"
Nước Mỹ (Kẻ Mất Tích) - Franz Kafka & Lê Chu Cầu (dịch) full mobi pdf epub azw3 [Tiểu Thuyết]
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Nước Mỹ (Kẻ Mất Tích) - Franz Kafka & Lê Chu Cầu (dịch) full mobi pdf epub azw3 [Tiểu Thuyết]
Ebooks
Nhóm Zalo
Nước Mỹ (Kẻ Mất Tích) —★—
Tác giả: Franz Kafka
Người dịch: Lê Chu Cầu
Phát hành: Nhã Nam
Nhà xuất bản Hội Nhà Văn 2020ebook©tve-4u
1
Người thợ đốt lò[1]
Khi Karl Roßmann tiến vào cảng New York trên con tàu đã chạy chậm lại (cha mẹ khốn khổ của chàng trai mười bảy tuổi[2] này đã tống cổ cậu sang Mỹ, vì cậu bị một ả người làm quyến rũ và có con với ả), cậu thấy pho tượng Nữ thần Tự do, mà cậu đã quan sát một lúc lâu, như đứng trong một bầu trời đột nhiên chói lọi hơn. Cánh tay cầm kiếm[3] như vừa mới vung lên và những làn không khí tự do đang thổi quanh thân tượng.
“Cao thế!” cậu nhủ thầm và không nghĩ gì đến chuyện rời khỏi chỗ nên bị đám phu khuân vác, đang kéo qua mặt càng lúc càng đông hơn, đẩy dần tới lan can tàu.
Một anh chàng cậu quen sơ trên chuyến tàu, hỏi khi đi ngang qua: “Này, cậu chưa có hứng xuống tàu à?”
“Tôi xong rồi đây,” Karl mỉm cười nói với anh ta và, vì cậu là một chàng trai khỏe mạnh, hào hứng nhấc rương lên vai. Nhưng khi thấy chàng thanh niên quen biết kia vung vẩy ba toong đi khỏi cùng với những người khác, cậu điếng người nhận ra mình đã bỏ quên chiếc dù dưới tàu. Cậu vội nhờ anh chàng vui lòng chờ bên chiếc rương một lúc (anh chàng có vẻ không mấy hào hứng), quan sát vị trí để hình dung lối về, rồi đâm bổ chạy. Dưới boong tàu cậu buồn phiền thấy cái lối đi tắt đã bị chặn lại, lẽ ra nó có thể rút ngắn đường cho cậu rất nhiều; đây là lần đầu tiên nó bị chặn, hẳn có liên quan đến việc đưa mọi hành khách lên bờ, và cậu phải vất vả tìm đường qua những cầu thang nối tiếp nhau không ngớt, qua những hành lang quanh co liên tục, qua một căn phòng trống với chiếc bàn giấy bỏ không, cho đến khi cậu thật sự bị lạc hoàn toàn, vì trước đây cậu chỉ đi lối này một hoặc hai lần và lần nào cũng cùng với khá nhiều người nữa. Đang hoang mang sẵn, thêm không gặp một ai, lại còn nghe trên đầu tiếng lạo xạo của cả nghìn bàn chân người và tiếng chuyển động cuối cùng như một
hơi thở hắt của những cỗ máy đã bị tắt từ phía xa, cậu liền đập bừa lên một cánh cửa nhỏ nào đấy gặp phải lúc đi lạc lòng vòng.
“Cửa mở mà,” có tiếng đáp từ bên trong và Karl mở ra, thở phào nhẹ nhõm.
“Làm gì mà cậu đập cửa như điên khùng thế?” một người đàn ông to như hộ pháp hỏi, khi vừa nhìn thấy Karl. Một luồng ánh sáng, từ ô cửa sổ nào đó trên cao, đã bị tiêu hao ở các tầng trên, khi xuống đến đây trở nên mờ đục, rọi vào căn buồng tồi tàn ấy, nơi một chiếc giường, một cái tủ, một chiếc ghế và người đàn ông đứng sát bên nhau như được chất trong kho.
“Tôi bị lạc,” Karl nói, “trong chuyến đi tôi đâu để ý rằng chiếc tàu này to khủng khiếp thế.”
“Phải, cậu nói đúng,” người đàn ông đáp với đôi chút tự hào và mải miết hí hoáy với ổ khóa của một chiếc hòm con mà hai tay ông ta không ngớt đóng khóa lại để lắng nghe tiếng chốt sập vào.
“Nhưng cậu vào đi thôi!” người đàn ông nói tiếp, “cậu không định đứng ngoài mãi chứ!”
“Tôi có làm phiền ông không đấy?” Karl hỏi.
“Chậc, cậu làm phiền tôi thế nào được!”
“Ông là người Đức à?” Karl hỏi để được yên tâm, vì cậu đã nghe nói về nhiều mối nguy hiểm, đặc biệt từ bọn Ireland, đe dọa những người mới di dân tới Mỹ.
“Đích thị, đích thị,” người đàn ông đáp.
Karl vẫn còn ngần ngại. Đột nhiên người đàn ông nắm quả đấm cửa, kéo cánh cửa cùng với Karl vào trong và lẹ làng đóng lại. “Tôi không chịu nổi khi có người đứng ngoài hành lang nhìn vào,” người đàn ông vừa nói vừa tiếp tục hí hoáy chiếc hòm, “ai đi qua cũng ngó vào thì trong mười người họa may mới có một người chịu đựng nổi!” “Nhưng hành lang trống trơn mà,” Karl nói, đứng lúng túng như bị ép gí vào chân giường.
“Phải rồi, bây giờ thì trống,” người đàn ông nói.
“Thì mình đang nói về bây giờ mà,” Karl nghĩ, “trò chuyện với ông này khó gớm.”
“Cậu lên giường nằm đi, trên đó rộng rãi hơn,” người đàn ông nói. Karl cố sức bò vào trong giường và cười phá lên vì lần đầu thử đu lên không được. Nhưng vừa ngồi trên giường cậu đã kêu lên: “Chúa ơi, tôi quên khuấy chiếc rương rồi!”
“Nó đang ở đâu thế?”
“Ở trên boong, một người quen trông giúp. Anh ta tên gì nhỉ?” Và cậu móc ra một tấm danh thiếp từ cái túi bí mật mẹ cậu đã may vào lớp vải lót áo vét cho chuyến đi này. “Butterbaum, Franz Butterbaum.” “Cậu cần chiếc rương lắm à?”
“Tất nhiên.”
“Thế sao cậu lại đưa nó cho người lạ?”
“Tại tôi quên cái dù dưới này nên chạy xuống lấy, nhưng không muốn kéo theo rương. Rồi tôi còn bị lạc ở đây nữa.”
“Cậu đi một mình? Không có ai đi cùng sao?”
“Vâng, một mình.”
“Có lẽ mình nên bám theo ông này,” Karl thầm nghĩ, “mình tìm đâu ngay được một người bạn tốt hơn?”
“Và bây giờ cậu mất luôn cả rương nữa. Ấy là chưa kể cái dù.” Và người đàn ông ngồi lên ghế, như thể lúc này câu chuyện của Karl đã trở nên thú vị đôi chút đối với ông ta.
“Nhưng tôi tin rằng cái rương chưa mất.”
“Có tin có lành,” người đàn ông vừa nói vừa ra sức gãi mái tóc đen, ngắn và dày, “đạo đức trên tàu cũng thay đổi theo bến cảng. Ở Hambourg có thể gã Butterbaum của cậu canh giữ cái rương giúp cậu, nhưng ở đây rất có thể cả gã lẫn rương đều không cánh mà bay.”
“Thế thì tôi phải lên ngay xem sao,” Karl nói và nhìn quanh tìm lối ra. “Ở lại đây thôi,” người đàn ông vừa nói vừa đưa tay ấn khá thô bạo lên ngực Karl, đẩy cậu vào giường trở lại.
“Tại sao chứ?” Karl bực tức hỏi.
“Vì làm thế là vô nghĩa,” người đàn ông nói, “lát nữa tôi cũng đi, ta sẽ cùng đi. Hoặc chiếc rương đã bị mất cắp thì vô phương, hoặc gã kia để lại đó thì khi tàu trống hết rồi ta càng dễ tìm. Cả cái dù của cậu nữa.”
“Ông rành con tàu này nhỉ?” Karl nghi ngờ hỏi và cảm thấy cái ý tưởng, bình thường rất thuyết phục, rằng trên con tàu trống sẽ dễ tìm đồ đạc của mình nhất có ẩn giấu một cạm bẫy.
“Tôi là thợ đốt lò[4] của tàu này mà,” người đàn ông nói.
“Ông là thợ đốt lò trên tàu!” Karl thích thú kêu lên, như thể điều này vượt quá mọi sự chờ đợi của mình và tựa trên khuỷu tay nhìn người đàn ông kỹ hơn. “Ngay trước phòng ngủ của tôi với gã người Slovak có một cửa khoang, có thể nhìn qua vào phòng máy được.”
“Đúng, tôi đã làm việc ở đó,” người thợ đốt lò nói.
“Xưa nay tôi vốn luôn thích kỹ thuật,” Karl nói và tiếp tục thả hồn trong ý nghĩ của mình, “và chắc chắn sau này tôi sẽ trở thành kỹ sư, nếu tôi không phải đi qua Mỹ.”
“Sao cậu lại phải qua Mỹ?”
“Chậc!” Karl tặc lưỡi và vừa phẩy tay bỏ qua câu chuyện, vừa mỉm cười nhìn người thợ đốt lò, như thể yêu cầu ông ta thông cảm cho việc cậu không thể tiết lộ.
“Chắc phải có lý do,” người thợ đốt lò nói, chẳng rõ ông ta đòi được biết hay ngăn cản cậu kể nguyên nhân.
“Bây giờ tôi cũng có thể trở thành thợ đốt lò, nếu được,” Karl nói, “bây giờ tôi làm gì thì bố mẹ tôi cũng chẳng quan tâm.”
“Chỗ làm của tôi sẽ khuyết người đấy,” người thợ đốt lò vừa nói với vẻ chắc chắn vừa thọc hai tay vào túi chiếc quần màu xám thép, nhăn nhúm giống như da, rồi gác và duỗi hai chân trên giường. Karl phải dịch sát hơn vào tường.
“Ông bỏ con tàu này à?”
“Đúng vậy, hôm hay tôi sẽ rút lui.”
“Sao thế? Ông không thích công việc này à?”
“Chà, hoàn cảnh mà, có phải lúc nào cũng do mình thích hay không đâu. Với lại cậu nói đúng, tôi cũng không thích nữa. Hẳn cậu không thật tâm muốn trở thành thợ đốt lò, nhưng chính vì thế mà người ta dễ trở thành thợ đốt lò nhất. Tôi dứt khoát khuyên cậu bỏ ý định đó đi. Nếu cậu từng muốn học đại học ở châu Âu, tại sao cậu lại không muốn học ở đây? Các trường đại học Mỹ hơn hẳn ở châu Âu chứ.”
“Có thể như thế thật,” Karl nói, “nhưng tôi hầu như không có tiền để học. Tuy tôi có đọc về người nào đó ban ngày làm việc trong một cửa hàng, ban đêm học đại học cho tới khi đỗ tiến sĩ và tôi tin là ông ấy đã trở thành thị trưởng, nhưng như thế cần kiên nhẫn lắm, nhỉ? Tôi e mình thiếu đức tính ấy. Ngoài ra tôi không phải là học sinh đặc biệt xuất sắc, vì thế việc bỏ học đối với tôi quả thật không có gì ghê gớm. Và các trường học ở đây có lẽ còn khó khăn hơn. Tiếng Anh hầu như tôi chẳng biết gì. Nhất là ở đây người ta có thành kiến với dân ngoại quốc.”
“Cậu cũng biết thế rồi à? Thế thì hay lắm. Vậy cậu đúng là người tôi đang cần. Cậu nghĩ xem, mình đang ở trên một chiếc tàu Đức, chạy tuyến Hambourg-Mỹ, tại sao trên tàu không phải toàn người Đức? Tại sao trưởng cơ khí là một tay Rumani? Tên hắn là Schubal. Thật không tin nổi. Và tên vô lại này ngược đãi người Đức chúng ta trên một chiếc tàu Đức! Cậu đừng nghĩ rằng” - ông ta hết hơi, tay phẩy phẩy - “tôi phàn nàn chỉ để phàn nàn. Tôi biết cậu chẳng có ảnh hưởng gì và cũng chỉ là một gã khốn khổ thôi. Nhưng mà chuyện này tồi tệ quá mức!”
Ông ta đấm liên tu bất tận lên bàn và trong lúc ấy mắt không rời nắm tay.
“Tôi từng làm trên nhiều tàu rồi chứ” - và ông ta kể ra một loạt hai mươi chiếc tàu như thể đó là một tên, khiến Karl hoang mang - “tôi xuất sắc, được khen ngợi, là một công nhân hợp ý các thuyền trưởng, thậm chí tôi đã phục vụ vài năm trên một tàu buôn.” Ông ta đứng dậy, như thể chuyện đó là đỉnh cao của cuộc đời mình. “Còn ở đây, trên con tàu này, nơi mọi việc được định sẵn đâu vào đấy, nơi chẳng cần gì đến tài cán thì tôi lại vô dụng, luôn luôn cản trở Schubal, tôi là thằng trây lười, đáng bị đuổi cổ và tôi được trả lương vì thương hại. Cậu hiểu điều này không? Tôi chịu.”
“Ông không được cam chịu chứ,” Karl khích động nói. Cậu quên bẵng mình đang ở trên những tấm ván không chắc chắn của một con tàu tại bờ biển của một lục địa lạ, cái giường của người thợ đốt lò đã khiến cậu thấy thân thuộc như ở nhà.
“Ông gặp thuyền trưởng chưa? Ông đã đòi hỏi ông ta về quyền lợi của mình chưa?”
“Thôi cậu đi đi, cậu làm ơn đi đi. Tôi không muốn có cậu ở đây nữa. Cậu không lắng nghe tôi nói, mà lại khuyên này khuyên nọ. Làm sao tôi
gặp được thuyền trưởng chứ!” Và người thợ đốt lò lại mệt mỏi ngồi xuống, úp mặt vào hai bàn tay.
“Mình đâu thể khuyên ông ta điều gì hay hơn,” Karl tự nhủ. Và cậu thấy nên đi tìm rương hơn là ngồi đây đưa ra những lời khuyên chỉ bị coi là ngớ ngẩn. Khi cho đứt cậu cái rương, bố cậu hỏi đùa: “Con sẽ giữ nó được bao lâu?” và bây giờ có lẽ cậu đã thật sự mất chiếc rương khá quý giá này. Điều an ủi duy nhất là bố cậu không thể biết được hoàn cảnh của cậu hiện giờ, cho dù nếu ông dò hỏi. Công ty đường biển chỉ có thể trả lời rằng cậu đã tới New York thôi. Nhưng Karl thấy tiếc vì chưa hề dùng tới món nào trong đó, dù lẽ ra chẳng hạn cậu phải thay sơ mi từ lâu rồi. Nghĩa là cậu đã tiết kiệm không đúng chỗ; bây giờ, đúng lúc bắt đầu cuộc đời mới của mình, cần ăn mặc sạch sẽ tinh tươm thì cậu sẽ phải xuất hiện trong chiếc áo bẩn thỉu. Nếu không thì việc mất rương cũng chẳng có gì ghê gớm, vì bộ quần áo cậu đang mặc còn tốt hơn bộ trong rương, thật ra chỉ để phòng khi cần thiết mà mẹ cậu đã phải may nó sát trước ngày cậu đi. Bây giờ cậu cũng nhớ ra trong rương còn cả một khúc xúc xích Verona mẹ cậu đã đặc biệt gói thêm, mà cậu mới chỉ ăn một mẩu, vì suốt chuyến đi cậu không thấy ngon miệng và với cậu thì món xúp người ta phân phát cho hành khách ở khoang hạng chót cũng thừa đủ rồi. Nhưng bây giờ cậu ước ao có khúc xúc xích đó trong tay để biếu người thợ đốt lò. Vì rất dễ giành được cảm tình của những người như thế này, khi ta có món gì đấy nho nhỏ giúi cho họ. Cậu biết điều này từ bố cậu, qua việc ông lấy lòng mọi người làm thuê bằng cách cho họ thuốc xì gà. Bây giờ cậu chỉ còn tiền là thứ có thể tặng được mà cậu tạm thời không muốn đụng tới, phòng trường hợp cái rương bị mất thật. Đầu óc cậu quay trở lại với cái rương và cậu quả tình không thể hiểu nổi tại sao trong chuyến đi cậu chăm chú canh chừng nó đến hầu như không ngủ, vậy mà bây giờ cậu lại để cho cũng cái rương ấy bị lấy mất dễ dàng đến thế. Karl nhớ tới năm đêm cậu không ngớt nghi ngờ một gã Slovak nhỏ con, nằm cách cậu hai giường về phía trái, đã nhắm cái rương của cậu. Gã Slovak này chỉ rình Karl cuối cùng chợp mắt trong một khoảnh khắc vì mệt, để gã có thể kéo nó về phía gã bằng một cây que dài mà gã luôn dùng để chơi hay tập dượt trong ngày. Ban ngày trông gã Slovak này thật hồn nhiên, nhưng khi bóng đêm vừa buông xuống, gã thỉnh thoảng đứng lên khỏi giường, buồn rầu nhìn về phía cái rương của Karl. Karl có thể nhận thấy rất rõ điều này, vì thỉnh thoảng lại có một người di
dân nào đấy trong lòng hồi hộp bất an thắp nến lên, bất chấp nội quy trên tàu cấm, để cố giải mã những tập sách mỏng khó hiểu của các cơ quan di dân. Nếu ngọn nến này gần giường Karl, cậu có thể chợp mắt một lúc, nhưng nếu nó ở xa hoặc tối thì cậu phải cố chong mắt thức. Nỗ lực ấy đã khiến cậu rất kiệt sức và bây giờ có lẽ nó hoàn toàn vô ích. Gã Butterbaum này, nếu có lần nào cậu còn gặp gã ở đâu đó mà xem!
Cho đến lúc ấy trong buồng hoàn toàn yên ắng, chợt đâu những tiếng khua ngắn và nhỏ vang lên từ xa, nghe như tiếng chân trẻ con, khi tới gần chúng trở nên mạnh hơn và giờ đây là tiếng bước đều của nhiều người đàn ông. Hẳn là họ đi hàng một, điều bình thường trong hành lang hẹp, nghe như có tiếng vũ khí loảng xoảng. Đang sắp nằm duỗi dài trên giường ngủ một giấc để thoát khỏi mọi âu lo về cái rương cùng gã Slovak, Karl giật nẩy mình, huých người thợ đốt lò để lưu ý ông ta, vì đoàn người dường như vừa tới ngay trước cửa buồng.
“Ban nhạc của tàu đấy,” người thợ đốt lò nói, “họ chơi trên kia, giờ họ về thu dọn hành trang. Bây giờ mọi việc đã xong và chúng ta có thể đi được rồi. Nào cậu!”
Ông ta nắm tay Karl, phút chót còn tháo tấm hình lồng khung Đức Mẹ treo tường trên đầu giường, cất vào ngực áo, cầm cái hòm và vội vã cùng với Karl rời căn buồng.
“Bây giờ tôi tới văn phòng và sẽ nói cho các quý ông biết tôi nghĩ gì. Không còn hành khách nào nữa, ta chẳng cần phải khoan nhượng.” Người thợ đốt lò lặp lại câu này theo nhiều kiểu và trong lúc đi còn định tạt chân đạp bẹp một con chuột chạy ngang đó, song chỉ khiến nó lủi nhanh hơn vào cái hốc nó gặp kịp thời. Nói chung ông ta cử động chậm chạp, vì chân ông ta tuy dài nhưng lại quá nặng nề.
Họ đi ngang một phòng của nhà bếp, nơi vài cô gái khoác tạp dề bẩn thỉu đang rửa chén đĩa trong những chậu gỗ to - các cô ả cố ý làm bắn nước lên tạp dề. Người thợ đốt lò gọi một cô nàng Line nào đó lại, quàng tay quanh hông cô và dìu cô đi một khúc, trong lúc cô không ngớt làm duyên làm dáng nép người vào cánh tay ông ta.
“Bây giờ đi lĩnh lương, em đi cùng không?” ông ta hỏi.
“Việc gì em phải tốn công, tốt hơn anh hãy mang tiền về cho em,” cô đáp, rồi luồn dưới cánh tay ông ta và chạy đi. “Anh vớ được cậu bé xinh
trai này ở đâu thế?” cô gọi với theo, nhưng không chờ được trả lời. Có tiếng các cô cười ồ, họ đã ngừng rửa chén từ nãy rồi. Hai người tiếp tục đi, tới một cái cửa mà bên trên là một vòm nhỏ tựa
lên một chiếc cột con mang hình tượng người đàn bà giát vàng. Trên một con tàu mà trang trí như thế này thì rõ là hoang phí. Karl nhận thấy mình chưa tới khu này lần nào; trong chuyến đi có lẽ nó dành riêng cho hành khách hạng nhất và hạng nhì, còn bây giờ các cửa ngăn đã được mở để tổng vệ sinh tàu. Quả thật họ đã gặp vài người đàn ông vai vác chổi và chào người thợ đốt lò. Karl ngạc nhiên về sự nhộn nhịp này, ở boong giữa dĩ nhiên cậu đâu biết gì nhiều. Cậu thấy những đường dây điện chạy dọc theo các hành lang và nghe tiếng một cái chuông nho nhỏ rung liên tục.
Người thợ đốt lò kính cẩn gõ cửa và, khi nghe tiếng “Vào đi,” ông ta huơ tay bảo Karl vào, đừng sợ. Karl cũng bước vào, nhưng dừng lại ở cửa. Qua ba cửa sổ của căn phòng cậu nhìn thấy sóng biển và ngắm chúng tung tăng chuyển động mà tim rộn ràng, như thể cậu không hề nhìn biển suốt năm ngày liên tục. Những chiếc tàu lớn cắt ngang đường của nhau và tùy trọng tải mà chúng trồi lên sụt xuống nhiều ít theo con sóng. Nếu nheo mắt, ta có cảm tưởng những con tàu này tròng trành chính vì trọng tải của chúng. Trên các cột buồm, những lá cờ hẹp nhưng dài, mặc dù căng phồng theo gió lúc tàu chạy song vẫn phất phới. Tiếng súng chào mừng vang rền, hẳn là từ các tàu chiến; một chiếc tàu ấy chạy qua gần đấy, những nòng đại bác loáng ánh nắng phản chiếu trên lớp vỏ thép, như được vuốt ve bởi sự di chuyển vững chãi, uyển chuyển nhưng dập dềnh. Ta chỉ thấy được, ít nhất là từ cửa phòng, các tàu nhỏ và thuyền nơi phía xa, khi chúng chạy thành đoàn vào những khoảng trống giữa các con tàu lớn. Đứng sau tất cả những cái này là New York và nó nhìn Karl với hàng trăm nghìn cửa sổ của những tòa nhà chọc trời. Phải, trong căn phòng này ta biết ta đang ở đâu.
Tại một chiếc bàn tròn có ba ông đang ngồi, người mặc đồng phục xanh lơ là sĩ quan của tàu, hai người kia là viên chức cơ quan quản lý bến cảng trong đồng phục đen của Mỹ. Trên bàn chất thành chồng những hồ sơ đủ loại mà viên sĩ quan với cây bút trên tay xem lướt qua trước rồi trao cho hai người kia, khi thì họ đọc, lúc thì họ trích dẫn, khi thì họ cất vào cặp, nếu người có hàm răng gần như liên tục gây ra tiếng kêu lách cách không đọc gì đấy để đồng sự ghi vào biên bản.
Ngồi tại một chiếc bàn giấy bên cửa sổ, quay lưng ra cửa là một ông hơi nhỏ người, đang bận bịu với những quyển sách khổ to đặt cạnh nhau ngang tầm mắt ông ta, trên một kệ sách kiên cố. Cạnh ông ta là một cái két để mở, thoạt nhìn dường như trống trơn.
Cửa sổ thứ hai trống và nhìn ra rõ nhất. Nhưng gần cửa sổ thứ ba có hai ông đang đứng trò chuyện khe khẽ. Người đứng tựa bên cửa sổ cũng mặc đồng phục của tàu, tay mân mê đốc kiếm. Người đang trò chuyện với ông ta đứng quay về phía cửa sổ, thỉnh thoảng lại cử động làm hiện ra phần nào hàng huân chương trên ngực ông kia. Ông này mặc thường phục, cầm một cây gậy trúc mỏng và nó cũng dựng đứng tựa thanh kiếm, vì hai tay ông ta chống trên hông.
Karl không có nhiều thì giờ để nhìn hết tất cả, vì một gã giúp việc đã nhanh chóng tiến về phía họ, ngó người thợ đốt lò như thể ông ta không thuộc về nơi này và hỏi ông ta muốn gì. Người thợ đốt lò trả lời, cũng khẽ như khi được hỏi, rằng muốn nói chuyện với chánh thủ quỹ. Gã giúp việc, về phần mình, phẩy tay từ khước lời yêu cầu, nhưng vẫn nhón chân đi vòng thật xa tránh chiếc bàn tròn, tới bên người đàn ông với những quyển sách khổ to. Ông này - ta thấy rõ ràng - gần như sững người trước lời lẽ của gã giúp việc, nhưng cuối cùng đã quay về phía người đàn ông muốn được nói chuyện với mình, rồi phất tay nghiêm khắc xua đuổi người thợ đốt lò và, để chắc chắn, luôn cả gã giúp việc. Gã giúp việc liền quay lại người thợ đốt lò, nói bằng giọng như thể tiết lộ với ông ta điều gì đấy: “Ông xéo ngay khỏi phòng đi thôi!”
Nghe câu trả lời này người thợ đốt lò liền cúi nhìn Karl, như thể cậu là trái tim của ông ta, để ông ta lặng lẽ than thở tình trạng đáng thương của mình. Không nghĩ ngợi gì thêm, Karl liền rời chỗ, chạy xuyên qua phòng, chạm cả vào chiếc ghế của viên sĩ quan; gã giúp việc lom khom chạy theo, dang hai tay trong tư thế ôm, như thể đang đuổi bắt sâu bọ, nhưng Karl đã đến bàn của chánh thủ quỹ trước gã, cậu nắm chặt chiếc bàn, phòng trường hợp gã giúp việc tìm cách kéo cậu đi.
Tất nhiên cả căn phòng lập tức nhốn nháo. Viên sĩ quan ở bàn nhảy dựng lên, hai viên chức bến cảng bình thản nhìn nhưng chăm chú, hai ông ở cửa sổ bước lại cạnh nhau; gã giúp việc liền lùi lại, vì cho rằng khi các ông lớn đã quan tâm thì gã đứng đó chỉ gây phiền toái. Còn người thợ đốt lò đứng ở cửa, căng thẳng chờ giây phút sự hỗ trợ của mình được cần đến.
Cuối cùng viên chánh thủ quỹ xoay mạnh người sang bên phải trên cái ghế tựa của hắn.
Karl moi trong cái túi bí mật - mà cậu không ngần ngại trước ánh mắt của những người này - lấy hộ chiếu của mình, mở ra đặt lên bàn thay cho lời tự giới thiệu dông dài. Viên chánh thủ quỹ dường như coi hộ chiếu này là chuyện vặt vãnh, vì hắn đẩy nó sang bên bằng hai ngón tay; Karl liền cất nó vào túi trở lại, cho rằng chuyện thủ tục đã được giải quyết thỏa đáng.
Rồi cậu lên tiếng: “Tôi xin được nói rằng theo ý tôi thì ông thợ đốt lò đã bị đối xử bất công. Ở đây có một người tên Schubal nào đấy đã xử ép ông. Bản thân ông đã phục vụ trên nhiều tàu, mà ông có thể nêu tên ra hết với quý vị, và được hoàn toàn hài lòng; ông chăm chỉ, trân trọng công việc, nên thật sự không thể nào hiểu nổi tại sao trên chính con tàu này, nơi công việc không khó khăn quá mức, như chẳng hạn trên những tàu buôn, ông lại phục vụ kém. Vậy đó chỉ có thể là sự vu khống nhằm cản trở bước đường thăng tiến cũng như sự khen ngợi mà lẽ ra chắc chắn ông phải được hưởng. Tôi chỉ nói đại để về chuyện này thôi, còn ông sẽ tự trình bày cùng quý vị những khiếu nại riêng của mình.”
Karl hướng những lời lẽ này tới mọi người, vì quả thật ai nấy đều lắng nghe và hẳn là trong số tất cả những người này cậu dễ tìm được người công minh hơn là ở chính viên chánh thủ quỹ. Ngoài ra Karl đã khôn ngoan giấu nhẹm việc mình quen biết người thợ đốt lò chỉ mới đây thôi. Lẽ ra Karl còn ăn nói lưu loát hơn nhiều, nếu không bị gương mặt đỏ au của ông già cầm gậy trúc làm xao xuyến, gương mặt mà cậu lần đầu tiên trông thấy từ chỗ cậu hiện đang đứng.
“Đúng từng chữ một,” người thợ đốt lò nói, dù chưa có ai kịp hỏi, thậm chí trước khi người ta kịp nhìn về phía ông ta. Sự quá nhanh nhảu này của người thợ đốt lò lẽ ra sẽ là một sai lầm lớn, nếu như người đàn ông đeo huân chương (chắc chắn là thuyền trưởng, điều này vừa lóe lên trong đầu Karl) không tự nhủ lòng phải lắng nghe người thợ đốt lò trình bày. Ông chìa tay ra và gọi người thợ đốt lò: “Ông lại đây!” với giọng chắc nịch, như lấy búa nện lên được. Bây giờ tất cả tùy thuộc vào thái độ ứng xử của người thợ đốt lò, vì cậu không nghi ngờ gì về những chuyện liên quan đến sự công bình trong vụ việc của ông ta.
May thay lúc này mới thấy là người thợ đốt lò đã đi nhiều nơi trên thế giới. Với một sự bình thản mẫu mực, ông ta lấy ra ngay từ cái rương con
một bó nhỏ giấy tờ cùng một sổ ghi chú, rồi - hoàn toàn không chú ý tới viên chánh thủ quỹ, như thể đó là chuyện đương nhiên - cầm tới chỗ thuyền trưởng, trải bằng chứng của mình lên thành cửa sổ. Viên chánh thủ quỹ không còn cách nào khác hơn là cũng phải cất công đi tới đó.
“Anh này nổi tiếng là vua kiện cáo,” hắn giải thích, “anh ta thường ở quầy chi thu hơn là trong buồng máy. Anh ta đã khiến Schubal, con người điềm đạm ấy, phát điên lên được. Anh nghe này!” hắn nói với người thợ đốt lò, “quả thật anh đã quấy rầy quá mức rồi đấy. Đã bao lần người ta tống cổ anh ra khỏi các phòng phát lương, xứng đáng với những đòi hỏi rặt phi lý, không có ngoại lệ, của anh! Đã bao lần anh chạy từ đó tới quầy thu ngân chính! Đã bao lần người ta thân ái bảo anh rằng Schubal là cấp trên trực tiếp của anh, anh là cấp dưới thì phải tự thỏa thuận với ông ta! Và bây giờ thậm chí anh còn tới đây, khi có mặt ngài thuyền trưởng; chẳng những không xấu hổ vì đã quấy rầy ngài, anh lại còn không ngần ngại dẫn theo cậu bé này, mà đây là lần đầu tiên tôi thấy trên tàu, làm kẻ phát ngôn như vẹt cho những cáo buộc tào lao của anh!”
Karl cố kiềm chế không xông tới. Nhưng thuyền trưởng đã lên tiếng: “Chúng ta hãy nghe người này nói đã. Dẫu sao tôi thấy Schubal càng ngày càng quá tự chuyên, tôi nói thế không phải thiên về ông đâu nhá.” Câu sau nhắm vào người thợ đốt lò, tất nhiên thuyền trưởng không thể lập tức can thiệp cho ông ta được, nhưng mọi chuyện có vẻ tiến triển tốt. Người thợ đốt lò bắt đầu giải thích và ngay từ đầu đã biết tự kiềm chế, khi gọi Schubal bằng “ông”. Đứng bên chiếc bàn giấy đã bỏ trống của viên chánh thủ quỹ Karl vui xiết bao, cậu luôn tay ấn cái cân thư một cách thích thú. - Ông Schubal không công bằng! Ông Schubal thiên vị người ngoại quốc! Ông Schubal tống người thợ đốt lò ra khỏi buồng máy, bắt ông ta cọ nhà vệ sinh, mà chắc chắn đó không phải là công việc của người thợ đốt lò! Có lúc ông ta thậm chí còn hoài nghi năng lực của ông Schubal, bảo đó chỉ là bề ngoài chứ không thực chất. Nghe thế, Karl đăm đăm nhìn thuyền trưởng, vẻ tin cậy, như thể ông là đồng nghiệp của cậu, chỉ để ông đừng bị ảnh hưởng bất lợi cho người thợ đốt lò vì cách diễn đạt hơi kém khéo léo của ông ta. Dẫu sao người ta không biết được gì cụ thể từ những lời lẽ dông dài này và tuy thuyền trưởng vẫn còn nhìn thẳng phía trước, lần này trong đôi mắt hiện nét quyết tâm nghe người thợ đốt lò cho đến cuối, các ông kia đã trở nên sốt ruột và chẳng bao lâu sau tiếng nói của người thợ
đốt lò không còn ngự trị tuyệt đối trong căn phòng nữa, thì điều này khiến cậu lo ngại. Mới đầu người đàn ông mặc thường phục cầm gậy trúc gõ gõ lên sàn gỗ, cho dù rất khẽ. Các ông kia dĩ nhiên thỉnh thoảng lại nhìn về phía đó; những viên chức bến cảng, hẳn là bị thôi thúc, lại vớ lấy các tập hồ sơ và bắt đầu xem qua, tuy vẫn còn hơi lơ đãng; viên sĩ quan xích lại gần bàn[5]; còn viên chánh thủ quỹ thở dài châm biếm, cho rằng đã thắng keo này. Dường như chỉ có gã giúp việc thoát khỏi tình trạng lơ đãng nói chung ấy, gã thông cảm phần nào với nỗi khốn khổ của người đàn ông đáng thương giữa đám tai to mặt lớn và nghiêm trang gật đầu với Karl, như thể muốn qua hành động này giải thích điều gì đó.
Trong khi đó cuộc sống nơi bến cảng vẫn tiếp tục bên ngoài các khung cửa sổ tàu; một chiếc tàu hàng thấp bè bè chở một núi thùng phuy (hẳn chúng phải được chất một cách tuyệt khéo nên mới không bị lăn) kéo qua khiến căn phòng gần như bị tối sầm; những xuồng máy nhỏ phóng băng băng sau những cái nhích tay của một người đàn ông đứng thẳng nơi bánh lái, nếu lúc này có thì giờ Karl sẽ có thể nhìn ngắm chúng thật kỹ! Đây đó những vật thể nổi hình thù kỳ dị tự động trồi lên khỏi mặt biển luôn xao động, rồi tức khắc bị nước tràn lên và chìm xuống trước ánh mắt ngạc nhiên của Karl; thuyền chở đầy hành khách của những con tàu xuyên đại dương được các thủy thủ ra sức chèo vào bờ; họ ngồi yên chờ đợi, như thể họ đã như thế rồi ngay từ lúc bị nhét vào đó, tuy cũng có một số người không nhịn được, cứ quay đầu nhìn theo những cảnh trí đổi thay. Một sự chuyển dịch không ngừng, một tình trạng náo động, do thiên nhiên hiếu động truyền sang những con người bất lực cùng các công trình của họ!
Nhưng mọi thứ nhắc nhở phải gấp gáp, phải rõ ràng, phải diễn tả thật chính xác; thế mà người thợ đốt lò đang làm gì? Ông ta vừa nói vừa mướt mồ hôi, đã một hồi lâu đôi bàn tay run rẩy không còn giữ nổi những giấy tờ trải trên thành cửa sổ; những cáo buộc về Schubal từ mọi hướng ập tới ông ta, mà theo ông ta thì mỗi cáo buộc riêng lẻ ấy đủ để chôn vùi hoàn toàn tay Schubal này, song những gì ông ta có thể trình bày với thuyền trưởng lại chỉ là một mớ hổ lốn đáng buồn của tất cả những điều ấy. Một hồi lâu rồi người đàn ông cầm gậy trúc đã vừa nhìn lên trần vừa khẽ huýt sáo; các viên chức bến cảng đã giữ viên sĩ quan ở bàn của họ và chẳng hề tỏ vẻ sẽ buông tha ông ta vào lúc nào đấy; viên chánh thủ quỹ rõ ràng không can thiệp vào, chỉ vì hắn bị sự bình thản của thuyền trưởng ngăn lại;
trong tư thế đứng nghiêm gã giúp việc sẵn sàng chờ đợi mệnh lệnh của thuyền trưởng ban ra bất cứ lúc nào đối với người thợ đốt lò. Thế là Karl không thể bàng quan được nữa. Cậu liền chậm chạp đi tới nhóm người, vừa đi vừa cân nhắc thật nhanh nên can thiệp vào câu chuyện sao cho khéo nhất. Quả thật đã đến lúc quyết định rồi, chậm chút nữa thôi là hai người hoàn toàn có thể bị tống ra khỏi phòng. Thuyền trưởng có thể là người tốt và hơn nữa đúng lúc này, theo Karl thấy, ông ta có lý do đặc biệt nào đấy để tỏ ra là một cấp trên công bằng, nhưng dẫu sao ông ta cũng không phải là một công cụ để ta muốn đập cho tơi tả thế nào cũng được - song người thợ đốt lò, tất nhiên vì lòng căm hận vô biên, lại đã cư xử với ông ta y như thế.
Thế nên Karl nói với người thợ đốt lò: “Ông phải kể gọn hơn, rõ ràng hơn, chứ như nãy giờ thì ngài thuyền trưởng không hiểu đúng được đâu. Chẳng lẽ ngài rành hết tên họ hoặc thậm chí tên thánh của mọi thợ máy và tùy phái để ngài biết được ngay người đó là ai, khi ông nêu tên? Ông hãy xếp thứ tự các điều ông khiếu nại, nói những điều quan trọng nhất đã rồi mới đến những điều kia, như thế có thể sẽ không cần phải đề cập đến phần lớn những điều đó. Ông kể với tôi luôn rành mạch lắm mà!”
“Ở Mỹ, khi người ta có thể ăn cắp rương, thì đôi lúc ta cũng có thể nói dối được chứ,” cậu lấy đó làm cớ để biện minh.
Giá mà điều cậu vừa nói giúp được việc! Hay đã quá muộn rồi? Tuy người thợ đốt lò ngừng nói lập tức, sau khi nghe giọng nói quen thuộc, nhưng ông không thể nhận ra Karl rõ ràng được nữa bằng đôi mắt bị mờ bởi những giọt lệ của danh dự người đàn ông bị nhục mạ, của những hồi tưởng khủng khiếp, của sự khốn quẫn tột cùng hiện tại. Làm sao giờ đây ông có thể đột nhiên thay đổi cách nói năng của mình, Karl lặng lẽ nhận thấy rõ điều ấy ở con người đang nín lặng này, vì dường như ông cho rằng đã trình bày hết mọi điều cần nói mà không được mảy may đồng tình, nhưng mặt khác lại như thể chưa nói gì hết thảy và bây giờ ông không thể đòi hỏi mọi người nghe lại tất cả. Và trong một thời điểm như vậy thì Karl, người duy nhất ủng hộ ông, lại còn đến, định giúp ông một lời khuyên tốt, nhưng thay vì thế lại cho ông thấy rằng mọi chuyện, mọi chuyện đã hỏng cả rồi.
“Giá mà mình can thiệp sớm hơn, thay vì ngó ra ngoài cửa sổ!” Karl tự nhủ, cúi mặt trước người thợ đốt lò và chập hai tay vào đường may nối
ống quần, cho thấy rằng mọi hy vọng thế là hết.
Nhưng người thợ đốt lò hiểu nhầm, tưởng Karl có gì đấy thầm tự trách móc, nên giờ đây đỉnh cao hành động của ông, với hảo ý để cậu nói ra hết những điều ấy, là ông lại còn gây sự với Karl nữa. Giờ đây, khi mà những người ngồi ở chiếc bàn tròn từ lâu đã phẫn nộ về sự ồn ào vô ích, quấy rầy công việc quan trọng của họ, khi mà viên chánh thủ quỹ dần dần cảm thấy sự nhẫn nại của thuyền trưởng là không hiểu được và chỉ chực lập tức nổi trận lôi đình, khi mà gã giúp việc lại hoàn toàn chịu ảnh hưởng của các cấp trên, nhìn người thợ đốt lò với ánh mắt giận dữ và khi mà cuối cùng người đàn ông với cây gậy trúc - thỉnh thoảng ông ta vẫn được thuyền trưởng nhìn thân thiện - đã hoàn toàn trở nên thờ ơ đối với người thợ đốt lò, thậm chí ác cảm, lôi ra một quyển sổ nhỏ và hết đưa mắt ngó Karl lại nhìn vào quyển sổ, hiển nhiên ông bận rộn với những chuyện gì khác hẳn.
“Tôi biết chứ,” Karl vừa nói vừa vất vả chống đỡ những lời lẽ liên tu bất tận của người thợ đốt lò giờ đây trút vào cậu, song tuy tranh cãi cậu vẫn giữ được nụ cười thân thiện với ông, “ông có lý, có lý, tôi không hề nghi ngờ mà.” Cậu rất muốn giữ đôi bàn tay đang vung vẩy, sợ bị đánh trúng, hơn nữa cậu còn muốn đẩy ông vào một góc phòng để thì thầm vào tai ông đôi lời trấn an mà không ai khác phải nghe. Nhưng người thợ đốt lò đã mất bình tĩnh rồi. Giờ đây Karl thậm chí còn nảy ra ý nghĩ, như một kiểu an ủi, rằng trong cơn cùng quẫn người thợ đốt lò có thể chế ngự tất cả bảy người đàn ông hiện diện bằng sức mạnh tuyệt vọng của ông. Dẫu sao một cái liếc mắt về phía chiếc bàn giấy cũng đủ thấy trên đó có một thiết bị với rất nhiều nút bấm điện và chỉ cần một bàn tay nhấn lên thôi là cả con tàu với mọi hành lang của nó, vốn đầy những con người thù địch, sẽ loạn ngay.
Lúc đó người đàn ông hết sức thờ ơ nọ cầm gậy trúc tiến lại gần Karl và hỏi, không quá lớn, nhưng đủ rõ để át tiếng la lối của người thợ đốt lò: “Cậu tên gì nhỉ?”
Ngay lúc ấy có tiếng gõ cửa, như thể ai đó đứng bên ngoài chỉ chờ ông ta thốt ra câu hỏi này. Gã giúp việc nhìn thuyền trưởng, ông ta gật đầu. Thấy thế gã liền ra mở cửa. Một người đàn ông tầm thước khoác chiếc áo cũ kiểu rất oách[6] đang đứng bên ngoài, hình dáng y trông quả thật không thích hợp với công việc máy móc, song đó lại chính là Schubal. Giả thử Karl không nhận ra đó là y, qua một sự hài lòng nào đấy biểu hiện trong
ánh mắt mọi người, kể cả của thuyền trưởng, cậu cũng sẽ phải nhận thấy điều đó qua hình ảnh đã khiến cậu kinh hoàng ở người thợ đốt lò: đôi cánh tay ông ta gồng lên nắm thật chặt, như thể sự dồn sức này là điều quan trọng nhất ở ông ta, và ông ta sẵn sàng vì nó mà hy sinh tất cả mọi thứ có được trên đời. Lúc này người thợ đốt lò dồn mọi sức lực của mình vào đấy, kể cả sức lực đã giữ cho ông ta đứng thẳng được.
Hóa ra đó là kẻ thù, tự do và linh lợi trong bộ lễ phục, tay kẹp sổ kế toán, hẳn là với sổ lương và chứng chỉ lao động của người thợ đốt lò; y không ngần ngại lần lượt nhìn vào mắt từng người để xác định tâm trạng của họ. Tất cả bảy người này từng là bạn của y, và tuy vừa rồi thuyền trưởng đã phản bác y gì đấy, hoặc có lẽ chỉ làm ra vẻ thế thôi, thì sau những buồn phiền mà người thợ đốt lò đã gây cho ông ta, dường như ông ta chẳng thấy Schubal có gì đáng phàn nàn nữa. Đối xử với một kẻ như tay thợ đốt lò thì nghiêm khắc bao nhiêu cũng không đủ và nếu Schubal có điều gì đáng khiển trách thì đó là trong thời gian qua y đã không bẻ gãy được tính ngang bướng của tay thợ đốt lò, khiến cho hôm nay hắn còn dám xuất hiện trước mặt thuyền trưởng.
Có thể ta sẽ nghĩ rằng sự đối chất giữa người thợ đốt lò và Schubal trước đám người này cũng có tác dụng không kém trước một hội nghị cao hơn, vì dù cho Schubal giỏi vờ vĩnh thì y cũng không thể vờ vĩnh đến cuối được. Sự đê tiện của y chỉ thoáng lộ ra cũng đủ để đám người này nhận thấy và Karl sẽ nỗ lực để làm cho điều ấy xảy ra. Cậu đã ngẫu nhiên biết được sự sắc sảo, nhược điểm, tính khí của từng người và như thế thì quãng thời gian trôi qua ở đây không uổng phí. Giá mà người thợ đốt lò ở trong tư thế vững mạnh hơn một tí, nhưng ông dường như hoàn toàn không có khả năng chiến đấu. Giả thử ta giữ tên Schubal trước mặt ông, hẳn ông sẽ có thể dùng nắm đấm đập vỡ cái sọ đáng ghét của y. Nhưng chỉ nguyên việc tiến vài bước tới gần y thôi, thì ông hầu như không có khả năng. Tại sao Karl lại không thấy trước cái điều dễ tiên liệu đến thế, rằng cuối cùng Schubal cũng phải tới, nếu không tự ý thì cũng do thuyền trưởng gọi? Tại sao trên đường đi tới đây cậu không bàn bạc với người thợ đốt lò một phương án đấu tranh kỹ lưỡng, thay vì như họ thật sự đã làm, đó là không chuẩn bị mà cứ đâm đầu thẳng vào nơi nào có cánh cửa? Người thợ đốt lò còn nói, còn trả lời có hoặc không được nữa chăng, như phải có trong cuộc đối chất? Song tất nhiên may mắn lắm mới có được cuộc hỏi cung chéo
này. Ông đứng đó, hai chân giạng, đầu gối hơi cong, đầu hơi ngẩng và không khí ra vào qua cái miệng há, như thể trong ngực ông không còn lá phổi nào để hấp thụ nữa.
Thế nhưng Karl cảm thấy mình khỏe và khôn ngoan, có lẽ còn hơn ở nhà. Giá mà bố mẹ cậu có thể thấy được cậu bênh vực điều phải tại một đất nước xa lạ trước những nhân vật có máu mặt và tuy chưa đưa được cuộc đấu tranh này đến thắng lợi, nhưng cậu đã hoàn toàn sẵn sàng giành chiến thắng cuối cùng! Lúc ấy bố mẹ cậu có thay đổi cái nhìn về cậu không? Họ có cho cậu ngồi giữa họ và khen ngợi cậu không? Họ có nhìn một lần, một lần thôi, vào đôi mắt đầy phục tùng của cậu không? Những câu hỏi thiếu tự tin và đặt ra hết sức không đúng lúc!
“Tôi đến, vì tôi tin rằng người thợ đốt lò cáo buộc tôi không lương thiện sao đó. Một cô trong nhà bếp bảo tôi rằng cô ấy thấy anh ta đi tới đây. Thưa thuyền trưởng cùng toàn thể quý vị, tôi sẵn sàng bác bỏ mọi cáo buộc, dựa trên sổ sách của tôi và, trong trường hợp cần thiết, qua lời khai của những nhân chứng vô tư và không bị ảnh hưởng hiện đang đứng ngoài cửa.” Schubal đã nói như thế.
Tất nhiên đó là những lời lẽ rành mạch của một người đàn ông và qua sự đổi thay trên nét mặt của đám người nghe thì ta có thể sẽ nghĩ rằng lần đầu tiên, sau một thời gian dài, họ mới lại được nghe giọng nói của con người. Dĩ nhiên họ không nhận thấy rằng chính những lời lẽ hoa mỹ này cũng có lỗ hổng. Tại sao “không lương thiện” lại là từ cụ thể đầu tiên y nghĩ ra? Phải chăng có lẽ nên bắt đầu sự cáo buộc từ điều này thay vì ở sự thiên vị mang tính dân tộc của y? Một cô gái của nhà bếp thấy người thợ đốt lò tới văn phòng và Schubal lập tức hiểu có chuyện gì ư? Không phải ý thức tội lỗi đã khiến đầu óc y nhạy bén ư? Và y đã dẫn ngay nhân chứng theo, lại còn bảo rằng họ vô tư và không bị ảnh hưởng? Bịp bợm, không gì khác hơn là bịp bợm! Quý ông đây đã cho phép và xác nhận thái độ này là đúng đắn? Tại sao từ lúc được cô gái báo y đã chờ rất lâu, rõ ràng là thế, mới đến đây? Chắc chắn không nhằm mục đích nào khác hơn là để cho người thợ đốt lò làm quý ông đây mệt mỏi đến mất dần sự xét đoán sáng suốt, điều mà Schubal đặc biệt sợ. Há không phải y, chắc chắn y đã đứng chờ từ lâu ở ngoài, chỉ gõ cửa đúng lúc ông cầm gậy trúc nọ hỏi một câu chẳng ăn nhập gì, cho phép y hy vọng rằng người thợ đốt lò đã tiêu đời?
Mọi chuyện thật sáng tỏ và đã được Schubal vô tình thể hiện ra như thế, nhưng ta phải chỉ cho quý ông đây thấy điều đó bằng cách khác, rõ ràng hơn nữa. Họ cần được làm cho tỉnh ra. Cho nên Karl cấp tốc tận dụng thời gian, ít nhất là thế, trước khi các nhân chứng xuất hiện làm hỏng hết cả!
Nhưng thuyền trưởng vừa mới phẩy tay bảo Schubal ngừng nói, y lập tức bước tránh sang bên - vì vụ việc của y có vẻ phải dời lại một lúc - và bắt đầu trò chuyện khe khẽ với gã giúp việc; gã về hùa ngay với y và trong lúc cùng không ngớt liếc về phía người thợ đốt lò và Karl, họ vung vẩy tay rất là thuyết phục. Dường như Schubal chuẩn bị cho lời phát biểu sắp tới của y như thế đấy.
“Không phải ngài định hỏi chàng trai này điều gì ư, thưa ngài Jakob?” thuyền trưởng nói với ông cầm gậy trúc trong sự im lặng chung. “Có chứ,” ông này vừa đáp vừa hơi cúi đầu cám ơn sự lưu tâm của thuyền trưởng. Rồi ông ta hỏi Karl lần nữa: “Cậu tên gì nhỉ?” Cho rằng sẽ có lợi cho việc lớn quan trọng, nếu cậu giải quyết chóng vánh chuyện rắc rối của con người tò mò bướng bỉnh này, Karl trả lời cộc lốc, chứ không xuất trình hộ chiếu theo thói quen mà cậu sẽ phải tìm trước đó: “Karl Roßmann.”
“Nhưng mà,” người được gọi là Jakob nói rồi lùi lại, mỉm cười gần như không tin. Cả thuyền trưởng, chánh thủ quỹ, viên sĩ quan tàu, thậm chí gã giúp việc rõ ràng đều tỏ ra quá mức ngạc nhiên khi nghe tên họ của Karl. Chỉ hai viên chức bến cảng và Schubal vẫn giữ vẻ dửng dưng.
“Nhưng mà,” ông Jakob lặp lại và bước những bước cứng nhắc tới bên Karl, “thế thì ta là bác Jakob của cậu, còn cậu là cháu yêu quý của ta. Tôi cứ ngờ ngợ suốt nãy giờ!” ông nói với thuyền trưởng, rồi mới ôm hôn Karl, còn cậu cứ lặng thinh để mọi chuyện diễn ra.
“Ngài tên gì ạ?” Karl hỏi - sau khi cảm thấy đã được buông ra - tuy rất lễ phép, nhưng không mảy may xúc động và cậu cố dự đoán những hệ quả mà sự kiện mới mẻ này có thể sẽ gây ra cho người thợ đốt lò. Tạm thời chưa có gì cho thấy Schubal có thể trục lợi từ chuyện này.
“Bạn trẻ ạ, cậu phải hiểu rằng cậu may mắn lắm đấy,” thuyền trưởng nói, cho rằng câu hỏi của Karl đã xúc phạm phẩm giá của cá nhân ngài Jakob, lúc này đang đứng cạnh cửa sổ, hẳn là để những người khác khỏi trông thấy gương mặt khích động mà ngài đang chấm nhẹ bằng khăn tay.
“Người vừa xưng là bác của cậu chính là thượng nghị sĩ[7] Edward Jakob. Một tương lai xán lạn đang chào đón cậu, hẳn là trái ngược hoàn toàn với những gì cậu chờ đợi đến nay. Giờ cậu hãy cố nhận ra điều ấy và trấn tĩnh lại!”
“Tất nhiên tôi có một ông bác Jakob ở Mỹ,” Karl quay qua nói với thuyền trưởng, “nhưng nếu tôi hiểu đúng thì Jakob là họ của ngài thượng nghị sĩ.”
“Đúng vậy,” thuyền trưởng trịnh trọng nói.
“Nhưng bác của tôi, tức là anh của mẹ tôi, tên rửa tội là Jakob, còn tất nhiên cũng phải cùng họ Bendelmayer như mẹ tôi.”
“Thưa các ông!” Thượng nghị sĩ kêu lên trước lời giải thích của Karl, ông đã từ chỗ nghỉ bên cửa sổ vui vẻ quay lại. Mọi người, trừ hai viên chức bến cảng, đều ồ lên cười, một số như vì xúc động, một số khác lại khôn dò.
“Mình có nói gì nực cười đâu nào,” Karl nghĩ.
“Thưa các ông,” thượng nghị sĩ lặp lại, “các ông đang tham dự vào một màn kịch gia đình nho nhỏ, trái ngược với ý muốn của tôi và của các ông, và vì vậy tôi không thể tránh khỏi giải thích, vì, tôi tin thế, chỉ có ngài thuyền trưởng” - điều này đã khiến cả hai ngài cúi đầu trước nhau - “là được thông báo đầy đủ.”
“Bây giờ mình phải thật sự chú ý từng lời,” Karl tự nhủ và khi liếc nhìn người thợ đốt lò cậu vui mừng nhận thấy sự sống bắt đầu trở lại trên khuôn mặt ông ta.
“Suốt những năm tháng dài tôi lưu trú trên nước Mỹ - từ ‘lưu trú’ tất nhiên không thích hợp cho một công dân Mỹ với tất cả tâm hồn như tôi - suốt những năm tháng dài ấy tôi sống hoàn toàn cách trở với họ hàng của tôi ở châu Âu, vì những lý do một là không thuộc vào đây, hai nữa tôi sẽ phiền muộn rất nhiều nếu phải kể. Tôi thậm chí sợ cả giây phút mà có thể tôi buộc phải kể cho cháu trai yêu quý của tôi, mà rất tiếc tôi sẽ không tránh khỏi phải nói thẳng về bố mẹ nó và người trong gia đình họ.”
“Ông là bác mình rồi, không hoài nghi gì nữa,” Karl tự nhủ và lắng nghe, “chắc ông đã đổi họ.”
“Nay cháu trai yêu quý của tôi bị bố mẹ nó - chúng ta cứ dùng thẳng cái từ diễn tả đúng sự kiện - tống cổ, giống như ta tống cổ con mèo ra khỏi
cửa, khi nó làm phiền. Tôi hoàn toàn không muốn che đậy cho việc cháu tôi đã làm, khiến nó bị trừng phạt như vậy - che đậy không phải là kiểu của người Mỹ[8]- nhưng lỗi lầm của nó thuộc loại mà chỉ nêu tên ra thôi cũng đủ hàm chứa lời xin lỗi rồi.”
“Bác nói nghe được quá,” Karl thầm nghĩ, “song mình không muốn bác kể ra hết. Với lại bác cũng không thể biết hết được. Từ đâu chứ? Nhưng rồi mình sẽ thấy bác có thật sự biết hết không.”
“Chẳng qua là cháu tôi,” ông bác nói tiếp và hơi cúi người, tì lên cây gậy trúc đang chống trước mặt và qua đó ông quả thật đã làm cho sự vụ mất đi vẻ trịnh trọng không cần thiết, mà bình thường nhất định sẽ có, “chẳng qua nó bị một ả giúp việc tên Johanna Brummer, chừng ba mươi lăm tuổi, dụ dỗ. Tôi hoàn toàn không muốn làm tổn thương cháu tôi với từ ‘dụ dỗ’, nhưng thật khó tìm ngay được một từ khác thích hợp.”
Karl, bấy giờ đã đến khá gần ông bác, quay lại để suy đoán ấn tượng mà câu chuyện đã để lại trên nét mặt những người hiện diện. Không một ai cười, mà mọi người đều kiên nhẫn và nghiêm trang lắng nghe. Vả chăng đâu ai nỡ cười cháu trai của một thượng nghị sĩ ngay khi có dịp. Tối đa người ta có thể nói rằng người thợ đốt lò đã mỉm cười với Karl, dù chỉ chút ít, nhưng một là điều này đáng mừng vì nó là dấu hiệu mới của sự sống nơi ông ta, hai là thông cảm được, vì khi ở trong buồng của ông ta Karl đã muốn giấu nhẹm câu chuyện mà giờ đây đã trở thành công khai.
“Nay ả Brummer này,” bác cậu nói tiếp, “có với cháu tôi một đứa con, một thằng nhỏ khỏe mạnh, được đặt tên rửa tội là Jakob, hiển nhiên để tưởng nhớ đến kẻ hèn này, người hẳn đã để lại nơi cô gái một ấn tượng lớn, dù chắc chắn cháu tôi chỉ đề cập phớt qua về tôi thôi. May mắn thay, tôi tự nhủ. Vì bố mẹ nó trốn tránh việc trả tiền nuôi thằng nhỏ hoặc tai tiếng nào khác lan tới chính họ - tôi phải nhấn mạnh rằng tôi không biết luật lệ ở đó cùng những hoàn cảnh khác của bố mẹ nó, tôi chỉ biết qua hai bức thư xin xỏ của họ ngày trước, mà tôi tuy không hồi âm nhưng vẫn giữ và chúng là sự liên lạc thư từ duy nhất, hơn nữa lại đơn phương, với họ suốt từ đó đến nay[9]- nghĩa là để tránh việc trả tiền nuôi thằng nhỏ và tai tiếng nên họ đã cho con trai họ, cháu trai yêu quý của tôi, đáp tàu qua Mỹ, họ đã vô trách nhiệm trang bị không đầy đủ cho nó, thành ra như ta thấy - nếu ta không tính đến những dấu hiệu sinh động của những kẻ làm ăn phất và những phép mầu[10] hiện vẫn còn thấy ở Mỹ - thì thằng bé này, một thân ẳ
một mình, hẳn sẽ bỏ xác lập tức tại một con hẻm nào đấy ở bến cảng New York, nếu ả giúp việc nọ không cho tôi biết tất cả câu chuyện cũng như mô tả diện mạo cháu tôi và khôn ngoan kể ra cả tên chiếc tàu thủy trong một bức thư mà vòng vo mãi hôm qua mới đến tay tôi. Nếu tôi có ý định giúp quý vị tiêu khiển thì tôi có thể đọc vài đoạn của bức thư này” - ông rút từ túi áo hai tờ thư lớn chi chít chữ và phe phẩy - “ở đây. Chắc chắn quý vị sẽ mủi lòng, vì nó được viết khá chất phác, tuy luôn ranh mãnh nhưng với hảo ý và nhiều tình thương yêu dành cho bố đứa bé. Nhưng tôi không muốn giúp quý vị tiêu khiển nhiều hơn cần thiết để quý vị được sáng tỏ, cũng không muốn làm tổn thương những tình cảm còn lại của cháu tôi đối với cô gái, khi đón nhận thư này. Nếu muốn, nó có thể đọc thư để học hỏi trong sự yên tĩnh của căn phòng riêng đang chờ đợi nó.”
Nhưng Karl đâu có cảm tình nào cho cô gái. Trong những hình ảnh chen chúc của một quá khứ càng lúc càng lùi xa có hình ảnh cô ngồi trong bếp, bên cạnh cái chạn, hai khuỷu tay tì lên mặt chạn. Cô nhìn Karl, khi thỉnh thoảng cậu vào bếp lấy một ly nước cho bố cậu hoặc làm một việc gì đấy cho mẹ cậu. Đôi khi cô ngồi một bên chạn viết thư trong tư thế vặn vẹo và tìm cảm hứng từ khuôn mặt Karl. Đôi lúc cô lấy tay che mắt, thì chẳng lời chào hỏi nào lọt tới cô được. Đôi khi cô quỳ trong căn buồng chật hẹp của mình cạnh nhà bếp và cầu nguyện trước một thập giá gỗ; lúc ấy Karl rụt rè quan sát cô qua khe cửa mở hé khi đi ngang qua. Đôi khi cô lùng sục quanh nhà bếp và giật mình vừa lùi vừa cười như mụ phù thủy, khi vướng phải Karl. Đôi khi cô khóa cửa bếp lúc Karl bước vào và giữ nắm đấm cửa mãi cho đến lúc cậu đòi ra. Đôi khi cô lấy những thứ cậu hoàn toàn không muốn và lặng lẽ ấn vào tay cậu. Nhưng một lần cô đã gọi “anh Karl” và thở dài cau mặt dẫn cậu, còn đang kinh ngạc về cách xưng hô bất ngờ này, vào buồng mình rồi khóa lại. Cô ôm chặt cổ cậu và trong lúc cô yêu cầu cậu cởi quần áo cô thì thật ra chính cô đã cởi quần áo cậu và kéo cậu lên giường, như thể từ nay cô không buông cậu cho ai nữa cả, cô sẽ vuốt ve và săn sóc cậu đến ngày tận thế. “Karl, ơi anh Karl của em!” cô kêu lên, như thể cô trông thấy được cậu và khẳng định cậu là sở hữu của mình, trong khi cậu chẳng nhìn thấy tí gì và cảm thấy không thoải mái trong đống chăn nệm quá nóng mà dường như được cô chất đống cho riêng cậu. Rồi cô cũng nằm xuống với cậu và muốn biết từ cậu những bí mật nào đấy, nhưng cậu chẳng biết nói gì với cô và cô nổi nóng, vừa đùa
vừa thật, lay mạnh cậu, nghe tiếng tim cậu đập, chìa ngực cô cho cậu nghe nữa, nhưng Karl không chịu, cô áp bụng trần truồng vào thân thể cậu, tay lần mò giữa hai đùi cậu, ghê tởm đến nỗi đầu và cổ Karl vật vã khỏi gối, rồi cô thúc bụng vài lần vào cậu - cậu cảm thấy như cô là một phần của bản thân cậu và có lẽ chính vì thế mà một sự khốn khổ ghê gớm đã đè nén cậu. Cuối cùng cậu khóc lóc về lại giường mình, sau khi nghe cô thốt ra bao lời ước mong gặp lại. Tất cả chỉ có vậy thôi, thế mà ông bác đã biết thêu dệt thành cả một câu chuyện. Tức là cô bếp cũng đã nghĩ đến cậu và báo cho ông bác về việc cậu đến. Cô đã cư xử đẹp và hẳn là sẽ có lần cậu đền ơn.
“Và bây giờ,” thượng nghị sĩ kêu lên, “ta muốn nghe cháu nói công khai rằng ta có phải là bác của cháu hay không.”
“Bác là bác của cháu,” Karl nói và hôn tay ông và được ông hôn lại lên trán. “Cháu rất mừng đã gặp bác, nhưng bác nhầm rồi nếu cho rằng bố mẹ cháu chỉ nói xấu về bác. Ngoài điều đó ra thì trong những lời bác vừa nói cũng có vài chi tiết không đúng, có nghĩa là cháu nghĩ rằng chúng không diễn ra thật như vậy. Nhưng mà quả tình từ nơi xa xôi này bác cũng không thể xét đoán vụ việc thật đúng được; ngoài ra cháu cho rằng nếu quý vị đây được thông báo hơi thiếu chính xác về chi tiết những vụ việc mà họ thật ra không quan tâm nhiều thì cũng chẳng hại gì đặc biệt.”
“Cháu nói hay lắm,” thượng nghị sĩ nói, dẫn Karl tới trước thuyền trưởng, ông ta tỏ rõ sự đồng cảm, và hỏi: “Không phải tôi có một đứa cháu tuyệt vời sao?”
“Thưa ngài thượng nghị sĩ,” thuyền trưởng vừa nói vừa cúi đầu như chỉ thấy ở những người được đào tạo về quân sự, “tôi sung sướng được quen biết cháu của ngài. Thật là một vinh dự đặc biệt cho tàu của tôi, được chọn làm nơi diễn ra một cuộc gặp gỡ như thế này. Nhưng chuyến đi ở boong giữa hẳn là rất mỏi mệt, làm sao chúng tôi có thể biết được ở đó có ai. Chẳng hạn có lần người con trai cả của nhà đại tài phiệt Hungary đã đi vé boong giữa trên tàu của chúng tôi; tôi không nhớ tên và lý do nào đã khiến anh ta chọn loại vé rẻ nhất. Mãi về sau tôi mới được biết chuyện này mà. Chúng tôi đã làm tất cả những gì có thể làm, nhiều hơn các đường tàu Mỹ chẳng hạn, để hành khách ở boong giữa đỡ vất vả nhất, nhưng làm cho một chuyến đi như thế trở thành một cuộc tiêu khiển thì tất nhiên chúng tôi mãi vẫn chưa đạt được.”
“Cháu không bị thiệt hại gì cả,” Karl nói.
“Nó không bị thiệt hại gì!” thượng nghị sĩ cả cười lặp lại. “Chỉ có cái rương thì cháu e đã bị mất,” và thế là Karl nhớ lại mọi chuyện đã xảy ra cùng những gì còn phải làm, cậu nhìn quanh và nhận thấy mọi người hiện diện đứng nguyên tại chỗ, đưa mắt nhìn cậu, không nói một lời vì kính nể và sửng sốt. Chỉ những viên chức bến cảng tỏ ra hối tiếc - như bộ mặt nghiêm nghị và tự mãn của họ cho thấy - đã đến đây không hợp lúc như thế và với họ thì cái đồng hồ bỏ túi mà giờ đây họ đặt lên bàn có vẻ quan trọng hơn mọi chuyện đã diễn ra và có thể còn xảy ra trong phòng.
Người đầu tiên ngỏ lời chúc mừng, sau thuyền trưởng, lạ lùng thay là người thợ đốt lò. “Tôi thành tâm chúc mừng cậu,” ông nói và bắt tay Karl, bằng cách đó ông cũng muốn nói lên gì đấy như sự cảm kích. Rồi khi ông quay qua thượng nghị sĩ định nói cũng những lời ấy thì thượng nghị sĩ lùi lại, như thể người thợ đốt lò đã vượt quá quyền hạn của mình; người thợ đốt lò liền lập tức ngừng lại. Nhưng những người khác thấy ngay phải làm gì, đã rối rít quây quanh Karl và thượng nghị sĩ. Thành thử Karl thậm chí đã nhận và cám ơn lời chúc mừng của Schubal. Khi đã yên lặng trở lại, các viên chức bến cảng cũng nhập cuộc như những người cuối cùng và nói hai từ tiếng Anh, tạo một ấn tượng lố bịch.
Để tận hưởng sự thích thú, thượng nghị sĩ rất muốn kể lại cho chính mình và những người khác những yếu tố không mấy quan trọng, việc này tất nhiên không những được mọi người chấp nhận mà còn quan tâm lắng nghe. Chẳng hạn ông lưu ý mọi người rằng ông đã ghi những dấu hiệu nhận dạng nổi bật nhất của Karl được nêu trong bức thư của cô bếp vào sổ tay của ông để có thể sử dụng ngay khi cần. Suốt lúc người thợ đốt lò nói tào lao đến không chịu nổi, ông đã lôi sổ tay ra không nhằm mục đích gì khác hơn là để nghĩ tới chuyện khác và, như một trò chơi, liên hệ những quan sát dĩ nhiên không hẳn vào hàng trinh thám của cô đầu bếp với diện mạo Karl. “Và tôi tìm được cháu tôi như thế đấy!” ông kết thúc với giọng điệu như thể muốn được chúc mừng lần nữa.
“Chuyện gì sẽ xảy đến với người thợ đốt lò bây giờ ạ?” Karl hỏi sau khi ông bác thôi kể. Cậu cho rằng ở vị trí mới này của mình, cậu có thể nói ra mọi điều mình nghĩ.
“Người thợ đốt lò sẽ nhận được cái y đáng được nhận,” thượng nghị sĩ nói, “và ngài thuyền trưởng xét thấy là đúng. Bác nghĩ rằng chúng ta đã chán, quá chán người thợ đốt lò rồi và chắc chắn mỗi người hiện diện ở đây đều sẽ đồng ý với bác về điều này.”
“Một vấn đề về công bằng không tùy thuộc vào đấy,” Karl nói. Cậu đứng giữa ông bác và thuyền trưởng và, có lẽ bị vị trí này ảnh hưởng, tin rằng mình nắm quyết định trong tay.
Tuy nhiên người thợ đốt lò dường như chẳng hy vọng gì cho mình nữa. Hai tay ông thọc hờ vào thắt lưng quần, những cử động bồn chồn của ông làm nó lộ ra cùng với một vạt áo sơ mi in hoa văn. Ông chẳng mảy may quan tâm; ông đã khiếu nại hết nỗi khốn khổ của mình, bây giờ người ta cứ việc thấy nốt mấy miếng giẻ rách ông mang trên người và rồi cứ việc khiêng ông đi ra. Ông trù tính rằng gã giúp việc và Schubal, hai kẻ cấp thấp nhất ở đây, sẽ làm cho ông điều tử tế cuối cùng này. Rồi Schubal sẽ được yên thân, không còn bị ông làm cho tuyệt vọng nữa, như viên chánh thủ quỹ đã diễn tả. Thuyền trưởng sẽ có thể tuyển toàn người Rumani, chỗ nào cũng nói tiếng Rumani và rồi có thể mọi chuyện sẽ thật sự tốt đẹp hơn. Không còn người thợ đốt lò nào tán gẫu ở quầy thu ngân chính nữa, chỉ lần nói chuyện tào lao cuối cùng này của ông có lẽ sẽ được người ta thân ái ghi nhớ, vì, như thượng nghị sĩ đã nhấn mạnh, nó là lý do gián tiếp đã khiến ngài nhận ra được cháu trai. Dẫu sao người cháu này trước đó đã thường cố giúp ích cho ông và đã cám ơn ông nhiều hơn công lao của ông trong việc họ nhận ra nhau, thành thử giờ đây người thợ đốt lò thấy không nên đòi hỏi thêm gì nữa ở cậu. Với lại, tuy cậu là cháu của thượng nghị sĩ, song còn lâu cậu mới là thuyền trưởng mà cuối cùng thì lời nói độc địa sẽ thốt ra từ miệng thuyền trưởng. Nghĩ thế nên người thợ đốt lò cũng cố không nhìn về phía Karl, nhưng tiếc thay trong căn phòng của những kẻ thù này không còn chỗ nào khác yên ổn cho đôi mắt của ông.
“Cháu đừng hiểu nhầm tình hình,” thượng nghị sĩ bảo Karl, “có thể đây là một vấn đề của sự công bằng, nhưng đồng thời cũng là vấn đề của kỷ luật. Ở đây, cả hai vấn đề và nhất là vấn đề sau phụ thuộc vào sự phán xét của ngài thuyền trưởng.”
“Đúng thế,” người thợ đốt lò lẩm bẩm. Ai nghe thấy và hiểu vấn đề đều mỉm cười kinh ngạc.
“Với lại chúng ta đã cản trở ngài thuyền trưởng quá nhiều trong công việc của ngài rồi; cập bến New York thì công việc chắc chắn lại càng chồng chất không tin nổi, thành ra đã đến lúc chúng ta rời tàu, để tránh can thiệp hết sức không cần thiết khiến cho cuộc cãi cọ vặt vãnh giữa hai thợ máy trở thành một sự kiện lớn. Bác hoàn toàn hiểu cách cư xử của cháu, cháu yêu quý ạ, nhưng chính điều đó cho bác quyền gấp rút dẫn cháu ra khỏi đây.”
“Tôi sẽ lập tức ra lệnh hạ một chiếc thuyền xuống cho ngài,” thuyền trưởng nói, không mảy may phản bác lời lẽ của ông bác, khiến Karl ngạc nhiên, vì rõ ràng những lời lẽ đó có thể bị coi là một sự hạ mình của ông bác. Viên chánh thủ quỹ hấp tấp chạy lại bàn giấy, dùng điện thoại truyền lệnh của thuyền trưởng tới người phụ trách xuồng.
“Cấp bách lắm rồi,” Karl nhủ thầm, “nhưng mình không thể làm gì mà không xúc phạm mọi người. Giờ đây mình đâu thể rời bỏ bác, khi bác vừa mới tìm được mình. Thuyền trưởng tuy lịch sự, nhưng cũng chỉ đến thế thôi. Đụng tới kỷ luật thì ông cũng hết lịch sự và chắc chắn bác mình đã nói ra chính cái điều thuyền trưởng nghĩ. Mình không muốn nói chuyện với Schubal, thậm chí mình rất tiếc đã bắt tay y. Còn những người khác chẳng quan trọng.”
Rồi cậu vừa nghĩ ngợi vừa chậm chạp đi tới người thợ đốt lò, kéo bàn tay phải của ông ta ra khỏi thắt lưng và giữ nó dễ dàng trong tay mình. “Sao chú[11] không nói gì cả?” cậu hỏi. “Sao chú lại chịu để những chuyện ấy xảy ra với chú?”
Người thợ đốt lò chỉ nhăn trán, như tìm từ để diễn tả điều mình muốn nói. Và ông nhìn xuống bàn tay Karl cùng bàn tay mình.
“Không ai trên tàu bị đối xử bất công như chú, cháu biết rõ điều đó.” Và Karl đẩy tới đẩy lui những ngón tay mình giữa những ngón tay của người thợ đốt lò; ông nhìn quanh với đôi mắt long lanh, như hoan hỉ mà không ai có thể bực mình ông về điều ấy.
“Chú phải chống lại chứ, phải nói có hoặc không, kẻo người ta không thể biết được sự thật. Chú phải hứa sẽ nghe lời cháu, vì cháu e rằng sẽ hoàn toàn không thể giúp chú được nữa, vì nhiều lý do.” Và Karl bật khóc trong lúc hôn bàn tay người thợ đốt lò và áp bàn tay nứt nẻ, gần như bất động ấy lên hai má mình như một bảo vật mà cậu phải từ bỏ. Nhưng rồi ông bác
thượng nghị sĩ đã đến bên cậu và kéo cậu đi, tuy là ép buộc, nhưng rất nhẹ nhàng.
“Người thợ đốt lò có vẻ đã bỏ bùa cháu rồi,” ông nói và cảm thông nhìn trên đầu Karl về phía thuyền trưởng. “Cháu đã cảm thấy bị bỏ rơi, lúc ấy cháu gặp được người thợ đốt lò và bây giờ cháu biết ơn hắn, điều ấy rất đáng khen. Nhưng hãy vì bác mà đừng đi quá đà và hãy học để hiểu vị trí của cháu.”
Ngoài cửa huyên náo tiếng la ó, thậm chí như ai đó bị xô mạnh vào cửa. Một thủy thủ bước vào, áo xống lôi thôi, khoác tấm tạp dề của phụ nữ. “Ngoài kia có nhiều người,” y kêu lên và huých cùi chỏ lung tung, như thể vẫn còn ở giữa đám đông đang chen lấn. Cuối cùng lúc đã hoàn hồn và định đứng nghiêm chào thuyền trưởng, y nhận ra tấm tạp dề, liền giật quăng xuống sàn và kêu: “Thật là kinh tởm, họ đã buộc tấm tạp dề phụ nữ vào người tôi.” Rồi y chập mạnh hai gót giày, chào đúng nghi thức. Ai đó cố cười, nhưng thuyền trưởng đã nghiêm khắc nói: “Họ vui vẻ thật thôi. Ai ở ngoài đó vậy?”
“Các nhân chứng của tôi đấy ạ,” Schubal bước tới trước nói, “tôi cung kính xin lỗi về thái độ không thích đáng của họ. Khi mọi người kết thúc chuyến đi, đôi khi họ như điên dại.”
“Ông gọi họ vào đây lập tức!” thuyền trưởng ra lệnh và quay ngay qua nói với thượng nghị sĩ, niềm nở nhưng nhanh: “Thưa ngài thượng nghị sĩ kính mến, xin ngài vui lòng cùng với cậu cháu của ngài đi theo người thủy thủ này, anh ta sẽ đưa quý vị xuống thuyền. Tôi không cần phải nói rằng tôi vui sướng và vinh dự nhường nào được quen biết trực tiếp ngài thượng nghị sĩ. Tôi chỉ ước ao, thưa ngài thượng nghị sĩ, chúng ta sớm có dịp nối lại cuộc đàm luận dang dở về tình trạng của các hạm đội Mỹ, lúc đó có thể nó sẽ lại bị gián đoạn theo cách thoải mái như hôm nay.”
“Với tôi thì một người cháu này tạm thời đủ rồi,” ông bác cười nói. “Và bây giờ xin ngài nhận lời cám ơn chân thành nhất của tôi về sự tử tế của ngài và tạm biệt ngài. Vả lại hoàn toàn không phải không có khả năng” - ông âu yếm kéo Karl sát vào người - “rằng chúng tôi có thể lại gặp ngài lâu dài hơn trong chuyến du lịch châu Âu sắp tới của chúng tôi.”
“Tôi sẽ rất vui mừng,” thuyền trưởng nói. Hai người đàn ông bắt tay nhau, Karl chỉ còn có thể im lặng và chìa tay vội vã cho thuyền trưởng, vì ông ta đã bận rộn với khoảng mười lăm người; dưới sự hướng dẫn của
Schubal họ lúng túng bước vào, nhưng vẫn rất ồn ào. Người thủy thủ xin phép thượng nghị sĩ đi trước dẫn đường, anh ta rẽ đám người cho ông và Karl, hai bác cháu dễ dàng đi qua đám đông đứng cúi đầu. Dường như đám người thật thà này cho rằng cuộc cãi cọ giữa Schubal với người thợ đốt lò là một trò đùa khôi hài, tới trước thuyền trưởng vẫn không chịu chấm dứt. Karl nhận thấy trong số đó có cả Line, cô gái trong nhà bếp, cô nàng vừa nháy mắt vui vẻ với cậu vừa đeo tấm tạp dề người thủy thủ đã quăng đi, vì nó là của cô.
Tiếp tục đi theo người thủy thủ, hai bác cháu rời văn phòng, ngoặt vào một hành lang nhỏ, sau vài bước tới một cửa con, từ đây theo một cầu thang ngắn xuống chiếc thuyền đã được chuẩn bị cho họ. Đoàn thủy thủ trong thuyền đứng cả dậy và chào theo nghi thức khi trưởng đoàn của họ nhảy một bước xuống thuyền. Thượng nghị sĩ đang nhắc nhở Karl cẩn thận khi leo xuống thì cậu đã bật khóc nức nở ngay khi còn ở bậc thang trên cùng. Tay phải thượng nghị sĩ đỡ cằm Karl, kéo sát cậu vào người, còn tay trái vuốt ve. Cứ như thế họ từ từ xuống từng bậc và ôm sát nhau bước vào thuyền, ở đó thượng nghị sĩ tìm cho Karl một chỗ ngồi tốt ngay trước mặt ông. Được thượng nghị sĩ ra hiệu, các thủy thủ đẩy thuyền ra khỏi tàu và lập tức ra sức chèo. Mới rời tàu được vài mét, Karl tình cờ phát hiện họ đang ở phía mạn tàu mà những cửa sổ của phòng thu ngân chính nhìn ra. Cả ba cửa sổ đều đầy những người chứng của Schubal, họ vui vẻ vẫy tay chào, thậm chí bác cậu cũng cảm tạ họ và một thủy thủ đã biểu diễn tiết mục xòe tay gửi lên đó một nụ hôn gió, trong khi vẫn không ngừng nhịp nhàng chèo. Quả thật cứ như thể không còn người thợ đốt lò nữa. Karl chăm chú nhìn ông bác, hai đầu gối ông gần chạm đầu gối cậu, và ngờ rằng người đàn ông này lúc nào đấy có thể thay thế được hình ảnh người thợ đốt lò trong lòng cậu. Ông bác cũng tránh ánh mắt cậu và nhìn vào những con sóng đang làm thuyền tròng trành.
2
Ông bác
Karl nhanh chóng quen với hoàn cảnh mới ở nhà ông bác. Ông vui vẻ đáp ứng mọi nguyện vọng của cậu, dù nhỏ nhặt và Karl không hề phải trải qua những kinh nghiệm cay đắng như phần đông những người bắt đầu cuộc đời mới ở nước ngoài.
Phòng của Karl ở trên tầng sáu một tòa nhà mà năm tầng dưới với ba tầng hầm nữa được dùng cho công việc kinh doanh của ông bác. Nắng tràn vào phòng cậu qua hai cửa sổ và cửa ban công khiến Karl không ngớt sửng sốt, khi cậu từ căn phòng ngủ nhỏ bước ra đây vào buổi sáng. Lẽ ra Karl sẽ phải cư ngụ ở đâu, nếu cậu lên bờ như một gã nhập cư nhỏ bé, nghèo hèn? Phải, lúc ấy thậm chí có thể người ta không cho cậu vào Mỹ - điều này thì ông bác, theo hiểu biết của ông về Luật nhập cư, cho rằng rất có khả năng - mà tống cậu về nhà, chẳng cần quan tâm rằng cậu không còn quê hương nữa. Vì ở đây ta không được trông chờ vào lòng trắc ẩn và những gì Karl đã đọc về nước Mỹ trên khía cạnh này là hoàn toàn đúng; ở đây dường như chỉ những người may mắn mới thật sự hưởng hạnh phúc giữa những khuôn mặt vô ưu chung quanh họ.
Một ban công hẹp chạy suốt chiều dài căn phòng. Nếu ở thành phố quê hương Karl một chỗ như thế này sẽ là điểm quan sát cao nhất thì ở đây nó chỉ cho thấy bao quát không quá một con đường chạy giữa hai dãy nhà phân chia một cách cứng nhắc; con đường thẳng tắp nên trông như thể bay tới chốn xa, nơi hình dáng một ngôi thánh đường khổng lồ vươn lên từ màn sương mù nặng trĩu. Sáng cũng như tối, và luôn cả trong những giấc mơ của cậu vào ban đêm, sự đi lại trên con đường này luôn không ngừng hối hả, nhìn từ trên cao như một sự hòa trộn bừa bãi và không ngừng đổi mới của những hình người dị dạng và những nóc xe cộ đủ kiểu, rồi từ đó lại nổi lên một hòa trộn mới, cuồng loạn gấp bội lần, của tiếng ồn ào, bụi bặm và các loại mùi, mọi thứ này được bao trùm và xuyên suốt bởi một
ánh sáng mãnh liệt, không ngừng vung vãi khỏi khối vật thể, bị cuốn đi và được hăm hở mang trở lại, hiển hiện rõ ràng trước con mắt của kẻ mê mẩn nó, như thể con đường này được phủ một tấm kính và mỗi khoảnh khắc tấm kính này lại bị một sức mạnh gớm ghê đập nát vụn.
Vốn là người thận trọng trong mọi chuyện, ông bác khuyên Karl nên tạm thời chớ can dự vào việc gì một cách nghiêm túc. Cậu nên xem xét và quan sát mọi thứ, nhưng đừng để bị cuốn vào. Những ngày đầu tiên của một người Âu ở Mỹ có thể so sánh với một sự sinh nở, tuy ở đây ta thích nghi nhanh hơn so với khi từ thế giới bên kia bước vào thế giới loài người, nói thế để Karl khỏi sợ hãi không cần thiết, ta phải nhớ rằng ấn tượng ban đầu bao giờ cũng không có nền tảng vững chắc và có lẽ không nên để nó làm xáo lộn mọi nhận định trong tương lai, những nhận định sẽ giúp ta tiếp tục cuộc sống của mình ở đây. Chính ông đã quen biết những người mới đến, thay vì hành xử theo những nguyên tắc này thì họ lại đứng suốt ngày ở ban công nhìn xuống đường như những con chiên lạc đàn, ví dụ thế. Nhất định sẽ quẫn trí! Đối với người đến đây du lịch giải trí thì sự ăn không ngồi rồi đơn độc, sự ngắm nhìn ấy của họ vào một ngày làm việc cần cù của New York là chấp nhận được và có thể khuyến khích, tuy cần dè dặt, nhưng với một người sẽ ở lại đây thì đó là một tai họa, ta có thể không ngại dùng từ này, dù quá đáng. Và quả thật ông bác nhăn mặt khó chịu, khi thấy Karl ở ban công vào một trong những lần ông đến thăm, luôn chỉ một lần mỗi ngày và luôn vào những giờ giấc khác nhau. Karl sớm nhận thấy điều ấy nên đã cố từ bỏ thú vui đứng ở ban công, như có thể.
Đó quả thật không phải là thú tiêu khiển duy nhất của cậu. Trong phòng cậu có một chiếc bàn viết kiểu Mỹ thứ oách nhất, loại mà bố cậu đã ước ao suốt nhiều năm và cố công tìm mua ở nhiều cuộc bán đấu giá với một cái giá rẻ vừa túi tiền, nhưng không được vì tài chính của ông eo hẹp. Tất nhiên những cái bàn được cho là của Mỹ phiêu bạt tại các cuộc bán đấu giá ở châu Âu không so sánh được với chiếc bàn này. Chẳng hạn phần lắp ghép phía trên của nó có cả trăm ngăn kích thước khác nhau và ngay cả tổng thống Liên bang cũng có thể tìm cho mỗi tập hồ sơ của mình một ngăn thích hợp; ngoài ra bên cạnh còn gắn một thiết bị điều chỉnh, bằng cách quay cái tay quay ta sẽ có được những cách sắp xếp và trật tự khác nhau của các ngăn này theo ý muốn và nhu cầu. Những tấm vách mỏng ở
bên cạnh hạ xuống từ từ thành đáy hoặc nâng lên thành nắp của những ngăn mới; chỉ cần quay một vòng là phần lắp ghép này trông đã khác hẳn và tùy theo cách ta quay mà mọi thứ diễn ra từ từ hay nhanh kinh khủng. Đó là một sáng chê mới nhất, song đã khiến Karl nhớ rành mạch đến những hoạt cảnh Chúa ra đời mà người ta cho lũ trẻ sửng sốt xem ở chợ Giáng sinh tại quê nhà; Karl cũng đã thường đứng trước hoạt cảnh đó, bó chặt trong quần áo mùa đông và không ngừng so sánh việc quay tay quay do một ông già thực hiện với những tác động trong hoạt cảnh: cảnh ba vua[12] ngập ngừng đi tới, ngôi sao tỏa sáng và cuộc sống tù túng trong chuồng gia súc thiêng liêng. Karl luôn có cảm tưởng rằng mẹ, đang đứng sau lưng cậu, không đủ chăm chú theo dõi kỹ mọi sự kiện; cậu đã kéo mẹ sát lại cho đến khi cảm thấy bà chạm lưng mình và lớn tiếng chỉ cho mẹ những cảnh tượng bị che khuất, đó có thể là một con thỏ lúc thì đứng trên hai chân sau trong đám cỏ, lúc lại trong tư thế tiếp tục chạy, cho đến khi mẹ bịt miệng cậu và có lẽ bà lại rơi vào sự lơ đãng như trước. Tất nhiên cái bàn không được làm ra chỉ để cậu nhớ đến những chuyện đó, nhưng trong lịch sử của những sáng tạo hẳn cũng có một mối liên hệ mơ hồ tương tự như trong những kỷ niệm của Karl. Ngược với Karl, bác cậu hoàn toàn không ưng cái bàn này, đúng ra ông chỉ muốn mua cho cậu một bàn viết đàng hoàng, song hiện nay mọi bàn viết đều gắn thiết bị mới này, ưu điểm của nó là có thể gắn vào những bàn viết cũ mà không tốn kém nhiều. Dẫu sao ông bác cũng không quên nhắn nhủ Karl hết sức tránh dùng bộ phận điều chỉnh; để nhấn mạnh thêm lời khuyên nhủ này, ông bảo rằng cách cấu tạo của nó rất dễ hỏng và việc khôi phục rất tốn kém. Thật không khó nhận thấy rằng những nhắc nhở này chỉ là những lời nói quanh, vì đúng ra bộ phận điều chỉnh này rất dễ gắn cố định để không sử dụng được nữa, chẳng qua ông không muốn làm đấy thôi.
Trong những ngày đầu, khi mà đương nhiên Karl và ông bác trò chuyện với nhau thường xuyên hơn, Karl cũng đã kể ở nhà cậu rất thích chơi đàn piano, tuy ít thôi, tất nhiên chỉ có thể với những kiến thức vỡ lòng đã được mẹ cậu dạy cho. Karl hiểu rõ rằng kể như thế đồng thời có nghĩa là xin một chiếc piano, nhưng cậu đã quan sát đủ để biết rằng bác cậu hoàn toàn không cần phải tiết kiệm. Tuy nhiên, lời yêu cầu này không được đáp ứng ngay, mà khoảng tám ngày sau ông bác mới nói, gần như là miễn cưỡng thú nhận, rằng chiếc piano vừa mới đến nơi và nếu Karl muốn, cậu có thể
giám sát việc chuyên chở. Việc giám sát này tất nhiên dễ dàng, nhưng không dễ dàng hơn chính việc chuyên chở bao nhiêu, vì trong nhà có một thang máy riêng để chở đồ đạc, đủ chỗ cho cả một xe hàng mà không cần chen lấn và chiếc piano sẽ được đưa lên phòng Karl trong thang máy này. Tuy Karl có thể đi cùng thang máy đó với chiếc đàn và những thợ khuân vác, nhưng vì ngay bên cạnh có chiếc thang máy chở người nên Karl đi với nó, rồi dùng một cần điều khiển giữ nó luôn ngang tầm với thang máy kia và cậu dán mắt quan sát qua những vách kính cái nhạc cụ xinh đẹp giờ đây là sở hữu của mình. Khi đã có đàn trong phòng và gõ những thanh âm đầu tiên, Karl sướng mê tơi đến độ đã nhảy cẫng lên rồi áp tay lên hông, thích thú đứng xa xa ngẩn ngơ ngắm nghía nó, thay vì tiếp tục chơi. Cả độ âm vang của căn phòng cũng tuyệt vời và góp phần làm cho sự không thoải mái nho nhỏ ban đầu của cậu, đó là sống trong một ngôi nhà sắt, biến mất hoàn toàn. Dù bên ngoài ngôi nhà trông có vẻ sắt thép đến đâu, nhưng trong phòng quả thật hoàn toàn không thấy một chi tiết xây dựng bằng sắt thép nào và không ai chỉ ra được, dù chỉ một chi tiết, trong các đồ đạc có thể làm xáo lộn sự hoàn toàn ấm cúng. Trong thời gian đầu Karl kỳ vọng nhiều ở việc chơi piano và không ngượng ngùng, ít nhất trước khi thiếp đi, nghĩ tới khả năng việc chơi đàn này có thể ảnh hưởng trực tiếp lên hoàn cảnh ở Mỹ. Song le khi cậu chơi vào bầu không khí đầy tiếng ồn ào trước những khung cửa sổ để ngỏ một bản nhạc quen thuộc của lính tráng quê hương cậu (mà tối đến họ đứng tựa cửa sổ doanh trại nhìn ra ngoài quảng trường tối om, hát từ cửa sổ này qua cửa sổ khác) thì nó ngân rất kỳ quặc, rồi khi cậu nhìn xuống đường phố, thấy nó không thay đổi và chỉ là một mảng nhỏ của một chu trình khổng lồ mà không ai có thể níu lại nếu không biết mọi sức mạnh tác động lên chu trình đó. Ông bác cho phép cậu chơi đàn, không phản đối gì, nhất là vì họa hoằn lắm Karl mới tự cho phép mình hưởng thú vui này, dù ông không nhắc nhở[13]; phải, thậm chí ông còn mang đến cho Karl nhạc phổ của các hành khúc Mỹ và tất nhiên cả quốc ca, nhưng nếu chỉ do yêu thích âm nhạc thì hẳn không giải thích được một ngày nọ ông nghiêm trang hỏi Karl có muốn học chơi vĩ cầm hoặc kèn co không.
Tất nhiên học tiếng Anh là nhiệm vụ đầu tiên và quan trọng nhất của Karl. Sáng sáng một thầy giáo trẻ của một trường cao đẳng thương mại đến phòng Karl vào lúc bảy giờ và đã thấy cậu ngồi ở bàn viết với quyển vở bài tập hoặc đi đi lại lại trong phòng lẩm nhẩm ôn bài. Karl biết rằng để
lĩnh hội tiếng Anh thì gấp gáp bao nhiêu cũng không đủ và ngoài ra đây là cơ hội tốt nhất để qua sự tiến bộ nhanh chóng đem lại cho bác cậu niềm vui đặc biệt. Trong khi lúc đầu trò chuyện với ông bác bằng tiếng Anh cậu chỉ giới hạn trong những từ chào hỏi và tạm biệt, thì quả thật chẳng bao lâu sau càng ngày phần trò chuyện bằng tiếng Anh giữa hai bác cháu càng nhiều hơn, đồng thời những đề tài thân tình cũng bắt đầu xuất hiện. Bài thơ Mỹ đầu tiên, miêu tả một vụ hỏa hoạn, mà một tối Karl đã có thể đọc cho ông bác nghe đã khiến ông hài lòng đến trở thành trịnh trọng. Lúc ấy hai bác cháu đứng bên một khung cửa sổ trong phòng Karl, ông bác nhìn ra ngoài bầu trời đã tối đen, vỗ tay chậm rãi và nhịp nhàng theo sự đồng cảm với bài thơ, trong khi Karl đứng thẳng bên cạnh, mắt đờ đẫn vật lộn với bài thơ khó. Tiếng Anh của Karl càng khá bao nhiêu, ông bác càng tỏ ra hứng thú cho cậu gặp gỡ người quen của ông bấy nhiêu và mỗi lần như thế ông đều sắp xếp để tạm thời thầy giáo tiếng Anh luôn ở gần Karl. Người đầu tiên Karl được giới thiệu vào một buổi sáng là một thanh niên mảnh khảnh, hết sức mềm mỏng, được ông bác dẫn vào phòng Karl với những lời tán dương đặc biệt. Theo quan điểm của bố mẹ anh ta thì hiển nhiên anh ta thuộc vào hàng những người con trai hư hỏng thuộc các gia đình triệu phú, mà cuộc đời đã sa đọa đến mức một người bình thường không thể theo dõi bất kỳ một ngày nào trong đời của anh ta mà không ưu phiền. Và vì anh ta biết hoặc đoán được điều ấy, nên khi gặp người khác, anh ta sẽ cố hết sức để đôi môi và đôi mắt hiện lên một nụ cười bất tận của hạnh phúc dường như được dành cho chính anh ta, cho người đối diện anh ta và cho toàn thế giới.
Được sự tán thành vô điều kiện của ông bác, Karl đã hội ý với chàng thanh niên này, tên anh ta là Mack, về việc cùng nhau cưỡi ngựa vào năm giờ rưỡi sáng, hoặc ở trường cưỡi ngựa, hoặc ngoài trời. Mới đầu Karl ngần ngừ chưa nhận lời, vì cậu chưa ngồi trên ngựa bao giờ nên muốn học cưỡi chút ít trước đã, nhưng ông bác và Mack ra sức thuyết phục, bảo cưỡi ngựa chỉ là thuần túy giải trí và luyện tập sức khỏe, chứ hoàn toàn không phải nghệ thuật gì, rốt cuộc Karl đã nhận lời. Bây giờ tất nhiên cậu phải ra khỏi giường vào lúc bốn giờ rưỡi và thường rất hối tiếc, vì cậu gần như mắc chứng hay buồn ngủ, hẳn vì trong ngày phải không ngừng chú ý, nhưng khi vào phòng tắm là cậu hết hối tiếc ngay. Cái đài hương sen căng suốt bề dài và bề rộng bồn tắm - thử hỏi ở quê nhà có người bạn nào cùng
trường, dù giàu tới đâu, có được một bồn tắm như thế, mà lại cho riêng mình nữa - và Karl nằm duỗi người; trong bồn tắm này cậu có thể dang tay, để nước ấm, rồi nóng, rồi lại ấm và cuối cùng lạnh như băng xối xuống một phần hay toàn thân thể theo ý muốn. Cậu nằm đó như tận hưởng giấc ngủ thêm chút nữa và đặc biệt thích lim dim mắt hứng những giọt nước lẻ tẻ cuối cùng rơi xuống, rồi vỡ ra và chảy trên mặt mình.
Chiếc ô tô cao ngất ngưởng của ông bác thả cậu xuống trường cưỡi ngựa; thầy dạy tiếng Anh đã chờ cậu sẵn ở đó, trong khi Mack luôn luôn tới muộn hơn. Anh ta có thể vô tư đến muộn, vì trò cưỡi ngựa sôi nổi chỉ thật sự bắt đầu khi anh ta có mặt. Há không phải bầy ngựa chồm lên khỏi giấc ngủ chập chờn của chúng, khi anh ta bước vào ư? Há không phải lúc ấy tiếng roi vụt to hơn trong phòng ư? Há không phải bấy giờ trên hành lang vòng quanh đột nhiên xuất hiện người này người nọ, khán giả, mã phu, người học cưỡi ngựa hoặc những người nào khác ư? Karl tận dụng thời gian trước khi Mack tới để tập luyện, dù chỉ là những bài tập chuẩn bị cơ bản nhất. Ở đó có một người đàn ông cao ngòng, không cần vươn tay vẫn chạm tới sống lưng những con ngựa cao nhất và ông ta dạy Karl bài học luôn kéo dài chưa đầy mười lăm phút này. Karl không thành công lắm, nhưng cậu có thể thường xuyên học được nhiều từ tán thán bằng tiếng Anh mà trong lúc tập cậu hổn hển thốt ra với thầy giáo tiếng Anh luôn đứng dựa cột cổng, buồn ngủ suốt. Nhưng khi Mack đến thì hầu như mọi điều không vừa ý về chuyện cưỡi ngựa liền chấm dứt. Người đàn ông cao kều bị tống đi và rồi trong cái sảnh vẫn còn tranh tối tranh sáng ta không nghe gì khác hơn tiếng vó ngựa phi nước đại và không trông thấy gì khác ngoài cánh tay giơ cao của Mack ra hiệu lệnh cho Karl. Họ ngừng lại sau nửa giờ vui thú trôi qua như giấc ngủ này. Mack rất vội, anh ta chào tạm biệt Karl, thỉnh thoảng vỗ má cậu nếu anh ta đặc biệt hài lòng với việc cưỡi ngựa của cậu rồi biến mất, vội đến nỗi không cả cùng đi với Karl ra cửa. Karl liền kéo thầy giáo lên xe và họ hay phải chạy đường vòng về nhà cho giờ tiếng Anh, vì chen chúc trên đường lớn, đúng ra nó dẫn thẳng từ trường cưỡi ngựa về nhà ông bác, sẽ mất quá nhiều thời gian. Vả lại, ít ra thầy giáo tiếng Anh sẽ sớm ngưng việc tháp tùng cậu, vì Karl tự trách đã đòi hỏi người đàn ông mệt mỏi này đến trường cưỡi ngựa một cách vô ích, nhất là sự giao thiệp bằng tiếng Anh với Mack rất đơn giản, nên yêu cầu ông bác
miễn cho thầy giáo nhiệm vụ này. Sau một lúc cân nhắc, ông bác đã đồng ý.
Phải khá lâu ông bác mới quyết định cho phép Karl biết sơ qua về công việc kinh doanh của ông, dù Karl thường nài nỉ. Đó là một dạng vận chuyển hàng hóa và mua bán do ủy nhiệm, mà theo Karl biết thì dường như ở châu Âu hoàn toàn không có. Việc kinh doanh dựa trên sự buôn bán trung gian, nhưng không phải là môi giới hàng hóa từ nhà sản xuất đến người tiêu thụ hoặc nhà buôn, mà là môi giới mọi loại hàng hóa và nguyên liệu cho các tổ hợp độc quyền lớn hoặc giữa chúng với nhau. Vì thế công việc kinh doanh này bao gồm việc mua, lưu kho, chuyên chở và bán ở mức độ khổng lồ, và phải giữ liên lạc chính xác và liên tục bằng điện thoại và điện tín với khách hàng. Phòng điện báo không nhỏ hơn, mà to hơn sở điện báo ở thành phố quê hương cậu - cậu từng có lần được một bạn học quen biết với sở đó dẫn đi qua. Trong sảnh, nhìn đâu cũng thấy các cửa buồng điện thoại mở ra, đóng lại và tiếng chuông làm rối cả đầu óc. Ông bác mở một cửa buồng gần nhất và ta thấy ở đó, trong ánh điện sáng chói, một nhân viên, lơ đãng trước mọi tiếng động ở cửa, lồng trên đầu một đai thép có gắn ống nghe ấn vào hai tai. Cánh tay phải anh ta đặt lên một chiếc bàn con như thể nó quá nặng, chỉ những ngón tay cầm bút chì là ngoáy đều và nhanh khác người bình thường. Anh ta rất kiệm lời nói vào ống nói và thậm chí ta thường thấy có vẻ anh ta phản bác người nói điều gì đấy, muốn hỏi người đó cho rõ hơn, nhưng trước khi kịp thực hiện ý định thì những từ nào đấy vừa nghe được đã buộc anh ta cụp mắt xuống viết. Anh ta cũng không cần phải nói, như ông bác khẽ giải thích cho Karl, vì cũng những thông báo ấy, mà người đàn ông này ghi nhận, còn được hai nhân viên khác ghi nhận cùng lúc rồi đối chiếu, để hết sức loại trừ sai sót. Đúng lúc hai bác cháu ra khỏi cửa buồng thì một tập sự viên bước vào rồi cầm ra tờ giấy đã được viết. Người qua kẻ lại như bị săn đuổi không ngớt qua chính giữa sảnh. Không ai chào ai, việc chào hỏi đã bị bãi bỏ, ai cũng nối bước người đi trước, mắt dán xuống đất, cố bước thật nhanh, hoặc liếc nhìn chỉ dăm ba từ hay vài con số trên những tờ giấy cầm trong tay và lất phất theo bước chân đi như chạy của anh ta.
“Quả thật bác đã rất thành công,” Karl nói vào một trong những dịp đi qua hãng xưởng; muốn thăm thú hết ta cần nhiều ngày, cho dù ở mỗi phòng ban ta chỉ ngó qua.
“Cháu nên biết là tự tay bác đã xây dựng lên hết trước đây ba mươi năm. Hồi đó bác có một cửa hàng nhỏ ở khu bến cảng và ngày nào chuyển xuống đó được năm thùng hàng đã là nhiều và bác dương dương tự đắc đi về nhà. Nay bác có những nhà kho lớn hàng thứ ba ở bến cảng và cửa hàng nọ nay là phòng ăn và phòng chứa dụng cụ của đội bốc vác thứ sáu mươi lăm của bác.”
“Gần như là phép lạ,” Karl nói.
“Ở đây mọi chuyện phát triển nhanh thế đấy,” bác cậu nói, cắt ngang cuộc trò chuyện.
Một hôm ông bác đến ngay trước giờ ăn mà Karl tưởng cậu sẽ lại ăn một mình như mọi khi; ông bảo cậu cũng mặc đồ đen vào và đến dùng bữa với ông, ở đó sẽ có cả hai người bạn kinh doanh của ông. Trong lúc Karl thay quần áo ở phòng bên, ông bác ngồi vào bàn viết và xem qua bài tập tiếng Anh cậu vừa làm xong, ông đập tay lên bàn nói lớn: “Xuất sắc thật!” Chắc chắn khi nghe lời khen, Karl thay đồ thoải mái hơn, song thật ra cậu biết tiếng Anh của mình đã khá rồi.
Trong phòng ăn của ông bác, mà cậu vẫn còn nhớ từ buổi tối đầu tiên mới tới, hai người đàn ông to béo đứng dậy chào; một ông tên Green nào đấy, ông thứ hai tên Pollunder nào đấy, như cậu được biết trong lúc trò chuyện ở bàn ăn. Ông bác có thói quen không nói qua một lời về bất cứ người quen nào của mình mà luôn để Karl tự quan sát tìm ra điều thiết yếu hoặc thú vị. Trong bữa ăn họ chỉ bàn bạc về những chuyện kinh doanh quen thuộc - một cơ hội tốt để Karl học những từ ngữ thương mại - và cứ để Karl im lặng ăn uống, như thể cậu là một đứa trẻ, trước hết phải ăn thật no. Khi ông Green cúi về phía Karl và hỏi chung chung, rõ ràng ông cố nói tiếng Anh thật rõ, những cảm tưởng đầu tiên của cậu về nước Mỹ. Trong bầu không khí lặng như tờ chung quanh, Karl trả lời khá tỉ mỉ, thỉnh thoảng liếc nhìn ông bác, và tìm cách bày tỏ lòng biết ơn bằng một lối diễn đạt hơi mang màu sắc New York để mọi người thoải mái. Một câu nói của cậu thậm chí đã làm cả ba ông đều cười nghiêng ngả và Karl sợ rằng mình đã thất thố nặng nề; nhưng không, như ông Pollunder giải thích, cậu đã nói gì đấy rất đạt nữa cơ. Ông Pollunder này có vẻ đặc biệt thích Karl, nên trong khi ông bác và ông Green lại quay về với những chuyện làm ăn, ông Pollunder bảo Karl dịch ghế lại gần; mới đầu ông hỏi Karl đủ thứ về tên tuổi, lai lịch và chuyến đi của cậu, cho đến cuối cùng, để Karl được nghỉ
ngơi, ông cười, ho và hối hả kể về chính mình và cô con gái; cha con ông sống với nhau ở một thái ấp nhỏ gần New York, nhưng tất nhiên ông chỉ có thể ở đó vào buổi tối, vì ông là chủ ngân hàng và nghề nghiệp của ông giữ rịt ông ở New York suốt cả ngày. Ông nhanh chóng hết lòng chân thành mời Karl đến thái ấp đó, một người Mỹ “mới tinh” như Karl chắc hẳn cũng có nhu cầu thỉnh thoảng rời khỏi New York để nghỉ ngơi. Karl lập tức xin ông bác cho phép nhận lời mời này và ông bác đồng ý, có vẻ cũng rất vui, nhưng không nêu một ngày nào nhất định, cũng không nói sẽ cân nhắc, như Karl và ông Pollunder chờ đợi.
Nhưng ngay hôm sau Karl được lệnh đến một văn phòng của ông bác (riêng trong ngôi nhà này ông có mười văn phòng khác nhau), ở đó cậu gặp ông bác và ông Pollunder đang khá lầm lì ngồi trên ghế bành.
“Ông Pollunder,” ông bác nói, hầu như không nhận ra ông trong ánh hoàng hôn của căn phòng, “ông Pollunder đến để đón cháu tới thái ấp của ông, như chúng ta đã trò chuyện về việc này hôm qua sẵn sàng.”
“Cháu không biết rằng ngay hôm nay rồi,” Karl đáp, “bằng không cháu đã chuẩn bị.”
“Nếu cháu chưa sẵn sàng thì ta dời sang một ngày gần đây có lẽ hay hơn,” ông bác nói.
“Cái gì mà sẵn sàng!” ông Pollunder kêu lên. “Một thanh niên luôn luôn sẵn sàng rồi.”
“Không phải vì nó đâu,” ông bác quay sang nói với khách, “nhưng nếu đi thì dẫu sao nó cũng phải lên phòng nó và ông sẽ bị chậm trễ.” “Vẫn thừa thì giờ cho việc chuẩn bị mà,” ông Pollunder nói, “tôi cũng dự kiến sẽ chậm trễ, nên đã đóng cửa ngân hàng sớm hơn.” “Cháu thấy đấy,” ông bác nói, “ngay bây giờ mà chuyến đi thăm của cháu đã tạo ra những phiền toái nào rồi.”
“Cháu rất tiếc,” Karl nói, “nhưng cháu sẽ quay lại ngay,” và định phóng đi liền.
“Cậu đừng quá vội,” ông Pollunder nói. “Cậu không mảy may gây phiền toái cho tôi, ngược lại cuộc viếng thăm của cậu làm tôi rất vui sướng.”
“Cháu sẽ hụt giờ cưỡi ngựa ngày mai, cháu đã hủy chưa?”
“Chưa ạ,” Karl nói, chuyến viếng thăm mà cậu rất thích thú bắt đầu trở thành một gánh nặng, “cháu thật sự không biết…”
“Thế mà cháu vẫn muốn đi?” ông bác lại hỏi.
Ông Pollunder, con người thân ái ấy, nói đỡ cậu.
“Trên đường đi chúng tôi sẽ dừng ở trường cưỡi ngựa và dàn xếp ổn thỏa việc này.”
“Thế cũng được,” ông bác nói. “Nhưng Mack vẫn sẽ đợi cháu.” “Anh ấy sẽ không đợi cháu đâu,” Karl nói, “nhưng tất nhiên anh ấy sẽ tới.”
“Thế thì sao?” ông bác nói, như thể điều Karl trả lời chẳng biện minh mảy may.
Ông Pollunder lại nói điều có sức quyết định: “Nhưng mà Klara” - cô là con gái ông - “cũng chờ cậu Karl và ngay tối nay rồi, hẳn nó phải được ưu tiên hơn Mack chứ?”
“Tất nhiên,” ông bác nói. “Vậy cháu chạy lên phòng đi thôi,” và ông vỗ nhiều lần lên tay ghế bành như vô tình. Karl đã ra tới cửa thì ông bác giữ cậu lại với câu hỏi: “Sáng sớm mai hẳn cháu sẽ có mặt ở đây vào giờ tiếng Anh chứ?”
“Ơ kìa!” ông Pollunder kêu lên và xoay người trong ghế bành vì sửng sốt, trong chừng mực sự to béo của ông cho phép. “Chẳng lẽ cậu ấy không được ở lại đó ít nhất ngày mai à? Nếu được thế, sáng sớm ngày kia tôi sẽ đưa cậu ấy về.”
“Dứt khoát không được,” ông bác đáp. “Tôi không thể để cho việc học của nó bị xáo lộn như vậy. Sau này, khi cuộc sống nghề nghiệp của nó ổn định, tôi sẽ rất sẵn lòng cho phép nó nhận một lời mời thân ái và vinh hạnh đến thế, dài ngày hơn cũng được.”
“Mâu thuẫn làm sao!” Karl nghĩ.
Ông Pollunder trở nên buồn rầu. “Cho một tối và một đêm thì quả thật gần như không đáng.”
“Ý tôi cũng thế,” ông bác nói.
“Ta được cái gì thì nhận cái nấy thôi,” ông Pollunder nói và đã lại cười. “Vậy, tôi chờ nhé!” ông lớn tiếng gọi Karl, còn cậu, thấy ông bác không nói gì nữa, vội vàng chạy đi. Khi cậu nhanh chóng quay lại, sẵn sàng để đi,
cậu chỉ còn gặp ông Pollunder trong văn phòng, ông bác đã đi khỏi. Ông Pollunder sung sướng lắc hai tay Karl, như để được biết một cách chắc chắn hết mức, rằng bây giờ Karl đi theo thật. Karl đang còn nóng cả người vì chạy vội, cũng lắc hai tay ông Pollunder, cậu vui mừng được thực hiện chuyến đi chơi.
“Bác cháu không bực mình vì cháu đi chơi chứ?”
“Không đâu! Bác cậu không thật nghĩ thế đâu. Chẳng qua ông ấy quá lo lắng cho việc dạy dỗ cậu thôi.”
“Chính bác đã nói với ông, rằng hồi nãy bác không thật nghĩ thế à?” “Đúng thế,” ông Pollunder dài giọng nói để chứng tỏ rằng ông không biết nói dối.
“Lạ thật, sao bác lại miễn cưỡng cho phép cháu đến thăm ông, tuy ông là bạn của bác.”
Ông Pollunder, dù không công nhiên thú nhận, cũng không tìm được lời giải thích và khi chạy trong chiếc ô tô của ông Pollunder trong buổi tối ấm áp, hai người còn ngẫm nghĩ lâu về điều đó, tuy họ đã nói ngay sang những chuyện khác.
Họ ngồi sát bên nhau và ông Pollunder cầm tay Karl trong khi nói. Karl muốn biết nhiều về cô Klara, như thể sốt ruột về chuyến đi dài và những câu chuyện này có thể giúp cậu đến sớm hơn là trong thực tế. Tuy cậu chưa bao giờ đi xe qua các đường phố New York vào buổi tối, và trên vỉa hè cùng lòng đường tiếng ồn ào lao vùn vụt, chốc chốc lại xoay chiều, như trong một cơn gió lốc, không phải như do con người gây ra, mà như một nguyên tố xa lạ, Karl không quan tâm đến gì khác hơn cái áo gi lê màu thẫm của ông Pollunder, trên đó bình thản vắt ngang một sợi dây xích vàng, trong lúc cậu cố ghi nhận cặn kẽ những lời lẽ của ông Pollunder. Ra khỏi những đường phố (nơi công chúng không giấu giếm nỗi sợ hãi lớn lao là sẽ bị đến muộn, bước như chạy trốn hoặc phóng xe hối hả, chen lấn tới các rạp hát), họ đi qua những khu chuyển tiếp tới vùng ngoại ô, nơi ô tô của họ bị các cảnh sát cưỡi ngựa liên tục chỉ phải đi vào những con đường nhánh, vì những đường lớn bị công nhân ngành kim loại đình công đang chiếm giữ, và chỉ những xe cộ cần thiết nhất mới được phép qua lại ở các ngã tư. Rồi khi ô tô từ những con đường nhỏ khá tối tăm, âm vang mơ hồ tiếng vọng, băng qua một trong những con đường rộng bằng cả một quảng
trường, họ thấy hai bên hè đường hiện ra theo những phối cảnh, không ai biết đâu là cùng tận, dày đặc những đám đông nhích tới từng bước, tiếng hát của họ còn đều hơn một giọng ca duy nhất. Nhưng trên lòng đường được để trống người ta thấy đây đó một viên cảnh sát trên lưng con ngựa bất động hoặc những người cầm cờ hay những biểu ngữ giăng ngang đường hoặc một thủ lĩnh công nhân có các đồng nghiệp và những người liên lạc bao quanh hoặc một chiếc xe điện đã không nhanh chóng chạy thoát kịp nên bây giờ đứng đó trống trơ và tối om, trong khi tài xế và người soát vé ngồi ở bậc lên xuống. Những người hiếu kỳ đứng thành nhóm nhỏ, thật xa những người biểu tình thật sự và không rời khỏi chỗ, tuy họ không hiểu rõ lắm về sự kiện đang diễn ra này. Còn Karl vui sướng tựa vào cánh tay ông Pollunder đang quàng quanh cậu; niềm tin vững chắc rằng mình sắp trở thành người khách được mong đợi tại một ngôi nhà ở nông thôn sáng ánh đèn, có tường bao quanh, có chó canh giữ khiến cậu hết sức thoải mái, và tuy rằng do trạng thái chớm buồn ngủ mà cậu không còn hiểu rõ hoàn toàn, hoặc chỉ hiểu lỗ mỗ những gì ông Pollunder nói, thỉnh thoảng cậu vẫn cố khắc phục và dụi mắt, để lại xem thử ông Pollunder có nhận ra chuyện cậu buồn ngủ không, vì cậu muốn bằng mọi giá tránh không để ông biết.
3
Một ngôi nhà nông thôn gần New York
“Chúng ta tới nơi rồi,” ông Pollunder nói, đúng vào một trong những khoảnh khắc Karl đang ngủ gật.
Chiếc ô tô đậu trước một ngôi nhà giống kiểu những ngôi nhà nông thôn của người giàu ở vùng phụ cận New York, nó rộng lớn hơn và cao hơn một ngôi nhà nông thôn thông thường cho một gia đình ở. Vì chỉ phần dưới ngôi nhà sáng ánh đèn, ta hoàn toàn không thể xác định được nó cao đến đâu. Những cây dẻ kêu xào xạc phía trước, một lối đi ngắn - cổng song sắt đã mở - xuyên giữa hai hàng cây dẫn tới bậc thềm của ngôi nhà. Qua sự mệt mỏi Karl cảm thấy khi bước xuống xe cậu nghĩ rằng chuyến đi khá dài. Trong bóng tối của lối đi cậu nghe giọng một cô gái nói bên cạnh mình: “Cuối cùng ông Jakob cũng đã tới.”
“Tôi tên là Roßmann,” Karl nói và nắm bàn tay được cô gái chìa ra cho cậu, giờ đây cậu nhận ra hình dạng của nàng.
“Cậu đây chỉ là cháu ông Jakob thôi,” ông Pollunder giải thích, “và tên là Karl Roßmann.”
“Điều này chẳng thay đổi gì hết niềm vui của chúng ta được tiếp đón anh ấy ở đây,” cô gái nói, không chú trọng nhiều đến tên với tuổi. Tuy nhiên Karl vẫn hỏi trong lúc đi giữa ông Pollunder và cô gái lại gần ngôi nhà: “Chị là Klara?”
“Vâng,” nàng đáp, và ánh sáng từ ngôi nhà đã chiếu một ít vào mặt nàng đang nghiêng về phía Karl, khiến cậu có thể thấy rõ khuôn mặt ấy, “nhưng tôi không muốn tự giới thiệu ở đây, trong bóng tối.”
“Vậy sao nàng lại chờ ở cổng nhỉ?” Karl nghĩ, việc đi bộ đã làm cậu tỉnh táo dần.
“Nhân tiện nói thêm là tối nay chúng ta có thêm một người khách nữa,” Klara nói.
“Không thể!” ông Pollunder bực bội kêu lên.
“Ông Green,” Klara nói.
“Ông ấy tới lúc nào?” Karl hỏi, như lo lắng vì một linh cảm. “Mới một lúc thôi. Thế bố với anh không nghe tiếng xe ông ấy chạy ngay phía trước sao?”
Karl ngước nhìn ông Pollunder để xem ông nhận xét chuyện này như thế nào, nhưng ông thọc hai tay vào túi quần và chỉ giậm chân hơi mạnh hơn trong lúc đi.
“Sống bên ngoài New York chỉ một chút xíu chẳng ích lợi gì, ta vẫn không tránh khỏi bị quấy rầy. Có lẽ chúng tôi nhất định phải dời chỗ ở ra xa nữa; và tôi sẽ phải chạy xe hết nửa đêm mới về đến nhà.” Họ dừng lại trước bậc thềm.
“Nhưng lâu lắm rồi ông Green không đến đây,” Klara nói, rõ ràng nàng hoàn toàn đồng ý với bố, song vẫn cố nhẫn nhịn để vỗ về ông. “Sao ông ấy lại đến đúng vào tối nay,” ông Pollunder nói và lời ông giận dữ lăn qua làn môi dưới dày, chỗ thịt lòng thòng và nặng này rất dễ bị động đậy.
“Tất nhiên!” Klara nói.
“Có thể ông ấy đi ngay ấy mà,” Karl có ý kiến và chính cậu ngạc nhiên về sự đồng thuận với những người mà mới hôm qua còn hoàn toàn xa lạ với mình.
“Không đâu,” Klara nói, “ông ấy có mối làm ăn lớn nào đấy cho bố tôi, có lẽ sẽ phải bàn bạc lâu, vì ông ấy đã dọa đùa rằng nếu tôi muốn là một bà chủ nhà lịch sự thì phải chịu khó nghe tới sáng luôn.”
“Lại còn thế nữa. Vậy là ông ta ở qua đêm luôn!” ông Pollunder kêu lên, như thể qua đó cuối cùng ông đã chạm tới điều tồi tệ nhất. “Quả thật tôi muốn,” ông nói và trở nên thân mật hơn qua những ý nghĩ mới mẻ này, “quả thật tôi muốn lại kéo cậu lên ô tô, cậu Roßmann ạ, và chở cậu về với ông bác của cậu. Buổi tối hôm nay đã bị quấy rầy ngay từ đầu rồi, và ai biết được bao giờ ông bác cậu lại đồng ý cho cậu tới thăm chúng tôi. Nhưng nếu tôi đưa cậu về ngay hôm nay, thì lần tới ông ấy không thể không cho cậu đến với chúng tôi được.”
Và ông đã nắm lấy tay Karl để thực hiện kế hoạch của mình. Nhưng Karl không nhúc nhích và Klara yêu cầu để cậu ở lại, vì ít nhất nàng và Karl sẽ không thể bị ông Green quấy rầy mảy may và cuối cùng ông Pollunder cũng tự nhận thấy quyết định của mình không phải là tốt nhất. Hơn nữa - và có lẽ đây là điều then chốt - họ đột nhiên nghe ông Green từ bậc thềm trên cùng gọi xuống dưới vườn: “Các người ở đâu thế?”
“Nào,” ông Pollunder nói và bước ngoặt lên thềm. Karl và Klara đi sau ông, giờ đây họ nhìn kỹ nhau trong ánh đèn.
“Môi nàng đỏ thật đấy,” Karl tự nhủ và nghĩ tới đôi môi của ông Pollunder và việc chúng chuyển hóa sang cô con gái mới tuyệt vời sao. “Sau bữa ăn tối,” nàng nói, “nếu anh đồng ý, chúng ta sẽ lên ngay phòng tôi, để nếu bố tôi đã phải tiếp chuyện ông Green, thì ít nhất chúng ta cũng thoát khỏi ông ta. Và rồi anh sẽ thân ái chơi piano cho tôi nghe, vì bố tôi kể anh đàn giỏi lắm, còn tôi rất tiếc hoàn toàn không có khả năng và không đụng tới piano của mình, dù đúng ra tôi rất yêu thích âm nhạc.” Karl hoàn toàn đồng ý với đề nghị của Klara, tuy cậu cũng rất muốn có cả ông Pollunder tham gia nữa. Tuy nhiên trước hình hài đồ sộ của ông Green - Karl mới vừa quen với vóc dáng của ông Pollunder - đang từ từ hiện ra trước mặt khi họ leo lên những bậc thềm, Karl tiêu tan mọi hy vọng lôi kéo thế nào đấy ông Pollunder ra khỏi người đàn ông này trong buổi tối hôm nay.
Ông Green vội vội vàng vàng đón họ, như thể họ đã mất nhiều thời gian lắm rồi, ông nắm cánh tay ông Pollunder và đẩy Karl cùng Klara đi tới trước vào phòng ăn; đặc biệt nhờ trên bàn có những đóa hoa nghiêng nghiêng vươn lên từ những đám lá tươi khiến phòng ăn trông rất trang trọng và mọi người cảm thấy đáng tiếc gấp đôi về sự hiện diện của ông Green phá đám. Karl vừa mới mừng (cậu đang đứng ở bàn chờ mọi người ngồi xuống) rằng cánh cửa kính lớn trông ra vườn sẽ được để mở, vì một mùi hương ngào ngạt bay vào như thể phòng ăn là ngôi nhà hóng mát trong vườn, thì ông Green đã thở phì phò đi ngay tới đóng cửa kính này lại, ông cúi xuống những cái chốt dưới cùng rồi vươn lên những chốt trên cùng, mọi động tác nhanh nhẹn như thanh niên, đến mức khi tay người hầu đâm bổ tới thì chẳng còn gì để làm nữa. Lời lẽ đầu tiên của ông Green ở bàn là những biểu thị sự kinh ngạc về chuyện Karl được ông bác cho phép đến đây thăm. Ông vừa múc hết thìa xúp đầy này tới thìa xúp đầy khác đưa lên
miệng vừa giải thích sang bên phải cho Klara, sang bên trái cho ông Pollunder, tại sao ông ta ngạc nhiên như vậy và ông bác trông chừng Karl ra sao và tình thương của ông bác dành cho Karl quá lớn, khiến ta khó có thể gọi đó là tình thương của một ông bác.
“Ông ta mò đến đây không cần thiết còn chưa đủ, lại can thiệp luôn cả vào chuyện giữa hai bác cháu mình nữa,” Karl nghĩ và không nuốt trôi một hớp nào của món xúp vàng óng. Nhưng rồi cậu lại không muốn người ta nhận thấy mình xiết bao bối rối, nên bắt đầu lặng lẽ tọng xúp vào miệng. Bữa ăn trôi đi chậm chạp như một điều phiền toái. Chỉ ông Green, và cùng lắm thêm Klara nữa, là sinh động và đôi lúc tìm được cơ hội cho một tiếng cười ngắn ngủi. Chỉ vài lần ông Pollunder bị lôi kéo vào cuộc trao đổi ý kiến, khi ông Green bắt đầu nói về kinh doanh. Nhưng ông cũng nhanh chóng rút khỏi những cuộc trò chuyện này và sau một thời gian ông Green lại phải gây bất ngờ cho ông với chủ đề ấy. Tiện thể ông Green nhấn mạnh - lúc ấy vì Karl lắng nghe, như có gì đấy đe dọa mình, Klara đã phải lưu ý cậu rằng món thịt quay ở trước mặt và cậu đang ngồi tại bữa ăn tối - rằng ngay từ đầu ông đã không có ý định thực hiện chuyến viếng thăm bất ngờ này. Vì cho dù chuyện làm ăn, mà ông với ông Pollunder sẽ còn nói tới, đặc biệt gấp gáp, thì chí ít điều quan trọng nhất vẫn có thể bàn bạc hôm nay trong thành phố và điều kém quan trọng hơn có thể để dành lại cho ngày mai hoặc hôm sau. Thế nên trước khi ngân hàng đóng cửa rất lâu, ông quả thật cũng đã ghé ông Pollunder rồi, nhưng không gặp, khiến ông buộc phải gọi điện thoại về nhà, bảo tối nay ông không về và lái xe tới đây.
“Thế thì cháu phải xin lỗi,” Karl nói lớn và trước khi ai đó kịp trả lời, cậu đã nói tiếp, “vì cháu có lỗi về việc hôm nay ông Pollunder rời nhiệm sở sớm hơn và cháu rất lấy làm tiếc về chuyện đó.”
Ông Pollunder che phần lớn khuôn mặt mình bằng tấm khăn ăn, trong khi Klara tuy mỉm cười với Karl, nhưng đó không phải là nụ cười thông cảm, mà nó cần gây ảnh hưởng lên cậu thế nào ấy.
“Đâu cần phải xin lỗi,” ông Green nói trong lúc hăm hở ấn mạnh dao xẻ thịt con bồ câu, “mà hoàn toàn ngược lại, quả tình tôi rất vui được qua buổi tối với những người dễ chịu thế này, thay vì ăn tối một mình ở nhà; ở đó tôi được bà quản gia già phục vụ, bà ta già đến nỗi đoạn đường từ cửa tới bàn của tôi đã là khó nhọc đối với bà ta và tôi có thể ngồi tựa ghế thật lâu, nếu muốn quan sát bà ấy đi đứng. Mãi gần đây tôi mới đạt được
chuyện người hầu bưng món ăn tới cửa phòng ăn, còn đoạn đường từ cửa tới bàn ăn của tôi, nếu tôi hiểu đúng bà quản gia, vẫn thuộc bà ấy.” “Lạy Chúa,” Klara kêu lên, “quả là một con người trung thành!” “Phải, trên đời vẫn còn sự trung thành,” ông Green nói và đưa một miếng vào miệng, nơi cái lưỡi phấn khởi đớp lấy thức ăn, như Karl tình cờ nhận thấy. Cậu suýt buồn nôn và đứng dậy. Ông Pollunder và Klara đã nắm lấy hai bàn tay Karl gần như cùng lúc.
“Anh phải ngồi lại,” Klara nói. Và khi cậu đã ngồi lại, nàng thì thầm với cậu: “Chúng mình sắp cùng nhau chuồn được rồi. Anh hãy kiên nhẫn.” Trong lúc đó ông Green thản nhiên lo việc ăn uống của mình, như thể nhiệm vụ đương nhiên của ông Pollunder và Klara là trấn an Karl, khi ông làm cho cậu buồn nôn.
Bữa ăn kéo dài, đặc biệt do sự tỉ mỉ của ông Green khi xử lý từng món ăn, cho dù ông luôn sẵn sàng đón nhận không mệt mỏi mọi món mới, có vẻ như ông thật sự muốn hồi phục triệt để khỏi bà quản gia già. Thỉnh thoảng ông khen ngợi nghệ thuật của Klara trong chuyện quản lý việc nhà, rõ ràng là tâng bốc nàng, trong khi Karl tìm cách đáp trả, như thể ông đã đả kích nàng. Nhưng ông Green không chỉ hài lòng với việc khen ngợi nàng, mà còn thường phàn nàn, song mắt không ngước khỏi đĩa, rằng Karl ăn uống uể oải thấy rõ. Ông Pollunder bênh vực sự kém ngon miệng của Karl, tuy lẽ ra với tư cách chủ nhà ông cũng nên khuyến khích Karl ăn thêm. Và quả thật Karl cảm thấy khó chịu vì sự ép uổng mà mình phải chịu đựng trong suốt bữa ăn, đến mức cậu đã diễn giải, ngược với óc suy xét đúng đắn của mình, ý kiến của ông Pollunder là không thân thiện. Và điều đó hoàn toàn phù hợp với tâm trạng lúc này của cậu, khiến cậu đột nhiên ngốn thật nhanh và nhiều, hoàn toàn không đúng nơi đúng lúc, để rồi mệt mỏi buông dao nĩa một lúc lâu và là kẻ ì nhất trong nhóm, khiến anh hầu lo việc mời món ăn thường không biết phải làm gì với cậu.
“Ngay ngày mai tôi sẽ kể với ngài thượng nghị sĩ rằng cậu đã xúc phạm cô Klara như thế nào qua việc cậu không chịu ăn,” ông Green nói và tự giới hạn ý định đùa bỡn của lời nói này qua cách thức ông sử dụng dao nĩa. “Cậu cứ nhìn cô ấy xem cô ấy buồn nhường nào,” ông nói tiếp và nâng cằm Klara. Nàng cứ để yên và nhắm mắt lại.
“Cô bé ơi!” ông kêu lên, ngả người ra sau ghế và cười, mặt đỏ gay với sức mạnh của kẻ đã no nê. Karl cố giải thích thái độ của ông Pollunder, nhưng hoài công. Ông ngồi trước cái đĩa của mình, nhìn vào đó, như thể chuyện thật sự quan trọng xảy ra ở đấy. Ông không kéo ghế của Karl lại gần mình hơn và nếu có lần nào nói, thì ông nói với mọi người, còn với Karl ông chẳng có gì để nói riêng. Ngược lại ông chịu để yên cho Green, lão già độc thân láu cá người New York này sờ mó Klara với ý định rõ rệt, để yên cho lão nhục mạ Karl, khách của ông, hoặc ít nhất cư xử với Karl như con nít và ai mà biết được Green định làm ra những hành động tồi tệ nào nên lão ăn uống tẩm bổ đẫy.
Sau khi bữa tiệc kết thúc - khi Green nhận ra bầu không khí chung, ông ta là người đầu tiên đứng dậy và có thể cho là đã kéo mọi người đứng lên theo - Karl tách ra một mình đi tới một trong những khung cửa sổ to (được phân ra bằng những thanh nẹp nhỏ màu trắng) dẫn ra hàng hiên và đúng ra không phải cửa sổ mà cửa thật sự, như cậu nhận thấy khi lại gần. Giờ đây mối ác cảm ban đầu mà ông Pollunder cùng cô con gái cảm thấy đối với ông Green - lúc ấy Karl thấy có vẻ hơi khó hiểu - còn lại những gì? Giờ đây họ cùng đứng bên ông Green và gật gù với ông ta. Khói từ điếu xì gà của ông Green, quà tặng của ông Pollunder (về độ lớn của nó thì bố cậu ở nhà thỉnh thoảng vẫn hay kể đúng như thế, dù có lẽ ông chưa bao giờ thấy tận mắt), tỏa khắp phòng và đem ảnh hưởng của ông Green vào tận những ngóc ngách mà bản thân ông ta sẽ chẳng bao giờ đặt chân tới. Tuy Karl đứng cách xa đến thế, cậu vẫn cảm thấy mũi bị nhột vì khói ấy và thái độ của ông Green, mà từ chỗ đang đứng cậu chỉ thoáng quay nhìn ông ta có mỗi một lần, theo cậu là bỉ ổi. Giờ đây Karl hoàn toàn không loại trừ rằng sở dĩ ông bác mãi mới chịu cho phép cậu đi, vì ông bác biết ông Pollunder tính tình yếu đuối và vì thế ông bác thấy trước, tuy không chính xác nhưng trong phạm vi có thể, rằng Karl sẽ bị xúc phạm trong lần thăm viếng này. Cả cô gái người Mỹ cậu cũng không ưa, tuy trước khi tới đây cậu tuyệt đối không chờ đợi rằng có thể nàng xinh đẹp hơn nhiều. Từ lúc ông Green bận bịu nhiều với nàng, cậu thậm chí ngạc nhiên vì khuôn mặt nàng lại có thể đẹp đến thế và nhất là vẻ tuyệt vời trong đôi mắt xúc động mãnh liệt của nàng. Cậu chưa từng thấy cái váy nào ôm khít thân thể như chiếc váy của nàng, những nếp nhăn nho nhỏ trên làn vải màu ngà mịn và chắc cho thấy độ căng của nó. Vậy mà Karl hoàn toàn không quan tâm đến nàng và sẵn
sàng khước từ được dẫn lên phòng nàng, nếu thay vì thế cậu mở được cái cửa (hai tay cậu đã sẵn sàng đặt trên nắm đấm của nó), leo lên ô tô hoặc, nếu người tài xế đã ngủ, được phép một mình đi bộ về New York. Đêm quang đãng cùng vầng trăng tròn trìu mến rộng mở cho bất kỳ ai và theo Karl thấy ở ngoài trời kia mà sợ hãi thì rõ thật vớ vẩn. Cậu tưởng tượng - và lần đầu tiên cậu thấy dễ chịu trong căn phòng này - mình sẽ làm ông bác ngạc nhiên biết mấy vào sáng mai - cậu sẽ không thể về tới nhà sớm hơn nếu đi bộ. Tuy cậu chưa bao giờ vào phòng ngủ của ông, cũng hoàn toàn không biết nó nằm chỗ nào, nhưng cậu sẽ hỏi được thôi. Rồi cậu sẽ gõ cửa và khi nghe câu “Vào đi!” hình thức, cậu chạy ùa vào phòng và bất ngờ gặp ông bác yêu quý (mà đến nay cậu chỉ luôn thấy đương đầy đủ áo xống, cúc cài kín mít), mặc đồ ngủ, ngồi thẳng trên giường, mắt sửng sốt hướng ra cửa. Thật ra có lẽ chuyện này chẳng ghê gớm gì, nhưng ta phải suy tính kỹ những hệ quả mà nó có thể gây ra. Có thể cậu sẽ ăn sáng lần đầu tiên với ông bác, ông bác trên giường, cậu trên ghế, món điểm tâm để trên một chiếc bàn con đặt giữa hai bác cháu, có thể bữa ăn sáng chung này sẽ trở thành một sinh hoạt thường xuyên, có thể vì kiểu ăn sáng này mà họ sẽ gặp nhau thường xuyên hơn thay vì chỉ một lần trong ngày như cho tới nay (điều này thậm chí khó tránh khỏi) và rồi đương nhiên họ cũng có thể trò chuyện cởi mở hơn. Rốt cuộc thì cũng chỉ vì thiếu sự trò chuyện cởi mở này mà hôm nay cậu đã không vâng lời đôi chút, hay đúng hơn, đã bướng bỉnh đối với ông bác. Và ngay cả nếu hôm nay cậu phải ở lại đây qua đêm - tiếc thay có vẻ sẽ hoàn toàn như thế thật, tuy người ta để mặc cậu đứng ở cửa sổ và tự ý tiêu khiển - có thể cuộc viếng thăm đáng tiếc này đã trở thành bước ngoặt làm tốt hơn mối quan hệ với ông bác, có thể tối nay ông bác cũng có những ý nghĩ tương tự trong phòng ngủ của mình.
Được an ủi đôi chút, cậu quay người lại. Klara đứng trước mặt cậu và nói: “Anh hoàn toàn không thích ở đây với chúng tôi sao? Anh không cảm thấy chút ít thân thuộc như ở nhà ư? Nào, tôi muốn thử lần cuối cùng.”
Nàng dẫn cậu đi ngang qua phòng, ra tới cửa. Ở một cái bàn bên cạnh hai ông kia đang ngồi bên những chiếc ly cao đựng đầy thứ nước uống hơi sủi bọt mà Karl không biết đó là nước gì và muốn nếm thử. Ông Green tì một khuỷu tay lên bàn, cả bộ mặt ông gí gần sát ông Pollunder; nếu ta không quen biết ông Pollunder, hẳn ta rất có thể cho rằng họ đang bàn bạc việc gì đấy tội lỗi, chứ không phải chuyện làm ăn. Trong khi ông Pollunder
ẳ
thân ái nhìn theo Karl ra tới cửa, ông Green lại chẳng quay nhìn Karl chút nào (dù người ta thường có thói quen bất giác nhìn theo ánh mắt người đối diện); theo Karl thấy thì thái độ này nói lên một kiểu niềm tin vững chắc của ông Green rằng ở đây mỗi người phải thử xoay xở theo năng lực riêng, Karl cho mình và Green cho ông ta, mối quan hệ xã hội tất yếu giữa họ sẽ được hình thành đúng lúc qua thắng lợi hoặc diệt vong của một trong hai người. “Nếu ông ta nghĩ thế,” Karl tự nhủ, “thì ông ta là một người khờ dại. Mình thật sự chẳng muốn gì hết ở ông ta và ông ta cũng nên để mình yên.”
Vừa ra tới hành lang, cậu sực nhớ có lẽ mình đã cư xử bất lịch sự, vì trong lúc dán mắt vào ông Green, cậu đã gần như để cho Klara lôi ra khỏi phòng. Nên giờ đây cậu đi cạnh nàng một cách ngoan ngoãn hơn. Trên đường đi qua những hành lang cậu mới đầu không tin vào mắt mình, khi cứ mỗi hai mươi bước lại thấy một người hầu mặc chế phục lộng lẫy đứng, hai tay nắm chặt cái thân to của một đài cắm nến.
“Cho đến nay đường dây điện mới mẻ mới chỉ được lắp đặt trong phòng ăn,” Klara giải thích. “Chúng tôi mua ngôi nhà này mới gần đây thôi và thuê người xây lại hoàn toàn, trong chừng mực mà một ngôi nhà cũ với lối kiến trúc lì lợm của nó cho phép xây dựng lại được.”
“Thế tức là ở Mỹ cũng đã có những ngôi nhà cũ rồi,” Karl nói. “Dĩ nhiên,” Klara cười nói và kéo cậu đi tiếp. “Anh có những quan niệm thật lạ lùng về nước Mỹ.”
“Chị không nên chế giễu tôi,” cậu bực tức nói. Dẫu sao cậu đã biết châu Âu và nước Mỹ, còn nàng chỉ biết mỗi nước Mỹ thôi.
Khi đi qua một cánh cửa, Klara hơi đưa tay đẩy nó ra và nói mà không dừng lại: “Anh sẽ ngủ ở đây.”
Đương nhiên Karl muốn quan sát căn phòng ngay, nhưng Klara sốt ruột giải thích, gần như hét, rằng sẽ còn có thì giờ cho việc ấy và trước đó cậu hãy đi theo nàng đã. Họ giằng co một lúc trong hành lang, cuối cùng Karl cho rằng không nhất nhất chuyện gì mình cũng phải làm theo Klara, nên đã vùng khỏi nàng và vào trong phòng đó. Bóng tối bất ngờ trước khung cửa sổ hóa ra là do một ngọn cây đang đung đưa hết cỡ. Nghe có tiếng chim hót. Trong căn phòng, nơi ánh trăng còn chưa rọi tới, tất nhiên ta hầu như không thể phân biệt được gì. Karl hối tiếc đã không mang theo chiếc đèn
pin được ông bác tặng. Trong ngôi nhà này một cái đèn pin quả là không thể thiếu được, giá mà có vài đèn pin như thế, người ta có thể cho các người hầu đi ngủ. Cậu ngồi trên bệ cửa sổ, nhìn và lắng nghe bên ngoài. Một con chim bị khiếp sợ dường như đang rúc qua tán lá của cái cây cổ thụ. Tiếng còi của một đoàn xe lửa ngoại ô New York vang lên đâu đó ở vùng quê. Còn thì yên ắng.
Nhưng chẳng được lâu, vì Klara đã vội vã bước vào. Nàng kêu lên, rõ ràng cáu kỉnh: “Thế là thế nào?” và vỗ vỗ lên váy. Karl định sẽ chỉ trả lời khi nào nàng tỏ ra lịch sự hơn. Nhưng nàng đã sải bước về phía cậu, kêu to: “Thế anh có muốn đi với tôi hay không?” rồi, vì cố ý hoặc chỉ vì khích động, đẩy vào ngực cậu mạnh đến nỗi cậu sẽ ngã lộn ra ngoài cửa sổ, nếu vào giây phút chót cậu không kịp trượt khỏi bệ cửa sổ, hai chân chạm sàn nhà.
“Tí nữa thì tôi lộn cổ ra ngoài rồi,” cậu trách.
“Đáng tiếc chuyện ấy đã không xảy ra. Sao anh lại khó bảo thế! Tôi đẩy anh xuống lần nữa.”
Và quả thật nàng đã ghì chặt cậu và, bằng cơ thể được thể thao tôi luyện, vác cậu, mới đầu cậu sửng sốt quên trì người xuống, gần tới cửa sổ. Nhưng lúc đó cậu hoàn hồn, xoay hông thoát ra được và ôm chặt lấy nàng. “Ái, anh làm tôi đau,” nàng lập tức kêu lên.
Nhưng lúc này Karl nghĩ rằng không được buông nàng ra nữa. Tuy cậu để nàng được tự do bước, nhưng vẫn bám theo chứ không buông. Vả lại cũng rất dễ túm nàng trong cái váy chật.
“Buông tôi ra,” nàng thì thầm, khuôn mặt nóng bừng ghé sát mặt Karl, sát đến nỗi cậu phải căng mắt để nhìn nàng. “Buông tôi ra, tôi sẽ cho anh món này rất đẹp.”
“Sao nàng thở dài thế nhỉ?” Karl nghĩ, “nàng không thể nào đau được, mình đâu có ấn” và cậu chưa buông nàng ra. Nhưng đột nhiên, sau một khoảnh khắc đứng đó im lặng, không cảnh giác, cơ thể cậu lại cảm thấy sức mạnh dần tăng của nàng và nàng vùng khỏi cậu, túm cậu bằng cú nắm điêu luyện, cản đôi chân cậu bằng bộ vị bàn chân của một môn võ lạ và, nàng lấy hơi với sự đều đặn tuyệt vời, du cậu tới bên tường. Ở đó có một cái trường kỷ, nàng đẩy Karl xuống đấy và nói với cậu, mà không cúi xuống quá thấp:
“Bây giờ nhúc nhích đi, nếu chú mày làm được.”
“Đồ mèo cái, mèo cái điên,” Karl chỉ kịp kêu lên trong tình trạng rối loạn vừa giận dữ lẫn xấu hổ của mình hiện giờ.
“Mi đúng là điên, đồ mèo cái điên!”
“Chú mày hãy liệu liệu cái mồm,” nàng nói và một bàn tay lướt tới cổ cậu, nàng bắt đầu bóp thật mạnh, đến nỗi Karl hoàn toàn không có khả năng làm gì khác hơn là đớp đớp không khí, trong khi nàng đưa tay kia lên má cậu, vuốt như để thử nghiệm, rồi rút tay về, cứ tiếp tục như thế và bất cứ lúc nào cũng có thể giáng xuống một bạt tai.
“Chú mày nghĩ thế nào,” lúc ấy nàng hỏi, “nếu tôi tống cổ chú mày về nhà bằng một cái tát đích đáng để trừng phạt thái độ của chú mày đối với một cô nương? Có thể nó sẽ hữu ích cho đường đời tương lai của chú mày, tuy không để lại một kỷ niệm đẹp. Tôi lấy làm tiếc cho chú mày, chú mày khá xinh trai và giá như chú mày từng học môn jiu-jitsu, chắc hẳn chú mày đã nện tôi nên thân. Tuy thế, tuy thế - tôi gần như bị cám dỗ ghê gớm được bạt tai chú mày, giờ đây khi chú mày nằm đó như vậy. Có thể tôi sẽ cảm thấy không vui; nhưng nếu tôi bạt tai chú mày, thì chú mày nên biết ngay từ bây giờ rằng điều đó gần như trái với ý muốn của tôi. Và rồi tất nhiên tôi sẽ không hài lòng với chỉ một bạt tai thôi, mà sẽ tát bên phải rồi bên trái, cho đến lúc hai má chú mày sưng húp. Có thể chú mày là người trọng danh dự - tôi rất muốn tin như thế - sẽ không muốn tiếp tục sống nữa và biến khỏi thế gian này. Nhưng tại sao chú mày lại có thái độ như thế đối với tôi? Có thể chú mày không ưa tôi chăng? Có phải lên phòng tôi là không đáng chăng? Coi chừng! Suýt nữa tôi đã bất ngờ giáng cho chú mày một cái tát rồi đấy. Vậy nếu hôm nay chú mày còn thoát được, thì mai đây hãy cư xử lịch sự hơn nhé. Tôi không phải ông bác của chú mày để chú mày có thể thách đố. Ngoài ra tôi còn muốn chú mày lưu ý, nếu tôi thả chú mày mà không bạt tai, thì chú mày chớ nghĩ rằng hoàn cảnh hiện giờ của chú mày và việc chú mày thật sự bị tát chẳng khác gì nhau, xét từ quan điểm của danh dự. Nếu chú mày vẫn thích nghĩ như thế, tôi ưng được tát chú mày thật sự. Mack sẽ nói sao, khi tôi kể hết những chuyện này cho anh ấy?”
Khi nhớ tới Mack, nàng buông Karl ra; trong những cảm nghĩ mơ hồ của mình cậu thấy Mack như một cứu tinh. Cậu vẫn còn cảm thấy bàn tay
của Klara trên cổ mình một lúc nữa, nên chỉ hơi quay qua quay lại, rồi nằm im.
Nàng ra lệnh cho cậu đứng dậy, cậu không trả lời, cũng không nhúc nhích. Nàng thắp một ngọn nến ở đâu đó, căn phòng bừng sáng, những đường ngoằn ngoèo xanh lơ hiện ra trên trần, nhưng Karl nằm, gối đầu lên cái gối dài, y như lúc Klara đặt cậu xuống, và không cựa quậy một ly. Klara đi quanh phòng, váy kêu sột soạt quanh hai chân nàng, có lẽ nàng dừng lại một lúc lâu bên cửa sổ.
“Hết bướng chưa?” rồi ta nghe nàng hỏi.
Karl cảm thấy đau đớn, vì không được bình yên trong chính căn phòng mà ông Pollunder đã dành cho cậu tối nay. Vì cô gái kia cứ hết đi quanh lại dừng, lại nói và cậu đã chán nàng khôn xiết. Ngủ thật nhanh và chuồn khỏi đây là ước muốn duy nhất của cậu. Cậu hoàn toàn không muốn vào giường nữa, chỉ muốn nằm trên trường kỷ này thôi. Cậu chỉ rình nàng đi khỏi, để nhảy theo sau nàng tới cửa, cài chốt, rồi quay lại buông người trên trường kỷ. Cậu thèm được duỗi người và ngáp, nhưng không muốn làm thế trước mặt Klara. Và cậu nằm như thế, đăm đăm nhìn lên trần, cảm thấy mặt mình càng lúc càng cứng đờ và một con ruồi cứ chập chờn lượn quanh trước mắt, mà cậu không thật biết đó là gì. Klara lại tiến tới gần, cúi xuống theo hướng ánh mắt Karl và nếu không kiềm chế được, cậu đã phải nhìn nàng rồi.
“Tôi đi đây,” nàng nói. “Có thể lát nữa chú mày có hứng qua phòng tôi. Cửa phòng tôi là cái thứ tư, tính từ cửa này, phía bên đây hành lang. Tức là chú mày đi qua ba cửa nữa, cái kế tiếp là đúng nó. Tôi không xuống phòng dưới kia nữa đâu, mà ở lại trong phòng tôi. Chú mày cũng đã làm tôi mệt thật sự đấy. Tôi sẽ không chờ chú mày đâu, nhưng nếu chú mày thích, thì cứ qua. Hãy nhớ rằng chú mày đã hứa chơi piano cho tôi nghe đấy. Song có thể tôi đã làm chú mày kiệt sức rồi và chú mày không nhúc nhích nổi nữa, vậy cứ ở lại đây và ngủ cho đẫy giấc. Tạm thời tôi sẽ không hé một lời nào với bố tôi về trận ẩu đả của chúng ta. Tôi nói thế phòng trường hợp chuyện này làm chú mày lo lắng.” Rồi, dù bảo rằng rất mệt, nàng chạy ra khỏi phòng chỉ với hai bước nhảy.
Karl lập tức ngồi thẳng dậy, nằm mãi thế này khiến cậu chịu không nổi. Để vận động đôi chút cậu đi tới cửa và nhìn ra hành lang. Ở đó mới tối làm sao! Cậu thấy mừng khi đã đóng và gài cửa, rồi quay lại đứng bên chiếc
bàn dưới ánh nến. Quyết định của cậu là không nán lại lâu trong ngôi nhà này, mà xuống dưới kia gặp ông Pollunder, thẳng thắn nói với ông việc Klara đã đối xử với mình thế nào - cậu thấy chẳng sao cả khi thú nhận mình thua - và với luận chứng hẳn là đầy đủ này, cậu xin phép được chở bằng ô tô hoặc đi bộ về nhà. Nếu ông Pollunder có gì phản đối việc trở về lập tức này, Karl sẽ xin ông ít nhất cho một người hầu dẫn mình tới khách sạn gần nhất. Tuy thông thường người ta không cư xử như cách Karl dự tính với những chủ nhà hiếu khách, nhưng người ta lại càng hiếm khi cư xử với khách như Klara đã làm. Thậm chí nàng còn cho lời hứa của mình, tạm thời không kể gì hết với ông Pollunder về vụ đánh lộn, là một thái độ tử tế. Thật quá quắt! Ờ, chẳng lẽ Karl đã được mời tới một trận đấu vật, để đến nỗi cậu phải xấu hổ vì bị quật ngã bởi một cô gái có lẽ đã dành phần lớn cuộc đời để học những mánh lới của đô vật? Có lẽ nàng đã học từ Mack. Nàng cứ việc kể hết cho anh ta; chắc chắn anh ta phân biệt được phải quấy, Karl biết thế, tuy cậu chưa từng được trải nghiệm cụ thể. Song Karl cũng biết rằng nếu được Mack chỉ dạy, cậu sẽ còn tiến xa hơn Klara nhiều; rồi một ngày nào đó cậu sẽ quay lại đây, khả năng rất lớn là không được mời, tất nhiên trước hết cậu sẽ nghiên cứu địa thế, một ưu thế lớn của Klara là biết rõ địa hình, rồi tóm lấy cũng ả Klara này và dùng ả đập cho sạch bụi cái trường kỷ nhỏ mà bữa nay ả đã quẳng cậu lên đó.
Bây giờ chỉ cốt sao Karl tìm được lối quay lại phòng ăn, nơi mà có lẽ do lúc đầu lơ đãng cậu cũng đã để bừa cái mũ của mình ở chỗ nào đó. Tất nhiên cậu muốn cầm theo cây nến, nhưng ngay cả khi có ánh sáng, cũng không dễ tìm ra đường. Chẳng hạn cậu không hề biết căn phòng này có nằm cùng tầng với phòng ăn không. Trên đường tới đây Klara cứ một mực kéo cậu đi, khiến cậu hoàn toàn không thể đánh giá được chung quanh. Ông Green và những người hầu cầm giá nến cũng đã khiến cậu phân tâm; nói tóm gọn, quả thật giờ đây Karl hoàn toàn không biết họ đã đi qua một hay hai hay có thể không qua cầu thang nào. Xét theo toàn cảnh thì căn phòng này ở khá cao, do đó cậu thử hình dung rằng họ đã đi qua vài cầu thang, nhưng ngay lúc tới cửa để vào nhà họ đã phải leo cầu thang rồi, thế thì tại sao phía này của ngôi nhà lại không thể cũng được nâng cao chứ? Giá mà trên hành lang ít nhất thấy được ở đâu đó một tia sáng yếu ớt lọt ra từ một cái cửa hoặc nghe được một tiếng nói từ phía xa dù thật khẽ!
Chiếc đồng hồ bỏ túi, quà tặng của ông bác, chỉ mười một giờ, cậu cầm cây nến và đi ra ngoài hành lang. Cậu để cửa ngỏ, để nhỡ tìm đường không ra thì ít nhất cũng tìm lại được phòng của mình và sau đó, trong trường hợp cực kỳ khẩn cấp, cửa phòng Klara. Cho chắc chắn, cậu lấy ghế chặn cánh cửa để nó khỏi tự đóng lại. Trong hành lang chẳng may Karl gặp phải một luồng gió - đương nhiên cậu đi về phía trái, ngược hướng phòng Klara - tuy rất nhẹ, nhưng dẫu sao cũng có thể dễ dàng làm tắt nến, khiến Karl phải lấy tay che, ngoài ra cậu còn thường phải dừng lại, để ngọn lửa đang lụi dần hồi phục lại. Karl tiến tới rất chậm và con đường vì thế dường như dài gấp đôi. Karl đi qua một đoạn tường dài không có chiếc cửa nào, cậu không thể hình dung được đằng sau nó là gì. Rồi cửa lại san sát nhau, cậu thử mở nhiều cái, thấy chúng đều khóa và những phòng ấy hẳn là không có người ở. Thật là một sự phí phạm phòng ốc có một không hai, và Karl nghĩ tới những khu phố ở phía Đông New York mà ông bác đã hứa sẽ chỉ cho cậu, nghe bảo ở đó nhiều hộ cư ngụ trong một phòng con và tổ ấm của một gia đình chỉ gồm một góc phòng, nơi lũ trẻ túm tụm quanh cha mẹ chúng. Còn ở đây có nhiều phòng bỏ trống đến thế, chỉ để nghe vang lên âm thanh trống rỗng, khi ta gõ cửa. Theo Karl thấy thì ông Pollunder bị bạn bè giả dối lừa gạt và vì ông yêu cô con gái quá mức nên mới sinh đốn. Chắc chắn ông bác đã nhận xét đúng về ông Pollunder và chỉ vì nguyên tắc của ông bác, không gây ảnh hưởng lên việc Karl nhận xét con người, nên mới có chuyến viếng thăm này và chuyện Karl lang thang trong các hành lang. Karl muốn nói thẳng điều này với ông bác vào ngày mai, vì theo nguyên tắc của ông bác thì có lẽ ông cũng sẽ thích thú và điềm tĩnh chăm chú nghe đứa cháu nhận xét về ông. Ngoài ra, có lẽ nguyên tắc này là điều duy nhất mà Karl không thích ở ông bác, và ngay cả sự không thích này cũng không phải là vô điều kiện.
Chợt bức tường ở một bên hành lang kết thúc và thay vào đó là một hàng lan can bằng đá hoa cương lạnh ngắt. Karl đặt nến xuống bên cạnh và thận trọng cúi nhìn qua. Một khoảng không lờ mờ ập vào cậu. Nếu đó là sảnh chính của ngôi nhà - một mảng trần hình vòm hiện ra trong ánh nến lung linh - thì tại sao hồi tối họ không vào nhà qua sảnh này? Căn phòng sâu và rộng này dùng để làm gì nhỉ? Ta đứng ở trên đây cứ như tại hành lang nhà thờ. Karl gần như nuối tiếc không thể ở lại trong ngôi nhà này
đến ngày mai, cậu rất muốn được ông Pollunder dẫn đi thăm thú khắp nơi trong ánh sáng ban ngày và giải thích mọi thứ.
Hàng lan can không dài và Karl lại nhanh chóng lọt vào trong hành lang khép kín. Ở một chỗ ngoặt đột ngột Karl đâm sầm vào bức tường, và chỉ nhờ cậu luôn thận trọng cầm chặt cây nến mới may mắn giữ được nó khỏi rơi và tắt ngấm. Vì hành lang mãi không chịu hết, không đâu có cửa sổ để nhìn ra được bên ngoài, cả ở trên cao lẫn dưới thấp chẳng thấy gì nhúc nhích, Karl ngờ rằng mình đang không ngừng đi lòng vòng trong cùng cái hành lang hình tròn và đã hy vọng có thể sẽ tìm thấy lại khung cửa để ngỏ của phòng mình, nhưng cả nó lẫn hàng lan can đều không xuất hiện lại. Cho đến giờ Karl vẫn dè dặt không kêu toáng lên, vì cậu không muốn gây ồn ào trong một ngôi nhà lạ vào lúc khuya khoắt như thế này, nhưng bây giờ cậu nhận thấy việc kêu chẳng có gì là sai trái trong ngôi nhà không được chiếu sáng này và vừa định hét to một tiếng “ai ơi!” về hai phía hành lang, thì cậu phát hiện ra ở hướng mình vừa đi qua một đốm sáng đang tới gần. Mãi lúc ấy cậu mới có thể ước lượng được chiều dài của cái hành lang thẳng tắp; ngôi nhà này là một pháo đài, chứ không phải biệt thự. Niềm hân hoan của Karl trước ánh sáng cứu mạng này lớn đến mức cậu quên khuấy mọi sự thận trọng và chạy ngay tới đó; nhưng mới phóng được vài bước nến của cậu đã tắt phụt. Cậu không quan tâm, vì chẳng cần đến nó nữa, một lão bộc đang cầm đèn lồng đi tới, ông ta sẽ chỉ cho cậu lối đi chính xác.
“Cậu là ai?” lão bộc hỏi và soi đèn lồng vào mặt Karl, qua đó đồng thời soi sáng luôn cả mặt lão. Khuôn mặt lão có vẻ hơi cứng nhắc vì bộ râu quai nón rậm, trắng như cước, xuống đến ngực mới tõe ra thành búp xoăn óng như tơ. “Hẳn phải là một gia nhân trung thành thì mới được phép mang một bộ râu như thế,” Karl nghĩ và đăm đăm nhìn bộ râu theo cả chiều dài lẫn chiều rộng, mà không cảm thấy khó chịu khi chính mình cũng bị quan sát. Dẫu sao cậu lập tức trả lời rằng mình là khách của ông Pollunder, muốn đi từ phòng mình tới phòng ăn mà không tìm thấy.
“Ra thế,” lão bộc nói, “chúng tôi chưa gắn điện.”
“Tôi biết,” Karl nói.
“Cậu có muốn châm nến ở cái đèn của tôi không?” lão hỏi. “Có,” Karl nói và châm nến.
“Trong các hành lang gió lùa lắm,” lão bộc nói, “nến dễ tắt, nên tôi cầm đèn lồng.”
“Phải, đèn lồng tiện hơn nhiều,” Karl nói.
“Nến nhỏ đầy người cậu rồi kìa,” lão nói và cầm đèn lồng soi bộ com lê của Karl.
“Tôi quả tình hoàn toàn không nhận thấy đấy!” Karl buồn rầu kêu lên, vì đây là bộ com lê đen mà ông bác từng nói là hợp với cậu hơn cả. Trận đánh nhau vừa rồi với Klara hẳn cũng đã làm nó bị hư hại, giờ đây cậu nhớ lại. Người lão bộc đủ tử tế để làm sạch bộ com lê hết mức trong lúc vội vã; Karl không ngớt xoay người trước mặt lão và chỉ cho lão chỗ này chỗ nọ còn một vệt, được lão ngoan ngoãn cậy đi.
“Sao ở đây gió lùa thế nhỉ?” Karl hỏi, khi họ tiếp tục đi.
“Chính vì ở đây còn phải xây dựng nhiều,” lão bộc nói, “tuy đã bắt đầu rồi, nhưng tiến hành rất chậm. Mà nay công nhân xây dựng lại còn đình công nữa chứ, như cậu có lẽ cũng biết. Gặp phải kiểu kiến trúc như thế này bực mình lắm. Vì bây giờ người ta trổ vài chỗ xuyên qua lớn mà chưa xây bít lại, thành thử gió lùa khắp nhà. Nếu không nhét bông đầy tai, tôi không thể chịu nổi.”
“Vậy hẳn là tôi phải nói to hơn nhỉ?” Karl hỏi.
“Không, giọng cậu rất rõ,” lão bộc nói. “Nhưng để trở lại chuyện tòa nhà này; đặc biệt ở đây gần nhà nguyện, gió lùa không chịu nổi, sau này nhất định sẽ phải ngăn nó với phần còn lại của ngôi nhà.”
“Tức là cái bao lơn, mà ta đi qua trong hành lang này, dẫn tới nhà nguyện à?”
“Phải.”
“Tôi đã nghĩ ngay thế,” Karl nói.
“Nhà nguyện rất đáng xem,” lão bộc nói, “nếu không có nó, hẳn là ông Mack chẳng mua ngôi nhà này đâu.”
“Ông Mack à?” Karl hỏi, “tôi tưởng nhà này của ông Pollunder?” “Thì vẫn,” lão bộc nói, “nhưng trong việc mua bán này ông Mack mới là người đưa ra quyết định. Cậu không quen ông Mack sao?” “Có chứ,” Karl nói. “Nhưng ông ấy quan hệ thế nào với ông Pollunder vậy?”
“Ông ấy là hôn phu của tiểu thư,” lão bộc nói.
“Điều ấy dĩ nhiên tôi không biết,” Karl nói và dừng lại.
“Nó khiến cậu ngạc nhiên thế à?” lão hỏi.
“Tôi chỉ muốn cân nhắc cẩn thận về điều ấy. Nếu không biết những quan hệ như thế, quả thật ta có thể phạm những sai lầm to lớn,” Karl đáp. “Tôi chỉ ngạc nhiên rằng người ta không cho cậu biết gì hết về chuyện ấy,” lão bộc nói.
“Phải, đúng thế thật,” Karl ngượng nghịu nói.
“Có lẽ người ta ngỡ cậu biết rồi,” lão bộc nói, “nào phải tin gì mới đâu. Vả lại chúng ta tới nơi rồi,” và mở một cánh cửa, đằng sau hiện ra một cầu thang dẫn thẳng xuống cửa sau của phòng ăn đang được chiếu sáng hệt như lúc Karl tới đây.
Trước khi Karl bước vào phòng ăn, mà ta nghe thấy vẳng ra từ đó giọng nói của ông Pollunder và ông Green chẳng khác khoảng hai tiếng đồng hồ trước đây, lão bộc nói: “Nếu cậu muốn, tôi sẽ chờ ở đây, rồi dẫn cậu về phòng cậu. Dẫu sao cũng khó biết rõ đường đi nước bước ở đây ngay buổi tối đầu tiên.”
“Tôi sẽ không quay về phòng mình nữa,” Karl nói và không biết tại sao lại buồn khi thốt ra điều ấy.
“Đâu đến nỗi tệ thế,” lão nói, hơi mỉm cười kẻ cả vỗ vai cậu. Hẳn là lão suy diễn rằng Karl định ở suốt đêm trong phòng ăn, trò chuyện và chè chén với hai ông kia. Lúc này Karl không muốn xác nhận gì, ngoài ra cậu nghĩ rằng lão bộc này (cậu thích lão hơn mọi người hầu khác ở đây) rồi đây sẽ chỉ cho mình hướng đi về New York, nên cậu nói: “Nếu ông muốn chờ ở đây, thì nhất định là ông rất tử tế và tôi cám ơn xin nhận. Dẫu sao lát nữa tôi sẽ trở ra và cho ông biết tôi sẽ làm gì tiếp sau. Tôi nghĩ rằng sẽ còn cần đến sự giúp đỡ của ông.”
“Được,” lão bộc nói, để đèn lồng xuống sàn và ngồi xuống một bệ thấp đang bỏ không, hẳn liên quan đến việc xây lại ngôi nhà. “Tôi sẽ chờ ở đây. Cậu cũng có thể để cây nến lại cho tôi,” lão nói thêm khi Karl định bước vào phòng với cây nến đang cháy.
“Tôi thật lơ đãng,” Karl nói và đưa nến cho lão, lão chỉ gật đầu, không rõ vì cố ý hay vì lão đang bận vuốt râu.
Karl mở cửa, nó kêu cọt kẹt thật to, nhưng không phải lỗi tại cậu, vì cửa chỉ làm bằng một tấm kính duy nhất, nó như thể bị cong khi cửa mở quá nhanh và chỉ được giữ ở tay cầm. Karl hốt hoảng buông ra, chính vì cậu muốn bước vào thật lặng lẽ. Không quay đầu lại, cậu vẫn nhận thấy sau lưng mình lão bộc, hiển nhiên đã bước xuống khỏi bệ, thận trọng đóng cửa mà không gây chút tiếng động nào.
“Cháu xin lỗi đã quấy rầy,” Karl nói với hai người đàn ông đang nhìn cậu với bộ mặt to và sửng sốt của họ. Cùng lúc, ánh mắt cậu lướt nhìn căn phòng, xem có thể nhanh chóng tìm thấy cái mũ của mình ở chỗ nào không. Nhưng chẳng thấy nó đâu, bàn ăn đã dọn sạch, có thể cái mũ đã bị đem xuống bếp sao đấy, thế thì quá phiền toái.
“Cậu đã để Klara ở đâu thế?” ông Pollunder hỏi, xem ra không phải ông không thích sự quấy rầy này, vì ông đổi ngay thế ngồi trong ghế bành và quay mặt hẳn về phía Karl. Ông Green đóng vai bàng quan, rút ra một cái ví, thuộc loại to và dày khủng khiếp, dường như tìm kiếm gì đấy trong bao nhiêu là ngăn, vừa tìm ông vừa đọc cả những giấy tờ khác rơi vào tay mình lúc đó.
“Cháu có một yêu cầu mà ông đừng hiểu nhầm về nó,” Karl nói, bước vội về phía ông Pollunder và đặt tay lên tay ghế bành, để được thật gần ông.
“Yêu cầu gì mới được chứ?” ông Pollunder hỏi và nhìn Karl với ánh mắt cởi mở, bộc trực. “Dĩ nhiên nó đã được chấp thuận.” Và ông quàng tay quanh Karl, kéo cậu lại giữa hai chân ông. Karl sẵn lòng chịu đựng, tuy nói chung cậu cảm thấy cách cư xử như thế không thích hợp vì mình đã quá trưởng thành. Nhưng sau hành động này của ông, tất nhiên cậu khó nói ra hơn điều định yêu cầu.
“Cậu hài lòng thế nào ở chỗ chúng tôi?” ông Pollunder hỏi. “Chẳng lẽ cậu không cảm thấy như chúng tôi, rằng từ thành phố về vùng quê ta gần như được giải thoát? Nói chung” - và một cái liếc xéo không thể hiểu nhầm, bị Karl che mất phần nào, hướng về phía ông Green - “nói chung tối nào tôi cũng có cảm giác ấy nhiều lần.”
“Ông ấy nói như thể không biết gì về ngôi nhà rộng rinh, những hành lang bất tận, nhà nguyện, những căn phòng bỏ trống, bóng tối khắp nơi.”
“Nào,” ông Pollunder nói, “lời yêu cầu!” và thân thiện lắc lắc Karl đang đứng lặng thinh ở đó.
“Cháu yêu cầu,” Karl nói, dù cậu hết sức hạ giọng cũng không thể tránh khỏi bị ông Green đang ngồi bên cạnh nghe thấy hết, cậu rất muốn giấu ông ta lời yêu cầu có thể sẽ bị hiểu như một sự xúc phạm ông Pollunder, “cháu yêu cầu ông để cháu về nhà, ngay bây giờ, trong đêm nay.”
Và vì điều khó nói nhất đã được thốt ra, mọi chuyện khác dồn tới càng nhanh hơn; không mảy may dối trá, cậu nói những điều mà trước đó cậu quả thật không hề nghĩ tới. “Cháu muốn về nhà bằng mọi giá. Cháu sẽ sẵn lòng quay lại, vì thưa ông Pollunder, ông ở đâu thì cháu cũng thích ở đó. Riêng hôm nay cháu không ở lại đây được. Ông biết rằng bác cháu không sẵn lòng cho phép cháu đi chuyến này. Bác ấy chắc chắn có lý do đúng đắn khi nghĩ thế, như trong mọi việc bác ấy làm, và cháu đã tự cho mình quyền chống lại nhận thức sáng suốt của bác ấy, đã thật sự ép bác ấy cho phép. Đúng là cháu đã lạm dụng tình thương của bác ấy dành cho cháu. Bác ấy băn khoăn gì về chuyến thăm này, giờ đây điều ấy quả thật không quan trọng, cháu chỉ biết hoàn toàn chắc chắn, thưa ông Pollunder, rằng trong sự băn khoăn ấy không có điều gì có thể xúc phạm ông, người bạn thân nhất của bác ấy. Không ai khác có thể sánh được với ông, dù chỉ mảy may, trong tình bạn với ông bác của cháu. Chính đó cũng là lời biện minh duy nhất cho sự không nghe lời của cháu, nhưng chưa đủ. Có lẽ ông không có được cái nhìn tổng quát chính xác về quan hệ giữa bác ấy và cháu, vì thế cháu chỉ muốn nói về những gì rõ ràng nhất. Bao lâu việc học tiếng Anh của cháu chưa kết thúc và cháu chưa thu thập đủ kinh nghiệm trong việc kinh doanh thực tiễn, cháu hoàn toàn phụ thuộc vào lòng tốt của bác ấy, mà tất nhiên vì là họ hàng ruột thịt cháu được phép hưởng.
“Ông chớ nghĩ rằng hiện nay cháu đã có thể kiếm sống bằng cách đàng hoàng nào đấy - cầu Chúa tránh cho cháu những cách khác. Thật đáng tiếc là để kiếm sống thì việc học của cháu trước đây quá không thiết thực. Trong bốn năm ở một trường trung học Âu châu cháu là một học sinh trung bình, để kiếm sống thì như thế còn thua xa mức chẳng có gì, vì giáo trình các trường trung học của chúng cháu rất lạc hậu. Cháu mà kể ra những gì mình đã học, ông sẽ cười ngất. Nếu tiếp tục học lên, xong trung học, rồi vào đại học, lúc ấy có thể tất cả sẽ cân bằng thế nào đấy và cuối cùng ta có được một sự đào tạo có hệ thống, để có thể bắt đầu làm gì đấy và nó giúp
ta quyết tâm trong việc kiếm sống. Nhưng rất tiếc cháu đã bị bứt ra khỏi việc học hành chặt chẽ này; đôi khi cháu cho rằng mình chẳng biết gì hết thảy và rốt cuộc mọi điều cháu có thể biết, thì ở Mỹ vẫn luôn là còn quá ít ỏi. Hiện nay bên nước cháu người ta đang xây dựng đây đó những trường trung học cách tân, ở đó ta cũng học các ngôn ngữ hiện đại[14] và có lẽ cả môn khoa học thương mại nữa; khi cháu học xong tiểu học thì chưa có môn này. Tuy bố cháu muốn cho cháu học tiếng Anh, nhưng một là hồi đó cháu không thể ngờ được mình sẽ gặp phải sự bất hạnh gì và sẽ cần tiếng Anh tới mức nào, hai là cháu phải học nhiều ở trường trung học, khiến cháu không còn mấy thì giờ cho những công việc khác. Cháu nêu ra hết những điều này để ông thấy cháu phụ thuộc vào bác cháu tới mức nào và vì thế cũng hàm ơn bác ấy biết bao. Chắc chắn ông sẽ thừa nhận rằng, trong hoàn cảnh như thế cháu không thể cho phép mình mảy may, dù chỉ là phỏng đoán, làm trái ý của bác ấy. Chính vì thế, để sửa chữa, dù chỉ đến mức độ nào đấy, lỗi lầm cháu đã phạm đối với bác ấy, cháu phải về nhà lập tức.”
Trong suốt lời trình bày dài của Karl, ông Pollunder đã chăm chú lắng nghe; ông thường ôm siết Karl vào mình, dù khó nhận thấy, nhất là khi cậu nhắc đến ông bác, thỉnh thoảng ông nghiêm nghị và như đầy chờ đợi nhìn qua ông Green vẫn đang tiếp tục bận rộn với cái ví. Còn Karl, trong lúc nói càng ý thức rõ hơn về vị trí của mình đối với ông bác, cậu càng trở nên sốt ruột hơn, đã bất giác tìm cách vùng ra khỏi cánh tay của ông Pollunder. Mọi thứ ở đây câu thúc cậu; con đường về với ông bác (qua những cửa kính, những bậc thềm, qua con đường với hai hàng cây dẻ, qua những con đường làng, qua những vùng ngoại ô tới những đường lớn tấp nập xe cộ, dẫn đến ngôi nhà của ông bác) hiện ra với cậu như gì đấy gắn bó chặt chẽ với nhau, con đường nằm đó trống rỗng, nhẵn nhụi, được chuẩn bị sẵn cho cậu và bằng một giọng mạnh mẽ đòi gặp cậu. Lòng tốt của ông Pollunder và sự xấu xa của ông Green nhòe nhoẹt vào nhau, và từ căn phòng đầy khói này cậu không muốn có được gì khác hơn là sự cho phép mình từ biệt. Tuy cậu cảm thấy không liên quan gì với ông Pollunder nữa và sẵn sàng chiến đấu với ông Green, thế nhưng một nỗi sợ hãi mơ hồ tràn ngập chung quanh cậu, những cú thúc của nó làm mắt cậu mờ đi.
Cậu lùi lại một bước và giờ đây đứng cách đều ông Pollunder và ông Green.
“Ông muốn nói gì với cậu ấy không?” ông Pollunder hỏi và nắm bàn tay ông Green như nài nỉ.
“Tôi không biết nên nói gì với cậu ấy,” ông Green nói, rốt cuộc đã rút từ ví một bức thư và đặt nó trước mặt trên bàn. “Việc cậu ấy muốn trở về với ông bác là rất đáng khen, và ta nên tin rằng rất có thể cậu ấy sẽ gây cho ông bác một niềm vui đặc biệt. Trừ phi cậu ấy đã làm cho ông bác tức giận ghê gớm qua sự không vâng lời, điều này quả thật cũng có thể. Nếu thế thì đương nhiên cậu ấy nên ở lại đây. Ngay lúc này thật khó nói gì đấy cụ thể; tuy hai chúng tôi là bạn của ông bác và hẳn phải vất vả mới nhận ra được sự chênh lệch về thứ bậc giữa tình bạn của tôi với ông ấy và của ông Pollunder với ông ấy, nhưng chúng tôi không thể nhìn vào đời sống nội tâm của ông ấy, và nhất là ở khoảng cách nhiều cây số giữa chúng ta ở đây với New York.”
“Thưa ông Green,” Karl nói và nỗ lực vượt qua ngần ngại để xích lại gần ông ta. “Cháu nghe được từ những lời lẽ của ông, rằng ông cũng thấy tốt nhất cháu nên trở về ngay.”
“Tôi hoàn toàn không nói thế,” ông Green đáp và mải mê nhìn bức thư mà ông ta đang dùng hai ngón tay vuốt tới vuốt lui các mép. Có vẻ ông ta muốn ám chỉ bằng cách ấy rằng ông Pollunder đã hỏi ông ta và cũng đã được trả lời, còn với Karl đúng ra ông ta không liên quan gì.
Trong lúc đó ông Pollunder đã đến bên Karl và nhẹ nhàng kéo cậu khỏi ông Green tới một trong những cửa sổ to. “Cậu Roßmann thân mến,” ông vừa nói vừa cúi xuống tai Karl và để chuẩn bị, ông lấy khăn mùi soa lau mặt và tạm dừng ở mũi để xì. “Cậu đừng nghĩ rằng tôi muốn giữ cậu lại đây trái với ý muốn của cậu. Thật tình không có chuyện đó đâu. Tuy tôi không thể đưa ô tô cho cậu sử dụng, nó đậu trong một gara công cộng xa đây, vì tôi chưa có thì giờ để xây gara riêng ở đây, nơi mọi thứ mới đang trên đường hình thành. Mặt khác, người lái xe không ngủ trong nhà này, mà gần gara, thật tình tôi cũng không biết nó ở đâu. Ngoài ra anh ta hoàn toàn không có nhiệm vụ phải ở đây vào lúc này, anh ta chỉ có nhiệm vụ sáng sớm lái xe qua đây đúng giờ. Nhưng mọi điều này không phải là những cản trở cho việc trở về lập tức của cậu, vì nếu cậu khăng khăng đòi về, tôi sẽ đưa ngay cậu ra trạm xe lửa gần nhất chạy vào thành phố, song nó ở quá xa, khiến hẳn cậu sẽ không về đến nhà sớm hơn là mấy so với sáng mai cậu chịu đi chung ô tô với tôi - chúng tôi khởi hành vào lúc bảy giờ.”
“Thưa ông Pollunder, thế thì cháu muốn đi bằng xe lửa hơn,” Karl nói. “Cháu đã hoàn toàn không nghĩ tới xe lửa. Chính ông vừa nói bằng xe lửa cháu sẽ về sớm hơn so với đi sớm bằng ô tô.”
“Nhưng chỉ sớm hơn chút ít thôi.”
“Mặc dù vậy, mặc dù vậy, thưa ông Pollunder,” Karl nói, “để tưởng nhớ tới tấm lòng ưu ái của ông, cháu luôn sẵn lòng quay trở lại đây, tất nhiên với điều kiện ông vẫn còn muốn mời, sau thái độ hôm nay của cháu, và có thể mai đây cháu diễn đạt được rõ hơn tại sao hôm nay mỗi phút sớm hơn cháu gặp lại bác của cháu lại quan trọng đối với cháu đến thế.” Rồi như thể đã được cho phép ra về, cậu nói thêm: “Nhưng dứt khoát ông không được đưa cháu đi. Cũng hoàn toàn không cần. Ngoài kia có người lão bộc sẵn sàng đưa cháu ra trạm xe. Bây giờ cháu chỉ còn phải tìm cái mũ của mình thôi.” Còn chưa dứt lời cậu đã đi ngang căn phòng, vội vội vàng vàng thử tìm lần cuối cùng xem có thấy mũ của mình không.
“Tôi có thể giúp cậu cái mũ cát két được không?” ông Green nói và rút từ túi một mũ cát két. “Có thể ngẫu nhiên cậu đội vừa.”
Karl sửng sốt đứng lại và nói: “Cháu đâu thể nào lấy mũ của ông. Cháu đi đầu trần[15] cũng được mà. Cháu hoàn toàn không cần.” “Không phải mũ của tôi đâu. Cậu cứ cầm lấy!”
“Vậy cháu cám ơn,” Karl nói, để khỏi phải dừng lại thêm, và cầm cái mũ cát két. Cậu đội vào và cười, vì nó thật vừa vặn, lại cầm nó trên tay, ngắm nghía, nhưng không thấy được điểm đặc biệt mà cậu tìm ở nó; đó là một cái mũ cát két mới tinh. “Rất vừa!” cậu nói.
“Vậy là nó vừa!” ông Green kêu và đập tay lên bàn.
Karl đã đi tới cửa để gọi người lão bộc, thì ông Green đứng dậy, vươn người sau một bữa ăn thịnh soạn và nghỉ ngơi lâu, vỗ mạnh lên ngực và nói bằng giọng vừa khuyên nhủ vừa ra lệnh: “Trước khi ra về, cậu phải chào từ biệt cô Klara chứ.”
“Phải đấy,” ông Pollunder tán thành và cũng đứng lên[16] luôn. Nghe giọng là biết ngay những lời lẽ này không xuất phát từ đáy lòng ông, ông yếu ớt để hai bàn tay chạm vào đường chỉ dọc ống quần, luôn tay cài và cởi cúc áo vét, theo mốt bấy giờ thì nó rất ngắn, chỉ dài tới hông, không thích hợp với những người to béo như ông Pollunder. Vả lại, khi ông đứng cạnh ông Green, người ta có cảm giác rõ rệt rằng ở ông Pollunder không
phải là một sự mập mạp khỏe mạnh; lưng nặng nề hơi cong, bụng trông nhão và bệu, một gánh nặng thật sự, khuôn mặt trông nhợt nhạt và lo lắng không yên. Ngược lại ông Green đứng đây, có lẽ còn béo hơn ông Pollunder chút ít, nhưng đó là một sự mập mạp cố kết, hỗ tương gánh vác sức nặng, hai bàn chân ông chập vào nhau kiểu nhà binh, đầu vươn thẳng và hơi lắc lư; ông có vẻ là một vận động viên cự phách, một hướng dẫn viên thể dục.
“Vậy thì trước tiên,” ông Green nói tiếp, “cậu đến chỗ cô Klara. Chắc chắn cậu sẽ thích thú và cũng rất phù hợp với sự sắp xếp thời gian của tôi. Vì, trước khi cậu rời khỏi đây, quả thật tôi có đôi điều thú vị để nói với cậu, nó cũng có thể là chủ chốt cho việc trở về của cậu. Chỉ tiếc là tôi bị ràng buộc bởi lệnh trên, không được tiết lộ gì với cậu trước nửa đêm. Cậu có thể hình dung được rằng điều này cũng làm chính tôi khốn khổ, vì nó quấy rầy sự nghỉ ngơi ban đêm của tôi, nhưng tôi phải tuân thủ nhiệm vụ được trao. Bây giờ là mười một giờ mười lăm, tức là tôi còn có thể bàn bạc xong việc làm ăn với ông Pollunder, mà sự hiện diện của cậu chỉ làm phiền thôi, và cậu có thể vui vầy một lúc với cô Klara. Đúng mười hai giờ cậu tới đây, cậu sẽ được biết điều thiết yếu.”
Karl có thể nào cự tuyệt lời yêu cầu này không, nó quả thật chỉ đòi hỏi ở cậu chút xíu lịch sự và lòng biết ơn đối với ông Pollunder, hơn nữa nó do một người vốn vô can, thô lỗ đặt ra, trong khi ông Pollunder, người liên quan, lại hết sức dè dặt trong lời nói và ánh mắt? Và điều thú vị mà mãi tới nửa đêm cậu mới được phép biết đó là gì? Nếu nó không làm cho sự trở về nhà của cậu được nhanh hơn ít nhất bốn mươi lăm phút, quãng thời gian mà vì nó nên giờ đây việc trở về kia phải lùi lại, thì cậu không quan tâm mấy. Nhưng sự hoài nghi lớn nhất của cậu là mình có thật sự lên được với Klara không, nàng là kẻ thù của cậu mà. Giá mà ít nhất cậu có bên mình cái đục đã được ông bác tặng làm cái chặn thư! Phòng của Klara có thể là một hang ổ khá nguy hiểm. Nhưng bây giờ ở đây cậu hoàn toàn không thể nói chút gì chống báng Klara, vì nàng là con gái của ông Pollunder và, như cậu vừa được biết, còn là hôn thê của Mack nữa. Giá mà nàng cư xử khác với cậu chỉ chút xíu thôi, cậu sẽ công khai bày tỏ lòng ngưỡng mộ nàng vì những quan hệ ấy. Cậu còn đang cân nhắc mọi chuyện, nhưng đã nhận thấy ngay rằng người ta đâu có yêu cầu mình cân nhắc, vì ông Green đã mở cửa
và bảo người lão bộc - lão đã nhảy khỏi cái bệ: “Lão dẫn cậu đây đến chỗ cô Klara.”
“Người ta thi hành mệnh lệnh như thế đấy,” Karl nghĩ, khi người lão bộc gần như chạy, hổn hển vì tuổi già sức yếu, dẫn cậu đến phòng Klara bằng một lối đi tắt đặc biệt. Khi đi qua căn phòng của mình, cửa vẫn để ngỏ, Karl muốn vào đó giây lát, có lẽ để trấn tĩnh. Nhưng người lão bộc không cho. “Không được,” lão nói, “cậu phải đến chỗ cô Klara. Chính cậu đã nghe thế mà.”
“Tôi sẽ chỉ dừng lại trong đó giây phút thôi,” Karl nói và nghĩ đến chuyện nằm lăn trên trường kỷ một chút cho có sự thay đổi, để thời gian trôi nhanh hơn tới nửa đêm.
“Cậu đừng làm khó dễ tôi trong việc thực hành nhiệm vụ chứ,” người lão bộc nói. “Lão có vẻ coi việc mình phải đến chỗ cô nàng Klara là một sự trừng phạt,” Karl nghĩ bụng và đi vài bước, nhưng rồi lại đứng lại vì thách thức.
“Đi thôi, cậu ơi,” người lão bộc nói, “một khi cậu đã tới đây rồi. Tôi biết cậu muốn đi khỏi ngay trong đêm nay, nhưng đúng là không phải mọi chuyện đều theo ý mình muốn, tôi đã nói ngay với cậu rằng không được đâu.”
“Đúng, tôi muốn đi khỏi và cũng sẽ đi khỏi,” Karl nói, “và bây giờ chỉ muốn chào tạm biệt cô Klara thôi.”
“Thế à?” người lão bộc nói, và Karl thấy rõ là lão không tin chút nào. “Thế thì tại sao cậu lại dùng dằng chào tạm biệt; đi thôi cậu.” “Ai ngoài hành lang vậy?” giọng Klara vang lên, và ta thấy nàng thò đầu ra từ một khung cửa gần đó, tay cầm cái đèn bàn to với cái chụp màu đỏ. Người lão bộc bước vội tới và báo cáo với nàng. Karl chậm rãi theo sau.
“Anh đến muộn đấy.”
Tạm chưa trả lời nàng, Karl nói khẽ với người lão bộc, nhưng bằng giọng ra lệnh nghiêm khắc, do đã biết bản tính của lão: “Ông chờ tôi ngay trước cánh cửa này!”
“Tôi định đi ngủ rồi đấy chứ,” Klara nói và đặt đèn lên bàn. Giống như ở phòng ăn dưới kia, ở đây người lão bộc cũng thận trọng đóng cửa lại từ bên ngoài. “Đã hơn mười một rưỡi rồi.”
“Hơn mười một rưỡi rồi,” Karl lặp lại như hỏi, khác nào hốt hoảng về con số này. “Thế thì tôi phải lập tức cáo từ,” Karl nói, “vì đúng mười hai giờ tôi phải có mặt dưới phòng ăn.”
“Anh có công việc gì gấp gáp thế!” Klara nói và lơ đãng chỉnh lại những nếp nhăn của bộ đồ ngủ khoác hờ. Mặt đỏ bừng, nàng không ngớt mỉm cười. Karl cho rằng sẽ không có nguy cơ lại xảy ra chuyện cãi nhau với Klara. “Chẳng lẽ anh không thể chơi piano được một chút, như hôm qua bố tôi đã hứa với tôi và hôm nay chính anh cũng hứa?”
“Nhưng chẳng lẽ chưa quá muộn rồi ư?” Karl hỏi. Cậu sẵn lòng làm vui lòng nàng, vì giờ đây nàng khác hẳn hồi nãy, như thể nàng đã vươn thế nào đấy lên ngang tầm ông Pollunder và rồi đây sẽ ngang tầm Mack.
“Phải, đã muộn rồi,” nàng nói và có vẻ không còn hứng thú âm nhạc nữa. “Rồi mỗi âm thanh ở đây cũng sẽ vang khắp nhà, tôi chắc chắn nếu anh đàn thì cả đến đám gia nhân trên tầng áp mái cũng sẽ thức dậy hết.”
“Vậy tôi sẽ không đàn, tôi hy vọng sẽ còn trở lại mà; nhân tiện, nếu không mất công quá, thì lúc nào đó chị hãy đến thăm bác tôi và tiện thể ghé qua phòng tôi luôn. Tôi có một chiếc piano tuyệt lắm. Bác tôi tặng tôi. Rồi nếu chị thấy tiện, tôi sẽ đàn chị nghe mọi bản nhạc nho nhỏ của tôi, rất tiếc không nhiều, và chúng cũng hoàn toàn không thích hợp với một nhạc cụ tốt như thế, nó chỉ đáng được những nghệ sĩ bậc thầy chơi thôi. Nhưng cả điều thú vị này chị cũng có thể sẽ được thưởng thức, nếu chị cho tôi biết trước về chuyến thăm viếng của chị, vì mai đây bác tôi định sẽ thuê một ông thầy danh tiếng dạy tôi - chị có thể hình dung tôi vui mừng về chuyện này biết mấy - và ngón đàn của ông ấy chắc chắn sẽ là lý do đảm bảo để chị đến thăm trong giờ tôi luyện tập. Nói thật, tôi mừng rằng đã quá muộn nên không thể chơi đàn, vì tôi hoàn toàn chưa chơi được gì, chị sẽ ngạc nhiên nếu thấy tôi kém cỏi nhường nào. Và bây giờ xin tạm biệt chị, dẫu sao cũng đã đến giờ ngủ rồi.”
Và vì Klara hiền lành nhìn cậu và có vẻ không chút để bụng về vụ ẩu đả, cậu mỉm cười nói thêm, trong lúc chìa tay cho nàng bắt: “Ở nước tôi người ta quen nói: ‘ngủ ngon và mộng đẹp’.”
“Khoan đã,” nàng nói, không bắt tay cậu, “có lẽ anh cứ đàn đi.” Và nàng biến mất qua một cửa ngách nhỏ, bên cạnh chiếc piano. “Chuyện gì thế nhỉ?,” Karl nghĩ. “Mình đâu thể chờ lâu, dù nàng dễ thương mấy đi nữa.” Có tiếng gõ ở cửa thông ra hành lang và người lão bộc, không dám
mở toang, thì thầm qua khe cửa: “Xin lỗi cậu, tôi vừa bị gọi, nên không thể chờ thêm được nữa.”
“Ông cứ việc đi,” Karl nói, giờ đây cậu dám tự mình tìm đường xuống phòng ăn. “Chỉ cần để lại cái đèn ở ngoài cửa cho tôi thôi. Với lại mấy giờ rồi nhỉ?”
“Sắp mười một giờ bốn lăm,” người lão bộc nói.
“Thời gian trôi chậm thật thôi!” Karl nói. Người lão bộc đã định đóng cửa, chợt Karl nhớ ra mình chưa cho ông ta tiền boa, liền móc một schilling[17] từ túi quần - bây giờ cậu luôn để tiền xu trong túi quần, kêu leng keng theo lối Mỹ, còn tiền giấy trong túi áo gi lê - đưa cho người lão bộc và nói: “Thưởng ông đã tận tâm phục vụ.”
Khi Klara quay trở ra, hai tay đặt trên mái tóc được kẹp chắc, Karl sực nhớ lẽ ra không nên bảo người lão bộc đi, vì bây giờ ai sẽ dẫn mình ra trạm xe lửa? Chậc, hẳn là ông Pollunder sẽ kiếm được một người hầu nào khác thôi, biết đâu chính người lão bộc bị gọi xuống phòng ăn để rồi sẽ được dùng vào việc này.
“Tôi vẫn yêu cầu anh chơi cho vài bài. Ở đây tôi hiếm khi được nghe nhạc, đến nỗi hễ có dịp là không thể bỏ qua.”
“Thế thì không thể chần chừ được nữa,” Karl nói không đắn đo và ngồi ngay vào piano.
“Anh cần nhạc phổ không?” Klara hỏi.
“Không cần đâu, tôi còn chưa đọc thông nốt nhạc mà,” Karl trả lời và chơi luôn. Đó là một bản nhạc ngắn mà Karl biết rõ là phải chơi khá chậm để có thể hiểu được, đặc biệt với người ngoại quốc, nhưng cậu chơi bừa theo nhịp hành khúc hối hả nhất cho xong chuyện. Dứt bản nhạc, sự yên ắng bị khuấy động của ngôi nhà trở về, như thể chen lấn dữ dội, với vị trí của nó. Họ ngồi đó như đờ đẫn và không nhúc nhích.
“Hay lắm,” Klara nói, nhưng không kiểu nói lịch sự nào có thể tâng bốc nổi Karl sau khi cậu trình tấu bản nhạc này.
“Mấy giờ rồi nhỉ?” cậu hỏi.
“Mười hai giờ kém mười lăm.”
“Vậy tôi còn chút thì giờ nữa,” cậu nói và thầm nghĩ: “Được ăn cả, ngã về không. Mình đâu phải chơi hết cả mười bài mình biết, nhưng có một bài
mình có thể chơi tương đối hay.” Và cậu bắt đầu chơi bản nhạc lính yêu thích của mình. Chậm đến nỗi sự khát khao thảng thốt của người nghe kéo dài tới nốt nhạc tiếp theo mà Karl giữ lại và khó khăn lắm mới chịu nhả ra. Quả thật cho mỗi bản nhạc cậu đều phải đưa mắt tìm trước những phím cần thiết, nhưng ngoài ra cậu còn cảm thấy trong lòng mình trào dâng một nỗi buồn, nó tìm một kết thúc khác vượt ra khỏi sự kết thúc của bản nhạc, nhưng không thể tìm thấy.
“Tôi thật tầm thường,” Karl nói sau khi kết thúc và rưng rưng nước mắt nhìn Klara. Lúc ấy từ phòng bên cạnh vang lên tiếng vỗ tay lớn. “Còn có người nữa nghe!” Karl kêu lên, bừng tỉnh.
“Mack đấy,” Klara nói khẽ.
Và ta nghe ngay tiếng Mack gọi: “Karl Roßmann, Karl Roßmann!” Karl tung cả hai chân một lượt qua cái ghế ngồi chơi piano và mở cửa. Cậu thấy Mack đang nửa nằm nửa ngồi trên một cái giường to có màn trướng, chăn vứt bừa lên đôi chân. Tấm màn bằng lụa xanh lơ là vẻ lộng lẫy duy nhất đặc thù con gái của cái giường vốn đơn giản, đóng thô kệch bằng loại gỗ nặng. Trên cái bàn ngủ nhỏ chỉ thắp một ngọn nến duy nhất, nhưng ga giường và sơ mi của Mack trắng nõn, khiến ánh nến rọi lên đó hắt lại gần như làm lóa mắt; cả tấm màn cũng lấp lánh sáng, ít nhất ở mép màn, với thứ lụa hơi dợn sóng và không thật căng. Ngay sau lưng Mack, cái giường và mọi thứ chìm vào bóng tối hoàn toàn. Klara tựa cột giường và ánh mắt nàng chỉ còn dành cho Mack.
“Servus[18],” Mack nói và chìa tay cho Karl. “Cậu đàn thật hay, cho tới nay tôi chỉ được biết tài cưỡi ngựa của cậu thôi.”
“Cả hai môn tôi đều dở như nhau,” Karl nói. “Nếu biết anh lắng nghe, tôi chắc chắn đã không chơi. Nhưng cô nàng của anh” - cậu ngừng lại, do dự không nói “hôn thê”, vì rõ ràng Mack và Klara đã ngủ với nhau rồi.
“Tôi đoán cậu sẽ nói thế,” Mack nói, “nên Klara mới phải nhử cậu từ New York tới đây, bằng không tôi sẽ chẳng được nghe ngón đàn của cậu. Cậu đúng là mới tập tành, và ngay trong những bài được soạn rất sơ đẳng, mà cậu đã nhiều lần tập đi tập lại, cậu vẫn phạm vài lỗi, nhưng dẫu sao tôi cũng rất vui, ấy là chưa kể tôi không coi thường ngón đàn của ai cả. Nhưng cậu không muốn ngồi lại đây với chúng tôi một lát nữa sao? Klara, đưa cậu ấy cái ghế.”
“Cám ơn,” Karl ấp úng nói. “Tôi không thể ở lại, dù muốn tới đâu. Tôi được biết quá muộn rằng trong nhà này có căn phòng ấm cúng đến thế.” “Tôi xây lại hết theo kiểu này đấy,” Mack nói.
Đúng lúc đó vang lên mười hai tiếng chuông, dồn dập nối nhau, tiếng này đập vào âm vang của tiếng kia. Karl cảm thấy gió từ sự chuyển động mạnh của những cái chuông thổi qua hai má. Ngôi làng như thế nào mà có những cái chuông thế ấy!
“Đã đến lúc không nấn ná được nữa rồi,” Karl nói, chỉ chìa tay cho Mack với Klara, song không bắt tay họ và chạy ra hành lang. Ở đấy cậu không thấy đèn đâu và tiếc rẻ đã cho người lão bộc tiền boa quá sớm. Cậu định lần mò theo vách tường tới cái cửa để ngỏ của phòng mình, nhưng chưa đi được nửa đường đã thấy ông Green giơ cao ngọn nến vội vã lắc lư đi tới. Trong bàn tay cầm nến ông cũng mang một bức thư.
“Roßmann, sao cậu lại không tới? Sao cậu để tôi chờ? Cậu đã làm gì ở chỗ cô Klara vậy?”
“Hỏi lắm thế!” Karl nghĩ bụng, “và bây giờ ông còn ép mình vào tường nữa,” vì quả thật ông ta đứng sát trước mặt Karl, còn cậu tựa lưng vào tường. Trong hành lang này vóc dáng ông Green trông to lớn đến nực cười và Karl tự hỏi đùa, chẳng lẽ ông ta đã ngốn hết ông Pollunder hiền lành rồi sao.
“Cậu đúng là người không giữ lời. Hứa đúng mười hai giờ xuống dưới, nhưng lại rón rén đi quanh cửa phòng cô Klara. Còn tôi đã hứa cho cậu biết điều gì đấy thú vị vào lúc nửa đêm và tôi mang nó tới đây.”
Nói xong ông ta đưa bức thư cho Karl. Trên phong bì viết “Gửi Karl Roßmann, đưa tận tay vào lúc nửa đêm, dù gặp nó ở đâu.” “Dẫu sao,” ông Green nói, trong lúc Karl mở thư, “tôi đã vì cậu mà lái xe từ New York tới đây, việc này thật đáng ca ngợi, tôi nghĩ thế, vậy cậu cũng đừng nên để cho tôi phải chạy theo cậu trong các hành lang chứ.” “Của ông bác!” Karl nói, lúc vừa mới nhìn vào thư. “Cháu đã chờ đợi chuyện này,” cậu nói với ông Green.
“Cậu chờ đợi hay không đối với tôi cũng thế thôi. Cậu hãy đọc ngay đi,” ông ta nói và giơ nến cho Karl.
Karl đọc dưới ánh nến:
“Cháu yêu quý!
Như cháu hẳn đã nhận thấy trong cuộc sống chung rất tiếc quá ngắn ngủi của bác cháu ta, bác là người hoàn toàn có nguyên tắc. Điều này không chỉ rất khó chịu và đáng buồn cho những người chung quanh bác mà cho cả bác nữa, nhưng chính nhờ những nguyên tắc của mình mà bác có được mọi thứ như ngày nay và không ai được quyền đòi hỏi bác phủ nhận cái nền tảng bất di bất dịch đó của bác, không ai, kể cả cháu, cháu yêu quý, tuy rằng nếu lúc nào đấy bác chợt thấy nên chấp nhận một sự công kích bác về mọi mặt, thì chính cháu sẽ là người đầu tiên trong số những người được quyền đó. Lúc ấy bác thích nhất được chụp lấy cháu và nhấc bổng lên với đôi bàn tay mà bác đang giữ tờ giấy và viết bức thư này. Nhưng vì tạm thời hoàn toàn không có gì báo hiệu điều ấy có thể xảy ra một ngày nào đấy, bác bắt buộc phải đuổi cháu đi sau vụ việc hôm nay, và bác khẩn thiết yêu cầu cháu đừng tìm đến bác hoặc tìm cách liên lạc với bác qua thư từ hay qua trung gian. Tối nay cháu đã quyết định rời khỏi bác trái với ý muốn của bác, vậy cháu hãy giữ lấy quyết định này suốt đời cháu; chỉ lúc ấy nó mới là quyết định của người đàn ông. Để đưa tin này, bác đã chọn ông Green, người bạn thân nhất của bác; ông ấy chắc chắn sẽ tìm được những lời lẽ đủ nhã nhặn để nói với cháu, mà quả tình bác không nghĩ ra được vào lúc này. Ông ấy là người có nhiều ảnh hưởng và, để làm vui lòng bác, sẽ giúp cháu bằng lời nói và hành động trong những bước đi tự lập đầu tiên của cháu. Để hiểu thấu sự chia tay của bác cháu ta, mà bây giờ khi kết thúc bức thư này bác lại thấy không thể tin được, bác cứ phải không ngớt lặp đi lặp lại: Karl ạ, từ gia đình cháu chẳng có được gì tốt đẹp. Nếu ông Green quên trao cho cháu cái rương và cái dù, cháu hãy nhắc ông ấy.
Gửi cháu những lời chúc tốt đẹp nhất cho sự bình an mai sau. Bác Jakob đáng tin cậy của cháu.”
“Cậu đọc xong chưa?” ông Green hỏi.
“Xong rồi ạ,” Karl nói. “ông có mang cái rương và dù cho cháu không?” Karl hỏi.
“Nó đây,” ông Green nói và đặt cái rương cũ của Karl, mà cho đến lúc đó ông ta vẫn giấu sau lưng bằng tay trái, xuống sàn nhà, cạnh cậu. “Thế còn cái dù?” Karl lại hỏi.
“Ở đây tất,” ông Green nói và kéo ra cả cái dù mà ông móc ở túi quần. “Một người tên Schubal nào đó, trưởng cơ khí tuyến tàu Hambourg-Mỹ, đã đem những thứ này tới, bảo đã tìm thấy trên tàu. Có dịp thì cậu nhớ cám ơn hắn.”
“Ít nhất cháu đã tìm lại được những đồ cũ của mình,” Karl nói và đặt dù lên cái rương.
“Trong tương lai cậu nên chú ý đến chúng kỹ hơn, ngài thượng nghị sĩ nhờ tôi nhắn như thế với cậu,” ông Green nói, rồi hỏi, rõ ràng vì sự tò mò riêng: “Cái rương gì mà lạ lùng vậy?”
“Đây là loại rương mà những người lính ở nước cháu mang theo khi nhập ngũ,” Karl trả lời, “nó là cái rương cũ của bố cháu thời đi lính. Đúng ra nó rất tiện lợi,” cậu mỉm cười nói thêm, “miễn là đừng để quên nó ở đâu đó.”
“Dẫu sao cậu cũng đã được chỉ dẫn đủ rồi,” ông Green nói, “và hẳn là cậu không có một ông bác thứ hai ở Mỹ. Đây tôi đưa cậu một cái vé hạng ba đi San Francisco. Tôi đã quyết định cho cậu chuyến đi này, vì một là khả năng cậu tìm việc ở bên phía Đông[19] dễ dàng hơn nhiều và hai là ở đây mọi công việc cậu có thể định làm đều có liên quan đến ông bác mà cậu tuyệt đối phải tránh gặp. Ở San Francisco cậu có thể hoàn toàn thanh thản làm việc; cậu hãy bình tĩnh bắt đầu từ dưới cùng và cố gắng làm việc để vươn lên dần.”
Karl không nhận thấy ác ý nào trong những lời lẽ này, cái tin xấu ông Green giữ trong người suốt buổi tối đã được trao, và từ nay xem ra ông Green là một người vô hại mà có lẽ ta có thể trò chuyện thẳng thắn hơn so với mọi người khác. Chẳng làm gì nên tội mà bị chọn làm kẻ chuyển giao một quyết định bí mật và gây đau khổ nhường ấy, thì con người tử tế nhất này phải có vẻ đáng nghi, chừng nào ông còn giữ điều bí mật ấy bên người.
“Cháu sẽ lập tức rời khỏi ngôi nhà này, vì cháu chỉ được tiếp đón với tư cách cháu của ông bác, chứ nếu là người lạ thì đừng hòng. Ông vui lòng chỉ cho cháu lối ra, rồi dẫn cháu tới đường để cháu đến quán trọ gần nhất được không?” Karl nói, chờ đợi sự xác nhận của một người từng trải.
“Nhưng gấp gáp lên,” ông Green nói. “Cậu gây không ít phiền toái cho tôi đấy.”
Thấy ông Green sải bước đi ngay, Karl khựng lại; đó quả là một sự vội vã đáng nghi, cậu túm áo vét của ông Green và nói, vì đột nhiên nhận ra thực chất của chuyện này: “Còn một điều nữa ông phải giải thích cho cháu: trên phong bì mà ông phải đưa cho cháu chỉ ghi rằng cháu cần nhận được thư vào lúc nửa đêm, dù gặp cháu ở đâu. Thế thì tại sao ông lại viện dẫn bức thư này để giữ cháu lại đây, khi cháu muốn đi khỏi vào lúc mười một giờ mười lăm? Ông đã vượt quá nhiệm vụ của mình.”
Green mở đầu câu trả lời của mình bằng một cái phác tay, diễn tả một cách phóng đại sự vô ích trong nhận xét của Karl, rồi nói: “Phải chăng trên phong bì có ghi rằng vì cậu mà tôi phải chạy đôn chạy đáo đến chết và chẳng lẽ nội dung bức thư cho phép hiểu dòng chữ ấy như thế? Nếu tôi không giữ cậu lại, hẳn tôi sẽ phải trao bức thư cho cậu vào nửa đêm trên đường làng.”
“Không,” Karl nói không nao núng, “không hoàn toàn thế. Trên bì thư ghi: ‘Trao sau nửa đêm’. Nếu ông quá mệt, hẳn ông không thể chạy theo cháu được, hoặc cháu đã về đến nhà bác cháu vào lúc nửa đêm rồi, điều mà chính ông Pollunder đã bảo là không thể được, hoặc rốt cuộc nhiệm vụ của ông là đưa cháu về bằng xe của ông (bỗng dưng cái xe không được nhắc tới nữa), vì cháu đã thiết tha trở về đến thế cơ mà. Chẳng lẽ lời ghi này không nói lên hoàn toàn rõ, rằng nửa đêm vẫn còn là thời hạn cuối cùng cho cháu sao? Và chính ông có lỗi trong việc cháu đã hụt thời hạn này.”
Karl nghiêm khắc nhìn ông Green và hẳn là cậu nhận ra được rằng trong lòng ông ta sự hổ thẹn vì bị lật tẩy đang giao chiến với niềm vui đã thực hiện được ý đồ của mình. Cuối cùng ông ta trấn tĩnh lại và nói bằng giọng như thể ngắt lời Karl, dù cậu đã im lặng từ lâu: “Đừng nói nữa!” và đẩy cậu, đã lại xách rương và dù, qua một khung cửa nhỏ mà ông ta đạp mở ra trước mặt cậu.
Karl sửng sốt đứng ngoài trời. Trước mặt cậu là một cầu thang không lan can, được xây thêm vào nhà, dẫn xuống dưới. Cậu chỉ cần đi xuống, rồi quẹo phải một quãng là tới lối đi với hai hàng cây dẻ, dẫn ra con đường làng. Trong ánh trăng vằng vặc cậu không thể nào đi lạc được. Dưới vườn cậu nghe nhiều tiếng chó sủa; được thả ra, chúng đang chạy quanh trong
bóng cây tối om. Ngoài ra thảy đều im lặng, ta nghe rất rõ tiếng chúng rơi trên cỏ sau khi nhảy thật xa.
Rốt cuộc Karl đã ra khỏi vườn mà không gặp rắc rối với lũ chó. Cậu không thể xác định chắc chắn New York nằm hướng nào. Lúc đi tới đây cậu đã chú ý quá ít đến những chi tiết mà lúc này có thể giúp được mình. Cuối cùng cậu tự nhủ rằng mình không nhất thiết phải về New York, ở đó chẳng ai chờ đợi mình và một người thậm chí dứt khoát không chờ đợi. Cho nên cậu chọn một hướng bất kỳ và bắt đầu lên đường.
4
Đi bộ tới Ramses
Đi được một quãng ngắn, Karl tới một quán trọ nhỏ (thật ra đó chỉ là một trạm nhỏ cuối cùng cho xe tải của New York, vì thế hiếm khi được dùng làm nơi nghỉ đêm), hỏi chỗ ngủ rẻ nhất có thể có được, vì cậu nghĩ mình phải bắt đầu tiết kiệm ngay từ bây giờ. Đáp ứng đòi hỏi của Karl, chủ quán ra hiệu cho cậu, như thể cậu là một người làm công, lên cầu thang; trên đó cậu được một mụ hầu phòng đầu bù tóc rối, bực mình vì bị phá giấc ngủ, tiếp đón và, hầu như chẳng buồn nghe cậu nói mà luôn mồm nhắc nhở cậu bước khẽ, dẫn cậu vào một căn phòng, rồi đóng cửa lại, trước đó không quên quở mắng cậu bằng một tiếng “suỵt”!
Mới đầu, Karl không thật rõ đó chỉ là do mành mành cửa sổ được buông xuống hay có thể căn phòng chẳng có cửa sổ nào, phòng tối thế đấy; cuối cùng nhận ra một cửa sổ nhỏ được che trên mái, cậu kéo tấm màn và ít ánh sáng lọt vào qua đó. Phòng có hai giường, song đều đã có người. Karl thấy hai thanh niên nằm ở đó trong giấc ngủ say và nhất là có vẻ ít đáng tin cậy, bởi vì họ nằm ngủ với đầy đủ áo xống, dù không có lý do nào khả dĩ hiểu được; một người thậm chí còn mang cả giày ống.
Lúc Karl kéo màn cửa sổ, một trong hai người đang ngủ hơi giơ tay và chân lên cao, tạo nên một cảnh tượng khiến Karl dù đang lo lắng cũng phải cười thầm.
Karl nhanh chóng nhận thấy mình sẽ không thể ngủ nổi, vì cậu không được để cho cái rương mới tìm thấy lại của mình và số tiền cất trong người gặp hiểm nguy, đó là chưa kể không có chỗ nằm nào khác, không trường kỷ cũng chẳng sofa. Nhưng Karl cũng không muốn bỏ đi, vì cậu không dám mới đó đã lại đi ra trước mặt mụ già và chủ quán trọ. Vả chăng ở đây có lẽ cũng chẳng kém an toàn hơn trên đường làng. Tất nhiên điều đáng chú ý là trong cả căn phòng, trong chừng mực ánh sáng lờ mờ cho phép xác định, không thấy một hành lý nào. Nhưng có lẽ, và rất có khả
năng, hai thanh niên này là gia nhân, sắp phải dậy phục vụ khách nên mới ngủ với nguyên áo xống. Tất nhiên như thế thì cậu chẳng vinh quang gì đặc biệt khi ngủ chung phòng với họ, nhưng càng ít nguy hiểm. Tuy nhiên chừng nào điều này còn chưa chắc chắn, cậu tuyệt đối không được nằm xuống ngủ.
Dưới sàn, trước một cái giường có để một cây nến với vài que diêm, Karl rón rén tới lấy. Cậu không ngại thắp nến, vì theo mệnh lệnh của chủ quán thì căn phòng này thuộc về cậu cũng như hai người kia, hơn nữa họ đã hưởng giấc ngủ được nửa buổi tối rồi và lợi thế hơn hẳn cậu qua việc chiếm hai cái giường. Vả chăng dĩ nhiên cậu cố gắng thận trọng khi đi lại trong phòng cũng như khi làm chuyện này chuyện nọ để khỏi đánh thức họ.
Trước nhất cậu muốn xem xét cái rương, để có được cái nhìn bao quát về những thứ cậu chỉ còn nhớ mang máng, mà chắc chắn những món quý giá nhất hẳn là đã mất rồi. Vì khi Schubal đã đặt tay lên vật gì, thì ta ít có hy vọng nhận được lại nó nguyên vẹn. Tất nhiên hắn có thể chờ đợi từ ông bác một món tiền boa lớn, còn nếu thiếu món này món nọ hắn có thể đổ cho anh chàng Butterbaum, người nhận canh giữ cái rương.
Karl mở rương và kinh hoàng lúc mới thoạt nhìn. Trong chuyến vượt đại dương cậu đã bỏ ra biết bao tiếng đồng hồ sắp xếp đi sắp xếp lại cái rương, và giờ đây tất cả được nhồi nhét lộn xộn đến nỗi mới mở khóa mà nắp rương đã tự động bật lên. Nhưng Karl nhanh chóng vui mừng nhận thấy sự lộn xộn này chỉ là do người ta xếp thêm vào đó bộ com lê cậu mặc trong chuyến đi, mà tất nhiên nó đã không được cái rương dự trù chỗ. Không thiếu chút gì. Trong cái túi bí mật của áo vét tông không phải chỉ có tấm hộ chiếu, mà còn cả số tiền đã mang theo từ nhà, khiến cho nếu gộp thêm những gì cậu hiện mang trong người, thì lúc này Karl có được kha khá tiền. Cả những áo quần cậu mặc khi tới Mỹ cũng có trong đó, được giặt sạch sẽ và là cẩn thận. Cậu lập túc cất đồng hồ và tiền vào cái túi bí mật đáng tin cậy. Điều đáng tiếc duy nhất là khúc xúc xích Verona (nó cũng không mất) đã ám mùi lên mọi thứ. Nếu không khử được bằng cách nào đấy, Karl có triển vọng sẽ đi tới đi lui hàng tháng trời trong cái mùi phủ kín người này.
Khi tìm và lôi ra vài thứ nằm tận dưới đáy rương - một quyển Kinh Thánh bỏ túi, giấy viết thư và bức hình của bố mẹ - cái mũ cát két tuột khỏi đầu cậu, rơi vào rương. Trong môi trường chung quanh quen thuộc của nó,
cậu lập tức nhận ra đó là cái mũ cát két của mình, mà mẹ cậu đã cho để cậu đội đi đường. Tuy nhiên cậu đã cẩn thận không đội nó trên tàu, vì cậu biết ở Mỹ người ta nói chung đội cát két thay vì loại mũ có vành, vì thế cậu không muốn chưa tới nơi mà mũ mình đã bị sờn. Song ông Green đã dùng nó để bỡn cợt cậu. Có thể nào ông bác cũng đã giao cho ông ta mệnh lệnh đó chăng? Và trong một cử động giận dữ không chủ ý cậu chụp lấy nắp rương, khiến nó sập xuống ầm ĩ.
Bây giờ chẳng còn cách nào cứu vãn nữa, hai người đang ngủ đã bị đánh thức. Mới đầu một người ưỡn dài và ngáp, người kia liền bắt chước theo. Trong lúc đó gần như mọi thứ trong rương đã đổ ra trên bàn; nếu là quân trộm cắp, họ chỉ cần lại gần và chọn lựa. Để chặn trước khả năng này và cũng để làm sáng tỏ ngay, Karl cầm nến đi tới hai cái giường và giải thích mình có quyền gì mà ở đây. Họ có vẻ hoàn toàn không chờ đợi lời giải thích đó, vì còn quá ngái ngủ không trò chuyện được, họ chỉ nhìn cậu, không mảy may tỏ vẻ ngạc nhiên. Cả hai người đều rất trẻ, nhưng công việc vất vả hoặc sự nghèo khổ đã khiến gương mặt họ trơ xương trước tuổi, râu mọc lởm chởm quanh cằm, mái tóc lâu chưa cắt bờm xờm trên đầu và vì buồn ngủ họ còn lấy những khớp xương đốt ngón tay dụi và ấn lên những đôi mắt sâu hoắm.
Karl muốn tận dụng tình trạng yếu ớt tức thời của họ, nên cậu nói: “Tôi tên Karl Roßmann và là người Đức. Vì chúng ta ở chung một phòng, xin vui lòng cũng cho tôi biết tên và quốc tịch của các anh. Xin nói ngay là tôi không đòi được có giường, vì tôi đã đến quá muộn và hoàn toàn không có ý định ngủ. Ngoài ra các anh cũng không phải khó chịu về quần áo đẹp của tôi, tôi nghèo xơ xác và chẳng có tiền đồ nào cả.”
Người thấp bé hơn - chính là anh chàng mang giày ống - ra hiệu bằng cả hai tay, hai chân và nét mặt rằng hắn không hề quan tâm đến tất cả những điều ấy và bây giờ hoàn toàn không phải là lúc cho những loại trò chuyện như thế, rồi lại nằm xuống và ngủ tức thì; người kia, da ngăm ngăm, cũng lại nằm xuống, nhưng trước khi thiếp đi còn thờ ơ chìa tay nói: “Hắn tên Robinson và là người Ireland, còn tôi tên Delamarche, người Pháp và bây giờ xin vui lòng yên lặng.” Vừa dứt lời, y phồng má thổi tắt ngọn nến của Karl và ngả đầu xuống gối.
“Thế là tạm thời ngăn chặn được mối nguy này,” Karl tự nhủ và quay lại chỗ cái bàn. Nếu việc họ buồn ngủ không phải là giả vờ thì mọi chuyện
ổn cả. Chỉ hiềm nỗi một gã là người Ireland. Karl không nhớ rõ có lần đã đọc trong quyển sách nào khi còn ở nhà, rằng ở Mỹ ta cần cảnh giác trước những người Ireland. Trong thời gian ở nhà ông bác dĩ nhiên cậu có cơ hội tốt nhất để làm sáng tỏ mối nguy hiểm của người Ireland, nhưng vì ngỡ mình sẽ được chăm sóc mãi mãi, nên cậu đã quên bẵng chuyện ấy. Bây giờ Karl muốn ít nhất với ngọn nến vừa châm lại, tới nhìn gã Ireland này kỹ hơn, và cậu thấy chính gã trông dễ chịu hơn gã người Pháp. Trong chừng mực mà Karl, đứng nhón chân xa xa, có thể xác định được thì thậm chí hai má gã còn vương nét phinh phính và gã mỉm cười thật dễ mến trong giấc ngủ.
Tuy nhiên vẫn kiên quyết sẽ không ngủ, Karl ngồi xuống chiếc ghế duy nhất trong phòng, tạm thời chưa thu xếp rương vội - vì cậu còn có thể dành cả đêm cho việc này mà - và lần giở quyển Kinh Thánh, nhưng chẳng đọc gì. Rồi cậu cầm lấy bức ảnh của bố mẹ, hình chụp ông bố nhỏ bé đứng thẳng ưỡn người vênh mặt để trông cho cao, còn bà mẹ ngồi hơi lọt thỏm trong chiếc ghế bành trước mặt ông. Một tay ông bố để lên lưng ghế phô tơi, tay kia nắm lại, đặt lên một quyển sách hình để mở trên một chiếc bàn con mảnh dẻ trang trí cầu kỳ bên cạnh. Cũng có một bức ảnh khác, chụp Karl với bố mẹ. Trong tấm hình này bố và mẹ đăm đăm nhìn cậu, trong khi cậu được lệnh của ông phó nhòm nhìn vào máy ảnh. Nhưng tấm hình này cậu không mang theo trong chuyến đi.
Vì thế cậu càng nhìn kỹ hơn tấm hình trước mặt và tìm cách bắt lấy ánh mắt bố từ nhiều hướng khác nhau. Nhưng dù cậu thay đổi việc quan sát bằng cách đặt ngọn nến ở những vị trí khác nhau, bố cậu vẫn không chịu trở nên sống động, hàng ria rậm nằm ngang của ông trông cũng hoàn toàn không giống với thật, bức ảnh này không đạt. Còn bà mẹ được chụp khá hơn, miệng bà méo xệch như thể bà gặp chuyện đau khổ và phải gượng mỉm cười. Theo Karl thì ai nhìn bức ảnh cũng phải nhận thấy rõ điều ấy, đến nỗi khoảnh khắc sau cậu lại cho rằng sự rõ ràng của ấn tượng này là quá mạnh và gần như phi lý. Làm sao người ta có thể có được từ một bức hình niềm tin vững chắc không thể chối cãi về cảm xúc được che giấu của người trong ảnh! Và cậu rời mắt một lúc khỏi tấm ảnh. Khi nhìn trở lại, cậu nhận thấy bàn tay mẹ để thõng trên đầu tay ghế phô tơi, gần tới mức có thể hôn được. Cậu nghĩ có lẽ nên viết thư cho bố mẹ, như họ quả thật đã yêu cầu cậu (lần cuối ông bố đã yêu cầu rất nghiêm khắc ở Hambourg).
Tuy nhiên hồi đó, khi bà mẹ thông báo cho cậu bên cửa sổ vào một buổi tối kinh hoàng về chuyện đi Mỹ, cậu đã có lời thề bất di bất dịch rằng sẽ không bao giờ viết thư, nhưng một lời thề như thế của một chàng trai non nớt nào có ý nghĩa gì ở đây, trong hoàn cảnh mới! Ngày ấy cậu có thể thề rằng sau hai tháng ở Mỹ mình sẽ trở thành tướng của quân đội Mỹ cũng được vậy, trong khi sự thật cậu đang ở trong một phòng sát mái chung với hai gã du thủ du thực, trong một quán trọ ở vùng ngoại ô New York, ngoài ra cậu phải thú nhận rằng đây mới đúng là chỗ của mình. Cậu mỉm cười chăm chú nhìn mặt bố mẹ, tuồng như có thể biết được từ đó họ có còn luôn mong muốn nhận được tin tức của con trai hay không.
Trong lúc ngắm nghía cậu nhanh chóng nhận thấy mình quả tình rất mệt mỏi và khó lòng thức tới sáng được. Tấm hình vuột khỏi hai bàn tay cậu, rồi cậu áp mặt lên đó, tấm hình mát lạnh làm má cậu dễ chịu, cậu thiếp đi với cảm giác khoan khoái.
Cậu bị đánh thức sớm vì có người cù nách. Chính tay người Pháp đã tự cho phép mình suồng sã như vậy. Nhưng cả tay Ireland cũng đứng trước bàn của Karl và hai gã ấy nhìn cậu chăm chú không kém hồi đêm Karl nhìn họ. Karl không ngạc nhiên về việc họ dậy mà không làm mình thức; họ xuất hiện hết sức khẽ hoàn toàn không phải do có ý đồ xấu xa, mà vì cậu đã ngủ quá say, ngoài ra việc mặc quần áo và rõ ràng cả việc rửa ráy cũng chẳng khiến họ mất công gì nhiều.
Bây giờ họ chào hỏi nhau đàng hoàng và đôi chút trịnh trọng; Karl được biết hai người này là thợ cơ khí lắp ráp, đã từ lâu không thể tìm được việc ở New York, vì thế hơi xuống dốc. Để chứng minh, Robinson phanh áo vét tông của hắn và ta có thể thấy hắn không có sơ mi, tuy nhiên điều này lẽ ra ta cũng có thể nhận thấy rồi, ở cái cổ áo giả rộng lùng thùng hắn đính vào lưng chiếc áo vét tông. Họ định đi bộ tới Butterford, một thành phố nhỏ cách New York hai ngày đường, nghe nói ở đó có việc làm. Họ không có gì phản đối chuyện Karl đi cùng và hứa một là thỉnh thoảng sẽ xách hộ cậu cái rương và hai là, nếu họ kiếm được việc, sẽ tìm cho cậu một chỗ học nghề, hẳn cũng dễ thôi, miễn là có việc làm. Karl chỉ vừa mới đồng ý, họ đã thân ái khuyên cậu cởi bộ quần áo đẹp ra, vì nó sẽ gây trở ngại cho cậu mỗi khi xin việc. Ngay chính trong ngôi nhà này có cơ hội tốt để tống khứ nó đi, vì mụ hầu phòng buôn bán quần áo. Karl còn ngần ngừ chưa quyết, họ đã giúp cậu cởi bộ quần áo và đem nó đi. Khi Karl, bị bỏ lại
một mình và còn hơi buồn ngủ, chậm chạp khoác lên người bộ quần áo cũ đã mặc lúc đi tàu qua đây, cậu tự trách đã bán bộ com lê, có thể nó bất lợi cho cậu khi xin một chỗ học nghề, nhưng biết đâu lại hữu ích khi xin một chỗ làm khá hơn, và cậu mở cửa để gọi hai tay đó trở lại, nhưng đã đụng ngay họ rồi; họ đặt lên bàn nửa đô la tiền bán được, mặt mũi tỏ ra hớn hở đến nỗi cậu không thể tự thuyết phục nổi rằng họ đã không đút túi phần nào và nói cho đúng, nó nhiều đến mức đáng giận.
Song đây không phải là lúc để nói với nhau về chuyện ấy, vì mụ hầu phòng đã vào, ngái ngủ y hệt hồi đêm, và xua cả ba ra ngoài hành lang, với lời giải thích rằng phải làm phòng cho những khách mới. Dĩ nhiên đâu có chuyện ấy, mụ làm thế chỉ vì độc ác thôi. Vừa định xếp rương, Karl đã phải chứng kiến cảnh mụ túm đồ đạc của cậu bằng cả hai tay và ném mạnh vào đó, như thể chúng là những con vật cần phải dạy nằm bẹp xuống. Hai tay thợ cơ khí lắp ráp tuy có làm khó dễ mụ, họ giật váy mụ, đập đập lưng mụ, nhưng nếu họ định giúp Karl bằng cách ấy thì chẳng đi đến đâu. Khi đã đóng xong cái rương, mụ ấn quai xách vào tay Karl, hất tay hai thợ cơ khí và đuổi cả ba ra khỏi phòng, dọa nếu họ không nghe lời sẽ không được uống cà phê. Rõ ràng mụ đã hoàn toàn quên rằng ngay từ đầu Karl không thuộc nhóm hai tay thợ cơ khí, vì mụ đối xử như thể họ là một băng. Song hai tay thợ cơ khí đã bán bộ com lê của Karl cho mụ, bằng cách ấy chứng tỏ họ liên quan mật thiết với nhau đôi chút.
Họ phải đi đi lại lại ngoài hành lang một lúc lâu; khoác tay Karl, gã người Pháp luôn mồm chửi rủa, dọa sẽ cho chủ quán trọ đo ván, nếu ông ta dám chường mặt ra, và dường như để chuẩn bị cho chuyện ấy, y giận dữ cọ hai nắm đấm vào nhau. Cuối cùng một thằng bé nhỏ thó vô tội xuất hiện, nó phải rướn người khi đưa bình cà phê cho gã người Pháp. Tiếc thay chỉ có một bình cà phê, mà họ không tài nào làm cho thằng nhỏ hiểu được rằng họ cần thêm ly. Thành thử luôn chỉ có một người uống, còn hai người kia đứng chờ trước mặt. Karl không hứng thú uống, nhưng không muốn làm phật lòng những người kia, nên khi đến lượt mình, cậu chỉ đưa bình cà phê lên miệng chứ không uống.
Để từ biệt, tay người Ireland quăng cái bình xuống nền nhà bằng đá. Họ rời quán trọ mà không ai trông thấy và bước vào làn sương mù dày đặc, vàng vàng của buổi sáng. Nói chung họ lặng lẽ đi cạnh nhau bên ven đường, Karl phải xách cái rương, những người kia có lẽ sẽ chỉ mang giúp
khi được cậu yêu cầu; thỉnh thoảng một chiếc ô tô vọt ra từ màn sương mù và ba người quay đầu nhìn theo những cỗ xe phần lớn khổng lồ, hình dáng thật khác thường và hiện ra chớp nhoáng đến nỗi họ không kịp nhận ra có người trong đó hay không. Lát sau những đoàn xe tải chở thực phẩm tới New York bắt đầu, chúng chạy thành hàng năm, chiếm hết chiều ngang con đường, liên tục, khiến không ai có thể băng qua được. Thỉnh thoảng con đường phình ra thành một quảng trường, ở giữa có một viên cảnh sát đi lại trên một cái đài tựa như ngọn tháp để có thể nhìn khắp tất cả và với một cây gậy nhỏ điều khiển sự lưu thông trên đường chính cũng như từ các đường nhánh đổ vào, để rồi nó không được giám sát cho đến quảng trường tới và viên cảnh sát tiếp sau, nhưng được những người đánh xe ngựa và tài xế ô tô, lặng thinh và chăm chú, tự nguyện tuân thủ trong một trật tự chấp nhận được. Karl ngạc nhiên nhất về sự yên tĩnh chung. Nếu không có tiếng kêu của những con thú vô ưu trên đường đến lò mổ, có lẽ người ta không nghe thấy gì khác hơn tiếng gõ lóc cóc của những móng guốc và tiếng lăn vun vút của bánh xe. Song tất nhiên không phải lúc nào tốc độ cũng như nhau. Ở đôi ba quảng trường cá biệt, khi xe cộ từ các đường nhánh đổ vào quá đông, phải có những điều chỉnh lớn, mọi làn xe khựng lại và chỉ nhích từng bước, nhưng cũng có khi mọi xe cộ phóng qua như chớp được một lúc, cho tới khi chúng dịu lại, như thể được chế ngự bởi một cái phanh duy nhất. Từ đường sá không bay lên chút bụi nào, tất cả chuyển động trong bầu không khí trong lành nhất. Không thấy một khách bộ hành nào, ở đây không có những bà bán hàng đi bộ ra thành phố họp chợ như bên đất nước của Karl, song thỉnh thoảng lại thấy những chiếc ô tô to và phẳng, với khoảng hai mươi phụ nữ đeo sọt đứng trên đó, dễ có thể đó là các bà bán hàng đi họp chợ, họ nghển cổ để quan sát xe cộ qua lại và nuôi hy vọng chuyến đi sẽ nhanh hơn. Rồi ta thấy những chiếc xe tương tự, trên có vài người đàn ông đi lòng vòng, tay thọc túi quần. Các xe này mang những hàng chữ khác nhau. Karl khẽ kêu lên khi thấy trên một chiếc: “Tuyển dụng công nhân bốc vác ở cảng cho Hãng Vận tải Jakob”. Chiếc xe đang chạy thật chậm và một người đàn ông thấp bé, lưng còng, vui tươi đứng ở bậc lên xuống mời ba khách lữ hành lên xe. Karl trốn sau lưng hai thợ cơ khí, cứ như thể ông bác của cậu có thể đang ở trên xe và trông thấy cậu vậy. Cậu mừng vì hai người kia cũng từ khước lời mời, tuy vẻ mặt kênh kiệu của họ lúc đó cũng đã khiến cậu hơi bị tổn thương. Họ hoàn toàn không được cho rằng họ quá giỏi giang và ông bác không đáng để họ phục ẳ
vụ. Cậu lập tức làm cho họ hiểu điều ấy, tuy tất nhiên không nói thẳng. Delamarche liền yêu cầu cậu vui lòng đừng can thiệp vào những việc mà cậu không hiểu; cách tuyển dụng người như thế là một sự lừa đảo bỉ ổi và hãng Jakob đầy tai tiếng trên toàn nước Mỹ. Karl không đáp, nhưng từ lúc ấy cậu giữ quan hệ nhiều hơn với tay Ireland, cậu cũng nhờ hắn mang giúp cái rương một lúc và hắn cũng đã làm, sau khi Karl nhiều lần nhắc lại lời yêu cầu. Chỉ phải cái hắn luôn miệng cằn nhằn cái rương quá nặng, cho đến lúc vỡ lẽ rằng hắn chỉ muốn làm cho cái rương nhẹ bớt khúc xúc xích Verona từng khiến hắn thèm thuồng chú ý ngay tại quán trọ. Karl phải moi khúc xúc xích ra, tay người Pháp vơ lấy để xử lý với con dao trông tựa dao găm và mình y chén gần hết. Thỉnh thoảng Robinson mới được một lát, còn Karl (cậu lại phải xách cái rương, nếu không muốn để nó lại trên con đường làng) chẳng được lát nào, như thể cậu đã ăn trước phần của mình rồi. Cậu thấy xin xỏ một miếng là quá tầm thường, nhưng tức ứa mật.
Sương mù đã tan, xa xa lấp lánh một rặng núi cao, đỉnh núi nhấp nhô trải dài xa nữa vào làn hơi nước mờ đục ánh mặt trời. Bên cạnh đường, những cánh đồng trồng trọt nham nhở bao quanh những nhà máy lớn đứng giữa trời nhả khói đen kịt. Tại những khu nhà ở thuê tập thể nằm rải rác mọc lên bừa bãi có nhiều cửa sổ rung rinh vì vô vàn chuyển động và ánh sáng, những phụ nữ và trẻ con có bao thứ việc phải làm trên các ban công chật hẹp và ọp ẹp, trong khi chung quanh họ những tấm khăn và quần áo treo phơi hoặc để nằm bay phần phật, phồng căng trong làn gió sớm, hết che khuất họ lại để lộ họ ra. Rời ánh mắt khỏi những ngôi nhà ấy, ta lại thấy bầy chim sơn ca bay tít trên bầu trời và bên dưới là đàn chim én lượn không cao quá trên đầu người qua lại trên đường.
Nhiều thứ gợi Karl nhớ quê nhà và cậu không biết việc mình rời New York, đi sâu vào nội địa đất nước này có tốt không. Ở New York có biển và lúc nào cũng có khả năng quay về quê hương. Thế là cậu liền dừng bước, bảo hai bạn đồng hành rằng cậu lại không muốn rời New York nữa. Và khi Delamarche cứ định đẩy cậu đi tiếp, Karl không chịu, bảo cậu có quyền quyết định cho mình. Trước hết tay Ireland phải can thiệp, giải thích rằng Butterford đẹp hơn New York nhiều, rồi hai gã phải ra sức năn nỉ cậu mới chịu tiếp tục đi. Ngay cả lúc ấy Karl cũng không chắc đã đi, nếu cậu không tự nhủ rằng tới một nơi mà khả năng trở về quê nhà không quá dễ dàng có
"""