" Phân Tâm Học | J. P. Charrier PDF EPUB 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Phân Tâm Học | J. P. Charrier PDF EPUB Ebooks Nhóm Zalo Tên sách : PHÂN TÂM HỌC Tác giả : J.P. CHARRIER BẢN DỊCH : LÊ THANH HOÀNG DÂN Nhà xuất bản : TRẺ Năm xuất bản : 1972 ------------------------ Nguồn sách : tusachtiengviet.com Đánh máy : white-eyes Kiểm tra chính tả : Nguyễn Thị Huyền, Trần Ngô Thế Nhân, Trần Kim Trọng, Ngô Thanh Tùng Biên tập ebook : Thư Võ Ngày hoàn thành : 03/09/2019 Ebook này được thực hiện theo dự án phi lợi nhuận « SỐ HÓA 1000 QUYỂN SÁCH VIỆT MỘT THỜI VANG BÓNG » của diễn đàn TVE-4U.ORG Cảm ơn tác giả J.P. CHARRIER, dịch giả LÊ THANH HOÀNG DÂN và nhà xuất bản TRẺ đã chia sẻ với bạn đọc những kiến thức quý giá. MỤC LỤC CHƯƠNG I : KHÁM PHÁ VÔ THỨC CHƯƠNG II : NHÂN CÁCH A) PHÂN TÁCH NHỮNG NGUYÊN ĐỘNG LỰC BỊ CHE GIẤU B) SỰ HÌNH THÀNH VÀ CƠ CẤU CỦA NHÂN CÁCH 1) Giai đoạn I : hợp tác với Breuer 2) Giai đoạn 2 : những khám phá căn bản 3) Giai đoạn 3 : đào sâu phương pháp 4) Giai đoạn 4 : Tâm lý học siêu linh CHƯƠNG III : NHỮNG ĐỘNG NĂNG VÔ THỨC A) NGUYÊN TẮC KHOÁI LẠC VÀ NGUYÊN TẮC THỰC TẾ B) BẢN NĂNG SỐNG VÀ BẢN NĂNG CHẾT CHƯƠNG IV : THIÊN NHIÊN VÀ VĂN HÓA : XUNG KHẮC VÀ DỒN ÉP A) XUNG KHẮC GIỮA THIÊN NHIÊN VÀ VĂN HÓA B) SỰ HÌNH THÀNH SIÊU NGÃ 1) Bản năng Ça 2) Bản ngã 3) Siêu ngã C) SỰ DỒN ÉP D) MẶC CẢM CHƯƠNG V : SỰ THÀNH HÌNH NHÂN CÁCH THEO FREUD A) LÝ THUYẾT NHỮNG GIAI ĐOẠN VÀ NHỮNG VÙNG NHẠY CẢM (ZONES ÉROGÈNES) B) GIAI ĐOẠN TỰ THỎA MÃN 1) Thời kỳ miệng 2) Thời kỳ hậu môn C) GIAI ĐOẠN KHOÁI LẠC VỚI NGƯỜI KHÁC 1) Thời kỳ sùng bái dương vật (stade phallique) 2) Thời kỳ tiềm phục 3) Thời kỳ sinh dục CHƯƠNG VI : NHÂN LOẠI HỌC VÀ PHÂN TÂM HỌC A) QUAN NIỆM VĂN HÓA CỦA FREUD 1) Tôn giáo 2) Đạo đức 3) Văn minh B) BÌNH GIẢI NHỮNG BIỂU TƯỢNG CHƯƠNG VII : PHÂN TÂM HỌC SAU FREUD 1) Adler và quan niệm ý chí hùng bá 2) Jung và quan niệm vô thức tập thể 3) Karen Horney và Phân tâm học văn hóa KẾT LUẬN : PHÂN TÂM HỌC VÀ KHOA HỌC NHÂN VĂN PHÂN TÂM HỌC nguyên tác L’INCONSCIENT ET LA PSYCHANALYSE của J.P. CHARRIER, bản dịch của LÊ THANH HOÀNG DÂN, Bìa NGUYỄN ĐỒNG, ấn phẩm thứ 17 của nhà xuất bản TRẺ, Ấn hành lần thứ nhất 2.000 bản tại nhà in riêng của nhà xuất bản, không có bản đặc biệt. J.P. CHARRIER PHÂN TÂM HỌC BẢN DỊCH : LÊ THANH HOÀNG DÂN Phó Chủ Tịch Hội Nghiên Cứu Triết Học TRẺ xuất bản 68 Nguyễn Biểu, Saigon 5 1972 Kính tặng TẤT CẢ NHỮNG AI đã âm thầm hy sinh cho tương lai đất nước. Thân tặng các em GIÁO SINH đã học với chúng tôi tại Đại Học Sư Phạm Saigon, Cần Thơ, Long Xuyên và Tây Ninh, CÁC EM GIÁO SINH và CỰU GIÁO SINH Trường Sư Phạm Saigon. CHƯƠNG I : KHÁM PHÁ VÔ THỨC Trước Freud 1những nhà tâm lý thường đồng hóa đời sống tâm linh với đời sống ý thức. Họ nghĩ rằng tất cả những hiện tượng tâm linh đều ý thức. 2 Descartes chẳng hạn, đã đồng hóa cái « Tôi » với một « vật suy tưởng », một vật mà bản chất là suy tưởng. Như vậy, tất cả những gì chúng ta gọi là vô thức đều được xếp vô đời sống sinh lý. Thật ra một vài triết gia cũng đã ghi nhận sự hiện diện của những lực lượng tâm lý, những lực lượng nầy thoát khỏi tư tưởng ý thức của chúng ta. Vào thế kỷ thứ 17 chẳng hạn, La Rochefoucauld đã xác nhận rằng lý do sâu xa của những hành vi của chúng ta không phải là những lý lẽ tốt đẹp mà chúng ta thường viện dẫn. Những lý lẽ tốt đẹp nầy thường che giấu một tánh ích kỷ căn bản : « Con người thường tưởng rằng mình tự do hành động, trong lúc thật ra mình bị bó buộc phải hành động ». Cũng vào thời kỳ nầy, triết gia Leibniz nghĩ rằng chúng ta không biết hết được tâm linh của chúng ta, như vậy, ý niệm về vô thức rất cần cho chúng ta để giải thích bản chất tâm lý của bản năng. Vào thế kỷ thứ 19, Triết gia Schopenhauer nghĩ rằng trong mỗi chúng ta đều có một ý chí mù quáng và ngầm, ý chí nầy có tánh cách căn bản và phát xuất từ căn nguyên của sự sống. Theo ông : « Trí thông minh không biết gì hết về những quyết định của ý chí ». Vào cuối thế kỷ thứ 19, triết gia Nietzsche lại tỏ ra là người đi trước Freud, khi ông xác nhận rằng những động lực thúc đẩy chúng ta không phải là những lý lẽ tốt lành mà chúng ta thường viện dẫn để giải thích những quyết định của chúng ta. Theo ông, những quyết định nầy phát xuất từ một ý chí hùng bá, ý chí nầy là một ước muốn tăm tối và dữ dội muốn ngự trị người và vật. Vào lúc mà Freud bắt đầu những khám phá đầu tiên của ông, một nhà Tâm lý người Pháp là Pierre Janet, cũng có những trực giác tương tự như ông : đặc biệt là ông nghĩ rằng nhân cách của chúng ta có nhiều tầng, mà chúng ta chỉ biết được có tầng ý thức mà thôi. Phần lớn những hành vi không đòi hỏi một sự chú ý đặc biệt đều phát xuất từ một phần tâm linh gần như là vô thức : ông gọi phần nầy là những hình thức sơ đẳng của ý thức. 3 Và trong thực tế, ý niệm về vô thức rất quen thuộc đối với chúng ta, mặc dầu đôi khi chúng ta không biết tới những khám phá của Freud. Chúng ta nhận thấy, ẩn núp đàng sau những biện minh đạo đức hay tôn giáo, những lý do tăm tối thoát khỏi lý trí, những động lực phi lý của hành động con người. Sự hiện diện của một bộ máy tâm linh vô thức, bộ máy nầy là sản phẩm của một tâm linh xưa cũ hơn, bộ máy tâm linh của bản năng, vẫn còn rất mạnh nơi trẻ con, sự hiện diện nầy được thể hiện trong những lúc mơ màng, được thể hiện trong những hình ảnh chập chờn của những lúc nửa thức nửa ngủ. Trong những lúc như vậy, cuốn phim những biểu tượng của chúng ta, nội dung của chúng, sự nối tiếp của chúng và sự vang dội tình cảm mà những hình ảnh nầy tạo ra nơi chúng ta, tất cả đều vượt ngoài sự kiểm soát của ý chí chúng ta ; và mọi việc xảy ra như là ý thức của chúng ta trở thành chứng nhân của những gì xảy ra trong một tâm linh xa lạ. Nhưng chính nhờ sự phát triển của Tâm lý học vào thế kỷ thứ 19 và nhất là Tâm bệnh lý học 4 mà chúng ta được biết rõ ràng hơn và chính xác hơn về ý niệm vô thức. Đặc biệt là người ta phân tách kỹ lưỡng hơn những trường hợp nhị hóa nhân cách. Những trường hợp nầy cho thấy rằng một người suy nhược và mất quân bình có thể làm nhiều hành động có ý nghĩa, những hành động nầy được thực hiện trong những trạng thái không ý thức, như trong giấc mơ hay trong trạng thái thụy du (somnambulisme). Những hành vi nầy không phải rời rạc và bất nhất, nhưng thoát khỏi ý thức của người làm ra chúng, và có vẻ như tuân theo một luận lý « khác », một loại luận lý tình cảm hơn, gần hơn với thế giới tâm lý của trẻ con, một loại luận lý đứng ngoài những mệnh lệnh của lẽ phải thông thường, hay của luận lý xã hội 5. Khi Freud còn là một bác sĩ trẻ, ông cũng có dịp quan sát nơi phòng mạch của giáo sư Bernheim, một nhà chuyên môn về bệnh thần kinh tại Nancy, nơi ông tới để tập sự, những bệnh nhân có những dấu hiệu ám thị sau khi thôi miên (suggestion post hypnotique) hay ám thị có kỳ hạn (suggestion à échéance). Chúng ta có thể tóm tắt việc « ám thị có kỳ hạn » như sau : Khi một người đang ngủ trong giấc ngủ thôi miên 6 bác sĩ ra lệnh cho anh phải làm một hành vi nào đó nhất định, vào một lúc nào đó, chẳng hạn như làm một hành động phi lý, như là bò trong phòng nửa giờ sau khi được đánh thức. Sau khi ám thị như vậy, người ta đánh thức bệnh nhân. Sau khi được đánh thức, người bệnh lấy lại ý thức của mình, và không nhớ mệnh lệnh đã nhận được khi ngủ, một cách ý thức… Nhưng khi tới giờ mà bác sĩ đã qui định, người bệnh táy máy, có vẻ như muốn tìm kiếm một cái gì, và sau cùng bò trong phòng, viện dẫn lý do anh ta đã làm rớt tiền lẻ hay làm rớt nút áo, và bò như vậy, tìm kiếm bên phải rồi bên trái, và rốt cuộc bò chung quanh phòng, như lời bác sĩ ra lệnh trước đây, mặc dầu anh không nhớ tới lệnh nầy, và mặc dầu anh tưởng tự ý làm hành động nầy. 7 Đối với Freud, cuộc thí nghiệm nầy có rất nhiều ý nghĩa. Thật vậy, nó chứng tỏ : - Sự hiện hữu của một tâm linh vô thức, tại vì chủ thể đã hiểu và ghi nhận một mệnh lệnh xác định, điều mà một bộ máy sinh lý không thể làm được. - Sự can thiệp của vô thức vào đời sống ý thức dưới hình thức phản ứng có kỳ hạn. - Tâm linh ý thức của chúng ta có thể tạo nên nhiều lý lẽ rất hợp lý, nhưng giả tạo và bịa đặt, những lý lẽ nầy không phải là nguyên động lực thật sự của hành động. Nhìn kỹ hơn, chúng ta thấy cuộc thí nghiệm nầy chứa đựng phần lớn lý thuyết phân tâm học : những năm đầu tiên của tuổi trẻ tương tự như giấc ngủ thôi miên. Trong những năm nầy, đứa trẻ chịu nhiều ảnh hưởng, nhiều ám thị cản trở những thèm muốn và những khuynh hướng của nó. Do sự cản trở nầy phát sanh những xung khắc, những chấn động 8tâm lý, mà đứa trẻ và cả người lớn cũng không nhớ, nhưng chúng vẫn can thiệp thường xuyên vô những hành động của họ, mà họ không biết. Thật vậy, ý tưởng chánh mà Freud và môn đồ của ông (K. Abraham, E. Jones, K. Horey) khai triển, đó là xã hội dồn ép những khuynh hướng sơ đẳng của chúng ta từ nhỏ, dồn ép chớ không hủy diệt hoàn toàn được. Một mặt sự dồn ép tạo nên những xung khắc trên phương diện tâm lý, mà một vài người trong chúng ta không giải quyết được, điều nầy làm ngưng trệ hay xáo trộn sự phát triển nhân cách của họ, và sự trưởng thành của họ. Mặt khác, những khuynh hướng bị dồn ép không biến mất hẳn, mà vẫn tồn tại dưới lớp vỏ những tập quán xã hội, và lợi dụng những cơ hội bất ngờ để thể hiện, hoặc là thể hiện một cách tự do và dữ dội dưới hình thức trò chơi, chiến tranh, ngược đãi, v.v… hoặc dưới hình thức biểu tượng và che giấu dưới những biến cố được quan niệm như không quan trọng : dưới hình thức giấc mơ, giấc mơ nầy đề nghị những thỏa mãn bị cấm đoán cho những thèm muốn bị dồn ép của chúng ta : dưới hình thức lầm lẫn (lapsus) 9, thiếu sót 10, những hành vi bệnh hoạn. 11 Tất cả những năng lực đã bị những cưỡng chế xã hội dồn nén cũng chờ cơ hội tốt để tự giải thoát, bằng cách phá vỡ những đê điều mà xã hội đã đấp lên, ngăn chận những bạo tàn của nhân loại cổ sơ. Tuy nhiên, năng lực của những thúc đẩy bị dồn ép nầy cũng có thể tìm ra được một lối thoát, bằng cách hỗ trợ cho những hoạt động tinh thần của con người (hoạt động nghệ thuật, khoa học, kỹ thuật, tôn giáo…) Trong trường hợp nầy, người ta nói rằng năng lực đã được thăng hóa, nghĩa là đã được hướng sang những mục tiêu khác hơn là những mục tiêu thông thường mà thiên nhiên nhắm. Theo Freud, tất cả những cố gắng của văn hóa và văn minh phải nhằm làm cho chúng ta chấp nhận những cưỡng chế xã hội, bằng cách bù lại đề nghị với chúng ta những thú vui tinh thần : thú vui trao đổi những kiến thức, thú vui cùng nhau thực hiện những chinh phục kỹ thuật, thú vui thẩm mỹ, thú vui thương yêu và được thương yêu. Tuy nhiên, Freud nghĩ rằng văn hóa phần lớn đã không hoàn thành trách vụ của mình, và đó là nguyên nhân của sự thiếu quân bình, của những đau khổ và bạo tàn của chúng ta. Sở dĩ như vậy trước hết là tại vì những phương thức giáo dục của chúng ta không biết tới những nền tảng vô thức của cảm tính của trẻ, vì vậy đụng chạm mạnh đứa trẻ, bó buộc nó một cách bạo động, để rồi sau cùng tạo nên nơi mỗi cá nhân một bản ngã xã hội, hết sức hời hợt và mỏng manh ; những nguyên động lực thúc đẩy bản ngã nầy do một siêu ngã ảnh hưởng, siêu ngã nầy đàn áp những thèm muốn của chúng ta, nhưng thường thường không cho phép chúng ta hiểu những xung khắc giữa những thèm muốn nầy và những cấm đoán xã hội. Chính tại vì xã hội bó buộc chúng ta phải sống như là kẻ tử thù của chính mình, mà xã hội là nguồn gốc của những mặc cảm của chúng ta : xã hội chỉ biết đàn áp những thúc đẩy của chúng ta, mà không cần chú trọng tới những hậu quả của sự dồn ép. Mặt khác, xã hội chỉ cho phép một thiểu số được ưu đãi, thăng hóa những năng lực bản năng của mình trong những hoạt động cao đẹp mà thôi. Phần lớn nhân loại vẫn còn sống dưới sự cưỡng chế của những đòi hỏi xã hội, đạo đức và tôn giáo một cách sơ đẳng, mà không hiểu lý do của những đòi hỏi nầy, cũng không được hưởng những đền bù của nền văn minh. Chính vì vậy mà quần chúng cơ cực trên phương diện tinh thần, cũng như hay thay đổi. Sau cùng Freud nghĩ rằng những trừng phạt xã hội, mà người ta luôn luôn kèm theo những đe dọa tôn giáo, chỉ đàn áp con người mà thôi, chớ không làm cho họ « lành bệnh », vì vậy làm phát sanh một mặc cảm tội lỗi tập thể, bệnh hoạn, mặc cảm nầy tạo nên sự mất quân bình tâm linh trầm trọng. Như vậy, khoa Tâm lý học của Freud thực sự là một khoa tâm lý học chiều sâu. Nó phát lộ cho chúng ta thấy rằng đời sống tâm linh không phải chỉ hạn chế trong những gì chúng ta ý thức được mà thôi, rằng dưới những động lực ý thức và những quyết định hợp lý, có một bộ máy tâm linh ở đó những nguyên động lực được giấu giếm, vô thức hay bị dồn nén vẫn tác động. Nó lôi kéo sự chú ý của chúng ta về sự giáo dục, là sự chuyển hướng từ thiên nhiên tới văn hóa, không phải được hoàn thành mà không hậu quả tai hại, tai hại ở chỗ giáo dục đã tạo nên trong nhân cách của chúng ta những xung khắc đánh dấu chúng ta từ nhỏ, vì vậy, mỗi kinh nghiệm mới của chúng ta trong hiện tại đều phản ánh phần nào quá khứ vô thức của chúng ta. Tóm lại, khoa tâm lý học của Freud cho chúng ta thấy rằng tánh cách thống nhất và ý thức của cái Tôi chỉ bề ngoài mà thôi. Do những yếu tố nêu trên ngày nay nó có thể được quan niệm như một trong những phương pháp căn bản của khoa học nhân văn. CHƯƠNG II : NHÂN CÁCH A) PHÂN TÁCH NHỮNG NGUYÊN ĐỘNG LỰC BỊ CHE GIẤU Như chúng ta biết, chúng ta dễ dàng đưa ra những lý lẽ hợp lý để giải thích tại sao chúng ta đã hành động và suy tưởng như thế nầy hay như thế khác. Tuy nhiên, theo Freud, những lý lẽ nầy không phải luôn luôn làm sáng tỏ những nguyên nhân thật sự và sâu xa của hành động chúng ta. Có thể chúng ta ý thức về những hành vi của chúng ta, nhưng ý thức không đồng nghĩa với hiểu biết. Chẳng hạn như tôi ý thức về gây hấn tính (agressivité) của tôi đối với một người bạn nào đó, nhưng ý thức như vậy không có nghĩa là tôi biết được những nguyên nhân sâu xa của thái độ nầy 12. Với một nghĩa rất gần với nghĩa của Phân tâm học, Spinoza có viết : Ảo tưởng về sự tự do phát xuất từ chỗ chúng ta ý thức những hành động của chúng ta, mà không biết gì hết về những nguyên nhân làm chúng ta hành động. 13 Freud nghĩ rằng dưới những lý do cao đẹp hay có thể thú nhận được, đôi khi ẩn núp những lý do thật sự, những lý do nầy phát lộ ảnh hưởng tiềm ẩn của những thúc đẩy nguyên khởi mà văn hóa đã che lấp dưới một cái vỏ xã giao. Chẳng hạn như người thanh thiếu niên thường hay bài bác, có khi đi tới nổi loạn nữa, chống lại trật tự xã hội mà nó thấy quá trưởng giả, quá ngột ngạt, tại vì trật tự xã hội nầy chèn ép tuổi trẻ và không cần biết tới sự độc đáo của tuổi trẻ. Nhưng đàng sau những lời phản kháng nầy, người ta cũng có thể khám phá ra nhiều nguyên động lực khác. Đó là sự nổi loạn của cá nhân chống lại một đời sống Cộng đồng đòi hỏi người ta phải hy sinh tánh ích kỷ của mình, đó là ước muốn giải phóng sự tò mò và những động năng tình dục ; thông thường hơn cả, đó là ước muốn biện minh với bất cứ giá nào cho một thái độ hỗn loạn (anarchisme) có tánh cách lãng mạn. Khi chúng ta quá nghiêm khắc với con cái chúng ta, có thể nguyên nhân thật sự của lối giáo dục nghiêm khắc nầy là nhu cầu thực thi ý chí hùng bá đối với con cái chúng ta, một ý chí hùng bá mà chúng ta không thể thực hiện được đối với những người lớn khác, vì chúng ta thiếu nhân cách. Những người làm công ngoan ngoãn nhất đôi khi là những người cha nghiêm khắc nhất… Thật ra những lý do được che khuất nầy nằm trong bình diện của tiềm thức (nghĩa là bình diện của những gì hơi ý thức), và chúng ta có thể phân tách chúng được, nếu chúng ta đủ sáng suốt. Vả lại, cũng chính trên bình diện tiềm thức nầy mà chúng ta phải định vị những tri giác biên tế (perceptions marginales), những ý định vừa nói ra là quên ngay, những ý tưởng được thành hình rồi vụt tan biến, những hình ảnh không chính xác xuất hiện trong những lúc mơ mộng, hay những lúc chúng ta mệt mỏi. Cũng trong vùng nửa tối nửa sáng nầy của tiềm thức, chúng ta thấy xuất hiện và biến mất những thèm muốn, mà chúng ta không dám nhìn « tận mặt », tại vì ngược lại với những khuôn mẫu hành động mà xã hội cưỡng chế chúng ta noi theo. Cũng thuộc phạm vi tiềm thức nầy những hành động có tất cả đặc tánh tâm linh mặc dầu không được chủ thể biết rõ ràng : Đó là những hành vi đi, đứng, ngồi, lật trang sách ; đó là những hành vi tự động đòi hỏi một sự căng thẳng tâm lý nào đó, nhưng quá sơ đẳng, vì vậy nên không được ý thức rõ rệt. 14 Sau cùng, cũng chính trên bình diện tiềm thức nầy mà chúng ta phải định vị những liên tưởng, mà trong một thời gian lâu không có hình dạng nào, nhưng rồi đùng một cái, ở một ngày đẹp trời nào đó, chúng ta khám phá ra chúng đã thành hình, chúng đã chín mùi một cách bí mật. Lúc đó xảy ra hiện tượng « chiếu sáng », hiện tượng thiên khải, đặc tính của cảm hứng nghệ thuật hay khoa học. Tuy nhiên, dưới lớp vỏ tiềm thức nầy, Freud khám phá ra sự hiện hữu của một vô thức cá nhân sâu xa. Vô thức nầy bao gồm tất cả những thúc đẩy của bản năng, mà những cưỡng chế xã hội và văn hóa đã chôn vùi và « bịt miệng » nhưng không hủy diệt được. Cũng thuộc phạm vi vô thức tất cả những kinh nghiệm đau đớn của tuổi thơ, những kinh nghiệm nầy đã bị quên lãng từ lâu. Như vậy, chúng ta tìm thấy trên bình diện của vô thức tất cả những gì đã bị dồn ép, dồn ép vì thuộc những khuynh hướng di truyền, mà xã hội cấm đoán. Như vậy, cơ chế dồn ép và quên xuất hiện như là một cơ chế tự vệ của bản ngã xã hội, chống lại sự bùng nổ trở đi trở lại của những thúc đẩy nguyên thủy. Như vậy, vô thức sâu xa bao gồm toàn thể những thúc đẩy nguyên thủy, những thúc đẩy nầy tạo thành tình cảm tính (affectivité) cổ xưa của con người. Nhưng cái làm cho vô thức được cá nhân hóa, đó là những dấu vết của đời sống riêng tư của mỗi người, những biến cố nguyên nhân của hiện tượng dồn ép. Những biến cố của đời sống thơ ấu đã làm chấn động đứa trẻ, dần dần được kết tụ thành những mối cảm xúc : những mối cảm xúc nầy thường gắn liền với những vật tượng trưng cho sự thỏa mãn những thèm muốn, mà lúc đó đã bị dồn ép, hay là ngược lại những vật tượng trưng cho sự đàn áp, mà đứa trẻ đã phải nhận chịu. Chính Freud cũng đã đưa ra một câu chuyện để giúp chúng ta thấy rõ hơn những gì vừa nói. Đó là câu chuyện một nữ bệnh nhân 20 tuổi, mắc bệnh hystérie 15. Cô bệnh nhân nhất định không chịu uống nước, mà chính cô cũng không biết lý do tại sao cô như vậy : « Cô ta có thể chụp lấy ly nước, nhưng khi ly nước vừa đọng tới môi cô, cô đẩy nó ra ngay… Cô ăn ngấu nghiến đủ thứ trái cây, để giải quyết cơn khát nước đang dày vò cô. Cô cứ như vậy khoảng 6 tuần, nhưng một ngày nọ, trong cơn ngủ thôi miên, cô than phiền về một chị ở người Anh, mà cô rất ghét. Sau đó cô kể lại, với tất cả những dấu hiệu của sự ghê tởm sâu xa, rằng có một lần khi cô còn nhỏ, cô có tới phòng của chị ở nầy, và ở đây cô thấy con chó nhỏ của chị, một con vật ghê tởm, đang uống nước trong ly. Vì lịch sự cô không nói gì hết. Sau khi đã kể xong câu chuyện, cô giận dữ một hồi, sự giận dữ mà cho tới đây cô đã kềm hãm được. Sau đó cô đòi uống nước, uống một hơi, và thức dậy. Lúc đó ly nước vẫn còn trên môi cô. Cô lành bịnh luôn ». 16 Câu chuyện nầy có nhiều ý nghĩa. Cô gái nầy đã bị những qui tắc của giáo dục cưỡng chế (sự lịch sự), cho nên đã dồn nén những tình cảm gây hấn của mình. Ly nước tượng trưng cho đối tượng của sự đàn áp mà cô phải nhận chịu. Thật ra, không phải lúc nào những biến cố của tuổi thơ cũng tạo nên sự mất quân bình tâm linh. Nhưng chúng ta sẽ thấy, những biến cố nầy thường tạo nên những mặc cảm, làm xáo trộn ít hay nhiều sự nẩy nở của nhân cách. B) SỰ HÌNH THÀNH VÀ CƠ CẤU CỦA NHÂN CÁCH Toàn thể những khám phá của Freud liên hệ với nhau như thế nào, và những ý niệm chánh yếu của Phân tâm học cổ điển có liên hệ chặt chẽ gì với nhau không ? Đó là những câu hỏi mà chúng tôi sẽ cố gắng trả lời, bằng cách tóm tắt phớt qua sự tiến triển của tư tưởng của Freud, sự tiến triển nầy có thể sẽ giúp chúng ta hiểu được những liên hệ vừa có tánh cách thời gian, vừa có tánh cách cơ cấu, giữa những ý niệm chánh yếu, mà Freud đã tuần tự sử dụng. 1) Giai đoạn I : hợp tác với Breuer Từ năm 1893 cho tới năm 1895, Freud hợp tác với một nhà thần kinh bệnh học danh tiếng gốc người Vienne, là Breuer, một người sử dụng phương pháp thôi miên để chữa bệnh, như Bernheim. Do sự hợp tác nầy, họ đi tới một kết luận là chắc chắn có một sợi dây liên hệ nhân quả, gắn liền sự kiện quên mất một số kỷ niệm cũ, và sự hiện hữu của những dấu hiệu bệnh hystérie. Trong phần kết luận của quyển Etudes sur l’hystérie, mà Freud đã viết chung với Breuer, được xuất bản năm 1895, hai tác giả nầy có viết như sau : « Những triệu chứng khác nhau của bệnh hystérie không phải là những thể hiện tự nhiên của bệnh mà gắn liền chặt chẽ với một chấn động tâm lý ; người ta có thể tìm ra được những chấn động nầy nhờ phương pháp thôi miên. Sau khi ý thức được chấn động tâm lý, người bệnh thường khỏi bệnh ». 2) Giai đoạn 2 : những khám phá căn bản Giai đoạn nầy kéo dài từ năm 1895 cho tới năm 1905. Trong những phiên thôi miên, Freud nhận thấy khó làm cho kỷ niệm gắn liền với những chấn động tâm lý trước đây xuất hiện. Do sự khó khăn đó, Freud suy diễn ra sự hiện hữu của vô thức. Nhưng ông không sử dụng lâu phương pháp thôi miên, vì phương pháp nầy không thành công với tất cả mọi người, mà chỉ thành công với những bệnh nhân dễ ám thị mà thôi. Ngoài ra, Freud cũng đã nhận thấy, khi ông còn tập sự với Bernheim, rằng việc nhớ lại kỷ niệm chấn động chỉ thật sự hữu hiệu khi người bệnh, sau khi thức dậy khỏi cơn ngủ thôi miên, có thể nói lại một cách mạch lạc chặt chẽ những gì đã xuất hiện trong giấc ngủ nầy. Như vậy, Freud cố gắng không những đem những kỷ niệm chấn động của người bệnh lên địa hạt ý thức mà thôi, mà còn làm cho người bệnh nói ra những kỷ niệm nầy nữa. Lúc đó ông thử sử dụng phương thức liên hợp tự do những hình ảnh và ý tưởng : một hình ảnh hay một ý tưởng kéo theo một hình ảnh hay một ý tưởng khác, những cái mới kéo theo những cái mới khác nữa. Phương pháp liên tưởng tự do nầy trở thành phương pháp chánh của Freud trong việc khám phá ra nhân cách chiều sâu. Thật vậy, dưới bề ngoài có vẻ lạ lùng của những liên tưởng, Freud cố gắng tìm kiếm ý nghĩa đàng sau những biểu tượng. Tuy nhiên, Freud nhận thấy rằng những liên tưởng nầy thường hay trục trặc bởi một sự kháng cự, nghĩa là một cơ chế tự vệ vô thức chống lại những hình ảnh hay những từ ngữ lúc ban đầu. Hoặc là người bệnh muốn lựa chọn những hình ảnh để khởi đầu, hoặc là nó ngưng lại và phản kháng những qui ước đã được thỏa thuận trước khi liên tưởng. Freud nhận thấy những kháng cự nầy chỉ quay chung quanh một vài hình ảnh nào đó, những « điểm yếu », những hình ảnh ấy chắc chắn liên hệ tới những chấn động tâm lý, mà sự nhớ lại bị kiểm duyệt : như vậy, xuyên qua những kháng cự, ông nhận thấy có một cơ chế tự vệ 17. Freud gọi cơ chế tự vệ nầy là sự dồn ép (refoulement). Như vậy theo ông, ngoài phương pháp liên tưởng tự do, khoa Phân tâm học cần chống lại những kháng cự nêu trên. Vấn đề là thuyết phục người bệnh chịu phân tách những kháng cự nầy, với sự trợ giúp của nhà Phân tâm học. Lúc đó Freud khám phá ra rằng ông có thể sử dụng một cơ chế mới, mà ông nhận thấy trong động thái của người bệnh : đó là sự chuyển di, một tiến trình tâm lý làm cho người bệnh lúc ban đầu có một liên hệ tình cảm đặc biệt với nhà Phân tâm học, lần hồi phóng ngoại lên ông nầy những thái độ xúc cảm phát xuất từ những cơ cấu tình cảm xưa cũ. Sự kháng cự phát xuất từ sự chuyển di lên cá nhân nhà phân tâm học, sự gây hấn tính, sự lo âu hay sự thu hút luyến ái, mà người bệnh đã từng cảm thấy trước đây, vào thời kỳ xảy ra sự chấn động tâm lý. Như vậy, cần phải làm cho người bệnh ý thức về những thái độ nầy, những thái độ lặp lại của thời thơ ấu của người bệnh, nhất là tương quan giữa người bệnh và cha mẹ. Phương pháp nầy về sự phân tách những kháng cự, đó là Phân tâm học. Freud còn giải thích về cơ chế của sự dồn ép. Theo ông, tâm bệnh nhẹ (névrose) phát xuất từ sự xung khắc giữa hai động năng tâm linh trái ngược với nhau. Như vậy, nguồn gốc của bệnh névrose là một sự xung khắc giữa những thúc đẩy. Nếu sự xung khắc nầy vẫn còn tồn tại lâu dài, đó là tại vì sự thúc đẩy bị dồn nén đòi hỏi được giải thoát : lúc đó sự dồn ép trở thành thường trực, và trở thành một cơ chế tự động và tàn bạo. Tuy nhiên, những yếu tố bị dồn ép được tổ chức lại và rốt cuộc vẫn vượt được hàng rào cản ngăn của sự dồn ép, bằng cách thể hiện dưới một hình thức ngụy trang, mà chủ thể không biết. Những yếu tố nầy thể hiện dưới hình thức biểu tượng, bề ngoài là một hành động có vẻ vô hại (như giấc mơ, lầm lẫn) hay phi lý (những triệu chứng bệnh névrose). Trái lại, có một thỏa hiệp giữa thúc đẩy bị dồn nén, và phần ý thức của bộ máy tâm linh. Như vậy, một triệu chứng bệnh hoạn thể hiện thỏa hiệp nầy. Bệnh névrose xuất hiện như là sự sống lại của những yếu tố khuynh hướng bị dồn nén, và gắn liền với những xung khắc trước đây, điều nầy làm cho người bệnh bi kịch hóa chúng 18. Như vậy, bệnh névrose là một hiện tượng lặp lại trong hiện tại và dưới hình thức ngụy trang, một xung khắc trong quá khứ, mục đích để cho tình cảm xưa cũ bị dồn nén có thể xuất hiện trở lại trong hành động của người bệnh, mà không làm cho ý thức anh ta nghi ngờ gì cả. Đó là một « ký ức không kỷ niệm ». Song song với việc phân tách tâm bệnh névrose Freud cũng phân tách giấc mơ, « Con đường vương đạo » dẫn thẳng tới Vương quốc của vô thức. Thật vậy, giấc mơ bi kịch hóa sự xung khắc giữa một thèm muốn bị dồn nén và những lực lượng tâm linh dồn nén, và biến sự xung khắc nầy thành một hệ thống hình ảnh bề ngoài vô nghĩa, nhưng với người biết chuyện thì những hình ảnh nầy liên hệ chặt chẽ, mạch lạc với nhau. Như vậy, xuyên qua kỹ thuật bình giải những biểu tượng (herméneutique), chúng ta cần đạt tới nội dung tiềm ẩn (contenu latent), mà nội dung thể hiện (contenu manifeste) cô đọng 19, bi kịch hóa và biểu tượng. Như vậy, giấc mơ tương tự như những triệu chứng của bệnh névrose. Đó là những thỏa hiệp ; và muốn người nằm mơ có thể nhớ lại giấc mơ của mình (nghĩa là muốn nội dung giấc mơ có thể thoát khỏi được sự kiểm duyệt), nội dung giấc mơ này cần được phác họa trở lại, tổ chức trở lại thế nào cho ý nghĩa tiềm ẩn được che khuất bởi ý nghĩa thể hiện. Lúc đó Freud mới nới rộng cách bình giải của ông cho những lầm lẫn, những hành vi hở hang đủ loại, mà đàng sau bề ngoài vô hại, che giấu sự sôi sục đáng sợ của những khuynh hướng vô thức, lúc nào cũng chực xen vô sự yên lành của những hành động mỗi ngày của chúng ta. Đó là tóm lược một cách hết sức vắn tắt những quan niệm của Freud, được thể hiện trong những tác phẩm sau đây : L’interprétation des rêves (1900), Le rêve et son interprétation (1901), La Psychopathologie de la vie quotidienne (1901) và quyển Trois essais sur la théorie de la sexualité (1905). 20 Trong giai đoạn này, Freud cũng đã trình bày quan niệm của ông về guồng máy tâm linh, mà ông chia ra làm ba cấp : trước hết là vô thức, một vùng ở đó tất cả những yếu tố đều ở trong tình trạng bị dồn ép (Jones), kế đó là tiềm thức, có thể ý thức được, một vùng ở đó những giấc mơ được phác họa trở lại, sau cùng là ý thức, bề ngoài của guồng máy tâm linh. Cũng trong giai đoạn nầy, Freud xác định ý nghĩa của từ ngữ thúc đẩy vô thức : đó không phải là bản năng (ý niệm lý thuyết), mà là một khuynh hướng được xác định bởi nguồn gốc của nó (kích thích bên trong), mục tiêu của nó (bãi bỏ kích thích nầy), và đối tượng của nó (mà sự chiếm hữu hay sự tiêu thụ làm cho nó thỏa mãn). Tuy nhiên, khuynh hướng này vô thức (điều nầy phân biệt nó với sự thèm muốn ở nghĩa hẹp), do sự kiện nó không thể cho thấy sự hiện diện và cứu cánh của nó, bằng một hình ảnh rõ ràng, mà thông thường người ta ý thức. Tuy nhiên, khuynh hướng này cũng có một sự co giãn nào đó, điều này làm cho những đồ hình (schèmes) bản năng và tình cảm có thể được tổ chức trở lại, và hướng về một hướng khác (chuyển di, thăng hóa, phản ứng). Freud cũng sử dụng ý niệm về kiểm duyệt (censure). Nhiệm vụ kiểm duyệt được tìm thấy trong tất cả những cơ chế tự vệ, tại vì mục đích của nó là làm giảm bớt những căng thẳng đau đớn, bằng cách duy trì sự dồn nén đối với một vài thúc đẩy nào đó. Sau cùng, Freud cũng đã khám phá ra mặc cảm Œdipe 21, khám phá ra tầm quan trọng và sự tiến triển của đời sống tình dục trẻ con. Đời sống tình dục nầy tuân theo nguyên tắc khoái lạc, nguyên tắc nầy ảnh hưởng tới hành động, nhằm thỏa mãn những thúc đẩy. Nhưng ngoài nguyên tắc khoái lạc nầy còn có nguyên tắc thực tế. Nguyên tắc sau nầy nhằm điều chỉnh những đòi hỏi của bản năng tình dục với những đòi hỏi của khung cảnh xã hội, và những kháng cự của thế giới bên ngoài. Chúng ta nên ghi nhận rằng trong thời kỳ nầy, Freud đã lần lần thay đổi phương pháp tâm bệnh lý học (sự hình thành và chữa trị những tâm bệnh nhẹ névrose) thành một lý thuyết tâm lý về tình cảm thông thường và bệnh hoạn. Như chúng ta đã thấy, sự thay đổi phần lớn dựa vào sự tương tự giữa những triệu chứng bệnh névrose, với sự bình giải giấc mơ và những hành động hỏng. Dư luận sẽ chỉ trích nhiều sự biến đổi nầy. 3) Giai đoạn 3 : đào sâu phương pháp Đại khái giai đoạn nầy kéo dài từ năm 1905 cho tới năm 1920. Giai đoạn nầy được đánh dấu bởi những quyển sách sau đây : quyển Cinq leçons de Psychanalyse, ấn hành năm 1909, quyển Totem et Tabou, ấn hành năm 1912, quyển Introduction à la Psychanalyse, ấn hành năm 1917. Ngoài những quyển sách nầy, chúng ta cũng phải kể thêm một số bài báo viết cho các tạp chí chuyên môn. Đây là giai đoạn trưởng thành của phương pháp phân tâm học. Trong giai đoạn nầy Freud nghiên cứu chính xác hơn những hiện tượng kháng cự và chuyển di. Đồng thời ông cũng bắt đầu phân biệt những đầu tư 22 năng lực tình dục khác nhau (investissements libidinaux). Năng lực tình dục có thể khách quan, nếu được đầu từ vô người và vật ở bên ngoài. Nó cũng có thể quy ngã, nghĩa là đầu tư vô thân xác của chính mình. Sau cùng nó cũng có thể được thăng hóa, nếu nó hướng về những hoạt động tinh thần, nghệ thuật hay tôn giáo. Như vậy, lần lần được khai triển một tâm lý học về bản ngã, và về động thái con người, một giai đoạn tiến tới lý thuyết ba cấp của Freud (théorie des trois intances). 4) Giai đoạn 4 : Tâm lý học siêu linh Giai đoạn nầy kéo dài từ năm 1920 cho tới năm 1939. Thật vậy, vào năm 1920, những công trình nghiên cứu của Freud hướng ông tới những quan niệm mới mẻ về phân tâm học. Trong một loạt những bài khảo luận đã được đăng tải rải rác trên các tạp chí, và được Freud gộp lại cho xuất bản dưới tựa đề là Essais de Psychanalyse 23, ông thay đổi lý thuyết của ông về bản năng và về bộ máy tâm linh, điều nầy đưa ông tới chỗ hội nhập những quan niệm trước đây của ông vô những viễn tượng tâm lý siêu linh (métapsychologie). Tâm lý siêu linh bình giải những hiện tượng tâm linh dưới ba góc cạnh. a) Phương diện động mô tả sự xung khắc giữa những lực lượng tâm linh trong sự phát triển của trẻ. Freud lấy lại giả thuyết của ông về sự tiến triển của tình dục, tiến triển nầy được đánh dấu bằng những giai đoạn phát triển của năng lực tình dục libido. Những giai đoạn nầy liên hệ tới những đầu tư năng lực khác nhau, đưa tới những quan hệ đặc biệt với sự vật và người khác. Những giai đoạn nầy giúp đứa trẻ hội nhập trên phương diện tình cảm vô trong môi trường xã hội và văn hóa của mình, và vượt khỏi những thời kỳ ở đó trẻ quá chú trọng tới thân xác nó, và sự vật bên ngoài, để sau cùng trẻ tiến tới một giai đoạn ở đó năng lực libido được hướng về những hành động xã hội. - Giai đoạn miệng (năm đầu tiên) là giai đoạn ở đó năng lực libido đầu tư vô vùng miệng. - Giai đoạn hậu môn kéo dài từ năm thứ hai cho tới năm thứ ba. Năng lực libido không phải chỉ hướng về thân thể trẻ, như trong giai đoạn đầu, mà còn hướng về phía ngoài, người và vật khách quan. Trong gian đoạn nầy, năng lực tình dục ngưng tụ ở hậu môn. - Giai đoạn sùng bái dương vật (stade phallique) vào khoảng năm thứ tư và năm thứ năm. Năng lực tình dục libido được đầu tư mạnh trong những quan hệ khách quan. Những vùng có cơ quan sinh dục được trẻ chú ý đặc biệt, nhưng mặc cảm Œdipe xuất hiện, hướng những thúc đẩy bản năng và tình cảm về phía cha mẹ, và tạo nên nơi trẻ và làm đứa trẻ bắt đầu từ bỏ một số khoái lạc, cũng như tạo nên những chuyển di đầu tiên. Sau đó là giai đoạn tiềm phục từ năm thứ sáu cho tới tuổi dậy thì. Trong giai đoạn nầy năng lực libido được hướng về những hoạt động xã hội. Đó là hiện tượng thăng hóa. - Giai đoạn sinh dục (stade génital) chỉ là một sự trở về giai đoạn sùng bái dương vật trước đây. Năng lực tình dục libido được đầu tư trở lại trong những hoạt động tình dục, nhưng những hoạt động nầy trưởng thành hơn, và mang hình thức của người lớn. Lý thuyết về những giai đoạn giúp cho Freud bình giải lịch sử của mỗi cá nhân dưới nhãn hiệu tiến hóa (những giai đoạn được vượt khỏi một cách bình thường) hay thoái hóa. Sở dĩ có thoái hóa là tại vì những biến cố chấn động mạnh tâm linh khi trẻ còn nhỏ, đã làm cho năng lực tình dục libido ngưng tụ lại những giai đoạn, mà đáng lý ra trẻ phải vượt khỏi. Như vậy, quan niệm động của Freud giúp chúng ta hiểu rõ hơn và sâu xa hơn nguồn gốc và những triệu chứng thể hiện của bệnh névrose. Những triệu chứng thể hiện nầy chỉ là sự thoái hóa tình cảm, trở về những giai đoạn đầu tư năng lực libido, mà thông thường trẻ phải vượt qua. b) Phương diện kinh tế chú trọng tới khía cạnh số lượng của những lực lượng tâm linh đang xung khắc. Năng lực bản năng lúc đầu mạnh ít hay nhiều tùy người, nhưng sức mạnh nầy có thể thay đổi vào những thời kỳ chánh yếu của đời sống con người (chẳng hạn như vào tuổi dậy thì). Năng lực nầy được tìm thấy trong những thúc đẩy và những lực lượng chống, chẳng hạn như những lực lượng dồn ép. Những lực lượng dồn ép nầy có thể di chuyển từ đối tượng nầy tới đối tượng khác, chẳng hạn như gây hấn tính chống lại người Cha có thể di chuyển chống lại một người em. Sự di chuyển nầy có nghĩa là « xì hơi », nghĩa là giải quyết sự dồn ép (défonlement). c) Phương diện cơ cấu chú trọng tới cơ cấu của bộ máy tâm linh. Năm 1923, thay vì phân biệt ý thức và vô thức như trước đây, Freud đưa ra lý thuyết ba cấp của ông. Tâm linh chúng ta gồm ba phần. Phần thứ nhất là vô thức Ça. Đây là nơi chứa đựng những thúc đẩy, mà những cơ chế tự vệ duy trì dồn nén, làm cho vô thức, và từ đó ảnh hưởng tới sinh hoạt của toàn thể tâm linh. Phần thứ hai là bản ngã (Moi). Bản ngã được thành lập từ vô thức, dưới ảnh hưởng của nguyên tắc thực tế. Bản ngã là nguồn gốc của những động thái ăn nói, những động thái xã hội và duy lý. Phần thứ ba là siêu ngã (sur moi), được thành hình từ bản ngã. Những cơ chế hướng nội làm cho trẻ hướng nội những lực lượng đàn áp do giáo dục mang tới, và hội nhập những lực lượng nầy với hình ảnh lý tưởng của cha mẹ, nhất là vào lúc phát sanh mặc cảm Œdipe. Như vậy, siêu ngã là nguồn gốc của mặc cảm tội lỗi, được phát triển cùng với sự lo âu. Tánh cách dữ dội ít hay nhiều của cơ chế kiểm duyệt có thể đo lường được bằng sự lo âu của chúng ta, sự lo âu nầy do sự xung khắc giữa bản ngã và siêu ngã, « người thừa kế của mặc cảm Œdipe ». Như vậy, hoạt động dồn ép là nguồn gốc của sự lo âu, sự lo âu nầy được tạo nên do đụng chạm với thực tế và do những can thiệp của giáo dục. Freud cũng sửa đổi lý thuyết của ông về nguồn gốc những thúc đẩy. Thật vậy, không phải chỉ có một lực lượng duy nhất mà thôi, lực lượng nầy là năng lực tình dục libido, mà có tới hai lực lượng đối chọi nhau, mà sự xung khắc làm nguy hại tới sự quân bình của nhân cách, đó là Eros 24 và Thanatos. 25 Eros là bản năng sống của chúng ta, hướng chúng ta tới hoạt động. Thanatos là bản năng chết, thúc đẩy chúng ta tới những hoạt động tự hủy diệt hầu giảm bớt những căng thẳng phát sanh từ ý chí muốn sống nguyên thủy. Nhà phân tâm học D. Lagache có nhận xét như sau : « Những sửa đổi nầy có hiệu quả lớn lao trong sự thực hành cũng như trong lý thuyết phân tâm học. Xét qua sự phát triển của nhân cách hay động năng của những xung khắc tâm linh, chúng ta có thể rút tỉa hai kết luận chánh yếu sau đây : « 1) Những giải thích phân tâm học không còn chú trọng tới những xung khắc bản năng, mà tới sự tự vệ của bản ngã chống lại những thúc đẩy bản năng và những xúc cảm. « 2) Những thúc đẩy bản năng liên hệ không phải chỉ là những thúc đẩy tình dục mà thôi, mà còn là những thúc đẩy gây hấn nữa ». Do tầm quan trọng mà phân tâm học dành cho sự tự vệ của bản ngã và cho gây hấn tính, môn học nầy theo một chiều hướng hoàn toàn mới, khác hẳn với hình ảnh quần chúng vẫn tưởng (Phân tâm học là một lý thuyết hoàn toàn tình dục). Như vậy, phương pháp phân tâm học đúng là một « khoa khảo cổ học » về nhân cách, theo lời của Ricoeur : Sự chuyển di là sự lặp lại một xung khắc tình cảm xảy ra vào thời kỳ cổ xưa của tuổi thơ, thời kỳ thành hình guồng máy tâm linh của con người ; Sự phân tách nhằm mục đích vạch ra, đàng sau những động lực bề ngoài của hành động, những nguyên động lực sâu xa và tiềm ẩn ảnh hưởng tới sự thích nghi của mỗi cá nhân với môi trường thiên nhiên và văn hóa. Sự phân tách nầy còn phát lộ những cơ chế thúc đẩy và đàn áp, biểu hiện cho thiên nhiên và văn hóa nơi mỗi người ; Sau cùng phân tâm học còn đem tới cho chúng ta một khuôn mẫu cơ cấu (modèle structural), cung cấp cho chúng ta những niệm tưởng giúp chúng ta hiểu rõ hơn hành động của chúng ta, được quan niệm như một toàn thể có ý nghĩa. CHƯƠNG III : NHỮNG ĐỘNG NĂNG VÔ THỨC A) NGUYÊN TẮC KHOÁI LẠC VÀ NGUYÊN TẮC THỰC TẾ Theo Freud, toàn thể những thúc đẩy tâm sinh lý đều qui về một lực lượng duy nhất, đó là năng lực tình dục libido. Như vậy, năng lực libido thuộc một bản năng quan trọng nhứt trong số những bản năng, đó là bản năng tình dục. Năng lực libido là chính năng lực của sự sống, năng lực làm cho chúng ta sống, hành động, hưởng thụ, truyền chủng để tự duy trì, và tổng quát hơn nữa là cho chúng ta hoàn chỉnh sự thăng bằng bên trong của cơ thể chúng ta, bằng cách làm cho chúng ta tránh những căng thẳng đau đớn tạo nên do nhu cầu. Freud gọi là nguyên tắc khoái lạc, lực lượng thúc đẩy chúng ta thỏa mãn thường xuyên những khuynh hướng của chúng ta, sự thỏa mãn nầy luôn luôn đưa tới khoái lạc. Nguyên tắc nầy được tiếp nối bởi nguyên tắc bất biến (principe de constance), là khuynh hướng của cơ thể muốn giảm bớt những căng thẳng đau đớn giữa cơ thể và khung cảnh. Tóm lại, nguyên tắc khoái lạc và bất biến ám chỉ sự tổ chức những hành động nhằm làm giảm bớt những căng thẳng đau đớn của cơ thể, hầu tránh sự đau đớn khó chịu và nếu có thể đưa tới khoái lạc. Vả lại con người, cũng như thú vật, bị bó buộc phải thích nghi với những thực tại của thế giới bên ngoài. Trước hết kinh nghiệm thúc đẩy nó phải ức chế một vài thèm muốn, hay dời lại một vài khoái lạc nào đó. Thêm vào đó, nơi con người, đời sống xã hội làm thay đổi những thái độ tự nhiên, và biến đổi những động thái nầy tùy theo những qui phạm tập thể (những mệnh lệnh của đạo đức, tôn giáo, tập quán, pháp luật, v.v…) Vì vậy, lần hồi đứa trẻ hội nhập vào xã hội, nó tập dời sự thỏa mãn một vài thèm muốn nào đó, hay từ bỏ luôn những khoái lạc nầy. Làm như vậy nó tránh được một sự đau khổ khác, có khi đau khổ lớn hơn khoái lạc, và được sự tán đồng của gia đình, và luôn cả xã hội nữa. Như vậy, thế giới bên ngoài và những qui phạm xã hội và văn hóa của tập thể cưỡng chế nó phải từ bỏ một số thèm muốn nào đó. Nó phải từ bỏ như vậy vì nhu cầu được bảo vệ, và được người khác tán đồng. Việc từ bỏ nầy làm cho trẻ lần lần ức chế những hành động mù quáng của mình, để thay thế vào đó bằng những hành động xã hội. Lực lượng ức chế nầy làm cho trẻ tập thay đổi « những thèm muốn của mình thay vì thế giới bên ngoài » được Freud đặt cho cái tên là nguyên tắc thực tế. Dưới ảnh hưởng của nguyên tắc nầy, đối tượng của những khuynh hướng của chúng ta di chuyển, thay thế sự thỏa mãn ích kỷ và cô độc thành một sự thỏa mãn được xã hội hóa. Chẳng hạn như lúc ban đầu những khuynh hướng của chúng ta có đối tượng là hũ mứt. Sau đó chúng di chuyển, biến thành ước muốn được điểm tốt, hầu làm cho Ba Má hãnh diện. Như vậy, nguyên tắc thực tế không chống lại nguyên tắc khoái lạc, mà chỉ thay đổi tuần tự những cứu cánh của nguyên tắc nầy mà thôi. Tuy nhiên, những tiến trình vô thức thoát khỏi sự chi phối của nguyên tắc thực tế. Chính tại vì những thúc đẩy của chúng ta bị dồn nén và trở thành vô thức, mà chúng không còn chịu sự kiểm soát của óc phán đoán nữa, và đòi hỏi phải được thỏa mãn tức khắc. Khi mà những thèm muốn của chúng ta không được thực tế thỏa mãn, chúng sẽ « rút lui chiến thuật » về đời sống tưởng tượng, đời sống không thực của mơ mộng và huyền thoại. Như vậy, những thúc đẩy không được thỏa mãn trong thực tế, tìm cách khác để được thỏa mãn, thỏa mãn ảo tưởng. Thí dụ như một thanh thiếu niên không thể thỏa mãn được những thèm muốn của bản năng tình dục vừa trưởng thành của mình, tại vì thực tại xã hội chống lại sự thỏa mãn nầy, có thể tìm cách trú ẩn trong thế giới tưởng tượng. Nó có thể mơ mộng, phản kháng lãng mạn hoặc tự thỏa mãn, tóm lại nó sẽ làm những hành động « ma thuật » (magique), những hành động nầy chịu ảnh hưởng của nguyên tắc khoái lạc, và do đó của vô thức. Cũng như giấc mơ, trò chơi là một động thái ma thuật. Trò chơi thực hiện những thèm muốn của chúng ta bằng hình ảnh và sử dụng phần năng lực chưa sử dụng của bản năng. Tuy nhiên, trò chơi cũng là một ngôn ngữ chuẩn bị chúng ta vào đời sống thực tế, và chuẩn bị thăng bằng tình cảm của chúng ta. Thật vậy, trong trò chơi đứa trẻ có khuynh hướng lặp lại những biến cố đã đánh dấu nó, nếu không nói là chấn động tâm lý nó. Đó là trò chơi búp bê, trò chơi ngụy trang, v.v… lặp lại một biến cố, sống lại biến cố nầy một cách tượng trưng dưới hình thức trò chơi, bi kịch hóa, biến cố nầy theo lời những nhà phân tâm học, đó là « có thể nhờ hành động của mình mà làm chủ được những cảm giác quá mạnh do biến cố gây ra, thay vì chỉ nhận chịu biến cố, và giữ một thái độ thụ động hoàn toàn ». 26 Trò chơi cũng chuẩn bị cho sự tự xác nhận, bằng cách cho phép đứa trẻ đóng vai những gương mẫu lớn, những anh hùng cái thế. Đứa trẻ hiện thân cho anh cao bồi, cho nhà vô địch, v.v… Như vậy, trò chơi bù trừ cho sự nhỏ bé của trẻ trên phương diện tập thể, trên phương diện xã hội. Sau cùng, trên phương diện tập thể, trò chơi còn là một sự tập sự đời sống xã hội, một sự thích nghi với tâm lý người khác, vì trò chơi bó buộc trẻ phải chấp nhận « luật của trò chơi ». Dầu sao đi nữa, đời sống tưởng tượng và nhất là sự mơ mộng, tật bịa chuyện hoang đường, sự tự thỏa mãn, tất cả những cái đó đều khơi mào cho những động thái trốn chạy, dẫn tới sự không thích nghi với thực tế. Đời sống tưởng tượng cũng có thể đưa tới sự sáng tạo nghệ thuật, nếu chúng ta làm chủ được những hình ảnh thể hiện. Dầu sao đi nữa, vì đời sống tưởng tượng thể hiện đời sống thầm kín và giấu giếm cũng như thể hiện những thèm muốn của chúng ta, nên nó được những nhà Phân tâm học đặc biệt chú ý. Freud chú trọng nhiều tới những giấc mơ. Ngoài ra, ông còn nghĩ rằng tất cả những thể hiện của văn hóa đều là những cố gắng dung hòa giữa nguyên tắc khoái lạc và nguyên tắc thực tế. Chẳng hạn như Tôn giáo cố gắng làm cho chúng ta từ bỏ những khoái lạc tàn bạo, nhưng đồng thời cũng trừ bù cho chúng ta bằng cách lập ra những lễ nghi (rites), trong đó năng lực và xúc cảm tập thể được xài phí, bù trừ bằng cách làm cho chúng ta hy vọng nơi một cuộc đời mới, hoàn toàn tự do, không bị ràng buộc, không bị hạn định. Khoa học kéo chúng ta về với thực tế, nhưng đồng thời cũng để cho chúng ta hy vọng chế ngự thiên nhiên, bó buộc thiên nhiên phải tuân theo ý chí của chúng ta. Nghệ thuật là hình thức thỏa hiệp rõ ràng nhất giữa giấc mơ và thực tế. Người nghệ sĩ kéo chúng ta ra khỏi thực tại để đưa chúng ta vô thế giới tưởng tượng. Nhưng ông cũng bó buộc chúng ta phải chấp nhận một sự thể hiện mạch lạc những thèm muốn, những đam mê và những ước nguyện không được thỏa mãn. Mặt khác, nguyên tắc thực tế, khi sử dụng năng lực của chúng ta vô trong những nhiệm vụ xã hội, cũng giúp chúng ta biến đổi và tinh thần hóa những lực lượng gây hấn tính cổ xưa, đã nằm ngủ trong chúng ta từ ngàn xưa. B) BẢN NĂNG SỐNG VÀ BẢN NĂNG CHẾT Thật vậy, Freud lần lần khám phá ra rằng năng lực tình dục libido không phải chỉ gồm những bản năng thúc đẩy chúng ta muốn sống mà thôi. Ông nghĩ rằng những bản năng sống gắn bó chặt chẽ với những lực lượng gây hấn những bản năng chết ; bản năng chết có thể quay về chính chúng ta (masochisme) 27 hay quay về phía những người khác (sadisme) 28. Cuộc sống động viên năng lực của chúng ta để thỏa mãn những nhu cầu của chúng ta. Nhưng đồng thời nó cũng duy trì những nhu cầu nầy, làm cho chúng xuất hiện thường xuyên, do đó, chúng ta dễ lo âu và đau khổ. Có nhiều hình thức của lo âu và đau khổ, gắn liền với những đòi hỏi an toàn và quyền hành, không bao giờ thỏa mãn hoàn toàn được. Sống tức là phải sống những giây phút căng thẳng, không thoả mãn, và cứ như vậy lẫn lộn với nhau. Sống tức là phải tranh đấu khó nhọc để duy trì một sự quân bình mỏng manh giữa cơ thể và thiên nhiên, giữa những ước muốn của chúng ta và thực tế. Chính vì vậy mà khi sự lo âu, đau khổ, thất vọng hay thất bại làm hao mòn sinh lực của chúng ta, chúng ta lại thấy nẩy sanh trong chúng ta một sự lo sợ truyền kiếp : sợ tranh đấu, sợ cuộc sống. Lúc đó cái chết xuất hiện như là sự trở về đời sống hạnh phúc và vô thức của thai nhi, và vượt khỏi đời sống thai nhi nầy, cái chết được coi như là sự trở về thân phận bình yên và bất động của vật chất vô tri vô giác. Như vậy, trong mỗi người chúng ta, có những lực lượng chết (forces de mort) diễn tả sự nuối tiếc đời sống thai nhi trong bụng mẹ, sự rớt xuống của đà sống, luật năng lực giảm lần. Ngược lại, ý chí sống là một sự tranh đấu không ngừng chống lại những lực lượng của già yếu và chết. Chính vì vậy mà Freud nghĩ rằng nguyên tắc bất biến thúc đẩy chúng ta giảm bớt những căng thẳng, tới một mức nào đó có thể thúc đẩy chúng ta muốn chết : giết chết những thèm muốn của mình, tức là tránh được sự đau khổ không thỏa mãn được chúng. Như vậy, trong mỗi chúng ta có hai lực lượng vô thức mạnh ngang nhau chống đối với nhau : một lực lượng thúc đẩy chúng ta hành động, sống và chinh phục ; một lực lượng khác thúc đẩy chúng ta buông xuôi, tan biến và chết. Trong thực tế cả hai lực lượng nầy kết hợp với nhau một cách chặt chẽ và khó hiểu. Cả hai đều thúc đẩy chúng ta tìm kiếm trở lại một thế quân bình đã mất, một sự yên lành phát xuất từ sự thống nhất giữa chúng ta với thiên nhiên. Nhưng một lực lượng thúc đẩy chúng ta thỏa mãn những thèm muốn, còn lực lượng kia thì lại kéo chúng ta trở về với hư vô, để khỏi đau khổ. Cả hai lực lượng nầy, vừa đối nghịch với nhau, vừa đồng lõa với nhau, là nguyên nhân chánh đưa tới tánh cách lưỡng năng tình cảm (ambivalence affectice) của tâm linh con người. Ý chí muốn sống là một cái gì gây hấn, vì nó là một sự chinh phục không ngừng. Nhưng đồng thời trong sâu thẳm của tâm hồn chúng ta, bản năng chết thúc đẩy chúng ta tự làm cho mình đau đớn, làm cho gây hấn tính của chúng ta quay trở về chính mình, như là để trừng phạt mình tại sao lại muốn tiếp tục sự tranh đấu sống ; hoặc là làm như vậy bản năng chết lại muốn tránh cho chúng ta thoát khỏi những đau khổ, phát sanh từ những thèm muốn phi lý. Khi xã hội bó buộc chúng ta phải dồn nén một số những thèm muốn của chúng ta, một cách vô tình xã hội đã kêu gọi tới bản năng chết nầy, một bản năng gắn liền với đời sống xã hội. Thật vậy, đời sống tập thể luôn luôn đòi hỏi cá nhân phải chấp nhận hy sinh cho Cộng đồng. Một nền giáo dục nghiêm khắc, dựa vào những bản năng nầy, có thể đòi hỏi những hy sinh và chối bỏ, mà chúng ta sẵn sàng chấp nhận. Người ta đặt tên Eros 29 cho những bản năng sống, phát sanh nguyên tắc khoái lạc. Người ta đặt tên Thanatos 30 cho những bản năng gây hấn và chết. Cả hai bản năng Eros và Thanatos đều hướng về việc tái lập trạng thái quân bình nguyên thủy, ở đó cơ thể và thiên nhiên là một. Bây giờ chúng ta có thể hiểu rõ hơn đâu là nguồn gốc và nền tảng của tánh cách lưỡng năng tình cảm 31. Juliette Boutonnier đã định nghĩa tách cách lưỡng năng nầy như sau : « Tánh cách lưỡng năng là một sự sắp xếp những lực lượng tình cảm và hoạt động trong mỗi người chúng ta thành hai khuynh hướng đối nghịch xung khắc với nhau, hai khuynh hướng nầy sống chung với nhau ». Thật vậy, đời sống tình cảm sơ đẳng của chúng ta chịu sự chi phối của hai lực lượng đối nghịch, vừa thúc đẩy chúng ta thèm muốn, vừa thúc đẩy chúng ta sợ, vừa thương vừa ghét, vừa chiếm hữu vừa chia sẻ, vừa muốn được bảo vệ vừa muốn cai trị người khác, vừa thích mạo hiểm vừa muốn an toàn, vừa muốn bền vững vừa muốn thay đổi 32. Tình yêu con người vừa là cho vừa là chiếm hữu, hành động tình dục vừa là buông xuôi vừa là gây hấn. Tình yêu và hận thù, khuất phục và bạo động, rộng lượng và ích kỷ, tất cả đều sống chung với nhau trong phần sâu thẳm của vô thức, và được thể hiện trong hành động một cách luân phiên, làm cho thái độ của chúng ta khó hiểu vô cùng. Sự ghen tuông là một thể hiện hiển nhiên nhất cho tánh cách lưỡng năng nầy, chẳng hạn như nhân vật Phédre trong Racine. Tánh cách lưỡng năng nầy, còn được nhận thấy một cách rõ rệt nơi đứa trẻ trai, vừa thương yêu, vừa ngưỡng mộ, vừa ngại và ghen tuông với người Cha. Như vậy, đời sống tình cảm của con người được đặt trên nền tảng xung khắc, một ý niệm căn bản của Phân tâm học của Freud. Xung khắc giữa những lực lượng sống và những lực lượng chết ; xung khắc nầy còn được tăng cường trên bình diện hành động bởi sự xung khắc giữa thiên nhiên và văn hóa, hay nói cách khác, giữa những khuynh hướng nguyên khởi và những khuôn mẫu, mà đời sống xã hội bó buộc chúng ta theo. CHƯƠNG IV : THIÊN NHIÊN VÀ VĂN HÓA : XUNG KHẮC VÀ DỒN ÉP A) XUNG KHẮC GIỮA THIÊN NHIÊN VÀ VĂN HÓA Con người chỉ trở thành người với một cố gắng không ngừng để xã hội hóa. Đời sống xã hội chỉ có thể có được nếu chúng ta chịu tuân theo những khuôn mẫu xã hội, những khuôn mẫu nầy sẽ ức chế và thay đổi những thúc đẩy nguyên thủy của chúng ta. Tất cả sự giáo dục mà chúng ta nhận lãnh chỉ nhằm giải quyết sự xung khắc giữa bản tánh thiên nhiên của chúng ta, hiểu theo nghĩa toàn thể sống động những khuynh hướng, và văn hóa, cái làm nền tảng cho đời sống tập thể. Chúng ta chỉ làm chủ được những hành động của chúng ta khi mà những khuynh hướng gây hấn và những thúc đẩy tình dục của chúng ta bị ức chế, bằng cách từ bỏ một số những thỏa mãn tức thời nào đó. Sự từ bỏ nầy thực hiện như thế nào ? Sự từ bỏ nầy bắt đầu bằng sự xung khắc giữa trẻ nhỏ và ba má của nó, đòi hỏi nó phải tập kiểm soát những nhu cầu sơ đẳng của nó : nó không được ăn khi nó muốn, nó phải giữ sạch sẽ. Cắn, mút, liếm, đánh anh đánh chị trở thành những hành động cấm đoán. Nó rờ mó đủ thứ : ba má nó dạy nó có những vật không được rờ mó. Nó đập bể đồ chơi của nó : nó bị rầy la. Người ta còn cấm đoán nó những thú vui có tánh cách tình dục, mà nó tự tìm lấy. Tóm lại, đứa trẻ lúc nào cũng thấy những thèm muốn của mình đụng phải uy quyền đàn áp của Cha Mẹ. Lẽ dĩ nhiên là những đàn áp nầy được kèm theo những đền bù, nếu trẻ chịu nghe lời. Người ta sẽ vuốt ve nó, người ta sẽ khen thưởng nó. Người ta tập cho nó chấp nhận nhu cầu được tán thưởng và được thương yêu, nếu nó từ bỏ được những thèm muốn tức thời của nó. Người ta tạo nên nhu cầu thương yêu và tán thưởng nầy trong đứa trẻ, một nhu cầu chống đối hẳn với những động năng tàn bạo của nó lúc ban đầu. Ngoài ra, vì nó được cha mẹ bảo bọc, vì nó tùy thuộc cha mẹ đủ điều, nên nó lần lần bắt chước và ngưỡng mộ cha mẹ nó. Hình ảnh của Cha mẹ trở thành khuôn mẫu thường trực, thấm lần vô tâm khảm của nó. Chuyển động tiêm nhiễm những khuôn mẫu xã hội nầy, Freud gọi là nội phóng (introjection). Tuy nhiên, mặc dầu nó không ý thức, đứa trẻ cũng tạo ra một sự xung khắc giữa nó và chính nó, giữa những thèm muốn nguyên thủy của nó và hình ảnh của cha mẹ nầy, mà nó cố gắng đồng hóa để được thương yêu và tán thưởng. Lần lần, trong vô thức của trẻ, những cấm đoán, những mệnh lệnh, những ước vọng được khuôn mẫu đề nghị, được kết tinh lại thành những đòi hỏi, cũng mãnh liệt như những thúc đẩy nguyên thủy vậy. Những đòi hỏi nầy làm thành siêu ngã. B) SỰ HÌNH THÀNH SIÊU NGÃ Thật vậy, kể từ năm 1923 Freud phân biệt ba cấp, hay ba tầng trong nhân cách. Ba tầng này bình thường hội nhập vào nhau và bổ túc cho nhau vào cuối tuổi thanh thiếu niên. Nhưng chúng cũng có thể xung khắc thường trực với nhau, và như vậy phá hủy sự thống nhất của nhân cách. Ba tầng nầy là : bản năng Ça, bản ngã và siêu bản ngã hay siêu ngã. Lẽ dĩ nhiên đây không phải là ba nhân vật khác biệt nhau, mà chỉ là ba yếu tố của một kiến trúc phức tạp, là tâm linh con người : 1) Bản năng Ça Từ ngữ Ça cũng đã được Nietzsche sử dụng trước đây, và ám chỉ những lực lượng nguyên thủy của sự sống, giống nhau cho tất cả các sinh vật, người cũng như thú vật. Lẽ dĩ nhiên nơi con người, văn hóa sẽ lần lần biến đổi chúng ta. Bản năng Ça là guồng máy tâm linh dưới hình thức đầu tiên, thô sơ, chưa phân biệt (indifférencié) của thời kỳ trước khi sanh, và mới sanh. Nó hiện diện trong tất cả những hành động không suy nghĩ và vô tình của chúng ta. Những thúc đẩy của vô thức phát xuất từ bản năng Ça nầy. Bản năng Ça là thùng chứa năng lực sống, là nguồn gốc của ý chí muốn sống tàn bạo, những thèm muốn dữ dội nhất, vì vậy, nó bất cần luận lý, bất cần lẽ phải, và bất cần sự cần thiết hợp lý phải thỏa hiệp với những cưỡng chế xã hội. Nó chỉ có thể được thỏa mãn trong những hành động gây hấn và phi xã hội, hay trong thế giới hư ảo và không thật của giấc mơ, trong cuộc sống tưởng tượng. Tuy nhiên, nơi một người quân bình, năng lực mù quáng của nó được hướng dẫn và thăng hóa, nghĩa là được sử dụng phục vụ cho những cứu cánh tinh thần. 2) Bản ngã Bản ngã là sự thể hiện cá tánh tâm lý của chúng ta. Bản ngã được thành hình do sự đụng chạm của bản năng Ça với thực tế, mà bản năng nầy phải hòa hợp. Bản ngã được thể hiện trong những hoạt động ý thức, như tri giác, ngôn ngữ và những tiến trình trí tuệ, và cho phép kiểm soát những thể hiện hoạt động và ăn nói của chúng ta. Bản ngã chịu sự chi phối của nguyên tắc thực tế, và thích nghi nhân cách với khung cảnh, cũng như hòa hợp những đòi hỏi trái ngược của bản năng với bó buộc xã hội. Như vậy, bản ngã vượt khỏi sự thống nhất sinh vật của thân xác để đạt tới một sự thống nhất cao hơn, đó là sự tự chủ ý thức. Trong quyển Ma vie et le Psychanalyse. Freud có nhận xét : « Bản ngã tương tự như người cầm lái chiếc thuyền, mà không có nó người ta không thể đạt được bất cứ mục đích nào… Nó ngự trị những thúc đẩy của bản năng Ça ». Lần hồi, khi bản ngã có thể làm chủ được chính mình một cách ý thức, nó có thể điều khiển được năng lực, mà trước đây nó chỉ ngăn chận mà thôi. Lúc đó nó có thể sử dụng được năng lực nầy vào những công việc mà nó muốn làm. Người ta nói rằng nó đầu tư nguồn năng lực nầy vô những mục tiêu của nó : lúc đó sẽ không còn sự dồn nén nữa mà thay vào đó chúng ta có sự thăng hóa. Nếu sự thăng hóa nầy không thực hiện được, lúc đó sẽ có sự dồn ép những thúc đẩy phát xuất từ bản năng Ça. Tuy nhiên, nếu có dồn ép, chính bản ngã chịu thiệt thòi nhiều nhất, tại vì nguồn năng lực làm nên sức mạnh của nó lúc đó bị đẩy về vô thức, và như vậy làm giảm bớt sự thể hiện ý thức của nhân cách, do thiếu hội nhập. Do đó, hiện tượng dồn ép xuất hiện như là một cố gắng của bản ngã để trốn tránh tiến trình xây dựng nhân cách, bằng cách làm chủ được nguồn năng lực do bản năng Ça cung cấp. Freud có nói : « Khi làm công việc dồn ép, bản ngã đã tuân theo nguyên tắc khoái lạc, mà đáng lý ra nó phải thay đổi : vì vậy mà nó phải chịu hậu quả tai hại. Hậu quả là làm như vậy bản ngã đã thu hẹp rất nhiều lãnh thổ của mình… Nhưng người ta không thể nào trốn tránh chính mình mãi mãi được ». Như vậy, như chúng ta sẽ thấy, sự dồn ép là một phương tiện thiếu sót, và nguy hiểm, để giải quyết những xung khắc tâm lý. Nó tuân theo nguyên tắc cố gắng ít, nguyên tắc từ chối chiến đấu. Những yếu tố bị dồn ép vẫn gắn liền với bản ngã, nhưng gắn liền một cách bí mật và giấu giếm. 3) Siêu ngã Siêu ngã được thành hình một cách vô thức 33 do những kinh nghiệm sống của bản ngã, và nhất là do những quan hệ với cha mẹ. Đó là một biến đổi của bản ngã, do sự việc chúng ta nội tâm hóa (intériorisation) những lực lượng đàn áp, mà chúng ta đã gặp phải trong suốt tiến trình phát triển của chúng ta. Nó được thành hình từ những thời kỳ xa xôi và tăm tối của tuổi thơ. Nó xung khắc với bản ngã, bằng cách thể hiện những mệnh lệnh đạo đức dưới hình thức tình cảm đặc biệt của nó : tình cảm tội lỗi. Nó cũng đại diện cho bản ngã, được đồng hóa một cách thần diệu và ảo tưởng với bậc Cha mẹ, được lý tưởng hóa, hay đồng hóa với những giá trị hiện thân trong những người giữ chức vụ có uy quyền 34. Tuy nhiên, một cách tương đối, siêu ngã không phải là một cái gì đặc biệt của cá nhân, do sự kiện nó không được hình thành một cách tự nhiên bộc phát, mà do ảnh hưởng và áp lực của cha mẹ và xã hội, mà bản ngã phải nhận chịu. Tóm lại, siêu ngã là kết tinh của tất cả những can thiệp Giáo dục, những can thiệp nầy thường không được cá nhân am hiểu, mà còn sợ hãi nữa. Siêu ngã vẫn còn giữ một hình ảnh bi thảm, làm bối cảnh cho tình cảm tội lỗi của chúng ta do ảnh hưởng của những tác động giáo dục nầy. Nếu tác động giáo dục được điều hòa, nếu nó tìm hiểu hơn là đàn áp, thì siêu ngã sẽ lần lần « thuần tánh », và như vậy sẽ chịu sự chi phối của ý thức trách nhiệm. Nếu ngược lại, tác động giáo dục chỉ là một tiến trình đàn áp, thì siêu ngã sẽ trở thành một loại « chánh án » cứng rắn, đàn áp động năng của nhân cách nhân danh những đòi hỏi bí mật và được xác định ; trong trường hợp nầy siêu ngã vẫn duy trì mãi những nghiêm khắc khó hiểu của những dồn ép xưa cũ, và như vậy hướng những năng lực và những thèm muốn của vô thức vô những thỏa mãn tưởng tượng. 35 Có một việc quan trọng chúng ta cần phải thấy, đó là sự đồng hóa (identification) của trẻ với bậc Cha mẹ được lý tưởng hóa vẫn còn là một kinh nghiệm hàm hồ (ambigüe), kinh nghiệm nầy tăng cường tánh cách lưỡng năng tình cảm, đưa tới xung khắc giữa gây hấn tính và nhu cầu được thương yêu. Khi trẻ đàn áp những thúc đẩy « loạn xà ngầu » của mình, đó là tại nó muốn được thương yêu. Nhưng đồng thời, một cách vô thức nó vẫn thù oán cha mẹ nó về sự cưỡng chế nầy. Do đó, những quan hệ giữa cha mẹ và con cái có tánh cách lưỡng năng, yêu thương và gây hấn, ngưỡng mộ và sợ hãi, an toàn và lo âu, đó là những tình cảm chống đối nhau trong thế giới tình cảm của trẻ con. Khi mà hình ảnh của bậc Cha mẹ được nội tâm hóa tới mức trở thành những đòi hỏi của chính nó (siêu ngã), lúc đó trẻ sẽ yêu thương và ghét chính mình, cùng một lúc. Sự gây hấn tính nầy được quay về chính mình, sẽ tạo nên những tình cảm tội lỗi, như ăn năn hối hận và trừng phạt. Những tình cảm tội lỗi nầy nếu mạnh quá, sẽ xuất hiện dưới hình thức bệnh hoạn : « Trong những trạng thái mặc cảm tội lỗi nầy, cá nhân cảm thấy nhu cầu không thể cưỡng lại được, phải lên án chính mình, tự trừng phạt, đau khổ và thất bại ». 36 Freud đã nhấn mạnh nhiều lần đến sự kiện guồng máy tâm linh gồm ba cấp, chỉ xuất hiện tuần tự mà thôi, mỗi cấp đánh dấu một giai đoạn trong sự tiến triển tâm linh của trẻ con. Theo Freud trong quyển Abrégé de Psychanalyse : « Vùng tâm linh, hay cấp tâm linh xưa cũ nhất là bản năng Ça. Nội dung của bản năng nầy là tất cả những gì con người mang theo khi mới sanh, tất cả những gì được xác định một cách bẩm sanh, như vậy, trước hết là những thúc đẩy phát xuất từ guồng máy thân xác ». Trong quyển Essais de Psychanalyse, Freud còn nói thêm : « Về phần bản ngã, nó là một phần của bản năng Ça đã bị thay đổi nhiều, dưới ảnh hưởng trực tiếp của thế giới bên ngoài, và qua trung gian của ý thức tri giác ». Như vậy, bản ngã xuất hiện khi bắt đầu có ảnh hưởng của thế giới bên ngoài, nhưng nó chỉ mạnh thật sự, nghĩa là có thẩm quyền, khi trẻ có thể « kiểm soát được hành động ý chí của mình ». Bản ngã được thành hình từ từ trong giai đoạn giữa thời kỳ miệng và thời kỳ hậu môn. Một mặt, bản ngã có nhiệm vụ làm trung gian trong những tương quan giữa cá nhân và thế giới bên ngoài (phần vụ bảo tồn : đánh giá những kích thích ; phần vụ ký ức : ghi nhận những kỷ niệm, học tập ; phần vụ lẩn tránh : thích nghi với những kích thích, việc nầy giúp tránh những căng thẳng quá lớn). Nhưng mặt khác, bản ngã cũng có nhiệm vụ qui định những thúc đẩy bên trong, thiết lập việc kiểm soát những đòi hỏi của bản năng, quyết định thưởng hay ức chế, tùy theo nguyên tắc thực tế. Người ta có thể nghĩ rằng những phần vụ nầy, những phần vụ điều hòa, những vụ thúc đẩy của bản năng, phát triển mạnh nhất trong thời kỳ xuất hiện mặc cảm Œdipe, thời kỳ siêu ngã được thành hình, khi mà những can thiệp giáo dục không còn là cưỡng chế bên ngoài nữa để trở thành cưỡng chế từ bên trong, do sự phóng nội (introjection). Như vậy, những phần vụ của bản ngã rất nhiều : vì là một phần tâm linh có nhiệm vụ hội nhập, làm sự tổng hợp điều hòa giữa những đòi hỏi bên ngoài và bên trong, bản ngã có nhiệm vụ phải giải quyết những quan hệ giữa bản năng Ça và siêu ngã, giữa khoái lạc và thực tế, giữa thiên nhiên và văn hóa, giải quyết bằng cách « làm chủ » thân xác và tình cảm. Muốn hoàn thành những phần vụ nầy, bản ngã có một yếu tố riêng, đó là những tiến trình tiềm thức, thiết lập những phản ứng tự vệ chống lại bản năng Ça. Muốn tự vệ chống lại những đòi hỏi của bản năng, bản ngã phải sử dụng những cơ chế tự vệ, nhưng một cách vô tình và vô thức. Tuy nhiên, đôi khi những cơ chế nầy cũng xuất hiện trên bình diện ý thức, dưới hình thức lo âu. Vai trò của bản ngã rất phức tạp, vì một mặt nó phải tự vệ chống lại những thúc đẩy của bản năng, mặt khác nó phải thu hồi những năng lực nầy, hầu sử dụng vô những mục tiêu mới, vô những hoạt động văn hóa (chuyển di và thăng hóa). Bản ngã có nhiệm vụ nghiên cứu mục tiêu. Trong thực tế, Freud không bao giờ xác định rõ ràng sự khác biệt giữa ý niệm dồn ép và ý niệm cơ chế tự vệ, vì vậy, người ta tưởng có thể định nghĩa sự dồn ép như là một trong những cơ chế tự vệ. 37 Tuy nhiên, chúng ta nhận thấy qua những lời dẫn giải ở trên, rằng bản ngã là môi trường của những tiến trình có thể trở thành ý thức, nhưng không phải tất cả đều được ý thức. Khi xâm nhập vô bản ngã, những yếu tố của bản năng Ça có thể ở lại đây dưới hình thức tiềm thức, do sự hiện diện của cơ chế kiểm duyệt và dồn ép. Tuy nhiên, Freud xác định có hai trình độ của sự kiểm duyệt. Trình độ thứ nhất ở vô thức và tiềm thức ; trình độ thứ nhì ở giữa tiềm thức và ý thức, và ngăn cản một số những yếu tố tiềm thức nào đó không được thể hiện trong ý thức. Những cơ chế tự vệ của bản ngã thuộc trình độ thứ hai nầy. Dầu sao đi nữa, chúng ta nên tránh, không lẫn lộn bản ngã với ý thức. Ý thức chỉ là một trong nhiều phần vụ của bản ngã mà thôi. Theo V. Smirnoff : « Thật là một lầm lẫn lớn lao, nếu chúng ta tưởng rằng sự phân chia giữa ý thức và vô thức phù hợp với sự phân biệt giữa bản ngã và bản năng Ça ». Chúng ta cũng nên duy trì sự phân biệt căn bản giữa sự từ bỏ, một tiến trình ý thức, và những cơ chế tự vệ, mà đặc biệt là sự dồn ép, là những tiến trình vô thức hay tiềm thức. Một sự tiến triển bình thường của nhân cách trẻ con phải giúp trẻ chuyển từ sự dồn ép sang sự từ bỏ. Từ bỏ là một hiện tượng phát xuất từ lý tưởng của bản ngã, nó là một ý thức đạo đức thật sự bao gồm những đòi hỏi sáng suốt. Như vậy, ảnh hưởng của gia đình và xã hội phải làm thế nào cho trẻ chịu chấp nhận lần lần rằng tình thương là một hình thức lệ thuộc, một sự lệ thuộc bao hàm sự từ bỏ, nhưng là một sự từ bỏ được đền bù bằng một niềm vui trong sạch hơn, mãnh liệt hơn là khoái lạc ích kỷ. Nếu không có sự từ bỏ nầy, nhân cách sẽ trở thành bất lực không cảm thông được, không chấp nhận đối thoại, không chấp nhận hy sinh chính mình, do đó, chúng ta chỉ sống cô độc một mình mà thôi, cô độc và vong thân (aliénation). C) SỰ DỒN ÉP Chúng tôi vừa nói tới sự từ bỏ. Sự từ bỏ nầy không nên được thực hiện mãi trên bình diện vô thức. Nó cũng không nên đòi hỏi nhiều quá, hay tàn bạo quá. Một nền giáo dục quá nghiêm khắc sẽ làm chấn động tâm lý trẻ, sẽ làm cho nó nghĩ rằng nó là người có tội, sẽ phân tán nhân cách của nó giữa một siêu ngã đòi hỏi nhiều quá, và những thèm muốn mà nó sợ không dám nhìn nhận là của mình. Thế nhưng, thật là nguy hiểm khi chúng ta sống trong sự thù nghịch chính mình, đó là nguồn gốc của tất cả những xáo trộn tâm linh, đi từ mặc cảm tới những hành động điên cuồng. Những từ bỏ mà người ta bó buộc trẻ phải làm, lại càng khó thực hiện hơn nữa, nếu người ta đòi hỏi như vậy trong thời thơ ấu của trẻ, trong một giai đoạn ở đó nó không thể hiểu được giá hay mục tiêu của sự từ bỏ. Lúc đó những từ bỏ sẽ mang hình thức những hành động tự động và tàn bạo, được thực hiện dưới sự đe dọa : như vậy sự từ bỏ biến thành sự dồn ép. Nếu không có sự chấp nhận sâu xa và tự do, những từ bỏ nầy sẽ làm phát triển tình cảm thất vọng (frustration) thay vì làm nẩy nở nhân cách một cách phong phú. Khi trẻ thấy mất một thỏa mãn mà nó nghĩ là chánh đáng, nó sẽ tưởng tượng như bị đàn áp một cách bất công, điều nầy làm gia tăng gây hấn tính của nó. Khi gây hấn tính nầy xung khắc với tình thương đối với Cha mẹ, đứa trẻ sẽ ức chế nó đi, và như vậy làm nẩy sanh mặc cảm tội lỗi. Lúc đó, gây hấn tính bị dồn ép nầy sẽ được thể hiện trong những hành động thoái hóa. Thoái hóa là trở về những hành động xưa cũ của những giai đoạn trước. Chẳng hạn như một đứa trẻ bị rầy la hay ghen tuông với em trong nhà, bắt đầu đái dầm trở lại, hay cắn móng tay (đây là một hành động thể hiện gây hấn tính), hay nói cà lăm, nói lấp bấp như trẻ nhỏ. Đối với người lớn, những hành động thoái hóa nầy là những thể hiện đầu tiên của sự thất vọng, những thèm muốn bị dồn ép. Bây giờ chúng ta có thể hiểu rõ hơn mối tương quan giữa sự dồn ép và cơ chế kháng cự. Cơ chế kháng cự là một sự ức chế phát xuất từ siêu ngã, ngăn cản chúng ta ý thức về những gì bất thường trong hành động, và nhất là ý thức nguồn gốc của những mặc cảm của chúng ta 38. Một cách vô thức, người có mặc cảm muốn tránh sự lo âu có thể phát sanh nếu những xung khắc riêng tư được ý thức, chính vì vậy mà nó loại bỏ một cách vô thức và dứt khoát tất cả những gì liên quan tới những hình ảnh, những lời nói, những biến cố có thể làm cho nó nhớ lại những xung khắc xưa cũ. Như vậy, sự kháng cự là một tiến trình tự vệ của tâm linh nhằm mục đích tiêu diệt những xung khắc giữa những thúc đẩy của bản năng và những đòi hỏi của siêu ngã. Thường thường sự kháng cự nầy được tổ chức bởi những tập quán xã hội, những tập quán nầy nhân danh đạo đức và thuần phong mỹ tục để cấm đoán cá nhân nói lên những xung khắc. Sự kiểm duyệt của siêu ngã không những chận đứng những thúc đẩy không phù hợp với đời sống cộng đồng, mà còn chận đứng sự ý thức những biến cố, trong đó, những hành động bị cấm đoán được dồn ép. Chính sự kháng cự nầy ngăn cản sự phân tách tâm linh sâu xa và những cơ chế của nó, bằng những phương tiện thông thường như nội quan và ý thức phản tỉnh. Như vậy, sự kháng cự nầy nhằm bảo vệ sự hòa hợp bề ngoài và tạm bợ, mà đời sống xã hội và giáo dục xây dựng. Dồn ép và kháng cự chỉ là hai khía cạnh của cùng một lực lượng ức chế và đàn áp, muốn loại ra khỏi ý thức chúng ta những thúc đẩy và những xung khắc mà những thúc đẩy nầy tạo nên, khi chống đối thường xuyên với bản ngã xã hội của chúng ta. D) MẶC CẢM Trong thực tế, sự dồn ép và sự kháng cự, mà người ta có thể gọi là những lực lượng kiểm duyệt, là nguồn gốc của những mặc cảm. Mặc cảm được thành hình từ những khuynh hướng vô thức của chúng ta. Những khuynh hướng nầy không bao giờ thỏa mãn được, tại vì bị dồn ép thường xuyên trong một bầu không khí tội lỗi, nên sau cùng tạo nên một xung khắc, một cuộc nội loạn giữa bản ngã được biết và phần không được biết nầy của chính chúng ta : đó là vô thức của chúng ta, hiện hữu như là « một quốc gia trong một quốc gia ». Mặc cảm là một toàn thể. Thật vậy, mặc cảm là toàn thể những thèm muốn phát xuất từ những thúc đẩy bị dồn ép, những xúc cảm đau đớn gắn liền với những thèm muốn không được thỏa mãn nầy, những hình ảnh gắn liền với những xúc cảm, tóm lại, đó là một toàn thể những thái độ mâu thuẫn và vô thức, nhưng làm nên một hệ thống tư tưởng, hay nói đúng hơn một cơ cấu tình cảm. Chúng tôi vừa nói tới những thái độ mâu thuẫn. Sở dĩ mâu thuẫn vì một mặt những thái độ nầy diễn tả những thèm muốn sâu xa, mặt khác, những thèm muốn nầy gợi lại sự cấm đoán thực hiện, gợi lại sự trừng phạt đạo đức nếu chúng được thực hiện. Người ta luôn luôn tìm thấy cơ cấu lưỡng năng ở nền tảng của những thái độ mặc cảm : khoái lạc – đau khổ, thương yêu – thù hận, thu hút – xô đẩy, đó là những cơ cấu mà chúng ta đã nghiên cứu ở phần trên. Như vậy, những mặc cảm là kết quả của sự xung khắc thường trực giữa bản tánh tự nhiên của chúng ta và nền văn hóa trong đó chúng ta sống. Nền văn hóa nầy đưa ra những mệnh lệnh xã hội và văn hóa (socio-culturel) để chống lại những thúc đẩy tình dục và gây hấn của chúng ta. Những thái độ tình cảm này có tánh cách vô thức, tại vì chúng luôn luôn bị cơ cấu kháng cự đẩy ra khỏi khu vực ý thức. Cơ cấu kháng cự nầy do xã hội và cá nhân thiết lập nhằm tránh cho chúng ta khỏi lo âu, sự lo âu nầy là kết quả của sự xung khắc giữa thiên nhiên và văn hóa, cũng như là kết quả của những từ bỏ mà xung khắc nầy đòi hỏi. Như vậy, mặc cảm là những hiện tượng bình thường chớ không phải là bệnh hoạn, như người ta thường tưởng. Tuy nhiên, mặc cảm cũng có thể tạo nên sự mất quân bình và những thái độ bệnh hoạn, nếu chúng ta cứ tiếp tục từ chối chấp nhận sự lo âu của chính chúng ta, hoặc nếu chúng ta cứ mải mê với sự bình an và sự quân bình giả tạo do cơ cấu kháng cự thiết lập, cứ lựa chọn lối thoát của vô thức, mà không chịu khám phá những thúc đẩy sâu xa của chúng ta, để có thể « làm chủ » được chúng, và đầu tư nguồn năng lực nầy vô trong những hành động của người lớn, trưởng thành. Sự kháng cự là một thái độ trốn tránh vô thức trước trách nhiệm của chúng ta đối với bản tánh thiên nhiên của chúng ta. Không có một hành động nào thật sự trưởng thành có thể được xây dựng trên những thái độ trốn tránh nầy trước thực tế. Thông thường mặc cảm được vượt khỏi khi đứa trẻ, hay người thanh thiếu niên, hay người lớn hiểu và chấp nhận mình có những xung khắc giữa bản tánh tự nhiên của mình và những đòi hỏi của đời sống xã hội và đạo đức. Trên phương diện nầy, trách nhiệm của bậc cha mẹ và của những nhà giáo thật lớn lao : Họ có nhiệm vụ phải hiểu đứa trẻ, thay vì cấm đoán nó một cách tàn bạo. Họ phải dạy cho trẻ hiểu rằng biết mình quan trọng hơn là thù ghét chính mình. Danh dự lớn lao nhất của một người nằm ở chỗ nó có thể tự biết mình. Chúng ta hãy lấy một thí dụ : một đứa trẻ thích nhìn ngắm và rờ mó một vài phần nào đó trong thân thể của nó. Khi nó làm như vậy, nó hoàn toàn xa lạ với một nền đạo đức mà nó không ngờ hiện hữu ; nó chỉ tuân theo sự thúc đẩy của một bản năng tình dục tản mác và vô thức mà thôi. Lúc đó bậc cha mẹ sẽ làm gì ? Hoặc là họ cấm đoán hành động của trẻ, và đe dọa trừng phạt nầy nọ, mà không giải thích tại sao. Đứa trẻ sẽ không hiểu gì hết, nhưng vì nó sợ cha mẹ, và vì một tình cảm tội lỗi tản mác (culpabilité diffusé), nó cũng sẽ tuân theo lệnh của cha mẹ, như là một con thú sợ bị đánh đập. Lúc đó đứa trẻ sẽ dồn ép những thúc đẩy bản năng của mình một cách tàn bạo. Hoặc là bậc cha mẹ cố gắng đưa ra những lý lẽ hợp lý, tùy theo tuổi của đứa trẻ, để giải thích cho nó hiểu thúc đẩy tình dục là gì, và tại sao chúng ta phải « làm chủ » những thúc đẩy nầy, hầu có thể tiến tới sự điều hòa giữa nhu cầu và tình cảm. Làm như vậy bậc cha mẹ có thể tránh được tình cảm tội lỗi của trẻ, khi nó bị đàn áp một cách quá tàn bạo, mà không hiểu tại sao. Khi được giải thích như vậy, trẻ không sợ cha mẹ, không cảm thấy tội lỗi, và như vậy sẽ cố gắng hành động phù hợp với cha mẹ, mà nó ngưỡng mộ và thương yêu, và lần hồi nó sẽ tập hiểu biết chính mình nhiều hơn, và tự chủ hơn thay vì khinh khi chính mình. Nếu một nền giáo dục hiểu biết (éducation compréhensive) đã làm tròn được nhiệm vụ của mình. Siêu ngã lúc đó sẽ bao gồm những giá trị được nhìn nhận và thèm muốn một cách ý thức. Sự phát triển những tình cảm sẽ hướng dẫn khuynh hướng vào những thăng hóa (sublimation) cần thiết cho sự quân bình của nhân cách. Tình cảm là yếu tố nằm chính giữa những thúc đẩy của thân xác và những ước nguyện của tinh thần. Tình cảm nối tiếp xúc cảm, mặc dầu không dữ dội bằng. Như vậy, một sự giáo dục tình cảm có thể giúp cho những khuynh hướng sâu xa được thể hiện, nhưng hướng về những giá trị lấy trong kinh nghiệm của Gia đình và Cộng đồng. Lúc đó, những tình cảm là những động năng ý thức, được quan niệm như là một kinh nghiệm đầu tiên về giá trị, nhờ vậy, những thúc đẩy của bản năng được trong sạch hóa, thay vì bị đàn áp và dập tắt. Cơ chế dồn ép tàn bạo sẽ nhường chỗ cho một tinh thần trách nhiệm của người lớn. Về phương diện nầy, bầu không khí trong gia đình là một yếu tố quyết định. Sự hiểu biết của bậc Cha mẹ quân bình, không sử dụng những phương tiện sợ hãi để bắt nạt đứa trẻ, mà ngược lại, kêu gọi sự hợp tác của trẻ, sẽ giúp đem lại cho trẻ một cảm giác an toàn, và như vậy, giúp nó vượt khỏi những giai đoạn mặc cảm một cách tốt đẹp. Điều quan trọng là bậc Cha mẹ phải cố gắng « làm chủ » được những dồn ép của chính họ, và sự xấu hổ của họ đối với bản chất tự nhiên của họ. Những người lớn bị dồn ép sẽ chuyển sự dồn ép của mình cho con cái, và như vậy, một cách vô tình tạo nên nơi con cái của mình những lo âu, và mặc cảm tội lỗi trước một số hoàn cảnh nào đó, những hoàn cảnh nầy sẽ làm cho trẻ không còn tự chủ được nữa, không kiểm soát được thái độ của mình. Những sợ hãi, những ghen tuông, những hành động tình dục của trẻ, mà bậc Cha mẹ đã đàn áp, thay vì có thái độ hiểu biết, sẽ tạo nên những hình ảnh đầy xúc cảm, làm kết tinh lại trong vô thức của trẻ những đoạn quá khứ liên hệ tới những hoàn cảnh đau đớn nầy. 39 Những đoạn quá khứ nầy bị dồn ép, chứa đầy những xúc cảm đau đớn, thay vì tan biến trong sự quên lãng, sẽ ngưng đọng trở lại, và làm sống lại thường xuyên sự xung khắc và những hình ảnh gắn liền với sự xung khắc nầy. Tuy nhiên, chính tại vì những chấn động tâm lý xưa cũ bị dồn ép, mà chúng vẫn luôn luôn sống động, và được thể hiện trong những hành động khó hiểu, mà ý nghĩa vượt khỏi người làm những hành động nầy. Thật vậy, những mặc cảm là nguyên nhân chính của hiện tượng ngưng đọng (fixation) và thoái hóa tình cảm. Cơ chế ngưng đọng dựa trên giả thuyết về sự dồn ép, theo đó sự dồn ép, tạo cho chúng ta khuynh hướng lặp lại suốt cuộc đời chúng ta hành động thất bại, do những chấn động tâm lý thời thơ ấu tạo nên. Chẳng hạn như một người lớn muốn giải thoát sự lo âu do một vài biến cố nào đó tạo nên, trở về với hành động của thời thơ ấu, mà người đó khi còn nhỏ thường làm, thái độ tự trừng phạt sau khi đã lầm lỗi. Dưới bề ngoài vô nghĩa của hành động nầy, người lớn đã tìm lại những tình cảm tội lỗi của thời thơ ấu. Có khi muốn giải quyết một sự xung khắc, đứa trẻ lại gắn bó một cách bất thường với một người nào đó trong khung cảnh bao quanh nó (chẳng hạn như một con búp bê, một cái mền cũ). Một đứa trẻ trai không tìm thấy nơi người Cha tất cả sự trìu mến mà nó mong muốn, hay không còn người Cha để yêu thương nó, có thể sẽ gắn bó quá nhiều với bà Mẹ. Sự gắn bó nầy thật ra chỉ là gắn bó với một bầu không khí đồng lõa, yêu thương, trìu mến, một bầu không khí bảo vệ nó quá mức, làm cho nó mất khả năng tự mình tự mình đương đầu với những khó khăn của cuộc sống. Sự gắn bó nầy có thể kéo dài ra khỏi tuổi thơ, và nếu người thanh thiếu niên không vượt khỏi được tình trạng nầy, sau nầy khi nó trưởng thành, mỗi khi nó thất bại, nó sẽ có khuynh hướng tạo lại một cách vô thức bầu không khí thời thơ ấu. Chẳng hạn như có một vài người đàn ông trưởng thành yêu thương Mẹ. Mối tình của những người nầy lặp lại thời thơ ấu của họ với người Mẹ mà họ đã gắn bó quá mức. Như vậy, họ vẫn tìm kiếm một cách vô thức bầu không khí yêu thương xưa cũ của họ và bà Mẹ. Tóm lại, đời sống tình cảm của họ vẫn mang những hình thức ấu trĩ, và vì vậy, không đạt được sự trưởng thành bình thường. Đa số những người không giải quyết được những xung khắc tình cảm của mình trong bầu không khí yên lành và hiểu biết của gia đình, mỗi khi gặp phải những hoàn cảnh khó khăn, làm cho họ phải đương đầu với thực tế và chính họ, đa số những người nầy sẽ có những thái độ đặc biệt thuộc bình diện tình cảm ấu trĩ trước đây. Như chúng ta thấy, sự ngưng đọng và gắn bó đưa tới hậu quả tai hại là sự thoái hóa. Việc làm sống lại những tình cảm xưa cũ nầy được nhận thấy rõ ràng nhất trong những giai đoạn khó khăn của cuộc đời. Vì cảm thấy bất lực, không giải quyết được những xung khắc của mình trước những hoàn cảnh làm chúng sống lại, một vài người sẽ lựa chọn thái độ trốn tránh khó khăn, bằng cách làm những hành động tượng trưng cho thời ấu trĩ. Chẳng hạn như trong những hoàn cảnh bi thảm, thay vì hành động, lấy những quyết định, nhận lãnh trách nhiệm, chúng ta lại trốn chạy, bằng những phản ứng xúc cảm mà chúng ta không làm chủ được : nóng giận, khóc than, đau yếu, suy nhược, v.v… Những hành động nầy tương tự như hành động của trẻ con, trốn tránh thực tế phũ phàng hay không chịu được, và ẩn náu hoặc dưới sự bao bọc của người lớn, hoặc trong những hành động ảo tưởng, như huyền thoại và giấc mơ. Trong thực tế một vài người tự xưng là người lớn, khi cảm thấy bất lực không giải quyết được những xung khắc của mình, những xung khắc được sống lại trong những hoàn cảnh khó khăn, lại tìm cách lẩn trốn trong sự bao bọc của những người lớn khác hay trong giấc mơ, huyền thoại, hay trong một cuộc sống tưởng tượng. Trong quyển Principes de Psychanalyse, E. Alexander có viết : « Freud khám phá rằng trực diện với những hoàn cảnh khó khăn, mới mẻ hay đầy lo âu, những thể thức hành động trước đây có khuynh hướng xuất hiện trở lại. Ông gọi cơ chế nầy là sự thoái hóa, một trong những yếu tố căn bản trong tâm bệnh lý học ». Như vậy, sự thoái hóa nhằm mục đích đem tới một sự bù trừ tưởng tượng cho sự mất mát và thất vọng, khi chúng ta thất bại trên bình diện thực tế. Thật ra, sự bù trừ nầy chỉ thỏa mãn những khuynh hướng của chúng ta một cách tượng trưng mà thôi, nghĩa là thỏa mãn một cách tưởng tượng, điều nầy ngăn cản chúng ta đương đầu và thích nghi với thế giới và với người khác. Bây giờ chúng ta mới thấy sự phân tách của Freud hết sức là mạch lạc : con người tự nhiên của chúng ta, khi đụng chạm với những khuôn mẫu của nền văn hóa trong đó chúng ta sống, sẽ bó buộc chúng ta từ bỏ một số điều, việc đó có thể dẫn tới sự dồn ép. Những dồn ép nầy là nguyên nhân của sự ngưng đọng và thoái hóa tình cảm, mà hậu quả là chúng ta mất quân bình, và do đó, có những hành động không thích nghi. Chúng ta không thể biết được ý nghĩa cũng như nguồn gốc của sự không thích nghi nầy, vì cơ chế kháng cự ngăn cản chúng ta ý thức được chúng. CHƯƠNG V : SỰ THÀNH HÌNH NHÂN CÁCH THEO FREUD A) LÝ THUYẾT NHỮNG GIAI ĐOẠN VÀ NHỮNG VÙNG NHẠY CẢM (ZONES ÉROGÈNES) Sự khám phá và sự thám hiểm vô thức sẽ dẫn Freud tới chỗ nghĩ rằng trong số những thúc đẩy bản năng bị những qui phạm (normes) xã hội và văn hóa dồn ép, những thúc đẩy tình dục quan trọng hơn cả. Ngoài ra, Freud còn xác nhận rằng tình dục ảnh hưởng mạnh đến chúng ta trong suốt cuộc đời của chúng ta, và đặc biệt là trong thời thơ ấu của chúng ta. Sự xác nhận nầy của Freud về đời sống tình dục của trẻ con làm cho dư luận xôn xao phản đối. Nhưng, để hiểu rõ hơn về tư tưởng của Freud, và sự khám phá mới mẻ của ông, chúng ta cần phân biệt kỹ lưỡng hai địa hạt, địa hạt tình dục và địa hạt sinh dục (génital). Tình dục (sexualité) là một cơ cấu tình cảm toàn diện, hiện diện trong chúng ta từ khi mới sanh cho tới khi chết. Trong lúc đó sinh dục chỉ là một nhiệm vụ, một phần vụ của cơ cấu nầy. Sinh dục chỉ là sanh con đẻ cháu, tóm lại, chỉ có nhiệm vụ truyền chủng mà thôi. Tình dục rộng rãi hơn nhiều : « Nó là một toàn thể xúc cảm và tri giác, có thể đạt tới tột đỉnh trong hành động truyền chủng, nhưng có nhiều thể hiện rất khác biệt nhau ». 40 Cũng trong chiều hướng nầy, Freud có viết : « Tình dục có thể được tách rời khỏi sự quan hệ quá chặt chẽ giữa nó và những cơ quan sinh dục. Tình dục được quan niệm như một hành động thân xác bao gồm cả con người chúng ta, và hướng về khoái lạc, hành động nầy đôi khi phục vụ cho sự truyền chủng, nhưng điều nầy chỉ phụ thuộc mà thôi ». Giả thuyết của Freud là toàn thể những thúc đẩy tình dục (mà ông gọi là libido) sẽ biến đổi suốt thời thơ ấu của chúng ta, và mỗi lúc lại hướng về một vùng nào đó trong thân thể ; tới khi chúng ta trưởng thành, tình dục và sinh dục mới phù hợp với nhau. Như vậy, đời sống tình dục không bắt đầu vào lúc chúng ta dậy thì, mà bắt đầu từ thời thơ ấu. Khuynh hướng tình dục giống như tất cả những khuynh hướng khác : nó hiện hữu từ khi chúng ta mới sanh, chớ không phải xuất hiện bất ngờ vào tuổi dậy thì mà không có dấu hiệu báo trước. Tuổi dậy thì chỉ là một giai đoạn tâm sinh lý mà thôi, giai đoạn ở đó khuynh hướng tình dục hướng về một mục tiêu mới. Chính vì vậy mà Freud đã cố gắng phác họa trở lại sự hình thành những giai đoạn, mà thông thường mỗi người phải trải qua. Khám phá căn bản của ông là có những vùng nhạy cảm. Vùng nhạy cảm là những vùng trong thân thể chúng ta, ở đó, trong một giai đoạn nào đó của tiến trình phát triển, chúng ta cảm thấy khoái lạc khi được kích thích. Toàn thể thân thể chúng ta đều có thể mang tới cho chúng ta những cảm giác sung sướng, nhưng một vài vùng nào đó nhạy cảm hơn, khoái lạc nhiều hơn. Freud nghĩ rằng tình dục tiến triển qua nhiều giai đoạn, mỗi giai đoạn gắn liền với một vùng khoái lạc nào đó, tất cả những giai đoạn nầy đều có tánh cách chuyển tiếp tạm bợ, tương tợ như những giai đoạn thay hình đổi dạng của con sâu thành bươm bướm. Những giai đoạn nầy có thể lâu hay mau, trong đó, tình dục phát triển những thể hiện vận động và tình cảm, tạo nên những động thái luyến ái, gắn liền với những vùng khác nhau, qui tụ năng lực tình dục, cho tới khi chúng ta trưởng thành. Trong những giai đoạn tiến triển nầy, tình dục và tình cảm của trẻ lúc ban đầu sẽ qua một giai đoạn tự thỏa mãn (auto-érotisme), trong đó, trẻ hướng về chính mình để tìm sự thỏa mãn (bú ngón tay, lắc lư thân mình, thủ dâm…) Sau đó, lần lần trẻ hướng về người khác để mưu tìm sự thỏa mãn (hétéro-érotisme). Trong những giai đoạn nầy, hoạt động tình dục và sự nhạy cảm tình cảm của trẻ hướng về người khác. Trẻ biết từ bỏ một số chuyện, để chinh phục, đương đầu và cảm thông với người khác. B) GIAI ĐOẠN TỰ THỎA MÃN Giai đoạn nầy gồm hai thời kỳ : thời kỳ miệng và thời kỳ hậu môn. 1) Thời kỳ miệng Thời kỳ miệng nguyên thủy phù hợp với 6 tháng đầu tiên trong cuộc đời chúng ta. Trong thời kỳ nầy, miệng là một vùng khoái lạc quan trọng nhất, đồng thời cũng là phương thức đầu tiên để tới gần và liên lạc với thế giới bên ngoài. Liên lạc bằng cách đem vô thân xác. Bú là một khoái lạc. Trẻ bú vú mẹ, bú ngón tay, và bú nhiều vật khác như đồ chơi, v.v… Thật vậy, trong khi thiếu thốn và chờ đợi vú mẹ hay chờ đợi bình sữa, trẻ bú ngón tay cái của mình, đôi khi bú chân, và làm như vậy nó cảm thấy vui sướng và thỏa mãn. Thời kỳ miệng có thể kéo dài thêm từ 6 tháng cho tới khoảng 8 tháng. Vì răng bắt đầu mọc, nên đứa trẻ khi thì cắn khi thì bú. Trẻ thích cắn, cảm thấy khoái lạc khi cắn một cái gì. Những cử động có tánh cách giác quan và vận động phát triển, làm cho trẻ càng lúc càng « cắn » nhiều hơn thực tại. Nhưng cũng chính vào thời kỳ nầy mà trẻ đương đầu với những thực tế phũ phàng đầu tiên và những cấm đoán đầu tiên : những kinh nghiệm đau đớn như té, phỏng tay, v.v… những lời rầy la đầu tiên. Như vậy, nguyên tắc thực tế bắt đầu xuất hiện trong vũ trụ tâm lý của nó, thích nghi hành động của nó với những đòi hỏi thực tế. Vào lúc nầy, trẻ tập dời lại sự thỏa mãn một nhu cầu nào đó, hoặc nếu cần từ bỏ một khoái lạc tức thời nào đó, để tránh đau khổ sau đó, hoặc để được cha mẹ mỉm cười hài lòng. Liên hệ với người khác phát triển. Việc dứt sữa, sự thay thế thức ăn cứng với thức ăn lỏng, những cơn đau răng đầu tiên, tất cả đều góp phần ảnh hưởng tới đời sống tình cảm của trẻ. Chúng ta nên ghi nhận thêm rằng vào thời kỳ nầy, sự hiện diện của người Mẹ, hình ảnh của bà Mẹ, mà trẻ có thể thấy được, và rờ được, sự hiện diện nầy cần thiết cho sự nẩy nở điều hòa của Trẻ. Đối với nó, bà Mẹ là nguồn gốc của sự thỏa mãn, no nê, vui sướng, an toàn. Tuy nhiên, nếu thời kỳ nầy kéo dài quá lâu (trường hợp dứt sữa quá trễ), trẻ sẽ bị ngưng đọng trong thời kỳ miệng nầy, làm cho sự phát triển tâm lý của nó chậm lại. 2) Thời kỳ hậu môn Thời kỳ nầy kéo dài từ khi trẻ lên hai, cho tới khi nó được bốn hoặc năm tuổi. Vào năm lên hai, những biến đổi tuần tự của thức ăn cho trẻ phù hợp với một loạt những kinh nghiệm tự thỏa mãn, làm cho năng lực tình dục của trẻ gắn liền với bộ phận đi ngoài. Trẻ lại càng chú trọng nhiều hơn nữa tới bộ phận nầy, vì Ba má nó khuyến khích nó, muốn nó kiểm soát được vấn đề đi ngoài, và trở thành sạch sẽ hơn. Chính vì vậy mà thời kỳ nầy được gọi là thời kỳ hậu môn. Càng lúc sự cưỡng chế của thực tế xuất hiện càng rõ ràng hơn, dưới ảnh hưởng của bậc cha mẹ, muốn rằng con cái mình phải điều khiển và tự chế trong việc đi ngoài và sạch sẽ hơn. Nhân cơ hội những cố gắng giáo dục đầu tiên nầy, trẻ mới khám phá ra trò chơi tự thỏa mãn bằng cách giữ phân lại một thời gian, giữ lại như vậy để cảm thấy sung sướng khoái lạc. Trên phương diện tình cảm, sự việc trẻ làm chủ được những cử động của mình, làm cho nó có thể lựa chọn một trong hai đường sau đây, hoặc là thỏa mãn người lớn, bằng cách tuân theo những mệnh lệnh của họ về vấn đề sạch sẽ, hoặc là chống lại người lớn, bằng cách cố tình làm dơ quần áo và giường chiếu. Cũng trong giai đoạn nầy, chúng ta thấy xuất hiện những thể hiện đầu tiên của gây hấn tính của trẻ. Giữ mình cho sạch sẽ là nhượng bộ đầu tiên của trẻ đối với bậc Cha mẹ, nhưng nó vẫn luôn luôn sẵn sàng bãi bỏ sự nhượng bộ nầy nếu nó cảm thấy mất mát, thất vọng (chẳng hạn như khi nó có em), để cho Cha mẹ nó săn sóc nó trở lại, và chú ý tới nó như xưa. Như vậy, đây là một thời kỳ chống đối mà trẻ phải trải qua, và thái độ chống đối lì lợm của nó giải thích tại sao người ta gọi giai đoạn nầy là giai đoạn sadique – hậu môn. Thái độ chống đối của trẻ góp phần làm cho trẻ ý thức được sự tự trị của mình, và lúc nầy những can thiệp giáo dục của Cha mẹ phải nhẹ nhàng tế nhị, vì sự chống đối gây hấn là một giai đoạn bình thường trong sự phát triển tâm lý và tình cảm của trẻ. Trong giai đoạn nầy, vì trẻ cần được khung cảnh nhìn nhận cái Tôi riêng biệt của nó, nên nó chống đối để tự xác nhận, và được nhìn nhận. Sau nầy, người thanh thiếu niên sẽ trở lại với tác phong chống đối nầy, nhưng được hướng dẫn bởi ước muốn xác nhận sự độc lập của mình. Sự chống đối nầy được thể hiện trong tác phong nổi loạn, vô kỷ luật, lì lợm. Nếu trẻ có xúc cảm tính mạnh quá, nó có thể đau khổ nhiều vì tưởng rằng không ai hiểu nó, vì vậy nên nó có thể đi hoang và bụi đời, hành động nầy nhằm thể hiện ước muốn vô thức xem Cha mẹ có thật tâm thương mình hay không. Thời kỳ hậu môn nầy cũng là thời kỳ trong đó những cơ chế thay thế (mécanisme de substitution) gắn liền với sự vật được thành hình. Nếu chúng ta cấm đoán trẻ không được quan tâm nhiều quá đến phân của nó, không được vọc phân, trẻ sẽ cố gắng tìm những vật khác để thay thế, chẳng hạn như nó sẽ chơi bùn, chơi đất sét, cát, chơi gạch, hay những đồ chơi khác. Sự thèm muốn rờ mó, dọc phá và sưu tập một cách ích kỷ của nó (sự sưu tập tượng trưng cho việc giữ phân lại) tương hợp với sự phát triển những khả năng vận động và trí tuệ của nó. Sự vật vừa là đối tượng của óc tò mò của nó, vừa là đối tượng của những tình cảm mất mát, thất vọng của nó, vì bản tánh hồn linh hóa 41 tự nhiên của trẻ làm cho nó phóng ngoại lên sự vật vô tri vô giác một linh hồn tương tự như linh hồn của nó. Nếu nó bị trừng phạt, nó sẽ tới chơi với con gấu hay con búp bê nào đó, để tự an ủi. Nhưng vì những đồ chơi nầy không biểu tượng cho con người, nên nó có thể phóng ngoại gây hấn tính bị dồn ép của nó, bằng cách đập bể đồ chơi. Những hành động thay thế 42 và bù trừ 43 nầy được sống một cách ý thức, mà không được ý thức chấp nhận và hiểu. Chúng động viên năng lực của trẻ nhưng hiển nhiên là chúng không hủy diệt được nhu cầu được yêu thương, mà trẻ đòi hỏi ở khung cảnh bao quanh nó, đặc biệt là Má nó, để trao đổi với những hy sinh của nó. Do đó, cần phải tạo cho nó một bầu không khí yên lành, và thỉnh thoảng để yên cho nó giải tỏa gây hấn tính của nó trong những hành động phá hoại hay chiếm hữu. Tuy nhiên, nếu bầu không khí gia đình dễ dãi quá, nếu gia đình đồng lõa với những tác phong vô kỷ luật và gây hấn của nó, sự việc nầy đưa tới hiểm họa làm ngừng trệ sự tiến triển tâm lý của nó, làm cho nó ngưng đọng trong những thái độ chống đối với một người (chẳng hạn như người Cha) hay một hoàn cảnh nhất định. Sau nầy, khi nó lớn lên, những tác phong chống đối mù quáng nầy có thể nới rộng ra cho những người thuộc thành phần chỉ huy trong xã hội, hay cho cả một giai cấp xã hội, như giai cấp trưởng giả, trí thức, v.v… Như vậy, chúng ta không nên quên rằng vào tuổi nầy, trẻ khó có thể chấp nhận tuân lời. Muốn trẻ tuân lời, chúng ta bắt buộc phải cưỡng chế nó. Nhưng để tránh những chấn động tâm lý có thể có do những can thiệp giáo dục của chúng ta, chúng ta nên bù trừ những đòi hỏi của chúng ta bằng thái độ khoan dung. Như đã nói, trẻ có nhu cầu được yêu thương, bằng với nhu cầu uy quyền, nhu cầu được người lớn dạy dỗ. Trong quyển La Personnalité de l’enfant, R. Mucchielli có viết như sau : « Bản ngã có nhu cầu chống đối để ý thức chính mình. Nhưng nó cũng có nhu cầu gặp phải một sức kháng cự, để thử thách chính mình, và thử thách sự kháng cự của khung cảnh bao quanh nó, trong đó nó được thành hình. Nếu khung cảnh luôn luôn nhượng bộ trẻ, như vậy, bản ngã không thể mạnh được, và khi sau nầy trẻ gặp phải những trở ngại thật sự nó không đủ sức để vượt qua những trở ngại nầy. Nhưng ngược lại, nếu khung cảnh trói buộc trẻ quá, và nếu chúng ta đập tan cái bản ngã đang phát sanh, chúng ta sẽ làm cho trẻ thiếu tự tin, và không có cảm giác an toàn cần thiết cho đời sống bình thường ». C) GIAI ĐOẠN KHOÁI LẠC VỚI NGƯỜI KHÁC 1) Thời kỳ sùng bái dương vật (stade phallique) Sau thời kỳ hậu môn, ở đó tình dục rất tản mác, chúng ta thấy xuất hiện một thời kỳ (từ 4 tới 6 tuổi) ở đó những cơ quan sinh dục trở thành vùng khoái lạc quan trọng nhất. Trong thời kỳ nầy, những khuynh hướng làm cho trẻ hướng về những người trong khung cảnh bao quanh nó, càng lúc càng giống với đời sống tình ái của người lớn. Đây là giai đoạn nhiều mặc cảm nhất trong cuộc đời của trẻ. Chúng tôi xin nhắc lại, một mặc cảm là một sợi dây liên hệ chặt chẽ giữa : - Một mặt, những thúc đẩy bản năng có mục tiêu khác nhau, thường thường mâu thuẫn với nhau, thúc đẩy nào cũng muốn ngự trị. - Mặt khác, những cấm đoán của nền văn hóa, chống lại sự thực hiện của một vài thúc đẩy bản năng nào đó. Đặc tính quan trọng nhất của thời kỳ nầy là sự vang dội và ảnh hưởng của mặc cảm Œdipe đối với đời sống tình cảm của trẻ. Œdipe là một nhân vật trong huyền thoại của Hy Lạp. Ông bị cha mẹ đem bỏ, và được người ngoài nuôi dưỡng. Ông không được biết nguồn gốc của mình, vì vậy nên một ngày nọ khi ông lớn lên, ông gặp bà Vua và say mê Bà. Sau đó hai người lấy nhau. Sau đó, khi ông biết được sự thật, rằng bà Vua là Má của ông, ông tự làm cho đui mù, trong lúc đó Má ông treo cổ tự tử. Freud sử dụng huyền thoại nầy để giải thích những tình cảm phức tạp của trẻ, vừa thương yêu gắn bó với bậc Cha mẹ khác phái, vừa chống đối gây hấn với bậc Cha mẹ đồng phái tính. Trong quyển La Pensée de Freud, E. Pesch có tóm tắt sơ lược như sau về mặc cảm Œdipe : a) Trẻ cảm thấy yêu thương gắn bó với bậc cha mẹ khác phái (nên ghi nhận thêm rằng tình cảm Trẻ thấm đượm tình dục tản mác). b) Do tiến trình vừa nêu, Trẻ chống đối và ghen tuông với bậc Cha mẹ đồng phái. c) Tình cảm ngưỡng mộ và quyến luyến với bậc Cha mẹ cùng phái tính, xen lẫn với những tình cảm chống đối (lưỡng năng tình cảm). d) Tình cảm tội lỗi, thường thường vô thức, và nguyên nhân là tác phong chống đối bậc Cha mẹ cùng phái tính. Để hiểu rõ hơn sơ đồ nầy, chúng ta nên biết qua những quan hệ mới mẻ được thiếp lập trong thời kỳ nầy giữa đứa trẻ và Ba má nó. Trẻ bắt đầu thủ đắc sự độc lập của nó trên phương diện vận động, và « làm chủ » ngôn ngữ thông thường, vì vậy, bước vào cuộc khủng hoảng độc lập : nó muốn tự mình làm mọi chuyện, muốn bắt chước những người bao quanh nó, đặc biệt là người lớn cùng phái tính với nó. - Tuy nhiên, Trẻ vẫn còn sống trong một vũ trụ huyền hoặc, nó lẫn lộn thực tại với tưởng tượng, cái chánh yếu với cái phụ thuộc, và những phản ứng của nó có tánh cách xúc cảm, sâu xa, và gắn liền với cơ thể. Nó chưa đủ khả năng hợp lý hóa tác phong của mình, cũng chưa tách rời được khỏi những biến cố, vì vậy, những thái độ của nó đều đam mê và tuyệt đối. - Vì không tách rời được khỏi những biến cố để có một cái nhìn phê bình, nên nó bắt chước tất cả những hành vi, những thái độ, những mẫu tác phong mà gia đình cung cấp cho nó. Nó phóng ngoại tâm lý của nó lên sự vật, như búp bê, hình ảnh, v.v… đồng thời nó cũng bắt chước và đồng hóa với người lớn bằng sự phóng nội. Nó lần hồi đưa vô nội tâm mình những cấm đoán và những mẫu tác phong của Ba má nó, điều nầy giúp hình thành siêu ngã của nó. - Trong lúc cho tới đây chính bà Mẹ là trung tâm của vũ trụ, càng lúc người Cha càng quan trọng hơn lên. Người Cha xuất hiện như đầy đủ uy quyền và có những khả năng bí mật. Vừa đáng ngại, vừa hấp dẫn, người Cha làm cho nó yên lòng, đồng thời cưỡng chế nó. Người Cha ảnh hưởng nhiều đến tác phong của Trẻ, nhưng đồng thời nó lại tức bực ông, do những quan hệ giữa ông và bà Mẹ, những quan hệ mà cho tới đây Trẻ chưa nhận thấy. - Sau cùng chúng ta nên ghi nhận rằng vào thời kỳ nầy, đồng thời với việc trẻ khám phá ra cái Tội của mình, nó cũng khám phá những gì thầm kín trong thân thể của nó. Nhờ sự vận động của nó, nhờ sự rờ mó vọc phá đồ vật, nhờ sự bắt chước những hành vi và thái độ của người lớn, Trẻ lần hồi thiết lập cho mình những khuôn mẫu tổ chức và biểu tượng thân thể của chính mình (sơ đồ thân xác). Nó vẽ người ta, nó khám phá hình ảnh nó trong kiếng. Sau cùng, đây là tuổi khám phá ra cơ quan sinh dục của nó, điều nầy làm cho nó ý thức được sự khác biệt phái tính và làm cho nó bắt đầu đặt những câu hỏi « tại sao » đầu tiên về vấn đề nầy. Tất cả những gì được nói ở trên xác định bầu không khí tình cảm, trong đó mặc cảm Œdipe được thiếp lập. Những quan hệ với người Mẹ (đối với trẻ trai) hay với người Cha (đối với trẻ gái) đượm màu tình dục tản mác, điều nầy đôi khi đưa tới những can thiệp của người lớn, mà trẻ không hiểu tại sao. Sự tò mò của nó đối với thân xác của nó, hay đối với thân thể của người khác phái, có khi dẫn tới những câu trả lời đầy đe dọa, điều nầy có thể tạo cho nó mặc cảm tội lỗi. 44 Tuy nhiên, mặc cảm Œdipe thật ra không có gì là bất thường cả. Nó chỉ là một giai đoạn cần thiết trong sự phát triển của nhân cách. Nó chỉ tai hại khi nào sự xung khắc giữa gây hấn tính và tình thương không được vượt qua mà thôi. Thế nhưng, bình thường sự xung khắc nầy tan biến đi, một mặt do sự kiện những thúc đẩy tình dục giảm bớt cường độ trong thời kỳ tiềm phục tiếp nối thời kỳ sùng bái dương vật, và mặt khác do tiến trình đồng hóa với bậc Cha mẹ cùng phái tính, trong đó trẻ bắt chước tác phong của bậc Cha mẹ cùng phái, và như vậy, chinh phục được sự độc lập của mình đối với bậc Cha mẹ khác phái. Ở đây chúng ta nên ghi nhận thêm rằng sự tiến triển của những mặc cảm của trẻ gái, trên phương diện lý thuyết, có tánh cách đối xứng với trẻ trai. Nhưng trên thực tế sự tiến triển nầy hơi phức tạp hơn đối với trẻ gái. Trẻ gái phải qua thêm một thời kỳ gắn bó với người Cha, và xem người Mẹ như là một tình địch. Đó là mặc cảm Electre 45. Sự tiến triển mặc cảm của trẻ gái hơi phức tạp hơn, do sự kiện mặc cảm Electre làm cho nó phải chống đối lại bà Mẹ, đối tượng yêu thương đầu tiên của nó, trong lúc đó, nơi trẻ trai, trước sau gì nó cũng vẫn gắn bó mật thiết với Mẹ. Hơn thế, nơi trẻ gái, những khác biệt sinh lý giữa nó và anh em trai được nó ý thức và sống như là một yếu kém, nhất là khi khung cảnh gia đình tôn thờ người đàn ông, và quan niệm rằng chính đàn ông nắm giữ uy quyền và sức mạnh. Cảm tưởng yếu kém nầy có thể vượt qua được nếu gia đình khuyến khích trẻ gái ganh đua khôn ngoan và khéo léo với trẻ trai. Như vậy, những hậu quả của mặc cảm Œdipe hay mặc cảm Electre rất khác biệt nhau, tùy theo sự hiểu biết của khung cảnh gia đình. Vả lại, nhiều người đã trách cứ Freud, khi ông quan niệm những mặc cảm như phổ quát và đại đồng, trong lúc thật ra những mặc cảm nầy chỉ hiện hữu trong những gia đình Tây phương mà thôi. Tuy nhiên, trong khung cảnh nền văn minh hiện tại của chúng ta, bậc Cha mẹ thiếu hiểu biết có thể vô tình làm cho sự xung khắc Œdipe nặng nề thêm bằng cách đàn áp quá nghiêm khắc những khuynh hướng của trẻ. Lúc đó, trẻ sẽ sống trong một trạng thái tội lỗi tiềm phục, điều nầy làm cho nó có khuynh hướng ẩn náu trong một cuộc sống tưởng tượng. Sau cùng, thời kỳ mặc cảm Œdipe ảnh hưởng mạnh tới cá nhân trong sự thích nghi tương lai với xã hội. Do sự kiện người Cha hay người Mẹ là những thể hiện đầu tiên của sự kiểm duyệt xã hội, sự chống đối lại họ, hay sự lo âu mà những can thiệp của họ tạo nên, sau nầy có thể di chuyển tới những thể hiện khác của quyền uy xã hội, như Thầy Cô, cấp chỉ huy trực tiếp, lãnh tụ các nhóm trong xã hội, những nhân vật có thẩm quyền trên phương diện tư pháp hay tôn giáo, v.v… Cơ chế chuyển di nầy mà Freud đã vạch rõ, chỉ là sự di chuyển những thái độ xưa cũ đối với bậc Cha Mẹ trong thời thơ ấu, qua những người hay những định chế xã hội. Chẳng hạn như trong thời kỳ chữa trị bằng phân tâm học, người bệnh thường di chuyển một cách vô thức những quan hệ tình cảm trước đây đối với Cha Mẹ, qua nhà phân tâm học, ông nầy trở thành người thay thế cho uy quyền của người Cha, điều nầy giải thích tại sao người bệnh kháng cự, không chịu tiếp tục nói lên tâm tình của mình. Nhưng sự di chuyển nầy có thể chuyển qua nhiều người khác trong khung cảnh. Chẳng hạn như khi trẻ không thể vượt qua được tình cảm lệ thuộc đối với bà Mẹ, sau nầy nó có thể tìm kiếm nơi người vợ của mình những tình cảm bao bọc của Mẹ, hơn là những tình cảm vợ chồng bình thường. Nếu người Cha giỏi quá, cao xa quá, ông có thể làm cho trẻ tin tưởng rằng ông là một khuôn mẫu xa vời, không với tới được, vì vậy, nó cảm thấy yếu kém và tự ti, sự việc nầy làm cho trẻ có khuynh hướng tức giận những người chỉ huy mình sau nầy, hay những người mình ngưỡng mộ. Chúng ta nên ghi nhớ một điều, rằng thời kỳ nầy là thời kỳ trẻ đồng hóa với bậc Cha mẹ, được quan niệm như khuôn mẫu. Đây là một sự đồng hóa phức tạp. Khi trẻ bắt chước tác phong của bậc Cha mẹ, nó cũng bắt chước luôn những tình cảm của họ, điều nầy làm thay đổi những tương quan tình cảm của nó với những người khác phái. Do đó, trẻ ganh đua với bậc Cha mẹ cùng phái, điều nầy làm phát sanh một bầu không khí tội lỗi tăm tối, dựa vào sự ghen tuông. Nhưng đây cũng là giai đoạn, ở đó khuôn mẫu được phóng nội dưới hình thức giá trị và Bản ngã lý tưởng, điều nầy đánh thức ý thức đạo đức của Trẻ, làm cho nó kiểm soát và phê bình những thèm muốn tự nhiên bộc phát. 2) Thời kỳ tiềm phục Thời kỳ nầy kéo dài từ năm trẻ được 6 tuổi cho tới lúc dậy thì. Trong thời kỳ nầy người ta nhận thấy sự giảm sút những xung khắc, mà những thúc đẩy tạo nên, khi chống đối lại những qui phạm của tác phong xã hội. Đây là giai đoạn trẻ bắt đầu đi học, nhờ vậy, nó tham gia vô những Nhóm xã hội ở ngoài gia đình. Năng lực của trẻ được động viên vô những công việc trí tuệ, và những tiến trình thích nghi, như trò chơi và tình bạn, v.v… ; lần hồi trẻ tham gia nhiều hơn vô đời sống xã hội, đời sống nầy « phát triển những bờ đê đạo đức để chống lại những bản năng của nó ». (Lagache) Đặc điểm của thời kỳ nầy là trẻ chấp nhận những khuôn mẫu tác phong, do khung cảnh văn hóa đề nghị. Thật ra, đời sống bản năng vẫn tiếp tục ảnh hưởng tới tâm linh của trẻ, nhưng ít ảnh hưởng hơn thời kỳ trước, và ít độc tài hơn. Mọi việc xảy ra như là trẻ cảm thấy sung sướng vì đã ức chế được những thèm muốn của mình và làm chủ được chính mình, vì vậy, nó lợi dụng điều nầy để hợp lý hóa tác phong của nó. Lúc nầy nó có vẻ quên lãng những xung khắc xưa cũ của nó, những xung khắc nầy vẫn còn sống trong vô thức. Chịu ảnh hưởng của khung cảnh học đường, nó có những tương quan mới với người và vật, bằng cách phân biệt rõ ràng hơn thế giới khách quan và thế giới chủ quan, thế giới của thực tế và thế giới của thèm muốn. Thèm muốn hưởng thụ và chiếm hữu bây giờ được thăng hóa thành thèm muốn hiểu biết. Lúc nầy nó bắt đầu mở rộng ra thế giới bên ngoài và chấm dứt những quan hệ độc quyền với gia đình như trước đây. Nó bắt đầu tìm kiếm sự tự trị. Thật ra, sự mở rộng nầy với những nhóm khác và thế giới bên ngoài có thể bị cản trở do những can thiệp và những thái độ của Thầy Cô. Thầy Cô có thể làm sống lại những tương quan uy quyền, mà nó đã sống với Cha mẹ. Thầy Cô cũng có thể áp dụng thứ kỷ luật độc tài đáng ghét, cũng như khuyến khích nó ganh đua với bạn bè để được điểm tốt. Trong những trường hợp nầy, Thầy Cô cản trở sự mở rộng của trẻ. Thầy Cô muốn đối thoại với trẻ phải làm sao được nó thương mến và không nên tự coi mình như là « nhất thế giới », nghĩa là một bộ óc và một con người toàn hảo. Uy tín và uy quyền thường đào một hố sâu ngăn cách, cản ngăn những quan hệ đích thực và hữu ích, để thay thế vào đó bằng những quan hệ cưỡng chế. Trong quyển sự tiến triển tình cảm của trẻ theo hình vẻ, M. Pigeon có nhận xét sau : « Trong hệ thống giáo dục của chúng ta, ở đó kỷ luật được chú trọng nhiều quá, sự ức chế lo âu thường thường có khuynh hướng thay thế cho sự làm chủ chính mình bằng ý chí ». Khuôn mẫu mà chúng ta đề nghị với trẻ, người Cha, Thầy Cô, người chỉ huy, v.v… phải là một khuôn mẫu sống động. Thế nhưng, sự sống không bao giờ toàn hảo. Nó luôn luôn bao hàm những khiếm khuyết, làm cho nó phải luôn luôn tự vượt khỏi. Một khuôn mẫu không khuyết điểm là một khuôn mẫu thiếu sống động. Như vậy, nhà giáo phải ngừng, đừng tự coi mình là người đại diện cho đức hạnh và hiểu biết, để mở rộng và đối thoại với trẻ, bằng cách thú nhận những khiếm khuyết của mình. Trong sự đối thoại với trẻ, nhà giáo phải bỏ bớt quyền uy của mình, đừng coi mình hơn trẻ, mà ngược lại cần khuyến khích trẻ. Như vậy, trẻ dễ dàng chấp nhận chúng ta là khuôn mẫu hơn. Như nhà phân tâm học D. Lagache nhận xét : « Thông đạt tức là làm cho những gì cần thông đạt xuống mức độ bình thường… Trò chơi hỗ tương giữa sự thông hiểu và sự diễn đạt giả định những kinh nghiệm đồng hóa phần nào với khuôn mẫu ». Nếu những kinh nghiệm đồng hóa nầy không thể có được, nếu những khuôn mẫu vẫn được lý tưởng hóa một cách huyền thoại thì nhu cầu an toàn cần thiết cho sự thông đạt và cảm thông không được thỏa mãn. Như vậy, người đối thoại được lý tưởng hóa phải trở thành một con người sống động. Do đó, thời kỳ tiềm phục nầy hết sức là quan trọng trong sự hình thành nhân cách của trẻ, tại vì trong thời kỳ nầy trẻ thay thế sự đồng hóa tình cảm với Cha mẹ, bằng sự tìm kiếm riêng tư. Thế nhưng, sự tìm kiếm nầy thường thường bị xáo trộn do ảnh hưởng của những bạn bè lớn tuổi hơn, của những phương tiện thông tin đại chúng như báo chí, phát thanh, truyền hình và hát bóng ; thêm vào đó, cần phải kể những câu chuyện Cha mẹ nói với nhau trước mặt trẻ, mà nội dung câu chuyện có thể làm chấn động tâm linh rất mỏng manh của nó. Thường thường, vì muốn báo trước cho trẻ biết những hiểm họa nó có thể gặp, Cha mẹ hay Thầy Cô làm cho cuộc sống xuất hiện dưới một góc cạnh đáng ngại, như vậy, tạo cho trẻ một sự lo âu bệnh hoạn, điều nầy đưa tới những phản ứng thoái hóa hay những phản ứng gây hấn. Vì sợ hãi nên trẻ phải nhảy tới trước, tấn công thường trực, và tấn công như vậy thật ra chỉ là một tác phong tự vệ. Chính trong giai đoạn nhạy cảm cho sự lo âu nầy mà siêu ngã được củng cố. Nếu siêu ngã được thành hình trong một bối cảnh lo âu, thì những đòi hỏi của nó sẽ trở thành những lực lượng tăm tối và tội lỗi, nhất là khi trẻ chứng kiến những xung khắc trong đời sống gia đình. Chứng kiến những màn cãi lộn giữa Cha mẹ, trẻ sẽ phán đoán, đồng ý với người nầy và không đồng ý với người kia, trong một giai đoạn mà óc phán đoán của nó chưa đủ trưởng thành. Như vậy, nó sẽ có một hình ảnh xáo trộn về gia đình và uy quyền, điều nầy sẽ ảnh hưởng tới những quan hệ giữa nó và người khác sau nầy, cũng như ảnh hưởng tới những quan hệ giữa nó và những hình thức uy quyền trong xã hội. Hình ảnh những quan hệ với Tha nhân được thiết lập trong lúc nầy chỉ là sự tóm tắt những hoàn cảnh thường ngày, và hình ảnh nầy càng có tánh cách chấn động tâm linh trẻ nhiều hơn, nếu những hoàn cảnh nầy tạo ra một bầu không khí bất an. """