"
Pachinko (Tiểu Thuyết) - Min Jin Lee & Nguyễn Bích Lan (dịch) full mobi pdf epub azw3 [Best Seller]
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Pachinko (Tiểu Thuyết) - Min Jin Lee & Nguyễn Bích Lan (dịch) full mobi pdf epub azw3 [Best Seller]
Ebooks
Nhóm Zalo
MIN JIN LEE
PACHINKO
Người dịch: Nguyễn Bích Lan
Phát hành: PhanBook
Nhà xuất bản Phụ Nữ
ebook©vctvegroup
Dành tặng Christopher và Sam
QU Y ỂN I
GOHYANG /
THÀNH PHỐ QUÊ HƯƠNG
1910 - 1933
Gia đình là một cái tên, một từ có sức mạnh, mạnh hơn lời của pháp sư hay tiếng đáp của các linh hồn; đó là sự vẫy gọi mạnh mẽ nhất. —Charles Dickens
1
Yeongdo, Busan, Hàn Quốc
L
ịch sử đã làm chúng ta thất vọng, nhưng không sao.
Vào đầu thế kỷ này, một người dân chài lớn tuổi và vợ quyết định nhận khách trọ để kiếm thêm thu nhập. Cả hai đều sinh ra và lớn lên ở làng chài Yeongdo - một hòn đảo rộng năm dặm, kề bên thành phố cảng Busan. Trong cuộc hôn nhân lâu dài của họ, vợ ông sinh được ba người con trai, nhưng chỉ Hoonie, đứa con đầu lòng và là đứa yếu nhất, sống sót. Hoonie bị hở hàm ếch, khoèo chân bẩm sinh. Tuy vậy anh được trời phú cho đôi vai vạm vỡ, thân hình chắc nịch và nước da bánh mật. Thậm chí khi đã trở thành một chàng trai, anh vẫn giữ tính trầm mặc và hòa nhã đã hình thành trong anh từ khi còn bé. Khi Hoonie dùng bàn tay che cái miệng dị dạng của mình, điều mà anh làm theo thói quen mỗi khi gặp người lạ, anh trông rất giống người cha điển trai, cả hai đều có đôi mắt to biết cười. Đôi lông mày đen như mực khiến cho vầng trán rộng luôn rám nắng vì làm việc ngoài trời càng thêm ưa nhìn. Cũng như cha mẹ mình, Hoonie không phải là người hoạt ngôn, và một số người đã lầm khi nghĩ rằng sở dĩ anh không nói năng hoạt bát là bởi đầu óc của anh có vấn đề, nhưng không phải vậy.
Năm 1910, khi Hoonie hai mươi bảy tuổi, Nhật Bản thôn tính Triều Tiên. Người dân chài và vợ mình, những người nông dân sống tằn tiện, chịu thương chịu khó, không chịu để giới quý tộc kém cỏi và nhà cầm
quyền thối nát, những kẻ đã để mất nước vào tay lũ trộm cắp, làm xao lãng. Khi giá thuê căn nhà của họ lại tăng, vợ chồng họ chuyển ra khỏi phòng riêng và ngủ ở phòng xép gần bếp để có thể nhận thêm khách trọ.
Ngôi nhà gỗ mà họ đã thuê trong hơn ba thập kỷ không rộng lắm, chưa được một trăm rưỡi mét vuông. Những cánh cửa trượt bằng giấy chia lòng nhà thành ba phòng nhỏ ấm cúng, và người dân chài đã tự mình thay mái nhà cỏ tranh thủng lỗ chỗ bằng mái ngói đỏ vì lợi ích của chủ đất đang sống xa hoa trong một tư dinh ở Busan. Cuối cùng, bếp được đẩy ra vườn rau để có chỗ cho những chiếc nồi to hơn và số bàn ăn di động tăng lên được treo trên những cái móc dọc bức tường đá trát vữa.
Nhờ sự nài nỉ kiên trì của cha, Hoonie đã học đọc và viết chữ Hán, chữ Nhật từ ông giáo làng đến mức đủ để có thể ghi chép sổ sách của một nhà trọ và làm tính nhẩm để anh không bị lừa ở ngoài chợ. Khi anh đã biết những kỹ năng đó, cha mẹ cho anh nghỉ học. Ở tuổi mới lớn, anh làm việc cật lực gần bằng một người đàn ông khỏe mạnh gấp đôi tuổi mình có đôi chân bình thường; anh khéo tay và có thể vác nặng, nhưng không thể chạy hoặc đi bộ nhanh được. Cả Hoonie và cha anh đều nổi tiếng khắp làng vì chưa bao giờ cầm một chén rượu. Người dân chài và vợ nuôi nấng đứa con trai sống sót gần như tật nguyền của mình trở thành một con người lanh lợi và cần mẫn bởi vì họ không biết sau khi mình qua đời ai sẽ chăm lo cho anh.
Nếu người dân chài và vợ ông có thể có chung một trái tim, thì Hoonie chính là bộ phận biết đập những nhịp đều đặn đó. Họ đã mất những đứa con trai khác - đứa út mất vì bệnh sởi, đứa con thứ vô tích sự bị một con bò đực húc chết trong một vụ tai nạn vớ vẩn. Cặp vợ chồng già luôn giữ Hoonie ở gần nhà, trừ lúc đi học, đi chợ, và cuối cùng, khi trở thành một
chàng trai, Hoonie cần phải ở nhà để giúp cha mẹ. Họ không chịu đựng nổi việc làm anh buồn; tuy nhiên, họ yêu anh đủ để không quá nuông chiều anh. Cặp vợ chồng dân nghèo ấy biết rằng một đứa con trai hư đốn gây tổn hại cho gia đình hơn là một đứa con trai đã chết và họ tự kiềm chế để khỏi chiều chuộng anh quá.
Những gia đình khác ở xứ ấy không may mắn có được các bậc cha mẹ biết điều như họ, và đó là thực tế ở những vùng nông thôn bị thiên tai địch họa tàn phá, những con người yếu ớt - người già, đàn bà góa, và trẻ mồ côi - cũng tuyệt vọng như trên bán đảo đã trở thành thuộc địa. Nhà nào có thể nuôi thêm một miệng ăn thì đều có vô số người muốn đến giúp việc cả ngày chỉ để đổi lấy một bát cơm không.
Mùa xuân năm 1911, hai tuần sau khi Hoonie bước sang tuổi hai mươi tám, một bà mối má đỏ như quả cà chua từ thành phố ghé thăm mẹ anh. Mẹ của Hoonie dẫn bà ta vào bếp; họ phải nói chuyện với nhau thật khẽ bởi vì các khách trọ đang ngủ ngay phòng ngoài. Lúc đó đã là cuối buổi sáng, và những người ở trọ đánh cá thâu đêm đã kết thúc bữa ăn muộn nóng hổi của mình rồi tắm rửa và đi ngủ. Mẹ của Hoonie rót một cốc trà lúa mạch nguội mời bà mối nhưng vẫn tiếp tục việc mình đang làm.
Tất nhiên người mẹ đoán được bà mối muốn gì, nhưng bà không biết phải nói gì. Hoonie chưa bao giờ đòi cha mẹ cưới vợ cho mình. Đời nào một gia đình tử tế lại gả con gái cho một người có những khuyết tật mà ắt hẳn sẽ truyền sang thế hệ sau. Bà chưa từng thấy con trai mình nói chuyện với một cô gái; hầu hết các cô gái làng khi nhìn thấy anh đều tránh mặt, và Hoonie đủ trí khôn để không mong muốn điều mà mình không thể có được. Sự chịu đựng là điều mà bất cứ người nông dân nào cũng chấp nhận
trong cuộc sống của mình và những gì anh ta được phép ao ước. Khuôn mặt nhỏ thó trông ngồ ngộ của bà mối căng mọng và hồng hào; đôi mắt đen đầy vẻ sắt đá của bà phóng ra những ánh nhìn sắc sảo và bà ta cẩn trọng để chỉ nói những lời tốt đẹp. Người đàn bà liếm môi như thể đang khát; mẹ của Hoonie cảm thấy bà ta đang quan sát mình và mọi chi tiết của ngôi nhà, đo kích thước của căn bếp bằng con mắt chuẩn xác. Tuy nhiên, bà mối sẽ gặp khó khăn trong việc nhìn để hiểu mẹ của Hoonie, một người phụ nữ trầm lặng lao động quần quật từ sáng sớm đến tối khuya, làm những gì cần phải làm cho gia đình trong ngày hôm đó và ngày kế tiếp. Bà hiếm khi đi chợ bởi vì bà chẳng có thì giờ cho chuyện con cà con kê; bà sai Hoonie đi mua các thứ. Trong khi bà mối nói chuyện, miệng của người mẹ ấy vẫn y nguyên như trước, không hề cử động; y như cái bàn gỗ thông chắc nịch mà bà dùng để thái củ cải.
Bà mối vào đề trước. Đại ý rằng có điều không may đối với cái chân và cái miệng của Hoonie, nhưng anh rõ ràng là một chàng trai tốt - có giáo dục và khỏe như một cặp bò đực! Bà mối nói, bà mẹ của Hoonie may mắn có một đứa con trai ngoan như thế nào. Bà ta không ưng mấy đứa con của mình cho lắm; cả hai thằng con trai chẳng đứa nào ham học và quan tâm đến buôn bán, nhưng chúng không phải là những đứa con trai tồi tệ. Con gái của bà lấy chồng sớm quá và xa quá. Bà cho rằng tất cả các cuộc dựng vợ gả chồng ấy đều tốt cả, nhưng con trai bà quả thật lười biếng. Không như Hoonie. Sau khi kể lể một hồi, bà mối nhìn chòng chọc người đàn bà có nước da màu ô-liu, khuôn mặt bất động, tìm kiếm bất cứ dấu hiệu nào của sự quan tâm.
Mẹ của Hoonie vẫn cúi đầu như trước, cầm con dao sắc của bà một cách tự tin - mỗi miếng củ cải bà thái đều vuông vắn, mười miếng như
mười. Khi cả một đống củ cải trắng đã hình thành trên chiếc thớt, bằng một động tác gạt thật khéo, bà chuyển toàn bộ cái đống ấy vào một chiếc tô trộn. Một cách kín đáo, mẹ của Hoonie dành cho câu chuyện của bà mối sự chú ý đầy thận trọng, sợ rằng mình sẽ bắt đầu run vì căng thẳng.
Trước khi bước vào trong nhà, bà mối đã dạo một vòng bên ngoài để đánh giá điều kiện kinh tế của gia đình. Qua những gì có thể nhìn thấy bằng mắt thường, bà mối có thể xác nhận những gì hàng xóm nói về tình trạng ổn định của gia đình này. Trong vườn rau, những cây cải đuôi ngựa phát triển mập mạp và chắc nịch sau cơn mưa đầu xuân, sắp được nhổ khỏi đất nâu. Cá minh thái và mực ống được treo san sát để phơi khô dọc sợi dây phơi trong nắng xuân như ren thêu. Bên ngoài công trình phụ, ba con lợn đen được nhốt trong một cái chuồng sạch sẽ xây bằng đá trát vữa. Bà mối đếm được cả thảy bảy con gà giò và một chú gà trống ở sân sau. Sự sung túc của họ càng trở nên rõ rệt hơn ở bên trong nhà.
Ở trong bếp, những bao gạo chất đống và những chiếc bát tô nằm trên những ngăn giá gác được đóng chắc chắn và đẹp mắt, những bó tỏi trắng và ớt đỏ được treo trên những thanh xà thấp của gian bếp. Trong góc bếp, gần bồn rửa, có một cái rổ mây to tướng chất đầy những củ khoai tây mới đào. Mùi thơm dễ chịu của lúa mạch và hạt khô đang sôi trong chiếc xoong màu đen tỏa ra thoang thoảng khắp căn nhà nhỏ.
Hài lòng với hoàn cảnh sung túc của cái nhà trọ ấy ở một vùng quê đang càng ngày càng nghèo đi, bà mối dám chắc ngay cả Hoonie cũng có thể có được một cô dâu khỏe mạnh, vậy nên bà dấn tới.
Cô gái ấy ở đầu kia hòn đảo, phía bên kia khu rừng rậm. Cha cô, một tá điền, là một trong những người đã mất hợp đồng cho thuê đất do các cuộc rà soát đất đai mới đây của chính quyền thuộc địa. Người đàn ông
góa vợ, khổ sở vì có bốn đứa con gái mà không có một mống con trai, chẳng còn gì để ăn ngoài những gì ông kiếm được trong rừng, những mớ cá bán ế, hoặc chút lòng thơm thảo từ những người hàng xóm cũng nghèo xác nghèo xơ như mình. Người cha nhân từ ấy đã xin bà mối kiếm chồng cho mấy cô con gái của mình, bởi vì thà để những cô gái trinh ấy lấy bất kỳ ai còn hơn để họ đi ăn cắp thức ăn trong thời buổi cả phụ nữ và lẫn đàn ông đều đói, và phẩm hạnh trở thành thứ xa xỉ. Cô Yangjin là con út trong bốn đứa con và là đứa con gái dễ đẩy đi nhất bởi vì cô còn quá nhỏ để phàn nàn, và gần như chẳng còn gì để ăn.
Bà mối nói rằng Yangjin mười lăm tuổi, hiền hòa và dịu dàng như một chú bê con. “Không có của hồi môn đâu, hẳn thế, và ông bố chẳng mong nhận được nhiều lễ vật cưới hỏi đâu. Có lẽ chỉ vài con gà mái đẻ, vài tấm vải bông cho các chị gái của Yangjin, sáu hoặc bảy bao lúa mạch để họ có thể sống qua mùa đông thôi”. Không nghe thấy bất kỳ sự phản đối nào trước sự liệt kê lễ vật, bà mối dấn thêm, “Có lẽ thêm một con dê. Hoặc một con lợn nhỏ. Gia đình cũng chẳng khá giả gì, mà các cô dâu thì bây giờ không được đắt giá cho lắm. Con bé đó không cần bất cứ món đồ trang sức nào cả đâu”. Bà mối cười khe khẽ.
Bằng một động tác vẩy cái cổ tay mập mạp của mình, mẹ của Hoonie rắc muối lên tô củ cải. Bà mối đâu biết mẹ của Hoonie đang tập trung cao độ vì suy nghĩ mông lung về những gì bà ta muốn đến mức nào. Người mẹ sẽ bỏ ra bất cứ thứ gì để tăng khoản sính lễ được yêu cầu lên; mẹ của Hoonie ngạc nhiên trước những điều tưởng tượng và niềm hy vọng đang dâng lên trong lòng mình, nhưng vẻ mặt bà vẫn bình thản và đầy kín đáo; tuy nhiên, bà mối đâu có ngốc.
“Tôi có thể đánh đổi bất cứ điều gì để một ngày nào đó có được một
đứa cháu đích tôn”, bà mối nói, chuẩn bị con bài cuối cùng của mình trong khi nhìn chăm chú khuôn mặt sạm nắng, nhiều nếp nhăn của bà chủ nhà trọ. “Tôi có một đứa cháu gái, nhưng không có cháu trai và con bé quấy khóc nhèo nhẽo”.
Bà mối tiếp tục nói. “Tôi còn nhớ cảm giác ôm đứa con trai đầu lòng của mình trong tay khi nó còn bé xíu. Thật hạnh phúc! Nó trắng như một rổ bánh gạo mới làm trong ngày Tết, mềm mại và mỡ màng như cục bột ấm. Nhìn chỉ muốn cắn một cái thôi. Bây giờ nó là một đứa đần độn to xác”, bà mối nói, khi cảm thấy cần phải thêm một lời phàn nàn vào sự khoe khoang của mình.
Cuối cùng mẹ của Hoonie cũng mỉm cười, bởi vì hình ảnh đó gần như quá sinh động đối với bà. Có bà già nào lại không khát khao được bế cháu đích tôn khi mà một ý nghĩ như thế, trước khi cuộc viếng thăm của bà mối diễn ra, là điều không thể tưởng tượng nổi cơ chứ? Bà cắn chặt răng để giữ vẻ bình thản và cầm chiếc bát tô lên. Bà lắc lắc cái bát để xóc muối cho đều.
“Cô bé đó có khuôn mặt xinh xắn. Không hề có sẹo rỗ. Nó cư xử tốt, vâng lời cha và các chị. Không quá đen. Nó hơi nhỏ người, nhưng chân tay chắc khỏe. Cô bé sẽ cần tăng cân nhưng bà hiểu mà. Đây là thời kỳ khó khăn đối với gia đình đó”. Bà mối nhìn rổ khoai tây ở góc bếp mỉm cười như thể gợi ý rằng ở đây cô bé đó có thể ăn bao nhiêu tùy thích.
Mẹ của Hoonie đặt chiếc bát tô lên mặt bàn bếp và quay về phía người khách của mình.
“Tôi sẽ nói chuyện với ông nhà tôi và con trai tôi. Không có tiền để mua dê hay lợn đâu. Có lẽ chúng tôi có thể gửi ít vải bông và những thứ khác cho mùa đông. Tôi phải hỏi đã”.
•••
Cô dâu và chú rể gặp nhau trong ngày cưới, và Yangjin không bị khuôn mặt của Hoonie làm cho sợ hãi. Trong làng có ba người sinh ra đã như thế rồi. Cô đã thấy những con lợn và những vật nuôi có cái nét ấy. Một đứa bé gái sống ở gần nhà cô có cái mấu trông như quả dâu tây mọc giữa mũi cùng cái môi chẻ đôi và những đứa trẻ khác gọi nó là “Dâu Tây”, một cái tên mà đối với nó chẳng quan trọng. Khi cha của Yangjin nói với cô rằng chồng cô giống Dâu Tây nhưng còn bị khoèo chân, cô không khóc. Cha cô nói rằng cô là một đứa con gái ngoan.
Hoonie và Yangjin cưới nhau lặng lẽ đến nỗi nếu gia đình họ không mang mấy cái bánh ngải cứu sang mời những người hàng xóm thì họ sẽ bị trách là keo kiệt. Thậm chí những người khách trọ cũng kinh ngạc khi cô dâu xuất hiện, phục vụ bữa sáng vào hôm sau ngày cưới.
Khi Yangjin có thai, cô lo rằng con của mình sẽ mang những khuyết tật của Hoonie. Đứa con đầu lòng của cô bị hở hàm ếch nhưng có đôi chân bình thường. Hoonie và cha mẹ anh không buồn khi bà đỡ trao đứa bé cho họ. “Mình có phiền lòng vì điều đó không?”, Hoonie hỏi vợ, nhưng cô nói không bởi vì quả thực cô chẳng thấy phiền lòng chút nào. Khi Yangjin ở một mình với đứa con đầu lòng, cô đưa ngón tay trỏ sờ quanh miệng đứa trẻ và hôn nó. Cô chưa bao giờ yêu ai nhiều như yêu đứa con bé bỏng của cô. Được bảy tuần tuổi, đứa bé chết vì sốt cao. Đứa con thứ hai của cô có khuôn mặt hoàn hảo và đôi chân bình thường, nhưng nó cũng chết trước lễ baek-il* vì bệnh tiêu chảy và bị sốt. Các bà chị chưa chồng của cô đổ lỗi tại cô ít sữa và khuyên cô đi gặp pháp sư.
•••
Hoonie và cha mẹ anh không ủng hộ việc gặp pháp sư, nhưng khi mang thai lần thứ ba, cô vẫn đi gặp pháp sư mà không nói với họ. Tuy nhiên trong thời kỳ mang thai lần thứ ba, cô cảm thấy trong người khác lạ, và cô chấp nhận rằng, đứa con này, có thể cũng sẽ chết. Cô mất đứa con thứ ba vì bệnh đậu mùa.
Mẹ chồng cô tới gặp thầy lang và hãm trà thảo dược cho cô uống. Yangjin uống từng hớp trà màu nâu trong cốc và cảm thấy có lỗi vì giá của nó đắt quá. Sau mỗi lần vợ sinh nở, Hoonie lại ra chợ mua loại rong biển ngon về nấu canh để cô ăn cho lành dạ. Sau mỗi lần con chết, anh lại mua những chiếc bánh gạo ngọt vẫn còn nóng từ ngoài chợ, đưa cho cô và nói: “Mình phải ăn vào. Mình phải ăn cho lại sức”.
Ba năm sau ngày cưới của Hoonie, cha anh qua đời, vài tháng sau mẹ anh theo chồng về thế giới bên kia. Bố mẹ chồng của Yangjin chưa bao giờ từ chối cô cơm ăn và áo mặc. Không ai đánh đập hay chì chiết cô ngay cả khi cô không thể sinh cho họ một đứa cháu nội sống sót.
Cuối cùng Yangjin cũng sinh được Sunja, đứa con thứ tư và là đứa con gái độc nhất sống sót; sau khi cô bé bước sang tuổi lên ba, cha mẹ cô không thể ngủ qua đêm mà không ngó sang tấm nệm hết lần này đến lần khác xem liệu hình hài nhỏ bé nằm bên cạnh họ có còn thở hay không. Hoonie tự tay làm cho con gái mình những con búp bê bằng vỏ bắp và bỏ thuốc lá để dành tiền mua kẹo cho con. Ba người nhà họ bữa nào cũng ăn cơm với nhau mặc dù những người khách trọ muốn Hoonie dùng bữa cùng. Cha mẹ của Hoonie yêu thương anh bao nhiêu thì anh yêu con mình bấy nhiêu, nhưng anh nhận thấy anh chẳng thể từ chối con bất cứ thứ gì. Sunja là một cô bé trông bình thường, hay cười và lanh lợi, nhưng đối với cha mình, cô là cô bé xinh đẹp, và anh kinh ngạc trước sự hoàn hảo của
con mình. Rất ít những người cha trên đời này trân quý con gái mình như Hoonie, và dường như anh sống chỉ để làm cho con anh cười. Vào mùa đông năm Sunja mười ba tuổi, Hoonie lặng lẽ qua đời vì bệnh lao. Trong đám tang của anh, Yangjin và con gái đau buồn khôn nguôi. Sáng hôm sau, người góa phụ trẻ dậy khỏi giường, quay trở lại với núi việc.
2
Tháng Mười một năm 1932
M
ùa đông sau cuộc xâm lược của Nhật vào Mãn Châu là một mùa đông khắc nghiệt. Những cơn gió lạnh buốt xuyên vào cái nhà trọ nhỏ ấy, và những người phụ nữ phải nhồi bông vào giữa những lớp quần áo để chống rét. Đâu đâu trên thế giới cũng thấy cái gọi là Đại Khủng Hoảng, các khách trọ thường nói trong bữa ăn, nhắc đi nhắc lại những gì họ nghe lỏm được từ những người đàn ông ở ngoài chợ biết đọc báo. Dân nghèo ở Mỹ cũng đói meo như dân nghèo ở Nga, và ở Trung Quốc. Mang tiếng là một đế chế, ấy vậy mà người Nhật bình thường cũng đói. Rõ ràng chỉ những người từng trải và quen chịu khổ mới có thể sống sót qua mùa đông đó, nhưng những tin đồn đáng hổ thẹn - về những đứa bé đi ngủ và không thức dậy nữa, những cô gái bán trinh với giá bằng một bát mì sợi, và người già lẳng lặng đi chết để người trẻ có cái ăn - nhiều vô kể.
Dẫu vậy, khách trọ vẫn mong có các bữa ăn đều đặn, và một ngôi nhà cũ thì cần được sửa chữa. Tiền thuê nhà phải được trả hằng tháng cho người đại diện của chủ sở hữu lúc nào cũng khăng khăng một là một, hai là hai. Theo thời gian, Yangjin đã học được cách quản lý đồng tiền, thương lượng với các nhà cung cấp, nói không với những điều kiện mà cô không muốn. Cô thuê hai chị em gái mồ côi, và trở thành một chủ lao động. Cô là một góa phụ ba mươi bảy tuổi quản lý một nhà trọ chứ đâu còn là một đứa con gái mới lớn chân không giày bước đến trước bậc cửa ôm khư khư bộ
đồ lót được bọc trong một vuông vải.
Yangjin phải chăm sóc Sunja và phải kiếm tiền; họ may mắn có việc kinh doanh nhà trọ mặc dù họ không sở hữu ngôi nhà đó. Tháng nào cũng vậy, cứ vào ngày mùng Một, mỗi người khách trọ lại đóng hai mươi ba yên tiền phòng và tiền cơm tháng, và càng ngày số tiền này càng không đủ để mua gạo chợ hoặc than để sưởi. Tiền thuê nhà không thể tăng, bởi vì những người khách trọ không kiếm được thêm tiền, nhưng cô vẫn phải cho họ ăn như trước. Vậy nên cô làm món nước xúp sền sệt như sữa từ xương lợn, và bổ sung các loại rau trong vườn để tạo các món ăn kèm ngon miệng; cuối tháng khi tiền chẳng còn lại là bao, cô dè sẻn với các bữa ăn từ kê, lúa mạch và những thứ đạm bạc mà họ có trong chạn. Khi không còn nhiều ngũ cốc trong bao, cô làm những chiếc bánh ngọt thơm ngon bằng bột đậu và nước lọc. Khách trọ mang cho cô những mớ cá họ bán ế, vậy là khi có thêm một xô cua hoặc cá thu, cô dùng gia vị bảo quản chúng để bổ sung cho những bữa ăn dè sẻn hơn trong những ngày tới.
Trong hai mùa trước, sáu người khách trọ thay nhau ngủ trong một phòng: ba anh em họ Chung từ Jeollado đi đánh cá đêm và ngủ ngày, còn hai thanh niên người Daegu và một người đàn ông góa vợ từ Busan làm việc ở chợ cá ngoài bãi biển và đi ngủ vào lúc sẩm tối. Trong căn phòng nhỏ, những người đàn ông nằm sát nhau như nêm cối, nhưng không ai phàn nàn, bởi vì nhà trọ này tốt chán so với những gì họ đã quen ở nhà của họ. Chăn nệm sạch sẽ, và thức ăn được múc đầy. Các cô gái giặt sạch sẽ quần áo cho họ, còn người quản lý nhà trọ thì vá quần áo rách cho họ để có thể mặc được một mùa nữa. Không người đàn ông nào có đủ tiền để cưới vợ, vậy nên đối với họ, sự sắp xếp này không tồi chút nào. Vợ có thể mang đến nguồn an ủi về thể xác cho một người đàn ông lao động, nhưng
một cuộc hôn nhân có thể sinh ra trẻ con, mà trẻ con thì cần cơm ăn, áo mặc và một mái nhà; vợ của một người đàn ông nghèo thường dễ cằn nhằn, khóc lóc, mà những người đàn ông này thì hiểu rõ những hạn chế của mình.
Giá cả leo thang kéo theo sự khan hiếm tiền bạc là điều đáng lo, nhưng các khách trọ hầu như không bao giờ chậm trả tiền trọ. Những người đàn ông làm việc ở ngoài chợ thỉnh thoảng trả bằng hàng hóa họ không bán được, và Yangjin có khi nhận một lọ dầu ăn thay cho vài yên vào ngày đóng tiền trọ. Mẹ chồng của cô đã giảng giải rằng: Con phải thật tốt với những người khách trọ. Luôn có những chỗ khác cho những người lao động ở lại. Bà giải thích, “Đàn ông có những sự lựa chọn mà phụ nữ không có”. Cuối mỗi mùa, nếu còn đồng xu nào, Yangjin lại thả chúng vào cái lọ sành và giấu vào đằng sau tấm ván ô trong tủ nơi chồng cô cất hai chiếc nhẫn vàng của mẹ anh.
•••
Đến bữa, Yangjin và con gái lặng lẽ phục vụ các món ăn trong khi các khách trọ rôm rả bàn chuyện chính trị. Mấy anh em họ Chung không biết chữ, nhưng họ theo dõi sát sao tình hình thời sự ở các bến tàu và thích phân tích số phận của đất nước tại bàn ăn tối ở nhà trọ.
Đó là vào giữa tháng Mười một, và trong một tháng, việc đánh bắt cá đã tốt hơn mong đợi. Anh em họ Chung vừa mới thức dậy. Chỉ lát nữa thôi những người khách trọ ca đêm sẽ về ngủ. Mấy anh em ngư phủ sẽ ăn bữa chính trước khi ra khơi. Sau khi được nghỉ ngơi đầy đủ và khá hăng hái, anh em họ tin rằng Nhật Bản chẳng thể thắng nổi Trung Quốc.
“Đúng vậy, quân khốn đó có thể rỉa được một miếng, nhưng Trung
Quốc sẽ không bị nuốt trọn đâu, không thể có chuyện đó!”, anh con thứ họ Chung nói.
“Những thằng lùn đó không thể chiếm nổi một vương quốc vĩ đại đâu. Trung Quốc là người anh của chúng ta! Nhật là giống xấu xa”, Fatso, người em út, đặt cốc trà ấm xuống bàn, nói lớn. “Trung Quốc sẽ dồn lũ khốn đó vào chân tường! Cứ đợi mà xem!”.
Bên trong các bức tường tồi tàn của nhà trọ, những người đàn ông nghèo khổ chế nhạo bè lũ thực dân hùng mạnh, cảm thấy an toàn, không bị cảnh sát thuộc địa, vốn chẳng thèm bận tâm đến những ngư phủ có những ý nghĩ lớn lao ấy, sờ gáy. Mấy anh em họ nói bốc lên vẻ những điểm mạnh của Trung Quốc - trái tim họ khao khát một quốc gia khác để trở nên mạnh mẽ, bởi vì chính quyền của họ đã làm họ thất vọng tràn trề. Nước Hàn đã bị biến thành thuộc địa hai mươi hai năm rồi. Người con út họ Chung chưa từng được sống ở một nước Hàn không bị Nhật Bản cai trị.
“Chị”, Fatso gọi to bằng giọng thân ái. “Chị ơi”.
“Gì ạ?”. Yangjin biết cậu ta muốn có thêm đồ ăn. Cậu là một chàng trai nhỏ bé, nhưng ăn khỏe hơn cả hai người anh cộng lại.
“Cho tôi thêm một tô xúp thơm ngon của chị nữa được không?”. “Tất nhiên là được”.
Yangjin bê xúp từ trong bếp ra. Fatso húp xì xụp, rồi bọn họ rời khỏi nhà đi làm.
Lát sau, những người làm việc ca tối về nhà tắm rửa và ăn tối một cách nhanh chóng. Họ hút tẩu, sau đó đi ngủ. Cánh phụ nữ dọn bàn, lặng lẽ ăn bữa tối đơn giản của mình, bởi vì lúc bấy giờ những người đàn ông đang ngủ. Hai cô giúp việc và Sunja lau dọn phòng bếp, cọ rửa thau chậu bẩn. Yangjin kiểm tra than trước khi chuẩn bị đi ngủ. Cuộc trò chuyện của anh
em nhà họ Chung về nước Trung Quốc cứ lởn vởn trong tâm trí cô. Hoonie thường nghe chăm chú tất cả những người đàn ông mang tin tức đến cho anh, và anh thường gật đầu, thở hắt ra, rồi đứng dậy lo các việc. “Không sao”, anh thường nói, “không sao”. Dù Trung Quốc đầu hàng hay rửa nhục, cỏ trong vườn rau vẫn phải được nhổ, những đôi dép rơm vẫn phải được bện nếu họ muốn có dép đi, và bọn trộm rình bắt mấy con gà của họ cần phải tránh xa.
•••
Gấu áo khoác ẩm ướt của Isak Baek đã đông cứng, nhưng cuối cùng Isak cũng tìm được cái nhà trọ này. Hành trình dài từ Bình Nhưỡng đã khiến anh kiệt sức. Khác hẳn với miền Bắc đầy tuyết, cái lạnh ở Busan dễ khiến người ta bị lừa. Mùa đông ở Nam Hàn có vẻ ấm hơn, nhưng gió mang sương giá từ biển luồn vào buồng phổi vốn đã yếu sẵn của anh, khiến anh lạnh thấu xương. Lúc rời khỏi nhà, Isak cảm thấy đủ sức khỏe để đi tàu hỏa, nhưng bây giờ anh cảm thấy kiệt sức, và anh biết mình cần phải nghỉ. Từ ga tàu hỏa ở Busan, anh đã tìm được một con đò nhỏ chở mình tới Yeongdo, và ngay khi xuống đò, người giao than ở địa phương đã đưa anh tới cửa nhà trọ này. Isak vừa thở vừa gõ cửa, sắp gục, tin rằng nếu có thể ngủ một đêm ngon giấc thì sáng hôm sau anh sẽ khỏe hơn. Yangjin vừa mới ngả lưng xuống tấm nệm phủ vải bông thì cô gái giúp việc gõ cửa phòng xép nơi cánh phụ nữ ngủ chung với nhau.
“Bà ơi, có một người đàn ông ở đây. Ông ấy muốn nói chuyện với ông chủ. Chuyện gì đó về anh của ông ấy, người đã ở đây nhiều năm trước. Ông ấy muốn ở lại đây. Đêm nay”, cô giúp việc nói, thở không ra hơi. Yangjin chau mày. Ai hỏi Hoonie thế nhỉ? Cô tự hỏi. Tháng tới là tròn ba
năm ngày anh mất.
Trên sàn nhà được sưởi ấm, con gái Sunja của cô đã ngủ, đang ngáy khe khẽ, mái tóc buông xõa của nó quăn quăn vì ban ngày được tết bím trải ra trên gối giống như một tấm lụa hình chữ nhật đen nhánh. Bên cạnh con bé chỉ còn một khoảng vừa đủ để hai cô giúp việc vào ngủ khi họ kết thúc các việc của buổi tối.
“Cô không nói với ông ấy rằng ông chủ đã qua đời ư?”.
“Có ạ. Ông ấy có vẻ ngạc nhiên, ông ấy nói rằng anh trai của ông ấy đã viết thư cho ông chủ nhưng không nhận được hồi âm”. Yangjin ngồi dậy, với tay lấy chiếc hanbok* bằng vải mút-xơ-lin mà cô vừa mới cởi ra, gấp gọn ghẽ để bên gối. Cô mặc chiếc áo chẽn chần bông ra ngoài váy và áo khoác nhẹ. Yangjin búi tóc bằng vài động tác khéo léo.
Nhìn thấy anh, cô hiểu vì sao người hầu gái không đuổi anh đi. Anh có dáng người như một cây thông non, thẳng, thanh nhã, và cực kỳ đẹp trai: đôi mắt phảng phất nét cười, cái mũi khỏe khoắn, và cái cổ dài. Anh có vầng trán trắng trẻo, không gợn nếp nhăn, trông không giống những người khách trọ tóc hoa râm, gọi đôi thức ăn và trêu chọc những cô hầu gái vì ế chồng chút nào. Người đàn ông trẻ mặc bộ com-lê và chiếc áo khoác dày. Đôi giày da nhập khẩu, chiếc va li da, và chiếc mũ nỉ mềm - tất cả đều lạc lõng trong cái ngõ nhỏ ấy. Vẻ ngoài của người đàn ông cho thấy anh có đủ tiền để thuê một phòng trọ ở khu trung tâm, trong một nhà nghỉ rộng rãi hơn dành cho các thương gia. Gần như tất cả các nhà nghỉ mà người Hàn có thể ở đều đầy khách, nhưng nếu có tiền thì vẫn có thể kiếm được chỗ. Với cách ăn mặc như vậy, người đàn ông này có thể được coi là một người Nhật giàu có. Cô giúp việc há hốc miệng nhìn người đàn ông,
hy vọng anh sẽ được phép ở lại.
Yangjin cúi chào, không biết phải nói gì với anh. Quả thực, người anh của vị khách này đã gửi một bức thư, nhưng cô không biết đọc. Cứ vài tháng, cô lại mời thầy giáo từ thành phố tới đọc thư giúp mình, nhưng mùa đông này do thiếu thời gian nên cô không làm việc đó.
“Chào bà”, người khách cúi chào, “tôi hy vọng không đánh thức bà. Khi tôi xuống đò thì trời đã tối. Hôm nay tôi mới biết tin về chồng bà. Tôi rất tiếc khi nghe tin buồn. Tôi là Isak Baek. Tôi từ Bình Nhưỡng tới. Anh của tôi, Yoseb Baek, nhiều năm trước đã ở đây”.
Giọng miền Bắc của anh nhẹ nhàng, và cách nói năng cho thấy anh là người có học.
“Tôi hy vọng có thể ở lại đây vài tuần trước khi đi Osaka”. Yangjin nhìn xuống đôi chân trần của mình. Phòng khách đã chật rồi, mà một người đàn ông như thế này chắc hẳn hy vọng có phòng ngủ riêng. Vào lúc khuya khoắt như thế này, tìm được người lái đò đưa anh trở vào đất liền thật khó. Isak rút một chiếc khăn tay màu trắng từ trong túi quần ra che miệng để ho.
“Gần mười năm trước anh trai tôi đã ở đây. Tôi không biết bà còn nhớ không. Anh ấy rất khâm phục chồng bà”.
Yangjin gật đầu. Người anh mang họ Baek nổi bật trong trí nhớ của cô bởi vì ông không phải là ngư phủ hoặc người kiếm ăn ngoài chợ. Tên ông là Yoseb; ông được đặt tên theo tên của một nhân vật trong Kinh Thánh. Cha mẹ ông là người Cơ Đốc giáo và là những người lập ra một nhà thờ ở miền Bắc.
“Nhưng anh trai ông - người đó trông không giống ông lắm. Ông ấy thấp và đeo kính mắt tròn. Hồi đó ông ấy đang trên đường sang Nhật; ông
ấy ở lại đây vài tuần trước khi đi”.
“Đúng rồi. Đúng rồi”. Khuôn mặt của Isak rạng rỡ hẳn lên. Anh không gặp Yoseb đã hơn mười năm. “Anh tôi sống với vợ ở Osaka. Anh ấy là người đã viết thư cho chồng bà. Anh ấy cứ nài tôi ở lại đây. Anh ấy viết thư kể về món cá tuyết nấu nhừ của bà. Anh ấy bảo ‘ngon hơn ở nhà’”.
Yangjin mỉm cười. Làm sao cô không mỉm cười được cơ chứ? “Anh tôi kể rằng chồng bà làm việc rất chăm chỉ”. Dĩ nhiên Yoseb có kể về cái chân khoèo hoặc dị tật hở hàm ếch, nhưng Isak không nhắc tới những điều ấy. Isak tò mò muốn gặp người đàn ông đã vượt qua những khó khăn như thế.
“Ông đã ăn tối chưa?”, Yangjin hỏi.
“Tôi không sao. Cảm ơn bà”.
“Chúng tôi có thể làm món gì đó để ông ăn”.
“Tôi có thể nghỉ lại đây không? Tôi hiểu rằng bà không mong chứa tôi, nhưng tôi đã đi suốt hai ngày nay”.
“Nhưng chúng tôi không còn phòng trống nào, thưa ông. Nhà này không được rộng rãi cho lắm, ông thấy đấy…”.
Isak thở dài, rồi mỉm cười với người góa phụ. Đây là gánh nặng của anh, chứ không phải của chủ nhà, và anh không muốn cô cảm thấy không thoải mái. Anh nhìn quanh tìm kiếm chiếc va li. Nó ở gần cửa.
“Tất nhiên. Vậy thì tôi sẽ quay lại Busan tìm một chỗ nghỉ. Trước khi đi, tôi muốn hỏi, bà cố biết một nhà trọ nào ở quanh đây có thể còn phòng trống cho tôi không?”. Anh đứng thẳng, không muốn mình trông có vẻ thất vọng.
“Quanh đây thì không có đâu, mà chúng tôi thì chẳng còn phòng trống
nào”, Yangjin nói. Nếu cô thu xếp để anh ở chung với những người khác, anh có thể sẽ khó chịu về mùi của những người đàn ông ấy. Dẫu có giặt giũ thế nào cũng không thể loại bỏ được mùi cá tanh khỏi quần áo họ. Isak nhắm mắt lại, gật đầu. Anh quay gót để rời khỏi đó.
“Còn một chỗ trống trong phòng mà tất cả các khách trọ ngủ. Chỉ còn một chỗ thôi. Ba khách ngủ ban ngày và ba khách ngủ ban đêm, tùy thuộc vào lịch làm việc của họ. Chỉ còn đủ chỗ cho một người nữa thôi, nhưng chỗ đó không được thoải mái cho lắm. Nếu thích ông có thể ngó qua chỗ đó”.
“Vậy là tốt rồi”, Isak nói, như trút được gánh nặng. “Tôi rất cảm ơn bà. Tôi có thể trả bà tiền thuê trọ một tháng”.
“Có lẽ ông không quen ở chật chội như thế này. Khi anh của ông ở đây với chúng tôi, chỗ này chưa đông người như bây giờ. Hồi ấy nhà trọ này không bận rộn lắm. Tôi không biết liệu…”.
“Không, không. Tôi chỉ muốn có một góc để ngả lưng thôi”. “Bây giờ đã khuya rồi, và đêm nay gió rất to”. Yangjin bỗng cảm thấy ngượng vì điều kiện của nhà trọ, khi mà trước đây cô chưa từng cảm thấy như vậy. Cô nghĩ nếu sáng hôm sau vị khách này muốn đi, thì cô sẽ trả lại tiền cho người ta.
Cô nói cho anh biết số tiền thuê tháng phải trả trước. Nếu chưa hết tháng anh đã đi, thì cô sẽ trả lại anh tiền dư. Cô tính giá hai mươi ba yên, bằng tiền thuê trọ của một người đánh cá. Isak đếm tiền và đưa cho cô bằng cả hai tay.
Cô giúp việc đặt túi xách của anh trước cửa phòng và đem ra một bộ khăn trải giường từ trong tủ đựng đồ dự trữ. Anh sẽ cần nước nóng từ nhà bếp để rửa ráy. Cô giúp việc luôn nhìn xuống, nhưng không khỏi tò mò về
anh. Yangjin đi cùng người giúp việc để chuẩn bị chỗ ngủ cho khách, và Isak lặng lẽ quan sát họ. Sau đó, cô giúp việc mang đến cho anh một cái chậu đựng đầy nước ấm cùng một chiếc khăn mặt sạch. Mấy anh chàng từ Daegu nằm sát bên nhau ngủ, và người đàn ông góa vợ ngủ với hai cánh tay để cao quá đầu. Tấm nệm của Isak được đặt song song với nệm của người đàn ông góa vợ.
Sáng ra mấy người đàn ông sẽ cằn nhằn đôi chút vì phải chia sẻ chỗ nằm với một người khách trọ nữa, nhưng có vẻ như Yangjin không thể từ chối anh.
3
R
ạng sáng, anh em họ Chung từ ngoài thuyền trở về. Ngay lập tức Fatso nhận thấy người khách trọ mới vẫn đang ngủ trong phòng. Cậu ta cười toe toét với Yangjin. “Tôi mừng khi thấy một phụ nữ chăm chỉ như chị thành công như vậy. Tin đồn về tài nấu ăn của chị đã bay tới tai người giàu. Tới đây chị sẽ nhận khách trọ người Nhật! Tôi hy vọng chị tính tiền trọ của anh ta cao gấp ba lần tiền trọ mà những người nghèo chúng tôi trả”.
Sunja nhìn cậu ta lắc đầu, nhưng cậu không để ý. Fatso sờ vào chiếc cà-vạt treo bên cạnh bộ com-lê của Isak.
“Vậy đây là thứ mà các nhà quý tộc đeo quanh cổ để trông có vẻ quan trọng ư? Trông giống như cái thòng lọng. Tôi chưa bao giờ nhìn cận cảnh một thứ như thế này! Ôi - mịn quá!”. Người em út lại chà cái cà-vạt lên ria mép của mình, “Có lẽ đây là lụa. Một cái thòng lọng bằng lụa thật!”. Cậu ta cười to, nhưng Isak vẫn nằm im.
“Fatso, đừng động vào cái đó”, Gombo nói bằng giọng nghiêm khắc. Khuôn mặt của người anh cả đầy nốt rỗ, và khi anh giận dữ, mặt anh đỏ bừng. Từ khi cha họ qua đời, anh phải chăm sóc hai người em.
Fatso buông chiếc cà-vạt ra, trông có vẻ ngượng. Cậu không thích làm Gombo bực mình. Mấy anh em họ tắm rửa, ăn uống, sau đó cả ba lăn ra ngủ. Người khách trọ mới vẫn ngủ bên cạnh họ, giấc ngủ của anh thỉnh
thoảng lại bị một tiếng ho nghẹt tiếng làm gián đoạn.
Yangjin đi vào bếp để bảo các cô giúp việc để ý người khách mới phòng khi anh thức dậy. Họ phải chuẩn bị bữa ăn nóng sẵn sàng cho anh. Sunja lúi húi trong góc bếp gọt khoai lang, không nhìn lên khi mẹ mình vào hoặc ra khỏi bếp. Trong tuần vừa qua, họ chỉ nói với nhau khi cần thiết. Mấy cô giúp việc không hiểu chuyện gì đã khiến Sunja ít nói như vậy.
Xế trưa, ba anh em họ Chung thức dậy, lại ăn và đi vào làng mua thuốc lá trước khi lên thuyền. Những người khách trọ buổi tối đi làm chưa về, vậy nên ngôi nhà có vài giờ yên ắng. Gió biển thấm qua những bức tường rỗ tổ ong và xung quanh gờ cửa sổ, tạo ra luồng gió khá mạnh trong cái hành lang ngắn nối giữa các phòng. Yangjin ngồi khoanh chân gần một trong những chỗ nóng trên sàn được sưởi ấm trong phòng xép nơi cánh phụ nữ ngủ. Cô đang vá một cái quần, một trong nửa tá quần từ đống quần áo đã sờn cũ của những người khách trọ. Quần áo của những người đàn ông đó không được giặt thường xuyên lắm, bởi vì họ có ít quần áo quá và không muốn bận tâm tới chuyện đó.
“Rồi chúng lại bẩn thôi mà”, Fatso phàn nàn, mặc dù các anh của cậu thích quần áo sạch sẽ hơn. Sau khi giặt, Yangjin vá tất cả những gì có thể, và ít nhất mỗi năm một lần, cô thay cổ áo cho những chiếc sơ mi và áo khoác không thể vá hoặc giặt sạch nổi nữa. Mỗi lần người khách trọ mới ho, cô lại ngẩng lên. Cô cố tập trung vào những mũi khâu ngay ngắn hơn là vào đứa con gái đang quét sàn của mình. Hai lần một ngày, sàn nhà lót giấy nến được quét bằng chổi ngắn, sau đó được lau bằng giẻ sạch.
Cửa chính của ngôi nhà từ từ mở ra, và cả người mẹ lẫn đứa con gái đang làm việc đều ngẩng lên. Jun, người giao than, đến để lấy tiền.
Yangjin đứng dậy ra gặp ông. Sunja cúi đầu chào một cách chiếu lệ, rồi quay trở lại với việc của mình.
“Vợ ông thế nào rồi?”, Yangjin hỏi. Vợ người giao than bị bệnh dạ dày thần kinh, thỉnh thoảng nằm liệt giường.
“Sáng nay bà ấy dậy sớm và đi chợ rồi. Không thể ngăn được mụ đàn bà ấy kiếm tiền. Bà biết vợ tôi thế nào rồi đấy”, Jun nói vẻ tự hào. “Ông là một người đàn ông may mắn”. Yangjin lấy ví ra để trả tiền than của tuần đó cho ông.
“Bà ạ, nếu tất cả các khách hàng của tôi đều như bà, thì tôi sẽ chẳng bao giờ bị đói. Bà luôn trả tiền đúng hạn!”, ông cười khùng khục một cách vui vẻ.
Yangjin mỉm cười với ông ta. Tuần nào ông cũng phàn nàn rằng không ai trả tiền đúng hạn, nhưng hầu hết mọi người đều ăn ít đi để có tiền trả cho ông, bởi vì mùa đông này quá lạnh, không thể không dùng than. Người giao than cũng là một người đàn ông béo tốt thường nhận một tách trà và chút thức ăn ở từng nhà trong hành trình của mình; trong những năm đói kém như thế này, ông ta chẳng bao giờ chết đói. Vợ ông là người buôn rong biển thạo nhất ở chợ và cũng kiếm được chút đỉnh.
“Ở dưới phố, đồ chó bẩn thỉu Lee-seki đó sẽ không chịu khạc ra những gì hắn nợ”.
“Thời buổi khó khăn mà. Ai cũng có khó khăn cả”.
“Không, thời buổi khó khăn thật đấy, nhưng nhà bà đầy khách trọ bởi vì bà là người nấu ăn ngon nhất ở Kyungsangdo. Ông mục sư bây giờ đang ở trọ nhà bà đúng không? Bà đã thu xếp chỗ ngủ cho ông ấy phải không? Tôi đã nói với ông ấy rằng món cá vền biển của bà là món ăn ngon
nhất Busan”. Jun khụt khịt, không biết mình có thể kiếm được chút đồ ăn trước khi đến nhà khác hay không, nhưng ông ta chẳng ngửi thấy mùi gì thơm.
Yangjin liếc nhìn con gái mình, và Sunja ngừng lau sàn, đi vào bếp lấy thứ gì đó để người giao than ăn.
“Bà biết đấy, người đàn ông trẻ ấy đã biết về tài nấu ăn của bà qua lời kể của người anh đã ở đây mười năm trước, đúng không nhỉ? Mà cái bụng thì có trí nhớ tốt hơn trái tim!”.
“Mục sư ư?”. Yangjin trông có vẻ bối rối.
“Người đàn ông trẻ từ miền Bắc tới đó. Tối qua tôi gặp ông ấy đang lang thang quanh các con phố để tìm nhà bà. Isak Baek. Một anh chàng đẹp trai. Tôi đã chỉ cho ông ấy nhà của bà và đáng lẽ đã ghé qua, nhưng tôi có chuyến than muộn phải giao cho Cho-seki, người cuối cùng cũng kiếm được tiền để trả tôi sau một tháng thoái thác…”
“Ồ…”.
“Dù sao, tôi cũng đã nói với ông mục sư về bệnh dạ dày của bà xã tôi và kể cho ông ấy nghe bà ấy làm việc ở ngoài chợ vất vả như thế nào, và ông ấy nói sẽ cầu nguyện cho bà nhà tôi ngay, ông ấy ngay lập tức cúi đầu và nhắm mắt lại! Tôi không biết mình có tin vào cái việc lẩm bẩm mà người ta làm hay không, nhưng tôi nghĩ nó chẳng làm ai đau cả. Một người đàn ông trẻ rất đẹp trai, bà không nghĩ vậy ư? Ông ấy đã ra ngoài chưa nhỉ? Tôi nên chào ông ấy một tiếng”.
Sunja đem ra cho người giao than một cái khay gỗ có một tách trà yến mạch, một bình trà, một bát khoai lang hấp và để trước mặt ông. Người giao than ngồi sụp xuống tấm nệm trên sàn và ăn ngấu nghiến những miếng khoai lang nóng hổi.
Ông nhai kỹ, sau đó lại bắt đầu nói.
“Sáng nay tôi hỏi bà xã cảm thấy như thế nào, và bà ấy nói rằng không tệ rồi đi làm! Có thể việc cầu nguyện ấy có tác dụng. Ha!…”. “Ông ấy là người Cơ Đốc giáo ư?”. Yangjin không muốn liên tục ngắt lời người bán than, nhưng không có cách nào khác để nói chuyện với Jun, người nói luôn miệng hàng giờ. Chồng cô từng nói, là đàn ông nhưng Jun quá nhiều lời. “Một linh mục ư?”.
“Không, không, ông ấy không phải là linh mục. Những người đó khác. Baek là người theo đạo Tin Lành. Những người như thế có lấy vợ. Ông ấy sắp đi Osaka, nơi anh trai sống. Tôi không nhớ đã gặp anh ông ấy”. Ông tiếp tục nhai trong lặng lẽ và uống vài ngụm trà nhỏ.
Trước khi Yangjin có cơ hội để nói điều gì, Jun đã lại lên tiếng, “Lão Thiên hoàng Hirohito đó đã chiếm đất nước của chúng ta, cướp đất đai, những loại gạo và cá ngon nhất, và bây giờ cướp những người trẻ của chúng ta”. Ông thở dài và ăn một miếng khoai nữa. “Tôi không trách những người trẻ vì họ sang Nhật. Ở đây chẳng kiếm ra tiền. Đã quá muộn cho tôi, nhưng nếu tôi có một đứa con trai”, Jun ngừng lời, bởi vì ông không có con, và ông cảm thấy buồn khi nghĩ tới điều đó. “Tôi sẽ cho nó đi Hawaii. Bà xã tôi có một người cháu trai thông minh làm việc trong một đồn điền trồng mía ở đó. Công việc vất vả, nhưng thế thì đã sao? Cậu ta không làm việc cho lũ con hoang đó. Hôm nọ tôi ra bến tàu, mấy thằng khốn đó cố nói với tôi rằng tôi không thể…”.
Yangjin chau mày với ông vì ông nói tục. Ngôi nhà rất nhỏ mà các cô gái thì đang ở trong bếp còn Sunja đang lau phòng xép, có thể nghe thấy tất cả, và rõ ràng bọn họ đều đang chú ý.
“Tôi lấy thêm trà cho ông nhé?”.
Jun mỉm cười, đẩy cái tách không về phía cô bằng cả hai tay. “Để mất nước là lỗi chết tiệt của chúng ta. Tôi biết điều đó”, ông tiếp tục nói.
“Những thằng quý tộc khốn kiếp đó đã bán đứng chúng ta. Không một thằng con hoang quý tộc nào có đủ cả bộ hòn dái”.
Cả Yangjin và Sunja đều biết các cô gái ở trong bếp đang cười khúc khích trước cả tràng chửi rủa không thay đổi từ tuần này qua tuần khác của người giao than.
“Có thể tôi chỉ là nông dân, nhưng tôi là một người lao động chân chính, và tôi sẽ không để cho người Nhật nắm quyền điều khiển”, ông rút một chiếc khăn tay trắng sạch sẽ từ trong túi áo khoác dính đầy bụi than ra lau mũi. “Lũ con hoang. Tôi phải đi giao than tiếp đây”.
Người góa phụ bảo ông đợi một chút trong khi cô đi vào bếp. Ở ngưỡng cửa, Yangjin đưa cho Jun một gói khoai mới đào được bọc bằng một mảnh vải. Một củ khoai thò ra khỏi cái bọc, lăn xuống sàn nhà. Ông vội chộp lấy nó bỏ vào trong túi áo khoác sâu của mình. “Đừng bao giờ để mất những gì giá trị”.
“Dành cho vợ ông”, Yangjin nói. “Hãy nói tôi gửi lời thăm bà ấy nhé”. “Cảm ơn bà”. Jun vội xỏ giày và rời khỏi đó.
Yangjin đứng ở ngưỡng cửa nhìn người giao than đi xa dần, mãi cho tới khi ông bước vào cửa của ngôi nhà kế bên.
•••
Không có bài diễn thuyết cao ngạo của người đàn ông nhiều lời đó, ngôi nhà trở nên vắng vẻ hơn. Sunja đang quỳ rạp để lau hành lang nối
phòng khách với phần còn lại của ngôi nhà. Cô bé có thân hình rắn chắc như một khúc gỗ trắng - rất giống tạng người của mẹ cô - với sức lực lớn nằm trong đôi bàn tay khéo léo, đôi cánh tay săn chắc, và đôi chân khỏe. Khung người thấp bè bè được rèn luyện cho sự lao động vất vả, với chút ít duyên dáng thấp thoáng ở khuôn mặt hoặc chân tay, nhưng cô khá lôi cuốn về mặt thể chất - hấp dẫn hơn là xinh xắn. Ở khung cảnh nào, Sunja cũng được chú ý ngay lập tức vì năng lượng dồi dào và thái độ vui vẻ. Các khách trọ chưa bao giờ ngừng cố gắng tán tỉnh Sunja, nhưng không một ai thành công. Đôi mắt đen của cô lấp lánh như những viên đá cuội óng ánh được đặt trên một bề mặt trắng bóng, và khi cô cất tiếng cười, bạn không thể không cười cùng cô. Cha cô, Hoonie, đã mê mẩn cô từ lúc chào đời, và thậm chí khi còn nhỏ, Sunja đã coi việc làm cho cha hạnh phúc là bổn phận của mình. Ngay khi biết đi, cô bé đã lẽo đẽo đi theo cha như một con vật nuôi trung thành, và mặc dù cô ngưỡng mộ mẹ mình, nhưng khi cha cô qua đời, từ một bé gái vui tươi Sunja trở thành một thiếu nữ trầm tư.
Không ai trong mấy anh em nhà họ Chung có đủ tiền cưới vợ, nhưng Gombo, người anh cả, đã hơn một lần nói rằng một cô gái như Sunja sẽ trở thành một người vợ tốt dành cho một người đàn ông muốn vươn lên trong thế giới này. Fatso thích cô, nhưng đã chuẩn bị tinh thần để quý mến cô như quý một người chị dâu, mặc dù cô bằng tuổi cậu, mới mười sáu. Nếu có người nào đó trong số anh em họ có thể lấy vợ, thì Gombo, người anh cả, sẽ thực hiện việc đó trước hai người em. Chuyện đó chẳng quan trọng nữa, bởi vì cách đây không lâu, Sunja đã đánh mất mọi triển vọng hôn nhân của mình. Cô có thai, và cha của đứa bé không thể cưới cô. Một tuần trước, Sunja đã thú nhận chuyện đó với mẹ của mình, nhưng tất nhiên, không ai khác biết chuyện.
“Bà ơi! Bà ơi!”. Cô giúp việc lớn tuổi hơn hét lên từ phòng khách của ngôi nhà, nơi các khách trọ ngủ, và Yangjin vội chạy tới đó. Sunja buông rơi tấm giẻ lau chạy theo mẹ.
“Có máu! Trên gối! Và người ông ấy đẫm mồ hôi!”.
Bokhee, cô chị trong hai chị em người giúp việc, thở sâu để lấy lại bình tĩnh. Cô không có thói quen nói to, và cô không muốn làm người khác sợ hãi, nhưng cô không biết người khách trọ ấy đã chết hay đang hấp hối, và cô sợ quá không dám đến gần.
Trong giây lát không ai nói gì, thế rồi Yangjin bảo người giúp việc hãy ra khỏi phòng và đợi ở ngoài cửa.
“Con nghĩ đó là bệnh lao”, Sunja nói.
Yangjin gật đầu. Vẻ bề ngoài của người khách trọ khiến cô nhớ tới những tuần cuối cùng của Hoonie.
“Tới chỗ thầy thuốc ngay”, Yangjin bảo Bokhee, nhưng rồi cô đổi ý. “Không, không, đợi đã. Tôi có thể sẽ cần cô”.
Isak nằm ngủ trên gối, toát mồ hôi, mặt đỏ bừng, không biết những người phụ nữ đang nhìn mình. Dokhee, người giúp việc ít tuổi hơn, vừa mới từ trong bếp ra, há hốc miệng, bật ra cả tiếng kêu thảng thốt, để rồi bị chị cô “suỵt”.
Khi người khách trọ đến vào đêm hôm trước, vẻ xanh xao của anh rất dễ nhận thấy, nhưng trong ánh sáng ban ngày, khuôn mặt điển trai của anh toàn một màu xám - màu của nước mưa bẩn được đựng trong một cái vại. Gối của anh ướt vì vô số những chấm nhỏ màu đỏ mà anh đã ho ra.
“Ôi…”, Yangjin thốt lên, hoảng hốt và lo lắng. “Chúng ta cần chuyển ông ấy ra khỏi đây ngay lập tức. Những người khác có thể bị nhiễm bệnh.
Dokhee, dọn mọi thứ trong buồng kho ra đi. Mau lên”. Cô sẽ chuyển anh vào buồng kho, nơi chồng cô đã ngủ khi anh đổ bệnh, nhưng việc đó sẽ dễ dàng nếu anh có thể bước được vài bước vào phòng trong hơn là cô phải tự mình chuyển anh vào đó.
Yangjin kéo góc tấm nệm cố đánh thức anh dậy.
“Mục sư Baek!”, Yangjin khẽ lay cánh tay anh. “Ông ơi!”. Cuối cùng, Isak mở mắt ra. Anh không nhớ nổi mình đang ở đâu.
Trong giấc mơ, anh thấy mình đang ở nhà, nghỉ ngơi bên vườn táo; những cây táo nở hoa trắng muốt. Khi anh nhớ ra, anh nhận ra người quản lý nhà trọ.
“Mọi chuyện ổn chứ?”.
“Ông bị bệnh lao phải không?”. Yangjin hỏi anh. Chắc chắn, anh phải biết.
Anh lắc đầu.
“Không, tôi bị cách đây hai năm cơ. Từ đó tôi khỏe”. Isak đặt tay lên trán và sờ mồ hôi dọc đường chân tóc. Anh nhấc đầu lên và cảm thấy đầu nặng trĩu.
“Tôi hiểu”, anh nói, nhìn những vết máu trên gối. “Tôi rất tiếc. Nếu biết mình có thể gây hại cho bà thì tôi đã không tới đây. Tôi nên đi khỏi đây. Tôi không muốn gây nguy hiểm cho bà”. Isak nhắm mắt lại bởi vì anh cảm thấy rất mệt. Từ bé đến giờ, Isak ốm đau luôn, và bệnh lao mà anh nhiễm gần đây nhất chỉ là một trong nhiều chứng bệnh mà anh đã chịu đựng.
Cha mẹ anh và các bác sĩ không muốn anh đi Osaka; chỉ có anh hai Yoseb của anh là cảm thấy điều đó sẽ tốt hơn cho anh, bởi vì Osaka ấm áp
hơn Bình Nhưỡng và bởi Yoseb biết Isak ghét bị coi là một người bệnh tật như anh đã bị đối xử trong phần lớn cuộc đời đến mức nào. “Tôi nên trở về nhà”, Isak nói, vẫn nhắm mắt
“Ông sẽ chết trên tàu hỏa. Ông sẽ ốm nặng hơn trước khi khá lên. Ông có thể ngồi dậy không?”, Yangjin hỏi.
Isak cố ngồi dậy và dựa lưng vào bức tường lạnh. Trên đường đi, anh đã cảm thấy mệt, nhưng bây giờ anh cảm thấy như thể có một con gấu đang đẩy anh. Anh cố gắng thở bình thường và quay mặt vào tường để ho. Những chấm máu in lên tường.
“Ông sẽ ở lại đây. Cho tới khi ông khỏe lại”, Yangjin nói. Cô và Sunja nhìn nhau. Họ đã không nhiễm bệnh khi Hoonie mắc bệnh này, nhưng các cô gái, khi đó không ở đây, và các khách trọ cần phải được bảo vệ bằng cách này hay cách khác.
Yangjin nhìn anh. “Ông có thể đi một chút vào phòng trong không? Chúng tôi phải cách ly ông với những người khác”.
Isak cố đứng dậy nhưng không thể. Yangjin gật đầu. Cô bảo Dokhee đi mua thuốc còn Bokhee quay vào bếp để chuẩn bị bữa tối cho các khách trọ.
Yangjin bảo anh nằm xuống tấm nệm gấp, rồi cô kéo tấm nệm một cách từ từ về phía buồng kho, theo cách cô đã chuyển chồng mình vào đó ba năm trước.
Isak thều thào, “Tôi không cố ý gây hại cho bà”.
Người đàn ông trẻ thầm nguyền rủa bản thân vì mong muốn được thấy thế giới ngoài nơi mình sinh ra và vì đã tự dối lòng rằng mình đủ khỏe để đến Osaka khi mà anh đã cảm thấy rằng mình chưa bao giờ có thể được
chữa trị dứt bệnh. Nếu anh lây bệnh sang bất cứ người nào mà anh tiếp xúc thì cái chết của người đó là do lỗi của anh. Nếu anh phải chết, thì anh hy vọng sẽ chết một cách nhanh chóng để không ảnh hưởng những người vô tội.
4
Tháng Sáu năm 1932
V
ào đầu mùa hạ, chưa đầy sáu tháng trước khi vị mục sư trẻ đến nhà trọ ấy và ngã bệnh, Sunja đã gặp một người buôn cá tên là Koh Hansu. Vào cái buổi sáng Sunja đi chợ để mua các thứ cho nhà trọ, có sự mát lạnh dội vào không khí biển. Từ khi còn là một đứa trẻ sơ sinh được địu trên lưng mẹ, cô đã đến chợ trời ở Nampo-dong; lớn hơn một chút, cô được cha bế trên tay khi ông lê bước đến đó, mất gần một tiếng đồng hồ vì đôi chân dị tật. Đi chợ với cha thú vị hơn đi với mẹ cô, bởi vì dọc đường đi mọi người trong làng đều chào ông thật nồng nhiệt. Cái miệng dị dạng và những bước chân vụng về của ông dường như chẳng thành vấn đề trước những lời thăm hỏi ân cần của bà con chòm xóm về gia đình, nhà trọ, và các khách trọ. Hoonie không bao giờ nói nhiều, nhưng rõ ràng đối với con gái ông, ngay cả trong trường hợp đó, nhiều người vẫn tìm kiếm sự ủng hộ không lời của ông - cái nhìn sâu sắc từ đôi mắt trung thực của ông.
Sau khi Hoonie qua đời, Sunja đảm nhận việc đi mua đồ cho nhà trọ. Lộ trình đi mua sắm của cô không thay đổi so với những gì cô được cha mẹ dạy: trước tiên, mua đồ tươi, sau đó mua xương lợn để nấu xúp từ cửa hàng thịt, rồi đến vài thứ khác từ các bà bán hàng ngoài chợ ngồi xổm bên những chậu đựng gia vị đầy ắp, những dãy cá kiếm sâu hút lấp lánh hoặc cá tráp béo tròn được đánh bắt từ nhiều giờ trước - hàng hóa của họ được
bày một cách hấp dẫn trên những tấm vải sáp màu đỏ và màu ngọc lam trải trên mặt đất. Cái chợ rộng mênh mông dành cho đồ hải sản - một trong những chợ lớn nhất chuyên về hải sản ở nước Hàn - nằm vắt ngang bãi biển được trải đá cuội và đá dăm, và các bà bán hàng, người nào người nấy từ cái vuông vải vá tẩm hắc ín của mình, rao hàng to hết mức có thể.
Sunja đang mua hàng của vợ người giao than thường bán loại rong biển ngon nhất. Bà ấy để ý thấy người buôn cá đang nhìn cô gái đến từ nhà trọ ấy đăm đăm.
“Gã đàn ông trơ trẽn. Cái cách hắn nhìn kìa! Hắn đủ già để làm cha của cháu đấy!”.
Bà bán rong biển đảo mắt. “Bởi vì sự giàu có của một người đàn ông không mang đến cho ông ta cái quyền được trơ trẽn như thế với một cô gái ngoan xuất thân từ một gia đình tử tế”.
Sunja ngước mắt lên và thấy người đàn ông lạ mặt mặc bộ com-lê sáng màu, đi đôi giày da màu trắng, ông ta đang đứng gần những quầy giao dịch được dựng bằng gỗ và tôn múi cùng tất cả người mua buôn hải sản khác. Đội chiếc mũ Panama màu trắng nhạt như các diễn viên trong những tấm áp-phích quảng cáo phim, Koh Hansu nổi bật như một con chim tao nhã với bộ lông màu trắng nhạt giữa những người đàn ông khác mặc đồ tối màu. Ông ta nhìn cô đăm đăm, hầu như không để ý đến những người đang nói chuyện xung quanh mình. Các thương lái cầm trịch những vụ mua sỉ hải sản diễn ra ở chợ. Họ không những có quyền ấn định giá mà còn có thể trừng phạt bất cứ thuyền trưởng hoặc ngư dân nào bằng cách không mua mẻ cá của người đó; họ cũng bắt tay với các quan chức người Nhật điều hành các bến cảng. Tất cả mọi người đều chiều theo các thương lái đó, và ít ai cảm thấy thoải mái khi ở cạnh họ. Các thương lái đó hiếm khi
hòa nhập xã hội bên ngoài giới mình. Các khách trọ nói bọn họ là đám con buôn kiêu căng kiếm lời từ hoạt động đánh bắt cá nhưng không để bàn tay trắng trẻo của mình dính mùi cá tanh. Dẫu vậy, các ngư dân vẫn phải giữ mối giao hảo với những gã đàn ông có sẵn tiền cho những vụ mua sỉ và những khoản trả trước cần thiết khi việc đánh bắt không thuận lợi.
“Một cô gái như cháu sẽ được một người đẹp trai để ý, nhưng lão này có vẻ cáo già quá. Hắn là người Jeju nhưng sống ở Osaka. Bác nghe nói hắn thạo tiếng Nhật. Chồng bác nói rằng hắn thông minh hơn tất cả bọn họ cộng lại, nhưng láu cá. Hừm! Hắn vẫn nhìn cháu kìa!”. Máu dồn lên mặt người đàn bà bán rong biển, khiến mặt bà đỏ ửng đến tận xương quai xanh.
Sunja lắc đầu, cô không muốn kiểm chứng. Khi những người khách trọ tán tỉnh cô, cô lờ họ đi, tiếp tục làm việc của mình, và bây giờ cô cũng xử sự như vậy. Dù gì các bà bán hàng ở chợ cũng hay nói quá lên.
“Cho cháu mua loại rong biển mà mẹ cháu thích được không ạ?”. Sunja vờ tập trung chú ý vào đống rong biển khô hình chữ nhật được gấp như vải và để riêng thành hàng với chất lượng và giá cả khác nhau.
Sực nhớ ra, bà bán hàng chớp mắt, rồi gói một lượng lớn rong biển cho Sunja. Cô bé đếm những đồng tiền xu, và đưa hai tay ra đón lấy gói rong.
“Hiện giờ mẹ của cháu có bao nhiêu khách trọ?”.
“Sáu ạ”. Liếc qua, Sunja có thể thấy người đàn ông đó đang nói chuyện với một người thương buôn khác, nhưng vẫn nhìn về phía cô. “Mẹ cháu rất bận”.
“Tất nhiên là bận rồi! Sunja ạ, cuộc sống của một người đàn bà là công việc, công việc bất tận, và chịu khổ. Khổ và khổ hơn. Cháu biết đấy,
tốt hơn nên lường trước điều đó. Cháu sắp trở thành đàn bà rồi, vậy nên cháu nên được nói cho biết điều này. Đối với một người đàn bà, người đàn ông mà cháu lấy làm chồng hoàn toàn quyết định chất lượng cuộc sống của cháu. Một người đàn ông tốt là một cuộc sống tốt, và một người đàn ông tồi là một cuộc sống đáng nguyền rủa - nhưng dù sao chăng nữa, hãy luôn biết rằng sẽ có đau khổ, và cứ lao động quần quật thôi. Không ai quan tâm chăm sóc một người đàn bà nghèo đâu - tự lo cho mình thôi”.
Bà Jun vỗ liên tiếp cái bụng béo của mình và quay sang người khách hàng mới, để cho Sunja về nhà.
Trong bữa ăn tối, mấy anh em họ Chung nhắc đến Koh Hansu, người đã mua hết mẻ cá họ đánh bắt được.
“Là một người buôn cá, hắn được đấy”, Gombo nói. “Tao thích một người khôn khéo không chịu đựng những kẻ ngốc như hắn. Koh không cò cưa mặc cả. Chỉ một giá thôi, và hắn đủ công bằng. Tao không nghĩ hắn đang cố lừa chúng mày như những kẻ khác, nhưng chúng mày không thể từ chối hắn”.
Fatso chêm vào rằng người buôn đá lạnh đã nói với cậu rằng gã thương lái người Jeju đó chắc hẳn giàu đến mức không thể tưởng tượng nổi. Hắn chỉ đến Busan ba đêm một tuần, còn lại toàn sống ở Osaka và Seoul. Mọi người gọi hắn là Sếp.
•••
Koh Hansu dường như có mặt ở khắp mọi nơi. Bất cứ khi nào cô ở chợ, ông ta cũng xuất hiện, không che giấu sự chú ý của mình. Mặc dù cô cố lờ cái nhìn đăm đăm của ông ta đi và lo việc của mình, nhưng cô vẫn cảm thấy mặt nóng bừng trước sự hiện diện của ông ta.
Một tuần sau, ông ta nói chuyện với cô. Sunja vừa mới mua sắm xong và đang một mình bước trên con đường dẫn tới bến đò.
“Cô gái trẻ, hôm nay cô nấu gì cho bữa tối ở nhà trọ vậy?”. Chỉ có cô và ông ta ở đó, nhưng chỗ ấy không xa khu chợ ồn ào. Cô ngước mắt lên nhìn, rồi thoăn thoắt bước đi mà không trả lời. Tim
cô đập thình thịch trong sợ hãi, và cô hy vọng ông ta không bám theo cô. Trên chuyến đò đó, cô cố nhớ lại giọng ông ta nghe như thế nào; đó là giọng của một người khỏe mạnh đang cố gắng nói nghe sao cho có vẻ nhẹ nhàng. Cũng có chút du dương tối thiểu của giọng người Jeju trong cách nói của ông ta, một vài âm tiết được kéo dài; đó là sự khác biệt so với lối nói của người Busan, ông ta phát âm từ “bữa tối” nghe ngồ ngộ, và phải mất vài giây cô mới hiểu ông ta đang nói gì.
Ngày hôm sau, Hansu đuổi kịp cô khi cô đang trên đường về nhà. “Sao cô chưa lấy chồng? Cô đủ lớn rồi mà”.
Sunja bước nhanh hơn và lại bỏ mặc ông ta ở đó. Ông ta không bám theo cô.
Dù cô không trả lời, Hansu vẫn cố bắt chuyện với cô.
Luôn là một câu hỏi, không hơn, và không bao giờ lặp lại, nhưng khi ông ta nhìn thấy cô, và nếu Sunja ở trong tầm nghe, ông ta luôn nói điều gì đó, và cô bước nhanh khỏi đó mà không nói một lời.
Hansu không bị sự im lặng của cô làm cho chưng hửng; nếu cô cứ cố buông lời giễu cợt thì ông ta đã nghĩ cô cũng bình thường thôi, chẳng có gì đặc biệt. Ông ta thích vẻ ngoài của cô - mái tóc tết bím đen nhánh, bộ ngực căng đầy bên dưới chiếc áo sơ mi trắng hồ bột, cái đai áo dài được thắt gọn gàng, và bước chân vững chãi, nhanh nhẹn của cô. Đôi bàn tay măng
tơ của cô cho thấy sự lao động; không mềm mại, không phải là đôi bàn tay thành thạo của một cô gái hầu trà hay bàn tay trắng trẻo, thanh mảnh của con nhà quyền quý. Thân hình dễ thương của cô săn chắc và đầy đặn - phần cánh tay phía trên của cô nằm gọn trong tay áo trắng một cách êm ái và thoải mái. Những chỗ được che đi trên cơ thể cô khiến ông ta bị kích thích; ông ta khao khát được thấy làn da của cô. Cô gái này có điều gì đó rất đặc biệt trong dáng điệu, sự quả quyết mà gái nhà giàu hay nhà nghèo đều không có.
Hansu đã biết cô là ai, sống ở đâu. Thói quen mua sắm của cô ngày nào cũng giống như ngày nào. Vào buổi sáng, cô đến chợ và ngay sau khi mua các thứ xong cô rời khỏi đó, không la cà. Ông ta biết cứ vào đúng giờ đó họ sẽ chạm mặt nhau.
Đó là vào tuần thứ hai của tháng Sáu. Sunja vừa mua sắm cho ngày hôm đó xong và đang trên đường về nhà, mỗi tay cắp một cái rổ đựng đầy các thứ. Ba học sinh trung học người Nhật mặc áo khoác đồng phục không cài cúc đang đi ra bến cảng để câu cá. Trời quá nóng để ngồi một chỗ, mấy đứa con trai ấy bỏ học. Nhìn thấy Sunja đang đi về phía bến đò Yeongdo, mấy đứa con trai cười khúc khích vây lấy cô, và một đứa trắng trẻo, gầy gò, cao nhất trong bọn, giật quả dưa vàng dài thuột khỏi rổ của cô. Nó tung quả dưa qua đầu Sunja sang cho mấy thằng bạn.
“Trả cái đó lại đây”, Sunja bình tĩnh nói bằng tiếng Hàn, hy vọng bọn chúng không kéo lên đò. Những chuyện phiền toái như thế này xảy ra thường xuyên trên đất liền, nhưng ở Yeongdo có ít người Nhật hơn. Sunja biết rằng điều quan trọng là thoát khỏi rắc rối này thật nhanh. Thỉnh thoảng các học sinh người Nhật trêu chọc trẻ người Hàn và ngược lại. Trẻ người Hàn được cảnh báo không nên đi một mình, nhưng Sunja đã mười
sáu tuổi rồi, và là một cô gái mạnh mẽ.
Cô đoán rằng mấy thằng con trai người Nhật này chắc hẳn tưởng rằng cô nhỏ tuổi hơn chúng, và cô cố nói nghe như ra lệnh.
“Gì vậy? Nó nói gì vậy?”. Bọn chúng vừa cười khúc khích vừa nói với nhau bằng tiếng Nhật. “Chúng tao không hiểu mày nói gì, con đĩ hôi hám”. Sunja nhìn quanh, nhưng dường như không có ai đang quan sát họ. Người lái đò ở gần bến đò đang nói chuyện với hai người đàn ông, còn mấy bà ở rìa chợ thì đang bận việc.
“Trả lại đây”, cô nói bằng giọng kiên định, và chìa bàn tay phải ra. Chiếc rổ nằm phía trong khuỷu tay cong gập, và thật khó để cô giữ thăng bằng. Cô nhìn thẳng vào thằng con trai gầy nhom đứng cao hơn cô hẳn một cái đầu. Bọn chúng cười và tiếp tục thì thầm với nhau bằng tiếng Nhật, Sunja không hiểu chúng nói gì. Hai thằng con trai tung quả dưa vàng qua lại trong khi đứa thứ ba lục lọi cái rổ bên tay trái mà giờ đây cô sợ đặt xuống.
Mấy đứa con trai chỉ tầm tuổi cô hoặc nhỏ hơn, nhưng chúng khỏe và đầy năng lượng khó lường. Đứa thứ ba, và là đứa thấp nhất, lôi những chiếc đuôi bò từ đáy rổ ra.
“Bọn yobo* này ăn thịt chó và bây giờ chúng cướp cả thức ăn của chó! Những đứa con gái như mày ăn xương á? Đồ chó cái ngu ngốc”. Sunja chụp hụt trong không khí, cố lấy lại những chiếc xương để nấu xúp. Từ duy nhất cô có thể hiểu chắc chắn là từ “yobo”, thường có nghĩa là “anh yêu” hoặc “em yêu”, nhưng cũng là một từ mang nghĩa xúc phạm được người Nhật sử dụng để chỉ người Hàn. Thằng con trai có dáng người thấp giơ cao một chiếc xương lên và ngửi. Nó nhăn mặt. “Tởm! Sao bọn yobo lại có thể ăn thứ cứt đái này nhỉ?”.
“Này, thứ đó đắt đấy! Trả lại đi!”. Sunja gào lên, không thể nén khóc. “Gì cơ? Tao không hiểu mày nói gì, con bé Hàn ngu ngốc ạ. Tại sao mày không biết nói tiếng Nhật hả? Mọi thần dân trung thành của Nhật hoàng đều phải biết nói tiếng Nhật! Mày không phải là một thần dân trung thành hả?”.
Thằng con trai có dáng người cao phớt lờ những đứa khác. Nó đánh giá cỡ ngực của Sunja.
“Con yobo này vú to thật đấy. Gái Nhật mảnh khảnh, không giống những con cái này”.
Sợ hãi, Sunja quyết định quên chỗ thực phẩm ấy và bắt đầu bước đi, nhưng mấy thằng con trai đó vây lấy cô, không để cô đi qua. “Hãy bóp những quả dưa của nó đi”. Thằng con trai cao lêu nghêu dùng bàn tay phải chộp bầu vú bên trái của cô. “Rất ngon, căng mọng. Chúng mày có muốn cắn một miếng không?”. Nó ghé sát ngực cô há miệng rõ to.
Thằng con trai có dáng người thấp giữ cái rổ đã nhẹ đi của cô chặt đến nỗi cô không thể cử động, rồi dùng ngón trỏ và ngón cái xoắn núm vú bên phải của cô.
Thằng thứ ba gợi ý, “Hãy lôi nó vào chỗ nào đó và xem thứ gì ở dưới cái váy dài kia. Quên việc câu cá đi! Con bé này có thể là mẻ thu hoạch của chúng ta”.
Thằng con trai cao lêu nghêu huých khung xương chậu của nó về phía cô. “Mày muốn nếm vị con lươn của tao đến mức nào hả?”. “Để cho tôi đi. Tôi kêu lên bây giờ đấy”, cô nói, nhưng cảm thấy như thể cổ họng mình tắc nghẹn. Thế rồi cô nhìn thấy người đàn ông ấy đứng
phía sau thằng con trai cao nghều.
Hansu túm đám tóc gáy ngắn cũn của nó bằng một tay, và kẹp chặt cái miệng của nó bằng tay kia.
“Lại gần đây”, ông ta rít lên với những đứa kia, và thật đáng khen, chúng không bỏ rơi thằng bạn đang mở mắt thao láo trong sợ hãi. “Mấy thằng chó đẻ đáng chết”, ông ta nói bằng thứ tiếng lóng hoàn hảo của người Nhật. “Nếu chúng mày còn quấy rầy cô gái này hoặc còn thò cái mặt tởm lợm của chúng mày ra ở khu vực này nữa, thì tao sẽ cho chúng mày chết tươi. Tao sẽ khiến chúng mày và gia đình chúng mày phải chết dưới tay những sát thủ người Nhật giỏi nhất mà tao biết, và không ai hay lũ chúng mày đã chết như thế nào. Cha mẹ của chúng mày là những kẻ thất bại ở Nhật, đó là lý do chúng mày phải sống ở đây. Đừng có nghĩ rằng chúng mày tài giỏi hơn những người ở đây”. Hansu mỉm cười khi ông ta nói điều này. “Bây giờ tao có thể giết chúng mày, và không một ai can thiệp hết, nhưng việc đó quá dễ. Khi tao quyết định, tao có thể khiến chúng mày bị bắt, bị tra tấn, rồi bị giết. Hôm nay tao chỉ cảnh báo chúng mày thôi bởi vì tao độ lượng, và vì chúng ta đang đứng trước một cô gái trẻ”. Hai đứa con trai vẫn im lặng, nhìn đôi mắt lồi ra của bạn chúng. Người đàn ông mặc bộ com-lê màu trắng ngà, đi đôi giày da giật tóc thằng con trai đó mỗi lúc một mạnh hơn. Thằng đó thậm chí không cố kêu la, bởi vì nó có thể cảm nhận được sức mạnh đáng sợ từ sức ép không khoan nhượng của người đàn ông.
Người đàn ông phát âm chuẩn xác như người Nhật, nhưng qua hành động của ông ta mấy thằng con trai nghĩ rằng ông ta là người Hàn. Chúng không biết ông ta là ai, nhưng chúng không mảy may nghi ngờ những lời đe dọa của ông ta.
“Từng thằng khốn kiếp một, hãy xin lỗi mau”, Hansu nói với mấy thằng con trai.
“Chúng tôi xin lỗi”. Bọn chúng cúi đầu một cách nghiêm túc trước cô. Cô nhìn chúng, không biết phải làm gì.
Chúng cúi đầu lần nữa, và Hansu nới lỏng bàn tay đang nắm tóc thằng con trai kia một chút.
Hansu quay sang Sunja mỉm cười.
“Chúng nói rằng chúng xin lỗi. Dĩ nhiên bằng tiếng Nhật. Cô có muốn chúng xin lỗi cả bằng tiếng Hàn không? Tôi có thể bắt chúng làm điều đó. Tôi có thể bắt chúng viết thư xin lỗi nếu cô muốn”.
Sunja lắc đầu. Thằng con trai cao nghều bây giờ đang khóc. “Cô có muốn tôi ném chúng xuống biển không?”.
Ông ta nói đùa, nhưng cô không thể cười nổi. Sunja lại cố lắc đầu. Mấy đứa con trai này có thể đã lôi cô đến một chỗ nào đó không ai nhìn thấy chúng. Tại sao Koh Hansu không sợ cha mẹ của chúng?
Cô nghĩ chắc chắn một học sinh người Nhật có thể khiến một người đàn ông trưởng thành người Hàn gặp rắc rối. Tại sao ông ta không sợ? Sunja bắt đầu khóc. “Thôi được rồi”, Hansu nói nhỏ với cô và buông tay ra khỏi thằng đó.
Bọn chúng nhặt quả dưa và những chiếc xương lợn bỏ trả vào rổ. “Chúng tôi rất xin lỗi”, chúng nói và cúi đầu thật thấp.
“Không bao giờ được bén mảng tới đây nữa nghe chưa. Chúng mày có hiểu không hả, cái đồ não toàn cứt?”.
Hansu nói bằng tiếng Nhật, mỉm cười thân ái để đảm bảo rằng Sunja không hiểu nghĩa của lời ông ta nói.
Mấy thằng con trai lại cúi đầu. Thằng con trai cao nghều đã són ra quần một chút. Bọn chúng đi về hướng thành phố.
Sunja đặt những cái rổ xuống đất và khóc. Cô có cảm giác như thể cánh tay mình sắp rụng. Hansu vỗ nhẹ vào vai cô.
“Cô sống ở Yeongdo”.
Cô gật đầu.
“Mẹ cô là chủ nhà trọ”.
“Vâng, thưa ông”.
“Tôi sẽ đưa cô về nhà”.
Cô lắc đầu.
“Tôi làm phiền ông như vậy đủ rồi. Tôi có thể tự về được”. Sunja không thể ngẩng đầu lên.
“Nghe này, cô phải cẩn thận, không được đi một mình hoặc đi ra ngoài ban đêm. Nếu cô đi chợ một mình, cô phải đi theo đường cái quan. Luôn có người qua lại. Bọn chúng đang tìm kiếm các cô gái”.
Cô không hiểu.
“Chính phủ thuộc địa. Để đưa sang Trung Quốc cho lính tráng. Đừng đi theo bất kỳ ai. Đó có thể là người Hàn, một người đàn bà hoặc một người đàn ông, nói với cô rằng ở Trung Quốc hoặc ở Nhật có việc làm tốt. Đó có thể là một người nào đó mà cô biết. Hãy cảnh giác, tôi không chỉ muốn nói đến mấy thằng ngu xuẩn đó đâu. Chúng chỉ là những đứa trẻ mất nết. Nhưng ngay cả những thằng đó cũng có thể làm hại cô nếu cô không cảnh giác. Cô có hiểu không?”.
Sunja đâu có đang tìm việc, và cô không hiểu tại sao ông ta lại nói với cô về chuyện đó. Chưa từng có ai tiếp cận cô để dụ cô đi làm việc ở nơi
xa. Dù sao chăng nữa cô cũng sẽ không bao giờ rời xa mẹ mình, nhưng ông ta nói đúng. Luôn có khả năng phụ nữ bị làm nhục. Những người phụ nữ quý tộc phải giấu những con dao bằng bạc trong áo cánh để tự vệ hoặc để tự sát nếu họ bị làm nhục.
Hansu đưa cho cô một chiếc khăn tay, và cô lau mặt.
“Cô nên về nhà đi. Mẹ cô sẽ lo lắng đấy”.
Hansu tiễn cô ra bến đò. Sunja đặt rổ của mình xuống lòng đò và ngồi xuống. Ngoài cô, chuyến đò đó chỉ có hai người khách nữa. Sunja cúi đầu chào. Koh Hansu lại nhìn cô, nhưng lần này mặt ông ta khác trước; ông ta trông có vẻ lo lắng. Khi con đò trôi xa khỏi bến, cô chợt nhớ ra rằng cô chưa cảm ơn ông ta.
5
K
hi Koh Hansu đưa cô lên đò, Sunja có cơ hội quan sát ông ta ở khoảng cách thật gần mà không bị phân tán. Cô thậm chí ngửi thấy mùi sáp thơm tẩm bạc hà từ mái tóc được chải mượt của ông ta. Hansu có đôi vai rộng và thân mình dày, khỏe của một người đàn ông to lớn hơn; chân ông ta không dài, nhưng cũng không ngắn. Hansu có lẽ bằng tuổi mẹ cô, ba mươi sáu. Trán ông ta hơi nhăn và những chấm đồi mồi mờ mờ cùng những nốt tàn nhang đã xuất hiện trên đôi gò má cao của ông ta.
Mũi của ông ta - hẹp, gồ lên ở bên dưới sống mũi cao - khiến ông ta trông giống người Nhật, và các mao mạch bị vỡ bên dưới vùng da quanh lỗ mũi của ông ta. Đôi mắt của ông ta màu đen hơn là nâu, hấp thụ ánh sáng như một đường hầm sâu hút, và khi ông ta nhìn cô, cô có cảm giác không thoải mái trong người. Bộ com-lê của Hansu thanh nhã và được trau chuốt; không giống những người khách trọ, ông ta không tỏa ra mùi tanh của sự lao động trên biển.
Vào phiên chợ ngày hôm sau, cô phát hiện thấy ông ta đang đứng trước một quầy mua sỉ với một đám thương nhân và đợi cho tới khi ông ta có thể nhìn thấy cô. Cô cúi đầu chào ông ta. Hansu hơi cúi đầu đáp lại, rồi quay trở lại với việc của mình. Sunja mua xong các thứ, khi cô đi về phía bến đò, ông ta đuổi kịp cô.
“Cô có chút thời gian không?”, ông ta hỏi.
Cô mở to mắt. Ông ta muốn gì?
“Để nói chuyện”.
Từ bé, Sunja luôn sống giữa những người đàn ông. Cô chưa bao giờ sợ hoặc cảm thấy lúng túng trước sự có mặt của họ, nhưng ở gần ông ta, cô không tìm được từ ngữ cô cần. Thậm chí cô cảm thấy khó mà đứng gần ông ta. Sunja nuốt khan và quyết định rằng cô sẽ nói với ông ta như nói với những người khách trọ; cô mười sáu tuổi, chứ không phải là một đứa trẻ sợ sệt.
“Cảm ơn ông hôm trước đã giúp tôi”.
“Không có gì”.
“Đáng lẽ tôi nên nói lời cảm ơn sớm hơn. Cảm ơn ông”. “Tôi muốn nói chuyện với cô. Không phải ở đây”.
“Ở đâu?”. Cô nhận ra rằng đáng lẽ cô nên hỏi tại sao.
“Tôi sẽ đến bãi biển phía sau nhà cô. Gần bãi đá đen rộng nơi thủy triều xuống thấp. Cô hay giặt giũ ở đó, gần cái vịnh ấy”. Ông ta muốn cô biết ông ta đã nắm được đôi điều về cuộc sống của cô. “Cô có thể đến đó một mình được không?”.
Sunja nhìn xuống những chiếc rổ của mình. Cô không biết phải nói gì với ông ta, nhưng cô muốn nói thêm với ông ta điều gì đó. Tuy nhiên, mẹ cô sẽ không bao giờ cho phép điều đó.
“Cô có thể ra ngoài vào sáng mai không? Vào khoảng giờ này?”. “Tôi không biết”.
“Buổi trưa có thuận hơn không?”.
“Tôi nghĩ, sau khi các ông ấy rời nhà trọ đi làm”, cô nói lí nhí.
•••
Ông ta đọc báo trong lúc đợi cô ở gần bãi đá đen. Cô chưa bao giờ thấy biển xanh như hôm ấy, và những đám mây mỏng trải dài dường như trắng hơn - tất cả mọi thứ dường như sinh động hơn khi có sự hiện diện của ông ta. Góc của tờ báo bay lật phật trong gió nhẹ, và ông ta nắm chặt chúng, nhưng khi thấy cô đến, ông ta gấp báo lại, kẹp nó vào nách, ông ta không bước về phía cô, mà để cô đến gần mình. Cô tiếp tục bước tới một cách bình tĩnh, với một bọc quần áo bẩn to tướng đội trên đầu.
“Chào ông”, cô nói, cố gắng để giọng mình nghe không có vẻ sợ hãi. Cô không thể cúi, vậy nên cô đưa tay đỡ bọc quần áo để nhấc nó xuống, nhưng Hansu đã nhanh nhẹn bước tới nhấc nó khỏi đầu cô, cô đứng thẳng lưng khi ông ta đặt cái bọc ấy trên những hòn đá khô.
“Cảm ơn ông”.
“Cô nên gọi tôi là Oppa*. Cô không có anh trai, còn tôi không có em gái. Cô có thể làm em gái của tôi”.
Sunja không nói gì.
“Chỗ này thật đẹp”. Đôi mắt của Hansu dõi tìm những cụm sóng nhỏ giữa biển khơi và dừng lại ở đường chân trời. “Không đẹp bằng Jeju nhưng nó cũng cho cảm giác tương tự. Cô và tôi đều là dân đảo. Một ngày nào đó, cô sẽ hiểu rằng dân đảo khác dân đất liền. Họ có nhiều tự do hơn”.
Cô thích giọng nói của ông ta - giọng hiểu biết, đầy chất đàn ông, phảng phất sự du dương.
“Cô có lẽ sẽ sống cả đời ở đây”.
“Đúng vậy”, cô nói. “Đây là nhà của tôi”.
“Nhà”, ông ta nói vẻ suy tư. “Cha tôi là nông dân trồng cam ở Jeju.
Cha tôi và tôi chuyển đến Osaka khi tôi mười hai tuổi; tôi không nghĩ Jeju là nhà của mình. Mẹ tôi mất khi tôi còn nhỏ lắm”. Lúc đó ông ta không nói với cô rằng cô trông giống một người bà con đằng ngoại của mình. Giống ở đôi mắt và vầng trán rộng.
“Nhiều đồ cần phải giặt nhỉ. Tôi từng giặt đồ cho hai cha con tôi. Tôi ghét việc đó. Một trong những điều quan trọng nhất khi giàu có là có người giặt đồ và nấu cơm cho ta ăn”.
Sunja giặt giũ quần áo gần như từ khi cô biết đi. Cô không phiền khi phải làm việc đó. Là quần áo còn khó hơn.
“Cô thường nghĩ gì khi ngồi giặt đồ?”.
Hansu đã biết những gì có thể nhìn thấy từ bên ngoài về cô gái này, nhưng không biết những ý nghĩ của cô. Khi ông ta muốn biết suy nghĩ của ai đó, cách của ông ta là đặt nhiều câu hỏi. Hầu hết mọi người đều nói ra suy nghĩ của mình bằng lời và xác nhận chúng bằng hành động. Số người nói thật nhiều hơn là nói dối. Rất ít người nói dối giỏi. Điều đáng thất vọng nhất đối với ông ta là khi một người nào đó hóa ra chẳng khác gì so với người tiếp theo, ông ta thích những phụ nữ thông minh hơn những phụ nữ ngu ngốc và thích phụ nữ chăm chỉ hơn những kẻ lười biếng chỉ biết nằm ườn.
“Khi tôi còn nhỏ, cha tôi và tôi, mỗi người chỉ có một bộ quần áo, vậy nên khi giặt đồ, chúng tôi cố gắng phơi khô trong đêm và mặc lại sáng hôm sau khi đồ vẫn còn ẩm. Một lần - tôi nghĩ khi đó tôi mười hoặc mười một tuổi - tôi treo quần áo ướt cạnh bếp để chúng mau khô rồi đi nấu bữa tối. Chúng tôi có món cháo yến mạch và tôi phải khuấy cháo trong cái xoong rẻ tiền đó, tôi ngửi thấy mùi gì đó thật kinh khủng, hóa ra tôi đã làm cháy một mảng to tướng trên tay áo khoác của cha tôi. Tôi bị mắng một
trận thậm tệ vì lỗi đó. Hansu bật cười trước ký ức về lần bị cha mắng đó. “Cái đầu mày cứ như một quả bầu rỗng! Thật là một đứa con trai ngu ngốc vô giá trị!”. Cha của ông ta, người làm được bao nhiêu đều đem nốc rượu hết, chưa bao giờ tự trách bản thân vì không thể nuôi sống họ và đối xử khắc nghiệt với đứa con trai đã nuôi sống cả hai cha con bằng cách bới rác, săn bắt và ăn cắp vặt.
Sunja không thể tưởng tượng nổi một người như Koh Hansu lại có thể tự giặt đồ. Quần áo của ông ta được may đo tử tế, rất đẹp. Cô chưa bao giờ thấy ông ta mặc đồ gì khác ngoài com-lê trắng và giày trắng. Không ai mặc giống như ông ta.
Cô có điều gì đó để nói.
“Khi giặt quần áo, tôi nghĩ làm sao để giặt thật sạch. Đó là một trong những việc tôi thích bởi vì tôi có thể làm cho một thứ gì đó trở nên tốt hơn trước. Nó không giống như một cái nồi vỡ mà ông buộc phải ném đi”. Ông ta mỉm cười với cô. “Tôi muốn ở bên cô thật lâu”.
Cô lại muốn hỏi tại sao nhưng xét về mặt nào đó, điều ấy không quan trọng.
“Cô có khuôn mặt ưa nhìn”, ông ta nói. “Cô trông thật thà”. Trước đây, mấy bà bán hàng ở chợ đã nói với cô như vậy. Sunja không thể mặc cả và không cố mặc cả. Tuy nhiên, sáng nay cô không nói với mẹ mình rằng cô sẽ gặp Koh Hansu. Cô thậm chí không nói với mẹ về những đứa học sinh người Nhật đã quấy rối cô. Tối hôm trước, cô đã nói với Dokhee, người cùng lo việc giặt giũ với cô, rằng cô sẽ đi giặt quần áo một mình, và Dokhee vui quá xá vì không phải làm việc đó.
“Cô có người yêu chưa?”, ông ta hỏi.
Má cô đỏ bừng. “Chưa”.
Hansu mỉm cười. “Cô sắp mười bảy tuổi rồi. Tôi ba mươi tư. Tôi gấp đôi tuổi cô. Tôi sẽ là người anh và là bạn của cô. Anh Hansu. Cô có thích điều đó không?”.
Sunja nhìn vào đôi mắt đen của ông ta, nghĩ rằng cô chưa bao giờ muốn điều gì hơn, ngoại trừ trong một quãng thời gian cô muốn cha cô khỏi bệnh. Không một ngày nào cô không nghĩ đến cha hoặc nghe thấy giọng nói của ông vang lên trong đầu cô.
“Thường thì khi nào cô đi giặt?”.
“Ba ngày một lần”.
“Cũng giờ này?”.
Cô gật đầu. Sunja thở sâu, phổi và tim cô ngập tràn cảm giác hồi hộp và ngạc nhiên. Cô luôn thích bãi biển này - đại dương xanh bao la, những viên cuội trắng bé xíu viền quanh bãi đá đen và cát sỏi. Sự tĩnh lặng ở đây khiến cô được an toàn và mãn nguyện. Hầu như không ai đến đây, nhưng từ nay cô sẽ chẳng bao giờ còn được thấy nơi này yên tĩnh như trước nữa.
Hansu nhặt một hòn đá phẳng, nhẵn nhụi dưới chân cô - viên đá màu đen có sọc xám mỏng. Ông ta lấy từ trong túi quần ra một viên phấn trắng mà ông ta hay dùng để đánh dấu những thùng cá mua sỉ, và đánh dấu một chữ X lên hòn đá. Ông ta cúi xuống sờ những tảng đá lớn vây quanh họ và phát hiện ra một kẽ nứt khô ở một tảng đá cỡ trung bình có chiều cao bằng chiều cao của một chiếc ghế băng.
“Nếu tôi tới đây mà cô chưa xuất hiện, và tôi phải quay trở lại làm việc, thì tôi sẽ để hòn đá vào trong khe nứt của tảng đá này để cô biết rằng tôi đã đến. Nếu cô đến đây mà không thấy tôi, thì tôi muốn cô để hòn đá
này ở đúng chỗ đó, để tôi có thể biết rằng cô đã đến gặp tôi”. Ông ta vỗ nhẹ lên cánh tay cô và mỉm cười với cô.
“Sunja, bây giờ tôi phải đi. Gặp nhau sau nhé?”.
Cô nhìn ông ta bước đi, và ngay khi ông ta rời khỏi đó, cô cúi xuống mở bọc quần áo, bắt đầu giặt. Cô lấy một chiếc sơ mi bẩn và nhúng nó xuống làn nước mát rượi. Mọi sự đã thay đổi.
•••
Ba ngày sau cô lại gặp ông ta. Chẳng phải tốn công thuyết phục chị em cô giúp việc để cô lo việc giặt giũ một mình. Ông ta lại đợi cô ở gần bãi đá, đọc báo trong lúc đợi. Ông ta đội chiếc mũ sáng màu thắt dải dây đen. Ông ta trông thật tao nhã. Ông ta làm như thể gặp cô ở gần bãi đá là chuyện bình thường, mặc dù Sunja sợ rằng họ có thể bị phát hiện. Cô cảm thấy có lỗi vì không kể với mẹ cô, hoặc Bokhee và Dokhee, về ông ta. Ngồi trên những hòn đá đen, Hansu và Sunja nói chuyện khoảng nửa giờ, và ông ta hỏi cô những câu lạ lùng: “Cô nghĩ gì khi ở một chỗ yên ắng và không làm gì cả?”.
Chẳng có lúc nào cô không làm gì cả. Nhà trọ có nhiều việc phải làm; Sunja hầu như không thể nhớ mẹ cô có lúc nào rảnh rỗi không. Sau khi nói với Hansu rằng cô bận bịu luôn tay, cô nhận ra rằng mình nói không đúng. Có những lúc đang làm việc mà cô cảm thấy như không, bởi vì đó là việc mà cô biết cách làm, chẳng phải chú ý nhiều. Cô có thể gọt khoai hoặc quét nhà mà không nghĩ, và gần đây khi cô có sự yên tĩnh đó trong tâm trí, cô nghĩ tới ông ta, nhưng làm sao cô có thể nói ra điều đó chứ?
Ngay trước khi phải đi, Hansu hỏi cô nghĩ thế nào là một người bạn
tốt, và cô trả lời ông ta là một người như vậy, bởi vì ông ta đã giúp đỡ cô khi cô gặp chuyện. Nghe cô nói vậy, ông ta mỉm cười và vuốt tóc cô. Cứ vài ngày họ lại gặp nhau bên bờ vịnh đó, và Sunja giặt giũ, làm việc nhà hiệu quả hơn, để không ai ở nhà để ý cô đã dùng thời gian ngoài bãi biển và ở chợ như thế nào.
Trước khi Sunja bước qua cửa bếp để rời khỏi nhà đi chợ hoặc ra bãi biển, cô đều kiểm tra vẻ ngoài của mình qua chiếc vung xoong bằng kim loại bóng loáng, chải chuốt bím tóc mà cô đã tết sáng hôm ấy. Sunja không biết làm thế nào để mình trông đáng yêu hoặc hấp dẫn đối với bất cứ người đàn ông nào, và đối với một người đàn ông quan trọng như Koh Hansu thì lại càng không, vậy nên cô cố gắng để ít nhất mình trông cũng gọn gàng, sạch sẽ.
Cô càng gặp ông ta nhiều, ông ta càng trở nên sống động trong tâm trí cô. Những câu chuyện của ông ta về những con người và các nơi chốn mà trước đó cô chưa từng hình dung ra tràn ngập trong đầu cô. Ông ta sống ở Osaka - một thành phố cảng lớn ở Nhật, nơi mà như ông ta nói, bạn có thể kiếm được bất cứ thứ gì bạn muốn nếu có tiền và nơi mà hầu như mọi nhà đều có đèn điện và lò sưởi điện để sưởi ấm trong mùa đông, ông ta nói Tokyo nhộn nhịp hơn Seoul nhiều - nhiều người, nhiều cửa hàng, tiệm ăn và rạp hát hơn. Ông ta đã từng đến Mãn Châu và Bình Nhưỡng. Ông ta tả từng nơi cho cô nghe và bảo rằng một ngày nào đó cô sẽ đi đến những nơi ấy cùng ông ta, nhưng cô không thể hiểu làm sao điều đó lại có thể xảy ra được. Cô không phản đối, bởi vì cô thích cái ý tưởng đi đây đi đó cùng ông ta, ý tưởng được ở bên ông ta lâu hơn, chứ không chỉ vài phút tại cái vịnh này. Sau các chuyến đi, ông ta mang về cho cô những chiếc kẹo có màu sắc bắt mắt và những chiếc bánh quy ngọt lịm. Ông ta thường bóc kẹo
ra và bỏ một viên kẹo vào miệng cô như một người mẹ cho đứa con nhỏ của mình ăn. Cô chưa bao giờ được nếm những thứ quà đẹp và ngon như thế - những chiếc kẹo cứng màu hồng được nhập từ Mỹ, những chiếc bánh quy từ Anh quốc. Sunja cẩn thận vứt giấy kẹo bên ngoài nhà, bởi vì cô không muốn mẹ mình biết về chúng.
Những trải nghiệm và những câu chuyện độc đáo hơn những cuộc phiêu lưu của người đánh cá hoặc người lao động đến từ các nơi xa xôi mà ông ta kể khiến cô mê mẩn, nhưng có điều gì đó thậm chí mới mẻ và mạnh mẽ hơn cô mong đợi trong mối quan hệ với Hansu. Cho tới khi Sunja gặp ông ta, cô chưa từng có ai làm bầu bạn để kể về cuộc đời mình - những thói quen kỳ cục của những người khách trọ, những cuộc đấu khẩu giữa cô và chị em người giúp việc, những kỷ niệm về cha cô, những chuyện riêng tư của cô. Có ông ta, cô có người để hỏi về thế giới ở bên ngoài Yeongdo và Busan. Hansu háo hức nghe cô kể về những gì diễn ra trong ngày; ông ta thậm chí muốn biết cô mơ gì. Thỉnh thoảng, khi cô không biết cách để đương đầu với điều gì đó hoặc với ai đó, ông ta bảo cho cô biết cô có thể làm gì; ông ta có những ý tưởng tuyệt vời về cách giải quyết các vấn đề. Họ chưa bao giờ nhắc đến mẹ của Sunja.
Ở chợ, thật lạ khi thấy ông ta làm việc, bởi khi ở bên cô, ông ta là con người hoàn toàn khác - ông ta là bạn, là anh cô, là người có thể nhấc bọc quần áo từ trên đầu cô xuống khi cô đến chỗ ông ta. “Cô đội cái này trông thật duyên dáng”, ông ta thường bình luận, khâm phục vì cô có cái cổ thật khỏe và thẳng. Một lần, ông ta chạm nhẹ vào gáy cô bằng cả hai bàn tay dày vuông vức, và cô giật nảy mình, choáng váng trước cảm giác lúc đó.
Lúc nào cô cũng muốn gặp Hansu. Ông ta còn nói chuyện và đặt câu hỏi với ai khác không nhỉ? Ông ta làm gì vào buổi tối khi cô ở nhà phục vụ
các khách trọ, lau bóng loáng những cái bàn ăn thấp tè, hoặc ngủ bên cạnh mẹ cô? Cô cảm thấy hỏi ông ta những điều ấy là không thể, vậy nên cô giữ những câu hỏi đó cho riêng mình. Trong ba tháng, họ gặp nhau theo đúng cái cách ấy, trở nên thoải mái trước sự có mặt của nhau hơn. Khi mùa thu tới, ở gần biển lạnh và lộng gió hơn, nhưng Sunja hầu như không cảm thấy lạnh.
Đầu tháng Chín, trời mưa suốt năm ngày liền, và cuối cùng khi trời quang đãng hơn, Yangjin bảo Sunja đi hái nấm ở rừng Taejongdae vào sáng ngày hôm sau. Sunja thích hái nấm, và khi cô sắp sửa gặp Hansu tại bãi biển, cô cảm thấy chếnh choáng khi cô có thể kể với ông ta rằng cô sắp làm một điều gì đó khác với những việc thường ngày, ông ta đi đây đi đó nhiều và thường thấy những điều mới lạ; đây là lần đầu tiên cô làm điều gì đó khác với những việc thường ngày.
Trong sự phấn khích, cô buột miệng nói ra kế hoạch đi hái nấm ngay sau bữa sáng ngày hôm sau, và trong vài phút Hansu không nói gì, chỉ nhìn cô đăm đăm.
“Anh Hansu giỏi tìm nấm và rễ cây dại lắm nghe. Tôi biết nhiều về các loại cây có thể ăn được và những cây không ăn được. Khi còn nhỏ, tôi dành nhiều giờ tìm rễ cây và nấm. Vào mùa xuân, tôi tìm cây dương xỉ và phơi khô. Tôi thường đi săn thỏ cho bữa tối bằng súng cao su. Có lần trước khi trời tối tôi bắt được một cặp gà lôi - đó là lần đầu tiên chúng tôi có thịt ăn sau một thời gian dài. Cha tôi vui lắm!”. Mặt ông ta dịu đi.
“Chúng ta có thể đi cùng nhau. Cô có bao nhiêu thời gian để hái nấm nhỉ?”. Ông ta hỏi.
“Anh muốn đi ư?”.
Nói chuyện với ông ta hai lần một tuần trong nửa giờ đồng hồ đã là
quá lắm rồi, nhưng cô không thể tưởng tượng được mình sẽ được ở bên ông ta trọn một ngày. Điều gì sẽ xảy ra nếu ai đó nhìn thấy họ đi với nhau? Cô cảm thấy mặt mình nóng bừng. Cô phải làm gì bây giờ? Cô đã trót nói với ông ta, và cô không thể ngăn ông ta đi.
“Tôi sẽ gặp cô ở đây. Bây giờ tôi nên quay lại chợ”. Lần này Hansu mỉm cười với cô theo cách khác, như thể ông ta là một chàng trai, sự phấn khởi rạng ngời trên khuôn mặt ông ta. “Chúng ta sẽ tìm được cả một bọc nấm to tướng. Tôi biết mà”.
•••
Họ bước đi dọc rìa đảo, nơi không ai nhìn thấy họ đi với nhau. Bờ biển dường như đẹp hơn bao giờ hết. Khi họ tới khu rừng nằm ở phía đầu kia hòn đảo, những cây thông, cây dương và linh sam khổng lồ dường như chào đón họ, được tô điểm bằng những sắc đỏ và vàng lửa như thể chúng đang mặc bộ trang phục lễ hội của mình. Hansu kể cho cô nghe về cuộc sống ở Osaka. Ông ta nói người Nhật sẽ không bị mất thanh danh. Hiện giờ họ đang đánh bại người Hàn, và tất nhiên không ai thích thua cả. Ông ta tin rằng nếu người Hàn có thể ngừng xung đột với nhau, thì có lẽ họ có khả năng chiếm Nhật Bản và làm những điều tồi tệ hơn nhiều với người Nhật.
“Ở đâu chẳng có những kẻ đồi bại. Họ không tốt. Cô có muốn gặp một người đàn ông rất tồi tệ không? Hãy khiến một người đàn ông bình thường trở nên thành công vượt ngoài sức tưởng tượng của chính anh ta. Hãy xem anh ta tốt như thế nào khi anh ta có thể làm bất cứ điều gì mình muốn”.
Sunja gật đầu khi Hansu nói, cố ghi nhớ từng lời, lưu giữ mọi hình ảnh
của ông ta, và nắm bắt bất cứ điều gì ông ta đang cố nói với cô. Cô nâng niu những câu chuyện của ông ta như những viên đá màu hồng và những viên thủy tinh biển mà cô từng sưu tầm khi còn bé - những lời nói của ông ta khiến cô ngạc nhiên bởi vì ông ta nắm tay cô, chỉ cho cô những điều mới mẻ không thể quên.
Tất nhiên, có nhiều chủ đề và ý tưởng cô không thể hiểu, và đôi khi chỉ cố gắng học điều gì đó mà không trải nghiệm nó là việc khó. Tuy nhiên cô nhồi vào đầu mình theo cái cách cô có thể nhồi lòng lợn. Cô rất cố gắng để hiểu những điều ông ta nói bởi vì cô không muốn ông ta nghĩ cô dốt nát. Sunja không biết viết chữ Hàn, cũng chẳng biết viết chữ Nhật. Cha cô đã dạy cô cộng, trừ để cô có thể đếm tiền, nhưng chỉ vậy thôi. Cả cô và mẹ cô thậm chí đều không viết nổi tên mình.
Hansu mang theo một chiếc khăn rộng để có thể đựng nấm. Sự thích thú lộ rõ đối với chuyến đi của ông ta khiến cô cảm thấy thoải mái hơn, nhưng Sunja vẫn sợ ai đó có thể nhìn thấy họ. Không một ai biết họ là bạn của nhau. Làm gì có chuyện đàn ông và đàn bà là bạn của nhau, và họ cũng chẳng phải là người yêu. Ông ta chưa bao giờ đả động đến chuyện hôn nhân, vả lại, nếu ông ta muốn cưới cô, thì ông ta phải nói chuyện với mẹ cô, nhưng ông ta không làm điều đó. Thực sự, từ ba tháng trước, sau khi ông ta hỏi cô đã có người yêu chưa, ông ta không bao giờ khơi lại chủ đề đó nữa. Cô cố không nghĩ đến cuộc sống của ông ta với phụ nữ như thế nào. Không khó để ông ta tìm một cô gái để cặp kè, và việc ông ta chú ý đến cô không phải lúc nào cũng dễ hiểu.
Cuộc đi bộ dài đến khu rừng đó lại hóa ngắn, và khi họ vào trong rừng, cô có cảm giác ở đó mình còn đơn độc hơn ở ngoài vịnh, nhưng không giống khoảng không bao la với những hòn đá thấp và sự mênh mông của
biển xanh, những cây lớn đứng sừng sững phía trên họ, và nó giống như thể đi vào bóng tối, ngôi nhà lá của một người khổng lồ. Cô có thể nghe thấy tiếng chim, cô ngước nhìn lên cao và ra xung quanh để xem đó là chim gì. Cô chú ý đến khuôn mặt của Hansu: Có những giọt lệ trong mắt ông ta.
“Oppa, anh ổn chứ?”.
Ông ta gật đầu. Ông ta đã nói trong suốt cuộc đi bộ về những chuyến đi và công việc, nhưng khi nhìn thấy những chiếc lá rực rỡ sắc màu và những thân cây xù xì, Hansu trở nên im lặng. Ông ta đặt tay phải lên lưng cô và chạm vào đuôi tóc tết bím của cô. Ông ta vuốt ve lưng cô, sau đó di chuyển bàn tay một cách thận trọng. Đã lâu, từ khi còn là một cậu bé, Hansu không vào rừng - lần đó trước khi ông ta trở thành một gã choai choai dạn dĩ có thể xoay xở ngược xuôi và trộm cắp cùng những đứa trẻ đường phố khôn ranh nhất Osaka. Trước khi ông ta chuyển sang sống ở Nhật, những ngọn núi được rừng cây bao phủ của Jeju là nơi ẩn náu của ông ta; Hansu biết từng cái cây trên ngọn núi lửa Halla. Ông ta nhớ lại hình ảnh con nai nhỏ với bốn chân mảnh khảnh và những bước đi ve vãn, õng ẹo. Mùi hoa cam thơm ngát quay trở lại với ông ta mặc dù trong khu rừng của Yeongdo không có những thứ như vậy.
“Đi nào”, ông ta nói, bước lên phía trước và Sunja đi theo ông ta. Đi được chừng chục bước, ông ta dừng lại nhẹ nhàng hái một cây nấm trên mặt đất. “Cây nấm đầu tiên của chúng ta”, ông ta nói, không còn khóc nữa.
Ông ta không nói dối cô. Hansu là một chuyên gia tìm nấm, và ông ta tìm cho cô vô số những cây rau dại có thể ăn được, thậm chí bày cho cô cách nấu chúng.
“Khi cô đói, cô sẽ tìm hiểu để biết những gì mình có thể ăn được và thứ gì không ăn được”. Ông ta cười. “Tôi không thích bị đói. Vậy chỗ hái nấm của cô đâu? Đi đường nào?”
“Đi vài phút nữa là tới - đó là chỗ mẹ tôi hồi nhỏ thường hái nấm sau một trận mưa to. Mẹ tôi sinh ra ở nửa bên này hòn đảo”.
“Rổ của cô không đủ to. Đáng lẽ cô phải mang hai chiếc và cô sẽ có thừa nấm để phơi khô cho mùa đông! Có lẽ mai cô sẽ phải quay trở lại đây thôi” .
Sunja mỉm cười với ông ta. “Oppa, nhưng anh thậm chí còn chưa nhìn thấy chỗ đó!”.
Khi họ tới chỗ hái nấm quen thuộc của mẹ cô, chỗ đó có những cây nấm màu nâu mà cha cô thích mọc như trải thảm.
Ông ta cười, vui hết sức. “Tôi chưa nói với cô sao? Đáng lẽ chúng ta nên mang theo đồ để làm bữa tối. Lần sau hãy lên kế hoạch ăn trưa ở đây nhé. Chỗ này dễ chịu quá!”. Ông ta lập tức hái nấm đầy tay và ném chúng vào chiếc rổ được để trên mặt đất giữa hai người. Khi rổ đầy, ông ta đựng nấm vào chiếc khăn của mình và khi trong cái khăn đó cũng chất đống những nấm là nấm, cô cởi chiếc tạp dề đang đeo ra và hái thêm.
“Tôi không biết tôi sẽ mang tất cả chỗ nấm này về bằng cách nào”, cô nói. “Tôi tham quá”.
“Cô chưa đủ tham đâu”.
Hansu bước về phía cô. Cô có thể ngửi thấy mùi xà bông thơm và mùi tinh dầu lộc đề từ sáp bôi tóc của ông ta. Ông ta đã cạo râu nhẵn nhụi, trông thật điển trai. Cô thích quần áo ông ta luôn trắng tinh. Tại sao một điều như thế lại quan trọng nhỉ? Những người đàn ông ở nhà trọ không
tránh khỏi lúc nào cũng bẩn thỉu. Công việc của họ làm tất cả mọi thứ của họ bẩn thỉu, và không có cách nào để giặt cho sạch mùi cá tanh khỏi quần áo của họ. Cha cô đã dạy cô không nên đánh giá con người ta qua những điểm nông cạn như vậy: Những gì một người mặc trên người hoặc sở hữu không liên quan đến trái tim và tính cách của người đó. Cô hít vào thật sâu mùi thơm của ông ta quyện với mùi không khí trong lành của rừng.
Hansu luồn hai tay vào trong chiếc áo ngắn truyền thống của cô, và cô không ngăn ông ta lại. Ông ta tháo chiếc đai dài thắt quanh chiếc sơ mi của cô và cởi nó ra. Sunja bắt đầu rên lên khe khẽ, và ông ta kéo cô về phía mình và ôm cô, phát ra những âm thanh chậm rãi, dịu dàng, và cô để yên cho ông ta vuốt ve mình khi ông ta làm những gì ông ta muốn. Ông ta nhẹ nhàng đặt cô xuống mặt đất.
“Anh đây. Ổn mà. Ổn mà”.
Trong suốt thời gian đó, ông ta để bàn tay vững chắc dưới mông cô, và mặc dù ông ta đã cố che chắn cho cô, những mẩu cành lá của rừng vẫn tạo ra những vết xước đỏ ở mặt sau của cẳng chân cô. Khi họ buông nhau ra, ông ta dùng khăn tay lau vết máu.
“Thân hình em đẹp lắm. Căng mọng như trái chín”.
Sunja không thể nói gì. Cô đã mút ông ta như một đứa trẻ sơ sinh. Trong khi ông ta vào trong cô và làm cái điều mà cô đã chứng kiến những con lợn và ngựa thường làm, cô choáng váng bởi cảm giác đau đột ngột, rõ rệt và biết ơn vì cảm giác đau dịu dần.
Khi họ đứng lên khỏi thảm lá vàng lá đỏ, ông ta giúp cô vuốt thẳng đồ lót và mặc đồ vào cho cô.
“Em là cô gái đáng yêu của anh”.
Đó là những gì ông ta nói với cô khi họ lại làm chuyện ấy.
6
H
ansu đã sang Nhật lo công chuyện. Ông ta hứa sẽ có một điều ngạc nhiên dành cho cô khi ông ta quay trở lại. Sunja nghĩ việc Hansu nói với cô chuyện kết hôn chỉ còn là vấn đề thời gian. Cô đã thuộc về ông ta, và cô muốn trở thành vợ của ông ta. Cô không muốn rời xa mẹ của mình nhưng nếu cô phải chuyển đến Osaka để sống cùng Hansu thì cô sẽ đi. Suốt cả ngày, cô cứ tự hỏi không biết Hansu đang làm gì. Khi cô mường tượng cuộc sống của ông ta khi ở xa cô, cô cảm thấy như thể cô thuộc về một nơi nào đó khác, ở bên ngoài Yeongdo, bên ngoài Busan, và bây giờ thậm chí bên ngoài nước Hàn. Sao có thể có chuyện bấy lâu nay cô sống mà không biết đến bất cứ điều gì khác ngoài cha mẹ mình? Tuy nhiên đó là tất cả những gì cô biết.
Lấy chồng và sinh con là việc chính đáng đối với một cô gái, và khi Sunja không thấy kinh nguyệt, cô mừng vì mình sẽ sinh con cho Hansu. Cô đếm từng ngày cho tới khi ông ta quay trở lại, và nếu có một chiếc đồng hồ ở trong nhà, thì cô sẽ chắc hẳn đếm từng giờ, từng phút. Vào buổi sáng hôm ông ta trở lại, Sunja vội đi ra chợ. Cô bước đi giữa những quầy giao dịch của những người mua sỉ hải sản cho đến khi ông ta phát hiện ra cô, và kín đáo hẹn giờ họ gặp nhau ở ngoài vịnh vào sáng hôm sau.
Các khách trọ vừa mới rời nhà đi làm, Sunja lập tức gom đồ giặt và chạy ra bãi biển, không thể đợi thêm nữa. Khi cô nhìn thấy người yêu của mình đang đợi bên những tảng đá, mặc một chiếc áo bành tô đẹp bên ngoài
bộ com-lê, cô cảm thấy tự hào vì một người đàn ông như thế đã chọn cô. Không như mọi lần, khi cô đến gần ông ta với những bước đi duyên dáng, thận trọng, hôm nay cô chạy đến bên ông ta một cách đầy nôn nóng với bọc quần áo trong tay.
“Oppa! Anh đã trở lại!”.
“Oppa đã nói với em rồi mà - anh luôn trở lại”, ông ta ôm cô thật chặt. “Gặp lại anh em mừng quá”.
“Cô gái của anh, em khỏe không?”.
Cô tươi cười rạng rỡ trước sự hiện diện của ông ta.
“Em hy vọng anh sẽ không sớm đi nữa”.
“Nhắm mắt lại”, ông ta nói và cô làm theo.
Ông ta mở bàn tay phải của cô ra và đặt một vật hình tròn dày vào lòng bàn tay cô. Cô cảm thấy mặt kim loại lành lạnh trên tay mình. “Nó giống như chiếc của anh”, cô mở mắt ra nói. Hansu có một chiếc đồng hồ vàng bỏ túi xuất xứ từ Anh quốc. Ông ta nói chiếc đồng hồ của cô cũng có kích cỡ như vậy, được làm bằng bạc mạ vàng. Một lát sau, ông ta dạy cô về sự khác nhau giữa kim dài và kim ngắn và cách xem giờ. Chiếc đồng hồ của Hansu có dây đeo bằng vàng ròng với cái móc hình chữ T cài xuyên qua khuyết áo com-lê của ông ta. “Em ấn cái này”. Hansu đẩy cái núm và chiếc đồng hồ bỏ túi bật mở cho thấy cái mặt màu trắng thanh nhã có những con số được bố trí theo đường tròn.
“Đây là thứ đẹp nhất mà em từng thấy. Oppa, cảm ơn anh. Cảm ơn anh rất nhiều. Anh kiếm nó ở đâu vậy?”. Cô không thể hình dung nổi một cửa hiệu bán những thứ như thế này.
“Nếu em có tiền, thì không gì là em không thể có. Anh đã đặt mua nó
cho em từ Luân Đôn đấy. Bây giờ chúng ta có thể biết chính xác mấy giờ mình sẽ gặp nhau”.
Cô không thể tưởng tượng nổi có khi nào mình hạnh phúc hơn lúc đó. Hansu vuốt ve khuôn mặt cô và kéo cô về phía ông ta.
“Anh muốn gặp em”.
Cô nhìn xuống và cởi áo ra. Đêm hôm trước cô đã tắm nước nóng, kỳ cọ mọi lỗ chân lông cho đến khi da đỏ ửng lên.
Ông ta cầm chiếc đồng hồ từ tay cô lên và cài chiếc móc đồng hồ vào chiếc dây thắt mỏng trên váy lót của cô.
“Lần tới về Osaka, anh sẽ đặt mua một sợi dây đeo và ghim cài hẳn hoi”.
Ông ta kéo chiếc áo lót của cô xuống để vú cô lộ ra và miệng ông ta lướt trên người cô. Ông ta cởi chiếc chân váy dài của cô ra. Cảm giác sốc của cô trước sự cấp bách về nhu cầu của ông ta phần nào đã giảm đi sau lần đầu tiên họ làm tình. Họ đã làm chuyện ấy với nhau nhiều lần rồi, và bây giờ, cảm giác đau không còn dữ dội như trong lần đầu tiên của cô. Điều mà Sunja thích trong việc làm tình là sự đụng chạm nhẹ nhàng cũng như những ham muốn mãnh liệt của cơ thể ông ta. Cô thích vẻ mặt ông ta thay đổi từ nghiêm nghị sang ngây thơ trong những phút đó.
Khi việc ấy kết thúc, cô mặc áo lại. Chỉ lát nữa thôi, Hansu sẽ phải quay trở về với công việc còn cô sẽ giặt đồ cho nhà trọ.
“Em đang mang thai đứa con của anh”.
Ông ta mở mắt ra và ngừng lại.
“Em chắc chắn chứ?”.
“Vâng, em nghĩ vậy”.
“Ồ”. Ông ta mỉm cười.
Cô mỉm cười đáp lại, cảm thấy tự hào về những gì họ đã làm với nhau. “Sunja…”.
“Sao vậy oppa?”. Cô quan sát khuôn mặt đầy vẻ nghiêm trọng của ông ta.
“Anh đã có vợ và ba con. Ở Osaka”.
Sunja há hốc miệng, rồi ngậm miệng lại. Cô không thể tưởng tượng nổi việc ông ta ở với người khác.
“Anh sẽ chăm lo cho em, nhưng anh không thể cưới em được. Anh đã đăng ký kết hôn ở Nhật rồi. Có những mối liên quan về công việc”, ông ta chau mày nói.
“Anh sẽ làm bất cứ điều gì có thể để đảm bảo chúng ta ở bên nhau. Anh đã có kế hoạch tìm một căn nhà tử tế cho em rồi”.
“Một căn nhà ư?”.
“Gần nhà mẹ em. Hoặc nếu em muốn, nó có thể ở Busan. Mùa đông sắp đến rồi, chúng ta không thể gặp nhau ở ngoài được”. Ông ta cười thành tiếng. Ông ta vuốt ve cánh tay cô, và cô nao núng.
“Đó là lý do tại sao anh đi Osaka ư? Để gặp… của anh”.
“Anh kết hôn từ khi anh gần như vẫn còn là một cậu bé. Anh có ba đứa con gái”, Hansu nói. Các con gái của ông ta chẳng tài giỏi hoặc quan tâm nhiều đến bất cứ điều gì, nhưng chúng dễ thương và đơn giản. Một đứa đủ xinh để lấy chồng, hai đứa kia gầy đét giống bà mẹ căng thẳng lúc nào trông cũng có vẻ yếu ớt và lo lắng của chúng.
“Có lẽ em đang mang thai một đứa con trai!”. Ông ta không thể không
mỉm cười trước ý nghĩ đó. “Em cảm thấy như thế nào? Em có cảm thấy thèm ăn gì không?”. Ông ta lấy ví và rút ra một xấp đồng yên. “Em nên mua bất cứ thứ gì em thèm ăn. Em cũng sẽ cần mua vải để may quần áo cho mình và đứa trẻ”.
Cô nhìn xấp tiền, nhưng không đưa tay ra cầm. Tay cô buông thõng. Ông ta nói có vẻ phấn khích hơn.
“Em có cảm thấy người khác lạ không?”. Ông ta đặt tay lên bụng cô và cười phấn khởi.
Vợ Hansu, người phụ nữ hơn ông hai tuổi, trong nhiều năm không có thai; họ hiếm khi làm tình. Khoảng một năm gần đây, ông ta có cả chuỗi người tình, nhưng không ai tắt kinh, vậy nên ông ta không nghĩ Sunja lại mang thai. Hansu đã có kế hoạch sẽ mua cho Sunja một căn nhà nhỏ trước khi mùa đông tới, nhưng giờ đây ông ta tính sẽ tìm một căn lớn hơn. Cô gái này trẻ và rõ ràng có khả năng sinh đẻ, vậy nên ông ta hiểu rằng họ có thể có thêm những đứa con. Ông ta cảm thấy hạnh phúc trước viễn cảnh mình có một cô vợ và những đứa con ở Hàn. Ông ta không còn trẻ, nhưng ham muốn tình dục của ông ta không giảm theo tuổi tác. Trong khi ở xa, ông ta thủ dâm, nghĩ về cô. Hansu không tin rằng đàn ông được tạo hóa lập trình để ngủ với chỉ mỗi một người đàn bà; hôn nhân đối với ông ta là điều trái với tự nhiên, nhưng ông ta sẽ không bao giờ bỏ một người đàn bà đã sinh con cho mình. Hansu nghĩ một người đàn ông có lẽ cần nhiều đàn bà, nhưng nhận thấy rằng mình thích cô gái này hơn. Ông ta thích thân hình rắn chắc của Sunja, thích bộ ngực và cặp hông nở nang của cô. Khuôn mặt dịu dàng của cô an ủi ông ta, và ông ta đã trở nên phụ thuộc vào sự ngây thơ và tôn sùng của cô. Sau khi ở với cô, Hansu cảm thấy gần như có thể làm bất cứ điều gì. Suy cho cùng điều đó cũng đúng thôi: Ở với một cô
gái trẻ khiến một người đàn ông cảm thấy như thể mình lại trở về thời trẻ trai. Ông ta ấn xấp tiền vào tay Sunja, nhưng cô để những đồng tiền ấy rơi xuống bay tứ tung trên bãi biển. Hansu cúi xuống nhặt chúng. “Em làm gì vậy hả?”. Ông ta hơi cao giọng.
Sunja nhìn đi chỗ khác. Ông ta nói điều gì đó, nhưng cô không thể nghe đó là điều gì. Cứ như thể tâm trí cô giờ đây không còn hiểu được những lời nói của ông ta nữa. Những gì ông ta nói chỉ còn là âm thanh, là tiếng ồn. Chẳng có nghĩa gì hết. Ông ta đã có vợ và ba đứa con gái ở Nhật ư? Từ khi cô gặp Hansu, cô cứ nghĩ ông ta thẳng thắn, đã hứa điều gì thì đều thực hiện. Ông ta nói sẽ có một điều ngạc nhiên dành cho cô, và ông ta mua cho cô một chiếc đồng hồ, nhưng điều ngạc nhiên cô dành cho ông ta thì cô không còn muốn ông ta biết nữa. Không gì về ông ta khiến cô mảy may nghi ngờ rằng ông ta là một jebi - loại đàn ông có thể tán tỉnh hết người đàn bà này đến người đàn bà khác. Ông ta cũng ngủ với vợ chứ? Cô thì biết gì về đàn ông? Người vợ đó như thế nào? Sunja muốn biết. Bà ta có đẹp không? Bà ta có tốt không? Sunja không thể nhìn thẳng vào mặt ông ta được nữa. Cô liếc xuống chiếc váy mút-xơ-lin trắng của mình, riềm váy lô xô vẫn nhuốm màu xám đục dù cô cố giặt sạch nó đến mức nào.
“Sunja, khi nào anh có thể đến nói chuyện với mẹ em? Chúng ta nên thưa chuyện với mẹ em bây giờ chăng? Mẹ em đã biết em mang thai chưa?”.
Khi ông ta nhắc đến mẹ cô, cô cảm thấy điều đó chẳng khác gì một cái tát.
“Mẹ tôi ư?”.
“Đúng vậy, em đã nói với bà ấy chưa?”.
“Chưa. Chưa, tôi chưa nói”. Sunja cố không nghĩ đến mẹ mình.
“Anh sẽ mua cái nhà trọ đó cho em và mẹ em, rồi thì em và mẹ sẽ không phải cho người ta thuê trọ nữa. Em chỉ việc chăm con thôi. Chúng ta sẽ có thêm con. Nếu em thích, anh có thể mua một căn nhà lớn hơn”.
Bọc quần áo dưới chân cô dường như lấp lánh trong ánh mặt trời. Có việc phải làm cho ngày hôm nay. Cô là đứa con gái nông dân dại khờ đã để một người đàn ông vật ngửa xuống đất ở trong rừng. Khi ông ta muốn cô ở trên bãi biển giữa thanh thiên bạch nhật, cô đã để ông ta chiếm đoạt thân xác mình như thế nào tùy thích. Nhưng cô đã tin rằng ông ta yêu cô như cô đã yêu ông ta. Nếu ông ta không cưới cô, thì cô sẽ là một con điếm tầm thường mãi mãi phải chịu sự nhục nhã. Đứa con của cô sẽ trở thành một đứa con hoang không mang họ. Cái nhà trọ của mẹ cô sẽ bị vấy bẩn vì nỗi ô nhục của cô. Trong bụng cô có một hài nhi, và đứa trẻ này sẽ không có một người cha thực sự như cô đã có.
“Tôi sẽ không bao giờ gặp ông nữa”, cô nói.
“Gì cơ?”. Hansu mỉm cười vẻ hoài nghi. Ông ta đặt tay lên vai cô, và cô lắc người, giũ cánh tay ông ta ra.
“Nếu ông còn đến gần tôi nữa, tôi sẽ tự tử. Có thể tôi đã cư xử như một con đĩ…”. Sunja không thể nói nữa. Cô có thể nhìn thấy cha mình rất rõ: đôi mắt đẹp của ông, bờ môi dị tật, dáng đi khom khom, chậm chạp của ông. Khi kết thúc một ngày dài lao động, ông thường đẽo búp bê cho cô từ lõi ngô khô và cành cây. Nếu trong túi còn một đồng xu, thì ông đều dành để mua cho cô một chiếc kẹo cứng. Ông đã mất nên không phải chứng kiến cô đã trở thành một sinh vật bẩn thỉu, như thế có lẽ lại tốt hơn. Ông đã dạy cô quý trọng bản thân, và cô đã không làm như ông đã dạy. Cô đã phản bội cha mẹ mình, những người chẳng làm gì khác ngoài lao động vất vả và chăm sóc, nâng niu cô như báu vật. “Sunja, con yêu của cha. Điều gì
làm con buồn bực vậy? Không có gì thay đổi đâu con”.
Hansu bối rối. “Anh sẽ chăm sóc con và em thật chu đáo. Anh có tiền và thời gian cho một gia đình nữa. Anh sẽ thực hiện đầy đủ các trách nhiệm của mình. Tình yêu của anh dành cho em rất mãnh liệt; mãnh liệt hơn anh tưởng. Anh không nói ra điều này một cách nông nổi, nhưng nếu có thể, anh sẽ cưới em. Em là người anh sẽ cưới. Em và anh, chúng ta hợp nhau. Con của chúng ta sẽ được yêu thương hết mực, nhưng anh không thể quên vợ và ba đứa con gái của mình…”.
“Ông không hề nói với tôi về họ. Ông đã khiến tôi nghĩ rằng…”. Hansu lắc đầu. Trước đây cô gái này chưa bao giờ chống đối ông ta; ông ta chưa bao giờ nghe một lời phản đối từ miệng cô.
“Tôi sẽ không gặp ông nữa”, cô nói.
Ông ta cố ôm cô, và Sunja gào lên, “Tránh xa tôi ra, ông là đồ khốn! Tôi không muốn liên quan gì đến ông hết”.
Hansu dừng lại, nhìn cô, cần đánh giá lại cô gái đang đứng trước mặt mình. Trước đây lửa trong người cô chưa bao giờ được bộc lộ qua lời nói, còn bây giờ ông biết cô có thể khác.
“Ông không hề quan tâm đến tôi. Không thực sự quan tâm đến tôi”. Bỗng nhiên Sunja cảm nhận thật rõ ràng. Cô mong ông ta đối xử với cô như cha mẹ cô đối xử với cô. Cô cảm thấy chắc chắn rằng cha mẹ cô muốn cô có bất cứ việc làm lương thiện nào hơn là làm tình nhân của một người đàn ông giàu có. “Và ông sẽ làm gì nếu đứa trẻ là con gái hả? Hoặc điều gì sẽ xảy ra nếu nó sinh ra giống như cha tôi? Bị khoèo chân và hở hàm ếch?”.
“Đó là lý do tại sao cô chưa lấy chồng ư?”. Hansu nhíu mày.
Mẹ của Sunja chưa bao giờ đưa ra vấn đề kết hôn khi mà nhiều cô gái trong làng đã lấy chồng trước cô. Không ai đến gặp mẹ cô để nói chuyện cưới xin với cô, còn các khách trọ tán tỉnh cô thì không phải là những ứng cử viên nghiêm túc. Có lẽ đây là lý do chăng, Sunja tự hỏi. Giờ đây vì cô đang mang thai, cô chợt nhận ra rằng cô có thể sẽ sinh ra một đứa trẻ mang những khuyết tật của cha cô. Hằng năm, cô vẫn đi dọn mộ của các anh chị mình; mẹ cô kể với cô rằng các anh chị của cô sinh ra bị hở hàm ếch. Hansu đang mong có một đứa con trai khỏe mạnh, nhưng nếu cô không đẻ được một đứa con trai khỏe mạnh thì sao? Ông ta sẽ ruồng rẫy mẹ con cô ư?
“Cô cố buộc tôi phải cưới cô chứ gì? Bởi vì cô không thể cưới một người đàn ông bình thường?”.
Ngay chính bản thân Hansu cũng nhận ra sự tàn nhẫn trong lời nói của ông ta.
Sunja chộp lấy bọc quần áo và chạy về nhà.
7
Ô
ng thầy thuốc họ Chu đâm ra quý vị mục sư đến từ Bình Nhưỡng và vui mừng trước sự bình phục của anh ta. Bây giờ ông chỉ đến thăm Isak một lần một tuần, và người đàn ông trẻ ấy dường như đã khỏe hẳn.
“Ông quá khỏe để nằm trên giường”, vị thầy thuốc nói. “Nhưng chớ có dậy vội”. Ông Chu ngồi bên cạnh Isak, vẫn đang nằm thẳng trên tấm nệm trong gian buồng kho. Gió từ những chỗ hở quanh bậu cửa sổ khẽ lật chiếc áo choàng trắng của ông Chu. Ông kê một tấm mền dày quanh vai Isak.
“Ông đã đủ ấm chưa?”.
“Rồi. Tôi mắc nợ ông và bà đây”.
“Ông trông vẫn gầy lắm”, ông Chu chau mày. “Tôi muốn thấy ông béo lên. Mặt ông chẳng có chỗ nào phình ra cả. Ông không thích thức ăn ở đây sao?”.
Người chủ nhà trọ trông như thể đang bị quở trách.
“Các bữa ăn ở đây đều ngon tuyệt”, Isak cãi. “Tôi ăn nhiều hơn số tiền tôi trả để ở trọ nhiều. Thức ăn ở đây ngon hơn ở nhà tôi”. Isak mỉm cười với Yangjin và Sunja đang đứng ở hành lang.
Ông Chu ghé đầu xuống ngực Isak, nơi ông đặt cái ống nghe. Tiếng thở nghe khỏe và đều, cũng giống như tuần trước. Vị mục sư dường như rất khỏe.
“Ho đi xem nào.
Ông Chu lắng nghe âm sắc từ ngực của vị linh mục một cách đăm chiêu. “Ông đã khá hơn, chắc chắn rồi, nhưng trong phần lớn cuộc đời, ông ốm đau suốt. Và trước đây ông đã từng bị bệnh lao rồi. Chúng ta cần phải cẩn thận”.
“Vâng, nhưng bây giờ tôi cảm thấy khỏe. Thưa ông, tôi muốn viết thư gửi nhà thờ của tôi ở Osaka để báo cho họ biết ngày đi của tôi. Ấy là nếu ông nghĩ tôi có thể lên đường. Anh của tôi bắt tôi hứa rằng trước hết tôi phải có sự cho phép của ông mới được đi”. Isak nhắm mắt lại như thể đang cầu nguyện.
“Trước khi ông rời Bình Nhưỡng, bác sĩ của ông có nghĩ ông có thể tự đi cả chặng đường tới Osaka không?”.
“Người ta bảo rằng tôi có thể đi, nhưng bác sĩ và mẹ tôi không khuyến khích tôi rời khỏi nhà. Nhưng khi khởi hành, tôi khỏe hơn bao giờ hết. Tất nhiên, vì tôi ở đây như thế này - rõ ràng, đáng lẽ tôi nên nghe lời họ. Chỉ là nhà thờ ở Osaka muốn tôi đến.”
“Bác sĩ của ông đã bảo ông đừng đi, nhưng ông cứ đi.” Ông Chu cười. “Tôi nghĩ những người đàn ông trẻ không thể giam mình ở một chỗ được. Vậy nên bây giờ ông lại muốn đi, và lần này ông muốn có sự cho phép của tôi. Nếu có chuyện gì xảy ra với ông trên đường, hoặc nếu ông đổ bệnh khi tới đó thì sao?”. Ông Chu lắc đầu, thở dài. “Tôi có thể nói gì đây? Tôi không thể ngăn ông được, nhưng tôi nghĩ ông nên đợi”.
“Bao lâu?”.
“Ít nhất thêm hai tuần nữa. Có thể ba tuần”.
Isak liếc nhìn Yangjin và Sunja. Anh bối rối.
“Tôi cảm thấy rất tệ vì đã chất gánh nặng lên các vị và đẩy các vị vào
sự rủi ro. Ơn Chúa không ai đổ bệnh. Tôi xin lỗi. Vì tất cả”. Yangjin lắc đầu. Vị mục sư là một khách trọ mẫu mực. Có thể nói các khách trọ khác đã cải thiện cách cư xử của mình khi ở gần con người lịch thiệp này. Vị này trả thanh toán tiền trọ đúng hạn. Cô nhẹ cả người khi sức khỏe của anh khá lên một cách kỳ diệu.
Ông Chu cất bộ ống nghe đi.
“Tuy nhiên tôi cũng không thúc giục ông về nhà vội. Thời tiết ở đây tốt cho phổi của ông hơn so với thời tiết ở miền Bắc và cũng giống như thời tiết ở Osaka. Ở Nhật, mùa đông không khắc nghiệt như ở miền Bắc”, ông Chu nói.
Isak gật đầu. Khí hậu là lý do chính khiến cha mẹ anh đồng ý để anh đi Osaka.
“Vậy thì cho phép tôi viết thư gửi nhà thờ ở Osaka chứ? Và cho anh trai tôi?”.
“Ông sẽ đi tàu thủy đến Shimonoseki rồi sau đó đi tàu hỏa ư?”. Ông Chu nhăn mặt hỏi. Hành trình đó sẽ mất một ngày, nhiều nhất là hai ngày nếu bị chậm. Isak gật đầu, thở phào vì thầy thuốc đã báo hiệu rằng anh có thể lên đường.
“Ông đã ra ngoài rồi chứ?”.
“Tôi mới chỉ loanh quanh trong sân thôi. Ông đã nói rằng ra ngoài không phải là ý hay mà”.
“Bây giờ thì ông có thể. Mỗi ngày ông nên đi dạo một hoặc hai lần - mỗi lần đi dạo kéo dài hơn lần trước, ông cần rèn đôi chân cho khỏe. Ông còn trẻ, nhưng đã nằm trên giường và ở trong nhà gần ba tháng rồi”. Người thầy thuốc quay sang Yangjin. “Bà xem xem liệu ông ấy có thể đi
bộ xa đến tận chợ hay không. Dĩ nhiên ông ấy không nên đi một mình. Ông ấy có thể bị ngã”. Ông Chu vỗ vai Isak trước khi ra về và hứa tuần sau sẽ quay lại.
•••
Sáng hôm sau Isak nghiên cứu Kinh Thánh, cầu nguyện và ăn sáng một mình ở phòng ngoài. Những người khách trọ đã ra ngoài đi làm. Anh cảm thấy đủ khỏe để đi Osaka, và muốn chuẩn bị hành trang để lên đường. Trước khi đi Nhật, anh muốn thăm vị mục sư ở một nhà thờ tại Busan, nhưng chưa có cơ hội. Anh không liên lạc với vị mục sư đó vì sợ rằng ông ấy sẽ ghé thăm và bị lây bệnh. Isak cảm thấy chân mình khỏe, không run lẩy bẩy như trước. Trong phòng riêng, anh tập các động tác thể dục mềm dẻo mà Samoel, anh cả của anh, đã dạy anh hồi nhỏ. Hầu hết thời gian chỉ ở trong nhà, anh phải học rèn luyện thân thể theo các cách không dễ nhận thấy cho lắm.
Yangjin vào để dọn khay đồ ăn sáng của anh. Cô mang cho anh một tách trà yến mạch và anh cảm ơn cô.
“Tôi muốn đi dạo một lát. Tôi có thể đi một mình được”, anh mỉm cười và nói. “Tôi sẽ không đi lâu đâu. Sáng nay tôi cảm thấy khỏe, tôi sẽ không đi xa đâu”.
Yangjin không giấu nổi vẻ đờ đẫn. Cô không thể khiến anh giam mình trong nhà như một chú gà trống ưu tú trong chuồng gà của cô, nhưng chuyện gì sẽ xảy ra nếu anh bị ngã? Khu vực quanh nhà cô rất vắng vẻ. Nếu anh đi ra bãi biển mà bị tai nạn thì chẳng ai phát hiện ra cả.
“Tôi không nghĩ ông nên đi một mình”. Những người khách trọ khác đang ở chỗ làm hoặc ở trong thành phố làm những việc cô không muốn
biết. Chẳng có ai ở nhà để nhờ đi cùng anh lúc này.
Isak cắn môi. Nếu anh không tập cho đôi chân khỏe, thì chuyến đi sẽ bị hoãn lại.
“Đó sẽ là một đòi hỏi quá đáng”. Anh ngừng một lát. “Bà có nhiều việc phải làm, nhưng có lẽ bà có thể đưa tôi đi một đoạn ngắn thôi”. Quả là thái quá khi đề nghị một người phụ nữ đi dạo cùng anh trên bãi biển, nhưng Isak cảm thấy nếu hôm nay không được ra ngoài thì anh sẽ phát điên mất. “Nếu bà không thể đi, tôi hiểu. Tôi sẽ đi bộ một đoạn rất ngắn gần biển thôi. Chỉ vài phút thôi”. Hồi nhỏ anh sống cuộc sống của một người ốm yếu được ưu tiên. Các gia sư và gia nhân bầu bạn với anh trong những năm đầu. Khi thời tiết tốt và anh đủ khỏe để đi đạo, gia nhân hoặc các anh của anh thường cõng anh trên lưng. Nếu bác sĩ muốn anh hít thở không khí ngoài trời, thì người làm vườn gầy như thân tre hóp lại đặt Isak vào một cái khung hình chữ A và đẩy anh qua vườn quả, để anh giật những quả táo từ những cành thấp.
Isak gần như có thể ngửi mùi thơm đậm đà của những quả táo, cảm thấy sức nặng của những quả táo đỏ trong tay mình và nếm miếng táo đầu tiên giòn ngọt, liếm những giọt nước táo trắng đục chảy xuống cổ tay mình. Anh nhớ nhà, và cảm thấy mình là đứa trẻ ốm yếu thuở nào, bị giữ ở trong phòng, nài nỉ người khác để được cho phép nhìn thấy ánh mặt trời.
Yangjin quỳ, đôi tay nhỏ và thô đan vào nhau để trong lòng, không biết phải nói gì. Một người đàn bà đi dạo với một người đàn ông không phải là thành viên của gia đình mình thì chẳng hay ho gì. Cô nhiều tuổi hơn anh, vậy nên cô không sợ những lời xì xào, nhưng Yangjin chưa bao giờ đi dạo cùng một người đàn ông không phải là cha hoặc chồng mình.
Anh nhìn khuôn mặt đầy bối rối của cô. Anh cảm thấy thật tệ khi đưa
ra một đòi hỏi quá đáng nữa như vậy.
“Bà đã làm rất nhiều điều cho tôi rồi, còn tôi thì cứ đòi hỏi thêm”. Yangjin ngồi thẳng lưng. Cô chưa bao giờ được đi dạo nhàn tản trên bãi biển với chồng mình. Chân và lưng của Hoonie khiến anh đau nhức suốt cuộc đời ngắn ngủi - dù anh không kêu ca nửa lời về điều đó, mà dành năng lượng cho những việc phải làm. Ngày nhỏ hẳn là anh muốn chạy chơi như một đứa trẻ bình thường, hít căng lồng ngực không khí mặn mòi của biển và đuổi theo những con mòng biển - những điều mà mọi đứa trẻ ở Yeongdo đều làm.
“Tôi thật ích kỷ”, anh nói. “Tôi xin lỗi”. Isak quyết định đợi tới khi một người khách trọ nào đó có thể đưa anh đi dạo.
Yangjin đứng dậy. “Ông cần mang áo khoác”, cô nói. “Tôi sẽ đi lấy”. •••
Mùi thơm đậm đà của rong biển, bọt sóng dọc bãi biển lô nhô đá, và sự trống trải của quang cảnh tràn ngập một màu xám và sắc xanh nếu không có vài chú chim trắng bay lượn vòng phía trên đầu họ - những cảm xúc ngập tràn đến mức khó chịu đựng sau khi phải ở trong căn buồng nhỏ suốt một thời gian dài. Mặt trời buổi sáng sưởi ấm cái đầu không đội mũ của Isak. Anh chưa bao giờ uống rượu say, nhưng anh mường tượng đây chính là cảm giác của những người nông dân khi nhảy múa vào dịp Chuseok* sau khi đã uống nhiều chén rượu.
Trên bãi biển, Isak xách đôi giày da của mình trên tay. Anh đi đều bước, chẳng cảm thấy bất cứ dấu vết nào của bệnh tật trong thân hình cao gầy của mình. Anh không cảm thấy mình tráng kiện, nhưng cảm thấy khá
hơn trước nhiều.
“Cảm ơn bà”, anh nói, không nhìn về phía cô. Khuôn mặt trắng xanh của anh rạng rỡ trong ánh mặt trời buổi sáng. Anh nhắm mắt lại và thở sâu. Yangjin liếc nhìn người đàn ông trẻ đang mỉm cười. Cô cho rằng anh có sự hồn nhiên trong sáng, kiểu hồn nhiên ban sơ như trẻ thơ không thể che giấu. Cô muốn bảo vệ anh.
“Bà thật tốt bụng”.
Cô gạt bỏ điều anh vừa nói bằng một cái phẩy tay; không biết phải làm gì với sự biết ơn của anh. Yangjin khổ sở. Cô không có thời gian cho cuộc tản bộ này, và việc ở bên ngoài khiến cho gánh nặng lờ mờ trong tim cô trở nên rõ rệt; nó đè nặng lên cô từ bên trong.
“Tôi có thể hỏi bà điều này được không?”.
“Gì cơ?”.
“Con gái bà ổn chứ?”.
Yangjin không trả lời. Khi họ bước về đầu kia của bãi biển, cô cảm thấy như thể mình đang ở một nơi nào đó khác, mặc dù cô không thể nói chính xác là nơi nào. Nơi này không còn khiến cô có cảm giác như bãi biển sau nhà, chỉ cách sân sau nhà cô vài bước chân. Đi bên cạnh vị mục sư trẻ khiến cô mất phương hướng, nhưng câu hỏi bất ngờ của anh đã phá vỡ sự quyến rũ mỏng manh.
Anh đã để ý thấy điều gì đó khiến anh hỏi về Sunja chăng? Chẳng bao lâu nữa bụng của con bé sẽ to lùm lùm, nhưng bây giờ trông nó không khác mấy. Vị mục sư này nghĩ gì về chuyện ấy? Nó có quan trọng không?
“Con bé đang mang thai”. Cô nói, và cô biết nói với anh chuyện đó không sao cả.
"""