"
Phong Thanh - Mạch Gia full mobi pdf epub azw3 [Trinh Thám]
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Phong Thanh - Mạch Gia full mobi pdf epub azw3 [Trinh Thám]
Ebooks
Nhóm Zalo
Mục lục
PHẦN MỘT: GIÓ ĐÔNG Lời tựa
Chương một
Chương hai
Chương ba
Chương bốn
Chương năm
Chương sáu
Chương bảy
Chương tám
Chương chín
Chương mười
PHẦN HAI: GIÓ TÂY
Lời tựa
Chương một
Chương hai
Chương ba
Chương bốn
Chương năm
Chương sáu
NGOẠI TRUYỆN: LẶNG GIÓ
Lời tựa
Chương một Chương hai Chương ba
Trung Quốc ngày nay còn ai tin vào anh hùng, lý tưởng và thiên tài? Nhưng dưới ngòi bút của Mạch Gia và trong cuộc sống của chúng ta, những thứ đó vẫn tồn tại!
“Các nhân vật trong Lắng nghe trong gió đều đã chết, vậy sao còn có phần hai? Đây là một câu hỏi huyền bí, tôi cũng chỉ có thể trả lời đại khái rằng: Cuộc sống là nhà tiểu thuyết ưu tú nhất, chẳng qua tôi chỉ là người trúng xổ số - xổ số cũng là một phần của cuộc sống.”
- - - Mạch Gia - - -
Phần một GIÓ ĐÔNG
1 0
LỜI TỰA
năm đã sắp trôi qua, cuộc sống của tôi vẫn giới
hạn trong một vòng tròn nhỏ hẹp, không đến cơ quan làm việc, người thân và bạn bè đa số đều ở xa, chỉ có vài người bạn ở gần nhưng thường cũng rất ít giao du. Tôi khá thích cuộc sống cô độc này. Thực ra thì cũng không phải là thích mà là đành phải chịu. Một mình ở nhà cũng đã đủ khó chịu, nhưng ra ngoài phải chịu đựng những thói thường của người khác, hay để người khác nhường nhịn mình thì càng thấy khó chịu hơn. Tôi không uống rượu, sợ cãi cọ, cũng không bài bạc, đúng hơn là không biết, mà hễ ngồi xuống là chỉ thích đàm đạo chuyện văn chương, muốn tìm một người cùng sở thích như vậy có lẽ còn khó hơn tìm đồng chí. Đồng chí còn có thể gặp ở câu lạc bộ hay những nơi hoạt động cố định nào đó, ở Thành Đô, nghe nói chỗ bảng đọc báo ở trước cổng Tòa soạn Nhật báo Tứ Xuyên là nơi hoạt động của cánh đồng chí, cũng chỉ là có chút ước định mà thành. Cảm giác như salon kiểu Anh trước đây.
Thành Đô là một thành phố hưởng lạc, đâu đâu cũng thấy quầy rượu, phòng trà, quán ăn từ hạng bét đến hạng sang đều có cả. Lương thấp lương cao, công nhân, trí thức đều có nơi tụ tập của riêng mình. Tôi đã từng sống ở bảy thành phố, vì vậy tôi có thể khẳng định rằng cuộc sống của người Thành Đô rất xa hoa, xa hoa giống như bông hoa anh túc, có phần phung phí, có phần lạ đời. Vậy mà tôi vẫn thấy rất tẻ nhạt, cùng con trai đánh bài, bói bài (kiểu chơi do tôi tự nghĩ ra), đánh cờ vua, cờ tướng đã trở thành thú vui chính của tôi. Thời gian của tôi ư? Ngoài thời gian
nghỉ ngơi bình thường và dành cho cái gọi là công việc như đọc sách hay viết lách một thứ gì đó ra thì tôi không biết làm gì nữa. Nếu như nhất định phải nói thì đành chịu, có khi còn suy nghĩ lung tung.
Lắng nghe trong gió (Âm mưu đen tối) chính là do nghĩ ngợi lung tung mà thành.
Thực ra tiểu thuyết của tôi đa số là như vậy, chỉ dựa vào một chút sự thật rồi tưởng tượng thêm, không có tư liệu gì, cũng không có bất kỳ trải nghiệm thực tế nào. Cứ ngỡ như vậy sẽ chẳng có ai bắt bẻ hay phạt vạ mình, cũng chẳng sợ bị lịch sử lên án. Thế nhưng kỳ lạ là mấy bộ tiểu thuyết hơi có chút ảnh hưởng của tôi mấy năm gần đây, luôn có người bắt bẻ phạt vạ, họ tìm mọi cách để liên lạc với tôi, chỉ ra vô vàn những điều phi thực tế và sai lầm trong tác phẩm của tôi. Có người còn kỳ lạ hơn, nói rằng cuốn Giải mã của tôi viết về vị cha đẻ của kỹ thuật tên lửa Trung Quốc, Tiền Học Sâm. Sự kỳ lạ theo suốt hành trình và chắc chắn sẽ còn ở phía sau. Cuốn Nốt ruồi (Hắc ký) viết về một cô gái, trên ngực cô ấy có một nốt ruồi thần bí, đầy gợi cảm. Khi chạm vào nó còn khiến cô ấy bị kích thích hơn là sờ vào đầu nhũ hoa. Đây hoàn toàn là những thứ tưởng tượng, vậy mà vẫn có người tìm đến bắt bẻ, còn tìm ra một vị bác sỹ giống thế ngoài đời, tố cáo ông ấy đã tiết lộ bí mật. Thật là có lỗi với vị bác sĩ ấy, tôi là đàn ông hay đàn bà, ông ấy còn chả biết thì làm sao có thể tiết lộ bí mật cho tôi chứ? Cuốn Lắng nghe trong gió thì càng không cần phải nói, do sự bùng nổ phim truyền hình, số người đến tìm tôi kiếm chuyện thị phi càng nhiều, đến nỗi trong một thời gian dài tôi phải trốn về quê. Bởi vì người ta tìm tôi quá nhiều, đã làm ảnh hưởng đến cuộc sống bình thường của tôi. Trong số những người đó có một vị tướng quân đội quyền cao chức trọng, cũng có những nhân vật kiểu A Bỉnh, Hoàng Y Y, Trần Nhị Hồ trong cơ quan 701[1] hoặc là những hậu
bối của họ. Trong số họ, có người đến với tư cách cá nhân, gia đình, có người đại diện cho cơ quan, đơn vị, có người đến cảm ơn tôi, có người đến lên án tôi. Thôi thì cảm ơn cũng tốt, lên án cũng được, tôi đều tiếp cả, muốn gặp, muốn giải đáp tất cả thắc mắc. Thực ra những điều tôi nói đều giống như nhau, chẳng thế mà một dạo tôi giống như chị Tường Lâm[2], không ít lần chỉ toàn là “chuyện cũ nói lại”.
[1] Các nhân vật trong cuốn Lắng nghe trong gió của cùng tác giả Mạch Gia (Chú thích trong cuốn sách là của người dịch).
[2] Một nhân vật vật trong truyện ngắn Chị Tường Lâm của Lỗ Tấn.
Trong số những người đến tìm tôi có một người tìm tôi với mục đích có chút mơ hồ, không hẳn là cảm ơn cũng không phải là lên án tôi. Nói theo một ý nghĩa nào đó, ông ấy không phải đến nghe tôi nói mà là đến để nói với tôi. Ông ấy đến từ Thượng Hải, họ Phan, tên Hướng Tân, là một giáo sư hóa học của một trường đại học, năm trước vừa nghỉ hưu, giờ thơ thẩn và nhàn rỗi ở nhà. Ông ấy tự đến, nhưng lưu lại trong cuộc đời tôi một dấu ấn thật đậm.
Vào tuần đầu tháng Giêng năm ngoái, giáo sư Phan nhận lời mời đến giảng bài tại trường Đại học Sư phạm Tứ Xuyên, trong thời gian đó nhờ bạn bè của tôi liên lạc với tôi, và bạn tôi đã đứng ra mời chúng tôi cùng ra ngoại ô ăn một bữa cơm dã ngoại. Trong bữa ăn, giáo sư đàm luận chuyện văn chương, lời hay ý đẹp nhiều vô kể, ông đã để lại cho tôi ấn tượng sâu đậm. Thậm chí ông ấy còn tài tình và khéo léo gắn nghề viết tiểu thuyết của tôi với nghề hóa học của ông ấy, hai thứ khác nhau một trời một vực. Ông nói rằng, tiểu thuyết hay cũng chính là hóa học, là xử lý cuộc sống theo hóa học. Ngược lại, tiểu thuyết dở thì là vật lý,
nghiêng về sự thật, rập khuôn cuộc sống vân vân. Đúng sai không bàn tới, nhưng cách nói mới mẻ, khiến người nghe khó quên. Trong bữa ăn, chúng tôi cũng nói về bộ phim truyền hình Lắng nghe trong gió, ông bảo rằng ông vừa xem Đài Truyền hình Thượng Hải chiếu xong, mỗi ngày ba tập, ông xem liền một mạch không bỏ tập nào, sau đó còn mua đĩa xem lại phần ba Người bắt gió, với học vấn và kiến thức của ông, một thứ mà đã xem đến hai lần thì thứ đó cơ bản đã thành của ông ấy, tình tiết lớn bé, cả chi tiết nội dung đều thông hiểu hết. Ông không đưa ra bình luận tốt xấu, chỉ hỏi tôi câu truyện đó có xuất xứ không và khẩn cầu tôi nói thật. Với người bình thường tôi không cần phải nói thật, nhưng với một người trí thức như ông ấy, tôi lo rằng nếu nói dối và lừa bịp sẽ bị ông ấy nhận ra ngay, thêm nữa lại vướng tình cảm bạn bè, tôi không tiện nói bừa, đành phải nói thật.
Thẳng thắn mà nói, câu chuyện trong phần đầu Kẻ nghe gió và phần hai Kẻ xem gió của cuốn Lắng nghe trong gió không có nguyên mẫu nhất định, ví dụ như gã mù A Bỉnh trong phần một, nguyên mẫu là một thằng ngốc ở quê tôi, tên gã là Lâm Hải, 40 tuổi vẫn chưa biết gọi bố mẹ, không thể tự lo liệu cuộc sống, nhưng thị lực của gã thì đáng kinh ngạc, mang tính bẩm sinh đặc biệt, đến cả vuông tròn cách xa mấy km, tính cách và gia cảnh của hàng chục nghìn người, gã đều có thể đoán được thông qua con mắt, đọc ra vanh vách. Công việc mà tôi đã làm chẳng qua chỉ là chọc mù mắt đôi mắt kỳ diệu của gã, để cho đôi tai của gã trở nên vô cùng thần kỳ. Còn về câu chuyện trong phần ba Người bắt gió, quả thực hoàn toàn là hư cấu, nếu như nhất định phải biết về xuất xứ, thì tôi miễn cưỡng đưa ra hai phương án: Một là từ bộ phim Thảm án trên sông Nile đọng lại trong ký ức tôi, hai là trò chơi giết người một thời thịnh hành tại Bắc Kinh. Cả hai kỳ thực chỉ là một, đều là cuộc tìm kiếm hung thủ trong một môi trường khép kín, thậm chí tôi còn hoài nghi
bản thân cái sau bắt nguồn từ cái trước. Nói cho cùng là năm 2001, cơ quan tôi, đài Truyền hình Thành Đô muốn làm một phim mừng dịp 80 năm thành lập Đảng, phần tôi thì đảm nhiệm viết kịch bản, tôi đã lôi kéo anh bạn thân Hà Đại Thảo cùng viết hai tập phim ngắn mang tên Bầu trời dưới lòng đất,
cần phải nói cảm hứng sáng tác chính là từ bộ phim Thảm án trên sông Nile, đó chính là lịch sử cách mạng hóa cốt truyện mà thôi. Hai năm sau, tôi học tại Học viện Văn học Lỗ Tấn, trong đám sinh viên rộ lên trò chơi giết người, tôi thấy rất thú vị, nổi hứng viết lại cuốn Bầu trời dưới lòng đất. Câu chuyện Người bắt gió thực ra là như vậy. Là tôi mượn cốt truyện kinh điển, dựa vào sở trường tư duy lôgic và niềm đam mê với công việc điệp báo, mà viết nên câu chuyện này.
Giáo sư Phan nghe song, trầm ngâm khá lâu. Tôi đoán im lặng như vậy không phải là ông ấy không có gì để nói mà ông ấy có điều quan trọng muốn nói. Quả nhiên, sau một hồi trầm ngâm ông bắt đầu chầm chậm nói, bởi vì qua trầm ngâm ‐ trầm ngâm suy nghĩ, lời nói của ông quả nhiên đầy triết lý và có sức thuyết phục vô cùng, ông nói với tôi như thế này:
“Trên thế giới này không có hai chiếc lá giống nhau, càng không thể có hai câu chuyện giống nhau, nhưng… Nói sao nhỉ, nếu anh hứng thú, tôi không ngại kể cho anh nghe một câu chuyện, thật một trăm phần trăm, có ghi chép lại trong lịch sử. Tôi không dám khẳng định, câu chuyện tôi kể hay hơn của anh, nhưng tôi tin rằng anh nghe xong sẽ rất ngạc nhiên. Có thể nói như thế này, trước khi anh viết nên câu chuyện ấy, Thượng đế đã thảo xong rồi. Tôi từng cho rằng, anh dựa vào tài liệu lịch sử để rồi thay hình đổi dạng viết nên câu chuyện của anh, nhưng nghĩ kỹ lại thì không phải như vậy, bởi vì anh đã vứt bỏ hết những thứ tinh hoa nhất, xuất sắc nhất trong tư liệu lịch sử. Xin lỗi anh, hãy thứ lỗi cho tôi nói một câu mạo phạm,
cá nhân tôi cho rằng, tay nghề của anh còn kém Thượng đế rất nhiều.”
Sau đó, trong vòng nửa tiếng đồng hồ, giáo sư đã kể cho tôi nghe câu chuyện của ông, nghe xong quả thực tôi cứ ngây ra. Đúng như vậy, câu chuyện ông kể hay hơn chuyện của tôi rất nhiều, hay gấp mười lần, gấp một trăm lần. Ngay lúc ấy, tôi yêu cầu ông kể lại tường tận một lần nữa. Ông bảo, người có tư cách nhất kể câu chuyện này nhất chính là đương sự của câu chuyện, rất nhiều người trong số họ hiện vẫn còn sống, trong đó có bố của ông. Ông nói với tôi, nếu như tôi thực sự hứng thú thì hãy đi cùng ông một chuyến, chắc chắn sẽ không uổng công vô ích.
Hơn cả mong đợi, tôi đã thu hoạch được rất nhiều. Tôi tìm được nguyên mẫu của câu chuyện Người bắt gió. Cùng với niềm vui, tôi luôn miệng khen kỳ diệu: Một câu chuyện hư cấu hóa ra lại có nguyên mẫu! Chẳng trách có người đem tiểu thuyết của tôi ra để bắt bẻ. Trước đó, tôi luôn thấy kỳ quái, một người hầu như không bước chân ra khỏi nhà như tôi, chỉ trong lúc bột phát, nghĩ vẩn vơ viết ra câu chuyện mà lại có người tìm đến bắt bẻ? Bây giờ thì tôi đã hiểu, đó là do cuộc sống mênh mông hơn hư cấu. Tôi nghĩ quan hệ giữa hư cấu và cuộc sống giống như quan hệ giữa phép Cân đẩu vân của Tôn Ngộ Không với lòng bàn tay của Phật tổ Như Lai, anh cứ chạy đi, xem anh có thể chạy được đến đâu.
Sau vụ này, tôi có lý do để tin rằng giáo sư Phan không đến với tôi một cách ngẫu nhiên, mà là có chủ ý, và dùng cách của riêng mình để đạt được mục đích: để tôi tự dựng lại cốt truyện về hình tượng Người bắt gió. Tôi phải thừa nhận, so với câu chuyện mà tôi đã hư cấu, câu chuyện này phức tạp hơn, ly kỳ hơn và cũng chân thực hơn.
Bố của giáo sư Phan, cụ Phan cùng năm người khác nữa như cụ, sau nửa thế kỷ, với thời gian và địa điểm khác nhau, nhưng đều cung cấp cho tôi những nội dung giống như nhau, giống nhau đến mức như là chỉ có một người kể vậy. Trong trải nghiệm của tôi, đây là lần đầu tiên có chuyện ngoại lệ như vậy. Cho nên tôi cũng ngoại lệ tin tưởng và thản nhiên với tính chân thực của nó.
CHƯƠNG MỘT
T
rở lại câu chuyện chính.
Câu chuyện xảy ra vào lúc giao thời giữa mùa xuân và mùa hạ, thời kỳ giặc Nhật, bên Tây Hồ, Hàng Châu, nơi được mệnh danh là thiên đường chốn nhân gian.
Sóng nước mênh mông hòa cùng nắng
Sắc núi mơ màng họa cùng mưa Tây Hồ,
Tây Thi cùng sánh bước
Son phấn nhạt nhòa vẫn đẹp tựa mơ
Tây Thi quá đẹp, với vẻ đẹp chim sa cá lặn, hoa nhường nguyệt thẹn, ai dám sánh với nàng đây? Tây Hồ! Tô Đông Pha đã nói với chúng ta bằng thơ rằng, duy chỉ có Tây Hồ vẫn đẹp đến rung động lòng người giống như nàng Tây Thi vậy.
Liệu có quá lãng mạn không? Không hề, đó là sự thực, có núi sông làm chứng. Núi là núi xanh, lúc tươi vui, lúc mưa bụi phủ mờ, xuân về cảnh sắc như hoa lan, thu đi vẫn đẹp như tranh vẽ. Nước là dòng nước mềm mại, gió nhẹ gợn sóng, chứa đầy ánh trăng mơ mộng và khi mặt trời le lói hiên lên dường như còn chưa tỉnh giấc. Non non nước nước, gió nhẹ mơn man, cảnh sắc gợi tình đó đã là nguồn cảm hứng của bao áng thơ văn. Kể sao cho xiết, sách chất đầy nhà, nhiều tới độ nếu chất thành đống sẽ giống như ngọn Cô Sơn với mùi mực thơm nồng và sắc màu rực rỡ. Khi thưởng thức, ngâm nga những áng thơ luôn gợi đầy
tương tư lưu luyến, cứ như là đã dùng hết mỹ từ, ôm trọn tình phong nguyệt.
Vào những năm 40 của thế kỷ trước, thành phố Hàng Châu chưa chắc rộng bằng một phần năm hiện nay, nhưng Tây Hồ, linh hồn của thành phố này vẫn như thế, không nhỏ tí nào, những thắng cảnh ven hồ và bên hồ cũng không ít đi so với trước là bao nhiêu, như đê Tô, đê Bạch, cầu Đoạn, cầu Tây Linh, cầu Cẩm Đới, cầu Ngọc Đới, cầu Tỏa Lan, Tam Đàn Ấn Nguyệt, Bình Hồ Thu Nguyệt, Nguyễn Công Đôn, đình Hồ Tâm, mộ Tô Tiểu Tiểu ở đầu cầu Tây Linh, liễu reo oanh hót bên cửa Thanh Pha, chùa Tiền Vương, cùng với các thắng cảnh trên Cô Sơn như Tây Linh Ấn xã, mộ Thu Cẩm, đình Phóng Hạc, Lầu Ngoại Lầu, Thiên Ngoại Thiên… hòa với Bạch Vân, đình Mẫu Đơn, chùa Tịnh Thông, chùa Báo Ân, động Quan Âm ở phía Nam, hay tháp Bảo Thích, đình Song Linh, miếu Nhạc, động Song Linh, động Thi Hà bên bờ Bắc. Tóm lại, những cái chúng ta thường gọi như nhất sơn tam nguyệt, nhị đê tam tháp, tam trúc lục kiều, cửu khê thập bát động lúc đó đều có cả, bọn Nhật tới đây cũng không làm dân chúng sợ đến nỗi chạy mất dép.
Tại thành phố Hàng Châu, bọn Nhật đã thả không biết bao nhiêu bom đạn, nghe nói ở sông Tiền Đường vẫn thường vớt được những quả bom chưa phát nổ của quân Nhật ném xuống, ngay cả nhãn mác trên quả bom cũng vẫn còn. Những quả bom giống như xác chết từ trên trời rơi xuống, chưa phát nổ mà đã làm cho dân chúng sợ hết hồn, huống hồ là khi chúng phát nổ. Tiếng bom nổ vang động đất trời, sức công phá của nó long trời lở đất, số người và thú nuôi bị thương vong không sao kể xiết, làm cho người và vật ở thành Hàng Châu sợ hãi bỏ chạy. Những thắng cảnh ở trong và ngoài Tây Hồ nếu như có thể chạy được thì chúng cũng đã bỏ chạy mất rồi. Tiếc rằng chúng không biết chạy, đành phó mặc cho số phận mà thôi. Số phận của Tây Hồ
quả là rất may mắn, hàng trăm chiếc máy bay trút xuống không biết bao bom đạn xuống, những Tây Hồ giống như được thần linh phù hộ, vẫn bình yên vô sự, ai cũng thấy kỳ lạ. Những danh lam di tích xung quanh cũng như được hưởng lộc của Tây Hồ, thoát khỏi đại nạn, duy chỉ có miếu Nhạc, có lẽ ở quá xa, ân phúc không tới được nên bị thiệt hại đôi chút.
Từ miếu Nhạc đi về phía tháp Bảo Thích, nay là đường Bắc Sơn, khi đó mọc lên rất nhiều tòa ngang dãy dọc, tất nhiên đều thuộc những gia đình giàu có và quyền thế. Thông tin của những người giàu có và quyền thế thường nhanh nhạy hơn đám dân thường. Trước khi bọn Nhật ném bom thành phố, họ đã kịp bỏ chạy. Sau khi cơ quan của giặc Nhật được mở, thành phố bình yên trở lại, những người giàu có và quyền thế lại quay trở về. Nếu chủ không trở về thì ít ra cũng có tôi tớ trở về, giúp chủ trông nom gia nghiệp, tránh cảnh người bỏ đi để nhà hoang phế, bị chính quyền giặc Nhật mới dựng lên chiếm đóng. Trong đó có một Đại Viện Lạc, lưng dựa vào núi, mắt hướng ra hồ, chủ nhân là họ Cầu, từng là ông chủ chuyên kinh doanh dịch vụ lầu xanh cao cấp, bản thân ông ta không trở về mà cử người làm về nhưng muộn mất vài tuần liền bị Hội Duy Trì rất thanh thế của giặc Nhật lúc đó chiếm mất, không trả lại. Sau này, trước khi chính quyền Uông ngụy của giặc Nhật được dựng lên, Tổng đội tiễu phỉ Hoa Đông của giặc Nhật mới được thành lập tiếp quản khu vực này. Một số tòa nhà trong viện đều được sử dụng vào mục đích mới, như tòa nhà chính ba tầng làm nhà khách cho sĩ quan Bộ Tư lệnh kiêm nơi vui chơi giải trí, phục vụ cho những thú vui xác thịt. Một dãy nhà trệt hình chữ U trong vườn trúc phía sau là khu “văn phòng” của nhà khách. Còn hai ngôi nhà kiểu Tây xây đối nhau ở phía sau nữa, ngôi nhà phía Tây trở thành tư dinh của viên quan Tư lệnh ngụy đầu tiên, Tiền Hổ Dực (người dân gọi là Tiền đuôi chó) ngôi bên phía Đông là khu nhà ở của những thân tín và vệ sĩ của hắn. Vào một đêm mùa hè
năm 1940, tất cả những người ở trong hai ngôi nhà phía Đông và phía Tây đều bị ám sát (theo tin đồn thì do con cháu người nhà họ Cầu thực hiện, nhưng hung thủ cho đến nay vẫn chưa bị đưa về quy án, nên rất khó để khẳng định điều này), viên Tư lệnh quân ngụy mới lên thay là Trương Nhất Đỉnh đã dần dần đuổi hết thân tín và vệ sĩ của Tiền Hổ Dực đi.
Thế là cả hai ngôi nhà nhà lại không có người ở.
Cứ ngỡ, nhà đẹp thế sẽ rất nhanh đón được chủ nhân mới đến ở. Thế nhưng mãi vẫn không có người đến ở hay sử dụng vào mục đích khác. Nguyên nhân suy cho cùng là người được vào ở chê nơi này từng xảy ra thảm họa giết người, không dám ở; còn người dám ở thì lại không đến lượt. Cứ như vậy, hai ngôi nhà vẫn trống vắng, mãi gần một năm sau, lúc giao thời giữa mùa xuân và mùa hạ, vào một đêm khuya trăng sáng đàng khô, bỗng nhiên có hai quân binh đến ở trong hai ngôi nhà này.
* * *
Hai nhóm người đến ở, nhóm đến trước ở Đông lầu (ngôi nhà phía Đông), nhóm này khá đông, dễ đến đầy một xe tải. Khi xuống xe họ đứng đầy trước sân nhà. Đêm tối khó mà đếm chính xác có bao nhiêu người, ước chừng khoảng hơn mười. Trong số họ đa số là binh sĩ trẻ, người mang súng, người khiêng lỉnh kỉnh thiết bị máy móc gì đó. Dẫn đầu là một người lùn hơi mập, thắt lưng dắt súng ngắn và dao găm. Hắn là Tham mưu Sở Đặc vụ thuộc Bộ Tư lệnh Tổng đội, họ Trương, còn tên không rõ. Chắc chắn các binh sĩ trước khi đến đây đã được giao nhiệm vụ, xuống xe, đợi Tham mưu Trương mở, hắn vẫy tay, số khiêng vác đồ lỉnh kỉnh những thiết bị máy móc chen đến trước cửa, nối đuôi nhau vào trong nhà. Số còn lại mang súng đứng yên tại chỗ, chờ đến khi Tham mưu Trương từ trong nhà đi ra mới theo hắn rời khỏi Đông lầu và biến vào đêm tối.
Khoảng một tiếng đồng hồ sau, những người đến Tây lầu cũng tới: Đó là nhóm thứ hai. Nhóm có năm người, ba nam và hai nữ, đều là bộ hạ cũ của Tiền Hổ Dực, quan quân ngụy cả. Trong đó tên quan cao nhất là Ngô Chí Quốc, từng là Đại đội trưởng Đại đội Tiễu phỉ số Một (đóng ở Thường Châu) thuộc Tổng đội quân ngụy, phụ trách tuần tra và tấn công lực lượng chống Nhật chống ngụy hoạt động mạnh mẽ ở xung quanh Thái Hồ. Hồi đầu năm, ở Hồ Châu từng một lần ra quân đã quét gọn nhóm “Mãnh hổ” chống Nhật hoạt động rầm rộ ở đó, được viên Tư lệnh mới lên thay Tiền Hổ Dực là Trương Nhất Đỉnh trọng dụng, không lâu sau thăng liền hai cấp, đường đường làm Trưởng Ban tham mưu quân sự, cai quản công việc tác chiến và huấn luyện quân sự của toàn khu (vai trò của tham mưu). Tiền đồ phía trước, quan chức mới như hắn đang hừng hực như lửa đuốc, hết sức vênh váo, đường công danh quả là khôn lường. Sau đó là nhân vật thứ hai, Trưởng Ban cơ yếu quân sự, nắm cơ mật nòng cốt của toàn quân, Kim Sinh Hỏa, kế tiếp nữa là Lý Ninh Ngọc, nữ, Tổ trưởng tổ dịch điện Ban quân cơ. Nhân vật thứ tư là Bạch Tiểu Niên, nhưng cũng có thể nói đó là nhân vật thứ nhất, hắn là quan tháp tùng của Tư lệnh Trương Nhất Đỉnh, thuộc dạng dưới một người, trên cả trăm người, chức quan không cao, chỉ là Phó tiểu đoàn trưởng, nhưng quyền hạn thì có thể vô biên. Cố Tiểu Mộng, nữ, là nhân viên của Lý Ninh Ngọc, trẻ trung, xinh đẹp, dáng mảnh mai, sắc đẹp diễm lệ, dù có đi trong đêm thì vẫn khiến người ta phải ngước nhìn.
Cả năm người đi trên một chiếc xe địa hình hai cầu do Nhật sản xuất, được bóng đêm yểm trợ, giống như một âm mưu lặng lẽ tiến vào Cầu trang (trang viên nhà họ Cầu) tĩnh mịch, đi qua tiền viện đến hậu viện và cuối cùng biến mất vào trong Tây lầu vốn đã lâu không có bóng người, khiến cho ngôi nhà trống từng nhuốm trong bể máu càng trở nên hãi hùng đáng sợ hơn, giống như con dao giết người lại rơi vào tay kẻ từng giết người.
Âm mưu ấy cứ như là âm mưu trong âm mưu, ngay cả bản thân kẻ chủ mưu cũng không biết rõ hình dạng và nội dung của nó. Trước khi đến đây họ đều đã lên giường đi ngủ, trước tiên là Thư ký Bạch bị cú điện thoại bất thường của Tư lệnh Trương đánh thức, sau đó Thư ký Bạch tuân lệnh kéo bốn người là Kim Sinh Hỏa, Lý Ninh Ngọc, Cố Tiểu Mộng và Ngô Chí Quốc ra khỏi giấc ngủ. Sau khi cả năm được triệu tập khẩn cấp, vội vàng lên xe, sau đó tới đây như mộng du. Còn đến đây để làm gì thì không ai biết, kể cả Thư ký Bạch. Người đưa họ tới đây là Trưởng Sở đặc vụ, Vương Điền Hương, sau khi thu xếp ổn thỏa cho tất cả, trước lúc rời đi có tiết lộ đôi điều: Khổ luyện để làm việc lớn.
Vương Điền Hương nói: “Tư lệnh Trương bảo tôi chuyển lời, sẽ có một nhiệm vụ hết sức đặt biệt giao cho mọi người, mấy ngày tới có thể sẽ không được ngủ yên giấc. Vì vậy buổi tối nay mọi người nhất định phải tranh thủ thời gian, ngủ một giấc thật ngon lành, sáng sớm ngày mai Tư lệnh sẽ tới thăm mọi người”.
Xem ra, đêm nay với Vương Điền Hương quả là một đêm phấn chấn nhưng cũng thật bận rộn. Sắp xếp ổn thỏa mọi cho người ở đây chỉ là một phần rất nhỏ trong một đống công việc có liên quan, còn có biết bao công việc quan trọng khác cần hắn giải quyết. Vì vậy, nói xong hắn vội vã đi ngay, dáng vẻ của hắn khiến mọi người vừa thấy hứng thú vừa khó hiểu.
Cố Tiểu Mộng nhìn dáng vẻ vừa thần bí vừa vội vàng của Vương Điền Hương, trong lòng không lấy gì làm lạ, liền nhếch cánh mũi xinh xinh, miệng lẩm bẩm:
“Hừm, cái lão khốn họ Vương này, tôi thấy hắn càng ngày càng không biết mình mang họ gì nữa đây.”
Tuy nói không to nhưng tính chất câu nói lại hết sức nghiêm trọng, khiến mọi người một phen sợ rụt cổ.
Vương Điền Hương nắm giữ vị trí quan trọng: Trưởng sở Đặc vụ, không ai dám ngạo mạn với hắn, khinh nhờn hắn để chuốc tội vào thân. Thậm chí Tư lệnh Trương cũng đối xử với hắn một kiểu khác. Sở Đặc vụ là một cơ quan đặc biệt, giống như một kiểu quái thai, có hai đầu tối sáng, thân tâm cách biệt, có phần giống như thân ở trại Tào mà tâm bên nhà Hán. Thân là phần sáng, chịu sự quản lý của Tư lệnh Trương, nhưng trong bóng tối, Tư lệnh Trương lại chịu sự điều tra soi xét của cơ quan này. Mỗi tháng, Vương Điền Hương đều phải nộp một bản báo cáo công việc lên cơ quan Đặc vụ cao hơn của Nhật Bản có trụ sở ở Thượng Hải, trình bày các hoạt động và ngôn luận của quan quân trọng yếu thuộc khu, trong đó có cả tư lệnh. Trong bối cảnh này, hắn có vẻ dương dương tự đắc và có chút ngay cả họ tên mình cũng không biết, âu cũng là điều khó tránh khỏi.
Đối với loại người này, ai dám nói xằng nói bậy? Trước mặt thì tuyệt đối không dám, nhưng sau lưng có to nhỏ gì thì cũng phải cẩn thận, đừng để cho người thứ ba biết, biết rồi tố cáo lên thì chỉ có nước trở thành người câm. Cho nên, Cố Tiểu Mộng phát ngôn bừa bãi như vậy, những người nghe được không mấy hưởng ứng. Mọi người đều làm như không nghe thấy và tản đi.
Tản đi rồi lại tụ tập.
Tất cả tụ tập tại phòng của Ngô Chí Quốc dò hỏi lẫn nhau: Tư lệnh kéo mọi người dậy giữa đêm hôm khuya khoắt, rốt cuộc là sao?
Tưởng rằng sẽ có người biết, nhưng hỏi hết một lượt chẳng ai biết gì. Không biết thì chỉ còn đoán mò: Khả năng thế này, khả năng thế kia, khả năng là đông, khả năng là tây v.v… rất nhiều khả năng, thật phức tạp, cuối cùng chất thành đống, bình quân mỗi người cũng phải đưa ra trên hai khả năng. Nhiều thực ra là ít, thậm chí là không. Tóm lại, đoán già đoán non, lắm thầy
nhiều ma, chẳng rút ra được kết quả gì. Nhưng dường như họ không bỏ qua, mà vẫn tiếp tục suy đoán. Duy chỉ có Ngô Chí Quốc, ban ngày đi thị sát quân lính cấp dưới, tối dự chiêu đãi, cơm no rượu say chỉ còn muốn đi ngủ sớm.
“Ngủ thôi, ngủ thôi.” Anh đề nghị mọi người giải tán,“Có gì hay ho đâu. Trừ khi các cậu là con giun trong bụng Tư lệnh, nếu không nói gì cũng uổng công vô ích thôi”. Nói xong một hồi, lại quay sang hỏi mọi người một câu chẳng liên quan: “Các cậu có biết chỗ tôi đang ở là gì không? Là phòng ngủ của Tiền Hổ Dực khi còn sống, hắn đã chết trên chiếc giường này đấy!”.
Cố Tiểu Mộng đang ngồi ở mép giường nghe thấy vậy thốt lên “Ôi chao” rồi đứng bật dậy.
Ngô Chí Quốc cười nói: “Cô sợ cái gì hở Tiểu Mộng, nếu cứ sợ như cô, đêm tôi làm sao ngủ được chứ? Tôi vẫn ngủ như thường, ma sợ người chứ cô sợ gì mà sợ? Nếu hắn còn sống thì mới sợ chứ, nghe nói hắn rất háo sắc đấy”.
Cố Tiểu Mộng nhếch mũi lên nói: “Trưởng ban, anh nói cái gì vậy?”.
Trưởng phòng Kim chêm vào: “Trưởng ban đang khen cô đấy, ý bảo cô xinh đẹp ấy mà”.
Ngô Chí Quốc thấy Tiểu Mộng định tiếp lời liền xua tay hỏi: “Cô có biết Tư lệnh Tiền bị ai giết không? Chính là người của trang viên này đấy”. Nói có vẻ rất thần bí, tất nhiên là muốn giải thích rồi, “Nơi này trước đây là kho vàng của một tên trùm thổ phỉ, khi hắn còn sống, của cải mà hắn cướp được nghe nói đều cất giấu trong phòng này, rộng hơn một chút thì là trong cả khu trang viên này. Chính vì thế mà vẫn còn của cải vàng bạc chưa được đào lên hết, trang viên này đã thay mấy đời chủ rồi, người
nào cũng muốn đến đây để tìm vàng bạc, trong đó có cả Tư lệnh Tiền. Thế nhưng họ đều không tìm thấy. Có biết không, đến nay vẫn chưa tìm thấy đấy”.
Chuyện này mọi người đều đã từng nghe nói. Ngô Chí Quốc đứng dậy cười lớn: “Ngủ thôi, về đi ngủ đi, có gì hay ho đâu. Nếu như mọi người đoán mò mà ra được kết quả gì, điều đó có nghĩa mọi người có thể tìm ra nơi cất giấu của cải của hắn đấy. Khà khà, ngủ thôi, bây giờ là mấy giờ rồi, còn đoán gì mà đoán, ngày mai Tư lệnh đến sẽ biết hết”.
Mọi người ai về phòng nấy, lúc này đã hơn một giờ sáng. * * *
Ngày hôm sau, khi mặt trời vừa lên, màn sương bao phủ trên mặt nước Tây Hồ vẫn chưa tan hết, chiếc xe con màu đen của Tư lệnh Trương đã đơn độc lăn bánh bên bờ Tây Hồ.
Quê của Tư lệnh Trương ở huyện Hấp, tỉnh An Huy, dưới chân Hoàng Sơn. Từ nhỏ hắn đã thông minh hơn người, mười tám tuổi tham gia thi Hương, đỗ đứng đầu tỉnh. Tuổi nhỏ mà có chí, trở thành tú tài. Điều ấy khiến cho chí hướng của hắn trở nên to lớn cao xa hơn. Nhưng cách mạng Tân Hợi bùng nổ đã làm xáo trộn bước đi mà hắn hằng mong ước, bao nhiêu năm rồi vẫn không toại nguyện, không như ý muốn. Chí lớn trong lòng luôn bị trà trộn trong mớ tầm thường, khiến hắn đi qua bao nơi đều cảm thấy sự thê lương của nhân thế, sự rủi ro của số phận. Mãi cho đến khi quân Nhật coi Uông Tinh Vệ như bảo bối đón vào thành Nam Kinh, khi ấy hắn đã đi được nửa đời người, đầu đã hai thứ tóc thì tiền đồ mới bắt đầu sáng sủa, trở thành cánh tay thứ hai của Tiền Hổ Dực: Phó Tư lệnh. Thế nhưng gọi là tiền đồ gì chứ, một năm trước khi hắn về quê đưa tang mẹ, bị người ở quê hắt phân vào mặt trước bàn dân thiên hạ, trong cơn tức
giận, hắn giật súng trong tay của tên lính công vụ, nhằm về phía người dân quê hắn nổ súng. Người dân ấy không chết, chỉ bị một vết thương ngoài da ở đùi, nhưng con tim của chính hắn đã chết. Hắn biết rằng, từ nay về sau sẽ không còn đường về quê nữa, từ đó hắn càng có quyết tâm đi tới cùng con đường đã định. Cho nên, khi người tiền nhiệm Tiền Hổ Dực bị ám sát thảm khốc ngay trong nhà, những lời đồn đại khắp nơi đã làm khiếp đảm bao nhiêu đồng nghiệp của hắn, khiến họ không dám kế nhiệm. Hắn ngang nhiên nhảy vào kế nhiệm, thể hiện rõ dũng khí và cam đảm hơn người. Đã gần một năm trôi qua, hắn không hề hối hận vì sự lựa chọn của mình, vì hắn không còn sự lựa chọn nào khác. Giờ nghĩ lại tất cả những gì xảy ra đêm hôm qua và tất cả những gì sắp xảy ra trong Cầu trang, hắn cũng có cảm giác không còn sự lựa chọn nào khác.
Chiếc xe con màu đen xuôi theo con đường men quanh bờ hồ. Sau mấy tiếng còi xe, chiếc xe dừng lại bên ngoài cánh cổng tường cao cửa rộng của Cầu trang, có lính canh bồng súng đứng gác. Lính canh mở cửa cho xe vào, lúc đó mới bảy giờ rưỡi sáng ‐ là thời điểm đầu tiên trong ngày. Vào bên trong, trước mặt là một dãy kiến trúc cổ gạch xanh ngói thâm, cửa chính là cánh cửa sắt rất đẹp nhưng không thực dụng, không cao, mà cũng chẳng có chăng thép gai chống đột nhập, dường như ai cũng có thể nhảy qua bất kỳ lúc nào. Đây từng là nơi người nhà họ Cầu mở lầu xanh. Giờ thì treo tấm biển là nhà khách sĩ quan, thực tế thì cũng có đôi chút của kiểu “treo đầu dê bán thịt chó”.
Chiếc xe từ từ đi qua khoảng đất trống trước nhà khách sĩ quan, sau đó rẽ phải, đi thẳng về phía hậu viện. Xuyên qua rừng trúc và con đường rừng âm u nhỏ hẹp là đến hậu viện. Đi vào con đường rừng âm u, Tư lệnh Trương từ trên xe đã nhìn thấy hai ngôi nhà phía Đông và phía Tây, đợi xe đi vòng qua hòn non bộ
cỏ dại um tùm và giàn đậu tía, hắn đã nhìn thấy Vương Điền Hương cung kính đứng chờ ở trước tòa nhà phía Tây.
Vừa xong, Vương Điền Hương nhận được thông báo của lính gác, liền cung kính đứng chờ sẵn ở đó. Phía sau hắn là một tên lính gác bên hông treo khẩu Pạchoọc đứng trang nghiêm. Phía sau tên lính canh là tấm biển gỗ rõ ràng là mới được dựng lên, trên đó viết: “Khu cấm quân sự, không phận sự miễn vào”. Tất cả những thứ này đều do Vương Điền Hương sắp đặt lúc đêm. Điều kỳ lạ là lái xe của Tư lệnh Trương cũng bị coi là người không phận sự, khi anh ta định đi vào trong nhà với Tư lệnh Trương, lính canh liền chặn lại nói:
“Xin lỗi, làm ơn đứng đợi ở ngoài vạch trắng.” Lái xe sững người, nhìn xuống đất, rõ ràng là có một vạch trắng mới kẻ cong queo, bao quanh ngôi nhà, giống như bùa quẻ của những người mê tín dùng để xua đuổi tà ma tai họa.
Do lúc đêm ngủ muộn, thêm nữa cũng không ngờ Tư lệnh lại đến sớm như vậy, thành ra cả năm người đều dậy muộn. Cố Tiểu Mộng thậm chí còn đang nằm trên giường khi Tư lệnh vào nhà. Tư lệnh đến thăm mọi người sớm như vậy khiến tất cả đều có cảm giác được sủng ái đến lo sợ, vừa trang nghiêm vừa cấp bách báo hiệu một nhiệm vụ lớn sẽ từ trên trời giáng xuống. Sau đó, khi bọn họ bước ra bên ngoài, nhìn thấy cảnh lính canh đứng nghiêm trang và vành đai trắng, cảm giác này càng tăng lên gấp bội. Họ đi ra ngoài để ăn sáng, nhà ăn nằm trong nhà khách tiền viện. Vương Điền Hương giống như chủ nhà, tận tình dẫn mọi người đi. Tuy ban đêm không ngủ ngon giấc, nhưng tinh thần Vương Điền Hương vẫn rất tốt, trên mặt vẫn ánh lên thần sắc phấn khởi, giống như tiếp đãi những khách quý từ phương xa đến. Điều này cũng làm tăng thêm cảm giác trang nghiêm và
được sủng ái của mọi người, bởi vì bình thường Vương Điền Hương không làm như vậy.
Đợi mọi người tản đi, từ Đông lầu đối diện có hai người đi tới, mặc thường phục, tay xách hòm công cụ do Tham mưu Trương béo dẫn đầu, quan sát kỹ lưỡng hết lượt trong ngoài, trên dưới tòa nhà, hai người họ còn kiểm tra đường dây gì đó. Tư lệnh Trương đã ăn sáng xong, lúc này chẳng có việc gì, liền cùng với họ quan sát một lượt trong ngoài ngôi nhà.
* * *
Đây là một ngôi nhà kiểu Tây điển hình, hai tầng rưỡi, nửa tầng trên là tum, đã bị bịt kín. Tầng hai có bốn phòng, một phòng khóa chặt, còn ba phòng để ở. Có thể nhận ra, phòng Kim Sinh Hỏa là phòng ở cuối hành lang. Đó là một phòng nhỏ, chỉ rộng chừng bảy, tám mét vuông, nhưng lại kê một chiếc giường đôi, trông rất chật chội, đối diện là nhà tắm và nhà vệ sinh. Bên cạnh là phòng của Cố Tiểu Mộng và Lý Ninh Ngọc, kê hai chiếc giường đơn, một đôi ghế mây và một chiếc bàn làm việc, quả là một gian phòng khách tiêu chuẩn. Nghe nói chỗ này trước đây là văn phòng của Tiền Hổ Dực. Giá phơi bút kê bên ngoài bệ cửa sổ đến nay vẫn còn, vẫn có thể phơi những đồ vật nhỏ. Đối diện với phòng này cũng là một gian phòng khách, hiện đang khóa chặt. Qua đó là cầu thang, đi chút nữa là một phòng lớn kéo từ Đông sang Tây, hiện Ngô Chí Quốc đang ở. Phòng này rất sang trọng, phía trước có một sân thượng, phía sau là một sân phơi lớn với một dãy cột đá và một giàn nho (phía dưới là nhà để xe). Mấy năm trước, khi Tiền Hổ Dực nhậm chức, Tư lệnh Trương từng đưa hắn đến đây để xem qua, khi ấy ngôi nhà này này rất bừa bãi, nền nhà bị cạy lên chất thành đống, đồ dùng trong nhà thứ lớn thì vứt lỏng chỏng, thứ nhỏ thì vương tứ tung, tường và trần nhà loang lổ, trông thật thảm hại. Thế nhưng, hắn đã bị vẻ
sang trọng hào hoa của ngôi nhà lôi cuốn, sàn nhà bằng gỗ pơmu đen, đồ dùng toàn bằng gỗ pơmu đỏ, giường đồng dát vàng, ghế sôfa kiểu tây, sập quý phi, đèn chùm pha lê, gạch nền tráng men v.v… Tất cả đều là những thứ quý giá nghìn vàng cũng khó mua nổi. Sau đó Tiền Hổ Dực cho sửa lại tất cả, hắn tới thăm lần nữa, quả là thật đẹp, còn hơn cả căn phòng của tướng quân trong khu nhà khách ở phía trước. Chính căn phòng này từng một thời mê hoặc hắn, sau khi Tiền Hổ Dực chết, những người thân cận đều khuyên hắn tới đó ở, làm hắn cũng lung lay. Nhưng đắn đo mãi, hắn vẫn không chịu đến ở. Mấy tháng trước, sai nhân của hắn đã chuyển những đồ đạc quý có thể chuyển đi được của hai ngôi nhà này đến nhà khách phía trước, một số được giấu kín, một số được đưa vào kê trong phòng của tướng quân, các phòng đẩy sang cho nhà khách, cải tạo thành gian hàng, dùng để kinh doanh.
Tư lệnh Trương sở dĩ muốn cải tạo hai ngôi nhà này là vì, một là bỏ không cũng tiếc, hai là hắn không muốn nhìn thấy những thứ xấu xấu bẩn bẩn bên cạnh nhà khách. Không giống như Tiền Hổ Dực, Tư lệnh Trương là người có học thức, không thể chấp nhận kiểu như thế này. Hắn đắn đo chính là vì sợ “mọc” ra một người thứ hai như hắn, nhìn thấy khó chịu sẽ tấu lên cấp trên, cướp mất cái ghế của hắn. San bằng tất cả thì lại sợ đắc tội với các nhân vật tai to mặt lớn “tham ăn” nào đó trong Hoàng quân[1], lên Nam Kinh kể tội hắn, như vậy chức vụ và cái mạng hắn cũng chẳng còn. Đem ra so sánh thì chức Tư lệnh ngụy quân chỉ là bù nhìn như hắn mệt hơn nhiều so với thời Tiền Hổ Dực trước đây, nguyên do là thế lực của hắn còn mỏng. Đây thực ra là cái đuôi của con đường hắn đang đi, đi tới đâu, cái đuôi kéo theo tới đó‐ một cái đuôi nặng nề giống như lịch sử, khiến hắn mệt mỏi. Nhìn lại, công danh bổng lộc hiện nay, hắn lại không nỡ bỏ, không nỡ bỏ công danh bổng lộc thì phải chấp nhận mệt mỏi, phàm những thứ mà hắn không thể nhận được thì cũng
nhắm mắt mà nhận, phàm là những gì ảnh hưởng đến hắn hiện nay, thì hắn sẽ cố gắng hết sức để hóa giải, lôi kéo và giải quyết ổn thỏa. Hắn cải tạo hai ngôi nhà phía sau, ban đầu là muốn chuyển những thứ ô uế vô cùng từ phía trước về phía sau, muốn che tai mắt thiên hạ, đồng thời lại không phải phá dỡ, tránh tai tiếng và những lời xầm xì to nhỏ của thiên hạ, đúng là vẹn cả đôi đường.
[1] Hoàng quân: Chỉ quân đội Nhật Hoàng.
Có thể nói ý định là rất hay, nhưng lại không thực hiện được. Phải biết rằng, các kỹ nữ ở phía trước (tiền viện) đều bị vụ giết người thảm khốc làm cho kinh sợ. Sau khi vụ án xảy ra rất nhiều kỹ nữ đã tới hiện trường để xem. Số ít những người mới tới, tuy nói không tận mắt nhìn thấy nhưng người này kể, người kia thuật lại cũng nghe không biết bao nhiêu lần rồi. Người chứng kiến sợ hãi, người nghe càng thấy sợ hơn. Nỗi sợ cứ lan truyền nhanh chóng, đến những người sau vẫn bàn tán. Thì không nói nữa, nhưng cũng vẫn lưu giữ trong thâm tâm, lúc ẩn lúc hiện, đến nỗi ban ngày cũng không ai dám lai vãng đến gần khu hậu viện. Sự việc xảy ra ngay bên cạnh họ, thời gian chưa lâu, tất cả vẫn như diễn ra trước mắt, âm hồn của người chết vẫn vật vờ trong rừng trúc, cứ cho rằng anh bảo họ đến đây làm việc, lúc có khách hay vắng khách thì cũng đều phải trải qua những đêm dài đằng đẵng với các linh hồn, việc này chẳng khác gì muốn họ phải chết. Tấm thân của các kỹ nữ thật nhơ nhuốc, có thể để cho người ta vui đùa, danh dự có thể cũng không cần, nhưng mạng sống thì luôn cần, không thể đùa được.
Không đến!
Quyết không đến!
Thà bị đuổi cũng không đến!
Cứ như vậy, nhà đã cải tạo xong, nhưng người thì không thể cải tạo được, hơn nữa chỉ trong thời gian ngắn, xem ra không thể cải tạo được. Trừ khi giải tán nhóm người này, thay người mới vào. Việc này nói thì dễ, nhưng thực ra còn khó hơn cả chiêu binh mãi mã. Binh mã không chiêu được có thể bắt, bắt rồi cũng không phạm pháp, đường đường chính chính. Nhưng đám kỹ nữ có làm được như vậy không, không thể bắt được họ. Bắt ép người lương thiện thành kỹ nữ, trong dân gian hay chính quyền thì đây cũng là một tội lớn chẳng chơi. Thôi vậy, để mặc cho nhà trống. Hay nói cách khác, thà đắc tội với tiền chứ không thể đắc tội với người. Thế là hết, tính toán như ý, vẹn toàn cả đôi đường của Trương Tư lệnh trở nên tan nát, tốn một đống tiền oan, khiến hắn hận đến nỗi không thể nhổ cả móng hai ngôi nhà đó bỏ đi.
Tối qua, sau khi biết được sự việc trong lúc tìm nơi ở cho nhóm người này, hắn liền nghĩ ngay đến nơi đây, tự đắc ý vì cuối cùng đã sử dụng đến chúng. Xem ra bây giờ hắn càng thấy việc sắp xếp của hắn quả là không tồi, thật đáng hả dạ. Hai ngôi nhà, hai nhóm người, mỗi nhóm ở một bên, tự lập căn cứ, đôi bên lúc gần lúc xa, có thể nhốt có thể thả, tuyệt vời. Chỉ điều nghĩ mãi chưa ra, Sở trưởng Vương tại sao lại sắp xếp để họ ở như vậy. Hắn vốn nghĩ trên tầng có bốn phòng, có thể cho mỗi người ở một phòng, không biết tại sao lại khóa chặt một phòng, để Cố Tiểu Mộng và Lý Ninh Ngọc phải ở chung một phòng.
Thư ký Bạch ở tầng dưới.
Tầng dưới ngoài phòng khách, nhà bếp và nhà ăn ra, thực sự chỉ có ba phòng, một to hai nhỏ. Hiện Thư ký Bạch và lính gác mỗi người ở một phòng nhỏ, phòng to được bố trí làm phòng họp. Bước vào phòng này, nhìn cách bố trí của phòng họp, tư lệnh Trương mới nghĩ ra mình hôm nay đến đây là để họp với mọi
người, tất nhiên là phải cần đến một phòng họp. Nhưng phòng khách bên ngoài vốn cũng rất rộng, xếp một vòng ghế mây, còn có tràng kỷ nữa, hoàn toàn có thể dùng làm phòng họp, hà tất phải bố trí thế này? Tư lệnh Trương không thể hiểu Vương Điền Hương đang nghĩ gì nữa. Hắn đi một vòng quanh chiếc bàn hội nghị có phần hơi dài, bất ngờ phát hiện bàn hội nghị do hai chiếc bàn ăn ghép lại, rồi phủ khăn trải bàn lên, trông cũng giống như thật. Từ sự chu đáo, tinh tế và tỉ mỉ, Tư lệnh Trương tin rằng Vương Điền Hương rất chú trọng tính hợp lý trong bài trí, bỗng dưng trong lòng trào dâng một ấn tượng tốt về Vương Điền Hương. Đây cũng chính là thái độ thông thường của hắn đối với Vương Điền Hương, cố giữ tình cảm tốt với Vương Điền Hương, không để xảy ra bất đồng gì.
Cuối cùng, Tư lệnh Trương ngồi xuống trước bàn, rút từ bao công văn ra một số công văn để đọc, chuẩn bị những vấn đề sẽ đưa ra trong cuộc họp. Nghĩ đến việc hắn sẽ đưa vấn đề gì ra cuộc họp với mọi người, mặt hắn lộ rõ nụ cười mỉa mai, trong sự mỉa mai lại như ẩn chứa sự nham hiểm đáng sợ.
* * *
Mấy người ăn xong đã về cả, cuộc họp bắt đầu. Cuộc họp do Vương Điền Hương chủ trì, Tư lệnh Trương diễn giải, trước tiên Tư lệnh Trương thao thao giảng giải tuyên truyền một lượt về sự gian nguy, tính cấp bách của công việc tiễu phỉ trừ gian của toàn đội hiện nay. Hắn nhấn giọng, hiện nay hoạt động bí mật chống Nhật phản ngụy xuất hiện xu hướng mới, đó là hoạt động du kích bí mật của Đảng Cộng sản diễn ra thường xuyên hơn so với hoạt động kháng chiến công khai của Quốc dân Đảng, đồng thời cũng sôi động hơn và khó đối phó hơn.
Lúc này là thời điểm cuối xuân đầu hạ năm 1941, xảy ra khi mà tiếng súng và mùi tanh của máu trong biến cố Hoản Nam hồi
đầu năm còn chưa hoàn toàn tan biến. Anh em đấu đá nhau, Nhật ‐ ngụy cười mừng trong nhà. Biến cố Hoản Nam đã làm một đội quân chống Nhật hùng hậu với chín nghìn người, chỉ trong vòng mấy ngày đã trở thành mấy nghìn vong hồn và hơn hai nghìn binh lính tản mạn. Chính những tướng sĩ may mắn thoát khỏi vòng vây ấy, để thoát khỏi sự truy kích bí mật của quân đội Quốc dân đảng và sự truy quét công khai của bọn Nhật, đã lần lượt xâm nhập vào Giang Tô và Chiết Giang, hai vùng do quân Nhật chiếm lĩnh, một số gia nhập tổ chức bí mật ở địa phương, có người tự lập trận địa riêng của mình, dùng phương thức du kích đánh lẻ, tích cực triển khai các hoạt động bí mật chống Nhật phản ngụy. Cho nên, đúng như Tư lệnh Trương đã nói: Hiện giờ hoạt động du kích bí mật của Đảng Cộng sản gia tăng ở khắp mọi nơi.
Từ cách nói của Tư lệnh Trương, mọi người cảm nhận rất rõ tâm trạng hôm nay của Tư lệnh Trương khá hơn mọi khi, tuy không phải là chuyện gì vui vẻ (là chuyện đau đầu), nhưng trên mặt luôn lộ vẻ tươi cười, giọng nói sang sảng, đầy sức mạnh. Lúc này, hắn nói với mọi người một cách đầy thân thiện:
“Mọi người đều biết đấy, chiều qua Nam Kinh gửi cho chúng ta một bức điện mật, bức điện nói gì? Một thủ lĩnh Đảng Cộng sản mang mã số K đã xuất phát từ Tây An, hai ngày tới sẽ đến Hàng Châu của chúng ta. Hắn đến làm gì? Mọi người cũng đã biết, hắn đến để âm mưu xúi giục tạo phản. Việc xúi giục tạo phản chúng ta cũng đã thấy nhiều rồi, cho nên cũng không lấy gì làm lạ. Nhưng lần này thanh thế mạnh mẽ, bố trí kỹ càng, hậu họa nghiêm trọng, chúng ta phải hết sức chú ý. Mật điện từ Nam Kinh khẳng định với chúng ta, tên K đích thị là đặc sứ của Chu Ân Lai, hắn sẽ đại diện cho Chu Ân Lai bí mật triệu tập hội nghị lãnh đạo các tổ chức Đảng ở Chiết Giang tại nhà khách Văn Hiên Các ở núi Phượng Hoàng vào lúc 11 giờ đêm ngày 29 tháng này,
tức bốn ngày sau, để bố trí hành động liên hợp. Mọi người thử nghĩ xem, một khi cuộc họp này diễn ra thành công, các hoạt động liên hợp hình thành, kết quả sẽ thế nào? Không chừng chỉ trong một nhoáng trứng gà biến thành đạn sắt, các binh sĩ mắt mù tai điếc tản mạn khắp nơi bỗng chốc trở thành đội quân lớn có sự chỉ huy thống nhất, quấy rối quy mô nhỏ trở thành đối đầu quân sự. Như vậy chắc chắn sẽ gây khó khăn chưa từng có cho công tác tiễu phỉ, cho nên chúng ta nên ăn mừng vì đã phát hiện ra sớm.”
Ngừng một lát, quan sát mọi người khắp một lượt, Tư lệnh Trưởng nói tiếp: “Tục ngữ có câu, điều tốt song hành, ngày hôm qua là ngày tốt lành của tôi, tất nhiên cũng là ngày tốt của các vị ngồi đây. Buổi chiều nhận điện từ Nam Kinh, một chữ cũng đáng giá ngàn vàng. Đến tối…”, hắn chỉ sang Vương Điền Hương, nói tiếp: “Sở trưởng Vương lại gửi đến cho tôi một món quà. Quà gì nào? Chính là đây”. Nói rồi hắn lấy ra cuốn từ điển dày cộm, bẩn thỉu, cứ như là nhặt từ vũng bùn lầy ra, đưa cho mọi người xem, “Đây là cái gì? Là một cuốn Đại từ điển Trung Hoa phiên bản mới, có thể trong nhà các vị cũng đã có. Có thể mọi người sẽ nghĩ, quà gì cái thứ này? Đúng thế, lúc ấy tôi cũng nghĩ như vậy. Nhưng Sở trưởng Vương nói với tôi đây không phải là một cuốn từ điển bình thường, trong đó có chứa bí mật, vì thế một tên Cộng sản xui xẻo trước lúc bị bắt đã cố tình vứt nó ra ngoài cửa sổ, hòng hủy chứng cứ”.
Tư lệnh Trương quay lại hỏi Vương Điền Hương: “Sở trưởng Vương, có đúng vậy không?”.
Vương Điền Hương gật đầu nói đúng, rồi giải thích: “Tên Cộng sản đảng ở trong khu tập thể giáo viên trường Trung học Thanh Xuân, một phòng trên tầng hai, có cửa sổ phía sau, tôi sợ hắn nhảy qua cửa sổ bỏ chạy, trước khi lên tầng bắt hắn đã bố trí
người đứng ngoài cửa sổ. Kết quả là hắn không bỏ chạy, mà đúng hơn là không kịp chạy, chỉ vội vứt thứ này qua cửa sổ, thế là người của tôi nhặt được. Có điều, tên Cộng sản này ngay cả mạng sống cũng không cần, nhưng lại muốn vứt thứ này đi, không để chúng ta có được nó, tôi nghĩ ở đây phải có nguyên do gì đó”.
Tư lệnh Trương tiếp lời: “Đúng thế, tôi cũng nghĩ như vậy, trong này nhất định có nguyên do nào đó, cái hắn muốn vứt đi không phải là cuốn tự điển, mà là thứ quái quỷ gì đó nằm trong cuốn tự điển này. Cho nên, tôi đã lật xem tỉ mỉ. Nhưng lật giở từ đầu tới cuối, tìm ong cả đầu mà không tìm thấy một điều gì, trong đó chẳng có chữ nào thừa cả, cũng không thấy có gì bất thường. Sau đó, tôi ra ngoài đi dạo, trước đi khi đã tiện tay đặt cốc trà đang cầm trên tay xuống, chính tôi cũng không biết mình đã đặt chiếc cốc lên cuốn tự điển. Khi tôi quay về giở cuốn tự điển ra xem, bất ngờ đã xuất hiện, tôi nhìn thấy trên trang bìa phía trong cuốn tự điển có xuất hiện vết chữ lờ mờ, đều là chữ số Arập, một đám tròn, giống như vết đóng con dấu lên trên.
Lấy tay sờ vào chỗ đó thấy nóng hổi. Tôi hiểu ra rằng đó là do vừa nãy tôi đặt cốc trà lên trên, điều này có nghĩa là bí mật đã bị khám phá, tôi liền nghĩ nội dung mờ ám chính là ở trong trang bìa cuốn từ điển này, có lẽ chỉ cần hơ nóng thêm chút nữa, mọi thứ sẽ hiện ra rõ hơn. Nghĩ vậy, tôi đã lấy túi nước nóng đặt lên đó, sau đó thì… các vị xem, nó thành ra như thế này đây”.
Tư lệnh Trương giơ cuốn tự điển lên. Lật trang bìa cho mọi người xem.
Mọi người nhìn thấy trên trang bìa phía trong màu ố vàng đầy chữ số Arập, giống như bức điện báo, từng nhóm một, con số viết dầy đặc, nhưng vẫn đủ để nhận rõ từng nhóm:
120 3210 009 2117 477 1461……
741 8816 187 5661 273 4215……
Cứ như thế có tới mười mấy hàng
Tư lệnh Trương chỉ vào những nhóm con số, hỏi mọi người: “Đây là cái gì?”.
Sau đó lại tự trả lời: “Thực ra các vị cần phải biết hơn tôi, đây là một công văn mã hóa. Hay nói cách khác đây là một bức điện mã hóa, tại sao lại phải mã hóa? Bởi vì trong đó có thông tin quan trọng. Cộng sản sợ nó lọt vào tay chúng ta, rất sợ, đến nỗi chết cũng không sợ, mà chỉ sợ chúng ta có được nó. Điều này nói lên điều gì?
Chứng tỏ rằng thông tin trong đó phải vô cùng quan trọng đối với chúng ta, là thứ chúng ta đang tìm kiếm, các vị nói xem có đúng vậy không?”. Tư lệnh Trương nhìn khắp mọi người, rồi lại tự trả lời: “Đúng vậy. Vậy bây giờ chắc các vị đã hiểu ra, tại sao nửa đêm tôi lại kéo các vị dậy, tập trung đến đây, chính là muốn mọi người hãy giải mã bức điện mật này”.
Mọi người đều có chút ngỡ ngàng, Cố Tiểu Mộng còn lẩm bẩm câu gì đó.
Tư lệnh Trương như không nhìn thấy, không nghe thấy, tiếp tục chìm trong suy nghĩ của mình, hắn “à” lên một tiếng, nói: “Đúng là trời đã giúp ta”. Hắn đứng dậy cất bước, vừa đi vừa nói: “Sau đây, tôi muốn mọi người giúp tôi, ông trời đã giúp tôi hiện hình bức điện, nhưng thế vẫn chưa được, chưa đủ, tôi còn muốn hiện thần, hiện ý, muốn tìm ra lời giải ẩn sâu trong đó. Tôi cho rằng, nó nhất định có liên quan đến hoạt động của tên K. Nếu đúng như vậy…”. Nói đến đây, hắn ngừng lại đi về chỗ của mình,
bất ngờ hăm dọa với khẩu khí hùng hổ: “Đây là việc hết sức quan trọng, chúng ta phải dịch được những mã khóa này!”.
Có thể là do trải qua quá nhiều lận đận, tính nết của Tư lệnh Trương cũng bất thường, hỉ nộ vô cớ thất thường, thêm nữa là nhiều năm lộng quyền, đạo đức và hành động cũng trở thành thói quen khó sửa, không thiếu phần cay độc. Chính vì lẽ đó, hắn luôn có đủ uy phong trước mặt cấp dưới, khi hắn đổi giọng, ngay cả ánh mắt của mọi người cũng phải tĩnh lại. Nhưng hôm nay tâm trạng của hắn khá hơn, không muốn thể hiện uy phong. Hắn nhìn vẻ ngoan ngoãn yên lặng của cấp dưới, cười cười rồi ngồi xuống, nói một cách hết sức dịu dàng:
“Tục ngữ có câu, nuôi binh nghìn ngày, dùng binh một giờ, bây giờ là lúc tôi cần tới mọi người hơn lúc nào hết. Tuy mọi người không phải là những người chuyên dịch điện mã của kẻ địch, lại thiếu hiểu biết về công việc dịch điện mật quân Cộng sản, nhưng tôi tin, mọi người sẽ không làm tôi thất vọng. Tại sao? Thứ nhất là tôi dự đoán bức điện mật này không quá khó, nếu khó thì Cộng sản không cần phải cố vứt bỏ nó, kiểu gì thì cũng không thể dịch được, vậy thì cần gì phải vứt đi. Thứ hai là các vị mỗi người đều có sở trường riêng: Như Trưởng ban Ngô, nắm rõ tình hình địch như lòng bàn tay, có thể nói là bản đồ sống về tình hình địch; Trưởng phòng Kim và Trưởng phòng Lý đều chuyên về cơ yếu, giải mã biết bao bức điện; còn Tham mưu Cố, trẻ trung, đầu óc nhanh nhạy, nhiều mưu mẹo, dám nói dám nghĩ. Tục ngữ có câu ba người thợ thuộc da bằng một Gia Cát Lượng, các vị bốn người hợp lại, tôi dám chắc vượt xa các chuyên gia giải mã điện mật. Tóm lại, tôi hết sức tin tưởng vào mọi người. Nói thật, Tướng quân Matsui rất coi trọng công việc giải mã bức điện mật này, tôi vừa báo cáo, ông ấy đã vội nói sẽ cử chuyên gia giúp tôi giải mã bức điện mật này. Hiện giờ họ đã xuất phát, có thể chiều nay sẽ đến. Tất nhiên rồi, tôi hy vọng
người của tôi có thể tự giải mã được, chính là các vị đấy. Đây chính là cơ hội tốt nhất để các vị tỏ rõ sự trung thành với tôi, cũng là cơ hội ngàn vàng để tôi tỏ rõ lòng trung thành với Tướng quân Matsui, hy vọng các vị ở đây vứt bỏ tất cả, tập trung toàn bộ sức lực, nhanh chóng giải mã xong bức điện mật này. Thành bại luận anh hùng, tôi chân thành mong muốn các vị đều trở thành anh hùng, thể hiện uy phong của quân ta, cũng là mở đường cho tiền đồ tươi đẹp của mình”.
Những câu nói của Tư lệnh Trương làm mọi người như bị tung hỏa mù. Trước tiên là lai lịch kỳ lạ của bức điện, sau đó là tụ hợp bốn người họ lại để giải mã bức điện báo cũng khiến mọi người cảm thấy thật kỳ quái. Nếu như nói là khó thì họ đều không phải là những nhân viên chuyên giải mã điện mật của địch, bình thường thứ họ giải mã đều là điện báo của chính quân mình, chỉ là nhân viên dịch điện báo thôi, dựa vào gì mà tin tưởng họ? Còn nếu nói là dễ, vậy thì dựa vào cái gì để bảo họ lập công lĩnh thưởng, hơn nữa lại huy động ồ ạt như vậy? Ngoài ra, cách nói năng của Tư lệnh hôm nay cũng rất khác thường, vừa trang nghiêm vừa dịu dàng, vừa nhẹ nhàng vừa gay gắt, có thực có hư, thần bí khó lường. Cứ như Tư lệnh Trương đã biến thành người khác, còn những thứ mà Tư lệnh đã nói, lại cứ như là không thực sự cần nói. Ý tại ngôn ngoại, cứ như còn có ý tứ sâu xa nào đó ngoài lời nói. Bọn họ cho rằng, Tư lệnh nhất định còn tiếp tục nói và ở phần sau này sẽ giải đáp những thắc mắc còn vướng trong họ.
Nhưng Tư lệnh đã không nói tiếp, hay chính xác hơn lời nói tiếp của hắn là từ biệt: Đi nhé. Hắn dặn dò Thư ký Bạch và Sở trưởng Vương phải chăm lo sinh hoạt và an toàn của mọi người, liền sau đó chắp tay chào rồi bước lên xe đi, khiến cho cả bốn người Ngô, Kim, Lý, Cố có cảm giác lạc lõng, lạc lõng đến nỗi hoảng sợ một cách lạ lùng khó hiểu. Nửa tiếng sau, khi họ đã dễ dàng giải
mã xong bức điện mật, nỗi hoảng sợ khó hiểu ban nãy, lúc này giống như bị lột da thịt, cảm giác như máu chảy đầm đìa, bản chất man rợ, khiến họ sợ cứng người.
* * *
Đúng như Tư lệnh nói, bức điện mật không khó giải mã, thậm chí có thể nói là quá dễ, dễ đến nỗi không thể gọi là điện mật, chỉ cần biết chữ là đã có thể giải mã.
Thực ra đây chẳng qua chỉ là một trò chơi chữ của Tư lệnh Trương trong lúc cao hứng chờ cấp trên đến để đùa với mọi người mà thôi. Cái gọi là giải mã, chẳng qua chỉ là căn cứ theo số trang, số hàng, số thứ tự theo chỉ dẫn để nhặt chữ trong tự điển ra mà thôi như: Trang thứ mấy, hàng thứ mấy, chữ thứ mấy. Cứ như vậy, giải mã được chữ đầu tiên, tiếp đến chữ thứ hai, thứ ba… cuối cùng toàn văn như sau:
Mật điện này là giả
Ổ giặc Cộng là thật
Muốn không ai biết đến
Mình cũng phải làm ngơ
Nơi số một toàn quân
Há dễ chứa gian tế
Bốn người Ngô Kim Lý Cố
Các ngươi ai là phỉ
Điện mật mã này tôi cần dịch
Tố cáo thú tội đều hoan nghênh
Qua thôn trang này không nhà trọ
Bỏ lỡ thời cơ chớ tiếc than.
Có lẽ chỉ có một gã tú tài quá cỡ, trong lúc cao hứng mới có hứng thú như vậy: Dĩ thi thảo phạt. Nhưng là một gã tú tài, văn thơ gì mà dở quá vậy. Có thể là do nhiều năm chinh chiến đã làm lỡ mất khả năng lĩnh hội văn thơ của hắn, thích bộc bạch suy nghĩ trong lòng, mục đích rõ ràng, thuộc loại mạnh mẽ. Xét từ góc độ này, đây rõ ràng là tác phẩm không thể chê trách gì, đừng nói là bốn người Ngô, Kim, Lý, Cố, ngay cả người ngoài cuộc như Thư ký Bạch cũng nhận thấy ý tứ sắc lạnh đến ghê người của “áng thơ”.
CHƯƠNG HAI
Đ
ứng ngồi không yên. Trông chờ mỏi mắt.
Đầu giờ chiều, chiếc xe con của Tư lệnh Trương cuối cùng thì cũng tiến vào nhà khách, sau mấy vòng cua, rẽ ngoặt nhưng không đi về phía Tây lầu, mà lại đi về phía Đông lầu đối diện. Sau khi dừng xe, Tư lệnh Trương vội vàng xuống xe, mở cửa sau xe, cúi đầu khom lưng mời một người nữa trên xe đi xuống.
Người này mặc quần áo thư sinh thường thấy, áo thâm tay rộng, tà áo bay bay, có mang chút dáng dấp của thời cổ Ngụy Tấn, phong cách ăn mặc của thời Đường, Tống. Có lẽ tuổi không quá bốn mươi, dáng nhỏ, da trắng, vẻ thân thiện, dáng đi điệu đà như con gái. Nhìn Tư lệnh Trương có lẽ phải đáng tuổi cha hắn ta, nhưng Tư lệnh lại rất cung kính với hắn ta, cứ như hắn ta là cha còn Tư lệnh Trương là con vậy. Mặc dù đã trút bỏ quân phục, nhưng đám râu ở nhân trung cũng không thể che giấu được thân phận thực sự của hắn ta: Giặc Nhật.
Quả thực hắn là một tay Nhật Bản, tên là Kawa Hihara. Không giống với lũ giặc Nhật khác, Kawa Hihara từ nhỏ đã sống tại tô giới của Nhật ở Thượng Hải, lại có thời gian dài làm công tác đặc vụ, giao tiếp với người Trung Quốc không có trở ngại gì về ngôn ngữ. Chẳng hề sợ tiếng thổ ngữ Chiết Giang ‐ Thượng Hải, hắn đều nghe hiểu hết. Hắn từng làm phiên dịch cho Tổng Tư lệnh lực lượng phái khiển của Nhật đóng ở Thượng Hải, Tướng Iwane Matsui, một năm trước được bổ nhiệm giữ chức vụ Trưởng cơ quan đặc vụ, chuyên trách công việc chống đặc vụ tại
Giang Tô, Chiết Giang, Thượng Hải và Giang Tây, là cánh tay trung thành của Tướng quân Iwane Matsui, đồng thời cũng là kẻ thao túng phía sau của bọn Vương Điền Hương. Hắn vừa từ Thượng Hải tới mang theo mệnh lệnh bí mật của Tướng quân Iwane Matsui, đến đốc thúc triển khai kế hoạch quan trọng.
Vương Điền Hương ở trong nhà vừa nhìn thấy “ông chủ” của mình tới, vội vã lao ra đón, sau một hồi hàn huyên, Kawa Hihara liền hỏi Vương Điền Hương: “Tại sao lại ở chỗ này? Vừa rồi tôi thấy những người ở đây ra ra vào vào rất thoải mái”. Bộ dạng vui vẻ và giọng nói dịu dàng không hợp với ý đồ quở trách định sẵn của hắn, cũng không khớp với thân phận kẻ xâm lược của hắn.
Tư lệnh Trương vội nói: “Sở trưởng Vương nói như vậy mới có thể dụ rắn ra khỏi hang”.
Vương Điền Hương phụ họa theo: “Đúng vậy, thưa ông Kawa Hihara, tôi chọn chỗ này, mục đích là muốn dụ đồng bọn của bọn họ dẫn thân vào, nơi đây là cả một tấm lưới lớn”. Vương Điền Hương khoát tay minh họa, bao trọn một nửa trang viên.
Kawa Hihara chỉ đưa mắt nhìn hắn, không nói. Vương Điền Hương lại giải thích tiếp: “Tôi thấy theo dõi bọn chúng chặt quá, không kẻ nào tiếp cận được với bọn chúng, làm như vậy chúng ta cũng chẳng có cơ hội bắt thêm được tên Cộng sản nào khác. Tôi cố để ngỏ một hướng, để bọn chúng thấy có cơ hội mà mạo hiểm bỏ trốn. Thế nhưng, bất cứ lúc nào, chỉ cần có kẻ tới tìm cách bắt liên lạc, cho dù là công khai hay lén lút đều nằm trong tầm theo dõi của tôi. Bên đó, mỗi phòng tôi đều lắp máy nghe trộm, bọn chúng ở trong phòng, còn chúng ta ở đây nghe trộm. Bọn chúng có thể ra ngoài, đi ăn hoặc làm gì đó, còn người của tôi ở đây sẽ được huy động theo dõi bọn chúng. Trong phòng ăn, tôi cũng gài sẵn người của mình. Tóm lại, chỉ cần bọn chúng ra
khỏi khu Đông lầu ấy, mỗi một tên sẽ có hai người của tôi theo sát, tuyệt đối sẽ không có vấn đề gì”.
Tư lệnh Trương nịnh nọt: “Ngài Kawa Hihara yên tâm, tướng giỏi không có quân tồi, cấp dưới của ngài đều là những người có năng lực”.
Kawa Hihara lên giọng hách dịch: “Này, Tư lệnh Trương, Vương Điền Hương là người của anh, sao lại thành cấp dưới của tôi được?”.
Vốn muốn nịnh hót, nhưng người ta phủ đầu, giở giọng hách dịch đáp lại, Tư lệnh Trương chỉ còn nước cười khẩy nói: “Tôi cũng là người của Quân đội Nhật Hoàng, lẽ nào Vương Điền Hương không phải”.
Vương Điền Hương tiến đến trước mặt Kawa Hihara, sốt sắng nói: “Đúng, đúng đấy. Tư lệnh Trương đây đúng là người của Quân đội Nhật Hoàng”. Nói vậy muốn là để giảng hòa giữa hai người, nhưng nghe thấy Vương Điền Hương nói vậy thì cả hai đều không vui.
Trong lúc nói chuyện, cả ba người đều đã đi vào trong nhà. * * *
Thế đất của Đông lầu rõ ràng là cao hơn so với Tây lầu, bởi vì thế đất sườn núi bên này vốn đã cao, thêm nữa móng nhà lại nâng thêm lên ba bậc thềm. Nhìn nghiêng thì hai ngôi nhà trông giống hệt nhau. Giống nhau là cùng quay lưng ra hướng Bắc quay mặt về hướng Nam; giống nhau là đều có hai gian nhô ở hai đầu hồi Đông, Tây; giống nhau là đều có hai tầng rưỡi, nóc màu đỏ, tường màu trắng, đai ngăn tầng là gạch màu xám. Điểm khác biệt duy nhất là tòa nhà bên này không có gara để xe. Nhìn
chính diện thì Đông lầu có vẻ nhỏ hơn, chủ yếu là chiều rộng, nhưng cũng không rõ rệt lắm, như thật mà không thật, rất khó khẳng định. Chỉ khi vào trong phòng, mới nhận ra là nhỏ. Trước tiên là phòng khách tầng dưới, không rộng như phòng khách Tây lầu, cầu thang cũng nhỏ hơn, nằm khuất sâu trong góc tường phía Bắc, thẳng không uốn lượn, rất bình dị, giống như những ngôi nhà bình thường khác. Trên tầng hai càng đơn giản hơn, đơn giản đến nỗi giống như mọi khu ở dân thường khác, lên trên tầng, phía chính diện, bên phải đều là tường: chính diện là tường phía Tây, bên phải là tường phía Bắc. Duy chỉ có bên trái nhô ra một dãy hành lang rất rộng. Chẳng cần nói, bên phải của hành lang cũng là tường. Hay nói nhìn từ đầu hồi bên ngoài, căn nhà bốn gian phía Tây thực ra là giả, chỉ là một hành lang mà thôi. Mấy gian phòng rộng thì rất rộng, nhưng không mấy sang trọng, kết cấu rập khuôn, chức năng đơn giản. Tóm lại, tuy hai ngôi Đông và Tây vẻ ngoài gần như nhau, nhưng bên trong lại khác một trời một vực, gợi cho người ta một cảm giác, hình như chủ của trang viên này khi xây dựng hai lầu Đông, Tây này gặp phải điều gì đó bất trắc, khiến cho tình hình tài chính xấu đi, không đủ sức để thể hoàn thiện cả hai ngôi nhà, đành phải được cái này mất cái kia, làm cho Đông lầu to mà hóa nhỏ, cầu kỳ thành đơn giản và bỏ qua nhiều thứ.
Sự thực lại không hoàn toàn như vậy.
Theo lời rất nhiều người từ lúc đầu tham gia việc xây dựng và quản lý Cầu trang, Đông lầu được khởi công khi Tây lầu đã gần hoàn thành, nguyên nhân bắt nguồn từ một câu nói chơi của một ông thầy phong thủy qua đường. Thầy phong thủy đến từ phương Bắc, đi qua Hàng Châu, đến ngắm cảnh Tây Hồ, thong dong thả bộ, vô tình đi vào Cầu trang, khi ấy đang xây dựng. Lúc đó Tây lầu đã cất nóc, đang hoàn tất trang trí bên trong và bên ngoài, đủ để nhìn ra hình dáng Long ‐ Phượng của nó. Thầy
phong thủy như bị cuốn hút bởi một thứ gì đó thần bí, đi vòng quanh tòa nhà ba vòng nhìn ngó kỹ càng, trước lúc đi ra còn buông một câu: “Là Rồng mà cũng là Phượng, là phúc mà cũng là họa, ẩn họa từ phía Đông tới”.
Trang chủ họ Cầu được tin, vội vàng huy động người đi khắp Hàng Châu tìm ông thầy phong thủy đã đưa ra lời phán huyền bí trên. Ngỡ rằng như vậy chẳng khác gì mò kim đáy biển, khó mà tìm thấy, thế mà lại tìm được. Có một chút gì đó tâm linh ứng nghiệm không lý giải được. Trang chủ họ Cầu coi thầy phong thủy là khách quý, khoản đãi nhiệt tình, mở tiệc rượu ở nhà hàng Lầu Ngoại Lầu để xin chỉ giáo. Vậy là thầy phong thủy liền đi xem lại một lượt khu trang viên, cuối cùng dừng lại đúng chỗ móng của ngôi nhà phía Đông hiện nay, ngồi cả đêm ở đó nhìn đêm nghe gió. Xong rồi đề nghị trang chủ họ Cầu xây dựng thêm ngôi nhà phía Đông ngay tại chỗ đó để ngăn hiểm họa từ phía Đông tới. Đã là để ngăn hiểm họa thì phải cao, vì thế Đông lầu hiện nay không chỉ ở vị trí cao mà móng nhà cũng được làm cao hơn, là để tạo cảm giác ngồi tít trên cao. Đã là để ngăn họa, thì chiều sâu lòng nhà cũng phải sâu, vì thế nhìn mé bên, hai ngôi nhà Đông và Tây giống nhau nhiều mà khác nhau ít. Hơn thế, nói là để ngăn hiểm họa, thì phân chia phòng to phòng nhỏ cũng không vấn đề gì, trang trí bên trong đơn giản, bình thường cũng không sao. Vì vậy mới thành ra như bây giờ.
* * *
Vương Điền Hương đưa Kawa Hihara và Tư lệnh Trương lên tầng trên.
Tầng trên có ba phòng và một khu vệ sinh, được bố trí theo hình chữ L ngược. Phòng đầu tiên hiện Vương Điền Hương đang ở, phòng thứ hai để lại cho Kawa Hihara ở tạm. Tiếp đó là khu vệ sinh được chia làm hai ngăn, phía ngoài là chỗ tắm, phía trong
là chỗ vệ sinh. Tiếp đến, là một phòng to hơn hai phòng trước, bởi vì nằm cuối hành lang, nên chiếm luôn phần diện tích hành lang còn lại. Ba phòng này trước đó đều là chỗ ở dành cho bọn tay chân của Tiền Hổ Dực, thiết kế thiên về kiểu phòng khách hơn, cho nên cải tạo lần này không quá tốn công, về cơ bản vẫn giữ nguyên. Chỉ có phòng của Kawa Hihara, giữa phòng dựng lên một tấm bình phong cố định mang tính trang trí, ngăn đôi căn phòng một cách tượng trưng, bên trong kê giường làm chỗ ngủ, bên ngoài kê bàn ghế để tiếp khách.
Vương Điền Hương biết Kawa Hihara thích ban đêm nằm trên giường đọc sách, nên đã đặt sẵn một cây đèn chụp ở đầu giường, trông khá đẹp, cây đèn vốn mượn từ phòng của tướng quân ở nhà khách phía ngoài đưa vào. Ngoài ra, lúc này cũng đã vào hè, thời tiết lúc nào cũng trở nên nóng nực, vì vậy trong phòng của Kawa Hihara, còn có một chiếc quạt điện. Còn lại là hoa tươi và hoa quả các loại… cũng được bày biện ở phòng ngoài. Một cành hoa mai trắng bị cái giá lạnh của núi rừng làm cho nở muộn và cành mai đỏ cũng sắp nở hoa, trắng đỏ đối xứng, cùng tỏa sáng như tôn thêm vẻ đẹp lộng lẫy của căn phòng, và cũng khiến căn phòng tràn đầy sức sống.
Kawa Hihara bước vào phòng, lập tức bị hút hồn bởi những bông hoa mai trắng đang nở rộ, tiến lại gần chỉ vào những bông hoa đang nở trên nhành cây trơ trụi, buột miệng ngợi khen:
“Nhìn kìa, đẹp tựa như một bài thơ, không có lá xanh tô điểm mà vẫn đẹp, hoa vẫn nở tài tình ý nhị tựa một áng thơ, đánh thức giác quan của con người”.
Tư lệnh Trương là người tài hoa, ý thơ luôn có sẵn trong đầu, bước lại gần chuẩn bị họa theo, nhưng chưa kịp mở miệng thì từ căn phòng lớn phía đầu hồi đột nhiên vọng tới một giọng nữ đầy giận dữ:
Tôi muốn gặp tư lệnh Trương!
Đó là tiếng Cố Tiểu Mộng Mặc dù đã lọc qua dây dẫn và micro, nhưng thanh âm vẫn rất giận dữ, sắc lạnh, ngang tàng, làm rung động cả không khí trong căn phòng. Đúng như Vương Điền Hương đã nói, trong căn phòng phía bên kia đều gắn thiết bị nghe trộm công suất lớn, bên kia nói điều gì, bên ngày nghe rõ mồn một.
Kawa Hihara bỏ mặc hoa, bước về phía gian phòng lớn, lắng nghe âm thanh được máy nghe trộm truyền tới:
Thư ký Bạch: Cô định gặp Tư lệnh Trương làm gì?
Cố Tiểu Mộng: Làm gì à? Câu này phải để tôi hỏi mới đúng, mọi người muốn làm gì nào?
Thư ký Bạch: Đâu cần phải tôi nói ra, sự việc đã rõ như ban ngày rồi.
Cố Tiểu Mộng: Tôi không phải là người của Đảng Cộng sản.
Thư ký Bạch: Điều này không phải do cô nói mà được, ai mà chả nói mình không phải.
Cố Tiểu Mộng: Nói bậy, Bạch Tiểu Niên, anh dám nghi ngờ tôi, rồi anh xem…
Kawa Hihara có vẻ hứng thú nghe tiếng bước chân vội vã của Cố Tiểu Mộng huỳnh huỵch xa dần, cho đến khi mất hút mới ngẩng đầu lên hỏi Tư lệnh Trương: “Người này là ai mà khẩu khí bạo dạn vậy?”.
Tư lệnh Trương hỏi lại: “Ông đã từng nghe về một người là Cố Dân Chương chưa? Là một nhà buôn, chuyên buôn bán vũ khí”.
Kawa Hihara nghĩ ngợi một lát nói: “Có phải là hậu duệ của Cao Lệ Hoàng ấy không, là người năm ngoái đã tặng một chiếc máy bay cho Uông chủ tịch ở Vũ Hán đúng không?”.
“Đúng, chính là ông ấy.” Tư lệnh Trương nói: “Cô này chính là con gái của ông ấy, dựa vào chút thế lực của bố, nên có vẻ không biết sợ trời đất là gì”.
Kawa Hihara hiểu ý gật đầu, bước đến trước án đài, xem xét thiết bị nghe trộm, tất cả được đặt trên một chiếc bàn hình chữ nhật được ghép bằng những tấm phản giường, chủ yếu là một đôi loa, một máy khuếch đại âm thanh, hai tai nghe, một ống nghe và một thiết bị kiểm soát, truyền tải âm thanh. Ngoài ra, trên bức tường đối diện treo hai chiếc ống nhòm kiểu Đức. Kawa Hihara lấy xuống một chiếc, bước đến bên sổ phía Tây, vừa bắc ống nhòm về phía Tây lầu, vừa hỏi: “Cô ta ở căn phòng chính giữa trên tầng à… trông cô ta trẻ trung, xinh đẹp… tên là gì nhỉ… Cố Tiểu Mộng… à, hình như cô ta còn đang tức giận…, tính khí chắc cũng không vừa…”.
Tư lệnh Trương lấy chiếc ống nhòm còn lại xuống, đứng bên cạnh Kawa Hihara bắc ống lên nhòm, lần lượt nhìn thấy: Cố Tiểu Mộng giận dữ ngồi trên giường, Lý Ninh Ngọc đang chải tóc, Kim Sinh Hỏa đi đi lại lại trong phòng có vẻ sốt ruột; Ngô Chí Quốc ngồi một mình trên sofa hút thuốc… Tất cả đều trong tầm ngắm, nằm gọn trong ống kính ống nhòm, thậm chí nhìn rõ đến mức thấy cả nốt ruồi ở đuôi lông mày của Kim Sinh Hỏa và khói thuốc của Ngô Chí Quốc.
Lúc này Tư lệnh Trương mới chợt hiểu, vì sao mà Vương Điền Hương lại sắp xếp mọi người ở như vậy: Khóa một phòng lại để Lý Ninh Ngọc và Cố Tiểu Mộng ở chung một phòng, bởi vì chỉ có ba phòng nằm gọn trong tầm nhìn từ phía bên này. Nếu không
sắp xếp như vậy, để Lý Ninh Ngọc và Cố Tiểu Mộng ở riêng thì trong đó có một người không thể theo dõi được.
Hai người theo dõi một lúc, Kawa Hihara bỏ ống nhòm xuống trước, vỗ vai Tư lệnh Trương nói: “Đi nào, chúng ta sang đó xem, chẳng phải bọn họ đang muốn gặp ông sao”.
Thế là cả hai cùng đi.
* * *
Không khí trong ngôi nhà nồng nặc mùi hôi tanh của chết chóc, thối nát và sợ hãi, cứ như là thảm họa đẫm máu một năm trước vừa mới lại xảy ra. Vương Điền Hương dẫn Tư lệnh Trương và Kawa Hihara lặng lẽ đi vào trong ngôi nhà, Thư ký Bạch vội lao từ trong phòng họp ra đón tiếp. Có lẽ là do vừa cãi nhau với Cố Tiểu Mộng nên tâm trạng còn lúng túng, đón tiếp cứ loạn xạ, sau khi bắt tay với Kawa Hihara, quả nhiên lại đến bắt tay Tư lệnh Trương, cứ như người tâm thần vậy.
Tư lệnh Trương trừng mắt với Thư ký Bạch nói: “Ông làm sao đấy, hay là bị bọn người của Đảng Cộng sản làm lú lẫn rồi, còn bắt tay cả với tôi nữa”.
Thư ký Bạch rút tay lại, cười ngây ngô nói: “Không… đâu có… tôi…”.
Tư lệnh Trương ngắt lời: “Đi gọi mọi người lại đây, họp”.
Cuộc họp diễn ra còn nặng nề, buồn tẻ hơn cả đám tang, ánh mắt của mọi người đều lờ đờ, không dám lóe sáng, cứ như là sợ lộ bí mật hay trong sạch. “Bốn người Ngô, Kim, Lý, Cố, trong số các vị ai là phỉ?”. Là Ngô Chí Quốc chức cao vọng trọng, hay là Kim Sinh Hỏa tuổi cao? Là Cố Tiểu Mộng trẻ trung xinh đẹp, hay là Lý Ninh Ngọc cả tuổi và chức vụ đều ở bậc trung? Ai, là một
người, hai người hay là ba người?… Là phỉ mới hay là gian cũ? Là giặc Cộng chống Tưởng hay là giặc Cộng liên kết với Tưởng?… Vì cớ gì mà làm giặc? Là nghe trộm thông tin, hay là giết người cướp của? Là bán thân cầu vinh hay là ham sống sợ chết? Là lỡ vận sa chân, hay là ẩn tích đã lâu?… Là đích xác hay chỉ là nghi ngờ? Là tội lớn đáng chém đầu hay chỉ là tội ăn cắp vặt cách chức là xong… kẻ trộm liệu có tự thú, hay để người khác phát giác?…
Bốn vị Ngô, Kim, Lý, Cố này, các vị ai là phỉ? Tôi X! Đây đâu phải là một câu nói? Đây là một quả bom! Một đống phân! Một hồn ma!
Một cái bẫy! Một âm mưu! Một cơn ác mộng!… Giống như bị lột hết quần áo… Giống như lên thuyền của bọn cướp… Giống như gặp phải ma quỷ… Giống như uống nhầm thuốc… Giống như mọc đuôi… Giống như bị mất linh hồn… Giống như bị lên máy chém… Tôi X! Rõ ràng là nhầm bài, mọi người đều không biết phải làm gì, nói gì… nói gì cũng không phải! Làm gì cũng không xong! Chửi bới không được… không chửi bới cũng không xong… khóc cũng không được… cười cũng không xong… đứng cũng không được… ngồi cũng không ổn… đi không được… ở chẳng xong… mở mắt cũng không được… nhắm mắt cũng không xong… không được… cái gì cũng không được… không cái gì cũng không xong… chẳng biết thế nào… cũng chẳng biết làm thế nào…
Tư lệnh Trương mời Kawa Hihara ngồi, Kawa Hihara khiêm nhường, ngồi xuống vị trí bên trái bàn trước, còn nhã nhặn mời mọi người cùng ngồi xuống. Mọi người vừa ngồi xuống, Thư ký Bạch nhẹ nhàng đến sau lưng Tư lệnh Trương, nói thầm một câu gì đó, rồi đưa ra một tờ giấy. Tư lệnh Trương xem qua một
lượt, cười cười rồi chuyển cho Kawa Hihara nói: “Ngài Kawa Hihara, ngài xem, đây là một bức điện mật tôi làm cho bọn họ”.
Kawaz Hihara liếc qua, chậm rãi đọc từng câu:
Mật điện này là giả
Ổ giặc Cộng là thật
Muốn không ai biết đến
Mình cũng phải làm ngơ
Nơi số một toàn quân
Há dễ chứa gian tế
Ngô Kim Lý Cố kia
Các ngươi ai là phỉ
Điện mật tôi cần dịch
Tố cáo thú tội đều hoan nghênh
Qua thôn trang này không nhà trọ
Bỏ lỡ thời cơ chớ tiếc than.
Kawa Hihara đọc xong, Tư lệnh Trương vỗ tay nói với bốn người Ngô, Kim, Lý, Cố rằng: “Không hổ danh là những chuyên gia dịch điện mật, nguyên như bản gốc của tôi. Thế nhưng chỉ dịch điện mật không thôi là chưa được, đó không phải là điện mật thật sự. Đây chẳng qua là một bài thơ tôi làm trong lúc đợi ngài Kawa Hihara đến, chỉ nhằm ổn định lòng quân, điện mật thực sự …”.
Kawa Hihara tiếp lời: “Là ở chỗ này, Ngô Kim Lý Cố kia, các ngươi ai là phỉ, có đúng vậy không Tư lệnh Trương?”.
Tư lệnh Trương cười nói: “Đúng, đấy mới là điện mật thực sự mà tôi muốn các vị dịch. Nếu như các vị sẵn sàng dịch là tốt nhất, không muốn dịch cũng không sao, ngài Kawa Hihara của chúng ta đây là một cao thủ về lĩnh vực này. Sáng nay tôi đã nói rồi, Tướng quân Iwane Matsui rất coi trọng việc giải mã điện mật này của chúng ta, nên đã cử ngài Kawa Hihara đến, chính là để phá bí mật này”.
“Không dám nhận mình là cao thủ, nhưng rất thích giải mã.” Kawa Hihara và Tư lệnh Trương cùng “hát bè” cho nhau,“chính vì thích, cho nên Tư lệnh Trương buổi sáng bảo tôi chiều nay đến, gọi là tới liền”.
Tư lệnh Trương mở bao công văn, rút ra mấy tờ giấy, nói tiếp: “Muốn giải được mật mã này, mọi người có thể cần đến một số tài liệu, tôi giới thiệu một chút. Trong này có một bức điện báo, nào Trưởng phòng Kim, anh đọc lên xem”.
Kim Sinh Hỏa nhận bức điện báo, đọc một cách vô hồn: “Điện từ Nam Kinh. Theo tin tức tình báo đáng tin cậy, Chu Ân Lai đã cử một đặc sứ có biệt danh là K đến Hàng Châu, đồng thời định 11 giờ đêm ngày 29 tháng này, tại nhà trọ Văn Hiên Các ở núi Phượng Hoàng, cùng với những người đứng đầu tổ chức bài Nhật, chống Nhật bí mật bàn mưu tính kế liên kết kháng Nhật chống Uông. Việc này…”.
Tư lệnh Trương cắt ngang: “Được rồi, Trưởng phòng Kim, đây không phải là lần đầu tiên anh đọc chứ?”.
Kim Sinh Hỏa gật đầu thừa nhận.
* * *
Lần đầu tiên Kim Sinh Hỏa đọc bức điện này là lúc hơn ba giờ chiều hôm qua. Bức điện báo nhận được lúc hai giờ ba mươi, trực ban trong phòng giải mã điện lúc đó là Cố Tiểu Mộng, cô thấy cấp độ của bức điện rất cao: Đặc cấp, liền tiến hành giải mã. Nhưng lại không dịch ra được. Dịch mãi nhưng đều là những ký tự lung tung. Cô thấy rất kỳ lạ, cũng rất nôn nóng, liền đi hỏi Lý Ninh Ngọc. Lý Ninh Ngọc là nhân viên giải mã điện lâu năm, có nhiều kinh nghiệm, những nhân viên cấp dưới gặp những bức điện không giải mã nổi đều tới nhờ cô. Cô đọc bức điện báo, sau đó nhìn những ký tự lung tung mà Cố Tiểu Mộng đã dịch ra, phán đoán đây là một bức điện mật trong bí mật lại chứa bí mật.
Rõ ràng là, bức điện mật đã được gia cố bí mật hơn, như 1234 hoặc abcd, trong một bức điện mật thông thường thì cái nó đại diện chính là 1234 hoặc abcd, sau đó căn cứ theo tiêu chuẩn giải mã thông dụng quốc tế là có thể dịch được các chữ tương ứng. Trong bức điện mật này, cái mà nó đại diện lại không phải là 1234 hay abcd, mà là tồn tại các khả năng, các khả năng ít thì hàng nghìn, nhiều thì chục nghìn đến trăm nghìn, triệu, chục triệu… khó có thể tính được.
Vậy rốt cuộc là gì đây? Đáp án chỉ có trong cuốn mật mã. Nếu như bên cạnh không có cuốn mật mã thì cho dù anh nhận được điện báo cũng chẳng tác dụng gì. Điện mật giống như sách Trời, chẳng ai hiểu được. Nhưng chỉ cần có cuốn mật mã, tất cả những người làm nghề cơ yếu giải mã điện đều có thể dịch được, có thể đọc được. Rất đơn giản, chỉ cần đối chiếu với cuốn mật mã như tra từ điển là xong.
Nhưng, thỉnh thoảng cũng gặp phải một số bức điện mật quan trọng, một số nhân viên cơ yếu lão luyện sẽ tức thời thêm vào một số mật mã, phòng khi cuốn mật mã rơi vào tay địch, cũng
có thể có tác dụng đánh lừa đối phương. Chính do tức thời thêm mật mã vào, nên mật độ này thường rất thưa, giả dụ như mười chữ số từ 0 ‐ 9, hay hai mươi sáu chữ cái tiếng Anh, sau mỗi ký tự di chuyển một vị trí hoặc hai vị trí. Ví dụ như mặc định 0 đại diện cho 1, thì 1 lại là 2, cứ thế mà suy đoán; giả định 0 là 3, thì 1 là 4, còn lại cứ căn cứ vào đó mà đoán ra. Thứ này nói ra rất đơn giản, nhưng tác dụng khá lớn, như Cố Tiểu Mộng đây đang rất bí. Có thể tưởng tượng, nếu như bức điện này bị kẻ thứ ba thu được, hơn nữa trong tay họ cũng đang có cuốn mật mã (dịch mã hoặc ăn cắp được), đồng thời lại gặp phải một người mới như Cố Tiểu Mộng, thì sẽ không thể dịch nổi bức điện mật đơn giản này, một bí mật giản đơn đã trở thành việc lớn, thậm chí sẽ gây ra hiểu lầm cho đối phương, khiến họ cho rằng bức điện sử dụng mật mã mới.
Cần nói rằng, sự hiểu lầm này rất dễ xảy ra đối với bên thứ ba. Bởi vì, họ dù gì cũng là kẻ thứ ba, gặp phải vấn đề như thế này rất dễ nghĩ thành vấn đề phức tạp. Nhưng với Lý Ninh Ngọc, trước tiên cô biết rằng cuốn mật mã liên lạc của họ chưa thay đổi, sẽ không nghĩ chệnh hướng. Thứ nữa là cô có kinh nghiệm xử lý những vấn đề tương tự, xem bệnh bốc thuốc, rất nhanh loại bỏ mã giả, dịch được điện mật.
Sau khi điện mật dịch xong, theo trình tự thông thường, Cố Tiểu Mộng báo cho Trưởng phòng Kim, Trưởng phòng Kim trình lên Tư lệnh Trương. Cũng chính là nói, trước khi điện mật đến tay Tư lệnh Trương, nó đã qua tay ba người: Kim Sinh Hỏa, Lý Ninh Ngọc và Cố Tiểu Mộng. Điểm này, tại cuộc họp cả ba người đều thẳng thắng thừa nhận.
Vấn đề tiếp theo là Tư lệnh Trương hỏi ba người Kim, Lý, Cố từ sau khi dịch điện xong và trước khi xảy ra sự việc tối qua, có ai nói nội dung bức điện với người thứ tư nào không. Vấn đề này
thực ra tối qua ngay sau khi xảy ra sự việc Tư lệnh Trương đã lập tức căn vặn hỏi cả ba người qua điện thoại. Lúc này lại đưa vấn đề ra đương nhiên không thể là căn vặn, giọng điệu khá quyết liệt, muốn là để mọi người nói thực, không che giấu, lừa dối.
Trưởng phòng Kim thề là không nói với ai. Cố Tiểu Mộng cũng quả quyết là chưa nói với người nào.
Duy chỉ có Lý Ninh Ngọc là nhìn Trưởng ban Ngô, ngập ngừng nói: “Xin lỗi, Trưởng Ban Ngô, tôi chỉ nói sự thật”.
Có ý gì đây?
Lý Ninh Ngọc nói, cô từng tiết lộ với Trưởng ban Ngô.
Điều đó cũng có nghĩa là câu trả lời của mọi người không khớp với những gì đã nói tối hôm qua, chỉ có điều giọng điệu trở nên kiên quyết hơn mà thôi.
Không ngờ lời nói của Lý Ninh Ngọc còn chưa dứt, Ngô Chí Quốc bật đứng dậy như ngồi trên lò xo, chửi ngay Lý Ninh Ngọc: “Chết tiệt, cô nói với tôi chuyện này lúc nào?”.
Thế là Tư lệnh Trương yêu cầu Lý Ninh Ngọc trước mặt mọi người nói rõ sự việc cô đã tiết lộ nội dung bức điện cho Trưởng ban Ngô như thế nào, lúc nào, nơi nào, vì sao và có ai làm chứng?
Lý Ninh Ngọc nói rằng chiều hôm qua khi họ vừa dịch xong bức điện, Cố Tiểu Mộng đang định chép lại để gửi lên trên thì Ngô Chí Quốc đột ngột đến kiểm tra sắp xếp một văn kiện nào đó. Bởi vì đây mà một điện mật đặc cấp, không tiện để lộ ra ngoài, Cố Tiểu Mộng thấy Trưởng ban Ngô vào, sợ Ngô Chí Quốc nhìn thấy, liền lấy tờ báo che lên bức điện.
Lý Ninh Ngọc nói: “Điều này có thể đã khiến Trưởng ban Ngô tò mò, hỏi Cố Tiểu Mộng đang chép điện báo gì mà có vẻ thần bí thế. Cố Tiểu Mộng nửa đùa nửa thật nói: Anh đi đi, tôi đang chép một điện mật hết sức quan trọng. Trưởng ban Ngô cũng nửa đùa đáp lại: Tôi không đi, mà muốn xem, thì đã sao nào? Cố Tiểu Mộng nói: Chỉ Tư lệnh mới có quyền xem, anh muốn xem, đợi đến khi được làm đến tư lệnh rồi hãy mơ nhé. Hai người cứ đấu khẩu với nhau như vậy một hồi, không có gì, chỉ là đùa thôi. Sau đó, Trưởng ban Ngô xem xong công văn, trước khi đi còn nói rằng muốn nói với tôi một chuyện, tôi liền đưa anh ta vào phòng làm việc của tôi…”.
Ngô Chí Quốc lại nhảy dựng lên chửi: “Cô bịa chuyện, tôi vào phòng làm việc của cô lúc nào!”.
Tư lệnh Trương ra lệnh Ngô Chí Quốc ngồi xuống nói: “Anh để cô ấy nói, khi nào tới lượt anh thì anh nói”.
Lý Ninh Ngọc tiếp tục nói, giọng điệu bình tĩnh, rõ ràng: “Vào phòng làm việc rồi, anh ấy hỏi tôi có thật là nhận được một bức điện quan trọng của cấp trên gửi xuống không. Tôi trả lời là đúng vậy. Anh ấy hỏi tôi nội dung gì. Tôi nói không thể nói được. Anh ấy hỏi liệu có phải là về bổ nhiệm hay bãi miễn nhân sự không. Tôi nói không phải. Anh ấy lại hỏi tôi thế là gì, hỏi đi hỏi lại. Tuy tôi biết theo quy định thì không được nói, nhưng lại nghĩ Trưởng ban Ngô chỉ huy công việc tiêu diệt và bắt bớ bọn phỉ, nội dung bức điện trước sau gì anh ấy cũng biết, thế nên tôi đã nói cho anh ấy biết”.
Trưởng ban Ngô lại nhấp nhổm, nhưng Tư lệnh Trương lừ mắt ngăn lại.
Tư lệnh Trương hỏi Cố Tiểu Mộng, Lý Ninh Ngọc nói có đúng sự thật không. Cố Tiểu Mộng nói rằng những lời Lý Ninh Ngọc vừa
nói là hoàn toàn đúng. Quả thực là lúc đó Trưởng ban Ngô đi qua phòng làm việc của cô và đúng là có hỏi cô về nội dung bức điện, đúng là cô nửa đùa nửa thật từ chối. Sau đó quả đúng là Lý Ninh Ngọc và Trưởng ban Ngô cùng đi ra. Còn sau đó Trưởng ban Ngô có đi vào phòng làm việc của Lý Ninh Ngọc hay không, cô ta lắc đầu nói:
“Tôi không rõ, mắt của tôi cũng không thể nhìn ra sau được, làm sao biết họ đi đâu. Vả lại, lúc đó tôi còn tâm trí đâu mà quan tâm, chép điện báo còn chẳng kịp nữa là. Đương nhiên, nếu biết trước xảy ra cơ sự như hôm nay, đứng dậy nhìn một chút cũng hay hơn…”
Tư lệnh Trương thấy Cố Tiểu Mộng nói liên hồi, dường như chưa có ý dừng lại, liền cắt ngang nói: “Được rồi, tôi rõ rồi”. Sau đó quay lại hỏi Lý Ninh Ngọc: “Cô nói cô cùng với Trưởng ban Ngô đi vào phòng làm việc, vậy lúc đó có ai nhìn thấy không?”.
“Điều này thì tôi không biết”, Lý Ninh Ngọc nói, “Lúc đó trong phòng làm việc của tôi không có ai, ngoài hành lang có người hay không tôi cũng không để ý”.
“Bây giờ anh nói xem nào”, Tư lệnh Trương hỏi Ngô Chí Quốc, “Anh nói anh không đi vào phòng làm việc của Lý Ninh Ngọc, vậy có ai làm chứng?”.
“Việc này…”, Ngô Chí Quốc không thể trả lời được. Không có nhân chứng, Trưởng ban Ngô chỉ biết luôn mồm thề thốt, thề trời thề đất, nhấn mạnh rằng lúc đó anh ta không vào phòng làm việc của Lý Ninh Ngọc. Tư lệnh Trương có vẻ mất kiên nhẫn, gõ xuống bàn bảo anh ta dừng lại.
“Cô ấy nói anh vào, anh bảo không vào, tôi biết tin ai? Nói mà không có bằng chứng, thì thà đừng nói nữa”. Ngừng một lát, Tư
lệnh Trương bồi thêm một câu: “Mà cũng chẳng cần phải nói, trên thực tế nếu vào phòng rồi thì đã sao nào, biết được nội dung bức điện thì đã sao nào, vấn đề không phải là ở đó. Đúng vậy không, ngài Kawa Hihara, sự việc ngài đã nắm được rồi chứ?”.
Kawa Hihara mỉm cười gật gật đầu.
“Vấn đề là ở đây.” Tư lệnh Trương nói rồi rút từ bao công văn ra một gói thuốc lá hiệu Tây Hồ đưa cho Kawa Hihara nói: “Ngài xem, vật này được Trưởng phòng Vương thu được từ tay một tên Cộng sản, trong đó có nội dung đấy”.
Trong gói thuốc lá còn hơn chục điếu. Kawa Hihara đổ hết những điếu thuốc ra, cuối cùng rơi ra một điếu dúm dó. Kawa Hihara nhặt điếu thuốc lá dúm dó, chỉ nhìn qua mà giống như là đã biết rõ được bí mật ẩn trong đó, hắn ta dùng móng tay khẽ gẩy gẩy, quả nhiên gẩy ra một mảnh giấy được cuộn chặt rơi ra.
Thì ra điếu thuốc lá này đã bị người ta rút hết sợi thuốc rồi cuộn mảnh giấy nhét vào trong.
Kawa Hihara cố tình “à” lên một tiếng kinh ngạc, nói: “Quả nhiên là có vấn đề”. Hắn gỡ mảnh giấy ra, đọc to: “Báo gấp Lão Hổ, hành tung đặc sứ 201 đã bại lộ, hủy hội quần anh! Lão Quỷ. Trong ngày”. Đọc xong, ngẩng đầu lên nhìn Tư lệnh Trương: “Đây lại là một bức điện mật sao?”.
Tư lệnh Trương đắc ý nói: “Bức điện mật này tôi có thể giải mã được. Người gọi là Lão Hổ chính là Tống Giang của Đảng Cộng sản ở nội thành Hàng Châu, đây chính là tên cầm đầu bọn phỉ. Hai tháng nay, chúng tôi lùng bắt, nhưng hắn rất khôn ngoan, mấy lần đều chạy thoát”.
“Không thoát sao được!”, Kawa Hihara nói:
“Có Lão Quỷ ở bên cạnh, thằng ngốc cũng có thể chạy thoát”.
“Đúng vậy”, Tư lệnh Trương thành khẩn gật gật đầu, nói tiếp: “Còn 201 chính là chỉ Chu Ân Lai. Đây là mật mã của Diên An, nhân vật đầu não của Đảng Cộng sản đều được gắn mã số. Còn Quần anh hội, chính là hội nghị trên núi Phượng Hoàng ấy. Thật nực cười, mấy tên cướp nhãi nhép gặp nhau mà tự xưng là Quần anh hội, thật chẳng biết trời cao đất dày là gì”.
Kawa Hihara cười cười, nói: “Thật khá cho Lão Quỷ”. Ngẩng đầu lên, Kawa Hihara giả lộ vẻ mặt nhân từ hỏi bốn người Ngô, Kim, Lý, Cố: “Các vị ai là Lão Quỷ đây? Ngô, Kim, Lý, Cố kia, các vị ai là phỉ?”. Giọng nói mềm mại, khàn khàn nhưng nói mà đầy đờm trong họng.
* * *
Vở kịch nửa thật nửa đùa diễn tới đây, mọi người mới như bừng tỉnh khỏi giấc mơ. Đây là cơn ác mộng, ở với ma quỷ mà không biết ai là ma quỷ, không khéo chính mình sẽ trở thành vật thế mạng cho ma quỷ. Vì thận trọng nên mới đầu không ai mở miệng nói gì, mọi người trầm ngâm, anh nhìn tôi, tôi nhìn anh, chỉ có điều không thể nhận ra được gì từ sắc mặt đối phương.
Tư lệnh Trương trầm ngâm vẻ không vui, hắn muốn mọi người mở miệng nói: Hoặc là tự thú hoặc là tố giác. Lúc hắn dụ dỗ, lúc hắn đe dọa, nói hay nói dở một hồi, nhưng không thấy ai thú tội, cũng không ai tố giác.
Thực ra là có người muốn tố giác, ví như Ngô Chí Quốc, sau sự việc, anh ta một mực khẳng định Lý Ninh Ngọc là Lão Quỷ. Nhưng trong tình huống lúc đó, vừa bừng tỉnh khỏi cơn ác
mộng, đáp án khiến người ta kinh sợ như vậy, người còn sợ đần ra, nhất thời sao có thể lấy lại được tinh thần để nói, vậy là không thể nói ra.
Đành đợi vậy, cũng phải để cho người ta có thời gian bình tĩnh lại đã chứ.
Kết quả là có người đến không đúng lúc, bước chân vội vã đến mỗi lúc một gần, nghe bước chân cũng biết là có việc gấp cần bẩm báo.
Người đến là Tham mưu Trương (béo), nói thầm gì đó vào tai Tư lệnh Trương. Tư lệnh Trương đã không thể ngồi yên, đập mạnh tay xuống bàn quát: “Không chịu nói phải không, các vị được lắm! Lúc nào muốn nói hãy đến tìm ngài Kawa Hihara, tôi không có thời gian đợi các vị”. Nói rồi đứng dậy, vừa đi ra ngoài vừa nói: “Có điều tôi muốn nói với các vị, tôi tin Lão Quỷ là ở trong số mấy người các vị. Trước khi các vị khai ra Lão Quỷ, các vị đừng hòng bước khỏi ngôi nhà này. Muốn đi, trước tiên hãy nói cho tôi biết ai là Lão Quỷ!”.
Kawa Hihara cũng đứng dậy, nhưng không bước đi mà nói một cách rất nhã nhặn, tươi cười: “Tôi tin điều Tư lệnh Trương nói. Ngoài ra tôi còn tin một điều là không phải tất cả các vị đều là Lão Quỷ. Trong số các vị người có tội người vô tội, mà đa số là vô tội. Ai vô tội, ai có tội, nào ai biết? Chúng tôi không biết, chỉ có chính các vị biết. Cho nên, ầy da! Ai làm người ấy chịu. Hiện giờ chúng tôi chỉ còn cách làm vậy, tập trung mọi người lại, trông coi, quản lý, các vị thấy oan uổng cũng được, bị làm nhục cũng xong, tạm thời đành chấp nhận thôi, không còn cách nào khác. Tôi nghĩ các vị cũng biết, trong lúc này đây chúng tôi chấp nhận cả việc trách nhầm các vị, chẳng còn cách nào để đồng cảm với các vị. Vì sao? Vì nếu đồng cảm nhầm, thì sẽ tạo ra sai lầm lớn hơn, tôi không đảm đương nổi. Đương nhiên, nếu các vị muốn
đi cũng rất dễ, chỉ cần nói ra Lão Quỷ, tố giác cũng được, tự thú cũng được, nói ra là xong hết”.
Tư lệnh Trương nãy giờ vẫn đứng ngoài cửa nghe Kawa Hihara nói, lúc này đã lại quay vào, bước tới trước bàn, gõ xuống bàn cảnh cáo mọi người: “Mọi người nhớ cho, trước ngày 29, sẽ là cơ hội, sau thời hạn này thì tất cả các vị đừng ai hối hận”.
Kawa Hihara nói: “Đúng, nhất định phải nhớ kỹ là trước ngày 29, sau đó thì các vị có nói gì chăng nữa cũng không thể thay đổi được số phận của mình đâu. Số phận của các vị ở đâu?”. Hắn lấy ra một phong bì dán kín, vỗ vỗ. “Ở trong này, cái này là tướng quân Iwane Matsui đưa trước khi tôi đến đây, trong đó nói gì, thú thật tôi cũng không biết.” Hắn cười cười rồi lại nói: “Các vị, đây cũng là một bức mật điện, nó cũng có thể bị tôi đốt bỏ, nội dung trong đó sẽ là bí mật mãi mãi, nhưng cũng có thể được tôi đọc to lên, nội dung trong này chính là số phận của các vị. Đốt hay đọc, quyền quyết định nằm trong tay chính các vị đấy. Nhưng một khi các vị đã trao cho tôi quyền đọc, các vị sẽ không có quyền thay đổi số phận của mình đâu, ngay cả Tư lệnh Trương và Kawa Hihara tôi đây cũng không có quyền thay đổi. Cho nên, các vị chớ có đùa với nó, đùa với nó chính là đùa với số phận của các vị đấy”.
Khi nói những lời này, Kawa Hihara đã kiểm soát tốt tâm trạng của mình, giọng nói ôn hòa, ngữ điệu từ tốn, vừa tỏ ra thân thiện ân cần, lại có chút tình sâu nghĩa nặng. Sau đó hắn thậm chí còn đi vòng đằng sau mỗi người một lượt, nói vài câu vu vơ rồi mới đi. Nhưng cho dù hắn bỏ đi với vẻ mặt tươi cười, ôn hòa nhã nhặn, thì cả bốn người Ngô, Kim, Lý, Cố vẫn cảm nhận rõ ràng một sự chấn động, kinh hoàng, mắt tối sầm, chân run lẩy bẩy, đầu óc trống rỗng, trong lòng thì ngổn ngang, như có một nỗi sợ hãi vô hình…
CHƯƠNG BA
A
i là Lão Quỷ?
Đ. mẹ nó chứ, đứa nào là Lão Quỷ!
Chiều hôm ấy, trời trong xanh, hoa ngát hương, trong nhà khách phía trước, các cô gái xinh đẹp vẫn ngồi trước gương như thường lệ và chờ đợi màn đêm buông xuống. Hay nói cách khác, chiều nay thời gian vẫn cứ trôi đi như thường lệ, tích tắc, tích tắc, vẫn trôi về phía trước, chìm vào màn đêm. Vậy mà ở Tây lầu, thời gian như trở về nửa năm trước, trở về cái đêm đẫm máu ấy, cái đêm mà tất cả mọi người trong nhà đều bị một kẻ vô danh bí ẩn, một kẻ đột nhập, một tên ác quỷ thao túng, khống chế, bóp nghẹt yết hầu, bóp chặt huyết quản.
Tư lệnh Trương có việc phải trở về đơn vị, Kawa Hihara và Vương Điền Hương tiễn hắn lên xe. Xe đi rồi, Vương Điền Hương đang định quay lại nhà, Kawa Hihara xua tay: “Mặc kệ họ, đi thôi, tôi có việc cần hỏi anh”.
Câu hỏi là: Mảnh giấy trong bao thuốc lá là từ đâu ra?
Trả lời là: Một liên lạc viên của Đảng Cộng sản mang bí danh Ba Ba chuyển đi.
* * *
Ba Ba là một ông già nghèo, chừng sáu mươi tuổi, người gày gò, chân cẳng dài nghêu, khi đi thân trên thẳng đứng, thân dưới bồng bà bồng bềnh, trông cứ y như là con bọ ngựa vậy. Từ mùa
đông năm ngoái, Ba Ba về làm nhân viên quét dọn trong doanh trại Tổng đội quân ngụy, ban ngày quét dọn vệ sinh trong doanh trại, xẩm tối đi thu dọn rác từng nhà trong khu gia binh. Tuần trước, họ bắt được một đặc vụ Quốc dân Đảng nằm vùng từ Trùng Khánh phái đến, đầu hàng rồi. Hai hôm trước là buổi đi làm đầu tiên, khi ăn trưa tại nhà ăn đã tình cờ nhìn thấy Ba Ba khi ấy đang lấy nước gạo, nhận ra Ba Ba trước đây chính là một phần tử Đảng Cộng sản, không rõ tình hình hiện giờ ra sao, nhưng chung quy là rất đáng nghi ngờ.
Nghi ngờ quá đi chứ!
Thế là, Vương Điền Hương cho người theo dõi nghiêm ngặt nhất cử nhất động của Ba Ba. Hai ngày liền họ không thấy Ba Ba gặp gỡ, tiếp xúc với ai, cũng không thấy có gì bất thường, chỉ là quét dọn vệ sinh trong doanh trại, tối đến lại đến từng nhà trong khu gia binh để thu gom rác. Khoảng hơn bảy giờ tối qua, sau khi thu gom rác, Ba Ba đạp xe ba gác ra khỏi doanh trại đi đổ rác, trên đường đi cũng không thấy gặp gỡ tiếp xúc với ai. Cho đến tận khi anh ta từ bãi đi ra, người theo dõi mới phát hiện có một số bất thường: Ba Ba đi đến Công viên Cầm Đài với vẻ đáng ngờ.
Đây là một ngã ba, tối đến thường có một số người buôn bán nhỏ dọn hàng bán vài thứ đồ ăn và tạp hóa linh tinh. Ba Ba đỗ xe bên cạnh sạp hàng của một cô gái bán hoa tươi, sau đó đeo một chiếc hộp trước ngực để bán thuốc lá dạo. Tình cờ thế nào mà ngay sau đó có một người đàn bà ngồi trên xe kéo gọi anh ta lại mua. Người đàn bà ấy còn khá trẻ, ăn mặc cũng rất thời trang, miệng ngậm một điếu thuốc lá, trông rất giống một cô gái ăn chơi. Một cô gái phong trần mua thuốc hút cũng chẳng có gì làm lạ, nhưng lạ là ở chỗ tiền cô ta đưa rõ ràng còn thừa, nhưng cô ta lại chỉ cầm thuốc rồi bỏ đi luôn mà không thèm lấy tiền thừa.
Còn Ba Ba, vớ được món hời mà chẳng có vẻ gì vui sướng, cứ như đó là chuyện đương nhiên.
Vương Điền Hương nói: “Làm gì có cái lý đương nhiên ấy? Nếu nói là đương nhiên, một cô gái phong trần sẽ không thể rẻ rúng tiền bạc như thế, còn một người bán hàng rong có chút hời lẽ đương nhiên phải hớn hở ra mặt mới đúng”.
Kawa Hihara cũng gật gù tán thưởng, nhưng chân vẫn không dừng bước, ánh mắt đau đáu nhìn phía trước, dáng vẻ vội vã. Vừa nãy, hai người đưa Tư lệnh Trương lên xe xong, không trở về Tây lầu, cũng không đến Đông lầu mà theo xe ra ngoài, vừa đi vừa nói chuyện. Lúc này, hai người đã bước ra khỏi trang viên, đến Tây Hồ và bắt đầu đi men theo đê Tô. Được gọi là mười dặm hoa đào, đê Tô trông thật rực rỡ, hoa lá điểm tô cho nó thêm
lộng lẫy và ngát hương thơm. Nếu là thời hòa bình, mùa này ắt sẽ có nhiều khách du lịch lắm, thế mà bây giờ ở đây vẫn tẻ vắng, rất tiện cho hai người vừa đi vừa trò chuyện, cho dù đó có là chuyện quân cơ.
Vương Điền Hương kể tiếp, rõ ràng là sự khác thường chỉ hiện lên giây lát giữa Ba Ba và đồng đảng đã thu hút sự chú ý của người được cử đi theo dõi. Thế là, một trong số họ đuổi theo bắt cô gái phong trần kia. Sau khi kiểm tra anh ta phát hiện trong hộp thuốc lá có mảnh giấy lạ.
“Bắt người như vậy à?” Kawa Hihara như vừa hụt chân, đột ngột dừng lại, “Sao lại có thể bắt cô ta vội thế? Lẽ ra nên bí mật cho người bám theo, chưa biết chừng cô ta sẽ đưa các anh đến chỗ tên cầm đầu Lão Hổ đấy”.
“Đúng thế!”, Vương Điền Hương có vẻ còn đau khổ hơn cả Kawa Hihara, gật đầu lia lịa. “Tôi cũng nghĩ vậy, quả là cơ hội có một
không hai. Nhưng… chó thật, chỉ trách tôi không thân chinh có mặt ở đó.”
May mà chưa bắt Ba Ba, vẫn để “nuôi” đấy, nếu không thì có lẽ Vương Điền Hương sẽ gật đầu đến gãy cổ mất.
Bởi vì vẫn để “nuôi” Ba Ba, nên Kawa Hihara cũng không trách cứ Vương Điền Hương quá nhiều. Kawa Hihara cho rằng, nếu cả Ba Ba cũng bị bắt nữa thì đường dây ba người (kể cả Lão Quỷ) sẽ cùng lúc mất tích, điều này biết đi đâu thì chắc chắn sẽ khiến cho các phần tử Cộng sản khác nghi ngờ họ đã xảy ra chuyện.
“Có nghi ngờ tất sẽ sợ”, Kawa Hihara nói, “sợ rồi sẽ sinh cẩn trọng, gió lay ngọn cỏ cũng sẽ khiến họ lo sợ. Một khi những tên Cộng sản bên ngoài nghi ngờ Lão Quỷ, bị giam ở trong này thẩm vấn, hoặc ngay cả khi không có thông tin gì họ cũng sẽ nghi ngờ hành động của chúng ta, như vậy thì cuối cùng e rằng ngay cả xương cá anh cũng không câu nổi đâu”.
Cho nên, Kawa Hihara nghiêm khắc nhắc nhở Vương Điền Hương: Việc bắt người phải giữ bí mật, Ba Ba cũng phải “nuôi” cho kỹ. Còn nữa, con bé vừa bắt kia cũng phải nghĩ cách, để không bị lộ, không thể để đồng bọn của nó nghi ngờ nó đã bị bắt. Tối qua Ba Ba mới gặp con bé ấy, hơn thế còn chuyển tin tức tình báo, nếu không che đậy được sơ hở này, ngộ nhỡ Ba Ba báo cáo việc này với tổ chức, chẳng phải là sẽ bị lộ tẩy hết sao?
Kawa Hihara nói: “Chúng ta cần mê hoặc kẻ địch, trước tiên là phải xem sơ hở ở đâu để mà che đậy và bưng bít thông tin, không thể để cho biết ta đang làm gì trong này. Anh cho rằng chúng ta đang làm gì đây? Bắt Lão Quỷ ư? Không. Lão Quỷ đã bắt được rồi, Lão Quỷ” đã nằm gọn trong lưới, chẳng lẽ lại có thể thoát được sao? Cá nằm trong chậu, chạy đâu cho thoát. Anh cũng không cần phải lo Lão Quỷ không hiện hình, nếu không
phải là hôm nay thì sẽ là ngày mai hoặc ngày kia thôi, thời gian sẽ khiến cho Lão Quỷ phải lòi đuôi, chỉ là sớm hay muộn mà thôi.
Sớm hay muộn cũng chẳng hề gì, làm sao con cá trong lưới còn có thể làm mưa làm gió, chuyển tin ra ngoài được? Không thể có chuyện đó. Hiện nay, điều quan trọng nhất là phải bưng bít mọi thông tin, không để cho bọn Cộng sản bên ngoài biết người của chúng đang làm gì trong này, một chút nghi ngờ cũng không được. Cần nhớ rằng, Lão Quỷ ở đây không phải đang bị thẩm vấn, mà là đang… đang làm gì nhỉ?
Kawa Hihara ra chiều suy nghĩ, nhất thời không tìm ra được cách nói phù hợp, đành nói bừa: “Cứ nói rằng bọn chúng đang thực thi nhiệm vụ vậy, gọi bọn chúng đến, tập hợp, là để hoàn thành một nhiệm vụ quan trọng. Sau này chúng ta phải thống nhất một cách nói, mà nhất thiết phải nghĩ cách làm sao để lọt vào tai Ba Ba càng nhanh càng tốt mới được. Cố gắng cho bọn bên ngoài biết tin, càng nhiều người biết càng tốt, người nhà chúng, cấp trên, đồng nghiệp… tất tần tật, kể cả đám lính gác của anh nữa, cũng phải cho họ biết. Lừa được bọn chúng, cũng có nghĩa là qua mắt được Cộng sản, chỉ có như vậy, chúng ta mới có thể bắt được con cá lớn là Lão K, sau đó thì kéo một mẻ lưới bắt sạch cả tôm lẫn tép. Hiện nay tình hình đã có chút sơ hở, anh đã bắt một đứa, may mà chưa động Ba Ba, nếu không màn kịch này chẳng còn gì mà diễn nữa”.
Với tình hình hiện nay, xem ra vở kịch này vẫn còn khối thứ để diễn, vì vẫn còn “nuôi” Ba Ba. Còn Ba Ba thì vẫn có thể xoay chuyển được tình thế, nguy hiểm còn có thể được giải hóa, việc nan giải cũng có thể mơ thành hiện thực. Kawa Hihara nói với vẻ như đã suy tính kỹ lưỡng: “Anh cần phải biết, Ba Ba bây giờ là công cụ quan trọng nhất, là con mồi lớn nhất của chúng ta,
chúng ta cần phải khai thác triệt để con mồi này, dùng nó để nhử cá lớn”. Cách thức rất đơn giản, chỉ cần tung tin giả là Lão Quỷ đang thực thi nhiệm vụ ở bên ngoài cho Ba Ba, đương nhiên hắn sẽ thay cậu báo cáo với cấp trên của hắn: Lão Quỷ đang bình yên vô sự.
Việc cần làm gấp bây giờ là tạo một tin tức giả cho Ba Ba, để hắn và đồng bọn của hắn biết Lão Quỷ đang làm gì ‐ đang làm nhiệm vụ, không phải đang bị thẩm vấn, bị giam lỏng làm mồi nhử.
“Không thành vấn đề”, Vương Điền Hương vỗ ngực nói, “tôi đi làm ngay”.
“Đi làm nhanh đi”, Kawa Hihara nói,
“nhanh vào, càng nhanh càng tốt”.
“Được, tôi đi ngay đây.”
Vậy là đi.
* * *
Kawa Hihara nhìn Vương Điền Hương bước đi, một mái hiên tường hồng ngói đỏ đập vào mắt hắn, đó là Lầu Ngoại Lầu nổi tiếng trên Cô Sơn, cũng là nhà hàng hắn ưng ý nhất. Hắn nghĩ thầm, tối sẽ đến đó dùng bữa. Đã lâu lắm không đến đó, không biết sư phụ Cửu Long có còn ở đó hay không. Trước đây Kawa Hihara thường xuyên đến Hàng Châu, mỗi lần đều đến Lầu Ngoại Lầu ăn những món ăn do sư phụ Cửu Long nấu. Nghĩ đến sư phụ Cửu Long mập mạp, hắn càng hạ quyết tâm tối sẽ đến đó ăn cơm. Nhưng đi với ai? Hắn chợt nghĩ tới một nhóm khách đặc biệt, bỗng cất tiếng gọi Vương Điền Hương đã đi khá xa dừng lại, bảo Vương Điền Hương quay về thông báo cho Tư lệnh
Trương, tối nay hắn đặt tiệc tại Lầu Ngoại Lầu, mời Tư lệnh đi cùng.
Vương Điền Hương hỏi: “Khách là ai ạ?”.
Kawa Hihara cười nói: “Người nhà của họ”.
Vương Điền Hương không có phản ứng gì. Kawa Hihara hỏi: “Anh đưa những người này đến đây, người nhà họ có biết không?”.
Vương Điền Hương nói không biết, Kawa Hihara nói: “Như thế sao được, nhốt người ta ở đây, không được ra khỏi cửa, điện thoại không được gọi, chẳng phải là công khai bảo họ có vấn đề hay sao? Nay chúng ta nói là họ đang thực thi nhiệm vụ, mời người nhà đến ăn cơm, thể hiện sự quan tâm chăm sóc, điều này chẳng phải nên làm sao?”, hắn cười rồi lại nói tiếp,“Bảo cả vợ ông đi, để bà ấy làm một người vợ hiền chỉ cần nhận sự quan tâm, vinh dự một chút là sẽ thấu hiểu và ủng hộ chúng ta”.
Vương Điền Hương là một người thông minh, hắn ta nghĩ ngay đến mục đích của Kawa Hihara, cái gọi là quan tâm ấy chỉ là giả tạo, đánh động mới là thật. Người thường nói, chuột có từng ổ, thổ phỉ cũng vậy, từng ổ từng ổ. Hắn nghĩ, Kawa Hihara nhất định nghi ngờ người nhà của Lão Quỷ chính là Cộng sản, cho nên mời họ đến ăn cơm, bề ngoài thì là chiêu đãi họ, nhưng thực tế là để tạo ra thông tin giả với họ.
Kawa Hihara than thở nói: “Đúng, nếu người nhà Lão Quỷ cũng là Cộng sản, nhất định sẽ cùng Ba Ba cung cấp thông tin tình báo giả là Lão Quỷ đang thực thi công vụ bên ngoài cho tổ chức của họ. Nếu đúng như thế có nghĩa là sẽ được bảo đảm gấp đôi, Lão K, Lão Hổ dù có đa nghi cũng sẽ tin tưởng”.
Cao kiến! Cao kiến!
Vương Điền Hương miệng nói vậy, trong lòng nghĩ vậy.
Sau đó, Kawa Hihara cao hứng điều chỉnh kế hoạch một chút, dường như cố tỏ ra cao siêu hơn. Dự tiệc xong, Kawa Hihara đưa đám người nhà của họ từ nhà hàng Lầu Ngoại Lầu đến thẳng nhà khách, dạo xe một vòng. Sau khi vòng qua sân sau, xe dừng lại trước sảnh Đông lầu, đám người nhà của họ đều nhìn thấy người thân của mình ở ngay trước mặt, trong ngôi nhà đối diện, trong phòng họp sáng trưng, từng người đang lặng lẽ ngồi trước bàn họp, dáng vẻ như sốt ruột chờ một cuộc họp khẩn cấp và quan trọng.
Mắt nhìn thấy là thực, còn có gì để không tin nào? Tất nhiên, bọn họ đều, hơn thế còn cảm thấy niềm tự hào trào dâng, người nhà của mình đang được lính canh bảo vệ như là báu vật, ở một nơi an toàn tuyệt đối, dự một cuộc họp quan trọng và bí mật. Gần ngay trước mắt mà xa tận chân trời, không thể đến gần, chỉ có thể nhìn. Nhìn mà thấy dễ chịu, thấy tự hào.
Chỉ có một chút gợn là Cố Tiểu Mộng chưa lấy chồng, vì thế không có người nhà, còn ông bố đại phú đại quý có vẻ không đếm xỉa đến bữa tiệc mời của Tư lệnh Trương, không đích thân đến mà chỉ cử một bà quản gia trông chừng ngạo mạn đến dự. Nói đúng ra thì Cố Tiểu Mộng cũng là do một tay bà quản gia nuôi nấng khôn lớn, nhưng dù gì vẫn có khoảng cách, nếu như để bà ấy len vào giữa đám người nhà, sẽ phá vỡ sự nghiêm túc của buổi tiệc. Cho nên dù bà có đến, vẫn không để bà dự tiệc, chỉ tiếp riêng, nói với bà về tình hình, tặng chút quà rồi tống khứ bà đi luôn. Sau này Kawa Hihara nghĩ, như vậy cũng không có gì đáng tiếc, thiết nghĩ bà quản gia về sẽ báo lại cho ông chủ biết và sẽ nói chuyện với đám người làm. Kawa Hihara chỉ cần có vậy, càng nhiều người biết càng tốt, khiến cho những người xung
quanh Cố Tiểu Mộng không thể biết được sự thật, để cho phần tử Cộng sản giả tưởng nào đó mắc lừa và rơi vào bẫy.
Nghĩ vậy, có vẻ như Cố Tiểu Mộng chính là Lão Quỷ, vậy trong số người thân của cô ta chắc chắn có đồng bọn.
Thực ra với những thông tin có được hiện nay, giả sử trong số mấy người kia nếu phải gạt ra một người thì Kawa Hihara chắc chắn sẽ gạt Cố Tiểu Mộng, lý do là người nhà của cô đến quá kỳ lạ, chẳng hiểu thế nào, quan hệ chẳng ra sao. Từ việc cha Cố Tiểu Mộng để bà quản gia đến dự tiệc, Kawa Hihara đã ít nhiều thấy được sự ngạo mạn và trong sạch của người nhà Cố Tiểu Mộng. Không nghi ngờ gì nữa, nếu Cố Tiểu Mộng là Lão Quỷ và trong số người thân của cô ta có đồng bọn, chắc sẽ không cử một bà già quản gia đến. Tất nhiên, không có đồng bọn thì cũng không thể quả quyết Cố Tiểu Mộng không phải là Lão Quỷ. Ai là Lão Quỷ, bây giờ cũng không cần đoán mò nữa. Vẫn còn sớm quá, Kawa Hihara nghĩ, bây giờ mới là lúc dựng sân khấu, vở kịch vẫn còn chưa mở màn kia mà, đợi khi kịch bắt đầu thì ai mặt đỏ, ai mặt trắng tự nhiên sẽ rõ. Sân khấu buổi tối nay, nói chung là được dàn dựng thật tuyệt, biểu hiện của Tư lệnh Trương trên sân khấu cũng rất đáng khen, anh ta như có linh cảm, gọi hết mọi người lại, để họ được tận mắt chứng kiến. Thêm vào đó, Vương
Điền Hương nói chiều nay đã rất khéo léo chuyển thông tin cho Ba Ba, hơn thế còn tiện thể bịt luôn kẽ hở bên chỗ cô gái kia, trong lòng Kawa Hihara trào dâng niềm hân hoan khó tả, cứ y như là người đã được hóa trang xong, chờ lên sân khấu biểu diễn.
* * *
Vương Điền Hương cũng có cảm giác như vậy, mặc dù vai diễn tối nay không dễ xuất đầu lộ diện. Nhiệm vụ của Vương Điền Hương chiều nay là trở lại doanh trại để chuyển “tin tình báo” cho Ba Ba, vài việc vặt, nhiệm vụ hoàn thành khá thuận lợi, chẳng qua chỉ là cần giả vờ lỡ lời khi ở gần Ba Ba thôi mà, dễ ợt. Cái khó là ở chỗ vá víu sơ hở bên chỗ cô gái kia thôi, nhất thiết phải hỏi cung cô ta, để biết nhà cô ta ở đâu, sống với những ai, sau đó mới tìm cách thông qua người nhà cô ta để che đậy sơ hở.
Như đã kể trên, cô gái bị bắt từ tối qua, lẽ ra Vương Điền Hương phải sớm thẩm vấn cô ta. Nhưng mẩu giấy trên người cô ta như sét đánh giữa trời nắng, chẳng cần nghĩ ngợi đã đẩy Vương Điền Hương đến với Lão Quỷ, bận tối mắt tối mũi, từ sáng đến tối không ra khỏi
Cầu trang, chẳng về được doanh trại, thế nên không có thời gian rảnh để thẩm vấn cô ta. Buổi chiều hôm thẩm vấn cô ta, vừa gặp, Vương Điền Hương đã ngỡ như phát hiện ra lục địa mới vậy. Mặc dù đã thay đổi rất nhiều, một mệnh phụ phu nhân quyền quý sang trọng ngày nào cải trang thành cô gái bán hoa lẳng lơ, nhưng Vương Điền Hương vẫn nhận ra ngay, người đứng trước mình là vợ bé của Tiền Hổ Dực: Bà Hai.
Cái thế giới này đôi khi thật là nhỏ bé, cũng thật kỳ diệu. Sự xuất hiện của bà Hai khiến cho Vương Điền Hương trộm nghĩ, không biết thảm họa của Tiền Hổ Dực năm xưa là do ai gây ra, chắc chắn là bà Hai khó hiểu này rồi.
Vương Điền Hương biết, trước đây Tiền Hổ Dực rất yêu chiều bà Hai, đâu có nghĩ bà Hai lại là người của Đảng Cộng sản. Phát hiện mới đầy bất ngờ này khiến cho Vương Điền Hương trong suốt buổi chiều cứ ngất ngây trong tâm trạng vui mừng mù quáng và miên man. Đây quả đúng là một niềm vui sướng tột
cùng, giống như niềm vui của một thủy thủ trên con tàu lạc hướng trên biển nhìn thấy đất liền vậy.
Không phải là cả gia đình Tiền Hổ Dực đều chết hết rồi sao, sao bà Hai vẫn còn sống nhỉ?
Là thế này, vì bà Hai không danh chính ngôn thuận nên không về sống tại Cầu trang. Dẫu sao thì đường đường là một Tư lệnh, cai quản cả một vùng, vấn đề thể diện rất quan trọng, nên khi Tiền Hổ Dực chuyển đến sống ở Cầu trang đã không đưa bà Hai đi cùng. Vương Điền Hương nghĩ, chắc bà Hai vì thế mà ôm hận đối với Tư lệnh Tiền, sau đó cùng đồng bọn đưa tiễn già trẻ lớn bé cả nhà họ Tiền xuống suối vàng. Vì không sống ở Cầu trang nên sau khi xảy ra vụ án cũng không ai nghi ngờ bà Hai, mặc dù người nhà họ Tiền đều chết hết, duy chỉ còn bà Hai may mắn sống sót. Bây giờ mọi việc đã rõ như ban ngày, bà Hai chính là người sắp đặt mọi chuyện.
Đúng là lòng dạ đàn bà nham hiểm thật. Vương Điền Hương không thể tưởng tượng nổi, bà Hai với bề ngoài có vẻ hiền dịu lại có thể mang trong mình trái tim của loài bọ cạp như vậy.
Bởi vì đó là bà Hai nên rất nhiều việc không cần phải hỏi thêm nữa, ví dụ bà ở đâu, sống với những ai, tất cả những điều này Vương Điền Hương đều biết. Nhưng tất cả những cái đó đều không quan trọng, điều quan trọng là bà Hai là người đàn bà của Tiển Hổ Dực, nên công việc bưng bít sơ hở đúng là điều kiện có một không hai! Mặc dù không có chứng cứ xác đáng bà Hai tham gia hành động mưu sát, nhưng nếu nói bà tham gia mưu sát thì cũng có sao đâu? Thế là, Vương Điền Hương mang theo hai cảnh sát đi thẳng đến nơi ở của bà Hai, lục soát mọi thứ khiến cho bà già giúp việc sợ chết khiếp. Mà đám nhà báo đúng là nhạy thông tin thật, cũng là do Vương Điền Hương tung tin, loáng một cái đã thấy chúng lũ lượt kéo đến, Vương Điền Hương
không ngại ngần trả lời phỏng vấn, không biết mệt. Chập tối hôm đó, hai tờ báo địa phương đăng ngay mấy tấm ảnh của bà Hai, chạy hàng tít giật gân to đùng, để cho người toàn thành phố biết vụ án mạng cả gia đình nhà viên Tư lệnh Ngụy Tiền Hổ Dực cuối cùng đã được điều tra làm rõ, kẻ gây án bị còng tay tống vào ngục… Vào ngục rồi thì đương nhiên không thể liên hệ với tổ chức cấp trên.
Vương Điền Hương đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ vá víu sơ hở của mình như vậy, rất kín kẽ, đến mức Kawa Hihara không ngớt lời khen ngợi.
Đúng là người ta có chuyện vui thì tinh thần thoải mái. Sau khi công việc đã đâu vào đấy, Vương Điền Hương lại đắc ý toan tính: Nếu dùng mẹo nhỏ đó mà có thể dọa cho Lão Quỷ lộ diện thì đó chẳng phải là công lao của mình sao? Nghĩ vậy, nhân lúc Kawa Hihara đi ăn cơm tại Lầu Ngoại Lầu, Vương Điền Hương tự ý bí mật đưa bà Hai về Cầu trang, để bà Hai gặp mặt mấy người ở phòng họp.
Làm gì?
Đề nhận mặt chứ làm gì. Nhận mặt Lão Quỷ.
Vương Điền Hương dụ dỗ và hứa hẹn với bà Hai đủ thứ, chỉ cần bà Hai nói ra là anh ta hay là cô ta mà thôi!
Không biết bà Hai giả ngốc hay là ngốc thật nữa, chỉ một mực nói không biết để đáp lại những lời dụ dỗ và hứa hẹn của Vương Điền Hương, có chút gì đó như là kiểu dùng bất biến ứng vạn biến. Lặng lẽ làm thinh. Không có gì để nói. Toan tính của Vương Điền Hương thế là đi tong. Hỏng bét. Thế là công toi. Bà Hai là người thế nào mà dám làm bậy trên đầu Thái Tuế, đâu có thể tùy tiện như thế mà xong được. Việc Vương Điền Hương tự
dựng công đường, muốn đánh nhanh thắng nhanh, quả thực có phần lạc quan thái quá. Vui quá hóa buồn. Biết Kawa Hihara sắp đưa đám người nhà của bọn họ từ Lầu Ngoại Lầu đến để tận mắt chứng kiến, Vương Điền Hương vội vàng thu dọn chiến trường, sai người đưa bà Hai trở về thành phố, mời Ngô Chí Quốc vào ghế chủ tịch, còn mình thì lui ra rìa. Nói tóm lại, mưu kế của Vương Điền Hương thất bại, đành phụ giúp Kawa Hihara tính kế lớn. Trong mưu kế của Kawa Hihara, trên bàn hội nghị Vương Điền Hương chỉ là nhân vật tuyến hai phụ trách về an ninh, đương nhiên không được ngồi vào ghế chủ tịch. Ghế chủ tịch hiển nhiên là dành cho Ngô Chí Quốc, người ta vốn đứng đầu của một ban, quyền cao chức trọng đường đường.
Lúc này, Vương Điền Hương từ cửa sổ nhìn thấy Tư lệnh Trương đưa đám người nhà trong đó có cả vợ mình lên xe đi ra ngoài, hắn vội vàng đi ra, tìm Kawa Hihara. Kawa Hihara vừa tiễn mọi người xong, quay vào trong nhà lấy chút đồ đạc rồi gọi một tên lính cùng đi. Vương Điền Hương thấy Kawa Hihara đi ra, cho rằng nhất định hắn sẽ sang bên này họp, bèn chạy ra nghênh đón. Nhưng Kawa Hihara không đi sang bên này, mà đi thẳng ra sân, làm Vương Điền Hương bồn chồn, không biết hắn đi đâu, làm gì. Vương Điền Hương đuổi theo, báo cáo với hắn, mọi người đang chờ trong phòng họp.
Kawa Hihara bảo: “Họp hành gì, tôi đang bận, để mai đi”.
Vương Điền Hương hỏi việc gì, Kawa Hihara không trả lời, chỉ nói: “Anh cùng đi với tôi luôn”.
Vương Điền Hương thấy Kawa Hihara xách trên tay túi đồ gì đó, hỏi hắn đi đâu. Kawa Hihara vẫn không trả lời, chỉ đáp: “Đi thôi”.
Hai người cùng đi ra ngoài, đi tới ven Tây Hồ. Trời bắt đầu tối, trăng vẫn chưa lên, ánh đèn trên đường Nam Sơn và đường ven hồ phía đối diện càng khiến cho Tây Hồ thêm tối hơn. Tối đen, chẳng giống mặt hồ, mà giống như một tấm màn trời đen kịt, rộng lớn mênh mông, tĩnh mịch. Trong bóng tối, Vương Điền Hương răm rắp đi theo sau Kawa Hihara. Kawa Hihara bước đi thật nhanh, cứ như ma vậy, tối om om mà vẫn bước nhanh thoăn thoắt.
Đi được khoảng hơn một dặm, Kawa Hihara mới dừng lại, đúng tại một ngôi mộ. Nằm ở ven hồ. Theo sóng nước, ngôi mộ dường như lắc lư, khiến cho người ta thoáng sợ hãi. Kawa Hihara cứ như được trở về nhà, ân cần đi vòng quanh ngôi mộ, phủi bụi bên này, dọn dẹp cỏ dại bên kia. Sau đó, hắn lấy đồ mang theo trong túi, mấy thếp tiền vàng, nến và chân nến, nhìn đúng là đi viếng mộ.
Vương Điền Hương không nén được liền hỏi: “Anh đi viếng mộ à?”.
Kawa Hihara ậm ừ trả lời: “Ừ!”.
“Đây là mộ ai ạ?”
“Một thiếu phụ trẻ tên là Phương Tử.”
“Anh quen cô ấy à?”
Kawa Hihara trầm ngâm một hồi, lạnh lùng nói: “Anh hỏi nhiều quá đấy”.
Sau khi viếng mộ xong, tâm trạng của Kawa Hihara có vẻ nặng trĩu, trên đường về không nói một lời, đi ngang qua nhà khách, còn chủ động đòi tạt vào uống rượu. Uống hàng mấy tiếng đồng hồ, khi trở về thì đêm đã khuya, say mèm, ánh trăng mờ tĩnh
lặng bao phủ bốn bề, lành lạnh, có vẻ như sương đang xuống. Kawa Hihara say đến nỗi lẫn lộn hết cả, chẳng biết rốt cục là sương mờ hay là ánh trăng nữa. Nhưng, trong trạng thái say bí tỉ, Kawa Hihara tự nhủ thầm, sương cũng được, ánh trăng cũng được, đều là dấu hiệu báo trước một ngày mai đẹp trời.
* * *
Ngày hôm sau đúng là trời đẹp thật, sáng sớm mặt trời đã treo lơ lửng trên sông Tiền Đường, ánh sáng xanh như một vầng trăng tỏ. Mặt trời buổi sớm không nóng, nhưng đầy sức sống. Những tia nắng sớm tựa như gió, như không khí luồn qua kẽ hở cửa sổ, xiên vào giường ngủ của Kawa Hihara, làm tan đi giấc mộng. Cho nên, tuy buổi đêm ngủ muộn, nhưng hắn vẫn dậy rất sớm. Sau khi tỉnh dậy, chỉ thấy toàn thân tê dại, không muốn nhúc nhích, chắc chắn là do tối qua uống nhiều rượu quá. Hắn không nhớ rõ hôm qua trong lúc say bí tỉ có chơi gái không, chỉ nhớ rất nhiều chuyện đã xảy ra tại đây mấy năm về trước. Thực ra Kawa Hihara rất thông thuộc Cầu trang, những năm trước… Nhưng đây là bí mật của hắn, hắn không nói với ai, kể cả Vương Điền Hương.
Vương Điền Hương còn dậy sớm hơn, sau khi dậy ở lỳ trong phòng nghe trộm bên cạnh để nghe ngóng động tĩnh của Kawa Hihara, vừa đợi hắn tỉnh dậy, Vương Điền Hương vừa xem lại những ghi chép băng ghi âm của tối qua. Ghi chép chưa đầy một trang. Như vậy là, mấy người bọn họ hầu như không nói gì. Nhưng cũng xuất hiện hai vấn đề:
Một là, sau khi họp xong, cuộc họp do Vương Điền Hương dàn xếp cho đám người nhà của bọn họ xem, Ngô Chí Quốc gọi riêng Cố Tiểu Mộng vào trong phòng, đề nghị cô thử nhớ kỹ lại. Ngầm ý muốn động viên Cố Tiểu Mộng chứng minh giúp mình quả thực không hề vào phòng làm việc của Lý Ninh Ngọc, nhưng đã
không đạt được mục đích. Xem phần ghi chép, Cố Tiểu Mộng chỉ nói một câu: Hãy tin tôi, Trưởng ban Ngô, tôi sẽ báo cáo sự thực với tổ chức. Lời lẽ đơn giản nhưng chứa đựng đầy ý nghĩa và cũng rất nghiêm túc.
Hai là, một lát sau, theo ghi chép cỡ khoảng 1 phút 41 giây sau, Cố Tiểu Mộng trở về phòng mình, kể lại ngay với Lý Ninh Ngọc việc Ngô Chí Quốc vừa nhờ cô nói hộ như thế nào. Vương Điền Hương rất muốn biết được phản ứng của Lý Ninh Ngọc, nhưng ghi chép không có đoạn nào của Lý Ninh Ngọc, chỉ có một câu khái quát: Lý Ninh Ngọc không nói gì. Người trực ban giải thích, lúc đó thực sự là Lý Ninh Ngọc không nói gì, chỉ ừ ừ à à mấy tiếng, liền gạt chuyện này đi và bảo Cố Tiểu Mộng đi đánh răng rửa mặt, thậm chí một lời cảm ơn cũng không nói.
Tình hình có lẽ là ở chỗ này đây: Thứ nhất Cố Tiểu Mộng vì sao lại tốt với Lý Ninh Ngọc như vậy, sẵn sàng vì cô ấy mà bán đứng Trưởng ban Ngô; thứ hai Lý Ninh Ngọc biết rõ Cố Tiểu Mộng tốt với mình như thế, lại không hề có một lời cảm ơn, cảm giác như giữa hai người này rõ ràng có mối quan hệ riêng thế nào đó, có một số điều không cần nói ra, nhưng vẫn hiểu, như là thần giao cách cảm vậy. Nghĩ đến Lý Ninh Ngọc với dáng vẻ đứng đắn, lạnh lùng và ngạo mạn, Vương Điền Hương lại nghĩ vẫn còn quá sớm để phán đoán như vậy. Làm việc trong cùng một tòa nhà, bình thường ra vào gặp nhau, Vương Điền Hương cũng hiểu được ít nhiều về tính cách của mỗi người. Nhất là với Lý Ninh Ngọc, hai người đã từng có một xích mích nhỏ, khiến cho hắn cảm nhận rất rõ cái gọi là đức tính không nịnh bợ, lạnh lùng và ngạo mạn của Lý Ninh Ngọc. Đó là việc xảy ra năm ngoái, nói ra thì thật là buồn cười, có một hôm hắn và Lý Ninh Ngọc cùng chung xe ra ngoài làm việc, Lý Ninh Ngọc mua rất nhiều đồ văn phòng phẩm cho cơ quan, hắn giúp Lý Ninh Ngọc chuyển đồ lên xe, tiện tay lấy luôn một quyển sổ, như kiểu là thợ vẽ ăn hồ vậy.
Chuyện cỏn con, hai người cùng ra ngoài làm việc công, người ta có này nọ một chút thì mình cũng cứ cho qua đi, có gì là to tát đâu. Ấy vậy mà Lý Ninh Ngọc làm to chuyện lên kiên quyết không cho, khiến cho Vương Điền Hương rất khó xử.
Đối với một người như vậy, dựa vào những gì hiện có, Vương Điền Hương cảm thấy chẳng thể phán đoán được gì, cũng giống hắn chẳng thể vì một xích mích nhỏ giữa hai người để phán đoán trước đây họ thù hằn nhau ghê gớm lắm. Thực ra, trước đây giữa hai người chưa bao giờ có thù hận gì, không yêu cũng chẳng ghét, không thân cũng chẳng sơ, chỉ là quan hệ đồng nghiệp thông thường. Khách quan mà nói, trước khi xảy ra va chạm, Vương Điền Hương cũng khá có thiện cảm với Lý Ninh Ngọc, hay ít nhất là không đến nỗi ghét. Sau đó thì Vương Điền Hương mới bắt đầu thấy ghét cô, còn vụng trộm nói xấu cô là nghiêm túc rởm. Nói thì nói vậy, nhưng nếu dùng cái đó để đưa ra phán đoán thì cũng không dám. Hiện giờ chỉ có thể nói rằng: Cố Tiểu Mộng có vẻ có cảm tình và hơi thiên vị Lý Ninh Ngọc mà thôi.
Vương Điền Hương quyết định báo cáo tình hình này với Kawa Hihara, để hắn phân tích và quyết định.
Kawa Hihara nghe chưa xong vài câu đã xua tay, dừng lại. Kawa Hihara không hứng thú lắm. Hắn nói: “Anh cứ nghe lời tôi đi, làm theo tôi nói”. Hắn nói ba điều: Thứ nhất bảo Vương Điền Hương qua ngay bên kia, đưa bọn họ đi ăn sáng; thứ hai bảo với bọn họ, Kawa Hihara tối qua vào thành phố rồi, đến giờ vẫn chưa về mà cũng không biết lúc nào về; thứ ba thông báo với Thư ký Bạch bảo anh ta ăn sáng xong thu xếp để mọi người nói chuyện tại phòng họp tầng dưới. Hắn nói từng việc một.
Nói chuyện gì đây?
Đương nhiên là Lão Quỷ rồi ‐ Nhưng ai là Lão Quỷ?
Kawa Hihara nói: “Tự thú cũng được, tố giác cũng được, mỗi người đều phải nói ra một Lão Quỷ. Đây là yêu cầu, nguyên tắc là cứ nói thoải mái, không được né tránh, có thể nói thoải mái, nói sai cũng không bị truy cứu, không ghi vào hồ sơ. Không được phép đưa chuyện, càng không được trả đũa nhau. Nhưng cũng không thể viện cớ này nọ, hoặc dùng cách này cách khác để đùn đẩy không nói”.
Nói cho cùng, điều quan trọng không phải là nói gì, mà là phải nói, phải tỏ rõ thái độ, ai cũng phải nói, ai cũng phải lên tiếng.
Hiển nhiên là Kawa Hihara đẩy Thư ký Bạch lên sàn diễn để hò hét kêu gọi, còn mình thì nấp ở sau cánh gà lạnh lùng bàng quan, nhưng ngấm ngầm quan sát.
L
CHƯƠNG BỐN
ão Quỷ tối qua suốt đêm không ngủ, thật là một ngày sợ hãi kinh khủng, lo sợ xua tan cơn buồn ngủ của mình. Lão Quỷ nghe tiếng gió thổi suốt đêm. Ánh mắt của Lão
Hán như một ngọn đèn treo trước mặt, không biết bao nhiêu lần khiến Lão Quỷ hoa mắt chóng mặt, khiếp vía kinh hồn, dường như người mình đã tan ra thành muôn tia sáng, tan theo mây gió.
Lão Hán chính là bà Hai, khi Vương Điền Hương đưa cô đến phòng họp, Lão Quỷ bất chợt hiểu ra nguồn cơn cơ sự. Lão Quỷ không sợ Lão Hán nhận ra mình, bởi vì Lão Quỷ biết rất rõ cô ấy không biết mình. Kể cả có biết chăng nữa, Lão Quỷ cũng tin tưởng Lão Hán sẽ không bán đứng mình. Lão cũng nhiều lần nghe các đồng chí khen ngợi Lão Hán, vì cách mạng, vì kháng Nhật cứu nước, Lão Hán coi vinh hoa phú quý của bản thân như cỏ rác, thậm chí gạt danh dự là thứ phụ nữ coi trọng nhất sang một bên. Tóm lại, đây là một đồng chí tốt, đặt lợi ích cách mạng lên trên hết. Vấn đề không nằm ở chỗ lão tin tưởng Lão Hán như thế nào! Vấn đề là làm sao mình có thể thoát ra được? Để đưa thông tin ra bên ngoài! Vấn đề này cũng giống như ánh mắt của Lão Hán vậy, cứ treo lơ lửng trước mắt, khiến lão không thể thoát ra được. Nó vẫn hiển hiện rõ nét ngay cả khi nhắm mắt lại! Lão cứ như vậy vượt qua một đêm dài dằng dặc, khi ánh bình minh buổi sớm chiếu vào cánh cửa sổ bằng kính, lão buồn bã nghĩ, có lẽ mình sẽ lại phải đón một ngày mới dài vô tận.
* * *
Ngô Chí Quốc là người đầu tiên được Thư ký Bạch mời riêng vào phòng họp để nói chuyện, anh ta không biết phía đối diện có đặt máy nghe trộm, Thư ký Bạch cũng không hay biết. Đầu tiên anh ta chửi ầm lên, chửi từ trên xuống dưới, điểm mặt chỉ tên mà chửi. Trước tiên là Lý Ninh Ngọc, chửi cô hai mặt, mặt trước là Cộng sản, còn mặt sau là Tư lệnh Trương. Sự cả tin của Tư lệnh Trương cũng khiến cho anh ta vô cùng tức giận, khi tức giận thì khó tránh được những lời nói thậm tệ khiến đối phương bị tổn thương. Ai mà biết được đấy chỉ là ngụy trang hay là như thế nào? May mà Tư lệnh Trương không có ở đó nên không nghe được.
Kawa Hihara và Vương Điền Hương nghe rất rõ. Thời tiết đẹp, trời nắng, không mưa, cũng không có gió, đường dây cũng không hề bị nhiễu, mỗi âm thanh đều được truyền tới rõ ràng và thông suốt, đầy đủ, không bị ngắt quãng, khiến cho hai con người đầy mưu ma chước quỷ, một chủ một tớ, một Nhật một ngụy, mặc dù ở xa trăm mét mà ngỡ gần trong gang tấc, như là đang có mặt tại hiện trường, đang gặp gỡ những người trong cuộc.
Dưới sự chỉ dẫn và khuyên bảo của Thư ký Bạch, cuối cùng thì Ngô Chí Quốc cũng bình tĩnh lại, bắt đầu kể lại ngọn ngành việc chiều hôm kia đã cùng với Lý Ninh Ngọc rời khỏi phòng làm việc của Cố Tiểu Mộng thế nào, sau đó ở ngoài hành lang nói với Lý Ninh Ngọc chuyện gì, toàn mấy chuyện nhỏ vặt vãnh, xong rồi hai người chia tay, anh ta không hề vào phòng làm việc của Lý Ninh Ngọc v.v… Cuối cùng, anh ta khẩn khoản nói với Thư ký Bạch:
“Anh cứ nghĩ mà xem, ngay cả phòng làm việc của cô ta tôi cũng không vào, làm gì có chuyện cô ta nói với tôi về bức điện mật. Đây hoàn toàn là bịa đặt, vu khống! Tôi không cần phải có
chứng cứ gì khác, chỉ dựa vào việc cô ta vu khống cho tôi đủ để khẳng định cô ta chính là Cộng sản. Vì sao cô ta phải vu cáo cho tôi? Rõ ràng là muốn tung hỏa mù để thoát thân thôi.”
Đúng là, đối mặt với vấn đề ai là Lão Quỷ, vấn đề then chốt, vấn đề nhạy cảm, Ngô Chí Quốc không hề do dự và lẩn tránh, nhất nhất khẳng định là Lý Ninh Ngọc, lý do là bởi cô ta vu cáo anh ta!
Trong phòng nghe trộm, sau khi nghe những gì Ngô Chí Quốc nói, Kawa Hihara quay qua Vương Điền Hương bên cạnh ra chiều suy tư nói: “Anh ta nói có lý. Nếu anh ta có thể tìm được người làm chứng cho việc anh ta thực sự không vào phòng làm việc của Lý Ninh Ngọc, vậy thì chúng ta có thể khẳng định Lý Ninh Ngọc chính là Lão Quỷ”.
“Nhưng anh ta đến giờ vẫn chưa tìm được người làm chứng mà.” Vương Điền Hương nói một cách hết sức nghiêm túc, cứ như là sợ nếu không nói ra thì ông chủ của mình quên mất sự thật này.
“Đúng vậy”, Kawa Hihara nói, “cho nên tất cả những gì anh ta nói chẳng có nghĩa lý gì cả”.
Thì ra là Kawa Hihara đang cười nhạo Ngô Chí Quốc.
Vương Điền Hương cũng cười theo nói: “Kể cả việc anh ta chửi Tư lệnh Trương”.
Kawa Hihara cười thích thú: “Đúng vậy, chúng ta đã có quy định trước là không được đưa chuyện mà lại”.
* * *
So với bầu không khí nói cười vui vẻ ở ngôi nhà đối diện, thì bên này không khí quả thực là nặng nề. Ngô Chí Quốc tức tối bước
ra, Kim Sinh Hỏa lặng lẽ bước vào.
Kim Sinh Hỏa tướng mạo giống hệt như lợn, trán ngắn, miệng rộng, mắt ti hí, mũi củ tỏi, bụng phệ. Con người mà tướng đích thị là một con lợn. Nhưng tục ngữ có câu, mặt có tướng xấu, tâm trí trong sáng, biết ai hơn ai? Trong tất cả bọn họ, anh ta là người nhiều tuổi nhất, đã qua tuổi trung niên và cũng là người từng trải nhất. Trong cơ quan, anh ta nổi tiếng với biệt danh người ba phải, ít thị phi, thường hay nhún nhường. Vì vậy, có khi bợ đỡ dung tục cũng có thể tha thứ được. Bởi vì, biểu hiện của anh ta luôn khiến cho người khác giữ được thể diện và cảm thấy hư vinh. Hình như anh ta cũng đã quen với việc làm thân con lợn, vừa mới vào, Kawa Hihara đã nghe thấy tiếng anh ta không ngớt tố khổ với Thư ký Bạch.
Kim Sinh Hỏa: Ầy, đúng là đen đủi hết chỗ nói, đụng ngay phải vụ này. Xem ra cái chức trưởng phòng của tôi cũng tận số rồi.
Thư ký Bạch: Đâu đến nỗi ấy. Nếu anh lôi ra được Lão Quỷ, chẳng phải đã lập công lớn sao. Có công tất có thưởng, chưa biết chừng còn được thăng quan ấy chứ.
Kim Sinh Hỏa: Thư ký Bạch, anh nói đi, rốt cục ai là giặc Cộng sản… Các anh hiện giờ đã có manh mối gì chưa?
Thư ký Bạch: Điều này phải hỏi anh chứ. Kim Sinh Hỏa: Ầy a, tôi… đâu có đứng cao, nhìn xa được như anh.
Thư ký Bạch: Anh Kim, anh nhầm rồi, đây không phải là nhìn xa, mà là nhìn rõ. Tất cả có bốn người, một là bản thân anh, hai người kia là cấp dưới của anh, anh bảo ai đứng gần hơn, nhìn rõ hơn.
Kim Sinh Hỏa: Ấy, Thư ký Bạch, lẽ nào ngay cả tôi anh cũng không tin?
Thư ký Bạch: Anh Kim, không phải tôi không tin anh. Đây là thực tế, anh thấy tình hình như vậy đấy, thế nào cũng phải có một hồi kết chứ.
Kim Sinh Hỏa: Cái khó là ở chỗ không có hồi kết. Thư ký Bạch, nói thực, nếu tôi biết, nhất định tôi sẽ mách anh, cái khó là ở chỗ…
Kawa Hihara thậm chí còn nghe thấy tiếng lắc đầu rõ mạnh của Kim Sinh Hỏa.
Gật đầu là hết cách, vô tội, đau khổ, không biết nói sao… Đối diện với vấn đề xưa như trái đất của Thư ký Bạch: Ai là Lão Quỷ, anh ta lại càng chẳng biết nói sao, hết nhăn mặt rồi thì chỉ biết ừ ừ à à, không nói, cũng không tỏ thái độ. Không tỏ thái độ hình như cũng không phải là biết mà không báo, mà là không biết gì để mà báo. Anh ta thậm chí không nén nổi nghẹn ngào, chứng tỏ trong thâm tâm anh ta không biết và cũng hết cách, hy vọng Thư ký Bạch sẽ thông cảm cho anh ta, giúp anh ta vượt qua được khó khăn này.
Nói thực, bất kể là Thư ký Bạch, hay người ở đầu dây bên kia là Vương Điền Hương nhìn thấy nghe thấy cái dáng vẻ khóc dở mếu dở của anh ta, trong lòng đều hy vọng anh ta không phải là Lão Quỷ, cũng hy vọng anh ta qua được vụ này. Nhưng để qua được vụ này, anh ta không thừa nhận mình là Lão Quỷ thì cũng phải chỉ ra một trong số ba người còn lại ai là Lão Quỷ, cho dù là nói bừa đi chăng nữa. Đây là nguyên tắc do Kawa Hihara đặt ra, nên Thư ký Bạch đã nói với anh ta:
"""