"Phía Núi Bên Kia - Xuân Sách full mobi pdf epub azw3 [Tiểu Thuyết] 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Phía Núi Bên Kia - Xuân Sách full mobi pdf epub azw3 [Tiểu Thuyết] Ebooks Nhóm Zalo PHÍA NÚI BÊN KIA Tác giả: Xuân Sách Thể loại: Tiểu thuyết Nhà Xuất Bản Kim Đồng, 1977 Mục Lục PHẦN THỨ NHẤT TÔI RA ĐỜI BỐ TÔI RA ĐI NHỮNG NGÀY ĐÓI RÉT PHÁ KHO THÓC CƯỚP CHÍNH QUYỀN NIỀM MƠ ƯỚC ĐƯỢC ĐI XA TRƯỜNG LỤC QUÂN ĐANG CẦN LÍNH TẠM BIỆT NÚI CÓC TÔI GẶP MAY HAY LÀ KHÔNG MAY ÔNG THỢ CẮT TÓC KỲ DỊ MỘT CUỘC CHẠM TRÁN BẤT NGỜ MÓN “BỒ CÂU TRẮNG” NHỮNG ĐIỀU BÍ MẬT DỨT BỎ CON VẬT XẤU XA PHẦN THỨ HAI LÊN ĐƯỜNG CUỘC ĐỜI MỚI Ổ Ể Ễ Ắ BUỔI BIỂU DIỄN RA MẮT ĐI CHIẾN DỊCH MỘT VỐ THẤT BẠI Ê CHỀ LẠI MỘT CHUYẾN ĐI LÁ THƯ ĐẦU TIÊN MỘT ĐÊM NGỦ Ở RỪNG MỘT CHUYỆN KHÔNG VUI TÔI GẶP CHỊ LỤA HAI BA... NÀY MỘT THẰNG TÂY LÙ LÙ XUẤT HIỆN... GHÊ LẮM NHÁ! CHIẾN THẮNG TRỞ VỀ NÚI CÓC PHẦN THỨ NHẤT TÔI RA ĐỜI K hi có điều gì không bằng lòng về tôi, mẹ tôi thường nói: - Tao nuôi mày ba sống một chết, qua năm lần bảy bận khốn đốn gian nan. Tôi sinh năm con hổ. Nhưng tôi ra đời lại như một con mèo ốm. Bà mụ cắt rốn tôi bằng cái lưỡi hái, tắm tôi trong cái bầu đài bằng mo cau. Bà trao cái thằng bé dăn dúm đỏ hỏn cho mẹ tôi: “Trời cho chị một thằng cu, nhưng chị sẽ vất vả vì nó.” Tôi khóc, khóc ngày này qua đêm khác. Đầy cữ, đầy tháng, đầy năm tôi vẫn khóc. Bú được chút sữa mẹ nào, tôi đều biến thành nước mắt. Khó nói hết nỗi vất vả cực nhọc của mẹ tôi. Sau này khi lớn lên, nhìn những nếp nhăn trên mặt mẹ, vẻ gầy guộc dầu dãi của mẹ, tôi vẫn nghĩ đó là dấu vết những năm tháng mẹ nuôi tôi, những năm tháng mà “nước mắt mẹ dài hơn nước mắt con”. Tôi sống quặt quẹo cho đến năm lên ba thì bị giáng một trận ốm kịch liệt. Một buổi chiều tháng mười ảm đạm, bệnh tôi đã hết phương cứu chữa. Mẹ bế tôi từ trong buồng ra đặt trên cái chõng kề cửa sổ. Tôi thôi khóc, mắt lờ đờ và mồm ngáp như cá đớp mồi khan, bụng chướng lên như cái trống. Chị Lụa năm ấy lên sáu, thấy tôi há mồm liền cầm củ khoai chấm vào: - Em ơi dậy chị cho ăn khoai. Mẹ tôi ngồi canh chừng ủ rũ. Bố tôi lặng lẽ sắp sẵn một manh chiếu, ba cái lạt tre, cái thuổng cái cuốc dựng đầu hè cùng với một bó đuốc. Chờ tôi tắt thở là bố mượn người đưa tôi đi. Trên lớp da bụng căng như mặt trống, ông bác tôi viết vào một chữ “Sát”, chữ nho có nghĩa là giết. Làm vậy là khi tôi chết rồi biến thành ma thì cũng tìm đường cuốn xéo đừng quay lộn về đầu thai vào gia đình làm khổ cha mẹ nữa. Vào thời ấy ở một làng quê hẻo lánh, chuyện thuốc thang thật khó khăn. Bố mẹ tôi đã bán một sào ruộng hiếm hoi của mình để cứu tôi, nhưng lúc này thì coi như tôi sắp vỡ nợ cha mę. Vào đúng lúc ấy, trời nhá nhem tối, có một người lạ vào nhà tôi. Ông khách kỳ dị mặc bộ quần áo nâu cũ, vai khoác cái bị cói, đầu đội cái nón rách úp sụp xuống mặt. Trông chẳng khác gì một người ăn mày, thuở ấy ăn mày không thiếu. Ông khách vào ngõ là đi sục luôn vào nhà. Bố tôi sửng sốt, nhưng khi chủ khách nhận ra nhau thì lập tức khép kín cửa lại. Ông khách thăm tôi rồi nói vội: - Cho tôi cái bát và ít nước. Ông moi trong người ra một khúc gỗ đen bóng bằng đầu ngón tay cái, rồi mài vào bát nước vối. Bố tôi lấy đũa cả ngáng mồm tôi cho ông khách đồ bát nước ấy vào. Ông khách lấy tay xoa nhẹ bụng tôi. Cái bàn tay mầu nhiệm của ông khách bí ẩn đã làm cho cái bụng căng cứng của tôi bỗng chốc mềm ra và sôi lên ùng ục như biển động. Rồi tất cả những thứ gì chứa trong cái bụng ấy được tống ra ngoài làm nồng nặc cả ba gian nhà. Cái thằng tôi do quá thiết tha với cuộc đời đã cựa mình, mở mắt và cất tiếng khóc. Có lẽ đó là tiếng khóc mà bố mẹ tôi nghe một cách sung sướng kể từ sau tiếng khóc chào đời của tôi. Chị Lụa níu tay mẹ tôi: - Không chôn em nữa chứ mẹ? Mẹ tôi mắng chị qua nước mắt: - Mày chỉ dại mồm dại miệng. Chị vui lên, em sẽ sống và ăn khoai với chị. Bố tôi bê nồi cơm nguội và một đĩa thức ăn xoàng xĩnh bày mâm mời ông khách ăn. Ông vừa bỏ nón để lộ cái đầu trọc, ngồi lên giường bê bát cơm thì nghe phía nhà lý trường có hồi trống thúc gọi tuần đinh một cách hối hả, ông khách đặt bát cơm xuống nhìn bố tôi. Bố tôi nói khẽ: - Để lắng xem thế nào đã anh. Ông khách ngần ngừ một lát rồi vớ vội cái nón: - Tôi phải đi. Bố tôi lo lắng vặn nhỏ ngọn đèn. Ông khách đeo bị, đưa cho bố tôi cục gỗ mài cho tôi uống ban nãy: - Anh cầm lấy. Đây là miếng kỳ, vị thuốc quí của gia đình tôi còn lại, anh giữ lấy mà dùng cho cháu. Mẹ tôi xúc động: - Ơn anh đã cứu cháu. - Tôi chịu ơn anh chị nhiều, dịp khác tôi lại về. Bố tôi còn kịp đổ ít cơm nguội vào trong bị và đưa ông khách ra cửa sau. Trước khi từ giã, ông nói: - Dạo này bọn chó đánh hơi gớm lắm, anh phải cần thận. Bố tôi mở rào cho ông khách đi ra, xóa vết chân rồi quay vào nhà, chưa kịp nói gì thì lý trưởng đến. - Chào cụ lý. - Bố tôi lễ phép mời lão ngồi. - Nhà có chuyện gì đấy ? - Lý trưởng vừa hỏi vừa đảo mắt nhìn khắp nhà. Biết ông khách đã đi thoát, bố tôi bình tĩnh. - Dạ thưa cụ, nhà có thằng cháu ươn người, đã tưởng là không qua được, nhưng may mà bệnh cháu đã chuyển. - Thuốc gì mà chuyển? Mẹ tôi đã bưng lên một đĩa trầu, đỡ lời: - Thưa cụ, cùng quá cũng vơ nhăng vơ quàng mớ rễ mớ lá, may nhờ phúc cụ lý nó lại hợp với bệnh cháu. - Tôi làm gì mà phúc với đức. - Lão lý vẫn chân ngồi chân đứng, tai ngóng ra ngoài ngõ, lão vớ miếng trầu nhai rồi nói lúng búng: - Đêm hôm tôi cũng đi dạo một vòng, thấy nhà có việc tôi ghé vào, thôi tôi về. Bố tôi tiễn lý trưởng ra ngõ. Lão nói nhỏ: - Anh phải biết rằng nếu tôi không đánh hồi trống gọi tuần đinh thì sự việc đã khác. Tại sao tôi lại đánh trống, anh hiểu chứ ? - Đội ơn cụ. - Ơn huệ gì. Liệu đấy, đầu anh không giữ được đã đành, mà tôi rồi cũng không còn chỗ đội nón vì anh đấy. Quá lắm thì tôi không thể dung được đâu. - Dạ. - Dạo này có túng bấn lắm không? - Sống ra sao mà cụ chẳng biết, cũng cố chèo chống cho qua. - Này, Nhật vào Đông Dương rồi anh biết không ? - Dạ. - Làng trên đã có truyền đơn của Việt Minh rồi đấy, bao giờ thì đến lượt làng này? - Dạ. - Ối giời ơi! - Lão lý phát cáu - Anh cứ vờ vờ vịt vịt. Thời buổi rối như mớ bòng bong, chẳng biết đâu mà lần. - Cụ lại nhà. Sau trận ốm ấy, tôi thay đổi hẳn. Tôi khỏe lên và ăn trả bữa. Bây giờ thì bố mẹ lại vất vả lo cho tôi ăn. Tôi ăn không biết no, biết chán. Lúc nào cũng ăn được, lúc nào cũng quấy khóc đòi ăn. Lên năm, lên sáu vẫn thế. Ăn ở nhà, rồi mò đi ăn chực hàng xóm. Ăn chực một bát lại đòi hai. Trẻ con trong xóm cho em ăn thường dọa: “Mày không ăn, thằng Đen đến nó ăn hết bây giờ”. Thằng Đen chính là tôi. Tên tôi là Hòe kia, nhưng vì tôi đen nên người ta gọi như thế. Sau này người ta vẫn gọi tôi là thằng Hòe đen. Bố tôi đi làm thuê, hôm nào làm ở trong làng mà tôi biết, tôi cũng mò đến. Mùa gặt, tối về bố tôi trục lúa cho nhà chủ, tôi đến nằm ở gốc rơm đánh một giấc, và lạ lùng thay khi làm lúa xong, thợ gặt dọn mâm bát ăn cơm là tôi vùng dậy ngay, tỉnh như sáo mon men kiếm một bát cơm. Một lần ăn xong, hai bố con về nhà, tôi nói líu ríu, bố tôi giận: - Lần sau tao cấm mày đi. - Sao thế bố ? - Sao nữa, lần sau mày theo đi tao đập chết. - Rồi bất ngờ bố tôi thở dài dịu giọng - miếng ăn nhục nhã lắm con ơi! L BỐ TÔI RA ĐI àng tôi ở giữa cánh đồng chiêm. Con sông từ trên nguồn chảy xuống đến gần làng thì phân làm nhiều nhánh để chảy ra biển. Làng tôi nằm giữa vòng vây của các nhánh sông ấy và cách biển không bao xa. Những đêm động trời, tiếng sóng biển vọng vào giấc ngủ chập chờn của tôi ầm ì như tiếng xay lúa. Mùa nước dâng, biển mặn theo sông tràn vào đồng bãi đầy cây sú, vẹt và cỏ năn cỏ lác. Xưa kia nơi đây là một bãi hoang. Một ngày nào đó, dòng người lang thang đi tìm đất mới từ ngoài bắc vào, từ miền trong ra dừng lại ở miền ven biển xứ Thanh này quai đê ngăn nước mặn và lập nên làng. Tập tục khác nhau, giọng nói khác nhau, những người dân tứ chiếng ấy cùng đổ mồ hôi, chung lửa chung đèn, lập nên làng đặt cái tên giản dị là làng Mới. Tôi không hiểu sao giữa cánh đồng gần biển ấy lại nhô lên một ngọn núi lẻ loi ở trước làng. Ngọn núi với cái dáng ngồi chồm chỗm như con cóc nên mọi người gọi là núi Cóc. Ngọn núi ấy đối với lũ trẻ chúng tôi đầy bí mật và hấp dẫn. Chiều chiều khi nắng chỉ còn đọng một mảng hoe vàng loang lổ trên chỏm núi, tôi đứng ở ngõ nhìn ra, lòng đầy hồi hộp nghĩ tới một ngày nào đó mình leo qua ngọn núi sang phía bên kia. Chị tôi nói bên kia núi là chân trời. Chân trời ư? Ông trời khổng lồ kia có cái chân như thế nào đứng bên kia núi. Tôi vẫn theo dõi một cách âm thầm hồi hộp như thế. Một hôm tôi nhìn thấy một người đi từ phía núi Cóc đến làng tôi. Tự nhiên tôi nảy ra một ý nghĩ là người kia vừa ở bên kia núi đi sang. Nhà tôi trông thẳng ra cánh đồng, trước nhà là con đường đất dẫn thẳng ra chân núi. Nên tôi có thể nhìn thấy người kia từ lúc còn là cái bóng bé xíu cho đến khi thành một người đàn bà quảy quang gánh đứng trước mặt tôi, người đàn bà mỉm cười nhìn tôi hỏi: - Em bé ơi, đây có phải nhà ông Chung không? Tôi sung sướng ấp úng: - Vâng, bố em là ông Chung. Bày giờ tôi mới để ý chị gánh nồi đi đôi. Chị đưa tôi một ông thổi kèn bằng bột nặn rang phồng lên nhuộm màu hồng. Tôi rất thích ông thổi kèn ấy, chơi chán thì bỏ vào mồm nhai, thè cái lưỡi dính đầy hột đỏ hoe. - Bố có nhà chứ? Tôi chạy tọt vào nhà gọi bố. Bố tôi đang ở trong buồng. Lâu nay tôi để ý thấy bố vẫn hay làm gì lúi húi trong buồng một mình. Do tò mò, khi bố đi vắng, tôi vào buồng lục lọi nhưng chẳng có gì lạ, ngoài cái chum nhỏ đựng khoai khô mà tôi vẫn thường bốc ăn vụng. Khi tôi gọi, bố từ trong buồng bước ra thì chị hàng nồi đã đặt gánh ở sân. Chị chống đòn gánh nhìn bố tôi rồi hỏi: - Nhà bác có nồi đồng bán không? Bố tôi trả lời: - Không, nhà tôi chỉ có nồi đất. - Cho tôi xem cái nồi đất nhà bác được không? Bố tôi gật đầu rồi mời chị hàng nồi vào nhà, Tôi theo vào, nhưng bố tôi nghiêm nét mặt: - Con ra ngoài kia chơi. Một lát sau chị hàng nồi đi ra, quảy gánh lên vai. Chưa đến ngõ, chị đã cất tiếng rao như hát: - “Ai cỏ xanh hỏng, nồi hỏng đổi không?” Tôi chạy vào hỏi bố: - Sao bố không mua cái nồi to? Bố tôi có vẻ lo lắng: - Bố không có tiền. Tôi khoe: - Chị ấy cho con ông thổi kèn bố ạ. Nhưng bố tôi không vui. Chiều hôm ấy, mẹ tôi đi làm đồng về muộn. Cơm nấu xong rồi nhưng phải đợi. Giá hôm khác tôi đã đòi ăn, nhưng bữa nay thấy bố nghiêm, tôi im thít. Chị Lụa nói: - Hôm nay trời đi vắng hay sao mà thằng cu không đòi ăn. Nghe chị tôi nói, bố tôi lấy bát xới cho tôi một bát cơm đầy và một thìa muối tôm rang, bố nói dịu dàng: - Con ăn đi. Chị Lụa phát ghen: - Hôm nay bố chiều con trai thế. Tôi vênh mặt: - Tại em ngoan, chị có ăn em sẻ cho. - Ai trẻ con như mày, tao đợi mẹ. Chập tối, mẹ tôi mới về. Vào bữa ăn, mẹ tôi ngập ngừng hỏi bố: - Bố nó làm sao vậy ? - Có sao đâu. - Bố tôi liếc mắt ra hiệu rồi xới cho tôi một bát cơm đầy nữa. Ăn xong, bố nói: - Hôm nay hai chị em đi ngủ sớm nhé. Tôi ngoan ngoãn lên giường. Tôi có một cái tật là khi đi nằm cứ phải bật cái dái tai của bố cho đến lúc ngủ. Nhưng đêm ấy không hiểu sao, tôi lại bỏ cái tật ấy. Có một linh tinh nào đó mà tôi không giải thích được. Tôi không ngủ, nằm im lặng chờ đợi một điều gì khác thường. Tưởng tôi đã ngủ, bố vặn nhỏ ngọn đèn rồi nói với mẹ tôi: - Tôi phải đi. Trước đây thỉnh thoảng bố tôi vẫn đi làm thuê cả tháng, nhưng hôm nay có gì khác. Mẹ tôi im lặng nhai trầu. Bố tôi lại tiếp: - Tôi đi do đoàn thể yêu cầu, chưa biết bao giờ về. Mẹ tôi nhổ quết trầu rồi thở dài: - Nhà đã sửa soạn gì chưa? - Có gì đâu, tôi đã gói ghém xong cả rồi. Tôi lo cho mẹ con ở nhà. - Người ta sống được, mẹ con tôi cũng vậy. Bố nó nhận được tin bác Thủy chứ? - Có, chiều nay có người mang tin đến. Tôi chợt nghĩ đến chị hàng nồi. Bác Thủy là ai? Tôi giỏng tai nghe. Bố tôi lại tiếp: - Tình thế này cũng không lâu nữa đâu. Vận nước mà đến thì ta được đổi đời. Thành công rồi tôi sẽ về. - Bố nó yên tâm mà đi. Đừng lo cho mẹ con tôi nhiều. - Đành thế, nhưng chẳng khi nào tôi quên được mình và các con. Nay mới tháng giêng mà tình thế đã khó khăn. Nghe nói mạn ngoài đã lác đác có người chết đói. Làm sao qua được cái tháng ba này. Thóc lúa chúng nó thu hết, cốt cho dân mình chết đói. Phải làm gấp thôi. Đoàn thể có lẽ thấy tôi ở đây đã lộ nên điều đi. Các đồng chí ấy cũng tính toán chu đáo cho mình. Tôi đi rồi, chúng nó sẽ đến làm phiền đấy. - Bố nó đừng ngại, dễ gì chúng nó bắt nạt được. À, nhà còn con gà sao buổi chiều bố nó không làm thịt ăn một miếng với các con. - Để ở nhà cho các con nó ăn. Cứ nuôi sẵn con lợn, khi tôi về ăn mừng luôn thể. Có tiếng chó sủa ngoài đầu xóm. Bố mẹ tôi đứng dậy. Tôi lật sấp người ngước đầu lên nhìn. Bố tôi nói thì thầm tôi không nghe rõ nữa, chỉ thấy cái lưng to rộng hơi rung rung che khuất mẹ tôi. Tôi cố lắng tai nghe. - Mẹ nó đừng khóc làm các con tỉnh giấc. - Ngày mai chúng nó hỏi bố đâu, mình biết trả lời làm sao. Bố đi, bố đi, cái ý nghĩ ấy khiến tôi sợ hãi. Tôi vùng ngay dậy và hét to: - Bố đừng đi! Chị Lụa choàng dậy giật mình ngơ ngác: - Cái gì thế ? Bố tôi chạy vụt lại bế lấy tôi. Tôi vẫn khóc! - Bổ đừng đi, con không cho bố đi. Bố tôi luống cuống: - Con nín ngay, bố xin con, con đừng kêu lên như thế. Mẹ tôi đỡ tôi đứng xuống. - Đừng hét, người ta vào bắt bố bây giờ. - Các con ở nhà với mẹ. - Bố xoa đầu tôi và cúi thấp xuống - Bố chỉ đi ít lâu rồi lại về. Chị Lụa chêm vào: - Rồi bố sẽ mua nhiều quà cho em. Tôi nói: - Lần này bố đi mất. - Ai bảo con thế ? - Mẹ tôi đưa tay bịt miệng tôi lại. Tôi tấm tức: - Con nghe rồi, lần này bố đi mất. Bố tôi đứng xuôi tay lặng lẽ. Tôi nín bặt và quay lại nắm tay bố. - Lụa nữa, lại đây! - Bố tôi kéo chị Lụa đứng một bên - Các con có nghe lời bố không? - Có ạ. - Tôi run run trả lời. Giọng bố trở nên nghiêm nghị: - Các con ở nhà với mẹ. Bố đi làm việc của bố chính là vì trong lai của các con. Ở nhà có ai hỏi đến bố thì các con nói bố đi làm mướn xa. - Bố nhìn mẹ tôi rồi nói tiếp - Mẹ nó xem này, chúng nó lớn cả rồi đấy. Thằng Hòe là con trai, đứng thẳng xem nào. Thế, con trai phải gan dạ. Bám lấy bố mà khóc thì xấu hồ. Mẹ nó nhìn con mà xem, thằng con trai nhà mình ra dáng lắm. Tôi định lấy tay chùi nước mắt nhưng ngượng lại đứng im. Mẹ tôi thì thào: - Rõ bố nào con ấy. Bố tôi nói: - Thôi bây giờ bố đi. Cả nhà tiễn bố, bố vui rồi. Ngày bố trở về sẽ vui hơn. Bố tôi cúi xuống ôm ghì lấy chúng tôi: - Các con lên giường ngủ đi. Chúng tôi đứng lặng nhìn hai người đi ra sau nha. Tôi nói với chị Lụa: - Đố chị biết bố đi đâu? Chị Lụa bĩu môi: - Dễ mày biết! - Em biết. - Nói đi. - Chị mất gì. - Một ông thổi kèn. - Nhớ nha ! Bố đi đoàn thể... - Thế mà cũng đòi biết. - Chị tôi thì thào. - Máy phải giữ kín tao mới nói. Bố đi ăn cướp. - Nói bậy! - Tôi giơ nắm đấm dọa chị. - Thật đấy. Chúng nó bảo dân làng rủ nhau đi ăn cướp thóc trên kho của Tây của Nhật mà. Không thì chết đói. Tôi chưa tin nhưng chẳng biết gì hơn để nói lại. Mẹ tôi vào, hai đứa im bặt. Đêm hôm đó, ba mẹ con ngủ chung giường. Mờ sáng tôi tỉnh giấc thấy mẹ tôi ngồi ở cuối giường lặng lẽ gục đầu xuống hai cánh tay khoanh đặt trên đầu gối. Có lẽ mẹ tôi ngồi như vậy suốt đêm qua. T NHỮNG NGÀY ĐÓI RÉT háng ba, trời vẫn rét. Mây u ánh rách mướp sà xuống thấp in màu xám vào những cặp mắt thao láo của lũ trẻ đói khát. Đấy là năm Ất Dậu khó quên. Đói, hơn ai hết, lũ trẻ chúng tôi cảm thấy cái đói giày vò khổ sở. Người ta bảo là do bọn Nhật thu hết thóc và bắt dân phá lúa trồng đay. Tuy không có thằng Nhật nào mò về làng tôi, nhưng mọi người đều kháo chuyện về chúng, và cái đói đã tràn lan vào mọi nhà, mọi ngõ ngách. Đi trong làng không còn được ngửi mùi thơm quen thuộc của thức ăn từ các nhà bếp bay ra. Người ta không dọn cơm ra sân nữa, mà ăn giấm giúi trong bếp. Làng xóm cứ quang dần, từ trái cây, lá rau đến con lợn con gà. Người lớn lừ đừ ủ dột, còn lũ trẻ chúng tôi chân dài ngoẵng, bụng lép dần và đôi mắt càng ngày càng trố ra dưới mái tóc bờm xờm như tổ quạ. Mỗi bữa mẹ và chị nhường cho tôi sét bát cơm, còn thì ăn rau má và củ chuối hoặc cháo cám nấu sền sệt ăn ngấy đến tận mũi. Thỉnh thoảng tôi nằm thẳng cẳng phô bộ xương sườn và thở ra làm cho cái bụng đã lép càng lép kẹp. Mẹ tôi mắng: - Thôi đừng làm cái trò xót ruột nát gan ấy nữa, khổ lắm. Chúng tôi sục sạo khắp các ngõ ngách vườn tược trong làng, gí mũi vào mọi xó xỉnh đề moi ra những thứ gì có thể ăn được. Bới trộm những mầm khoai, bằng đầu ngón tay, phủi đất đút vào mồm nhai ngon lành. Những cái dái mít chát đút nút lấy cổ, ăn xong môi răng chúng tôi dính nhựa đen sì. Trẻ con nhà có khoai, có mít ra đuổi, chúng tôi lại đánh nhau. Có lúc chúng xuỵt chó, nhưng những con chó đói gầy giơ xương, sủa được vài tiếng thì lạc giọng chẳng làm chúng tôi sợ. Chỉ có lũ chó của một vài nhà giàu vẫn to béo như những con bê. Nhưng chúng tôi không dại gì mò tới đấy . Lũ chó kia có thể ngoạm chúng tôi như ngoạm một con chuột. Chúng tôi cứ chạy rông khắp làng như lũ chó vắng chủ. Lúc nào không kiếm được gì ăn lại kéo nhau đến nhà ông Bụng. Người lớn gọi ông là tay “bợm già” còn chúng tôi vừa sợ vừa thích ông ấy. Đêm ông đi ăn trộm, còn ban ngày thì uống rượu. Ông sống một mình trong túp lều trống tuần trống toàng ở ngoài rìa làng. Chúng tôi đến để nghe ông kể chuyện. Ông biết nhiều chuyện lạ, và cách kể chuyện của ông rất thích thú. Chúng tôi thường đem tới cho ông vài quả ổi xanh hoặc dái mít để ông nhắm rượu. Có hôm không có gì nhắm, ông vừa tợp rượu vừa mút một cái đinh gỉ. Chúng tôi lấy làm lạ, ông Bụng nheo cặp mắt đỏ nhìn chúng tôi có vẻ dọa nạt, nhưng sau đó ông cười phá lên: - Ồ, nó có cái chất tanh, đỡ nhạt miệng. Chúng mày muốn nghe chuyện gì? Chuyện gì ư? Những ngày này chúng tôi chỉ muốn được nghe chuyện gì có thể quên được cái đói đang gào réo trong dạ dày. Chúng tôi vừa thích thú vừa lo ngại khi Ông Bụng kể quanh quẩn lại quay về chuyện những món ăn. Lũ trẻ nhìn nhau lấm lét cúi mặt xuống xấu hồ nuốt nước miếng ứa ra trong mồm. Ông Bụng thường ngừng lại đột ngột nhìn chúng tôi bằng cặp mắt thương hại buồn rầu: - Khốn khổ cho chúng mày, khốn khổ cả lũ. Lúc này trông ông hết sức hiền lành, tôi chợt nghi ngờ về tất cả những chuyện ghê gớm ly kỳ mà người ta đồn đại về ông, về cái nghề ăn trộm có tiếng của ông. Tôi nhìn những quả bầu khô treo lủng lẳng trên vách, mà tôi tưởng là ông dùng đựng rượu. Một lần ông nói: - Rượu đếch đâu mà đựng lắm thế. Đấy là những cái “đầu” của tao. Những cái “đầu giả” ông đun vào trước qua lỗ vách để dò xem chủ nhà có biết không, rồi ông mới chui vào. Nhiều lần chủ nhà đã chém dao hoặc xọc răng bừa vào những quả bầu khô. Ông Bụng không muốn kể tỉ mỉ cho chúng tôi nghe về những chuyện bí mật ấy. Chúng tôi gạn hỏi, ông thường cáu giận mắt đỏ ngầu: - Tao đi ăn trộm của những đứa ăn cướp của người khác về làm giàu. Đứa nào dám bảo tao là xấu. Nhưng tao hèn. Đáng lẽ tao phải đường hoàng đến trước mặt chúng nó, đập chết chúng nó như đập con chó, rồi gọi người đến lấy của ra chia nhau. Tao không dám làm. Lớn lên, chúng mày đừng hèn như tao. Thỉnh thoảng ông Bụng hỏi riêng tôi về bố tôi, với giọng nói thân mật. Tôi không hiểu mối quan hệ ấy, nhưng trong thâm tâm tôi không thích. Có lần, ông Bụng nói: - Tao quí bố mày. Bố mày đi con đường khác không giống tao đâu. Mày đừng sợ tao biết những chuyện ấy. Lớn lên, mày sẽ hiểu. Có lẽ vì thế mà tôi hay đến nhà ông Bụng. Còn một nơi nữa mà chúng tôi hay mò đến là đền Phúc. Đây là cái miếu nhỏ ở giữa một khu vườn hoang. Khu vườn đầy những cây ké và cây cứt lợn. Trước kia đầy phân chó phân gà, nhưng dạo này không có nữa, thỉnh thoảng có xác vài con chuột đói cắn chết nhau vì tranh mồi. Chúng tôi hay đến đấy vì dân làng đôi khi đem lễ ra cúng ở đền, chúng tôi có thể khua khoắng vài thứ gì ăn được. Một buổi chiều, chúng tôi lần tới. Đến gần miếu, tối om om, chúng tôi thấy một đàn nhặng bay vù lên. Một đứa kêu thích thú: - Có xôi thịt hay sao mà có ruồi nhặng bay ơi! Chúng tôi tranh nhau chạy vào. Bỗng một đứa từ trong miếu lao ra, mặt tái xanh cứ thế đâm đầu chạy không nói một tiếng nào. - Cái gì thế? Thằng nhát gan! Mấy đứa chúng tôi bước thêm mấy bước, tỏ ra can đảm. Ở thềm miếu, trong bóng chiều u ám, một xác người chết đói đen sì nằm cong queo, tay còn đút vào miệng một quả chuối xanh. Lũ nhặng vẫn vo ve trên đầu. Thằng Thức, đứa lớn nhất trong lũ chúng tôi nói: - Chúng mày đứng ngoài này để tao vào. Nó nhón chân bước qua xác người vào trong miếu. Tôi nhìn thấy đôi chân khẳng khiu bẩn thỉu của nó hơi run. Nó vươn tay khoắng trên cái bàn thờ tối om có một nén hương lẻ loi cháy đỏ. Lát sau thằng Thức quay ra, tay nó cầm một túm ba bốn quả chuối xanh. Chúng tôi đi theo nó như quân lính đi theo một ông tướng thắng trận. Nó bỏ chuối chia cho chúng tôi, và chúng tôi nhai những mẩu chuối ngon lành. * Trong những ngày đói khát này, cũng có một chuyện đáng kể. Hàng năm, chừng vài lần có người đi xe đạp về làng tôi. Người thứ nhất là ông thợ chụp ảnh ở trên tỉnh. Ông người to cao, đội cái mũ lợp vải trắng sâu như cái đấu đong thóc thuế, mặc áo cộc tay cùng cái quần “ soóc ” bằng vải ka ki màu vàng. Về làng tôi, phải qua đò lội bãi, nên ông thường cởi đôi giày da treo trên ghi đông xe đạp. Ông về sân đình, đặt cái máy ảnh có ba chân cao lêu đêu, phủ một tấm vải đen trùm lên trên trông như người cụt đầu, rồi ông nói thao thao pha trò đủ mọi chuyện trên trời dưới biển. Người ta bảo nghe lão ấy nói thì rắn ở trong lỗ cũng phải bỏ ra. Chúng tôi chưa bao giờ thấy rắn bò ra chụp ảnh, nhưng người làng, nhất là các ông già thì ai cũng muốn chụp hình. Các cụ khăn áo chỉnh tề hai tay xòe đủ năm ngón đặt trên đầu gối ngồi im như pho tượng trước máy ảnh. Ông thợ ảnh có vẻ dễ tính. Người làng giả bằng tiền hoặc bằng thóc. Chưa có thì ông cho chịu đến mùa. Có thể nói là thằng Thức quen ông thợ ảnh ấy. Không phải vì nó là khách hàng của ông, mà vì nó biết đánh cờ tướng. Những lúc chờ khách hàng, ông thợ ảnh bày bàn cờ ra mời thằng Thức chơi. Lũ chúng tôi vây quanh xem như đám hội. Thằng Thức chơi không đến nỗi tồi. Có lần, nó vươn người thọc xe xuống chiếu tướng. Ông thợ ảnh thua đến nơi, cười lớn: - Cu của mày ăn mất tướng rồi kìa. Ấy là vì bọn trẻ con làng tôi đến mười, mười một tuổi vẫn cởi truồng. Mỗi lần thằng Thức thắng cờ, ông thợ ảnh lại cho nó vài cái kẹo bọc giấy bóng xanh đỏ. Lũ trẻ bâu lấy nó như ruồi, thèm thuồng nhìn cái kẹo. Nó thường cắn nhỏ cái kẹo ra chia cho mỗi đứa một tí. Chúng tôi nhấm nháp mùi vị thơm ngon của thứ kẹo quí mà chẳng bao giờ chúng tôi có. Người thứ hai đi xe đạp về làng là cậu ký Phong con cụ Cửu ở xóm Đình. Cậu ký là người học cao nhất làng. Cậu đỗ bằng “ Ri-me ” (tiểu học) và làm việc trên tỉnh, thỉnh thoảng mới về làng. Cậu ký với ông thợ chụp ảnh lại ăn ý với nhau. Bởi cậu làm thêm nghề vẽ truyền thần. Mỗi khi về làng, cậu đem theo hàng xấp giấy đã vẽ sẵn những hình người đủ kiểu: áo sa, áo gấm, ghế dựa, ghế bành... Những bức vẽ ấy không có đầu. Khách hàng thích kiểu nào thì chọn, rồi đưa tấm ảnh chụp cho cậu ký vẽ cái đầu cái mặt vào tấm hình kia. Thế là có một bức truyền thần đầy đủ, sang trọng lồng vào khung kính treo trong nhà. Bọn trẻ chúng tôi tuy không được chụp hình và truyền thần, nhưng rất mong hai người ấy về. Đúng hơn là mong được thấy cái xe đạp và cái máy ảnh kỳ lạ. Cứ nghe một tiếng chuông kính coong từ đầu làng là chúng tôi chạy như bay. Chúng tôi chạy theo xe đạp mỗi lúc một đông. Tiếng trẻ reo, tiếng chó sủa inh ỏi suốt từ đầu làng đến cuối làng. Đứa nào mon men mà được bấm vào cái chuông xe đạp kính coong một cái thì thật sung sướng. Năm đói này, bọn trẻ chúng tôi đợi mãi không thấy hai người đi xe đạp về. Người ta bảo năm nay đói kém, ông thợ ảnh có về thì cũng chẳng có khách hàng. Ông ấy có chụp ảnh người chết đói thì khối ra. Chúng tôi đã quen nhìn xác người chết đói, không sợ nữa. Ở chợ Chùa, ngày nào chẳng có người chết đói. Nhưng còn cậu ký Phong thì sao? Nhà cụ Cửu có đói đâu mà cậu cũng không về. Người ta đồn rằng cậu đã làm to , có chân trong hội, trong đảng gì đó. Vào một ngày giữa tháng tư, bỗng chúng tôi nghe tiếng chuông xe đạp, kính coong... kính coong. Chúng tôi náo nức hồi hộp, nhưng không chạy như bay được nữa. Nhiều đứa đói vàng mắt, đôi chân như ống sậy, đến ruồi cũng không buồn xua nữa nói chi là chạy. Lũ chó cũng thế, người ta ăn thịt chúng gần hết rồi. Chúng tôi chỉ đứng đợi ở ngõ. Thoạt đầu chúng tôi không nhận ra cậu ký Phong, vì cậu ăn mặc khác hẳn. Cậu không mặc áo the, quần trắng như trước kia nữa. Trông cậu như lính khố xanh. Quần áo ka ki vàng, chân quấn xà cạp vải, lưng đeo một thanh kiếm dài. Đầu đội mũ vải có lưỡi trai mềm, mắt đeo kính. Đúng là cậu làm to rồi. Chúng tôi sợ không dám đi theo. Cái xe đạp bánh đặc của cậu nẩy trên đường đất sống trâu như người dồi. Bất ngờ cậu ngã kềnh vào bờ rào. Chúng tôi cười khúc khích. Cậu ký đứng dậy phủi quần áo, tay sờ đốc kiếm, mắt kính trợn trừng nhìn chúng tôi rồi sổ ra một tràng mà chúng tôi không hiểu gì cả, chỉ nghe lọt mấy tiếng lạ tai “dô tô... xừ cạ” gì đó. Sau này chúng tôi mới biết cậu nói tiếng Nhật. Cậu ký về buổi trưa thì buổi tối mẹ mõ đi rao: “Cốc, cốc cốc... chiềng làng chiềng chạ, sáng mai từ quan viên cho đến đinh tráng phải ra định nghe quan trên về hiểu dụ... Cốc cốc cốc.” Đúng cậu ký Phong làm quan rồi. Sáng hôm sau, dĩ nhiên bọn trẻ chúng tôi ra đình sớm nhất. Giữa sàn đình bày một cái hương án, trên đặt cái lư đồng nhưng không đốt hương. Buộc vào chân hương án là một ngọn cờ đuôi nheo có mấy người tuần đinh cầm gậy đứng chung quanh. Một lúc sau, mới thấy các vị hương lý đi ra, vị nào cũng khăn đóng áo dài. Dân làng lác đác độ dăm chục người. Lũ trẻ chúng tôi đông hơn cả. Tôi đứng với thằng Thức. Nó hỏi một người tuần đinh: - Quan nào đấy anh ? - Ông ký Phong. - A, ông ký ngã bờ rào ! - Thằng Thức nói to và chúng tôi cười theo. Người tuần đinh trừng mắt: - Chúng mày muốn đứt đầu hả. Chúng tôi nhớ đến thanh kiếm dài của cậu ký. Lý trưởng cầm cái trống con đánh chín tiếng bung bung. Mọi người nhớn nhác nhìn ra cửa đình. Tuần đinh xua chúng tôi đứng giạt ra một bên. Quan đến! Cậu ký đi trước, vẫn ăn mặc như hôm qua. Đi tiếp sau là cụ Cửu, mặc chiếc áo gấm sờn ngắn cũn trên đầu gối. Mọi người chắp tay chào. Cậu ký nhìn bên này, bên kia gật gật đầu, mắt kính loang loáng. Thằng Thức đứng bên cạnh tôi cũng gật theo. Cậu ký bước tới đứng sau hương án. Lý trưởng nói: - Kính trình các cụ quan viên hàng chức và dân làng. Hôm nay dân ta được hân hạnh đón quan ký về nói chuyện... Trong lúc lý trưởng nói, cụ Cửu ngước mắt lên nhìn mọi người, tay vê vê chòm râu đỏ hoe như râu ngô. Cậu ký hắng giọng. Tay trái tì vào đốc kiếm, tay phải giơ ra phía trước. Tôi mải nhìn cái mũi bao kiếm giật lên giật xuống theo nhịp nói của cậu ký nên chỉ nghe loáng thoáng. Tôi nhớ một it: - “Thằng Tây là loài da trắng mắt xanh đến cai trị nước ta, đây là một việc nghịch. Ngày nay, đức Thiên hoàng nước đại Nhật Bản cùng một loài máu đỏ da vàng với ta đã giúp ta đánh đuổi Tây đi. Ngày mồng 9 tháng 3, quân đội Nhật hoàng đã chiếm quyền toàn cõi nước Nam ta. Nay mai sẽ trao trả độc lập cho ta. Bây giờ Tây thua rồi, nhưng còn bọn Việt Minh, tức là bọn cộng sản đang gây rối loạn, nên quân đội Nhật còn phải ở đây để giúp ta diệt trừ bọn ấy” Cậu ký rút thanh kiếm ra sáng lóe đập xuống hương án đánh rầm một cái. Bọn chúng tôi xanh mắt. Cuối cùng cậu hét to: - Thiên hoàng vạn tuế! Thấy mọi người im lặng, cậu nói: - Dân ta ngu muội chưa quen, tôi hô xong thì mọi người nhắc lại vạn tuế, vạn tuế. Cậu ký hô lại. Mọi người tuần đinh giơ tay thước ra hiệu cho chúng tôi. Bọn trẻ tức thì hét lên: Vạn tuế! Vạn tuế! Cậu ký đút kiếm vào vỏ nện gót giày cồm cộp xuống sân gạch đi ra, không ngờ thằng Thức réo lên: - Vạn tuế. Vạn tuế. Kính coong... kính coong. Ở đình trở về nhà, tôi ngạc nhiên thấy có hai người lạ mặt đang đứng ở sân nói chuyện với mẹ tôi và chị Lụa. Thấy tôi, một tên có răng vàng cười nhăn nhở : - Chú em đi đâu về, bố đi đâu rồi? - Bố đi làm thuê ở xa.- Tôi trả lời và tự nhiên thấy ghét hắn. - Đi làm xa, anh biết rồi, nhưng đêm qua bố em về nhà mà em không biết ư? Chị Lụa tranh lời tôi: - Các ông chỉ nói vở vần... Chị ra hiệu bằng mắt cho tôi. Không cần thế, tôi cũng biết là hai thằng này đi dò bắt bố tôi. Tôi khịt mũi khinh bỉ nhìn chúng. Một tên nói với mẹ tôi: - Rồi chúng tôi sẽ đưa chồng chị về, - Vâng, tôi cũng đang mong thế. - Mẹ tôi quay người trở vào nhà. Hai thằng trơ trẽn nhìn quanh quẩn rồi đi ra. Tôi đi theo ra ngõ và giơ nắm đấm về phía chúng. Quay vào, tôi hỏi chị Lụa: - Liệu chúng nó có bắt được bố không? - Không đời nào, mà bố sẽ nện cho chúng nó một trận nên thân. Bố có võ đấy. - Bố có đeo kiếm như ông ký Phong không? Chị tôi bĩu môi: - Bố khác, ký Phong là tay sai giặc Nhật. Mày biết thế nhưng đừng nói ra. Tôi không hỏi nữa, đứng tha thẩn ở ngõ nhìn ra ngọn núi Cóc. Bố tôi có ở bên kia núi không và đang làm gì? Tôi sẽ biết, nhất định có ngày tôi sẽ biết. S PHÁ KHO THÓC au buổi nói chuyện của ký Phong, chúng tôi vẫn đói đài. Vụ chiêm đến, mỗi nhà xáo xào được vài bữa, rồi lính tráng về thu hết thóc. Lũ trẻ chúng tôi cũng cảm thấy có gì đang ngấm ngầm sôi sục, qua những câu chuyện mà chúng tôi nghe người lớn thì thào bàn tán. Một buổi tối trong làng náo động. Người kéo đi ngoài đường rầm rập. Tôi lập tức đi theo. Người đã đứng chật bãi đất trước cửa đình, leo lên bờ tường, leo cả lên cành đa. Tôi chưa biết người ta làm gì, bọn trẻ biến đi đâu hết. Tôi luồn lách qua người lớn đi tìm chúng nó. Vào đến giữa bãi thì thấy một người lạ mặt đứng trên cái bàn mộc. Hai người cầm đuốc đứng bên cạnh. Tôi len đến tận sát bàn. Người đứng trên bàn không giống ký Phong, anh mặc quần áo nâu, thắt dây lưng ngang hông, ống quần buộc chẽn. Qua ánh đuốc, tôi giật mình thấy người đó giống bố tôi, nhưng tôi lầm. Người ấy giơ tay ra hiệu, dân làng đứng chung quanh im lặng. Toàn những người ăn mặc lam lũ, chẳng có một ông lý ông hương nào. Người ấy bắt đầu nói. Tôi vịn tay vào mép bàn ngửa mặt lên nghe. “Đồng bào có biết vì sao chúng ta chết đói không? Thóc lúa của chúng ta làm ra bị chúng nó vơ vét hết. Bọn Nhật cũng như bọn Tây đều ác như nhau. Thằng này hất cẳng thằng kia để tranh quyền đè đầu cưỡi cổ dân ta. Ai bắt ta phá lúa trồng đay? Giặc Nhật. Ai chém đầu dân ta như chặt củ chuối? Giặc Nhật. Mặt trận Việt Minh là ai? Là chúng ta, là người nghèo, là bà con anh em chân đất áo ngắn chúng ta đứng cả đây. Khổ quá thì phải cùng nhau vùng lên đánh đuổi Nhật, Pháp. Không đi lính, không nộp sưu nộp thuế cho chúng. Chúng ăn cướp thóc của ta chất vào kho. Phải phá kho lấy thóc về cứu đói. Không thể bó tay chịu chết.” - Đả đảo Nhật, Pháp! - Mặt trận Việt Minh muôn năm! Tiếng hô lúc đầu rời rạc, nhưng sau đó không khí ào ào như sôi. Có người hét thật to: “Đánh bỏ mẹ chúng nó đi! Phá kho thóc!” “Muôn năm!” “Muôn năm!” Tôi cũng định hô thật to nhưng líu cả lưỡi, khắp người rần rần như có kiến bò. Tiếng ồn ào mỗi lúc một to như biển động. Tôi thấy háo hức hẳn lên, định nhảy lên bàn xem có thấy thằng bạn nào không. Nhưng tôi không dám, người lạ mặt vẫn đứng trên ấy. Tôi lén đưa bàn tay sờ vào chân anh. Bàn chân ram ráp dính bùn đất. Rồi người ấy nhảy xuống lúc nào và biến đâu mất, Dân làng ồn ào ra về, còn lại bọn trẻ con chúng tôi bây giờ mới đứng túm tụm lại. Đứa nào cũng tranh nhau nói. Tôi kiêu hãnh: - Tao được sờ vào bàn chân anh ấy. - Nói khoác. - Tao thề. - Tao được trông anh ấy nhảy phóc lên bàn cờ. - Hứng lên, tôi định nói “bố tao cũng như thế” nhưng kìm lại được, và trong lòng rất vui thích vì nghĩ ấy. Tối hôm sau, thằng Thức hăm hở chạy đến gọi tôi: - Đi - Đi đâu? Nó kéo tôi ra sân, nói nhỏ: - Đi lấy thóc. - Ở đâu? - Tôi lại ngơ ngác hỏi. Nó sốt ruột: - Hỏi cái gì, đi với tao. - Đề tao hỏi mẹ tao đã. - Cái thứ bám váy mẹ, đi luôn, hỏi thì không được đi đâu. Tôi lẳng lặng theo thằng Thức. Chân nó dài, bước nhanh, tôi theo gần đứt hơi. Dọc đường, chúng tôi gặp nhiều người đi, người mang thúng mủng, người mang quang gánh. Chợt thằng Thức dừng lại thở hổn hển. - Quên rồi, không mang cái gì đựng thóc. - Chúng mình làm gì có phần. - Sao lại không ?-Thằng Thức nói vẻ chắc chắn. - Cổ phần tuốt. Cách mạng mà lại. Tôi tin nó. Quay về thì muộn, tôi nói: - Chúng mình đùm thóc vào áo cũng được. Chúng tôi lại đi. Hết làng, qua một cánh đồng, đến một làng bên cạnh. Kho thóc ở làng ấy. Người đã dồn đông chật các ngả đường. Hai đứa chúng tôi nắm tay nhau vượt lên. Đúng ra là thằng Thức lôi tôi đi. Thình lình tôi nghe một tiếng súng nổ. Thằng Thức kêu lên: “Đánh nhau rồi, ôi làng ôi!” Chúng tôi vẫn vượt lên. Sợ, nhưng vẫn muốn đến nơi xem. Cũng chỉ có một tiếng súng nổ. Người quây kín kho thóc ồn ào như ong vỡ tổ. Có một ai đó nghe như tiếng ông Bụng làng tôi hét thật to: - Bật hồng! Một lát, hàng trăm bó đuốc được đốt lên sáng cả một góc trời. Đám người rùng rùng chuyển động. Cửa kho đã bị phá. Người đổ vào lấy thóc. Những bó đuốc theo các gánh thóc vùn vụt chạy về. Có người gánh đi được một đoạn thì lảo đảo ngã xuống ôm lấy thúng thóc. Tôi và thằng Thức không dám chen vào. Nhưng thóc đồ tung tóe bên ngoài cũng thừa cho chúng tôi cởi áo bọc đầy một bọc. Hai thằng trần như nhộng len lén chạy về làng. Về đến nhà, tôi thấy chị Lụa đang khóc. - Sao lại khóc, em lấy được thóc đây này. - Mẹ đâu? - Em không biết. - Mẹ cũng đi lấy thóc sao mày không biết. - Đông như kiến, em không thấy mẹ. - Có súng bắn phải không ? - Nổ đùng một phát, người ta bóp chết thằng bắn súng ngay. Chị Lụa đốt cây nến trám. Không có dầu, người ta phải lấy nhựa trám trên rừng bỏ vào lá dong khô để thắp. Ngọn đèn như bó đuốc bốc khói thơm um cả nhà. Tôi giữ thóc ra cái mẹt, tiếc rẻ: - Giá đem theo cái bị thì còn được nhiều. Chị tôi cáu: - Sao mày không rủ tao? - Con gái đi làm sao được. - Bốc chưa, tao không thèm chơi với mày nữa. Để người ta ở nhà một mình sợ bỏ xừ. - Ở nhà, chị còn sợ nữa là đi. Em đi cách mạng đấy chứ chị tưởng. Một lát sau, mẹ tôi về, cũng được lưng gánh thóc. Biết tôi cũng đi lấy thóc, mẹ sửng sốt và mắng: - Giời ơi, người ta giẫm bẹp ruột đấy, ai bảo mày đi? Nhưng khi sảy mớ thóc của tôi, mẹ lại vui vẻ: - Cũng được vài bữa cháo đấy. Chị tôi ấm ức: - Mẹ mà cho con đi, con lấy được nhiều bằng vạn. Mẹ tôi cất thóc vào buồng và đổ một ít vào cối xay, xay luôn. Tiếng cối xay cũng ù ù ở bên hàng xóm. Tôi ngồi bệt xuống đất đưa bàn tay hứng những hạt gạo từ cối xay rơi xuống như mưa. Chị Lụa cũng bắt chước tôi, chị rút tay đầy gạo ra thổi phù phù cho bay trấu rồi phả vào mồm nhai rau ráu. Mẹ tôi dừng xay: - Đừng ăn gạo sống đau bụng. Chúng mày chịu khó thức, mẹ làm xong gạo, mẹ nấu cho bát cơm mà ăn. Mắt tôi sáng lên, mũi hít hít tưởng như đã được ngửi mùi cơm ngon lành. Có thức hết đêm, tôi cũng thức được. Cái niêu đất xới ra vẻn vẹn được cho ba mẹ con mỗi người một bát cơm. Tôi thò tay vào niêu khoắng thêm được miếng cháy và ăn hết từng hạt cơm dính ở ngón tay. Mẹ tôi cười: - Rõ con nhà chết đói. Tôi cũng cười thích thú. Khi đi ngủ, cái bụng tôi vẫn còn reo. Hai hôm sau, thằng Thực hớt hải chạy đến: - Lính về bắt những người lấy thóc. Chúng nó đến xóm tao rồi. Tao với mày có lấy thóc, phải trốn đi. - Bọn lính biết đâu chúng mình lấy thóc. - Bọn trẻ con biết, có thể chúng nó nói với bọn lính. Cũng tại chúng mình cứ khoe rối rít lên. Bây giờ tạm trốn chờ cho bọn lính đi khỏi làng. - Trốn ở đâu ? - Đi với tao. - Tao phải coi nhà. - Bỏ đấy, nhà có quái gì mà phải coi. Tôi ghé sát vào tai thằng Thức: - Còn thóc. - A, nhà mày dè xẻn khiếp. Nhà tao hết ngay. Bố tao đang mong đi chuyến nữa. Nhưng mà nguy mày ơi, nếu có thóc chúng nó tìm thấy nhất định mày bị tóm. Tôi đành theo thằng Thức. Nó đưa tôi ra đền Phúc Chúng tôi mở cửa chui hẳn vào trong đền, rồi leo lên ngồi trên xà nhà. Tơ nhện quấn đầy đầu đầy mặt, mũi hít đầy mùi hôi mốc. Ngồi một lát, chợt chúng tôi nghe tiếng súng nổ. Hai đứa tụt vội xuống như người ta vừa nhắm bắn vào mình. Hai đứa lại lao ra. Ngoài đường, bọn linh đang áp giải mấy người làng bị trói. Chúng tôi nấp trong vườn chờ chúng nó đi qua. Phía sau bọn trẻ nhao nhác. Chúng tôi chạy đến với chúng. - Chúng nó bắn chết ông Bụng. Một đứa bé nói với tôi như vậy. Và bọn tôi kéo tới túp lều quen thuộc. Ngọn lửa đã đốt thiêu tất cả, túp lều của ông Bụng còn lại một đống than tro âm ỷ. Ông Bụng nằm ngoài vườn, nhiều người đứng xúm quanh. Người ta đã đắp chiếc chiếu che kín mặt, chỉ còn lòi ra hai bàn chân. Những ngón chân tõe ra ngắn ngủn và đen sì. Người ta bảo ông ấy đi bằng đầu ngón chân nên bị mòn đi như vậy. Bây giờ thì ông Bụng chết rồi. Bọn linh đã kéo vào nhà ông khi ông đang ngồi uống rượu. Chúng nó hỏi ông có đi cướp thóc không? Ông lờ đi và nói những chuyện bông lơn. Một thằng chỉ huy hỏi ông với giọng tử tế: - Đêm hôm trước, chắc là ông đưa dân làng đi cướp thóc. Bấy giờ, ông Bụng mới cười gằn trả lời: - Ăn cướp à? Có phải thóc của các anh làm ra không? - Thế là ông có đi. - Sợ gì mà không đi. - Bây giờ ông đi với chúng tôi - Tên chỉ huy mềm mỏng nói với ông Bụng. - Tôi không đi đâu cả. - Không đi thì có súng dẫn đi. Ông Bụng đứng dậy tay lăm lăm cầm chai rượu: - Chúng mày bắn tao thì bắn đi. Chúng mày đã làm tao khổ nhục suốt một đời rồi. Chúng mày đã làm hỏng cuộc đời tao. Tao căm ghét chúng mày. Tao ăn trộm, ăn cướp là vì chúng mày. Vợ chết, con mất , tao như một con chó già sống đơn độc trong cái túp lều này là vì chúng mày. Cút, nếu không tao sẽ đổi mạng. Tiếng súng nổ cùng lúc khi ông Bụng đập chai rượu vào mặt tên chỉ huy. Ông còn lao theo bọn chúng ra đến sân mới ngã gục. Bọn lính châm lửa đốt nhà ông. Người làng chôn cất ông Bụng ngay ở mảnh vườn. Nhiều đứa trong bọn trẻ chúng tôi cũng bắt chước người lớn cầm hòn đất đắp vào mộ ông. Tôi cũng làm như vậy. Trước kia, tôi vừa thích vừa sợ ông. Bây giờ, tôi thấy thương nhớ ông. Đến nay, bao nhiêu năm đã trôi qua rồi, tôi vẫn còn nhớ ông Bụng, tôi hiểu về cuộc đời của ông hơn. Cuộc đời của một người khổ cực, và sai lầm nữa khi chưa nhìn rõ đường đi trong cuộc sống tối tăm ngày xưa. Bây giờ đây, ai về làng tôi, tôi sẽ chỉ cho xem một cây ổi già, da nó nâu bóng như da ông Bụng ngày trước. Cây ổi mọc ngay trên mảnh đất vốn là nhà ông trước kia. Không biết ai đã trồng cây ổi ấy, có lẽ đã nghĩ tới ông Bụng lúc còn sống thường hay nhắm rượu bằng ổi xanh chăng? T CƯỚP CHÍNH QUYỀN ôi không biết hết những gì đã xảy ra trong những ngày chuẩn bị cho cách mạng tháng Tám ở làng tôi. Công việc ấy của các nhà văn và nhà chép sử. Còn đọng lại trong đầu óc đứa trẻ hồi đó là những ấn tượng nao nức lạ lùng. Sau khi phá kho lấy thóc, và đã có khoai lang, dân làng tạm qua nạn đói. Bọn trẻ chúng tôi lại có da có thịt. Chúng tôi lại chạy rông khắp làng, kháo với nhau những câu chuyện nửa kín nửa hở không đầu không đuôi. Chắc sẽ có một chuyện gì ghê gớm lắm. Nhưng bao giờ xảy ra và xảy ra như thế nào thì không đứa nào biết. Bọn lính cũng không thấy sục về làng nữa. Có một việc mà đứa nào cũng sợ. Đấy là thình lình một hôm có chiếc máy bay đen sì, bay vụt trên nóc nhà như tiếng sét xé trời. Một lát sau, có tiếng nổ rầm rầm. Người ta bảo máy bay Mỹ ném bom chiếc cầu trên đường sắt cách làng tôi sáu cây số do quân Nhật canh giữ. Lũ trẻ chúng tôi lo âu ngơ ngác, những chuyện như thế có mà trời biết. Có hôm chúng tôi nhặt được truyền đơn. Người ta chuyển nhau xem giấu giếm. Đấy là một tờ giấy màu xanh to bằng hai bàn tay. Trên đó có vẽ cái bản đồ có mảng đầy gạch đen. Người ta giải thích đây là vùng giải phóng của ta. Bên dưới có lá cờ in đen nhưng có chữ chú thích là nền đỏ sao vàng. Chúng tôi tịt mít không đọc được những dòng chữ in trong tờ truyền đơn ấy. Trong làng tôi có hai ông đồ dạy chữ nho. Mãi tới năm ngoái mới mở một trường dạy quốc ngữ. Ông Lưu mất khối tiền mới xin được cái chân dạy ở trường. Lớp đặt ở nhà giải vũ trong sân đình. Cái nhà ấy vào dịp tháng giêng tế thần, dùng làm nơi chia xôi thịt, bây giờ đặt vào đấy bốn dãy bàn ghế. Lý trưởng bắt dân đóng tiền, nhưng chỉ mươi lăm nhà có con đến học. Phần lớn là con những nhà giàu trong làng. Còn bọn chúng tôi thì sau khi tan lớp, kéo đến lấy phấn, lấy gạch vẽ bậy bạ lên bảng, lên bàn ghế. Đều đặn mỗi buổi sáng, ông giáo Lưu đi qua nhà tôi. Ông mặc quần dài trắng, áo the dài đã sờn rách ở khuỷu tay. Đường khô thì ông đi đôi dép mỏng, ngày mưa ông đi đôi guốc đẽo bằng gốc tre có mũi cong lên như ẳ mũi thuyền. Tôi không thể nào quên được cái dáng đi thẳng cứng như người gỗ của ông giáo. Hai tay ông thẳng đuỗn cầm hộp phấn, mấy quyển sách và một cái thước đầu bịt đồng như thước của thợ may. Lớp học cũng chẳng bền, lúc đầu hơn chục đứa, sau mòn dần. Đến năm nay đói kém loạn lạc, chúng nó bỏ gần hết. Gặp bọn học trò ấy, lũ nhãi chúng tôi không được học thường trêu chọc: “Ê, học trò thò lò mũi xanh Ăn cướp cơm chó, ăn tranh cơm mèo…” Chúng nó im thin thít ra vẻ coi khinh chúng tôi. Nhưng thật ra thì chúng nó sợ, chẳng dám gây sự với chúng tôi. Nhưng bây giờ cầm tờ truyền đơn thì chúng tôi mù tịt. Đem hỏi mấy đứa học sinh kia thì nhục quá. Chúng tôi đoán tờ truyền đơn cũng viết những lời như cái anh hôm trước diễn thuyết ở sân đình, thế là được rồi. Thế nào cũng có đánh nhau to. Bọn trẻ chúng tôi thích xem đánh nhau. Sợ nhưng vẫn thích. Năm nay không, chứ những năm trước vẫn thường có những vụ đánh nhau. Có năm làng tôi kéo cả đi đánh nhau với làng bên để tranh đất. Thật là ghê. Trống ngũ liên thúc dồn dập như có cháy nhà. Lúc đi gậy gộc, lúc về cả người máu me đầy mặt. Người lớn vậy, trẻ con cũng thế. Một đứa trẻ nào ở cái làng thù địch với làng tôi, vô phúc lại sang đây thì chúng tôi kéo đến tưởng có thể ăn thịt nó ngay được. Còn sắp tới sẽ đánh nhau như thế nào đây. Có đứa nói bác thợ rèn ở đầu làng dạo này rèn cả đêm. Bác ấy rèn kiếm. Bác ấy ren bao giờ cầm sợi tóc thổi vào lưỡi kiếm mà sợi tóc đứt mới là thanh kiếm sắc. Chúng tôi cứ túm tụm nơi này chán, lại chuyển sang nơi khác, hết chuyện nọ lại xọ chuyện kia. Nhưng chờ đợi mãi lại đâm ra thất vọng. Đúng lúc ấy thì sự việc lại đến thật không ngờ. Vào đêm mười bốn tháng bảy âm lịch, tôi nhớ vì nhà tôi sửa soạn ngày mai cúng rằm, ngày xá tội vong nhân, bọn trẻ được bữa ăn ngon. (Sau này tôi biết làng tôi cướp chính quyền vào đêm 21-8-1945). Đêm ấy trăng rất sáng, bọn chúng tôi sắp nhảy ra sân đình chơi trăng, thì trong làng bỗng rầm rầm như biển động. Tiếng trống mõ nổi lên, tiếng gọi loa oang oang, lần đầu tôi nghe gọi loa. Người chạy rầm rập ngoài đường. Chị Lụa đã chạy biến từ bao giờ tôi không biết. Mẹ tôi chít vội cái khăn, nói: - Làng ta cướp chính quyền. Tôi ngơ ngác: - Đánh nhau hả mẹ? - Cách mạng cướp chính quyền. Mẹ ra đình đây. Tôi nhảy phóc đi trước. Trông thấy mấy đứa còn thập thò trong ngõ, tôi thét: - Theo tao đi cướp chính quyền! Người chật đường. Phía đình làng, tiếng ồn ào reo vang như vỡ chợ. Tôi không chen vào trong đình được, bực đến phát khóc. Tôi lại gặp thằng Thức. Hai đứa tìm con đường chạy vòng xuống bờ ao, gai góc bẩn thỉu chẳng kể, rồi bám lấy con đường dẫn về đình, phía ấy thưa người hơn. Ôi thôi, người chúng tôi đầy bùn đất, mồ hôi vã ra như tắm. Hai đứa chen vào được đến nơi thì người ta đã tuyên bố là cướp chính quyền xong rồi. Lý trưởng đã nộp đồng triện và giấy tờ. Đã bầu xong Ủy ban lâm thời. Sau này tôi mới biết tất cả những điều ấy, còn lúc đó tôi thấy mấy người đang đứng trên chiếc ghế dài kê sau cái bàn. Người ta bảo đấy là Uy ban lâm thời, trong đó có ông giáo Lưu. Ông vẫn mặc cái áo the rách khuỷu tay, hai tay vịn buông thõng thẳng cứng như khi ông cầm phấn, cầm sách đi dạy học qua nhà tôi. Một người cầm loa vừa quay vòng vừa nói: - Yêu cầu đồng bào yên lặng để nghe đồng chí thư ký Ủy ban đọc lệnh của chính quyền cách mạng. Hóa ra ông giáo Lưu lại là đồng chí thư ký. Ông giơ tờ giấy thẳng ra trước mặt đọc làu làu, ông giáo có khác. Sau đó Ủy ban kêu gọi các đoàn thể đi biểu tình lên huyện cướp chính quyền. Lúc đó tôi mới để ý thấy lá cờ. Lá cờ giống như đã in trong tờ truyền đơn nhưng to hơn nhiều. Màu cờ đỏ rực, có ngôi sao vàng ở giữa. Người cầm cờ giơ cao vẫy đi vẫy lại cho mọi người trông thấy rồi vác đi trước. Mọi người rùng rùng lũ lượt đi theo. Tôi buồn quá, không được đi. Không biết bằng cách nào, mẹ tôi lại tìm được tôi trong đám đông ấy. Mẹ bảo lên huyện xa hàng chục cây số, lại phải qua sông, tôi không đi được. Thấy tôi ấm ức, mẹ nói thêm: - Mày tưởng ai cũng được đi đấy hẳn. Phải có tổ chức, có đoàn thể chứ. Hai mẹ con về đến nhà. Không thấy chị Lụa, tôi hỏi, mę bảo: - Nó lên huyện. Tôi ngớ người ra. Mẹ thủng thẳng nói: - Chị mày ở trong Đội thiếu nhi cứu quốc. Trời ơi, tôi vừa cay cú, vừa tức bực. Thế mà chị ấy giấu tôi. Tôi nhớ ra, buổi chiều, ăn xong chị nắm một nắm cơm, tôi hỏi thì chị bảo để ngày mai cho mẹ đi củi. Hóa ra chị nắm cơm đi biểu tình. Tôi buồn rầu đứng ở ngõ nhìn đoàn người đi ra tận cánh đồng dưới ánh trăng lấp lánh. Tiếng hô vang vọng lại làm cho tôi càng thêm tiếc ngẩn tiếc ngơ. Xóm làng trở nên hết sức vắng lặng. Đêm ấy, hai mẹ con tôi nói chuyện rầm rì với nhau. Mẹ tôi rất vui, và nhắc tới bố tôi luôn: - Bố sắp về với mẹ con ta. - Mẹ tôi nói một cách chắc chắn, mặc dù từ khi bố tôi đi đến nay không có tin tức gì. Tôi nằm nghĩ ngợi lung tung, nghĩ ra bao nhiêu chuyện mà không hiểu hết. Cuối cùng, tôi cay đắng nhận ra mình chỉ là một thằng nhãi con. Chạy quanh khắp làng, dính vào bao nhiêu việc. Đi cướp thóc, đi biểu tình,... nhưng rồi chẳng ai thèm chú ý tới. Tôi nhớ tới bố. Có bố ở nhà, chắc tôi không bị bỏ rơi như thế này. - Mẹ ơi, mẹ còn thức chứ. Bố về lần này mà còn đi nữa, nhất định con đi theo. Mẹ phát vào lưng tôi: - Tôi nuôi anh vất vả bằng chừng này, anh lại định bỏ tôi đi theo bố anh. Đi luôn, đi hết, tôi không thèm giữ.- Mẹ đẩy nhẹ tôi ra. Tôi sán lại ôm cổ mẹ. - Tôi không cần anh thương tôi. - Nói vậy nhưng mẹ lại kéo tôi vào nằm co trong lòng mẹ. Hôm sau, tôi đứng ở ngõ ngóng từ sáng. Mãi chiều, chị Lụa mới về. Trông chị vừa mệt mỏi vừa tươi vui. Không thèm trả lời tôi câu nào, chị vào nhà, không thấy mẹ, chị lăn kềnh ra giường. Ngáp dài một cái rồi ngủ tít thò lò. Tôi gỡ cái cờ nhỏ ở trong tay chị. Lá cờ bằng giấy bôi phần đỏ, ngôi sao ẳ nhuộm nghệ vàng cháy. Tôi nghĩ thầm, đúng là con gái vẫn chẳng được cái tích sự gì. Mãi tối mịt, mẹ tôi mới về, nấu cơm xong mâm bát đã dọn ra mà chị Lụa vẫn ngủ. Tôi phải lấy sợi tóc ngoáy vào mũi, chị mới hắt hơi một chập rồi ngồi dậy ngơ ngác, cứ tưởng như đang trong cuộc biểu tình, định hô khẩu hiệu, tôi phì cười, chị mới tỉnh hẳn. Ăn được nửa bữa, chị bắt đầu mở miệng, rồi thì chị hoa tay, trợn mắt kể lại bao nhiêu chuyện đã xảy ra trên huyện làm cho tôi càng tiếc. Chợt mẹ tôi buông đũa ngắt lời chị: - Mày nói bác gì? Bác gì hả? - Bác gì hả mẹ? - Thì mày vừa nói bác gì làm chủ tịch Ủy ban huyện đấy? - À, bác Thủy mẹ ạ, con nghe người ta nói thế. Cái tên ấy gợi cho tôi thoảng nhớ một điều gì. Mẹ tôi lại hỏi: - Mày có trông rõ bác ấy không? - Rõ chứ, thiếu nhi chúng con đứng giáp kỳ đài. - Kỳ đài là cái gì ? - Tôi vội hỏi. - Cái thằng ngớ ngẩn. Kỳ đài là kỳ đài chứ còn là cái gì. Mẹ tôi bảo chị Lụa tả lại bác ấy, nhưng chị ngồi chống đũa im như ông phỗng. Đúng, con gái vẫn không ra làm sao. Mẹ tôi gợi mãi, chị mới kể được, rồi mẹ nói: - Mày trông thấy bác Thủy có giống cái bác đến nhà ta hồi thằng Hòe ốm nặng ấy không? Chị Lụa nhảy cẫng, reo lên: - Đúng rồi mẹ ơi. Mẹ nhắc con mới nhớ, thế có chết không cơ chứ. Đúng bác ấy. Mẹ tôi im lặng một lát rồi nói: - Bác Thủy đấy, mà không biết bố chúng mày ở đâu? - Giá mẹ bảo trước thì con đã hỏi bác ấy rồi, con đứng gần lắm mà. - Bố cướp chính quyền ở trên tỉnh. - Tôi nói một cách dứt khoát. Chị Lụa tròn xoe mắt nhìn tôi: - Mẹ ơi, nó ngồi xó nhà mà toan biết chuyện trên tỉnh. Chuyện trên huyện còn mù tịt nữa là. Tôi vẫn không chịu thua : - Em đánh cuộc với chị đấy. Bố đi sang bên kia núi Cóc tức là lên tỉnh. - Bên kia núi là chân trời kia mà. Bố cướp chính quyền ở đấy à? - Sao lại không. - Tôi vẫn ương ngạnh. Mẹ tôi hơi gắt: - Hai đứa này lạ nhỉ. Toàn cãi nhau những chuyện đâu đâu. Chị Lụa lại thao thao kể tiếp. Nào là đi suốt đêm, lúc qua sông mới khiếp, đò như lá tre, chuyến nào cũng đầy người, nước mấp mé mạn đò, phải ngồi im, ho một tiếng có thể đắm. Nào là cướp huyện dễ như trở bàn tay. Thằng quan huyện đã trốn đi từ hôm trước. Còn lại bọn lính nộp súng đầu hàng ngay. Người đồng như kiến, chúng nó mà chống lại, thì mỗi người chỉ gí một ngón tay là đủ chết. Nào là cờ như rừng và người ta hô khẩu hiệu đến khản cổ. Cuối cùng, chị lại khoe được đứng gần kỳ đài, nghe bác Thủy nói, giọng bác khàn khàn và mắt hay nháy... Tôi lại nói với chị Lụa là bố cướp chính quyền ở trên tỉnh. Nhưng mẹ tôi không nói gì. Bữa cơm và cuối lặng hẳn đi. NIỀM MƠ ƯỚC ĐƯỢC ĐI XA N hững ngày mới giành chính quyền, hầu như đêm nào ở đình làng tôi cũng có cuộc họp hoặc cuộc vui. Bọn trẻ bị cuốn hút tới đấy từ chặp tối cho đến khuya. Nhất là những đêm trăng, cái sân đình lát gạch trở nên chật hẹp. Các cụ phụ lão thường họp ở thềm đình. Thanh niên, thiếu nhi ở một góc. Các bà, các chị thì họp ở tít góc ngoài. Trước kia, đàn bà con gái, không bao giờ được đặt chân vào sân đình. Tôi cũng thường tới đây, nhưng dần dần, tôi không hào hứng nữa. Bởi tôi chỉ là đứa đi xem, đứa đứng ngoài. Người ta vẫn chưa cho tôi vào Đội thiếu nhi. Tôi đổ tội cho chị Lụa: - Chị không cho em vào đội, em cũng chẳng cần. Những đứa trong đội của chị múa hát cũng chẳng bằng em. Điều ấy tôi không nói ngoa. Tôi vẫn thường bắt chước những ông tướng trong đêm hát bội. Tôi đội mũ lá mít, đeo râu lá chuối, cầm thanh kiếm gỗ múa hát thì bọn trẻ vẫn thích mê. Khi trong sân đình đội thiếu nhi múa hát, thì ngoài bãi tôi cũng làm trò. Bọn trẻ gõ trống, thổi kèn mồm inh ỏi, còn tôi thì lên giọng: “Như ta đây Mới thôn quê ngụ, biểu tự Hòe đen Mỗi một ngày xơi chục bát cơm Sức ta mạnh muôn người khôn địch... cha...cha...” Rồi cái trò ấy tôi cũng chản. Một buổi tối, chị Lụa sắp ra đình, thấy tôi dửng dưng liền hỏi: - Mày không ra đình à ? - Ra làm quái gì. - Xem chúng tao múa hát. - Vô tích sự. - Mày đúng là đứa lạc hậu. Lạc hậu là gì tôi không biết, nhưng chắc là không tốt đẹp gì. Tôi cáu: - Lạc hậu có bằng lạc rang không? Chị tôi cười rũ rượi: - Thằng ngố. Tôi càng giận: - Các chị là một lũ ếch ộp, gào mưa suốt đêm. Chị tôi đỏ mặt: - Đời sống mới mà mày nói thế à, đúng là thằng phản động thế giới. Tôi nhảy bổ lại, định tống cho chị tôi mấy quả thui, nhưng chị đã nhanh chân chạy ra sân, vừa chạy vừa dang cánh tay như là con chim và cười vang. Từ ngày ấy, tôi nôn nao mong ước bố trở về. Tôi lại thường ra ngõ ngóng về phía núi Cóc. Một buổi chiều, có người khách đến nhà tôi. Mới vào tới sân, thì chị Lụa từ trong nhà đã chạy ra reo lên: - Bác Thủy. Tôi ngơ ngác nhìn khách và ghen tị với chị. Bác Thủy cầm tay chị tôi, vui vẻ: - Cháu Lụa phải không? Lớn quá, bác khó nhận ra. Chị tôi láu táu: - Hôm cướp chính quyền ở huyện, cháu thấy bác đứng ở kỳ đài, cháu cũng không nhận ra. Tôi lầm bầm: “lúc nào cũng kỳ đại với chả kỳ đài”. Chị tôi liền chạy lại kéo tay tôi rồi nói với bác Thủy: - Em cháu đây. Bác có nhớ thằng này không. Năm xưa không có bác thì nó chẳng còn đến bây giờ. Tôi cảm thấy nóng mặt, giằng tay khỏi chị và định quay đi, thì bác Thủy đã đến cạnh tôi nói ôn tồn: - Cháu, xin lỗi, bác chưa biết. Trông cháu khá lắm, lớn lên theo bố được đấy. Tôi tần ngần lại nghĩ đến bố, tự nhiên thấy mắt cay cay. Bác Thủy nói giọng khàn khàn êm dịu: - Bác là bạn của bố cháu. Ngày trước bố mẹ cháu đã nuôi bác. Hồi ấy cháu còn bé lắm. Có nhớ bố không? Tôi nói: - Sao bố cháu không về? Chị Lụa cướp lời: - Bác ạ, nó cược với cháu là bố cháu cướp chính quyền trên tỉnh đấy. Có đúng không bác? - Bác không rõ lắm, nhưng bác biết là bố cháu hoạt động cách mạng ở xa chưa về được. - Bác Thủy cười, đôi mắt nheo lại - mẹ đi vắng, các cháu có mời khách vào nhà không? Chị Lụa ngượng nghịu: - Mừng quá cháu quên mất, mời bác vào để cháu đi đun nước. - Thôi, bác cháu mình ngồi nói chuyện đợi mẹ cháu về. Bác Thủy vừa nói xong thì mẹ tôi tất tả từ ngõ đi vào: - Tôi đi làm dưới đồng trông thấy người đi trên đường giống bác, tôi vội cấy nốt đon mạ dở rồi chạy về. Mắt bác Thủy nháy nháy cảm động: - Chị. Bận quá hôm nay mới về thăm chị và các cháu được. - Biết bác bận mà vẫn mong. Bác Thủy nói cho mẹ tôi biết tin về bố tôi. Bác nói hồi trước khi giành chính quyền ít lâu, hai anh em có gặp nhau ở căn cứ trên tỉnh. Sau đó, tỉnh cần cử người ra Trung ương có việc. Bố tôi và một người nữa được cử đi. Người kia vừa mới trở về và cho biết là bố tôi được Trung ương giữ lại công tác ở ngoài ấy. Bác nói thế nào nay mai bố tôi cùng về thăm nhà. Mẹ tôi hỏi: - Nhà tôi gan lắm kia bác ạ, bận việc là thôi đấy. - Hồi ở căn cứ, anh ấy nhắc tới chị và các cháu luôn. Buổi đầu Cách mạng, công việc bận nhiều thật, nhưng vui, và không phải lo lắng như ngày xưa nữa. Mẹ tôi lo đi làm cơm. Tôi đã thấy mến bác Thủy. Đêm, hai bác cháu ngủ trên chiếc phản gỗ đắp chiếc chiếu. Bác Thủy quấn thuốc bằng tờ lịch, hình sâu kèn to bằng ngón tay cái. Tôi nằm ngửi cái mùi khét khét thơm thơm của khói thuốc. Bác Thủy nói chuyện to với tôi đề mẹ tôi và chị Lụa nằm trong buồng cùng nghe. Thỉnh thoảng mẹ tôi lại hỏi xen một câu, hoặc kể những chuyện ở nhà, ở làng cho bác Thủy nghe. Câu chuyện bắt đầu từ cái buổi tối bác Thủy ở nhà tôi ra đi. Hôm ấy, sau khi nghe hồi trống gọi tuần đinh của lý trưởng, bác Thủy ra sau nhà luồn xuống đồng và ra bờ sông. Bác không dám sang đò ngay và tìm chỗ lánh. Bờ sông làng tôi trồng rất nhiều cây để bảo vệ để ngăn nước mặn. Có rất nhiều cây gọi là cây uốp. Quả uốn ăn chết người. Ngày trước người làng, ai khổ cực quá không muốn sống nữa xuống bờ sông ăn uốp tự tử. Bác Thủy trèo lên một cây uốp. Bác nhìn xuống bến đò, quả nhiên có mấy tên tuần đinh cầm đuốc đứng đấy. Rồi chúng đi theo bờ đê sục tìm. Có lúc chúng đứng ngay dưới gốc cây uốp bác Thủy ngồi. Bác nghe chúng nói với nhau. - Thằng ấy là ma hay sao mà biến mất. - Nó nằm đâu trong dải rừng này thôi. - Sục hết thì sang đêm. Thật là công cốc. Không bắt được thì đến chén rượu nhạt, ông lý cũng chẳng thí cho đâu. - Chúng mày có biết loại cây gọi là cây cộng sản không? Phạt đến đâu lại mọc lên đến đấy. Mọc nhanh và nhiều hơn. Diệt thế quái nào hết được Cộng sản. Gần sáng, bác Thủy mới qua được sông. Bác đi đến một làng có cơ sở, rồi làm thuê cho một nhà giàu. Nhà ấy có đứa con đi học. Tối nó thường học bài, nó học sai - bác Thủy biết thế nhưng lặng im. Nhưng một hôm lão chủ đi vắng, thấy thằng bé học sai, thương nó, bác Thủy không đành lòng liền chỉ bảo cho nó. Không ngờ thằng bé khoe với bố. Hôm sau, lão chủ gọi bác Thủy vào buồng riêng, nói một cách tử tế: - Ông là ai, tôi đã biết. Tôi cũng không phải hạng chó má đi tố cáo ông. Nhưng ông hiểu cho, tôi còn gia đình con cái, xin phiền ông đi nơi khác. Bác Thủy và ngạc nhiên chối cãi. Nhưng lão chủ vẫn khăng khăng: - Thưa ông, xưa nay tôi xét người không đến nỗi tăm tối. Hôm ông mới đến, tôi đã hơi ngờ ngợ. Tôi thoáng thấy vẻ khang khác trong mắt ông, cung cách ăn nói cư xử của ông. Người kiếm ăn bình thường không thể như thế, nhất là không thể có học như ông đã dạy bảo thằng cháu tôi. Tôi ngắt lời bác Thủy: - Giá bác đừng bảo cái thằng bé ấy học thì hơn. - Đúng thế, đây là sai lầm của bác. Nếu là cháu, chắc cháu giữ được. Bố cháu cũng vậy, cẩn thận lắm. - Bác phải đi khỏi nhà ấy chứ? - Chị Lụa trong buồng hỏi vọng ra. - Bác phải đi. Như vậy ông chủ nhà ấy cũng không phải người xấu. Mẹ tôi lên tiếng: - Thôi, để cho bác ngủ, bác mệt rồi. - Được nói chuyện với các cháu, tôi không mệt. - Bác Thủy lại đốt một điếu thuốc khác - Chỉ tiếc là không có chuyện gì hay kể cho các cháu nghe. Nhưng mà thôi, các cháu cũng phải ngủ, mai tác kể tiếp. Tôi nằm yên chưa ngủ được, lẳng lặng nhìn bác Thủy ngồi hút thuốc. Đốm than đỏ bập bùng ở môi bác, mỗi khi ánh than sáng lên, tôi lại thấy khuôn mặt xương xương hiền từ của bác. Hai đốm than thoắt sáng, thoắt tối trong cặp mắt hay nháy của bác. Những chuyện bác Thủy kể gợi cho tôi cái ý là phải đi xa, đi nhiều. Sẽ có bao nhiêu chuyện hay chuyện lạ. Nhất định tôi phải tìm cách đi theo bố. Bác Thủy cũng đi từ bé. Tôi phải đi. Cái ý nghĩ ấy làm tôi run lên bởi những điều kích thích mới mẻ. TRƯỜNG LỤC QUÂN ĐANG CẦN LÍNH T hời gian trôi qua, tôi đã lớn lên nhiều. Mọi công việc đã đi vào nền nếp bình thường. Riêng tôi, vẫn nuôi cái mong uớc đi với bố, nhưng mãi vẫn chưa thấy bố về. Bố chỉ gửi về vài lá thư ngắn ngủi. Trong thư nói tới tôi, bố vẫn coi tôi như cái thằng Hòe ốm yếu bé bỏng ngày trước. Làm sao cho bố tôi biết được rằng tôi đã lớn. Một hôm, mẹ tôi nói: - Thằng Hòe có thể giúp mẹ được rồi đấy. - Thì con đã bảo mẹ cho con đi hái củi với mẹ mà. Con muốn lên rừng lắm. - Hái củi thì tao chưa khiến. Bây giờ, nhà được tạm cấp ba sào ruộng, được chung một con trâu. Con đi chăn giúp mẹ được thì hay. - Được, chăn trâu thì khó gì. Con chăm nó béo như con ấy. - Chăn đắt mấy tháng thôi. Sang năm mới, mẹ sẽ cho con đi học. Một chiếc nón mê, một cái roi tre, tôi đi chăn trâu. Tôi đánh trâu xuống tận bờ sông. Ở bãi ấy, có rất nhiều tôm. Đem theo dúm muối và nắm lá mơ lông ăn kẹp với tôm tươi thì ngon tuyệt. Cho vào mồm, chân cẳng nó còn khua lách tách. Vớ được một chú cua bấy lại càng hay, ngon đến nhức lưỡi. Sau một tháng, người tôi đen cháy như củ thục địa. Tóc đỏ hoe và lúc này cũng khét mùi bùn. Chị Lụa nhận xét: - Thằng Hòe hôi như ma bùn, nhưng được cái chững chạc hơn trước nhiều, Chả là đi suốt ngày, có công việc làm, tôi không hay cãi nhau ghen tị vặt vãnh với chị ấy nữa. Nhưng tôi cũng có những ý nghĩ khác mà chị không biết. Cây chanh ở vườn sân đã ra thêm một mùa hoa nữa. Mỗi buổi sáng, tôi mở cái cửa sổ trông ra đã thấy hoa chanh rụng trắng. Những cánh hoa rải lốm đốm trên mặt đất bay hương thoang thoảng. Mẹ tôi nói cây chanh bố trồng ngày tôi sinh. Vào mùa xuân ấy, một hôm mẹ nói với tôi: - Con phải đi học. Mẹ và chị Lụa sẽ thay nhau trông trâu. Vậy là mẹ nhất định cho tôi đi học. Thằng Hòe đen cắp sách đến trường, đó thật là một điều mới lạ. Nhưng các bạn không thể đoán được là tôi sắp bước vào những ngày buồn tẻ nhất. Tôi không theo chị Lụa đến lớp bình dân học vụ buổi tối, không đến lớp học chữ quốc ngữ ban ngày ở xóm chùa. Tôi đi học chữ nho với ông bác họ của tôi. Chắc các bạn còn nhớ người viết chữ “sát” vào bụng tôi hồi tôi ốm suýt chết ấy. Vâng, bây giờ ông là thầy học của tôi. Nói đúng ra, hôm bắt đầu đi học tôi rất hồi hộp sung sướng. Mẹ tôi may cho cái quần dài trắng, cái áo dài bằng vải đen. Đầu tôi đề hai trái đào. (Sau này, tôi khổ vì hai chỏm tóc trái đào vàng hoe như lông bò ấy, bọn trẻ chế giễu đến mức tôi phải nhờ người cạo trọc nốt). Bố tôi vắng nhà, mẹ tôi coi việc cho con đi học là hệ trọng nên đến hỏi ý kiến ông bác, là người vừa cao tuổi vừa có chữ nghĩa, ông quyết định cho tôi đến “ăn mày” chữ ở cửa thánh hiền do ông rèn cặp. Tôi xúng xính trong bộ quần áo mới, cầm quyển vở bằng giấy bản, cái bút lông và thỏi mực tàu đen nhánh. Mẹ tôi đi sau bê cái khay trên có be rượu, đĩa trầu, và một đĩa lòng lợn vừa mua ở xóm trên. Hai mẹ con trịnh trọng đến nhà ông bác. Trước Cách mạng, trường bác tôi đông học trò, bây giờ chỉ có năm người. Hai người lớn và ba đứa trẻ. Tôi, thằng Thức và thằng Nậm rỗ. Năm người học năm lớp khác nhau, năm sách học khác nhau. Trường không có bàn ghế. Một cái sập gỗ cao là nơi thầy học ngồi. Một cái giường tre thấp là nơi hai anh học trò lớn nằm phủ phục, còn ba đứa chúng tôi thì nằm bò ra trên chiếc chiếu trải dưới đất. Từ đó, chúng tôi sống trong cái thế giới nhỏ hẹp riêng biệt. Hàng ngày nằm phủ phục, mài son , mài mực, mút cái bút lông đến nhợt môi. Vẽ nguệch ngoạc những nét chữ xa lạ. Viết xong, thầy ngồi trên sập cầm cái roi giảng bài, rồi chúng tôi bắt đầu gào lên như cuốc kêu mùa hạ cho tới khi thuộc bài. Nếu không, sẽ phải chịu những hình phạt nặng nề, như roi vọt, luồn háng, quì trên viên gạch. Tôi còn nhớ cái bài học vỡ lòng, tôi gào lên ra rả: “Minh tâm đại pháp (phép lớn sáng lòng). Huấn nhĩ tiểu sinh (dạy mày đứa trò nhỏ). Tích thiện thành danh (làm điều lành thì nên). Tích ác tuyệt thân (làm điều ác hại mình)... ê a... ê a”. Trong khi chúng tôi học như thế, thì bên ngoài, người ta đi họp, đi biểu tình, xóa nạn mù chữ, thực hiện đời sống mới. Chị tôi đã đọc làu cả một quyển sách nói về “đời sống mớ”. Đọc xong, chị vỗ tay hát: “Đời sống mới, mới, người Việt Nam mới, mới, xây núi sông bằng máu người Việt Nam.” Ba con cuốc chúng tôi gào trong nhà thầy đồ, nhưng hồn lại để cả bên ngoài. Giọng thằng Thức thì ê a, thằng Nậm rõ thì lè nhè, còn tôi thì khàn khàn như vịt đực. Giữa giờ học còn phải làm vườn, đun nước, quét nhà, bắt sâu ngoài vườn hoa cho thầy. Có một việc tạm thích thú là vác thuốn ra bờ ao thuốn chão chàng cho thấy nhắm rượu. Những chú chão chàng lưng nâu bóng nhẫy, ngồi nấp trong bụi cỏ, thô lô mắt nhìn xuống ao. Chúng tôi đi rón rén quanh bờ, nín thở từ từ cho mũi thuốn xuống. Cách lưng con mồi chừng khoảng nửa gang tay, chúng tôi phóng mạnh cây thuốn . Éo éo, con vật bị xóc qua lưng, chân cẳng múa rối rít. Nhưng rồi cái thế giới riêng của chúng tôi không còn yên lặng nữa. Người ta đã xôn xao về tin giặc Pháp quay trở lại đánh chiếm nước ta. Cụ Hồ đã ra lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến. Thanh niên trong làng rậm rịch đầu quân. Gia đình tôi nhận được thư bố. Vậy là rõ, bố tôi nói giặc Pháp đã chiếm thủ đô Hà Nội. Bố tôi sung vào vệ quốc đoàn đánh giặc ở trên Việt Bắc. Lòng tôi nôn nao, không những tôi chỉ thấy lớp học buồn tẻ, mà cả làng quê hẻo lánh của tôi cũng quá yên tĩnh. Ở những nơi xa xôi kia, biết bao nhiêu chuyện đã xảy ra, tâm trí tôi luôn tưởng tượng bay về phía ấy. Một hôm, tôi nói với mẹ: - Con chán học rồi, mẹ ạ. - Sao vậy? - Mẹ tôi ngạc nhiên - Tao nghe bác nói mày học khá lắm kia mà. - Khá thì làm gì. Con sẽ bỏ học đấy. - Không được! - Mẹ tôi bực tức - Tao sẽ viết thư mách bố mày. Tôi buột miệng: . . - Bố mà về, thì con đi theo bỏ ngay. - Mày đi đi, ai cấm! - Mẹ tôi giận lắm, bỏ đi. Tôi thương mẹ, muốn vâng lời mẹ. Nhưng những ý nghĩ khác cứ quấy rối trong đầu tôi. Hôm sau, tôi vẫn cắp sách đi học, nhưng cái ý định phải ra đi cứ mỗi ngày một hình thành một cách rõ rệt, không cưỡng nổi. Một buổi sáng đến lớp, thằng Thức kéo tôi ra thì thầm: - Bộ đội kéo về đây bên chợ Đào. Họ đóng ngay trong làng, toàn là thanh niên đồng loạt quần áo xám. Anh tao mới ở bên ấy về. Không để cho tôi hỏi thêm, thằng Thức ghé sát tai tôi: - Chúng mình đi xem đi. - Nhưng mà… - Nhưng cái gì, không đến ngay thì họ kéo đi mất. Chúng tôi cùng liếc mắt vào nhà. Thầy đồ còn gối đầu lên tráp ngủ. Hai anh học trò lớn và thằng Nậm rỗ chưa đến. Bỏ buổi học không tiếc, nhưng chúng tôi sợ phải ăn đòn. Thằng Thức nói: - Đi, mai thưa với thầy là bị đau bụng. - Cả hai cùng đau bụng à? - Tao đau bụng, còn mày thì đau răng chẳng hạn. - Răng tao không đau. - Thì đau cái quái gì chẳng được, sao lúc này mày u tối thế! Hai đứa giấu sách vở lên mái nhà rồi chuồn. Ra khỏi ngõ, chúng tôi chạy. Từ đây sang bên Đào hai cây số lại phải qua đò. Khiếp, cái làng tôi, cứ bước chân ra là phải qua đò. Vì thế khó mà có bộ đội về làng mình nên chúng tôi phải quyết lặn lội đi xem. Qua sông, chúng tôi đi chậm hơn. Tôi nói: - Đến nơi mà họ đi rồi thì công cốc. - Không đâu. - Thằng Thức nói chắc chắn. - Biết đâu được. Bộ đội thì lai vô ảnh, khứ vô hình (đi, lại bí mật). Thằng Thức cũng tương ngay một câu chữ nho: - Đáo giả nhi tri giả (đến nơi sẽ biết). - Chúng mình sắp thành đồ gàn đến nơi. - Tôi cười phá lên. Thằng Thúc không cười: - Nhà mày có đất làm ông đồ chứ tao thì không. Tao sẽ phới. - Đi đâu? - Khi đó hãy hay. Vào đến đầu làng Đào đã thấy trẻ con chạy nháo nhác. Chúng tôi theo chân bọn trẻ đến tận bãi cỏ nơi bộ đội đang tập trung. Bộ đội đứng rất đông giữa bãi, người xem vây kín chung quanh. Hai đứa thử chỗ này sang chỗ khác, mãi mới tìm được một chỗ đứng xem vừa ý. Bộ đội trẻ măng, các anh toàn mặc quần áo xám, chân đi dép cao su, đầu đội mũ nan bọc vải, có lưới gai choàng bên ngoài. Người chỉ huy cao lớn, đeo súng lục, đi giày cao cổ, cất tiếng hô: - Nghiêm! - Tiếng hô dõng dạc âm vang khắp bãi. ẳ Rập. Bộ đội đứng im phăng phắc, hàng thẳng như kẻ chỉ. Không khí im lặng, mọi người chú ý đến anh chỉ huy thẳng đầu gối bước từng bước tới trước mặt một người chắc là cấp chỉ huy cao hơn - Tôi trực tinh tiểu đoàn báo cáo đồng chí, bộ đôi đã tập hợp xong, xin chỉ thị đồng chí. - Vừa báo cáo, bàn tay anh chỉ huy giơ lên chào đặt cứng sát vành mũ. - Cho nghỉ! - Anh chỉ huy nói và giơ tay chào đáp lễ. Anh chỉ huy đeo súng đi về chỗ cũ, hô: - Ngẩy! (Nghỉ). Tất cả các chân trái trong hàng quân đưa ra phía trước. Tôi làm theo, liếc nhìn thằng Thức cũng làm vậy. Té ra chúng tôi đã đứng nghiêm từ ban nãy mà không để ý. Anh chỉ huy cấp cao đứng trên một mô đất trước hàng quân và nói to: - Kính thưa đồng bào, chúng tôi là một đơn vị của trường võ bị lục quân Trần Quốc Tuấn đi qua đây xin gửi tới đồng bào lời chào Trường kỳ kháng chiến nhất định thắng lợi. - Tiếng vỗ tay nổi lên rào rào. Sau đó, anh kêu gọi thanh niên tình nguyện, hăng hái vào bộ đội, vào trường lục quân. Tôi không nhớ hết lời anh nói, tâm trí tôi bị cuốn hút vào các anh bộ đội đang đứng trước mặt. Anh chỉ huy nói xong, một anh khác bước lên. Anh này còn rất trẻ, nước da trắng mịn, đôi lông mày dài và đen. Anh nói: - Chúng tôi xin hát hiến đồng bào bài “Trường ca Sông Lô”. Tiếng vỗ tay như pháo. Một tiếng hô to vọt lên: - Ngồi xuống! Rầm. Bộ đội ai ngồi xuống một lượt đều tăm tắp. - Cất mũ! Có tiếng cười lao xao. Tôi trố mắt nhìn. Các anh bộ đội trọc đầu một loạt. Khi đội mũ, trong các anh hiền, bây giờ trông dữ lắm. Anh quản ca bắt đầu giơ tay rồi hạ xuống uốn lượn như cánh chim. Bất thần từ đám đông âm vang lên như tiếng sóng, từng đợt, từng đợt dào dạt. Một giọng hát cao vút: “Sông Lô, sóng ngàn Việt Bắc bãi dài ngô lau núi rừng âm u. Thu du bến nắng vàng từng nhà mờ biếc, chìm một màu khói thu...” Tiếng hát như dòng nước trong xanh êm đềm chảy giữa đôi bờ im lặng. Không có một tiếng động nào ngoài tiếng hát. Tôi nín thở, người lâng lâng như muốn bay lên cuốn theo tiếng hát, mắt nhòa ướt lúc nào không hay. Đột nhiên tôi như người bị bước hụt. Anh quản ca buông tay xuống. Dòng sông đương chảy tự nhiên biến đi đâu mất. Chỉ còn thấy những cặp mắt sáng ngời đen lảnh của các anh bộ đội chăm chú nhìn người quản ca. Cũng thình lình như ban nãy , anh quản ca vung tay, tiếng hát lại vang lên khiến dòng sông lại hiện ra bất ngờ. “Sông mênh mông như bát ngát hát…” Bài hát hết rồi. Tôi và thằng Thức nhìn nhau ngẩn ngơ. Sau đó, một vài anh lên đơn ca. Tôi nhớ một anh có vẻ nghịch ngợm, cầm cái đàn ghi ta gõ chát chát, và giọng anh ồm ồm: “Trường lục quân đang cần lính đánh Tây. Tớ vội vàng bỏ nhà ra đi ngay. Bao nhiêu công việc ấm ớ phó thác cho bu này…” Anh vừa hát, đôi chân vừa nhún nhảy. Người nghe vỗ tay như sánh. Anh cao hứng hát thêm một bài khác: “Bà Ba không lấy gì làm đông con. Thằng cu thì nay đã lên mười, anh cò thì đôi mươi, bà Ba càng thêm tươi... Từ ngày giặc về ở trong thôn…” Chúng tôi có thể xem mãi được. Nhưng bộ đội được lệnh giải tán chuẩn bị hành quân. Trẻ con kéo ùa vào bãi đến bám lấy các anh bộ đội. Tôi và thằng Thurc không làm thế, hai đứa đứng nhìn, và cùng một lúc chúng tôi ngạc nhiên thấy hai anh bộ đội bé như đứa trẻ. Chúng tôi đến gần, đúng là hai đứa trẻ con thật. Chúng nó quả có cao hơn tôi một ít, chính vì chúng nó đi đôi dép cao su có đế dày đến một đốt ngón tay. Cũng mặc bộ quần áo xám có hai “con đỉa” ở trên vai, đầu cũng cạo trọc. Chúng quấn ngón tay vào quai mũ vừa đi vừa quay quay cái mũ và nói chuyện với nhau, không hề để ý đến chúng tôi. Thế ra cũng có bộ đội trẻ con ư? Trông kìa, chúng tôi dán mắt nhìn, vừa ghen tị, vừa ao ước thèm muốn. Giá làm quen được với chúng nó mà hỏi han vì sao được vào bộ đội thì hay biết mấy, nhưng xem chừng dưới mắt hai đứa hình như không có chúng tôi. Mà cũng phải. Tại sao chúng nó lại để ý đến chúng tôi được. Chúng nó là anh bộ đội, còn hai đứa chúng tôi là gì, vô danh tiểu tốt. Chúng nó là anh hùng, còn chúng tôi là phường “đồ điếu”, bán thịt và câu cá. Tôi nhớ đến bài thơ bác tôi đã giảng. Ngày xưa Phàn Khoái bán thịt chó, Hàn Tín đi câu cá, thế mà sau làm tướng giúp Hán Cao Tổ dựng nên nghiệp lớn. Trên đường về, những hình ảnh vừa rồi còn choán ngập đầu óc chúng tôi, khiến hai đứa cứ im lặng. Ngồi đò qua sông, tôi lại mường tượng tới con sông Lô trong bài hát. Con sông ấy ở đâu? Chắc là đẹp lắm, dữ dội lắm. Bố tôi có đánh giặc ở con sông ấy không? Lạ thật, những cái gì ở xa, những cái gì chưa biết, thì mình lại càng nghĩ về nó nhiều hơn. Tôi không thể nào nguôi được ý nghĩ đến hai đứa bộ đội trẻ con. Giá như ngay bây giờ, tôi cũng được mặc một bộ quần áo như thế, đội cái mũ như thế, thì không còn phân vân gì mà không đi theo các anh bộ đội. Qua sông về đến cánh đồng làng, thằng Thức vỗ vào vai tôi một cái đau điếng: - Mày có thích hai cậu ấy không? - Chúng nó có vẻ kiêu kỳ lắm, - Tôi dè dặt trả lời. - Là tao hỏi mày có muốn được như chúng nó không? Tôi biết thằng Thức cũng cùng một ý nghĩ như tôi, nhưng nó đang muốn hỏi dò tôi đây. Tôi đáp: - Tao chẳng muốn một tí nào. Thắng Thức đá vào bụng chân tôi: - Bỏ cái lối kín đáo vớ vẩn ấy đi. Tao biết tỏng là mày muốn “bay” rồi. - Mày tưởng muốn là dễ lắm đấy. - Không dễ nhưng cũng không khó. Con trai phải thế, chờ mấy năm nữa mới đủ tuổi tòng quân thì người ta đánh hết giặc rồi. - Nhưng làm thế nào mà đi được? - Phải nghĩ xem. Tao với mày cùng nghĩ. Nhưng phải giữ bí mật đấy. - Tao mà đi bộ đội ấy à? - Thằng Thức cao hứng vung tay - Tây cứ chết như ngả rạ. Tiên sư chúng nó, không đánh chúng nó thì lại đói dài như năm nọ , chết thế cũng uổng. Bất ngờ, thằng Thức đi vượt lên chắn trước mặt tôi, vẻ mặt nó trang trọng. Nó hô khẽ: - Nghiêm! Đồng chí có đồng ý như tôi vừa nói không? Báo cáo đi. Tôi đứng nghiêm nhìn nó đáp: - Đồng ý. Rồi hai đứa bắt chước anh chỉ huy, thẳng chân bước trên đường như đang đi trước một đoàn quân vĩ đại. TẠM BIỆT NÚI CÓC Đ ến bây giờ, khi ngồi viết những dòng này, tôi vẫn nghĩ tới nỗi đau khổ mà mẹ tôi phải chịu đựng, khi tôi bỏ nhà ra đi. Nhưng lòng mẹ vốn bao dung độ lượng, chắc người sẽ tha thứ cho tôi. Năm ấy, thực hiện tiêu thổ kháng chiến, người dân thị xã tự tay phá đổ những dãy phố, những dinh thự để ngăn cản giặc, rồi tản cư về các làng quê. Họ cũng về làng tôi. Một gia đình ở nhờ nhà bên cạnh nhà tôi. Nhà chủ ngăn đôi nhà, nhường cho họ một nửa. Gia đình ấy có ba người. Hai vợ chồng và một người em trai mười bảy tuổi. Không biết trước kia ở tỉnh họ làm gì, từ khi về làng tôi, họ làm nghề khâu nón. Người em trai, ngoài công việc hàng ngày, còn hay đọc sách và đánh đàn. Anh có một cái đàn băng-giô. Anh vui tính và tôi làm quen với anh rất chóng. Tên anh là Hành. - Anh Hành ơi, dạy em đánh đàn với. - Mày muốn học đàn hả ? - Anh nhìn tôi - đưa tay tao xem đã nào. Tôi ngượng nghịu xòe hai bàn tay đen đủi ra, khác hẳn đôi bàn tay trắng nuốt của anh. Tôi thất vọng, nhưng anh Hành gật đầu: - Được đấy. Nhưng phải chịu khó nghe lời tao. Chịu khó nghe lời anh, có nghĩa là phải làm giúp anh một số công việc. Điều ấy chẳng có gì khó, và thế là tôi la cà ở nhà anh tất cả những lúc rỗi rãi. Anh lấy bút gạch trên tờ giấy năm đường kẻ và viết vào những chấm đen. Anh bảo tôi: - Đây là bảy nốt chính trong âm nhạc: đồ rê mi pha son la si. Anh còn vẽ cho tôi một cây đàn trên giấy có đủ cung bậc: - Mày thuộc tất cả những cái đó rồi sẽ được cầm đến đàn. Tôi học chóng tiến bộ, tôi đã được cầm tới đàn, chơi được một vài bài. Một hôm, anh Hành đi đâu về vui vẻ buông ra một câu: - Hòe ơi, tao sắp đi rồi. - Anh đi bộ đội chứ? - Tôi hỏi anh Hành, lòng bối rối. - Có thể may đoán đúng. Thôi cứ cho là đúng đi - Anh Hành cười và không giấu vẻ hồi hộp. Tôi ngồi lặng, mắt nhìn đăm đăm vào cây đàn, nhưng đầu óc lại nghĩ khác. Anh Hành đi, không phải chỉ vì không có ai dạy tôi học đàn, mà tôi còn bối rối vì nghĩ đến cái mơ ước của mình chưa thực hiện được. Anh Hành cầm lấy cây đàn, chơi một bài theo nhịp nhảy vui vẻ: - Tao cũng tiếc là không tiếp tục dạy mày đàn được, nhưng thanh niên như tao mà xếp bút nghiên đề về đây làm nón thì còn ra nghĩa lý gì. Tao đã đăng ký trên xã, vài hôm nữa thì đến địa điểm tuyển. Không còn một dịp nào khác nữa. Tôi thầm nghĩ. Tôi phải đi với anh Hành. Tháng trước, thằng Thức đã bỏ tôi đi theo anh nó làm công nhân ở đâu ấy rồi. Anh Hành không những đã dạy tôi học đàn, anh còn kề cho tôi nghe bao nhiêu chuyện hay trong những cuốn sách anh đã đọc. Những chuyện lịch sử, chuyện ly kỳ mạo hiểm, tất cả đều thúc giục tôi phải làm được việc gì. Bây giờ anh lại bỏ tôi ra đi, thì thật khó chịu nổi. Tôi ngồi nghĩ những điều trái ngược với tiếng đàn của anh Hành mỗi lúc một rộn rã. Có lẽ thấy tôi buồn, anh Hành ngừng đàn an ủi tôi: - Xa mày tao cũng nhở. Nhưng đã là thằng con trai thì phải biết chia ly. Cũng như đang từ tỉnh, tao về đây. Rồi từ đây lại ra mặt trận, ngày chiến thắng hoàn toàn ta sẽ trở về xây dựng lại thành phố trên đống hoang tàn đổ nát. - Anh cất tiếng hát nho nhỏ: "Nhớ đêm ra đi đất trời bốc lửa. Cả đô thành nghi ngút cháu sau lưng. Những chàng trai chưa trắng nợ anh hùng. Hồn mười phương phất phơ cờ đỏ thắm..." Không thể làm khác, tôi nói với anh Hành ý nghĩ của tôi. Lúc đầu, anh ngạc nhiên, rồi anh từ chối. Nhưng tôi không rời anh, không bỏ dở ý kiến mình. Và cuối cùng, anh Hành đồng ý. - Mày làm tao không thể đành lòng từ chối. Thôi được, anh em mình phiêu lưu một chuyến xem sao. Nhưng đã đi thì phải quyết chí, không được thay đổi. - Điều ấy thì anh đừng lo. - Tôi ôm chặt ngang lưng anh Hành - Em không làm bận chân anh đâu. Thế là tôi và anh Hành đã bàn kế hoạch đi. Đêm trước ngày đi, anh Hành ngủ ở nhà tôi. Mẹ tôi còn mời anh ăn bữa cơm tiễn biệt. Mẹ vẫn chưa biết gì về ý định của tôi. Đêm ấy, tôi thao thức mãi. Phần náo nức vì bước đường mới ngày mai, phần bâng khuâng thương nhớ nghĩ đến lúc phải xa mẹ, xa chị. Tôi lắng nghe tiếng gió chạy lao xao trên mái nhà, tiếng mọt nghiến gỗ. Tiếng gì thì thào như tiếng thở dài ở bụi nứa vườn sau. Sáng hôm sau, mẹ tôi nấu cơm thật sớm mời anh Hành. Anh nói với mẹ tôi cho tôi đi tiễn anh một đoạn đường, mẹ tôi bằng lòng ngay. Đây là mưu mẹo của chúng tôi đã bàn nhau từ trước. Tôi đi, không dám nhìn mẹ. Khắp người tê tê như tổ kiến đốt. Lúc ấy chỉ cần đứng trước mặt mẹ, chỉ cần mẹ tôi hỏi một câu: "Con bỏ mẹ mà đi đấy à?" Thì có lẽ tôi sẽ khóc òa, bỏ hết ý định mà ở nhà với mẹ. Nhưng tôi vẫn nhìn thẳng mà đi. Tôi đi tiễn anh Hành đấy chứ. Tôi xót xa vì phải buộc lòng nói dối mẹ. Anh Hành vai vác đàn, vai đeo cái túi đựng quần áo, trong đó có cả quần áo của tôi. Đi khỏi làng, anh Hành hỏi tôi: - Thế nào người bạn trẻ, có thay đổi ý định không? - Không. - Nếu nhớ mẹ thì trở về còn kịp. - Nhớ thì nhớ, nhưng em không về. Thôi, anh nói chuyện khác đi. - Tráng sĩ một đi không hề trở lại. Phải rồi, chàng ta sẽ nói chuyện ra đi của những người tráng sĩ. Chúng tôi đi đến chân núi Cóc. Không phải là lần đầu tôi đến đây, và cũng đã từ lâu tôi biết rằng bên kia núi chưa phải là chân trời, nhưng lần này tôi thấy hồi hộp khác thường. Có lẽ vì tôi sắp phải xa ngọn núi đầy bí ẩn của tuổi thơ, ngọn núi nuôi dưỡng cho tôi những niềm mơ ước. - Chúng ta sẽ đi tới chiến khu. - Anh Hành ngược nhìn lên ngọn núi - Nơi ấy núi rừng trùng điệp hùng vĩ. Khi ấy chúng mình thấy hòn núi này chỉ là một quả đồi. - Hồi bé, em tưởng qua núi Cóc là tới chân trời. - Cũng đúng. Từ đây, chúng ta sẽ đi tới những chân trời. Hòe hiểu chứ ? - Em hiểu. Mặt trời đã lên cao. Nắng mùa xuân ấm áp sáng bừng trên những vạt cỏ ở sườn núi. Gió hiu hiu lay động hàng cỏ may mọc đều hai bên lối mòn chúng tôi đi. Chúng tôi đã sang bên kia núi, nhìn lại, không còn thấy làng xóm quê hương nữa. Tôi nhớ lời ru của mẹ: "Núi cao chi lắm núi ơi. Che khuất mặt trời, che khuất người thương." Tôi đã để lại phía sau tất cả. Những ngày thơ ấu. Mái nhà tranh của ba mẹ con. Cái sân đình có những cuộc vui. Lớp học của ông bác tôi. Còn gì nữa? Tạm biệt tất cả. Ngày trước, bố tôi phải trốn đi ban đêm. Còn bây giờ, tôi đi ban ngày, đi trên con đường đầy nắng. Chúng tôi đi hầu như không nghỉ. Đường còn xa, chúng tôi nóng lòng mong đến nơi sớm. Qua nhiều thôn làng, cánh đồng, chúng tôi bước lên một con đê cao. Trước mặt tôi, hiện ra bãi ngô xanh ngút mắt, một dải bờ cát trắng và dòng sông trong xanh như tấm lụa. Tôi kêu lên: - Sông gì mà đẹp thế? Anh Hành lim dim mắt: - Còn phải nói, sông Chu đấy. Quê ta cả hai dòng sông cùng một mẹ. Anh là sông Mã, cô em gái là sông Chu. Một dòng mạnh khỏe dữ dội, một dòng êm đềm hiền hòa. Anh vẫn thuộc những câu thơ trong bài Nhớ của Hồng Nguyên viết trên bờ sông Chu này... "Kỳ hộ lưng nhau bên bờ cát trắng... Đằng nó có vợ chưa, đằng nớ Tớ còn chờ độc lập Cả lũ cười vang bên ruộng bắp Nhìn o thôn nữ cuối nương dâu". Bờ cát trắng đấy, ruộng bắp đấy, nương dâu xanh ngắt kia, thật là tuyệt vời! Tôi bị cuốn hút bởi cảnh đẹp và lời nói của anh Hành, long thủy phơi phới nhẹ nhàng, quên cả nỗi lo mà một lúc sau tôi nhớ ra và lo lắng nói với anh Hành: - Nếu đến nơi mà bộ đội không nhận em thì làm thể nào anh? - Chà ! - Anh Hành kêu lên, anh bị tôi lôi ra khỏi niềm vui - Đến đấy, chúng mình sẽ liệu. - Bàn trước có hơn không anh. - Ừ thì bàn trước. - Anh Hành im lặng một lát rồi tiếp - Người ta sẽ nhận, không ai nỡ từ chối đâu. Tớ tin là cậu biết cách nói đấy, bám lấy, nói tha thiết vào, miễn là giữ chớ có khóc òa lên sớm quá, nghe chưa. - Em không khóc đâu. - Với cậu thì có khi khóc cũng cần đấy. Nhưng tránh được vẫn tốt. Giá tớ là cán bộ chỉ huy thì tớ sẽ lấy cậu làm liên lạc. Thế này nhé, tớ sẽ nói, nhưng tự cậu phải làm cho người ta hiểu là mình đi không phải chuyện bồng bột, tính tò mò trẻ con. Sao ta lại không nói là ta đi có mục đích, vì lý tưởng hẳn hoi chứ. Cậu có đồng ý thế không? - Vâng - Thế là được. Vả lại chẳng bao giờ chuyện đời lại dễ dàng cả đâu. Cậu cũng phải tập dần làm quen với khó khăn. Tớ cũng vậy khôi, chưa biết hết được những gì đang chờ đợi mình. Còn bây giờ thì vui lên, một... hai... bước mạnh lên phía trước! TÔI GẶP MAY HAY LÀ KHÔNG MAY - Tất cả các anh thanh niên có giấy báo trúng tuyền đứng sang bên phải tôi. Tôi gọi đến tên ai thì người ấy bước sang bên trái. Các đồng chí cán bộ tiểu đội, trung đội chiếu danh sách giấy tờ mà nhận quân. Rõ chưa? - Rõ! Người chỉ huy vừa nói đã có tuổi. Bác mặc bộ quần áo vải sợi đôi nhuộm xanh đã bạc màu. Phía má trái cỏ vết sẹo kéo xuống tận khóe mép. Trên bãi cỏ ở vệ đê, người đứng kín. Một bên là các anh bộ đội đứng nhận quân. Một bên là thanh niên cùng với người nhà đi tiễn. Tôi đứng ở khối này, túm lấy cái áo sơ mi màu xanh của anh Hành. Anh nói nhỏ với tôi: - Đừng run, lúc này phải thật bình tĩnh mới ăn thua. Tôi quá hồi hộp một chút thôi. Tôi để tay lên ngực, muốn nén cho tim đừng đập mạnh. Tiếng bác chỉ huy dõng dạc : - Trần Văn Canh. - Có! - To lên nào. - Có! - Một thanh niên tóc cắt ngắn đi sang bên trái. - Lê Đình Mai. - Có! - Một anh có đôi chân dài hét lên tiếng "có" và nhảy sang trái. Có tiếng cười rộ. Bác chỉ huy mỉm cười: - Đúng, quân sự là phải rõ ràng và nhanh nhẹn như vậy. Một không khí vui vẻ thân mật lan khắp bãi. Tôi cũng thấy yên tâm. Chợt tôi giật nẩy người. - Nguyễn Song Hành. - Có. Anh Hành bước ra khỏi đám đông. Tôi đi liền theo sau. Có tiếng xì xào. Bác chỉ huy nói: - Chú bé đứng lại bên phải. Tôi nắm lấy khuỷu tay anh Hành, và hai anh em đứng lại ở giữa bãi. Bác chỉ huy tới gần: - Thế nào, chú bé không muốn cho anh đi bộ đội à? Tôi buông tay đứng nghiêm: - Cháu cũng đi bộ đội. Anh Hành tiếp: - Nó là em tôi, nó muốn xin vào bộ đội, đề nghị đồng chí chấp nhận. - Thế kia đấy. - Bác chỉ huy quay sang trái - Đồng chí trung đội trưởng trung đội ba nhận chú bé này vào trung đội đồng chí nhé. - Rõ. Tôi sung sướng tưởng muốn nhảy lên mà reo. Không ngờ lại dễ dàng trót lọt đến thế. Bác chỉ huy này tốt quá. Hòe đen bước từng bước rắn rỏi sang phía trung đội ba của mình. Mắt nó sáng ngời một niềm kiêu hãnh. Gọi tên xong, bác chỉ huy nói với vẻ hài lòng: - Các anh thanh niên trúng tuyển đều đến đủ, chứng tỏ tinh thần yêu nước rất cao. Thay mặt đơn vị bộ đội, tôi nhiệt liệt hoan nghênh. Từ giờ phút này, các anh đã trở thành quân nhân. Bây giờ chúng tôi để một tiếng cho anh em gặp người nhà đi tiễn, sau đó đơn vị tập trung lên đường. Trong số người còn đứng lại bên phải, vẫn còn có những thanh niên không trúng tuyển ở xã, hôm nay lên đây với hy vọng xin được đi. Họ kéo đến gặp người chỉ huy. Tôi không hiểu vì sao đối với tôi, bác chỉ huy lại dễ dàng, còn đối với các anh thanh niên kia thì bác lại kiên quyết không nhận thêm một ai. Bác giải thích cho họ trở về chờ dịp khác. Kháng chiến còn lâu dài. Chúng tôi vào trong làng. Trung đội trưởng của tôi bảo anh Hành đưa tôi lên gặp bác chỉ huy. Tôi nghĩ bụng chắc bác sẽ căn dặn khuyên bảo tôi. Cái đó thì không ngại, tôi sẽ làm đúng. Bác chỉ huy vui vẻ mời tôi và anh Hành ngồi trên chiếc ghế dài trước mặt bác. - Bây giờ, chúng ta nói chuyện với nhau. Cháu tên là gì nhỉ? - Cháu là Nguyễn Đăng Hòe. - Tôi lễ phép trả lời. Bác nhìn nhanh hai anh em tôi rồi hỏi: - Hai anh em ruột à? - Vâng ạ. - Tôi và anh Hành cùng đáp một lúc. Bác chỉ huy nheo mắt: - Không giống nhau nhỉ. Anh thì trắng còn em thì đen. - Em tôi vất vả từ bé. - Anh Hành trả lời hơi, gượng gạo. - Đúng đấy, hồi bé bác cũng vất vả. Đi ở chăn trâu chẳng hạn. Cháu Hòe cũng thế chứ? - Vâng, cháu cũng chăn trâu. - Tôi vui vẻ đáp. Anh Hành đá nhẹ vào chân tôi dưới gầm bàn, nhưng không kịp rồi. Bác chỉ huy cười: - Thế mà bác cứ tưởng ở thị xã không phải đi chăn trâu. Bây giờ, bác xin lỗi cháu Hòe, bác muốn nói chuyện riêng với anh cháu một chút. Tôi ra vườn đứng dưới một cây nhãn sum sê. Thế là hỏng rồi, bác chỉ huy đã biết chúng tôi nói dối. Tôi và anh Hành đã bàn nhau từ trước, khai là hai anh em ruột, bố mẹ chết cả phải đi tản cư ở nhờ người ta. Bây giờ hỏng hết, tôi nói tôi chăn trâu, tôi không ở thành phố, tức là tôi không phải em ruột anh Hành. Người ta không tha cho cái tội nói dối. Người ta sẽ không nhận tôi. Tôi chỉ muốn òa khóc. Một lát sau, anh Hành ra gọi tôi vào. Trông mặt anh cũng buồn thiu: - Người ta không nhận em vì chúng ta đã nói dối phải không? - Tôi khẽ hỏi anh Hành. - Không phải thế. Thôi, gặp bác ấy sẽ rõ. Bác chỉ huy nhìn tôi không có vẻ bực bội, trái lại trông bác rất hiền từ. Bác nói: - Bác đã hiểu rõ hoàn cảnh của cháu. Không, bác không trách hai anh em nói dối đâu. Bác tha thứ, vì cháu muốn đi bộ đội. Nhưng bác rất buồn mà nói rằng bác không thể nhận cháu được. Đơn vị bác không được phép nhận trẻ con. Cháu đợi vài ba năm nữa, bác sẽ nhớ đến cháu. Tôi lạnh hẳn người, mọi vật như sầm tối: - Bác cho cháu đi ngay bây giờ. Lúc nãy, bác nhận rồi kia mà. - Bác có lỗi, lúc nãy là bác muốn đùa cháu một chút, vì bác tưởng cháu chỉ đi tiễn anh Hành. Giá bác biết trước cái ý định nghiêm trang của cháu thì bác đã không đùa. Cháu tha lỗi cho bác. Còn bây giờ thì nghe lời bác. - Cháu không về. - Tôi đã bình tĩnh hơn - Bác không nhận cháu vào đơn vị bác được thì bác đưa cháu đến trường lục quân, ở đó có hai đứa bằng tuổi cháu. - Ý kiến của cháu hay đấy. Ở trường, người ta có thể nhận được. Nhưng bác không có thì giờ đến trường. Đơn vị bác phải đi chiến đấu ngay. Tôi không chịu lui, bướng bỉnh đòi hỏi: - Bác đưa cháu đến chỗ bố cháu cũng được. Bố cháu cũng chiến đấu đấy. - Bố cháu ở bộ đội à? - Vâng. - Tên bố cháu là gì? - Là Chung ạ. - Có phải Nguyễn Văn Chung không? - Mắt bác chỉ huy sáng lên. Bác vỗ tay vào trán rồi xô người qua bàn nắm lấy vai tôi - Mày là thằng Hòe đen hả? Tôi sung sướng toét miệng cười: - Đúng bác ạ. - Trước kia, bố cháu cùng ở với bác một tiểu đoàn. Cùng một khuôn mặt này, mà bác lú lẫn bây giờ mới nhớ ra. Bố cháu đã nói với bác nhiều chuyện hay ho về cháu. Bác với bố cháu là bạn thân, cùng vào sinh ra tử với nhau. Hơn một năm thì bố cháu chuyến đi đơn vị khác, bây giờ ở đâu bác không biết nữa, thư từ khó khăn lắm, Mẹ cháu ở nhà có khỏe không? - Khỏe ạ. Bác chỉ huy đứng lên, đi đi, lại lại suy nghĩ. Tôi sung sướng như người bơi sông sắp vào được tới bờ. Nhưng tôi mừng hơi sớm, bác chỉ huy dừng lại nói: - Thật là khó khăn cho bác cháu mình. Bác hứa với cháu là sẽ tìm cách liên lạc với bố cháu. Và khi đó, bố cháu sẽ viết thư cho cháu, hoặc về đón cháu đi cũng nên. Bác vẫn nghĩ là cháu nên trở về đi học, giúp đỡ mẹ cháu ít lâu nữa cũng chưa muộn. Tôi choáng váng như bị sóng cuốn xoáy ra giữa dòng. Còn làm gì hơn được nữa, tôi khóc òa. Anh Hành cũng lau nước mắt nói gì đó với bác chỉ huy. - Cháu nín đi chứ. - Giọng bác chỉ huy thì thào. - Bác cho cháu đi. Bác nói bố cháu biết thì bố cháu cũng cho cháu đi mà. Bác là bạn thân của bố cháu, chắc bác cũng cho cháu đi được chứ. - Chà, con ông Chung khôn khéo quả. Khó thật, từ khi bác vào bộ đội đến giờ, chưa bao giờ gặp một việc khó như thế này đây. Cháu hãy ngồi đây đợi bác một lát. Bác chỉ huy đi ra, anh Hành nói: - Có hy vọng. Khóc thì hơi hèn nhưng cũng hay đấy. Tôi xấu hổ: - Em chỉ khóc lần này là lần cuối cùng thôi. - Chẳng lần cuối cùng thì chả lẽ vào bộ đội còn khóc à. Bác chỉ huy trở lại với vẻ mặt đăm chiêu: - Đây là ý kiến cuối cùng của bác. Bác đã bàn với ban chỉ huy, đơn vị bác không thể nhận cháu được. Nhưng riêng bác, bác sẽ đưa cháu đi. Trên đường đi có qua một cái trường, không phải trường lục quân, nhưng cũng là trường của bộ đội. Bác quen với đồng chí giám đốc ở đấy. Bác sẽ gửi cháu lại trường. Thế thôi, không bàn cãi nữa. Và bây giờ thì đồng chí Hòe nghe lệnh tôi chuẩn bị hành quân. Tôi đi trong đội hình hành quân của trung đội ba. Vừa đi, vừa chạy bám sát gót người đi trước, lòng phơi phới, không biết mệt. Thỉnh thoảng, bác chỉ huy dừng lại hỏi tôi: - Không mỏi chân chứ đồng chí? - Không ạ, cháu có thể theo bác tới tận cùng thiên địa. - Hay lắm! - Bác chỉ huy cuời ha ha. Chúng tôi vẫn bám theo dọc sông Chu, đến gần tối thì dừng chân trong một làng ven sông nấu cơm ăn và nghỉ đêm tại đó. Một làng có rất nhiều dừa và nhãn. Bữa cơm chỉ có mấy con tép khô rang mặn và canh rau cải nấu muối. Bọn tân binh chúng tôi "xung phong" chớp nhoáng, ù một cái đã hết cơm. Tôi thòm thèm, nói thẳng ra tôi có thể ăn thêm một suất nữa chưa hẳn đã no. Nhưng khi anh trung đội trưởng hỏi, tôi trả lời: - Em no căng. Buổi tối, chúng tôi được phép lên bờ đề ngồi hóng gió một lát trước khi sinh hoạt. Tôi nói với anh Hành ngồi xuống thảm cỏ vệ đê và ngả lưng. Anh Hành kêu mỏi lưng, còn tôi thì bóp hai bụng chân đang mỏi dừ. - Vậy là anh em mình lại được đi với nhau. - Rồi cũng phải chia ly. - Anh Hành vặn lưng kêu răng rắc. - Em lại cố xin đi. - Không được đâu, bây giờ là bộ đội rồi phải phục tùng lệnh trên. Dòng sông Chu mờ mờ trước mặt, lấp lánh một trời sao in xuống. Gió từ sông thổi lào xao qua bãi ngô bay lên một mùi hương ngan ngát là lạ. Nghe anh Hành thở dài, tôi hỏi: - Anh nghĩ gì thế. Nhớ nhà hay sao? - Một chút thôi. Anh đang nghĩ tới mẹ em. Em có biết là lúc này mẹ em không thấy em về sẽ thế nào không? Mẹ anh mất từ khi anh còn nhỏ, nhưng không vì thế mà anh không hiểu lòng người mẹ thương nhớ con. Anh có lỗi, và bây giờ thì anh càng thấy anh có lỗi lớn đối với mẹ em. - Tại em tất cả. - Tôi muốn an ủi anh Hành. - Không, vẫn là anh. Ngày mai, anh phải viết thư về cho mẹ em. Anh nói rõ tất cả, xin bà tha thứ cho bọn mình. Chúng ta đã làm người mẹ đau khổ. Anh Hành đang nói tới điều mà tôi muốn che giấu. Lòng tôi se lại một nỗi u hoài man mác. Những ngôi sao đêm nhòe dần trên mặt sông. Tôi nhớ lại tất cả. Buổi tối trong gia đình. Khuôn mặt mẹ tôi, chị tôi. Cặp mắt đăm đăm và tiếng thở dài của mẹ tôi... Anh Hành hát nhỏ một điệu buồn buồn khiến tôi càng mềm lòng. Chợt có tiếng người gọi về sinh hoạt. Anh Hành đứng phắt dậy: - Chúng mình vớ vẩn thật đấy. Thôi, vứt bỏ mọi nỗi u sầu đi. Chúng ta đã là người lính kia mà. Vui lên chú mày, vui lên cho đời lính thêm tươi. Chúng tôi chạy vội xuống dốc đá. Ở trong kia, tiếng hát, tiếng cười đã huyên náo. ÔNG THỢ CẮT TÓC KỲ DỊ D ù có thích phiêu lưu thử thách đến mấy, tôi vẫn không muốn rơi vào hoàn cảnh như thế này. Sự đời vốn thế, ít khi chiều theo ý mình. Bác chỉ huy gửi tôi ở một trường pháo binh. Nhưng người quen của bác, ông giám đốc trường lại đi vắng. Người ta tạm nhận tôi một cách miễn cưỡng. Bác chỉ huy giao cho tôi một phong thư lúc chia tay: - Bác Tiến về, cháu nhớ trao lá thư này. Bác giám đốc sẽ nhận cháu, và hãy nghe lời bác ấy. Bác rất buồn là không đem cháu đi theo được. Cháu ở lại đừng buồn, hãy làm quen với các cuộc chia tay trong đời bộ đội. Luyện dần ý chí tự lập. Nào, hãy dũng cảm lên, hãy xứng đáng là con trai của bố cháu. Anh Hành ôm lấy tôi, khó nói nên lời: - Anh đi nhé. Rồi có ngày anh em mình gặp lại nhau... Tôi lắp bắp: - Anh nhớ viết thư cho em, và nếu gặp bố em... - Anh nhớ. Trong khi chờ bác Tiến về, tôi được gửi tạm ở nhà một giáo viên của trường. Đấy là người giáo viên đặc biệt duy nhất có gia đình ở cạnh trường. Anh là người Nhật. Anh đã chạy sang hàng ngũ ta từ hồi Cách mạng tháng Tám. Anh biết nhiều về pháo binh, đã tham gia chiến đấu và bây giờ được điều về làm giáo viên của trường. Hồi đó, ta thường gọi những người Nhật anh em ấy là người Việt Nam mới. Từ cái tên đó, người ta gọi anh là Tân Việt. Anh lấy vợ người Việt, chị vợ theo anh mở một quán hàng bán bún thang bên cạnh trường. Tôi ở với anh Tàn Việt, không phải là giúp anh trong công việc nhà trường. Đúng ra là tôi ở với chị ấy, giúp chị bán bún thang. Anh Tân Việt nói với tội giọng hơi lơ lớ: - Tôi biết em không thích, nhưng các đồng chí ấy giao em cho tôi, thì tôi nhận. Ở tạm thôi, chờ đồng chí Tiến về. Đồng chí ấy tốt lắm. Tôi còn biết nói sao. Rời nhà đi tưởng làm gì hóa ra là đứa bé bán bún. Tôi buồn rầu chán ngán. Nửa tháng trôi qua, bác Tiến vẫn chưa về. Thấy vậy, anh Tân Việt cũng ái ngại: - Em có muốn biết về pháo binh, anh sẽ giảng cho. Thôi thì cũng có việc để trôi qua thì giờ. Chiều chiều chúng tôi ngồi ở sân, anh Tân Việt lấy que vẽ trên nền đất dạy tôi những bài học vỡ lòng về pháo binh. Đầu óc tôi bắt đầu thu nhận những điều mới mẻ và thích thú. Tôi đã hiểu thế nào là sơn pháo, lựu pháo, thế nào là góc bắn, góc tà âm, dương, ngòi nổ chậm, ngòi nổ tức thì. Anh Tản Việt giảng tận tình, anh khuyến khích tôi: - Em thông minh lắm, có triển vọng sau này trở thành người sĩ quan pháo binh giỏi. Đôi mắt anh lấp loáng sau cặp kính trắng, lúc nói nhầm một tiếng Việt anh lại cười thật hồn nhiên. Tôi rất nến anh. Anh làm tôi ngạc nhiên. Bởi anh khác hẳn cái hình ảnh về những người Nhật lầm lì hung hãn trong trí tưởng tượng của tôi ngày trước. Khác hẳn cả hình ảnh & cậu "ký Phong" làng tôi một thời đã đi theo Nhật không biết bây giờ ở đâu. Bên cạnh quán hàng bún, còn có một cửa hàng cắt tóc. Một người thợ cắt tóc hết sức đặc biệt. Theo chị Việt thì ông thợ ở Hà Nội tản cư vào đây. Ông có bằng tú tài tây y, không muốn ở lại trong thành với địch, nên đi kháng chiến. Người ta đồn nhiều về ông. Người thì bảo ông gan, người thì bảo ông học cao nên bị ngộ chữ. Ngay tên ông cũng không ai biết. Nguời gọi ông là ông giáo, người gọi là ông thợ cắt tóc như công việc ông đang làm. Công việc ấy, ông cũng làm khác người. Mỗi buổi sáng, ông cắt tóc cho khoảng năm, sáu người rồi đóng cửa, dù khách đông cũng mặc. Buổi chiều, ông đi chơi. Lúc câu cá, lúc bắn chim bằng cái súng cao su của trẻ con. Ông hay mặc âu phục, bộ quần áo màu nâu sáng có sọc trắng. Tôi đã trông thấy ông nhiều lần, nhưng tôi chưa dám gần, cảm thấy ở ông có cái gì bí ẩn xa lạ. Nhưng không ngờ chẳng bao lâu, số phận tôi lại liên quan tới ông thợ cắt tóc kỳ dị ấy. Một buổi tối sáng trăng, tôi ngồi ở trước cửa nhà anh Tân Việt bâng khuâng ngán ngẫm về thân phận minh, chợt tôi nghe tiếng đàn. Tiếng đàn vi-ô-lông réo rắt cất lên từ cửa hàng cắt tóc. Chưa bao giờ tôi được nghe tiếng đàn lạ lùng ấy. Dường như nó tan ra trong ánh trăng tràn ngập chung quanh tôi. Lúc nó trầm trầm ngọt lịm, lúc réo rắt lảnh lót, lúc lại dồn dập liu riu như bầy chào mào mỗi buổi sáng vẫn cãi nhau trên cây xoan trước nhà tôi, vào độ hoa xoan vừa nở tím. Tôi tưởng như tiếng đàn cũng giống bầy chim đang làm cánh hoa xoan rơi xuống lả tả. Hôm sau, tôi mon men sang nhà ông thợ cắt tóc. Hai gian nhà tre sơ sài được ngăn đôi bằng một tấm liếp nứa. Một gian đặt ghế cắt tóc. Một gian vừa là buồng ngủ vừa là bếp nấu ăn. Tôi chào ông giáo, Ông giáo khẽ hất đầu ra hiệu cho tôi ngồi vào ghế cắt tỏc. Tôi xoa tay lên đầu rụt rè: - Tóc cháu còn xấu. Ông ngồi vào ghế, hút thuốc trong cái tầu đen bóng, mắt lim dim ngước nhìn lên mái nhà. Tôi mạnh dạn: - Hôm qua, cháu nghe ông đánh đàn hay lắm. - Ở đâu mới đến à? - Ông quay lại nhìn tôi có vẻ thiện cảm. - Vâng ạ. - Tản cư? - Không ạ, cháu đi bộ đội, cháu ở trường pháo binh, nhưng còn ở tạm nhà anh Tân Việt. - À, cậu láng giềng của tôi đấy. Có gì vui không? - Dạ, cháu muốn được nghe ông chơi đàn. Tôi không ngờ ông giáo lại làm theo lời tôi. Ông đứng dậy đặt tẩu thuốc xuống, cầm cây đàn. Ông đặt cây đàn lên vai, nghiêng người trang trọng rồi bắt đầu kéo cây vĩ. Tiếng đàn mỗi lúc một tha thiết khiến tôi bàng hoàng. Ông kéo đàn say sưa như biểu diễn trước một đám đông, chứ không phải trước đứa bé xa lạ bình thường như tôi. Tiếng đàn ngừng lúc nào tôi không để ý. Ông giáo ngồi xuống ghế và gọi tôi lại gần. - Lại đây. Qua mắt cháu, ta nhìn thấy được tâm hồn cháu. Cháu là người biết nghe âm nhạc. Ta sẵn sàng kéo đàn cho cháu nghe. Âm nhạc làm cho con người ta thanh cao. Ta muốn viết một bản nhạc cho cây đàn này, một bản nhạc mà ta ấp ủ từ lâu. Cháu hiểu không, bản nhạc ấy là tiếng nói của dân tộc ta, tiếng nói từ đau thương tăm tối vùng lên tìm ra ánh sáng. Tiếng nói không chịu khuất phục kẻ thù. Tiếng nói bốn nghìn năm mang hồn nước - Ông dừng lại trầm ngâm một lát - Nhưng ta cảm thấy bất lực, ta chưa viết được. Có thể cháu sẽ giúp ta. Đúng như thế, qua đôi mắt, ta đã nhìn thấu tâm hồn cháu. Có thể những dòng nhạc của ta từ đấy mà ra. Ông nhìn tôi với đôi mắt rực lên những tia sáng. Tôi hơi sợ, tôi không hiểu hết những lời ông nói. Tôi mà lại giúp ông viết được bản nhạc? Một đứa bé mới tập tọe gảy đàn như tôi. Ông giáo vẫn nhìn tôi rồi đột ngột ông nói: - Sang đây với ta. Ta sẽ dạy cháu học đàn, đừng từ chối. Cháu về nói với anh Tân Việt rồi sang đây ở hẳn với ta. Nhất định là phải như thế, về đi, rồi sang ngay. Ta đang cần cháu. Rất cần, rất cần. MỘT CUỘC CHẠM TRÁN BẤT NGỜ Đ ến bước này, việc quyết định thay đổi hoàn cảnh sống của mình không phải phân vân nhiều nữa, tôi cắp gói hành lý đơn sơ sang nhà ông giáo. Hiểu rõ mục địch của tôi, anh Tân Việt cũng bằng lòng. Anh nói với ông giáo: - Ông hiểu cho không phải là tôi đẩy cậu ấy đi. Ông giáo gạt đi: - Anh không phải nói với tôi điều đó. Do tôi yêu cầu kia mà. Ngay hôm đầu tiên, người nhạc sĩ già đã dạy tôi bài học về đàn với tất cả sự nghiêm khắc của một ông thầy. Tôi đã trải qua những ngày khá vất vả. Những ngón tay tôi bấm dây đàn nhức buốt. Cánh tay và cổ mỏi dừ đến nỗi cử động rất khó khăn. Nhưng ông giáo dường như không để ý đến điều ấy, không một lời khuyến khích, ông chỉ đòi hỏi ở tôi phải đạt cho được kết quả của mỗi bài học. Ông nói: - Không dốc hết tâm huyết, không đổ mồ hôi thì không làm nên trò trống gì đâu. Các bậc thiên tài đều trở nên vĩ đại bằng công sức lao động của mình. Lao động cực nhọc. Lao động không mệt mỏi, cháu có hiểu điều đó không? Tôi trả lời bằng cách cả ngày không rời cây đàn và những bài học trên giấy. Có thêm một miệng ăn, ông giáo cắt tóc nhiều hơn trước. Từ việc đi chợ mua thức ăn đến nấu nướng, ông đều làm hết, không cho tôi giúp. Chúng tôi ăn uống rất sơ sài và hổ lốn. Ăn theo kiểu cánh đàn ông với nhau như ông giáo thường nói. Cơm, rau, thức ăn khác đều nấu chung vào một nồi. Một thứ chảo đặc từa tựa như tôi vẫn ăn hồi tháng ba năm đói Ất Dậu. Vượt qua những ngày vất vả đầu tiên, tôi sung sướng được thầy giáo khen: - Ta đã đoán không nhầm về cháu. Từ giờ trở đi, cháu sẽ có giờ nghỉ ngơi và chơi bời. - Cháu đủ sức để học như trước. - Tôi đáp thành thật. - Phải chơi, phải chơi, giải trí sẽ giúp cho việc học tốt hơn, nhưng đừng bỏ phí thời giờ. Tôi bắt đầu làm thêm những công việc khác. Việc trước hết là nấu bữa ăn hẳn hoi hơn. Buổi chiều rỗi, chúng tôi đi lang thang dọc bờ sông máng. Ông giáo kể cho tôi nghe những câu chuyện về âm nhạc, về đời sống. Có lần, tôi mạnh dạn hỏi về đời riêng của ông, Ông gạt đi: - Điều ấy cháu cần biết làm gì. Ta không muốn giấu cháu đâu, nhưng nói ra chẳng ích gì. Cháu cứ biết về ta như cháu đang biết đây là được. Điều cần nói là ta cảm thấy già rồi. Ta hy vọng ở cháu, đem âm nhạc phục vụ cho cuộc chiến đấu của dân tộc, phục vụ những con người mà cháu yêu mến. Cháu hãy theo đuổi con đường đi của mình. Tôi học mỗi ngày một say mê. Mỗi buổi tối, khi người thầy của tôi kéo đàn thì tôi cảm thấy mình sống trong một thế giới khác. Một thế giới có nhiều điều kỳ ảo. Tôi bắt đầu làm quen với tên tuổi các nhạc sĩ lớn, Mozart, Beethoven, Schubert... với những bản giao hưởng số 5, số 9... Tiếng đàn bắt đầu nói với tôi nhiều điều mà trước đây tôi chưa biết: Ý chí vươn tới tự do của con người, sự vùng lên của nhân dân, tiếng suối róc rách và tiếng chim ríu rít trên cánh đồng hoa. Thế giới âm thanh ấy làm đảo lộn nhiều điều tôi nghĩ từ trước, làm nảy ra trong tôi bao nhiêu tình cảm mới. Nhưng rồi một sự việc xảy đến làm xáo trộn quãng ngày êm đẹp của tôi. Một buổi tối ở chợ về, thấy ông giáo đang cắt tóc. Tôi để ý đến bộ quần áo bộ đội màu xám của người khách ngồi ở ghế. Ông giáo quét đầy xà phòng cạo râu lên mặt khách. Bột xà phòng bồng lên như một mớ bông nõn. Đáng lẽ ông cầm dao cạo, nhưng ông lại lau tay và cầm cây đàn. Và bất kỳ lúc nào, ông đã cầm đến đàn là chơi với tất cả lòng say mê. Tôi bỏ mở rau xuống và đứng lặng ở góc nhà nghe nhạc. Người khách cũng ngồi im trên """