" Nữ Thần Báo Oán PDF EPUB Bản Đẹp 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Nữ Thần Báo Oán PDF EPUB Bản Đẹp Ebooks Nhóm Zalo Nữ thần báo oán Agatha Christie Ebook miễn phí tại : www.Sachvui.Com Mục lục Mở đầu Chương I: Cô Marble đọc báo. Chương II: Mật mã Nemesis Chương III: Cô Marple ra tay Chương IV: Esther Walters Chương V: Chỉ thị từ cõi âm Chương VI: Tình yêu Chương VII: Lời mời Chương VIII: Ba chị em Chương IX: Cây Polygonum Baldschuanicum Chương X: Những ngày xa xưa Chương XI: Tai nạn Chương XII: Tham vấn Chương XIII: Chiếc áo thun ô vuông Chương XIV: Ông Broadribb Wonders Chương XV: Verity Chương XVI: Cuộc điều tra Chương XVII: Cô Marble tới thăm Chương XVIII: Phó giám mục Brabazon Chương XIX: Giờ phút chia tay Chương XX: Ý kiến của cô Marple Chương XXI: Đồng hồ điểm ba lần Chương XXII: Cô Marple kể chuyện Đoạn cuối Mở đầu Mật mã của chúng ta là Némésis Cô Marple lẩm bẩm nhắc lại câu nói trên. Cô đang ngồi trong chiếc ghế bành rộng cạnh lò sưởi, trong nhà mình ì ở Saint – Marie – Meal. Câu đó nằm trong một lá thư không bình thư ì ờng của một con người không bình thư ì ờng, lúc này đã quá cố. Một tuần trước, cô đã đọc cáo phó về cái chết của ông ta. Némésis …như có pháp thuật, tên đó tái hiện trước mặt cô một phong cảnh mê hồn. Những cây cọ .. Biển Caribê xanh biếc. và đêm hôm đó, ở đảo Saint Honoré, cô đã chạy đi tìm ngư ì ời giúp cứu sống tính m í ạng một con người. Cô đã khẩn khoản yêu cầu sự giúp đỡ, và lúc đó cô đã thốt lên cái tên Némésis. Bây giờ, đến lượt người ta lại yêu cầu cô giúp đỡ, vì mì ột lý do bí ẩn nào đó, và về một vụ việc mà cô không hay biết tí gí ì ! Th ì ật là khó tin. Hoàn toàn không tin được. Vậy mà … Một số đoạn khác trong thư, cô nhớ lại : « Cô có thiên bẩm về công lý. Vì vì ậy tôi mong cô sẽ điều tra giúp một vụ án…Tôi vẫn hình dung như ì thấy cô quàng chiếc khăn len hồng đến đánh thức tôi dậy tối hôm đó!». Thư kết thúc bằng một trích d í ẫn từ Sách kinh Amas : Công lý hỡi, hãy ào lên như sóng biển. Và đức hạnh ơi, hãy chảy như dòng thác không ngừng. Thế này, thì kh ì ả năng mình g ì ánh vác sao nổi ? – Cô Marple trầm ngâm suy nghĩ.ĩ Chương I: Cô Marble đọc báo. Cô Jane Marple có thói quen đọc tờ báo thứ hai vào buổi chiều. Mỗi sáng, có hai tờ báo được đưa đến tận nhà. Cô vừa ăn điểm tâm vừa đọc lướt cả trang nhất, cùng một số bài khác rải rác trong tờ báo mà cô tạm mệnh danh là tờ Macédoine hàng ngày, ám chỉ mỉ ột cách mỉa mai t ỉ ờ Tin tức hàng ngày, gần đây do đổi chủ, chuyển sang đưa nhiều thông tin nhạt nhẽo về thời trang và những chuyện tâm tình v ì ụn vặt của phụ nữ, khiến cô và nhiều bà bạn của cô rất bất bình. Th ì ành ra, trừ trang nhất, nhiều tin đáng chú ý lại bị nh ị ét xuống những chỗ rất khó tìm. C ì ô Marple, vốn thuộc lớp người của thế hệ cũ, vẫn muốn báo chí ph í ải thật sự là những cơ quan thông tin đứng đắn. Buổi chiều, sau khi đã ăn trưa và ngủ một giấc chừng hai mươi phút, cô mở tờ Thời Báo, tờ này dù sao cũng còn đứng đắn mặc dù đã bắt đầu chuyển biến theo thời đại. Một phóng sự về du lịch ị ở Capri kèm nhiều ảnh chiếm hết cả hai trang. Thể thao được thông tin nhiều hơn hẳn trước đây. Các tin tòa án, tai nạn được giữ như cũ. Các thông báo về sinh con, hôn nhân và cáo phó - mục này cô Marple rất quan tâm – nay được chuyển xuống trang cuối. Trước hết cô Marple đọc những tin tức chính ch í ạy dài trên trang nhất, nhưng không quá coi trọng, vì chì úng gần giống những gì đì ã đọc ở tờ báo thứ nhất. Rồi cô lật sang trang cuối, liếc mắt qua mục sinh nở, hôn nhân và cáo phó. Cô bỏ qua mục sinh nở. Ở tuổi cô, cô chẳng còn quen ai ở tuổi này. Cũng không quan tâm nhiều mục hôn nhân, phần lớn con trai, con gái các bà đều đã thành gia thất từ lâu. Ngược lại, mục cáo phó được cô chú ý hơn cả. Alloway, Arden, Barton, Bedshaw, Carpentar, Clegg… Clegg? Cô có quen ai tên ấy không nhỉ? Kh ỉ ông? McDonald, Nicholson, Ormerod, Quantril …. Trời! Đó là Elisabeth Quantril, tạ thế ở tuổi tám mươi lăm. Cô cứ tưởng bà ta chết từ lâu. Bà ấy vốn ốm yếu, không ai ngờ thọ đến thế. Race, Radley, Rafie …Rafiel? Tên này quen quen. Rafiel, cư trú tại Maidstone, Bedfond Park. Miễn hoa viếng …. Jason Rafiel, một cái tên ítí có, cô có cảm giác đã nghe ở đâu, Ross, Ryland…Không, không quen ai là Ryland Cô đặt tờ báo xưống, vừa lơ đãng nhìn sang m ì ục ô chữ, vừa cố nghĩ xem tại sao cái tên Rafiel có vẻ quen quan. - Rồi sẽ nghĩ rĩ a. Nhất định s ị ẽ nhớ ra – cô lẩn bẩm, vì đì ã kinh nghiệm về trí nh í ớ những người cao tuổi. Cô quay đầu nhìn r ì a cửa sổ, mở ra ngoài vườn. Nhiều nam nay khu vườn này là niềm vui của cô, cô đã mất nhiều công chăm sóc. Song, ngày nay, do những ông bác sĩ cĩ ứ hay lắm chuyện, cô đã bị cị ấm không được làm vườn. Một lần cô đã thử phớt lờ lệnh cấm đó, song hiểu ngay rằng tốt nhất là nên tuân thủ lời khuyên của thầy thuốc. Thôi không nhìn ng ì ắm khu vườn nữa, cô thở dài, đưa tay với lấy cái túi đựng đồ đan, rút ra một chiếc áo trẻ con, mặt trước mặt sau đều đã xong, nay phải đan nốt hai tay. Len thuộc loại tốt. Màu hồng. Ồ, nó làm cô nhớ lại điều gì ? Ph ì ải rồi ! Cái tên cô vừa đọc trên báo ? Len hồng. Biển xanh : biển Caribê. Một bãi cát mịn. M ị ặt trời chói chang. Và ông Rafiel ! Cô nhớ lại chuyến du lịch đi đ ị ảo Saint Honoré. Chính đ í ứa cháu trai Raymond của cô đã đặt và tặng cô chuyến du lịch n ị ày. Trước khi đi, cô còn nhớ con bé Joan - vợ của Raymond - dặn dò cẩn thận : - Cô Jane ơi, cô không được dính d í áng vào một vụ án nào nữa nhé. Thực ra, nào cô có muốn cố tình d ì ính v í ào vụ án nào, mà là như có sự run rủi, thế thôi. Đơn giản là tại cái ông thiếu tá già cứ nhất định k ị ể cho cô nghe lắm thứ chuyện chán ngắt. Tội nghiệp, ông thiếu tá ! Tên là gì nhỉ ? Qu ỉ ên rồi. Nhưng còn ông Rafiel thì cì ô nhớ, ông Rafiel với cô thư ký tên là ... là Walters - phải đúng rồi: Esther Walters, và anh hầu phòng nữa. Dần dà ký ức trở lại. Thế là ông Rafiel đã mất. Ông cũng đã nói với cô là ông không còn sống được bao lâu nữa - Vậy mà ông có vẻ trụ lại lâu hơn dự đoán của bác sĩ. ĩÔng có một ý chí thí ép. Và một gia sản kếch sù. Cô Marple tiếp tục đan như máy, nhưng đầu óc ở tận đâu đâu. Cô nghĩ đến ông Rafiel quá cố. Quả là một người không dể gì qu ì ên. Tính c í ách mạnh mẽ, cá tánh khó chịu, đ ị ôi khi thô lỗ ra mặt. Tuy nhiên, không ai để tâm, vì ông rất giàu. Tháp tùng ông bao giờ cũng có ba thư ký, ngoài ra còn một ông hầu, thực ra là chuyên gia xoa bóp có bằng cấp. Cô Marple nhớ anh hầu này là một nhân vật khá đáng nghi ngờ, bị ông Rafiel đối xử có khi rất gay gắt. Nhưng hắn chẳng tỏ vẻ quan tâm, cũng chỉ vỉ ì ông chủ là người giàu có. Một hôm, ông Rafiel nói: - Không ai khác chịu tr ị ả cho hắn nửa số lương mà tôi vẫn trả, hắn thừa biết điều đó. Cô Marple tự hỏi liệu Johnson - tên hắn như vậy, hay Jackson?- có ở lại phục vụ ông Rafiel đến ngày cuối cùng - có nghĩa l ĩ à trong một năm và ba hoặc bốn tháng. Chưa chắc . Nhà tỷ phú Rafiel thích s í ự thay đổi. Ông chóng chán những kẻ thường quanh quẩn bên ông, chán những thói quen, bộ mặt và giọng nóicủa họ. Cô Marple hiểu khá rõ tâm lý này, vì chính n í ó từng cảm như thế với người giúp việc cũ của mình. ì Trời! Mà cô cũng quên mất tên con bé ấy rồi. Bishop chăng? Không, không phải. Tại sao cô lại chợt nghĩ tĩ ên là Bishop? Ý nghĩ cĩ ô quay về với ông Rafiel và với ... Không, không phải Johnson, mà là Jackson, Arthur Jackson. - Trời, ta luôn luôn lẫn lộn các tên người. Tên con bé là Knight, đúng rồi, không phải Bishop. Tại sao mình l ì ại tưởng thế nhỉ?ỉ Cô tự giải đáp lý do: tại cái bàn cờ (1) - Lần sau không khéo mình l ì ại tưởng nó tên là Castle hoặc Rook! Mìnhì không rõ Esther Walters, bà thư ký dễ thương của ông Rafiel, sau ra sao, bà có được thừa kế chút tài sản nào của chủ hay không? Vì cì ô Marple nhớ, có lần ông Rafiel đã nói về khả năng ấy. Hoặc là chính Esther W í alters nói ra. Khó mà nhớ lại mọi việc thật chính x í ác! Người phụ nữ trẻ này đã rất đau khổ về cái vụ ở Caribê ấy. Bà ta hoá ra góa bụa, và cô Marple thành tâm mong bà sẽ đi bước nữa với một chàng trai tử tế, đáng tin cậy. Tuy nhiên, điều đó hơi khó xảy ra, vì ba ta c ì ó cái rủi là luôn chọn phải người không thích h í ợp. Miễn hoa viếng, ông Rafiel đã ghi chú vậy. Tất nhiên, cô Marple không nghĩ tĩ ới việc gửi hoa đến tang lễ. Ông ta có thể, nếu muốn, mua tất cả các vườn hoa trên khắp nước Anh. Vả lại, bà không phải là người quen thân với ông. Hai người chỉ lỉ à- nói thế nào nhỉ? - đ ỉ ồng minh với nhau. Phải, đồng minh trong một thời gian rất ngắn. Một thời gian cực kỳ lý thú. Và ông đã là một đồng minh quý giá. Cô đã nhận ngay ra điều ấy khi đến tìm ì ông trong cái đêm nhiệt đới đó. Tối ấy cô đã quân quanh cổ một chiếc khăn quàng bằng len màu hồng. Và ông cười khi trông thấy cô. Song đến cuối cuộc hội ý, ông không cười nữa, đã làm đúng như lời cô yêu cầu và ... Cô Marple lại thốt một tiếng thở dài nữa. Cô phải công nhận tất cả chuyện ấy rất lý thú, theo một ý công nhận tất cả chuyện ấy rất lý thú, theo một ý nghĩa n ĩ ào đó. Nhưng cô không hề kể lại với cậu cháu, nhất là với vợ của nó là Joan, vì cì ô đã không làm đúng lời dặn dò của nó. - Ông Rafie tội nghiệp! Mong là ông không phải chịu đau đ ị ớn nhiều - cô Marple gật gù, lẩm bẩm. Hẳn là ông đã được nhiều thầy thuốc giỏi điều trị, hị ọ làm giảm nỗi đau cho ông lúc lâm chung. Song trong mấy tuần lễ ấy ở Caribê, ông cực kỳ đau đớn. Một con người dũng cảm, và cô tiếc là người như thế mà phải chết. Tuy nhiên trong làm ăn, thì cì ô không rõ ông là người thế nào. Tàn nhẫn , không thương tiếc, chắc vậy. Hung hăng và áp đặt. Nhưng nếu là bạn của ai thì lì à một người bạn chắc chắn. Và cô tin là trong ông có một sự tốt bụng mà ông cố không để lộ ra. Và bây giờ, ông đã vĩnhĩ viễn ra đi. Cô không biết đến cả là ông có vợ con gì chưa. ì g g ợ g Cả buổi chiều hôm ấy, cô Marple cứ ngồi ngẫm nghĩ mĩ ãi về ông Rafie. Sau khi trở về Anh, cô không hy vọng gặp lại ông, và thực tế đã không gặp. Tuy nhiên, lạ thay, cô có cảm giác như vẫn có liên hệ với ông. Hìnhì như giữa hai người có mối liên quan gì đì ó, nẩy sinh từ chỗ cả hai đã cùng nhau cứu sống một người. Cô Marple bỗng thấy kinh hãi vì mì ột ý nghĩ vĩ ừa thoáng qua đầu óc. Cô lẩm bẩm: - Hay là, mình c ì ũng tàn nhẫn? Phải chăng đó là mối dây liên hệ giữa hai người? Mình chưa bao gi ì ờ nghĩ đi ĩ ều đó, nhưng có lẽ mình c ì ó thể như thế lắm, trong những hoàn cảnh nào đó. Cửa mở. Một cái đầu tóc xoăn màu nâu ló vào. Đó là Cherry, cô người ở thế chỗ cô Knight. - Cô bảo gì ạ? - Ta nói một mình. T ì a tự hỏi có khi nào ta độc ác, tàn nhẫn hay không? - Cô ấy ạ? Làm gì cì ó. Cô là người tốt nhất đời. - Ấy vậy mà ta nghĩ cĩ ũng có lúc ác độc đấy. Cô gái cau mày, nghĩ mĩ ột lát: - Vâng, trông cô đang đan lát thế này, ai cũng nghĩ cĩ ô hiền như cừu. Nhưng khi cần, cô cũng dữ như sư tử, như cái hôm cô bắt gặp cậu Gaby Hopkins đang hành hạ con mèo. Cũng chiều hôm ấy, trong lúc thong thả đi dạo trong vườn, cô Marple vẫn còn suy nghĩ. Nh ĩ ìn th ì ấy một cây hoa mõm sói, cô bỗng nhớ là đã nhiều lần nhắc George - anh làm vườn - rằng cô chỉ ưa tr ỉ ồng loại mõm sói màu diêm sinh, chứ không phải loại tím ng í ắt như thế này. - Vàng diêm sinh, cô nói to. Từ ngoài phố bên kia hàng rào, có người quay đầu lại: - Xin lỗi, bà nói gì cơ ì ạ? - À không, tôi nói một mình , c ì ô Marple nhìn r ì a ngoài hàng rào đáp; Cô biết hầu hết những người ở Sainte - Marie - Meal này, ít nh í ất là biết mặt. Nhưng bà khách này thì cì ô chưa hề gặp bao giờ, một phụ nữ thấp đậm, mặc vảy vải tuýt thô, áo thun màu lá mạ và quàng khăn len. - Ở tuổi tôi, bây giờ hay lẩm cẩm thế - cô nói thêm: - Cái vườn của bà đẹp quá - người khách lạ khen. - Lúc này cũng không đẹp lắm đâu. A! Nếu tôi trực tiếp bắt tay vào thì sẽ khác. - Tôi rất thông cảm. Tôi đoán bà phải thuê người làm, mà nhiều khi họ có hiểu quái gì vì ề vườn tược. Cô Marple hơi ngạc nhiên, hỏi: - Bà mời về đây ở? - Vâng, tôi ở nhà bà Hasting. Tôi đã nghe bà ấy nói về bà. Bà là người mà người ta gọi là cô Marple, phải không ạ? - Phải. - Còn tôi là Bartlett. Cô Bartlett. Tôi ở nhà bà Hasting và cũng chăm lo cái vườn cho bà ấy. nếu cô cần làm vài cây giống, tôi sẵn sàng giúp một , hai tiếng. và tôi tin tôi sẽ làm tốt hơn anh làm vườn của bà đấy. Điều đó không khó. Tôi thích tr í ồng hoa hơn, không nghĩ đĩ ến trồng rau - cô Marple nói: - Vườn bà Hasting cũng có một ít hoa. Nhưng th í ôi, xin phép cô, tôi phải đi đây. Mặt bà khách nhìn ch ì ằm chằm cô Marple như muốn ghi nhớ thật kỹ vào trí óc, bà ta ra hiệu chào thân mật rồi bước đi chậm rãi. Bà Hasting? Cô Marple không thể nhớ bà là ai. Chắc là một trong số những người năm ngoái mới dọn đến ở mấy ngôi nhà mới phố Gibraltar. Cô liếc nhìn mì ấy cây mõm sói một cách buồn bã, thấy một số nhánh cỏ dại đang lan nhanh. Cô muốn chạy ra nhổ chúng đi, song lại thôi và đi trở vào nhà. Tâm trí cí ô lại trở về ông Rafiel. Ông và cô đã từng cùng nhau... Tên cuốn sách người ta hay nói đến hồi cô còn trẻ là gì ấy nhỉ? Nh ỉ ững con tầu lướt trong đêm . .... Cũng trong đêm, cô đã đến yêu cầu ông giúp đỡ, nói rõ là thời gian rất gấp. Ông đã nhận lời và hành động ngay. Ông Rafiel tội nghiệp! Người ta đã quen với cái thói cộc cằn của ông, nên ông không cần tỏ ra hiền hậu chăng? Cô Marple gật gù. Ôi dào! Có lẻ nên thôi không nghĩ đĩ ến nữa. Cô chỉ xỉ em lại trên tờ Thời báo có đăng thêm chút tiểu sử nào của người chết không, nhưng hình như kh ì ông có. Ông không phải là nhân vật được nhiều người biết tiếng. Không nổi danh, chỉ gi ỉ àu có. Ông không thuộc hạng công nghiệp lớn, không là nhà tài chính thi í ên tài, cũng không là chủ ngân hàng xuất sắc. Cả đời, ông chỉ lo t ỉ ích c í óp tiền bạc thành một gia sản lớn Chú thící h. 1- Bishop, Knight, Castle, Rook đều là tên những quân cờ trong môn cờ vua. Chương II: Mật mã Nemesis Cô Marple cầm phong thư trong tay, nhìn ng ì ắm một cách lạ lẫm. Phong bì đì óng dấu bưu điện London, địa ch ị ỉ gỉ hi bằng máy chữ? Cô cẩn thận lấy dao rọc phong bì, rì út ra một tờ giấy có tiêu đề của Hãng công chứng Broadribb và Schuster, văn phòng đặt tại khu phố Bloomsbury. Bằng lời lẽ lịch s ị ự, thư mời cô vui lòng có mặt tại văn phòng một ngày nào đó trong tuần sau - tốt nhất là ngày 24 để thảo luận một đề nghị cị ó lợi cho ta. Nếu ngày đó klhông hợp, cô co thể hạn lại ngày khác. Broadribb và Schuster nói rõ họ là luật gia của ngài Rafiel đã quá cố, mà họ tin là cô có quen biết. Cô Marple chau mày nghĩ ng ĩ ợi, cầm lá thư đi xuống dưới nhà, có Cherry đỡ một bên, phòng cô vấp ngã khi xuống cầu thang. - Con hy vọng không phải là tin dữ? Cherry hỏi. Con thấy cô hơi ... xúc động. - Không. Chỉ lỉ à một lá thư hơi bất ngờ của một luật gia London. - Không ai kiện tụng gì cì ô chứ ạ? Cherry luôn có ý nghĩ rĩ ằng luật gia là những người chỉ mang đ ỉ ến rắc rối. - Ồ không! Họ yêu cầu cô tuần sau đến London. - Hay cô được hưởng thừa kế của ai! - Chuyện ấy chắc không có đâu. - Ồ, biết đâu đấy- Cherry đáp, giọng đầy hy vọng. Cô Marple ngồi lại vào ghế bành với bộ đồ đan, đồng thời tính đ í ến khả năng ông Rafiel có thể để lại cho mình c ì ái gì thì ật. Nhưng giả thiết ấy lập tức tỏ ra quá xa vời. Ông Rafiel không phải người hành độngb như thế. Cô không thể rời Sainte -Mariê Meal vào ngày đã định, v ị ì hì ôm đó cô phải dự cuộc họp quan trọng của câu lạc bộ phụ nữ. Vì thì ế, cô viết thư đề nghị ng ị ày khác, và nhận ngay được hồi âm tỏ sự đồng ý. Thư trả lời ký tên J.R. Broadribb, có vẻ như là cổ động chính. í Cô Maeple nghĩ thĩ ầm: có thể ông Rafiel để lại cho mình m ì ột vật kỷ niệm nào đó, ví dí ụ một cuốn sách nói về hoa sẵn có trong tủ sách của ông, mà ông nghĩ cĩ ó thể làm vui lòng một bà cô già vốn thích tr í ồng hoa. Hoặc là một cái châm có đá chạm nổi vốn là di vật từ thời ông bà để lại. Tuy nhiên, cô cảm thấy những ý nghĩ đĩ ó chỉ lỉ à tưởng tượng, vì nì ếu Broadribb và Schuster là những người thực hiện di chúc của ông Rafiel, họ chỉ cỉ ần gửi vật đó qua đường bưu điện là đủ. Chả hơi đâu mất công mời cô lên hội kiến! - Ối dào ! Cô chép miệng , đến thứ ba sau rồi sẽ rõ. * * * Ông Broadribb ngước mắt nhìn đ ì ồng hồ: - Không hiểu bà cô này là người như thế nào? Ông Schuster đáp: - Còn mười lăm phút nữa đến giờ hẹn. Liệu bà ấy có đúng hẹn không? - Chắc đúng giờ. Bà này đã nhiều tuổi, hẳn nghiêm túc hơn các cô nhí nhố thời nay. - Rafiel không nói gì vì ới ông về bà ta à? - Ông ấy tỏ ra hết sức kín đ í áo. - Tôi thấy chuyện này có vẻ lạ. Mà chúng mình ch ì ẳng biết gì hơn. ì - Có thể bà này có chút liên quan nào với Michael, ông Broadribb trầm ngâm. - Sao ? Sau ngần ấy năm trời? Không thể thế. Tại sao ông nẩy ra ý nghĩ ấy? Hay Rafiel có nói ... - Ông Rafiel không nói gì, cì ũng không cho chỉ dỉ ẫn gì thì êm. Ông ấy chỉ yêu cầu tôi làm như thế, như thế ... - Tôi có cảm tưởng ông này càng về già càng kỳ quặt. - Không có chuyện ấy đâu. Về mặt trí lí ực, ông ấy vẫn tráng kiện như xưa. Sức khoẻ yếu, nhưng không ảnh hưởng trí óc. Chỉ tr ỉ ong hai tháng cuối cùng, ông ta còn xoay xỏa thu thêm được hai mươi vạn livrơ. - Ông ta quả có tài - Ông Schuster công nhận một cách thán phục. - Phải, hiếm có người như ông ta. Điện thoại nội bộ reo chuông. Ông Schuster nhấc máy. - Ông Broadribb có thể tiếp cô Jane Marple được không ạ? - Giọng phụ nữ hỏi. Ông Schuster nháy mắt đồng nghiệp, đáp: - Cho mời vào. Thoạt tiên lúc mới bước vào, cô Marple thấy một ông đã đứng tuổi đứng lên tiếp. Ông ta cao và gầy, mặt dài ngoằng. Chắc là ông Broadribb , và cô nghĩ: hĩ ình h ì ài không xứng với tên (1). Cạnh ông là một người trẻ hơn và cũng mập mạp hơn, tóc đen, mát sắc, cằm hai ngấn. - Người cộng sự của tôi,ông Schuster - Broadribb giới thiệu. - Thưa cô Marple, mong rằng cô không mệt khi phải leo thang gác. Ông Schuster đoán bà khách ít nh í ất phải bảy mươi, nếu không là tám mươi tuổi. - Vâng, lên thang gác là thế nào tôi cũng thở. - Trụ sở này đã quá cũ, không có thang máy. Ông Broadribb nói như thanh minh. Chúng tôi làm việc ở đây từ nhiều năm rồi, các tiện nghi không được đầy đủ như khách hàng mong muốn. Cô Marple ngồi vào chiếc ghế ông Brodribb đưa mời, trong khi ông Schuster kín đ í áo đi ra. Cô mặc bộ đồ bằng vải tuyl, đầu đội mũ len. " Đúng là một bà già tỉnh l ỉ ẻ. Không hiểu ông Rafiel quen bà ở đâu?". Viên công chứng nghĩ bĩ ụng, rồi mỉm cư ỉ ời sắp xếp đống giấy trên bàn, nói: - Tôi chắc cô muốn biết ngay lý do của cuộc hội kiến này. Chắc cô đã nghe nói ông Rafiel đã mất. - Vâng, tôi đọc báo. - Hẳn ông ấy là bạn của cô. - Tôi quen ông ấy năm ngoái, ở quần đảo Antilles. - Vâng, tôi nhớ ông Rafiel có ra đó một thời gian để dưỡng bệnh. Thực tình l ì úc ấy sắc ông đã kém lắm rồi. - Đúng vậy. - Cô biết rõ ông ấy? - Thực ra là không. Chúng tôi cùng ở một khách sạn, nên có lúc cũng chuyện trò đôi chút. Trở về Anh, tôi không gặp ông nữa. Tôi sống ẩn dật ở nông thôn, còn ông ấy thì bì ận nhiều công việc? - Vâng, ông ấy làm việc đến ngày cuối cùng. Quả là một người có tài về tài chính. í - Tôi đã nhận ra ông ấy là con người xuất sắc. - Cô có ý niệm gì vì ề cái việc mà tôi có trách nhiệm sắp trình b ì ày. - Tôi không thể hình dung đư ì ợc là việc gì.ì -Ông ấy đánh giá cao về cô. - Nói thế thật là quá nhã ý, nhưng chắc không chính x í ác. - Như cô đã biết, ông ấy chết đi, để lại tài sản rất lớn. Tuy nhiên, các điểu khoản của di chúc lại quá đơn giản, vì ít l í âu trước khi chết, ông đã định đo ị ạt tất cả qua phương thức ủy thác di sản. - Tôi không thạo các vấn đề tài chính, song c í ũng biết đó là cách ngày nay nhiều người thường làm . - Tôi được ủy thác thông báo để cô biết: hiện chúng tôi giữ một số tiền, số tiền đó sẽ thuộc về cô một năm sau, với điều kiện cô chấp nhận đề nghị sị ắp nói sau đây. Viên công chứng lấy trên bàn một phong bì dì ài gắn si, đưa cho cô Marple: - Tốt nhất là cô hãy trực tiếp đọc văn bản này. Xin mời. Cô Marple cầm con dao ông Broadribb đưa, rọc phong bì, rì út ra một lá thư đánh máy. Cô chăm chú đọc, rồi đọc lại lần nữa, ngước mắt nhìnì ông luật gia. - Thư nói không rõ. Liệu có còn phụ lục nào khác nói cụ thể hơn? - Phần tôi, tôi chỉ cỉ ó trách nhiệm trao cô phong bì nì ày và nói giá trị sị ố tiền sẽ tặng. Số tiền sẽ trao cho cô, trừ các khoản thuế thừa kế, sẽ là hai vạn livrơ. Cô Marple sững người vì ng ì ạc nhiên. Quả là cô không thể ngờ điều này. Cô nói: - Đây là một số tiền lớn, và tôi thú thực rất lấy làm lạ. Cô lại dán mắt vào lá thư, đọc lại thứ ba: - Tôi đoán là ông biết nội dụng văn bản này. - Vâng. Chính í ông Rafiel đã đọc cho tôi viết. - Ông ấy không giải thích g í ì thì êm? - Không. - Ít nhất ông cũng phải nhận xét với ông ấy rắng lời lẽ lấy gì lì àm sáng sủa? Ông Broadribb nở một nụ cười: - Cô đoán không sai. Tôi đã nói là với văn bản này, cô sẽ khó hiểu được ý đồ của ông. Song, dù sao cô không nhất thiết phải trả lời ngay. - Vâng, tôi cũng muốn có thì gi ì ờ để thư thả suy nghĩ vi ĩ ệc này. Tôi đã già, và rất có thể không còn sống đủ lâu để mong hưởng số tiền này. Ấy là nói tôi có khả năng để thực hiện tốt nhiệm vụ được trao điều này cũng không chắc. - Dù tuổi nào, cũng không nên coi thường tiền bạc. - Tất nhiên, tôi có thể cúng số tiền đó vào những công việc từ thiện mà tôi quan tâm. Vả lại, ai mà chẳng ấp ủ trong lòng những ước muốn chưa thể thỏa mãn. Hẳn ông Rafiel đã nghĩ mĩ ột người già cả như tôi sẽ rất sung sướng có điều kiện bất ngờ như vậy để thực hiện ước mơ của mình! ì - Đúng vậy. - Thôi , tôi xin mang thư này về để suy nghĩ. Tĩ ừ hồi chia tay ông Rafiel đến nay đã hơn mười lăm tháng, ông ấy lẽ ra phải hiểu rằng thời gian ấy, với tuổi tác, tôi càng suy kém đi, có thể không còn khả năng như trước. Ông ấy đã dại dột trao cho tôi cái trách nhiệm lạ kỳ này. Thiếu gì ngư ì ời đủ tư cách hơn tôi để tiến hành cuộc điều tra loại này. - Cô nghĩ vĩ ậy. Nhưng ông Rafiel, ông lại cứ chọn cô. Xin lỗi vì sì ự tò mò, trước đây cô đã tham gia điều tra hình s ì ự bao giờ chưa? - Đúng ra thì chưa. C ì ó nghĩa l ĩ à tôi chưa bao giờ cộng tác với cảh sát hay với một hãng thám tử tư nào. Chỉ cỉ ó thể nói rằng, trong thời gian ở Antilles, ông Rafiel và tôi bỗng dưng dính d í áng vào một vụ án mạng. Một vụ án khó tin, đầy bí ẩn. - Và hai người đã giải được vụ án? - Không hẳn thế. Ông Rafiel, nhờ tính c í ách mạnh mẽ, và tôi, nhờ ráp nối một số việc có liên quan, đã ngăn được vụ án mạng thứ hai đúng lúc nó sắp xảy ra. Mình t ì ôi thì kh ì ông làm được, vì tì ôi không đủ sức lực, còn ông Rafiel, công cũng không thể can thiệp một mình, v ì ì đang ì ốm yếu. - Cô Marple ; tôi xin được hỏi một câu nữa, nếu cô cho phép. Cái tên Némésis với cô ý nghĩa th ĩ ế nào? - Némésis , cô nhắc lại với một nụ cười thoáng nở trên môi. Phải, tôi đã nói ra tên đó trước mặt ông Rafiel, và ông rất thú vị nh ị ận xét rằng tôi là hiện thân của Némésis(2). Lời giải thích đ í ó hoàn toàn rất bất ngờ với ông Broadribb . Ông nhìnì bà khách, cũng ngạc nhiên như ông Rafiel đã ngạc nhiên cái tối hôm đó trong văn phòng của ông tại đảo Saint - Honoré. Một bà già rất thông minh, dí dí ỏm. Nhưng bà ta mà là .... Nữ thần báo oán? - Cô Marple đứng lên : - Nếu ông tìm th ì ấy hoặc nhận được những chỉ dỉ ẫn khác liên quan đến việc này, xin ông vui lòng báo cho tôi biết. Nhất định ph ị ải có những chỉ dẫn nào khác nữa, chứ chỉ mỉ ột lá thư này, tôi hoàn toàn không hiểu ôngb Rafiel muốn tôi phải làm gì.ì - Thế ra cô cũng không biết gì vì ề gia đình , b ì è bạn của ông. - Không. Tôi đã nói ông chỉ lỉ à người đồng hành với tôi trong một chuyến du lịch. Ch ị úng tôi có quan hệ với nhau qua cái vụ việc bí ẩn ấy ở Antilles, thế thôi. Cô đã ra đến cửa , bỗng quay trở lại: - Ông ấy có một bà thư ký, Esther Walters. Nếu không có gì bì í mí ật, xin hỏi bà ấy có được hưởng năm vạn livrơ của ông ấy không? - Các món quà tặng ông Rafiel để lại sẽ được công bố công khai. Do đó xin trả lời cô là có. Hơn nữa, bà Walters đã tái giá; giờ đây bà ấy là bà Anderson. - Thế thì mì ừng cho bà ấy. Bà ấy góa bụa, có một con gái. Người dễ thương. Là thư ký có năng lực nữa. Và rất hợp với ông Rafiel. Tôi mừng là ông ta đã không quên bà ấy. * * * Ngay tối đó, thoải mái trong chiếc ghế bành có tựa cao, chân duỗi thẳng về phía l í ò sưởi tí tí ách lửa hồng, cô Marple một lần nữa rút lá thư từ trong phong bì:ì Gửi cô Marple. Cư trú tại làng Saint -Marie - Meal Thư này sẽ được ông James Broadribb, công chứng viên của tôi, chuyển tới tay cô sau khi tôi chết. Ông Boadribb là người có trách nhiệm giải quyết về mặt pháp lý các việc liên quan đến đời tư của tôi. Đó là một luật gia trung thực, đáng tin cậy. Như phần lớn người đời, ông ta cũng có tính tò mò. Song lâu nay tôi không thỏa mãn tính tò mò ấy, muốn giữ việc này chỉ giữa riêng tôi với cô. Mật mã của chúng ta là Némésis. Tôi chắc cô chưa quên lần đầu tiên cô thốt cái tên ấy trước mặt tôi trong trường hợp nào. Qua cả cuộc đời hoạt động, tôi hiểu rằng muốn hoàn thành một sứ mệnh nhất định , phải có thiên bẩm. Chỉ kiến thức và kinh nghiệm không thôi chưa đủ. Về phần cô, cô có thiên hướng tự nhiên về công lý, nên cô sớm đoán biết chỗ nào có tội ác. Vì vậy tôi muốn cô sẽ tiến hành điều tra giúp về một vụ án. Tôi đã dành riêng một số tiền, số tiền này sẽ thuộc về cô nếu cô đồng ý nhận việc này, làm cho nó sáng tỏ. Cô có cả một năm trời để hoàn thành trách nhiệm này. Cô không còn trẻ, nhưng vẫn chắc nịch - cho phép tôi dùng từ đó - và tôi nghĩ có thể tin vào số mệnh sẽ giữ cô còn sống lâu dài. Tôi hình dung thấy cô ngồi trong ghế bành, đang đan áo, khăn hay gì đó. Tôi mường tượng thấy cô đúng như tôi nhìn thấy tối hôm đó, đầu quấn khăn len hồng, lúc tôi vừa bị cô đến đánh thức dậy. Nếu cô thích cứ ngồi đan êm ả như thế hơn, xin tùy. Ngược lại, nếu cô muốn phục vụ công lý, tôi hy vọng cô sẽ lưu ý đề nghị của tôi. Công lý hỡi, hãy ào lên như sóng biển. Và Đức hạnh ơi, hãy chảy như dòng thác không ngừng.AMOS (3) Chú thící h: (1) Broadribb : sườn to (2) Trong thần thoại Hy Lạp, Némésis là nữ thần của báo thù và công lý.(3) AMOS: nhà tiên tri thế kỷ thứ 9 trước công nguyên , lên tiếng chống lại những bất công của người đương thời Chương III: Cô Marple ra tay Đọc xong lần thứ ba, cô Marple đặt sang bên, chau mày. Ý nghĩ đĩ ầu tiên trong óc: văn bản này không có một lời chỉ dỉ ẫn nào cụ thể. Rồi ông Boadribb có cho thêm thông tin gì kh ì ác nữa không? Cô cảm thấy điều đó sẽ không có. Như vậy không hợp với kế hoạch của ông Rafiel. Tuy nhiên , ông hy vọng cô sẽ làm cái gì, mì ột khi cô không biết gì hết? Thật bí hi í ểm. Suy nghĩ mĩ ấy phút, cô kết luận ông đã cố tình t ì ạo ra bí ẩn. Cô nhớ lại thời gian ngắn ngủi hai người quen biết nhau. Ông bệnh tật, khó tính, í hay nói kháy, đôi khi dí dí ỏm. Hình như ì ông thích tr í êu chọc người khác. Và ông cố tình mu ì ốn đánh lạc hướng sự tò mò của ông Boadribb. Trong thư, không có lời nào nói rõ cô phải điều tra cái gì. Rì õ ràng là ông cố tình mu ì ốn thế. Tuy nhiên, cô không thể làm như người mù sờ soạng trong đêm. Cứ như ô chữ không có định ng ị hĩa. ĩ Ít nhất phải biết cô cần đi đâu, bắt đầu bằng cái gì. ì Ông Rafiel muốn cô đáp máy bay hay tàu thủy đi Antilles, đi Nam Mỹ hay một nơi xa xôi nào khác? Hay chỉ ng ỉ ồi yên trong ghế bành, vừa đan vừa giải lời đó? Hay ông cho là cô đủ thông minh khôn khéo để tự giải mã mọi thứ? Không, không thể thế. - Chắc chắn mình s ì ẽ nhận được thêm thông tin. Nhưng bao giờ? Chỉ đỉ ến lúc này cô mới chợt nhớ ra là mình đ ì ã mặc nhiên chấp nhận nhiệm vụ. Cô nói to một mình: ì - Tôi tin vào cuộc sống vĩnh c ĩ ửu. Ông Rafiel không rõ giờ này ông ở đâu, nhưng tôi tin rằng ông lởn vởn đau đây. Và tôi sẽ cố gắng hết sức để làm theo ý muốn của ông * * * Ba ngày sau, cô Marple viết thư cho ông Broadribb. Ông Broadribb thân mến. Tôi đã nghiên cứu kỹ đề nghị mị à ông chuyển cho tôi, và tôi lấy làm vui báo tin là tôi quyết định nh ị ận cái ,hiệm vụ mà ông Rafiel quá cố muốn trao cho tôi. Dù không chắc có thành công hay không, tôi sẽ cố gắng hết sức dể hoàn thành. Nếu ông còn giữ chỉ dỉ ẫn nào khác, xin ông vui lòng thông báo, tôi sẽ rất biết ơn. Nhưng vì thì ấy ông không thông báo gì , t ì ôi nghĩ lĩ à ông không còn giữ thông tin nào nữa. Tôi xin được hỏi liệu ông Rafiel có hoàn toàn minh mẫn lúc thở hơi cuối cùng hay không ? Và cũng xin hỏi ông có biết gần đây có vụ án nào mà ông Refiel tỏ ra quan tâm. Trước mặt ông, ông ấy có tỏ ra tức giận hay bất bình v ì ì mì ột sự sai sót nào trong xử án chẳng hạn? Nếu có, xin ông cho tôi biết . Một người thân hay bạn bè của ông là nạn nhân của một sự bất công nổi bật hay một âm mưu bất chính n í ào? Tôi chắc ông thông cảm tại sao tôi hỏi những điều đó, và ông Rafiel hẳn cũng muốn tôi bắt đầu bằng cách đó. * * * Ông Broadribb đưa lá thư cho người cộng sự, ông này đang ngả người trên chiếc ghế bành, húyt một tiếng sáo nhỏ. -Vậy là bà ta sẵn sàng chấp nhận thách thức! Không hiểu bà ấy có biết chút gì vì ề vụ việc này? - Có vẻ như không. - Cái ông Rafiel này, quả là một tay kỳ lạ. - Tất nhiên là thế rồi. - Tôi không hiểu tí gí ì vì ề ý đồ của ông ta. Còn ông? - Cũng không hơn. Và tôi cho là ông ấy cố tình gi ì ấu, không cho chúng ta biết. - Chỉ lỉ àm phức tạp thêm vấn đề. Và tôi tin là một bà già từ chốn khỉ ho ỉ cò gáy nào chui ra làm sao hiểu đúng được ý nghĩ cĩ ủa người chết, biết được ông ta suy tính g í ì tr ì ong những ngày cuối của cuộc đời. Có khi ông ta định tr ị êu người, cho bà ta một quả lừa cũng nên! Có thể, thâý bà ta hơi quá tự phụ, tự cho mình gi ì ải được mọi bài toán hóc búa; nên ông muốn cho bà ta một bài học ... - Không, tôi không tin. Broadribb dứt khoát. Rafiel không phải người như thế. Không, ông ta nói nghiêm chỉnh, c ỉ ó điều gì lì àm ông băn khoăn. Chắc chắn là thế. - Nhưng ông ta không nói gì thì êm với ông nữa? - Không. - Nếu vậy, thì lì àm sao ông ta hy vọng... - Quả thật, không hiểu bà ấy sẽ xoay sở ra sao. - Tôi vẫn cho đây là chuyện huyền hoặc, ông ấy biết thừa bà ta chả có cách gì đi đ ì ến kết quả. - Không bao giờ ông ta lại chơi ác thế. - Thế còn ta, chúng ta làm gì?ì - Không làm gì. Ch ì ờ xem chuyện gì sì ẽ xảy ra, vì nh ì ất định s ị ẽ phải có chuyện gì.ì - Hay là ông còn giữ ở đâu đó một bức thư mật, niêm phong kỹ? - Có, ông Schuster ạ. Ông Rafiel tin tuởng tuyệt đối vào sự kín ti í ếng và lương tâm nghề nghiệp của tôi. Có lá thư đó thật, nhưng nó chỉ đưỉ ợc mở ra trong một số điều kiện nhất định, m ị à đến nay chưa có điều kiện nào như thể xảy ra. Và sẽ không bao giờ xảy ra. * * * Cô Marple vừa đan vừa nghĩ. Đĩ ôi khi cô cũng đi bộ dạo chơi, và thế nào cũng bị Cherry tr ị ách cứ: - Cô không nhớ bác sĩ nĩ ói gì sao? Kh ì ông nên vận động nhiều. - Ta chỉ đi thong th ỉ ả, có mất sức gì đì âu. Chỉ bưỉ ớc chân này tiếp chân kia, và vừa đi vừa suy nghĩ.ĩ - Cô suy nghĩ gĩ ì? Cherry t ì ò mò. - Suy nghĩ gĩ ì, đì ến ta cũng chưa biết. Con hãy vào mang cho ta cái khăn choàng. Gió hơi lạnh. * * * - Em không hiểu cô ấy lo lắng điều gì. Cherry n ì ói . Cô đặt đĩa th ĩ ức ăn trước mặt chồng, nói tiếp: - Thấy cô ấy như thế, em hơi lo. Sau khi nhận được thư, cô ấy như nháo nhác. Theo em, cô đang mưu đồ việc gì.ì Nói rồi, cô cầm chiếc khay, bưng cà phê lên cho chủ. - Cherry này, con có biết một bà tên là Hastings, ở trong một ngôi nhà mới ở phố Gibraltar? Và một bà nào là Bartlêt cũng ờ cùng nhà? - Chắc cô muốn nói cái nhà mới được sửa sang, sơn phết lại ở đầu làng. Họ đều mới đến ở chưa lâu, con không biết tên. Cô cần biết gì thêm? - Hai bà ấy có họ hàng với nhau không? - Con đoán chỉ lỉ à hai bà bạn . - Ta tự hỏi .... Cô Marple nói không hết câu. - Cô tự hòi gì kia ì ạ? - Không. Thôi, dọn bàn đi con. Ta cần viết thư. - Viết cho ai ạ? - Cherry tò mò , săn đón. - Cho em gái của linh mục Prescott. - Là cái ông cha đạo mà cô quen hồi ở Antilles, có phải không ạ? Cô đã chỉ cho con x ỉ em ảnh trong an- bom ( album). - Đúng thế. Cô Marple ngồi vao bàn và viết. Cô Prescott thân mến. Hy vọng là cô chưa quên tôi. Chúng ta đã gặp nhau ở Antilles, cả ông anh của cô nữa. Mong rằng ông anh của cô vẫn khoẻ, mùa đông vừa rồikhông quá khổ sở vì cì ăn bện hen suyển. Tôi viết thư này để, nếu có thể, cô cho xin địa ch ị ỉ cỉ ủa bà Walters Esther . Walters mà chắc cô còn nhớ. Bà ấy là thư ký của ông Rafiel. Địaị chỉ đỉ ó, tôi đã có, song khốn thay, lại để lạc đâu mất . Hồi đó , bà ấy có hỏi tôi cách trông và chăm sóc một số loại hoa lúc đó tôi chưa trả lời được. Nay muốn viết cho bà ấy về vấn đề này. Tình c ì ờ tôi mới biết là bà ấy vừa tái giá , nhưng người cho tôi biết tin ấy cũng không chắc chắn. Có thể cô biết tin gì hon ch ì ăng. Hy vọng không làm phiền cô quá nhiều. Xin gửi lời hỏi thăm ông anh của cô và chúc cô nhiều may mắn. Thân ái Jane MARPLE Sau khi gửi thư, cô Marple cảm thây thư thái hơn. - Thế là, mình đ ì ã bắt đầu hành động. Không hy vọng gì nhi ì ều ở bức thư này, nhưng biết đâu ... Cô Prescott trả lời gần như tức thì, kì èm địa ch ị ỉ yỉ êu cầu. Kính g í ửi cô Marple. Tôi không có tin tức trực tiếp từ Esther Walters. Song cũng như cô, qua một người bạn, tôi biết bà ấy đã tái giá. Bây giờ là bà Andreson, cư trú ở Winslow Lodge, gần Alton, vùng Hampshire. Anh tôi gửi lời hỏi thăm cô. Tiếc rằng chúng tôi ở miền Bắc, còn cô ở tận miền nam nước Anh. Tuy nhiên, hy vọng sẽ có dịp g ị ặp lại. Kính ch í ào Joan PRESCOTT - Winslow Lodge - cô Marple vừa lẩm bẩm vừa ghi địa ch ị ỉ vỉ ào sổ. Không xa lắm. Từ đây đến đó , ta nên đi cách nào. Có thể thuê taxi . Như thế hơi lãng phí, nhưng n í ếu chuyến đạt kết quả , thì sì ẽ tính v í ào chi phí cần thiết. Và bây giờ, có nên viết thư cho bà ta để báo trước, hay cứ để mặc cho tự nhiên? Có lẽ không nên nói gì thì ì hơn. X ì em ra bà Esther cũng chẳng thắm thiết với mình l ì ắm. Một lần nữa, cô lại chìm v ì ào suy nghĩ. Rĩ ất có thể hồi ở Antilles, nhờ sự can thiệp của cô mà Esther đã thoát khỏi là nạn nhân của một vụ án mạng, nhưng hình như b ì à ta không tin là như thế. - Một phụ nữ dễ thương, cô Marple lẩm bẩm. Thực sự dễ thương. Mình v ì ẫn tin là mình đ ì ã cứu mạng bà ta, nhưng bà không cho là như thế. Chắc bà chẳng ưa gì mì ình, do đ ì ó muốn bà cho ít tin t í ức không phải chuyện dễ. Nhưng mình c ì ứ thử. Còn hơn là ngồi đây chờ * * * - Cô ngủ được không ạ? - Cherry bưng tách trà sáng sớm đặt bên cô Marple, hỏi. - Ta đã mơ một giấc mơ kỳ lạ. - Ác mộng ạ? - Không. Ta nói chuyện với một người, một người không quen lắm. Rồi đến khi ngước mắt lên, mới nhận ra là không phải người ấy, mà là người khác. Thật ... lạ. - Có gì đì âu. - Làm ta nhớ chuyện khác, đúng hơn, nhớ một người ta đã biết trước kia. Con ra nhà Inch gọi cho ta chiếc xe, được không ? Hẹn khoảng mười một giờ rưỡi. Inch gần như là một phần quá khứ của cô Marple. Ông ta mất từ lâu, từng là chủ một tắc xi loại xoàng. Con trai ông, lúc đó đã bốn tư, kế thừa nghề của bố, sửa sang ngôi nhà thành ga ra, sắm được hai xe nhỏ. Đến lượt anh ta chét. Gara có chủ mới, nhưng người già trong làng vẫn gọi đây là nhà Inch. - Cô về London ư? - Không, dọc đường có lẽ ta nghỉ vỉ à ăn ở Haslemere. - Cô đi đâu và định l ị àm gì? - Cherry h ì ỏi dồn, vẻ ngờ vực. - Ta đi tìm g ì ặp một người, nhưng muốn cuộc gặp gỡ này có vẻ tình c ì ờ, con hiểu không? Không dễ dàng, nhưng ta hy vọng sẽ làm được. Mười một giờ ba mươi, tắc xi đã đậu trước cửa , và cô Marple chào Cherry. - Gọi cho cô số này, hỏi xem bà Arderson có nhà không. Nếu bà ấy đi vắng, hỏi xem bao giờ bà về. - Nhưng nếu bà ấy có nhà, và trực tiếp trả lời? - Thì nì ói rằng ông Boadribb cần gặp bà , bà cho biết ngày nào trong tuần sau có thể lên văn phòng ở London. Bà ấy trả lời thì nì ào thì gì hi lại, rồi đặt máy. - Tại sao người gọi là con? - Trí nh í ớ con người là thế đấy, Cherry ạ. Đôi khi người ta nhớ ra một giọng nói không nghe từ một năm, hay hơn. - Nhưng, bà ấy chưa bao giờ nghe giọng nói của con. - Đúng. Vì thì ế nên con gọi tốt hơn. Cherry cầm máy và quay số. Đầu dây đằng kia đáp Anderson đi ra phố mua bán, nhưng sẽ trở về trước giờ ăn trưa và sẽ ở nhà suốt buổi chiều. - Tốt rồi, cô Marple nói. Inch có đây chưa? À! Chào anh Edward. Đó là anh tài xế của ông Arthur, chủ ga -ra hiện nay. Tên đầy đủ là George Edward. - Giờ ta đi nơi này nhé, cô Marple nói. Ta chắc chỉ mỉ ột tiếng là đến. Chương IV: Esther Walters Esther Walters ra khỏi siêu thị, đang đi v ị ề chỗ đậu xe thì bì ỗng vấp phải một bà già tập tễnh đi ngược chiều. Bà xin lỗi, thì bì à cô reo lên: - Trời! Tôi không nhầm chứ: bà Walter! Chắc bà chưa quên tôi. Tôi là Jane Marple. Chúng ta đã gặp nhau ở Saint - Honoré. Cũng đã năm rưỡi nay rồi. - Cô Marple ? Có, có tôi nhớ, nhưng không ngờ cô xuất hiện bất ngờ trước mặt. - Tôi ăn trưa với một số bạn, ở gần đây. Nhưng trên đường về, tôi sẽ trở qua Alton, chiều nay nếu bà có nhà, tôi sẽ rất vui được đến chơi, trò chuyện. Gặp bà ở đây, thật mừng quá! - Tất nhiên là được. Mời bà đến chơi lúc ba giờ chiều, tôi có nhà. * * * Đúng ba giờ rưỡi, cô Marple bấm chuông biệt thư Winslow Lodge. Chính Esther r í a mở cửa, mời cô vào. Cô ngồi xuống chiếc ghế bành do Esther chỉ. Đỉ ến lúc này, mọi việc đã diễn ra đúng như cô mong đợi. Cô nói: - Tôi thực sự vui mừng được ở đây hôm nay. Bà thấy không, sự đời diễn ra thật kỳ lạ. rất mong gặp bạn bè, nhưng thời gian cứ trôi ... Thế rồi đột nhiên ... - Và thế là người ta nói thế giới này bé nhỏ, có phải không? - Vâng, và quả đúng là thế. Thế giới có vẻ mênh mông, và Antilles cách xa nước. Anh biết bao nhiêu! Thế mà, tôi sẽ có thể gặp bà ở bất kỳ đâu: ở London. cửa hiệu Harrods, ở sân ga hay trong xe buýt .. Có vô vàn khả năng. - Vâng, vô vàn. Nhưng tôi không hề nghĩ ta g ĩ ặp nhau ở đây, vì hì ìnhì như bà không ở vùng này. - Vâng, thực ra chỉ cỉ ách đây ham nhăm dặm, ở Saint - Marie - Meal. Nhưng ham nhăm ở nông thôn, lại không có xe riêng. - Trông cô còn rất khoẻ mạnh. - Tôi cũng định n ị ói như thế về bà. Tôi không biết là bà ở Alton. - Tôi chỉ mỉ ới đến ở. Từ khi lấy nhà tôi. - Ồ! Thế mà tôi không biết. hay quá nhỉ! Ng ỉ ày nào tôi cũng đọc tin hôn nhân trên báo, có lẽ tôi đã bỏ sót. - Tôi lấy chồng được năm tháng. Họ chông là Anderson. - Ông nhà ta làm gì?ì - Nhà tôi là kỹ sư. Anh ấy ... Bà Esther hơi ngập ngừng: - .... ít tu í ổi hơn tôi một chút. - Càng tốt! - Cô Marple nói. Càng tốt bà ạ. Thời nay, đàn ông chóng già hơn đà bà. Tôi biết , ngày xưa người ta không nói thế, nhưng đó là sự thật. Họ làm việc nhiều, lo lắng quá nhiều. Thế là, nào huyết áp cao, huyết áp thấp, có khi lại mắc bệnh tim. Họ cũng rất hay bị ung thư ị . Phụ nữ , trái lại, thanh thản hơn. Và tôi cho rằng, chính ch í úng mình m ì ới là phái mạnh. - Cũng có thể, bà Esther mỉm cư ỉ ời đáp. Cô Marple thấy yên tâm . Lần cuối cùng gặp nhau cô có cảm giác bà ta không ưa mình. M ì à lúc ấy có lẽ bà ta ghét mình th ì ật. Nhưng sau đó, hẳn bà đã hiểu, nếu không có cô Marple can thiệp, thì gi ì ờ đây bà đã nằm dưới mộ chí tr í ong nghĩa tr ĩ ang, đâu được hưởng hạnh phúc như thế này. - Bà có cái nhà đẹp quá. Cô nhận xét. - Chúng tôi mới dọn đến đây được bốn tháng. Cô Marsple liếc mắt nhìn mì ột vòng. Đồ đạc, bàn ghế đẹp và vững chãi, đều thuộc loại đắc tiền. Cô dễ dàng đoán được vì đì âu có sự sang trọng này, và trong bụng mừng thầm là ông Rafiel đã không thay đổi ý kiến về khoản tiền để lại cho Esther sau khi chết. Như đọc được ý nghĩ cĩ ủa khách, bà chủ nhà nói: - Tôi chắc cô đã biết tin cái chết của ông Rafiel. - Vâng. Cách đây khoảng một tháng , phải không? Mặc dù biết tìnhì hình s ì ức khoẻ của ông, tin này vẫn làm tôi buồn. Nhiều lần, ông đều ngõ ý là không sống được bao lâu. Ông thật can đảm. - Rất can đảm và rất tốt. Cô biết không, lúc tôi mới vào giúp việc, ông ấy tuyên bố là sẽ trả lương khá, nhưng tôi phải biết dành dụm, vì ngo ì ài lương ra ông không cho gì kh ì ác. Thật vậy, tôi khg hy vọng được hơn tínhí ông ấy đã nói là làm. Thế mà, ông ấy đã thay đổi ý kiến. - Tôi mừng cho bà . Tôi nghĩ lĩ à chắc ông ấy đã ... - Không, ông ấy không nói gì vì ới tôi đâu, nhưng cuối cùng ... - Ông đã để lại cho tôi một số tiền quan trọng, thực ra là sự bất ngờ lớn đối với tôi. Thoạt đầu, tôi không thể tin ... - Hẳn ông thực sự muốn dành bất ngờ cho bà. Thế còn anh hầu, ông có cho gì kh ì ông? - Jakson ấy à? Không. Nhưng hình như su ì ốt một năm cuối cùng, ông đã thưởng hậu hỹ nhiều lần. - Bà có gặp lại anh ta không? - Không. Sau khi về Anh, anh ta không làm với ông Rafiel nữa. Nghe đâu giờ anh làm cho cái ông ....gì gì ì ấy, ở Jersey hoặc Cuernesey. - Tôi rất muốn gặp lại ôn Rafiel, thế mà ông ta mất, nghĩ thĩ ật lạ. Ít lâu sau khi về Anh, tôi mới chợt nhận ra rằng hồi ấy, trong cái lúc khó khăn ấy, hai chúng tôi đã sát cánh bên nhau, rất gần gũi, thế mà tôi chẳng biết mấy gì vì ề ông. Hôm đọc cáo phó trên báo, tôi lại nghĩ đi ĩ ều đó. Muốn biết hơn về ông, ông có con cái không, có họ hàng thân thích kh í ông, ví như í anh chị em h ị ọ, cháu chẳng hạn. Esther hơi cười, nhìn c ì ô Marple, như có vẽ nghĩ:ĩ " Phải rồi, cô thì gì ặp ai cũng muốn phải hiểu cho thật rõ về người ta". Nhưng bà chỉ nỉ ói: - Người ngoài chỉ bi ỉ ết về ông ấy có một điều. - Là ông ấy rất giàu. Đúng thế, phải không nào? Một khi người nào rất giàu, chẳng ai còn nghĩ cĩ ật vấn này nọ. Hình như ì ông ấy không có vợ? Chưa bao giờ tôi thấy ông nói có vợ. - Vợ ông chết vì ung thư ì , lâu rồi. Vả lại bà trẻ hơn ông rất nhiều. - Họ có con không? - Có . Hai gái, một trai. Một cô con gái mất tích t í ừ bé, cô kia lấy chồng ở Mỹ. Tôi có gặp cô ấy một lần, không giống bố tí ní ào. Một phụ nữ trẻ rất điềm đạm, đượm vẻ buồn. Còn đứa con trai, ông Rafiel không bao giờ nhắc đến. Hình như anh ta c ì ó chuyện gì, tai ti ì ếng lắm. - Ôi, chuyện sao buồn! - Phải. Anh ta bỏ ra nước ngoài, không về nữa. - Ông Rafiel hẳn phải đau khổ lắm. - Chuyện ấy, chẳng thể biết. Ông ấy thuộc loại người chấp nhận mọi thứ. Nếu con hư, không còn là niềm vui mà trở thành gánh nặng, ông ấy có đủ tính c í ách mạnh mẽ để gạt vĩnh vi ĩ ễn ra khỏi mọi ý nghĩ.ĩ - Vậy ông ấy không nói ra bao giờ? - Cô thừa biết ông ấy không có thói quen để lộ tình c ì ảm, tâm sự cuộc sống riêng tư. - Đúng, nhưng bà làm thư ký cho ông ấy nhiều năm, tưởng có lúc ông nói chứ. - Không, ông không bao giờ để lộ những lo nghĩ cĩ á nhân. Ông chỉ sỉ ống vì cì ông việc. Ngoài ra, không có gì ông coi là quan trọng. Ông chỉ ng ỉ hĩ đến đầu tư thu lợi nhuận. - Vậy là trước khi chết, ông không có mối lo nghĩ ri ĩ êng tư nào? - Theo tôi biết thì kh ì ông. Cái gì lì àm cô cho rằng ông ấy có lo nghĩ? - ĩ Esther thực thà lộ vẻ ngạc nhiên. - Là tôi hỏi thế thôi, vì con ngư ì ời ta tuổi càng cao càng hay cả nghĩ,ĩ nhất là lại tàn tật, không sống được như bình thư ì ờng. - Tôi hiểu điều cô nói, nhưng với ông Rafiel thì kh ì ông thể. Song tôi đã không làm với ông nữa vài tháng trước khi ông chết, sau khi tôi quen biết chồng tôi bây giờ. - Ông Rafiel chắc phiền lòng vì cì ô không giúp nữa. - Ồ không, Esther nhẹ nhàng đáp. Ông không có thói quen quan tâm chuyện vặt ấy, và đã mượn ngay một thư ký khác. Và nếu cô mới này không vừa ý ông, tôi chắc ông ấy sẽ mời cô ta thôi ngay, sau khi đã biếu một món tiền hậu hỹ, và tìm ngư ì ời khác. Một con người hết sức linh hoạt, thực dụng. Nhưng cũng trầm tĩnh v ĩ à mực thước. - Vâng, tôi cũng nhận thấy thế, tuy có lúc ông ấy cũng hay nổi nóng. - Ồ, ông ấy thích th í ế! Lâu lâu, ông lại muốn bi kịch h ị óa mọi chuyện. - Bi kịch ... c ị ô Marple lặp lại từ này, suy tư. Bà có nghĩ rĩ ằng ông ấy có quan tâm gì đì ạc biệt với ngành tội phạm học? Có lúc tôi đã nghĩ tĩ ới điều này. - Vì nh ì ững gì đì ã xảy ra ở Antilles? Giọng của Esther bỗng trở nên gay gắt, khiến cô Marple ngập ngừng. Tuy nhiên vẫn cứ phải, bằng cách này hay cách khác, cô thu lượm được những thông tin cần thiết. - Cũng không hẳn vì thì ế, cô đáp. Nhưng có thể sau đó ông quan tâm đến khía c í ạnh tâm lý không được tôn trọng lắm. - Vì cì ớ gì ông phải mê say với loại việc ấy? Nhưng ... ta không nói đến cái chuyện kinh khủng ở Saint Honoré ấy nữa. - Tôi đồng ý . Tôi chỉ ng ỉ hĩ đĩ ến một số ý kiến của ông Rafiel, một số biểu hiện là lạ, do đó muốn tìm hi ì ểu xem ông có lý thuyết gì vì ề ... nguyên nhân vụ án. - Ông chỉ quan t ỉ âm đến vấn đề tài chính, Esther nh í ắc lại, giọng dứt khoát. Thủ đoạn khôn khéo của một tên tội phạm có thể khiến ông lưu ý, thế thôi. Bà chủ nhà tiếp tục nhìn b ì à cô bằng con mắt lạnh. - Xin lỗi, cô Marple nói, lẽ ra tôi không nên gợi lại câu chuyện buồn năm trước, may sao giờ đã thuộc về quá khứ. Vả lại, đã đến lúc tôi xin cáo từ để kịp r ị a ga, lên tàu. Cô Marple cầm lấy túi và ô, đứng lên. Cô sắp đi thì Esther n ì ài cô ở lại ít ph í út để uống chén trà. - Thôi, cảm ơn bà. Thật quả không còn thì gi ì ờ. Tôi rất vui được gặp bà, và chúc bà nhiều hạnh phúc. À mà chắc rồi bà trở lại làm việc chứ? - Tôi vẫn biết nhiều phụ nữ vẫn đi làm sau khi lấy chồng, họ sợ ngồi không, không biết làm gì. Nhưng trư ì ờng hợp tôi thì kh ì ác. Nhân có tiền ông Rafiel để lại, tôi muốn chi tiêu nó một cách rất phụ nữ, dù anh ấy có thể cho là hơi ngớ ngẩn. Tôi rất yêu nhà tôi. Yêu, có lẽ chính v í ì anh ì ấy khó tính, m í à tôi lại thích qu í ản lý anh ấy. - Quản lý? - Có thể từ ấy không hoàn toàn chính x í ác. Nhưng tôi có ảnh hưởng tới anh ấy nhiều hơn anh ấy tưởng. Cô Marple từ biệt rồi nhanh nhẹn đi ra phố. Cô còn quay lại hiệu chào Esther. Bà này vui vẻ vẫy tay đáp lại. - Trước đây mình tư ì ởng bà ấy có liên quan đến công việc của mình, ì hoặc ít nh í ất cũng biết một điều gì, cì ô nghĩ bĩ ụng. Hóa ra mình ng ì hĩ lĩ ầm. Không, bà ta không dính d í áng gì. Bì ây giờ biết làm sao? Cố gắng hình dung tr ì ong trí nh í ớ khuôn mặt ông Rafiel lúc ông mặc đồ bằng vải téc-gan ngồi trong vườn khách sạn. Trong đầu ông nghĩ gĩ ì khi ì hình th ì ành cái ý đồ kỳ dị nị ày, và tại sao lại chọn chính c í ô làm người thực hiện! Ký ức cô trở lại với sự việc đã diễn ra ở Saint Honoré . Hay là vấn đề đang làm bận tâm ông Rafiel ít l í âu trước khi chết, đã gợi ông nhớ đến việc xảy ra ở Antilles. Vấn đề ấy có liên quan gì đì ến một người nào lúc ấy có mặt ở đó? Một người đã tham gia phần tích c í ực vào vụ việc, hoặc đã là nhân chứng? Có phải vì thì ế mà ông Rafiel bỗng nhớ tới cô Marple? Nhưng cô thì gi ì úp được gì? Tì uổi cao, sức yếu, trí óc lại không còn nhạy bén như xưa. Xem nào, vậy cô có quyền nghĩ rĩ ằng ông Rafiel định chơi ị một trò đùa nào đó chăng? - Không, vì ông không còn ở trên đời này để hưởng sự thích th í ú của trò đùa. Nhất định ị ông ấy đã thấy ở mình m ì ột năng khiếu , tài năng nào đó. Mình th ì ì cì ó tài gì nh ì ỉ?ỉ Cô Marple đặt câu hỏi khiêm nhường như vậy. Cô còn tự đặt nhiều câu hỏi khác. Với loại việc này, tốt nhất là nên thuê thám tử tư, chứ sao lại nhờ một bà già bình thư ì ờng như ta. Ờ, mà có lẽ người như ta lại dễ ngụy trang, không ai biết. Ta là một mụ già hay chuyện trò, xục xạo ... Một lần nữa cô Marple nhớ lại thời gian ở Caribe, tại khách sạn Cành Cọ Vàng. Khi đến gặp Esther Walters, cô đã thử tìm x ì em có mối liên quan nào, nhưng không đạt kết quả. - Trời hỡi! Cô thốt lên. Ông Rafiel, sao ông trớ trên vậy? Tối hôm đó, lúc lên giướng nằm, một lần nữa cô thở dài và nói to như để thanh minh với người nào đó hiện hữu trong phòng: - Ta đã làm hết sức. Cô tưởng như ông Rafiel có thể đang có mặt đâu đây và sắp liên hệ với cô qua đường thần giao cách cảm. Trường hợp ấy, cô sẽ nói thẳng: - Tôi đã làm hết sức rồi, thôi bây giờ tùy ông đấy. Cô nằm cuộn tròn trên giường, đưa tay tắt đèn và ngủ thiếp đi. Chương V: Chỉ thị từ cõi âm Ba ngày hôm sau, cô Marple nhận được một thông điệp quan trọng. Cô hoay quay ngược quay xuôi chiếc phong bì tr ì ong tay trước khi mở ra. Lại một thư đánh máy. Cô Marple thân mến, Lúc cô đọc thư này, tôi đã chết, đã được chôn cất. Chôn, chứ không đốt thành tro, cô chú ý nhé. Tôi không thể tưởng tượng ai có thế chui ra từ một lọ đống đầy tro để hiện lên gặp người nào mình mu ì ốn, nhưng đội mồ chui lên thì tì ôi cho là hoàn toàn có thể. Tôi có định l ị àm thế không? Rất có thể. Thậm chí tí ôi đang muốn liên lạc với cô đây. Công chứng viên của tôi chắc đã tiếp xúc với cô và đưa ra đề nghị : đ ị ề nghị đị ó, hy vọng cô đã chấp nhận ... Trường hợp ngược lại cũng không sao, cô không phải áy náy gì, vì ì cì ô hoàn toàn có quyền từ chối. Nếu các luật gia của tôi đã nghiêm chỉnh ch ỉ ấp hành chỉ thỉ ị, vị à nếu bưu điện vẫn làm việc tốt như ta chờ đợi, thì thư n ì ày đến tay cô vào ngày 11 trong tháng. Hai ngày nữa, cô sẽ nhận được thông báo của một công ty du lịch London. Hy v ị ọng những gì cì ông ty đó đề xuất với cô sẽ không làm cô buồn lòng. Lúc này tôi không nói gì hơn n ì ữa, vì mu ì ốn để óc cô tự do. Hãy thận trọng, và cầu mong thần hộ mệnh che chở cô. Điều ấy có thể cần thiết đấy. Thân ái J.B. RAFIEL * * * Kính g í ửi cô Jane Marple Theo chỉ thỉ ị cị ủa ông Rafiel, chúng tôi hân hạnh gửi tới quý cô chương trình chi ti ì ết một chuyến du lịch mang t ị ên Lau đài và vườn cảnh nổi tiếng Anh Quốc, khởi hành từ London ngày 17, thứ năm sau. Nếu cô vui lòng đến văn phòng chúng tôi ở phố Berkeley, bà Sanbourne- người phụ trách chuyến đi - sẽ cung cấp thêm những chi tiết khác, và sẵn sàng trả lời những câu hỏi. Chuyến du lịch n ị ày sẽ rất bổ ích v í ới cô, vì sì ẽ đi thăm một phần nước Anh mà, theo ông Rafiel, cô chưa đặt chân tới bao giờ. Mọi sự sắp xếp đã được tiến hành để khách hưởng tiện nghi sang trọng tối đa. Xin cô vui lòng cho biết ngày nào cô có thể có mặt tại văn phòng để chúng tôi được hân hạnh nghênh tiếp. * * * Cô Marple thuê một phòng khách sạn vừa phải, rồi đến giờ hẹn, tới phố Berkeley. Bà Sanbourne, một phụ nữ khoảng băm nhăm tuổi, dể thương tiếp cô và xác nhận là bà ta trực tiếp phụ trách chuyến đi này. Cô Marple hỏi: - Trường hợp của tôi, liệu có thể hiểu rằng chuyến du lịch n ị ày ... Cô ngập ngừng, cảm thấy khó nói. - Lẽ ra chúng tôi phải nói rõ hơn trong thư. Ông Rafiel đã chịu mị ọi kinh phí.í - Nhưng chắc bà biết là ông ấy đã chết? - Không. Nhưng mọi việc đã thanh toán trước khi ông chết. Ông ấy nói rõ là sức khoẻ không tốt và muốn tặng chuyến đi này cho một bà bạn thân. * * * Hai hôm sau, cô Marple ngồi trên một chiếc xe ca sang trọng, xem kỹ danh sách các hành khách được đính k í èm một cuốn sách đẹp giới thiệu chi tiết cuộc hành trình, đ ì ịa đi ị ểm nào sẽ thăm, khách sạn nào sẽ ở. Đồng thời, cô kín đ í áo liếc nhìn c ì ác bạn đồng hành. Bà Riseley - Porter Cô Joanna Crawford Đại tá Walker và vợ Ông và bà H.T Butler Cô Elizebett Temple Giáo sư Wanstead Ông Richard Jameson Cô Lumley Cô Bentham Ông Caspar Cô Cooke Cô Barrow Ông Emlyn Price Cô Jane Marple Có bốn bà cao tuổi, trong đó có hai bà đi cùng với nhau. Hai bà này cũng đến bảy chục tuổi, và một người thuộc cái loại luôn luôn thắc mắc, đòi hỏi, khi được xếp ngồi phía trư í ớc xe đòi ngồi phía sau, ho í ặc ngược lại, khi đi ngoài nắng thì kì êu chỉ đi đư ỉ ợc trong bóng mát, và khi ở chỗ mát thì đì òi ra ngoài nắng. Họ mang đủ một lô chăn và khăn len riêng, cùng cả một đóng sách chỉ dỉ ẫn du lịch. ị Cô Marple tự nhủ: Ông Rafiel đã muốn cô tham gia chuyến du lịch n ị ày, tất trong số hành khách phải còn ít nh í ất một người đáng quan tâm. Đó có thể chỉ lỉ à một người có khả năng cung cấp một số thông tin, song cũng có thể là một tên hung thủ từng giết người, và biết đâu lại không sắp tái phạm. Mọi thứ đều có thể. Vậy cô cần chăm chú quan sát tất cả mọi người. Hai bà cao tuổi còn lại có vẻ đi riêng rẽ. Họ cũng đều vào cỡ lục tuần. Một bà trông còn khá đỏm dáng. Trang phục đẹp, chắc thuộc loại thượng lưu. Giọng bà khoẻ và cương quyết, và có một cô cháu gái mười tám; mười chín tu í ổi cùng đi, cô này gọi bà là dì Gì éraldine. Cô Marple nhận thấy cô cháu này, khá xinh đẹp, đã rất quen cưỡng lại uy thế của bà dì.ì Trước mặt cô Marple, là một ông dáng bệ vệ, vai vuông, dầu to, hàm bạnh, tóc muối tiêu, lông mày rậm luôn luôn động đậy, khi cất tiếng nói cứ ồm ồm như chó sủa. Cạnh ông ta là một người nước ngoài to lớn luôn hoa chân múa tay và cựa quậy trên ghế. Tiếng Anh của ông ta rất kỳ quặc, pha lẫn từ tiếng Pháp và Đức. Cô Marple nghĩ thĩ ầm: đôi lông mày rậm chắc của giáo sư Wanetead, còn người nước ngoài kia là ông Caspar. Ngồi đồi diện hai ông là bà cao tuổi còn lại. Tuy phải quá sáu mươi, dáng bộ bà rất đàng hoàng, giọng nói sang sảng. Cô Marple nghĩ bĩ ụng bà này có cá tính m í ạnh mẻ. Tiếp đó là một cặp vợ chồng người, Mỹ trung niên, bà vợ thì lì ắm lời, ông chồng thì ngoan ngo ì ãn gật đầu. Cặp thứ hai là người Anh. Chồng thoáng nhìn c ì ũng biết là sĩ quan v ĩ ề hưu, do đó cô Marple kết luận là đại tá Walker và vợ. Ngồi sau cô, là một người đàn ông cao, gày, chừng ba mươi tuổi, nói chuyện dùng nhiều từ chuyên môn, vẻ như là kiến trúc sư. Xa hơn một chút, là hai bà trung niên đang chỉ tr ỉ ỏ vào cuốn sách hướng dẫn, nói chuyện với nhau. Một bà tóc nâu, người mảnh; một bà tóc vàng, dáng đậm hơn. Cô Marple thấy khuôn mặt bà thứ hai này quen quen, không nhớ đã gặp ở đâu. Vậy chỉ cỉ òn một người cuối cùng nữa, một thanh niên chừng hai mươi tuổi, ăn mặc đúng như một chàng trai thời nay: quần đen bó sát đùi, ao thun tím c í ổ cao - tóc đen bù xù. Anh ta chăm chú nhìn c ì ô cháu xinh đẹp của bà Géraldine, và cô này chừng như không dửng dưng với cái nhìnì thán phục của chàng trai. Xe dừng lại để ăn trưa trong một nhà hàng bên bờ sông, và buổi chiều, đoàn đi tham quan Blenheim, một lâu đài cổ. Lúc mọi người trở về khách sạn, nơi sẽ nghỉ qua đ ỉ êm, ai nấy đã bắt đầu làm quen với nhau. Cô Marple đã có thể đặt tên cho mỗi khuôn mặt. Cô đã không lầm khi nhận ra giáo sư Wanstead cũng như người ngồi cạnh ông ta, đúng là ông Caspar. Bà dì đì ầy uy quyền là bà Riseley - Porter, cô cháu gái là Joanna Crawford, chàng trai tóc biếng chải là Emlyn Price. Joanna Craword và anh ta có vẻ tìm th ì ấy ở nhau những quan điểm chung về kinh tế, nghệ thuật, chính tr í ị, đị ồng thời coi khinh toàn bộ thế giới còn lại. Hai bà cô già là Lurnley và Bentham, thì tì oàn nói chuyện bệnh tật: thấp khớp, cảm cúm, trao đổi với nhau về chế độ ăn uống, về thầy thuốc, và các chuyến du lịch m ị à hai bà đã từng đi khắp châu Âu. Hai phụ nữ khác cùng đi với nhau là cô Barrow và cô Cooke. Cô Marple vẫn có cảm giác cô sau này trông quen quen, nhưng không tài nào nhớ đã gặp ở đâu. Cũng có thể là cô chỉ tưỉ ởng tượng thế. Tuy nhiên, nhìn như hai b ì à này cố tránh gặp cô. Trong tất cả số người trên, phải có ít nh í ất một người có liên quan đến việc của cô. Buổi tối, trong lúc trao đổi, chuyện trò, cô cố tình n ì ói ra tên ông Rafiel, nhưng không thấy ai có phản ứng gì đì áng kể. Người đàn ông cao, gầy là một nhà kiến trúc tên Richard Jameson, và người phụ nữ sang trọng mà cô đã để ý, là cô Elizabett Temple, nguyên hiệu trưởng, đã về hưu, của một trường nữ trung học có tiếng. Vậy không ai có thể là tội phạm, có lẽ trừ ông Caspar. Song có khi đó chỉ lỉ à thành kiến đối với người nước ngoài. - Có thể ngày mai ta sẽ đạt được tiến bộ hơn, cô Marple nghĩ thĩ ầm, khi lui về phòng ngũ. * * * Đi tham quan, thường lý thú, nhưng cũng mệt mỏi. Tuy nhiên, phải lần lượt quan sát mười lăm người để xem ai có khả năng dính l í íu v í ào tội ác, là việc đau đầu hơn nhiều. Những con người này dường như không thể nghi ngờ. Tuy nhiên, cô Marple vẫn điểm lại danh sách hành khách và đọc lại một số điều ghi chép trong sổ tay. Bà Riselay - Porter? Bà này không thể dính chu í yện giết người. Rất tự mãn, sành sỏi trong giao thiệp. Cô cháu ? Cũng không. Nhưng cô ta có thể biết thông tin có ích. í Cô Elizabett Temple? Một nhân cách thú vị, nhưng kh ị ông gợi cho cô Marple hình ì ảnh mộtb kẻ giết người. Cô nghĩ thĩ ực tế, từ cô này toát ra một vẻ trung thực, liêm khiết toàn vẹn. Nhưng, đây có thể là người mà ông Rafiel, vì mì ột lý do nào đó, muốn ta được gặp. Cô ghi vài nhận xét vào trang sổ bên phải. Rồi cô xem xét vấn đề dưới một góc độ khác. Đến nay, cô toàn nghĩ đĩ ến người có thề là thủ phạm. Tại sao không nghĩ ngư ĩ ời có thể là nạn nhân? Bà Riseley - Porter giàu có, không đưọc quý mến lắm, và cô cháu gái xinh đẹp có thể sẽ là người thừa kế. Cô ta và chàng Emlyn Price vô chính ph í ủ rất có thể đã liên kết với nhau để chống chủ nghĩa tư b ĩ ản. Ý tưởng này khó chấp nhận, nhưng cô thấy không ai khác có triển vọng là nạn nhân. - Giáo sư Wanstead? Một con người hiền hậu, dễ mến. Cô không rõ ông ấy là bác học hay thầy thuốc. Song chắc chắn ông chỉ lo chu ỉ yện khoa học. Ông và bà Butler? Hai người Mỹ có cảm tình, v ì à chắc chắn không biết ai ở Antillers. Không, với cô, cặp vợ chồng này không có liên quan. Richard Jameson? Kiến trúc thì cì ũng chẳng dính g í ì vì ào chuyện này, trừ khi có một xác chết nào giấu trong một lâu đài mà đoàn sẽ đến thăm. Trong trường hợp ấy, với tư cách kiến trúc sư, ông ta có thể giúp tìm r ì a chỗ giấu. - Đúng là mình t ì oàn nghĩ nh ĩ ững chuyện lẩn thẩn - Cô Marple tự nhủ. Cô Cooke và cô Barrow? Chắc chắn cô đã gặp một trong hai người này. Nhưng ở đâu? Đại tá Walker và vợ ? Những con người lịch thi ị ệp, rất dễ bắt chuyện. Cô Bentham và cô Lumley? Hai cô này không thể là tội phạm. Tuy nhiên, vì lì à gái già, họ có thể nghe lắm chuyện và có những thông tin đáng giá. Ông Caspar ? Đây có thể là một nhân vật nguy hiểm. Có vẻ cực kỳ kíchí động. Tạm phải để tên ông ta trong danh sách tình ng ì hi. Emlyn Price? Cậu này là sinh viên, và thời buổi này sinh viên hay có thiên hướng bạo lực. Ông Rafiel muốn cô theo dõi cậu này chăng? Điều này còn tùy thuộc vào việc cậu ta đã làm gì ho ì ạc giở trò gì. Cì ó thể cậu này là một tên vô chính ph í ủ chính c í ống. - Trời ơi, ta nát óc mất. Thôi, đi ngủ thôi. Vừa nằm xuống là cô ngủ ngay, một giấc ngủ đầy mơ hoảng. Cô bỗng thấy đôi lông mày giáo sư Wanstead rơi xuống, vì đì ó là lông mày giả. Cô giật mình t ì ỉnh d ỉ ậy. Lông mày giả, thế là đúng rồi. Tội phạm, chính l í à ông ta. Nhưng cô lại chợt nghĩ: l ĩ ông mày giả cũng chẳng giải quyết được gì!ì Thế là mất ngủ. Cô nhỏm dậy, thù lù trong bộ áo ngủ, ngồi vào ghế, giở sổ ra ghi chép. " Nhiệm vụ của tôi có liên quan đến một vụ giết người. Ông Rafiel đã nói rõ như thế trong thư gửi cho tôi.Nhưng ông ấy chỉ hi ỉ ểu về tôi qua những gì ông biết trong thời gian ở Saint - Honoré. Lúc đó chúng tôi đứng trước một vụ án. Tôi không mấy chú ý đến các vụ án thường đang trên báo, cũng chưa bao giờ đọc sách về tội phạm học. Tôi chỉ thư ỉ ờng hay được tiếp cận với tội ác hơn một số người khác. Cuộc đời hay có những trường hợp thật lạ lùng. Một bà dì cì ủa tôi đã từng bị đị ắm tàu tới năm lần, một bà bạn khác từng gặp bốn tai nạn tắc xi, ba tại nạn xe con và hai tai nạn xe lửa. Những chuyện như thế xảy ra với một số người, không thể giải thích đư í ợc lý do. Tôi rất ngại kê như vậy, nhưng dường như cứ tôi ở đâu thì loanh quanh g ì ần đó đều xảy ra án mạng. " Đến nay, chỉ thỉ ị nh ị ận được hầu như không có, tôi như người mò mẫm trong đêm. Ông Rafiel là một nhà doanh nghiệp có đầu óc rất thực tế mà lại làm thế thì thì ật kỳ lạ. Điều tích c í ực duy nhất, là chuyến đi này, mà ông đã ra chỉ dỉ ẫn cụ thể. Nhưng nhằm mục đích g í ì? Ch ì ỉ cỉ ó thể lý giải là một thành viên của đoàn du lịch c ị ó dính l í íu đ í ến vụ việc mà tôi được giao làm sáng tỏ. Một người nào đó có tin tức, hoặc có biết nạn nhân. Trừ khi đó chính l í à hung thủ". Cô Marple ngừng viết. Cô lộ vẻ hài lòng với bản phân tích t í ình h ì ìnhì của mình, r ì ồi quyết định tr ị ở về giường nằm. Chương VI: Tình yêu Hôm sau, đoàn đi thăm một lâu đài nhỏ từ thời Hoàng Hậu Anne, thế kỷ 18. Nơi ở đẹp, có giá trị lị ịch s ị ự rõ rệt. Richard Jameson ngắm không chán vẻ đẹp của tòa nhà, qua phòng nào cũng dừng lại chỉ cho m ỉ ọi người những chi tiết hoa văn đáng chú ý trên trần hay lò sưởi, kể vanh vách những niên đại, những sự kiện lịchị sử. Ông này thuộc loại thích khoe khoang hi í ểu biết của mình. Đo ì àn viên, lúc đầu có người chăm chú nghe, dần dần bắt đầu sốt ruột, phát ngán vì phải nghe mãi lời độc thoại. Một số lảng ra xa, lùi lại phía sau. Anh í hướng dẫn viên địa phư ị ơng cũng chẳng thích th í ú gì vì ì chì ức trách của mình b ì ị chi ị ếm đoạt, một vài lần định s ị ửa chữa lại tình th ì ế, nhưng Jameson vẫn thao thao. Anh ta liền cố một lần cuối cùng: - Thưa quý bà quý ông, chính tr í ong phòng này, mệnh danh phòng trắng, người ta đã khám phá ra xác một chàng trai bị đị âm chết. Chuyện xảy ra vào năm 1700. Người ta kể phu nhân Moffat có một người tình, ì anh này thường đột nhập vào phòng bằng chiếc cửa nhỏ bên ngoài ngụy trang bằng một mảnh ván di động ở phía tr í ái lò sưởi. Chồng bà ta là Ngài Richard Moffat, có việc di Hòa Lan, một buổi tối bất ngờ trở về và bắt gặp đôi trai gái. Anh hướng dẫn viên ngừng lời, hãnh diện vì cuì ối cùng đã được mọi người lắng nghe. - Henry, anh có thấy là lãng mạn cực kỳ chưa? - Bà Butler cất giọng Mỹ lơ lớ. Trong phòng này đúng là có một không khí đí ặc biệt, em cảm thấy ngay. - Nhà tôi rất nhạy cảm với các bầu không khí - í Ông Butler quay lại giải thích v í ới mọi người. Một lần, chúng tôi ở Louisiane, trong một ngôi nhà rất cổ ... Mọi người ồn ào bàn tán. Tranh thủ lúc đó, cô Marple và hai hoặc ba vị kh ị ách khác lẻn ra khỏi phòng, xuống dưới nhà. Cô nói với hai cô Cooke và Barrow đang đứng bên cạnh: - Một bà bạn của tôi cách đây mấy năm cũng gặp cảnh tương tự: thấy một xác chết trong phòng sách. - Là người trong gia đình? C ì ô Barrwow hỏi. Chắc bị đị ộng kinh? - Không! Án mạng hẳn hoi. Một phụ nữ tóc vàng. Nhưng tóc đã bị phai ị màu, thực ra là tóc nâu! Ôi ! .... Cô Marple ngừng bặt, mắt nhìn d ì án vào bộ tóc cô Cooke. Lời giải loé nhanh như chớp. Cô chợt hiểu ra tại sao mặt cô này quen quen và đã gặp ở đâu. Có điều lúc đó, tóc cô Cooke đen. Bà Riseley - Porter xuống theo sau, vượt lên trước cô Marple. Bà nói: - Tôi chịu, kh ị ông leo lên leo xuống mãi. Với lại, ở lâu trong các phòng ấy ngột ngạt thế nào. Hình như c ì ác vườn quanh lâu đài cũng rát nổi tiếng. Ta ra đấy đi. Mây kéo đến rồi này, khéo không mưa tới nơi. Giọng nói đầy uy quyền của bà Riseley - Porter mang lại ngay hiệu quả : tất cả các khách ở quanh đấy đều theo bà. Riêng cô Marple đến chiếc ghế dài, ngồi xuống thở phào. Cô Temple từ đâu tới, cũng ngồi xuống bên cạnh. Cô này nói: - Đi tham quan bao giờ cũng mệt. Nhất là cứ mỗi phòng lại phải nghe lên lớp về lịch s ị ử. - Đúng thế. Nhưng những điều nghe được không phải không bổ ích. í Cô Temple quay đầu lại phía b í à bạn. Giữa hai người như có một luồng thông cảm vui vẻ. - Cô không thấy thế sao? - Cô Marple hỏi: - Không. Hai người đã có thể hoàn toàn thông cảm. - Vườn này là do Homan thiết kế, năm 1798 hoặc 1800 - cô Temple giải thích. í - Thật là buồn, một người tài giỏi như thế lại chết trẻ. Thấy người nào chết trẻ, tôi rất ngao ngán. - Không hẳn thế đâu, cô ạ - cô Temple đáp, vẻ suy tư. - Người chết trẻ thiệt bao nhiêu thứ! - Hay tránh được bao nhiêu thứ? Tôi đã sống gần cả cuộc đời với lớp trẻ, và tôi coi mỗi cuộc đời là một thời kỳ trọn vẹn tự bản thân nó. T.S.Eliot nói:" Đời một bông hồng và đời một cây tùng dài ngang nhau." - Tôi hiểu nhà thơ muốn nói gì. Đì ời người dù dài ngắn thế nào, cũng là một kinh nghiệm trọn vẹn. Nhưng nếu một cuộc đời bị ph ị ạt ngang, thì có thể nói là trọn vẹn không? - Vâng, đáng suy nghĩ ... ĩ Cô Marple đưa mắt ngắm những bông hoa: - Hoa mẫu đơn kia tuyệt đẹp. Mỏng manh, nhưng kiêu hảnh. - Cô đến đây để xem vườn hay nhà? - Có lẽ nhà nhiều hơn. Tôi rất thích vư í ờn, nhưng những ngôi nhà cổ ở đây với tôi là điều mới , chúng đa dạng vvói bàn ghế, tranh ảnh gợi lên những kỷ niệm lịch s ị ử. Một ông bạn đã tặng tôi chuyến đi này, tôi rất biết ơn. - Người bạn ấy đã quan tâm đến cô một cách cảm động. - Cô có hay đi du lịch th ị ế này không? - Không. Với tôi, đây không hẳn là du lịch. ị Cô Marple nhìn ngư ì ời đồng hành một cách lạ lẫm, mở miệng định n ị ói, nhưng lại thôi, không đặt câu hỏi. Cô Temple mỉm cư ỉ ời, nói: - Chắc cô muốn biết, vậy tại sao tôi đến đây. Cô thử đoán xem nào? Cũng hay đấy. Cô Marple lặng yên lúc lâu, đăm đam nhìn ngư ì ời tiếp chuyện, mãi mới nói: - Tôi biết rồi, cô là người có tiếng tăm, trường của cô cũng có tiếng không kém. Nhưng tôi không căn cứ vào những điều đã biết về cô. Tôi xin đưa ra một giả thuyết, căn cứ vào dáng bộ, thái độ của cô và những gì tì ôi quan sát. Tôi thấy cô như người ... đang làm một cuộc hành hương. Lại im lặng một lúc, rồi cô Temple nói: - Cô đoán đúng. Tôi đang hành hương thật sự. Một lát, cô Marple nói: - Người bạn tặng tôi chuyến đi này, giờ đã mất. Ông ấy tên Rafiel. Cô biết ông ấy không? - Jason Rafiel? Tôi chỉ ng ỉ he tên, chưa gặp bao giờ, ông ấy tài trợ số tiền lớn cho một dự án học đường mà tôi tham gia. Tôi đọc báo, biết ông chết, đã mất mấy tuần ... Vậy ra ông ấy là bạn của cô. - Gọi là bạn, không hẳn đúng. Tôi quen ông từ Antilles, một năm rưỡi trước. Nhưng tôi không biết mấy về ông, ông rất kín đ í áo. Cô có biết gia đình ì ông? Nhiều lúc tôi muốn hiểu ông hơn, nhưng không tiện hỏi, sợ mang tiếng tò mò ... Elizabett Temple giữ im lặng đến một phút. - Tôi biết một em gái, học trò của tôi ở Fallowfield, một thời đã đínhí hôn với con trai ông Rafiel. - Và rồi em đó không lấy? - Không. Có thể em ấy đã quá sáng suốt. Dù sao, cậu con trai ấy không thuộc loại người mà ta muốn thấy kết hôn với một cô gái mà ta yêu quý. Em gái này rất hiền, rất đáng yêu. Nhưng thực ra, tôi cũng không biết vì sao xảy ra tan vở. Không ai nói. Còn em gái, thì đì ã chết. - Chết vì gì ì? Cì ô Marple khẽ hỏi. - Vì tì ình. ì Câu trả lời vắn tắt vang lên như một hồi chuông nguyện. Elizabett Temple lơ đãng nhìn r ì a vườn hoa. - Vì tì ình y ì êu? - Cô Marple hỏi lại. - Tình y ì êu , một trong những từ cay nghiệt nhất trên đời - Cô Temple lặp lại với một giọng đầy ai oán, chua chát. Tình y ì êu .... Chương VII: Lời mời Cô Marple tuyên bố mình hơi m ì ệt nên sẽ không tham gia đi thăm ngôi nhà thờ thến kỷ 14 dự kiến vào buổi chiều. Cô sẽ nghỉ ngơi v ỉ à chờ mọi người tại phòng trà ở phố lớn, nơi ai nấy sẽ phải tập kết. Ngồi yên ấm trong chiếc ghế bành, cô suy nghĩ xĩ em mình n ì ên làm gì.ì Lúc mọi người trở về vào giờ dùng trà, cô kín đ í áo theo chân cô Cooke và cô Barrow để cùng ngồi vào một bàn bốn chỗ. Ông Caspar đến ngồi cùng, song cô Marple cho rằng trình đ ì ộ tiếng Anh của ông rất kém nên sẽ không gây trở ngại gì.ì Cô ghé vào tai cô Cooke: - Cô này, rõ ràng là chúng ta đã gặp nhau. Cô Cooke ngập ngừng quay về phía c í ô Barrwo, cô này có vẻ không để ý đến vấn đề. Cô Marple nói tiếp: - Không hiểu cô có cùng ở khu vực với tôi. Tôi sống ở Sainte- Marie - Mead chỉ lỉ à làng nhỏ, nhưng nhiều nhà mới xây. Không xa Much Benham, chỉ cỉ ách Loomouth mười hai dặm. - Tôi biết rõ Loomouth. Hay là ... - Thôi đúng rồi! Cô Marple bỗng reo lên. Nhớ rồi: tôi đang đứng trong vườn thì cì ô đi qua. Cô chuyện trò với tôi mấy câu, nói là đang ở nhà một bà bạn ... - Phải rồi! Thế mà sao tôi không nhớ ra ngay. Hôm ấy cô bảo khó tìmì được thợ làm vưòn giỏi. Tôi ở nhà ... nhà ... Cô Cooke ấp úng, như không nhớ được tên. - Nhà bà Sutherland chăng? Cô Marple gợi. - Không, không. Nhà ... bà ... - Hastings, Cô Barrow vừa cầm miếng bánh vừa nhắc. - À phải! Trong một nhà mới xây ấy. - Hastings, ông Caspar xen vào, có vẻ không hiểu rõ là chuyện gì. Tì ôi đã từng tới Hastings, một lần. Eastbourne nữa. Rất đẹp. Bên bờ biển. - Tình c ì ờ thật -cô Marple tiếp tục, không ngờ lại sớm gặp lại cô. Trái đất quá bé nhỏ. - Tôi cũng như cô, thích vư í ờn đẹp. - Hoa, đẹp. Ông Caspar lại xen vào. Tôi cũng thích. í Cô Marple và cô Cooke xoay sang nói chuyện vườn tược, đi sâu vào kỷ thuật. Cô Barrow thỉnh tho ỉ ảng chêm vào một câu, còn ông Caspar im lặng cười một mình. ì Ít lâu sau, trong lúc ngồi nghỉ trư ỉ ớc bữa tối, cô Marple lại đắm mìnhì vào suy nghĩ. Th ĩ ế là cô Cooke công nhận mình đ ì ã ở Saint - Marie - Mead. Nhưng đó có phải sự tình c ì ờ? Phải chăng cô ta đến ở đó là có lý do? Ai cử cô ta đến? Nhằm mục đích g í ì?ì - Mọi sự tình c ì ờ - cô nghĩ thĩ ầm - phải được xem xét kỹ. Khi nào rõ ràng là tình c ì ờ thì gì ạt sang bên cũng chưa muộn. Cô Cooke và cô Barrow rõ ràng là hai người bạn, không thể khác. Họ đã nói là năm nào họ cũng cùng đi du lịch v ị ới nhau. Năm ngoái, họ du lịch ị ở Hy Lạp, năm trước nữa họ đi Hòa Lan. Rõ ràng là những con người vô hại. Tuy nhiên, cô Marple có cảm giác rằng cô Cooke lúc đó đã suýt định ch ị ối là chưa từng ở Saint - Marie - Mead. Cô ấy đã quay sang nhìn b ì ạn, như muốn hỏi nên trả lời thế nào. - Tất nhiên, cũng có thể là mình ch ì ỉ tưỉ ởng tuợng. Song, hai tiếng "nguy hiểm" bỗng hiện lên trong óc cô Marple. Ông Rafiel đã dùng từ ấy trong lá thư đầu, rồi lại nói về thần hộ mệnh trong thư thứ hai. Có thực là cô đang gặp nguy hiểm? Và nguy hiểm từ đâu? Chắc không phải từ hai cô Cooke và Barrow. Dù sao, cô Cooke đã tẩy màu tóc, làm lại cái đầu, cứ như là định tha ị y hình đ ì ổi dạng. Rồi cô lại nghĩ sang ĩ ông Caspar. Nếu là nhân vật nguy hiểm, thì cì ó thể là ông này lắm. Xem ra ông ta hiểu tiếng Anh nhiều hơn, ông ta giả bộ. Cô Marple chưa bao giờ rũ sạch được hết thành kiến với những người nước ngoài, thật là vô lý - cô cũng nhận thấy như thế - vì cì ô có nhiều bạn ở khắp các nước. Và Emlyn Price, anh chàng tóc dài, tập tọng làm kẻ vô chính ph í ủ? Và cặp vợ chồng Mỹ. Trông thì đì áng yêu nhưng liệu có thật trong trắng? - Quả thật, không biết đằng nào mà lần - cô thở dài. Cô liền chuyển chú ý sang xem ngày mai đi đâu. Cuộc tham quan dự định s ị ẽ rất vất vả, ban tổ chức đã nói rõ ai muốn nghỉ cỉ ó thể ở lại khách sạn, hoặc đi dạo chơi ở một nơi gần, có phong cảnh đẹp. Cô nghĩ thĩ ầm sẽ theo phương án thứ hai. Cô không ngờ mọi dự định c ị ủa cô sắp sớm bị đị ảo lộn * * * Hôm sau, cô vừa từ trên phòng của khách sạn Lợn Lòi Vàng đi xuống, thì mì ột phụ nữ khoác măng tô vải tuýt đến gặp: - Xin lỗi, cô có phải là cô Marple? - Ờ ... phải. - Tôi là Glynne, ở gần đây, cùng với chị vị à em gái ... được biết cô mới đến đây? - Bà biết tôi đến đây. Cô Marple lộ vẻ ngạc nhiên sâu sắc. - Vâng. Một người bạn lâu năm của gia đình ch ì úng tôi cách đây ba tuần viết thư nói rằng cô có thể sẽ tham gia đoàn du lịch. Đ ị ó là ông Rafiel. - Ồ! Ông Rafiel. Chắc bà biết là ... - Ông ấy đã chết, vâng. Sau khi nhận thư ít l í âu thì bi ì ết tin. Nhưng chúng tôi vẫn thi hành những chỉ dỉ ẫn của ông. Ông đề nghị lị à cô có thể đến ở nhà chúng tôi hai ngày, nếu cô đồng ý. Phần tham quan đến đây đã khá mệt, nhất là với người cao tuổi, chị em t ị ôi sẽ rất vui nếu cô nhận lời mời. Từ đây về nhà đi bộ chỉ mỉ ất mười phút. Cô Marple do dự một lát. Trông bà Glynne dễ ưa, dáng người bụ bẫm, thái độ thực thà, thân mật tuy có hơi rụt rè. Với lại, không thể coi nhẹ chỉ dỉ ẫn của ông Rafiel. Và không hiểu sao, cô thấy bồn chồntrong lòng. Cô ngước mắt nhìn b ì à Glynne đang lo lắng chờ đợi. - Xin cảm ơn bà. Các bà thật tử tế, tôi vui lòng nhận lời mời. Chương VIII: Ba chị em Cô Marple đứng trước cửa sổ của căn phòng, nhìn r ì a một khu vườn tàn tạ chắc từ lâu không được chăm sóc. Bản thân ngôi nhà, mệnh danh Lâu đài Cổ, thì rì ất chắc chắn và không thiếu vẻ đẹp. Song rõ ràng nó cũng không được bảo dưỡng thường xuyên. Trong lúc bà Glynne dẫn cô Marple vào phòng, bà đã nói đây là ngôi nhà do ông chú để lại, và bà đến ở với chị vị à em sau khi chồng bà mất. Nhưng cả ba càng ngày tuổi càng cao, khó tìm đư ì ợc việc làm, thu thập mỗi ngày một giảm sút. Hai người kia - Clotilde và Anthea Bradbury - Scott - đều sống độc thân. Nhìn khu vư ì ờn, cô Marple lại nghĩ đĩ ến ông Rafiel. Cô cảm giác giờ đây sắp sắp hiểu rõ hơn công việc mà ông giao phó. Có thể ba chị em b ị à Glynne có liên quan đến cuộc điều tra. Nhưng liên quan thế nào? Hai ngày, thời gia quá ngắn để đi đến kết quả. Ngày kia, cô đã phải trở về đoàn du lịch, li ị ệu có tìm đư ì ợc dấu hiệu gì chì ăng? Ba chị em l ị à đồng minh của cô, hay thù địch? Đ ị ó là điều đầu tiên cần làm rõ. Cô đang nghĩ đĩ ến đó thì cì ó tiếng gõ cửa, bà Glynne vào: - Hy vọng cô cảm thấy dễ chịu ị ở đây. Tôi thu xếp các thứ cho cô nhé? Có một bà giúp việc tên là Janet. Nhưng bà ấy chỉ đỉ ến vào buổi sáng. - Cảm ơn bà. Nhưng đồ đạc của tôi có nhiều đâu. - Vậy để tôi chỉ cỉ ô lối đi xuống dưới, vì nh ì à này lắm ngóc ngách. Lại có những hai cầu thang, thành ra lắm lúc không biết nên đi cái nào. Chúng ta sẽ cùng uống một cốc xérès trước bữa ăn. Cô Marple đi theo bà chủ nhà. - Các bà có một ngôi nhà rất đẹp, cô nói. Tôi đoán phải xây vào cuối thế kỷ 18. - Vâng. Khoảng năm 1780, nếu tôi không lầm. Phòng khách rộng và đẹp, có một số đồ đạc có giá trị, vị í như m í ột bàn giấy từ thời Hoàng hậu Anne. Cửa sổ phủ rèm Ba Tư, nhưng đã củ. Tấm thảm trải sàn cũng sờn. Hai người kia đã có mặt, họ đứng dậy chào cô Marple. Một cô đưa ghế ra mời, một cô đưa cốc. Cô út , Anthea, người gày, bộ tóc vàng trước kia nay ngả màu xám buông xõa xuống vai. Cô Marple có cảm giác cô này như người dứơi âm và nếu đóng vai một Ophélie hơi đứng tuổi thì rì ất hợp. Đôi mắt màu tro của cô mở to như sợ sệt, luôn nhìn quanh m ì ìnhì với vẻ kỳ lạ, như lo mình b ì ị theo d ị õi. Cô chị Clotide ch ị ắc chắn không thể là Ophélie, nhưng rất có thể thủ vai một Clytmemnestre sẵn sàng đâm chết chồng trong bồn tắm. Tuy nhiên trong nhà này không có Agamemnon (1). Hơn nữa, cô chưa từng lấy chồng. Cô giải thích m í ột lần nữa rằng Lâu đài Cổ trước đây là của một người ông, sau này về tay ông chú, ông này để lai cho họ sau khi chết. - Ông chú chỉ cỉ ó một con trai, cô nói rõ thêm, anh này chết trong chiến tranh. Ngoài ra vài anh em họ xa, chúng tôi là những người còn lại cuối cùng của gia đình. ì - Nhà rất đẹp, xây rất cân đối, cô Marple khen. - Vâng. Nhưng nếu đừng to quá thế này thì tì ốt. Sửa chữa tốn kém, chúng tôi đành phải để mặc cho một số khu phụ đổ nát, nhất là cái nhà kính, trư í ớc đây rất đẹp. - Ở đó trước đây có một giàn nho tuyệt vời, và những dây leo bò lên tường. Nhưng trong thời gian chiến tranh, không tìm đ ì âu được thợ và người biết làm vườn, nên tất cả đã suy sụp vì kh ì ông ai sửa chữa. Bà Glynne chạy vào bếp một lát, còn lại cô Marple vừa nghe chuyện hai cô, vừa nghĩ: "T ĩ rong ngôi nhà cổ này có một không khí đưí ợm màu u hoài, buồn bã đã thấm sâu, khó mà xua đuổi." Bất giác, cô rùng mình. ì Chương IX: Cây Polygonum Baldschuanicum Phòng ăn gồm một tủ lớn và nặng, và một cái bàn rộng có thể mười người cùng ngồi. Trên tường treo những bức tranh từ thời Nữ hoàng Victoria, giá trị ng ị hệ thuật bình thư ì ờng. Bữa ăn có món thịt c ị ừu và khoai tây rán, tiếp theo là mứt mận. Cô Marple kể chuyện về đoàn tham quan, những chuyện vặt xẩy ra trên đường. Clotilde hỏi: - Ông Rafiel chắc là bạn lâu năm của cô? - Không hẳn. Tôi gặp ông trong một chuyến đi du lịch ị ở Antilles, ông ta cũng đến đó dưỡng bệnh. - Phải, sức khoẻ ông kém sút đã nhiều năm, Anthea nói: - Tôi rât khâm phục ý chí, l í òng can đảm của ông. Hằng ngày, ông vẫn đọc cho thư ký viết thư; gửi điện đi khắp nơi, không hề nản chí.í - Ông ấy không thuộc loại người dễ nản. Anthea công nhận. - Những năm về sau, chúng tôi không gặp ông, bà Glynne nói, nhưng ông vẫn có thư đều vào dịp Gi ị áng Sinh. - Cô Marple, cô ở London? - Không. Tôi sống ở thôn quê, một làng nhỏ giữa Loomouth và Market Basing. Ông Rafiel thì ở London. Eaton Square hay Belgrave, tôi không nhớ rõ. Tôi biết là do đọc địa ch ị ỉ tr ỉ ên sổ đăng ký của khách sạn. - Ở vùng Kent, ông có một nhà nghỉ ở vùng nông thôn, hay tiếp khách ở đó, phần lớn là giới kinh doanh và người nước ngoài, nhưng chúng tôi chưa ai đến đó. - Ông ấy thật tử tế khi đề nghị bị à và hai cô mời tôi ở đây. Ông bận trăm việc, không ngờ lại quan tâm đến cả việc này. - Nhiều lần chúng tôi đã đón các bà bạn tham gia các chuyến đi như thế này. Họ tổ chức rất tốt, song với người cao tuổi thì kh ì á mệt. Nếu cô đi hôm nay chắc sẽ thắm thía. Ng í ày mai hình như s ì ẽ thăm mỗt hòn đảo. Mà vùng này, biển đôi khi sóng dữ. - Tham quan các Lâu đài lịch s ị ử, vào thăm từng phòng cũng rất mệt, lẽ ra tôi không nên đi, nhưng lòng lại cứ muốn xem thật nhiều; nhà cửa, đồ đạc, và những bức họa bậc thầy. - Và vườn hoa nữa, Anthea nói thêm. Cô rất yêu vườn hoa, có phải không? - Đúng. Và tôi rất muốn được thăm ngay những vườn hoa kể trong sách hướng dẫn. Câu chuyện diễn ra hết sức tự nhiên, nhưng cô Marple không hiểu tại sao cứ thấy trong lòng bồn chồn. Ngôi nhà này chứa đựng một cái gì kì ỳ quặc. Dù cô không muốn, ba chị em v ị ẫn làm cô liên tưởng đến ba mụ phù thủy của Macbeth, dù không có gì đì ể so sánh họ với những nhân vật của Shakespeare. Cô ngước mắt nhìn Anthea. T ì ại sao cô có vẻ âu sầu như vậy? - Có thể mình l ì ại tưởng tượng, cô nghĩ thĩ ầm. Phải bớt cái cái thói ấy đi mới được. Sau bữa ăn, Anthea mời cô cùng đi thăm khu vườn. Vườn có dáng dấp của thời Victoria, với lùm cây thấp và một lối đi hai bên trồng trúc đào. Trước đây chắc đã có một bãi cỏ với những luống hoa đẹp, cả vườn rau nữa. Nhưng bây giờ cỏ dại đã chiếm gần hết. Đi dọc một lối đầy cỏ , hai người tới một chỗ như là mo đất, tận cuối vườn, sát tường. - Đây là nhà kính c í ủa chúng tôi đấy. Anthea giới thiệu, vẻ buồn bã. - Hồi trước ở đây có giàn nho, phải không? - Phải. Và một cây vòi voi rất đẹp. Nhưng nhà không người ở đã lâu, nhà kính s í ụp đổ, không có tiền xây lại. Mà dù có tiền để xây lại, cũng không có sức duy trì.ì - Cây dây leo trùm khắp kia là cây gì?ì - Một thứ cây thông thường, tên bắt đầu bằng chữ P. Poly ... gì đì ó. - Tôi biết rồi! Cây polygonum Baldschuanicum. Nó mọc rất nhanh, rất tiện khi cần che một bức tường hoặc cả một ngôi nhà đã cũ. Mô đất bị cị ây hoàn toàn che phủ, không cây nào khác có thể sống. Cô Marple tiếp: - Cái nhà kính n í ày chắc to lắm. Anthea đáp, đau khổ: - Vâng; bên trong có đào, có mận.... - Bây giờ vẫn còn đẹp, với hàng ngàn hoa polygonum bé tí.í - Tôi chớ trước đây còn có một bồn hoa rất đẹp. Nhưng cũng rất khó giữ được. Cái gì cì ũng khó. Cái gì cì ũng không như xưa. Anthea đi nhanh vào một lối hẹp, sát mảnh tường bên phải. Nhanh đến mức cô Marple không theo kịp. Dư ị ờng như cô ta muốn mau đi khỏi khu nhà kính c í ũ và bắt bà khách đi theo. - Cứ như là chạy trốn, cô Marple nghĩ bĩ ụng. Rồi cô chú ý đến một cái chuồng lợn, cũng trong cảnh hoang tàn. - Ông trẻ của tôi nuôi lợn, Anthea giải thích. B í ây giờ thì chì ẳng ai thíchí làm việc đó nữa. Gần nhà, chúng tôi trồng loại hồng Floribunda. Trồng loại này lợi lắm. - Đúng thế. Cô Marple kể thêm tên vài loại hoa hồng mà gần đây người ta đã sáng tạo, nhưng cô có cảm tưởng Anthea chẳng biết chút gì vì ề những loại hoa mới ấy. - Cô có hay đi du lịch như th ị ế này không? - Ồ không, vì rì ất tốn kém. Ngay chuyến đi này, tôi đi được là nhờ lòng tốt của ông Rafiel đấy chứ. - Nhưng cô đã từng đi Antilles và những nơi khác ... - Chuyến du lịch Antilles l ị à do thằng cháu tôi chịu ti ị ền. Đôi khi bọn trẻ cũng tỏ ra tử tế, quan tâm người già. Bà Glynne, chị cị ô, có con cái gì không? - Không. Chưa từng có. Và như thế, có khi lại hơn. Và trên suốt đường quay về nhà, cô Marple suy nghĩ mĩ ãi về ý nghĩaĩ câu trả lời đó. Chương X: Những ngày xa xưa Tám giờ rưỡi sáng hôm sau, có tiếng gõ cửa phòng cô Marple, và một bà đứng tuổi bưng vào một khay trên có ấm trà, một tách sữa, một chén không, và bánh phết bơ. - Mời cô dùng trà, bà ta vui vẻ. Hôm nay trời đẹp, tôi thấy cô đã mở rèm. Cô ngủ được không ạ? - Rất tốt, cảm ơn. - Đoàn tham quan sáng nay đi thăm núi đá Bonaventure. Cô không đi là phải, mệt lắm. - Tôi rất thích í ở đây. Bà Glynne và các cô Bradbury - Scott mời tôi ở chơi đây thật là tốt. - Các cô ấy cũng rất vui. Có cô ở đây, họ đỡ buồn, chứ cái nhà này bây giờ buồn như chấu cắn. Bà ta mở rèm thêm cho rộng, rồi đặt một xô nước nóng lên chậu trong phòng rửa mặt. - Tầng trên có phòng tắm - bà ta giải thích - nhưng ch í úng tôi mang nước nóng vào đây, để cô khỏi phải trèo thang. - Quý hóa quá. Chắc bà làm ở đây đã lâu? - Từ hồi tôi còn trẻ. dạo đó, nhà này có ba người làm: một cô nấu bếp, hai cô hầu phòng. Còn có cả một anh chăn ngựa. Thời ấy sao mà đẹp, nhưng mọi sự đã thay đổi. Vợ ông đại tá chết trẻ, con trai ông thì chì ết ngoài trận mạc; con gái lấy chồng là người Niu Di Lân, theo chồng sống tít t í ắp ở đâu. Cũng không được bao lâu, vì chì ết khi sinh nở, cả con cũng chết. Ông đại tá sống ở đây thui thủi một mình, b ì ỏ bê trễ tất cả. Khi chết, để lại cả khu biệt thự này cho các cháu gái. Cô Clotilde đến đây ở cùng với cô Anthea, rồi bà Glynne sau khi chồng chết cũng đến ở đây luôn. Bà vú già lắc đầu, thở dài: - Họ chẳng làm gì mì ấy để sửa chữa nhà cửa. Không có tiền. Nhưng mấy chị em đ ị ều tốt. Cô Anthea không học cao lắm, nhưng cô Clotilde đã qua đại học, nói ba thứ tiếng. Bà Glynne thì rì ất dễ chịu. Khi b ị à ấy đến đây ở, tôi nghĩ cĩ ó lẽ mọi việc sẽ tốt hơn. Nhưng người ta chẳng bao giờ biết tương lai ra sao, phải không cô? Nhà này cứ như là có bùa ma gì đấy. Cô Marple ngước nhìn b ì à vú già như dò hỏi. - Hết chuyện này, tiếp chuyện khác. Tai nạn khủng khiếp ở Tây Ban Nha, mọi người chết hết. Tàu bay mà làm gì , ch ì ỉ dỉ ễ chết! Vợ chồng người bạn của cô Clotilde chết cả hai trong tai nạn ấy. May mà đứa con gái ở nhà đi học, nên thoát. Cô Clotilde đem về nuôi, coi như con đẻ. Cô ấy đưa nó đi du lịch c ị ả sang Ý sang Pháp. Thật là một cô gái đáng yêu. Không ai ngờ lại xẩy ra chuyện dã man đến thế. - Xẩy ra chuyện gì?ì - Con bé quen một thanh niên trong vùng, mà hai cô Clotilde và Anthea đều biết ông bố, người rất giàu. - Rồi hai đứa phải lòng nhau? - Phải. Con bé mê ngay. Thằng bé đẹp trai, khéo nói ... - Rồi chuyện không đi đến đâu, cô gái tự vẫn, tôi đóan thế? - Tự vẫn . Bà vú mở to mắt, ngạc nhiên. Ai nói với cô vậy? Không, cô ấy bị gi ị ết. Bị bị óp cổ chết. Rồi ... Mặt bị đị ập vỡ đến biến dạng. Cô Clotilde phải ra nhận diện. Từ hôm đó, cô ấy không còn như trước nữa. Người ta phát hiện xác con bé cách đây khoảng ba mươi dặm, trong bụi rậm của một mỏ đá hoang. Và có lẽ đây không phải vụ giết người đầu tiên mà kẻ nào đó đã phạm. Đã có những cô gái khác nữa. Một cô bị mị ất tích c í ách đây sáu tháng. Tên bạn trai là một thằng hư hỏng, một con quỷ. Ngày nay, ngươi ta hay nói rằng bọn chúng hành động một cách bộc phát, rằng chúng không chịu tr ị ách nhiệm về hành vi. Tôi, thì tì ôi không tin. Giết người là giết người. Tôi biết trong các dòng họ lâu đời, thường có sự điên loạn. Họ Derwent chẳng hạn. Hai đời, mỗi đời đều có người chết trong trại tâm thần. lại có mụ Paulett, suốt ngày lang thang, tay cầm chiếc vòng kim cương, réo lên rằng mình l ì à Hoàng Hậu Marie - Antoinette, đến nỗi người ta phải bắt giam mụ lại. Nhưng mụ chẳng làm hại ai. Còn tên kia là con quỷ, là hung thủ giết người. - Hắn có bị sao kh ị ông? - Hồi đó, có lẽ nhà nước đã bỏ án tử hình. Ha ì y hắn còn vị thị ành niên sao đó. Hắn được tuyên bố là có tội, rồi tống đi Bostol. - Hắn tên gì?ì - Michael. Không nhớ hắn họ gì, vì ì cì ách đây đã mười năm. Nhưng như là một cái tên Ý. Hình như ng ì ày xưa có một ông họa sĩ cĩ ó họ na ná . Raffle .... hay Raphael, thì ph ì ải. - Michael Rafiel. - Đúng rồi! Có lúc, có tin là ông bố rất giàu, đã chạy cho hắn được ra tù, nhưng rồi nghĩ đĩ ó chỉ lỉ à tin đồn. Vậy là không phải tự tử, mà bị gi ị ết. "Vì tì ình!", Elizabett T ì emple đã thốt lên như thế khi cô Marple hỏi người học trò của cô chết vì sao? . V ì à, ở một khía c í ạnh nào đó, bà hiệu trưởng nói đúng. Con bé đã yêu, do đó đã đón trước một cái chết oan nghiệt. Cô Marple rùng mình. H ì ôm trước, khi đi về làng, cô đã nhác đọc những dòng chữ lớn trên một tờ báo:" Vụ án ở Epsom. Phát hiện xác một cô gái thứ hai. Cảnh sát yêu cầu giới trẻ cộng tác". Vậy ra lịch s ị ử là một sự lặp lại liên tục. Ai sẽ giúp cho lớp trẻ tránh khỏi đau thương, chết chóc đây? Lớp trẻ ngày nay không biết, không bao giờ biết tự bảo vệ mình ... Ha ì y là họ biết quá nhiều, cho là mình l ì àm được mọi thứ? * * * Sáng hôm đó, cô Marple xuống dưới nhà sớm hơn mọi người tưởng, nên chưa có ai. Cô liền ra ngoài, đi dạo trong vườn . Không phải vì cì ô thích n í ó, mà cô có linh tinh là có một cái gì cì ô chưa bắt được. Cô chưa vội gặp ba chị em, v ị ì cì ần có thì gi ì ờ suy nghĩ vĩ ề những thông tin mà bà vú mau miệng đã cho biết. Một cửa nách vườn để ngỏ. Cô đi ra ngoài làng, dọc các cửa hiệu tới nhà thờ, có nghĩa tr ĩ ang bao quanh. Cô đẩy cửa rào bước vào. Một số mộ có từ lâu, không đáng chú ý. Các tên họ Prince và Broad lặp lại nhiều lần trên các tấm bia. Cô Marple sắp đi ra thì thì ấy lão phu mộ đi giữa hàng bia. Lão kính c í ẩn nghiêng đầu chào. - Chào ông ... Thời tiết hôm nay đẹp, phải không ạ? - Cô nói. - Vâng, nhưng chiều nay chắc mưa. - Tôi đi một vòng. Ở đây nhiều Broad và Prince nhỉ.ỉ - Ở vùng này, những họ ấy là phổ biến. - Có cả mộ một em bé gái. Nhìn mì ộ trẻ con, thật buồn. - Bà muốn nói đến cháu Mélanie Price? Cháu mới lên bốn, bị xị e cán chết lúc cháu chạy ngang đường đi mua kẹo. Thời nay, với những tay lái xe như điên, thì tì ại nạn thế là thường. - Vâng, nhiều người đã chết đã đành. Già, yếu mà chết đi một nhẽ, nhưng còn những cái chết khủng khiếp, trẻ con bị xị e cán, con gái bị ám sát. ... - Phải, phần lớn là những đứa con gái dại dột. Mẹ chúng bận túi bụi, không có thì gi ì ờ dạy dỗ, canh chừng. Bà ở Lâu đài Cổ thì ph ì ải? Bà đi trong đoàn du lịch. ị - Vâng, nhưng một số buổi tham quan rất mệt cho người già như tôi. Ông Rafiel, một người bạn, đã báo cho các cô Bradbury - Scott là tôi sẽ đi qua, nên các cô có lòng tốt mời tôi về nhà chơi đã hai hôm. Cái tên Rafiel, cô Marple cố tình g ì ài vào câu chuyện, không có nghĩa l ĩ ý gì vì ới lão phu mộ. Cô nói tiếp: - Bà Glynne cùng với cô chị vị à cô em đối với tôi rất tốt. Họ chắc ở đây đã lâu? - Không lâu lắm. Khoảng hai chục năm. Ngôi nhà là của đại tá Bradbury - Scott. Ông ấy chết năm bảy mưoi tuổi, vợ, con trai đều chết trước ông. Và ông phải để lại nhà cho các cô cháu, tất nhiên. Ông lão quay về với công việc của mình, v ì à cô Marple bước vào nhà thờ, vần trán đăm chiêu. Cô đã bắt được vào con đường đúng chăng? Một vài sự việc có vẻ đã khớp lại, nhưng bức tranh chung hãy còn mù mờ. Một cô gái bị ám sát - thực ra là nhiều cô - một số thanh niên - ngày nay người ta thường gọi là "bọn trẻ " - được cảnh sát tạm giữ để "giúp vào công cuộc điều tra". Song vụ việc cô quan tâm xảy ra đã mười hai năm, liệu cô có thể làm sáng tỏ? Nhất thiết cần phải có những thông tin khác nữa từ Elizabett Temple. Cô nguyên hiệu trưởng này đã kể có một cô gái từng đính h í ôn với Micheal Rafiel. Thế mà mấy chị em b ị à Glynne có vẻ như không biết chuyện nay. Một cảnh tượng quen thuộc hiện lên trong óc cô, một việc vẫn thường xảy ra. Bắt đầu giống nhau: cô gái gặp chàng trai, rồi mối quan hệ tiếp diễn. Cho đến một hôm, cô gái bỗng nhận ra mình c ì ó thai. Cô nói với người yêu, yêu cầu kết hôn. Nhưng thường thì chì àng trai không tínhí đến kết cục ấy, hoặc chàng đã chán nàng, hoặc chàng đã có một cô khác. và chàng nghĩ cĩ ách giải quyết vần đề bằng bạo lực; chàng bóp cổ nàng, và làm biến dạng khuôn mặt để không ai nhận ra. Cô Marple đưa mắt nhìn quanh ng ì ôi nhà thờ nhỏ. Nơi đây thiệt yên bình, kh ì ó có thể nghĩ rĩ ằng cái ác luẩn quẩn đâu đây. Cô bỏ chiếc ghế dài đang ngồi, đứng dậy, đi ra, man mác nhớ lại cái cảm giác bồn chồn của cô lúc đi quan khu vườn của Lâu đài Cổ. Rõ ràng là ba chị em ph ị ải biết một điều gì tr ì ong đó! Cô lại nghĩ tĩ ới Elizabett Temple. Ngày mai, cô sẽ phải hỏi chuyện cô ta lần nữa. Cô lên đường trở về lâu đài, nghĩ bĩ ụng:"Sáng nay không thu lượm được gì cì ả. Bà Glynne đứng ở hàng rào, chạy đến đón cô: - Ồ, cô đây rồi! Nếu biết là cô muốn đi chơi, tôi đã dẫn cô đi xem các nơi trong làng. - Tôi chỉ đi d ỉ ạo một chút tới nhà thờ. Tôi hay chú ý đến các nhà thờ: nhiều khi chúng có những tấm bia rất hay. Nhà thờ này chắc mới trùng tu vào thế kỷ trước? - Phải. Nhưng nó không thuộc loại cổ lắm. Vậy ra cô quan tâm đến kiến trúc tôn giáo? - Không hẳn. Bà còn lạ gì, tr ì ong một làng nhỏ như chỗ tôi ở, mọi sự đều châu tuần quanh nhà thờ. Ít nhất là như thế hồi tôi còn trẻ, bây giờ có thể hơi khác. Bà có lớn lên ở vùng này? - Trước, chúng tôi ở Little Herdsley, cách đây chừng ba mươi dặm . Cha tôi là thiếu tá pháo binh hưu trí, ví à thỉnh tho ỉ ảng đến thăm ông chú tôi. Sau khi ông chú mất, chị Clotilde v ị à em Anthea đến đây ở. Lúc đó tôi còn theo chồng, ở nước ngoài. Chúng tôi sống năm năm ở Ấn Độ, rồi nhà tôi mất ở đó. Trở về Anh, tôi mua một ngôi nhà nhò ở Hampton Court, London. Và tôi hoạt động cho những tổ chức từ thiện. - Như vậy cũng bận. - Đúng thế. Song gần đây, tôi nghĩ ph ĩ ải về đây ở nhiều hơn, vì lo cho ì hai chị em. ị - Lo sức khoẻ của hai cô? - Một phần. Clotilde vẫn tráng kiện, nhưng tôi lo cho Anthea. Em nó đôi khi là lạ thế nào. Ví dí ụ, hay đi thơ thẩn những đâu đâu, đến mức không còn biết mình đang ì ở chỗ nào nữa. Có lúc, lại hay băn khoăn nhiều về cái vườn. Cứ bâng khuâng nhớ nhớ lại ngày xưa, muốn sửa sang lại. Chị Clotilde đ ị ã nói rồi, không thể sửa được lúc này, em nó cứ luôn mồm nhắc nhà kính, r í ồi nho, đào có từ ngày xưa. - Và cây vòi voi nữa, chắc thế. - Vâng. Em nó cũng muốn có một bồn hoa đẹp nữa, nhưng làm sao mà thực hiện được. - Tình hu ì ống ấy hẳn gây cho bà khó khăn. - Vâng, nói gì thì ì nì ói, nó không chuyển. Ví dí ụ hôm nọ, lúc mới đến, tôi được biết Anthea đã liên hệ với một hãng lớn nhằm làm lại vườn, xây lại nhà kính. Ch í ị Clotilde kh ị ông biết gì, nì ên rất bực tức khi nhìn th ì ấy bản dự toàn trên bàn Anthea. Dĩ nhi ĩ ên, chị ấy đã tỏ ra rất nghiêm khắc, kiên quyết. - Đúng là trên đời không có việc gì đơn gi ì ản - cô Marple nhận xét. À mà, sáng mai tôi phải đi sớm, nhập lại với đoàn. - Hy vọng phần còn lại của chuyến đi không đến nổi quá vất vả với cô. - Không sao đâu. Mai, đoàn đi thăm Stirling - Sainte - Marie hình như ì không xa lắm. Ở đó có một lâu đài và một nhà thờ đáng xem. Sau hai ngày nghỉ ngơi v ỉ ừa rồi, tôi chắc sẽ khoẻ. Hai người đi vào nhà - Bà Glynne loan báo: - Cô Marple ra thăm nhà thờ. - Nó chẳng có gì đì ặc biệt, Clotilde đáp. riêng tôi thấy các kính g í hép màu rất xấu. Ông chú cho phần trách nhiệm vào đó, ông thích nh í ững màu lòe loẹt như thế. Sau bữa ăn trưa, cô Marple lên phòng nghỉ, gỉ ần bữa ăn chiều mới xuống. Buổi tối mọi người nói chuyện linh tính, cu í ối cùng cô lên đi ngủ với cảm giác thất bại. Dường như cô vừa tham gia một buổi đi câu, mà cá không chịu c ị ắn câu. Cũng có thể tại không có cá. Hay là tại cô chưa biết chọn mồi nhử thích h í ợp Chương XI: Tai nạn Sáng hôm sau, bà vú Janet mang trà lên cho cô Marple lúc bảy giờ rưõi, để cô có thì gi ì ờ sắp xếp, chuẩn bị hị ành lý. Cô vừa đóng chiếc va li nhỏ thì cì ó tiếng gõ cửa, và Clotilde vào, vẻ bối rối: - Cô Marple ơi, dưới nhà có một thanh niên muốn gặp cô. Tên là Emlyn Price. Nghe đâu đã xảy ra tai nạn. - Tai nạn? Xe gặp tai nạn giao thông? Có ai bị thư ị ơng không? - Không, không. Việc xảy ra trong buổi tham quan hôm qua. Có một lối mòn dẫn lên di tích tr í ên đỉnh v ỉ ách đá Bonaventure, nhưng có một lối khác đi qua cồn cát cũng tới. Chắc là đoàn đi tản mát thành nhiều nhóm. Đường khá dốc, và đã xảy ra đá lở rơi vào một người đi phía dư í ới. - Trời! Người bị thư ị ơng là ai? - Một bà tên là Temple. - Cô Temple? Ôi ! Ngán quá! Tôi đã nói chuyện lâu với cô ấy. Cô nguyên là hiệu trưởng trung học, về hưu. - Vâng. Tôi biết rõ. Cô ấy phụ trách trường trung học Fallowfiel, trường khá danh tiếng. Nhưng tôi không biết cô ấy tham gia đoàn du lịch. ị Cô Marple dẹp va li sang một bên: - Để tôi xuống gặp cậu Price. Chàng trai đứng đợi trước cửa. Sáng nay cậu mặc Bludông da, quần xanh ngọc thạch. Tóc bù xù hơn mọi khi. Cậu nói luôn, không rào đón: - Tai nạn tệ hại. Chắc cô Bradbury - Scott đã kể qua với cô. Đó là cô Temple. Tôi không rõ chuyện xảy ra thế nào, hình như l ì à đá lở lăn xuống dốc lao vào cô, lúc cô đang đi ở lối mòn phía dư í ới. Cô đã được chở đi bệnh viện tối qua, tình h ì ình c ì ó vẻ trầm trọng. Tất nhiên, cuộc tham quan hôm nay phải hủy bỏ, mọi người ở khách sạn cho đến mai. bà Sandbourne đang ra bệnh viện để nắm tin tức mới nhất. Bà ấy hẹn gặp mọi người ở Lợn lòi Vàng lúc mười một giờ, tôi nghĩ cĩ ô cũng muốn có mặt ở đó. - Nhất định r ị ồi. Tôi theo anh. Cô quay lại để chào từ biệt Clotilde , và cả bà Glynne vừa mới đến. - Rất cảm ơn bà và hai cô. Tôi rất vui được ở hai ngày tại đây. Nghỉ ngơi rất tốt. Thế mà lại xảy ra cái tai nạn này! - Nếu cô muốn ở lại một đêm nữa, bà Glynne nói, chắc là ... Bà đưa mắt nhìn Clotilde. Nhưng c ì ô Marple có cảm tưởng cô này vừa khẻ lắc đầu và trừng mắt với bà em, tỏ vẻ không đồng tình. b ì à Glynne liền nói chữa: - Nhưng, chắc là cô muốn trở về với các bạn đồng hành hơn. - vâng, tôi nghĩ như th ĩ ế là hơn. Tôi phải hỏi câu chuyện ra sao, mìnhì giúp ích đư í ợc gì. Bi ì ết đâu đấy. Một lần nữa, xin cảm ơn . Emlyn Price đỡ va li của cô Marple, và hai người ra đi. - Tội nghiệp cô Temple! Hy vọng thương tích kh í ông nặng. - Tôi sợ là nghiêm trọng đấy. Nhưng ta phải đợi bà Sandbourne về mới biết được. Bệnh viện Carristown cách đây tám dặm. Về tới khách sạn, họ thấy mọi người đều tập trung ở phòng khách, đang nhấp cà phê với bánh ngọt. - Ôi ! bà Butle nói, thật là buồn, giữa lúc chúng mình đang vui v ì ẻ. Thế mà tôi cứ tưởng cô Temple chân còn vững lắm! Mọi việc không tài nào đoán trước, có phải không, anh Heny? - Đúng vậy. Và tôi nghĩ kh ĩ ông biết ta có nên tiếp tục chuyến du lịchị này nữa không. Nếu tai nạn này có ... hậu quả tai hại, tất người ta sẽ điều tra, và ... - Henry, anh đứng nói chuyện gở? Cô Cooke chen vào: - Tôi nghĩ lĩ à ông Butler hơi bi quan đấy. Mọi việc đâu đến nỗi bi thảm đến thế. Ông Caspar cất giọng lơ lớ: - Không, nghiêm trọng đấy. Hôm qua, tôi đã nghe hết, lúc bà Sandbourne nói chuyện diện thoại với bác sĩ. Cĩ ô Temple bị chị ấn thương sọ não, và một chuyên gia giỏi sẽ xem xét để có phẩu thuật được không. - Trời ! Cô Lumley thở dài thường thượt, Mildred ơi, ta phải về nhà thôi. Để tôi đi xem giờ tàu ... - Không việc gì ph ì ải hốt hoảng thế, bà Riseley - Porter lên tiếng, đầy uy quyền, Joanna, cháu vứt ngay mẩu bánh này vào sọt rác. Không ăn nổi, cả chỗ mứt này nữa. Cô gái cầm lấy mẫu bánh: - Cháu đi ra ngoài một lát với anh Emlyn, được không? Ngồi đây mà chờ đợi cũng chẳng ích g í ì.ì - Phải, cháu đi ra ngoài thì hơn, c ì ô Cooke nói. - Đúng thế - Cô barrow phụ họa, trước khi bà Riseley - Porter kịp mị ở miệng. Dùng xong cà phê và bánh, ai nấy bắt đầu thấy lúng túng. Khi có tia họa xảy ra, thật khó biết mình ph ì ải xử sự thế nào. Cô Cooke và cô Barrow đồng loạt đứng lên, tuyên bố phải ra phốb mua sắm. - Tôi muốn gửi hai, ba cái bưu thiếp và hỏi xem giá tem gửi đi Trung Quốc là bao nhiêu - cô Barrow nói: - Còn tôi đi mua len, cô Cooke thêm. Với lại ở đầu chợ bên kia có một tòa nhà đáng xem. Đi ra ngoài thoáng đãng, dễ chịu hơn. ị Vợ chồng đại tá Walker cũng đứng lên, mời vợ chồng ông Butler cùng đi một vòng. Tất cả rời phòng khách . Emlyn Price đã lỉnh đi t ỉ ừ lúc nào, chạy theo Joanna. Bà Riseley - Porter cố giữ cháu gái ở lại không được, tuyên bố cứ ngồi ở phòng khách, yên tĩnh, d ĩ ễ chịu hơn. ị Ông Carter đi theo các bà. Còn giáo sư Wanstead quay lại với cô Marple: - Có lẽ tốt nhất là ta lên ngồi sân thượng. Cô nghĩ sao? ĩ Cô Marple cảm ơn và đứng dậy. Đến lúc này, cô chưa nói chuyện mấy với giáo sư, vì ph ì ần lớn thời gian - kể cả khi ở trên xe - ông đều cắm đầu đọc sách. Trên sân thượng không có ai. Hai người ngồi xuống những chiếc ghế mây rộng. Giáo sư mở đầu: - Nếu tôi không lầm, cô là cô Marple? - Vâng, chính t í ôi. - Thế là đúng, theo những điều mô tả về cô. - Mô tả tôi? - Ông Rafiel đã kể với tôi về cô. Giáo sư hạ giọng. - Ồ ! Ông Rafiel? - Cô lạ lắm sao? - Hơi lạ ... Tôi không ngờ ... Giáo sư im lặng một lúc lâu, rồi mới nói: - Ông ấy đã thu xếp để cô tham gia chuyến du lịch n ị ày. - Thú thật, tôi rất ngạc nhiên, khi biết ông đã giữ một chỗ trong đoàn cho tôi. Chứ tôi làm sao có tiền để đi như thế này. Thế mà bây giờ chuyến đi lại gặp trục trặc ... - Theo cô , chuyện này thật bất ngờ? - Thưa giáo sư, ông định n ị ói gì cơ? ì Wanstead mỉm cư ỉ ời: - Ông Rafiel đã nói khá nhiều về cô. Ông ấy gợi ý tôi cũng nên đi chuyến này và ... quan tâm đến cô, tạm nói như thế. - Quan tâm đến tôi? Vì lì ý do gì?ì - Để bảo vệ cô, tôi đoán thế. Ông ấy muốn là không có chuyện gì phi ì ền toái xảy đến với cô. - Nhưng cái gì cì ó thể xảy ra, ông nói được không? - Có thể giống như cái đã xảy ra với cô Temple. Đúng lúc ấy Joanna Crawford rẽ lối góc khách sạn, đi qua trước sân thượng, tay cầm rổ thức ăn. Cô ngạc nhiên nhìn hai ngư ì ời, ngoắc đầu ra hiệu rồi đi ra phố. Đợi cô đi khuất, giáo sư nói tiếp: - Một cô bé nhí nh í ảnh. Lúc này, cô ta cam chịu l ị à vật đầu sai của bà dì uy thế, nhưng chẳng mấy lâu nữa cô ta sẽ đến tuổi nổi loạn. Cô Marple lúc này ít quan t í âm đến sự nổi loạn của Joanne, hỏi lại: - Lúc nẫy, ông định n ị ói gì?ì - Vấn đề này, ta phải bàn luận dưới ánh sáng những sự việc mới xảy ra. - Ông muốn nói về tai nạn của cô Temple? - Phải. Nếu tạm coi đó chỉ lỉ à tai nạn. - Nhưng ông cho không phải là tai nạn? - Dù sao, có khả năng như vậy. - Phần tôi, tôi không biết gì hì ết - cô Marple ngập ngừng đáp. - Tất nhiên,vì cì ô không có mặt tại chỗ. Hay là cô đang bận việc nơi khác? - Tôi không hiểu rõ ông nói gì.ì - Cô thận trọng đấy, và như thế là đúng. - Tôi có thói quen như thế. - Thói quen thận trọng? - Không hẳn như vậy. Tôi chỉ đỉ ịnh r ị a quy luật là: cái gì ngư ì ời ta nói, phải xem xét kỹ đã. - Chỗ này, cô lại đúng. Nói cho cùng, cô không biết gì vì ề tôi. Cô chỉ bi ỉ ết tên, đọc trong danh sách các hành khách thích tham quan. L í âu đài và vườn. Mà có lẽ cô thích vư í ờn hơn. - Có thể. - Có những người khác cũng quan tâm đến vườn. - Hoặc họ nói thế. - A? Cô đã nhận ra điều ấy? Cô biết đấy, lúc đầu, vai trò của tôi là quan sát cô, nhìn x ì em cô làm gì vì à sẵn sàng can thiệp nếu xảy ra chuyện gì ... ì bất ưng. Nhưng tình h ì ình đ ì ã hơi biến chuyển. Nay cô phải quyết xem tôi là đồng minh của cô, hay thù địch. ị - Có lẽ ông nói phải. Song ông chưa cho tôi biết gì đì ể tôi có thể đánh giá. Chắc ông phải là bạn thân của ông Rafiel? - Không hẳn. Tôi chỉ gỉ ặp ông hai lần, một lần trong hội đồng quản trị của một bệnh việnn lần nữa trong một cuộc họp nào đó. Nhưng ông đã nghe nói về tôi, tôi cũng biết hoạt động của ông. Nếu nói rằng tôi có chút uy tín tr í ong nghề nghiệp của mình, s ì ợ rằng cô cho rằng tôi là người thiếu khiêm tốn.... - Không đời nào. Tôi nghĩ lĩ à ông nói đúng sự thật. Tôi đoán ông theo ngành y , có phải không? - Không. Tôi có bằng thầy thuốc, song lại chuyên về bệnh lý tâm thần. Tôi nghiên cứu một số vấn đề liên quan đến pháp chế ngành y. Nói cách khác, tôi quan tâm đến các loại tội phạm khác nhau, về vấn đề này, tôi đã viết một số sách gây tranh luận. - Nếu vậy, ông có thể giải thích m í ột số chi tiết mà ông Rafiel đã không nói rõ với tôi. - Tôi biết cô gặp ông Rafiel ở Antilles, hai người đã có lúc cộng tác với nhau. - Ông ấy cũng nói chuyện đó ? - Có. Ông ấy khẳng định c ị ô có sự thính nh í ạy đặc biệt với các vụ án. - Nói thế thì lì ạ quá, không đúng đâu. - Tôi thì kh ì ông cho là lạ. Vả lại, ông Rafiel là người thông minh, sắc sảo, ông ấy không nhận lầm người. Và ông ấy cho là cô giống ông ở điểm đó. - Tôi không tin. Một số ngưòi gợi tôi nhớ đến người khác mà tôi biết, do đó đôi khi tôi đoán trước được cách xử sự của họ trong những hoàn cảnh nhất định. Nhưng l ị úc này, tôi hoàn toàn đi trong tối đen, và không thể tin ông Rafiel cố tình mu ì ốn như thế. - Ông ấy muốn cô tiếp cận với các sự việc mà không hề thiên kiến. - Vậy ông cũng lại không nói gì nì ữa sao? Cô Marple đột nhiên kêu lên với vẻ bực tức. Ông không thấy rằng như thế là vượt quá giới hạn cho phép sao? - Cũng phải - Giáo sư mỉm cư ỉ ời, công nhận. Vậy tôi xin kể một số việc, xem có soi sáng cho cô chút nào không? Chương XII: Tham vấn Đôi khi tôi giữ vai trò cố vấn trong một số việc của Bộ Nội Vụ, nên có tiếp xúc với nhiều cơ quan, trong đó có những nơi giam giữ một số loại tội phạm. Thường sau khi xảy ra án mạng, họ mời tôi đến để hỏi ý kiến. Nhung cũng có khi , tôi được chính gi í ám đốc những nơi ấy mời đến để tham khảo. Một trong những người đó, đồng thời cũng alé bạn cũ, mới đây đã gọi đến tôi. Ông ta trình b ì ày sự lo lắng do một tù nhân gây ra cho ông. tên này, lúc xảy ra vụ việc cách đây nhiều năm, còn rất trẻ. Và ông kia lúc đó chưa làm giám đốc. Song, thời gian càng trôi, ông càng nghi hoặc. Tay thanh niên thì rì õ ràng là không tốt .... gọi hắn là gì cì ũng được, không thiếu từ tồi tệ, khinh miệt. Là tội phạm, điều ấy thì rì õ: hắn đã tham gia băng đảng, đã ăn cắp, biển thủ, lừa đảo, làm giấy tờ giả. Tóm lại, ai là cha một đứa như thế thì vì ô cùng thất vọng. - Có lẽ tôi hiểu ông. - A? Cô hiểu? - Có phải ông định n ị ói con trai ông Rafiel? - Cô đoán không sai. Cô biết gì vì ề ông ta? - Không. Đến hôm qua tôi mới biết ông Rafiel có con trai như thế. Chắc là đứa duy nhất. - Phải. Nhưng ông còn hai đứa con gái. Cô thứ nhất chết năm mười bốn tuổi, cô thứ hai lấy chồng nhưng không có con. Vợ ông Rafiel mất lúc còn trẻ, hẳn ông rất buồn, tuy không bao giờ để lộ ra. Ông yêu quý các con đến mức nào? Tôi không biết. Nhưng vì chì úng, ông ta có thể làm mọi thứ có thể làm . Nhưng đó là một con người khó hiểu, chỉ ng ỉ hĩ đĩ ến kiếm tiền. Dù sao thì vì ới anh con trai, ông đã cố hết sức. Ngay lúc còn học ở trường, anh ta đã được bố can thiệp, thoát khỏi nhiều rắc rối. Sau này, ông bố cũng mấy lần cứu con khỏi bị tru ị y tố. Nhưng cuối cùng, anh ta đã bị bị ắt và bị kị ết án tù vì tì ội cưỡng hiếp. Sau đó, một vụ thứ hai nữa, nghiêm trọng hơn, anh ta lại ra tòa. - Tôi nghe nói anh ta đã giết một cô gái. - Anh ta bắt cóc cô, và một thời gian sau, người ta mới tìm th ì ấy xác. Bị bóp cổ, rồi bị đị ập nát mặt, để không ai nhận ra. - Kinh khủng . Tôi chúa ghét loại tội phạm này, và nếu ông định k ị ể để tôi thương hại hắn, thì kh ì ông bao giờ. Tôi không thể chịu đư ị ợc những kẻ hèn hạ đang tâm làm những việc dã man như thế. - Cô nói vậy, tôi rất đồng tình. Nhưng, tr ì ong trường hợp đặc biệt này, ông giám đốc nhà tù - một người có kinh nghiệm - lại đi đến kết luận: hắn không phải kẻ giết người. Ông ấy công nhận hắn là một kẻ xấu lỳ lợm, không thể cứu chữa. Nhưng đống thời, ông cho rằng bản án dành cho hắn là rất sai lầm. Ông không tin hắn đã giết cô gái, và đã xem kỹ lại các báo cáo của cảnh sát. Cậu ta quen biết nạn nhân. Thấy họ đi với nhau nhiều lần, có thể cô ta là người yêu nữa. Xe của cậu ta đậu gần đấy, bản thân cậu ta bị ngư ị ời ta nhận mặt. Vụ việc như thế, xem như đã rõ. Song, bạn tôi không hài lòng, ông muốn nghe không chỉ ý kiến cảnh sát, mà cả của thầy thuốc. Vì thì ế ông ta khẩn khoản yêu cầu tôi gặp và nói chuyện với cậu ta.... - Và ông đã nhận lời .... - Vâng. Tôi đã gặp đối tượng, đã nói chuyện, lúc nhẹ lúc sẵng để xem hắn phản ứng thế nào, đã bàn với hắn rằng hiện nay luật pháp có một số thay đổi, có thể nhờ luật sư xem xét lại một số điểm có lợi cho hắn. Cuối cùng, tôi đã bắt hắn làm một số trắc nghiệm như ngày nay chúng tôi thường làm. - Và đến kết luận ra sao? - Theo tôi, bạn tôi có lý. Tôi nghĩ Michael R ĩ afiel không giết người. - Thế còn cái vụ đầu tiên hắn phạm trước đó? - Đúng là vụ ấy đã làm hại hắn. Đã có tiền sự thì dì ễ bị tị òa thành kiến. Phần tôi, đã có điều tra riêng. Hắn đã tấn công một cô gái, thậm chí cưỡng hiếp, nhưng hắn không định b ị óp cổ chết. Hơn nữa, qua kinh nghiệm nhiều vụ tương tự, tôi không cho là không có chuyện cưỡng hiếp. Cô lạ gì, con g ì ái thời nay hay dùng từ ấy để chỉ mỉ ột việc hoàn toàn tự nguyện! Mà cô gái ấy còn đi với nhiều đứa con trai khác, chắc không chỉ tr ỉ ong giới hạn của tình b ì ạn. - Rồi ông làm gì?ì - Tôi liên hệ với ông Rafiel, yêu cầu được gặp để nói về đứa con trai. Tôi nói lại tất cả, song cũng chỉ rỉ õ là hiện nay chúng tôi không có bằng chứng gì, nì ên không thể đòi tòa xử lại. Nhưng tôi cũng không giấu giếm ý nghĩ cĩ ủa tôi cho rằng đây là một vụ xử oan. Tôi gợi ý ông nên cho tiến hành một cuộc điều tra, tốn tiền đấy, nhưng chỉ cỉ ó thế mới làm rõ được một số tình ti ì ết mới. - Và tình c ì ảm của ông ấy đối với con trai thế nào? - Tôi phải nói rằng ông ấy tỏ ra hết sức thẳng thắn, trung thực, dù rằng .... - Dù rằng ông ấy tàn nhẫn. - Vâng, đúng thế. Ông ấy tàn nhẫn, nhưng công bằng, chính tr í ực. Ông ấy nói đại khái như sau: " Từ lâu tôi biết rõ bản chất thằng con tôi, và tôi không cố gắng để nó thay đổi, vì bi ì ết là không thể được. Đó là một thằng tồi tệ, xấu xa và bất lương, và không ai có thể uốn nó đi theo đường ngay. Do đó tôi cũng ngán và mặc kệ nó, dù về mặt pháp lý tôi vẫn chú ý. Khi nào có thể được, tôi đều làm hết sức để bênh vực nó. Giờ đây, sức tôi đã yếu, nhưng nếu đúng là nó bị kị ết án sai, thì nì ó phải được trả lại tự do. Nếu là một kẻ khác giết cô gái đó, tôi muốn vấn đề phải được làm sáng tỏ, và công lý phải lên tiếng. Nhưng tôi đang yếu, sống chẳng còn bao lâu, có khi chỉ tỉ ính b í ằng tháng, bằng tuần." Tôi liền đề nghị ông nên thuê luật sư, nhưng ông cắt lời, nói ngay: " Ông có nhờ họ thì nh ì ờ, nếu ông muốn, nhưng họ chẳng làm gì đưì ợc đâu. Có lẽ thời gian ngắn ngủi còn lại, tôi phải dự tính m í ột cái gì vì ậy. Tôi ủy quyền hoàn toàn cho ông, và để giúp ông, tôi sẽ thử nhờ đến sự cộng tác của một người". Ông ấy đưa tôi một số tiền để chi phí khi c í ần, và viết tên cô lên tờ giấy. " Tôi không cho ông địa ch ị ỉ cỉ ủa cô Marple, ông nói tiếp, vì tì ôi muốn ông làm quen với cô ấy trong những hoàn cảnh do tôi chọn lựa". Rồi ông nói đến chuyến du lịch n ị ày, bảo sẽ giữ cho tôi một suất. Ông nói thêm:" Cô Marple cũng sẽ đi chuyến này, ông sẽ làm quen, coi như gặp gỡ tình c ì ờ". Tôi phải tự chọn lúc nào thích h í ợp để tự giới thiệu với cô. Nhưng tôi cũng có thể không lộ mặt nếu tôi thấy làm thế có lợi hơn. Tôi liền yêu cầu ông kể nhiều hơn về cô, nhưng ông từ chối. Ông chỉ nỉ ói là cô biết đánh giá con người và có năng khiếu nhận biết đâu là cái ác. Cô Marple ngỡ ngàng một lúc. Giáo sư hỏi: - Cô có thấy là ông ấy nói đúng? - Cũng có thể. Giống như một số người có mũi thính, ng í ửi thấy được mùi khí lí ạ từ rất xa. Tôi có một bà cô, cô ấy tự cho mình c ì ó tài biết ai nói dối, ai không. Cô Marple kể lại tất cả những gì di ì ễn ra từ lúc cô gặp các luật sư của ông Rafiel, cho đến hôm cô về nghỉ tỉ ại Lâu đài Cổ. - Bà Glynne cùng cô chị vị à cô em có vẻ là những người rất bìnhì thường - cô nói - không có gì đì ặc biệt. hình như h ì ọ không biết nhiều về ông Rafiel. Tôi đã chuyện trò với họ, nhưng không đạt được điều gì.ì - Vậy cô không biết thêm gì tr ì ong thời gian ở Lâu đài ? - Tôi chỉ bi ỉ ết đúng những điều ông vừa nói nói, nhưng là do bà vú già nói. Bà ấy nói đến cô gái bị ám sát, và nói thêm cảnh sát tin chắc là con ông Rafiel là thủ phạm, và còn cho rằng anh ta còn phạm nhiều tội trước nữa. - Cô có cho rằng ba chị em - ho ị ặc ít nh í ất một trong ba người - có dínhí dáng đến vụ đó? g ụ - Không. Clotilde là người đỡ đầu cô gái, cô gái ấy rất yêu nó. - Có thể họ biết còn có một anh con trai khác. - Nếu vậy, thì ta ph ì ải tỉm r ỉ a anh chàng đó. - Thời gian cô ở đó, không xảy ra chuyện gì bì ất thường? - Không hẳn. Cô út tự cho mình l ì à giỏi vườn tược, thực ra không thuộc tên tất cả các loại cây và hoa. Tôi đã thử gài bẫy cô ta, nên biết chắc như vậy. và điều ... Ông có để ý hai cô Cooke và Barrow? - Hai bà cô già cùng đi với nhau, phải không? - Phải. Tôi phát hiện một điều lạ ở cô Cooke - nếu đúng đó là tên cô ấy. - Cô ấy còn có tên khác? - Có vẻ như thế. Một hôm cô ta đi qua nhà tôi, ở Sainte- Marie - Mead, trong lúc tôi thơ thẩn ngoài vườn, cô ấy chào tôi, nói mấy câu, rằng cô ấy ở nhà bà Hastings - mà tôi chưa nghe tên bao giờ - rằng cô làm vườn cho bà ấy. Nhưng chắc chắn đó là những lời nói dối, vì cì ô ấy không biết gì vì ề vườn tược. - Theo cô, tại sao cô ấy đến Sainte - Marie - Mead? - Tôi không biết. Chỉ bi ỉ ết rằng, cô ta để tóc mỗi lúc mỗi khác, trước đây tóc đen chứ không vàng, và lúc đó tự xưng là Barlett. Lúc tôi gặp lại trong xe, tôi không nhận ra ngay, chỉ thỉ ấy khuôn mặt quen quen. Sau đó tôi mới nhớ ra. Cô ta nhận có đến Sainte - Marie - Mead, nhưng chối là không biết tôi. Nhưng tôi thì cì ó thay đổi gì đì âu. - Qua đó cô rút ra kết luận gì?ì - Cô ấy đi qua lúc đó cốt để trông thấy tôi, nhằm sau này sẽ nhận được mặt tôi. - Nhưng để làm gì?ì - Nào tôi biết. Tôi chỉ thỉ ấy hai khả năng, trong đó một không lấy gì làm vui. Hai người im lặng một lúc lâu, rồi giáo sư Wanstead cất tiếng: - Tai nạn xảy ra với cô Temple cũng rất đáng ngờ. Trong khi đi đường, cô đã chuyện trò gì chưa? ì - Rồi. Và tôi định ph ị ải gặp cô nữa, khi cô ấy khá hơn. Hy vọng cô sẽ cung cấp nhiều chi tiết khác về cô gái bị gi ị ết, vì cì ô này đã từng là học trò của cô Temple. Trong lúc chăm chú chuyện trò với giáo sư, cô Marple vẫn nhìn r ì a ngoài phố, dọc khách sạn. - Kìa, kia l ì à cô Anthea - cái người cầm một bọc to ấy. Chắc cô ra bưu điện. - Cô ấy trông có vẻ kỳ lạ, với bộ tóc bù xù xõa xuống đầu. - Đúng. Lúc mới gặp; tôi liên tưởng ngay đến một Ophélie đang về già. Chương XIII: Chiếc áo thun ô vuông Bà Sandbourne trở về vào giờ ăn trưa. Những tin tức bà mang về không vui. Cô Temple vẫn chưa hồi tỉnh, v ỉ à cũng không thể chuyên chở được trong vòng vài ngày. Sau khi thông báo như thế, bà trở lại côg việc của người phụ trách đoàn, tuyên bố chuyến du lịch ti ị ếp tục như bình thư ì ờng vào sáng mai, ai muốn trở về London thì bì à sẵn sàng cung cấp giờ tàu để tùy định li ị ệu. Còn chiều hôm nay, sẽ chia thành nhiều nhóm đi chơi gần, bà sẽ lo xe cộ. Ra khỏi phòng ăn, giáo sư Wanstead kéo cô Marple ra chỗ vắng: - Trừ khi cô muốn nghỉ chi ỉ ều nay, nếu không, một giờ nữa tôi sẽ đón cô. Quanh đây có một nhà thờ khá đặc biệt, cô xem chắc sẽ thích. í - Xin vui lòng. * * * - Cô sẽ đi xem nhà thờ, và một làng nhỏ rất lạ - giáo sư nói. - Ông tốt quá. Cô Marple nghĩ lĩ à ông quan tâm chu đáo đến mình, ch ì ịu kh ị ó dẫn mình đi th ì ăm đây đó, hấp dẫn hơn. Ngồi trong chiếc xe thuê, thỉnh tho ỉ ảng cô lại liếc mắt nhin người đồng hành. Xe đi qua làng, ra tới một con đường nhỏ, vòng vèo ven các ngọn đồi. Giáo sư quay lại nói: - Thực ra chúng ta không đi xem nhà thờ. - Tôi cũng bắt đầu ngờ ngợ. Vậy ta đi đâu? - Bệnh viện Caristown. - Cô Temple điều trị ở đó, phải không? - Phải. bà Sandbourne mang về một bức thư của ông giám đốc, và tôi vừa liên lạc bằng điện thoại với ông ấy. - Cô ấy thế nào? - Không tốt lắm, và tôi e là khó khỏi. Cô vẫn chưa tỉnh, nhưng r ỉ ất có thể có những thoáng chợt tỉnh t ỉ áo. - Tại sao ông đưa tôi đến đó? Tôi không quen thân, mới chỉ gỉ ặp nhau lần đầu trong chuyến đi này. - Tôi biết. Nhưng trong một lúc chợt tỉnh, c ỉ ô ấy đã yêu cầu gặp cô. - Sao có chuyện ấy nhỉ? Mỉ ới quen sơ sơ. Tuy vậy, nếu cô ấy chết thì tì ôi rất buồn, vì cì ô ấy có vẻ là một phụ nữ đáng quý. Hình như c ì ô chuyên về toán, nhưng có hiểu biết rất rộng, và là một nhà giáo dục thực sự đúng với ý nghĩa c ĩ ủa nó. Tuy đã nghỉ hưu, c ỉ ô vẫn còn uy tín tr í ong giới giáo. Cái tai nạn chết tiệt ... Nhưng chắc ông chẳng muốn nhắc lại nó nữa ? - Trái lại, tôi còn thông báo cho cô những tình ti ì ết. Như đã biết, cô Temple bị mị ột tảng đá rơi từ trên đường dốc lao xuống đường mòn phía dư í ới. Đành rằng việc này thỉnh tho ỉ ảng vẫn xảy ra. Tuy nhiên, có người đã nói với tôi rằng trong tai nạn này có một điểm lạ lùng. - Ai nói? - Joanna Crawford và Emlyn Price. Cô gái có cảm giác rõ ràng - nếu không nói là chắc chắn - rằng có một người nào đó trên mỏm đá cao. Cô đang cùng Emlyn leo con đường hẹp chạy quanh đồi, đến một chỗ ngoặt chợt trông thấy một bóng người in trên nền trời. Người lạ - cô không phân biệt được rõ là đàn ông hay đàn bà - đang cố đẩy một hòn đá to đã bắt đầu lung lay, rồi rơi hẳn ra và lăn xuống dốc. Cô Temple lúc đó đang đi ở đường dưới, đúng chỗ tảng đá rơi. - Joanna không thể xác định b ị óng người đó là đàn ông hay đàn bà? - Không. Cô ta chỉ kh ỉ ẳng định ngư ị ời đó mặc chiếc áo thun kẻ ô vuông nhỏ và đen. Hơn nữa, người này đã quay lại ngay và biến mất trong rừng đá. Cô ta nghĩ cĩ ó thể là đàn ông, nhưng không chắc. - Cô ta có cảm tưởng là một vụ mưu sát cô Temple? - Càng nghĩ cĩ ô ta càng tin như thế. Cậu Price cũng cùng một ý kiến. - Chắc ông chưa có một ý niệm gì vì ề lai lịch ngư ị ời lạ đó? - Chưa. Họ cũng không. Có thể là một người trong đoàn, cũng có thể là người nào khác biết là đoàn dừng ở đây và lợi dụng cơ hội để tiến hành mưu sát. Ngày nay bọn sùng tín b í ạo lực không ítí , hoặc là một kẻ thù bí mật; - Kẻ thù bí mí ật. Nghe có vẻ ly kỳ. - Đúng vậy. Ai có thể đang tâm giết một cô hiệu trưởng đang kính? T í a phải tìm l ì ời đáp cho câu hỏi ấy. Có thể cô Temple sẽ chỉ dỉ ẫn cho ta tìmì đúng đường . Có thể cô ấy đã nhận được mặt cái kẻ đứng trên đầu mìnhì trong lúc cô đang leo dốc. Cô ấy cũng có thể cho biết ai là người muốn hại mình. ì - Khó lắm. - Đành thế. Nhưng nghĩ cho k ĩ ỹ, hiệu trường là người tiếp xúc với nhiều loại người. Một số đông học sỉnh đ ỉ ã qua tay cô ấy, do đó cô có thể biết nhiều chuyện. Ví dí ụ, những chuyện tình v ì ụn trộm của các cô gái, mà cha mẹ không biết. Từ hơn chục năm nay, chuyện ấy là thường. Người ta nói con gái ngày nay vào đời sớm hơn xưa. Về mặt sinh lý, điều đó đúng. Nhưng ở một khía c í ạnh khác, họ lại chậm trưởng thành. Thế nhưng, giống hệt trẻ con, họ lại muốn được coi là người lớn, muốn được tự do làm những điều mà cho là của người trưởng thành. Chính c í ách xử sự đôi khi dẫn đén bi kịch. ị - Ông định n ị ói trường hợp cụ thể nào? - Không. Tôi chỉ ng ỉ hĩ, kh ĩ ó lòng cô Temple lại có một kẻ thù riêng, một kẻ thù quyết liệt đến mức phải giết cô. Tôi nghĩ ..... ĩ Giáo sư ngừng lời, nhìn c ì ôMarple. - Cô đặt giả thuyết gì kh ì ông? - Không. Nhưng tôi hiểu ý kiến của ông rồi. Theo ông, cô Temple có thể là người biết một bí mí ật gì ngu ì y hại cho người thứ ba... - Vâng. Đúng như thế. - Nếu vậy, ta có thể gaỉ thỉ ử là một người nào đó trong đoàn đã nhận ra cô ấy. Cô ấy thì kh ì ông nhận ra "kẻ thù", vì nhi ì ều năm đã trôi qua từ khi gặp nhau lần đầu. Nhưng ... ta hãy trở lại chiếc áo thun ô vuông. - Cô có ý kiến gì?ì - Theo mô tả, đó là một cái áo đặc biệt. Đặc biệt đến mức Joanna chú ý ngay và nhớ ngay. - Điều ấy gợi cho cô suy nghĩ gĩ ì?ì - Gợi cho tôi nghĩ đĩ ến một lá cờ - cô Marple đáp, vẻ mơ màng. Một cái áo mà người ta không thể không chú ý, phải ghi nhớ, nhận ra ngay ... - Tôi hiểu cô định n ị ói gì rì ồi. - Khi ta mô tả một người nhìn t ì ừ xa, điều đầu tiên được chú ý, là quần áo. Ví dí ụ: mũ bê rê đỏ, áo khoác tím, í áo vét da, áo thun ô vuông đỏ và đen. Những cái đó rất dễ nhận và người nào đã mặc nó một lúc nhất định r ị ồi cởi nó ra , đốt nó đi, vứt nó vào sọt rác, hoặc gói vào rồi đem gửi bưu điện, thì hì ắn lại trở lại quần áo bình thư ì ờng, không ai nhận ra. Vậy chiếc áo thun ô vuông đã được ai đó cố tình m ì ặc lúc xảy ra tai nạn với cô Temple. - Lập luận có vẻ đúng, nhất là trường trung học Fallowfiel cách đây không xa, khoảng mười lăm dặm. Vùng này có thể nói là lãnh địa c ị ủa cô Temple, cô quen biết nhiều người ở đây, và chắc chắn ai cũng biết cô. - Như vậy phạm vi tìm t ì òi của chúng ta càng thêm rộng. Tôi cho nhiều khả năng kẻ phạm tội là đàn ông. Tảng đá, nếu đúng là bị cị ố tình b ì ẩy ra, đã lao xuống rất chính x í ác, phải là đàn ông mới làm được. Như đã nói lúc nẫy, người nhận ra cô Temple, có thể là người trong đoàn du lịchị ngồi trong xe, song cũng có thể bị ai đ ị ó bắt gặp ngoài phố. Một cô học trò cũ chẳng hạn, mà cô không nhớ vì qua l ì âu ngày. Nhưng cô học trò thì phải nhận ra cô hiệu trưởng cũ, và một phụ nữ sáu mươi tuổi thì cì ũng không khác lắm so với lúc năm mươi hay năm nhăm. Cô học trò đó biết là cô hiệu trưởng nắm được bí mí ật gì cì ủa mình, c ì ó thể gây hại, thậm chí là mối nguy nghiêm trọng với mình. Ti ì ếc rằng tôi không thuộc vùng này lắm. Ông có hơn gì tì ôi về mặt này không? - Tiếc rằng tôi cũng không. Và nếu không gặp cô, tôi còn mù mờ hơn. Vậy cô không biết chính x í ác cô đến nơi đây để làm gì. Th ì ế mà ông Rafiel lại thu xếp cô đến đây, và chúng ta gặp nhau. Chúng ta đã dừng chân nhiều nơi, nhưng ông ấy muốn ta gặp nhau ở đây, và để cô qua hai ngày ở Lâu đài Cổ. Điều ấy có lý do gì cì ụ thể? - Chắc ông ấy mong tôi nắm được một số sự việc đến nay chưa biết. - Về những vụ án mạng từng xảy ra ở đây những năm qua? - Giáo sư hỏi với vẻ nghi ngờ. Thực ra ở vùng này các sự việc xảy ra cũng không khác gì cì ác nơi khác ở khắp nước Anh, và thường đã xảy ra là xảy ra hàng loạt. Một cô gái bị tị ấn công và bóp cổ chết, rồi đến một cô khác cũng bị như th ị ế cách đó không xa, rồi một cô nữa chết trong hoàn cảnh tương tự. Người ta thông báo có hai cô gái bị mị ất tích, í ở Jocelyn - Sainte - Marie. Một là cái cô thường thấy cặp kè với Michael Rafiel, sáu tháng sau mới tìm th ì ấy xác cách đây ba mươi dặm. - Còn cô thứ hai? - Là Nora Broad. Cô này luôn bị bị ọn con trai quấy nhiễu. Xác vẫn chưa tìm r ì a, nhưng chắc sẽ có ngày. Có trường họp phải hai mươi năm sau mới thấy. Nhưng ta đến Carristown rồi, bệnh viện kia. Cô Marple đi theo giáo sư Wanstead. Một cô thường trực ngồi sau quầy đứng lên đón họ: - Ồ! Giáo sư đây rồi. Còn đây chắc là cô Marple? Cô y tá trưởng Barker sẽ đưa các vị đi. ị - Cô Temple ra sao? - Hình như kh ì ông khả quan. Song để tôi giới thiệu các vị vị ới cô Barker, cô ấy rõ hơn tôi. Y tá trưởng là một phụ nữ cao, gầy, mắt sắc, giọng nghiêm nghị:ị - Tôi cần nói trước vài điều với cô Marple. Bệnh nhân vẫn còn hôn mê, chỉ cỉ ó vài thoáng hơi tỉnh. L ỉ úc đó, cô ấy nói được vài từ, không thể yêu cầu hơn. Chắc giáo sư đã nói cô biết là trong một lúc hồi tỉnh ỉ ấy, bệnh nhân đã gọi tên cô. Và nói tiếp:" Tôi muốn gặp". Sau đó lại rơi vào vô thức. Bây giờ tôi yêu cầu các vị ở lại một thời gian trong phòng bệnh để đón lúc nào cô ấy tỉnh v ỉ à nói gì. Vì ì cì ác vị kh ị ông phải họ hàng gần, tôi xin được nói thẳng: tình h ì ình b ì ệnh nhân tiến triển xấu, ngày càng yếu đi, thậm chí cí ó thể không tỉnh l ỉ ại lần nào nữa. Tuy nhiên, cứ nên có người trực bên cạnh, phòng có lúc bệnh nhân tỉnh v ỉ à muốn nói. Không nên có nhiều người. Tuy nhiên, chúng tôi vẫn bố trí mí ột cô y tá thường xuyên có mặt, nhưng ngồi một chỗ bệnh nhân không nhìn th ì ấy. Nếu bệnh nhận tỉnh d ỉ ậy, chỉ thỉ ấy một người, lại là người quen biết và cô ấy đang chờ đợi, thì sì ẽ yên tâm hơn. Tôi nói vậy, các vị đị ã rõ chưa? - Rõ rồi. Vâng, tai tôi hơi nặng, không nghe rõ như trước, nhưng nếu ngồi sát giường, chắc sẽ nghe được những gỉ cỉ ô Temple nói. - Tốt. Nếu giáo sư Wanstead ở lại trong phòng chờ dưới nhà, chúng tôi sẽ gọi ông khi cần thiết. Nào, bây giờ cô Marple theo tôi .... Phòng bệnh nhân hẹp, sáng mờ mờ. Elizabeth Temple nằm trên giường như một bức tượng. Tuy nhiên, cô không có vẻ đang ngủ. Cô y tá cúi xuống một lát, rồi ra hiệu cho cô Marple ngồi xuống ghế kê sát đầu giường bệnh nhân. Rồi cô ta lặng lẽ đi thẳng ra cửa, một cô y tá trẻ, ngồi sau bức bình phong, th ì ò đầu ra. Y tá trưởng dặn: - Cô Edmond, nếu cần thì gì ọi tôi, còn bây giờ, hãy giúp cô Marple. Cô Marple ngồi vào ghế, mắt chăm chăm nhìn b ì ệnh nhânlòng băn khoăn không rõ có đạt được gì kh ì ông. Mười phát trôi qua, rồi hai mươi phút. Nửa tiếng. Đột nhiên giọng cô Temple thốt lên, khe khẽ và hơi khàn, nhưng rõ: - Cô Marple? Elizabeth Temple mở mắt, nhìn ngư ì ời ngồi đầu giường: - Cô khoẻ .... cô Marple? - Khoẻ. - Henry thường nói về cô. - Henry? - Henry Clithering, bạn tôi. - Tôi có quen ông ấy, cô Marple nhẹ nhàng đáp. - Tôi nhớ ra tên cô ... khi xem danh sách hành khách. Và tôi nghĩ cĩ ô có thể giúp chúng tôi tìm r ì a sự thật. Rất quan trọng, tuy việc xảy đã lâu. Giọng người bệnh hơi lả đi, mắt nhắm hờ. Cô y tá đi ngang phòng, cầm chiếc cốc trên bàn đặt lên môi người bệnh. Cô Temple nhấp một ngụm, rồi gật đầu ra hiệu đã uống đủ. Cô y tá đặt cốc, trở về chỗ. Cô Marple: - Nếu tôi giúp được gì, xin s ì ẵn sàng. - Cảm ơn. Cô Temple nhắm nghiền mắt đến hai, ba phút, rồi lại mở. - Ai? Cần phải biết. Cô hiểu tôi định n ị ói ai? - Tôi đoán. Một cô gái bị gi ị ết. Nora Broad? Cô Temple khẽ chau mày: - Không, cô khác kia. Verity Hunt. Rồi im lặng. Rồi: - Cô Marple, cô nhiều tuổi hơn lúc Henry nói về cô. Nhưng cô vẫn có khả năng tìm r ì a sự thật chứ? Cô Temple hơi cao giọng, nói tiếp: - Cô nói đi ..... tìm đư ì ợc? Tôi không còn bao lâu nữa, tôi biết ..... có thể nguy hiểm cho cô. Nhưng cô sẽ tìm r ì a, chứ ? - Với sự giúp đỡ của Chúa, tôi sẽ tìm r ì a sự thật. Mắt cô Temple lại nhắm nghiền, trên môi thoáng một nụ cười. - Tảng đá to, cô lẩm bẩm. Tảng đá của thần chết ... - Ai đẩy xuống? - Không biết. Không quan trọng .... Chỉ cỉ ần Verity. Thân hình ngư ì ời bệnh doãi dần ra: - Vĩnh bi ĩ ệt. Nhờ cô cố gắng ... Đôi mắt lại nhắm. Cô y tá lại gần, bắt mạch. Rồi ra hiệu cho cô Marple đi theo ra ngoài. - Cô ấy đã hết sức rồi, và chắc sẽ không hồi tỉnh l ỉ ại ngay. Có thể không bao giờ nữa . * * * - Cô biết được điều gì kh ì ông? Giáo sư hỏi, khi bước lên xe cùng cô Marple. - Một cái tên, Verity. Đúng tên cô gái là như thế? - Phải. Verity Hunt. * * * Một giờ rưỡi sau, Elizabeth Temple chết. Chương XIV: Ông Broadribb Wonders Ông Broadribb tự hỏi - Ông đọc Thời báo sáng nay chưa? - Ông Broadribb hỏi. Ông Schuster đáp là ông đọc Điện tín, kh í ông đọc Thời báo. - Thế thì tì ờ ấy chắc cũng đăng tin. Cô Elizabeth Temple, tiến sĩ khoa ĩ học, đã chết. Ông Schuster chợt tỏ vẻ chú ý. Ông Boadribb nói tiếp: - Là hiệu trưởng trường trung học Fallowfiel. Hẳn ông đã nghe nói về Fallowfiel. - Tất nhiên. Trường nữ trung học loại sang, cực kỳ đắt tiền. Tôi còn biết cô Temple là hiệu trưởng, nhưng đã nghỉ hưu c ỉ ách đây sáu tháng. Báo hồi ấy đã đăng. Báo còn nói về người hiệu trưởng mới, một phụ nữ trẻ - băm nhăm, bốn mươi thì ph ì ải - có chồng, tư tưởng rất tân tiến. Dạy học sinh cả cách trang điểm, và cho phép chúng mặc quần dài. - Hừm! Ông Broadribb hầm hừ, vẻ không bằng lòng. Với phương pháp như thế, chắc gì đì ã gây được tiếng tăm bằng cô Temple. Cô này đúng là người có uy tín, ph í ụ trách nhà trường từ lâu. - Thế thì sao? ì Ông Schuster hờ hững. Ông không hiểu tại sao đồng sự lại quan tâm một hiệu trưởng quá cố đến thế. - Cô ấy đi trong đoàn du lịch b ị ằng xe ca ... - À, xe ca! Tôi không bao giờ cho người nhà đi loại phương tiện ấy. Tuần trước ở Thụy Sỹ, một chiếc bị nị ạn, hai mươi người bị thư ị ơng. Thật không hiểu họ đào tạo lái xe ra sao! - Đây là xe của công ty Lâu đài và vườn hoa danh tiếng. - Ơ ... có phải chính l í à đoàn có cô Marple đi, người mà ông Rafiel bảo trợ? - Chính th í ế. - Cô ấy không làm sao chớ? - Theo tôi biết thì kh ì ông. Không phải tai nạn giao thông. Khách tham quan đang trèo một dãy đồi khá dốc thì đì á bên trên rơi xuống, làm cô Temple bị thư ị ơng. Cô được đưa đi bệnh viện và chết ở đó. - Thật không may. - Tôi đang tự đặt một số câu hỏi, vì tì ôi chợt nhớ là cô gái ấy đã học trường Fallowfiel. - Ông nói cô gái nào vậy? - Cô gái mà Micheal Rafiel giết. Tôi nhớ lại một số tình ti ì ết có vẻ như có liên quan tới vụ này. Giá ông Rafiel cho mình tin t ì ức cụ thể hơn. - Ông thấy liên quan ở chỗ nào? Ong Schuster chợt tò mò. - Cô gái ấy - tên là Verity Hunt, nếu tôi nhớ đúng - là một trong số cô gái bị ám sát thời đó, sáu tháng sau mới tìm th ì ấy thây thể ở một nơi cách làng chừng ba mươi dặm. Con bé bị bị óp cổ rồi đập nát mặt, nhưng nhờ quần áo, chiếc túi xách, đồ nữ trang, người ta mới nhận ra. - Vì vì ụ ấy mà Michael Rafiel bị kị ết án? - Phải. Người ta còn nghi là hắn giết ba cô gái khác trong năm trước, nhưng thiếu chứng cớ, nên chỉ xỉ ử hắn về tội giết Verity Hunt. Trước đó hắn đã có tiền sử về tội hãm hiếp. Thực ra thời nay ta hiểu tù ấy nghĩa l ĩ à gì. Mì ột cô gái rủ con trai về nhà mình tr ì ong khi bố mẹ đi làm vắng nhà, rồi khêu gợi cho đến khi điều tất yếu xảy ra. Sau đó, bà mẹ dặn con gái cứ coi đó là cưỡng hiếp. Nhưng thôi ... vấn đề không phải ở đó. Tôi đang băn khoăn không biết cái mà ông Rafiel nhờ cô Marple điều tra có phải là liên quan đến Michael. - Nhưng hắn ta đã bị coi l ị à thủ phạm và bị tị ù chung thân rồi? - Phải. Chuyện lâu rồi .... - Và Verity Hunt học ở trường mà cô Temple làm hiệu trưởng? Nhưng lúc cô ta bị ám sát, chắc đã thôi học rồi. - Đúng. Lúc đó cô ta vừa mười tám, mười chín, v í à ở nhà bố mẹ. Hay ở nhà bạn, tôi không rõ. Một cô gái mà người ta thường nói:" Tính kh í í nhu í mì, nh ì út nhát, không bao giờ dám đi chơi với người lạ, không có bạn trai". Nhưng thực ra, có bao giờ bố mẹ biết con gái có bạn trai hay không, chúng nó giấu rất kín. C í òn thằng Michael, nghe nói, cũng lắm cô gái theo lắm. - Người ta tin chắc hắn phạm tội? - Không nghi ngờ một chút nào. Ra tòa, hắn nói lung tung, toàn những điều gian dối, luật sư khuyên hắn im đi thì hơn. M ì ột số bạn của hắn đến khai nhằm để hắn có chứng cớ ngoại phạm, nhưng không lời khai nào có cơ sở, nên cuối cùng hắn bị kị ết tội. - Thế ý kiến riêng của ông thế nào? - Ồ! Tôi không ý kiến gì. Tì ôi chỉ tỉ ự hỏi cái chết của cô hiệu trưởng có dính g í ì đì ến vụ ấy không? - Làm sao mà ông cho có mối liên quan? - Ông biết không, khi tảng đá rơi từ trên cao xuống trúng một người, không phải luôn luôn là tác phẩm của tạo hóa. Theo tôi biết, đá luôn luôn có xu hướng nằm nguyên tại chỗ. Chương XV: Verity - Verity, cô Marple lẩm bẩm. Elizabeth Margaret Temple đã mất tối hôm trước. Cuộc điều tra sẽ tiến hành vào mười một giờ ngày mai. Người ta cũng đã mời cha xứ đến để làm lễ cầu hồn trong nhà thờ. Các nhân viên công ty lễ tang, trang phục toàn đen, mặt luôn nghiêm trang theo nghề ngiệp, đang cộng tác với cảnh sát địa phư ị ơng lo liệu mọi việc. Đoàn tham quan nhất trí sí ẽ dự lễ cầu hồn và cuộc điều tra. Bà Glynne đến tận khách sạn Lợn lòi vàng để mời cô Marple trở về ở Lâu đài Cổ cho đến khi đoàn tiếp tục lên đường. - Như vậy, cô khỏi bị cị ác phóng viên làm rầy - bà nói. Cô Marple cảm ơn thịnh t ị ình ì ấy và nhận lời. Sau lễ cầu hồn, chắc đoàn sẽ tiếp tục đi. Chặng tiếp theo sẽ là South Bedestone, cách ba mươi dặm, ở đó có một khách sạn sang trọng lẽ ra phải tới đó rồi, nếu không bị gián đoạn vì tai n ì ạn. Và từ đó, lộ trình s ì ẽ tiếp tục như cũ. Cô Marple lại ngồi đan trong Lâu đài Cổ, và lan man nghĩ đĩ ến chuyện gì sì ẽ tiếp theo. Và chính l í úc đó, cô vừa gọi tên Verity, như người ném hòn gạch xuống ao để quan sát kết quả. Liệu cái tên đó có ý nghĩa g ĩ ì vì ới ba chị em? n ị ếu không, cô sẽ thử cách khác, khi trở về khách sạn dùng bữa tối cùng mọi người. Cái tên ấy gần như là từ cuối cùng mà Elizabeth Temple thốt ra, chắc sẽ tạo nên phản ứng. Cô đã không lầm. Dù vẫn giữ vẻ thản nhiên, mắt cô, nấp sau đôi mục kính, ch í ăm chú quan sát ba người phụ nữ. Bà Glynne để rơi quyển sách đang cầm, nhìn c ì ô với vẻ ngạc nhiên không che giấu. Clotilde ngửng phắt đầu, và đáng lẽ nhìn c ì ô Marple, lại quay mặt nhìn r ì a cửa sổ. Cô không đụng đậy, chắp hai tay, và những giọt nước mắt lăn xuống má. Cô cũng không buồn lấy khăn lau, và không nói một lời. Sự buồn rầu của cô khiến cô Marple phải xúc động. Phản ứng của Anthea hoàn toàn khác: - Verity? Cô vừa nói Verity? Cô biết nó? Tôi không nghĩ ... C ĩ ó phải cô định n ị ói verity Hunt? - Một cái tên rất hiếm. Verity. Cô Marple đáng rơi cuộn len đang đan và nhìn quanh b ì ằng con mắt lúng túng như người nhận ra là mình đ ì ã nói hớ câu gì.ì - Tôi ... tôi rất tiếc. Lẽ ra tôi không nên nói ra? Chỉ tỉ ại ... - Một cái tên ... cái tên chúng tôi biết, và gợi lên nhiều kỷ niệm, bà Glynne nhẹ nhàng nói. Cô Marple nói như để thanh minh: - Tên ấy vừa thoáng qua đầu óc tôi, vì cì ô Temple đã nói trước mặt tôi, trước khi chết. Bà và hai cô biết là tôi đã đến thăm cô ấy ở bệnh viện. Giáo sư Wanstead cho là tôi đến có thể giúp cô ấy ... tỉnh l ỉ ại được chăng. Nói như thế không biết có đúng không. Tôi không phải bạn thân, song hai chúng tôi đã chuyện trò nhiều với nhau dọc đường, nên giáo sư bảo tôi nên đến thì tì ốt hơn. Tiếc thay! Không được như thế. Tôi đã ngồi bên cô ấy và chờ. Cô ấy đã nói vài câu rời rạc. Rồi đột nhiên, tôi sắp ra về thì cô mở mắt nhìn t ì ôi chằm chằm. Hay là cô tưởng tôi là người nào khác chăng. dù sao thì cuì ối cùng cô cũng nói rất rõ: Verity. Hai giờ sau, cô đã trút hơi thở cuối cùng, do đó bà và hai cô hiểu cho là tôi nhớ như in cái tên đó như thế nào. Song, rất có thể tiếng đó chỉ lỉ à một từ chung: sự thật (1). Chắc cô ấy có điều gì thì ắc mắc. Cô Marple lần lượt nhìn ba ngư ì ời ngồi trước mặt. - Đó là tên một đức con gái mà chúng tôi biết - bà Glynne nói. Vì thì ế nên chúng tôi ngạc nhiên. - Nhất là vì, nì ó chết một cách thê thảm, Anthea nói xen. Clotilde giật mình, ng ì hiêm giọng: - Thôi, Anthea, đừng đi sâu nữa. - Nhưng mọi người đều biết cả. Anthea vẫn nói và quay về phía c í ô Marple. Cô quen ông Rafiel, vậy chắc cô có nghe nói về nó. Tóm lại, tôi muốn nói là ... Trong thư, ông ấy có nói về cô. Vậy tôi nghĩ rĩ ằng ông ấy đã kể cô nghe tất cả câu chuyện. - Xin lỗi, tôi chưa hiểu ... - Người ta đã tìm th ì ấy thi thể nó trong một cái hố. Không còn cách nào kìm gi ì ữ Anthea được nữa, một khi cô đã bắt đầu. Điều đó làm Clotilde càng đau buồn, bây giờ cô đã lấy mùi soa đưa lên lau mắt. Cô ngồi ngay trên ghế, vẻ nhớn nhác. Cô nói, giọng nghẹn ngào: - Verity là một đứa con gái tất cả chúng tôi đều yêu quý. Bố mẹ nó là hạn của tôi, bị chị ết trong một tai nạn máy bay, và nó đã về sống với chúng tôi một thời gian. - Nó học trường Falowfiel - bà Glynne nói, và chắc cô Temple còn nhớ nó. - Sau khi bố mẹ chết, Clotilde giải thích, V í erity về ở với chúng tôi, trong khi chờ quyết định v ị ề tương lai. Con bé mười chín tu í ổi, rất dễ thương, dịu d ị àng, hiếu thảo. Có lúc cháu muốn trở thành y tá. Nhưng cháu rất thông minh, cô Temple bảo nên để cháu học lên đại học. Vậy là cháu chuẩn bị vị à đang theo học các lớp ôn tập, thì .... chu ì yện khủng khiếp xảy ra. Clotilde quay mặt đi, lẩm bẩm: - Hay thôi ... ta không nói chuyện đó nữa, có được không? - Tất nhiên là được, cô Marple đáp. Tôi rất tiếc đã vô tình đ ì ã làm bà và hai cô gợi lại những kỷ niệm đau buồn. Tôi không biết ... không ngờ. Tóm lại, tôi muốn nói ... Cô làm bộ bối rối, nói vài câu vô nghĩa n ĩ ữa, rồi im bặt . * * * Tối hôm đó, bà Glynne vào phòng gặp cô Marple trong lúc cô đang thay đồ để trở về khách sạn. - Tôi thấy cần đến để nói với cô thêm một chút về ... Verity Hunt. tất nhiên, cô không thể biết Clotilde rất gắn bó với cháu, và cái chết thảm thương đó đã giáng một đòn nặng vào chị. Tị rước mặt chị, ch ị úng tôi vẫn tránh nhắc đến tên cháu, và .... Bà Glynne ngừng một lát, trước khi trầm trầm nói tiếp : - Tôi thấy nên trình b ì ày rõ các sự việc xảy ra, như thế cô sẽ thông cảm hơn. Chúng tôi không biết là Verity có quan hệ gắn bó với một thanh niên không tốt lắm – và nguy hiểm nữa – đã từng có chuyện rắc rối với pháp luật. Một lần khi đi qua đây, hắn có lại nhà chơi, vì chì úng tôi biết bố hắn. Thôi thì … xin n ì ói luôn : đó là con trai ông Rafiel : Michael Rafiel. - Trời ! cô Marple khẽ kêu. Đúng là tôi nghe đồn ông có một cậu con trai thường gây nhiều chuyện phiền lòng. - Nói thế còn là nhẹ. Hắn đã hai lần bị kị ết án vì tì ội quyến rũ phụ nữ, hắn còn là một tên ăn cắp, giả mạo ngân phiếu và nhiều hành động tương tự. Chúng tôi từng là bạn của mẹ hắn, nên thường nói thật may là bà ấy mất sớm. khỏi phải nhìn th ì ấy hành động của đức con mất dạy. Ông Rafiel đã tìm m ì ọi cách giúp nó : tìm cho n ì ó việc làm thích h í ợp, thuê luật sư bào chữa khi có chuyện, tôi chắc ông ấy rất khổ tâm, dù bề ngoài tỏ ra dửng dưng. Trong vùng này, khoảng ba mươi dặm trở lại, xảy ra hàng loạt tội ác và bạo lực. Một hôm, Verity nói là đến chơi nhà bạn, rồi không thấy về. Chúng tôi báo cảnh sát, họ đã xục xạo khắp nơi, nhưng không ra dấu vết gì. Ch ì úng tôi đưa cả thông báo tìm ngư ì ời mất tích tr í ên báo và đài, cũng vô hiệu. Có lúc tôi đã nghĩ ha ĩ y là cháu trốn đi với người tìnhì nào. Rồi có người nói đã thấy cháu đi với Michael Rafiel. Cảnh sát theo dõi anh chàng, người ta còn nghi hắn phạm nhiều tội khác nữa. Tuy nhiên không có bằng chứng nào buộc tội cả. Vậy là chỉ bi ỉ ết Verity có đi với một thanh niên nhận dạng giống Michael, nhưng không có chứng cớ thuyết phục nào khác. Cho đến sáu tháng sau, người ta phát hiện thi thể con bé trong một cái hố ở rìa mì ột mỏ đá hoang. Clotilde phải đến nhận diện. Một số đặc điểm như : nốt ruồi, sẹo nhỏ… cho phép khẳng địnhị chính l í à Verity. Và chị Clotilde kh ị ông bao giờ nguôi ngoai được khỏi cú sốc nặng nề đó. Cô Temple cũng rất quý Verity. Chắc cô nhớ đến cháu, trước khi qua đời. - Tôi rất đau lòng, thực sự đau lòng, cô Marple nói. Hãy nói với chị bị à rằng, quả là tôi không biết … Chương XVI: Cuộc điều tra Cô Marple thong thả đi dọc phố chính c í ủa làng để tới nơi mà cảnh sát tư pháp sẽ tiến hành cuộc điều tra. Nhìn đ ì ồng hồ và thấy còn sớm tới hơn hai mươi phút, cô dừng lại ở một cửa hàng bán len và vật dụng cho trẻ. Bên trong, một cô bán hàng trẻ đang thử quần áo cho hai đứa trẻ. Ngồi xa hơn, sau quầy, là một phụ nữ đứng tuổi. Cô Marple đi vào, đến gần bà tà, rút ra trong túi xách một mẩu len màu hồng. Cô nói cần đan tiếp nhưng còn thiếu một cuốn. Bà bán hàng tìm ng ì ay được thứ cô cần. Cô trả tiền, rồi có vẻ say sưa đúng ngắm nhìnì một bảng quảng cáo trưng bày đủ loại len các màu, ra chiều thích th í ú. Tiếp đó, cô khéo léo gài vào cuộc chuyện trò một câu nhắc đến tai nạn của cô Temple. Bà Merrypit - nếu đúng đó là tên bà chủ cửa hàng ghi ở ngoài cửa - liền than phiền không biết đến bao giờ chính qu í yền địaị phương mới áp dụng các biện pháp cần thiết để những tai họa như vậty khỏi xảy ra. Bà nói : - Bà biết đấy, trời mưa, đất ải đi, và đá rơi xuống. Tôi nhớ có một năm xảy ra tới ba tai nạn. Một lần, đứa bé suýt chết ; sáu tháng sau, một ông bị gị ẫy tay ; và người thứ ba là bà Well tội nghiệp, vừa mù vừa điếc. bà ta không nghe thấy gỉ, nỉ ếu không thì đì ã lùi lại, tránh được. Bà ta chết ngay tại chỗ. - Thật đáng buồn, cô Marple thở dài. Tai họa là do thiên nhiên, nhưng … có khi cũng do những kẻ nghịch ng ị ợm, bất cẩn. Họ hè nhau đẩy hòn đá … - À, đúng rồi ! bao giờ cũng có những lũ trẻ chơi trò ngu ngốc. Song, ở Bonaventure, chưa bao giờ có chuyện ấy. Cô Marple chuyển câu câu chuyện sang đề tài áo thun : - Không phải cho tôi đâu, mà cho một đứa cháu. Nó thích m í ột áo thun cổ lộ, màu tươi. - Vâng, bọn trẻ thích c í ác màu sáng, đập vào mắt, trừ quần thì lì ại dùng màu đen hoạc màu xanh sẫm. - Cô Marple nói rõ : Muốn mua một áo thun kẻ ô vuông. Đỏ và đen chẳng hạn. Trong cửa hàng, có rất nhiều áo thun đủ màu, nhưng không có đỏ và đen. Và cũng chưa bao giờ có loại áo ấy. Vừa chọn len, cô Marple lái câu chuyện sang các vụ án mà cô nghe nói đã từng xẩy ra trong vùng. Bà Merrypit : - Người ta đã bắt được thủ phạm. Một thanh niên bảnh trai, thoạt trông không ai nghĩ lĩ ại atén ác đến thế. Được nuôi dạy tử tế, học đại học, nghe nói có ông bố rất giàu. Hẳn tâm thần nó rối loạn thế nào, vì cì ó đến năm, sáu đứa con gái khác đã bị gi ị ết như thế. Cảnh sát lần lượt thẩm vấn tất cả thanh niên trong vùng, đặc biệt một cậu tên là Geoffroy Grant. Lúc đầu, ai cũng nghĩ cĩ ậu ta là thủ phạm, vì thì ái độ hơi kỳ quặc. Ngay từ thời đi học, hắn đã hay bám theo con gái, cho kẹo rồi rủ chúng đi vào đường vắng. Đúng, người ta nghi ngờ hắn, nhưng hóa ra không phải. Có một kẻ tình ng ì hi khác, là Bert William. Nhưng tên này cũng có bằng chứng ngoại phạm. Rồi đến Michael này. Như tôi đã nói, hắn đẹp trai, những đã có nhiều tiền sự : ăn cắp, dùng ngân phiếu giả, vân ..vân. Không kể hai vụ làm con gái người ta chửa … - Cái cô bị gi ị ết lúc đó có mang hay không ? - À ! Khi tìm th ì ấy thi thể, thoạt đầu người ta tưởng đó là Nora Broad, cháu gái ông thợ xay. Cô này cũng hay chạy theo con trai, và đi đâu mấy tích. Nhưng kh í ông phải là cô ta, mà là một cô khác. - Sau có tìm th ì ấy Nora không ? - Không, người ta cho là xác đã bị vị ứt xuống sông. - Cô ấy kia, tìm đư ì ợc xác ấy, hình như s ì ống ở gần đây ? - Virity Hunt, phải, sống ở Lâu Đài Cổ từ khi bố mẹ mất trong một tai nạn máy bay. Nghe nói bà Glynne là bạn của mẹ cô ấy. Nhưng lúc đó bà chưa về ở Lâu Đài, còn đang sống với chồng ở nước ngoài. Clotilde, chị của bà Glynne, là người chăm nuôi con bé. Cô ấy yêu nó lắm, nên khi nó mất tích, c í ô ấy đau khổ đến tuyệt vọng. Cô ấy khác hẳn cô Anthea. - Anthea là cô út trong ba chị em, ph ị ải không ạ ? - Phải. Nghe nói trí óc cô ấy không bình thư ì ờng. Thỉnh tho ỉ ảng, thấy cô ấy đi ngoài phố, đầu lắc lư và nói to một mình, tr ì ẻ con phải sợ. Ông bố của cô ấy, ngày xưa cũng là một nhân vật hơi kỳ. Ông ta bắn súng loạn xạ trong vườn, khoe là mình b ì ắn giỏi. - Còn cô Clotilde thì ho ì àn toàn bình thư ì ờng chứ. - Ồ, hoàn toàn bình thư ì ờng. Cô ấy rất thông minh. Đáng lẽ học lên đại học, nhưng phải ở nhà chăm sóc em ốm. Cô ấy rất yêu con bé Verity, coi nó như con. Thế rồi cái thằng mất dạy kia xuất hiện, và con bé đi biệt, chẳng nói một tiếng với ai. Tôi không biết là Clotilde có biết là con bé có mang hay không. - Nhưng bà thì bi ì ết. """