"
Phố Academy - Mary Costello full prc pdf epub azw3 [Lãng Mạn]
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Phố Academy - Mary Costello full prc pdf epub azw3 [Lãng Mạn]
Ebooks
Nhóm Zalo
ebook©vctvegroup 15-05-2019
Kính tặng Mẹ Ann cùng các dì Carmel và Clare
Giữa sâu thẳm mùa đông sau cùng tôi hiểu ra trong tôi có một mùa hè bất diệt.
– ALBERT CAMUS –
PHẦN 1
1
T
rời đã xế bóng và cửa sổ mở hé. Có nhiều giọng nói lao xao nơi sảnh trước, tiếng bước chân hối hả lên xuống cầu thang rồi theo hành lang sau vào bếp. Chốc chốc Tess lại nghe sỏi bên ngoài lạo xạo, tiếng chuông kêu đánh coong lúc một cái xe đạp dựa vào tường. Trước đó có một chiếc ô tô theo con đường chính diện trước nhà chạy vào sân, và nhiều cỗ xe với lũ ngựa kéo hí vang khi bị giật cương bắt dừng. Tess mặc váy đẹp, đi giày đẹp, ngồi trên sàn phòng ăn. Qua mấy khung cửa sổ cao vút, nắng đang tuôn vào phòng, đổ xuống sàn, ghế sofa, lò sưởi đá hoa cương. Bé ngửa mặt cảm nhận hơi nắng ấm.
Suốt hai ngày qua, nhiều người đến rồi đi và lúc này có một thứ gì đang cận kề. Tess ước mọi người hãy về nhà họ để nơi đây yên tĩnh trở lại. Mùa hè đã qua rồi. Ngày nào lá cây cũng rụng và bị gió cuốn dọc theo con đường trước nhà. Bé hình dung những vốc lá bị thổi bay vào tận sân, qua cả nhà để xe ngựa, phía dưới vòm cuốn xây bằng đá. Mới tảng sáng Tess đã ra vườn, đứng bên trong bờ tường bao cao ngất. Lúc ấy trời lạnh cóng. Cây lê đứng lẻ loi. Tess bước dưới những cây táo. Lượm một trái ủng vàng đưa lên ngửi, bé nhớ đến gian chứa táo với những quả táo nằm trên lớp báo lót sàn, đang ngả vàng.
Tess ngả lưng nằm xuống thảm, ngước trông các hình in trên lớp giấy dán tường. Adam và Eve trong Vườn Địa Đàng. Mẹ đã kể bé
nghe tích này. Tess nhặt ra từng màu - lục thảm, xanh lơ, đỏ - rồi đưa mắt lần theo dây tầm xuân bò lan khắp mặt giấy dán tường, bao phủ bốn bề quanh Adam và Eve. Không một mảnh vải, cả hai chỉ che thân bằng mấy cái lá. Mặt Eve mang vẻ sợ sệt. Nàng vừa phát giác ra con mãng xà. Mãng xà nghĩa là rắn, mẹ bảo thế. Cây táo sau lưng Eve đã già, thân còng, như đám cây trong vườn cây ăn trái.
Tess cảm giác có thứ gì trong phòng. Một tiếng rít và chút gió thoảng qua. Tess ngồi dậy, chớp chớp mắt. Một con chim đen vừa bay vào. Chim lượn vòng vòng còn bé mỉm cười, kinh ngạc, giang tay chào đón. Con chim đậu lên nóc tủ kính, ngó bé bằng một mắt. Nó lại bay tới đậu lên hộp gỗ đựng rèm cửa. Chim bắt đầu mổ mổ vào một chỗ trên tường. Tess nín thở. Bé lắng nghe tiếng mỏ chim tép-tép, tiếng soạt mong manh, một dải nhỏ giấy dán tường bong ra và con chim ngậm băng giấy nhang nhác nhành cây đó cất cánh lượn mấy vòng rồi thoát qua cửa sổ. Tess trố mắt nhìn theo, ngỡ ngàng.
Cửa phòng bật mở và đầu chị Claire ló vào. “Hóa ra em ở chỗ này đấy hả? Tess! Kìa, nhanh lên!”
Có chuyện sắp xảy ra. Hai cô chị Evelyn và Claire đã từ trường nội trú trở về. Tess yêu quý chị Claire cũng nhiều như yêu mẹ, hoặc như yêu con Thủ lĩnh. Nhiều hơn yêu chị Evelyn, Maeve, hay cả bé út nữa. Nhiều bằng yêu Mike Connolly, chú người làm.
Cửa phòng lại bật mở, và chị Claire cuống quýt chìa tay ra cho Tess nắm. Sảnh trước người lố nhố, chờ đợi. Cửa chính mở toang,
bên ngoài cũng có nhiều người nữa. Tess có thể nghe sỏi lạo xạo dưới chân họ cùng tiếng rì rầm trò chuyện. Bé đưa mắt nhìn gương mặt các cô, dì, anh chị em họ, hàng xóm láng giềng. Cô giáo Snee mỉm cười với bé. Claire kéo Tess sát vào mình - hiện cả hai đang đứng cạnh dì Maud - rồi nắm chặt tay em, cúi đầu. Bỗng dưng Tess thấy sợ.
Có tiếng bước chân nặng trịch ở đầu cầu thang tầng trên và tất cả nhất loạt im bặt. Bên trên vọng xuống nhiều giọng đàn ông, thì thào song gấp gáp. Tess thầm nghĩ trên tầng hẳn đông lắm tuy nhiên ngước lên bé chỉ thấy các bóng người cùng bờ vai sau hàng lan can cầu thang. Tess thở dài. Bé sắp sửa cần vào nhà vệ sinh. Bé cúi nhìn đôi giày mới tinh của mình. Giày cùng tấm váy màu xanh lá Tess đang mặc đều mua ở cửa hiệu nhà Brigg trong thị trấn vào dịp trường cho học sinh nghỉ học. Hôm ấy mẹ bé cũng sắm cho mình đôi giày mới. Với cả một chiếc váy xanh lơ. Mẹ đã cúi xuống buộc dây giày cho bé và Tess đặt bàn tay lên đầu mẹ, trên mái tóc mềm.
Dải cầu thang mềm mại dẫn ngược lên rồi vòng sang phải và ở góc lượn này, gần cánh cửa sổ lắp kính màu, hiện ra tấm lưng ông bác Tess. Ánh sáng đang tuôn vào. Tim Tess bắt đầu đập dồn. Bé thấy lưng một người láng giềng, Tommy Burns, cùng một ông bác khác của bé, đang chật vật gắng sức. Rồi bé chợt hiểu. Ngay khi thấy cỗ áo quan, bé hiểu ra. Linh cữu đang ở khúc quanh cầu thang và ánh dương chiếu vào nó. Mặt trời phủ sáng lên áo quan, khiến lớp gỗ, sáng rực lên và đẹp ra, có màu vàng, đỏ, cam giống màu
kính cửa sổ. Mấy cái tay cầm mạ vàng lấp lánh. Đẹp ghê, bé thích thú nhủ thầm. Tess nhắm mắt lại. Bé cảm nhận mẹ ở ngay đâu đây. Mẹ đang chìa một tay ra, đang cười mỉm với bé. Tess có thể cảm nhận những ngón tay mẹ vuốt ve mặt mình. Toàn thân mẹ đều thuộc về bé - khuôn mặt, mái tóc dài, cái miệng, tất cả đều của bé. Có ai đó húng hắng ho và Tess mở choàng mắt.
Tốp đàn ông gần tới chân cầu thang và linh cữu dốc xuống, trĩu nặng. Bé nơm nớp nó sẽ bị rơi. Cha và anh Denis giờ ở đằng sau, đang góp sức khiêng. Tess cúi nhìn sàn, bấm mạnh các đầu ngón chân xuống đế giày để đứng cho yên. Bé muốn chạy lên mấy bậc cuối, mở nắp cỗ áo đưa mẹ ra. Bé lại ngó mấy tay cầm, cùng các cây thánh giá nhỏ xíu ở trên. Bé gắng đếm chúng. Có một cây thánh giá to tướng màu hoàng kim trên nắp áo quan. Tối qua, lúc em họ Kathleen đưa bé đi ngủ, cả hai bước ngang phòng mẹ. Các cửa chớp đã đóng im ỉm và nhiều ngọn bạch lạp được thắp lên. Trong phòng có nhiều người, láng giềng cùng quyến thuộc, đứng ngồi hoặc dựa vào tường, ai nấy đều đọc kinh Mân Côi. Bé khom người ngó nghiêng qua đám đông nhưng không sao thấy được mẹ. Chỉ nom được mỗi tủ gỗ sậm màu, bồn rửa tay cùng tấm gương lúc này đã bị che bằng mảnh vải đen. Và cái nắp gỗ có cây thánh giá màu hoàng kim với ánh bạch lạp nhảy múa bên trên đang để dựa vào tường, dựa vào mấy khóm hoa hồng của giấy dán tường. Người ta đã đặt cái nắp lên người mẹ bé. Bé ngước nhìn Claire, định nói, nhưng chị khẽ “suỵt” rồi siết tay Tess thêm chặt. Một bầu không khí câm lặng phủ xuống gian sảnh. Tess ngoảnh qua, thấy cái chiêng đồng to mà bé và chị Maeve thỉnh thoảng vẫn chơi, giờ
đang đặt cạnh tường. Tess muốn với cái dùi gõ mạnh vào chiêng. Linh cữu đang bò ra cửa chính. Nhóm người khiêng đặt nó xuống hai chiếc ghế để nghỉ chốc lát. Khi họ nhấc lên, tất cả lục tục bước theo và cỗ áo quan đi qua cánh cửa mở rộng vào vùng sáng mặt trời. Trên bãi sỏi có một cỗ xe tang màu đen cùng cả ngàn khuôn mặt đang hướng vào họ. Cánh đàn ông khiêng quan tài vòng ra sau xe, đẩy nó vào qua cánh cửa mở sẵn, như nhét vào một cái mồm há hốc. Maeve bắt đầu nức nở và Claire bước lại chỗ em. Tess quay qua thấy chú Mike Connolly ở rìa sân, con Thủ lĩnh dưới chân. Tay chú cầm mũ. Tess nghĩ chú Mike đang khóc. Ai cũng khóc, nhưng bé lại không. Tess ngước lên thấy con chim đen, giờ đậu trên cây nguyệt quế, đang chăm chăm nhìn mình. Mi là đồ kẻ cướp, bé muốn hét lên, mi làm rách giấy dán tường của mẹ tao và giờ mẹ chết rồi đây này. Tess phóng mắt qua dãy rào trắng bao quanh bãi cỏ, mấy thửa ruộng thoai thoải và điểm khai thác đá lộ thiên, tới tận rặng cây đằng xa. Có tiếng cửa xe tang đóng sập khiến bé giật mình. Tess nhìn quanh, không biết làm sao. Vầng dương xế bóng khiến bé chẳng còn thấy gì. Mọi thứ đều loa lóa, chói sáng quá: cây nguyệt quế và bãi cỏ cùng lớp rào trắng, cỗ xe tang với mặt sỏi và con chim đen.
Xe tang khởi hành, mọi người cất bước theo. Ô tô của ông bác bé nối đuôi phía sau rồi tới lũ ngựa, những cỗ xe ngựa chở khách, hàng xóm láng giềng, các xe đạp. Chị Claire quay lại, cúi sát xuống. “Vào nhà đi Tess. Em và Maeve, hai đứa ở lại với Kathleen nhé”.
Kathleen nắm tay dẫn Tess cùng Maeve vòng qua hông nhà,
theo mấy bậc thềm xuống khoảnh sân nhỏ. Trước khi tới cửa sau, Tess vùng chạy ngược lại qua bãi sỏi, thảm cỏ, ra tận ngoài cánh đồng. Trên một gò đất, Tess kiễng chân phóng mắt nhìn cỗ xe tang đang lăn bánh trên con đường trước nhà rồi rẽ lên phố. Nó đi men bức tường đá bao quanh địa phận nông trại của cha, đám đông cùng ngựa nghẽo, xe chở khách nối đuôi đằng sau. Chốc chốc cây lá hoặc tường rào chắn mất tầm nhìn nhưng Tess vẫn dõi theo, chờ đợi mái đen xe tang, lấp lóa dưới mặt trời, xuất hiện trở lại trong tầm mắt. Chiếc xe di chuyển chậm lại, ngoặt trái vào đường nhà nguyện, và tất cả rồng rắn đằng sau, như những bóng đen. Rồi họ dần khuất dạng.
Tess vẫn đứng trông theo cho tới lúc cái bóng cuối cùng nhòa dần và chỉ còn lại mình bé. Mẹ đã đi mất. Mẹ của Tess đi xa rồi. Bé thoáng mệt và chuếnh choáng bởi bầu trời bao la trên đầu. Bé cảm thấy mặt đất dưới chân sụp xuống - thảm cỏ; cánh đồng và gò đất đang trượt ra xa, đến khi bé bị bỏ mặc bơ vơ nơi đỉnh gò trơ trụi. Giống Đức Mẹ trong bức tranh ở nhà thờ khi Người được tiếp rước lên Thiên Đường từ một đỉnh núi. Có lẽ Tess, ngay phút giây này đang được rước lên Thiên Đường. Bé hầu như không thở nổi. Tess ngoảnh về phía vầng mặt trời đã xuống thấp, nhắm mắt và chờ đợi. Xin hãy rủ lòng thương. Bé chờ khuôn mặt mẹ hiện lên, chờ một cánh tay chìa ra. Toàn bộ cơ thể Tess nhướn lên, khao khát được mặt trời chạm vào, được gió nâng lên, bầu trời mở ra và cõi Thiên Đường kéo bé vào.
Lúc mở mắt Tess vẫn ở trên cánh đồng của cha, và cạnh đó vài mét, là lũ bò, năm, sáu con, đang hướng mấy cái mặt to bè nhìn bé
chằm chằm bằng cặp mắt ủ dột. Mặt đất lại nằm dưới chân bé, cả thảm cỏ xanh, hết thảy vẫn bất di bất dịch. Bé nhìn quanh, phấp phỏng, ngượng ngập. Tess cất bước quay về nhà. Bé chạy ào vào sân, tìm trong kho chứa, nhà để xe ngựa, dãy chuồng ngựa. Tess thò đầu vào gian chứa khoai tây đen ngòm, sặc mùi ẩm mốc gọi to, “Mike ơi, Mike ơi, chú ở đó hả?” đoạn chờ đợi, nghe ngóng. Khắp nơi lặng như tờ. Chỉ lát nữa thôi trời sẽ tối. Tess nghe xa xa có tiếng động cơ. Một chiếc ô tô đang rẽ từ phố xuống con đường dẫn vào nhà. Tess đứng chờ nó xuất hiện trên sân. Tim bé đập thình thịch. Bé thầm nghĩ hẳn đấy là cỗ xe tang quay trở lại. Với mẹ ngồi trên ghế trước, đang mỉm cười, và phía sau là linh cữu mở toang, trống rỗng - để sửa chữa một sai lầm tệ hại. Họ đã tới nhầm nhà. Họ đã mang đi nhầm người - nhẽ ra phải là cụ bà Geraghty sau làng mới phải.
Nhưng chạy vào sân không phải xe tang, là xe của cô Tannian, người hướng dẫn chăn nuôi gia cầm. Cô bước xuống trong trang phục tuýt-si xanh lá, giày da bóng. Và mái tóc hung, giống tóc mẹ. Ráng chiều ửng hồng và khi cô Tannian bước lại chỗ Tess, những tia nắng cuối ngày rọi sáng cô từ đằng sau. Cô bảo Tess rằng cô rất lấy làm tiếc và buồn. Tess vùng ra, cắm đầu chạy dọc rìa sân, qua vòm cuốn bằng đá về phía mảnh vườn. Hai cánh cổng sắt lớn đang để ngỏ và bé lao vụt vào trong, đứng dưới bóng cây. Các cây táo đã đen ngòm, những cành thấp cong queo nhang nhác vạt váy mấy bà cụ. Cặp mắt đen láy của Tess đảo nhìn tứ phía, lướt dọc bốn bờ tường sừng sững. Và bé thấy chú Mike Connolly đang ngồi trên một gốc cây già đã bị đốn bỏ ở tít cuối vườn, đầu gục xuống, con Thủ
lĩnh ở bên. Ngay khi thấy Mike, nước mắt bé trào ra. Tess chạy ào tới, đổ sụp dưới chân chú, bắt đầu nức nở.
Khi mọi người quay về thì trời đã tối hẳn. Dì Maud với chồng, chú Frank, và mấy dì cùng các người em họ sống ở Dublin lũ lượt kéo vào bếp. Các ngọn đèn măng xông Tilley được thắp lên. Có đủ thứ ngon lành trên các ngăn chạn bếp, bánh nướng, bánh mì ngọt cùng bánh quy. Bà Glynn, người bế em bé mang về nhà mình giữ hộ cũng có mặt. Bà giúp các chị của Tess dọn trà và bánh kẹp cho khách, cũng như rót whisky cho cánh đàn ông. Cha ngồi lặng trên ghế. Anh Denis cúi gằm. Tess muốn leo lên lòng anh như vẫn thường làm hồi còn bốn tuổi. Mọi người đang đề cập đến em Oliver. Dì Maud bảo sẽ đưa thằng nhỏ đi.
“Cách ấy là hay nhất,” dì nói.
Cha không hé môi.
“Chỉ một hay hai năm thôi”, dì Maud tiếp. “Và anh chắc hẳn sẽ chạy qua chạy lại chỗ chúng em, còn Kathleen có thể bế cháu về chơi với các chị vào Chủ nhật”. Dì nhìn quanh bàn. “Việc này giải quyết vậy đi. Mà đó chẳng phải điều chị muốn hay sao?”
“Đúng, quả chị cô muốn vậy”. Cha cuối cùng cũng đáp.
Tess lên sảnh trước, kéo một cái ghế đẩu để đứng mở cửa. Bên ngoài tối đen như mực. Bé ngồi xuống bậc tam cấp, khoanh tay trước ngực. Tess có thể thấy lờ mờ cây nguyệt quế trên bãi cỏ. Bé nhớ ngày ngày khi cùng chị Maeve tan trường về, dưới bóng cây sáng lóa ấy, mẹ thường ngồi khâu với một cái khăn phủ kín đầu gối, còn Oliver nằm trong nôi kề bên. Đôi bận mẹ gục đầu xuống, ngủ
gật. Oliver mới ra đời chưa bao lâu và cũng đang ngon giấc. Tess sẽ chạy lại, ngó vào nôi và hít hà mùi trẻ sơ sinh. Mái tóc dài của mẹ được vấn lên sau đầu. Rồi khi mẹ ho rũ rượi, búi tóc xổ bung ra. Một lần có máu trên khăn tay mẹ. Lúc ốm nằm trên giường, tóc mẹ xòa ra. Tuần trước, mẹ đã hôn lên trán bé khi Tess được đưa vào phòng mẹ. Tuy nhiên khi bé đưa tay nghịch tóc mẹ và nằm xuống bên cạnh thì Evelyn liền bảo, thôi nào không được đâu cô mày, đoạn chị lôi Tess đi.
Tess còn chưa uống trà. Bé tự hỏi giờ ai đang pha trà. Tess thèm một quả trứng luộc và ưa ăn bánh bông lan nhân nho khô phết bơ. Tess thích những lúc mẹ đứng cạnh cha, bên bàn ăn, nghiêng ấm rót cho chồng một tách trà. Có lần cha sờ mông mẹ còn Tess cùng các chị vờ như không thấy. Tối nay mẹ nằm trong quan tài của mình ở nhà nguyện. Chúa hẳn sẽ sớm thả chiếc dù bằng vàng của mình xuống - việc này có thể xảy ra vào bất kỳ lúc nào - khi Người đã sẵn sàng mang mẹ lên Thiên Đường. Đó là cách bé, Tess, và mấy chị em đã tới trái đất. Mẹ từng kể với bé rằng hồi mẹ và cha muốn có một đứa con, mẹ đã tới nhà nguyện cầu xin, và Đức Chúa, nghe thấy những lời nguyện cầu, liền tạo ra trong dù vàng một em bé đoạn để chiếc dù có đứa trẻ béo tốt, tươi tắn, đang vui vẻ o e, bay xuống vòng tay ngóng đợi của mẹ.
Tess tháo giày, ngước lên bầu trời đen kịt và bắt đầu ngân nga khe khẽ. Bé chẳng rõ liệu có chuyện dù vàng thực sự đưa người lên lại Thiên Đường hay không. Đấy chỉ là một phỏng đoán. Tess tự hỏi có phải phút giây này mẹ đang đi con đường của mình, trên bầu trời tối mịt, giữa các vì sao lạnh lẽo. Lòng bé dậy lên chút âu lo. Tess cúi
nhìn đôi bàn tay. Bé cạy vết bỏng cũ trên ngón cái, dứt được một mẩu da và nhấm nhấm nó. Bé còn nhớ lần bị bỏng. Ngày ấy Oliver thậm chí chưa ra đời còn bé cũng chưa đi học. Tess cùng mẹ đi ra cho đàn gà mái ăn. Tặc, tặc, tặc, hai mẹ con gọi rồi vào chuồng vịt, chuồng gà nhặt trứng. Mẹ xách một cái xô còn bé bưng cái hộp sắt tây nhỏ. Tess muốn được giống y như mẹ. Hôm ấy, mỗi bận mẹ để vào giỏ một quả trứng thì bé cũng muốn được bỏ một quả vào hộp của mình. Bé bắt đầu thút thít, nhưng mẹ bảo, con xem này, xem này, rồi nhặt ba viên đá đẹp long lanh bỏ vào hộp của Tess lắc lanh canh. Sau đó mẹ tất tả chạy vào nhà sợ bánh mì bị quá lửa. Hấp tấp lao theo, nhưng Tess bắt gặp một viên cuội đáng yêu đang lấp lánh trên mặt đất nên dừng lại nhặt bỏ vào hộp đoạn hộc tốc băng qua mảnh sân nhỏ, vừa chạy vừa gọi mẹ để thông báo về viên cuội mới của mình. Bị vấp ở cửa sau và nhào từ bậc thềm xuống bếp, Tess loạng choạng ngã vào đống lửa. Mẹ thét lên, buông rơi cái chảo, cuống cuồng ẵm Tess chạy ngang qua bếp bỏ bé vào chậu nước màu trắng to tướng. Sau đó, khi thuật lại cha nghe, mắt mẹ rớm lệ. Hai bàn tay nhỏ xíu của nó bị bỏng hết mình ạ, mẹ kể rồi lau nước mắt. Tess gắng gượng chỉ cho cha xem mấy viên cuội song đôi tay bé đã bị băng kín mất rồi.
Sáng hôm sau, ai cũng vận đồ đen tham dự lễ tang. Tess và Maeve ở nhà với chú Mike Connolly. Bàn phòng ăn được bày biện các bộ đồ sứ Tàu đẹp đẽ cùng dao nĩa. Có cả một đùi cừu đã nấu chín để sẵn trong bếp. Bà Glynn mang tới bánh mì nâu còn ấm. Bà cởi áo khoác rồi bỏ trứng ra luộc. Bà sai Maeve lấy nĩa dầm khoai
tây đã nguội cho nát nhừ. Khi các đĩa thức ăn đã sẵn sàng, Tess và Maeve bưng ra bàn. Vừa mặc lại áo khoác bà Glynn vừa bảo nếu khẩn trương bà có thể ra kịp lúc hạ huyệt. Tim Tess đập rộn. Bà Glynn chỉ dắt Maeve theo còn Tess bé quá chưa ra nghĩa trang được. “Khổ thân mẹ các cháu”, bà bảo. Trước khi hai người đi, Tess hỏi thăm Oliver. “Khi nào em được về nhà ạ?”
Bà Glynn bảo ngày mai hai đứa có thể tới gặp em. Sau đó thằng bé sẽ đến ở với dì Maud.
Cả hai đi rồi ngôi nhà trở nên vắng lặng. Mùi thịt cừu làm Tess váng vất. Bé lắng nghe tiếng đồng hồ tích tắc. Hết thảy đang đổi thay. Không còn ai bật đài nữa. Bé nghe thấy cả tiếng nước tí tách trong đường ống chạy trên tường cao. Ván sàn trên gác kêu cót két. Nỗi sợ trong Tess bắt đầu dâng lên. Bé cầm chắc có người ở trên đó. Bé đồ rằng mẹ sắp bước xuống cầu thang và vào bếp. Tess cắm cổ chạy ra khoảnh sân và đâm sầm vào chú Mike Connolly ở đoạn rẽ ra bãi cỏ. “A, một cô bé đáng yêu, chậm thôi, chầm chậm nào”.
“Chú Mike ơi, hình như mẹ đang bước xuống cầu thang. Cháu nghĩ mẹ đã trở về. Cháu nghe rõ tiếng chân mẹ”.
“Thôi bỏ qua chuyện đó vào pha cho chú tách trà. Bụng chú xẹp vào tận xương sống đây này. Cháu có biết sáng nay chú đã vắt sữa bao nhiêu con bò không? Lọ mọ từ trước cả lúc cháu cựa mình ngủ lại đấy cô bé ạ!”
Chú ném hai bánh than bùn còn dính cỏ vào lò rồi treo ấm nước lên thanh đỡ. Cái đồng hồ giờ im hơn trước. Bên ngoài, đàn quạ kêu inh ỏi. Chú đứng lặng nhìn ngọn lửa, Tess cũng vậy. Khi lửa
cháy to, đỏ rực và chiếc ấm reo vui, Mike rót một ấm trà. Chú cắt bánh mì đoạn hỏi, “Ta sẽ đem nướng chút chứ nhỉ?” Tess tủm tỉm. Chú biết - như mẹ bé tường tận - bánh mì nướng giòn là món khoái khẩu, thứ Tess mê hơn cả. Chú xiên nĩa vào một lát bánh rồi vươn người giơ tới trước ngọn lửa. Tess cũng chúi theo. Mặt cả hai dần đỏ hồng, ấm nóng khi miếng bánh ngả màu nâu. Cứ thế chú nướng ba, bốn lát bánh và hai người không ai nói nửa lời. Nhưng lòng Tess thấy vui. Bé hạnh phúc. Họ cùng ngồi vào chiếc bàn lớn. Chú Mike phết bơ vào bánh rồi rải mứt lên trên cho Tess, bé chảy nước miếng. Chú rót hai tách trà và nháy mắt với bé đoạn bảo, “Chén hết nào”. Ngay khi há miệng chuẩn bị cắn, chú ngoảnh nhìn thứ gì đó và cả người chú chợt biến đổi. Tess theo ánh mắt chú Mike tìm tới manh tạp dề của mẹ máng trên cái đinh cuối chạn bát. Nó dính đầy bột ở phần bụng sau những lần mẹ tì vào bàn, nhào bột. “Ăn đi Mike”, Tess nói vội. “Bánh của chú nguội hết rồi kìa”.
Mọi người trở về, có cả vị linh mục, và yên vị quanh chiếc bàn dài phòng ăn. Tess trông chừng mấy hũ sứ nhỏ đựng sữa, khi chúng cạn bé chạy xuống bếp đổ đầy. Tess đi dọc bàn mời mọi người bánh mì ngọt và bánh mua ngoài tiệm đựng trong một cái khay. Tóc bé buộc gọn đằng sau. Khi được ai khen, Tess đứng thẳng, mỉm cười lịch thiệp. Vị linh mục hỏi bé lên mấy rồi. “Cháu bảy tuổi ạ”, bé đáp. Ông bảo Tess là cô gái giỏi giang, rằng bé là hình ảnh của mẹ và lúc ấy trái tim Tess như vỡ òa vì sung sướng. Bé nhìn sang đầu phòng bên kia, vị trí bên trên cửa sổ, nơi con chim xé rách giấy dán tường. Bé muốn chạy đi tìm mẹ để kể những điều
ông linh mục vừa nói.
Cha ngồi ở một đầu bàn, vị linh mục đầu kia.
“Cầu Chúa thương xót linh hồn chị nhà”, ông linh mục nói. “Anh Michael này, chị nhà bao tuổi nhỉ?”
Cha ngừng nhai. “Nhà con sinh năm 1904. Cô ấy tròn bốn mươi hồi tháng Ba. Ấy là lúc cô ấy bắt đầu than phiền về sức khỏe. Ngay sau khi sinh thằng bé”.
Cha đưa mắt khắp lượt, đoạn dừng lại ở vị linh mục. “Có bận con gặp một nữ tu trong nhà thờ ở Galway. Bà này từ Mỹ về. Cha biết bà ta nói với con gì không? Bà đó bảo linh hồn con người nặng chỉ ngang một con chim giẽ giun. Một nhà khoa học bên đó đã cân người trước khi lâm chung, bà nữ tu kể đấy là các bệnh nhân lao phổi, rồi cân lại ngay sau khi họ chết, giường chiếu tất tật. Và họ không hề nhẹ hơn... Tưởng tượng mà xem... khi linh hồn đã rời khỏi, bà ấy nói vậy đấy”.
Dì Maud xì mũi vào khăn tay. Chị Evelyn cầm ấm trà đi quanh bàn, rồi thì thầm gì đó với dì Maud.
“Chị còn chỉ cho cái Evelyn cả chỗ cất khăn ăn để lấy ra khi dọn bữa”, dì Maud hỏi. “Đúng vậy không, Evelyn?”.
Evelyn gật lia lịa và khụt khịt. “Mẹ quả có nói thế. Mới mấy ngày trước. Mẹ chỉ cho con ngăn kéo nào để khăn”.
Tess nhìn cha. Ông tợp một hớp trà rồi nuốt ực. Suốt buổi tối cha luôn cắm mắt xuống đất. Tess thấy xương hàm ông di chuyển dưới lớp da.
“Bà nhà chu đáo thật”, ông linh mục nói. “Một phụ nữ đáng quý”.
“Mẹ còn dặn chúng con mặc cho mẹ cái váy xanh lơ mới mua”, Evelyn nói.
Tim Tess cơ hồ ngừng đập. Tess hiểu điều đó có nghĩa gì; mẹ bé đang nằm trong quan tài với tấm váy xanh mới mua. Tấm váy sắm ở cửa hiệu nhà Brigg cùng ngày với chiếc váy Tess đang bận trên người. Bé thận trọng đặt khay bánh lên tủ búp-phê rồi ra khỏi phòng ăn trên đôi chân run rẩy. Tess theo cầu thang lên gác. Ánh mặt trời đang tràn qua cửa sổ lắp kính màu, giống y như hôm trước. Tess bước vội qua, lên đến đầu cầu thang tầng trên bé đi dọc hành lang tới phòng cha mẹ. Cửa phòng đóng im ỉm. Đứng lặng một thoáng Tess xoay nắm đấm đẩy cửa bước vào. Bên trong tối om. Chẳng bức rèm nào mở cả. Mùi phòng ngai ngái khó chịu, như thể có một con chuột chết dưới lớp ván sàn. Tess chạy tới vén rèm một cửa sổ lên. Chiếc gương vẫn bị phủ vải đen. Trên bàn trang điểm là tấm ảnh chụp cha mẹ trong ngày cưới. Tess ngắm bức ảnh. Giờ cha đã có thể cưới một cô vợ mới. Bé có thể có một người mẹ mới. Còn một tấm ảnh nữa của mẹ, hồi còn trẻ, trong bộ đồng phục y tá tại bệnh viện ở thành phố Cork. Tess mở ngăn kéo trên cùng, nhấc cái hộp bọc vải đỏ ra, soát lại mớ trâm cài, mặt dây chuyền, ghim đính mũ. Chẳng thiếu thứ gì. Bé mở tủ quần áo và bị một phen bở vía. Trong một giây bé tưởng đâu có cả đám người vận đồ tang đứng trong tủ. Bé ra sức đẩy mớ áo khoác và váy ra để tạo một khoảng trống song nhiều thứ quá mà người Tess lại quá nhỏ nên chúng luôn bật về chắn lối. Tess kéo gấu váy dài, váy ngắn ra ngoài sáng. Bé sắp phát khóc. Chẳng thấy chiếc váy xanh lơ đâu cả. Mẹ bé đang mặc nó nằm trong quan tài. Chợt bé nhớ ra mẹ không còn
trong nhà nguyện nữa. Giờ mẹ đang ở dưới đất. Hoặc trên Thiên Đường.
Nằm trong bóng tối, bé đếm số cừu, theo cách chị Claire đã dạy. Vô hiệu, bé vẫn không sao chợp mắt được. Tess bắt đầu đếm số ngày từ khi mình ra đời, nhưng khó quá. Bé gắng hồi tưởng từng ngày, từng phút bên mẹ. Đột nhiên có một tiếng động mạnh. Bé chồm dậy, khiếp hãi. Đằng xa vẳng lại tiếng chó sủa. Chị Maeve chẳng hề cựa quậy trên giường của mình bên kia phòng. Rồi tứ bề lại yên ắng. Tess lắng tai dò nghe tiếng động trong nhà. Vầng trăng to, sáng vằng vặc chiếu vào phòng khiến hết thảy có màu trắng, cả ván sàn. Ánh trăng dịu êm. Khi nữ ca sĩ trên đài phát thanh hát bài này*, mẹ bé cũng ngân nga theo. Trên ô sổ có một bóng hình, bóng hình tình yêu đích thực của nàng. Và chàng ghé mặt thầm thì, rằng anh đang đợi em yêu ngoài này. Tess từng định hỏi mẹ ô sổ và bóng hình là gì. Mẹ từng kể chuyện có một người đàn ông trên mặt trăng và giờ Tess quỳ trên giường nhìn ra cửa sổ, thử nghiêng đầu theo mọi tư thế, cố nhìn cho ra mặt người đó.
Hôm sau, Tess thức dậy trước khi trời sáng hẳn. Bé lắng tai kiếm tiếng Oliver. Rồi bé nhớ ra và một cảm giác nao lòng ập tới. Mùa hè trước, bầy chim non thường rủ nhau ríu rít buổi sớm mai, bên dưới mái che cửa sổ phòng bé. Giờ cả đàn đã rời đi, những đôi cánh và con tim non nớt nay đã khôn lớn. Tess nhắm mắt, gắng ngủ lại. Căn nhà im lìm quá, bé nghĩ mọi người có lẽ đã đi, chỉ còn lại mình bé. Tess kéo chăn lên tận cằm để xua đi cái lạnh.
Bé ngồi dậy, quay sang phía Maeve đang ngon giấc. Bé ra khỏi
giường, chạy tới cửa sổ lớn, hầu như chẳng cảm thấy sàn nhà dưới chân. Bầu trời xám và thấp, vạn vật còn say giấc nồng. Tess nhìn qua bãi cỏ, xa về phía cánh đồng. Cha đang leo qua gò đi tới, trong tấm áo choàng dài, khẩu súng trên vai. Ông xách một xâu thỏ chết. Mỗi lúc cha một tới gần hơn. Chưa bao giờ Tess thấy cha quá đỗi lẻ loi nhường ấy.
H
2
ai chị em đang chạy băng băng trên đường để tới nhà bà Glynn. Khi lao đi, Tess cảm giác tự do. Với guồng chần trần, trong làn khí vù vù, bé thấy thật khỏe khoắn, tự do. Bé chạy chẳng thua chị Maeve, lòng hạnh phúc, gần như đang nhảy múa và quên bẵng mọi chuyện đã xảy ra. Cửa mở, bà Glynn bước ra với Oliver trên tay. Hai cô chị đổ xô lại thằng bé, nựng nịu, tự tay bế ẵm em. Vào nhà, hai đứa ngồi trên thảm, ăn bánh mì phết mứt và chơi với Oliver cho tới lúc mệt nhoài và dịu xuống.
Ngay lúc Tess bắt đầu tĩnh trí trở lại và sực nhớ ra nguyên cớ mình ở đây thì có tiếng gõ cửa. Một gia đình dân vô gia cư đứng bên ngoài. Maeve và Tess nép vào bà Glynn. “Chúa phù hộ nhà này và tất tật bên trong”, người đàn bà sống lang bạt the thé nói. Bà ta bế một em bé sơ sinh, ba, bốn đứa nhỏ nữa đứng kế bên. Một bé gái trạc tuổi Tess đang nhai đuôi tóc. Nó ngừng nhai, nhìn Tess khiến bé phải quay đi. Ngoài đường, người chồng cùng mấy cậu anh trai đứng chờ với con lừa và cỗ xe. Tess nhận ra ông là nhân viên lao công từng tới trường cọ rửa mấy nhà vệ sinh. Lúc này người đàn bà lang thang giơ ra một hộp sắt tây, xin sữa hay thứ gì cũng được. Bộ mặt nâu to bè, giọng nói chói tai của bà ta cùng đám trẻ hoang dã khiến Tess phát khiếp, chỉ mong họ đi cho mau.
Tess đứng bên cửa sổ trông theo tốp người chen chúc chui vào ngồi xổm trong xe. Khi xe chuyển bánh, trời đổ mưa. Ngồi ở đuôi
xe, mặt quay về phía sau, đứa bé gái lại bắt được ánh mắt Tess và trừng trừng nhìn bé. Tess lạnh toát và thấy người là lạ. Bé sợ đứa con gái sắp gieo bùa chú vào mình. Tess nghĩ hẳn đứa con gái lang thang kia biết điều gì đó về em, thứ bản thân bé cũng chẳng rõ. Con bé đứng thẳng dậy. Nó nhìn như đóng đinh vào mắt Tess và chầm chậm thè lưỡi ra. Tim Tess như ngừng đập. Cái đó dành cho bé, chỉ bé thôi. Bé đã bị kết án, nguyền rủa. Cỗ xe đi vào khúc quanh rồi mất dạng.
Sáng hôm sau dì Maud tới mang Oliver đi. Mọi người đã đóng gói tất cả vật dụng của thằng bé. Tess nhìn theo xe chú Frank xa dần. Bé đi quanh nhà, gắng tìm một chỗ khiến lòng yên vui trở lại. Tess vào mọi gian phòng ưa thích, chui xuống gầm cầu thang sau, ra vườn. Nhưng hạnh phúc không trở lại. Chẳng gì xóa được cảm giác bé mang trong lòng, giống như đang mang một điều bí mật xấu xa.
Hai chị lớn Evelyn và Claire không quay lại trường nội trú nữa. Buổi đầu đi học trường công, Tess và Maeve được chị Claire đưa tới tận cuối con đường trước nhà. Bữa trưa của hai đứa là bánh kẹp thịt cừu và bánh mua ngoài tiệm còn thừa sau lễ tang. Hai chị em đi dọc đường cái đến tận cùng khuôn viên nông trại của cha. Tess mỗi lúc một thêm phấp phỏng; bé không dám chắc hai chị em có an toàn khi liều lĩnh đi xa nhường này. Bé nhìn đàn bò cạ đầu và nhảy lên lưng nhau trên một cánh đồng.
Nơi sân trường, lũ trẻ quây quanh bé cùng chị Maeve và trong một lúc Tess thấy mình quan trọng. “Mẹ bạn chết phải không?”
chúng hỏi. Tess thầm hỏi giờ phải chăng có cách xác định được việc ấy. “Mày có sờ vào mẹ không - người mẹ mày có lạnh như đá cẩm thạch không? Mẹ mày chôn chỗ nào?” một đứa trong tốp con trai lớn hỏi. “Ở Kildoon”, Maeve đáp. “Đó là chỗ người ta chôn bà thằng Sean Blake đấy. Mộ bà ấy bị cướp phá rồi”, đứa con trai kể. “Chúng đào linh cữu bà cụ lên, lấy đi mấy cái nhẫn đeo ở tay cùng hai đồng một xu trên mắt”. Cậu ta nhìn thẳng vào Tess. Tới đó chuông trường vang lên.
Hôm nay, Tess được phép ngồi cùng chị Maeve ở lớp trẻ lớn. Trước khi giờ học bắt đầu, thầy hiệu trưởng Clarke nhặt quả trứng ở bàn, quay lưng lại lũ trẻ đoạn khoét một lỗ trên vỏ. Thầy ngửa đầu hút một hơi hết sạch lòng trứng. Trên trời đang có cầu vồng nên thầy viết tên của bảy sắc lên bảng đen rồi gõ cây gậy xuống sàn khi cả đám đồng thanh đọc to các màu. Tess ngồi sát vào chị, tay chạm tay. Bé sợ cứng đờ người. Bé không biết đọc nên gắng nhớ các màu. Đỏ, da cam, vàng, lục, lam, chàm, tím, Tess đọc to từng màu, theo mỗi tiếng gậy thầy gõ.
Trên đường về, hai đứa đi qua khu trại của người vô gia cư ở khúc cua Tăm Tối. Bầy chó bắt đầu sủa. Cây cối xòa thấp và tối âm u, nhưng bé vẫn có thể thấy mấy túp lều, vài đống lửa cùng lũ trẻ đang kêu gào, chân đất chạy quanh. Một người đàn ông ngồi trên chiếc xô úp ngược, đang đập cái hộp sắt tây. Giẻ rách phơi la liệt trên các bụi cây, có một con ngựa cùng một chú lừa bị buộc vào gốc cây. “Nhanh lên”, Maeve thì thào và hai chị em rảo bước. Rồi Tess thấy đứa con gái hôm trước, đang đứng ngoài một túp lều. Trông nó nhỏ bé và nhợt nhạt hơn. Con bé cũng nhìn Tess. Bé có cảm giác
hai đứa quen biết nhau, hoặc gần gũi theo một cách nào đó, như chị em, và rằng đứa kia cũng hiểu thế. Bé muốn mỉm cười để chứng tỏ hai đứa là bạn bè. Rồi Tess thè lưỡi với con nhỏ, giống như nó làm hôm trước. Đứa bé gái nhăn mặt, ảo não và Tess cụt hứng. Bé thấy buồn và nản. Là trò chơi thôi mà, Tess muốn nói. Tuy nhiên con bé đã quay đi. Nó vén cửa lều chui vào trong.
Trên con đường dẫn tới nhà, hai đứa vừa đi vừa đá các phiến lá rụng. Một chiếc ô tô đen rời sân tiến lại phía chúng. Đó là cô Tannian. Cô hạ cửa kính, mỉm cười, xởi lởi thăm hỏi chuyện trong ngày. Son môi cô đỏ chót. Tess cảm nhận được ánh mắt cha và chú Mike Connolly từ bờ tường giáp ruộng khoai tây. Denis đang cúi xuống cái hố ở góc ruộng. Anh giờ cao ngang cha, nhưng gầy gò hơn.
“Mụ này theo đuổi cha”, chị Evelyn nói trước khi cánh đàn ông trở về nhà ăn tối. “Trong lúc mẹ còn chưa kịp lạnh dưới mồ”. Họ đang bàn về cô Tannian.
“Chị đừng dớ dẩn thế”, Claire nói. “Cô ấy chỉ đến lấy máu xem có gia cầm nào nhiễm bệnh không ấy mà”.
“Nhiễm bệnh, ối trời! Em có thấy cái rắp tâm ở mụ từ quần áo tới son môi không? Mà nói em nghe, nào phải mái tơ gì cho cam”. Một lần, mùa hè năm trước, mấy chị em phải nhốt lũ gà mái trong chuồng để kiểm tra bệnh. Việc đó rất mất công. Mẹ giữ từng con cho cô Tannian chọc lấy ít máu bằng ống tiêm rồi bơm vào các lọ nhỏ để mang đi. Xong xuôi mẹ mở ô nhỏ phía dưới cánh cửa chuồng quăng gà ra vườn. Hai giống Rhode Island Red và Leghorn.
Gà Leghorn mắn đẻ nhất, mẹ bảo vậy.
“Dầu gì chăng nữa, chả lẽ cô ấy không hay chuyện cha vừa phải chôn cất vợ mình hay sao chứ?” Claire nói.
“Đấy rồi xem, mụ đang ve vãn cha. Mụ ấy cứ bám riết nơi này với cái mũi mỏ quạ”.
Sau bữa tối, Tess ra sảnh sau, ngang qua quầy bar và gian chứa táo. Bé lại đi kiếm tìm. Tess muốn cất đi gánh nặng bí mật này, buông xuống tất tật những gì mang trong tim. Bé nghĩ tới đứa con gái vô gia cư trong căn lều kia, và biết, thông qua con đường nào đó, rằng lúc này nó cũng đang nghĩ tới bé. Tess tới góc tối dưới chân cầu thang sau, giờ có lò ấp trứng trống rỗng để đó. Vào mùa xuân, các lô trứng được ấp ở đây, dưới ánh sáng ngọn đèn măng sông hiệu Tilley. Bé yêu hơi ấm, ánh sáng của chiếc đèn màu đỏ. Ở đây, bé từng hạnh phúc. Ngày nào chị Evelyn hoặc Claire hay mẹ cũng gượng nhẹ xoay giở các quả trứng. Rồi đến một sáng, điều kỳ diệu - hai con gà bé xíu màu vàng đã nở hồi đêm, và đang run rẩy bước quanh trên cặp chân lẩy bẩy. Một hôm bé đứng nhìn những quả trứng. Tess chợt ước được leo vào, co gọn lại và nằm xuống dưới ánh đèn ấm áp dễ chịu kia. Sau đó mẹ xuất hiện, với tay nhặt một quả trứng. Mẹ soi trứng bằng ánh sáng rọi từ cửa sổ. “Tess này” mẹ gọi nhỏ. “Lại đây, trông phôi nhỏ xíu bên trong này!” Tess bước tới sát bên mẹ. Trong chốc lát, bé áp mặt vào bụng mẹ, nhắm mắt hôn, hít sâu cái mùi mà dựa vào đó bé có thể nhận được mẹ. Khi Tess lùi ra, mẹ giơ quả trứng vào luồng sáng và bé thấy một đốm sẫm nhỏ, hình chú gà bé xíu đang ngủ, trong vỏ trứng. Tess không thốt nên lời. Mẹ mỉm cười vò đầu bé và tim bé ngập tràn
hạnh phúc. Hai mẹ con đứng giữa suối ánh sáng ngắm cái đốm sẫm đó rồi mẹ đặt quả trứng xuống lớp rơm lót, nhặt quả khác lên, giơ ra ánh sáng đoạn cau mày thở dài một tiếng.
“Sao thế mẹ?” Tess hỏi.
“Không có phôi, con yêu ạ, quả này không phôi”, mẹ buồn buồn bảo. “Đây là một quả bị ung”. Mẹ vứt quả trứng vào xô cám lợn. Một mùi khăn khẳn bốc lên lúc nó vỡ.
Hai người đàn ông lạ mặt tới nhà tẩy uế phòng cha mẹ bé. Cả nhà được kiểm tra sức khỏe, kể cả chú Mike Connolly. Tối ấy trên giường Tess nhớ tới cô Tannian - họ quên không kiểm tra cô. Cô có thể là người mẹ mới của mấy chị em. Tess không muốn có mẹ mới. Bé nhớ Oliver. Từ khi được dì Maud ẵm đi, thằng bé chỉ mới về nhà có một bận. Chị Claire làm một cái bánh bông lan nhân nho khô rất đẹp cho dịp đó. Thằng bé có một vạch nhăn, một đường rạn nhỏ xíu mới trên trán. Nó hết nhìn Maeve, lại quay qua Tess, rồi sang Maeve. Cả hai tươi cười, vỗ tay gọi nhưng thằng bé không còn biết hai chị mình là ai nữa. Tess đột nhiên thấy nhớ mẹ chưa từng có. Nó như một ngọn sóng khổng lổ nhấn chìm bé. Tess thấy thiếu mẹ cho bản thân, và cho cả Oliver. Thằng bé không nhớ, hay hiểu, vì lẽ gì giờ đây vạn sự đổi khác. Tim bé nhói đau khi nghĩ tới mái đầu nhỏ của em ngóc dậy trong nhà dì Maud, tại gian phòng đầy các em họ với mấy vách tường khác, những giọng nói khác. Một người mẹ khác. Tess nghĩ tới Oliver lúc tỉnh dậy, nhìn lên trần, hay nhìn mưa ngoài trời. Trái tim nhỏ bé của Oliver đập thình thịch khi một cánh cửa đóng rầm hay một khuôn mặt lạ xuất hiện nhìn nó qua gióng cũi. Tối hôm Oliver về chơi, Tess không sao nuốt nổi món bánh
bông lan. Miếng bánh không trôi xuống khỏi cổ bé.
Ở trường bé dần dà thấy mến cô giáo Snee, và biết cô cũng yêu quý mình. Ngày nào cô cũng giao bé bài tập. Những hôm trời lạnh, cô cho lũ trẻ đặt bình sữa của mình cạnh lò sưởi để hâm. Tess không hề miễn cưỡng mỗi sáng rời nhà tới trường. Ngôi nhà giờ im lìm quá đỗi. Tình trạng còn tệ hơn khi có cha. Từ ngày có tang, đài không được bật nữa. Anh Denis mất một hôm đạp xe ra thị trấn sạc lại bình ắc quy, nhưng tối ấy khi anh định bật đài cha liền xẵng giọng lạnh lùng, “Làm gì thế thằng kia?” và anh Denis lảng đi chẳng dám ho he. Trước nay Tess luôn thấy sờ sợ cha song giờ bé còn khiếp hãi hơn nữa. Sắc diện cha tứ thời xám xịt, cau có. Một tối có linh mục tới chơi bé nghe cha nói, “Cái gì đã mất thì cũng mất rồi”. Tối tối cha dán mắt vào ngọn lửa. Cha dường như chẳng ưa bất kỳ ai - cả Denis hay Claire hoặc Tess - có lẽ chỉ trừ Evelyn. Đấy là chị cả. Cứ đến thứ Bảy cha lại giao tiền chi tiêu trong nhà cho chị. Evelyn giữ sổ theo dõi khẩu phần lương thực của từng người, phụ trách việc bán trứng cho nhân viên thu mua ở cửa hiệu nhà Henaghan, đổi một phần bơ làm được từ sữa để lấy đường, mứt cùng các đồ tạp hóa khác trong xe hàng bán dạo của ông JohnJoe Donnellan. Chị còn sai anh Denis ra bưu điện, hay vào thị trấn đặt mua thức ăn cho gia cầm. Denis năm nay mười bảy tuổi. Mắt anh xanh, tóc đen dày. Khi còn tấm bé tóc anh cũng vàng như Oliver. Mấy chị em tóc ai lúc đầu cũng vàng, mẹ bảo thế. Tối tối anh Denis ngồi trong bếp, tay khoanh lại, cặp chân dài duỗi ra, lặng yên. Trong nhà chẳng còn ai chuyện trò gì mấy nữa. Một không khí câm lặng
bao trùm ngôi nhà trong ngày tang lễ rồi ở lại luôn. Tess nghĩ hiện tại ai cũng muốn chấm dứt sự trầm lặng, nhưng không biết phải làm sao. Buổi tối bé nhìn mặt mọi người. Bé nghe tim mình đập trong lồng ngực, trong đầu và cả ở tai nữa khiến bé nhức óc, thịch, thịch, thịch. Tess ngắm ngực anh Denis phập phồng. Anh ấy cũng nghe thấy tiếng tim của chính mình, bé nghĩ. Mọi người - Claire, Evelyn và cha - đều nghe thấy tim mình đang đập ồn ào, đập thình thịch trong người, giống tim bé.
Trời lạnh làm chân Maeve bị cước và cứ tối lại rên rỉ khóc. Claire bôi kem Zam-Buk cho em và Maeve phải nghỉ học mất hai ngày. Tess đến trường một mình và sau giờ học ở lại giúp cô Snee dọn dẹp. Bé rời trường khi trời đã sẩm tối và đôi giày ống bắt đầu làm đau chân. Tess hối hả bước dọc đường cái, hầu như chạy, ghì chặt vạt áo choàng vào người. Trước mặt là khúc cua Tăm Tối và khu trại của dân vô gia cư dưới rặng cây. Bé thấy một ngọn lửa bốc cao và đám đông vây quanh - đông hơn mọi lần trước đây bé từng thấy, tất cả cùng chuyển động, chậm chạp, uốn éo, trước đống lửa. Một số đàn ông đứng ở rìa khu trại, hút thuốc và uống những chai màu nâu. Khi Tess lại gần hơn, có một thứ im lặng kỳ lạ bao trùm tất cả. Thậm chí bầy chó cũng không sủa. Tess dừng bước, ngoái nhìn lối mình vừa đi qua. Đường vắng không bóng người và lòng bé dấy lên nỗi hoang mang. Mắt bé gặp mắt của ông lao công vô gia cư dọn nhà vệ sinh trong trường. Ông ta cúi đầu thật chậm và Tess quay đi. Bé bước tiếp, nhanh hơn, đầu gằm xuống. Khi bé ngang qua mặt trước khu trại, một phụ nữ đột ngột rú lên. Tess dừng phắt, tê cứng.
Một nhóm đàn bà con gái tụ thành vòng tròn trước một túp lều. Họ ngước lên thấy Tess và một không khí nín lặng bao trùm. Vòng người mở ra và Tess thấy một chiếc bàn gỗ trên có đứa trẻ bận đồ trắng đang nằm. Đó là con nhỏ vô gia cư bữa trước, mắt nó giờ nhắm nghiền, mặt trắng bệch như tuyết, đôi tay bắt chéo trên ngực. Đứa trẻ đã chết. Cuối bàn, một phụ nữ đang chải tóc cho nó. Chính là người đã gõ cửa nhà bà Glynn. Khi ngước lên thấy Tess, bà ta dừng tay, cúi chào. Ánh lửa hồng nhảy múa trên gương mặt bà. Tess không sao cử động hay cất chân lên nổi. Sau đó đám đàn bà con gái lại vây lấy cái bàn và Tess cúi nhìn chân mình rồi bước tiếp, đè nỗi sợ xuống.
Trong lúc uống trà, ăn bánh ngọt cả nhà nhìn bé. “Có chuyện gì với em thế, sao không trả lời chị?” Evelyn hỏi. “Sao em không ăn? Bữa tối em cũng chẳng ăn gì. Có chuyện gì thế? Em bị mất lưỡi hay sao vậy?”. Em có trả lời chị mà, bé đáp. Em không thấy đói. Nhưng sau mấy lời, bé biết họ không nghe thấy mình. Lời bé không hề có tác dụng gì, âm thanh không thoát khỏi miệng bé đi ra ngoài.
“Có phải đã xảy ra việc gì ở trường không Tess?” chị Claire dịu dàng hỏi, và Tess vùng chạy khỏi bếp, ra sảnh trước rồi lên cầu thang. Tới khúc quanh, bé đứng dưới ô cửa sổ lắp kính màu. Bé nghĩ tới khuôn mặt trắng bệch của đứa trẻ vô gia cư. Tess hồi tưởng cái ngày mình thè lưỡi với đứa con gái ấy và giờ nó đã chết. Bé ngước mặt hướng về cửa sổ, khao khát mặt trời đổ nắng vào sưởi ấm. Bé chắp tay đọc kinh khấn nguyện Đức Mẹ. Bé nghiêng tai nghe lời kinh, để kiểm tra tiếng mình. Nhưng chẳng có âm thanh nào phát ra. Tess cầu nguyện to hơn, gắng sức hơn. Bé hắng giọng
một lần, rồi lần nữa. Bé bật khóc. Bé sờ lên mặt, cảm nhận những giọt nước mắt càng khiến bé nức nở thêm. Bé lên tầng trên, chạy dọc hành lang lao vào phòng cha mẹ. Bé bưng tấm ảnh mẹ bận đồng phục y tá đang để trên bàn trang điểm về phòng mình. Bé cởi giày, chui vào giường với bức ảnh trên tay.
Khi Tess tỉnh dậy, trời tối như mực. Từ cái lặng tờ trong nhà, bé biết giờ là nửa đêm. Trông qua bên kia phòng, bé khả dĩ thấy được lờ mờ vóc dáng chị Maeve trên giường. Tess xê xích người, cảm thấy tấm đệm bên dưới âm ẩm. Bé thò tay xuống giữa hai chân. Bé đã tè dầm ướt quần lót. Tess trở dậy, cởi bỏ quần rồi leo lại giường, tránh chỗ ướt. Bé bỗng nhớ tới tấm ảnh và sờ quanh tới khi thấy nó trên gối.
✠✠✠
Tiếng nói không quay lại với Tess. Cha và chị Evelyn đưa bé tới gặp bác sĩ O’Beirne và ông cho bé ngồi bên chiếc bàn cao, hỏi nhiều câu. Nhưng bé không thể trả lời. Một ngày nọ anh Denis tới ngồi cạnh bé trên bờ tường thấp. “Em khắc ổn thôi - tới một ngày em sẽ bình thường trở lại”, anh bảo thế. “Anh dám chắc Giáng sinh khi ông già Noel tới là em lại tâm sự được với ông ấy”. Tess cầu nguyện, như chị Claire và chú Mike Connolly bảo, nhưng âm thanh không trở lại, ngay cả dịp Giáng sinh. Ở trường, cô Snee gọi bé tới bàn giáo viên và cố gắng, với vẻ ân cần, dùng mẹo khiến bé bật nói. Trong một lần đến nhà, cô Tannian gọi Tess ra, bảo bé hít thật sâu rồi nói tên mình. Tess, Tess, cô nhắc đi nhắc lại như thể Tess không biết đến cả tên mình. Đôi lúc mọi người phát cáu với bé. Tess thôi
không gắng đáp lời người khác nữa. Bé chỉ nhìn chằm chằm vào mặt, vào mắt họ và mọi người cũng thôi không hỏi nữa. Từng chút một Tess quen dần tình trạng này. Bé không thấy thiếu việc nói được chút nào. Bé làm tất tật những gì được sai - các việc vặt của mình - và mọi người dần quen với sự im lìm ở bé.
Một hôm, khi chị Evelyn và anh Denis ra thị trấn, cha cần trợ giúp để dồn cừu. Tess được giao đứng ở khoảng trống dẫn vào sân. Chị Claire chặn trên con đường trước nhà còn chị Maeve chốt tại cánh cổng vườn tuột bản lề. Cha và chú Mike Connolly vào bãi thả để lùa đàn cừu. Hai người đi lâu lắm. Tess ghét những dịp diễn ra các việc lớn thế này - cho gia súc uống thuốc hay tắm hoặc xén lông cừu. Tối trước Tess nằm thấp thỏm nghĩ đủ thứ chuyện sai trật cùng tất thảy nguy hiểm rủi ro có thể xảy ra.
Rồi lũ cừu xuất hiện, chạy thục mạng, be be liên hồi, con Thủ lĩnh đang cắn sau gót chúng, và ở cuối là cha cùng chú Mike Connolly. Tess dịch sang phải, lại qua trái, gắng căng người che khoảng trống. Bé cảm nhận mặt đất rung chuyển dưới các bộ móng. Mùi cừu, những túm lông bết lại của chúng, khiến bé nhớ tới món thịt cừu. Cha thét to, Chặn chúng lại một lúc. Chú Mike luôn miệng trao đổi với con Thủ lĩnh bằng những tiếng huýt ngắn nó hiểu. Có con gì nhỏ, màu đen - mèo hay chuột hoặc chim - vọt ngang lối mòn khiến Tess giật bắn, nhảy qua bên và một con cừu cũng thấy điều đó liền tách khỏi đàn, cắm đầu lao về khoảng trống, về phía Tess. Những con khác cũng ngoặt bám theo và trong chớp mắt cả đàn ào tới Tess, lao qua bé, bên trái bên phải, để lọt vào bãi trống đằng sau. Cha, chú Mike và chị Claire vẫy tay rối rít, miệng gào gọi bé. Tess
đứng như trời trồng, trong khi lũ cừu phóng vun vút sát cạnh bên, cạ vào tay, nhảy qua đầu, những cái móng của chúng tựa lưỡi tầm sét khiến bé phải cúi xuống che đầu.
Ai cũng quát gọi Tess. Bầy cừu đang tỏa ra trong bãi trống phía sau bé, con Thủ lĩnh bám gót. Lũ cừu sẽ không dừng lại mà tiếp tục luồn qua các khoảng trống để đến mấy cánh đồng đằng xa. Cha hộc tốc đến gần, mặt đỏ gay. “Vào nhà ngay, con kia!” ông gầm lên. “Vào nhà cho khuất mắt tao!” Cha giơ tay và bé nghĩ ông sắp đánh hay tát lúc đi ngang. Tuy nhiên cha cùng đôi ủng cao su đã vượt qua không hề dừng bước. Rồi cả chú Mike Connolly, già nua và chậm chạp hơn, cũng chạy qua khoảng trống. Ánh mắt hai người gặp nhau một giây. Tess ước chú sẽ gật đầu hay nói điều gì nhưng chú Mike đưa mắt sang chỗ khác, không dừng chân.
Tess thơ thẩn tới mé khuất tịch luôn vắng bóng nắng của ngôi nhà. Có một miếng vải cũ vắt trên hàng rào thép gai. Một con chim đang hót trên cây. Tess thò đầu qua lớp rào nôn thốc nôn tháo, tóc bé rủ cả vào dòng chất lỏng. Tess với tay kéo mảnh vải lau mồm. Đó là tấm áo choàng cũ của mẹ, bạc màu và rách tả tơi, phơi lên cho khô đã lâu rồi bị bỏ quên.
Một thời gian dài Tess không sao nhìn thẳng vào cha. Bé gắng tránh lối cha đi. Cách ông nhìn bé, ánh nhìn chòng chọc ác cảm, như thể định bụng buông lời khinh thị khiến bé tủi hổ. Cha dõi theo khi bé đi lại trong bếp. Cứ mỗi bước bé lại lo mặt đất sẽ nứt ra, kéo tuột mình vào. Tess hầu như không thở nổi. Mình không có mẹ, bé nhủ thầm, mình không có cha. Khi cha sửa soạn ra chợ hay dự một đám tang, Tess chọn đem ra cái áo khoác tươm tất với mũ. Một bận
cha khen, “Gái ngoan”, tuy nhiên ông không bao giờ gọi tên bé. Chú Mike Connolly lại gọi bé bằng tên. Từ buổi dồn cừu, Tess thẹn thùng, xấu hổ với chú Mike. Chị Claire tốt bụng hơn cả, luôn thế. Chị nói một bác sĩ ở Dublin có thể làm bé nói được trở lại nhưng Tess lắc đầu. Có những đêm, khi ánh trăng vằng vặc rọi vào cửa sổ và đổ bóng lên tường, bé nhảy khỏi giường, nhón chân qua hành lang tới phòng hai chị Claire và Evelyn. Chị Claire đặt ngón tay trên môi, giở lớp chăn lên cho Tess chui vào nằm cạnh. Hai chị em nằm như hai chiếc ghế tựa xếp lồng vào nhau và Tess tối nào cũng ngon giấc như thế, trong lòng Claire, giữa vòng tay chị.
Có những tối Tess sợ phải ngủ. Bé nằm trên giường, vẩn vơ nhớ lại. Con Thủ lĩnh cất tiếng than khóc dưới cửa sổ phòng bé. Tess ngồi dậy, rón rén theo cầu thang xuống mở cửa trước. Ánh trăng rọi trên các bậc tam cấp. Bé không nói nửa lời, chỉ lặng nhìn Thủ lĩnh và nó đi vào nhà, theo bé lên cầu thang, vào phòng. Nó nhảy lên giường Tess, nằm cuộn tròn sát bé. Nó hiểu điều gì đó ở bé, thậm chí có thể hiểu hết, và lòng bé như rộng mở. Giữa bóng tối, trong cái im lặng trọn vẹn, bé nghe thấy những tiếng động khẽ khàng nhất - hơi thở Maeve bên kia phòng, tiếng một con côn trùng đập cánh trên góc cao tít, vòi nước tí tách trong buồng vệ sinh đằng xa và Tess thấy, trong tâm trí, từng giọt nước rơi từ khoảng không xuống bồn rửa màu trắng, đập vào mặt bồn trôi xuống. Mọi người đang say sưa giấc nồng ở phòng mình, mi mắt giật giật trong mơ, các căn phòng yên ắng và cũng đang ngủ, mấy cục than nơi lò sưởi tầng dưới đã gần tàn nhưng vẫn ửng hồng trong màn tối, một tia khói thanh mảnh thoát ra từ miệng ống khói, cuộn thành một đụn nhỏ
trên đường bay lên. Tất cả bàn ghế đứng nhom nhỏm, cả tủ bát đĩa, đang nhìn ngó, đang chờ đợi - trong tâm trí bé có thể thấy hết. Bên ngoài lũ gà vịt đã được nhốt lại lúc trời tối, bầy chim ngủ trên các ngọn cây, đàn bò trong chuồng và khắp nơi khu nông trại, nào sâu bọ nào côn trùng, tất thảy sinh vật bé nhỏ, đều cuộn mình dưới các hòn đá, bờ giậu, bụi cây. Bé có thể thấy hết. Bé tưởng tượng bản thân trở nên bé tí, nhỏ xíu, có thể thấy hết, nghe hết, thấu cả các lưỡi cỏ đang thì thào, những viên cuội đang cười trong bóng tối. Bé vuốt ve Thủ lĩnh và nó thở sườn sượt. Tess cảm nhận được tiếng tim nó hòa nhịp với tim mình. Bé ngỡ ngàng thấy mình sao hạnh phúc đến thế. Trên giường của mình, dưới mái nhà này. Cùng với bãi cỏ, kho chuồng, ruộng vườn vây quanh bé. Tess chẳng muốn ở đâu khác ngoài chốn này. Tận sâu thẳm trái tim, bé biết chẳng có nơi nào mình yêu quý hơn mảnh đất này.
Rạng sáng Tess ra ngoài, băng ngang sân. Hôm nay là thứ Bảy, chưa ai dậy cả. Trời xanh lơ, vầng dương đã tới bờ tường vườn cây ăn trái. Cánh cửa nhà để xe ngựa mở toang, bên trong có người đang đi lại giữa cảnh tranh tối tranh sáng. Tess ngó vào thấy chú Mike Connolly đang với tay treo bộ dây cương lên móc. Chú hơi thảng thốt lúc quay lại thấy Tess. Rồi ánh mắt chú dịu lại, song chẳng nói gì. Sẽ tới lúc không còn ai chuyện trò, hoặc thậm chí ngó ngàng đến bé nữa. Tess là một cô bé đang dần tan biến.
Tess bắt gặp thứ gì lấp lánh trên nền, giữa bóng tối, có lẽ là một đồng xu. Bé chạy lại đó, va vào góc chiếc bàn thợ mộc và hét lên Ối. Bé ôm hông xoa lấy xoa để và khi ngước nhìn Mike, nước mắt bé trào ra.
“Úi dà, đến đây với chú nào cục vàng”. Chú Mike quỳ xuống bên Tess, vòng một tay ôm bé, chậc lưỡi xuýt xoa. “Đau ở đâu?” chú hỏi.
Vẫn xoa hông, Tess chỉ lúng búng sau dòng lệ. Mike đứng lên, lại chỗ tấm áo khoác cũ sờn đang móc trên đinh rồi trở về với hai cái kẹo cứng. “Đây”, chú nói, “ăn đi, cháu khắc đỡ trước khi kết hôn ý mà!” Chú Mike bóc kẹo và Tess ứa nước miếng. Ngay lúc đút viên kẹo vào miệng, bé đã tủm tỉm.
“Nào! Chú vừa bảo sao nào, bảo gì nhỉ! Đương nhiên giờ cháu sẽ phải lấy chú thôi!”
Đây là trò chú thường chơi cùng bé và Maeve hồi hai chị em còn nhỏ xíu. Mỗi lần chúng ngã, bị cắt vào tay hoặc dỗi hờn là chú Mike lại bảo. “Cháu khắc đỡ trước khi kết hôn ý mà”. Tess sẽ quệt nước mắt và nói, “Lớn lên cháu sẽ lấy chú, Mike ạ”.
“Lớn lên cháu sẽ lấy chú, Mike ạ.”
Chính vẻ mặt của Mike cho bé thấy chú đã nghe được lời bé vừa nói. Bé cũng nghe thấy tiếng mình. Âm thanh đã đi ra từ miệng bé, từ ngữ đang hoạt động. Họ nhìn nhau. Chú Mike cắn cắn môi dưới. Tess nín thở.
“Ái chà, cháu đây sao, bé yêu!” Mike nói, mỉm cười. “Đúng cháu rồi! Và ai vừa nói sẽ giành được chú? Hả? Ai nói sẽ lấy chú nhỉ!?” “Cháu nói”.
“Tới đó có khi chú đã cưới vợ lâu lắm rồi. Có lẽ lúc cháu khôn lớn chú đã có được một cô vợ”. Mike bảo. “Ừm, trừ phi cháu cưới chú ngay bây giờ”. Và Mike quay qua dáo dác nhìn quanh. “Chổi rễ đi
đâu hết rồi nhỉ?”
Tess đã quên bẵng mục này trong trò chơi đám cưới, lúc cô dâu và chú rể phải đứng lên cây chổi để kết hôn. Chú Mike bước vào bóng tối, mang ra một cái chổi quét sân cán dài, đã mòn vẹt.
“Bé yêu, chú nghĩ giờ mình đã có đủ mọi thứ. Trừ một vị linh mục!” Chú ra ngoài để chổi lên mặt đất rải sỏi, huýt sáo và Thủ lĩnh xuất hiện. Chú Mike bảo, Ngồi xuống đấy, và Thủ lĩnh ngoan ngoãn ngồi im.
Chú bước tới, đưa tay cho bé khoác. Qua cánh cửa mở rộng, Tess bước cạnh chú ra ngoài, dưới mặt trời thu. Thủ lĩnh ngồi, chờ đợi. Chú Mike cất tiếng ngân nga khe khẽ. Tess ngước nhìn trời rồi cũng ngân theo và chú ngân to hơn, bước chân sáo như khiêu vũ, với tay bé ngoặc chặt một bên. Hai người tới đứng trước Thủ lĩnh, Mike chỉ cho bé phải làm gì, nói thế nào, lúc nào nhảy lên chổi.
“Cả chú nữa”, Tess nói. “Chú cũng phải nhảy lên chổi kẻo là chưa kết hôn đâu”.
“Ồ, chú sẽ nhảy, sẽ nhảy, chắc chắn thế”.
“Và sau đó chúng ta sẽ tới sống trong ngồi nhà của chú ở Connemara chứ?”
“Sẽ thế. Ta sẽ đi tới sống ở Connemara”.
Thế rồi; đứng kề nhau, họ bắt đầu. Mike nắm tay Tess, gập người và nói, “Thưa tiểu thư Teresa Lohan, nàng có nguyện ý lấy ta, Michael Joseph Connolly, làm chồng, dẫu hạnh phúc hay khổ đau, lúc ốm đau hay khỏe mạnh, đến trọn đời chăng?”
Thủ lĩnh gật đầu, tru lên còn Tess phì cười và đáp, “Thiếp nguyện
ý”, rồi nhảy lên cán chổi. Sau đó tới lượt của Tess.
“Mike Joseph Connolly, chàng có nguyện lấy thiếp làm vợ không?”
“Ta nguyện”.
Mike nhảy lên chổi đứng cạnh bé, thọc tay lấy nắm hạt cỏ và vỏ trấu trong túi quần đem rắc lên đầu hai người. Vừa lúc chú Mike đang nắm hai tay Tess dắt bé khiêu vũ quanh sân, chị Claire từ trong nhà bước ra thềm thấy hai người liền mỉm cười đi về phía họ. Tess vẫy tay, gọi oang oang và chị liền cất bước chạy lại, vầng mặt trời buổi sớm trên lưng.
H
3
ồi Tess lên mười, trong nhà em có một đám cưới đích thực. Khi ấy cũng là hè, sau một mùa đông đằng đẵng với súc vật chết trên đồng cùng tuyết rơi giữa tháng Năm và bé Oliver quay về nhà. Giờ đây mỗi ngày đều có điều gì khiến Tess trân quý. Việc Oliver trở về là một, hay cảm nhận của em khi quỳ trên giường giữa đêm đông, hà hơi mở một lỗ trên mặt kính cửa sổ đóng băng để ngắm vạn vật trong tuyết - bãi cỏ và cây cối, bờ tường cùng kho chuồng và dãy nhà phụ, thảy đều im ắng, diễm lệ dưới ánh trắng - cảm giác em đã lớn khôn lên, khỏe khoắn an toàn hơn, thế giới vẫn tồn tại và trở nên đáng yêu thêm chút đỉnh.
Sáng hôm chị Evelyn cưới, anh Denis chở mọi người tới nhà thờ bằng chiếc ô tô bốn chỗ mới hiệu Hillman Minx cha mua hồi mùa xuân. Maeve, từ trường nội trú về chơi, và Tess đều bận váy xòe mới. Trên án thờ nhà nguyện để mấy nhành hoa lan nhật quang. Chú rể ngồi ở hàng ghế đầu cùng người em trai. Đây mới là lần thứ hai Tess nhìn thấy anh rể, nom già chả khác cha em mấy nỗi.
Tiệc mặn được tổ chức tại Easterfield. Khách khứa ngồi quanh cái bàn dài trong phòng ăn. Các phần ăn đã hết nhẵn và Tess chẳng nhớ đã dịp nào trong nhà có thức ăn ê hề cùng tiếng chuyện trò, cười đùa rôm rả hơn thế. Hôm nay mẹ cháu mà còn thì hãnh diện lắm đây, có người bảo chị Evelyn như vậy. Gần đây Tess không mấy khi nghĩ tới mẹ. Gương mặt mẹ phai nhạt dần trong ký ức. Em
gắng hình dung bóng hình mẹ trong các căn phòng, đang thu dọn, phủi bụi vật dụng, các tấm rèm, nệm ghế, hay khép nhẹ cửa. Em lướt nhìn khắp phòng. Một cảm giác đôi lúc gợn lên: Em cảm thấy mọi vật đều đang sống. Khi bước vào nhà để xe hay chuồng bò, Tess thấy như vừa làm gián đoạn điều gì. Dạo này ý nghĩ rằng vạn vật xung quanh, những thứ nhiều ý nghĩa và lay động tim em - cây cối, ruộng vườn, các con vật - cũng có sinh mệnh, có suy nghĩ, đã tự bén rễ trong Tess. Có sự sống ắt có trí nhớ, em thầm nhủ. Vậy là ký ức và vết tích về mẹ quyết còn vương khắp nhà - trong phòng, sảnh, cầu thang. Vết lõm chân mẹ in trên thảm. Trên cái ly nước có dấu tay mẹ. Em thầm hỏi liệu trong những đêm ấm áp, lúc toàn bộ ngôi nhà say ngủ, người mẹ dịu dàng của em, hay các hồi ức về bà có trở lại, mang an ủi cùng hứa hẹn đến cho mọi thứ, bù đắp những nhẫn nại đợi chờ. Cả ngoài kia nữa, khoảng sân, chuồng vịt có nhớ mẹ chăng? Cây bạc hà còn nhớ từng tỏa bóng mát che cho mẹ? Tess nhìn xuống đôi bàn tay. Dẫu có ôm ấp những ý nghĩ như vậy, em biết chúng chẳng thể rành rọt viết ra được.
Sau khi chị Evelyn đi lấy chồng, cô Tannian ghé qua thường xuyên hơn, mang theo các loại bánh trái tự tay làm, đôi lần tới ngay trước giờ ăn khiến cả nhà phải mời cô cùng dùng bữa. Cô xắt nhỏ thức ăn cho Oliver hoặc phết bơ vào bánh mì của em, khăng khăng giành lau mặt cho thằng bé đến nỗi nó phải xua cô đi. Ai cũng thấy phiền. Tess thương cho cô. Cha làm thinh nhưng thường chau mày và vào một tối khi cả nhà chưa xong bữa, ông chợt đứng phắt dậy, lao ra ngoài. Sau đó, lúc cô Tannian ra về, Tess thấy cha đứng nói chuyện với cô bên kia sân. Nom cô Tannian bối rối, cúi gằm và như
co rúm lại rồi sau đó chui vào xe. Qua nhiều tuần mới trở lại nhưng kiểm tra lông tơ cho lũ gà mái xong cô cũng chẳng ở nán hay vào nhà chơi. Sau này thảng hoặc lắm cô mới ghé. Có lần cha hỏi “Lần cuối cô ta đến là hồi nào nhỉ?”
Đã là tháng Sáu, Tess đang ở tuần cuối của lớp sáu, năm sau cùng trong trường công lập. Tan học, em cùng Oliver theo con đường trước nhà bước vào sân. Một tốp người đang vây quanh cái giếng cũ nơi góc sân. Đã lâu lắm, nhiều năm trước khi Tess ra đời, cái giếng bị đậy lại bằng đá phiến, bởi e ông già bà cả trong làng tới lấy nước có thể ngã xuống. Theo những gì Tess còn nhớ, nhà em chỉ ăn uống bằng nước từ máy bơm trong làng. Những tối hè, thanh niên nam nữ trong làng tụ tập quanh giếng, không khí nơi này luôn có gì đó chuếnh choáng ngất ngây. Một tối cha ra kéo em cùng chị Claire về nhà. “Vào nhà ngay”. Cha đỏ mặt bực bội. Ông không muốn mấy chị em đến đây đàn đúm. Còn lúc này phiến đá đậy giếng đã được nhấc ra. Cha sẽ thả cái bơm của nhà xuống để bơm mẫu nước lên cho người ta mang đi xét nghiệm.
Chú Mike Connolly đang nắm một đầu sợi thừng thả thòng xuống màn tối. Vòng người dịch sát quanh bờ giếng. Cha kêu tên anh Denis, chờ một tẹo rồi lại gọi to, Denis. Một nỗi im lặng kỳ lạ bao trùm. Chú Mike Connolly khom người, ngó chằm chằm xuống dưới. Tess cảm nhận một nỗi lo lắng đang dấy lên trong mỗi người, các hơi thở như ngưng lại. Rồi có một sự xáo động, những bàn chân và thân thể xê dịch. “Thằng nhỏ đang lên kìa”, cha kêu lên. Luôn tràn đầy giận dữ, bực dọc, vậy mà giờ mặt cha giãn ra, sáng bừng,
giọng đầy nhẹ nhõm và lần đầu em hiểu ra chút ít về ông trong vai trò người cha. Tess chen vào nhìn mấy bậc đá dẫn xuống giếng, ngó sâu hơn em bắt gặp anh mình hiện ra từ bóng tối. Leo từng bước từng bước, mái đầu đen, khuôn mặt trắng, tấm thân thon dài của anh Denis dần nhô khỏi giếng cho đến khi lên ngang mặt đất, nhợt nhạt và váng vất, anh hấp háy mắt dưới ánh mặt trời. Chú Mike Connolly chìa tay cho Denis nắm lấy để leo khỏi giếng, bước ra mặt sỏi. Bàn tay anh run run đưa chai nước cho một người, đoạn lẳng lặng băng qua sân rời đi.
Tháng Chín, cùng chị Maeve, Tess sẽ tới học một trường nội trú của tu viện nữ tại thị trấn cách nhà hai mươi dặm. Từ mấy tuần trước, các bước sửa soạn cho việc này đã được tiến hành, quần áo mới cũng đã mua. Tess cảm tưởng đây là những ngày cuối cùng của mình. Em loanh quanh trong nhà, ngoài sân, lòng trĩu nặng. Tess ước cha để mắt tới mình, muốn ông nhận ra em sắp đi. Tess mong làm được gì đó khiến cha vui lòng, dù chỉ một lần.
Ở trường, đồng hành khắp nơi cùng Tess là những tiếng chuông ngân, mùi sáp cùng tiếng vọng bước chân em trên mặt sàn bóng lộn. Những giai điệu thánh ca vọng ra từ gian nhà nguyện in vào tâm trí một nỗi buồn man mác. Trong lớp, các giáo viên bận áo choàng đứng trên bục giảng, và một số người, chỉ bằng một từ hay một bàn tay đặt lên sách, đã mang đến những khơi gợi về tương lai, hay về một thế giới rộng lớn hơn khiến Tess như bay lên, thấy sáng tỏ và nhiều hứa hẹn. Đêm ở ký túc xá, tiếng động của bốn mươi cô bé đang ngon giấc hòa trộn cùng các suy nghĩ về nhà mình, về bé
Oliver, chị Claire, cha, anh Denis trong vẻ im lìm cố hữu. Có những tối em nằm khóc. Tess ước gì đưa được mọi người cùng đi, đem tất cả hòa nhập vào thế giới mới mẻ này. Hóa ra nhớ nhà là thế này đây, em nghĩ. Nhưng nỗi buồn này không hoàn toàn tệ. Trong đó có gì thực tế, chính đáng và mang tác dụng thanh tẩy khiến Tess muốn tiếp tục được chịu đựng. Đây là một cuộc sát hạch em phải vượt qua, một bức tường em phải phá vỡ. Em cảm thấy được an ủi trong suy nghĩ rằng chị Maeve đang ở đây, đâu đó tại tòa nhà này cũng có một người cùng chung dòng máu với em, tỏ tường quãng đời trước của em.
Tess yêu tất cả các môn học, ngoại trừ toán - đại số, lượng giác với công thức rối rắm của nó - và làm tốt các bài kiểm tra. Nhưng em luôn thận trọng, dè chừng. Chỉ giờ ngữ văn, lúc giáo viên đọc thơ Wordworth hay John Donne, là em tạm quên bẵng mình đang ở đâu và được âm thanh, hình ảnh đưa tới những làng mạc, dòng sông xa xôi, các nhà thờ vươn cao chạm đến thiên đường. Vào những thời khắc ấy, Tess cảm giác có gì đó ngay tầm tay, em đang tới gần một thứ chưa hẳn chạm tới được, nhưng chắc mẩm là đúng đắn, đẹp đẽ. Trong lớp Tess không ưa phát biểu và ở các dịp hiếm hoi khi được hỏi hay yêu cầu đọc một bài thơ khiến em xúc động, người Tess cứng đờ do e ngại sẽ phát ngôn điều gì ngốc nghếch và tự làm nhục mình. Tới lượt Tess đọc bài, các giáo viên chỉ hất đầu cho phép. Tess cầm chắc không ai trong số họ biết tên em.
Tess dần dà yêu gian nhà nguyện trong trường với ngọn đèn chầu* và những cửa sổ kính màu. Chủ nhật hay các ngày thánh linh thiêng - Ngày cầu vong, Tuần thánh, Ngũ tuần - linh mục cao giọng
đọc kinh, những bài tụng ca Thiên Chúa, tiếng La-tinh dội xuống em giờ đã dễ hiểu hơn nhiều. Dominus vobiscum [Chúa ở cùng các anh chị em]. Et cum spiritu tuo [Và ở cùng Cha]. Lư hương rung rinh theo tiếng nguyện, mùi hương, tiếng ngân vang từ các chùm chuông nhỏ. Song chính dàn đồng ca - các giọng hát trong trẻo thuần khiết - và những nốt nhạc buồn vang vọng của đàn organ đã khuấy động tâm can em. Bài Panis Angelicus [Bánh thiên thần]. Tantum Ergo [Đây bí tích diệu kỳ], O Salutaris Hostia [Ôi Mình Thánh cứu độ].
Năm thứ hai, cô giáo dạy môn La-tinh bị ốm và một thầy mới tên Brown tạm thay. Dáng thầy cao, tóc hoa râm, không bận áo choàng đen như các giáo viên khác. Dẫu sống ở thị trấn tỉnh lẻ, tiếng Anh của thầy không pha giọng Ireland - thậm chí có lẽ là giọng Anh thuần chất. Thầy luôn nói năng nhẹ nhàng. Tess nhận thấy tác phong lịch thiệp ở thầy: Không nhìn chằm chằm khi nữ sinh trả lời câu hỏi nhưng vẫn nghe chăm chú. Một hôm, giờ tan lớp, thầy bảo Tess nán lại.
Em đứng trước mặt thầy.
“Hóa ra nhà em cùng một chỗ với nhà tôi, trò Lohan ạ”, thầy bảo. “Địa chỉ của em trong danh sách học sinh khiến tôi chú ý”. Tess điếng người. Nỗi sợ lan khắp người: Thầy biết cha em; cha đã không trả học phí; em ở đây được là do lừa dối. Em là kẻ mạo danh.
Thầy nhìn em bên trên cặp kính, chờ đợi. Tess chẳng rõ thầy trông đợi chuyện gì. Thầy Brown ngả người dựa lưng vào ghế rồi bỏ kính ra.
“Tôi sinh ra trong ngôi nhà Easterfield”, kể tới đây thầy ngưng lại. “Tôi ở đó tới khi lên tám. Gia đình tôi đã bán nơi ấy đi, và mấy năm sau cha em mua căn nhà và một phần mảnh đất”.
Tess không thốt nên lời. Em chưa từng để tâm đến quá khứ Easterfield. Tess khó bề tưởng tượng con người này trong các gian phòng Easterfield, trên những cái giường ở đó, chạy băng băng qua các thửa ruộng đằng ấy.
“Ngôi nhà cũ giờ sao rồi em?” Thầy mỉm cười, tựa như đang hỏi thăm tin tức một người họ hàng.
“Thưa thầy tốt ạ”.
“Mái nhà vẫn dột chứ? Thỉnh thoảng lượng nước mưa ứ tại phần mái giao nhau sẽ tràn xuống trần”.
“Thưa thầy vâng, quả có một bận như vậy, dạo em còn bé xíu. Trần tầng hai đã bị hư hại. Em không nhớ nhưng vệt loang trên trần vẫn còn đó”.
“Và cha em vẫn canh tác trên đất đai nơi ấy chứ? Nuôi gia súc gia cầm hả?”
“Thưa thầy vâng”.
“Em có nhiều anh chị không? Một ông anh, người hẳn sẽ thừa hưởng chỗ đó?”
“Vâng ạ. Denis, anh trai em”.
Thầy nhìn Tess một chặp, dường như lâu lắm. Em nghĩ thầy sửa soạn thông báo về thăm Easterfield. Ngày mai thầy sẽ đưa em đi bằng ô tô và hai người sẽ đến không hề báo trước. Tess bắt đầu hoang mang.
“Tình cờ gặp em ở đây quả thú vị”. Nói đoạn thầy đưa mắt sang hướng khác, lặng im giây lát. “Em có biết lịch sử của Easterfield không? Em có biết ngôi nhà được xây hồi nào chăng?” “Dạ, có ạ. Chị em kể nhà xây vào năm 1678”.
Tess nhớ lại ngày ấy, hồi lớp năm, khi thầy Clarke ngưng bài giảng lịch sử giữa chừng và bảo em đứng lên kể cho cả lớp về Easterfield khiến Tess ngượng chín. Cha em mua ngôi nhà và một trăm mẫu đất hồi năm 1911, em kể lí nhí, rồi cha mẹ làm đám cưới năm 1925. Em không thuật lại chuyện có lần mẹ nói với em là ngôi nhà có 365 cửa sổ, mỗi cửa dành cho một ngày trong năm. Điều này không đúng; một bận em đã đếm và chỉ có cả thảy 37 ô cửa sổ. “Nhà em có một khu vườn cây ăn trái và hai cầu thang”. Tess kể, và chẳng thể nghĩ ra thêm điều gì khác.
“Thế thôi hả? Đấy là tất cả những gì em biết sao? Ngồi đi, trò Tess Lohan”. Thầy Clarke bảo, và nhìn cả lớp trước khi nói tiếp. “Ngôi nhà Easterfield cùng phần điền sản thuộc sở hữu gia đình Cannon từ năm 1678 đến những năm 1800. Vua Charles Đệ Nhị ban cho họ năm trăm mẫu đất. Ngôi nhà đóng cửa vào khoảng những năm 1830 nhưng rồi được mở lại làm bệnh xá làm phúc cho những kẻ ốm đau, đói khát giai đoạn 1840. Các dân địa phương”. Thầy ngừng lại, nhìn vào mắt từng đứa trẻ. Tess chỉ lo thầy chú ý tới em lần nữa.
Còn giờ đây thầy Brown thò tay vào cặp lôi ra một quyển sách. “Em biết rằng ngôi nhà từng là trạm xá trong nạn đói chứ?” “Dạ vâng”.
“Và rằng hàng trăm bệnh nhân đã chết ở đó? Chỉ mới gần đây thầy mới phát hiện ra điều này. Vài năm trước thầy có biên soạn một sử liệu về tất cả các ngôi nhà lớn và khu đất rộng trong vùng. Thầy khá sửng sốt với những gì tìm hiểu được về Easterfield. Nhiều bộ xương vô thừa nhận đã được chôn trên mảnh đất đó. Trong các mương rãnh, dưới mỏ đá, dưới các gốc cây sồi, dẻ gai, ở khắp nơi. Những nơi thầy nhớ mình từng chơi đùa... Họ đổ vôi bột lên xác người để ngăn mùi hôi thối”.
Thầy chìm dần vào suy tư. “Mãi sau này gia tộc thầy mới sở hữu Easterfield. Tôi tin chắc họ từng đối xử khá tốt với tá điền”. Tess gật đầu. Giờ thứ duy nhất em muốn là rời đi. Thầy đưa cuốn sách cho Tess. “Có lẽ em thích mượn cuốn này. Mai mang trả nhé”.
Sau đó, nằm trên giường, Tess hồi tưởng lại cuộc chuyện trò ở trường và những lời kháo của dân địa phương bên cái máy bơm nước của làng về việc từng nghe văng vẳng tiếng người đã khuất than khóc khi đi ngang Easterfield buổi đêm. Tess nhớ chiếc đu anh Denis buộc vào cái cây mọc trên điểm khai thác đá cho em với Oliver chơi, tiếng cười hai chị em khi bay qua đống đá. Trong tâm trí, em đang lướt khắp nông trại, ghi nhớ từng khoảnh ruộng, từng bụi cây. Em thấy các nhành cây trơ trụi giữa trời đông. Tess ớn lạnh, quấn chăn quanh người thật chặt và gắng thiếp đi.
S
4
au ba năm, việc học hành của Tess đột ngột chấm dứt. Chị Maeve đã đi học để làm cô giáo tại cao đẳng Carysfort ở Dublin và tiền nong giờ eo hẹp. Song không chỉ vậy. Trong dịp hè, Tess xa nhà sáu tuần tới đỡ đần chị Evelyn sau khi chị sinh đứa thứ ba. Việc nhà và gánh nặng chăm nom mấy đứa cháu khiến em mỏi mệt triền miên. Tess rơi vào tình trạng kiệt quệ lúc chập tối, mỗi hơi hít vào ngực lại nhói đau. Em càng lúc càng ho nhiều khiến chị Evelyn lo lắng phải mời bác sĩ.
Không lời nào đề cập em bị lao phổi nhưng đấy là căn bệnh mọi người đều lo ngại. Ở tu viện nữ, các cô gái biến mất một cách bí ẩn, để trở lại sau sáu tháng hoặc chẳng bao giờ. Dẫu lao phổi chẳng bao giờ được nhắc tới, nhưng nó, Tess ngờ, là căn nguyên khiến mẹ qua đời. Nó là lý do vì sao phòng mẹ được tẩy uế và cả nhà phải kiểm tra sức khỏe.
Rốt cuộc Tess bị viêm màng phổi; không phải lao phổi. Tuy nhiên, em vẫn phải nằm ba tháng trong bệnh viện ở Galway. Lúc vừa đặt chân vào khoa điều trị gồm toàn các khuôn mặt phụ nữ gầy rộc, xanh xao, tâm trạng Tess trầm hẳn. Em ngồi xuống giường mình, nhìn ra ngoài bầu trời một ngày lặng gió, thời gian phía trước như dài dằng dặc. Một bầy sáo đá bay lên tối sầm cả khoảng trời. Nỗi nhớ nhà, nhớ trường ùa đến. Lúc đó em hiểu ra và bắt đầu xót xa cho những thứ bị mất. Mệt rã rời, Tess nằm xuống, nhìn lên trần,
chờ phổi khô bớt và hơi thở êm hơn. Sau khi đã nghỉ ngơi, em đi kiếm sách đọc. Thư viện bệnh viện, nằm cuối một hành lang, là hai kệ xếp đầy những cuốn sách bìa mềm cũ rích. Đời các vị Thánh, Romeo và Juliet, Đỏ và Đen, Thế Giới thực vật. Tess vùi đầu đọc toàn bộ. Em đếm từng ngày chờ tới dịp anh Denis, chị Claire và cha vào thăm. Nhưng lúc người nhà tới lại chẳng có bao nhiêu chuyện để nói và chuyến thăm trôi qua chóng vánh. Khi mọi người ra về, Tess đứng trên cửa sổ trông xuống đám bệnh nhân đang lê gót dạo quanh dưới đất.
Người bệnh phần lớn là dân thị thành. Tuy nhiên có một thiếu niên, mấp mé thanh niên, cả thẹn, sải chân dài, tên Tony, là người thôn quê. Cậu cao ngộc, đầu luôn cúi, có đôi bàn tay to của nông dân. Tess thấy một sức mạnh kéo mình về phía cậu đồng thời cảm nhận cậu bị hút lại với em và càng lúc suy nghĩ của em càng hay xoay sang Tony. Nhưng đến một chiều có vụ việc om sòm xảy ra ở cuối phòng sinh hoạt chung. Một phụ nữ kêu thét lên: Có chuột. Bà thoáng thấy một con vật thân dài, nâu-trắng-loang-lổ như ngựa khoang của dân lang thang, đuôi dài bằng thân, bụng quét sàn, vừa phóng vút qua rồi mất hút vào lỗ nhỏ trong góc. Tony, mắt long sòng sọc, hùng hổ đuổi theo, lom khom thò ngón giữa rất dài vào cái lỗ. Hết lần này tới lần khác, cậu thọc ngón tay vào, moi móc, khua khoắng, điên cuồng tìm đủ cách bắt bằng được con chuột.
Quay về gia đình, dưới cùng mái nhà với cha, anh chị em, chú Mike Connolly, Tess trở lại nếp sống ở Easterfield, bị cuốn vào vòng xoay việc nhà và những tất bật bộn bề của nông trại. Dầu tự thấy
mình chẳng hề yếu ớt, cách nhìn nhận này vẫn gắn liền với em và Tess được miễn các nhiệm vụ nặng nhọc cũng như việc đồng áng. Em bắt đầu ghi lại các dấu mốc - sinh nhật các con chị Evelyn, Oliver rời trường công lập, cha thắng cá ngựa hai trăm bảng, điện về làng. Tess viết ngày tháng những sự kiện này lên bức tường quét vôi dưới gầm tối cầu thang sau. Tròn mười tám, em được anh Denis dạy lái xe và từ đó thường chở cha tới các hội chợ hay đám tang. Một ngày hè oi bức, cùng chị Maeve đang về chơi nhà nhân dịp được nghỉ dạy trên Dublin, Tess đánh xe đưa cha tới hội chợ mua bán cừu ngoài thị trấn và thả ông xuống giữa những khoảnh đất thả gia súc có rào quây, các xe chuyên chở cùng đám thương nhân. Chúi mũi ở dãy hàng quán cả tiếng đồng hồ, mặt mày đỏ gay, mệt nhoài và khát khô cổ, hai chị em bước vào khách sạn trên quảng trường. Trong phòng khách trải thảm gần chính sảnh, Maeve cùng Tess đang đứng trước quầy bar gọi hai cốc nước cam thì chợt thấy cha ngồi giữa một đám đàn ông trong góc phòng, đang trao đổi, cụng ly, cò kè ngã giá. Khi bắt gặp hai cô con gái, mặt cha sa sầm. Tỏ ra chẳng hề quen biết, ông không để mắt tới hai chị em lúc họ rời khỏi đó. Trên đường về, cái im lặng chất chứa giận dữ của cha choán đầy xe. Vào đến nhà, cơn thịnh nộ của ông bùng phát. Hai chúng bay không có chút liêm sỉ khi ngang nhiên vào quán bar, ngồi vắt vẻo trước lũ đàn ông hau háu. Hệt bọn gái bán hoa ngoài phố. Cười nói hơ hớ, ngồi phơi ra đó. Đem cha mình ra nhạo báng. “Sao mọi sự đều chống lại tao thế nhỉ?”
Con người cha đầy tràn bực dọc. Con cái đã học được cách không phản ứng lại tính bẳn gắt, cái im lìm cục cằn cùng tiếng thở
dài thườn thượt của cha. Cả nhà, mỗi người mỗi kiểu, đều biết cách xét đoán ông, cách tránh né cơn thịnh nộ của ông, cách trông trước ngó sau lợi dụng những lúc cha lơi lỏng quản lý. Suốt hè năm ấy, ba chị em gái, cùng Denis bên vô lăng, đã tham dự nhiều vũ hội do Hội Tiền phong* hay Liên đoàn Cày thi* tổ chức hoặc các cuộc hội hè trong nhà rạp ở mấy thị trấn quanh vùng. Trăm lần như một, sáng hôm sau sẽ có một cuộc điều tra: Chúng mày gặp gỡ những ai? Chuyện trò với quân nào? Lũ con nhà Burke có đó không? Tess luôn để anh chị trả lời. Em nhớ cảnh đám con trai xếp thành hàng một bên sàn nhảy còn con gái đứng phía đối diện. Tess nhảy với tất cả những ai mời mình, không phải bởi ham hố gì, mà do cảm nhận được nỗi sợ hãi mà những chàng trai đầy âu lo nhưng cũng tràn trề hy vọng này phải gánh khi bước tới mời, cũng như mặc cảm bẽ bàng ghê gớm họ phải hứng chịu nếu bị cự tuyệt.
Bỗng đâu có một lá thư của dì Molly, em gái mẹ hiện sống tại Mỹ, gửi về mời Claire qua. Ban đầu Tess cho đây là một lời mời đi chơi. Nhưng tên gọi, và hình ảnh xứ sở ấy, nước Mỹ, lại gợi lên cảnh đày ải biệt xứ và nỗi cô tịch triền miên. Những tuần tiếp sau, khi các khía cạnh thực tế của lời mời đã sáng tỏ - dì Molly kiếm được cho chị Claire một chỗ ở công ty điện thoại Cái Chuông nơi dì làm việc - và ngày khởi hành được ấn định, thì một nỗi lo sợ lại phủ lên Tess.
Tess không cùng anh Denis, Oliver và cha tới Cobh* để tiễn chị Claire. Em không muốn có ký ức về cuộc chia ly. Cảm giác mọi thứ tốt đẹp trong đời đều đang dần biến mất thật khôn kham. Sáng
sáng, Tess ngồi lặng trong không khí quạnh quẽ của ngôi nhà. Tess lôi ra tập giấy viết thư cùng phong bì rồi ngồi viết cho cả hai bệnh viện tại Dublin em từng nhiều lần nghe nói đến. Bằng nét chữ rõ ràng, Tess mô tả nỗi lòng thiết tha mong được đào tạo thành y tá. Em kê khai chi tiết học vấn của mình, khẳng định bản thân phù hợp với công việc ấy. Người mẹ đã khuất của tôi trước là y tá và tôi có nguyện vọng được tiếp tục truyền thống gia đình trong nghề này.
Một tháng trước sinh nhật thứ hai mươi, Tess nhận được thư của bệnh viện Mater, thông báo có thể dành cho em chân y tá tập sự, tùy thuộc kết quả cuộc phỏng vấn cũng như các giấy xác nhận tư cách và phải đóng một khoản phí. Một sáng tháng Chín, tại ga Woodlawn, Tess lên chuyến tàu hỏa chạy cắt ngang đất nước* tiến vào nơi chưa biết. Tới giữa vùng trung du, bầu trời bỗng tối sầm, đoàn tàu giảm tốc rồi dừng hẳn tại một địa phương nào đó. Trong toa có một sự im lặng huyền bí. Đột nhiên một tia sét ngoằn ngoèo xẻ bầu trời làm đôi. Giật mình khiếp hãi, Tess ngắm bầu trời sáng lòa khi từng tia chớp giận dữ vụt hiện, chói lòa rồi biến mất.
Tess trú trong ký túc xá dành cho y tá cùng các cô gái đến từ khắp miền đất nước. Hằng sáng nàng bận bộ đồng phục hồ bột, đi giày trắng tới nơi làm việc. Buổi tối, Tess tham dự các lớp học. Nàng hăng hái, và tiếp thu rất nhanh, cả lý thuyết lẫn thực hành. Ban đêm nàng ngồi trên giường, miệt mài với các giáo trình, thảng hoặc lại giật mình bởi tiếng còi tầm lanh lảnh bên ngoài. Cứ hai tuần Tess lại biên thư về cho cha, còn thư gửi chị Claire ở New York thì hầu như tuần nào nàng cũng viết. Vào ngày nghỉ, Tess dạo dọc phố
O’Connell, ngắm các ô kính trưng bày, thảng hoặc mới đặt chân vào cửa hiệu Clerys để sắm tất da chân hay áo len và một bận, nhân đợt giảm giá mùa đông, nàng mua một tấm áo khoác vải tuýt dệt họa tiết xương cá, cổ áo và cổ tay viền lông. Dù có cùng đi xem phim với một cô bạn quê ở Cork, nhưng Tess tránh hầu hết các dịp tụ tập giao lưu hay chơi tối. Nỗi thẹn thùng giữa chúng bạn và nhu cầu bức thiết cần hòa nhập đã gây nhiều âu lo tới nỗi khi bóng tối buông xuống, viễn cảnh sắp đi chơi cùng mọi người làm Tess tê liệt đến bất động, đôi khi thực sự phát ốm. Mỗi dịp có thể, nàng đều chọn làm ca đêm, ánh sáng dịu và cái yên tĩnh ở khoa điều trị mang lại điều thật gần với nỗi cô độc có thể có trong cuộc đời đi làm. Lúc bắt gặp ánh mắt đăm đăm của một bác sĩ trẻ trung quyến rũ cạnh giường bệnh, nàng đỏ mặt ngoảnh đi, lòng khát khao được đáp trả bằng một nụ cười hay lời nhận xét ve vãn, giống các cô gái khác vẫn làm. Tess làm thẻ ở thư viện Phibsborough, mỗi tuần tới mượn hai cuốn tiểu thuyết và dạo bộ dọc các nẻo đường trong thành phố hay xuống tận bờ sông. Một ngày nọ, dừng chân trước cổng một tòa nhà mới xây có bể bơi trên phố Townsend, nàng đọc tờ thông báo mở các lớp dạy bơi. Tess thấy hình ảnh mình đang cắt qua làn nước xanh tĩnh lặng bằng một đường bơi đơn độc. Suốt hai năm đào tạo, và sau đó ở cương vị một y tá, tuy niềm nở và lịch thiệp với đồng nghiệp nhưng nàng không tạo dựng được một tình bạn lâu bền nào.
Thỉnh thoảng, vào thứ Bảy ngày nghỉ, chị Maeve từ phòng trọ ở Blackrock vào chơi và hai chị em dạo quanh thành phố. Một bận, tháng Hai, khi đang ở trên lối ngoài Bưu điện Trung tâm, một tay thợ
ảnh dạo đã xuất hiện trước mặt và chụp họ. Khoác tay nhau bước, cả hai đều mang trang phục đang là mốt thời bấy giờ, áo khoác vải tuýt và giày đen mũi nhọn. Sau này, nhìn lại mình trong tấm ảnh, lần đầu Tess nhìn ra người con gái mà những người khác hẳn vẫn thấy - trẻ trung, khuôn mặt ưa nhìn với đôi mắt đang cười - một dáng dấp không ăn nhập với những gì nàng cất giữ trong lòng. Tess cho bức ảnh vào phong bì, viết mấy dòng và gửi cho chị Claire, qua địa chỉ của dì Molly, nhà số 731 mạn Tây Phố 183, New York. Nàng nhìn dòng địa chỉ hồi lâu. Phố 183. Tess đọc to dòng địa chỉ. Nàng nom thấy chị Claire ở đó, đang ngồi trên ghế. Chính thời khắc này, nàng cảm nhận được một điều gì, một con suối yêu thương từ nơi kia chảy vắt qua tới mình.
Ở mỗi chuyến về thăm Easterfield, các biến động như gom tụ lại. Thủ lĩnh đã ra đi. Một ngày nọ, nó len lén lết từ bóng râm ra nằm dưới bánh chiếc ô tô đang chạy vào sân. Cảnh tượng ấy cứ mãi hiện lên trong tâm trí nàng và Tess bồi hồi nhớ cặp mắt đen nhỏ chăm chắm vào mắt mình những đêm đưa nó lên phòng. Đã già lại đau ốm nên không còn đảm đương nổi các nhiệm vụ ở Easterfield như suốt gần ba lăm năm qua, chú Mike Connolly giờ chuyển về sống với người nhà ở Connemara.
Oliver đổi thay nhiều hơn bất kỳ ai. Điển trai, dong dỏng với mái tóc dày màu vàng cùng đôi mắt xanh láu lỉnh - quá khác diện mạo anh Denis đen đúa ưu tư. Em quyến rũ được cả lũ chim đậu trên cành đấy, Tess bảo em vậy. Và vẻ bảnh trai ở em sẽ bỏ bùa người ta cho mà xem, nàng thầm nghĩ. Oliver đã học lái xe. Việc tối tối em
nàng lấy xe đi quán rượu hay vũ hội bộc lộ chất hoang dã rành rành, thứ thường chẳng được dung thứ tại Easterfield, nhưng chả rõ vì đâu cha như không thấy. Quay về nhà, Tess trượt vào tâm lý hồi xưa trong quan hệ với cha mình - tôn kính, khép nép, phục tùng. Giờ nàng nhìn ra cha đã có tuổi. Một đêm trong bếp, ký ức chợt hiện về. Tess mới hai, ba tuổi, được cha đặt lên lưng ngựa. Thấy con gái sợ hãi, khóc thút thít, cha hạ em xuống, ghì vào khuôn mặt ấm áp của mình.
Một khoảng lặng yên bình bao trùm gian bếp, Tess quay qua cha hỏi “Để con cắt tóc cho cha nhé?”. Ông ngoảnh sang, còn nàng chờ ý mình bị gạt đi. Cha nhìn nàng ngỡ ngàng, sửng sốt, như thể chợt phát hiện bản thân xuất hiện ở một nơi nào khác. Cằm run run, ông cụp mắt xuống. Tess thấy lòng ngập tràn thương yêu. Lần đầu nàng nhận ra tất thảy những gì cha đã gánh vác. Giữ cho trong ấm ngoài êm, giữ cho cả bản thân ông được vững vàng, luôn sẵn sàng chống chọi với một cơn phong ba nữa. Tess đứng lên, phủ cái khăn lên vai cha và bắt đầu cắt tóc. Cả hai không nói một lời. Cái lặng yên đồng tình ở cha khiến nàng rưng rưng. Tess nhẹ nhàng bới từng lọn tóc lên cắt, tiếng kéo xoèn xoẹt ở khoảng không giữa họ, tóc lả tả mặt sàn. Và nỗi đau của cha, cho tất cả những gì đã mất, nằm lặng trong ông.
PHẦN 2
C
5
uối mùa hè năm 1962, Tess đi New York trên chuyến bay của TWA* khởi hành từ sân bay Shannon. Sáng đó trước khi đi, cha đưa nàng một tờ năm mươi bảng rồi trịnh trọng bắt tay, vẻ ngượng nghịu. Anh Denis và Maeve, cùng chị Evelyn đội mũ và lại đang có mang, đã ngồi đợi sẵn trong ô tô. Khi xe chuyển bánh, Tess quay lại ngắm ngôi nhà, mắt nàng nấn ná ở những cửa sổ tầng trên, rồi chuyển qua cánh đồng. Đi được phân nửa con đường trước nhà, anh Denis dừng xe lấy thứ gì đó trong cốp. Tess quay qua ngắm cây tần bì nằm lẻ loi giữa vạt dẻ gai và thấy, lần đầu tiên, một vòng dây thép gai cắm ngập vào thân cây làm sinh ra nhiều nếp cuộn cùng đoạn phình đau đớn phủ lên các ngạnh sắt. Denis trở vào xe, họ đi tiếp. Làm sao trước đây nàng không thấy thứ nọ nhỉ? Ai đã làm việc ấy? Đây là đất nhà Lohan, cây nhà Lohan. Vậy đó hẳn do bàn tay nhà Lohan.
Ở sân bay, ngọn gió mùa hè thổi bay mũ của Evelyn khiến chị phải đuổi theo, và tất cả bật cười. Đây sẽ là ký ức của mình, Tess thầm nhủ. Khi chia tay, mọi người rẩy nước thánh vào Tess còn nàng thì cầu nguyện. Anh Denis cúi gằm, cánh tay dài buông thõng, và Tess lại nhớ tới cây tần bì bị thương kia.
Trước lúc cất cánh, Tess bị một phen khiếp đảm. Chiếc máy bay gầm rú dọc đường băng khiến nàng chúi xuống, co rúm lại. Đây không phải đang bay, Tess kinh hãi nghĩ, mà đi chết. Khi càng bánh
rút lên, máy bay nâng độ cao, Tess bịt chặt tai. Sực nhớ ra hôm nay là 15 tháng Tám, ngày lễ Đức Mẹ Lên Trời, nàng thôi không sợ nữa. Chúa sẽ chẳng để một chiếc máy bay rơi vào ngày lễ của Đức Mẹ đâu. Tess tràn trề niềm tin, giống đứa trẻ vừa được vỗ về an ủi. Tiếng rú đã tắt, phi cơ bay theo mặt phẳng ngang, nàng mở choàng mắt. Người ta đang bay trên Trái Đất. Họ đã phá không, chui vào trong xanh. Chói chang. Huy hoàng. Nhất thời mọi nghĩ suy đều ngưng đọng, chỉ còn một thứ: một lóe hiện, một thấp thoáng, cảm giác cách cái thuần khiết, siêu phàm chỉ một nháy mắt, gần sát thánh thần trong đường tơ kẽ tóc. Rồi cái trong trẻo, niềm hân hoan chớp nhoáng ấy vụt biến mất. Tess ngẩng lên và thấy các hành khách khác ngồi đọc báo, gà gật hoặc lặng lẽ thưởng ngoạn cảnh vật.
Chồng chị Claire, anh Peter, một chàng Mỹ gốc Ireland cao lớn, đẹp trai, đang chờ Tess ở sân bay Idlewild. Ngượng nghịu, nàng leo lên xe để anh rể chở tới Peekskill bên dòng Hudson, nơi Peter có thuê một căn nhà nghỉ mùa hè. Hết thảy đều khác lạ - đường cao tốc, bầu trời, những cánh rừng xa xa. Một đất nước mênh mông, xanh, sạch và hoàn mỹ. Những chiếc xe tải, với bánh xe crôm khổng lồ và người tài xế vô hình ngồi trên khoang lái cao ngất, ầm ầm vút qua. Trong một thoáng, nàng quên phắt mình đang ở đâu. Các cây kia là giống cây tùng, Peter bảo. Răng anh trắng, sáng bóng. Cây tùng, Tess thầm nói. Cái tên đẹp, loài cây đẹp. Họ dừng xe trước một thanh chắn và trả phí, để được đi trên con đường.
Kia rồi, đứng giữa bãi cỏ trước ngôi nhà nghỉ thấp tè dựng nhô ra mặt sông là chị Claire, cùng một đứa trẻ dưới chân, và đứa khác
trong bụng. Không thốt nên lời, họ ôm ghì lấy nhau. Lúc tách ra, mắt hai người ướt đẫm. Dì Molly, dáng vóc đồ sộ, phong thái sôi nổi, mái tóc trắng xù quăn tít, đã từ thành phố lên mừng đón Tess. Họ bước ra sân sau. Lát sau, cả gia đình họ mạc của Peter kéo tới và anh nhóm cái bếp nướng thịt ngoài trời rồi rót đồ uống còn mọi người dạo quanh bể bơi. Bên ngoài, những chiếc ô tô Mỹ to kềnh lướt ngang. Trong những giờ phút, tháng ngày sau đó, Tess thỉnh thoảng lại ngỡ ngàng ngó quanh vào bọn trẻ, xe cộ, bể bơi, những ô kính lấy sáng và cái thế giới tràn-trề-nắng nàng thình lình sa vào. Một đôi lần Tess nhớ nhà cồn cào, nhớ chiếc mũ của chị Evelyn, cây tần bì bị thương. Rồi nàng dần quên. Chiều tối lũ dế cất tiếng hát. Anh Peter tiến lại từ đằng sau, xoa lưng chị Claire và âu yếm ngắm cái bụng ễnh ra của vợ. Đấy là điều anh ấy đã làm với chị mình, Tess thầm nghĩ. Hành động của yêu thương, của dục tình, trên người chị nàng. Trong một cuốn sách, có bận, Tess đọc thấy câu đứa con dứt ruột đẻ ra. Nàng nhớ lại những đêm trèo lên giường của Claire và thiếp đi trong vòng tay chị. Giờ hai chị em nhìn nhau. Trong ánh mắt có một sự thừa nhận, một lời tuyên bố, một câu khẳng định rằng mọi thứ cuối cùng đã an bài, và cuộc đời nơi đây là đáng sống, là lý tưởng.
Những tháng kế tiếp, Tess chậm chạp dần hòa nhập với nhịp điệu của thành phố, với các chất giọng và mạng lưới phố xá cùng hệ thống tàu điện ngầm, những khuôn mặt da đen trên vỉa hè, tiếng còi hú trong đêm, những cửa hiệu bán đồ năm-xu-một-hào ăm ắp hàng hóa, các tòa nhà mọc lên từng ngày từ những mảnh đất còn trống trên phố. Với cả những cụm từ mới - sách bỏ túi, thịt xay tẩm
gia vị nướng sẵn đóng bánh, đậu ngự, thạch trái cây. Vị cà phê, áo quần dễ thương, rẻ và ôm lấy người. Sự dồi dào có ở mọi thứ. Tháng Chín, Tess bắt đầu đi làm ở Bệnh viện Presbyterian trên phố 68 mạn Đông, và ở các tuần đầu, ngày nào nàng cũng đẩy xe phát thuốc dọc những hành lang dài đầy bóng đồng nghiệp dày dạn kinh nghiệm để lấy máu, lắng nghe, học hỏi, thực hiện các nhiệm vụ được trông đợi khi chúng đến tay, với con tim rộn rã. Từ lúc nào chẳng hay, Tess đã sửa giọng để người ta hiểu được mình, và chỉnh cách viết cho tới khi đạt cái thanh thoát, nghiêng nghiêng của nét chữ dân Mỹ. Ở căng tin, nàng thường ngồi một mình. Cái lẻ loi đơn côi mỗi sáng vẫn theo nàng từ nhà và chỉ bị phận sự che mờ chốc lát, giờ lại phủ xuống. Tối tối, trong căn hộ của dì Molly, Tess học miệt mài hòng giành chứng chỉ y tá hay cùng dì và một vị khách trọ - ông Fritz, người Đức ở độ tuổi sáu mươi - ngồi ở phòng khách quạt quay vù vù, xem chương trình tivi Tôi yêu Lucy hay The Jack Parr. Khi khán giả phá lên cười, Tess thấy mình lạc lõng, giữa những người lạ. Mệt nhoài và nhớ nhà da diết, nàng lên giường, lầm rầm đọc Kinh Mân Côi rồi co ro, thao thức rất lâu dưới tấm mền vải bông. Tess choàng tỉnh sau giấc ngủ ngắn ngủi như chỉ được vài phút đồng hồ bởi tiếng xe tải chở rác lọc cọc dưới phố và mối lo âu mơ hồ luôn nếm trải khi ánh bình minh ló rạng.
Ông Fritz là thợ cơ khí ở một xưởng máy khu trung tâm. Trong căn hộ của dì Molly, ông đảm nhiệm sửa chữa, đỡ đần việc vặt và cứ thứ Sáu lại giúp khuân về các nhu yếu phẩm từ cửa hàng Safeway trên phố 183. Tối thứ Bảy hằng tuần, ông và dì Molly ngồi ở phòng khách nhấm nháp whisky - ông Fritz, từng ly nhỏ, dì,
whisky pha soda trong cốc vại. Các chiều muộn ngày thường, cả ba quây quần dùng món thịt om hoặc đùi lợn muối xắt miếng ăn với khoai lang. Sau khi cùng Tess thu dọn, ông Fritz dò đài tìm một chương trình phát nhạc Jazz nghe suốt tối. Một lần, lúc ông đang lúi húi dò sóng, Tess chợt gặp một khúc hát quen rồi chìm vào giai điệu của nó đến quên cả bản thân cho tới khi nhận ra ánh mắt ông Fritz đang nhìn. Tối sau, ông bước vào trao cho nàng một chiếc hộp. “Có cái này cho cháu đây”, ông bảo, bằng giọng rầu rĩ của mình. Bên trong là một cái đài bán dẫn. Ấm đun nước trên bếp lò cất tiếng reo vang. Tess đăm đắm nhìn những đuôi lửa dưới ấm, cái đẹp xanh lè mong manh của chúng, rồi lúc ngước lên ông Fritz nàng bị ký ức về mái nhà xưa và chú Mike Connolly nhấn chìm.
Một ngày thứ Bảy, họ bắt xe buýt qua cầu George Washington sang New Jersey dự lễ rửa tội đứa con mới lọt lòng của chị Claire. Ông Fritz xách mấy cái túi đựng gà rán, salát đậu và bia. Tess đã mua mấy món quà cho cậu con trai nhỏ xíu của chị, cháu Patrick, và cả cho Elizabeth, em bé sơ sinh được đặt tên theo bà ngoại. Anh Peter đón mọi người tại bến xe và chở tới một con phố toàn nhà có hàng hiên, lối xe ô tô chạy vào tận nhà cùng mặt cỏ thoai thoải, kiểu nhà giờ trở nên quen thuộc với Tess qua ti vi.
Dì Molly và ông Fritz phụ trách việc bếp núc. Chị Claire dẫn Tess lên tầng trên thăm em bé. Nhìn đứa trẻ, Tess nghẹn ngào. Nàng nghĩ đây quả là một điều kỳ diệu. Từ Claire, cháu ra đời, phôi thai từ máu thịt mẹ. Thật gần gũi về bản chất sinh học với chính nàng, trong các huyết quản bé cũng đang chảy dòng máu nàng. Dòng
máu kia gắn kết tất cả chúng ta, Tess nhủ thầm, trong hiện tại và quá khứ. Tess cúi nhìn đứa nhỏ, ngó xuống cặp mắt nhắm nghiền. Một tấm bảng đá trong sáng, thanh khiết, không tì vết. Vừa chào đời, vừa đi ra từ lãnh địa của người khác.
Có tiếng thút thít nhỏ, rồi giọng o oe và chị Claire bế đứa trẻ lên dỗ dành. Tess dợm bước chực đi nhưng Claire thì thào giữ lại. Mấy tấm rèm đã buông và ngọn đèn nhỏ tỏa một quầng hồng trong căn phòng. Tess thoáng bắt gặp bộ ngực trần trắng ngần và núm vú căng mọng của chị hướng vào miệng con.
“Chị phải báo với em việc này”, Claire nói, không hề ngước lên. “Bọn chị sắp chuyển tới California. Người ta thuyên chuyển anh Peter qua đó”.
Có tiếng chân ngoài hành lang, một giọng trẻ con cất lên. Bé Patrick đẩy cửa chạy vào. “Dì có ra ngoài này xem cái này với cháu không nào?” Bàn tay Claire run run khi đưa ra xoa đầu cậu con trai.
Họ lên ô tô tới nhà thờ làm lễ đặt tên. Buổi chiều, khách khứa đến đầy nhà, lũ trẻ nô giỡn khắp nơi. Người lớn tụ tập trong các gian phòng không vách ngăn, tràn ra cả khoảnh sân sau. Tới chạng vạng, mọi người đã chếnh choáng, ngả ngốn dựa tường, cười nói. Tess đứng riêng, nhấm nháp chút bia và trông chừng lũ trẻ ở bể bơi. Nàng nhìn đồng hồ, thầm cộng thêm năm tiếng. Trong óc nàng hiện ra bản đồ nước Mỹ, đường viền duyên hải phía tây, cảnh các đoàn xe ngựa băng qua thảo nguyên rộng lớn trên ti vi từng chiếu. Peter đang chuyện trò với mấy đồng nghiệp, hai người đàn ông và một cô gái. Hút xì gà, tay cầm ly rượu chát, anh ngả người đụng nhẹ vào cô gái rồi nói điều gì đó. Mấy ngọn đèn trong vườn đã được bật.
Tess rời sang một góc yên ắng. California có nhiều động đất. Chú nàng, em ruột cha, đã chuyển tới đó ba năm trước và chẳng bao giờ còn trở về được nữa.
Cô gái nọ giờ đã tách khỏi Peter, lượn lờ từ tốp này sang tốp khác, nắm níu những cánh tay đàn ông. Chị Claire bước ra, đứng bên Tess, mỉm cười. Dường như dáng vóc chị nhỏ bé, gầy mòn hơn. Rồi Claire quay nhìn đi chỗ khác, nụ cười phai nhạt. Tess ngoảnh lại, thấy Peter sải bước ngang sân rồi lẳng lặng bê thốc cô ả nọ ném xuống bể bơi.
Trong thành phố, Tess cảm nhận được tâm trạng lo âu trên mỗi nẻo đường, và ngày qua ngày, cái thấp thỏm ấy ngấm vào nàng. Trên ti vi, các dàn tên lửa, các đầu đạn, tàu chiến, đang hướng về phía Cuba. Dấu chấm hết của thế giới. Ông Fritz ngồi im lìm, ủ rũ. Mỗi sáng Tess lại cảm giác có một tai họa đang tới, ngày tận thế sắp xảy ra, những vụ nổ kinh hoàng và các cơn bão lửa lóe lên trong óc nàng. Tess nghĩ về mái nhà mình, về cha, cảnh chị Evelyn trong ngôi nhà đầy trẻ con và mối hiểm họa đang trôi lại gần. Chẳng còn ai an toàn nữa. Ngày nọ nàng thấy một bà nhà giàu dẫn bầy trẻ nhà mình ra taxi để chở đi. Chỗ nào cũng tản cư, người người nín thở, ngó trông nhau. Tựa như tất cả chúng ta là anh chị em, Tess nghĩ thầm. Một tối ngài tổng thống có bài diễn văn gửi cả nước. Nàng bị thu hút bởi vẻ đẹp của ông, nỗi đau ông mang, tựa như chính câu chữ cũng làm ông tổn thương vậy. Xin đa tạ và chúc quý vị ngủ ngon.
Và rồi các hạm đội quay đầu trở về. Nỗi sợ và ước vọng chung
đã gắn kết mọi người với nhau, nàng viết cho cha, và giờ việc chúng qua đi mang đến thứ khác cho phố phường: hi vọng tình yêu. Tess tìm thấy ngôn ngữ mới - đất nước này cho nàng một cách nghĩ, cách nói mới. Chiểu thứ Bảy, ông Fritz đưa nàng tới rạp Thiên Đường của Loew ở quận Bronx. Giữa sảnh giải lao có một đài phun nước làm bằng đá hoa cương từ Ý, trên khắp mặt tường trang hoàng các bức bích họa và dây leo che phủ. Ngồi lút ở chiếc ghế bọc nhung trong rạp chiếu tối đen như mực, ngước lên Tess thấy cả một vòm trời sáng trăng, muôn vàn vì sao lấp lánh cùng những đám mây bay ngang. Một tuần sau, nàng quay lại quận Bronx mua liền năm cái váy từ một cửa hiệu thời trang, cái sau đẹp và điệu đà hơn cái trước, bởi giờ nàng hoàn toàn có thể làm vậy. Rời chuyến tàu điện ngầm đưa nàng trở lại phố 181, Tess lâng lâng trôi trên hè phố, dưới mặt trời mùa thu, và chợt thấy hạnh phúc giữa cuộc sống ồn ào, hối hả nơi đây.
T
6
ừng tháng lại từng tháng trong năm đầu tiên ấy, Tess dần tìm được nhịp sống cho mình nơi thành phố. Tảng sáng trở dậy, đi tàu điện ngầm vào khu trung tâm, dành cả ngày sống giữa các bệnh nhân và đồng nghiệp trong khoa. Ngày Chủ nhật được nghỉ, nàng chịu lễ misa cùng dì Molly ở nhà nguyện của bệnh viện Thánh Elizabeth. Những buổi khác, nàng tới thư viện trên phố 179 mạn Tây, lướt qua các giá sách rồi ngồi xuống một bàn đọc. Tess đã hiểu ra mình có thế sống ở bất kỳ đâu, miễn nơi ấy có người của nàng - một ai đó thân thích, ruột rà. Chị Claire đã chuyển tới bang San Francisco hồi đầu năm. Vẫn cùng xứ sở này, nàng nghĩ, chị vẫn có mặt trên cùng một mảnh đất với mình.
Thỉnh thoảng, Tess đi mua sắm hoặc tham dự buổi họp mặt cùng các y tá người Ireland tại công viên Gaelic, quận Bronx. Nàng thèm được buông thả trong cái vui tươi, bồng bột của họ. Ở giữa đám đông khiến nàng thấy lẻ loi, thậm chí nhiều lúc hoang mang. Tess cảm giác mình lạc lõng. Các câu chuyện giữa mọi người, những mơ ước họ mang, với nàng dường như chỉ là thứ giả tạo, vòng vo và cần phải đào sâu thêm để tới được cốt lõi vấn đề, những trao đổi thực sự. Tess nhận thấy mình đang mong gặp được ai đó có cùng cảm xúc ấy. Ngày nọ, bên giường của bệnh nhân, vào thời khắc lâm chung đau đớn, nhìn vào mắt người bác sĩ điều trị và anh cũng nhìn vào mắt nàng, Tess cảm nhận sự đồng cảm cùng anh. Đó chính là
thứ nàng mong mỏi. Những cuốn sách đã hé lộ cho nàng về sự tồn tại của nó. Có lẽ điều ấy, thậm chí cả những con người ấy, chỉ tồn tại trong các cuốn sách. Khi đó Tess đang đọc cuốn Bác sĩ Zhivago. Giờ nghỉ trưa, nàng ngồi ở góc căng tin và được sách mang đi thật xa. Nàng là nhân vật Lara ở trạm xá tiền phương. Yuri đang bặt vô âm tín. Nàng lội bộ trong tuyết, cảm nhận nỗi đau nhức nhối tận tâm can họ. Đôi lần Tess bật khóc. Những cảm giác ấy gợi nhắc giây phút tuổi ấu thơ, khi nàng khác xa bây giờ nhưng cũng cảm nhận sự bình yên này, như thể hồi đó bé Tess đã đi vào được một chiều kích khác có chứa sẵn đáp án cho câu hỏi bản thân em chưa thể đặt ra. Nàng rời mắt khỏi trang sách, ngước lên. Tuy biết rõ tri thức kia tồn tại, Tess vẫn không dám chắc có thể đạt tới hay tìm lại được không. Hoặc chí ít người làm được không phải nàng. Tess thậm chí không biết câu hỏi kia là gì, chỉ cảm giác được những gợi mở mơ hồ. Dạng tri thức như thế quá sức nàng, đòi nhiều trí thông minh hơn hay phải học hỏi thêm, hoặc cần khả năng cảm nhận cao hơn mức nàng có. Nghĩ tới đây, Tess dần ngán ngẩm. Nàng đứng lên, trở lại với cái hối hả trong khoa điều trị, với tiếng lanh canh của các xe đẩy và bô người bệnh, với tiếng máy móc ì ì.
✠✠✠
Đầu xuân, Tess được chuyển qua làm ở tòa nhà Harkness* sang trọng có cổng mở thẳng ra phố 168, là phân khu dành riêng cho các bệnh nhân thượng lưu. Tại đây nàng kết thân cùng một y tá người Ireland gốc gác Wexford, cô Anne Beckett, qua Mỹ từ dăm năm trước và đã đính hôn. Hai người cùng dự lễ rước Ngày Thánh
Patrick trên đại lộ số 5 và ngay trước lễ Phục sinh, họ chung nhau mướn một căn hộ tầng-năm-không-thang-máy, tại số 471 phố Academy, Inwood . Căn hộ chẳng có đồ đạc gì ngoại trừ trong mỗi phòng ngủ đặt một giường đơn. Hai cô bạn mua lại của cặp sống ở tầng trên một cái bàn, bốn ghế tựa và chiếc sô-pha. Họ sắm sửa bát đĩa, nồi niêu cùng mấy tấm rèm sáng màu cho phòng ngủ. Hai người nấu chung bữa tối rồi ngồi ăn ở bàn bếp và Anne kể chuyện các ngôi sao màn bạc và ca sĩ từng là bệnh nhân. Marilyn Monroe đã từng ở chái nhà điều trị bệnh tâm thần, tuy Anne không chăm nom cho cô ta. Anne từng săn sóc Elizabeth Taylor, bà Rooservelt và nhạc sĩ Cole Porter với cái chân gỗ ông này đặt tên là Geraldine.
Tess viết thư cho cậu em Oliver.
Ôi Oliver ơi, em nhất định phải qua đây. Giờ chỗ dì Molly đang có phòng trống. Chị hay nghĩ đến em, anh Denis và cha lắm. Cả tâm tính khó chịu cùng cái lẳng lặng của ông nữa. Chị e ông sẽ chẳng bao giờ thay đổi. Có lẽ Easterfield là duyên cớ khiến ai cũng im lìm. Ở đó chẳng có gì cho em đâu Oliver ạ. Còn tại đây em có thể trở thành bất kỳ ai. Bất cứ điều gì em mơ ước. Anh Denis thế nào? Ôi Denis đáng thương... Chị nhớ da diết cả nhà. Có đêm chị mơ thấy chú Mike Connolly. Chú ấy đang đứng bên chiếc giếng cũ trong sân. Em còn nhớ lần cha thả cái máy bơm chứ? Anh Denis trèo xuống lấy mẫu nước còn chú Mike giữ sợi thừng...
✠✠✠
Một sáng Chủ nhật tháng Năm, Tess tỉnh giấc bởi tiếng cười nói rôm rả trong bếp. Anne trở về sau ca trực đêm, Tim chồng chưa
cưới của cô và em trai của Anne cùng mấy thanh niên vừa từ Ireland qua đang ghé chơi. Họ rán trứng và bánh quế. Bước vào bếp, cảnh tượng cả đám ngồi quanh bàn khiến Tess nhớ lại những tối hè tự thuở nào ở Easterfield, lúc trà đang được pha còn đài bật oang oang, trước thời cái im lặng giành được quyền kiểm soát. Lúc này đài cũng đang mở, điểm số trận đấu bóng chuyền được một giọng đẹp và ngọt như mật thông báo, tuy nhiên cả nhóm hầu như chẳng để vào tai, họ đang toàn tâm toàn ý vào cuộc chuyện trò. Tiếng địa phương quen thuộc khiến Tess dễ chịu. Một anh chàng cả thẹn quê ở hạt Kerry cầm theo đĩa trứng của mình, đứng lên nhường ghế cho nàng. Tess đưa mắt nhìn các khuôn mặt cởi mở, hạnh phúc và ngồi xuống giữa họ.
Sau đó cả nhóm đưa nhau ra chơi công viên, trước khi từ biệt còn nài Tess nhập bọn. Ngồi giữa đống bát đĩa, Tess thấy ngày trải dài đằng đẵng trước mặt. Nàng nhìn những vết trứng dính trên đĩa, mớ cốc đã uống cạn, mấy cái ghế bị đẩy ra xa bàn. Còn thứ gì đó của những con người kia phảng phất quanh đây. Mặt trời chiếu vào cửa sổ và đổ nắng lên hũ mứt cam, lên miếng vỏ cam dày trong đó.
Tess băng qua mấy dãy phố ra đại lộ Broadway. Vươn cao trước mặt nàng là những ngọn cây trong công viên Inwood Hill. Tess rẽ trái, bước vào thư viện nằm tại giao cắt đường Broadway và phố Dyckman. Không khí tĩnh lặng và im ắng đầy tập trung của nơi đây mang đến hạnh phúc. Một cuốn sách mỹ thuật khổ lớn mở rộng trên bàn. Tess lật vài trang, hoa mắt trước màu sắc, vàng cùng da cam và xanh lơ, cũng như sắc độ mãnh liệt của chúng. Một quán cà phê
hè phố buổi tối. Một phòng ngủ lạ lẫm đơn sơ đưa đến mối dụ hoặc, nỗi khao khát tuổi ấu thơ. Một bãi thả với đàn bò khiến tim nàng thắt lại. Tess chằm chằm ngắm bãi cỏ, mấy con bò, buồn và thân quen. Nàng bắt đầu đọc. Nhà danh họa đã cắt tai mình, đã chết dưới chính tay mình. Tess lật từng trang. Những lá thư gửi cho người em trai. Tấm lòng vàng của Theo* khiến nàng xúc động. Và cuộc đời ấy, những dòng chữ ấy...
Anh thường có cảm giác mình là lữ khách đang trên đường tới một nơi nào đó, một đích đến... Anh cảm nhận một ngọn lửa trong người... những kẻ đi ngang qua chỉ thấy chút khói... Anh biết bản thân có thể trở thành một kẻ hoàn toàn khác. Trong con người anh có thứ gì đó.
Đang bước dọc phố, bất giác Tess bật khóc. Nàng gắng gượng chú tâm vào bước chân, gắng bước theo nhịp cố định trên quãng đường giữa hai cây mọc liền kề. Khi nước mắt ngừng tuôn, Tess thấy mọi thứ sáng rõ. Từng khuôn mặt người, mũi và cặp mắt, hàng khuy trên áo sơ mi họ, cái run rẩy của lá. Cái đẹp khắp mọi nơi. Đi được một đoạn ngắn, trong Tess một không gian bắt đầu mở ra, như hệ quả của nỗi đau. Tess đứng sững trên hè phố, như trong mơ. Tĩnh lặng. Ánh sáng. Con người nàng đã sẵn sàng lột xác.
Tess vào công viên lúc chiều tà. Cách một thảm cỏ, nàng thấy họ nơi bờ dốc thoai thoải trước một luống hoa rực rỡ, nhóm giờ đông hơn, đang ngả ngốn, cười đùa, hút thuốc. Từ hướng bắc, Tess theo lối nhỏ lại gần. Tức khắc nàng thấy anh, một người lạ mặt, ngồi hơi tách ra. Dong dỏng, tóc vàng. Anh đang chuyện trò cùng Tim và khi nàng tới gần, anh ngước lên rồi chìm vào im lặng và Tess cảm nhận
một tín hiệu mãnh liệt. Những phút sau đó anh chẳng một lần để mắt tới nàng, và Tess cũng không thể chịu đựng nổi việc nhìn anh lần nữa.
Anh tên David. Là anh họ của Anne, tới từ Dublin, chín tháng nay làm cho một công ty luật ở vùng đệm giữa khu trung tâm và ngoại ô. Anh gợi cho nàng nhớ tới Oliver nhưng trắng trẻo hơn, lặng lẽ hơn.
Sau đó, Tess chợt thấy mình đang ngồi cạnh David. Anh giơ tay chuyển lon soda cho nàng. Tess nhận ra anh thuận tay trái và sau đó để ý đến anh hơn. David đã học đại học. Giữa dân thị thành, giữa những người học cao, Tess thấy mình thấp kém, luôn thế. Giọng anh là của dân thành phố. Giờ Tess ý thức sâu sắc gốc gác của mình. Nàng nói từng được đào tạo tại bệnh viện Mater.
“Tôi lớn lên ở Glasnevin, chẳng xa Mater là mấy”, anh bảo. David mỉm cười với nàng. Tess bảo mình thường tới chơi công viên Botanic ở Glasnevin vào ngày nghỉ. Nàng từng thấy một cây thông Chi-lê ở đó. Trước đó Tess chưa từng nghe nói tới loài cây này.
“Công viên ấy ngay gần nhà tôi”, anh bảo. Họ có lẽ đã từng đi ngang qua nhau trên phố. Rồi anh lặng im, như thể đang suy xét những lời định nói. Đôi cánh tay anh rám nắng, với lớp lông rậm màu vàng.
“Dạo lên mười”, anh kể, “tôi thấy một cái cây bị sét đánh. Tôi cùng cậu em. Cái cây biến thành ngọn đuốc ngay trước mắt hai đứa. Tôi sợ hết hồn, chân mọc rễ... như dưới tác động của một dạng phép thuật vậy”.
Tess kể cho anh về công việc, về nhà mình, về các nếp cuộn trên thân dẻ gai và tần bì. Chân anh dài, khỏe, săn chắc. Nhìn chúng
khiến nàng thẹn thùng.
“Tôi có ông chú, làm giáo viên, ở Úc”, anh nói. “Có lần chú viết thư kể một chuyện xảy ra trong rừng rậm, nhiều năm về trước, khi toán cảnh sát lùng tìm những kẻ ngoài vòng pháp luật kiểu Ned Kelly. Họ đốt một cái cây để sưởi cho qua đêm lạnh giá. Tìm thấy một cái cây chết vẫn đứng thẳng, họ bèn để nguyên thế châm lửa đốt rồi vây quanh. Từ xa, lũ tội phạm trông thấy cái cây cháy rừng rực bèn cao chạy xa bay, tranh thủ lẩn thật xa suốt đêm ấy”.
Anh có đôi bàn tay thật đẹp. Khác xa Denis và Oliver, cuộc đời anh quá trơn tru đến nỗi nàng thấy xót xa cho người anh cùng đứa em trai, cho hết thảy những gì họ thiếu thốn. Nghĩ tới đây Tess thấy mình vừa đột nhiên phản bội người thân.
“Anh có thích ở đây, New York này không?”
Anh nhìn cắt qua công viên. “Có, tôi nghĩ là có. Tôi không ưa các buổi tối. Những buổi tối cuối hạ khi...”
David bỏ lửng. Anh lôi bao thuốc ra mời nàng một điếu. Tess lắc đầu. David châm thuốc rồi phà khói. Tess cảm nhận từng hơi thở, từng cái co ở mỗi cơ bắp, chỗ ánh mắt anh đậu xuống, đôi bàn tay anh. Việc chú tâm và đồng điệu thế này với một chàng trai, một người lạ, khiến nàng kích động, bối rối. Châm thêm điếu nữa, giờ nom David thật ưu tư. Như chực nói với nàng một điều gì, nhưng rồi anh đứng lên bỏ đi và Tess cảm thấy sự lìa xa này giống như mất mát.
Sau đó, khi họ lại có dịp gần nhau, David không nói gì nhiều. Ở anh toát ra chút bực bội, như thể ân hận vì tất cả những gì đã nói cùng nàng. Rồi nỗi im lặng, một tấm vải liệm, bắt đầu bao bọc họ.
Thứ ấy cuốn mọi lời lẽ của nàng đi mất.
T
7
ừ xa, anh tác động mãnh liệt đến nàng. Van nài cô đơn làm phép đưa anh hiện lên lần nữa, Tess chỉ thấy mỗi việc hồi tưởng lại ngày hôm ấy là còn có ý nghĩa. Hết thảy đều khiến nàng xốn xang. Mọi hình ảnh và tiếng động, tất cả các bài hát, mọi khuôn mặt đàn ông - toàn bộ thành phố - đều đem anh trở lại với nàng. Một sáng Tess đi cùng Anne tới Brooklyn để giúp bạn sắm sửa đồ tế nhuyễn cô dâu. Tới chiều hai người ra khỏi khu mua sắm, cùng trầm ngâm theo đuổi các suy nghĩ riêng. Họ bước trên một con phố thoai thoải với lũ trẻ đang đạp xe dọc vỉa hè nứt nẻ, í ới gọi nhau dưới vầng mặt trời ngời sáng. Tess nhìn những căn nhà vách gỗ, hình dung các mảnh sân sau dọc ngang dây phơi quần áo, những ông chồng đang ngồi trong bóng râm. Nàng bắt đầu mường tượng cảnh trở về một mái nhà như thế, bước vào, gọi to “Anh yêu, em về rồi đây”, và chàng đang thái hành, rán thịt trong bếp. Thịt rán vàng rộm trong chảo, các mùi thơm, âm thanh bếp núc. Dừng chân nơi tiền phòng, Tess lắng tai nghe tiếng trẻ con bên ngoài, hít thật sâu trước khi bước vào bếp, đứng phía sau áp mặt vào lưng chồng. Tổ ấm. Nàng lắc đầu rũ bỏ mộng tưởng và mỉm cười với Anne. Họ trở về, theo tàu điện ngầm lăn bánh chậm chạp phía dưới các con phố nóng nực tiến vào trung tâm Manhattan.
Tháng Sáu Oliver qua và tìm được việc làm trong ngành xây
dựng. Mặt trời nước Mỹ tẩy tóc cậu vàng hơn. Cứ cuối tuần Oliver nhập hội đàn đúm cùng Tess, Anne và những người bạn. Họ đi New Jersey dự tiệc ngoài trời nhân Quốc khánh mùng 4 tháng Bảy. Oliver đẹp trai không tả xiết. Cặp mắt xanh mê hoặc của em trai gợi Tess liên tưởng đến dòng họ Kennedy. Giá thử không phải em chị, Tess nhủ thầm, chị sẽ cưới em ngay tắp lự. Tess không thấy ai gần gũi, gắn bó được như anh chị em ruột. Nàng tơ tưởng David khôn nguôi. Anh hẳn đã quên phứt nàng rồi. Tess cảm nhận nỗi đau tới gần. Nàng ráng lượm lặt tin tức từ Anne, thận trọng không để lộ niềm yêu của mình. Ước ao được thấy David đã trở thành một thứ bệnh.
Và chàng kia rồi, trên bãi biển đảo Coney khi họ đến một ngày thứ Bảy. David ngồi trên chiếc khăn tắm giữa đám đông gần mép nước, một tia khói thuốc đang bò ngoằn ngoèo từ mấy ngón tay. Biển, được mặt trời tô điểm, lấp lánh phía trước anh. David ngước lên, lầm lì, cứng cỏi. Song có gì đó trong mắt anh - một lóe sáng, một chấn động - trước khi anh kịp ngăn chặn chúng, và Tess biết mình không nhầm, rằng điều nàng đã cảm nhận là sự thật. Tess lảng đi, quan sát anh từ một khoảng cách an toàn. Khi David cởi áo sơ mi, nàng nhìn thấy bộ ngực, làn da, vẻ đẹp trần trụi ở anh. Nàng liên tưởng tới một con hươu; lồ lộ, mượt mà, bồn chồn. Chốc chốc anh lại trông ra đại dương với cái nhìn xa xăm. Chỉ một tích tắc anh có thể khiến tim nàng tan nát.
Nguyên hôm ấy họ dạo quanh, bơi lội, ăn uống và trò chuyện. Kè kè bên cạnh Oliver, Tess nhìn những người khác, thăm hỏi về cuộc sống họ nơi đây, tình hình cha mẹ họ bên nhà. Hiện diện thường
xuyên là biển cả, những sải cánh chim hải âu nháng lên và dáng anh qua khóe mắt. Phải đi ngang qua anh để xuống nước, Tess rảo bước, lòng thẹn thùng cảm nhận sức hút, sự dao động ở anh: Trong một ánh liếc mắt là lời mời, ở cái liếc tiếp theo lại là câu cự tuyệt. Thừa nhận thế đi, nàng muốn khóc. Phải chấp nhận sự thật thôi. Căng thẳng, kích động, nàng choàng vội khăn tắm lên mình và ngắm anh bằng cặp mắt he hé giữa một vòng xoáy mặt trời và khói thuốc. Một tấm thiệp sinh nhật được truyền tay và David cầm bút tay trái, nghiêng đầu vặn người, cổ tay đưa lên một góc bất tiện, vụng về viết. Tess đứng chôn chân. Ở cánh tay giơ lên, tấm thân vặn qua kia, nàng thấy một gắng gỏi, điều cho thấy anh dễ thương tổn xiết bao. Cánh tay ở tư thế bất thường, nàng nghĩ, những dòng chữ bất thường. Chàng trai bất thường. Nỗ lực kia tiết lộ thứ gì đó mỏng manh, đã tan tành, một vết thương nghiêm trọng hơn bất kỳ thương tổn nào mắt thường thấy được.
Mặt trời gay gắt. Từ con đường đi dạo dọc bãi tắm, văng vẳng tiếng la hét của những người cưỡi đu quay. Tess đứng dậy, đi xuống nước, cảm thấy sức nặng của biển trong từng bước chân. Nàng bơi thuần thục kể từ hồi học ở Dublin. Trong sóng nước dào dạt ngang ngực, Tess ngụp đầu, chân duỗi ngang, cơ thể nổi lên, đại dương bên dưới nàng. Tess nằm trên mặt nước lung linh. Sóng dập dềnh nâng nàng lên, rồi nhẹ nhàng hạ xuống. Tess hầu như đang mơ, vầng dương trên lưng nàng.
Và anh kia rồi, tóc hai bên thái dương trôi ngược ra sau, đầu rướn tới, đang lặng lẽ bơi lướt qua bên dưới nàng. Nước tát đi mọi tiếng động. Tay chân giang rộng quạt nước, Tess lướt theo, bơi
song song phía trên anh. Họ đã ở ngoài khu vực hoạt động của những người khác, di chuyển nhịp nhàng hoàn hảo, hai sinh vật biển cả, lạnh lẽo, ngời ngời, hớn hở. Họ bơi xa thêm, sâu hơn, vượt qua những vùng nước đột nhiên lạnh toát. Tess có một khát khao được ngồi lên lưng anh, hai chân quặp chặt mình anh, tiến xuống nơi tối tăm.
Rồi anh lật nghiêng và họ đối diện nhau trong cái im lặng dưới nước. Mắt anh chớp chớp, dò xét khắp người nàng. Tay anh đưa lên xoa mặt nàng. Những bọt khí thoát ra từ miệng anh. Một thoáng cau mày, rồi đến nụ cười. Tess tràn đầy hân hoan. Và anh rời đi, lao lên phá vỡ mặt nước tiến vào ánh dương. Sau đoạn đường được anh dẫn dắt, nàng giờ mất phương hướng, chuệch choạc một giây rồi quay ngoắt về, tuyệt vọng vì cú chạm bờ.
Chiều muộn cả nhóm tập trung hành lý rồi xếp đống trên con đường lát ván dẫn tới mấy quầy phục vụ bánh mì kẹp xúc xích và đồ uống. Oliver và những người khác dần tản đi hết. Hai người thấy họ lại bên nhau, bị bao bọc bởi một khối cầu chẳng hề yên ả. Cái lầm lì ở anh thật hống hách, nó như một trường lực đang hút cạn mọi thứ ở nàng. David ngẩng đầu, nhìn ra xa, như thể chưa từng có gì xảy ra vậy. Ở anh có một hố thẳm quái đản, một xu thế hướng nội khôn cùng. Tess nghĩ anh không điều khiển được nó.
Tối đó, cả đám lại tụ tập tại phòng khiêu vũ của New York City Center trên phố 55 mạn Tây. Tess bồn chồn, lo lắng, bị ám ảnh bởi các sự kiện trong ngày. Phòng khiêu vũ sôi sùng sục, mọi người nhảy theo nhịp jazz của ban nhạc Ireland. Oliver gặp được, và từ đó chẳng rời, một cô nàng tóc đen nhánh. Anne và Tim nhảy với nhau
rồi thấy thương cho Tess nên nhân lúc Anne ra phòng vệ sinh Tim bèn kéo Tess vào sàn nhảy. Khối người phình ra, lắc lư và Tess tìm kiếm mái đầu David giữa đám đông.
Tess bỏ ra ngoài, ngồi trên một bậu cửa sổ cho dễ thở. David xuất hiện bên nàng. Dưới ánh đèn đường, anh mỉm cười với Tess. Dáng anh cao, nụ cười như kéo nàng gần lại và Tess thấy bản thân đang kề cận một điều lành.
“Chào người lạ”, Tess nói, biết mình sẽ nhớ tới hôm nay trong suốt phần đời còn lại.
“Các bệnh nhân sao rồi? Có thêm ai bị ngất nữa không?” Trước đấy Tess đã thuật cho anh việc nhiều bệnh nhân nam gần như ngất xỉu khi được lấy máu, thậm chí chỉ ngay khi nom thấy ống tiêm. Nàng ngờ anh cũng là người dễ xỉu.
“Hôm nào chả có, trăm ngày như một”, Tess mỉm cười nói. Nàng muốn khiêu vũ, tuy chưa phải ngay lúc này. Anh ngồi xuống bên nàng, tay hai người gần như chạm vào nhau.
Mấy phút trôi qua, không có gì xảy ra. Tess cảm giác anh lại rút lui vào hố thẳm kia. Anh không sao tránh thoát được nó. Tess nhìn bàn tay anh đặt trên đùi, mong được nắm lấy, được hiểu thấu nó. Tess cảm nhận trong anh cũng có một niềm khát khao. Nàng nhắm mắt lại. Tess nhớ tới một điều từng đọc - rằng nếu một chàng trai càng tuyệt vọng trong tình yêu thì ước muốn liều mạng xúc phạm người con gái mình yêu bằng cách nắm tay cô sẽ càng mãnh liệt hơn.
Họ cất bước dạo quanh. Trời đêm ấm áp, phố phường nhộn nhịp. Nàng lại kể với anh về quê hương, về mái nhà phải bỏ lại phía
sau, về người cha già. Nàng mong muốn, trong tuyệt vọng, kéo được anh trở lại.
“Anh chẳng biết chút gì về bố”, David kể. “Mẹ là người nuôi dạy anh và em trai. Hồi tám tuổi anh nghe người anh họ nói bố là tài xế xe buýt. Anh đã ngó vào từng chiếc xe buýt đi ngang, săm soi các người lái. Tự hỏi... có phải bố đấy không? Mỗi bận bước lên xe buýt, anh lại nghĩ hẳn bố sẽ nhận ra mình, sẽ lập tức biết là anh”. David vung tay ném điếu thuốc hút dở. “Một hôm tan trường về, có chiếc xe buýt đi qua và người lái xe vẫy vẫy anh, rồi mỉm cười. Anh cứ nghĩ đó là ông ấy - hẳn thế. Anh tìm kiếm như vậy suốt một thời gian dài. Giờ, chà, anh nghĩ... chắc ông chẳng phải tài xế xe buýt đâu”.
Một lần nữa Tess cảm giác anh càng lúc càng trở nên cách biệt. Nàng vắt óc tìm điều để nói. Đó là tất cả những gì Tess có thể làm mà không chạm vào anh.
“Anh phải đi đây”, David bảo.
Tess chết điếng. Nàng bắt gặp điều gì đó trong mắt anh - bối rối, bực bội - giống như bị các cảm xúc anh không hiểu thấu giành mất quyển kiểm soát. Tess trông với theo bóng anh xa dần.
“Tuần sau anh sẽ tới đây chứ?” nàng hỏi tấm lưng anh với giọng gần như thì thầm. Câu hỏi với hết thảy gan dạ nàng gom góp được. Anh quay lại chỗ nàng. Tess cảm giác mình nằm trong tay số mệnh. David áp mặt vào mặt nàng rồi hôn. Tess có thể cảm nhận vị của thuốc lá.
Và anh đi mất.
Q
8
ua mấy cánh cửa ra vào để ngỏ, tiếng nhạc từ nhà thờ văng vẳng trên con phố ngập nắng khiến Tess dừng chân. Nàng đi vào tiền sảnh, đọc tờ thông báo về buổi trình tấu ban trưa. Tess nghiêng tai lắng nghe. Ban đầu, nàng nghe ra tiếng piano, rồi cello. Bước vào bên trong sáng nhờ nhờ, Tess đứng cạnh bồn nước thánh rửa tội ở cuối phòng. Một nhóm nhỏ cử tọa đã yên vị trên mấy băng ghế trước, các nhạc công ngồi ở cánh. Những nốt nhạc biến đổi, trở nên inh ỏi và chói tai, rồi lại êm ái vút lên trong một hòa âm trong trẻo. Cây piano độc tấu một giai điệu chậm, buồn sâu lắng. Sau đó, cello cất lên một thứ âm thanh thê lương nhất nàng từng nghe. Đẹp, buồn, chạm tới mọi tế bào. Tess nhắm mắt lại. Với nụ hôn ấy anh đã tuyên bố chủ quyền với nàng. Anh đã đánh thức tâm hồn nàng.
Ngày tiếp ngày trôi qua, mỗi ngày là cả ngàn thu. Tess hồi tưởng từng câu từng chữ, hết phấn chấn lại thất vọng. Nàng chưa bao giờ sống mãnh liệt nhường ấy. Tối tối Tess ngồi bên chiếc bàn trang điểm gắn gương, cảm giác David đang tới gần, lén xâm nhập nàng, để lại trong lòng nàng nỗi run sợ buốt giá, sau đó là cái tê cóng dần tan. Phương thuốc chữa trị duy nhất là hình ảnh anh. Tess bò vào giường. Trong bóng tối làn môi nàng tự nhiên chu lại như đang hôn, thêm một nụ hôn nữa, cặp môi máy động như hớp lấy không khí. Tess ngậm chặt cái miệng đang bất giác mấp máy, run rẩy. Những
thứ, trước đây, tơ tưởng tới là thiếu đoan trang, giờ không còn vậy nữa: tay chân anh, làn da anh, bàn tay anh đặt nặng trên bụng nàng. Hãy trở lại với em.
Tess nhìn qua các ô cửa sổ. Nàng bị cuốn đi, xa cách và bình thản, qua từng ngày làm việc, các nẻo đường, nhịp bánh tàu hỏa hay tàu điện ngầm, phố xá và hành lang, những thứ đã in dấu trong hệ thần kinh. Các ngày nghỉ của nàng trôi qua hoặc mơ màng bải hoải tại thư viện, hoặc ở vườn hoa ngắm nhìn cánh đàn ông trở về nhà sau giờ làm. Trong căn hộ quạt máy vù vù, Tess chiêm nghiệm ngày vừa trải qua.
Một chiều tà nọ, lẻ loi rời bàn đứng dậy trong ánh hoàng hôn, Tess để tay lên cánh cửa tủ lạnh, cảm thấy nó đang rung nhè nhẹ. Nàng tựa vào đó, nhắm mắt lại. Đài đang mở, âm lượng thấp. Sau một lúc dường như khá lâu, nàng bước tới bên cửa sổ và thấy một người đàn ông đang hút thuốc ở con phố bên dưới. Tess nghĩ đó là David. Tess mường tượng bản thân mình mang trên người làn da của anh, tay luồn trong ống tay anh, đầu nàng trong đầu anh. Người kia ngẩng lên nhưng hóa ra chẳng phải David. Tess vẫn thản nhiên, cảm thấy mình sở hữu một nguồn nhẫn nhịn vô tận. Người đàn ông nọ vứt điếu thuốc xuống hè phố, xoay gót bỏ đi.
Tess rời khỏi cửa sổ. Ngẩn ngơ đứng giữa phòng, nàng thầm nhủ: Vậy ra đây là tình yêu.
Mong muốn được hòa vào mọi người, Tess xuống cửa hiệu tân dược. Trên đường quay về, nàng bị một phụ nữ sống lang thang đeo bám. Mụ ghé vào sát mặt nàng, đôi mắt cuồng dại, mái đầu
"""