai báu, bên cạnh đặt bình, kỷ, cắm hoa bày biện, để thi đua với nhau xem họ nào đẹp hơn. Ban ngày chỉ có diễn kịch, đến đêm thì cắm đầy những đèn nến giữa các bình hoa, cái cao cái thấp, gọi là “Hoa chiếu”. Ánh đèn sắc hoa, đỉnh hương khói tỏa, tựa như dạ yến dưới long cung. Những người chấp sự, hoặc đàn sáo xướng ca, hoặc pha trà đàm đạo, người đến xem đông như kiến, dưới hiên đều phải dựng hàng rào lan can để giới hạn. Tôi được các bạn mời đi, cắm hoa xếp đặt, nhân đó được đích thân vào xem thịnh điển.
Về nhà, tôi cứ khen ngợi mãi mà kể cho Vân nghe, Vân nói: “Tiếc rằng thiếp chẳng phải nam nhi, nên không được tới đó.” Tôi nói: “Nàng đội mũ của ta, mặc áo của ta, thì cũng là cách biến nữ thành nam vậy.” Vì vậy, bèn chải lại tóc thành đuôi sam, vẽ đậm thêm nét mày, chụp cái mũ của tôi vào, hai bên tóc mai hơi lộ, cũng có thể che dấu được. Vân mặc áo của tôi, bị dài mất một tấc rưỡi, bèn kéo gấp chỗ eo lên khâu lại, bên ngoài lại mặc thêm cái áo cánh. Vân nói: “Dưới chân thì làm thế nào?” Tôi bảo: “Ở các cửa tiệm có bán hài con bướm, cỡ lớn cỡ nhỏ có cả, mua dễ như bỡn, hơn
ẳ
nữa, khi sớm khi tối, lại có thể dùng thay cho dép lê, chẳng cũng tốt hay sao?” Văn vẻ hớn hở lắm.
Tới chiều tối, ăn cơm xong, nai nịt đâu đấy, Vân lại bắt chước học cách chắp tay, bước đi của cánh nam giới hồi lâu, xong chợt đổi ý bảo: “Thiếp chẳng đi nữa đâu. Bị người ta nhận ra thì thật bất tiện, mà mẹ nghe biết chuyện cũng không hay.” Tôi khuyên dụ rằng: “Những người chấp sự trong miếu, ai chẳng biết ta, nếu như có nhận ra chẳng qua cũng chỉ cười xòa mà thôi. Còn mẹ giờ đang ở bên nhà chồng của em chín, chúng ta bí mật đi, bí mật về, làm sao bà biết được.”
Vân cầm gương lên soi, cười ngặt ngõo mãi không thôi. Tôi cứ kéo nàng, lẳng lặng đi thẳng ra cửa. Chúng tôi đi xem chơi khắp trong miếu, mà chẳng một ai nhận ra đó là con gái cả. Hoặc có người hỏi là ai, tôi lại đáp là em họ bên ngoài, còn nàng chỉ vòng tay với chào mà thôi. Cuối cùng, đến một nơi, có những thiếu phụ và bé gái ngồi sau một chỗ đặt cỗ ngai báu, chính là quyến thuộc của chấp sự họ Dương. Vân bỗng tiến tới chào hỏi, vừa mới nghiêng mình, thì bất giác chạm vào vai một thiếu phụ. Mấy vú già, con ở đứng bên cạnh tức giận đứng dậy nói: “Tên cuồng sinh nào thế này, sao chẳng hiểu phép tắc gì cả?” Tôi định kiếm câu nói dối lấp đi, thì Vân thấy tình thế không hay, bèn bỏ mũ, giơ chân ra cho họ thấy, bảo: “Tôi cũng là nữ nhi đây thôi.” Mấy người ấy nhìn nhau ngạc nhiên, rồi chuyển giận làm vui, giữ lại uống trà ăn bánh, và gọi kiệu đưa về.
Tiền Sư Trúc ở Ngô Giang bị bệnh qua đời, cha tôi gửi thư về, sai tôi tới phúng điếu. Vẫn bảo riêng với tôi: “Đi Ngô Giang tất phải qua Thái Hồ, thiếp muốn đi cùng chàng, để được mở mang tầm mắt.” Tôi nói: “Ta đang lo phải đi một mình đơn độc, có nàng đi cùng cố nhiên là tuyệt, nhưng không biết mượn cớ gì mà xin cho phải.” Vân nói: “Lấy cớ là về quê thăm nhà. Chàng lên thuyền trước, thiếp sẽ theo sau mà tới.” Tôi nói: “Nếu như vậy, trên đường về chúng ta sẽ đậu thuyền dưới cầu Vạn Niên, ta với nàng lại cùng hóng mát trông trăng, nối tiếp chuyện phong nha đình Thương Lang thuở trước.” Hôm đó là ngày mười tám tháng Sáu.
Sáng ấy trời mát mẻ, tôi dắt một tên người nhà đến bến Tư Giang trước, lên thuyền ngồi đợi, Vân quả nhiên ngồi kiệu tới. Thuyền nhổ neo ra đến cầu Hổ Khiếu, dần đã thấy âu bay, buồm lướt, trời nước một màu. Vân bảo: “Đây là chỗ người ta vẫn gọi là Thái Hồ chăng? Nay được thấy vẻ
rộng lớn của đất trời, kiếp này coi như không uổng. Thiết tưởng, những người trong chốn buồng khuê hẳn có kẻ hết đời cũng không được thấy cảnh này!” Chuyện phiếm chưa bao lâu, chợt thấy gió đùa bờ liễu, chúng tôi đã tới Giang thành.
Tôi lên bờ vào điếu tế xong, quay về thuyền thấy trống trơn không có một ai, vội hỏi người lái đò. Người lái đò chỉ tay bảo: “Ông không thấy mấy người đang đứng dưới gốc liễu bên Trường Kiều, xem chim cốc bắt cá kia à?” Hóa ra Vân đã theo con gái nhà đò lên bờ rồi. Tôi đi đến phía sau, thấy Vân mồ hôi đầm đìa đang đứng tựa cô con gái nhà đò, đăm đắm nhìn ra phía xa. Tôi vỗ vai nàng bảo: “Áo là ngấm hết mồ hôi rồi!” Vân ngoảnh đầu lại bảo: “Thiếp sợ nhà họ Tiền có người tới thuyền, nên tạm lánh mặt đi. Sao chàng về mau thế?” Tôi cười bảo: “Vì muốn bắt kẻ chạy trốn!” Nói rồi cùng đỡ về thuyền, quay sào đến dưới cầu Vạn Niên, mặt trời vẫn còn chưa xuống núi. Cửa sổ trên thuyền mở hết, gió mát nhẹ đưa, chúng tôi quạt lụa áo là, cùng nhau bổ dưa giải khát. Lúc sau, ráng ánh cầu son, khói lồng liễu tối, vừng trắng bạc sắp nhô lên, lửa thuyền chài đầy mặt nước. Tôi bảo tên người nhà lên đầu thuyền cùng uống rượu với người lái đò.
Cô con gái nhà đó tên là Tố Vân, có uống chén rượu xã giao với tôi, con người cũng không tục, tôi bèn mời lại cùng ngồi với Vân. Trên thuyền không thắp đèn nến, chúng tôi trông trăng chuốc chén, cùng chơi trò xạ phúc để làm tửu lệnh. Tố Vân hai mắt sáng ngời, nghe xem hồi lâu, nói: “Các trò trên bàn rượu tôi cũng biết nhiều lắm, nhưng trước giờ chưa nghe thấy kiểu tửu lệnh này, xin dạy cho biết.” Vẫn bèn thử lấy ví dụ ra mà chỉ dẫn cho, nhưng rốt cô ta vẫn mơ mơ hồ hồ. Tôi cười bảo: “Xin bà giáo chớ giảng bài nữa, tôi có một câu tỉ dụ này, lập tức hiểu ngay nhé.” Vân nói: “Chàng tỉ dụ ra làm sao?” Tôi bảo: “Hạc giỏi múa mà chẳng biết cày, trâu giỏi cày mà chẳng biết múa, ấy là tính tự nhiên của muôn vật vậy. Bà giáo lại định làm ngược lại đạo lý ấy mà dạy, chẳng cũng nhọc Công ư?”
Tố Vân cười đánh vào vai tôi nói: “Ông chửi tôi đấy hả?” Vân ra tửu lệnh rằng: “Chỉ được động khẩu, không được động thủ. Ai vi phạm phạt một cốc lớn.” Tố Vân tửu lượng cao, rót đầy cốc to, uống một hơi cạn. Tôi nói: “Động thủ chỉ cho sờ mó, không cho đánh người.” Vân cười, kéo Tố Vân đẩy vào lòng tôi, bảo: “Mời chàng sờ mó cho thỏa chí đi.” Tôi cười bảo: “Nàng chẳng hiểu ý người khác gì cả, sờ mó chỉ làm giữa lúc nửa vô tình
nửa hữu ý thôi. Chứ ôm lấy mà sờ mó lung tung, thì chỉ có bọn giai cày mới làm thế!”
Lúc ấy, hoa nhài cài bên tóc mai hai người, bị hơi rượu quyện vào, hòa cùng mùi hương phấn sáp, nồng nàn xông vào cánh mũi. Tôi đùa bảo: “Mùi vị tiểu nhân đầy khắp một thuyền, khiến người phát ớn.” Tố Vân không ngăn được lại nắm tay đấm tôi thùm thụp, nói: “Ai bảo ông ra sức ngửi lấy?” Văn hộ bảo: “Trái lệnh! Phạt hai cốc lớn.” Tố Vân nói: “Ông ấy lại mắng tôi là tiểu nhân, chẳng phải đáng bị đánh sao?” Vân nói: “Tiểu nhân mà ông ấy nói là có duyên do đấy. Xin uống cạn cốc rượu này đi, rồi tôi nói cho hay.” Tố Vân uống cạn liền hai cốc, Vân bèn đem chuyện khi xưa chúng tôi ngồi hóng mát ở nhà cũ bên đình Thương Lang ra kể lại cho nghe. Tố Vân nói: “Nếu đúng thế, thì đúng là tôi đã trách nhầm ông ấy rồi, phải phạt thêm lần nữa.” Rồi lại uống cạn một cốc.
Vân nói: “Từ lâu đã nghe cô Tố hát hay, có thể cho chúng tôi được nghe diệu âm một lần chăng?” Tố bèn cầm đũa ngà gõ vào đĩa mà hát. Vân vui thích uống mãi, say lúc nào không biết, bèn đi kiệu về trước. Tôi ở lại uống trà nói chuyện với Tố Vân một lúc, rồi đi bộ dưới trăng mà về.
Bấy giờ, tôi ở nhờ trong lầu Tiêu Sáng của nhà người bạn là Lỗ Bán Phảng. Qua mấy hôm, Lỗ phu nhân nghe lầm đâu, nói riêng với Vân rằng: “Hôm trước tôi có nghe người ta nói, anh nhà đem theo hai đứa kĩ nữ, uống rượu trên thuyền dưới cầu Vạn Niên, chị có biết không?” Vân nói: “Dạ có. Một trong hai đứa ấy là tôi đây.” Nhân đem chuyện cùng đi chơi kể hết lại đầu đuôi rành rọt cho nghe, Lỗ phu nhân cả cười, rồi vui vẻ ra về.
Tháng Bảy, năm Giáp Dần niên hiệu Càn Long,(Tức năm 1794) tôi từ Việt Đông về nhà. Có người đồng bạn, tên là Từ Tú Phong - chồng của cô em họ ngoại của tôi - cũng dẫn người thiếp về, hết sức khen sắc đẹp người thiếp mới lấy, mời Vân tới xem mặt. Đến hôm khác, Vân mới nói với Tú Phong rằng: “Đẹp thì có đẹp rồi, nhưng chưa thấy phong vận.” Tú Phong nói: “Thế chồng chị mà nạp thiếp, thì nhất định phải tìm người vừa đẹp, vừa phong vận, nhỉ?” Vấn đáp: “Đúng thế.” Từ đấy, Vân ra sức để ý tìm một người như vậy cho tôi, nhưng chẳng sẵn tiền mà tốn vào việc ấy.
Khi ấy, có kĩ nữ người Triết Giang tên là Ôn Lãnh Hương, ngụ cư ở đất Ngô, có bốn bài thơ luật Vịnh Liễu Nhứ, xôn xao lưu truyền khắp vùng
Ngô Hạ, những kẻ hiếu sự phần đa họa vần theo. Người bạn tôi là Trương Nhàn Hàm vốn vẫn hận thưởng Lãnh Hương, mới đem bài Liễu nhứ đến bảo tôi họa thơ. Vân coi thường hạng người ấy, nên gạt đi không xem. Tôi nhất thời ngứa nghề nên họa lại, trong đó có câu: “Gợi tớ sầu xuân thêm khắc khoải; Trêu người hân biệt lại miên man”, Vân rất lấy làm khen ngợi.
Năm sau, là năm Ất Mão, mùa thu, ngày mồng năm tháng Tám, mẹ tôi sắp đưa Vân đi chơi Hổ Khâu, thì Nhàn Hàm chợt đến, bảo: “Cháu cũng định đến Hổ Khâu chơi, hôm nay xin đặc ý nhờ bác gái làm sứ giả thăm hoa vậy.” Nhân xin mẹ tôi cứ đi trước, hẹn sẽ cùng hội ngộ ở Bán Đường, Hổ Khâu, rồi kéo tôi đến chỗ Lãnh Hương đang ngụ. Lãnh Hương đã lớn tuổi, có người con gái tên là Hàm Viên, tuổi chừng đôi tám còn chưa gả chồng, vẻ đẹp đẽ như ngọc, thật đúng như câu “một khoảnh hồ thu chiều lạnh người” vậy. Trong khi chuyện trò khoản đãi, Hàm Viên cũng tỏ ra hiểu biết văn chương bút mực. Lại còn đứa em gái tên là Văn Viên, vẫn còn nhỏ.
Bấy giờ, tôi chẳng có si tưởng gì cả, chỉ nghĩ cuộc rượu tâm tình nơi kĩ viện thế này, một kẻ hàn sẽ chẳng thể có tiền trả nổi. Nay đã bước chân vào đó rồi, lòng riêng chẳng khỏi lo lắng thấp thỏm, chỉ miễn cưỡng thù đáp. Nhân nói nhỏ với Nhàn Hàm rằng: “Tôi chỉ là một kẻ bần sĩ, ngài lại đem vưu vật ra mà đùa bỡn ư?” Nhàn Hàm cười nói: “Không phải thế, hôm nay có người bạn mời Hàm Viên đến để đáp tạ tôi, nhưng ông chủ tiệc lại bị một vị tôn khách kéo đi rồi, nên tôi là khách lại thay mời khách, ông không phải lo nghĩ làm gì.” Tôi nghe vậy mới an tâm.
Đến Bán Đường, thì hai thuyền gặp nhau, tôi bảo Hàm Viên sang thuyền mẹ tôi lạy chào. Vân và Hàm Viên gặp nhau, vui mừng như đã gặp người quen cũ, dắt tay nhau lên núi, xem khắp các nơi danh thắng. Vân riêng mến nơi cảnh “Thiên khoảnh sân” (Ngàn khoảnh mây) cao rộng, ngồi thưởng ngoạn hồi lâu. Quay lại đến bến Dã Phương, hai thuyền kề bên nhau đậu lại, cùng sướng ẩm vô cùng vui vẻ. Tới lúc nhổ neo, Vân bảo tôi rằng: “Chàng sang cùng Trương quân, để Hàm Viên bên này với thiếp có được chăng?” Tôi bằng lòng. Quay chèo về đến cầu Đô Đình, chúng tôi mới sang lại thuyền mà chia biệt. Lúc về tới nhà thì đã trống canh ba.
Vân nói: “Hôm nay mới được thấy người đẹp mà có phong vận. Vừa rồi thiếp đã hẹn Hàm Viên ngày mai qua chơi nhà mình, để thiếp liệu tính cho chàng.”
ẳ
Tôi kinh hãi bảo: “Người ấy nếu chẳng phải nơi nhà vàng thì sao chịu ở, học trò nghèo như ta đâu dám có cái vọng tưởng ấy? Huống chi, hai chúng ta đang đôi lứa nồng nàn, hà tất phải tìm thêm ai nữa?”
Vẫn cười bảo: “Thiếp tự thấy mến cô ấy, chàng cứ tạm chờ đi.”
Trưa hôm sau, Hàm Viên quả nhiên tới nhà. Vân ân cần khoản đãi, trong tiệc lại chơi trò đoán thẻ, người thắng ngâm thơ, người thua uống rượu, để làm tửu lệnh, cho tận đến tàn tiệc cũng không nói một câu nào ý muốn săn đón về nhà mình. Kịp tới khi Hàm Viên ra về rồi, Vân mới nói với tôi: “Vừa nãy, thiếp lại có hẹn riêng với cô ấy, ngày mười tám sang đây để cùng kết nghĩa chị em. Chàng hãy chuẩn bị cho mấy thứ muông sinh làm lễ để đợi sẵn.” Rồi lại cười, chỉ chiếc vòng phỉ thúy trên tay bảo: “Nếu chàng thấy cái vòng này đã được trao cho Hàm Viên, thì ấy là việc tất sẽ thành. Khi nãy, thiếp đã ngỏ ý, nhưng còn chưa giao kết đậm sâu trong lòng thôi.” Tôi chỉ đành tạm nghe theo thế.
Ngày mười tám, mưa to. Hàm Viên vẫn đội mưa mà đến. Hàm vào nhà rất lâu, Vân mới dắt tay dẫn ra. Trông thấy tôi, vẻ mặt có ý thẹn thùng, vì cái vòng phỉ thúy đã đeo trên tay Hàm rồi. Thắp hương kết bái xong, định lại
nối tiếp bữa tiệc rượu lần trước, thì gặp khi Hàm Viên có cuộc du ngoạn Thạch Hồ, nên phải các biệt. Vần vui vẻ nói với tôi: “Người đẹp đã có được rồi, chàng lấy gì để cảm tạ bà mối đây?
Tôi hỏi rõ ngọn ngành, Vân nói: “Trước giờ thiếp vẫn không nói gì với Hàm Viên cả, vì sợ cô ấy đã có nơi có chốn rồi. Vừa nãy thiếp dò hỏi, biết cô ấy chưa có nơi nào khác, mới bảo rằng: “Em có biết ý chị ngày hôm nay là gì không? Hàm nói: “Đội ơn phu nhân nâng đỡ, thật là như sợi cỏ bồng được tựa gốc cây ngọc, nhưng mẹ em trông mong ở em nhiều lắm, chỉ e khó mà tự chủ trương được, xin cho đó với đây cùng từ từ tính liệu vậy. Lúc thiếp tháo cái vòng trên tay đưa cho Hàm, lại bảo: Ngọc thì vốn chắc bền, mà vòng đây lại có ý đoàn viên không đứt. Em hãy đeo chiếc vòng này để lấy điềm lành ban đầu? Hàm nói: “Cái quyền cho tụ hội thảy đều ở phu nhân vậy. Cứ đó mà xem, thì Hàm Viên trong lòng đã ưng rồi đó. Khó là ở một chỗ Lãnh Hương thôi, tất lại phải tính toán mới được.” Tôi cười bảo: “Nàng định bắt chước theo truyện Lân hương bạn của Lạp Ông(Lạp Ông: tức Lý Ngư (1610-1680), nhà viết kịch đời Thanh Lân hương bạn còn gọi Mỹ nhân
hương là một vở kịch của ông, trong đó có nói về một người vợ nạp thiếp cho chồng) ư?” Vân đáp: “Chính thế.”
Từ hôm ấy, chẳng hôm nào chúng tôi không nói đến Hàm Viên. Về sau, Hàm Viên bị một kẻ có thế lực đoạt mất, việc ấy bèn không thành. Vân rốt vì chuyện đó mà chết.
Thú nhân tình
Tôi nhớ khi còn thơ ấu, có thể mở mắt trông thẳng mặt trời, tinh tới mức nhìn từng chân tơ kẽ tóc. Thấy những vật nhỏ bé tinh vi, tất xem xét kĩ từng đường nét, cho nên thường Có những điều thú vị vượt ra ngoài sự vật.
Mùa hè, muỗi vo vo như sấm, tôi lại tự nghĩ ra đó là một đàn chim hạc đang múa lượn giữa từng không. Lòng đã nghĩ vậy, thì lập tức cả trăm, hay cả ngàn con muỗi, quả nhiên hóa thành chim hạc. Tôi vươn đầu nhìn chăm chú, đến nỗi cổ cứng cả ra. Rồi tôi lại nhốt lũ muỗi trong màn, từ từ thổi khói vào, khiến cho lũ muỗi bay lượn vo ve trong làn khói, để làm cảnh bạch hạc thanh cân, quả nhiên thấy đúng như đàn hạc kêu trong mây, khiến tôi vô cùng thích thú.
Ở những hốc lồi lõm trên bờ tường đất, hay nơi có những bụi cỏ rậm rạp trên bệ chậu hoa, tôi thường ngồi xổm, để tầm mắt cao ngang bệ, rồi định thần nhìn kĩ, coi bụi cỏ là một khu rừng, những con sâu, kiến là thú rừng, coi những khối đất nhô cao là núi đồi, những chỗ lõm sâu là khe suối, để mặc thần trí ngao du trong ấy, vô cùng khoái hoạt tự đắc.
Một hôm, tôi thấy có hai con bọ chọi nhau trong bụi cỏ, đang say sưa quan sát, thì bỗng thấy một con vật lớn khổng lồ, đổ cây bạt núi xông tới. Hóa ra đó là một con cóc. Nó vừa phóng nhanh lưỡi ra, thì cả hai con bọ đã đều bị nuốt gọn. Khi ấy tôi còn nhỏ, đang khi chăm chú nhìn xem, bỗng dưng bị nó làm cho bất ngờ kinh hoảng. Đến lúc định thần lại rồi, tôi bèn bắt con cóc, đánh cho mấy chục roi, rồi đuổi đi nơi khác. Sau lớn, nghĩ lại, hai con bọ chọi nhau ấy, chính là chúng đang tơ tít gian tình với nhau vậy. Cổ ngữ nói: “Gian cận sát” (Chuyện gian tà thì cận kề cái chết), hai con bọ ấy chẳng phải đúng thế hay sao? Tôi hay lê la đất cát như vậy, nên “trứng” (tục đất Ngô gọi dương vật là “trứng”) bị giun đốt, sưng to, không đi tiểu được. Người nhà bắt con vịt, vành miệng nó để lấy dãi bôi cho tôi giải độc, mấy vú già người ở ngẫu nhiên tuột tay, con vịt liền vươn cổ đớp như chực mổ nuốt, khiến tôi sợ quá khóc rống lên. Việc ấy sau thành một câu chuyện cười để mọi người kể với nhau. Đó đều là những chuyện nhàn tình của tôi thuở bé vậy.
Kịp đến khi lớn, tôi yêu hoa đến thành nghiện, thích cắt tỉa chậu cảnh. Sau khi quen biết với Trương Lan Pha, tôi mới tinh thông phép cắt cành dưỡng
đốt, tiếp đó lại hiểu cách ken hoa xếp đá. Hoa lấy lan làm bậc nhất, vì ở chỗ có u hương nhã vận, thế nhưng những giống lan hơi được xếp hạng, liệt vào hoa phổ cũng chẳng thể dễ mà có được. Lúc Lan Pha lâm chung, có tặng cho tôi một chậu lan xuân Tố Tâm cánh sen. Loại lan này cánh đều, nhị lớn, cuống nhỏ mà bông tinh khiết, đáng được xếp vào hoa phổ, tôi trân trọng như được viên ngọc quý. Khi tôi làm mạc liêu ở ngoài, Vân lại đích thân tưới tắm chăm sóc, nên chậu lan vẫn hoa lá tốt tươi. Chưa đầy hai năm, một buổi bỗng chúng chết khô hết cả. Tôi nhổ lên xem, thấy rễ lan đều trắng như ngọc lại có những mầm mới đang mọc rất nhiều. Mới đầu, tôi không thể hiểu nổi, cho là mình không có phúc được thưởng thức thứ hoa này, chỉ biết than thở mà thôi. Về sau mới hay, có kẻ muốn xin một nhánh mà không được, cho nên đã đem nước sôi dội chết chậu hoa. Từ đó, tôi thì không trồng hoa lan nữa.
Thứ đến là đỗ quyên, tuy đỗ quyên không có hương thơm, nhưng sắc hoa bền có thể chơi được lâu, vả cây cũng dễ cắt tỉa. Song, vì Vân hay tiếc cành thương lá, không nhẫn tâm cắt xén, cho nên khó thành dáng. Những thứ cây bồn cảnh khác cũng đều như thế.
Riêng hàng năm, mỗi khi dậu đồng hoa cúc nở vàng, tôi đều yêu đến thành nghiện. Nhưng tôi thường thích hái về cắm bình, chứ không thích trồng chậu. Chẳng phải vì cúc trồng chậu không đẹp, mà là vì nhà tôi không có vườn tược, không thể tự trồng được. Còn mua ở chợ, thì họ đều trồng thành bụi tạp không đủ tinh tế vận vị, cho nên tôi không chọn các chậu. Hoa cắm bình, số bông nên lẻ, không nên chắn. Mỗi bình cắm một loại hoa, chứ không cắm hai thứ. Miệng bình chọn loại to rộng, không dùng loại bình hẹp miệng. Miệng bình lớn thì mới có thể khiến hoa vươn ra thoải mái không bị gò bó. Từ năm, bảy bông, cho tới ba, bốn chục bông, tất phải thành khóm trên miệng bình mà cùng nở rộ. Làm sao cho hoa không được tản mát, cũng không được chen chúc rối loạn, không được dựa vào miệng bình là đẹp, thế gọi là “Cắm giữ phải chặt” vậy. Có bông vươn cao đứng thẳng, có bống bay múa xiên nghiêng, hoa phải cái cao cái thấp, bông nhụy đan xen, để tránh mắc lỗi để chồng chất đống như bát đĩa. Lá thì không được rối loạn, cành không được cứng nhắc. Nếu dùng kim để ghim, thì phải che giấu, kim dài thà là bẻ ngắn, chứ không được để lộ từng mũi, từng mũi kim ra ngoài cành hoa, thế gọi là “Miệng bình phải thanh” vậy. Lại xem, bàn lớn hay nhỏ, mà một bàn để từ ba cho tới bảy bình thì thôi, nếu ẳ
nhiều quá thì rối mắt không phân biệt được, chẳng khác gì hàng hoa cúc ở ngoài chợ cả. Kỷ để bình hoa, cao thấp từ ba, bốn tấc, cho tới hai thước năm, sáu tấc thì thôi, tất phải dài ngắn cao thấp khác biệt, mà chiếu ứng với nhau, sao cho khí thế liền nối là hơn nhất. Nếu ở giữa cao, mà hai bên thấp, hay sau cao mà trước thấp, thành hàng đối xứng, thì lại phạm vào lỗi mà tục vẫn gọi là “Cầm hối đôi” (Đống tro gấm)(Cầm hối đôi: tương truyền Tiền Tuyển - họa gia đời Nguyên - trong một lần say rượu đã nổi hứng đem những tàn
vật ngổn ngang trên bàn ăn sau bữa tiệc như: chân cua, vỏ sò, xương cá... tùy ý về thành một cuốn tranh trường quyển, và đề danh là Cẩm hôi đôi - Đống tro gấm. Về sau người ta dùng chữ “Cẩm hôi đôi” để chỉ những tác phẩm viết, vẽ chơi bằng những bút tàn, mực dư sau khi viết, vẽ của họa sĩ. Ở đây, chữ “Cầm hối đôi” ý nói hoa cúc để chất đống không được để tâm sắp đặt) vậy. Hoặc dày hoặc thưa, hoặc ra hoặc vào, tất cả đều ở để tâm tinh tế, sao cho đạt họa ý là hay.
Nếu dùng chậu, bát, đĩa, ang để cắm hoa, thì dùng phiếu thanh, tùng hương, vỏ cây du, bột mì, trộn với dầu, trước tiên đun bằng trấu, sẽ thu được một thứ keo. Lấy miếng đồng đóng đinh hướng mũi nhọn lên trên, rồi lấy keo đốt cho chảy ra để gắn miếng đồng xuống đáy chậu, bát, hay đĩa, ang. Đợi keo đã khô, thì dùng dây thép nhỏ buộc hoa thành bó, cắm lên trên định. Nên cắm hoa dịch sang một bên, mà nghiêng xiên để tạo thế, chứ không được để chính giữa, lại càng nên chú ý cành thưa, lá thanh, không được chen chúc chật chội. Sau đó cho nước, lại dùng một ít cát để che lấp miếng đồng đi, để người ngắm ngỡ như khóm hoa được trồng trong bát mới là đẹp.
Nếu là cắm những cành hoa quả thân gỗ vào bình, thì phép cắt tỉa (nếu chẳng thể từng cành từng cành tự mình tìm kiếm, mà nhờ người bẻ hộ thì thường chẳng được hợp ý) tất trước tiên cầm cành trên tay, nhìn ngang, nhìn nghiêng để xem thế, trông sau trông trước để xem dáng. Sau khi đã tạm có chủ định rồi, mới cắt bỏ những nhánh tạp, sao cho có vẻ thưa gầy, cổ quái là đẹp. Rồi lại suy nghĩ xem cắm cành vào bình như thế nào, mà uốn hay bẻ, thì khi cắm vào bình rồi, mới tránh không mắc phải lỗi lật lá, nghiêng hoa. Nếu có trong tay một cành hoa, nếu cứ theo thẳng như cành vốn có mà cắm luôn vào bình, thì thế tất sẽ là cánh cứng nhánh rối, lá lật hoa nghiêng, đã không ra dáng thế gì, mà càng chẳng nên vận vị vậy.
Cách bẻ cành uốn cong, thì cưa một nửa cành, rồi lấy mảnh gạch đá chen vào chỗ cưa cắt ấy, thì thẳng sẽ thành cong vậy. Nếu như lo cành bị đổ, thì đóng một, hai cái định để giữ. Như vậy thì dù là cảnh phong, cành trúc, CỎ rối, táo gai cũng có thể cắm bình được. Có khi chỉ cần một cành trúc biếc, kết hợp cùng mấy trái cẩu kỷ, hay vài cây cỏ nhỏ bạn cùng đôi nhánh táo gai, nhưng nếu được để vào vị trí thích đáng, cũng có cái thú vị khác biệt vậy. Nếu là hoa, cây mới trồng, thì chớ ngại cho chúng có cây nghiêng cây tà để lấy thế, dù có lá bị nghiêng lật cũng được, một năm sau thì cành lá sẽ tự có thể hướng lên trên. Chứ nếu cây nào cây nấy đều trồng thẳng cả, thì sẽ khó mà tạo thế.
Đến như việc cắt tỉa cây trồng trong chậu, trước hết nên chọn những cây có rễ lộ như móng gà, hai bên trái phải cắt đi ba đốt, sau đó mới để nhánh. Mỗi nhánh một đốt, bảy nhánh thì tới ngọn, hoặc chín nhánh thì tới ngọn cây. Nhánh thì tối kỵ để đối xứng như hai tay người, đốt thì tối kỵ để nổi u cục như gối hạc. Nên để các nhánh phân tán tròn bốn xung quanh, không được để hai phía nào đó trụi không, để tránh mắc lỗi hở lưng lộ ngực, lại cũng không thể để nhánh phía trước và sau đâm thẳng ra được. Cái gọi là Song khởi, Tam khởi, tức là từ một gốc rễ mà mọc lên hai hay ba cây vậy. Nếu như rễ cây không nổi vồng lên như hình móng, thì sẽ thành cắm cành, cho nên không dùng được. Nhưng cắt tỉa được một cây, chí ít cũng phải mất ba, bốn mươi năm. Bình sinh, tôi đã thấy ở quê mình có ông họ Vạn, tên gọi Thái Chương, một đời chỉ cắt tỉa được vài cây. Lại ở nhà một người buôn bán ở Dương Châu thấy có vị khách du từ Ngu Sơn mang đến tặng hai chậu cây, một chậu hoàng dương một chậu thúy bách, chỉ tiếc là ngọc sáng ném vào nơi không ai thấy, tôi chưa cho là xứng đáng. Còn nữa, nếu để cành xoay tròn xung quanh thân cây như ngọn tháp, hay nắn cành uốn éo như giun bò, thì sẽ lộ rõ dấu vết nhân tạo vậy.
Điểm xuyết hoa, đá trong bồn, cảnh nhỏ có thể vẽ tranh, cảnh lớn có thể nhập thần. Pha một ấm trà thơm, tinh thần có thể đắm chìm vào đó được, thì bồn cảnh ấy mới đáng để thưởng ngoạn ở chốn u trai vậy.
Trồng thủy tiên, không có đá Linh Bích, tôi từng lấy những viên than có vẻ giống đá mà thay vào. Lôi cải thảo có sắc trắng như ngọc, lấy năm, bảy cái lớn nhỏ, thêm cát đổ vào bồn hình chữ nhật mà trồng, rồi lấy than thay đá xếp dưới gốc, màu đen trắng phân minh, cũng rất có ý vị. Cứ đó mà suy, có
thể nói là nhã thú vô cùng, khó có thể nêu ra hết được. Ví như lấy hạt thạch xương bồ, nhai cùng với nước cháo hồ để nguội, ngậm phun lên than cục, rồi để vào nơi mát ẩm, chúng có thể nảy lên những cây xương bồ con, mang ra tùy ý đặt dưỡng trong bồn, trong bát, sẽ được những đám xương bồ xanh mướt đáng yêu. Lấy hạt sen già mài mỏng hai đầu, bỏ vào vỏ trứng gà đem cho gà ấp, đợi khi ổ gà nở con, thì lấy ra. Dùng đất tổ yến lâu năm, gia thêm vị thiên môn đông độ hai phần mười, giã nát trộn đều, rồi đem trồng hạt sen trong ang nhỏ, cho nước sông vào, để dưới nơi có ánh nắng, sen mọc lên sẽ nở hoa nhỏ như chén uống rượu, lá cũng co lại bằng miệng bát, rất xinh xắn khả ái.
Phàm viên đình lầu gác, phòng ốc hành lang, xếp đá làm núi, trồng hoa tạo dáng, lại phải trong lớn thấy nhỏ, trong nhỏ thấy lớn, trong hư có thực, trong thực có hư, hoặc ẩn hoặc lộ, hoặc nông hoặc sâu. Chẳng phải chỉ ở bốn chữ “chu - hồi - khúc - chiết”(Tức vòng quanh, uốn khúc), lại chẳng phải ở đất rộng đá nhiều, tốn công lao của. Có khi chỉ cần đào đất đắp lên thành núi, thỉnh thoảng điểm vài khối đá, trồng cỏ hoa xen kẽ vào, dậu trồng cây mai mà ken, tường kéo dây leo mà phủ, thì dẫu không có núi cũng thành núi. Trong lớn thấy nhỏ là ở nơi tản mạn thoáng rộng thì trồng thứ trúc lớn nhanh, ken giống mai mau rậm, để làm bình phong ngăn ra. Trong nhỏ thấy lớn là tường ở trong sân nhỏ thì nên tạo hình lồi lõm, lấy màu lục mà trang trí, bắt dây leo bò vào, xếp đá tảng, khắc chữ làm bia đề cảnh, mở cửa sổ ra như trông vách núi, ắt có cảm giác cao vội vô cùng. Trong hư có thực là ví như hoặc nơi hết non dứt suối, lại ngoặt ra một chỗ sáng sủa rộng rãi, hoặc nơi đặt tủ trong biên gác, mở ra lại thông sang biệt viện. Trong thực có hư là: ví như làm cửa ở chỗ sân không thông đi đâu được, rồi lấy trúc thạch mà ẩn che đi, tưởng như có (cửa) mà thật là không có. Hay, đặt lan can thấp trên đầu tường, tựa như trên đó có đài trông trăng, mà thực thì không có vậy.
Nhà nghèo, buồng chật người đông, nên phỏng theo như cách bài trí chỗ khoang sau trong thuyền Thái Bình ở quê tôi, dời đổi thêm một chút trong đó. Lấy bệ bậc làm giường, trước sau kê gá với nhau, có thể làm được ba phản, dùng ván dán giấy ngăn cách, thì trước sau trên dưới đều cách tuyệt, tỉ như đi chỗ đường dài, thì sẽ không cảm thấy chật hẹp nữa vậy.
Khi vợ chồng tôi ngụ cư ở Dương Châu, từng học theo cách ấy. Nhà chỉ có hai buồng, nhưng trên dưới, buồng ngủ, nhà bếp, phòng khách đều cách tuyệt, mà vẫn thừa rộng rãi. Vẫn từng cười bảo: “Bài trí tuy tinh tường, nhưng rốt chẳng phải là khí tượng của nhà phú quý vậy.” Thực là như thế ư?
Tôi đi tảo mộ trên núi, nhặt lấy những viên đá có hoa văn đẹp về, bàn với Vân rằng: “Dùng hồ vôi gắn đá Tuyên Châu trong bồn đá trắng, là cốt màu sắc hòa đều nhau. Đá vàng ở núi này tuy cổ phác, nhưng nếu cũng dùng hồ vôi thì màu vàng trắng gián cách, vết ngấn tất lộ ra, làm sao bây giờ?” Vân nói: “Mình chọn lấy những viên không dùng được, đập nhỏ mà rắc vào chỗ ngấn vôi ngay khi còn ướt, bột đá vụn sẽ bám vào đấy, đến khi khô, màu sắc tất đồng đều.”
Tôi bèn theo lời mà làm, lấy cái bồn sành Nghi Hưng hình chữ nhật, xếp đá thành một ngọn núi, lệch sang bên trái mà nhô sang bên phải, lưng núi làm thành vằn gập ngang như phép vẽ đá của Vân Lâm(Vân Lâm: tức Nghệ Toản - họa gia đời Nguyên, người Vô Tích, Giang Tô, giỏi về sơn thủy, vẽ đá núi
thường dùng nét phết (thuân) gập vuông.), chon von lồi lõm, tựa như hình trạng mỏm đá nhô ra bên sông. Phía chậu để không thì lấy bùn sông trồng cỏ bạch tần hoa kép. Trên đá trồng dây tóc tiên, tục gọi là vận tùng. Vất vả mấy hôm thì xong. Đến cuối thu, dây tóc tiên đã bò lan khắp núi, tựa như dây đằng la treo trên vách đá, hoa nở đỏ tươi, bạch tần cũng nở trắng dưới đáy nước, màu đỏ trắng xen nhau. Thả hồn vào đó, chẳng khác chi lên chơi Bồng Lai đảo. Tôi để bồn non bộ dưới mái hiên, cùng vẫn phẩm đề: Chỗ này nên dựng gác thủy tạ, chỗ này nên dựng đình cỏ, chỗ này nên mài đá khắc sáu chữ rằng: “Lạc hoa lưu thủy chi gian”,(Nghĩa là: Ở giữa khoảng hoa rơi nước cháy) chỗ này có thể ở, chỗ này có thể ngồi câu, lại chỗ này có thể trông xa nhìn ngắm. Cảnh non nước trong lòng, mà tựa sắp di cư thực vậy. Một tối, hai con mèo tranh ăn với nhau, từ trên mái hiên rơi xuống, khiến cả bồn cùng núi, khoảnh khắc vỡ tan mất. Tôi than bảo: “Để chút mưu toan cỏn con này mà cũng bị con tạo đố kỵ thế ru!” Cả hai cùng không ngăn được mà rơi lệ.
Phòng vắng đốt hương, cũng là nhã thú trong khi nhàn rỗi. Vân từng lấy các thứ trầm hương, tốc hương,(Tốc hương: tức hoàng thực hương - một loại
hương mộc. Lý Thời Trân trong Bản thảo cương mục có viết: “Phàm hương có ba bậc, là trầm, sạn, hoàng thực vậy... Trong đó, hoàng thục hương, tức là loại hương thoảng nhẹ, chính là loại mà tục vẫn ngoa gọi là tốc hương”) xông trong cái chõ đồ xôi, trên lò đặt một cái giá bằng sợi đồng, cách mặt than độ một tấc, để hương cháy từ từ, thì hương thơm u nhã mà không khói. Trái phật thủ kị mũi người say rượu ngửi vào, nếu ngửi thì dễ bị thối. Mộc qua(Mộc qua ở đây tức quá mộc qua Trung Quốc, còn gọi mộc qua hải đường, là loài cây thân gỗ, lá
rụng sớm, quả tựa trái lệ lớn, chín có mùi hương thơm) thì kị đổ mồ hôi, nếu bị đổ mồ hôi thì phải lấy nước rửa đi. Duy có hương viên(Hương viên: loại quả thuộc họ cam chanh, có hương thơm, nhưng không có ngón như quả phật thủ) thì không kị gì cả. Phật thủ, mộc qua cũng có phép đem làm đồ dâng cúng, không thể ghi hết cả được. Thường có người đem đồ cúng cầm ngửi, tùy ý đặt để, ấy tức là kẻ không biết phép dâng cúng vậy.
Tôi nhàn cư luôn, nên trên đầu bàn chẳng khi nào không có bình hoa. Vân bảo: “Mình cắm hoa, có thể thấy đủ cả cảnh nắng gió mưa sương, có thể nói là tinh diệu nhập thần. Nhưng trong hội họa có cách vẽ côn trùng điểm xuyết vào, chàng thử bắt chước phỏng theo như thế xem.” Tôi nói: “Côn trùng nhảy nhót không yên, nào để mình điều khiển, sao có thể bắt chước được?” Vân nói: “Có một cách này, chỉ e là đầu têu ra lại phải tội vậy.” Tôi bảo: “Nàng thử nói xem.”
Vân đáp: “Côn trùng chết đi màu sắc vẫn không đổi, mình tìm lấy mấy con bọ ngựa, ve sầu, bươm bướm, lấy kim đâm chết, rồi dùng dây tơ mảnh buộc chúng vào giữa khóm hoa cỏ, chỉnh cho chân chúng hoặc ôm lấy cành, hoặc đậu trên lá, hệt như lúc sống, chẳng cũng hay lắm ư?” Tôi thích quá, theo đúng cách ấy mà làm, ai trông thấy cũng phải tấm tắc khen ngợi. Tìm khắp trong đám phòng khuê, đến nay e là cũng chưa chắc có kẻ nào thấu hiểu lòng nhau như thế vậy.
Tôi và Vân ở nhờ nhà họ Hoa ở Tích Sơn, khi ấy Hoa phu nhân cho hai con gái theo Văn học chữ. Nhà ở thôn quê sân rộng, nắng hạ hun người, Vân bày cho gia đình cách làm những bình phong che nắng bằng hoa tươi rất tuyệt diệu. Mỗi bình phong là một phên rào, dùng hai cành cây ước dài độ bốn năm tấc, làm giống một cái ghế dài thấp, để rỗng giữa, rồi đặt bốn thanh ngang, dài độ một thước, bốn góc đục lỗ tròn, cắm que tre đan thành
dậu mắt vuông. Bình phong cao chừng sáu, bảy thước, lấy những chậu sành trồng đậu ván đặt vào trong bình phong, cho dây dâu leo lên bình phong, hai người là có thể di chuyển được. Đan lấy mấy bức bình phong như thế, tùy ý đem che chắn, chả khác gì bóng cây xanh râm mát che cửa sổ, che nắng thoáng gió, quanh co gấp khúc, tùy lúc đổi thay, vì thế mà gọi là bình phong hoa tươi. Có được cách ấy, thì tất cả các giống dây leo, hương thảo, đều có thể tùy chỗ mà dùng. Đó thực là cách hay khi sống ở thôn quê vậy.
Người bạn tôi là Lỗ Bán Phảng, tên Chương, tự Xuân Sơn, giỏi vẽ tùng bách cúc mai, tinh thông lối chữ lệ, kiêm nghề triển khắc. Tôi ở nhờ trong lầu Tiêu Sảng nhà Bán Phảng đến một năm rưỡi. Lầu có nắm gian, hướng đông, tôi ba gian, dù tối sáng gió mưa, có thể nhìn được rất xa. Trong sân có một gốc hoa mộc, hương thoang thoảng trêu người. Có tường bao, có nhà chái, quang cảnh vô cùng u tĩnh.
Lúc tôi chuyển nhà, có đưa theo một người ở, một chị vú, dắt theo cả con gái nhỏ đến cùng. Người ở biết may áo, chị vú biết khâu vá. Vì thế, Vân thì thêu thùa, chị vú thì khâu vá, người ở thì cắt may, để lấy tiền chi dụng
củi gạo. Tôi vốn mến khách, phàm uống rượu tất có tửu lệnh. Vân rất giỏi nấu nướng làm thức nhắm, rau dưa tôm cá, qua tay Vân làm, đều thành món ngon lạ bất ngờ. Bạn bè biết tôi nghèo, thường lần nào cũng bỏ tiền rượu, để trọn ngày khề khà với nhau. Tôi lại thích sạch sẽ, trong nhà không có tí bụi nào, cũng không bị câu thúc gì, nên mọi người có thể thoải mái chẳng nề hà.
Khi ấy, có Dương Bổ Phàm, tên Xương Tự, giỏi vẽ truyền thần nhân vật, Viên Thiếu Vu, tên Bái, giỏi vẽ sơn thủy; Vương Tinh Lan, tên Nham, giỏi vẽ chim thú hoa cỏ, mến vẻ u nhã của lầu Tiêu Sáng, đều đem đồ vẽ đến. Tôi bèn theo mấy người ấy học vẽ, viết chữ thảo, chữ triện, điều khắc ấn chương, để kiếm thêm chút tiền nhuận bút, đưa cho Vân sắm trà rượu mời khách, trọn ngày chỉ phẩm thi luận họa mà thôi.
Lại có hai anh em Hạ Đạm An, Hạ Ấp Sơn, cùng hai anh em Mâu Sơn Âm, Mâu Tri Bạch, và mấy người Tưởng Vận Hương, Lục Quất Hương, Châu Khiếu Hà, Quách Tiểu Ngu, Hoa Hạnh Phàm, Trương Nhàn Hàm, đều như
én trên nhà, tùy ý tự đến tự đi. Vân dẫu gỡ thoa cài đầu đem bán lấy tiền mua rượu, cũng không hề tỏ vẻ oán trách gì. Cảnh đẹp ngày vui, chẳng bao
giờ để phí hoài trôi qua được. Đến bây giờ thì mỗi người một phương, như nước chảy mây trôi, lại thêm ngọc nát hương vùi, chẳng bao giờ có thể quay đầu trở lại được nữa.
Lầu Tiêu Sáng có bốn điều cấm kị là: Bàn chuyện thăng quan tiến chức, thời sự công đường văn chương bát cổ; đánh bài chơi bạc, ai vi phạm tất bị phạt năm cân rượu(Một cân rượu ước độ 0,6 lít). Lại có bốn điều cho phép là: Khảng khái hào sảng, phong lưu hàm xúc; phóng túng không nệc thanh tĩnh yên lặng. Tiết giữa hè rảnh rỗi, lại tụ hội thi đối. Mỗi lần tụ hội tám người, mỗi người đem theo hai trăm tiền. Trước tiên bắt thăm, ai được số một thì làm chủ khảo, ngồi sang một chỗ riêng. Người được số hai thì làm thư ký, cũng ngồi một chỗ riêng. Còn lại tất cả đều là cử tử dự thi, ai nấy đến chỗ thư ký lấy một mảnh giấy, đã được đóng dấu ở trên. Chủ khảo ra câu đối năm chữ, bảy chữ, mỗi loại một câu, đốt hương để hạn định thời gian, cho đi đứng cấu tứ, nhưng không được bàn bạc riêng với nhau. Sau khi đối xong đem bỏ vào một cái hộp, thì mới được phép về chỗ ngồi. Sau khi mọi người đã nộp quyển xong xuôi cả, thư ký mới mở hộp, cùng chép lại ra một quyển, chuyển trình lên chủ khảo, để không được có ý riêng tư với ai. Trong mười sáu câu đối, lấy ra ba câu năm chữ, ba câu bảy chữ. Trong sáu câu đối, lấy câu đứng đầu của ai thì lần sau người ấy được làm chủ khảo, câu đứng thứ hai của ai thì lần sau người ấy làm thư ký. Người nào cả hai câu đều không được chọn thì bị phạt hai mươi đồng, người nào được chọn một câu thì phạt mười đồng, ai nộp muộn quá hạn thì lại bị phạt nhiều hơn nữa. Một vòng thi, chủ khảo được tiền hương một trăm đồng. Một ngày có thể thi tới mười vòng, gom được cả ngàn tiền, tha hồ mà mua rượu vậy. Duy có Vân được tính là “Quan quyền”,(Chế độ khoa cử đời Thanh quy định, con em các quan chức cao cấp tham gia kỳ hương thí thì gọi là quan sinh, quyển thi
gọi là Quan quyển. Đây ý nói, nàng Vân thuộc diện đặc cách)cho ngồi mà nghĩ câu.
Dương Bổ Phàm vẽ cho vợ chồng tôi bức tranh đang cùng trồng hoa, trông thần tình tựa hệt. Tối hôm ấy, ánh trăng thật đẹp, bóng hoa lan in trên vách phấn, có một vẻ u nhã khác thường, Tinh Lan rượu say nổi hứng bảo: “Bổ Phàm vẽ ảnh cho ông rồi, thì tôi về bóng cho hoa vậy.” Tôi cười bảo: “Bóng của hoa dễ có thể sánh được ảnh của người ư?” Tinh Lan bèn lấy một tờ giấy trắng căng lên vách, rồi theo bóng hoa lan in trên đó lấy mực
đậm nhạt mà đồ theo. Sáng hôm sau, lấy bức vẽ ra xem, tuy chưa thành tranh, nhưng hoa lá tiêu sơ, tự có cái thú vị dưới trăng vậy. Vân rất lấy làm quý báu, chúng tôi ai nấy cũng đề vịnh.
Thành Tô Châu có hai nơi là Nam viên và Bắc viên, mỗi mùa hoa cải vàng đều rất đẹp, chỉ khổ nỗi ở đó không có quán rượu nào mà uống. Cho thức nhắm vào tráp mang đến, ngắm hoa ăn đồ lạnh, thì lại chẳng còn ý vị gì nữa. Có người bàn, đến chỗ nào gần đó tìm quán rượu, có người bàn khi về thì uống. Song rốt chẳng thể nào khoái ý bằng được ngắm hoa mà nhắm đồ nóng. Mọi người còn bàn bạc chưa định thế nào, thì vẫn cười nói: “Ngày mai, chỉ cần các ngài mỗi người bỏ một ít tiền hầu bao ra đây, tôi sẽ gánh hỏa lò đến tận nơi cho.” Mọi người cùng cười mà bằng lòng.
Tất cả tan về rồi, tôi hỏi Vân: “Mình tự gánh bếp đến thật ư?” Vân nói: "Không đâu. Thiếp thấy những người bán vằn thắn trong chợ, gánh hàng có đủ nồi bếp, sao không thuế họ mang đến cho? Thiếp sẽ sắp sẵn các món đồ nhắm trước, sau khi đến đó lại cho đảo nóng lại, trà rượu cũng đều tiện cả.” Tôi bảo: “Rượu nhắm thì rõ là tiện rồi, nhưng trà thì thiếu đồ pha.” Vân nói: “Mang theo một cái ấm đất, lấy chĩa sắt xỏ vào quai ấm, nhấc nồi ra, gác ấm lên bếp, bỏ thêm chi vào mà nấu trà, chẳng cũng tiện ư?” Tôi vỗ tay khen phải. Đầu phố có người họ Bão, bán vằn thắn gánh, bèn bỏ một trăm tiền thuê gánh bếp, hẹn đến sau buổi trưa ngày mai mang tới, họ Bão vui vẻ bằng lòng ngay.
Hôm sau, những người đi ngắm hoa đến, tôi nói lại chuyện cho nghe, ai cũng đều thán phục. Ăn cơm xong, mọi người cùng đi, mang theo cả chiếu và đệm ngồi. Đến Nam viên, chọn một bóng liễu rợp ngồi quây quần dưới gốc. Trước tiên pha trà, uống xong, thì hâm rượu đảo lại đồ nhắm. Khi ấy, gió êm nắng ấm, khắp mặt đất hoa như dát vàng, áo xanh tay đỏ, vượt luống băng bờ, bươm bướm bay rối, khiến người chẳng uống mà say. Rồi đó rượu cùng đồ nhắm đều đã nóng, cùng nhau ngồi dưới đất mà thưởng. Người gánh bếp cũng không phải tục nhân, mọi người cũng kéo lại cùng ngồi uống. Những khách du khác trông thấy thế, chẳng ai không hâm mộ cho là một ý tưởng khác lạ. Chén bát ngôn ngang, ai nấy đều đã say sưa, kẻ ngồi người nằm, hoặc ngâm hoặc hát. Mặt trời sắp ngả, tôi nghĩ thèm cháo, người gánh bếp lập tức mua gạo nấu cho, ăn no bụng rồi về. Vân nói:
“Hôm nay đi chơi có vui không?” Mọi người cùng đáp: “Nếu không có phu nhân ra sức, thì sao được thế.” Rồi cùng cười lớn giải tán.
Nhà bần sĩ, cái ăn cái mặc cho tới đồ dùng buồng ở, đều nên tiết kiệm mà thanh sạch. Phép tiết kiệm là “tùy việc luận việc”. Tôi thích ăn uống đơn giản, không thích nhiều món. Vẫn bèn làm cho một cái tráp hoa mai: Dùng sau chiếc đĩa sứ trắng bề ngang hai tấc, ở giữa để một cái, xung quanh là năm cái, lấy vôi gắn lại, hình trạng trông tựa bông hoa mai, đế và nắp tráp đều theo hình lồi lõm cánh hoa, trên nắp lại có núm như đài hoa. Đặt ở trên đầu bàn chẳng khác gì một đóa hoa mai, mở nắp ra xem, tựa hồ món ăn được để trên những cánh hoa. Một tráp sáu món, cùng hai, ba tri kỷ, có thể tùy ý lấy ăn, ăn hết lại thêm. Lại làm một cái mâm tròn cạnh thấp, để tiện đặt chén đũa, bầu rượu, có thể bày ra ở bất kỳ đâu, mang đi cùng tiện. Ấy cũng là một cách để tiết kiệm đồ ăn vậy.
Những mũ đội, tất chân của tôi đều do Vân tự làm lấy, áo nào bị rách cũng cắt chỗ nọ và chỗ kia, tất đều chỉnh tề sạch sẽ. Màu sắc chọn thứ tối nhạt, để đỡ vết bẩn, vừa có thể mặc tiếp khách, lại có thể mặc thường ngày. Ấy lại là một cách để tiết kiệm đồ mặc vậy.
Lúc mới đến lầu Tiêu Sáng, hiềm rằng buồng tối, tôi bèn lấy giấy trắng dán tường, bèn thành sáng sủa. Mùa hè, dưới lầu, bỏ cánh cửa đi, không có chấn song, cảm giác chống chính không có gì che chắn. Vân nói: “Có cái mành tre cũ ở đây, sao không dùng rèm thay cho chấn song?” Tôi sào ngang, hỏi: “Như thế nào?” Vân nói: “Lấy mấy cái sào tre, màu đen, cây dựng dọc cây bắc ngang, cắt nửa cái mành buộc lên cây để chùng chạm đất, cao ngang cái bàn, ở giữa dựng bốn đoạn tre ngắn, dùng dây gai buộc chặt, sau đó ở chỗ rèm buộc vào cây sào ngang, tìm lấy mấy dải vải đen cũ khâu chặt rèm với cây sào ngang. Như vậy vừa có thể che chắn được, lại không tốn tiền.” Ấy là cách “tùy việc luận việc” vậy. Lấy đó mà suy, câu mà người xưa vẫn nói rằng: mẩu gỗ cành tre đều hữu dụng, thật có lý vậy.
Tháng hè, khi hoa sen mới nở, hoa sen tối cụp sáng xòe. Vân dùng một túi vải sa nhỏ, đựng một chút trà, bỏ vào giữa bông sen, sớm sau thì lấy ra, pha
bằng nước suối trời(Tức nước mưa),hương vị vô cùng tuyệt diệu.
Sầu trắc trở
Những trắc trở trong đời từ đâu mà ra? Thường thường đều là tự mình gây ra mối nghiệt vậy. Tôi thì không thế, đa tình nhưng trong lời hứa, thẳng thắn mà không câu nệ, song cũng vì vậy mà hóa ra mang lụy. Huống chi, Giá Phu công - cha tôi, lại khảng khái hào hiệp, thường cứu nạn giúp người, thành việc cho người, gả con gái hộ người, nuôi con trai thay người, chẳng đếm xuể được, coi tiền của nhà đất, phần nhiều là vì người khác. Vợ chồng tôi ở nhà, ngẫu nhiên có việc cần chi dùng, thường chẳng tránh được việc phải cầm cố thứ này thứ khác. Mới đầu còn giật gấu vá vai, kế đến thì che bên phải, hở bên trái. Ngạn ngữ có câu: “Ăn ở trong nhà, Không tiền chẳng xong.” Mới đầu thì người ăn kẻ ở bàn ra tán vào, rồi dần đến lượt người nhà chê trách. Câu “con gái không tài chính là đức”, thật là câu danh ngôn thiên cổ vậy!
Tôi tuy là con trưởng, nhưng đứng hàng thứ ba(Tục Trung Quốc xưa, những anh em con chú bác ruột (tức cùng chung ông nội) thì tính là cùng hàng với nhau, tính
hàng từ lớn đến nhỏ, không phân biệt con chú, con bác), vì vậy trên dưới trong nhà đều gọi Vân là “mợ ba”. Về sau, bỗng thấy gọi là “bà ba”, mới đầu chỉ là gọi đùa, sau rồi thành quen, thậm chí đến cả những người lớn bé trẻ già cũng đều lấy cái danh “bà ba” mà gọi, nhẽ đó là cái cơ có biến trong nhà chăng?
Năm Ất Tỵ, niên hiệu Càn Long(Tức năm 1785), tôi theo hầu cha tại nơi làm quan ở Hải Ninh. Vân có gửi kèm theo thư nhà cho tôi một bức thư nhỏ. Cha tôi liền bảo: “Vợ mày đã giỏi bút mực như thế, thì thư từ trong nhà của mẹ mày nên giao cho nó lo.” Về sau, trong nhà ngẫu nhiên có chuyện nọ chuyện kia bàn tán, mẹ tôi ngờ rằng Vân đã ngồi lê đôi mách, bèn không cho viết thư hộ nữa. Cha tôi thấy thư không phải chữ Vẫn viết, hỏi tôi rằng: “Vợ mày ốm ư?” Tôi lập tức viết thư về hỏi, nhưng cũng không có hồi âm. Lâu sau, cha tôi giận bảo: “Chắc vợ mày không thèm viết hộ thư nữa rồi!” Đến khi tôi về nhà, hỏi rõ được cơ sự, định sẽ lựa lời giải thích, thì Vân vội ngăn lại bảo: “Thiếp thà chịu để cho trách mắng, chứ không muốn mất lòng mẹ” Rốt cuộc không cho tôi nói.
Xuân năm Canh Tuất(Tức năm 1790), tôi lại theo hầu cho đến mạc phủ Hàn Giang(Hàn Giang: tên sông, cũng gọi Hàn Câu, là dòng vận hà nằm trong địa phận tỉnh Giang Tô, chảy từ tây bắc thành phố Dương Châu đến phía bắc huyện Hoài An,
đồ vào sông Hoài). Có viên đồng sự là Du Phu Đình, đưa gia quyến đến ở đó. Cha tôi nói với Phu Đình: “Tôi một đời vất vả, thường phải ở nơi đất khách, cũng muốn tìm một người hầu hạ quét tước cho mà không được. Con cái nếu quả có thể thể lượng ý cha, thì nên tìm lấy một người ở quê nhà đưa tới, cho tiếng nói nghe quen vậy.” Phu Đình nói lại với tôi, tôi bèn bí mật viết thư cho Vân, nhờ mai mối tìm người thích hợp, cuối cùng tìm được con gái nhà họ Diệu. Vân vì chưa biết rõ việc có thành hay không, nên chưa dám bẩm ngay cho mẹ tôi biết. Khi người ấy tới nhà, Van bèn nói thác với mẹ tôi rằng, đó là người con gái hàng xóm cùng chơi với mình. Kịp tới khi cha sai tôi đón cô ta đưa đến phủ, Vân lại nghe ý người ngoài xúi, nói thác rằng ấy là người mà cha tôi vốn hợp ý. Lúc mẹ tôi gặp mặt nhận ra, bèn bảo: “Đây là cô hàng xóm cùng chơi đó thôi, làm sao lấy được?” Vân vì vậy bèn mất lòng với mẹ.
Mùa xuân năm Nhâm Tý, tôi đang ở Chân Châu. Cha tôi bị bệnh ở Hàn Giang, tôi tới thăm, cũng lại bị ốm. Em tôi là Khải Đường bấy giờ cũng theo hầu ở đó. Vân gửi thư tới, nói: “Chú Khải Đường từng vay nợ bà hàng xóm, nhờ Vân đứng ra bảo lãnh cho, nay bà ấy đang đòi rát lắm.” Tôi hỏi Khải Đường, Khải Đường lại quay ra cho rằng chị dâu nhiều chuyện. Tôi bèn biển vào cuối thư rằng: “Mấy cha con đều bị bệnh, chưa có tiền trả, đợi đến khi chú Khải về sẽ tự tính toán là được.”
Chưa bao lâu, mọi người đều đã khỏi ốm, tôi lại về Chân Châu. Vân phục thư gửi tới, cha tôi bóc ra xem, trong thư có thuật chuyện Khải vay tiền hàng xóm, lại nói: “Mẹ chàng cho rằng bệnh của ông cụ đều là do cô Diêu mà ra. Nay bệnh của cha đã hơi khỏi, nên bí mật bảo cô Diêu nói thác là nhớ nhà, thiếp sẽ bảo cha mẹ cô ấy đến Dương Châu đón. Đó thực là kế để khỏi bị đội bên trách cứ vậy.”
Cha tôi đọc thư, giận lắm, hỏi Khải Đường chuyện vay nợ hàng xóm thế nào, Khải Đường đáp rằng không hề biết. Cha tôi bèn gửi thư tới ra lệnh cho tôi rằng: “Vợ mày dối chồng vay nợ, rồi vu bậy cho em chồng. Lại
còn gọi mẹ chồng là “mẹ chàng”(Nguyên văn “lênh đường”: là cách gọi khách sáo với mẹ người ngoài, không thân thiết) gọi cho chồng là “ông cụ”, hỗn hào quá lắm! Ta đã sai người mang thư về Tô Châu đuổi đi rồi. Nếu mày có
chút nhân tâm, cũng nên biết lỗi của mình!” Tôi nhận được thư mà như nghe sấm nổ giữa trời xanh, lập tức viết thư hồi âm kính cẩn nhận lỗi, rồi tìm ngựa vội vàng chạy về nhà, sợ rằng Vân sẽ nghĩ quẩn. Về đến nhà, tôi nói lại hết đầu đuôi, nhưng người nhà đã mang thư đuổi về tới nơi, trong thư nghiêm trách nhiều tội lỗi, lời lẽ quyết tuyệt vô cùng.
Vân khóc nói: “Thiếp cố nhiên không nên nói bừa thế, nhưng cũng xin cha thứ cho phận gái vô tri.” Qua mấy hôm, cha tôi lại có thủ dụ đến, nói: “Ta cũng không muốn làm quá chuyện này, mày hãy đưa vợ đến chỗ khác ở, đừng để ta thấy mà bực mình là được rồi.” Tôi bèn gửi Vân sang nhà ngoại, nhưng Vân vì cớ mẹ đã mất, em trai lại bỏ đi, không muốn về nương tựa vào người trong họ. May mắn, có bạn tôi là Lỗ Bán Phảng hay chuyện thương tình, mời vợ chồng tôi đến ở lầu Tiêu Sảng.
Qua hai năm, cha tôi dần biết đầu đuôi, vừa khi ấy tôi từ Lĩnh Nam về, ông mới tự mình tới lầu Tiêu Sảng, bảo Vân rằng: “Chuyện trước đây ta đã biết hết cả rồi, các con hãy về nhà được không?” Vợ chồng tôi mừng rỡ, lại quay về nhà cũ, cốt nhục đoàn viên. Đâu có ngờ rằng lại có cái nghiệp chướng Hàm Viên nữa!
Vân vốn có bệnh về khí huyết, ấy là vì người em là Khắc Xương bỏ nhà đi không về, mẹ là Kim thị lại nhớ thương con trai đến nỗi bị bệnh mà chết, khiến nàng bị thương quá đỗi mà ra như thế. Từ khi quen biết Hàm Viên, hơn một năm liền bệnh không tái phát, tôi đã lấy làm may mắn vì có được phương thuốc hay. Đến khi, Hàm Viên bị kẻ có thế lực đoạt mất, đưa ngàn vàng làm sính lễ, và hứa nuôi dưỡng mẫu thân cho. Vậy là “giai nhân đã thuộc Sa Tra Lợi”(Điển cố theo Liễu thị truyện: Hàn Hoành và vợ là Liễu thị vì loạn lạc phải xa nhau. Sau, Hàn Hoành về tìm thì vợ đã bị kiêu tướng là Sa Tra Lợi
cướp mất. Về sau, nhờ Hứa Tuấn mà Hàn Hoành lại giành được tiêu thị về với mình). Tôi biết chuyện nhưng cũng chưa dám nói gì.
Kịp tới khi Vân tới thăm mới biết, lúc về cứ nức nở mãi, mà bảo tôi rằng: “Thiếp đâu có ngờ Hàm lại bạc tình đến thế!” Tôi bảo: “Ấy là nàng tự tình
si vậy. Những người trong giới ấy, làm gì có cái gọi là tình chứ? Huống chi, kẻ ăn ngọc mặc gấm, vị tất có thể chịu yên phận váy sồi thoa gai. So với việc sau này phải hối hận, thì chi bằng chẳng thành là hơn.” Nhân lại yên ủi mấy bận, nhưng vẫn rất vẫn oán hận vì việc bị lừa, bệnh khí huyết
phát ra, phải nằm bệt trên giường, thuốc thang vô hiệu, khi phát khi lui, gầy mòn tiều tụy. Chưa được mấy năm mà nợ nần ngày một nhiều, điều tiếng ngày một lắm. Cha mẹ già lại vì chuyện hẹn ước với kĩ nữ, mà ngày càng thêm ghét. Tôi phải đứng giữa điều đình, tưởng đã chẳng còn được ở nơi dương thế nữa vậy.
Vân sinh được một trai một gái. Con gái tên là Thanh Quân, khi ấy mới mười bốn tuổi, rất hiểu sách vở, lại rất hiền hậu giỏi giang, cầm thoa gán áo, may nhờ nó chịu vất vả. Con trai tên là Phùng Sâm, khi ấy mười hai tuổi, cũng đang theo thầy học chữ.
Tôi liền mấy năm không có nơi mời làm, mở một gian hàng thư họa trong cửa nhà, tiền kiếm được ba ngày chẳng đủ dùng một bữa, vất vả khốn khó, kiệt quệ luôn luôn. Ngày đông tháng giá không có áo ấm, chỉ còn biết ưỡn
ngực bước qua. Thanh Quân cũng áo mỏng chân run, nhưng vẫn gượng bảo “không rét”. Vì thế, Vân thề không thuốc thang gì nữa. Ngẫu nhiên hôm ấy dậy được khỏi giường, vừa gặp khi tôi có người bạn là Châu Xuân Hú từ mạc phủ của Phúc quận vương về, muốn thuê người thêu một bản Tâm kinh. Vân nghĩ thêu kinh Phật có thể tiêu tại giáng phúc, vả lại được tiền công cũng hậu, bèn nhận thêu cho. Nhưng Xuân Hú thời gian vội vã, không thể đợi lâu được, mười ngày là phải thêu xong. Vân đang yếu sẵn, lại phải chịu lao nhọc, khiến mắc thêm chứng đau lưng chóng mặt. Đâu có biết rằng người bạc mệnh, Phật cũng chẳng thể phát tâm từ bi mà cứu được vậy! Sau khi thêu kinh, bệnh Vân thêm nặng, gọi nước lấy thuốc, mà chỉ nâng lên đặt xuống không nuốt được nổi.
Có ông Tây thuê nhà ở bên trái quán thư họa của tôi, chuyên làm nghề cho vay lãi, thi thoảng thuê tôi vẽ tranh cho, nên thành quen. Có người bạn tôi đến vay hắn năm mươi đồng vàng, xin tôi đứng ra bảo lãnh cho. Tôi nể tình. không thể từ chối được, bèn bằng lòng, nhưng rốt cuộc bạn lại ẵm tiền trốn biệt đi xa. Ông Tây cứ nhè kẻ bảo lãnh mà đòi, thi thoảng lại đến làm ầm lên. Mới đầu tôi còn có thể đem tranh, chữ ra gán được ít nhiều, rồi sau chả có gì để mà trả cho hắn nữa. Cuối năm, cha tôi ở nhà, ông Tây
lại đến đòi nợ, ầmingoài cửa. Cha tôi nghe được, gọi tôi vào trách hỏi: “Chúng ta là nhà áo mũ, ai cho mày vay nợ thứ tiểu nhân ấy?”
Tôi còn đang phân trần, thì đúng lúc có người chị kết nghĩa từ nhỏ của Vân là Hoa thị ở Tích Sơn, hay tin Vân ốm, sai người tới thăm. Cha tôi lầm tưởng là người của Hàm Viên sai đến, lại càng giận, nói: “Vợ mày không giữ nết phòng khuê, kết nghĩa với bọn kĩ nữ. Mày cũng không nghĩ đến việc tiến thủ, chơi bời bừa bãi với lũ tiểu nhân. Nếu bắt mày vào chỗ chết, thì ta cũng không nỡ lòng nào. Nay tạm khoan hạn cho mày ba ngày, mau mau mà liệu tính đi, nếu chậm thì tao sẽ đi các quan tội nghịch của mày!”
Vân nghe thấy thế khác nói: “Cha mẹ tức giận như thế, đều là tội nghiệt của thiếp. Thiếp chết trên đường chàng đi, chàng tất không nỡ lòng. Mà thiếp ở lại, một mình chàng đi, chàng tất không bỏ được. Hay là chàng bí mật cho gọi người nhà họ Hoa vào đây, thiếp sẽ gượng hỏi chuyện xem.”
Nói rồi bèn sai Thanh Quân đỡ ra nhà ngoài, gọi người mà họ Hoa sai sang vào, hỏi: “Là bà chủ bên ấy sai bác sang, hay là bác tiện đường mà vào đây?” Người ấy đáp: “Bà chủ tôi bấy lâu nghe tin phu nhân nằm bệnh, vốn muốn đích thân sang thăm, nhưng trước nay chưa từng tới nhà, nên không dám đường đột. Lúc tôi đi, bà chủ còn dặn rằng: Nếu phu nhân không chỉ ở chốn thôn quê giản lậu, thì xin mời phu nhân về làng điều dưỡng, thể theo như những lời đã nói dưới đèn thuở trước.” Ấy là vì khi xưa, lúc Vân với Hoa thị còn cùng ở buồng thêu, hai người đã có lời thề khi bệnh tật thì giúp đỡ lẫn nhau vậy. Vân nhân bảo người ấy: “Phiền bác nhanh chóng trở về, bẩm lại với bà chủ, trong hai ngày nữa, bí mật cho thuyền tới đây.”
Người ấy đi rồi, Vân nói với tôi: “Chị kết nghĩa họ Hoa tình cảm còn hơn cốt nhục, nếu chàng chịu đến nhà chị ấy, thì cứ đi với thiếp không ngại, nhưng đưa theo các con cùng đi thì cũng bất tiện, mà để lại làm lụy song thân cũng không được, tất phải sắp xếp ổn thỏa trong hai ngày tới.” Bấy giờ, có người anh bên ngoại tôi là Vương Tẫn Thần, có đứa con trai tên là Uẩn Thạch, muốn đón Thanh Quân về làm dâu. Vân nói: “Nghe nói cậu Vương nhu nhược bất tài, chẳng qua chỉ là đứa ăn không của nhà thôi, nhà họ Vương thì lại chả có gì mà cho ăn không cả. Nhưng may cũng là nhà thi lễ, vả lại là con một, thôi gả cho cũng được.” Tôi bảo với Tân Thần: “Cha tôi với anh vốn có cái nghĩa Vị Dương(Chỉ quan hệ cậu cháu. Thơ Vị Dương
trong Tân Phong, Kinh Thi có câu: “Ngã tống cứu thị; Viết chỉ Vị Dương” (Tôi tiễn ông cậu; Rằng đến Vị Dương)), anh muốn xin hỏi Thanh Quân về làm dâu, thì cũng chẳng có gì là không được. Nhưng đợi đến lớn mới gả, tình thế bây giờ không thể được. Sau khi vợ chồng tôi đến Tích Sơn rồi, anh hãy bấm ngay với song thân tôi, xin đưa cháu về làm dâu từ bé, anh thấy thế nào? Tấn Thần mừng bảo: “Xin kính cẩn theo lời.” Còn Phùng Sâm, tôi cũng nhờ người bạn là Hạ Áp Sơn giới thiệu cho đi học việc buôn bán.
Sắp đặt đâu đấy rồi thì thuyền nhà họ Hoa vừa tới, hôm ấy là ngày hăm nhăm tháng Chạp năm Canh Thân(Tức năm 1800). Vân nói: “Lủi thủi ra đi, chẳng những sẽ khiến làng xóm cười chê, mà món nợ ông Tây chưa trả được, e là cũng chẳng tha cho. Trống canh năm ngày mai chúng ta tất phải lẳng lặng mà đi sớm mới được.” Tôi nói: “Mình đang ốm như thế, có nhẽ nào đội rét mướt tinh sương mà đi được ư?” Vân bảo: “Sống chết có mệnh, chàng chớ lo lắng nhiều làm gì.” Tôi mật bẩm với cha, ông cũng cho là nên như thế.
Tối ấy, tôi cho đem nửa gánh hành lý xuống thuyền trước, bảo Phùng Sâm ngủ sớm, Thanh Quân thì ngồi bên mẹ mà khóc. Vân dặn bảo: “Mẹ con số khổ, lại sẵn tình si, đến nỗi phải truân chuyên thế này. May là cha có hậu tình với mẹ, nên lần này đi nhẽ cũng chẳng có gì phải lo. Trong vòng đôi ba năm, tất sẽ sắp đặt để lại đoàn viên. Con về nhà chồng rồi, nên trọn đạo làm vợ, chớ giống như mẹ. Cha mẹ chồng con vẫn lấy làm may vì hỏi được con về làm dâu, nên tất sẽ đối xử tốt với con. Những đồ tạp vật mẹ để lại trong rương hòm, cho hết con đem đi theo. Em con còn nhỏ tuổi, nên chửa cho nó biết làm gì, chia tay rồi cứ bảo là mẹ đi chữa bệnh, mấy hôm thì về. Đợi mẹ đi xa rồi, hãy nói cho nó biết duyên do, và bẩm với ông nội con hay là được.”
Cạnh nhà có bà lão quen biết từ lâu, tức là bà lão tôi đến thuê nhà tránh nóng khi trước đã kể, xin đi tiễn chân đến tận làng, nên khi ấy cũng ngồi bên, cứ lau nước mắt mãi không thôi. Sắp đến canh năm, cùng ăn chút cháo nóng lót dạ. Vân gượng cười bảo: “Xưa, một chén cháo mà tụ hội, nay một chén cháo mà chia ly, nếu viết thành câu chuyện truyền kỳ, có nhẽ lấy tên là Truyện ăn cháo được.” Phùng Sâm nghe tiếng cũng trở dậy, hỏi vẻ ngái ngủ: “Mẹ làm gì vậy?” Vân nói: “Mẹ sắp đi đến thày lang ấy mà.” Phùng Sâm nói: “Sao mẹ dậy sớm thế?” Vấn đáp: “Đường xa lắm. Con với chị cứ
ở yên nhà, chớ có quấy bà nội. Mẹ với cha con cùng đi, mấy ngày sẽ về thôi.”
Gà gáy ba bận, Vân nuốt lệ đỡ bà lão, mở cửa sau chực bước ra, thì Phùng Sâm bỗng khóc vang lên: “Hu hu, mẹ không về nữa rồi!” Thanh Quân sự có người nghe thấy, vội vàng bịt miệng nó lại dỗ dành. Lúc bấy giờ, hai người chúng tôi đều như cắt từng khúc ruột, chẳng thể nói thêm được câu gì, chỉ biết ngăn nó bảo “Đừng khóc nữa” mà thôi. Thanh Quân đóng cửa lại rồi, Vân ra ngõ được hơn chục bước thì đã mệt nhọc không thể đi nổi, phải bảo bà lão cầm đèn, để tôi cũng đi tiếp. Sắp đến chỗ thuyền đậu, thì suýt bị phu tuần giữ lại, may mà có bà lão nhận Vân là con gái đang bị ốm, còn tôi là con rể, lại được những người trên thuyền đều là người làm công của nhà họ Hoa, nghe tiếng chạy tới giúp cùng đỡ nhau xuống thuyền. Thuyền nhổ sào đi rồi, Vân mới đau đớn khóc ròng. Chuyến đi ấy, rồi thành ra mẹ con vĩnh quyết!
Họ Hoa, tên là Đại Thành, ở núi Đông Cao, Vô Tích. Nhà dựng đối diện với núi, sống bằng nghiệp canh nông vốn là người thật thà chất phác. Vợ là Hạ thị, tức là chị kết nghĩa của Vân vậy. Hôm ấy, độ giờ ngọ, giờ mùi, thì chúng tôi mới tới nhà họ Hoa. Hoa phu nhân đã tựa cửa đứng đợi sẵn, đem theo hai con gái nhỏ tới thuyền, cùng gặp nhau mừng rỡ, đỡ Vân lên bờ, ân cần khoản đãi. Đàn bà trẻ con bốn xung quanh hàng xóm cũng í ới
gọi nhau kéo sang, vây quanh Vân mà xem, người thì hỏi han, người thì thương cảm, nghiêng đầu ghé tai, ồn ã cả nhà. Vân nói với Hoa phu nhân: “Hôm nay thật chả khác gì ngư phủ lực chốn đào nguyên vậy!” Hoa thị nói: “Muội đừng cười, người quê thấy ít, nên là nhiều như vậy đó.” Từ bấy cùng nhau yên ổn ở đó qua năm mới.
Đến Nguyên tiêu, mới cách hai chục ngày mà Vân đã dần có thể trở dậy đi lại được. Tối ấy, xem long đăng(Long đăng: dùng đèn lồng kết thành hình rồng mà múa, rước, gọi là “long đăng”) trên ruộng mạch, tinh thần sắc diện của Vân đã dần hồi phục như trước, tôi mới thấy yên lòng. Tôi nói riêng với Vân:
“Ta ở đây không phải là kế lâu dài, mà muốn đi chỗ khác lại không đủ tiền, biết làm thế nào?” Vân nói: “Thiếp cũng đã trù tính rồi. Anh rể chàng là Phạm Huệ Lai hiện đang làm kế toán trong dinh coi việc muối ở Tĩnh Giang, mười năm trước từng vay chàng mười lạng bạc, khi ấy trong nhà không đủ số tiền ấy, thiếp phải đem cầm cành hoa lấy tiền gom vào, chàng
có nhớ không?” Tôi đáp: “Quên rồi.” Vân nói: “Nghe đâu Tĩnh Giang cách đây cũng không xa, hay chàng tới đó một phen.” Tôi bèn theo như lời.
Tiết trời khi ấy đã ấm lắm, mặc áo vải ngắn, khoác áo choàng nhung, đã cảm thấy nóng. Bữa ấy là ngày mười sáu tháng Giêng năm Tân Dậu(Tức năm 1801). Tối đó tôi nghỉ lại quán trọ ở Tích Sơn, thuê một tấm chăn mà nằm. Sáng sớm trở dậy, đi đò dọc Giang Âm, suốt chặng đường thuyền
ngược gió, rồi lại mưa phùn. Tối thì đến cửa sông Giang Âm, cái lạnh đầu xuân thấu tận xương tủy, phải mua rượu uống cho đỡ rét, trong túi sạch nhẵn. Trù trừ cả đêm, đang tính cởi áo ngoài ra cầm lấy tiền mà qua sông.
Ngày mười chín, gió bắc càng mạnh, tuyết rơi thêm dày, tôi không ngăn được nỗi thảm sầu mà rơi nước mắt, thầm tính tiền phòng trọ, phí sang đò, mà không dám uống rượu nữa. Đang khi lòng lạnh chân run, bỗng nhiên trông thấy một lão ông, đi dép cỏ áo tơi nón lá, khoác cái túi màu vàng vào quán, đưa mắt nhìn tôi, tựa hồ “Ông chẳng phải là họ Tào ở Thái Châu đó ư?” Ông lão đáp: “Chính phải. Tôi mà không có ngài, thì đã chết dấp ở nơi ngòi rãnh rồi vậy! Giờ, tiểu nữ đã được yên lành, vẫn nhắc đến công đức của ngài luôn. Chẳng ngờ hôm nay lại được gặp nhau, làm sao ngài lại ở chỗ này?” Số là khi tôi còn trong mạc phủ ở Thái Châu, có họ Tào, vốn người nghèo hèn, sinh được một người con gái có nhan sắc, đã hứa gả cho người ta. Có kẻ thế lực đem tiền cho vay, nhằm mưu chiếm người con gái ấy, đến nỗi kiện tụng lên công đường. Tôi có điều đình bảo vệ giúp trong việc ấy, khiến người con gái vẫn gả được cho người đã hứa hẹn. Họ Tào bèn tới cửa công đường dập đầu tạ ơn, xin làm phục dịch, cho nên biết nhau. Tôi đem chuyện đến nhà người thân, nhưng gặp khi tuyết lớn ngăn trở kể lại cho nghe, lão Tào nói: “Ngày mai trời tạnh, tôi sẽ tiện đường đưa ngài đi.” Lại bỏ tiền mua rượu, khoản đãi chu đáo vô cùng vui vẻ.
Ngày hai mươi, chuông sớm vừa mới gióng, đã nghe thấy tiếng gọi đò ngoài cửa sông, tôi giật mình tỉnh giấc, gọi lão Tào cùng sang đò. Lão Tào nói: “Không cần vội, ăn no đã rồi hãy lên thuyền.” Rồi bèn trả giúp cho tôi cả tiền phòng tiền cơm, mà kéo tôi ra mua đồ ăn. Tôi vì đã phải đậu lại mấy hôm, sốt ruột muốn sang sông, ăn không nuốt nổi, chỉ gắng gượng nhai hai cái bánh vừng. Tới khi lên thuyền, gió sông buốt như tên đâm, tứ
chi run bần bật. Lão Tào nói: “Nghe đâu Giang Âm có người treo cổ ở Tĩnh Giang, vợ ông ta thuê thuyền này tới đó, tất phải đợi người thuê đến thì mới đi được.” Thế là tôi bụng rỗng chịu rét, đến giờ ngọ thuyền mới nhổ sào. Tới được Tĩnh, thì khói chiều đã mờ mịt bốn bề vậy.
Lão Tào nói: “Ở Tĩnh Giang có hai công đường, chỗ ngài muốn tới là ở trong thành, hay ở ngoài thành?” Tôi loạng choạng theo sau, vừa đi vừa đáp lời: “Thật không biết là ở trong hay ngoài nữa.” Lão Tào nói: “Thế thì tạm dừng lại nghỉ đã, ngày mai hãy tới hỏi vậy.” Vào quán trọ, giày tất đã bị bùn đất ướt bẩn cả, phải kêu lửa mà hong. Ăn uống láo nháo, rồi mệt quá ngủ lịm đi. Đến sáng sớm trở dậy, thì tất đã cháy mất một nửa, lão Tào lại trả tiền trợ tiền cơm giúp cho.
Hỏi thăm đến trong thành, thì Huệ Lai vẫn còn chưa dậy, nghe nói tôi đến, khoác áo đi ra, trông thấy bộ dạng tôi, kinh hãi bảo: “Cậu làm sao mà tả tơi ra thế?” Tôi nói: “Anh tạm chớ hỏi, có bạc trắng cho em mượn trước hai đồng, để biếu cho người đưa đi đã.” Huệ Lai lấy hai đồng bạc nước ngoài(Chỉ đồng bạc của nước ngoài được mang vào Trung Quốc khi ấy, chủ yếu là tiền Tây Ban Nha) đưa cho, tôi lập tức đem biếu lão Tào. Lão hết sức chối từ, chỉ nhận một đồng rồi đi.
Tôi bèn thuật lại những chuyện mình đã gặp phải, và nói rõ ý định đến đây của mình. Huệ Lai nói: “Cậu là người chí thân, dù cho không có món nợ cũ, cũng phải nên tận lực và giúp. Song hiện giờ, có thuyền muối vượt bể vừa bị cướp, nên hiện đang phải kết toán sổ sách, tôi không thể lấy tạm ra mà giúp cậu nhiều được, trước mắt cố gắng gom lấy hai mười đồng bạc nước ngoài coi như trả nợ cũ tôi vay của cậu, có được không?” Tôi vốn cũng không mong muốn gì nhiều, bèn bằng lòng. Ở lại đó hai ngày, trời đã ấm tạnh, tôi bèn tính đường ra về.
Ngày hăm nhăm thì về đến nhà họ Hoa. Vân hỏi: “Chàng gặp tuyết chăng?” Tôi kể lại nỗi khổ sở cho hay, Vân buồn thảm nói: “Bữa có tuyết, thiếp cứ nghĩ chàng đã tới được Tĩnh Giang rồi, hóa ra vẫn còn bị kẹt lại ở cửa sông. May mà gặp ông Tào, chết đuối vớ được Cục, đúng thực là ở hiền gặp lành vậy.” Qua mấy hôm, thì nhận được thư của Thanh Quân, mới biết Phùng Sâm đã được Ấp Sơn giới thiệu vào một tiệm buôn. Tẫn Thần cũng đã thỉnh mệnh cha tôi, chọn ngày hôm tự tháng Giêng sẽ đến
đón Thanh Quân về bên nhà. Chuyện của con cái, coi như thế là tạm ổn, nhưng chia lìa đến vậy, khiến ai cũng thấy thảm thương vậy.
Đầu tháng Hai, gió êm nắng ấm, tôi lấy số tiền từ món nợ thu được ở Tĩnh Giang, chuẩn bị một ít hành trang gọn nhẹ, đến thăm người bạn cũ là Hồ Khẳng Đường ở sở muối Hàn Giang. Có các ông lo việc ở Cổng cục(Cống cục: nha môn lo giữ việc tô thuế xưa) cùng nhau mời tôi vào cục, lo giúp việc bút mực, từ bấy giờ thân tâm mới hơi yên định lại được.
Đến năm sau, là năm Nhâm Tuất, tháng Tám, tôi nhận được thư Vân nói: “Thiếp bệnh đã khỏi hẳn rồi, chỉ có điều ăn nhờ ở đậu nhà người chẳng phải thân chẳng phải hữu, rốt cuộc không phải là kế lâu dài, xin cho thiếp cũng đến Hàn Giang, để được thăm danh thắng Bình Sơn.” Tôi bèn mướn một căn nhà hai gian buồng kề bên sông, ở ngoài cửa Tiên Xuân, Hàn Giang, rồi tự mình đến nhà họ Hoa đón Vân cùng đi. Hoa phu nhân tặng cho một đứa ở tên gọi A Song, để giúp đỡ việc bếp núc. Lại ước hẹn sau này cùng về làm hàng xóm với nhau. Khi ấy đã là tháng Mười, núi Bình Sơn còn lạnh lẽo, chúng tôi cùng hẹn đến mùa xuân sẽ lên chơi, trong lòng tràn đầy hy vọng rằng sẽ thư thái điều dưỡng cho khỏe, rồi dần dà tính đến chuyện cốt nhục đoàn viên. Chưa đầy một tháng, thì bỗng các chân lo việc ở Cổng cục phải cắt giảm đi mười lăm người. Tôi thuộc hạng bạn của bạn, vì vậy bèn bị cho nghỉ việc.
Vân mới đầu còn tìm trăm phương ngàn kế tính toán giúp tôi, gượng vui an ủi, chưa từng oán trách chút nào. Đến tháng giữa xuân năm Quý Hợi, thì bỗng bệnh khí huyết lại bộc phát. Tôi định rằng lại đến Tĩnh Giang, nhờ anh rể giúp, Vân nói: “Nhờ họ hàng chẳng bằng nhờ bè bạn!” Tôi nói: “Cậu ấy tuy phải, thân hữu tuy quan tâm, nhưng hiện cũng đều mất việc ở không, tự lo cho mình còn không xong.” Vân bảo: “May mà khí trời đã ấm, đường đi nhẽ không còn phải lo mưa tuyết ngăn trở, mong chàng đi nhanh về nhanh, bệnh của thiếp không cần phải lo nghĩ. Nếu như sức khỏe chàng có điều bất ổn, thì tội thiếp lại càng nặng vậy.”
Lúc ấy trong nhà củi gạo đã đứt bữa, tôi giả vờ rằng thuê con la để đi cho Vân an lòng, nhưng thực chỉ cho mấy cái bánh khô vào túi đi bộ, vừa đi vừa ăn. Tôi nhằm hướng đông nam mà dấn bước, hai lần qua sông Xoa Hà,
ẳ
đi ước tám, chín mươi dặm, trông ra bốn bề chẳng có làng mạc gì cả. Đến độ canh một, chỉ thấy cát vàng mờ mịt, sao sáng chập chờn, có một ngôi miếu thổ địa, cao độ hơn năm thước, tường thấp vây quanh, trồng hai cây bách. Tôi bèn khấu đầu trước thần mà khấn rằng: “Thẩm mỗ ở Tô Châu, đến nhà họ hàng chẳng may lạc đường đến đây, muốn ngủ nhờ lại miếu thờ ngài một tối, xin ngài thương tình mà phù hộ cho.” Rồi bèn xê cái lư hương nhỏ bằng đá sang một bên, lách mình ghé vào, miếu nhỏ chỉ đủ nửa người. Tôi cái mũ úp lên mặt, ngồi nửa người vào trong, thò hai chân ra ngoài, nhắm mắt lắng nghe, chỉ có tiếng gió xào xạc mà thôi. Chân mỏi người mệt, bất chợt ngủ thiếp đi lúc nào không hay. Kịp đến khi tỉnh dậy, thì hừng đông đã sáng. Bên ngoài tường thấp chợt có tiếng bước chân cùng tiếng người trò chuyện, tôi vội ra nhìn xem, thì hóa ra là người địa phương đi chợ ngang qua đó. Tôi hỏi thăm đường, họ nói: “Đi về phía nam mười dặm thì đến huyện thành Thái Hưng, xuyên qua thành đi về hướng đông nam, cứ mười dặm thì có một ụ đất, qua tám ụ như thế thì tới Tĩnh Giang, đường đều to rộng dễ đi.”
Tôi bèn trở lại, đặt lư hương về nguyên vị, khấu đầu tạ ơn thần rồi đi. Qua Thái Hưng thì có xe nhỏ có thể nhờ đi. Tới giờ thân thì tới Tĩnh Giang, đưa danh thiếp vào xin gặp. Hồi lâu, người canh cửa ra bảo: “Ông Phạm có việc công đã đi Thường Châu rồi.” Nghe lời nói điệu bộ có vẻ như thoái thác, tôi hỏi lại rằng: “Hôm nào thì ông ấy về?” Người ấy đáp: “Không biết.” Tôi nói: “Dù là một năm tôi cũng sẽ đợi.” Người canh cửa hiểu ý tôi, hỏi riêng rằng: “Ông là cậu em ў ruột của vợ ông Phạm hả?” Tôi nói: “Không phải em ruột thì tôi đã chẳng đợi ông ấy về làm gì.” Người canh cửa nói: “Thế ông cứ tạm đợi đi vậy.” Qua ba ngày, thì tôi được báo Phạm Huệ Lai đã về Tĩnh Giang. Cuối cùng vay được cả thảy hai mươi lăm lạng bạc.
Tôi thuê con la vội vã chạy về, trông thấy Vân hình dong thê thảm, đang nước mắt sụt sùi. Thấy tôi về, thốt nhiên Vân bảo: “Chàng có biết, trưa qua A Song đã cuốn gói bỏ trốn rồi không? Thiếp đã nhờ người tìm kiếm khắp nơi, nhưng đến nay vẫn chưa tìm thấy. Mất đồ là chuyện nhỏ, chứ người thì mẹ nó trước lúc đi đã dặn dò nhờ vả mấy lần. Nay nếu nó trốn về, giữa đường phải qua sông lớn, đã đáng lo ngại lắm rồi. Giả như cha mẹ nó lại giấu con mưu đồ gian trá, thì biết làm sao? Hơn nữa, còn mặt mũi nào mà gặp chị kết nghĩa của thiếp nữa?” Tôi bảo: “Không phải sốt ruột,
nàng đã lo nghĩ quá rồi. Giấu con mưu đồ gian trá, thì phải mưu trá với nhà giàu có, chứ ai mưu đồ với vợ chồng mình chỉ hai bàn tay trắng thế này. Huống chi, từ khi chúng ta đem nó theo đến nay nửa năm, nhường
Cơm xẻ áo, chưa từng đánh mắng bao giờ, hàng xóm láng giềng đều biết cả. Chuyện này thực là đứa tớ nhỏ táng tận lương tâm, thừa lúc chủ nguy nan mà trộm cắp bỏ trốn. Chị kết nghĩa nhà họ Hoa tặng ta đứa trộm cắp, thì chị ấy không có mặt mũi nào gặp nàng, chứ nàng làm sao lại nói là
không có mặt mũi nào gặp chị ấy? Bây giờ, nên một mặt trình quan huyện lập án, để ngăn hậu họa sau này là được rồi.”
Vân nghe tôi nói, ý chừng cũng hơi an lòng. Nhưng từ đó, ngủ mơ nói nhảm, khi thì kêu “A Song trốn rồi”, lúc thì kêu “Sao Hàm phụ ta”, mà bệnh tình cũng ngày một nặng thêm.
Tôi muốn mời thầy lang chẩn trị, nhưng lần ngăn bảo: “Bệnh thiếp vốn ban đầu là vì chuyện em đi, mẹ mất, khiến đau buồn quá đỗi, kế đến là vì tình cảm, sau nữa lại bởi phẫn uất, mà thường ngày lại hay lo lắng quá, vốn mong muốn gắng sức làm một người dâu tốt mà không thể được, dẫn đến các chứng chóng mặt hoa mắt, hồi hộp đau tim đều mắc phải cả, chính như người ta nói “bệnh nhập cao hoang, lương y thúc thủ, xin chàng chớ làm việc hoang phí vô ích nữa. Nhớ lại thiếp đã cùng chàng phu xướng phụ tùy hai mươi ba năm, được chàng yêu thương, trăm phần thông cảm, không vì xấu nết cứng đầu mà ruồng bỏ. Được một người chồng tri kỷ như chàng, thì đời này thiếp đã không còn nuối tiếc gì nữa. Ấm áo vải, no Cơm rau, một nhà vui vẻ, rong chơi tuyền thạch như những cảnh ở đình Thương Lang, lầu Tiêu Sáng, ấy thực là thần tiên giữa cõi trần rồi vậy. Thần tiên biết tu mấy đời mới có thể thành được, chúng ta là người thế nào, mà dám mong được như thần tiên thế? Nếu cứ cưỡng cầu, tất khiến tạo vật đố kị, mà xui ra giống tình ma quấy nhiễu. Thảy đều bởi chàng quá đa tình, mà thiếp thì bạc mệnh vậy!”
Rồi Vân lại nghẹn ngào bảo: “Đời người trăm năm, chung quy đều phải một lần chết. Nay giữa đường phải lìa nhau, bỗng nhiên li biệt mãi, chẳng thể trọn đời quét dọn hầu chàng, mà được thấy Phùng Sâm lấy vợ, lòng này thực canh cánh khôn nguôi.” Nói xong, nước mắt sa xuống như mưa. Tôi gắng gượng an ủi bảo: “Nàng ốm đã tám năm, những khi thoi thóp tưởng chết cũng đã nhiều, hôm nay làm sao bỗng lại nói những câu đoạn
trường như thế?” Vân nói: “Mấy hôm liền thiếp nằm mơ thấy cha mẹ mình dong thuyền lại đón, nhắm mắt lại thì lại thấy thân thể bồng bềnh, như đi trên mây trên khói, có phải là hồn đã lìa chỉ còn thân xác đó chăng? Tôi bảo: “Đó là tâm thần thất tán, uống mấy thang thuốc bổ, tĩnh tâm điều dưỡng, tất sẽ yên khỏi thôi.”
Vân lại than thở bảo: “Thiếp mà có một chút sinh cơ mảy may nào, thì nhất định không dám nói những câu khiến chàng lo sợ. Nay đường xuống âm ti đã gần, nếu mà không nói thì chẳng còn khi nào để nói nữa. Khiến chàng phải mất lòng cha mẹ, bôn ba lăn lộn, đều là vì thiếp. Thiếp chết đi rồi, thì tấm lòng song thân tự có thể vãn hồi, chàng cũng có thể khỏi phải đeo đẳng nữa. Song thân tuổi tác đã cao, sau khi thiếp chết, chàng nên sớm trở lại nhà. Nếu như không thể đem hài cốt thiếp về cùng, thì cứ tạm ký táng ở đây đợi sau này sẽ tính cũng chẳng sao. Mong chàng tìm lấy một người khác có đủ đầy dung đức, để phụng dưỡng song thân, chăm lo cho con trai của thiếp, thì thiếp có chết cũng được nhắm mắt vậy!” Nói đến đó, thì đau đớn tưởng đứt từng khúc ruột, bất giác bật khóc thảm thiết.
Tôi nói: “Nếu như nàng quả giữa đường lìa bỏ nhau, thì nhất định ta không có lẽ gì mà tái tục nữa. Huống chi, 'Đã qua biển biếc, đâu là nước; Trừ chốn non Vu, chẳng phải mây.”(Nguyên văn: Tằng kinh thương hải nan vị thủy; Trừ khước Vụ sơn bất thị vân, đây là hai câu trong bài thơ Li tư của Nguyên Chẩn
đời Đường, ý nói: từng thấy nước biển lớn, thấy mây non Vu rồi thì chẳng còn nước ở đâu, mây ở đâu đáng gọi là nước là mây nữa, ý rằng không thấy ai bằng vợ mình cả) Vân bèn nắm tay tôi, dường muốn nói thêm điều gì nữa, nhưng chỉ lắp bắp nói đứt đoạn được hai chữ “kiếp... sau”, rồi bỗng nhiên thở dốc, cấm khẩu, hai mắt mở to, dù muôn hố ngàn gọi cũng đã không thể nói được nữa. Chỉ thấy huyết lệ hai hàng, đầm đầm tuôn chảy, rồi đó hơi thở dần nhỏ, nước mắt dần khô, linh hồn phiêu diêu, rốt ra đi mãi mãi. Khi ấy là ngày ba mươi tháng ba năm Quý Hợi niên hiệu Gia Khánh.(Tức năm 1803)
Đương khi ấy, tôi một đèn một bóng, nhìn quanh không có ai thân thích, hai bàn tay trắng, tấc lòng tưởng chừng vỡ vụn. Dằng dặc hận này, làm sao lại đến cực độ như vậy! Nhờ có người bạn là Hồ Tỉnh Đường giúp cho mười lạng bạc, tôi cũng dốc hết những gì còn lại trong nhà ra, bán sạch sành sanh, để lo việc tang cho Vân.
Ôi chao! Vân chỉ là một người con gái, nhưng lại có tấm lòng cùng tài năng hiểu biết như một bậc nam nhi. Sau khi về nhà tôi, tôi hàng ngày bôn tẩu lo cái ăn cái mặc, ăn uống thiếu thốn, nhưng vẫn đều có thể tính liệu chu toàn không lo ngại gì. Kịp khi tôi ở nhà, chỉ biết đem chữ nghĩa bàn luận với nhau mà thôi. Bỗng đâu bệnh tật lưu li, mang hận mà chết, hỏi ai gây nên nông nỗi thế này? Tôi đã phụ lòng người lương hữu chốn buồng khuê, hỏi làm sao còn có thể xứng với đạo lý nữa! Xin có lời khuyên cho những vợ chồng trên thế gian, cố nhiên không được coi nhau như kẻ cừu thù, nhưng cũng chớ nên hết mực yêu thương nhau quá đỗi.
Ngạn ngữ có câu:“Ân ái phu thê chẳng rốt cùng”, chính như tôi đây, có thể coi là vết bánh xe đi trước làm gương vậy.
Đến ngày hồi sát, tục truyền vào ngày ấy linh hồn người chết sẽ theo trùng sát mà về, cho nên trong buồng phải bầy biện y như lúc người chết còn sinh tiền, phải xếp những quần áo cũ vẫn thường mặc của người chết lên giường, đặt hài cũ ở dưới giường, để cho hồn về nhìn xem. Vùng Ngô Hạ tương truyền gọi đó là “thu nhãn quang. Lại mời đạo sĩ đến làm phép, trước tiên mời hồn vào giường, rồi sau bảo đi, gọi là “tiếp sảnh”. Tục lệ ở Hàn Giang, phải bày rượu cùng đồ ăn trong buồng của người chết, rồi cả nhà tránh đi hết, gọi là “tị sảnh”. Vì thế mà có nhà trong khi“tị sảnh” bị trộm vào khoắng sạch.
Ngày “sảnh” của Vân, chủ nhà vì là cùng ở nên đi ra ngoài tránh. Hàng xóm bảo tôi bày đồ ăn xong cũng nên tránh xa đi. Tôi chỉ mong hồn phách nàng về để được một lần gặp gỡ, nên cứ ậm ừ không đáp. Có người đồng hương là Trương Vũ Môn can tôi rằng: “Chuyện nhân và nhập tà, anh cũng nên tin rằng có, chớ nên thử mà ở lại đấy.” Tôi nói: “Tôi sở dĩ không tránh mà ở lại đợi, chính là vì tôi tin rằng có chuyện ấy.” Trương lại nói: “Hồi sát nếu mình phạm phải trùng sát, sẽ chẳnglợi cho người sống. Dẫu hồn phu nhân có về, nhưng nghiệp đã âm dương cách biệt, chỉ e rằng chẳng thấy người muốn gặp đâu, mà lại vướng phải mũi dao của thứ nên tránh vậy.”
Khi ấy, tôi tâm si không hiểu, một mực đáp rằng: “Sống chết có mệnh. Nếu anh quả quan tâm lo lắng, thì đi cùng tôi được không?” Trương nói: “Tôi sẽ đứng canh ngoài cửa. Nếu anh thấy có sự lạ gì, cứ kêu lên tôi sẽ lập tức vào ngay.”
Tôi bèn cầm đèn vào buồng, thấy đồ dùng bày biện y nguyên, mà người thì âm dung mờ mịt, chẳng thể ngăn nổi đau lòng rơi lệ. Lại e là mắt lệ nhòe mờ, không nhìn thấy được gì, mới nén nước mắt mở to hai mắt, ngồi xuống giường đợi. Đưa tay ve vuốt những y phục của Vân khi xưa còn để lại, thấy sắc áo còn tươi, mùi hương phảng phất, tôi bất giác quặn đứt trong lòng, tối sầm trước mắt mà mê đi. Chợt nghĩ mình đến đây để đợi linh hồn Vân trở về, làm sao lại bỗng ngủ mê đi thế này? Mở mắt nhìn ra bốn xung quanh, thấy trên bàn có hai ngọn nến lửa xanh leo lét, sáng nhỏ như hạt đậu, chợt sởn da dựng tóc, toàn thân lạnh toát run rẩy. Với xoa hai tay lau trán, chăm chú nhìn kĩ, thấy hai ngọn lửa dần bốc lên, cao đến cả thước, trần nhà dán giấy, suýt nữa thì bị thiêu rụi.
Tôi đang nhờ ánh sáng ấy mà nhìn khắp bốn xung quanh, thì ánh lửa đã thu nhỏ lại y như trước. Bấy giờ tim đập chân run, muốn gọi người canh ở bên ngoài vào xem, nhưng nghĩ hồn phách yếu ớt, e là bị khí thịnh dương lấn át. Thầm gọi tên Vân mà khấn nguyện, nhưng buồng không tịch mịch, chẳng thấy một thứ gì nữa. Khoảnh khắc lửa nến lại sáng, không còn cao vụt lên nữa. Tôi ra, kể lại cho Vũ Môn nghe, Vũ Môn cũng phải phục tôi lớn mật, có biết đâu tôi thực chỉ là nhất thời tình si mà thôi. y
Sau khi Vân mất, nhớ đến câu “vợ là mai, con là học” của Hòa Tĩnh(Hòa Tĩnh: tức Lâm Bộ, tự Quân Phục, là nhà thơ đời Bắc Tống, từng ẩn cư ở Hàng Châu,
không có vợ con, chỉ coi mai là vợ, hạc là con. Sau khi Lâm Bộ qua đời, được Tống Nhân tông ban thuy hiệu là Hòa Tĩnh tiên sinh) xưa, tôi bèn tự lấy biệt hiệu là Mai Dật, mua một ngôi đất, theo như lời di ngôn, tạm an táng Vân ở núi Kim Quế - tục gọi là Hác gia Bảo tháp - ở ngoài cửa tây, thành Dương Châu. Ôm bài vị về quê, mẹ tôi thấy cũng đau buồn thương tiếc. Thanh Quân, Phùng Sâm cũng về nhà khóc lóc phục tang. Khải Đường nói với tôi: “Cha vẫn còn chưa nguôi giận, anh nên trở lại Dương Châu, đợi khi cha trở lại nhà, em sẽ lựa lời khuyên giải, rồi gửi thư gọi anh về.”
Tôi bèn bái biệt mẹ già, chia tay con cái, đau đớn khóc than một hồi rồi trở lại Dương Châu, bán tranh độ nhật. Vì thế, lại thường luôn được đến mộ Vân mà khóc, hình đơn bóng chiếc, vô hạn thê lương. Ngẫu nhiên đi qua nơi ở cũ, lại mắt thảm lòng sầu. Tiết Trùng dương, các mộ bên cạnh cỏ đều úa vàng cả, duy mộ Vân cỏ vẫn xanh tươi. Người giữ mộ bảo: “Chỗ huyệt
này tốt, nên địa khí còn vượng như thế.” Tôi thầm khấn rằng: “Gió thu đã gấp, mà thân ta chỉ có manh áo đơn, nếu nàng có thiêng, xin phù hộ cho ta có một chỗ làm, qua đận cuối năm này, để đợi tin tức quê nhà.”
Không bao lâu, thì có người mạc khách ở Giang Đô là Chương Ngự Am tiên sinh muốn về Triết Giang lo việc tang cho thân nhân, nhờ tôi giữ giúp công việc trong ba tháng, thế là tôi được đủ áo chăn khỏi rét. Đến khi công đường niêm phong nghỉ Tết, Trương Vũ Môn lại mời đến ở nhà ông ấy. Trương cũng mất việc, Tết nhất khó khăn, bàn bạc với tôi, tôi bèn dốc hết túi lấy hai mươi lạng bạc cho mượn, bảo: “Số tiền này tôi vốn để chi dùng vào việc đưa linh cữu vong thế về quê, đợi đến khi nào có tin tức ở quê nhà tới, thì ông trả lại cho tôi là được.”
Năm ấy, tôi ở lại ăn Tết ở nhà Trương. Sớm mong chiều ngóng, mà quê nhà âm tín vẫn tuyệt không. Đến tháng Ba, năm Giáp Tý, thì tiếp được thư của Thanh Quân, mới biết tin cha tôi bị bệnh, tôi muốn về Tô Châu ngay, nhưng lại sợ làm ông tức giận. Đang khi còn chần chừ trông ngóng, thì lại nhận được thư của Thanh Quân, mới đau đớn biết rằng cha tôi đã dứt nghiệp trần mà tạ thế rồi. Tôi đau lòng buốt tủy, kêu trời chẳng thấu, không có thời gian nghĩ gì khác nữa, lập tức đi ngày đêm về nhà, dập đầu trước linh sàng, kêu khóc đến rỏ máu.
Cha tôi một đời vất vả, bôn tẩu ở ngoài. Sinh được tôi lại là đứa con chẳng ra gì, đã ít chăm nom dưới gối, lại không hầu thuốc bên giường, cái tội bất hiếu ấy, trốn làm sao được! Mẹ trông thấy tôi, khóc bảo: “Sao con đến hôm nay mới về?” Tôi đáp: “Con biết mà về là may nhờ nhận được thư của cháu Thanh Quân vậy.” Mẹ đưa mắt nhìn đứa em dâu tôi, rồi lặng im không nói gì nữa.
Tôi ở nhà thủ tang đến hết tuần đầu, mà rốt chẳng một ai đem việc nhà nói với mình, đưa việc tang bàn với mình cả. Thầm nghĩ, mình chẳng trọn đạo làm con, cho nên cũng chẳng mặt mũi nào mà hỏi ai về chuyện ấy.
Một hôm, bỗng có một toán người đến đòi nợ, vừa vào cửa liền lên giọng to tiếng gọi tôi. Tôi ra tiếp lời, bảo: “Thiếu nợ không trả, cố nhiên phải đòi, nhưng cha tôi nằm đó xác còn chưa lạnh, nhân khi nhà người ta có chuyện tại hung mà đến gọi đòi, chẳng phải là làm quá lắm ư?” Trong số ấy có một người bảo riêng tôi rằng: “Chúng tôi có người gọi bảo đến đây,
ông hãy tạm tránh ra, để chúng tôi đòi tiền người gọi chúng tôi đến.” Tôi nói: “Tôi nợ thì tôi trả, các ông mau về đi.” Bọn họ đều vâng dạ rồi đi.
Tôi nhân gọi Khải Đường ra, nói với nó rằng: “Anh tuy không ra gì, nhưng cũng chưa từng vô cớ làm ác. Nếu như nói anh đã đi ăn thừa tự rồi, tang chế phải giáng bậc(Thẩm Phục được cho thừa tự người bác mình. Theo tang chế xưa, người con nào đã ra thừa tự chú, bác, thì chịu tang cha mẹ giáng một bậc theo
như hàng cháu), thì trước nay anh chưa từng được mảy may tơ hào của thừa tự gì. Lần này về chịu tang cha, vốn là cái đạo làm con phải thế, chứ há lại là vì về để tranh giành tài sản đâu? Đại trượng phu quý ở chỗ tự lập lấy mình, anh đã tay không về đây, sẽ lại tay không ra đi vậy!” Tôi nói xong, quay vào trong trường, không ngăn được bật khóc lên thành tiếng. Khấu đầu từ biệt mẹ, lại đến nói cho Thanh Quân biết, rằng sẽ vào non sâu, tìm Xích Tùng Tử(Tương truyền là một vị tiên đời xưa) lánh khỏi cõi đời vậy.
Thanh Quân đang khuyên ngăn, thì hai anh em người bạn tôi là Hạ Nam Huân tự Đạm An, và Hạ Phùng Thái tự Ấp Sơn theo sau chạy đến nơi, lớn tiếng khuyên can rằng: “Gia đình mà như thế, cố nhiên khiến người ta phải phẫn hận, nhưng túc hạ tuy cha mất song mẹ vẫn còn, vợ chết mà con chưa lập, nay rốt lại định tiêu diêu xuất thế, có an tâm được chăng?” Tôi nói: “Vậy biết làm sao đây?” Đạm An nói: “Xin hãy tạm thời hạ cố đến ở tệ xá. Nghe nói ông Điện soạn(Điện soạn: Đời Minh, đời Thanh, các vị Trạng nguyên đều được trao chức Hàn lâm viện tu soạn, nên người ta cũng gọi Trạng nguyên là
Điện soạn) Thạch Trác Đường vừa có thư xin nghỉ phép về quê, hãy ở chỗ tôi đợi đến khi ông ấy về thì cùng đến thăm một thể, ông ấy tất có cách bố trí một chân nào đó cho ông.” Tôi nói: “Tôi đang khi có tang còn chưa qua trăm ngày, mà các anh trong nhà còn có cha già, tôi đến e rất không tiện.” Áp Sơn. nói: “Ngu huynh đệ mời túc hạ lại nhà, cũng chính là ý của cha vậy. Nếu như túc hạ cứ giữ ý cho là bất tiện, thì ở mé tây lân cận có ngôi chùa, thầy phương trượng vốn rất thân thiết với tôi, kê một chỗ nằm cho túc hạ đến ở trong chùa, có được chăng?” Tôi bèn đồng ý.
Thanh Quân nói: “Gia sản ông nội con để lại, chẳng dưới ba, bốn ngàn lạng, cho dù chẳng lấy một phân một hào nào, nhưng hồ dễ đến hành lý
ẳ
cũng vứt bỏ cả hay sao? Con sẽ đến lấy, rồi mang thẳng tới chùa cho cha có được không?” Vì thế mà ngoài đồ hành lý của mình, Thanh Quân còn đem cho tôi cả mấy món tranh ảnh sách vở, ống bút, nghiên mực mà cha tôi để lại.
Sư chùa bố trí cho tôi ở trên gác Đại Bi. Gác quay hướng nam, phía đông đặt tượng Phật, cách đầu phía tây một gian, trổ cửa sổ ngắm trăng, đối diện trước gian thờ Phật, vốn là chỗ để những người làm Phật sự dùng trai thực, tôi bèn kê chỗ nằm ở đó. Trước cửa có tượng Quan Thánh đứng cầm đao, cực kỳ uy vũ. Trong sân có một cây ngân hạnh, lớn tới ba người ôm, bóng trùm hết cả căn gác, đêm yên tĩnh tiếng gió nghe như gầm thét.
Ấp Sơn thường đem rượu quả đến cùng đối ẩm, bảo: “Túc hạ một mình ở đây, đêm khuya không ngủ, có thấy sợ không?” Tôi nói: “Kẻ hèn này cả đời ngay thẳng, trong tâm không có uế niệm, có gì mà phải sợ?” Ở đó chưa bao lâu, thì có cơn mưa lớn như trút nước, hết ngày lại đêm, suốt hơn ba mươi hôm, tôi lúc nào cũng lo cây ngân hạnh gãy cành đà vào nóc gác. May nhờ thần linh phù hộ, rốt cuộc tôi cũng được bình yên vô sự. Trong khi ở ngoài phố, những nhà bị ở đổ tường sụp mái không thể đếm hết được bao nhiêu,những ruộng lúa ở gần đó cũng đều bị cuốn trôi hết sạch. Tôi thì ngày ngày chỉ cùng vẽ tranh với tăng nhân, chẳng nghe chẳng thấy gì hết.
Đầu tháng Bảy, trời mới tạnh. Cha của Ấp Sơn hiệu là Thuần Hương có việc buôn bán đến Sùng Minh, gọi tôi đi cùng để lo giúp việc sổ sách giấy tờ, được hai chục lạng bạc. Đến khi về, thì vừa kịp sắp đến ngày an táng cha tôi. Khải Đường sai Phùng Sâm đến bảo tôi rằng: “Chú vì việc tang của ông nên không đủ tiền chi dụng, muốn cha giúp cho một, hai chục lạng bạc.” Tôi định dốc hết túi ra đưa, nhưng Ấp Sơn không cho, chia lại một nửa. Tôi bèn dẫn Thanh Quân đến nơi đặt mộ trước. An táng cho xong xuôi, tôi lại quay về gác Đại Bi.
Thi Cuối tháng Chín, Ấp Sơn có ruộng ở bãi Vĩnh Thái, Đông Hải, lại kêu tôi cùng đi đến đó thu hoa lợi. Vất vả hai tháng, đến khi trở về thì đã cuối đông, tôi dời vào ngụ ở Tuyết Hồng tháo đường trong nhà qua Tết. Thực là người cốt nhục khác họ vậy.
Tháng Bảy năm Ất Sửu,(Tức năm 1805) Trác Đường mới từ kinh đô về tới làng. Trác Đường tên là Uẩn Ngọc, tự Chấp Như - Trác Đường là tên hiệu vậy - vốn giao du với tôi từ thuở bé, đậu Trạng nguyên năm Canh Tuất niên hiệu Càn Long(Tức năm 1790), được ra làm Quận thú Trùng Khánh, Tứ Xuyên. Loạn Bạch Liên giáo, ông lo việc binh mã ba năm, rất có công lao. Kịp khi về, chúng tôi cùng gặp nhau vui lắm. Chớp mắt, đến tiết Trùng cửu, Trác Đường đưa cả gia quyến lại tới nơi nhậm chức ở Trùng Khánh, Tứ Xuyên, mời tôi cùng đi. Tôi lập tức đến từ biệt mẹ ở chỗ nhà người em rể lấy cửu muội của tôi là Lục Thượng Ngô, vì nhà cũ của cha tôi đã về tay người khác rồi. Mẹ tôi dặn bảo: “Em trai con không thể trông cậy gì được, chuyện này con đi nên gắng sức. Chấn hưng lại tiếng tăm nhà ta, giờ chỉ trông chờ vào con đó!” Phùng Sâm tiên tôi đến nửa đường, bỗng rơi nước mắt khóc mãi không thôi, tôi đành bảo nó quay về không cần tiễn nữa.
Thuyền ra đến Kinh Khẩu, Trác Đường có người bạn cũ là Hiếu liêm Vương Dịch Phu hiện đang làm ở sở muối Hoài Dương, bèn vòng đến thăm, tôi cũng đi cùng, nên lại được đến thăm mộ Vân nương một bận.
Thuyền quay lại, ngược dòng Trường Giang mà đi lên, dọc đường chơi thăm các nơi danh thắng. Đến Kinh Châu, Hồ Bắc, thì Trác Đường lại nhận được thư thăng lên làm Đồng Quan Quan sát, bèn để tôi ở lại với con trai của ông ấy là Đôn Phu cùng gia quyến tạm ngụ ở Kinh Châu. Còn Trác Đường thì đi ngựa cùng vài người tùy tòng đến Trùng Khánh, ăn Tết xong sẽ từ Thành Đô theo đường sạn đạo đến nơi nhậm chức.
Tháng Hai năm Bính Dần, gia quyến của Trác Đường mới theo đường thủy đến, tới Phan Thành thì lên bờ. Đường xa, phí lớn, xe nặng người nhiều, ngựa chết trục gãy, nếm đủ mùi vất vả. Đến được Đồng Quan thì đã vừa tháng Tư, Trác Đường lại thăng làm Liêm phỏng(Tức Án sát sứ) ở Sơn Tả(Tức Sơn Đông), quan lộ phơi phới. Quyến thuộc không thể cùng đi theo cả, phải mượn tạm Đồng Xuyên thư viện làm nơi cư ngụ.
Cuối tháng Mười, Trác Đường mới được chi tiền bổng của chức Liêm phỏng Sơn Tả, sai người đến đón thân quyến. Lại mang theo giúp cả thư của Thanh Quân gửi cho tôi, kinh hãi biết tin Phùng Sâm đã yểu vong tháng Tư vừa rồi! Mới hay, khi trước nó rơi nước mắt mà tiên tôi, ấy cũng là khi cha con vĩnh quyết vậy.
Ô hô! Vân chỉ có một đứa con trai, thế là đã không có người kế nối nữa! Trác Đường hay tin, cũng phải thở than hoài, rồi tặng cho tôi một người thiếp, khiến tôi lại bước vào một giấc mộng xuân. Từ đó rối rối bời bời, lại chẳng biết khi nào thì mộng tỉnh vậy.
Khoái lãng du
Tôi theo việc quan các nơi trải ba mươi năm, những nơi chưa đến trong thiên hạ, chỉ có Thục Trung, Kiềm Trung và Điền Nam mà thôi. Tiếc rằng rong ruổi ngựa xe, chỗ nào cũng phải theo người khác, nên sông núi vui tình, khói mây qua mắt, bất quá chỉ lĩnh hội được đại khái, chứ chẳng thể tìm tòi được hết những nơi vắng vẻ thâm u vậy. Phàm việc gì, tôi cũng thích tự làm theo ý mình, không thèm theo đúng sai của người khác. Đến như việc luận thơ thưởng họa, cũng vẫn có cái ý người quý mà ta bỏ, người bỏ mà ta trọng. Cho nên những nơi danh thắng, cũng quý ở chỗ mình tâm đắc, có nơi danh thắng mà mình chẳng thấy gì là đẹp, có nơi chẳng phải danh thắng mà mình lại tự cho là tuyệt vời. Xin trộm đem những nơi bình sinh đã từng trải mà ghi lại.
Năm tôi mười lăm tuổi, Giá Phu công - cha tôi làm dưới trướng Triệu minh phủ(Tức Huyện lệnh) ở Sơn Âm. Có Triệu Tỉnh Trai tiên sinh, tên là Truyền, vốn là bậc túc nho ở đất Hàng, được Triệu minh phủ mời tới nhà dạy học cho con trai mình, cha tôi cũng sai tôi đến xin học dưới của thầy.
Những ngày rảnh rỗi đi chơi, tôi được đến núi Hồng Sơn, cách thành độ hơn chục dặm, nhưng không thông đường bộ. Gần núi có một động đá, trên có phiên thạch, đưa ngang nứt ra như muốn rơi xuống, chúng tôi liền bơi thuyền qua dưới đó mà vào. Bên trong chợt thấy mở rộng, bốn mặt đều là vách đá dựng đứng, tục gọi đó là “Thủy Tiên” (vườn nước). Kề bên bờ nước có dựng năm gian gác đá, trên vách đá đối diện có ba chữ “Quan ngư dược” (xem cá nhảy). Nước đó sâu không thể đo được, tương truyền có cá lớn vẫn ẩn lặn dưới đáy sâu. Tôi ném mồi xuống thử xem sao, nhưng chỉ thấy những con cá chưa đầy một thước ra ăn mà thôi. Sau gác có lối thông ra vườn khô, măng đá tua tủa đầm lên, có cái đưa ngang rộng như hình bàn tay, có cái như trụ đá trên đỉnh bằng phẳng, đỡ thêm một khối đá lớn, dấu vết đẽo gọt vẫn còn, chẳng có gì gọi là đáng kể. Du ngoạn xong rồi, lại cùng ăn uống trên thủy các, sai những người đi cùng đốt pháo, một tiếng nổ vàng, muôn núi cùng vang dội lại, như nghe tiếng sấm sét. Đó là cuộc khoái du đầu tiên khi còn nhỏ. Tiếc rằng những nơi như Lan Đình, Vũ Lăng(Tức lăng Hạ Vũ. Tương truyền Hạ Vũ nam tuần đến núi Cối Kê thì mất, được táng đó.) chưa từng được tới, đến nay vẫn lấy làm tiếc.
Ở
Ở Sơn Âm đến năm sau, thì thầy tôi vì cớ cha mẹ già không đi xa nữa, mở lớp dạy học tại nhà, tôi bèn theo đến Hàng Châu. Nhân đó lại được du lãm thắng cảnh Tây Hồ. Kết cấu tinh diệu, thì tôi cho Long Tỉnh là hơn cả, thứ thì đến vườn Tiểu Hữu Thiên. Đá thì có Phi Lai Phong ở Thiên Trúc, Thụy Thạch cổ động ở núi Thành Hoàng. Nước thì có suối Ngọc Tuyền, trong
mà nhiều cá, có cái thú vị hoạt bát sống động vậy. Đại khái không đáng xem nhất, là chùa Mã Não trên Cát Lĩnh. Còn lại, những cảnh như đình Hồ Tâm, suối Lục Nhất, mỗi nơi đều có cái đẹp riêng, chẳng thể kể hết được, nhưng đều không thoát ra được khỏi hơi son phấn, rốt chẳng bằng được vẻ u tịch, thanh nhã mà gần tự nhiên của nơi tĩnh thất nhỏ.
Mộ Tô Tiểu Tiểu(Tô Tiểu Tiểu: người Tiền Đường, là danh kĩ nổi tiếng đời Nam Tề.) ở bên cầu Tây Linh. Người bản thổ cho biết mới đầu đó chỉ là nấm đất vàng thâm thấp. Năm Canh Tý niên hiệu Càn Long(Tức năm Càn Long
thứ bốn mươi lăm, 1780), thánh giá nam tuần, từng một lần hỏi đến. Xuân năm Giáp Thìn, Hoàng đế lại cử thịnh điển nam tuần lần nữa, thì mộ Tô Tiểu Tiểu đã được xây lại bằng đá, thành hình bát giác, trên dựng một tấm bia, viết mấy chữ lớn: “Mộ Tô Tiểu Tiểu người Tiền Đường. Từ bấy, những tạo nhân điếu cổ, không cần phải băn khoăn tìm hỏi nữa. Tôi nghĩ thầm, tự cổ đến nay những bậc liệt phách trung hồn bị mai một không được truyền lại, đã không biết bao nhiêu mà kể, đến những người được truyền lại nhưng chẳng được lâu dài cũng không ít. Tiểu Tiểu chỉ là một danh kĩ, mà từ đời Nam Tề đến nay, người đời chẳng ai không biết. Đó chẳng phải là do linh khí chung đúc, để điểm xuyết cho nơi núi hồ ư?
Qua phía bắc cầu mấy bước, có Sùng Văn thư viện, tôi từng cùng bạn học là Triệu Tập Chi tới thi ở đó. Khi ấy đang giữa mùa hè, chúng tôi dậy sớm lắm, ra khỏi cửa Tiền Đường, qua chùa Chiều Khánh, lên Đoạn kiều, ngồi
trên lan can đá. Nắng sớm sắp lên, ráng mai ánh ngoài rặng liễu, quang cảnh thật đẹp. Trong hương sen trắng, gió mát thoảng đưa, khiến người ta thấy như thanh sạch đến tận tâm cốt. Bước tới thư viện, đề thi vẫn còn chưa đưa ra vậy. Sau giờ ngọ nộp quyển, tôi với Tập Chi lại cùng đến động Tử Văn hóng mát. Động có thể chứa được mấy chục người, lỗ đá phía trên ánh mặt trời có thể soi xuống được. Có người bày mấy chiếc ghế thấp bàn
Con bán rượu ở đó. Chúng tôi cởi áo cùng uống đôi chén, nhắm với nem hươu rất tuyệt, lại kèm thêm ấu tươi ngó trắng, ngà say mới ra khỏi động. Tập Chi nói: “Phía trên có Triều Dương đài, rất cao thoáng, sao chúng ta
không lên chơi một bận?” Tôi cũng hứng chí, gắng sức leo lên đến đỉnh núi, thấy Hồ Tây như mảnh gương con, thành Hàng Châu tựa viên bi nhỏ, sông Tiền Đường như dải dây lưng, nhìn hết tầm mắt có thể thấy xa vài trăm dặm. Ấy là quang cảnh rộng lớn được thấy lần đầu trong đời vậy.
Ngồi hồi lâu, vùng ô sắp lặn, chúng tôi cùng dắt nhau xuống núi, thì tiếng chuông chiều Nam Bình đã thu không. Những cảnh Thao Quang, Vân Thê vì đường xa chưa tới được, còn hoa mai ở Hồng Môn cục, cây lim ở miếu
Cô Cô, bất quá cũng đến thế thôi. Động Tử Dương tôi cho là tất sẽ khả quan, nhưng hỏi tìm được tới nơi, thì cửa động chỉ nhỏ như ngón tay, có một dòng suối chảy rì rào thôi. Truyền rằng trong đó có nơi động thiện, nhưng hận là chẳng thể khoét cửa mà vào được.
Ngày Thanh Minh, thầy tôi đi tảo mộ tế xuân cùng theo. Mộ ở núi Đông Nhạc, nơi ấy nhiều tre trúc, người coi mộ đào lấy măng non còn chưa mọc lên khỏi đất, trông hình trạng tựa trái lê mà nhọn, nấu canh mời khách ăn. Tôi thấy ngon, ăn hết liền hai bát. Thầy bảo: “Ôi! Món này ăn tuy ngon nhưng hai tâm huyết, nên ăn nhiều thịt để giải đi.” Tôi vốn không ham ăn những món sát sinh, vì thế cơm ăn cũng vì măng mà giảm đi. Trên đường về cảm thấy phiền nhiệt, môi lưỡi có mấy chỗ nẻ cả ra. Qua động Thạch Thất, nhưng không có gì đẹp lắm. Động Thủy Nhạc vách núi nhiều dây leo, vào trong động như gian nhà nhỏ, có suối chảy rất xiết, tiếng reo ào ào. Vụng nước rộng chỉ ba thước, sâu độ năm tấc, chẳng tràn cũng chẳng cạn. Tôi cúi mặt xuống dòng nước mà uống, phiền nhiệt nhất thời hết sạch. Ngoài động có hai cái đình nhỏ, ngồi trong đó có thể nghe được tiếng suối chảy. Nhà sư mời tới xem cái vại vạn năm. Vại để ở Hương Tích trù(Hương Tích trù: tên gọi thông dụng các nơi bếp ăn, trai đường trong chùa), hình trạng rất to lớn, lấy ống vầu dẫn nước suối đổ vào, để mặc cho đầy tràn, qua nhiều năm, Có rêu dày tới hàng thước, ngày đông cũng không đóng bằng, cho nên không bị vỡ nứt.
Năm Tân Sửu,(Tức năm 1781. 3. Tức bệnh sốt rét) mùa thu, tháng Tám, cha tôi mắc bệnh ngược, phải về quê, lạnh thì đòi lửa, nóng thì đòi nước đá, tôi khuyên can nhưng không nghe, rốt chuyển ra bị thương hàn, bệnh tình
ngày càng nặng. Tôi hầu hạ thuốc thang, ngày đêm không được chợp mắt, gần suốt một tháng. Vợ tôi là Vân nương cũng ốm nặng, phải nằm bẹp trên giường. Tôi trong lòng trĩu nặng, không thể nói được ra thế nào. Cha gọi tôi vào dặn bảo: “Bệnh cha e khó mà qua khỏi, mày ôm mấy cuốn sách, rốt chẳng phải là kế sinh nhai. Để cha gửi mày tới người em kết nghĩa là Tưởng Tư Trai cho kế nghiệp ta mới được.” Qua ngày thì Tư Trai đến, cha lập tức bắt tôi bái làm thấy ngay trước giường bệnh. Ít lâu sau thì cha tôi được danh y Từ Quan Liên chẩn trị, bệnh tình dần khỏi. Vân cũng nhờ tài thầy Từ mà dậy được khỏi giường, nhưng tôi thì từ đó theo học việc trong mạc phủ. Đó chẳng phải là việc thích thú gì, sao lại chép vào đây? Xin thưa: Chuyện vứt sách lãng du của tôi là bắt đầu từ đó, cho nên ghi lại vậy.
Tư Trai tiên sinh tên là Tương, mùa đông năm ấy tôi lập tức theo tiên sinh học những việc mạc phủ ở Phụng Hiền quan xá. Cùng học việc với tôi, có họ Cố, tên là Kim Giám, tự là Hồng Can, hiệu Tử Hà, cũng người Tô Châu. Hồng Can là người khảng khái cương nghị, thẳng thắn chân thành, lớn hơn tôi một tuổi, nên tôi vẫn gọi là huynh. Hồng Can cũng không ngần ngại gọi tôi là đệ, giao du với nhau rất hết lòng. Đó là bạn tri giao đầu tiên của tôi. Tiếc rằng, anh mất khi mới hai mươi hai tuổi, khiến tôi thành người cô lẻ quả giao. Năm nay tôi đã bốn mươi sáu tuổi rồi, mịt mờ bể cả, chẳng biết đời này có còn gặp được một người tri kỷ như Hồng Can nữa hay không?
Nhớ lại, khi còn chơi với Hồng Can, tâm hồn cao rộng, thường có ý muốn được dựng nhà trong núi mà ở. Ngày Trùng cửu, tôi với Hồng Can cùng ở Tô Châu, có tiền bối là Vương Tiểu Hiệp cùng Giá Phu công - cha tôi gọi nhà trò đến diễn kịch, mời khách dự tiệc ở nhà tôi. Tôi chán sự ồn ào, bèn trước đó một hôm hẹn Hồng Can đến Hàn Sơn đăng cao chơi núi, đồng thời tìm hỏi chỗ để ngày sau dựng nhà. Vân giúp tôi chuẩn bị một be rượu nhỏ. Tới ngày hẹn, trời vừa sắp sáng, Hồng Can đã đến cửa gọi đi. Tôi bèn xách be ra cửa Tư Môn, vào hàng mì, ai nấy ăn no, rồi qua Tư Giang, đi bộ đến cầu Tảo Thị ở Hoành Đường. Thuê một chiếc thuyền nhỏ đi tới núi, còn chưa tới giờ ngọ. Người phụ thuyền rất thật thà tốt bụng, tôi bảo đi mua gạo về nấu cơm, còn hai chúng tôi cùng lên bờ, trước tiên đến chơi chùa Trung Phong.
Chùa ở phía nam ngôi cổ sát Chi Hình, men đường mà lên, chùa ẩn sâu dưới những tán cây, sơn môn tĩnh lặng, cảnh vắng sự nhàn, thấy hai chúng tôi không áo không giày, cũng chẳng buồn ra tiếp đón. Chúng tôi chẳng phải cốt đến đó, nên cũng không vào sâu. Quay về thuyền, Cơm cũng đã chín. Cơm xong, phu thuyền cầm be đi theo cùng, chỉ dặn đứa con trai ở lại trông thuyền. Từ Hàn Sơn đến Bạch Vân Tịnh Xá ở vườn Cao Nghĩa, hiên vươn ra vách núi cao, dưới đào tạo một ao nhỏ, vây lan can đá. Một khoảnh nước thu, vách núi dây leo, bên tường rêu mọc. Cùng ngồi dưới hiên, chỉ nghe thấy lá rụng lao xao, lặng thinh không dấu chân người qua lại.
Ra khỏi cửa có một đình nhỏ, chúng tôi bảo phu thuyền ngồi đó đợi, rồi theo khe đá đi vào trong, chỗ ấy gọi là “Nhất tuyến thiên”. Theo bậc đá quanh co, lên thẳng tới đỉnh núi, gọi là “Thượng bạch cân”, thấy có cái am đã đổ nát, còn một lầu cao, nhưng chỉ có thể nhìn từ xa mà thôi. Ngồi nghỉ giây lát, rồi đỡ nhau đi xuống. Phu thuyền bảo: “Các ông đăng cao, mà quên không cầm be rượu này.” Hồng Can nói: “Chúng tôi đi chơi đây, là muốn tìm nơi cùng ở ẩn vậy, đâu phải chỉ là chuyện đăng cao?” Phu thuyền nói: “Từ đây đi về phía nam hai, ba dặm, có thôn Thượng Sa, nhiều nhà dân ở, có chỗ đất không, tôi có người bà con bên ngoại là họ Phạm thôn ấy, hay các ông tới đó chơi một chuyến?” Tôi mừng bảo: “Đó là nơi ẩn cư của Từ Sĩ Trai tiên sinh cuối đời Minh vậy. Có khu vườn, nghe nói rất u nhã, mà tôi chưa từng đến chơi đó bao giờ.” Phu thuyền bèn dẫn đi.
Thôn nằm trên lối đi giữa hai khe núi. Vườn tựa vào núi, nhưng không có đá, nhiều cây cổ thụ thế quanh co uốn khúc, đình tạ hiện song, hết sức giản dị. Nhà có rào tre, không hổ là nơi ở của người ẩn sĩ. Trong vườn có đình Tạo Kiệp, cây bồ kết lớn đến hai ôm. Trong số những định viên mà tôi đã từng qua chơi, nơi đây là đầu tiên vậy.
Bên trái vườn có núi, tục gọi là núi Lồng Gà. Đỉnh núi dựng đứng, chống phía trên có khối đá lớn, tựa như Thụy Thạch cổ động ở Hàng Châu, nhưng không được lung linh như thế. Bên cạnh có một sập đá xanh, Hồng Can nằm lên trên bảo: “Chỗ này ngửa trông đỉnh núi, cúi xem viên đình, đã rộng thoáng lại u tĩnh, có thể lấy rượu ra uống được đấy.” Nhân kéo phu thuyền ngồi xuống cùng uống, kẻ ngâm người hát, tùy thích mặc lòng.
Dân địa phương thấy chúng tôi đến tìm đất, ngỡ là thầy địa lý, nói cho biết chỗ nọ chỗ kia có phong thủy tốt. Hồng Can nói: “Chỉ cần hợp ý, bất luận
phong thủy.” Phải chăng lời ấy sau thành ra câu nói gở? Be rượu đã cạn, ai nấy lại hái hoa cúc dại cắm đầy hai bên mái tóc.
Thuyền quay về, thì mặt trời đã sắp lặn. Độ canh một tôi về đến nhà, khách khứa vẫn còn chưa tan. Vân nói riêng với tôi: “Trong số mấy đào hát có cô Lan, đoan trang đáng yêu lắm” Tôi giả truyền lệnh mẹ, gọi Lan vào trong nhà, nắm lấy cổ tay, mà chăm chú nghiêng nhìn, thấy quả nhiên đầy đặn trắng trẻo. Tôi quay sang Vân bảo: “Đẹp thì đẹp rồi, nhưng rốt hiềm danh bất xứng thực.” Vân bảo: “Người béo thì có phúc tướng.” Tôi nói: “Cái họa Mã Ngôi, thì phúc của Ngọc Hoàn ở đâu?” Vân lựa cớ ra nói Lan đi, rồi vào bảo tôi: “Hôm nay chàng lại say khướt rồi phải không?” Tôi bèn đem chuyện đi chơi kể lại lần lượt cho nghe, Vân cũng như thả hồn theo đó hồi lâu vậy.
Xuân năm Quý Mão(Tức năm 1783), tôi theo thầy Tu Trai đến nơi mời dạy ở Duy Dương,(Tức Dương Châu) mới được thấy diện mạo Kim Sơn, Tiêu Sơn. Kim Sơn nên nhìn xa, mà Tiêu Sơn thì nên ngắm gần. Tiếc rằng tôi qua lại nơi ấy mà chưa từng trèo lên ngọn chơi. Qua sông lên phía bắc, đúng như Ngư Dương(Tức Vương Sĩ Trinh (1634-1711), tự Di Thượng, biệt hiệu Ngư Dương Sơn Nhân, nên người ta vẫn gọi là Vương Ngư Dương, nhà văn nổi tiếng
đầu đời Thanh) nói “Dương xanh thành quách ấg Dương Châu” - chỉ một câu mà đã hiện lên sống động vậy!
Bình Sơn Đường cách thành ước độ ba, bốn dặm, đi thăm hết lượt cũng độ tám, chín dặm, tuy toàn là cảnh nhân tạo, nhưng ý tưởng kỳ ảo, điểm xuyết tự nhiên, đến Lãng Uyển, Dao Trì, lầu quỳnh điện ngọc, e cũng không hơn được vậy. Điểm tuyệt diệu là ở chỗ đó là đình vườn của hơn mười nhà hợp
lại thành một, nối nhau tới tận núi, khí thế xuyên suốt. Chỗ khó sắp đặt nhất ở đó là ra khỏi thành tiến vào cảnh, có độ một dặm men sát theo vòng thành ngoài. Phàm, thành quách phải điểm xuyết giữa núi non ở chỗ thoáng rộng, mới có ý cảnh khả dĩ vẽ vào tranh được. Vườn cảnh mà có chỗ như thế, thì thực ngu xuẩn lắm vậy. Thế nhưng xem đó, thì thấy hoặc đình hoặc đài, hoặc tường hoặc đá, hoặc trúc hoặc cây, đều nửa ẩn nửa lộ, khiến khách du chơi không bị chướng mắt, cái ấy chẳng phải được người có sẵn núi khe trong lòng thì nhất định khó mà hạ thủ được vậy.
Hết thành, thì có Hồng Viên là đầu tiên, ngoặt lên phía bắc, có cây cầu đá tên gọi là Hồng Kiều. Chẳng rõ tên vườn là lấy theo tên cầu chăng? Hay là tên cầu lấy theo tên vườn chăng? Chèo thuyền qua một nơi là Trường để xuân liễu, cảnh ấy không điểm xuyết ở chân thành, mà lại sắp đặt ở đây, càng thấy bố trí tuyệt khéo. Lại ngoặt sang phía tây, thấy đắp đất dựng miếu, gọi tên là Tiểu Kim Sơn, có cảnh ấy ngăn cách, càng thấy khí thế liền sát, cũng không phải là bố trí tầm thường. Nghe nói nơi này vốn là đất cát, nhiều lần xây dựng không được, sau phải dùng cọc gỗ đóng xuống, rồi đắp tiếp đất lên, tổn phí mấy vạn lạng mới nên vậy. Nếu chẳng phải là nhà thương gia, thì đâu có thể làm nổi.
Đi qua đó, thì có Thắng Khái, hàng năm người ta đều đứng trên đó xem đua thuyền. Mặt sống khá rộng, có cầu Liên Hoa vươn từ nam sang bắc, cửa cầu thông tám mặt, trên cầu dựng năm đình, người Dương Châu gọi đó là “bốn mâm một nồi chỗ”. Đó chính là trí cùng sức kiệt mà làm ra, không có gì là đáng kể. Phía nam cầu có chùa Liên Tâm, trong chùa vụt lên một tòa tháp Lạt Ma màu trắng, chóp vàng chuỗi ngọc, cao đến tận mây. Góc điện tường đỏ, tùng bách chen nhau, thi thoảng lại nghe tiếng chuông khánh, đó là điểm mà những vườn cảnh thiên hạ chưa đâu có vậy. Qua cầu thấy ba tầng gác cao, cột vẽ mái vươn, ngũ sắc sặc sỡ, xây bằng đá Thái Hồ, vây lan can đá trắng, đặt tên là Ngũ Vân Đa Xứ, như một đại kết cấu trong bài văn vậy. Qua đó đến cảnh Thục Chương Triều Dương, bình thường không có gì lạ, chỉ là cảnh phụ thêm. Gần tới dưới núi, mặt sông dần thu lại, người ta đắp đất trồng tre trồng cây, cho sông thành bốn, năm khúc quanh, tựa như chỗ sơn cùng thủy tận, rồi bỗng nhiên lại vụt mở rộng rãi, rừng Vạn Tùng của Bình Sơn đã hiện ra trước mặt vậy.
Ba chữ Bình Sơn Đường là của Âu Dương Văn Trung(Tức Âu Dương Tu, nhà văn nổi tiếng đời Tống) viết. Đệ Ngũ Tuyền ở Hoài Đông mà người ta vẫn nói, suối thật thì ở trong động của hòn giả sơn, nhưng chỉ như một miệng giếng mà thôi, vị nước như nước mưa. Còn giếng có lan can sắt sáu lỗ ở trong Hà Đình, thì là suối giả, nước không uống được. Vườn Cửu Phong nằm ở một nơi u tĩnh ở cửa Nam, lại có một thú vị tự nhiên khác, tôi cho là đứng đầu trong các vườn. Còn cảnh Khang Sơn thì tôi chưa tới, chẳng biết như thế nào.
ẳ
Đó là nói đại lược như vậy, những chỗ công phu, tinh xảo, chẳng thể kể hết được. Đại thể nên nhìn nhận với con mắt như khi nhìn một mỹ nhân trang điểm lộng lẫy, chứ không thể nhìn như người đẹp khi còn giặt lụa bên suối vậy. Tôi vừa vặn kính gặp dịp thịnh điển xa giá tuần du phương nam, các phường thợ khắp nơi đều ra sức làm xong, để điểm tô tiếp giá, do vậy được thỏa sức xem đại cảnh quan, cũng là chuyện hiếm gặp trong đời người vậy.
Xuân năm Giáp Thìn,(Tức năm 1784) tôi theo hầu cha dưới trướng Ngô Giang minh phủ, cùng làm việc có Chương Tần Giang người Sơn Âm, Chương Ánh Mục người Vũ Lâm, Cố Ái Tuyền người Thiều Khê, phụng mệnh lo việc bố trí hành cung ở Nam Đẩu Vu, nên lại được chiêm ngưỡng long nhan lần thứ hai. Một hôm, trời đã về chiều, chợt muốn về nhà. Khi ấy đang có sẵn thuyền nhẹ để sai việc, thuyền có hai cột buồm, hai tay chèo, lướt nhanh như bay trên Thái Hồ, tục đất Ngô gọi là Xuất thủy bí đầu (ngựa dưới nước), chớp mắt đã đến cầu Ngô Môn. Dẫu có cưỡi hạc bay trên không cũng chẳng sảng khoái được như vậy. Tôi về tới nhà, thì cơm tối vẫn còn chưa chín.
Quê tôi xưa giờ vốn chuộng phồn hoa, đến nay chuyện tranh kỳ đoạt thắng so với trước kia lại còn xa xỉ hơn nữa. Đèn màu chói mắt, đàn hát inh tai, những cái mà cổ nhân nói như “cột vẽ gạch chạm”, “màn thêu rèm châu”, “lan can ngọc”,“tàn lọng gấm”, cũng chẳng thể hơn được. Tôi bị bạn bè kẻ kéo người lôi, để tới giúp cắm hoa kết lụa, mỗi khi rảnh rỗi là lại gọi bạn gọi bè, sướngẩm cuồng ca, thỏa tình du lãm, thiếu niên hào hứng, chẳng biết mệt nhọc là gì. Nếu sinh ra gặp thời thịnh thế, nhưng lại ở nơi vắng vẻ, thì làm sao được du lãm thưởng thức như vậy?
Năm ấy, Hà minh phủ về việc bị hặc, cha tôi bèn theo lời mời đến làm dưới trướng Vương minh phủ ở Hải Ninh. Ở Gia Hưng có ông Lưu Huệ Giai, vốn tín Phật ăn chay trường, đến bái kiến cho tôi. Nhà ông Lưu ở bên cạnh lầu Yên Vũ, có một căn gác dụng bên sông, gọi tên là Thủy Nguyệt Cư, chính là nơi ông ấy tụng kinh, yên tĩnh sạch sẽ như nơi tăng xá. Lầu Yên Vũ ở trong Kinh Hồ, bốn xung quanh bờ đều là liễu biếc, chỉ tiếc là không nhiều trúc. Từ ban công có thể trông xa được, thấy thuyền câu rải rác, sóng nhẹ mênh mang, rất hợp lên ngắm những đêm trăng. Nhà sư sắp cho một mâm cơm chay ngon lắm.
Đến Hải Ninh, cùng làm việc với Sử Tâm Nguyệt người Bạch Môn, Du Ngọ Kiều người Sơn Âm. Tâm Nguyệt có một con trai tên là Chúc Hành, tính tình thanh tĩnh kín đáo, văn chương nho nhã, rất tâm đầu ý hợp với tôi. Đó chính là người bạn tri tâm thứ hai trong đời tôi vậy. Chỉ tiếc rằng gặp nhau bèo nước, tụ hội chẳng được bao ngày.
Đi chơi vườn An Lan của nhà họ Trần, vườn rộng tới trăm mẫu, mấy lần lầu gác, xen lối hành lang. Một cái ao rất rộng, có cầu quanh có sáu khúc. Đá đầy bìm sắn, che được hết dấu vết đẽo tạo, cổ thụ ngàn cây, đều có thể
vươn tận trời cao. Chim kêu hoa rụng, như vào chốn non sâu. Nét nhân công mà hệt như thiên nhiên ấy, trong số những viên đình giả sơn dựng nơi đồng bằng mà tôi từng xem qua, thì chỗ này là đệ nhất. Tôi từng bày tiệc ở trong lầu Quế Hoa, các món ăn đều bị hương hoa thơm át hết cả đi, chỉ có mùi tương gừng là bất biến. Gừng quế có tính càng già càng cay, người ta vẫn lấy ra để tỉ dụ lòng trung của kẻ làm tôi, quả là không ngoa.
Ra khỏi cửa Nam là biển lớn, một ngày hai bạn triều dâng, như con đê bạc dài muôn trượng, vươn khỏi mặt biển mà đi. Thuyền có cái đón sóng mà đi, sóng đến, phải quay ngược mái chèo lại, ở đầu thuyền lắp một cái mộc chiêu, hình trạng tựa thanh đại đao chuôi dài. Bẻ ngoặt cái mộc chiêu, thì sáng lập tức rẽ phá ra, thuyền sẽ theo mộc chiêu mà tiến vào trong con sóng, khoảnh khắc mới lại nổi lên, lại ngoặt đầu thuyền theo sóng mà đi, chớp mắt có thể đi được trăm dặm. Trên bờ biển có viện tháp, tối Trung thu, tôi từng theo cha đến xem sóng ở đó. Men theo phía đông bờ đi ước ba mươi dặm, đến một nơi gọi là Tiêm Sơn, một ngọn núi cao vọt lên giữa biển. Trên đỉnh núi có gác, biển ngạch đề bốn chữ Hải khoát thiên không (Biển rộng trời cao). Đứng đó đưa tầm mắt nhìn ra xa không biết đâu là bến bờ, chỉ thấy sóng dâng liền trời mà thôi.
Năm hăm nhăm tuổi, tôi theo lời mời, đến làm ở chỗ Khắc minh phủ ở Tích Khê, Huy Châu. Từ Vũ Lâm xuống Hạ Sơn thuyền, qua núi Phú Xuân, lên đài câu cá của Tử Lăng(Tử Lăng: tức Nghiêm Quang, tự Tử Lăng, người đời Đông Hán, là bạn thân của Quang Vũ đế. Vì không muốn làm quan, nên ẩn
cư ở núi Phú Xuân. Đời sau truyền rằng ở đó có đài câu cá của ông). Đài ở lưng núi, một ngọn cao hẳn lên, cách mặt nước hơn mười trượng. Há vào đời
Hán, mực nước lại ngang với mỏm núi ấy ư? Đêm trăng, đậu thuyền ở Giới Khẩu, có nha tuần kiểm ở đó. “Non cao trăng nhỏ, nước xối đá nhô", (Nguyên văn Sơn cao nguyệt tiểu, thủy lạc thạch xuất - là câu trong Hậu Xích Bích
phủ của Tô Đông Pha) thật tựa hệt như cảnh ấy. Núi Hoàng Sơn thì chỉ trông thấy chân, tiếc chưa được xem diện mục.
Thành Tích Khê ở giữa muôn trùng núi non, chỉ là một tiểu ấp nhỏ như hòn đạn, dân tình rất thuần hậu. Gần thành có núi Thạch Kính, theo thế núi vòng cung quanh co uốn khúc tới gần một dặm, có thác treo bên vách, nên cây lá mươn mướt như muốn nhỏ giọt xanh. Trèo lên cao dần, tới lưng chừng núi, có một tòa phương đình đá, bốn mặt đều là vách núi dựng đứng. Vách núi bên trái đình phẳng như một tấm bình phong, sắc xanh bóng láng, có thể soi gương được. Tục truyền rằng gương đá ấy có thể soi thấy được kiếp trước, Hoàng Sào(Hoàng Sào (820-884), người Tào Châu (nay thuộc Sơn Đông) - Thủ lĩnh khởi nghĩa nông dân cuối đời Đường, về sau thất bại) tới đó, soi vào thấy là hình một con vượn, bèn phóng hỏa đốt, vì vậy mà sau soi không còn thấy hiện nữa.
Cách thành mười dặm, có Hỏa Vân động thiên, vân đá cuộn xoắn, lồi lõm lởm chởm, như bút ý của Hoàng Hạc Sơn Tiều(Hoàng Hạc Sơn Tiều: tức Vương Mông - họa gia nổi tiếng đời Nguyên, người Hồ Châu, Triết Giang. Ông từng
ẩn cư ở núi Hoàng Hạc, Nhân Hòa, nên có biệt hiệu là Hoàng Hạc Sơn Tiều), nhưng tạp loạn không có bố cục, đá trong động thảy đều có sắc đỏ sẫm. Bên cạnh có một cái am rất u tĩnh, nhà buôn muối Trình Hư Cốc từng mời tôi cùng đi chơi, và thiết yến ở đó. Trong bữa tiệc có món bánh bao nhân thịt, một chú tiểu đứng ở bên cứ hau háu nhìn, chúng tôi bèn đưa tặng bốn cái bánh. Đến khi ra về lại lấy hai đồng bạc nước ngoài cảm tạ, nhưng sơn tăng không biết thứ bạc ấy, từ chối không nhận. Chúng tôi bảo cho biết rằng, một đồng bạc ấy có thể đổi ra hơn bảy trăm tiền, nhưng sự lấy cớ rằng gần đây không có chỗ nào đổi cả, nên vẫn không nhận. Chúng tôi bèn bảo nhau góp tiền xu đồng lại được sáu trăm đồng đưa cho, bấy giờ sự mới vui vẻ cảm tạ.
Ngày khác, tôi lại mời mấy người cùng nhau xách bầu rượu lại tới đó chơi. Lão tăng dặn dò bảo: “Bữa trước, tiểu đồ đệ của tôi không biết ăn cái gì mà bị đi tả, hôm nay các ông đừng cho nó cái gì nữa nhé.” Mới hay,
bụng đã quen ăn rau lê rau hoắc, thì không chịu nổi vị thịt, đáng than thay! Tôi bảo những người đi cùng rằng: “Đã làm hòa thượng, tất nên những chỗ xa xôi vắng vẻ thế này, trọn đời không thấy không nghe gì cả, nhẽ mới có thể tu chân dưỡng tĩnh. Chứ như núi Hổ Khâu ở quê ta, suốt cả ngày mắt trông thấy bọn yêu đồng diễm kĩ, tai nghe thấy tiếng đàn sáo sênh ca, mũi ngửi thấy mùi giai hào mỹ tửu, thì làm sao được thân như khô mộc, lòng tựa tro tàn đây!”
Lại cách ngoài thành ba mươi dặm, có nơi gọi là Nhân Lý, có hội hoa quả, mười hai năm mới tổ chức một lần, mỗi khi tổ chức, ai nấy lại đem hoa trồng trong chậu ra thi đua với nhau. Khi tôi ở Tích Khê, thì vừa vặn gặp kỳ mở hội, tôi thích lắm cũng muốn đi, chỉ khổ nỗi không có ngựa kiệu gì. Tôi bèn bảo chặt tre làm đòn khiêng, buộc ghế vào làm kiệu, rồi thuê người khiêng đi. Cùng đi chơi với tôi chỉ có viên đồng sự là Hứa Sách Đình, trông thấy chúng tôi đi kiệu như thế chẳng ai không lấy làm buồn cười. Đến nơi, thấy có một ngôi miếu, chẳng biết là thờ vị thần nào. Trên bãi trống trước miếu, người ta dựng một cái sân khấu cao, cột vuông kèo vẽ, cực kỳ sặc sỡ. Đến gần xem, thì ra là dán giấy vẽ màu, lấy sơn dầu quét lên. Chợt nghe tiếng thanh la tiến lại, có bốn người khiêng một đội nến, to như cây cột, tám người khiêng một Con lợn, to như con trâu mộng, hóa ra người ta đã cùng nhau nuôi chung suốt mười hai năm, giờ mới mổ thịt để tế thần. Sách Đình cười bảo: “Con lợn này cố nhiên thọ lâu, mà ông thần răng cũng sắc thật. Nếu tôi mà là thần, thì chẳng thể ăn được món đồ cúng này!” Tôi bảo: “Như thế đủ thấy cái lòng thành của họ cũng ngu muội thật.” Vào miếu, hiên sân, hành lang ngoài điện bày đầy những thứ hoa quả, bồn cảnh, nhưng chẳng hề cắt cành tỉa lá gì cả, tất thảy chỉ lấy già nua cổ quái làm đẹp, quá nửa là trồng Hoàng Sơn tùng. Rồi đó, mở màn diễn kịch, người xem kéo nhau tới như sóng cồn, tôi cùng Sách Đình bên tránh đi. Chưa đầy hai năm, thì tôi với đồng sự không hợp ý nhau, bèn phất áo về quê.
Từ sau khi đi Tích Khê về, tôi trong chốn quan trường ồn ã, chỉ thấy một bộ dạng ti tiện không vào mắt chút nào, nhân đó đổi nghiệp nho sang nghề buôn bán. Tôi có người chú rể là Viên Vạn Cửu, làm nghề nấu rượu ở Tiên Nhân Đường, Bàn Khê, tôi bèn cùng Thị Tâm Canh góp vốn phụ giúp cùng chung việc làm ăn. Rượu nhà họ Viên vốn bán qua đường biển, chưa được
một năm, gặp khi có loạn Lâm Sảng Văn(Lâm Sàng Văn: người Đài Loan đời Thanh, từng phát động cuộc khởi nghĩa vào năm Càn Long thứ 51, về sau bị trấn áp)
ở Đài Loan, đường biển bị trở ngại, hàng tồn vốn đọng, không biết làm sao được, lại phải quay về nghiệp cũ. Ở Giang Bắc bốn năm, chẳng có cuộc du lãm khoái ý nào đáng để ghi lại.
Kịp tới khi đến ở lầu Tiêu Sảng, đang phải làm thần tiên giữa chốn nhân gian,(Ý nói rảnh rỗi không việc) thì có người chồng đứa em gái họ là Từ Tú Phong từ Việt Đông về, thấy tôi nhàn cư, khảng khái bảo: “Như túc hạ bây giờ đợi sương mà nấu, cày bút kiếm ăn, rốt chẳng phải là kế lâu dài, hay là cùng tôi đi Lĩnh Nam làm ăn? Tất sẽ chẳng phải chỉ kiếm được chút lợi cỏn con đâu.” Vân cũng khuyên tôi rằng: “Nhân khi bây giờ cha mẹ còn khỏe, chàng cũng đang tráng niên, so với việc lo củi tính gạo mà lấy làm vui, chi bằng vất vả một phen mà được an nhàn mãi mãi.” Tôi bèn bàn bạc với các bạn bè cùng giao du, vay mỗi nơi một ít góp lấy chút vốn liếng. Vân cũng tự chuẩn bị một ít đồ thêu, cùng những thứ như rượu Tô, cua muối mà Lĩnh Nam không có. Tôi bẩm cha mẹ hay, rồi đến ngày mồng mười tháng Mười, cùng Tú Phong từ Đông Bối xuống thuyền ra cửa Vu Hồ.
Lần đầu đi dọc Trường Giang, trong lòng muôn phần thích thú. Mỗi tối sau khi đậu thuyền, tất lên đầu thuyền uống chút rượu. Thấy người đánh cá, giăng tấm lưới không đầy ba thước, mắt lưới lớn ước chừng bốn tấc, kẹp đai sắt bốn góc, dường như để cho dễ chìm. Tôi cười bảo: “Thánh nhân tuy dạy rằng lưới không dùng loại mắt dày,(Điển cố xuất xứ theo sách Mạnh tử - Lương Huệ vương thượng) nhưng lưới hẹp mà mắt lớn thế kia, làm sao bắt được con gì?” Tú Phong nói: “Loại lưới này chuyên dùng để bắt cá vền.” Chỉ thấy họ buộc vào lưới một sợi thừng, lúc lúc lại kéo lên hạ xuống, tựa như thăm xem cá đã mắc lưới hay chưa. Không bao lâu, bỗng kéo vội lên khỏi mặt nước, đã thấy có con cá Vền lớn mắc vào mắt lưới rồi. Tôi bùi ngùi bảo: “Mới biết, kiến thức của một mình mình, thì chưa thể hiểu hết những điều ảo diệu trên đời vậy.”
Một hôm, thấy giữa dòng sông một ngọn núi mọc vọt lên, trơ trọi bốn bên không hề tựa vào đâu. Tú Phong nói: “Đó là Tiểu Cô Sơn đấy!” Giữa rừng
lá đỏ, điện gác thấp cao, thuyền thuận gió lướt qua, tiếc rằng chưa được lên chơi một bận. TUẤN
Đến Đằng Vương các, thấy tựa như đem gác Tôn Kinh trong nhà Phủ học ở Tô Châu quê tôi dời ra ngoài bến cảng ngoài cửa Tư Môn vậy, những điều nói trong bài tựa của Vương Tử An(Vương Tử An: tức Vương Bột, tự Tử An - nhà thơ đời Đường, nổi tiếng với bài Đằng Vương các tự) thật không đáng tin vậy. Bèn đổi sang ngồi một cái thuyền đầu cao đuôi vểnh ở dưới gác, gọi là thuyền “tam bản tử, đi từ Cống Quan đi đến Nam An thì lên bờ. Đúng bữa ấy là sinh nhật của tôi tròn ba mươi tuổi, Tú Phong bèn sửa soạn món mì chúc mừng.
Hơn ngày nữa thì đến Đại Dưu lĩnh, trên đỉnh núi có một ngôi đình, biển đề bốn chữ Cử đầu nhật cận (Ngẩng đầu gần ngay mặt trời), để nói rằng cao vậy. Núi chia làm đôi, hai bên là vách cao dựng đứng, ở giữa có đường đi, như một cái ngõ đá. Chỗ cửa vào dựng hai tấm bia, một tấm viết mấy chữ Cấp lưu dũng thoái (Dũng cảm lùi lại khi đang tiến nhanh), một tấm viết mấy chữ Đắc ý bất khả tái coãng (Chuyện đắc ý chẳng thể lại đến lần nữa). Trên đỉnh núi có đền thờ Mai tướng quân, không biết là người đời nào. Người ta vẫn nói “Lĩnh thương mại hoa” (hoa mai trên Đại Dữu lĩnh), nhưng đến một cây mai cũng chẳng thấy, có lẽ là lấy tên Mai tướng quân mà gọi là Mai Lĩnh chăng? Cây mai trồng trong chậu mà tôi mang theo đi làm quà, đến nay đã gần sang tháng Chạp, nên hoa đã rụng mà lá cũng vàng hết cả rồi.
Qua khỏi Đại Dữu lĩnh, bèn thấy non sông phong vật khác hẳn. Phía tây lĩnh có một ngọn núi, trong động có nhu đá lung linh, tôi đã quên mất tên. Phu xe nói: “Trong động có giường tiên.” Nhưng đang khi vội vã đi qua, buồn rằng chưa được lên chơi đó.
Đến Nam Hùng, thuê một chiếc thuyền rồng cũ, qua trấn Phật Sơn, thấy trên bờ tường nhà dân để nhiều chậu hoa, lá như lá đông thanh, hoa như hoa mẫu đơn, có ba loại hoa màu đỏ sẫm, màu phấn bạch, và màu phấn hồng, chính là hoa sơn trà vậy.
Rằm tháng Chạp mới tới tỉnh thành, tới ngụ phía trong cửa Tĩnh Hải, thuê căn lầu ba gian ở mặt phố của nhà họ ở Vương. Hàng hóa của Tú Phong
đều đem đổ cả cho những nhà buôn ở đấy, tôi cũng theo đó khai đơn, mời khách. Rất nhiều người muốn mua đồ làm quà, nối nhau đến mua hàng, chưa đầy chục hôm, hàng hóa của tôi cũng bán hết. Hôm Trừ tịch, tiếng muỗi kêu như sấm. Sáng mồng một Tết, chúc mừng năm mới, có người lại mặc áo bông ngoài áo sa. Chẳng phải chỉ có khí hậu khác biệt, mà ngay cả con người đó, dẫu ngũ quan diện mạo vẫn vậy, nhưng thần tình thì khác hẳn.
Qua rằm tháng Giêng, có ba người bạn đồng hương làm trong dinh phủ ở đó đến kéo tôi đi chơi sông xem kĩ nữ, đó gọi là “Đả thủy vi”, còn kĩ nữ thì gọi là “Lão cử. Thế là cùng kéo nhau ra ngoài cửa Tĩnh Hải, xuống một chiếc thuyền nhỏ, hình trạng như nửa cái trứng gà có lắp thêm mui. Trước tiên ra ngoài đảo Sa Diện, thuyền kí nữ gọi là “Hoa đình”, đều đối đầu nhau, sắp thành hàng hai bên, ở giữa để lối đi cho thuyền nhỏ qua lại được. Mỗi bang ước có một, hai chục thuyền, để một cây gỗ ngang buộc chặt cố định lại với nhau, để tránh gió bể. Giữa hai thuyền lại đóng một cọc gỗ, lấy dây mây đánh thành vòng đai neo lại, để tiện lên xuống theo thủy triều. Tú bà ở đó gọi là “bà chải đầu”, trên đầu dùng một cái giá bằng sợi bạc, cao độ chừng bốn tấc, giữa để trống mà vấn tóc ra phía ngoài, lấy cành trâm dài cài một bông hoa lên búi tóc, mình khoác áo ngắn màu xanh đen, mặc váy dài cũng màu xanh đen, vạt váy chùng tới mu bàn chân, bên lưng thắt dải khăn, hoặc đỏ hoặc xanh, chân không xỏ dép, ăn vận tựa như đào nương trong gánh hát vậy.
Lên trên thuyền, “bà chải đầu” lập tức cúi mình cười nghênh đón. Vén rèm vào khoang, bên cạnh xếp ghế ngồi, ở giữa đặt một bếp lò, có một cửa thông ra đuôi thuyền. Bà chủ gọi “có khách”, lập tức nghe tiếng guốc lộc cộc chạy ra, Có cô bện tóc, có cô vấn đầu, phấn trát như tường vôi, son tô như lửa lựu, hoặc áo đỏ váy xanh, hoặc áo xanh váy đỏ. Có nàng thì đi tất ngắn mà xỏ hài cánh bướm thêu hoa, có nàng thì để chân trần mà đeo vòng bằng bạc. Người thì ngồi trên | bếp lò, người thì đứng tựa cửa, hai mắt lúng liếng, mà không nói câu nào.
Tôi quay sang Tú Phong bảo: “Thế này là làm sao?” Tú Phong bảo: “Nhìn ưng ai rồi, vẫy lại thì họ mới đến bên.” Tôi thử vẫy một cô, quả nhiên lập tức nét mặt vui mừng đi lại trước mặt, lấy trầu cau trong tay áo ra mời. Tôi lấy một miếng cho vào miệng nhai mạnh, thấy chát đắng không thể chịu
nổi, vội nhổ ngay ra, lấy giấy lau miệng, nước trầu nhổ ra đỏ như máu. Cả thuyền cùng cười lớn.
Lại đến chơi Quân Công Xưởng, kĩ nữ ở đó cũngăn vận tương tự như vậy, duy khác là lớn nhỏ đều biết chơi đàn tỳ bà. Cùng trò chuyện, thường thấy đáp rằng “chi”, “Chi” tức là “gi” vậy. Tôi bảo: “Có câu còn trẻ chớ tới Quảng Đông, vì tới đó tất phải tiêu hồn. Nói năng trang điểm thế này, hỏi ai người chẳng động tâm?” Một người bạn nói: “Nghe nói kĩ nữ bang Triều Châu ăn vận như tiên, hôm nào qua chơi một chuyến.”
Đến bang Triều Châu, cũng thấy sắp thuyền như ở Sa Diện. Có tú bà nổi tiếng tên là Tố Nương, ăn vận như đào nương diễn kịch Hoa cổ.(Kịch Hoa cổ (Hoa cổ hỷ): là một loại hình hí kịch phổ biến ở các tỉnh miền nam Trung Quốc)
Kĩ nữ trong bang đều mặc áo cổ cao, trên cổ nhất loạt đeo dây chuyền, tóc phía trước trán cắt để chấm mi, tóc phía sau để chúng tới vai, ở giữa búi lại thành một búi như tóc bện. Người bó chân thì mặc váy, người không bó chân thì đi tất ngắn, cũng xỏ hài bướm, vạt váy buông chùng, nói năng có thể hiện nhận được. Nhưng tôi vẫn hiềm là ăn mặc khác lạ, chẳng thấy hứng thú gì.
Tú Phong nói: “Bến đối diện của Tĩnh Hải, có bang Dương Châu, đều là trang phục đất Ngô, ông đến chỗ ấy tất có người hợp ý đấy.” Một người bạn lại bảo: “Tiếng là bang Dương Châu, nhưng chỉ có một tú bà gọi là Thiệu quả phụ, dắt theo một con dâu gọi là Đại Cô, là vốn từ Dương Châu đến, còn lại đều là người Hồ Quảng, Giang Tây thôi.” Nhân lại đến chơi bang Dương Châu. Hai hàng thuyền sắp đối nhau, chỉ có hơn chục cái, những người ở đó đều tóc mây mươn mướt, phấn sáp nhạt tô, váy dài tay rộng, nói năng rõ ràng. Tú bà mà người ta vẫn gọi là Thiệu quả phụ, ân cần đón tiếp. Một người bạn khác lại gọi một thuyền uống rượu, thuyền lớn gọi là “Hằng lư, thuyền nhỏ gọi là “Sa cô đình”, làm chủ mời, bảo tôi chọn kĩ nữ.
Tôi chọn một cô đào non, dáng người vẻ mặt có nét giống như Vân nương - vợ tôi, nhưng bàn chân rất nhỏ, tên là Hỉ Nhi. Tú Phong gọi một cô đào tên là Thúy Cô. Những người còn lại ai nấy đều có đào quen cũ. Thuyền thả neo giữa dòng sông, mọi người cùng mặc tình yến ẩm. Đến độ canh một, tôi e rằng không uống nổi nữa, nhất quyết đòi về chỗ trọ ngơi nghỉ,
nhưng công thành đã đóng từ lâu rồi. Là vì thành ở ven biển nên cứ lặn mặt giời là đóng cổng ngay, mà tôi không biết. Kịp đến khi tàn tiệc, có người thì nằm hút nha phiến, có người thì ôm đào mà đùa bỡn. Ai nấy được người ở trên thuyền đưa chăn gối đến, trải nệm nằm nối nhau nghỉ đêm ở trên thuyền.
Tôi hỏi nhỏ Hỉ Nhi: “Thuyền của nàng có thể nằm nghỉ được không?” Đáp: “Có lều có thể nghỉ được, nhưng không biết có khách dùng chưa.” (Lều, là cái gác trên nóc thuyền) Tôi nói: “Cứ thử qua xem thế nào.” Bèn gọi một thuyền nhỏ đưa về thuyền họ Thiệu, chỉ thấy cả bang đèn đuốc thắp đối nhau như hành lang dài, vừa vặn lều không có khách nào dùng cả. Tú bà ra đón, cười bảo: “Tôi biết hôm nay có quý khách đến, cho nên giữ lều lại để đợi khoản đãi quý khách đấy.” Tôi cười bảo: “Bà đúng là tiên dưới lá sen vậy.”
Bên có một người ở cầm nến dẫn đi, theo lối thang từ sau thuyền trèo lên, lều hệt như cái chòi con, bên cạnh kê một cái phản dài, cùng bàn ghế đủ cả. Lại vén rèm bước vào sâu hơn, thì đến khoang đầu thuyền, cũng kê giường bên cạnh, ở giữa có cửa sổ vuông lắp kính pha lê, chẳng cần đèn mà ánh sáng đầy buồng, ấy là nhờ có ánh đèn của thuyền bên cạnh rọi qua kính vậy. Chăn rèm gương soi hộp phấn, đều rất mực hoa mỹ. Hỉ Nhi bảo: “Ở trên nóc có thể ngắm trăng được.” Chúng tôi liền mở cánh cửa sổ ở trên chỗ cửa thang lên, rồi bò ra ngoài, thì ra chỗ nóc phía đuôi thuyền. Ba mặt đều có lan can thấp, một vừng trắng sáng, nước rộng trời cao. Dọc ngang, lác đác như lá rụng nổi trên mặt nước là những thuyền rượu; Lập lòe tỏa ánh như sao sáng khắp bầu trời, là đèn trên thuyền rượu; Lại có những con thuyền nhỏ qua lại như thoi đưa, tiếng đàn hát sênh ca hòa vào trong tiếng sóng triều sôi sục, thực khiến tâm tình người ta phải lay động.
Tôi bảo: “Câu tuổi trẻ chớ tới Quảng Đông, là ở chỗ này đây!” Chỉ tiếc Vân Nương vợ tôi không thể cùng đi theo đến chơi đây được. Ngoảnh lại nhìn Hỉ Nhi, dưới ánh trăng trông phảng phất thấy hệt như Vân, tôi nhân ôm lấy rồi xuống khỏi nóc thuyền, tắt đèn đi nằm. Trời sắp sáng, bọn Tú Phong đã ồn ào kéo đến. Tôi khoác áo dậy đón, bọn họ cùng đua nhau trách cứ tôi tối qua trốn đi. Tôi bảo: “Chẳng qua tôi sợ các ông sẽ vén màn tung chăn của tôi, chứ không có gì khác!” Bèn cùng kéo nhau về chỗ trọ.
Qua mấy hôm, tôi lại cùng Tú Phong đến chơi chùa Hải Châu. Chùa ở giữa sông, có tường vây như thành. Bốn xung quanh, cách mặt sông độ năm thước, có lỗ châu mai, đặt pháo lớn để phòng cướp biển, triều lên triều xuống, theo nước nổi chìm. Bỗng dưng của pháo lại lúc cao lúc thấp như thế, đúng là vật lý chẳng thể nào mà lường hết được vậy. Mười ba phố Tây(Thập tam Dương hàng, cũng gọi Quảng Châu thập tam hàng, được lập ra thời Khang Hy, là khu vực được nhà Thanh đặc biệt lập ra cho phép người Tây dương kinh
doanh buôn bán ở Quảng Châu) ở phía tây của U Lan, được xây dựng hệt như trong tranh châu Âu. Phía bến đối diện có nơi gọi là Hoa địa, cây cối hoa lá rất rậm rạp tốt tươi, là chỗ bán hoa của Quảng Châu. Tôi vẫn tự phụ là chẳng thứ hoa gì không biết, nhưng tới đó mười phần cũng chỉ biết được sáu, bảy. Hỏi đến tên hoa, thì có loại trong Quân phương phổ còn chưa có ghi chép, hoặc do tên địa phương gọi khác đi chăng?
Chùa Hải Tràng quy mô cực lớn. Trong sơn môn có trồng một cây đa,lớn đến hơn mười sải tay, tán xòe rộng như cái lọng, mùa thu, mùa đông cũng không rụng lá. Trong chùa, cột hiên, cửa sổ, lan can đều làm bằng gỗ thiết lê. Có cây bồ đề, lá tựa như lá hồng, ngâm nước cho tan phần thịt lá đi,
gân lá bên trong mảnh như cánh ve, có thể bồi giấy làm cuốn sách nhỏ mà viết kinh Phật.
Trên đường về, chúng tôi ghé thăm Hỉ Nhi ở Hoa đình. Vừa vặn gặp khi hai đào Thúy, Hi đều không có khách. Uống trà xong chúng tôi định đi thì hai nàng cùng mấy phen giữ lại. Tôi vốn có ý muốn được lên lầu, nhưng nàng dâu họ Thiệu là Đại Cô đã có tửu khách trên đó rồi, bèn bảo với bà chủ Thiệu rằng: “Nếu như có thể đưa theo hai nàng ấy về chỗ chúng tôi, cùng trò chuyện một bữa thì cũng không hề gì.” Bà Thiệu bảo được, Tú Phong bèn về trước, dặn dò tòng nhân sửa soạn tiệc rượu. Tôi dẫn Thúy, Hỉ cùng về chỗ trọ.
Đang khi nói cười, thì có Vương Mậu Lão từ trong dinh quận không hẹn mà tới, bèn kéo lại cùng ngồi uống. Rượu đang mềm môi, bỗng nghe dưới lầu có tiếng người huyên náo, tựa như có ý muốn lên lầu, hóa ra là đứa cháu của ông chủ nhà vốn là đứa vô lại, biết tôi mời kĩ nữ về, cho nên kéo người tới định bày mưu gian trá. Tú Phong oán trách bảo: “Chuyện này đều do Tam Bạch nhất thời cao hứng, không dưng tôi cũng nghe theo như thế.” Tôi bảo: “Việc đã đến nước này, nên mau nghĩ kế lui binh, chưa phải
lúc đấu khẩu với nhau vậy.” Mậu Lão nói: “Để tôi xuống trước thuyết phục bọn chúng.”
Tôi lập tức gọi người ở bảo mau đi thuê lấy hai cỗ kiệu, để trước tiên cho hai kĩ nữ thoát thân đã, rồi sẽ tính kế ra khỏi thành. Nghe dưới lầu Mậu Lão thuyết phục mà bọn chúng không đi, cũng không lên lầu. Hai cỗ kiệu đã chuẩn bị đâu đấy, người ở của tôi chân tay nhanh nhẹn, tôi bèn bảo hắn đi trước mở đường, Tú Phong đỡ Thúy Cô đi kế theo sau, còn tôi đỡ Hỉ Nhi đi cuối cùng, hò nhau kéo xuống. Tú Phong và Thúy Cổ nhờ có đứa ở giúp sức đã ra được khỏi cửa. Hỉ Nhi bị một tay cường bạo túm được, tôi vội tung chân đá một cước trúng tay nó, khiến phải buông tay ra cho Hỉ Nhi thoát được, tôi cũng thừa thể thoát thân chạy ra. Đứa người ở của tôi vẫn giữ ở cửa, để phòng bọn chúng đuổi theo cướp người. Tôi vội hỏi: “Có thấy Hỉ Nhi không?” Người ở nói: “Thúy Cô đã lên kiệu đi rồi, Hỉ nương thì chỉ thấy đã ra khỏi, nhưng chưa thấy lên kiệu.” Tôi vội vàng châm đuốc soi, thấy cái kiệu không vẫn ở bên đường, vội vàng đuổi theo tới cửa Tĩnh Hải, trông thấy Tú Phong bám bên kiệu Thúy Cô mà đứng, tôi lại hỏi, thì đáp rằng: “Có nhẽ đáng phải chạy về phía đông, lại chạy về phía tây chăng?” Tôi vội vàng quay lại, qua chỗ trọ hơn chục nhà, nghe thấy trong bóng tối có người gọi mình, soi đuốc lại, thì hóa ra là Hỉ Nhi, bèn cho lên kiệu khiêng đi.
Tú Phong cũng chạy tới nơi, bảo: “Cửa U Lan có chỗ cửa cống, có thể ra được, tôi đã nhờ người hối lộ để họ mở khóa cho, Thúy Cô đã đi rồi, Hỉ Nhi cũng nên nhanh đi.” Tôi nói: “Anh mau về chỗ trọ tìm kế lui binh, Thúy, Hỉ cứ để tôi lo.” Đến bên cửa cống, quả nhiên đã thấy mở khóa, Thúy đã đến đó trước rồi. Tôi bên tay trái xốc nách Hỉ, tay phải đỡ tay Thúy, khom mình lội từng bước, bì bõm ra khỏi cống. Đúng lúc ấy trời lại đổ cơn mưa nhỏ, đường trơn như mỡ, đến Sa Diện ngoài bờ sông, thì tiếng sênh ca vẫn còn náo nhiệt. Trên chiếc thuyền nhỏ có người biết Thúy Cô, bèn gọi lên thuyền. Khi ấy tôi mới thấy Hỉ Nhi đầu bù tóc rối, thoa vòng đều chẳng có gì. Tôi hỏi: “Nàng bị cướp mất đồ rồi ư?” Hỉ Nhi cười bảo: “Nghe nói mấy thứ ấy toàn là vàng ròng cả, là đồ của ma ma đấy. Lúc thiếp xuống lầu đã tháo hết ra giấu ở trong túi rồi, chứ nếu bị cướp mất, lại làm tội chàng phải đền.” Tôi nghe thấy thế, trong lòng lấy làm cảm động, bèn bảo sửa sang đeo lại thoa, vòng, chớ kể chuyện cho ma ma biết, chỉ nói thác là chỗ trợ nhiều người tạp nham, cho nên lại về thuyền. Thúy
Cô theo đúng như thế nói với ma ma, lại bảo: “Cơm rượu đã no rồi, chỉ xin một nồi cháo là được.”
Khi ấy, tửu khách trên lều đã đi hết, Thiệu ma ma sai Thúy cùng theo tôi lên lều. Nhìn hai đối hài thêu, nước bùn ngấm cả, ba người cùng nhau ăn cháo tạm cho khỏi đói. Đốt nến chuyện trò, mới hay Thúy vốn quê Hồ Nam, Hỉ cũng người đất Dự,(Dự tức tỉnh Hà Nam) vốn họ Âu Dương, cha chết, mẹ cải giá, bị người chú tệ bạc bán vào kĩ viện. Thúy Cô kể cho biết nỗi khổ của kẻ đưa người cửa trước trước người cửa sau, lòng chẳng vui cũng phải gượng cười, rượu không hay cũng phải cố uống, thân chẳng thích cũng phải gắng hầu, họng chẳng thông cũng phải liều hát. Lại có những kẻ tính tình hung hãn, hơi chẳng được như ý, là lập tức ném chén hất bàn, lớn tiếng nhục mạ, ma ma chẳng xét, lại cho rằng tiếp đãi không chu đáo. Rồi còn những khách ác liệt suốt đêm giày vò, quấy chẳng kham nổi. Hỉ Nhi tuổi nhỏ mới đến, nên ma ma còn thương tiếc. Kể rồi bất giác nước mắt theo lời mà rơi lã chã, Hỉ Nhi cũng lặng lẽ khóc theo. Tôi bèn kéo Hỉ vào lòng mà vỗ về. Rồi bảo Thúy Côngủ ở giường ngoài, vì là người quen của Tú Phong vậy.
Từ đó, cứ cách mười ngày, hoặc năm ngày, Hỉ Nhi tất sai người đến mời tôi, cũng có khi Hi đi thuyền nhỏ đích thân vào bờ sông đón tôi. Mỗi khi tôi tới đó tất mời Tú Phong, chứ không mời ai khác, cũng không tới thuyền nào khác. Một tối vui vầy, cũng chỉ cần bốn đồng bạc nước ngoài mà thôi. Tú Phong thì nay Thúy, mai Hồng, tục gọi là “đổi gió”, thậm chí có lần gọi luôn hai kĩ nữ. Tôi thì chỉ một mình Hỉ Nhi mà thôi. Ngẫu nhiên có khi đi một mình, thì hoặc uống chút đỉnh trên nóc thuyền, hoặc chuyện trò tâm sự trong lều, không bắt hát ca, không ép uống nhiều, ôn tồn thương mến, một thuyền vui vẻ, những kĩ nữ bên cạnh đều lấy làm hâm mộ. Có ai rảnh rỗi không có khách, biết tôi ở trên lều, tất lên thăm hỏi. Kĩ nữ cả bang, chẳng một ai không biết tôi, mỗi khi tôi đến thuyền chơi, ai nấy cùng đua nhau gọi chẳng dứt lời. Tôi cũng hết trông bên trái, lại quay bên phải, đáp lời mỏi miệng, điều ấy dẫu có người tiêu tốn muôn vàng đã chắc gì Có được.
"""