"Phu Nhân Táo Quân - Amy Tan full mobi pdf epub azw3 [Tiểu Thuyết] 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Phu Nhân Táo Quân - Amy Tan full mobi pdf epub azw3 [Tiểu Thuyết] Ebooks Nhóm Zalo PHU NHÂN TÁO QUÂN Amy Tan Making Ebook Project BOOKAHOLIC CLUB Tên sách: PHU NHÂN TÁO QUÂN Tác giả: Amy Tan Nguyên tác: The Kitchen God's Wife Dịch giả: Hồng Vân Nhà xuất bản: Văn Nghệ TP.HCM Năm xuất bản: 2002 Số trang: 600 Khổ sách: 13 x 19 cm Giá bìa: 57.000 đồng Đánh máy: Thùy Ty, Thu Hằng, Minh Khuyên, Nguyễn Ngọc Quỳnh Trang, Thanh Hà, Kim Chi, Cường, Minh Khuê, Thùy Ty, Hồng Ngọc, Cường, Thanh Tâm Kiểm tra: Hồng Phượng, Thảo Đoàn, Kiều Phương Ảnh bìa: Minh Hoài Chế bản ebook: Thảo Đoàn Ngày thực hiện: 20/06/2012 Making Ebook Project #256 – www. BookaholicClub. com Bạn đang đọc ebook PHU NHÂN TÁO QUÂN của tác giả Amy Tan do Bookaholic Club chế bản theo Dự án chế bản Ebook (Making Ebook Project). Mong rằng ebook này sẽ mang đến cho bạn một tác phẩm Văn học hay, giàu giá trị biểu cảm và nhân văn, với chất lượng cao. Chúng tôi luôn cố gắng mang đến những chế bản ebook tốt nhất, nếu trong quá trình chế bản có lỗi sai sót nào mong bạn góp ý và cho chúng tôi biết những ebook mà đang mong muốn. Making Ebook Project của Bookaholic Club là một hoạt động phi lợi nhuận, nhằm mục đích mang đến những chế bản ebook hay, có giá trị với chất lượng tốt nhất mà chúng tôi có thể với Cộng đồng đọc - người Việt. Tuy nhiên, nếu bạn có khả năng xin hãy đọc tác phẩm này bằng sách trước hết vì lợi ích cho Nhà xuất bản, bản quyền tác giả và góp phần phát triển xây dựng nền Văn hóa đọc. Hãy chỉ đọc chế bản này trong điều kiện bạn không thể tìm đến ấn phẩm sách. MỤC LỤC GIỚI THIỆU TÁC GIẢ LỜI GIỚI THIỆU 1. CỬA HÀNG CỦA NHỮNG VỊ THẦN 2. ĐÁM TANG BÀ DÌ DU 3. KHI CÁ CHẾT ĐÃ BA NGÀY 4. ĐIỆN THOẠI ĐƯỜNG DÀI 5. MỘT NGÀN LẺ MỘT CHUYỆN 6. VẬN MAY CỦA PEANUT 7. CỦA HỒI MÔN 8. ÂM THỊNH DƯƠNG SUY 9. THỜI ĐIỂM TỐT NHẤT TRONG NĂM 10. LẠC DƯƠNG MAY MẮN 11. TAN ĐÀN XẺ NGHÉ 12. ĐỒNG TIỀN TAO NẠN 13. HƠI THỞ CỦA THIÊN ĐÀNG 14. MẮT HỎNG 15. CON BỌ CHÉT TRÊN ĐẦU CON SƯ TỬ 16. ĐẠI THẾ GIỚI 17. BỐN CỬA Ô 18. VŨ ĐIỆU MỸ 19. YẾU ĐUỐI VÀ MẠNH MẼ 20. BỐN CÔ CON GÁI BÊN BÀN 21. MẸ CỦA DU NHỎ 22. MỘT MÙA CÒN LẠI 23. THỰC SỰ ĐÚNG LÀ CỦA ANH 24. ƠN HUỆ 25. ĐÁM CƯỚI BẢO ĐẢM 26. VĨNH BIỆT NỖI BUỒN GIỚI THIỆU TÁC GIẢ AMY TAN sinh ở OAKLAND, CALIFORNIA vào năm 1952, hai năm rưỡi sau khi cha mẹ có nhập cư vào nước Mỹ. Mặc dù cha mẹ cô mong mỏi cô sẽ theo nghề bác sĩ giải phẫu thần kinh kiêm nghệ sĩ dương cầm nghiệp dư, cô lại trở nên bác sĩ tư vốn cho trẻ em tàn tật, và đồng thời là nhà văn tự do. Cô viếng quê hương Trung Hoa lần của đầu tiên năm 1987 và thấy đúng như mẹ có đã nói: “Ngay khi chân tôi chạm đất Trung Hoa, tôi lập tức trở thành người Trung Hoa”. AMY TAN hiện sống cùng chồng tại San Francisco. Amy Tan thuộc thế hệ nhà văn gốc Hoa đầu tiên thành công trên văn đàn Mỹ. Bà thường viết về những gian nan mà phụ nữ người Hoa đã gặp ở quê nhà cũng như cuộc sống khó khăn mà con gái của họ gặp trên đất Mỹ. Bà thành công ngay với những tác phẩm đầu tiên, như: - The Joy Luck Club (Phúc Lạc Hội, 1989; dựng thành phim năm 1991) - The Kitchen God’s Wife (Phu nhân Táo quân, 1991;) Cả hai đều mang tính tự truyện. Sau đó bà còn viết: - The Hundred Secret Senses (Những linh cảm bí ẩn, 1995) - The Bonesetter’s Daughter (Con gái thầy lang, 2000) Hai truyện thiếu nhi: - The Moon Lady (Chị Hằng, 1992) - The Chinese Siamese Cat (Mèo xiêm Trung Quốc, 1994) Tác phẩm của bà đã được dịch nhiều ở Việt Nam. LỜI GIỚI THIỆU Phu nhân Táo Quân (nguyên tác The Kitchen God’s Wife) là tác phẩm lớn thứ hai của Amy Tan ra đời hai năm sau khi cuốn đầu tay của bà Phúc lạc hội thành công vang dội trên tất cả các phương diện. Mới ra đời, cuốn sách này đã phải chịu một sức ép rất lớn. Mọi người tự hỏi và có lẽ chính tác giả cũng tự hỏi không biết đứa con tinh thần thứ hai sẽ làm hài lòng hay thất vọng số đông bạn đọc đã kì vọng rất nhiều vào nhà văn tài năng mà ngay ở bước khởi đầu đã gây xôn xao dư luận không chỉ ở Mỹ mà còn trên quê cha đất tổ Trung Quốc và nhiều khu vực khác trên thế giới. May mắn thay, với tác phẩm này, Amy Tan một lần nữa khẳng định tài năng và chỗ đứng của mình trong dòng văn học đương đại. Cũng giống như tác phẩm đầu tiên, Phu nhân Táo Quân nói về mối quan hệ hai mặt yêu thương và mâu thuẫn giữa hai thế hệ mẹ và con trong cộng đồng những người nhập cư ở Mỹ. Nhưng mặt khác, tiểu thuyết này tập trung vào câu chuyện về cuộc đời đầy sóng gió, thăng trầm và đau thương của một người đàn bà sinh ra trong một gia đình giàu có, thế lực trong xã hội cũ ở Trung Quốc. Một người bằng nghị lực và sức sống không thể vùi dập được đã chịu đựng và vượt qua cuộc hôn nhân với một người chồng kinh khủng – quái thai của chế độ phong kiến Trung Quốc, cái chết thương tâm của ba đứa con đầu lòng, sống sót qua một thời chiến tranh tao loạn trên đất mẹ, đến được nước Mỹ và gây dựng lại được hạnh phúc từ con tim tan nát của mình. Chuyện đời Winnie Louie là câu chuyện về thân phận của người đàn bà đã từng làm cho Nguyễn Du phải thốt lên Đau đớn thay phận đàn bà, Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung. Một câu chuyện làm nhức nhối bao nhiêu con tim. Dù cái cảnh ngược đãi phụ nữ trong truyện không còn tồn tại một cách hiển nhiên nữa, nhưng ai biết được còn có bao nhiêu người phụ nữ phải âm thầm đau khổ trong chính ngôi nhà mình. Điều cần nhấn mạnh ở đây là câu chuyện của Winnie Louie dựa trên những chuyện có thật trong cuộc đời của mẹ tác giả, bà Daisy Tan. Với tất cả con tim mình, Amy Tan muốn người mẹ anh hùng của mình bước ra chỗ sáng, dưới ánh mặt trời tuyên bố về sự hiện diện của chính mình, trong vai trò con gái, người vợ, người mẹ. Chúng tôi trân trọng giới thiệu với bạn đọc tác phẩm Phu nhân Táo Quân của nhà văn nữ Amy Tan. Mong nhận được tiếng nói tri âm của độc giả với tác phẩm này. Người dịch 1. CỬA HÀNG CỦA NHỮNG VỊ THẦN Mỗi khi mẹ tôi nói chuyện với tôi bà thường bắt đầu câu chuyện như thể là chúng tôi đang ở giữa một cuộc tranh luận. “Pearl, con phải đi thôi, không còn cách nào khác,” mẹ tôi nói trong cuộc điện thoại tuần trước như vậy. Vài phút sau tôi hiểu ra lí do bà gọi điện. Dì Helen mời cả họ đến dự lễ đính hôn của cậu em họ tôi, Bảo Bảo. “Cả họ” có nghĩa là nhà Công và nhà Louie. Nhà Công gồm có dì Helen, dượng Henry, Mary, Frank và Bảo Bảo. Còn bây giờ “nhà Louie” tức là mẹ tôi và tôi bởi vì cha tôi đã mất, và em trai tôi Samuel sống ở New Jersey. Chúng tôi được biết đến như “Người trong một họ” lâu lắm rồi, như tôi còn có thể nhớ được, mặc dù gia đình Công không có liên hệ với chúng tôi bằng huyết thống, chỉ là quan hệ thông gia với nhau; người chồng đầu tiên của dì Helen là anh trai của mẹ tôi, người đã chết rất lâu trước khi tôi ra đời. Còn cậu em họ Bảo Bảo của tôi có tên thật là Roger. Nhưng mọi người quen gọi cậu ta là Bảo Bảo từ lúc cậu còn bé tí, Bảo Bảo có nghĩa là “quý tử”, sau này chúng tôi cũng vẫn gọi nó như thế vì rằng nó là một đứa “mít ướt” cứ gào toáng lên ngay khi dì dượng tôi ra khỏi nhà, nhờ chúng tôi trông chừng nó. Và ngay cả bây giờ khi cậu ta đã 31 tuổi thì chúng tôi vẫn gọi là Bảo Bảo và vẫn phải để mắt quan tâm. “Bảo Bảo hả? Làm sao mà nó lại đính hôn được nữa?” Tôi hỏi mẹ, “đây chắc là lần đính hôn thứ 3.” “Lần đính hôn thứ 4.” Mẹ tôi đính chính. “Lần đính hôn trước nó không cưới, tan vỡ ngay sau khi chúng ta gửi đồ mừng, tất nhiên dì Helen không bảo là tiệc đính hôn, bà ấy nói là một tiệc đoàn viên với Mary.” “Mary cũng đến à?” Mary và tôi có một mối quan hệ chị em họ từ lâu rồi. Chị ta lấy Doug Châu, học cùng trường Y với Phil, là người đã giới thiệu chúng tôi với nhau 16 năm về trước. “Mary cũng tới cùng với chồng con nó. Bay tới đây từ Los Angeles vào tuần tới. Không có thời gian để mua vé giảm giá đặc biệt nữa. Vé không giảm một xu nào nhé, con tưởng tượng được không?” “Tuần tới á? Tôi nói, cố tìm ra một cớ để chối từ. “Quá trễ để chúng con thay đổi kế hoạch. Chúng con định –” “Dì Helen nhất định kê con vào số thực khách. Một bữa tiệc linh đình ở nhà hàng Water Dragon đấy – năm bàn nhé. Nếu con không đến thì mất nửa bàn đó.” Tôi hình dung ra dì Helen, tròn quay và thấp tè, dúm người lại bên một chân bàn. “Còn ai đến nữa ạ?” “Nhiều lắm, toàn những người quan trọng.” mẹ tôi trả lời, nhấn mạnh từ quan trọng như cách bà nói tới những người mà bà không ưa. “Tất nhiên dì ấy cũng bảo với mọi người là Bảo Bảo sẽ đến với vị hôn thê của nó. Rồi khi mọi người hỏi “Vợ chưa cưới à? Bảo Bảo có vợ chưa cưới à,” thì dì ấy nói. “Ồ tôi quên mất. Định dành cho mọi người một bất ngờ ấy mà. Đừng nói gì với ai nhé.”” Mẹ tôi khịt khịt mũi, “Dì ấy thông báo theo kiểu ấy đấy. Vậy con cũng phải mang đồ mừng đến, cũng là một bất ngờ. Lần trước con tặng cái gì vậy?” “Cho Bảo Bảo và một cô sinh viên ư? Con không nhớ, có thể là…” “Sau khi chia tay với cô ta, nó có gửi trả lại con không?” “Chắc là không. Con cũng không nhớ nữa.” “Con xem! Nhà Công là như vậy đấy. Lần này đừng có mua gì nhiều.” Cách đây hai hôm, trước khi ăn tối, tôi lại nhận được điện thoại của mẹ. “Nào bây giờ thì quá trễ để làm một điều gì rồi,” bà nói cứ như là lỗi của tôi không bằng. Và sau đó bà thông báo là dì Du đã chết ở tuổi 97. Tôi ngạc nhiên hết sức, tôi cứ nghĩ bà dì này chết từ lâu rồi. “Bà có để lại cho con vài thứ đẹp lắm,” mẹ tôi nói. “Cuối tuần này con tới lấy nhé.” Bà dì Du đúng là họ hàng máu mủ của dì Helen, chị em cùng cha khác mẹ với cha của dì Helen hay đại loại như thế. Tuy vậy tôi nhớ là mẹ tôi mới là người luôn chăm sóc bà dì. Mẹ tôi đến dọn dẹp, đổ rác rến cho bà dì mỗi tuần, giúp bà cụ tránh khỏi việc phải đăng kí mua tạp chí mỗi khi bà nhận được tờ bướm quảng cáo in tên của bà bên cạnh dòng chữ “Một triệu đô”. Mẹ tôi làm đơn xin các cơ sở y tế hết lần này đến lần khác để người ta trả cho bà dì tiền thuốc bắc. Bao nhiêu năm mẹ tôi phàn nàn với tôi là bà đã phải làm những việc ấy cho bà dì chứ không phải dì Helen. “Dì ấy thậm chí chẳng thèm để mắt tới,” mẹ tôi than vãn. Rồi đến một ngày – có thể là khoảng mười năm về trước – tôi cắt đứt chuyện lẩm cẩm này. “Tại sao mẹ không nói với dì Helen về chuyện này rồi chấm dứt kêu ca đi?” Đó là điều mà Phil gợi ý cho tôi nói, một cách hoàn toàn có lí giúp mẹ tôi nhận ra sự rắc rối của bà và nhờ thế bà có thể có được những hành động tích cực. Nhưng nghe tôi nói thế mẹ tôi nhìn tôi với vẻ mặt trống rỗng không nói nửa lời. Sau đó bà không than phiền gì với tôi nữa. Thực ra bà không nói chuyện gì với tôi suốt 2 tháng trời. Khi chúng tôi làm lành lại với nhau, bà không đả động gì đến bà dì. Tôi đoán vì thế mà tôi nghĩ là bà dì Du chết đã lâu, “Vì sao thế ạ?” Tôi hỏi sau khi nghe tin, cố làm cho giọng nói của mình nghẹn ngào như bị sốc. “Bệnh tim à mẹ?” “Một cái xe buýt,” mẹ tôi đáp. Ồ rõ rồi, bà cụ Du khỏe mạnh cho đến tận cuối đời. Bà ngồi trên xe buýt, và rồi nó lạng sang bên kia đường để tránh cái mà mẹ tôi gọi là “con quỷ có gắn động cơ” của bọn nhóc điên cuồng chạy vượt qua biển cấm. Bà cụ bị nhồi về phía trước và ngã lăn xuống lối đi. Mẹ tôi chạy ngay tới bệnh viện để chăm bà, tất nhiên là thế rồi. Các bác sĩ không thấy gì bất thường trừ một vài vết trầy và sưng bình thường. Nhưng bà dì nói rằng bà không thể chờ đến lúc bác sĩ tìm ra cái điều mà bà đã biết. Vì thế mà bà đọc cho mẹ tôi ghi di chúc của bà theo đó mẹ tôi được thừa hưởng một cái ghế sofa ngoài 30 năm tuổi, một cái ti vi đen trắng và vài thứ lặt vặt khác. Khuya hôm đó bà chết vì một cú sốc ngoài dự đoán. Dì Helen định đến thăm vào ngày hôm sau nhưng quá trễ. “Bảo Bảo nói là chúng ta cần phải kiện một triệu đô,” mẹ tôi kể lại. “Con có thể tưởng tượng được không? Xem nó nghĩ thế đấy”. Khi mọi người biết là bà Du đã chết nó cũng chẳng khóc lóc gì, chỉ muốn kiếm tiền từ cái chết của bà thôi. Hừm! Thế đấy. Tại sao mẹ lại không bảo là bà có để lại cho hai cái đèn nhỉ? Có thể mẹ quên điều đó.” Mẹ tôi dừng lại một chút, “Bà ấy là người tốt. Có 14 vòng hoa cả thảy.” Rồi bà hạ giọng thầm thì, “Tất nhiên mẹ và dì có giảm giá cho mỗi vòng là 20%”. Mẹ tôi và dì Helen chung nhau cửa hàng hoa Đinh Hồ trên đường Ross Alley ở Chinatown. Họ bắt đầu hợp tác làm ăn từ 25 năm trước, ngay sau cái chết của cha tôi và sau khi dì bị thôi việc. Tôi đồ rằng một cách nào đó cửa hàng hoa này trở thành giấc mơ có thể xua đuổi tai họa. Mẹ tôi đã dùng tiền quyên góp của nhà thờ Tin lành Trung Hoa, nơi cha tôi đã làm mục sư ở đó. Còn dì Helen thì dùng tiền bà để dành khi còn làm việc ở một cửa hàng hoa khác, nơi bà đã học được cách buôn bán. Đó cũng là nơi đã cho bà nghỉ việc, bởi vì bà quá “thẳng thắn” như bà đã tiết lộ lí do, mặc dù mẹ tôi ngờ rằng đó là vì dì Helen luôn xúi khách của bà mua những bó hoa rẻ nhất để tiết kiệm tiền. “Đôi khi anh thấy tiếc rằng anh đã làm rể một gia đình Trung Hoa,” Phil nói thế khi anh biết rằng chúng tôi phải đi San Francisco một chuyến đi hàng năm chục dặm từ nhà chúng tôi ở San Jose, một quãng đường tệ hại vì nạn kẹt xe cuối tuần vì các trận bóng đá. Mặc dù anh thật sự quý mến mẹ tôi trong suốt hơn 15 năm chúng tôi chung sống, anh vẫn rất khó chịu với những đòi hỏi của bà. Những ngày cuối tuần với đại gia đình hoàn toàn không phải là điều mà anh ưa thích trong những ngày nghỉ làm ở bệnh viện. “Em có chắc là chúng ta phải đi không?” Anh hỏi một cách hờ hững. Anh đang bận chơi một chương trình phần mềm mới mà anh vừa cài đặt nó vào máy tính. Anh nhấn vào một phím “Úi chà!” anh kêu lên với màn hình, vỗ tay. Phil đã 43 tuổi, và mới mái tóc ngả màu muối tiêu anh thường gây cho hầu hết mọi người ấn tượng là một người kín đáo và đúng mực. Tuy vậy lúc này anh có cái vẻ bận rộn thuần túy của một chú nhóc đang chơi trò bắn tàu. Tôi giả vờ rằng tôi cũng bận rộn lắm, đang theo đuổi một chương trình cần sự giúp đỡ. Ba tháng trước đây tôi trở thành một chuyên viên giúp những đứa trẻ gặp khó khăn về nói năng trong một trường quận. Trong khi rất phấn khởi về công việc này tôi cũng thầm lo sợ rằng tôi sẽ mất đi những cơ hội tốt hơn. Chính mẹ tôi đã cấy những ý nghĩ này vào đầu tôi. Ngay sau khi nghe tôi thông báo là tôi đã vượt qua hai ứng viên khác để được chọn vào vị trí này, mẹ tôi kêu lên, “Hai người à? Chỉ có hai người muốn làm việc này thôi ư?” Giờ thì Phil ngẩng lên khỏi máy vi tính quan tâm nhìn tôi. Tôi biết anh nghĩ gì về “tình trạng bệnh tật” của tôi, như là chúng tôi vẫn gọi, căn bệnh xơ cứng lan tỏa, một căn bệnh không làm tôi suy nhược nhưng rất dễ làm tôi mệt mỏi. “Sẽ là một kỳ nghỉ căng thẳng đấy,” anh nói. “Hơn nữa anh nghĩ em không chịu đựng nổi cậu em họ Bảo Bảo của em đâu. Đấy là chưa kể đến việc Mary nữa. Chúa ôi thật là kinh khủng.” “Hừm!” “Vậy em có thể bỏ qua chuyện này không?” “Hừm!...” Anh thở dài. Thế là kết thúc cuộc thảo luận. Qua bao nhiêu năm chung sống, chúng tôi đã học được cách dẹp sang một bên chủ đề về gia đình tôi và nhiệm vụ của tôi. Nó đã từng là địa hạt gây nên những cuộc cãi cọ giữa vợ chồng tôi. Khi chúng tôi mới cưới, Phil vẫn thường nói rằng tôi bị chi phối bởi một lòng tận tụy mù quáng cho sự sợ hãi và tội lỗi. Tôi đã cho là anh ích kỉ, rằng những chuyện mà người ta làm trong đời đôi khi chẳng có liên quan gì đến sự vui thú hoặc hài lòng cả. Sau đó thì anh lại nói là cái lí do duy nhất mà chúng tôi phải đi là tôi bị kích thích bởi ý nghĩ là tôi không có sự lựa chọn nào cả và rằng tôi đang làm chính điều đó với anh. Sau đó thì đứa con đầu lòng của chúng tôi, Tessa, ra đời và năm sau thì tôi lại bị bệnh. Nội dung các cuộc cãi cọ của chúng tôi thay đổi. Chúng tôi không còn hăng hái đấu nhau về những sự khác nhau có tính chất triết học có khả năng lựa chọn của cá nhân nữa, có lẽ là bởi vì Phil lúc này có ý thức về bổn phận với đứa trẻ, cũng như là đối với tôi, hay ít nhất thì cũng là đối vơi “tình trạng bệnh tật của tôi”. Vì thế mà vấn đề những lựa chọn cá nhân trở nên lắt léo hơn, là một gánh nặng phải giữ, cho đến khi nó tự trôi qua cũng như những chuyện như là hút thuốc lá, ăn thịt bê và đeo đồ sứ vậy. Dạo này chúng tôi có vẻ hay cãi cọ về những chuyện nhỏ hơn và cụ thể hơn, ví dụ tôi có nên cho phép Tessa xem thêm nửa tiếng truyền hình nữa không, nói chung các cuộc tranh luận đi không ra ngoài thái độ khác nhau của chúng tôi đối với vấn đề nguyên tắc và cuối cùng chúng tôi hầu như luôn đồng ý với nhau – có lẽ là quá sẵn lòng nữa bởi vì chúng tôi biết rõ hậu quả của phần lớn các cuộc tranh luận. Và cuộc sống trở nên dễ chịu hơn, dễ chịu như chúng tôi có thể cố gắng làm như thế mặc dầu đôi khi nó làm tôi buồn chán. Thực tế thỉnh thoảng tôi ước rằng, chúng tôi lại trở về những ngày xưa khi Phil tranh luận còn tôi có thể bảo vệ ý kiến của mình và thuyết phục ít nhất với bản thân tôi rằng tôi đúng. Chứ không như bây giờ, ví dụ ngày hôm nay – tôi cũng không chắc là tại sao tôi phải thực hiện những bổn phận này với gia đình. Trong khi tôi chẳng bao giờ thừa nhận điều đó với Phil, tôi trở nên căm ghét những bổn phận. Tôi không muốn gặp gia đình Công; đặc biệt là Mary và mỗi khi tôi ở bên mẹ, tôi có cảm tưởng như là tôi mất toàn bộ thời gian để tránh vấp phải mìn. Vì thế chính cái cảm giác có lỗi với Phil và giận dữ với chính mình đã khiến tôi làm điều này: tôi đợi cho đến ngày hôm sau mới nói với Phil rằng chúng tôi phải ở lại qua đêm – để dự đám tang của bà dì Du. Cho những ngày cuối tuần kinh khủng, Phil và tôi quyết định đi đến thành phố sớm hơn để ổn định mọi chuyện, có thể dẫn bọn trẻ đi sở thú. Ngày hôm trước chúng tôi có cuộc tranh luận lịch sự với mẹ tôi về việc chúng tôi sẽ ngủ ở đâu. “Mẹ thật chu đáo,” Phil nói một cách ôn hòa với mẹ tôi qua điện thoại, “nhưng chúng con đã đăng kí khách sạn rồi.” Tôi cầm một ống nghe khác, cảm thấy sung sướng rằng anh đã gọi điện thoại và đưa ra lí do. “Khách sạn nào?” Mẹ tôi hỏi. “Ở TraveLodge,” Phil nói dối, thực ra chúng tôi đăng kí ở Hyatt. “Ôi, tốn tiền lắm!” mẹ tôi kết luận. “Tại sao lại phí tiền như vậy? Các con có thể ở nhà mẹ mà, có nhiều phòng trống lắm”. Phil đã từ chối một cách duyên dáng, “Ồ không, không. Có nhiều rắc rối lắm. Thật thế.” “Rắc rối cho ai?” mẹ tôi hỏi. * Còn bây giờ thì Phil đang sắp đặt cho bọn con gái vào trong căn phòng trước đây dành cho em trai tôi. Đó là nơi mà chúng thường ở lại mỗi khi Phil và tôi đi dự một hội nghị về y học, thực tế là thỉnh thoảng chúng tôi nói đó là một hội nghị y học nhưng sau đó chúng tôi trở về nhà làm những công việc nhà mà chúng tôi không có khả năng hoàn thành khi có bọn trẻ xung quanh. Phil quyết định rằng Tessa lên tám tuổi sẽ ngủ ở giường cá nhân, Cleo ba tuổi sẽ ngủ trong cũi. “Đến lượt con ngủ giường cơ,” Cleo kêu lên, “Ha bu bảo thế.” “Nhưng Cleo,” Tessa diễn giải, “em thích ngủ ở cũi mà.” “Ha-bu”, Cleo gọi mẹ tôi đến cứu nó. Phil và tôi thì ở trong phòng cũ của tôi vẫn còn đầy những đồ đạc cũ kĩ. Tôi đã không ở đây từ ngày tôi lấy chồng. Trừ một điều là tất cả đều sạch sẽ, căn phòng vẫn y hệt như lúc tôi vẫn còn là một đứa trẻ, cái giường đôi với cái khung và bộ chân nặng nề, một cái bàn trang điểm với một cái kính tròn và những đường nét chạm trổ có cẩn hạt trai. Thật là buồn cười, tôi đã ghét cái bàn này biết bao, bây giờ thì trông nó rất đẹp với nghệ thuật trang trí của nó. Tôi tự hỏi không biết mẹ có chịu sang tên cho tôi không. Tôi nhận thấy bà đặt đôi dép lê cũ kiểu Trung Quốc của tôi ở dưới gầm giường, một loại dép có một quai xỏ ngón chân cái; chẳng có gì vứt đi cả, đề phòng trường hợp là nó còn cần đến có thể là sau 20 năm nữa. Tessa và Cleo chắc là đã lục lọi cái tủ này, đã moi móc tất cả những thứ đồ đạc linh tinh trong những cái hộp này. Rải rác quanh những đôi dép lê là những con búp bê bằng vải, một cái mũ miện dát đá và một cái hộp bằng plastic đựng đồ trang sức với dòng chữ “Những kho báu bí mật của tôi” trên nắp hộp. Trên cánh cửa vẫn còn treo tấm ảnh lố bịch nhại theo kiểu một ngôi sao Hollywood tôi chụp hồi lớp 6, viết tên tôi P-E-A-R-L trong một cái vòng đeo cổ bằng plastic. “Ồ,” Phil nói giọng ấm ớ, “thế mà ở đây lại còn khá hơn ở đằng TraveLodge đấy.” Tôi đập vào chân anh. Còn chồng tôi thì vỗ vào những chiếc khăn tắm không đồng bộ dành cho khách trải trên giường. Những chiếc khăn này là quà Giáng sinh của nhà Công khi nhà tôi rời Chinatown đến quận Richmount, như vậy có nghĩa là nó đã ra ngoài 30 năm rồi. Còn bây giờ thì Tessa và Cleo ùa vào phòng chúng tôi, la lên rằng chúng đã sẵn sàng đi sở thú rồi. Phil sẽ đưa chúng đi, trong khi tôi đến tiệm hoa Đinh Hồ giúp một tay, nhưng mẹ tôi đã nói với giọng cộc lốc rằng dì Helen đã rời khỏi cửa hàng từ sáng sớm để chuẩn bị cho bữa tiệc - thay cho một sự thật là có quá nhiều việc phải làm ở cửa hàng hoa vì ngày mai là đám ma của bà dì Du. Sau đó mẹ nhắc nhở tôi rằng bà dì luôn tự hào về tôi – trong gia đình chúng tôi thì chữ “tự hào” có một cái nghĩa gần với từ “yêu”. Mẹ tôi gợi ý là tôi cũng nên đến viếng sớm với một vòng hoa đẹp. “Em sẽ về nhà lúc 5 giờ rưỡi.” Tôi nói với Phil. “Con muốn xem voi châu Phi,” Tessa vừa nói vừa nhún nhẩy trên giường chúng tôi. Sau đó thì nó đếm những ngón tay. “Rồi gấu túi và những động vật có xương sống loài ăn kiến này và cả cá voi lưng gù nữa.” Tôi luôn luôn ngạc nhiên không hiểu là nó lượm lặt được ở đâu cái danh sách những con vật này – từ Phil chăng? Hay từ tôi? Hay từ tivi? “Con phải nói, “Xin vui lòng” nghe chưa,” Phil nhắc con gái, “và ba không nghĩ là có cá voi trong sở thú”. Tôi quay về phía Cleo. Đôi khi tôi lo lắng rằng con bé sẽ trở nên thụ động, nhút nhát dưới cái bóng của cô chị lớn quá tự tin. “Con muốn xem gì?” Tôi âu yếm hỏi bé. Nó nhìn xuống chân, tìm một câu trả lời. “Dingbats,” cuối cùng nó nói. Khi tôi quay lại đường Ross Alley, mọi vật chung quanh tôi lập tức trở nên yên tĩnh. Không còn cái nắng quái chiều hôm và những âm thanh rộn rã ở hai bên đường với những người mua kẻ bán tấp nập vào chiều thứ Bảy ở Chinatown nữa. Các âm thanh hai bên đường nhỏ đi, nhanh chóng tan xa, những tia nắng nhạt dần gần như là màu xanh hư ảo. Phía bên tay phải vẫn là tiệm hớt tóc ngày xưa của A Phúc, người mà tôi nhận thấy vẫn dùng tông đơ điện để cạo tóc mai cho khách hàng. Dọc theo hai bên đường vẫn là những gia đình, những cửa hiệu buôn bán, kể cả một chỗ lưu giữ những kí ức về tổ tiên ở Trung Quốc với một khoản thù lao. Xa hơn một chút nữa là tiệm của một thầy bói. Một cái biển viết tay treo trên cửa sổ có hàng chữ “Những con số may mắn nhất, những lời khuyên tốt nhất”, có một cái biển khác treo trên cánh cửa cho biết thầy bói đang có khách. Khi tôi đi qua nhà, cánh cửa đẩy màu vàng bật mở. Bất thình lình một cô gái trẻ hiện ra, tay cô miết lên cửa kính. Cô nhìn tôi chằm chằm với một vẻ mặt buồn bã. Tôi vẫy tay với cô nhưng cô không vẫy trả. Cô bé nhìn tôi như thể tôi không thuộc về nơi này. Và bây giờ thì tôi đang ở Công ty thương mại Tam Phúc, cách cửa hàng hoa của mẹ tôi vài nhà. Hàng dãy kệ đặt bùa may mắn, tượng bằng gỗ hoặc bằng sứ của các vị thần may mắn, hàng trăm bức tượng. Tôi đã gọi đây là cửa hàng của các vị thần từ khi tôi bắt đầu có kí ức. Nó cũng bán những thứ người ta dùng trong một đám tang theo nghi thức Phật giáo – giấy tiền vàng bạc, đồ trang sức hàng mã, nhang đèn và những thứ khác. “Chào Pearl!” Ông chủ Hồng vẫy tay mời tôi vào. Lần đầu tiên gặp ông, tôi cứ tưởng tên ông là Tam Phúc, giống như tên cửa hiệu. Sau này tôi biết rằng Tam Phúc có nghĩa là “ba lần được chúc phúc” trong tiếng Quan thoại cổ, theo mẹ tôi – hoặc là những khách hàng Hồng Kông – thì tam phúc lại có nghĩa như đùa, giống như nói “ba người loong toong”. “Mẹ đã bảo ông ta phải đổi tên đi,” mẹ có lần bảo, “sẽ may mắn hơn”. Nhưng ông ta nói ông ta buôn may bán đắt lắm rồi.” “Này Pearl,” ông chủ Hồng nói khi tôi bước vào cửa hàng. “Tôi có mấy món cho mẹ cô ở đây, cho đám ma ngày mai ấy mà. Cô mang về cho bả được không?” “Dạ được.” Và ông đưa cho tôi một gói giấy. Tôi nghĩ rằng đám ma của bà dì sẽ theo nghi thức Phật giáo. Mặc dù bà đã gia nhập giáo hội Tin lành Trung Hoa một vài năm, nhưng cả bà lẫn mẹ tôi đều thôi không đi nhà thờ ngay sau khi ba tôi mất. Dù sao, tôi cũng không nghĩ là bà từ bỏ niềm tin của bà, một tín ngưỡng mà chưa hẳn đã thuộc Phật giáo, chỉ là những nghi thức mê tín liên quan đến những vị thần phước thiện và việc tránh những việc xấu. Mỗi khi đến căn hộ của bà, tôi thường chơi đồ hàng với bàn thờ ở nhà bà, một đền thờ đỏ thu nhỏ đựng một bức tranh lồng khung một vị thần Trung Hoa. Trước ảnh thờ là một bình đựng tro giả bằng đồng thau cắm đầy chân nhang, một bên đặt những trái cam cúng với những gói thuốc lá, một chai rượu uytxki loại nhỏ như trên máy bay, hiệu Johnie Walker nhãn đỏ. Nó thu nhỏ một quang cảnh Trung Hoa như trong một nhà trẻ vào ngày Giáng sinh. Giờ thì tôi bước vào cửa hàng hoa. Nó nằm ở tầng trệt một tòa nhà xây bằng gạch cao ba tầng. Cửa hiệu có kích thước bằng một gara chứa một chiếc xe, trông vừa buồn tẻ, vừa quen thuộc. Phía trước là một cái cửa viền đỏ được chăng lưới chống trộm. Trên cửa sổ có một tấm biển “Cửa hàng hoa Đinh Hồ” bằng tiếng Anh và tiếng Hoa. Nhưng cái biển này khuất khỏi tầm nhìn – bởi vì ngôi nhà hơi thụt vào một chút – cửa hàng trông lúc nào cũng tối tăm âm u, như là nó đang đóng cửa vào lúc này. Vì thế mà cái địa điểm kinh doanh của mẹ tôi và dì Helen không phải là điểm kinh doanh tấp nập, tuy họ đã cố gắng để mọi việc đâu vào đấy theo một cung cách rất đặc biệt. Sau rất nhiều năm họ hầu như đã chẳng làm gì để theo kịp thời đại hay là làm cho cửa hàng trở nên hấp dẫn hơn. Tôi mở cửa, những cái chuông ngân lên, ngay lập tức tôi ngửi thấy mùi hoa dành dành, một cái mùi luôn làm tôi liên tưởng đến các đám ma. Trong phòng tối mờ mờ, chỉ có một ngọn đèn huỳnh quang gắn ở bên trên máy tính tiền – chỗ mà mẹ tôi đang đứng trên một cái ghế đẩu thấp nhỏ để mẹ tôi có thể nhìn qua quầy, một cái kính lão mua ở hiệu đồ cũ gắn trên mũi bà. Bà đang nói chuyện điện thoại liến thoắng bằng tiếng Tàu và sốt ruột vẫy tay mời tôi vào đợi bà. Tóc bà búi thành một búi cao cuộn trong một tấm lưới, không một sợi tóc vương ra ngoài. Bây giờ cái lưới tóc đã được làm sao cho trông nó dày hơn với một món tóc giả - cái đuôi ngựa – như bà vẫn thường gọi, bà chỉ dùng đến trong những dịp long trọng. Bây giờ tôi có thể nói căn cứ vào cái giọng rít lên và nhấn mạnh những âm gió “vuh-vuh-vuh” rằng bà đang tranh luận bằng tiếng Thượng Hải chứ không chỉ là tiếng Quan thoại đơn giản. Có chuyện nghiêm trọng đây. Chắc là nó có liên quan đến người cung cấp hoa, căn cứ vào cách bà bấm vào chiếc máy tính bỏ túi sau đó đọc to những con số trên máy tính bằng một giọng gay gắt như thể điều đó có ghi trong bộ luật hình sự. Bà ấn vào nút “No sale” trên máy tính tiền và khi ngăn kéo của nó mở bà lôi ra một tờ giấy biên nhận xếp tư, vẫy cho nó mở ra với một cử động của cổ tay sau đó lại đọc to con số lên “Vuh! Vuh! Vuh!” bà cự lại. Máy tính tiền chỉ dùng để cất những thứ linh tinh hay như mẹ tôi gọi là những đồ tầm tầm. Máy đã bị hỏng, lần đầu tiên khi mẹ tôi và dì Helen mua ở hiệu về lắp đặt họ đã sớm nhận ra là bất cứ khi nào tính tiền nó cũng cộng thêm con số 9 vào còn những chức năng khắc thì chẳng xài được. Dù vậy họ vẫn quyết định giữ lại cái máy đó, “để đánh lừa bọn chúng” như mẹ tôi đã giải thích như thế. Nếu họ bị cướp, mà điều này chưa từng xảy ra, thì tên cướp chỉ lấy được 4 đô và một vài xu lẻ, toàn bộ số tiền này để trong ngăn kéo. Còn tiền bán hàng thì được giấu ở bên dưới quầy, trong một chiếc ấm trà với cái vòi đã hai lần bị mẻ và phải gắn lại, một cái ấm sứt vòi đặt trên một cái mâm. Tôi đoán rằng đó là một mẹo lừa vì chẳng có kẻ nào lại muốn ăn cướp ở một cửa hiệu chỉ có trà nguội thôi. Một lần tôi nói với mẹ tôi và dì Helen rằng một tên cướp sẽ không khi nào tin là một cửa hiệu mà chỉ có vỏn vẹn 4 đô la trong két. Tôi nghĩ rằng họ cũng nên đặt vào đấy 20 đô để cho nó có tính thuyết phục. Nhưng mẹ tôi cho 20 đô là quá nhiều để cho một tên cướp. Còn dì Helen thì nói rằng dì sẽ phát bệnh vì mất một món tiền như thế, vậy thì cái mẹo của tôi có ích gì? Có lúc tôi đã nghĩ đến việc đưa cho họ 20 đô để chứng minh quan điểm của mình. Nhưng rồi tôi lại nghĩ, quan điểm gì mới được chứ? Và bây giờ khi nhìn quanh gian hàng một lần nữa tôi nhận ra rằng có thể họ đúng. Ai mà thèm vào ăn cướp ở một nơi mà tiền kiếm được không nhiều hơn tiền vé xe đò? Không, chỗ này chỉ nên phòng chống trộm theo cách của nó. Sàn nhà ở đây cũng vẫn có cái màu xám đơn điệu 25 năm về trước, nay mới được sửa sang đánh bóng lại. Quầy hàng được phủ cùng một loại khăn giấy, những khung tre trắng và xanh lá cây ở hai bên rừng cây ở phía trên. Ngay cả cái máy điện thoại mẹ tôi đang dùng để nói chuyện cũng là một cái máy màu đen cổ lỗ sĩ với số quay tròn, dây bằng sợi tổng hợp không thể cuộn lại và kéo ra được. Trong suốt những năm qua, bức tường màu trắng đã ngả màu vàng xỉn, lồi lõm, bây giờ lại bị nứt nẻ từ cuộc động đất năm 89. Vì thế mà chốn này nom cũ kĩ, hoang tàn và ẩm thấp. “Hảo hảo”, tôi nghe mẹ tôi nói. Bà dường như đã đạt được một thỏa thuận nào đó với người cung cấp hoa, cuối cùng bà đặt ống nghe xuống. Mặc dù đã không gặp nhau từ lễ Giáng sinh gần một tháng trước đây, chúng tôi cũng không ôm hôn như tôi và Phil vẫn làm khi chúng tôi gặp cha mẹ hoặc bạn bè anh. Thay vì thế mẹ tôi bước ra khỏi quầy lẩm bẩm: “Con có thể tưởng tượng được không? Tay này tính lừa dối mẹ! Đòi mẹ trả thêm tiền chuyên chở.” Bà chỉ vào một cái hộp đựng những dây nhợ, giấy bóng kính trong và giấy gói hoa, “đâu có phải lỗi tại mẹ nếu hắn quên đến tuần trước”. “Thêm bao nhiều tiền?” tôi hỏi. “Ba đô,” bà kêu lên. Tôi không bao giờ hết ngạc nhiên bởi sự tiêu hao xúc cảm của mẹ tôi vì một vài đồng đô la. “Tại sao mẹ không quên chuyện đó đi, có ba đô thôi mà.” “Mẹ không chỉ quan tâm đến tiền!” bà cáu. “Hắn đã lừa mẹ. Điều đó là không được. Tháng trước hắn cũng có cộng thêm một khoản nữa.” Tôi có thể nói là bà định lao vào chuyện kể cho tôi nghe cuộc đấu khẩu tháng trước, thì hai phụ nữ ăn mặc lịch sự, tóc vàng ngó vào. “Cửa hàng có mở không ạ? Có ai nói được tiếng Anh không?” một người hỏi bằng giọng Texas nặng trịch. Khuôn mặt của mẹ tôi bỗng tươi lên và bà gật đầu vẫy tay mời họ vào. “Mời vào, mời vào,” bà gọi. “Ồ không dám làm phiền các bà.” Một người nói. “Các bà có thể bảo cho tôi biết cửa hàng bánh kẹo ở đâu không?” Trước khi tôi có thể trả lời thì mặt mẹ tôi đã xụ xuống, bà lắc đầu nói, “Không hiểu, không biết nói tiếng Anh”. “Tại sao mẹ lại nói thế?” tôi hỏi sau khi hai phụ nữ đã rút lui. “Con không biết là mẹ lại ghét những người khách du lịch như vậy.” “Không phải là khách du lịch,” mẹ tôi nói, “mà là bà bán bánh kẹo ấy. Một lần bà ta chơi xấu mẹ. Vậy thì tại sao mẹ phải dẫn khách đến cho bà ta.” “Trời ơi, buôn với bán ở đây!” Tôi cố gắng tránh cho câu chuyện không đến chỗ bùng nổ về bà bán kẹo bánh ở dưới phố. “Khiếp chưa?” Bà nói, chỉ vào những sáng kiến của bà quanh cửa hàng, “mẹ bận quá, bận đến chết đi được với bao nhiêu là việc, con xem chỉ trong sáng nay mà mẹ đã làm được ngần này việc.” Tôi nhìn quanh, ở đây không có những lẵng hoa hay bó hoa kiểu dáng hiện đại. Mẹ tôi mở cửa kính một tủ lạnh trước vẫn dùng để chứa những lon soda và bia. “Con thấy không?” Bà nói, chỉ vào một cái ngăn với những bó hoa nhỏ kết bằng hoa cẩm chướng sắp đặt rất khéo với các màu trắng, hồng và đỏ. Chẳng còn nghi ngờ gì nữa, chúng tôi sẽ đính những bó hoa này tối nay. “Còn đây,” bà tiếp tục. Ngăn thứ hai đầy những lọ thủy tinh màu sữa mỗi cái cắm một nụ hoa hồng thêm một ít hoa baby nho nhỏ, đó là một loại hoa người ta thường tặng cho những người nằm viện, những người chuẩn bị cho một cuộc giải phẫu mà bạn không biết là họ sẽ nằm viện trong bao lâu. Ba tôi đã nhận được rất nhiều những lọ như thế này trước khi ông chết. “Rất thông dụng,” mẹ tôi nói, “cái này nữa, mẹ cũng tự làm đấy.” Ngăn dưới cùng chứa khoảng nửa tá những bình xịt bàn nhỏ. “Cho tối nay đấy, dành cho sau bữa ăn tối”, mẹ tôi giải thích, có lẽ bởi vì điều đó không gây ấn tượng mạnh cho tôi, bà lại thêm, “cho người phụ trách quản lí ở Wells Fargo.” Bà dẫn tôi đi xem những sản phẩm bà tự làm lấy để phía trong. Dọc theo những bức tường là những vòng hoa tang lớn có khung, “Thế nào?” mẹ tôi hỏi, chờ ý kiến của tôi. Với tôi những vòng hoa này bao giờ cũng gợi nên một nỗi buồn gớm guốc giống như những phao cứu sinh đẹp đẽ được quăng xuống quá trễ. “Đẹp lắm!” tôi nói. Giờ thì bà khoe với tôi niềm vui và tự hào thực sự của bà. Ngay trước cửa hàng, cái chỗ duy nhất có ánh nắng chiếu vào một vài giờ một ngày là “sự mặc cả lâu dài” như bà gọi những chậu cảnh: những cây cao su, cỏ chân gà và những cây tắc cảnh, những chậu này được trang hoàng với những dải băng màu đỏ chúc mừng một công việc làm ăn nào đó trong ngày khai trương. Bao giờ bà cũng tự hào về những băng giấy đỏ này. Bà không viết những câu chúc mừng chung chung như là “Chúc may mắn” hay là “Thịnh vượng và trường thọ.” Tất cả những lời chúc tụng viết chữ Tàu bằng nhũ vàng này đều là cảm hứng sáng tạo riêng của bà, là suy nghĩ của bà về sự sống và cái chết, may mắn và hi vọng như “Cuộc đời tốt đẹp nhất đang chờ đứa con đầu lòng của bạn”, “Hạnh phúc nhân đôi cho đám cưới, của cải nhân ba cho gia đình”, “Tiền bạc tỏa mùi thơm trong căn nhà mới của bạn”, “Sức khỏe mau trở lại, đừng để hi vọng sớm ra đi.” Mẹ tôi nói rằng những câu chúc này là lí do tại sao tiệm hoa Đình Hồ buôn may bán đắt trong những năm qua. Với câu buôn may bán đắt tôi cho rằng bà muốn nói bà giữ được khách trong suốt 25 năm qua. Chỉ có điều bây giờ càng ngày càng ít những cô dâu e lệ, những chú rể choáng váng vì hạnh phúc và càng ngày nhiều hơn những người ốm, những người già và những người chết. Mẹ tôi cười ranh mãnh rồi nắm lấy khuỷu tay tôi. “Bây giờ thì mẹ sẽ cho con xem cái vòng hoa mà mẹ đã làm cho con”. Tôi giật mình rồi nhận ra bà đang nói gì. Bà mở cửa đi về phía sau cửa hàng. Nó tối như hũ nút, tôi chẳng nhận thấy gì trừ mùi hoa tang. Mẹ tôi giật một sợi dây bật điện, cuối cùng căn phòng sáng lên nhờ bóng điện tròn đưa qua đưa lại trên sợi dây treo ở cửa. Bây giờ tôi có thể nhìn căn phòng đẹp kinh khủng như thế nào, hàng dãy những vòng hoa ánh lên dưới ánh đèn là hoa dành dành trắng và cúc vàng, băng giấy màu đỏ chạy ngang qua khung, trông thật giống cách phục sức của một tiên đồng. Tôi hơi bất ngờ vì lao động nặng nhọc đã bỏ ra cho những vật biểu trưng này. Tôi hình dung đôi tay bé nhỏ của mẹ tôi với làn da mỏng như giấy, mạnh mẽ tước những chiếc lá, chiếc gai, gắn chúng vào những sợi dây thép và xếp lên đó những bông hoa, bông nào bông nấy phải được đặt đúng vị trí. “Cái này,” mẹ tôi chỉ vào vòng hoa đặt giữa hàng thứ nhất, trông nó cũng giống như những vòng hoa khác. “Nó là của con. Mẹ đã viết lên đây những ước nguyện của mẹ.” “Nó viết cái gì ạ?” Ngón tay mẹ đi xuống dưới dải băng đỏ khi bà đọc dòng chữ Tàu mà tôi không hiểu. Sau đó bà dịch sang tiếng Anh. “Vĩnh biệt bà, hãy yên nghỉ trên thiên đường. Cháu gái yêu quý của bà, Pearl Louie Brandt và chồng.” “Ôi con suýt quên mất.” Tôi đưa cho mẹ tôi gói giấy từ cửa hiệu Tam Phúc. “Ông Hồng đưa cho mẹ cái này.” Mẹ tôi gỡ sợi dây, mở cái hộp giấy ra. Bên trong là một mớ tiền âm phủ, những đồng tiền mà bà dì có thể dùng hối lộ để đi qua cổng thiên đường của người Hoa. “Con không biết là mẹ tin vào những thứ này đấy,” tôi nói. “Tin hay không không biết,” mẹ tôi bực mình nói, “đây là sự tôn trọng tín ngưỡng.” Rồi mẹ tôi hạ giọng dịu dàng. “Mẹ gửi cho bà 100 triệu đô. Phải, bà là một người tốt.” * “Nào chúng ta đi,” tôi nói, hít một hơi dài khi chúng tôi leo lên cầu thang đi vào phòng đãi tiệc. “Pearl! Phil! Hai em đây rồi,” cô chị họ Mary kêu lên. Tôi đã không gặp chị hai năm qua từ khi chị và Doug chuyển đến Los Angeles. Chúng tôi đợi Mary đi ngang qua đám người dự tiệc. Cô nhào về phía chúng tôi, tặng tôi một cái hôn, sau đó xoa xoa vào má tôi và cười dưới lớp phấn hồng dày cộp trên mặt. “Em trông tuyệt lắm!” Cô bảo tôi, rồi quay sang nhìn Phil, “Thật thế, cả hai em… trông tình cảm lắm.” Mary chắc là 41 tuổi, lớn hơn tôi 6 tháng. Chị ta trang điểm rất đậm, đeo cả lông mi giả nữa, tóc được chải thành từng lọn xịt keo cứng ngắc. Một khăn choàng lông cáo màu bạc vắt vẻo trên vai chị. Khi sửa lại nó lần thứ ba, chị ta cười nói, “Doug tặng chị cái này trong ngày Giáng sinh đấy. Ôi chán chết!” Tôi tự hỏi tại sao lại chán. Bây giờ chúng tôi đã ở trong nhà hàng. Nhưng Mary là như vậy, người con lớn nhất trong hai gia đình và một vẻ ngoài hào nhoáng của sự thành đạt bao giờ cũng là điều tối quan trọng đối với chị. “Jennifer, Michael”, chị gọi, bật bật ngón tay. “Lại đây nào, lại đây chào dì, dượng đi.” Chị ta đẩy hai thiếu niên về một bên và bóp cánh tay chúng. “Nào, các con nói gì?” Hai đứa nhìn chúng tôi với vẻ mặt bí xị, mỗi đứa lí nhí câu gì đó trong miệng rồi khẽ gật đầu với chúng tôi. Jennifer tròn múp míp trong khi đôi mắt đen của nó lại ti hí với cái nhìn khó đăm đăm. Nó cột một món tóc trên đỉnh đầu bằng một dải băng, mớ tóc còn lại đổ xuống lưng. Trông nó có vẻ gò bó, còn khuôn mặt của Michael thì có hình tam giác nhọn với cái cằm đầy mụn trứng cá. Chúng chẳng còn vẻ dễ thương hồi còn thơ bé. Tôi tự hỏi không biết chuyện gì sẽ xảy ra với Tessa và Cleo nếu chúng cũng như thế này vào cái tuổi ấy. “Em xem chúng thế đấy.” Mary nói vẻ có lỗi, “Jennifer đã có áo nylon và giày cao gót Giáng sinh vừa rồi. Nó tự hào lắm, không còn là con gái bé bỏng của mẹ nữa rồi.” “Ôi mẹ!” Jennifer vùng vằng, rồi giằng ra khỏi cái nắm tay của mẹ chạy biến vào đám đông. Michael cũng đi theo nó. “Xem kìa, Michael cao gần bằng Doug phải không?” Mary hỏi tự hào ngắm nhìn cậu ấm khi nó bỏ đi. “Nó ở trong đội tuyển của trường, ông huấn luyện viên bảo nó là chân chạy xuất sắc nhất đấy. Chị không biết là nó thừa hưởng chiều cao ở đâu cũng như là khả năng thể thao của nó – chắc chắn là không phải từ chị rồi. Mỗi khi thử chạy bộ thì chị sẽ chạy về với cái chân cà nhắc.” Mary vừa cười vừa nói. Rồi khi nhận ra rằng chỉ có chị cười nói nãy giờ, chị bèn tắt ngay nụ cười trên môi và nhìn vào đám đông. “Kìa bố mẹ chồng chị đến. Chị phải đến chào họ một tiếng”. Phil xiết chặt tay tôi, dù rằng tôi chẳng nói gì, anh biết là tôi đang sôi lên. “Bỏ chuyện đó đi,” anh nói. “Em sẽ cố,” tôi đáp, “nếu chị ta muốn thế. Chị ta bao giờ cũng vậy mà.” Khi tôi và Phil làm đám cưới, thì Mary và Doug là những người quan trọng bởi vì họ làm mối cho chúng tôi. Họ là những người đầu tiên chúng tôi thổ lộ cho biết là tôi đang mang bầu Tessa. Khoảng 7 năm về trước Mary đã đẩy tôi đến lớp học thể dục nhịp điệu, lúc tôi than phiền là tôi thường cảm thấy mệt. Sau đó khi tôi cảm thấy có một cảm giác mỏi lạ lùng ở chân phải thì Phil khuyên tôi đến gặp Doug lúc đó đang làm bác sĩ chỉnh hình ở một trung tâm y khoa thể thao. Vài tháng sau, Doug bảo tôi rằng vấn đề của tôi dường như có chuyện gì khang khác, lúc đó tôi kinh hoàng nghĩ rằng anh ta bảo tôi bị ung thư xương. Doug trấn an tôi rằng anh chỉ muốn nói là anh không đủ chuyên môn để đưa ra kết luận. Sau đó anh giới thiệu tôi với người bạn cũ từ ngày còn ở trường Đại học, một bác sĩ thần kinh giỏi nhất ở trung tâm Y khoa San Francisco. Sau một năm xét nghiệm, và sau khi tôi đã tự thuyết phục được mình rằng sự mỏi mệt của tôi là do việc hút thuốc, còn cái chân là di chứng để lại sau lần mang thai – thì ông bác sĩ bảo là tôi mắc chứng xơ cứng lan tỏa. Mary khóc òa lên khi nghe tin đó, rồi cố gắng trấn an tôi, làm cho tôi cảm thấy còn tồi tệ hơn. Một lát sau, chị lảm nhảm nói về một món ăn nào đấy mà chị ta chỉ tình cờ tìm ra công thức nấu ăn tuyệt vời của nó, cho đến khi tôi phải bảo chị im đi. Rồi sau đó nữa thì chị làm một màn lâm li trong khi nói với tôi rằng bạn của Doug đã làm chị an tâm rằng bệnh của tôi “thực sự không có gì đáng ngại” cứ như thể chị ta nói chuyện về thời tiết, rằng cuộc sống của tôi sẽ không có gì thay đổi và rằng ở tuổi 70 tôi vẫn có thể tham gia câu lạc bộ chơi golf và vẫn chơi giỏi ra trò mặc dù tôi phải cẩn thận tránh những căng thẳng cả về mặt tinh thần lẫn thể xác. “Thật thế mà, mọi chuyện đều bình thường,” chị nói với một sự vui vẻ gượng gạo “trừ một chuyện là Phil sẽ dễ chịu với em hơn. Có chuyện gì không ổn đâu nào?” “Em không chơi golf,” đó là tất cả những gì tôi có thể nói. “Chị sẽ dạy em,” chị nói một cách vui vẻ. Tất nhiên, Mary chỉ cố làm ra vẻ tốt bụng thôi. Tôi phải thừa nhận rằng cũng có lỗi của tôi một phần trong cái chiều hướng tình cảm bị xấu đi của chúng tôi. Tôi chưa bao giờ nói thẳng với chị rằng cái kiểu thương cảm của chị ta đã làm tôi buồn bực như thế nào. Vì thế tất nhiên chị ta không biết rằng tôi không cần ai an ủi hết. Tôi không cần chăm chút bằng một món ăn nào hết. Lòng tốt là một sự đền bù. Lòng tốt là một cái gì nhắc nhở là đời tôi đã thay đổi. Rằng một người nghĩ là tôi buộc phải chấp nhận tất cả những điều này phải trở nên mạnh mẽ hoặc can đảm hơn hoặc thanh thản nhẹ nhàng hơn. Tôi không muốn những điều ấy. Ngược lại, tôi muốn sống với cùng những mối quan tâm như hầu hết mọi người – lo lắng về chuyện học hành của các con tôi, chứ không phải băn khoăn là tôi có ở bên cạnh chúng khi chúng tốt nghiệp không, vui mừng rằng tôi đã sút vài kí lô mà không phải lo sợ rằng các cơ đang bị teo. Tôi muốn một điều đã trở nên không thể được. Tôi muốn quên. Tôi rất bực mình vì nỗi Doug và người bạn chén chú chén anh với anh ta đã nói về tình trạng bệnh tật của tôi với Mary. Nếu họ đã nói với chị ta điều đó thì họ cũng ắt nói với chị ta điều này, rằng đây là một căn bệnh không thể tiên liệu được. Tôi sẽ giảm đau trong vòng 10 năm, 20 năm, 30 năm hoặc 40 năm. Hoặc có thể là bệnh bất thình lình tiến triển nhanh vào ngày mai, và ngày càng nhanh hơn, nhanh hơn nữa và cuối cùng là tôi phải ngồi trên xe lăn hoặc là một điều gì còn tệ hơn nữa. Tôi biết Mary nhận ra điều đó, bởi vì tôi thường bắt gặp chị liếc trộm tôi khi chúng tôi đi ngang qua một người tật nguyền. Một lần chị cười một cách gượng gạo khi chị tìm đường vào một bãi đậu xe hóa ra lại là của người tàn tật. “Ôi!” chị ta nói lùi xa thật xa. “Chúng ta không cần điều này.” Đầu tiên tôi và Phil đã thề là sẽ sống một cuộc đời bình thường bên nhau suốt đời trong khả năng của chúng tôi, “Bình thường như có thể được” – giống như một lời ca vô nghĩa. Nếu tôi bất thình lình bị trượt té vì một món đồ chơi trên sàn, tôi sẽ phải mất 10 phút xin lỗi Tessa vì đã rầy la nó, sau đó thì phải mất thêm một tiếng đồng hồ nữa để tự hỏi xem một người “bình thường” có thể bị té vì một chuyện như vậy không. Một lần khi chúng tôi đi nghỉ mát ở một bãi biển với mục đích là quên tất cả những chuyện này đi thì trái lại trong tôi chỉ tràn ngập những ý tưởng đen tối. Tôi nhìn những con sóng chạy nhanh ra khỏi bờ, - hỏi Phil rằng không biết liệu đến một ngày nào đó tôi có trở nên bất lực như ngọn rong biển, hay như những con còng trên bãi này không. Trong khi đó thì Phil đang đọc một cuốn sách giáo khoa cũ của anh, cố tìm một lời giải cho căn bệnh của tôi. Sau đó thì anh cảm thấy thất vọng vì những kiến thức y học của anh không đưa ra được một hiểu biết rõ ràng hơn về một căn bệnh chỉ được miêu tả là “chưa tìm được nguyên nhân”, “biến chuyển rất phức tạp”, “không thể dự đoán được” và “không có biện pháp điều trị đặc biệt”. Anh đã đi dự những hội nghị khoa học về rối loạn thần kinh. Một lần anh cũng đưa tôi đến sinh hoạt với một tổ chức giúp đỡ những người bị bệnh xơ cứng lan tỏa, nhưng chúng tôi quay về ngay khi nhìn thấy những người ngồi trên xe lăn. Anh thực hiện cái gì mà anh gọi là “những kiểm tra an toàn hàng tuần”, kiểm tra phản ứng của tôi, cũng như thăm dò sức căng của bắp chân. Chúng tôi thậm chí còn dọn đến một ngôi nhà có hồ bơi, để tôi có thể luyện tập cơ bắp hằng ngày. Chúng tôi đã không nói toạc ra rằng ngôi nhà thì không có lầu, chỉ có một vài bậc thềm, lối đi thì rất rộng phòng một ngày nào đó có thể nới ra cho một chiếc xe lăn đi qua, nếu cần thiết. Chúng tôi nói chuyện theo quy ước riêng, như thể chúng tôi thuộc về một giáo phái bí mật, để tìm kiếm một phương pháp chữa trị, hoặc là những triệu chứng mà chúng tôi quan sát được, một lối thoát cho những lo lắng triền miên. Thực ra chúng tôi học được cách không nói về tương lai, cả những khả năng tồi tệ nhất đến những hi vọng mơ hồ. Chúng tôi không lục tìm trong quá khứ về một loại virút hay mẫu gien di truyền nào gây nên bệnh cho tôi. Chúng tôi chỉ quan tâm đến ngày hôm nay, những chiến công nho nhỏ trong cuộc sống bừa bộn, những chuyện bực mình lặt vặt – tập cho Tessa thói quen vệ sinh cá nhân, phát hiện ra sai sót trong biên lai tính tiền, tìm ra nguyên nhân tại sao xe hơi của chúng tôi lại kêu xình xịch một cách yếu ớt khi chúng tôi vào số 3. Những chuyện như vậy trở thành vấn đề thông thường của chúng tôi, những thứ mà chúng tôi có thể tách ra và kiểm soát được, một cuộc sống có những bước chuyển khôn lường. Vì thế tôi không thể đổ lỗi cho Phil khi anh làm bộ như mọi chuyện vẫn bình thường. Tôi cần điều đó hơn anh. Bây giờ tôi không thể nói với anh điều mà tôi thật sự cảm thấy, nó là cái gì. Tất cả những gì mà tôi biết là tôi thức dậy mỗi buổi sáng trong nỗi kinh hoàng sợ rằng có một điều gì đó xảy ra trong giấc ngủ. Đây là những ngày tôi bị ám ảnh rằng nếu như tôi chỉ bị mất một nút áo thì tôi nghĩ rằng cuộc đời của tôi sẽ không thể bình thường được cho đến khi tôi tìm thấy nó. Đây là những ngày tôi nghĩ Phil là người không biết điều nhất trên đời, chỉ bởi vì anh quên mua một món trong danh sách hàng đi chợ. Đây là những ngày tôi sắp xếp ngăn kéo đồ lót của mình theo màu, như thể nó có thể mang đến một sự thay đổi nào đó. Đây là những ngày tồi tệ. Trong những ngày sung sướng tôi nhớ rằng tôi là một người may mắn, may mắn theo tiêu chuẩn mới. Trong vòng bảy năm qua, tôi chỉ có một cơn bộc phát ghê gớm, điều này giờ đây có nghĩa là tôi dễ dàng mất quân bình, đặc biệt là khi tôi bực tức hay vội vã. Nhưng tôi vẫn đi được. Tôi vẫn mang rác đi đổ. Thỉnh thoảng tôi vẫn có thể quên bệnh tật trong một vài giờ, hoặc có thể là trong cả một ngày. Tất nhiên, cái điều tệ hại nhất là tôi còn có thể nhớ lại – thường là bằng những cách không ngờ nhất – rằng tôi đang sống trên một mảnh đất bị nguyền rủa gọi là sự thú tội. Sự thăng bằng mong manh ấy bao giờ cũng bị đe dọa vuột ra khỏi mức của nó mỗi khi tôi gặp mẹ. Bởi vì đó là lúc tôi phải đối diện với một điều khó khăn nhất: tôi mắc một căn bệnh khủng khiếp và tôi còn chưa nói cho bà biết. Tôi cũng muốn nói với mẹ tôi. Một vài lần tôi đã có kế hoạch hẳn hoi. Khi bệnh tôi mới được chuẩn đoán, tôi nói “Mẹ à, mẹ cũng biết là con có vấn đề rắc rối chút xíu ở chân, như con đã nói cho mẹ biết đấy. Vâng, ơn Chúa, nó không phải là bệnh ung thư nhưng…” Lập tức là bà kể cho tôi nghe về một khách hàng của bà vừa mới chết vì bệnh ung thư, rằng ông ta phải đau đớn ra sao và trong đám ma của ông có bao nhiêu vòng hoa. “Rất lâu trước đó, mẹ nhìn thấy một vết trên mặt ông ta” bà kể. “Mẹ bảo ông ấy đi khám bác sĩ đi. Chẳng có vấn đề gì, ông ấy nói, dấu vết của tuổi tác ấy mà – chẳng thể làm gì được với nó hết!” Rồi bà nghiêm khắc cảnh cáo tôi. “Đó là lí do tại sao con phải cẩn thận.” Sau khi sinh Cleo, không muốn có thêm rắc rối về phần tôi hay bà, tôi lại bắt đầu nói về chuyện này. Nhưng mẹ đã ngắt lời tôi, lần này thì than vãn là ba tôi đã không sống được đến lúc này để nhìn con cháu khôn lớn. Sau đó bà sa vào màn độc thoại không có lời kết về việc cha tôi đã phải chịu những đau khổ mà ông không đáng phải chịu. Ba tôi chết vì bệnh ung thư bao tử khi tôi 14 tuổi. Bao năm qua mẹ tôi vẫn không thôi tự hỏi về nguyên nhân của nó, cứ như là bà vẫn kịp sửa lại cái tai họa này nếu như bà tìm được nguyên nhân lúc bệnh mới phát. “Ông ấy là người tốt như thế,” mẹ tôi ngậm ngùi. “Cớ làm sao mà ông ấy lại chết thảm như vậy”. Thỉnh thoảng bà cũng cho đó là ý của Chúa để lí giải nguyên do của mọi việc, nhiều khi bà có một ý khác. Bà nói rằng đó là tại vì cha tôi là mục sư. “Ông ấy lắng nghe mọi vấn đề rắc rối của người khác”, bà nói. “Ông ấy vận vào mình cho đến khi chúng làm ông ấy phát bệnh. Ôi giời. Ứng hài phải tìm cho ông ấy một công việc khác. Ứng hài là điều mà mẹ tôi luôn nói khi bà ngụ ý lí ra tôi phải. Ứng hài là mẹ tôi phải thay đổi bàn tay của số phận, mẹ tôi lẽ ra phải ngăn ngừa được tai họa. Với tôi, Ứng hài có nghĩa là mẹ tôi sống cả một đời với những nuối tiếc không bao giờ nguôi với thời gian. Những tiếc nuối này càng lớn hơn khi bà tìm thấy nhiều lí do hơn trong cái chết của cha tôi. Một lần bà nói lên quan điểm của bà về những nguyên nhân do môi trường chung quanh – rằng người thợ điện đang bị bệnh vào cái lúc ông ta mắc lại dây điện trong bếp nhà tôi. “Ông ta đã truyền bệnh thẳng ngay vào mái nhà của chúng ta,” bà tuyên bố. “Đúng như thế. Mẹ mới phát hiện ra là người thợ điện này cũng chết vì ung thư. Ứng hài đã bắt đi một người khác”. Cũng chính là do sự mê tín này mà tôi đã đi đến chỗ nghĩ về cái thuyết 9 điềm gở của bà. Bà nói rằng một lần bà đã nghe nói là một người sẽ phải chết nếu trước đó có tám điều xấu xảy ra. Nếu bạn không nhận ra trước tám điều đó và ngăn chặn lại thì cái điều thứ 9 sẽ là đòn chung cuộc. Sau đó bà đã đi tìm tám điều xấu đã xảy ra và cớ sao bà không đủ khôn ngoan để phát hiện ra chúng đúng lúc. Cho đến hôm nay chuyện này đã làm tôi phát điên lên – cứ phải nghe mãi những giả thuyết khác nhau của bà; về tôn giáo, về thuốc men, và những điều dị đoan nổi cộm lên trong tín ngưỡng của bà. Bà chẳng đặt mảy may lòng tin nào vào logic của người khác, đối với bà logic là cái cớ láu cá về những thảm kịch, nhầm lẫn và tai họa. Theo như mẹ tôi thì chẳng có điều gì là bất ngờ cả. Bà thích quan điểm Freud của người Trung Hoa hoặc là một cái gì còn tệ hơn nữa. Mọi thứ đều có lí do. Mọi thứ đều có thể ngăn chặn được. Ví dụ lần cuối cùng tôi ở nhà bà, tôi cụng đầu vào khung ảnh của cha tôi và làm bể khung kính. Mẹ tôi nhặt những mảnh kính lên, rên rỉ. “Sao mà chuyện này lại xảy ra cơ chứ?” Đầu tiên tôi cho đó là câu hỏi khoa trương ngớ ngẩn, nhưng sau đó bà lại nói với tôi, “Con có biết tại sao không?” Tôi đáp, “Dào ơi, đó là một việc không may mà. Cùi chỏ của con va phải nó.” Và tất nhiên câu hỏi của bà làm tôi phải suy nghĩ căng thẳng, phải chăng đó là dấu hiệu bệnh tình của tôi trầm trọng hơn. “Tại sao lại là ảnh cha con chứ?” bà lẩm bẩm một mình. Vì thế mà tôi không bao giờ nói với mẹ tôi về vấn đề của mình. Trước hết tôi không muốn nghe cái lí thuyết của bà về bệnh tật của tôi, nguyên nhân của nó, rằng tại sao bà lại không làm điều này điều kia để ngăn chặn lại. Tôi không muốn bà nhắc nhở tôi về điều đó. Bây giờ thì bao nhiêu thời gian đã trôi qua rồi, cái sự thật là tôi vẫn chưa hé miệng với bà về căn bệnh làm cho nó sẽ mười lần nghiêm trọng hơn. Tôi sẽ luôn luôn bị đay nghiến mỗi khi tôi gặp bà, hay mỗi khi nghe bà nói. Mary biết điều này và đó là lí do tại sao tôi lại tức điên lên – đó không phải vì chị ta đã xía vào chuyện bệnh tật của tôi. Tôi phát điên lên bởi vì chị ta đã nói với dì Helen về bệnh tật của tôi. “Chị phải nói với bà” chị ta giải thích với tôi một cách suồng sã. “Bà bao giờ cũng nhắc nhở chị bảo Pearl về thăm mẹ nó thường xuyên hơn, chỉ một giờ lái xe thôi. Nói với Pearl là nó nên mời mẹ nó đến sống chung với nó, mẹ nó sẽ đỡ cô đơn hơn. Cuối cùng chị phải nói với bà là không thể bảo em những điều này. Rồi bà hỏi là tại sao.” Mary nhún vai nói tiếp. “Em biết tính mẹ chị. Chị không thể nói dối bà. Tất nhiên là chị đã buộc bà phải hứa là sẽ không nói điều này với mẹ em, rằng em sẽ tự nói ra.” “Em có thể lái xe,” tôi bảo Mary, “và đấy không phải lí do tại sao em không mời mẹ em đến sống với chúng em?” Sau đó tôi lườm chị ta. “Tại sao chị lại làm như thế?” “Bà ấy sẽ không nói gì đâu”. Mary nói, “chị đã bắt mẹ chị hứa rồi.” Sau đó chị ta nói thêm hơi có vẻ thách thức. “Dù sao thì em cũng phải nói với mẹ em từ lâu rồi mới phải.” Mary và tôi đã không cãi cọ nhau về điều này, nhưng quan hệ của chúng tôi lạnh nhạt dần từ đó. Chị ta chắc chắn là phải biết được cái điều tệ hại nhất mà chị ta có thể sẽ gây ra cho tôi. Chị ta đã một lần làm thế chín năm về trước, khi tôi thổ lộ với chị rằng tôi đang mang thai. Tôi bị sảy thai trong lần có bầu đầu tiên và mẹ tôi cứ lải nhải mãi về chuyện nào là tôi uống bao nhiêu cà phê, rồi sao mà tôi lại chạy bộ như thế, rồi đáng lí Phil phải quan tâm nhiều hơn đến việc ăn uống của tôi. Vì thế khi tôi có thai lần thứ hai tôi quyết định để cho chắc ăn đến tháng thứ 4, thứ 5 mới nói cho mẹ tôi biết. Nhưng vào tháng thứ 3 tôi đã mắc một sai lầm khi cho Mary biết. Rồi Mary tiết lộ cái tin này cho dì Helen, người không trực tiếp nói điều ấy với mẹ tôi. Nhưng khi mẹ tôi tự hào khoe với nhà Công là tôi đang có bầu thì dì Helen lập tức chỉ cho mẹ tôi chiếc áo len nhỏ màu vàng mà bà đang đan cho đứa nhỏ trong bụng tôi. Thế là tôi bị ngập trong những lời ca thán của mẹ tôi về chuyện này ngay cả sau khi Tessa đã ra đời. “Tại sao con có thể nói với nhà Công mà không phải là với mẹ đẻ ra mình chứ?”, bà không ngừng trách móc. Khi bà không thể nuốt trôi được chuyện này và trở nên thực sự bực tức, bà kết tội tôi đã biến bà thành ngớ ngẩn. “Hừm! Dì Helen giả vờ hết sức ngây thơ và hết sức ngạc nhiên.” “Ôi, tôi không đan áo len này cho con của Pearl đâu. Chỉ là trùng hợp thôi mà.” Cho đến nay, dì Helen vẫn giữ kín mồm miệng về căn bệnh của tôi. Nhưng mà nó làm cho bà đối xử với tôi như một con bệnh thật sự. Khi tôi tới nhà bà, bà sẽ cẩn thận bảo tôi ngồi vào đúng chỗ, trong khi bà đi tìm một cái gối để cho tôi lót lưng. Bà sẽ miết lòng bàn tay của bà trên cánh tay tôi, hỏi tôi cảm thấy thế nào, nói với tôi rằng bà bao giờ cũng coi tôi như con gái. Rồi bà thở dài não ruột và tiết lộ một vài tin buồn như là một cách ngầm hiểu rằng bà đã biết về bệnh tình của tôi. “Cậu Henry đáng thương của con tháng trước cũng suýt đi đấy chứ. Bao nhiêu tiền đổ ra đấy. Ai mà biết chuyện gì xảy ra? Đừng nói với mẹ con nhé. Dì không muốn bà ấy phải lo lắng.” Đến lượt tôi lại phải lo lắng rằng dì Helen sẽ cho rằng sự thú nhận nho nhỏ của bà sẽ là một kiểu đền bù nào đó do đó bà có quyền tỉ tê với mẹ tôi: “Ôi Winnie à, tôi nghĩ là chị đã biết về nỗi đau của con gái chị.” Còn tôi thì sợ muốn chết rằng một ngày nào đó mẹ sẽ gọi cho tôi và hỏi tôi tới tấp hàng trăm câu hỏi. “Tại sao dì Helen biết? Tại sao con không nói cho mẹ biết để mẹ ngăn chặn điều đó?” Vậy thì tôi có thể làm gì đây? Trong bữa tiệc, chúng tôi ngồi ở “mâm trẻ con”, chỉ có điều “trẻ con” bây giờ đã 30, 40 tuổi. Những đứa trẻ con thực sự - Tessa và Cleo – thì ngồi với mẹ tôi. Tối nay, Phil là người độc nhất không phải là người Hoa, mặc dù đây không phải là trường hợp duy nhất trong họ chúng tôi trong bảy năm qua. Hai người vợ trước của Bảo Bảo là người mà dì Helen gọi là “người Mỹ” như một ám chỉ về chủng tộc. Bà mê mẩn cả người với cái việc vợ chưa cưới của Bảo Bảo, một cô gái tên là Mimi Wong không những người Hoa thuần chủng mà còn xuất thân từ một gia đình giàu có sở hữu ba công ty du lịch. “Nó giống người Nhật,” mẹ tôi nói trong lần gặp đầu tiên với Mimi. Tôi không hiểu sao mẹ tôi lại nói thế. Theo tôi thì cô ta trông rất quái dị, cũng như rất trẻ con. Tôi đoán là cô ta chỉ 20 tuổi dù là mái tóc nhuộm màu cam và cái mũi sửa làm cho cô càng trẻ hơn. Tôi nghe đâu cô là thợ thực tập cắt tóc ở một tiệm têm là Oliphant. Mẹ tôi thì nghe nói rằng Mimi chỉ làm nhiệm vụ gội đầu và quét dọn thôi. Bảo Bảo đã thay đổi hình dạng bên ngoài từ lần chúng tôi gặp nhau mới đây. Tóc hắn chải ngược ra phía sau với dầu bóng. Hắn mặc một chiếc áo pull đen bên trong bộ đồ giả da cá voi lóng lánh. Mỗi một lần hắn giới thiệu Mimi với thực khách tôi lại cho phép mình liếc nhìn cái mũi làm lại của cô ta. Tôi tự hỏi không biết cô sẽ ra sao khi bị sổ mũi. “Bà chị họ yêu quý của em thế nào?” Bảo Bảo nói với tôi từ phía bên kia bàn, gắp cho tôi một miếng bò bít tết và nâng li sâm banh lên. “Đẹp không. Em thích mái tóc này, ngắn và dễ thương. Mimi, em nghĩ thế nào về kiểu tóc của Pearl? Dễ thương hả?” Bảo Bảo có biệt tài trong việc đưa đẩy những câu chuyện giữa đám đông. Đôi khi tôi tự hỏi tôi có quý hắn hơn không nếu tôi không biết về hắn rõ như vậy. “Chào ông anh Phil,” Bảo Bảo gọi, rót thêm champagne. “Em thấy là anh lên vài kí đấy. Cuộc sống dễ chịu hả. Có lẽ là anh đã sẵn sàng mua dàn âm thanh mới mà em đã nói với anh ấy. Thêm vài đồng mà âm thanh thì khỏi chê.” Bảo Bảo bán đài và tivi ở tiệm “Những chàng trai tử tế”, hắn rất giỏi trong việc thuyết phục mọi người là tai mắt của họ đủ tinh tế để thấy được sự khác nhay giữa một dàn hifi chuẩn và việc nâng cấp nó lên với giá $500. Phil đã có lần nói rằng nếu Bảo Bảo có cơ hội kiếm chác thì hắn dám bán cả kinh thánh cho dân Hồi giáo lắm. Đằng sau bàn của chúng tôi là bàn “người lớn”, có một ông tên là Lôi Phong – “cậu Lôi”. Ông quay lại nâng li bằng plastic chứa rượu chúc mừng. “Thật là tiện cho Mimi”, ông nói, “ Cô ấy chỉ cần thêm chữ K vào tên của mình là có được một ông chồng. Wong thành Kwong (Công), phải không?” Ông phá lên cười to hơn ai hết, thưởng thức câu nói đùa của mình, sau đó ông quay lại bàn mình lặp lại chính câu đùa ấy với người khác. Ngồi cạnh ông là bà vợ Edna. Những người này cùng đi chung một nhà thờ trong nhiều năm, nhưng họ lại không thực sự thân thiết với nhà Công hoặc gia đình tôi. Tôi nghĩ hai vợ chồng này được mời bởi vì Edna Phong là người có trách nhiệm mua hoa trong thánh đường, và bà luôn mua hoa ở Đinh Hồ, tất nhiên là được hưởng hoa hồng 20%. Dì Helen ngồi cùng một bàn với vợ chồng cậu Lôi. Trong dịp long trọng này, dì mặc một chiếc áo dài kiểu Tàu bằng satanh màu hồng non, quá chật so với tấm thân đẫy đà nên tạo thành những nếp gấp chung quanh cái bụng ngấn mỡ. Mỗi lần dì vươn tay ra rót trà, cái áo căng lên ở dưới nách và tôi lo rằng đường chỉ sẽ bục ra mất. Mái tóc mỏng tang của bà được làm dợn sóng với một nỗ lực làm cho nó trông dày hơn, nhưng trái lại làm trơ cả sọ. Mẹ tôi ngồi đối diện với dì Helen. Bà mặc một cái áo mới màu xanh mà bà tự may lấy, thực ra bà tự thiết kế lấy không dựa theo mẫu nào hết. Chiếc váy đơn giản hình chữ A với ống tay áo rộng của hoàng hậu. Nó làm cho thân hình bé nhỏ của mẹ tôi trông càng mỏng mảnh hơn. “Hàng lụa đẹp làm sao chứ,” Edna Phong nói với bà. “Hàng polyester,” mẹ tôi tự hào nói. “Giặt bằng máy được nhé.” Cleo tụt khỏi ghế của nó ngồi lên lòng bà, “Ha-bu,” nó nói, “con muốn ăn bằng đũa”. Mẹ tôi đẩy vào cái khay tròn lớn xoay giữa bàn, nhúng đũa của bà vào món ăn ưa thích. “Đây là cá đông,” mẹ tôi giải thích, gắp một miếng cá rung rinh đưa lại trước mặt Cleo. Tôi ngắm nhìn con gái tôi há miệng thật to như con chim non để mẹ tôi bón miếng cá vào miệng nó. “Coi này, con thích ăn đấy!” mẹ tôi kêu lên khi Cleo nhai tóp tép mỉm cười. “Khi mẹ con còn bé, mẹ con nói là ăn nó như ăn miếng cao su vậy.” “Đừng nói thế với con”, bất thình lình Cleo ré lên sau đó thì khóc nức nở, một nửa miếng cá nhai dở rớt ra khỏi cái miệng mếu máo của nó. “Nín đi, nín đi con,” dì Helen kêu lên với nó từ phía bên kia bàn. “Xem này con, có miếng thịt bò thơm lắm nè. Con ăn nhé, giống như bánh mì hamburger của Mc Donald đó. Ăn đi.” Và Cleo vẫn còn thổn thức, há miệng ra đón lấy miếng thịt bò, nuốt lấy nuốt để. Mẹ tôi mím chặt miệng mắt nhìn đi chỗ khác. Tôi cảm thấy buồn cho mẹ, vì bà đã bị thất bại với kỉ niệm của mình về sự thích thú hồi bé của tôi với bất cái gì dai như cao su. Tôi nghĩ đến khả năng một đứa trẻ làm tổn thương mẹ nó bằng những cách mà nó không bao giờ hình dung được. Buổi tối hôm đó trở nên tệ hại hơn là tôi nghĩ nữa. Suốt trong bữa tiệc tôi quan sát mẹ tôi và dì Helen căng thẳng với nhau. Họ cãi nhau bằng tiếng Hoa về nỗi hoặc là thịt heo mặn quá hoặc là thịt gà nấu kĩ quá, rồi là món “Gia đình hạnh phúc” dùng quá nhiều nước hầm hạt dẻ để làm mở miệng sò. Tôi để ý thấy Phil cố hết sức để nói chuyện một cách lịch sự với cậu em họ Frank, người hút thuốc lá liên tục, một điều mà Phil ghét tệ ghét hại. Tôi nhận thấy những gia đình đã đi lại với nhau bao năm qua cũng chẳng thật tình chút nào trong câu chúc cô dâu chú rể bách niên giai lão vì họ biết tỏng rằng đôi này sẽ li hôn trong vòng hai năm. Tôi cười gượng gạo, lắng nghe Doug và Mary tán chuyện với tôi như thể chúng tôi vẫn là những người bạn thân nhất. Chủ yếu là tôi nhìn mẹ tôi ngồi ở bàn bên cạnh, tôi cảm thấy mình cũng cô đơn như là tôi nghĩ như vậy về bà. Tôi nghĩ đến cái khoảng cách xa tít tắp đã ngăn cách chúng tôi khiến cho mẹ con tôi không có khả năng chia sẻ với nhau những vấn đề quan trọng nhất trong đời. Làm sao mà chuyện đó lại xảy ra được nhỉ? Và bất thình lình tất cả mọi thứ - những bình hoa đặt trên bàn ăn bằng plastic, kí ức của mẹ về thời thơ ấu của tôi, các mối quan hệ gia đình, tất cả đều là một sự vờ vịt vừa buồn bã vừa chân thật, tất cả những điệu bộ vô nghĩa này, những sự hiểu lầm cũ rích này, những bí mật đau buồn này, tại sao chúng tôi lại giữ chúng? Tôi cảm thấy ngạt thở, tôi muốn bỏ chạy. Một bàn tay vỗ vào vai tôi. Đó là dì Helen. “Có mệt quá không?” Dì thì thầm hỏi. Tôi lắc đầu. “Thế thì hãy giúp dì cắt bánh nhé. Nếu không thì dì lại phải trả thêm tiền cho nhà hàng thôi.” Và tất nhiên tôi tự hỏi bí mật nào bà sắp thổ lộ đây. Trong bếp, dì Helen cắt một cái bánh kem trắng phau ra thành từng miếng vuông nhỏ và đặt lên những đĩa giấy. Dì liếm những ngón tay còn dính kem, nhét trái dâu rơi ra vào đúng vị trí của nó. “Bánh ngon nhất ở San Chee Bakery trên đường Clement đấy. Cháu biết chỗ này không?” Tôi vừa lắc đầu, vừa đặt muỗng vào từng chiếc đĩa nhựa. “Vậy thì có thể cháu biết một điều gì khác chứ,” dì nói với vẻ nghiêm nghị. Dì ngừng cắt bánh, nhìn tôi, đợi một câu trả lời. Tôi ngạc nhiên vì sự thay đổi trong giọng nói của bà vì quả tình tôi chẳng hiểu bà đang nói gì cả. “Chẳng sao,” bà nói cụt lủn, rồi tiếp tục cắt bánh. “Dì biết rồi.” Và trong lúc đứng ở trong bếp, bà nói cho tôi biết là bà phải đi khám bệnh hai tháng trước đây. Một ngày trời mưa bà té ở bậc thềm trước nhà, đầu đập vào hàng rào. Mẹ tôi lúc đó đang ở đấy vội đưa bà vào bệnh viện. Họ chụp X.quang: không gãy xương, không bị chấn thương sọ não, không giống như bà dì Du, thật may mắn cho bà quá. Nhưng người ta tìm thấy một điểm đen trên sọ, lại có nhiều xét nghiệm nữa. Tôi há hốc mồm nghe, còn dì Helen thì nhanh chóng tiếp lời. “Tất nhiên, các bác sĩ làm nhiều xét nghiệm sau đó để kiểm tra. Họ bảo dì rằng đó là một khối u “lành tính”. Bà nói từ này như thể bà đang xướng lên câu 9B trong một phòng chơi bingo. “Họ nói không có vấn đề gì. Không cần mổ.” Tôi thở dài, trong khi bà vẫn tiếp tục. “Mẹ con nói chị may mắn quá, không có gì đáng ngại. Các con dì, dượng Henry, tất cả đều nói như vậy, bây giờ dì sẽ sống lâu trăm tuổi. Nhưng mà cháu nghĩ là họ thực sự nghĩ gì?” Tôi lắc đầu. “Cháu xem đấy. Tại sao Bảo Bảo bất thình lình tuyên bố là nó sẽ lấy vợ? Sao Mary lại bay đến đây mang theo cả gia đình nó? Và Frank nữa, nó cắt tóc trước khi dì yêu cầu đến lần thứ hai.” Dì mỉm cười. “Rồi cả mẹ con nữa. Hôm nay bà ấy đến cửa hàng nói: về đi về đi, chị quá bận rộn với bữa tiệc của con trai rồi. Để tôi làm vòng hoa cho. Tại sao con lại lắc đầu? Điều đó đúng mà.” Khuôn mặt bà trở nên nghiệm trọng hơn. “Dì tự hỏi, sao lại có sự thay đổi lớn thế này, tại sao mọi người trở nên rất dễ thương đối với tôi như thế? Tại sao lại đột ngột như thế? Con cái dì trở nên kính trọng dì hơn, tại sao nào? Chúng đến để gặp dì, để làm gì nào? Mary lại gọi dì là mẹ yêu… Mẹ con thì giành làm tất cả mọi chuyện. Con biết tại sao không? Họ biết đấy, tất cả bọn họ biết là dì sắp chết. Họ không nói, nhưng dì nghĩ là cũng chẳng lâu đâu.” Tôi đặt những cái dĩa vào. “Ôi dì ơi. Con chắc là không có chuyện gì đâu. Nếu họ nói là u lành thì có nghĩa là…” Dì Helen giơ tay lên. “Không cần phải vờ vịt làm gì. Dì không sợ gì đâu. Dì đâu còn trẻ trung, sắp 73 tuổi rồi còn gì”. “Con không giả vờ”, tôi cự lại. “Dì sẽ không chết đâu”. “Ai cũng giữ kín điều này, được thôi. Họ muốn tỏ ra tử tế với dì trước khi dì chết, được thôi. Dì cũng sẽ giả vờ như dì chẳng biết gì.” Tôi trố mắt nhìn vì bối rối. Tôi không biết là dì bệnh thật hay chỉ nghĩ những điều tệ hại về ý định tốt đẹp của con cháu. Dù sao nó cũng làm tôi thấy kì lạ việc dì nói về sự thay đổi thái độ đột ngột của mọi người. Có vẻ như nhà Công có một bí mật mà họ giả vờ là không ai biết gì. “Đừng lo cho dì,” bà nói, đập vào tay tôi. “Dì không cho con biết để làm con lo lắng. Dì chỉ nói để cho con hiểu tại sao dì sẽ không giữ bí mật của con nữa.” “Bí mật nào ạ?” Dì thở dài thườn thượt “Pearl à, đó là một gánh nặng đối với dì, đôi vai dì, trái tim dì nặng trĩu vì mẹ con đã không biết điều đó. Làm sao dì có thể bước vào thiên đường khi gánh nặng này chưa được cất đi? Không, con phải nói với mẹ con, Pearl à. Bảo với bà về bệnh của con đi.” Tôi quá sững sờ để có thể cất tiếng cười hoặc sửa sai cho bà. “Đó là một việc làm đúng đắn,” dì Helen nói với vẻ thuyết phục. “Nếu con không nói được, để dì tự nói cho – trước tết Âm lịch.” Dì nhìn tôi với vẻ mặt nghiêm nghị. Còn bây giờ tôi muốn lay tỉnh bà, bảo bà thôi cái trò này đi. “Dì Helen, dì biết là con không thể nói điều đó với mẹ con được. Dì biết mẹ con thế nào mà.” “Tất nhiên rồi,” dì nói. “Dì biết mẹ con đã 50 năm rồi, đó là lí do dì biết là đã đến lúc phải nói với bà ấy.” “Tại sao con phải nói với mẹ con lúc này? Mẹ con sẽ chỉ giận dữ là chúng ta đã giấu bà sự thật bấy lâu nay”. Dì cau mày. “Con chỉ quan tâm đến việc mẹ con giận dữ với con sao? Chà chà! Con ích kỉ quá.” “Không, không phải thế, con muốn nói rằng chẳng có lí do gì để nói với mẹ con lúc này.” “Con nghĩ rằng con có thể giấu điều này đến khi bà chết sao? Có thể bà ấy sống đến 100 tuổi. Lúc ấy con làm sao?” “Không phải vậy, con chỉ không muốn mẹ con lo lắng”. “Mẹ con có quyền được lo lắng,” dì Helen nói, “bà ấy là mẹ con mà”. “Nhưng mẹ con không cần phải lo lắng vì một điều không có gì nghiêm trọng.” “Đó là lí do tại sao con phải nói với bà ấy lúc này, sẽ không có vấn đề gì phức tạp sau này.” “Nhưng mẹ con sẽ ngạc nhiên tại sao chúng ta lại giữ bí mật với bà. Mẹ con sẽ nghĩ là nó còn tồi tệ hơn nữa.” “Có thể bà ấy cũng có những bí mật.” Bà mỉm cười sau đó cười lên thành tiếng như đó là một trò đùa riêng tư. “Mẹ con, ồ phải có nhiều bí mật lắm!” Tôi có cảm tưởng như tôi đang sống trong một cơn ác mộng, cãi nhau với một người không hề nghe tôi. Có thể dì Helen đúng, dì có một cái bướu ở trong não. Có thể là nó đã ăn hết đầu óc của dì và dì đã phát điên lên. “Thôi được”, cuối cùng tôi nói. “Nhưng dì không phải là người nói với mẹ con điều đó. Con sẽ nói.” Dì Helen nhìn tôi ngờ vực. “Con hứa thế chứ?” “Con hứa,” tôi thì thầm, thậm chí tôi đã không biết là tôi đã nói dối. Bà xoa xoa vai tôi, sờ chiếc áo len xanh của tôi. “Màu này hợp với con lắm Pearl à. Thôi không nói chuyện nữa. Ta ra ngoài đi.” Dì cầm lấy cái khay bánh. “Con mang được mà,” tôi nói cụt lủn, dì Helen do dự, sẵn sàng tranh luận. Rồi có lẽ nghĩ đến bệnh của dì, dì để tôi mang khay. Sau bữa tối, chúng tôi quay lại nhà mẹ tôi. Hai con gái tôi hết cười đùa lại đánh nhau, khóc lóc rồi cuối cùng lăn ra ngủ. Tôi nghĩ đến việc hỏi mẹ tôi về cái “não” của dì Helen nhưng rồi tôi quyết định không phải là lúc hỏi về một chủ đề có thể dẫn đến những chủ đề khác. Tôi kiệt sức và sau khi uống trà, cà phê hòa tan và nước cam với mẹ tôi, tôi đứng dậy ngáp. “Con đi ngủ dây,” tôi nói. Phil hôn mẹ tôi chúc ngủ ngon, mẹ tôi đón nhận cái hôn với một cái má ngẩng lên cứng ngắc, cuối cùng thì chúng tôi cũng trốn được về phòng. “Con có mang bàn chải đánh răng không?” Mẹ tôi kêu lên bên ngoài cánh cửa đóng kín của chúng tôi. “Đã đánh răng chưa?” “Rồi ạ,” Phil kêu lớn. “Chúng con đang đánh răng.” “Có đủ khăn không, có đủ khăn không?” “Nhiều lắm ạ,” anh la lên và tắt điện, im lặng được 5 giây. “Có lạnh quá không? Lò sưởi có thể bị tắt đấy.” “Mẹ ơi, chúng con ổn mà,” tôi nói với một chút bực mình. Sau đó tôi nói thêm, lần này nhẹ nhàng hơn. “Mẹ đừng lo, mẹ đi ngủ đi.” Tôi nín thở. Chỉ còn im lặng và cuối cùng, tôi nghe tiếng dép của bà nhẹ dần trên lối đi, mỗi một tiếng động nhẹ nhàng lại làm lòng tôi tan nát. 2. ĐÁM TANG BÀ DÌ DU Mẹ tôi ra khỏi nhà từ hai tiếng trước với dì Helen để họ có thể chăm lo mọi việc cho đám ma. Bây giờ thì tôi và Phil sẽ đến đám ma bà dì trễ vì một vụ cãi nhau giữa Tessa và Cleo, kết quả là những quả trứng dễ dàng chọi trúng cái áo đẹp và chiếc cà vạt duy nhất của Phil. Khi chúng tôi tìm địa điểm trên đường Clement, Phil gợi ý rằng chúng tôi không nên mang bọn trẻ đến đám ma, “Chúng có thể làm mất trật tự,” anh nói, “và chúng cũng chẳng thích một người chết đâu”. Tessa cười nhăn nhở nói một giọng như hát, “Ba đang nói một từ xấu nha.” “Có thể anh với chúng sẽ đợi em ở ngoài xe.” “Bọn chúng sẽ ổn thôi,” tôi trấn an anh. “Em đã hỏi mẹ cái quan tài có đậy nắp không, mẹ nói là có. Và em cũng đã giải thích với bọn trẻ cũng như hồi chúng ta đến dự đám cưới Steve và Joane - chúng lớn rồi mà. Phải thế không các con?” “Chúng con sẽ có bánh phải không?” Cleo hỏi. “Thôi được”, Phil nói, “nhưng sau khi liệm hãy kiếm một cái cớ để về nhà ngay”. “Tất nhiên rồi.” Hai giờ 20 phút, bốn chúng tôi đi vào nhà tang lễ. Cậu em họ Frank đưa cho chúng tôi băng tang đeo ở tay. Khi choàng nó vào cánh tay, tôi cảm thấy có phần nào ngượng ngập với vật biểu tượng cho nỗi đau mất mát này. Bây giờ tôi nhận ra là tôi chẳng biết gì về bà dì này ngoài cái việc người bà bao giờ cũng có mùi băng phiến, bà luôn ép tôi ăn mấy cái kẹo của người Hoa, hay bò khô tẩm đường lấy từ trong những cái hộp cũ kĩ, bẩn thỉu đặt trên nóc tủ lạnh. Bảo Bảo cũng đứng ở đây để chào đón chúng tôi, với nụ cười ngoác đến mang tai. “Chào mọi người, rất mừng khi cuối cùng anh chị cũng đã tới,” rồi đưa cho chúng tôi mỗi người một cái kẹo và một phong giấy đỏ đựng tiền may mắn. “Chúng ta làm gì với những thứ này?” Phil thì thầm. “Đưa cho bà dì Du hả?” Anh mở một góc phong bì đựng tiền may mắn ra. “Làm sao em biết được?” Tôi thì thào với anh. “Em chưa bao giờ dự một đám tang Phật giáo, hay một cái gì tương tự cả.” “Mẹ em nói những thứ này để giải những xúi quẩy mà anh chị có thể bị khi đi đám ma.” Bảo Bảo nói, “Anh chị còn kẹo để gặp may mắn. Rồi lại mua được may mắn nữa với số tiền này.” “Con sẽ ăn kẹo của con ngay,” Tessa tuyên bố. Cleo đưa kẹo của nó cho tôi bóc, “Mẹ, con nữa, con nữa.” Phil giở phong bao của anh, “Nói xem, nếu anh dùng tiền này mua kẹo cao su, thì vận may của anh có kéo dài hơn không?” Chúng tôi bước lại chỗ quan tài. Đột nhiên ánh đèn chiếu vào làm chúng tôi lóa mắt. Và Cleo - sửa sang lại đầu tóc và cúi chào như một ngôi sao điện ảnh. Tôi không tin vào mắt mình: Dượng Henry đứng ở giữa lối đi đang quay video đám ma! Ai là người coi những thước phim này? Mặc dù lóa mắt vì ánh đèn, tôi vẫn có thể nhìn thấy mẹ tôi. Bà ra dấu cho chúng tôi đến ngồi với bà ở dãy thứ hai. Phil dắt bọn trẻ con, trong khi máy vẫn tiếp tục quay. Chúng tôi bước thật lẹ trên lối đi, đi qua hàng chục người trong nhà tang lễ - Mary, Doug và bọn trẻ, một vài người đi chung nhà thờ, tất cả đều là người Hoa. Tôi nhìn thấy mấy bà già mà tôi chưa từng gặp bao giờ. Trông họ như những người mới nhập cư nếu căn cứ vào những mái tóc không nhuộm, ngắn ngủn và những cái áo bông trần lỗi thời màu nâu. Khi chúng tôi vào đến chỗ ngồi, dì Helen quay xuống từ hàng ghế trước. Bà nắm chặt tay tôi và tôi nhìn xuống những giọt lệ trong mắt bà, trong khi mắt mẹ tôi vẫn ráo hoảnh, “Sao tới trễ vậy các con. Dì bảo họ đợi cho đến khi các con đến.” Bất thình lình Cleo cười như nắc nẻ, chỉ trỏ. “Ba ơi, có một bà nằm kia kìa. Còn bữa cơm của bà ấy thì bốc cháy.” Tessa cũng nhìn chằm chằm, duy chỉ có đôi mắt nó mở thật lớn, cái miệng há to. Tôi cũng nhìn thấy điều đó – Chúa ơi – bà dì Du nằm trong quan tài, với cặp kiếng trên khuôn mặt vô cảm như bằng sáp. Ngay trước quan tài là một cái bàn thấp, dài đựng đồ ăn – trông giống như một mâm cơm Tàu 9 món, cùng với đĩa trái cây xếp một cách kì cục với những trái cam, xoài và những miếng dưa hấu đã xẻ. Đây chắc là cơm từ biệt cõi trần của bà dì Du để bước lên thiên đường. Khói nghi ngút bốc lên từ hàng nắm nhang đang cháy, khói cuộn lên quanh cỗ quan tài, như một con đường đưa bà sang thế giới bên kia. Phil nhìn tôi lom lom, chờ một lời giải thích. “Có thể là một sự nhầm lẫn,” tôi thì thầm, quay qua mẹ tôi, cố giữ cho giọng nói thật bình tĩnh. “Con nghĩ là mẹ quyết định đóng nắp áo quan mà,” tôi nói thật chậm rãi. Bà gật đầu. “Con thích không? Mẹ chọn quần áo cho bà đấy, tất cả là đồ mới. Cả áo quan mẹ cũng góp phần quyết định đấy. Chưa hẳn là gỗ tốt nhất, nhưng cũng gần như là tốt nhất. Trước khi chôn, chúng ta sẽ lấy lại đồ trang sức, tất nhiên rồi.” “Nhưng con nghĩ là mẹ nói quan tài đậy nắp kia mà.” Mẹ tôi cau mày. “Mẹ không nói vậy. Làm sao con nhìn thấy bà nếu đóng nắp quan tài lại?” “Nhưng…” “Chúng ta có ăn ở đây không mẹ?” Tessa sợ hãi hỏi, vặn vẹo trên ghế ngồi. “Con không đói”, nó thì thầm. Tôi nắm chặt tay nó. “Bảo bà ấy dậy đi mẹ,” Cleo ré lên và cười khúc khích. “Bảo bà ấy không được ngủ trước bàn ăn. Như vậy là không lịch sự.” Tessa đập vào chân Cleo. “Im mồm đi Cleo, bà ấy không ngủ. Bà ấy chết rồi, như con mèo Bootie ấy.” Và môi dưới của Cleo trễ xuống, dài ra. “Đừng nói thế!” nó hét lên, ẩy vào vai Tessa. Tôi cố nghĩ ra một cách gì đó để làm chúng dịu đi – nhưng quá trễ. Chúng bắt đầu nhào vào nhau, kêu khóc la hét “Thôi đi! Mày thôi đi!” “Mày bắt đầu trước!” Mẹ tôi quan sát cảnh này xem tôi xử trí như thế nào. Nhưng tôi cảm thấy tê dại, bất lực không biết phải làm gì nữa. Phil đứng dậy, dẫn bọn trẻ ra ngoài, “Anh cho chúng đi ăn kem ở Colombus. Một tiếng sau anh sẽ quay lại”. “Khoảng 45 phút thôi,” tôi thì thầm. “Không lâu hơn đâu. Em đợi anh ở ngoài.” “Ba ơi, con được ăn kẹo chocolate với kem không?” Cleo hỏi. “Và một cái gì rắc bên trên,” Tessa thêm. Tôi nhẹ người khi nghĩ rằng đó có thể là tất cả những tổn thất còn lại, cái khẩu vị bị phá hỏng và những bàn tay nhớp nháp. Ở dãy ghế bên kia, con trai của Mary là Michael đang cười gằn. Trong khi ném cho nó một cái nhìn giận dữ, tôi nhận ra một điều khác. Dượng Henry vẫn tiếp tục quay video. Sau khi Phil và mấy đứa nhỏ đi ra ngoài, tôi cố giữ bình tĩnh. Tôi nhìn về phía trước, tránh cặp mắt của mẹ tôi và ống kính của dượng Henry. Không nên cãi nhau, tôi tự nhủ. Cái gì đã xảy ra thì cũng xảy ra rồi. Trước các hàng ghế là một bức ảnh lớn chụp bà dì. Trông như là được phóng lớn từ bức ảnh trong passport cách đây 50 năm. Trong ảnh bà không còn trẻ, nhưng vẫn còn nguyên hàm răng. Tôi nhìn lại trong cỗ quan tài. Cái miệng của bà móm xọm vào trong, khuôn mặt gầy gò trông như một con chim khô quắt. Bà nằm im, vì vậy tôi có cảm tưởng chúng tôi đang chờ một điều gì đó xảy ra như là bà dì đột nhiên biến dạng, hiển hiện thành một con ma. Điều này làm tôi nhớ lại chuyện xảy ra lúc tôi mới 5 tuổi, cái tuổi mà bất cứ điều gì cũng có thể xảy ra nếu như bạn có một trí tưởng tượng. Tôi đã nhìn chăm chăm vào những cái mắt nhấp nháy của một quả bí đỏ tạc hình người chờ những con yêu tinh bay ra. Cho đến tận hôm nay tôi vẫn nhớ một cách sống động tiếng cười của con ma cuối cùng thoát ra khỏi cái miệng của quả bí đỏ. Mẹ tôi chạy vào phòng trong khi tôi đang la hét. Tôi lắp bắp một cách kinh hoàng là tôi đã thấy ma. Thay vì an ủi tôi rằng cái chuyện kinh khủng đó chỉ là do tôi tưởng tượng ra, bà chỉ nói “Ở đâu?” Rồi đi tìm quanh phòng. Tất nhiên là sau đó ba tôi đoan chắc với tôi rằng chỉ có một con ma, đó là Chúa trời, mà Người thì không bao giờ lại nhát tôi cả. Tiếp đó ông chứng minh một cách khoa học rằng cái mà tôi nhìn thấy chỉ là làm khói bốc ra từ ngọn nến cháy chậm trong trái bí đỏ. Nhưng tôi chẳng thỏa mãn gì với câu trả lời của ông, bởi vì mẹ tôi đã trừng mắt nhìn tôi như thể tôi đã phản bội bà, làm cho bà trở thành ngớ ngẩn. Mọi chuyện là như thế đấy. Mẹ tôi luôn cố gắng che giấu những điều mà bà tin tưởng, nhưng không đồng nhất với niềm tin công giáo của cha tôi, nhưng thỉnh thoảng những niềm tin này cũng bị rơi rớt mất. “Cả bao chỉ, mẹ cũng làm,” bây giờ mẹ tôi lại nói với tôi. “Bà dì nói mẹ làm bánh ngon nhất.” Tôi gật đầu ngắm nghía những chiếc bánh bao hấp dẫn trên bàn. Mẹ tôi chắc chắn là làm bánh bao ngon nhất rồi, tôi nghĩ rõ hoài của nếu những chiếc bánh này chỉ được người ta ngắm nghía thôi. “Dì Helen nấu món gà với tiêu xanh,” mẹ tôi nói, sau cái gật đầu của tôi, bà tiếp. “Trông khô quá.” Tôi lại gật gù tiếp tự hỏi không biết là bà dì có thể thưởng thức tài nghệ nấu nướng này trong bữa tiệc dành cho bà không. Tôi nhìn những món ăn khác và nhận ra ở đây có cả những miếng bánh kem còn thừa ngày hôm qua. Phía trên cỗ quan tài là một tấm áp phích trắng dài làm từ giấy gói hàng được đóng lên tường. Tấm áp phích viết những dòng chữ lớn màu đen, cuối câu có một dấu chấm than, cũng giống như những biểu ngữ chính trị mà tôi đã nhìn thấy trong một tạp chí của Trung Quốc. “Nó viết gì vậy mẹ?” Tôi khẽ hỏi mẹ. “Hy vọng kiếp sau bà sẽ sống dài lâu và thịnh vượng. Chẳng có gì đặc biệt,” mẹ tôi đáp. “Mẹ không viết cái này, chắc là của ai đó quen với nhà Công. Có thể là Helen đã làm gì giúp họ.” Tôi nhìn những vòng hoa đặt trên kệ. Tôi tìm vòng hoa tôi viếng, đang định hỏi mẹ xem nó ở đâu thì dượng Henry bật đèn pha lên và bắt đầu quay cảnh bà dì nằm trong quan tài. Ông giơ tay ra hiệu một ai đó đứng lảng vảng gần đấy đi ra chỗ khác. Một lát sau, tôi nghe có tiếng cốc cốc của những vật bằng gỗ gõ vào nhau theo sau một âm đing-đing-đing đều đều như thể có ai thiếu kiên nhẫn rung một cái chuông trong tiền sảnh của một khách sạn. Những âm thanh này hòa cùng hai giọng hát một điệu gì đó chỉ gồm có bốn nốt cùng với một vần. Điệu ê a này được lặp đi lặp lại nhiều lần, tôi đã chắc mẫm là nó được phát ra từ máy hát thì nó dừng lại. Bây giờ, bước ra khỏi góc tường bên tay trái là hai nhà sư với những cái đầu trọc và áo nhà chùa màu vàng nghệ. Nhà sư to lớn hơn, già hơn thắp một nén nhang lớn, vái ba vái trước quan tài, cắm nhang vào bát nhang đang nghi ngút khói, quay lại vái thêm lần nữa. Nhà sư trẻ hơn luôn tay gõ mõ. Sau đó cả hai chầm chậm bước trên lối đi, tụng niệm “Ami – Ami Amitaba, Amitaba.” Khi nhà sư lớn tuổi đi ngang qua, tôi nhìn thấy một bên má của ông xẹp dí xuống và cái tai bên má ấy cũng bị dúm dó. “Chắc ông ta bị một vụ đụng xe khủng khiếp,” tôi thì thào với mẹ. “Đại cách mạng văn hóa,” mẹ tôi nói. Nhà sư nhỏ hơn, như bây giờ tôi mới thấy rõ, không phải là đàn ông, mà là đàn bà, một nữ sư với ba, bốn vết sẹo trên đầu. “Cô ta chắc cũng trải qua cách mạng văn hóa,” tôi nói với mẹ. Bà nhìn cô. “Trẻ quá. Có thể là do bọ chét cắn.” Bà kết luận như vậy. “Amitaba, Amitaba,” họ tiếp tục đọc đều đều. Bây giờ thì mấy bà già trong chiếc áo khoác cổ lỗ sĩ bắt đầu rên rỉ và gào khóc đưa tay lên hạ tay xuống, có vẻ như quá khổ đau. Dượng Henry hướng ống kính về phía họ. “Họ có phải là bạn thân của bà dì không?” Tôi hỏi. Mẹ tôi cau mày. “Không phải, đó là những người khóc mướn. Họ đến đây từ sớm, rồi ở lại khi thấy chúng ta không có nhiều người hờ người chết. Họ sẽ khóc lóc cho rôm rả, đổi lại dì Helen cho họ vài đồng. Bây giờ thì họ làm theo phong tục ngày xưa, khóc thật to và làm như thể họ không muốn người chết từ bỏ cuộc đời sớm như thế. Làm như vậy là để kính trọng hương hồn người đã khuất.” Tôi gật đầu, kính trọng. “Những người này có thể làm tới hai, ba đám ma một ngày,” mẹ tôi nói thêm, “kiếm được dăm, bảy đồng. Cũng tốt chán. Còn hơn là đi quét dọn.” “Hừm” tôi ừ hử, không biết được là bà nói thế với ý chê bai hay chỉ đơn giản là kể lại sự việc. Tiếng mõ vẫn đều đều, cộng thêm tiếng chuông nhanh hơn, nhanh hơn. Bất thình lình, câu đối viếng màu trắng tróc khỏi tường, cái ước muốn may mắn trường thọ ở kiếp sau cho bà dì của gia đình nọ rơi xuống quấn ngang ngực bà dì như tấm băng quấn ở ngực của các cô hoa hậu. Mẹ tôi và các phụ nữ lớn tuổi khác bật dậy kêu lên “Ôi giời ơi!” Con trai Mary kêu lên, “Rơi đúng chỗ thiệt,” rồi cười hô hố. Hai nhà sư vẫn luôn miệng tụng kinh, khuôn mặt không thay đổi. Mẹ tôi phát cáu, “Tệ quá!” bà lẩm bẩm rồi đứng dậy ra khỏi phòng. Vài phút sau mẹ tôi quay lại với một người Âu trẻ có mái tóc lưa thưa màu vàng. Anh ta bận đồ đen, vì thế anh ta chắc là người của nhà đòn. Tôi có thể nói là mẹ tôi tiếp tục mắng mỏ anh ta trong khi bà chỉ trỏ vào câu đối viếng đã rơi xuống một cách tai hại. Mọi người xì xào, trong phòng mấy bà vẫn kêu gào và khấn vái, các nhà sư vẫn tiếp tục đọc kinh. Người đàn ông tóc vàng bước nhanh về phía trước, có mẹ tôi theo sau. Anh ta xá bà dì ba xá, sau đó dịch cỗ quan tài sang một bên, chuyện này khá dễ dàng vì nó có gắn bánh xe. Sau một cái xá nữa, người đàn ông cung kính gỡ tấm băng ra khỏi ngực bà dì, nâng lên bằng cả hai tay như thể nó là một tấm áo lễ thiêng liêng. Trong khi anh ta đóng câu đối viếng lên tường, mẹ tôi chỉ đạo. “Góc này, đóng thêm đinh vào đây. Nữa, làm sao anh có thể để cho điều may mắn của bà rơi xuống như thế?” Xong việc, anh ta đẩy chiếc quan tài về vị trí cũ, lạy ba xá về phía người chết, một cái về phía mẹ tôi vẫn còn sôi lên vì giận, rồi nhanh chóng rút lui. Không hiểu anh ta xá như vậy để biểu lộ lòng thành kính thật sự, tôi tự hỏi, hay chỉ vì anh ta học được điều này để phục vụ khách người Hoa? Bây giờ thì Frank đưa cho chúng tôi mỗi người một cây nhang đang cháy. Tôi nhìn quanh, cố gắng nghĩ xem phải làm gì. Từng người một, chúng tôi nhập bọn với các nhà sư, và đọc theo, “Amitaba! Amitaba!” Chúng tôi đi quanh quan tài nhiều vòng, tôi cũng không biết là bao nhiêu lần nữa. Tôi cảm thấy thật ngớ ngẩn, cái nghi lễ chẳng có chút xíu ý nghĩa nào đối với tôi hết. Nó làm tôi nhớ đến một lần tôi theo một người bạn đến một thiền viện. Tôi là người duy nhất có vẻ mặt châu Á ở đây. Tôi cũng là người duy nhất ngó ngoáy liên tục, băn khoăn một cách sốt ruột không biết khi nào thì nhà sư đến để buổi thuyết pháp bắt đầu, hoàn toàn chẳng biết gì, mãi đến hai mươi phút sau mới nhận ra là những người khác không yên lặng ngồi chờ, như tôi tưởng, họ đang thiền. Bây giờ thì mẹ tôi đang vái bà dì. Mẹ tôi cắm nhang vào bát, xầm xì khấn vái, “Ai! Ai!” Những người khác theo gương bà, một vài người khóc, mấy bà già thì khóc to hơn. Bây giờ đến lượt tôi vái. Tôi cảm thấy có lỗi thế nào ấy, cũng cái cảm giác có lỗi trước kia – khi cha tôi làm lễ rửa tội cho tôi mà tôi không tin là mình được cứu rỗi đời đời, khi tôi được ban thánh thể mà tôi không tin nước nho ấy là máu của chúa Jesus, khi tôi cầu nguyện với những người khác về một phép màu nào đó sẽ cứu sống cha tôi, thì tôi cảm thấy ông đã chết trước đó rồi. Bất thình lình một tiếng nức nở bật ra từ lồng ngực tôi làm cho mọi người kể cả tôi cũng phải ngạc nhiên. Tôi hoảng hồn cố kìm lại nhưng mọi cố gắng đều vô ích. Trái tim tôi tan nát, cơn giận dữ đắng cay trào ra và tôi không thể dừng lại. Mẹ tôi cũng khóc. Bà mỉm cười với tôi qua hàng nước mắt, bà hiểu rằng nỗi đau này không dành cho bà dì mà cho ba tôi. Bởi vì bà đã chờ đợi tôi khóc như thế từ rất lâu, rất lâu rồi, từ hơn 25 năm về trước, từ cái ngày đám ma ba tôi. Tôi 14 tuổi, đầy giận dữ và bàng quan với mọi sự. Mẹ tôi, em tôi và tôi ngồi bên nhau trong một góc chờ khoảng nửa tiếng thì bắt đầu khâm liệm ba tôi. Mẹ tôi đã mắng mỏ tôi, bởi vì tôi nhất định không chịu đến bên quan tài nhìn mặt ba tôi lần cuối. “Samual đã từ biệt cha con, Samuel đã khóc,” mẹ tôi nhắc. Tôi không muốn khóc thương người đàn ông trong quan tài, người đàn ông ốm yếu gầy giơ xương, hoàn toàn bạc nhược, người luôn rên rỉ, trở nên bất lực, người vào những ngày tháng cuối đời luôn dõi theo mẹ tôi với đôi mắt hoảng loạn. Ông ta chẳng có gì giống với cha tôi trước kia: duyên dáng, sống động, mạnh mẽ, tử tế, bao giờ cũng rộng lượng cùng với tiếng cười vui đời, một người biết rõ phải làm gì khi mọi việc trở nên tồi tệ. Trong con mắt của ba, tôi là một cái gì hoàn hảo, một “viên ngọc không tì vết” của ông, chứ không phải một con bé luôn quạu quọ, bứt rứt khi ở với mẹ tôi. Mẹ tôi hỉ mũi: “Cái đứa không thể khóc cha là cái loại gì vậy?” “Người này không phải cha con,” tôi nói mặt chù hụ. Ngay lập tức mẹ tôi chồm lên tát vào mặt tôi. “Đồ xấu xa!” Bà hét lên. Tôi choáng váng. Đấy là lần đầu tiên mẹ đánh tôi. “Ái chà! Nếu mày không khóc được, tao sẽ làm cho mày khóc.” Rồi bà tát tôi, tát cái nữa, cái nữa. “Khóc đi, khóc đi!” mẹ tôi gào lên điên dại. Nhưng tôi ngồi bất động như cục đá. Cuối cùng nhận ra mình đang làm gì, mẹ tôi cắn vào bàn tay, lẩm bẩm cái gì đó bằng tiếng Hoa, rồi dắt tay con trai đi, bỏ tôi ở lại. Thế là tôi ngồi lại giận dữ và tất nhiên cũng thắng thế nữa, mặc dù tôi cũng chẳng hiểu ra thế nào nữa. Có thể tôi cũng chẳng hiểu gì, tôi thấy mình đi quanh cỗ quan tài, thở phì phò, tự nhủ rằng tôi đúng, mẹ tôi sai. Khi tôi kiên quyết không khóc, tôi cũng không bao giờ xét xem là tôi sẽ cảm thấy điều gì khác. Nhưng khi tôi nhìn ông, trắng nhợt và gầy gò. Tôi chắc là ông không yên nghỉ với Chúa, khuôn mặt ông rất nghiêm khắc, cứ như thể nó được đúc vào cái giây phút đau đớn cuối cùng của ông. Tôi cố giữ lại cho mình hơi thở dồn dập, cố gắng không khóc, thế là tôi bắt đầu thở gấp. Tôi chạy ra khỏi nhà tang lễ, chạy ra hớp lấy hớp để làn không khí trong lành bên ngoài, tôi chạy xuống đường Colombus về phía cảng, phớt lờ những người khách du lịch đang nhìn chằm chằm vào khuôn mặt giận dữ, đầy nước mắt của tôi. Cuối cùng, tôi bỏ lỡ mất đám tang ba tôi. Một cách nào đó, cái điều này cứ diễn ra trong quan hệ giữa mẹ con tôi từ dạo ấy. Cả hai chúng tôi đều được, cả hai chúng tôi đều mất, và tôi chẳng hiểu cuộc chiến giữa hai chúng tôi là kiểu gì nữa. Mẹ tôi cứ nói hoài nói hủy về cha tôi và nỗi thống khổ của ông, không bao giờ để cho mọi chuyện được chôn vùi. Cho đến tận hôm nay, tôi không bao giờ khóc hay nói về tình cảm của tôi dành cho cha tôi trước mặt mẹ tôi. Ngược lại, tôi cố giữ những kí ức sâu kín riêng tư của mình về ông - một nụ cười nào đó, chiếc áo mà ông mặc, tình cảm nồng nhiệt toát ra mỗi khi ông đứng trên bục giảng đạo. Nhưng tôi thường kết thúc những hồi tưởng khi tôi nhận ra là tôi đang nhớ những gì tôi tưởng tượng ra từ những tấm ảnh. Còn trong thực tế, kí ức sống động của tôi là vào lúc mà ông đau ốm, “Pearl ơi,” ông gọi yếu ớt từ giường bệnh, “con có muốn ba giúp con làm bài tập không?” Còn tôi thì lắc đầu. “Pearl ơi.” Ông gọi khi đang nằm ở ghế sofa, “đến giúp ba ngồi dậy với.” Tôi sẽ giả bộ là tôi không nghe thấy gì hết. Cho đến tận hôm nay, tôi vẫn còn có những cơn ác mộng về ba tôi. Tôi lại vừa có một giấc mơ như vậy. Trong giấc mơ này, tôi đi đến bệnh viện để kiểm tra xem căn bệnh của tôi có tiến triển tốt hay không. Không một lời giải thích, một bác sĩ nhét tôi vào một phòng đầy những bệnh nhân thập tử nhất sinh. Tôi la hét vẫy vùng: “Sao lại làm thế này với tôi. Anh phải giải thích!” Tôi cứ la hét mãi, la hét mãi nhưng chẳng ai đến cả. Rồi tôi nhìn thấy ba tôi, ở ngay trước mặt tôi trong một cái giường hẹp bẩn thỉu, bận một bộ đồ dơ hày. Ông rất già và gầy một cách thảm hại, tóc của ông bạc trắng, có vài chỗ trơ cả sọ ra sau nhiều năm chờ đợi trong lãng quên. Tôi lại ngồi gần ông hỏi, “Là ba phải không?” Ông nhìn tôi với đôi mắt tìm kiếm vô vọng. Khi nhìn tôi, ông bật lên một tiếng kêu thảng thốt - rồi sau đó bật khóc, khóc mãi, quá vui mừng khi cuối cùng tôi cũng đến đưa ông về nhà. Những thủ tục khâm liệm bà dì rồi cũng xong. Chúng tôi đứng cả bên ngoài, làn gió từ cảng bắt đầu nổi lên xuyên qua lớp áo mỏng manh của chúng tôi, thổi rát rạt những chiếc váy vào người. Mắt cay xè, tôi cảm thấy hoàn toàn kiệt sức. Mẹ tôi đứng bên tôi thỉnh thoảng lại ngó tôi chằm chằm. Tôi biết bà muốn nói với tôi về những gì đã xảy ra, không phải những chuyện linh tinh xảy ra trong đám ma mà là chuyện tôi bật khóc. “Con ổn chứ?” mẹ tôi dịu dàng hỏi. “Không sao đâu,” tôi đáp, cố làm ra vẻ hoàn toàn bình thường. “Phil và mấy đứa con gái sẽ tới ngay bây giờ thôi.” Mẹ tôi lấy một tập khăn giấy từ trong túi đặt vào tay tôi, tôi biết là mình đã làm lem lớp mascara trên mi. Ngay lúc đó Bảo Bảo hiện ra. “Mẹ kiếp, thật là quái đản,” cậu ta nói, “nhưng tôi đoán đấy là kiểu đám ma mà bà dì khoái. Bà luôn, dì biết đấy…” và hắn đập ngón tay hai lần vào đầu mình. Mẹ tôi cau mày, “Biết cái gì?” Bảo Bảo cười nhăn nhở một cách ngượng ngập, “Dì biết đấy, rất khác biệt, bất bình thường - một quý bà rất vĩ đại!” Hắn nhìn tôi, nhún vai. Sau đó nét mặt hắn dãn ra, “Chu cha! Kìa Mimi đã đánh xe đến kìa. Phải vù thôi. Chị có đến nghĩa trang không?” Tôi lắc đầu. Mẹ tôi nhìn tôi, kinh ngạc. Bảo Bảo đi đến bên chiếc xe Camaro đen bóng. Mimi ngồi sang một bên nhường tay lái cho anh chàng. “Anh chẳng có dịp nào cả. Mẹ trói anh vào với cái bọn nhà đòn.” Bảo Bảo gập cánh tay lại. “Thật may là anh đã xổng ra,” hắn mở radio và gập tay nhanh hơn cùng một nhịp với tiếng nhạc. “Rất vui được gặp lại chị Pearl. Gặp dì sau nhé.” Chiếc xe chồm lên phóng đi. Bây giờ tôi nghe tiếng dì Helen gọi tôi từ phía sau. “Pearl! Pearl!” Dì lạch bạch chạy đến vừa đưa khăn giấy lên lau mắt, “Con có đi đưa đám không? Sẽ có tiệc đứng sau đó, ở nhà dì. Nhiều món ngon lắm. Mẹ con nấu món thịt nướng. Dì làm món gà ngon lắm. Mary và Doug cũng đến. Các con tới nhé.” “Chúng con không đến được ạ. Mai phải đi làm rồi mà đường về nhà xa lắm.” “Ôi các con thật là,” dì nói, hai tay giờ lên trong nỗi thất vọng rất kịch, “bao giờ cũng bận rộn. Thôi được, ghé thăm dì sớm nhé, không cần mời mọc gì đâu. Các con tới rồi chúng ta sẽ trò chuyện.” “Vâng ạ,” tôi hứa đại. “Winnie à!” Dì Helen kêu ầm lên với mẹ tôi mặc dù hai người đứng cách nhau chưa đầy hai thước. “Chị sẽ đi với chúng tôi đến nghĩa trang chứ. Henry đang đi lấy xe.” “Pearl sẽ đưa tôi về nhà,” mẹ tôi trả lời. Tôi đứng đó, cố hỏi tại sao mẹ cứ muốn bám riết lấy tôi như vậy. Dì Helen đi về phía mẹ tôi, mặt dì lộ vẻ lo lắng. Dì hỏi nhanh bằng tiếng Hoa, “Không đến à? Chị không khỏe à?” Tôi không hiểu nhiều tiếng Quan Thoại, chỉ đoán chừng. Có vẻ như mẹ tôi không muốn ai lo lắng cho bà, “chẳng có gì không ổn cả, chỉ là một chút không thoải mái ở đây” bà chỉ vào ngực mình – có một cái gì đó làm bà mệt. Mẹ tôi muốn nói một cái gì đó chắc là chỉ cái việc câu đối viếng đám ma rơi xuống và sau đó toàn thân bà đau nhức như thế nào. Dì Helen vuốt vuốt lưng mẹ tôi. Dì bảo mẹ tôi là bà có thể đến viếng bà dì Du sau khi cái gì gì đó đã yên không chạy nhảy tùm lum nữa. Sau đó dì Helen pha trò với mẹ rằng bà dì sẽ đợi, tất nhiên sẽ đợi mẹ tôi đến, không còn cách nào khác. Mẹ tôi nói đùa lại là có thể bà dì đã phát khùng lên vì những gì xảy ra hôm nay và đã thổi cái gì đó vào chỗ mà bà không phải làm cái gì đó nữa với một gia đình điên khùng như vậy. Cả hai cùng cười ầm lên, cười to đến nỗi chảy cả nước mắt ra và họ khó có thể thở ra hơi nữa. Mẹ tôi lấy tay bịt miệng cười nắc nẻ như một cô nữ sinh trung học. Dượng Henry đánh xe đến, trong lúc dì Helen leo lên xe, dì nghiêm nghị nhắc mẹ tôi uống thật nhiều trà nóng. Họ đi khỏi, bóp còi xe hai lần. “Mẹ không khỏe à?” tôi hỏi. “Cái gì?” “Mẹ bảo dì Helen là mẹ không đi đưa ma được vì mẹ mệt mà.” “Mẹ đâu có nói thế. Mẹ chỉ nói là mẹ không muốn đi thôi. Mẹ đã hoàn thành nhiệm vụ. Mẹ đã đưa bà dì Du lên thiên đàng. Bây giờ thì đến lượt Helen có nhiệm vụ đặt bà vào lòng đất.” Đó không phải là điều họ nói với nhau và mặc dù tôi không chắc là tôi đã hiểu gần hết những lời trao đổi giữa họ, rõ ràng có nhiều điều tôi còn chưa biết về mẹ tôi và dì Helen. Trong lúc chúng tôi đi ngang qua thành phố đến nhà mẹ tôi, Phil ngỏ ý. “Anh hy vọng chúng ta ra được xa lộ trước giờ cao điểm để về nhà.” Mẹ tôi cũng có chuyện để kể, bà bảo rằng rồi Bảo Bảo cũng sớm mất việc thôi. Bà biết được điều này trong bữa tiệc từ miệng ông Lôi. Ông này nghe con trai mình nói lại. Bà cũng bảo tôi rằng Frank lúc này làm bảo vệ nhưng nó làm dì Helen đau buồn vì nó bỏ hết cả thời gian rảnh và tiền bạc lông bông ở chốn ăn chơi đường Geary. Khi chúng tôi đi đến gần nhà, bà chỉ cho tôi một chỗ trên đường Clement, Happy Supper, nơi bà vẫn tới mua bán. Đó là một trong những loại chợ búa của dân Châu Á trong vùng, người ta mua bán ngay ngoài đường, chọn mua hàng đống trái cây và hoa quả, những bao gạo năm bảy chục ký chồng lên nhau như những hòn gạch khổng lồ dựa vào cửa sổ. “Con mua đậu phụ bao nhiêu?” Mẹ tôi hỏi và tôi có thể nói là bà nóng lòng bảo với tôi cái giá rẻ hơn, cho tôi biết là tôi có thể để dành được 20 hay 30 xu ở các cửa hàng quen của bà. Nhưng tôi cũng chẳng buồn chiều lòng bà nữa. “Con không biết. Con chưa bao giờ mua.” “Ôi!” Bà kêu lên thất vọng ta mặt. Sau đó thì mặt bà sáng lên, “Bốn cuộn giấy vệ sinh giá bao nhiêu?” “1 đô 69 xen,” tôi đáp ngay tức thì. “Con thấy chưa!” Bà reo lên. “Ở chỗ mẹ chỉ có 99 xen thôi. Hiệu tốt nhé. Lần sau mẹ sẽ mua cho con. Con sẽ trả tiền lại cho mẹ sau.” Chúng tôi quẹo trái về phía đường số 8 và đi về phía Anza. Dì Helen và dượng Henry sống ở một khối nhà phía trên đường số 9. Với tôi những ngôi nhà ở vùng này rất giống nhau, những biến thái của những ngôi nhà 2 tầng xây vào những năm 20, khác nhau chủ yếu là ở màu sơn hay là kiểu trang trí ngoài mặt tiền, bằng vữa hay lát gạch hay dùng cửa nhôm kéo. Phil quẹo vào đường nhà mẹ tôi. Mặt trước nhà sơn màu hồng hết sức nham nhở. Thật đáng ngạc nhiên là trong tất cả những thứ mẹ tôi phàn nàn không có trong danh sách cái màu sơn của ngôi nhà. Mẹ tôi nghĩ nó thực sự dễ thương. “Khi nào thì mẹ gặp lại các con đây?” bà hỏi tôi khi bà ra khỏi xe. “Nhanh thôi,” tôi đáp. “Nhanh cũng giống như với dì Helen chứ gì?” Bà hỏi. “Không, nhanh thôi. Con nói thật mà.” Bà dừng lại, nhìn tôi cứ như bà không tin tôi. “Nhưng dù sao mẹ cũng gặp các con trong đám cưới của Bảo Bảo vào tháng tới.” “Cái gì? Đám cưới tháng tới à. Con chẳng nghe thấy gì sất.” “Nhanh thôi,” mẹ tôi nói, gật gật đầu. “Bà Edna Phong nghe con gái của bà nói thế. Mimi gội đầu cho cô ta trong tiệm uốn tóc. Mimi bảo với con gái bà ta là họ phải vội vã làm đám cưới. Edna Phong nói với mẹ rằng, có thể một cái gì đó vội vã ra đời. Dì Helen không biết gì đâu. Đừng nói với dì ấy.” Ấy thế mà dì Helen nghĩ rằng Bảo Bảo vội làm đám cưới bởi vì dì sắp chết. Một cái gì đó đang lớn lên, đúng thế, nhưng không phải cái khối u trong não của dì Helen. Mẹ tôi bước ra khỏi xe. Bà quay lại hôn vào má Tessa rồi má Cleo. Mẹ tôi không phải là người thích hôn hít, nhưng bà biết rằng chúng tôi dạy bọn trẻ làm điều đó với cha mẹ Phil. “Tạm biệt Ha-bu,” chúng kêu lên. “Chúng cháu yêu bà lắm.” “Lần sau các cháu đến,” mẹ tôi nói với bọn trẻ, “bà sẽ làm món thịt heo ngon lắm, các cháu sẽ ăn bánh như trong dịp tết âm lịch.” Bà lấy ra một khăn giấy lau mũi cho Cleo rồi vỗ vào đầu gối Tessa, “được không?” “Được ạ,” bọn trẻ kêu lên. Chúng tôi nhìn theo mẹ tôi bước lên thềm trước nhà. Tất cả chúng tôi cùng vẫy tay. Khi bà đã vào trong nhà chúng tôi vẫy tay lại một lần nữa. Khi bà thò đầu ra ngoài cửa sổ, chúng tôi lên đường. “Tốt!” Phil thở dài, “nào về nhà.” Tôi cũng thở dài nhẹ nhõm. Đó là một kì nghỉ cuối tuần căng thẳng nhưng chúng tôi đã vượt qua. “Mẹ ơi,” Tessa nói khi chúng tôi dừng lại ở chỗ ngã tư đèn xanh đèn đỏ đầu tiên. “Gì vậy con yêu?” “Mẹ ơi,” nó thì thầm. “Con phải đi vệ sinh.” “Con cũng thế,” Cleo nói, “con cũng muốn đi lắm.” Mẹ tôi đứng ở ngoài của khi chúng tôi quay lại. “Mẹ cố đuổi theo các con, nhưng các con đi nhanh quá,” bà nói ngay khi tôi ra khỏi xe. “Sau đó mẹ hiểu rằng con sẽ nhớ ra và quay lại.” Tessa và Cleo đã sẵn sàng chạy lên cầu thang. “Nhớ gì cơ ạ?” “Món quà của bà dì, nhớ không? Hai ba ngày trước mẹ đã bảo con đừng quên. Vậy mà con quên à?” “Không, không” tôi nói, “nó ở đâu?” “Ở đằng sau ấy, trong phòng giặt đồ,” bà nói. “Nặng lắm. Tốt nhất là hãy bảo chồng con mang giùm.” Tôi có thể hình dung nó là cái gì. Một cái ghế màu nho cũ mà bà dì vẫn dùng để gác chân hoặc có lẽ là một bộ đĩa Melmac. Trong khi chúng tôi chờ Phil trở về với bọn con gái, mẹ đưa cho tôi một tách trà, không để ý đến thái độ của tôi. “Pha xong rồi. Nếu con không uống, mẹ chỉ có nước đổ đi.” Tôi uống một vài ngụm, “Ngon lắm.” Tôi đã nói thật, tôi chưa bao giờ uống loại trà ngon như thế. Nó ngọt, hăng và gây nghiền. “Của bà dì đó,” mẹ tôi giải thích, “vài năm trước bà cụ mua thứ trà này, 100 đô một pao.” “Mẹ không đùa đấy chứ? Tôi uống thêm một ngụm nữa. Giờ thì nó còn ngon hơn nữa/ “Bà nói với mẹ, “Nếu ta mua cho ta thứ trà rẻ tiền thì sau đó ta sẽ nghĩ rằng cả đời ta cũng không xứng đáng với một thứ gì đó giá trị hơn,” thế là bà quyết định mua cho mình thứ trà ngon nhất. Bà uống trà và cảm thấy từ bên trong mình là người giàu có.” Tôi bật cười. Mẹ tôi có vẻ được khuyến khích bởi tiếng cười của tôi. “Nhưng sau đó bà lại nghĩ, nếu ta chỉ mua một chút ta sẽ nghĩ rằng đời ta sắp hết rồi.” Vậy là bà mua trà đủ cho cả kiếp sau nữa. 3 pao! Con tưởng tượng được không?” “Ba trăm đô la!” Tôi kêu lên, bà dì là người cần kiệm nhất mà tôi biết. “Mẹ nhớ là bà đã giữ tất cả những hộp kẹo See mà chúng ta đã biếu bà vào dịp Giáng sinh. Nói với chúng ta là nó quá ngon không nỡ ăn! Rồi một năm sau bà lại đưa lại một hộp cho chúng ta trong dịp lễ Tạ ơn gì đó. Chỉ có điều nó quá cũ…” Mẹ tôi gật đầu cười vang. “Và tất cả những cái kẹo trắng phớ vì mốc!” tôi nói. “Cả bọ nữa chứ!” Mẹ nói thêm. “Vậy là bà để lại trà cho mẹ theo di chúc.” Tôi nói. “Không, bà đưa cho mẹ mấy tháng trước rồi. Bà nghĩ rằng bà chẳng sống được bao năm nữa. Bà chẳng nói gì, nhưng bà bắt đầu cho đi mọi thứ, những thứ tốt nhất chứ chẳng phải đồ tầm tầm đâu. Một lần mẹ ngồi uống trà. Mẹ nói trà ngon quá như mọi lần. Lần này bà dì quay vào bếp mang trà cho mẹ. Bà nói “Tiểu nương, cháu mang chỗ trà này về đi.” Đó là từ bà gọi mẹ từ những ngày đầu gặp gỡ. Tiểu nương có nghĩa là cháu nhỏ. “Mẹ nói: Không, không, con không có ý như vậy”, bà nói “Tiểu nương, cháu hãy nhận chỗ trà này bây giờ để ta có thể thấy cháu vui sướng như thế nào khi uống trà trong khi ta vẫn còn sống. Một số chuyện không thể đợi đến khi ta chết.” Mẹ mới bối rối làm sao chứ? Tất nhiên mỗi lần đến thăm bà mẹ lại mang về một ít trà.” Phil quay trở lại với Cleo, Tessa ngay sau lưng. Bây giờ tôi mới thật sự buồn khi chúng tôi phải ra về. “Chúng ta sẽ muộn mất,” Phil nói. Tôi đặt tách trà xuống. “Đừng có quên,” mẹ tôi nói với Phil, “Quà của bà dì ở trong phòng phơi đồ.” Cleo nói, “Quà à, con có quà không?” Phil ném cho tôi một cái nhìn ngạc nhiên. “Nhớ không?” Tôi nói dối, “Em đã bảo anh – quà của bà dì để lại cho chúng ta theo di chúc.” Anh nhún vai và chúng tôi đi theo mẹ ra sau. “Tất nhiên nó cũ lắm rồi,” mẹ tôi nói. Mẹ tôi bật đèn, tôi nhìn thấy nó đặt trên máy sấy quần áo, đó là một cái bàn thờ vị thần may mắn của bà dì, một vị thần Trung Hoa. “Ôi! Tessa kêu lên. “Một ngôi nhà búp bê Trung Hoa.” “Con chẳng thấy gì, con chẳng thấy gì.” Cleo nói còn Phil thì nhấc bàn thờ lên, mang nó vào bếp. Cái bàn thờ chỉ bằng kích thước của một ngăn kéo nhỏ sơn màu đỏ. Theo một cách nào đó nó giống một sân khấu thu nhỏ trong một vở kịch Tàu, phía trước ó hai cái cột sơn son thiếp vàng, hai ngọn đèn điện giả nến làm bằng plastic màu đỏ, nóc bàn thờ trang trí bằng gióng cây tròn của Trung Hoa, màu đỏ như là cái khung. Hai bên là những mẩu gỗ có viết mẫu tự Tàu. “Câu này có nghĩa gì mẹ?” Bà di ngón tay xuống bên phải rồi xuống bên trái “Cát tường như ý, hai chữ đầu có nghĩa là may mắn, hai chữ kế tiếp cũng nói đến một lại may mắn khác, và những chữ này có nghĩa là tất cả những gì mà bạn mong muốn. Tất cả những điều mà bạn ao ước.” “Cái này thờ ai, cái người trong khung ảnh này là ai?” Bức vẽ trông gần giống như trong phim hoạt hình. Người đàn ông to béo với dáng ngồi trông vừa vương giả vừa đường bệ, một tay cầm viết lông ngỗng, một tay cầm bài vị. Ông ta có hai cái ria rõ dài trông giống như hai ngọn roi đen mượt. “Ô, ông này người Hoa gọi là ông Táo. Theo mẹ, ông này không phải là vị thần quan trọng. Không giống như Đức Phật, không giống như Quan Âm Bồ Tát cứu khổ độ nạn – không phải là ở địa vị cao, cũng không cùng một nấc với Thần Tài. Có thể ông là một người quản lí, một người giữ kho, quan trọng, nhưng vẫn còn nhiều nữa những vị thánh ở bên trên.” Phil lặng lẽ cười trước lời giải thích Mỹ hóa của mẹ tôi về tôn ti trật tự trong thế giới thần thánh của người Hoa. Tôi tự hỏi đó có phải là điều mẹ tôi thật sự nghĩ về họ như thế hay bà chỉ dùng những ẩn dụ để cho chúng tôi dễ hiểu. “Ông Táo là cái gì vậy? Tessa hỏi. “Con có thể có một ông như vậy không?” “Ông chỉ là một truyền thuyết thôi,” mẹ tôi đáp. “Một truyền thuyết à!” Cleo kêu lên. “Con muốn nghe.” Mặt mẹ tôi vụt sáng lên. Bà vỗ đầu Cleo. “Con muốn nghe một chuyện nữa của Ha-bu ư? Tối qua con nghe chưa đủ sao?” “Chúng ta về nhà thôi,” Phil nói với Cleo. “Ha-bu quá mệt để kể thêm một chuyện nữa cho con lúc này.” Nhưng mẹ tôi làm như không nghe cái cớ Phil đưa ra. “Đó là một câu chuyện hết sức đơn giản thôi”, bà nói với Cleo giọng âu yếm. “Ông ta trở thành ông Táo như thế này.” Trong khi mẹ tôi bắt đầu câu chuyện tôi bâng khuâng bởi một cảm xúc quen thuộc như thể tôi cũng như Cleo, lại bé lại cái tuổi lên ba, vẫn háo hức tin vào tất cả những gì mẹ nói. “Ngày xửa ngày xưa ở nước Trung Hoa,” tôi nghe mẹ tôi kể, “có một nhà nông giàu có tên là Trang, ông ta là một người may mắn cực kì. Cá tôm ngoài sông ngòi nhảy vào ao của ông, heo nhởn nhơ trên đất của ông, gà vịt bay tới bay lui trên sân nhà ông dày đặc như những đám mây. Sở dĩ ông được như vậy là vì ông đã được ban cho một người vợ chăm chỉ hết mực tên là Quắc. Bà đánh bắt cá trong ao của ông, chăm đàn heo cho ông. Bà vỗ béo đàn gia cầm nhà ông, bà cứ nhân đôi tài sản của ông năm này qua năm khác. Trang có tất cả những thứ mà ông có thể đòi hỏi - từ dưới nước, trên cạn và trên trời cao. Nhưng Trang không thỏa mãn. Ông muốn vui vẻ với một người phụ nữ xinh đẹp, nhởn nhơ vô tư lự tên là Lí. Một hôm ông ta đưa bà này về nhà và bắt người vợ tốt bụng của mình hầu hạ bà ta. Khi người đàn bà tên Lí này đuổi vợ ông ra khỏi nhà, ông cũng chẳng buồn đuổi theo kêu lên: “Trở lại đi, người vợ đáng quý của tôi. Trở lại đi.” Bây giờ ông ta và bà Lí tự do ngã vào vòng tay nhau. Họ quăng tiền đi như là đổ nước dơ ra ngoài cửa vậy. Họ giết hàng đàn gà vịt chỉ để ăn cái lưỡi của chúng. Chỉ trong vòng hai năm thôi, của cải đội nón ra đi, đất đai của Trang cũng chẳng còn gì cũng như trái tim của ông ta vậy. Tiền bạc không còn, người đẹp Lí cũng bỏ ông ta chạy theo một người đàn ông khác. Trang phải ngửa tay xin ăn, ông ta chẳng còn gì ngoài một cái khố. Ông ta bò từ cửa nhà này sang nhà người khác van nài “cho tôi xin nắm gạo mốc.” Một hôm ông ta ngã nhào xuống đất, mặt ngẩng lên nhìn trời sẵn sàng chờ chết. Ông ngất xỉu đi, mơ thấy mình ăn những đám mây mùa đông đang bay trên đầu. Khi mở mắt ra ông thấy những đám mây hóa ra là một làn khói. Đầu tiên ông ta sợ hãi nghĩ rằng ông ta rơi xuống hỏa ngục, nhưng khi ngồi dậy, ông thấy mình đang ngồi trong nhà bếp cạnh một bếp lửa ấm áp. Cô gái ngồi coi lửa giải thích rằng bà chủ cô đem lòng thương hại ông - như bà lão cũng đối xử như vậy với tất cả mọi người nghèo, những người già cả, những người đau ốm và những người khó khăn. “Thật là một người phụ nữ quý hóa!” Trang thốt lên, “Bà ở đâu để cho tôi đến cảm ơn?” Cô gái chỉ ra ngoài cửa sổ và ông ta chỉ thấy một người đàn bà đang bước đến trên lối đi. Úi da, người này chẳng phải ai khác chính là người vợ tốt đẹp Quắc của ông! Trang bắt đầu nhìn quanh trong bếp tìm chỗ nấp, rồi ông ta nhảy vào ngọn lửa luôn ngay khi vợ ông ta bước vào. Người vợ tốt bụng Quắc chảy không biết bao nhiêu là nước mắt để dập tắt ngọn lửa. Vô ích, Trang bị thiêu ra tro vì hổ nhục, và tất nhiên cũng bởi vì ngọn lửa rừng rực trong lò. Quắc nhìn nắm tro của chồng bay thẳng lên trời với ba cột khói. Úi trời. Trên thiên đàng, Ngọc Hoàng nghe lại toàn bộ câu chuyện của người mới thăng thiên. “Vì nhà người đã dũng cảm thừa nhận sai lầm của mình”, Ngọc Hoàng phán, “ta sẽ phong cho ngươi chức Táo Quân để dám sát cách cư xử của người trần. Mỗi một năm người phải cho ta biết ai xứng đáng hưởng những điều tốt đẹp, ai phải bị trừng phạt.” Kể từ đấy người Hoa biết là Táo Quân sẽ để mắt trông coi họ. Từ cái góc của mình trong mỗi ngôi nhà, mỗi cửa hiệu, ông sẽ ghi nhận tất cả những kiểu cách tốt đẹp cũng như xấu xa của con người: rộng rãi hay tham lam, bản tính dễ hòa hợp hay ưa phàn nàn, gây sự, mỗi năm một lần vào bảy ngày trước Tết, ông Táo sẽ rời bếp lò bay về trời báo cáo lại ai là người đáng được thay đổi phần số, tốt hơn hay tệ đi. “Hết rồi à!” Cleo reo lên hoàn toàn thỏa mãn. “Nghe như là ông già Noel ấy,” Phil vui vẻ nói. “Hừm!” Mẹ tôi thốt ra với giọng điệu ám chỉ Phil thật là ngu ngốc. “ Ông ta không giống như ông già Noel - mà là một kiểu do thám - như là nhân viên FBI, CIA, Mafia, còn tệ hơn cả nhân viên thuế, một kiểu người như vậy đấy. Ông ta không cho ai quà, mà người ta phải cúng ông ta mọi thứ. Suốt một năm người ta phải thể hiện lòng tôn kính với ông bằng cách cúng trà, cam. Vào dịp Tết âm lịch, người ta thậm chí phải cúng nhiều hơn - có thể là úytxki để ông uống này, thuốc lá để ông lâng lâng vì rượu, để khi bay về trời thì ông sẽ nói tốt cho họ. Gia đình này tử tế đấy, người ta hi vọng ông nói thế, làm ơn hãy ban cho họ nhiều may mắn lợi lộc trong năm tới.” “Thật là một cách chả tốn kém gì để có thêm nhiều may mắn tới.” Tôi đùa, “rẻ hơn chơi xổ số nhiều.” “Không phải,” mẹ tôi la lên làm tất cả mọi người giật mình. “Con không biết đâu, thỉnh thoảng ông ấy rất khó chịu. Đôi khi ông ấy nói, thần không thích gia đình này, hãy làm cho họ lụn bại đi. Thế thì con sẽ gặp rắc rối to mà chẳng làm gì được. Tại sao tôi lại cần cái loại người như vậy phán xét tôi, cái người đã xử tệ với vợ như vậy? Chỉ có vợ ông ta mới là người tốt, ông ta xấu.” “Vậy tại sao bà dì lại thờ cúng ông ta?” Mẹ tôi cau mày suy nghĩ về điều đó. “Mẹ nghĩ có thể là thế này. Một khi con đã bắt đầu thì con không dám dừng lại. Bà đi thờ cúng ông từ ngày bà còn bé tí. Họ hàng nhà bà đã thờ cúng như vậy hàng mấy thế hệ rồi ở Trung Hoa.” “Tuyệt!” Phil nói. “Thế bây giờ bà ấy chuyển cho chúng con của nợ này. Cảm ơn bà dì nhưng chẳng có ân huệ gì cả,” Anh liếc nhìn đồng hồ, tôi biết anh rất nóng lòng muốn ra về. “Đây là món quà bà dì để lại cho con,” mẹ tôi nói với giọng tủi hờn. “Làm sao bà nghĩ là nó không tốt chứ? Bà chỉ muốn để lại cho con cái gì tốt đẹp nhất của bà.” “Có thể bọn con gái sẽ dùng bàn thờ này để làm đồ chơi,” tôi gợi ý. Tessa gật đầu, Cleo tán thưởng. Mẹ tôi nhìn chằm chằm cái bàn thờ chẳng nói gì. “Mẹ nghĩ ra cách này,” cuối cùng bà tuyên bố, mặt bà biểu hiện một nỗi ưu tư. “Con cứ mang bàn thờ này về đi. Mẹ có thể tìm cho con một vị thần may mắn để thờ, không phải ông này.” Bà lấy bức hình Táo Quân ra khỏi bàn thờ. “Mẹ sẽ thờ ông này. Bà dì sẽ hiểu thôi. Kiểu ban phước này con không cần, thì con cũng không cần phải lo lắng gì.” “Tốt,” Phil nói ngay. “Gói nó lại.” Nhưng bây giờ tôi lại đâm ra lo lắng. “Mẹ chắc chứ?” Mẹ đang nhét hai cây đèn cầy bằng plastic vào một cái túi dùng rồi. Tôi không tin dị đoan. Tôi không thích những lá thư cầu may mà Mary luôn gửi đến cho tôi, trong khi tôi không bao giờ nhân bản những lá thư ấy thì tôi cũng không vứt lá thư gốc đi. Phil mang cái khung bàn thờ, Tessa cầm giỏ đựng mấy cây đèn cầy. Mẹ tôi dẫn Cleo lên cầu thang tìm vòng đeo tay phản quang mà nó bỏ quên trong phòng tắm. Khi mẹ tôi quay lại với Cleo bà đưa cho tôi một giỏi thực phẩm nặng, một bọc trái cây, kẹo Tàu cùng vài thứ lặt vặt, “Mẹ đưa cho con một ít trà của bà dì,” mẹ tôi nói. “Đừng có cho quá nhiều trà. Chỉ việc thêm nước vào. Vị trà luôn còn lại.” Mười lăm phút sau khi rời nhà mẹ tôi bọn trẻ đã ngủ cả. Phil chọn con đường cao tốc 280, một con đường vắng hơn và cũng dài hơn. Chúng tôi còn cách nhà khoảng 35 dặm. “Chúng ta sẽ không giữ cái bàn thờ này phải không?” Phil nói. Đó là một câu khẳng định hơn là một câu hỏi. “Hử.” “Xấu hoắc.” anh nói thêm. “Dù vậy anh nghĩ rằng chúng ta có thể cho bọn trẻ chơi cho đến khi chúng chán thì thôi.” “Ừm.” Tôi nhìn qua cửa sổ xe hơi nghĩ về vị thần may mắn nào đó bà sẽ mua cho tôi. Chúng tôi vượt qua những biển trên đường cao tốc và những chiếc xe vào ngày Chủ nhật để đi vào làn đường có tốc độ chậm hơn. Tôi nhìn vào đồng hồ tốc độ, chúng tôi đi gần 140 cây số một giờ. “Làm gì mà phóng dữ vậy?” tôi hỏi. “Có gì ăn không em?” Tôi nhớ đến cái giỏ mẹ đưa cho tôi. Nó nằm dưới chân tôi. Tôi nhìn vào trong giỏ, bên trong có một vài cuộn giấy vệ sinh, một ít trà của bà dì, vài quả quýt và bức ảnh của cha mà tôi đã vô tình làm vỡ tháng trước, khung kính đã được thay lại. Tôi đưa cho Phil một quả quýt sau đó quay mặt về phía cửa sổ để anh không nhìn thấy những giọt nước mắt của tôi. Tôi nhìn quang cảnh chúng tôi đang vượt qua, những bồn chứa, những quả đồi thoai thoải, những ngôi nhà mà tôi đã đi qua hàng trăm lần mà chẳng bao giờ tự hỏi ai sống trong đó. Hết dặm này đến dặm khác, tất cả đều quen thuộc, mà không, khoảng cách này đang chia cắt chúng tôi, tôi và mẹ. 3. KHI CÁ CHẾT ĐÃ BA NGÀY Helen nghĩ rằng tất cả những quyết định của bà đều đúng nhưng thật ra bà ta gặp may mắn thôi. Suốt trong 50 năm qua tôi đã chứng kiến những ý nghĩ ngớ ngẩn của bà lại trở thành một điều may mắn như thế nào. Cũng giống như bữa ăn trưa hôm qua. “Winnie à,” bà ta nói, “đi chợ mua gà đi.” Tôi bảo Helen tôi không muốn ăn bất cứ một món ăn nào còn thừa trong đám ma, năm ngày là quá đủ. Vì thế chúng tôi đi Happy Supper quyết định mua một cái gì mới để ăn trong bữa tối. Helen chọn một con cá dẹp, cá pom-pom, bà ta gọi như vậy. Chỉ có một đô la 69 xen một pao, sau khi mặc cả. Tôi nói, “Của rẻ là của ôi. Của đầy nồi là của bỏ đi. Nhìn mắt cá mà xem, trương sình, trắng nhách. Con cá này chết cũng phải ba ngày rồi.” Nhưng Helen nhìn vào mắt cá nói: “Tôi chẳng thấy có gì là không ổn cả.” Thế là tôi nhặt con cá lên, cảm thấy thân hình của nó trượt khỏi tay tôi. Một con cá đã trượt khỏi cuộc đời rất lâu rồi. Helen thì nói rằng đó là dấu hiệu tốt - thịt nó chắc là rất mềm, bỏ vào môi trôi vào miệng. Thế là tôi ngửi con cá. Tôi bảo với bà ta là tất cả sự ngọt ngào đã bốc hơi ra khỏi da thịt của nó và tỏa mùi trong không trung. Bà ta nhấc con cá lên dí vào mũi ngửi và nói mùi cá pom-pom này mới dễ chịu làm sao. Helen mua một con cá pom-pom chết ba ngày. Trong bữa ăn tối, bà đã mời chồng, ông này gắp một bên má cá bỏ tọt vào miệng nhai tóp tép rồi khen ngon sau đó cậu con trai Frank xơi nốt má kia. Còn Helen thì gắp một miếng ở gần đuôi, chỗ mỏng nhất, sau khi liếm môi bà ta nói rằng cá đã nấu vừa đủ độ, không quá lửa, bà nhìn bát tôi chẳng có gì ngoài cơm, bà hạ đũa lần nữa, gần này thì gần cái bụng, chỗ mập nhất của con cá, gắp một miếng bỏ vào bát tôi. “Winnie à, đừng có giữ ý quá,” bà ta trách. Thế là tôi phải tỏ ra lịch sự rồi ngồi ăn hết miếng cá. Tôi phải công nhận rằng con cá làm tôi phát tức điên lên. Thịt nó mềm và ngọt. Chỉ có một đô la 69 xen một pao. Tôi bắt đầu nghĩ, có thể Helen đã quay lại chợ đổi con cá khác. Nhưng sau đó tôi lại nghĩ Helen chẳng khôn đến thế. Dù Helen xuất thân từ một gia đình nghèo rớt mồng tơi, dù rằng bà chua bao giờ xinh đẹp thì may mắn cũng luôn đổ vào đĩa bà, thậm chí từ miệng con cá chết ba ngày. Tôi không được như thế. Tôi sinh ra với may mắn. Nhưng năm tháng trôi qua, vận may của tôi - cũng như sắc đẹp của tôi - đã chết dần, sau đó thì khắc những nếp nhăn lên mặt tôi để tôi không bao giờ có thể quên được. Tôi không thể giải thích chính xác điều này xảy ra như thế nào - những đổi thay trong đời tôi. Nếu tôi có lí giải và xâu chuỗi lại những sự kiện thì đời tôi cũng không giống như câu chuyện một dòng sông, từ thượng nguồn đến hạ nguồn, mọi cái đều được kết nối với nhau, suối tạo thành sông, sông lại đổ ra biển. Nếu đời tôi trôi đi như vậy, cái này dẫn đến cái kia thì tôi có thể có một cái nhìn khác và tôi sẽ biết những bài học của đời mình, cái số phận đã dành cho tôi những lựa chọn, những nhầm lẫn. Và có lẽ tôi còn có thời gian để thay đổi đời mình. Helen thường nói với tôi, “Tại sao chị sứ nghĩ về những chuyện xửa xưa như vậy? Tiếc nuối làm gì vô ích. Chị không thể thay đổi được quá khứ.” Bà ấy chẳng nhớ gì cả. Hai chúng tôi đã nhiều lần thay đổi quá khứ, vì nhiều lí do. Và đôi khi bà ấy cũng thay đổi cả số phận của tôi mà không ý thức được việc mình đã làm. Cũng giống như con cá pom-pom mà bà ấy đã mua. Bây giờ nó lại bơi trở lại trong kí ức của tôi. Bởi vì, một lần rất nhiều năm về trước, tôi đã mua một con cá đặc biệt cho chồng của tôi, cho Jimmy Louie. Ôi tôi mới yêu ông ấy làm sao! Con cá bơi lội tung tăng trong chậu khi tôi trông thấy nó, chắc nó vừa mới bị bắt ra khỏi biển khơi nên nó mới giận dữ như thế. Toàn thân nó ánh lên rực rỡ bởi những chiếc vây màu cam đỏ lộng lẫy, và khi nó vẫy cái đuôi tìm lối thoát ra khỏi cái chậu nhỏ, những cái vây quẫy trong nước trông giống như vàng ròng. Tôi bảo người bán hàng gói con cá sống không phải vào tờ giấy báo cũ mà vào một tờ giấy trắng sạch sẽ. Trong khi ngồi trên xe buýt mang cá về nhà tôi cảm thấy hết sức tự hào, này nó trườn đầu, quẫy cái đuôi nhọn vào người tôi. Tôi tưởng tượng nó sẽ ngọt ngào như thế nào trong miệng Jimmy, chồng tôi sẽ nhận thấy con cá đặc biệt ra làm sao, một con cá may mắn và tôi thật sung sướng khi báo tin vui cho ông ấy. Vậy mà, con cá này không ngừng vùng vẫy chống lại tôi. Trước khi tôi làm thịt nó, nó phồng mang lên phun bao nhiêu bong bóng ra khỏi miệng làm tôi nghĩ rằng nó rất độc. Thậm chí sau khi tôi đã moi ruột nó ra, nó vẫn còn nhảy lên nhảy xuống trong cái chảo rồi rơi xuống sàn, trườn quanh bếp buộc tôi buộc tôi cầm một cái búa đuổi theo nó. Khi tôi đã nấu chín rồi, nó vẫn còn tìm cách chống lại tôi. Jimmy mới chỉ ăn một miếng thì một cái xương đã cắm vào cổ họng ông, nằm lại trong cổ, vì thế mỗi lần nuốt nước bọt ông lại nghĩ rằng con cá tìm cách cắn ông suốt đêm ấy. Sau đó ở bệnh viện, các bác sĩ phải mổ để lấy cái xương ra. Ngay cả lúc ông chưa mở miệng nói được, cứ nhìn vào vẻ mặt lo lắng của ông, tôi cũng biết ông đang nghĩ đến phí tổn cho cuộc giải phẫu, tiền phòng, tiền thuốc giảm đau, thuốc ngủ. Đó là lúc tôi nhớ đến tin vui của mình vì cái lí do cớ làm sao tôi lại mua con cá đắt tiền như vậy. Tôi đã kiếm được việc, tôi nói với ông, một công việc làm mì sợi cho tiệm bánh Hằng Anh. Tiền lương của tôi sẽ đủ, quá đủ cho tiền viện phí trong một năm. Nghe tôi nói, Jimmy dụi mắt và nước mắt của ông ứa ra. Ông mấp máy môi định nói, nhưng không lời nào thốt ra từ cái cổ bị đau của ông. Nhưng tôi có thể thấy điều ông muốn nói, điều mà ông muốn la lên, “May quá! Chúng ta gặp may rồi!” Thế đấy, vận may của tôi đâu có giống như Helen. Cũng không giống như những người khác, những người khoác lác là họ chuyển từ vận xui sang vận hên nhẹ như không. Không, tôi sẽ nói điều đó xảy ra với người khác như thế nào, với tôi ra sao. Ví như cái cô gái mà tôi từng biết ở Thượng Hải, một người bạn cùng lớp với tôi ở trường truyền giáo. Cô cũng xuất thân từ một gia đình gia thế giàu có như gia đình tôi. Vào cái lúc mà tôi cưới người chồng đầu tiên thì cô đính hôn với con trai của một gia đình giàu có thuộc giới tài phiệt. Nhưng mùa hè năm sau khuôn mặt xinh đẹp của cô bị tàn phá bởi những dấu vết để lại của bệnh đậu mùa, thế là hôn ước bị hủy bỏ. Tôi thương cô ấy lắm vì cô ta bị “mất mặt” đến hai lần. Nhiều năm sau tôi gặp lại cô ấy, khi Jimmy và tôi chuyển đến Fresno. Cô ấy cưới một người Mỹ gốc Hoa, chủ một tiệm chạp phô bán soda, khoai tây chiên, thuốc lá, nói tóm lại mọi mặt hàng giá cao. Tôi đã gặp lại cô ta tại một quầy tính tiền. Tôi mua một cây kem que. Cô ta kêu lên “Chị, chị nhớ em không?” Nhưng cô ta chẳng bớt cho tôi đồng nào. Sau khi nhận tiền của tôi, cô ta kể chồng cô ta trung hậu, tốt bụng và dễ thương như thế nào. Trong khi cô ta nói thế thì cô ta vung tay lên lên xuống xuống khiến cho bao nhiêu là những vòng tay bằng bích ngọc va vào nhau làm thành một điệu nhạc vui tai. Khi cười hết cỡ thì tất cả những vết rỗ trên mặt cô ta trông như những lúm đồng tiền duyên dáng. Sau đó cô ta thôi cười, hạ giọng thì thầm “Chị có nhớ con trai gia đình nhà băng Thượng Hải không?” Rồi cô ta kể lại cho tôi với một nỗi buồn thành thực không pha một chút hí hửng nào rằng cuộc đời đã ưu đãi cô bằng cách nào – cái gia đình chồng hụt của cô mất tất cả các cơ sở tín dụng của nó khi Cách mạng giành được chính quyền. Sau đó, con trai họ, người đã từ hôn với cô đã nhảy lầu tự tử từ một tòa nhà mà gia đình này sở hữu bên bờ sông Hoàng Phố. Thậm chí cô vợ xinh đẹp của anh ta, người mà anh ta thực sự cưới làm vợ quá sợ không dám đi nhận xác chồng “Thật may mắn là anh ta không cưới em.” – chị bạn của tôi kết luận. Tôi không bao giờ có một may mắn loại ấy. Tôi đã từ chối không chịu lấy một người tốt, một người tên là Lĩnh, trong lần lấy chồng đầu tiên, ngược lại tôi lấy một người chẳng ra gì họ Văn. Cả hai cùng ở một hòn đảo mà tôi đã đến sống từ lúc 6 tuổi. Đó là một vùng đất cổ hủ, một hòn đảo bé tẹo vây quanh bởi nước, bởi sông và biển, vì thế mà những tư tưởng mới lạ chẳng dễ dàng trôi tới đây được. Người đàn ông mà tôi nên ăn đời ở kiếp xuất thân từ một gia đình không nhiều tiền lắm của nhưng có học và có cốt cách. Khi tôi 16 tuổi ta, tôi đã từ chối lời cầu hôn của gia đình này mà không thèm biết đến mặt mũi người con trai. Đó là bởi vì tôi nghe lời thím Lớn, nghe cái cách bà thông báo lời cầu hôn của gia đình này ở bàn ăn trước mặt thím Nhỏ, chú tôi, các em họ tôi cùng bạn bè gia đình. “Nhà này, cái thằng Lĩnh á,” bà bắt đầu khịt mũi, “hừm, muốn chui vào dòng họ nhà ta qua váy cưới con Vi Vi.” Với những lời này tôi có thể hình dung cậu con trai, cái người mà tôi chưa bao giờ gặp, trông giống như một con thằn lằn xấu xí to bự bò lên chân tôi mỗi tối. Sau đó thím Lớn quay về phía tôi bên bàn ăn hỏi, “Vi Vi con có muốn làm dâu gia đình này không?” Bà nói điều này bằng một giọng vang lên như thể bà đang hỏi, “Mày có muốn nhảy xuống sông không?”, điều mà thím Lớn luôn hăm dọa khi bà có chuyện không vui vẻ với chồng. “Tôi sẽ nhảy hai chân xuống sông tự vẫn.” Thím Lớn thét lên. “Tôi sẽ tự tay treo cổ lên.” Sau đó bà quay sang chú tôi, giọng bà thậm chí còn rít lên cao hơn bao giờ hết, “Ông muốn tôi làm gì? Nói đi, tùy ông quyết định đấy.” Chú tôi là người sau này đã dùng hai chân và hai tay tự tiêu diệt mình khi cách mạng nổ ra năm 1949, ông quá sợ hãi để bỏ chạy, quá sợ hãi để ở lại. Ông mất tin thần, cứ đi tới đi lui quanh cái cảng ở bờ bắc hòn đảo và ở đây ông ngồi xuống suy nghĩ về sự lựa chọn của mình. Hai người đánh cá sau này nói rằng khi một xe tải chở đầy những con cua nhỏ đi vào một con đường tối tăm đến cảng, họ nhìn thấy chú tôi đứng lên chạy về phía trước chiếc xe vẫy hai tay hét to: Quay lại quay lại. Những người đánh cá nói rằng thật là kì cục cứ như thể ông ra lệnh cho cả thế giới, cứ như thể ông sẵn sàng dừng chiếc xe lại trước khi nó nghiến nát người ông. Sau khi ông chết, thím Lớn bắt đầu tin rằng cái cây lớn sau nhà chúng tôi chính là hiện thân của đức lang quân của bà, quá lười xê dịch và giúp đỡ bà trong việc giải quyết hết khó khăn này đến khó khăn khác. Đấy là cái gia đình của tôi, những lời khuyên họ có thể cho tôi. Nếu tôi không mất mẹ từ lúc còn bé thì tôi chẳng phải nghe thím Lớn. Có thể tôi đã cưới cậu con trai tên là Lĩnh khi tôi còn trẻ. Có thể tôi sẽ học cách yêu chàng sau đám cưới. Có thể chúng tôi cũng có những khó khăn trong cuộc đời như bao nhiêu người khác nhưng không phải cái loại khó khăn khiến tôi căm ghét bản thân mình, nghĩ rằng trái tim mình là kẻ thù tệ hại nhất. Tôi gặp người đàn ông tên Lĩnh ngày lần đầu tiên sau đó 20 năm, khi tôi đã sống ở Mỹ được 5 năm. Lúc đó tôi là một thiếu phụ đã trưởng thành. Winnie Louie, vợ của Jimmy Louie, Pearl hơn 4 tuổi và Samuel gần 3 tuổi. Dù rằng chúng tôi rất nghèo, tôi tin rằng đời tôi thế là mãn nguyện cũng giống như một phụ nữ Công giáo có lần giải thích cho tôi. “Một bát cơm đầy là tất cả những gì mà chị có thể đòi hỏi.” Tôi tin rằng điều đó đúng, tôi còn muốn gì nữa chứ? Jimmy là mục sư ở một nhà thờ ở Fresno, họ trả cho ông 50 đô la một tuần và cấp cho chúng tôi một ngôi nhà nhỏ, thế là tôi tin rằng tôi chẳng ao ước gì hơn nữa. Tôi tin vào điều này cho đến ngày người đàn ông tên Lĩnh xuất hiện trong nhà thờ của chúng tôi, và cứu sống tôi. Tất nhiên có rất nhiều người tên Lĩnh ở Trung Hoa, thậm chí có nhiều ông Lĩnh ở giáo phận, vì thế mà đầu tiên tôi chẳng nghĩ rằng ông ta có thể là cái chàng trai mà tôi chê không chịu cưới. Ông ta mới chuyển đến vùng này, mọi người xì xào “Ông ấy là bác sĩ, sống ở Talure có một hồ bơi thật lớn, cưới con gái của một vị cựu tướng quân,một người nói tiếng Hoa tuyệt hảo, giọng Bắc Kinh, giống như một ngôi sao nhạc kịch.” Chủ nhật ấy khi vợ chồng ông đến nhà thờ của chúng tôi, mọi người đang đứng ngoài sân, dưới ánh mặt trời chói chang. Tất cả mọi người đều tò mò nhìn về phía ông bác sĩ và người vợ quý phái của ông ta. Jimmy nói tiếng Anh, thứ ngôn ngữ thông thường giữa những người Hoa nói nhiều thứ tiếng địa phương trong giáo phận của chúng tôi, “Rất vui được gặp ông, rất vui được gặp bà, xin vui lòng trở lại lần nữa.” Jimmy nhắc đi nhắc lại những đều này, những từ mà tôi thực tập suốt đêm mà cũng không mở mồm nói trơn tru được, thế là tôi chỉ gật đầu mỉm cười giả vờ là tôi quá nhút nhát. Ngày Chủ nhật nào cũng như thế. Chỉ có điều ngày Chủ nhật hôm ấy trời nóng chảy mỡ ra mà tôi thì không thể cởi cái áo khoác bởi vì có một con nhậy đã cắn một cái lỗ to ở ngay lên vai phải cái áo mặc trong của tôi. Tôi gật đầu chào vợ chồng ông bác sĩ. Tôi nhìn theo dám đông ùa về phía họ tự giới thiệu. “Tôi là Gladys Vọng”, “Mavis Châu”, “George Bộ”, “Marray Dương”, “Iren Vĩnh”. Tôi nghĩ tất cả mọi người đều ngượng ngập khi nói cái tên ngắn ngủn của họ với ông bác sĩ quan trọng đường bệ nọ. Cũng không nhắc là tôi nghĩ về những điều này, chỉ là để những điều này bập bềnh trôi vào óc tôi, bởi vì tôi buồn ngủ quá: miệng trễ ra, mặt nóng bừng và ngứa. Khi tôi gãi gãi má, ông bác sĩ trông thấy. Cũng gãi vào cổ ông, gật đầu cười sau đó thì nói với tôi, “Ding-ngin”. Khi ông thốt ra từ này, ding-ngin, tôi có cảm tưởng tôi đang mơ. Lạ lùng làm sao, ông ta biết được cái từ địa phương ở hòn đảo của tôi từ khi tôi còn bé. Tôi nhớ cái lúc tôi nghe cái từ này lần đầu tiên. Tôi 6 tuổi, đó là mùa hè đầu tiên, cha tôi gửi tôi đến sống ở hòn đảo này. Ngày cũng như đêm những con bọ chét nhỏ li ti không thể nhìn thấy cắm vào khắp bắp chân của tôi và chẳng bao lâu tôi rơi vào một nỗi khổ sở cực kì kinh khủng: gãi và gãi, không thể dừng lại dù một giây, “Yangsele,” tôi kêu lên. Đó là một tiếng Quan thoại thông thường có nghĩa là ngứa muốn chết”. Mọi người cười rộ lên, thím Lớn đập vào tay tôi bắt tôi im mồm. “Sao con lại nói vậy?” Ngày hôm sau một người chị họ lớn hơn tôi bảo với tôi rằng ding-ngin là từ người dân ở đây nói khi người ta muốn nói về sự ngứa ngáy còn yangsele có nghĩa hoàn toàn khác. Tôi không biết sự khác nhau đó mãi cho đến 10 năm sau, vào trước cái đêm tân hôn của tôi với người chồng chẳng ra gì. Lúc ấy tôi nghe hai thằng em họ thì thầm với nhau, “Yangsele, cái ấy của chị ấy ngứa toáy lên làm cho chị ấy không thể chờ đến lúc có một người đàn ông nhảy lên.” Cái ngày nóng nực hôm ấy tại nhà thờ Fresno khi tôi nghe từ này lần nữa, tôi nhớ lại kí ức thơ ngây của mình. Khi gợi lại kí ức này, tôi cảm thấy mặt tôi nóng bừng lên vì giận dữ và xấu hổ mà chẳng biết làm gì. Tôi càng cố nhớ về kỉ niệm này bao nhiêu thì đầu óc và thân thể tôi càng phát sốt bấy nhiêu. Lúc này ông bác sĩ Lĩnh chạm vào khuỷu tay tôi, ân cần hỏi, “Bà có bệnh không?” Tôi không trả lời ông, chỉ ngắm khuôn mặt ấy. Cái cách ông nhướn lông mày lên rồi cái cằm giật giật hai lần cho tôi biết rằng ông ấy muốn nghe câu trả lời của tôi. Khuôn mặt của ông – cách nhướn lông mày và giật giật cái cằm chính là vẻ mặt của ông trưởng tộc họ Lĩnh và ai trong dòng họ này cũng có điệu bộ này, là cái mà thím Lớn đã từng miêu tả là “cái mặt dài thòng của nhà họ Lĩnh giống như một con ngựa dụi vào người con tìm kẹo trong túi con.” Nhìn cái biểu hiện trên khuôn mặt của ông bác sĩ, tôi nghĩ rằng mọi thứ đều hòa quyện vào nhau – quá khứ, hiện tại của tôi, người chồng thứ nhất, người chồng thứ hai và Lĩnh. Tôi choáng váng, vì thế tôi thực sự không biết ai là người đã hét lên, “Say nắng! Cảm nắng rồi.” Tôi không biết tại sao người ta cởi áo khoác của tôi, bế tôi lên mang vào trong nhà thờ. Chồng tôi sau đó nói khi tôi nằm ướt đẫm trong tay ông là ông đã một lần nữa rửa tội cho tôi, cứu rỗi linh hồn cho tôi. Lúc này ông dở cười dở mếu nói rằng ông bác sĩ cũng đã rửa tội cho tôi và cứu sống tôi. Tôi vẫn còn quá bối rối vì thế tôi chỉ làu bàu đưa ra một cái cớ rất vớ vẩn. “Ôi, tôi nghĩ tôi trông thấy ma.” Lúc ấy tôi mới nhận ra là không chỉ có vợ chồng tôi, những người đi dự lễ và vợ chồng ông Lĩnh vây quanh chúng tôi. Tất cả mọi người đều quan sát tôi. Tôi ngượng chín cả người khi bắt gặp ánh mắt mọi người nhìn vào vết rách trên vai áo tôi. Tôi không bao giờ nói với Jimmy rằng người đàn ông tên Lĩnh này là người lẽ ra tôi phải cưới trong lần lấy chồng đầu tiên chứ không phải người khác, rồi mới tới ông. Tôi chỉ nói với ông rằng vì từ “ngứa” mà ông này dùng, tôi biết rằng tôi là người cùng quê với ông bác sĩ, hòn đảo Tống Minh còn có tên gọi là làng Cửa Sông. Tôi muốn kêu lên, phủ nhận những lời nói của chồng tôi, giải thích rằng có lẽ tôi đã nhầm, tôi đến từ một hòn đảo khác. Tôi nghĩ Lĩnh có thể nói trước mặt mọi người, “Này, có phải cô là người từ chối gia đình tôi không?” Nhưng mà Lĩnh chỉ mỉm cười nói, “Chúng ta đã ở đấy lâu lắm rồi phải không bà chị?” Có thể ông ấy rất lịch sự. Ông có một phong cách rất mực tao nhã. Hoặc cũng có thể ông cũng chẳng muốn cưới tôi nữa. Vợ của ông rất đẹp. Hoặc cũng có thể ông không phải là chàng trai Lĩnh đã hỏi cưới tôi. Sau cùng, tôi nghe rằng còn có những người con trai khác trong gia đình này. Tôi sẽ chẳng bao giờ biết rõ được. Tôi quá sợ tìm ra sự thật. Tôi có lợi gì khi biết được điều đó. Vì thế tôi chẳng hỏi thêm câu nào nữa. Cũng từ ngày hôm đó tôi nhìn mọi thứ trong cuộc đời tôi theo hai lối, một lối đã thực sự xảy ra, lối kia có khả năng xảy ra. Đêm hôm đó, khi chồng con đã ngủ cả, tôi nghĩ về bản thân, tất nhiên tôi chẳng nuối tiếc gì về việc đã lấy Jimmy Louie. Tôi yêu Jimmy. Tôi đã đợi năm năm mới lấy được ông. Tôi đã đến đất nước này để sống với ông. Tôi rất mãn nguyện, còn trên cả mãn nguyện nữa. Đó là tình yêu đích thực, chứ không phải là sự tận tụy dành cho một người chồng đã nuôi sống mình, dậy dỗ đàn con của mình. Tôi không nghĩ gì về Lĩnh hết, về những bộ quần áo đẹp hay là bể bơi của họ. Ai mà cần những thứ này? Tôi tự nhủ. Nhưng rồi đêm càng về khuya tôi càng nung nấu về điều này. Tôi nghĩ như thế này, ta đã hối tiếc bao nhiêu vì đã không cưới Lĩnh. Bởi vì nếu ta lấy chàng thì ta đã chẳng lấy người đàn ông kia. Ta đã chẳng bao giờ trở thành cái hạng đàn bà cầu cho quân Nhật giết béng chồng đi. Ta cũng chẳng phải là cái loại làm mẹ gì mà chẳng hề đau buồn khi con cái lần lượt bị chết. Ta cũng chẳng bao giờ phải đầu độc thần kinh của ta tìm mọi cách thoát khỏi cuộc hôn nhân ấy, cuộc hôn nhân chỉ hút rỗng thể xác của ta. Ta cũng sẽ không phải chìm đắm trong nuối tiếc là ta đã chẳng còn lại được bao nhiêu để dành cho người chồng thứ hai, mà với chàng ta cũng chỉ có cảm giác dễ chịu chứ chưa bao giờ hoàn toàn sung sướng. Sau khi Jimmy qua đời, tôi không thể dẹp bỏ cái ý nghĩ rằng nếu tôi lấy Lĩnh thì tôi sẽ chẳng bao giờ gặp Jimmy Louie, cưới ông và luôn luôn dõi tìm ông, cuộc tìm kiếm chẳng vì cái gì cả, thịt da tôi sẽ không phải chờ đợi được vuốt ve bởi chẳng ai cả, như vậy tôi sẽ không biết đến cái cảm giác của một nỗi đau không sao làm dịu được. Nếu tôi lấy Lĩnh, tôi sẽ không bao giờ biết được có Jimmy trên đời này. Và như vậy tôi sẽ không phải luôn nhớ về một người mà đến cái tên tôi cũng không biết được. Mới gần đây tôi lại nghĩ về điều này lần nữa. Nếu tôi lấy Lĩnh, tôi sẽ sống đến đầu bạc răng long với chàng, Helen sẽ không bao giờ biết đến những bí mật tồi tệ của tôi. Tôi chẳng có lí do gì để cho bà ta lấn át mình hết. Tôi biết rõ như thế, bởi vì Helen nói với tôi đêm qua, trong bữa ăn tối là người đàn ông tên Lĩnh góa vợ đã từng sống ở Fresno, nay lại chung giáo phận với bọn tôi ở San Francisco này. “Ông ta là bác sĩ,” bà nói, “nhưng ông ta chỉ bỏ vào thùng phước thiện có 5 đô.” Helen, chứng kiến vẻ ngạc nhiên trên mặt tôi, đã nghĩ rằng bà biết hết mọi chuyện. “Thế đấy, chị có tưởng tượng được không? Có loại người như vậy đấy.” Tôi đã không nói cho Helen rằng tôi lẽ ra phải lấy người này, một người tốt làm sao. Tôi đã không nói rằng đó chính là số phận và tôi thật mù quáng. Hoặc là bởi vì tôi không biết nên tôi đã có một lựa chọn tai hại. Tôi đã không thừa nhận với Helen điều này. Có thể tôi đã phạm sai lầm, một sai lầm thật đơn giản – nói không với người này nói có với người kia, giống như chọn cá trong một cái chậu. Làm sao mà bạn biết được cái gì tốt cái gì xấu, khi bạn còn chưa nếm trải. Thậm chí nếu tôi nói thì bà ấy cũng không hiểu. Cách nghĩ của chúng tôi khác nhau nhiều lắm. Đầu óc của chúng tôi khác nhau nhiều lắm. Đầu óc của bà vẫn còn ở đâu bên Trung Hoa. Như kiểu thế này này, khi bà mua cá cho bữa tối, tôi hỏi rằng: “Này chị biết chuyện gì xảy ra với nó ba ngày trước không?” Bà sẽ trả lời ngay tắp lự, “Nó còn bơi ở ngoài biển.” Suốt 40 năm qua tôi giới thiệu với mọi người rằng Helen là chị dâu, là vợ của anh trai Cung của tôi đã bị chết trong chiến tranh. Điều đó không đúng. Nhưng tôi không nói thế để lừa dối ai. Chẳng qua là sự thật quá rắc rối. chẳng ai có thể hiểu được cho dù tôi có hết lòng giải thích đi chăng nữa. Anh tôi bị chết chăng? Trong thực tế anh chỉ là anh em cùng cha khác mẹ với tôi. Anh là con trai người vợ thứ hai của cha tôi, người đã chết, mẹ tôi mới là người thay thế vị trí của bà. Vì thế mà chúng tôi không hề gần gũi với nhau. Người anh em cùng cha khác mẹ này không chết trong chiến tranh mà là trước khi chiến tranh nổ ra. Đầu của anh ấy lìa khỏi cổ ở Trường Sa vì bán vải cho quân khởi nghĩa. Đó là năm 4638 theo lịch Trung Quốc, năm Ngọ, cái năm mà người ta dậm dật chân tay trên khắp các nẻo đường, trở nên bấn loạn. Tôi không nhớ về năm dương lịch. Có thể là năm 1929, 1930 hay 1931 nhưng dù sao thì cũng là trước khi tôi gặp Helen. Nhưng khi tôi nói điều này, tôi lại phải giải thích rằng người anh này không phải là người làm cách mạng. Sự thật, anh ấy đã phản đối – đầu tiên là giận dữ với những người khởi nghĩa sau đó thì lại quỳ gối tuyệt vọng van xin bảo với họ rằng anh đã không biết những khách đêm qua của anh là những người làm cách mạng nên mới khoe khoang rằng đã lừa họ bán với giá thật cao, cười nhạo rằng những thước vải đó rất xấu. Dù sao thì Quốc dân Đảng cũng đã giết anh ấy, một bài học có ích cho những người khác nữa. Nhưng giờ đây, làm sao tôi có thể mở miệng nói về điều đó, rằng một thành viên trong gia đình tôi đã lừa dối khách hàng. Không, tôi chỉ có thể nói là thời ấy rất nhiều người bị giết chỉ vì những chuyện vớ vẩn. Không nên biết về những điều nguy hiểm này, rằng anh trai tôi tham lam một cách cực kì ngu xuẩn. Chính người vợ chính thức của anh ấy cũng nghĩ vậy. Chị ấy đã không thích dọn đến Trường Sa thời gian đầu. Nhưng nếu có ai hỏi chị ấy ở đâu thì tôi cũng không biết. Sau khi chồng chết, chị viết thư, kể cho chúng tôi mọi chuyện. Sau đó chúng tôi chẳng có tin tức gì về chị hết, chỉ nghe đâu vùng chị ở bị lụt, có rất nhiều những cái xác trôi lềnh bềnh trong dòng nước đến nỗi nhân dân hai bên bờ phải bỏ xứ mà đi để thoát khỏi mùi xú uế, vì thế có thể chị dâu tôi cũng chết đuối, xác trôi dật dờ ra sông rồi ra biển. Hoặc có thể là chị ấy đã thay đổi và trở thành chiến sĩ Cách mạng, hoặc giờ đây đang sống ở một nơi nào đó ở Trung Hoa mai danh ẩn tích. Nếu tôi nói tất cả những điều này, mọi người sẽ nghĩ rằng đó là kết cục câu chuyện về người anh cùng cha khác mẹ của tôi. Tôi cũng sẽ nói láo khi đồng ý: Anh ấy đã chết. Người vợ trên thực tế của anh cũng đã qua đời. Thế là chẳng còn gì để nói, chẳng có kết thúc có hậu một cách đáng ngạc nhiên. Đôi khi trong gia đình, chúng tôi nói với nhau một câu chuyện về một con bò hú gọi vầng trăng khuyết, nghĩ rằng đó chính là cái sừng của nó. Mọi người đều biết là chúng tôi đang nói về ai. Một thằng ngốc tìm đường lên trời nghĩ rằng nó có thể hái được ngôi sao trên bầu trời, cuối cùng chỉ té nhào mất xác. Chúng tôi không bao giờ đả động đến cái tên ấy. Thật là nguy hiểm khi quen biết bất cứ ai có chuyện với những người làm cách mạng. Cũng chẳng thành vấn đề cái việc anh Cung đã chết, vì việc này không dính dáng gì đến chính trị cả. Nhưng rồi sau đó ông anh lại hóa kiếp thành nhiều cuộc đời khác. Khi quân Nhật chiếm đóng Thượng Hải năm 1937, chú tôi chào đón chúng trong cửa hàng vải sợi của ông: “Cháu trai tôi học ở Nhật, giờ sống ở Trường Sa, cưới một cô gái Nhật.” Khi quân Nhật thất trận năm 1945 và Tưởng Giới Thạch quay trở lại, ông chú tôi lại nói, “Thằng cháu tội nghiệp của tôi, thằng Cung là anh hùng của quân đội Quốc dân Đảng, cháu chết ở Trường Sa.” Khi Hồng quân Trung Quốc chiếm chính quyền năm 1949, truyền thuyết đầu tiên lại trở lại, chỉ có điều lúc đó chú tôi đã chết. lúc này thì thím Lớn là người nói rằng anh Cung là một chiến sĩ cách mạng vĩ đại, anh đã hiến vải đẹp cho những sinh viên công nông – không lấy một xu – tất nhiên, và hi sinh cả cuộc đời. Lúc đến đất nước xa lạ này, tôi nghĩ cuối cùng tôi cũng có thể quên được ông anh cùng cha khác mẹ này, người đã chết rất nhiều lần bằng nhiều cách khác nhau. Thật là rối rắm khi cứ phải giải thích đi giải thích lại: ai có họ với ai, mối liên hệ ra làm sao, năm nào xảy ra sự kiện đó theo Âm lịch, theo năm Dương lịch nào, chuyện gì xảy ra cho bà chị dâu của tôi, tại sao chúng tôi cứ quay như chong chóng từ quân Nhật sang quân Tưởng rồi đến những người Cách mạng. Làm sao tôi có thể giải thích những chuyện như vậy cho bộ phận làm thủ tục nhập cư chứ. Họ không hiểu đâu. Họ chỉ biết có một kiểu chính quyền. Họ bao giờ cũng hỏi tôi tất cả những câu hỏi rối rắm như là, “Sao bà sinh năm 1918 ở tờ giấy này, lại sinh năm 1919 ở tờ giấy khác?” “Tại sao bà không có giấy chứng nhận kết hôn, cũng chẳng có giấy phép cho li hôn?” “Bà nhiễm giun sán ở Trung Hoa hay ở nước khác? Khi tôi đến đất nước này, tôi tự nhủ mình sẽ có một lối nghĩ mới. Bây giờ tôi có thể quên bi kịch của đời mình, đóng tất cả những bí mật của mình lại sau một cánh cửa và sẽ không bao giờ mở ra nữa, sẽ không có một cặp mắt của người Mỹ nào nhìn thấy được. Tôi đã nghĩ là quá khứ của tôi khép lại mãi mãi cùng tất cả những gì mà tôi hình dung được về Trung Hoa bao la đã được nhồi nhét vào một hòn đảo bé nhỏ mà tôi chưa từng thấy trước đó. Tôi đã nghĩ không có ai đuổi theo tôi tới đây. Tôi có thể cất giấu những lỗi lầm, những tiếc nuối và những tâm sự đau buồn của mình. Tôi có thể thay đổi số phận của mình. Ôi, tôi đâu có phải là người duy nhất bỏ lại phía sau tất cả để phù hợp với môi trường mới. những người đi chung nhà thờ với tôi, người bạn học với khuôn mặt bị bệnh đậu mùa, Lĩnh và người vợ của ông ta, kể cả Helen – tất cả đều đã bỏ lại một cái gì đó phía sau. Những món nợ cũ, những khởi đầu tồi tệ. Những bậc sinh thành già nua ốm yếu, chế độ đa thê và những dòng con, sự mê tín dị đoan và số mệnh của người Hoa. Thậm chí tôi đã sợ rằng quá khứ cũ sẽ ập lên đầu tôi. Nhưng rồi nước Trung Hoa tắt ánh đèn sân khấu, đóng cửa lại bảo mọi người im lặng. Tất cả những người này biến thành những bóng ma. Chúng tôi không thể nhìn thấy họ. Chúng tôi không thể nghe họ. Vì thế tôi nghĩ rằng giờ thì tôi có thể quên đi mọi chuyện. Chẳng có ai để nhắc tôi nhớ lại. Nhưng rồi Helen lại muốn ra khỏi nước Trung Hoa Dân chủ. Tôi phải đứng ra bảo lãnh cho chị ấy, người nói rằng tôi nợ chị một món từ nhiều năm trước và bây giờ đã đến lúc tôi phải trả. Thế là tôi trả lời với tổ chức nhập cư của Mỹ năm 1953 rằng Helen là chị dâu của tôi, lấy con của một trong năm bà vợ của cha tôi. Nhưng một khi Helen đã ở đây rồi làm sao tôi có thể nói với những người trong xứ đạo rằng cha tôi có tới năm bà vợ? Tôi là vợ của một mục sư mà. Vì thế tôi bảo rằng Helen là chị dâu tôi từ thời xửa thời xưa, đã từng lấy anh trai tôi, một trong những anh hùng quân đội Tưởng Giới Thạch đã hi sinh trong chiến tranh. Thật quá tệ. Tôi không thể nói lí do tại sao Helen lại sang đây, tại sao lại phải giúp đỡ chị ấy. Điều đó thậm chí còn phức tạp hơn nữa. Tôi đã kể câu chuyện Helen cưới anh trai quá nhiều lần đến nỗi cả Helen cũng tin vào điều đó. Bà ta nói với tôi những ai hỏi về những ngày này. “Ồ đám cưới của tôi tổ chức theo lối mới lớn lắm. Winnie là phù dâu của tôi. Đáng tiếc là chồng tôi chết trẻ quá.” Bà ta nói điều này ngay cả khi bà đã trở thành công dân Mỹ và không ai có thể đuổi bà về nước. Helen cũng kể những câu chuyện về tôi rất nhiều lần đến nỗi đôi khi tôi cũng tin là thật. Jimmy là người chồng đầu tiên và duy nhất của tôi. Chính bà đã giới thiệu chúng tôi với nhau ở Thượng Hải. Bà đã dự tiệc cưới của tôi, một đám cưới linh đình theo lối truyền thống. Sẽ không có ai tin tôi nếu bây giờ tôi nói rằng Helen không phải là chị dâu của tôi. Bà ta chẳng có dây mơ rễ má gì với tôi cả về mặt huyết thống cũng như quan hệ hôn nhân. Bà ta không phải là người mà tôi chọn là bạn. Đôi khi tôi chẳng thích thú gì với cái tình bạn này. Tôi không đồng ý với bà ta về nhiều điểm. Tôi cũng chẳng ngưỡng mộ tính cách của Helen nữa, mặc dù chúng tôi có lẽ còn gắn bó hơn cả chị em ruột thịt, bởi sự ràng buộc của số phận, sự nối kết nợ nần. Bà giữ bí mật cho tôi, tôi giữ bí mật cho bà. Chúng tôi có một lời thề trung thành không hé một lời nào về quá khứ trên cái đất nước này. Vì thế bạn có thể tưởng tượng được sự giận dữ của tôi khi Helen bảo tôi ở trong bếp ngay sau bữa ăn tối rằng bà quyết định nói ra hết những bí mật của tôi. 4. ĐIỆN THOẠI ĐƯỜNG DÀI Đây là cách mà bà ấy nói với tôi điều đó. Sau bữa tối với con cá nọ, Henry trở lại phòng khách xem ti vi và ngủ thiếp đi trên ghế bành. Helen vẫn ở trong bếp nấu nước pha trà. Còn tôi ngồi ở phòng ăn. Thực ra nó cũng chẳng phải là phòng ăn nữa, chỉ là một phần của cái bếp được ngăn ra bởi một bức sáo bằng nhựa. Nhưng mà Helen không thể nhìn thấy tôi, bà ta nói oang oang cũng cứ như thể chúng tôi ở cách xa nhau lắm, khoe khoang về việc Bảo Bảo sẽ lấy vợ trong ba tuần lễ. Bảo Bảo thế này, Bảo Bảo thế kia, đó là tất cả những điều mà bà ta nói say sưa. Giọng của bà như trong một màn quảng cáo trên tivi, thắng cái này, thắng cái kia, tuần nào cũng như tuần nào. Bảo Bảo đã 31 tuổi mà bà ta vẫn gọi nó là bé cưng. Nhưng có lẽ Helen đúng. Bảo Bảo của bà vẫn là một đứa trẻ quá được cưng chiều đến nỗi nó không có đủ kiên nhẫn để đợi một chuyến xe buýt. Một lần xe nó bị hỏng nó gọi cho tôi mới dễ thương và lịch sự làm sao, “Dì yêu quý, bao lâu rồi con chưa gặp dì. Dì có khỏe không ạ? Tốt quá, tốt quá. À mà dì có thể cho con mượn chiếc xe của dì không? Con có một cuộc phỏng vấn rất quan trọng.” Khi nó trả lại xe cho tôi, 3 ngày sau đó, thì ôi thôi tôi nhìn thấy những dấu vết vương vãi trong và ngoài xe - một cú va chạm vào thanh cản xe, lon coca vứt lung tung trên sàn xe, không một giọt xăng. Nó thậm chí vẫn hoàn toàn thất nghiệp. Vì thế tôi chẳng hơi đâu nghe Helen khoe khoang về cậu quý tử. Tôi vẫn còn nhớ là tôi phát điên lên vì cái xe. Bởi vì tôi chẳng xổ ra vào lúc ấy nên nhớ lại bây giờ tôi vẫn còn giận lắm. Tôi nghĩ con trai tôi không như vậy. Samuel không bao giờ nói những lời ngọt ngào để rồi ngay sau đó lại hỏi mượn một cái gì đấy. Nó cũng chẳng bao giờ mượn xe Helen để đi """