"
Nụ Hôn Lạnh Lẽo - Jeffery Deaver & Nguyễn Mai Trang (dịch) full mobi pdf epub azw3 [Trinh Thám]
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Nụ Hôn Lạnh Lẽo - Jeffery Deaver & Nguyễn Mai Trang (dịch) full mobi pdf epub azw3 [Trinh Thám]
Ebooks
Nhóm Zalo
Gửi Will, Tina Anderson và các con…
• • •
Kẻ thù nằm ngay sau cánh cổng, chính sự phung phí, dại dột, tội lỗi của chúng ta là những gì ta phải tự biết chấp nhận.
– Cicero
PHẦ N I
THỨ BA
LỰC DO VẬT TÙ
CHƯƠNG 1
Thỉnh thoảng người ta cũng ăn may.
Amelia Sachs đang lái chiếc xe Ford Torino màu đỏ như máu động mạch của cô dọc theo dải mua sắm của đường Henry khu Brooklyn, lơ đãng để ý tránh người qua đường và xe cộ thì nhìn thấy nghi phạm. Khả năng điều này xảy ra là bao nhiêu cơ chứ?
May cho cô là nghi phạm số 40 có bề ngoài không được bình thường cho lắm. Cao và gầy nhẳng, hắn ta nổi bần bật giữa đám đông. Tuy vậy, chỉ một đặc điểm đó thôi cũng khó lòng khiến bạn bị chú ý đến giữa dòng người đông đúc ở đây. Nhưng vào cái đêm mà hắn đánh nạn nhân của mình đến chết, hai tuần trước, một nhân chứng khai báo là hắn đã mặc một chiếc áo khoác thể thao kẻ caro màu xanh lục nhạt và đội mũ bóng chày đội Braves. Sachs đã thực hiện theo đúng quy trình – dù không ích gì – đăng thông tin lên hệ thống và tiếp tục với các nghi phạm khác trong vụ điều tra… cũng như các vụ điều tra khác; các thanh tra tổ Trọng Án có rất nhiều vụ phải để mắt đến.
Nhưng cách đây một tiếng đồng hồ, một cảnh sát tuần tra của phân khu 84 đang đi tuần gần phố đi bộ Brooklyn Heights, phát hiện thấy một kẻ khả nghi và đã gọi cho Sachs – đội trưởng đội điều tra vụ án này. Vụ giết người diễn ra vào một đêm muộn, ở một công trường hẻo lánh, và rõ ràng là tên tội phạm không hề biết chuyện có người đã nhìn thấy hắn trong bộ đồ đó nên mới cảm thấy an toàn khi khoác lại chúng lên người. Viên sĩ quan tuần tra đã lạc mất dấu hắn trong đám đông nhưng cô vẫn phóng về phía đó, gọi người hỗ trợ, cho dù khu vực này là một vùng ngoại ô rộng lớn với hàng chục nghìn linh hồn ẩn nấp. Khả năng cô tìm được tên 40 này là, cô nhăn nhó nhủ thầm, không khác gì mò kim đáy bể.
Nhưng chết tiệt thật, hắn ở ngay kia, đang sải bước dài trên đường. Cao, gầy đét, áo khoác xanh lục, đội mũ, đầy đủ nhận diện theo mô tả, dù nhìn từ đằng sau thì cô chẳng nhận biết được đội nào đang được tung hô trên vành mũ.
Cô phanh gấp con xe cơ bắp từ những năm 60 trong khu vực đỗ xe buýt, ném tấm biển xác nhận của sở cảnh sát NYPD lên mặt kính chắn gió và bước ra khỏi xe, tránh một người đi xe đạp lao sượt qua người mình như đang muốn tự tử. Anh ta ngoái nhìn lại, không phải để tranh cãi mà theo như cô nghĩ thì là chỉ để ngắm kỹ hơn một cô cựu người mẫu cao ráo, tóc đỏ, tập trung nhìn vào mắt cô và món vũ khí đeo ngang hông quần jean đen của cô.
Bước lên vỉa hè, theo dấu một kẻ sát nhân.
Đây là lần đầu tiên cô nhìn thấy con mồi. Gã đàn ông cao lênh khênh sải từng bước dài, bàn chân dài nhưng hẹp (cô để ý là hắn đi giày chạy bộ: rất phù hợp để chạy nhanh trên nền xi măng ẩm ướt của tháng Tư – phù hợp hơn nhiều so với đôi bốt da của cô). Một phần trong cô ước gì hắn sẽ cảnh giác hơn – như thế thì hắn sẽ chịu khó ngó nghiêng xung quanh và cô có thể nhìn thấy mặt hắn. Thứ vẫn chưa có nổi một mô tả. Nhưng không, hắn chỉ nặng nề lê bước với điệu bộ kỳ quái đặc trưng, hai cánh tay dài ép chặt hai bên hông, ba-lô khoác hờ một bên quai trên bả vai thuôn xuống.
Cô tự hỏi liệu trong cái ba lô có hung khí không: búa bi, với một đầu tròn, được dùng để mài mép kim loại và đập phẳng đinh tán. Đó chính là đầu mà hắn dùng để giết người chứ không phải đầu kẹp phía bên kia. Kết luận về thứ vũ khí đã hằn xuống xương sọ của Todd Williams đến từ kho cơ sở dữ liệu mà Lincoln Rhyme đã xây dựng cho NYPD và phòng Pháp Y, tên của tập tin là: Tác động của Vũ khí lên cơ thể người. Phần ba: Vết thương do vật tù.
Cơ sở dữ liệu là của Rhyme nhưng Sachs buộc phải tự mình phân tích. Không có Rhyme.
Lòng cô nặng trĩu khi nghĩ đến chuyện đó. Ép bản thân phải tự vượt qua. Hình dung lại vết thương của nạn nhân. Thật kinh hoàng, điều mà chàng trai hai mươi chín tuổi người Manhattan đã phải chịu đựng, bị đánh tới chết và khoắng sạch tài sản trên đường tới một câu lạc bộ sau giờ làm mang một cái tên cũng cực kỳ khác thường, 40 Độ Bắc, theo như Sachs đã tìm hiểu được thì nó chính là vĩ độ của khu East Village, nơi câu lạc bộ đó tọa lạc.
Giờ thì nghi phạm 40 – biệt danh được lấy từ chính tên của câu lạc bộ – đang qua đường theo đèn xanh. Dáng người thật kỳ cục. Phải cao hơn mét tám vậy nhưng trông hắn ta không thể nặng hơn sáu ba hay sáu tám ký. Sachs nhìn ra đích đến của hắn và cảnh báo cho Tổng đài để báo với đội
hỗ trợ cho cô biết là nghi phạm đang tiến vào một trung tâm mua sắm cao năm tầng ở đường Henry. Cô lao người bám theo hắn.
Bị bám theo ở một khoảng cách an toàn, tên 40 lách qua dòng người mua sắm đông đúc. Con người lúc nào cũng ở trạng thái chuyển động, như nguyên tử chuyển động liên tục, trong thành phố này, các đoàn người, đủ mọi lứa tuổi, giới tính, màu da, kích cỡ. New York có múi giờ riêng và, dù hiện giờ đã quá giờ ăn trưa, các doanh nhân vốn nên ở trong văn phòng và cả các học sinh vốn nên ở trường thì đều đang ở đây, tiêu pha, ăn uống, lang thang, vui chơi, nhắn tin, và tán gẫu.
Và làm phức tạp hóa kế hoạch tóm gọn mục tiêu của Amelia Sachs một cách đáng kể.
40 hướng tới tầng hai. Hắn vẫn kiên định rảo bước qua trung tâm mua sắm sáng trưng, điều có thể thấy ở bất kỳ đâu, Paramus, Austin, hoặc Portland, trông nó tẻ nhạt như vậy đấy. Nơi này đầy mùi dầu ăn và hành tây từ khu ăn uống xen lẫn mùi nước hoa từ các quầy bán hàng gần lối ra vào của trung tâm. Cô bất chợt tự hỏi 40 đang làm gì ở đây, hắn muốn mua cái gì?
Có thể mua sắm không phải là kế hoạch hiện thời của hắn mà chỉ là nhu yếu phẩm; hắn bước vào một cửa hàng Starbucks.
Sachs nép vào sau một cái cột gần thang cuốn, cách lối vào của tiệm cà phê nhượng quyền khoảng sáu mét. Chú ý để tránh khỏi tầm mắt. Cô cần phải bảo đảm rằng hắn sẽ không nghĩ là đang có người theo dõi hắn. Theo biểu hiện của hắn thì có vẻ hắn không mang vũ khí – khi người ta mang theo súng ở cạp quần hay túi quần thì họ có xu hướng bước đi theo một dáng điệu đặc biệt, bất kỳ cảnh sát tuần tra nào cũng biết điều đó, dáng đi cứng ngắc, thận trọng – nhưng điều đó không có nghĩa là hắn không mang súng. Và nếu hắn quay về phía cô và bắt đầu nổ súng thì sao? Sẽ là một vụ thảm sát.
Liếc nhanh vào bên trong cửa hàng, cô thấy hắn đưa tay xuống khu vực đồ ăn và cầm lên hai chiếc sandwich, rồi hiển nhiên là gọi đồ uống. Cũng có thể là hai món đồ uống. Hắn trả tiền và bước ra khỏi tầm mắt cô, chờ cốc cappuccino hoặc mocha. Một thứ xa xỉ. Nếu là cà phê phin thì đã được trao tay ngay rồi.
Hắn sẽ ngồi ăn hay là mang về? Hai chiếc sandwich. Chờ ai đó? Hay một cái để ăn bây giờ còn một cái để dành ăn sau?
Sachs phân vân. Bắt hắn ở chỗ nào mới là tốt nhất? Nên bắt hắn ở ngoài
đường, hay trong quán, hay trong khu trung tâm mua sắm này? Phải, cả trung tâm mua sắm và quán Starbucks đều đông nghẹt. Nhưng ngoài đường còn đông hơn. Không có giải pháp nào ổn thỏa cả.
Vài phút sau đó, hắn vẫn ở bên trong. Đến bây giờ thì đồ uống của hắn hẳn đã có rồi nhưng hắn không có vẻ gì là muốn ra về. Cô đoán là hắn đang ăn bữa trưa muộn. Nhưng liệu hắn có đang chờ ai đó không?
Khiến cho một cuộc bắt giữ phức tạp càng thêm bội phần phức tạp. Cô có cuộc gọi đến.
“Amelia, Buddy Everett đây.”
“Chào,” cô nhẹ nhàng chào tuần tra viên khu vực 84. Họ chơi với nhau khá thân.
“Chúng tôi ở bên ngoài rồi. Tôi và Dodd. Có thêm một xe nữa có ba người.”
“Hắn đang ở trong Starbucks, tầng hai.”
Đúng lúc đó cô thấy một người giao hàng đẩy vài thùng các-tông có in hình logo của Starbucks, ‘nàng tiên cá’, đi ngang qua. Điều đó có nghĩa là quán cà phê này không có lối sau. Bốn mươi bị kẹt trong ngõ cụt rồi. Phải, có nhiều người bên trong quán, những người vô tình đứng gần đó, nhưng vẫn còn ít chán so với số người trong trung tâm mua sắm hoặc ngoài đường.
Cô báo với Everett, “Tôi muốn bắt hắn ở trong đó.”
“Trong quán cà phê à, Amelia? Được thôi.” Tạm dừng. “Thế là tốt nhất à?”
Hắn chưa định đi vội, Sachs nghĩ. “Đúng thế. Lên đây ngay đi.” “Chúng tôi đang di chuyển đây.”
Liếc nhanh vào trong rồi tiếp tục ẩn nấp. Cô vẫn chưa thể nhìn thấy hắn. Hắn hẳn đang ngồi ở cuối quán. Cô nhích sang phải rồi tiến lại gần cửa quán cà phê hơn. Nếu cô không thể nhìn thấy hắn thì hắn cũng không thể nhìn thấy cô.
Cô và cả đội sẽ ép sườn…
Đúng lúc ấy Sachs thở dốc trước tiếng hét đinh tai đột ngột vang lên sát sau lưng cô. Một tiếng gào thét kinh khủng phát ra từ một người đang phải chịu đau đớn. Thô ráp, chói tai đến mức cô không thể phân định được là đàn ông hay là phụ nữ.
Âm thanh phát ra từ đầu thang cuốn nối tầng này với tầng dưới. Ôi, Chúa ơi…
Tấm đậy trên cùng của thang, nơi mà mọi người thường bước ra từ thang cuốn, đã bật ra và một hành khách rơi xuống guồng máy đang quay đều ấy.
“Giúp tôi với! Không! Làm ơn đi mà!” Giọng nam. Rồi giọng nói lại biến thành tiếng hét.
Khách hàng cùng nhân viên thở dốc và gào thét. Những người đang đứng trên bậc thang của chiếc thang cuốn đang gặp sự cố, lúc này vẫn đang tiếp tục đi lên, hoặc nhảy ra khỏi thang hoặc chạy ngược xuống. Những người đi chiều thang ngược lại cũng nhảy vội ra, chắc họ nghĩ là nó cũng đang chuẩn bị nuốt chửng họ. Có mấy người bị ngã dúi dụi xuống sàn tầng dưới.
Sachs liếc vào tiệm cà phê.
Không có dấu hiệu của 40. Hắn đã nhìn thấy phù hiệu, đeo trên thắt lưng hoặc vũ khí của cô khi hắn, cũng giống như mọi người khác, quay ra và xem vụ tai nạn thì sao?
Cô gọi cho Everett và báo cho anh ta biết về vụ tai nạn rồi báo cho Tổng đài. Yêu cầu chặn các cửa ra, nghi phạm 40 hẳn đã nhìn thấy cô và giờ đang tẩu thoát. Cô lao về phía thang cuốn, nhận thấy có người đã ấn nút dừng khẩn cấp. Thang cuốn chậm dần rồi dừng lại.
“Khiến nó dừng lại đi, khiến nó dừng lại đi!” Người bị kẹt bên trong lại hét lên.
Sachs dẫm lên đầu thang và nhìn xuống cái hố sâu hoắm. Một người đàn ông tuổi trung niên – độ khoảng bốn lăm, năm mươi – bị kẹt trong động cơ thang, nó được gắn vào sàn cách tấm đậy bằng nhôm lúc này đã bị bật ra khoảng hai mét rưỡi. Động cơ vẫn đang xoay, bất chấp việc có người đã ấn nút dừng khẩn cấp, cô cho là làm vậy chỉ ngắt kết nối của động cơ với các bậc thang đang chuyển động. Người đàn ông tội nghiệp đã bị chẹt đến vùng eo. Ông ta đang xoay nghiêng người, vùng vẫy chống lại cỗ máy ấy. Bánh răng đã cắm sâu vào trong cơ thể ông ta, máu đã thấm đẫm quần áo và tràn xuống sàn của hốc thang. Ông ta mặc một chiếc áo sơ mi trắng có bảng tên, hẳn là nhân viên của một quầy hàng ở đây.
Sachs nhìn đám đông. Có các nhân viên ở đây, vài bảo vệ, nhưng không một ai có động thái giúp đỡ nào hết. Những khuôn mặt nhăn nhó. Có vẻ vài người đang gọi 911, nhưng phần lớn mọi người đang chụp ảnh và quay video bằng điện thoại di động.
Cô gọi vọng xuống, “Đội cứu hộ đang trên đường đến. Tôi thuộc
NYPD. Tôi sẽ xuống đó bây giờ đây.”
“Chúa ơi, đau quá!” Gào thét. Cô cảm nhận được lồng ngực mình rung lên.
Phải ngăn cho máu dừng chảy, cô xác định. Và mày là người duy nhất có ý định làm điều đó. Nên hãy di chuyển mau lên!
Cô tìm cách nạy tấm đậy mở rộng hơn. Amelia Sachs thường không đeo nhiều trang sức. Nhưng cô vẫn tháo món đồ trang sức duy nhất của mình ra – một chiếc nhẫn mặt đá màu xanh dương – khỏi ngón tay, sợ rằng nó sẽ làm tay cô mắc vào bánh răng. Dù cơ thể người đàn ông đã làm một bánh xe khựng lại, bánh xe thứ hai – vận hành chiều thang cuốn đi xuống – vẫn đang quay vòng đều đặn. Bỏ qua nỗi sợ phòng kín, Sachs bắt đầu đi xuống cái hố hẹp. Có thang dành riêng cho công nhân – nhưng nó gồm những thanh kim loại hẹp, và trơn tuột do máu của nạn nhân, rõ ràng là ông ta đã bị tấm ván kim loại sắc bén rạch qua người lúc mới trượt chân rơi xuống. Cô nắm chặt tay cầm – và chỗ đặt chân của thang, nếu bị ngã thì cô sẽ rơi thẳng vào người ông ta và ngay bên cạnh ông ta là bánh xe nghiền thứ hai. Có lần chân cô đã bị trượt và cẳng tay của cô phải căng lên để giữ cho cô không bị ngã xuống. Một bàn chân đi bốt của cô sượt qua bánh xe đang quay, nó đào máng vào gót giày và cào qua ống quần jean của cô. Cô rụt mạnh chân về.
Rồi bước xuống sàn… Từ từ nào, từ từ thôi nào. Nói thành tiếng, hoặc cũng có thể là nghĩ thầm trong đầu, vừa động viên cho ông ta lẫn cho chính cô.
Tiếng gào thét của người đàn ông tội nghiệp vẫn không hề giảm bớt. Khuôn mặt trắng bệch của ông ta nhăn nhúm lại, da bóng loáng vì mồ hôi chảy ròng ròng.
“Xin cô, Chúa ơi, Chúa ơi…”
Cô cẩn thận rón rén đi vòng qua bánh xe thứ hai, hai lần trượt trên vũng máu. Có một lần chân ông ta còn vô thức vung ra, đập trúng hông cô và cô ngã về phía bánh răng đang xoay đều.
Cô xoay xở để dừng lại ngay trước khi mặt cô chạm vào lưỡi kim loại ấy. Rồi lại trượt. Tự trụ vững. “Tôi là sĩ quan cảnh sát,” cô lặp lại. “Đội cứu thương sẽ tới ngay thôi.”
“Tệ quá, tệ quá. Đau lắm rồi. Đau quá đi.”
Ngẩng đầu lên, cô hét vọng lên, “Ai đó trong đội bảo trì, ai đó từ ban quản lý! Tắt ngay cái thứ chết tiệt này lại! Không phải thang cũng không
phải động cơ! Tắt điện đi!”
Đội cấp cứu ở chỗ quái nào vậy? Sachs đánh giá vết thương. Cô không biết phải làm gì. Cô cởi áo khoác ra và ép nó vào chỗ da thịt đã bị nghiền nát giữa bụng và háng của ông ta. Nó cũng chẳng cầm máu được nhiều. “A, a, a,” ông ta rên rỉ.
Tìm dây điện để cắt – cô mang theo con dao bấm tự động cực kỳ trái luật nhưng cũng cực kỳ sắc ở túi quần – nhưng cô không thấy có dây cáp nào hết. Làm sao người ta có thể chế tạo ra một cỗ máy như thế này mà chẳng có lấy một công tắc tắt bật? Chúa ơi. Phát điên lên được với sự kém cỏi này.
“Vợ tôi,” ông ta thều thào nói.
“Suỵt,” Sachs trấn an. “Sẽ ổn cả thôi.” Dù cô biết sẽ không thể ổn được. Cơ thể ông ta be bét máu. Dù có sống sót thì ông ta cũng sẽ chẳng bao giờ như cũ được nữa.
“Vợ tôi. Bà ấy… Cô sẽ đi gặp bà ấy chứ? Con trai tôi. Nói với họ là tôi yêu họ nhé.”
“Ông sẽ tự nói với họ điều đó, Greg.” Đọc bảng tên.
“Cô là cảnh sát.” Thở dốc.
“Đúng thế. Và đội cứu thương sẽ tới đây…”
“Đưa cho tôi súng của cô đi.”
“Đưa cho ông…”
Thêm tiếng gào thét. Nước mắt chảy giàn giụa trên mặt ông ta. “Xin cô đây, đưa tôi súng của cô đi! Nổ súng như thế nào? Cho tôi biết đi!”
“Tôi không thể làm thế, Greg,” cô thì thầm. Cô đặt tay lên cánh tay của ông ta. Bên tay còn lại, cô lau mồ hôi đang túa ra trên mặt ông ta. “Đau lắm… tôi không thể chịu đựng nổi.” Một tiếng hét còn vang hơn tất cả những tiếng hét khác bật ra. “Tôi muốn nó chấm dứt ngay lập tức!” Cô chưa từng nhìn thấy ánh mắt vô vọng như vậy ở bất cứ ai. “Xin cô, vì Chúa, đưa khẩu súng đây!”
Amelia Sachs do dự, rồi thò tay xuống rút khẩu Glock ra khỏi thắt lưng.
Một cảnh sát.
Không tốt rồi. Không tốt rồi.
Người phụ nữ cao ráo đó. Quần jean đen. Mặt xinh đẹp. Lại còn, trời
đất ơi, mái tóc đỏ…
Một cảnh sát.
Mình đã cắt đuôi được cô ta chỗ cái thang cuốn và giờ thì đang len lỏi qua đám đông trong trung tâm mua sắm.
Mình nghĩ là cô ta không biết được mình đã nhìn thấy cô ta, nhưng mình đã nhìn thấy. Đúng thế đấy. Thấy cô ta rõ mồn một. Tiếng thét của người đàn ông đang bị hút dần vào trong bộ hàm của guồng máy đó đã kích động tất cả mọi người quay đầu nhìn về phía âm thanh phát ra. Nhưng cô ta thì không. Cô ta đã quay lại tìm mình trong quán Starbucks xô bồ đó.
Mình đã nhìn thấy cả khẩu súng lẫn phù hiệu trên hông cô ta. Không phải thám tử tư, không phải người làm thuê. Một cảnh sát thực thụ. Một cảnh sát chính quy. Cô ta…
Chà. Cái gì vậy nhỉ?
Tiếng súng nổ. Mình không khoái súng cho lắm nhưng cũng đã từng nổ súng vài lần. Không nghi ngờ gì đó là một khẩu súng lục. Khó hiểu. Phải, phải, có chuyện gì đó thật kỳ cục. Liệu có phải là cô nàng cảnh sát – Đỏ, mình sẽ gọi cô ta như thế theo màu tóc của cô ta – thực ra định bắt giữ một kẻ khác không? Khó nói. Cô ta có thể bám theo mình vì vô số những tội ác mà mình đã gây ra. Có thể là do mấy cái xác mà mình đã bỏ lại trong cái hồ đầy bùn gần Neward cách đây ít lâu, bị nhấn chìm xuống đáy bởi các cục tạ giống kiểu mà những gã mập lùn vẫn mua, mới được dùng có vài lần và rồi sẽ chẳng bao giờ được dùng đến nữa. Báo chí không có đến một dòng đề cập đến tai nạn đó, nhưng, ái chà, đó là New Jersey mà. Vùng đất của xác chết, chính xác là như thế. Thêm một cái xác nữa chứ gì? Chẳng đáng đăng báo, đội Met thắng cách biệt bảy bàn kia kìa! Thế đấy. Hoặc cô ta có thể đang săn đuổi mình vì vụ cãi lộn không lâu sau đó trên một con hẻm tối tăm ở Manhattan, cắt xoẹt ngang cổ họng. Hoặc cũng có thể là vụ án mạng xảy ra ở công trường xây dựng sau câu lạc bộ 40 độ, nơi mình lại một lần nữa bỏ lại một cái xác đẹp đẽ với xương sọ bẹp rúm.
Có phải là có người đã chú ý đến mình ở một trong những chỗ đó, khi mình đang dở tay cắt gọt hoặc hạ búa sao?
Có thể lắm. Mình thì cũng có diện mạo khá đặc biệt, cả chiều cao lẫn cân nặng.
Mình cứ nên giả thuyết rằng mình chính là người cô ta muốn tìm. Mình nên bỏ đi và điều đó có nghĩa là mình nên tránh xa rắc rối, thu mình lại.
Thấp xuống bảy phân thì dễ hơn là cao lên. Cứ phải cẩn trọng. Nhưng còn tiếng súng nổ? Thế là sao? Có phải là cô ta đang bám theo một kẻ thậm chí còn nguy hiểm hơn mình không? Mình sẽ theo dõi bản tin sau.
Giờ thì mọi người túa ra khắp nơi, di chuyển vội vã. Phần lớn đều không nhìn vào mình cao ráo, mình gầy nhẳng, mình tay chân dài thòng. Họ chỉ muốn thoát ra, thoát khỏi tiếng la hét và tiếng súng nổ. Các cửa hàng trống dần, các quầy đồ ăn cũng trống dần. Sợ khủng bố, sợ những thằng đàn ông điên rồ mặc đồ ngụy trang, đâm, chém, xả súng vào cả thế giới trong cơn giận dữ hoặc do chập mạch. ISIS. Al-Qaeda. Dân quân. Tất cả mọi người đều căng như dây đàn.
Mình sẽ rẽ vào lối này, luồn lách qua đống tất và đồ lót nam. Phố Henry, lối ra số Bốn, ở ngay trước mặt rồi. Mình có nên thoát ra qua đường đó không nhỉ?
Tốt nhất là dừng lại đã. Hít một hơi sâu. Đến đây rồi thì không nên đi quá nhanh. Đầu tiên, mình nên bỏ cái áo khoác xanh lục và cái mũ đi. Mua đồ mới. Mình lỉnh vào trong một cửa hàng rẻ tiền để trả tiền mặt cho một chiếc áo khoác blazer màu xanh dương kiểu Ý được may ở Trung Quốc. Dài 35, may làm sao. Kích cỡ này rất khó tìm. Mũ fedora phong cách hippie. Một đứa nhóc Trung Đông vừa tính tiền vừa nhắn tin. Thô lỗ. Chỉ muốn táng vỡ đầu nó ra. Nhưng dù sao thì nó cũng đang không nhìn mình. Thế cũng tốt. Nhét chiếc áo khoác cũ vào trong ba lô. Màu xanh lục. Áo khoác là của ông em trai nên mình sẽ không vứt nó đi. Mũ thể thao cũng được cho vào trong nốt.
Gã hippie người Ý gốc Trung Quốc rời khỏi cửa hàng và quay vào trung tâm mua sắm. Nên thoát ra bằng lối nào đây? Phố Henry à? Không. Không khôn ngoan. Sẽ có vô số cớm bên ngoài.
Mình nhìn quanh. Đâu đâu cũng có. À, cửa cho nhân viên. Kiểu gì chả có cầu bốc dỡ hàng ở đó.
Mình đẩy cửa như thể mình thuộc về nơi này, dùng các khớp tay chứ không dùng lòng bàn tay (dấu vân tay, tất nhiên rồi), đi qua một tấm biển báo ‘Chỉ dành cho nhân viên’. Có điều không phải lúc này.
Nghĩ: Thời điểm mới may làm sao, cái thang cuốn, Đỏ ở ngay đó khi tiếng thét vang lên. May cho mình.
Đầu cúi gằm xuống, mình vẫn đều đều sải bước. Không một ai chặn mình lại trong hành lang hết.
A, có một cái áo khoác bằng vải bông đang trên móc. Mình sẽ gỡ bảng tên nhân viên và đeo miếng hình chữ nhật sáng bóng đó lên ngực. Giờ mình đang là nhân viên phục vụ Mario. Trông mình không giống một gã tên Mario cho lắm nhưng cũng đành vậy.
Đúng lúc ấy có hai công nhân, trẻ tuổi, một người da nâu một người da trắng, đi qua một cánh cửa trước mặt mình. Mình gật đầu chào họ. Họ gật đầu lại.
Hy vọng một trong số đó không phải là Mario. Hoặc bạn thân của anh ta. Nếu vậy thì mình sẽ vào thò tay vào balo và chúng ta đều biết điều đó có nghĩa là gì: đập vỡ xương từ trên xuống. Mình đi qua bọn họ. Tốt.
Hoặc là không: Một giọng nói hướng về phía mình: “Này?” “Gì thế?” Mình hỏi, tay để sát cái búa.
“Có chuyện gì xảy ra trong kia thế?”
“Tôi nghĩ là ăn trộm. Cửa hàng trang sức. Chắc thế.”
“Bọn đó chẳng bao giờ thèm thuê bảo vệ. Đến tôi cũng lường trước được việc đó.”
Đồng nghiệp của anh ta: “Chỉ toàn đồ rẻ tiền thôi. Đá zircon, mấy thứ rẻ rúng kiểu thế. Ai lại chịu ăn đạn vì một viên đá zircon chứ?” Mình thấy biển báo Giao nhận và đi một mạch theo hướng mũi tên. Mình nghe thấy có giọng nói phía trước, dừng lại và nhìn từ góc nhà. Chỉ có đúng một bảo vệ da đen nhỏ con, gầy nhẳng như mình, như cây sậy. Đang đeo bộ đàm. Mình có thể dễ dàng hạ gục gã ta bằng cây búa. Khiến mặt gã ta nát vụn thành mười mảnh. Và rồi…
Ôi, không. Sao cuộc sống lại tẻ nhạt như thế được?
Hai người khác xuất hiện. Một da trắng, một da đen. Cả hai đều nặng gấp đôi mình.
Hắn lùi lại. Và rồi mọi chuyện trở nên tồi tệ hơn. Sau lưng, ở cuối hành lang mà mình vừa đi qua. Mình nghe thấy có nhiều giọng nói. Có thể là Đỏ và vài người khác, quét qua đây.
Và lối thoát duy nhất, trước mặt mình, có ba nhân viên bảo vệ, những kẻ cũng đang sống để một ngày nào đó cũng có cơ hội bẻ xương người… hoặc nổ súng hoặc xịt hơi cay.
Mình, bị kẹp giữa và không có nơi nào để đi.
CHƯƠNG 2
“Đâu rồi?”
“Vẫn đang lùng sục đây, Amelia,” Buddy Everett, sĩ quan tuần tra đội 84 báo với cô. “Sáu đội. Đã phong tỏa mọi lối ra, chúng tôi hoặc bảo vệ. Hắn phải ở đâu đó quanh đây.”
Đang lau vết máu trên bốt bằng giấy ăn của tiệm Starbucks. Hoặc đang cố gắng, một cách vô ích. Áo khoác của cô, đang nằm trong một cái túi đựng rác mà cô lấy từ quán cà phê, có thể chưa hỏng đến mức không thể sửa được, nhưng cô không có ý định mặc món đồ đã từng thấm đầy máu. Viên sĩ quan tuần tra trẻ tuổi nhận thấy vết máu trên tay cô, ánh mắt đầy lo lắng. Tất nhiên, cảnh sát cũng là con người. Trạng thái miễn dịch cuối cùng cũng sẽ đến, nhưng với vài người thì nó tới muộn hơn và Buddy Everett thì vẫn còn trẻ lắm.
Qua cặp mắt kính gọng đỏ, anh ta nhìn tấm đậy mở toang. “Và ông ấy…?”
“Ông ấy đã không qua khỏi.”
Gật đầu. Giờ anh ta đưa mắt nhìn xuống sàn, dõi theo dấu chân đi bốt sũng máu của Sachs từ chỗ thang cuốn ra đến đây.
“Không biết hắn ta đi về hướng nào à?” anh ta hỏi.
“Hoàn toàn không.” Cô thở dài. Chỉ có khoảng vài phút kể từ lúc nghi phạm 40 có thể đã nhìn thấy cô và bỏ trốn cho đến lúc các sĩ quan hỗ trợ bắt đầu xuất hiện. Nhưng dường như chừng ấy là đủ để khiến hắn trở nên vô hình. “Được rồi. Tôi sẽ lùng sục cùng các anh.”
“Họ cần hỗ trợ dưới hầm đấy. Dưới đó như cái hang ấy.” “Được thôi. Nhưng nhớ cho người lưu ý ngoài đường nữa. Nếu hắn phát hiện ra tôi thì chắc hắn đã chuồn ngay lập tức rồi.”
“Nhất trí, Amelia.”
Viên sĩ quan trẻ tuổi đeo cặp kính màu máu đông gật đầu và chạy đi. “Thanh tra?” Một giọng nam vang lên sau lưng cô.
Cô xoay người lại thấy một người La-tinh rắn chắc tầm năm mươi tuổi,
mặc bộ âu phục sọc màu xanh dương và áo sơ mi vàng. Cà vạt trắng tinh tươm. Không mấy người phối đồ như thế.
Cô gật đầu chào.
“Đội trưởng Madino.”
Cô bắt tay ông ta. Đôi mắt sẫm màu của ông ta đang quan sát cô, mi mắt cụp xuống. Quyến rũ nhưng không dâm dục, mê hoặc theo đúng kiểu những người đàn ông có quyền lực – và thỉnh thoảng cả phụ nữ nữa.
Madino hẳn đến từ phân khu 84 và hoàn toàn không dính gì tới vụ án của nghi phạm 40, thuộc trách nhiệm của đội Trọng Án. Ông ta có mặt ở đây là vì vụ tai nạn, dù cảnh sát chắc sẽ sớm rút đi, trừ phi người ta phát hiện thấy có sai sót nhằm chủ đích gây án trong việc bảo trì thang cuốn, một chuyện hiếm khi xảy ra. Nhưng đội của Madino vẫn là người điều tra chính.
“Có chuyện gì thế?” ông ta hỏi.
“Đội cứu hộ có thể báo cáo tường tận cho ông hơn là tôi. Lúc đó tôi đang theo dõi một nghi phạm giết người. Tất cả những gì tôi biết là không hiểu sao thang cuốn gặp sự cố và một người đàn ông, tuổi trung niên, rơi vào giữa các bánh răng. Tôi đã tới chỗ ông ta, cố gắng cầm máu nhưng cũng chẳng làm được gì nhiều. Ông ta thoi thóp ở đó một thời gian. Nhưng rốt cục là DCDS.”
Chết, xác nhận tại hiện trường.
“Nút dừng khẩn cấp đâu?”
“Có người đã ấn nút nhưng nó chỉ làm bậc thang ngừng di chuyển, còn động cơ chính thì vẫn chạy. Bánh xe vẫn chạy. Nghiền vào háng và bụng ông ta.”
“Trời ơi.” Môi viên sĩ quan mím chặt lại. Ông ta tiến lên phía trước để nhìn xuống hố. Madino không thể hiện một phản ứng nào. Ông ta túm chặt cà vạt trắng của mình để bảo đảm nó không vung vẩy về phía trước và bị rào chắn làm bẩn. Máu đã dây cả lên trên đó. Vô cảm, ông ta quay về phía Sachs. “Cô đã ở dưới đó à?”
“Đúng thế.”
“Hẳn phải khó chịu lắm.” Sự đồng cảm trong mắt ông ta có vẻ chân thành. “Thuật lại cho tôi nghe về vụ nổ súng đi.”
“Động cơ,” Sachs giải thích. “Tôi không tìm thấy một công tắc tắt bật nào. Cũng không có dây điện để cắt. Tôi không thể bỏ ông ta lại đó để đi tìm hay trèo lên trên để báo người tắt cái máy xay đó đi, tôi chỉ còn nước
tạo sức ép lên vết thương. Nên tôi đã nổ súng vào phần lõi dây của cái động cơ. Ngăn nó xẻ đôi ông ta. Nhưng lúc ấy ông ta cũng đã sắp đi đời rồi. Đã mất đến tám mươi phần trăm máu, như kỹ thuật viên cấp cứu đã nói.”
Madino gật đầu. “Cô đã cố hết sức rồi, thanh tra.”
“Chẳng ích gì.”
“Cô cũng chẳng thể làm gì hơn.” Ông ta ngoái lại nhìn tấm ván mở. “Chúng tôi sẽ phải triệu tập đội Thanh Tra Súng nhưng, trong hoàn cảnh này thì đó chỉ là một thủ tục cho có lệ thôi. Không có gì phải lo lắng hết.” “Tôi biết ơn điều đó, đội trưởng.”
Bất chấp những gì người ta hay xem trên truyền hình hay rạp chiếu phim, việc một sĩ quan cảnh sát nổ súng là một sự kiện hiếm khi xảy ra và chỉ được phép diễn ra dưới những điều kiện nhất định. Súng chỉ được phép nổ dưới điều kiện viên cảnh sát đó tin rằng tính mạng của mình hoặc của một ai đó đứng quanh đó đang gặp nguy hiểm hoặc một tội phạm có vũ trang đang chạy trốn. Và người ta chỉ được phép nổ súng để giết người chứ không phải để gây thương tích. Khẩu Glock không được phép dùng để vô hiệu hóa cỗ máy phản trắc.
Trong trường hợp có cảnh sát nổ súng, dù đang làm nhiệm vụ hay không thì sẽ có một giám sát viên từ phân khu tuần tra nơi xảy ra vụ nổ súng đến hiện trường để thu giữ và khám xét vũ khí của viên cảnh sát nổ súng. Sau đó giám sát viên này sẽ triệu tập đội Thanh Tra Súng – phải do một sĩ quan đứng đầu phụ trách. Vì vụ nổ súng không gây ra tử vong hay thương tật, Sachs không cần phải kiểm tra nồng độ cồn hoặc bị yêu cầu phải nghỉ làm ba ngày. Và vì không có dấu hiệu lạm quyền, cô cũng không cần phải giao nộp vũ khí. Chỉ cần đưa nó cho giám sát viên kiểm tra và ghi lại số xê-ri là đủ.
Cô đang làm như vậy: nhanh nhẹn tháo ổ đạn và tháo đạn ra khỏi rãnh, rồi nhặt chúng lên từ dưới sàn. Cô giao vũ khí cho ông ta. Ông ta ghi lại số xê-ri. Trả súng lại cho cô.
Cô nói thêm, “Tôi sẽ làm báo cáo Nổ Súng/Tấn Công.”
“Không cần vội đâu, thanh tra. Phải mất một lúc để triệu tập đội và có vẻ như cô còn nhiệm vụ khác cần phải xử lý.” Madino lại nhìn xuống cái hố. “Chúa ban phước cho cô, thanh tra. Không nhiều người dám xuống đó đâu.”
Sachs nạp lại đạn. Các sĩ quan thuộc phân khu 84 đã rào cả hai chiếc
thang cuốn lại nên cô quay người vội vã lao về phía thang máy để đi xuống hầm, nơi cô sẽ giúp truy tìm nghi phạm 40. Nhưng cô dừng bước khi Buddy Everett tiến lại gần.
“Hắn trốn thoát rồi, Amelia. Chạy khỏi tòa nhà rồi.” Gọng kính đỏ sậm của anh ta vừa chói mắt lại vừa tôn mặt.
“Sao lại thế?”
“Cầu dỡ hàng.”
“Tôi tưởng chúng ta cũng có người ở đó. Dù không phải cảnh sát thì cũng là bảo vệ.”
“Hắn đã hét toáng lên, nghi phạm ấy, từ một góc hành lang gần cầu dỡ hàng, nói rằng tên tội phạm đang ở trong khu vực kho hàng. Mang theo còng tay, dùi cui điện, hoặc bất kỳ thứ gì khả dĩ. Cô biết thừa mấy đội bảo vệ mà? Họ khát khao có cơ hội chơi trò cảnh sát thực thụ. Tất cả mọi người đều lao về phía kho hàng. Hắn chuồn ra ngoài ngay lập tức. Băng ghi hình cho thấy hắn – mặc áo khoác mới, áo blazer sẫm màu, mũ fedora – trèo khỏi cầu dỡ hàng và chạy xuyên qua bãi đỗ xe tải.”
“Đi đâu?”
“Camera góc hẹp. Chịu, không rõ.”
Cô nhún vai. “Tàu điện ngầm? Xe bus?”
“Không có gì trên CCTV hết. Chắc là đi bộ hoặc vẫy tắc-xi.” Tới một trong tám mươi lăm triệu địa điểm khả dĩ.
“Anh vừa bảo là áo khoác đen hả? Áo khoác thể thao?”
“Chúng tôi đã lùng sục các cửa hàng. Nhưng không một ai nhìn thấy người có vóc dáng như vậy mua đồ gì hết. Cũng không quay được mặt hắn ta.”
“Thế anh nghĩ sao về việc chúng ta lấy dấu vân tay từ thang? Ở cầu dỡ hàng?”
“À, băng ghi hình cho thấy hắn đã đeo găng tay vào trước khi trèo xuống.”
Thông minh. Gã này thông minh thật.
“Có chuyện này. Hắn đã mang theo cốc cà phê và thứ trông có vẻ như là một loại bọc thức ăn nữa. Chúng tôi đã tìm kiếm nhưng có vẻ hắn không hề vứt chúng lại.”
“Tôi sẽ gọi đội Thu Thập Bằng Chứng.”
“Này, chuyện cô với sĩ quan Cà Vạt Trắng thế nào rồi? Ấy, tôi vừa nói ra thành lời đấy à?”
Cô mỉm cười. “Nếu anh có nói ra thì tôi cũng không nghe thấy gì hết.” “Ông ấy chưa gì đã lên kế hoạch trang trí lại văn phòng trong dinh thự thống đốc bang rồi đấy.”
Ra đó là lý do cho bộ cánh trang trọng đó. Thể hiện tham vọng. Có người như thế về phe mình là chuyện tốt.
Chúa ban phước cho cô…
“Được rồi. Có vẻ như ông ấy sẽ hỗ trợ tôi về vụ rút súng đấy.” “Ông ấy là người đứng đắn. Chỉ cần cô hứa sẽ bầu cho ông ấy.” “Cứ tiếp tục lùng sục nhé,” Sachs dặn anh ta.
“Được.”
Một điều tra viên ở đội cứu hoả tiếp cận Sachs và cô khai báo về vụ tai nạn với thang cuốn. Hai mươi phút sau, đội Thu Thập Bằng Chứng được phân công chịu trách nhiệm về nghi phạm 40 từ trụ sở khổng lồ của phòng Hiện trường gây án thuộc NYPD ở Queens mới đến. Cô chào họ, hai kỹ thuật viên người Mỹ gốc Phi tầm ba mươi tuổi, một nam một nữ mà cô vẫn thỉnh thoảng làm việc cùng. Họ kéo chiếc vali nặng trịch về phía thang cuốn.
“À,” Sachs bảo với họ. “Vụ đó chỉ là tai nạn thôi. Đội Điều Tra sẽ hợp tác với phân khu 84. Tôi cần hai người kiểm tra quán Starbucks.” “Vụ gì xảy ra ở đó vậy?” nữ sĩ quan hỏi, nhìn về phía quán cà phê. “Một tội ác nghiêm trọng,” đồng sự của cô ta nói. “Giá bằng một ly frappuccino.”
“Nghi phạm của chúng tôi đã ngồi ăn bữa xế. Một bàn nào đó ở cuối cửa hàng, hai người sẽ phải tự đi hỏi. Cao, gầy. Áo khoác kẻ caro xanh lục và mũ bóng chày đội Atlanta. Nhưng sẽ không có gì nhiều đâu. Hắn đã mang theo cốc cà phê và gói đồ ăn theo.”
“Thật đáng ghét những lúc lũ tội phạm không để lại ADN xung quanh.” “Đúng thế.”
Sachs nói, “Nhưng tôi đang hy vọng là hắn vứt rác ở đâu đó gần đây.” “Cô có phỏng đoán nơi nào chưa?” người phụ nữ hỏi.
Nhìn sang phía các nhân viên ở Starbucks, thật ra thì Sachs đã có một linh cảm. “Có một khả năng. Nhưng nó không nằm trong trung tâm thương mại. Tôi sẽ tự mình kiểm tra. Hai người xử lý Starbucks nhé.”
“Lúc nào cũng yêu cô hết, Amelia. Cô giao cho chúng tôi phần chăn ấm nệm êm còn cô nhận phần lạnh lẽo khó khăn.”
Cô cúi người lấy ra một bộ áo liền quần hiệu Tyvek màu xanh dương từ
chiếc vali mà đội Thu Thập Bằng Chứng vừa mở ra.
“Theo đúng quy định thông thường à, Amelia? Gom góp tất cả mọi thứ và mang đến nhà của Lincoln chứ gì?”
Mặt Sachs rắn như đá khi nói, “Không, hãy mang mọi thứ về Queens. Tôi sẽ phá án từ trung tâm thành phố.”
Hai kỹ thuật viên thoáng nhìn nhau rồi nhìn về phía Sachs. Người phụ nữ hỏi, “Anh ta ổn chứ? Rhyme ấy?”
“À, hai người chưa nghe tin à?” Sachs nói ngắn gọn. “Lincoln không còn làm việc cho NYPD nữa.”
CHƯƠNG 3
“Câu trả lời phải ở đó.”
Tất cả im lặng khi câu nói vang vọng giữa những bức tường loang loáng xước xát mang màu xanh học thuật. Cũng tức là màu đờm. “Câu trả lời. Có thể rành rành ra đó, như một con dao máu me in đầy dấu vân tay và ADN của hung thủ, được khắc chữ cái đầu tên hắn cùng một trích dẫn từ nhà thơ hắn mến mộ nhất. Hoặc mơ hồ hơn, không có gì hơn ba phối tử vô hình – mà phối tử là gì? Có ai biết không?” “Các phân tử mùi, thưa thầy.” Một giọng nam run run nói. Lincoln Rhyme tiếp tục, “Mơ hồ, như tôi đã nói. Câu trả lời có thể nằm trong ba phân tử mùi. Nhưng nó phải nằm đó. Mối liên hệ giữa kẻ sát nhân và nạn nhân có thể dẫn chúng ta tới cửa nhà hắn và thuyết phục bồi thẩm đoàn chuyển hắn tới một ngôi nhà mới trong vòng hai mươi đến ba mươi năm. Ai đó hãy đọc cho tôi Nguyên lý Locard nào.”
Một giọng nữ vang lên lớn tiếng từ hàng đầu tiên. “Trong các vụ phạm tội, luôn có hành vi chuyển giao vật chất giữa kẻ gây án và hiện trường hoặc nạn nhân, đa phân là cả hai. Edmond Locard, nhà tội phạm học người Pháp, đã sử dụng từ ‘bụi’ nhưng ‘vật chất’ được chấp nhận rộng rãi hơn. Hay còn gọi là chứng cớ để lần theo dấu vết.” Người phát biểu nghiêng đầu, hất mái tóc dài màu hạt dẻ bao quanh khuôn mặt hình trái xoan sang một bên. Cô bổ sung, “Paul Kirk đã lý giải kỹ hơn. ‘Các chứng cớ hữu hình không thể tự khai man. Nó không thể biến mất sạch bong. Chỉ có việc con người thất bại trong việc tìm ra nó, nghiên cứu nó hay hiểu được nó mới làm giảm giá trị của nó.’”
Lincoln Rhyme gật đầu. Các câu trả lời đúng được công nhận nhưng sẽ không bao giờ được nhận lời tán dương, lời tán dương chỉ dành cho những kiến thức vượt chuẩn. Dẫu vậy anh vẫn thấy ấn tượng vì anh vẫn chưa hề giao một bài đọc nào về nhà tội phạm học vĩ đại người Pháp. Anh lơ đãng nhìn qua các khuôn mặt như thể đang thấy bối rối. “Tất cả các cô cậu đã ghi lại những gì mà cô Archer vừa nói chưa? Có vẻ là vài người chưa ghi
lại đâu. Tôi không hiểu sao lại thế.”
Tiếng ngòi bút bắt đầu sột soạt, bàn phím máy tính kêu lách cách và các ngón tay lặng lẽ nhảy múa trên các bàn phím ảo của máy tính bảng. Đây mới chỉ là buổi học thứ hai của lớp Giới Thiệu Về Phân Tích Hiện Trường Vụ Án và các quy định vẫn còn chưa được thiết lập. Ký ức của các sinh viên hẳn vẫn còn tốt và dễ uốn nắn nhưng chưa đến mức không phạm phải sai lầm. Bên cạnh đó, việc ghi chép lại dù ra giấy hay vào máy thì đều có nghĩa là họ đã lĩnh hội kiến thức đó chứ không chỉ là biết đến chúng. “Câu trả lời nằm ngay đó,” Rhyme lặp lại, đậm chất giáo sư. “Với môn nghiên cứu tội phạm – pháp y – không có một tội ác nào lại không thể giải quyết. Vấn đề duy nhất chính là nguồn lực, sự khéo léo, và nỗ lực. Các bạn sẵn lòng bỏ ra bao nhiêu công sức để nhận diện tội phạm? Như, đúng vậy, Paul Kirk đã phát biểu những năm 50.” Anh lại liếc nhìn Juliette Archer. Rhyme mới chỉ biết tên của vài sinh viên. Archer là người đầu tiên. “Đại úy Rhyme?” Một thanh niên ở cuối lớp nói, lớp học này có khoảng ba mươi người, dao động từ đầu hai mươi đến bốn mươi tuổi, số người trẻ đông hơn. Bất chấp bộ tóc lỉa chỉa hippie sành điệu, cậu ta vẫn có tính kỷ luật trong người. Dù hồ sơ lý lịch của trường đại học – chưa kể đến hàng chục nghìn trích dẫn của Google – có nêu cấp bậc chính thức của Rhyme vào thời điểm anh rời khỏi ngành vì tàn tật cách đây vài năm, hiếm thấy có người không liên quan gì tới NYPD lại sử dụng tên gọi đó. Với một chuyển động tay phải quý phái, giáo sư xoay chiếc ghế lăn có động cơ tinh xảo của mình về phía các sinh viên. Rhyme bị liệt cả tay lẫn chân, từ cổ trở xuống, chỉ có đúng ngón trái đeo nhẫn của anh và tính đến giờ, sau vài cuộc phẫu thuật, cánh tay và bàn tay phải là những bộ phận duy nhất trong tứ chi hoạt động được. “Sao thế?”
“Em vừa nghĩ thế này. Locard đã nhắc đến ‘vật chất’ hoặc ‘bụi’?” Cậu ta liếc nhìn Archer ở hàng đầu tiên, góc bên trái.
“Chính xác.”
“Liệu có thể có cả những chuyển giao về mặt tâm lý không ạ?” “Ý cậu là gì?”
“Giả như tên tội phạm đe dọa sẽ tra tấn nạn nhân trước khi hắn giết người đó. Nạn nhân được phát hiện với vẻ mặt hãi hùng. Chúng ta có thể suy ra tên tội phạm là một kẻ tàn bạo. Thầy có thể thêm điều đó vào hồ sơ tâm lý. Có thể còn thu hẹp phạm vi tình nghi.”
Dùng đúng nghĩa của từ suy ra, Rhyme để ý. Người ta thường hay nhầm
với nội động từ hàm ý. Anh nói, “Một câu hỏi cho cậu. Cậu thích bộ sách đó phải không? Harry Potter ấy? Cả phim nữa đúng không?” Như thông lệ, các hiện tượng văn hóa không hấp dẫn anh lắm – trừ phi chúng có thể giúp phá án, mà điều đó lại, có thể nói, chưa bao giờ xảy ra. Nhưng rốt cuộc thì, Potter ấy mà, vẫn là Potter.
Cậu thanh niên nheo đôi mắt đen sẫm lại. “Vâng, đúng là thế.” “Cậu biết đó chỉ là tiểu thuyết chứ. Trường Hogworth không hề có thật?”
“Hogwart. Và em nhận thức rõ về điều đó, thưa thầy.”
“Và cậu phải thừa nhận là phù thủy, thần chú, ếm bùa, ma quỷ, siêu năng lực, và cả lý thuyết chuyển hóa tâm lý ở hiện trường gây án của cậu…”
“Đều là chuyện nhảm nhí, ý thầy là thế chứ gì?”
Gây cười.
Lông mày của Rhyme nhíu lại thành chữ V, dù không phải là do bị ngắt lời; anh thích tính xấc láo, và thực tế thì cách cậu ta chơi chữ còn khá thông minh nữa. Anh phê bình dựa trên thực tế lý luận của cậu ta. “Hoàn toàn không phải. Tôi vừa định nói là các giả thuyết đó đều chưa được chứng minh thực tế. Cậu hãy mang đến cho tôi các nghiên cứu khách quan có kết quả giống nhau, bao gồm cả việc có một mẫu thử tương đối chuẩn và được kiểm soát kỹ lưỡng, chứng minh cho giả thuyết chuyển giao tâm lý của cậu, và tôi sẽ coi giả thuyết đó là đúng. Bản thân tôi thì sẽ không căn cứ vào nó. Tập trung vào các khía cạnh vô hình trong điều tra sẽ khiến ta xao nhãng nhiệm vụ quan trọng trước mắt. Đó là?”
“Bằng chứng.” Juliette Archer lại lên tiếng.
“Hiện trường gây án thay đổi như một bông hoa bồ công anh dưới cơn gió đột ngột. Ba phối tử đó là tất cả những gì còn lại trong số cả triệu phối tử đã ở đó một giây trước. Một hạt mưa cũng có thể cuốn trôi một đốm ADN của kẻ sát nhân, tức là hủy hoại bất kỳ cơ hội nào tìm ra hắn trong cơ sở dữ liệu CODIS và biết được tên, địa chỉ, số điện thoại, số thẻ căn cước, và… cỡ áo của hắn nữa.” Quét mắt nhìn khắp phòng. “Cỡ áo chỉ là nói đùa thôi.” Mọi người có xu hướng tin tất cả những gì Lincoln Rhyme nói.
Viên cảnh sát hippie gật đầu nhưng có vẻ không mấy bị thuyết phục. Rhyme thấy ấn tượng. Anh tự hỏi liệu cậu sinh viên này có chịu tìm tòi về đề tài này thật không. Hy vọng là có. Có thể sẽ có thứ gì đó liên quan đến giả thuyết của cậu ta thật.
“Chúng ta sẽ nói thêm về bụi của ngài Locard – tức là các manh mối – sau vài tuần nữa. Ngày hôm nay chủ đề của chúng ta là bảo đảm sao cho chúng ta có bụi để phân tích. Bảo tồn hiện trường gây án là chủ đề của chúng ta. Các bạn sẽ chẳng bao giờ có nổi một hiện trường trinh nguyên. Thứ đó không tồn tại. Công việc của các bạn là đảm bảo cho hiện trường của mình ít bị vấy bẩn nhất có thể. Nào thứ gây vấy bẩn nhất là gì?” Không đợi trả lời, anh nói luôn, “Phải, các đồng nghiệp cảnh sát – thường là, thường xuyên nhất vẫn là cấp trên. Làm sao chúng ta có thể bắt các sĩ quan cấp cao, mải làm bộ làm tịch trước các máy quay lấy tin, đứng ngoài hiện trường trong khi đồng thời vẫn giữ được việc đây?”
Tiếng cười im bặt và bài giảng bắt đầu.
Nhiều năm nay Lincoln Rhyme vẫn thỉnh thoảng đi dạy. Anh không quá thích giảng dạy nhưng vẫn giữ niềm tin kiên định vào vai trò của việc khám nghiệm hiện trường gây án trong việc phá án. Và anh muốn bảo đảm tiêu chuẩn của các kỹ thuật viên hiện trường nằm ở mức cao nhất có thể – cũng tức là, ngang với tiêu chuẩn của anh. Rất nhiều tội phạm đã trốn tội hoặc nhận được một bản án nhẹ nhàng quá mức so với tội ác mà chúng gây ra. Và nhiều người vô tội lại phải vào tù. Anh đã quyết tâm làm những gì có thể để uốn nắn một thế hệ nhà tội phạm học mới thành tài.
Cách đây một tháng Rhyme đã xác định đây sẽ là sứ mệnh mới của mình. Anh đã giải quyết xong các vụ án của mình và nộp hồ sơ xin việc ở trường John Marshall về Pháp luật Hình sự, chỉ cách ngôi nhà ở Central Park West của anh có hai khu phố. Thật ra thì anh thậm chí còn chẳng phải nộp đơn. Một tối nọ trên bàn rượu, anh đã tâm sự với một công tố viên mà anh từng cộng tác nhiều lần là anh đang cân nhắc việc gác kiếm để dạy học. Anh ta đã truyền lời cho ai đó và nó truyền đến trường John Marshall, nơi công tố viên này dạy bán thời gian, và rồi hiệu trưởng của trường đã gọi điện không lâu sau đó. Rhyme cho rằng nhờ danh tiếng của mình, anh là một món hàng có giá trị mà, nhà trường có thể thu hút truyền thông, thêm sinh viên, và có thể còn góp phần làm tăng học phí. Rhyme đăng ký dạy lớp học căn bản này cùng lớp Hóa Học Cao Cấp và lớp Phân Tích Cơ Học của các Vật chất Hay Được Tìm Thấy ở Hiện Trường Các Vụ Trọng Án, bao gồm cả Kính Hiển Vi Điện Tử. Minh chứng cho danh tiếng của anh chính là việc khóa học sau cũng nhanh chóng được đăng ký kín như khóa học đầu.
Phần lớn sinh viên ở đây hoặc đang tham gia, hoặc sẽ tham gia, các Ở
ngành nghề liên quan đến cảnh sát. Ở địa phương, bang, hoặc liên bang. Vài người sẽ giám định pháp y lấy tiền – làm việc cho các đội điều tra tư, tập đoàn, luật sư. Vài người là nhà báo, một người là tiểu thuyết gia muốn viết sao cho đúng. (Rhyme hoan nghênh sự hiện diện của anh ta, bản thân anh cũng từng là nhân vật chính trong vài loạt sách dựa trên các vụ án mà anh đã xử lý và có vài lần anh đã phải viết thư cho tác giả bởi những diễn giải sai lầm về các công việc khám nghiệm hiện trường. “Anh có cần phải viết giật gân như thế không?”)
Sau khi tổng kết lại một cách toàn diện về các phương thức bảo tồn hiện trường gây án, Rhyme để ý đến thời gian và cho cả lớp tan học, các sinh viên nối đuôi nhau đi ra ngoài. Anh lăn bánh xe đến cái dốc dẫn xuống bậc thềm bên dưới.
Đến lúc anh tới được sảnh chính của giảng đường, tất cả sinh viên trong lớp đều đã ra về, trừ một người.
Juliette Archer vẫn ngồi ở hàng ghế đầu. Người phụ nữ trạc ba lăm tuổi có một đôi mắt khá ấn tượng. Rhyme bị ấn tượng bởi đôi mắt ấy vào lần đầu tiên anh nhìn thấy cô trong buổi học trước. Không hề có lấy một đốm xanh trong con ngươi hay thủy dịch, màu sắc đó đến từ lượng hắc tố trong biểu mô, kết hợp với hiệu ứng tán xạ Rayleigh. Đôi mắt của Archer có màu trời xanh ngắt.
Anh lăn bánh về phía cô. “Locard. Cô đã đọc tài liệu thêm. Đọc sách của tôi. Cô chỉ sử dụng từ ngữ khác đi mà thôi.” Anh chưa hề giao cho cả lớp đọc sách của mình.
“Hôm nọ tôi cần vài tài liệu để đọc cùng rượu vang và bữa tối.” “À.”
Cô ta nói, “Sao nào?”
Không cần phải diễn giải thêm. Đó chỉ là một câu hỏi được nhắc lại từ tuần trước… cũng như vài tin nhắn điện thoại trong khoảng thời gian từ đó tới nay.
Đôi mắt sáng rực rỡ của cô ta vẫn dán chặt vào anh.
Anh nói, “Tôi không chắc đó là một ý kiến hay đâu.”
“Không phải là một ý kiến hay là sao?”
“Ý tôi là vô ích. Đối với cô.”
“Tôi không đồng ý.”
Chắc chắn cô ta không hề ngập ngừng. Archer để sự im lặng kéo dài. Rồi nở nụ cười với đôi môi không tô son. “Anh đã để ý đến tôi còn gì?”
“Đúng là thế.”
“Anh tưởng tôi là gián điệp chắc? Lân la tìm cách chiếm được cảm tình của anh để ăn trộm bí mật của các vụ án hay sao?”
Đã từng nghĩ đến. Rồi anh nhún vai, một động tác mà anh vẫn còn có thể làm được, bất chấp tình trạng cơ thể của mình. “Chỉ tò mò thôi.” Thật ra thì Rhyme cũng đã tìm hiểu được vài chuyện về Juliette Archer. Bằng thạc sĩ về y tế công cộng và sinh học. Cô ta từng là một nhà nghiên cứu dịch tễ thực địa cho đội Bệnh Dịch của Viện Y Tế New York ở Westchester. Giờ cô ta muốn đổi nghề sang giám định pháp y tội phạm. Hiện giờ nhà cô ta nằm ở trong thành phố, quận gác xép, SoHo. Con trai cô ta, mười một tuổi, là một ngôi sao bóng đá. Bản thân cô ta cũng đã nhận được vài sự chú ý với các màn nhảy đương đại ở Manhattan và Weschester. Cô ta từng sống ở Bedford, New York, trước khi li hôn.
Không, không phải là một gián điệp.
Cô ta vẫn tiếp tục nhìn chăm chú vào mắt anh.
Bốc đồng – một việc cực kỳ hiếm gặp đối với anh – anh nói, “Thôi được rồi.”
Cô ta nở một nụ cười nghiêm túc. “Cảm ơn anh. Tôi có thể bắt đầu ngay lập tức.”
Tạm dừng, “Mai đi.”
Archer có vẻ thấy buồn cười và nghiêng đầu một cách nghịch ngợm. Như thể cô ta có thể dễ dàng thương thảo và sẽ thay đổi được ngày ký hợp đồng nhưng không thích quá thôi thúc.
“Cô có cần địa chỉ không?” Rhyme hỏi.
“Tôi có rồi.”
Thay vì bắt tay thì cả hai cùng gật đầu ký kết thỏa thuận. Archer mỉm cười và ngón trỏ tay phải của cô ta di chuyển về phía bàn phím trên xe lăn của chính cô ta, một chiếc Storm Arrow màu bạc, cũng chính là phiên bản mà Rhyme đã dùng vài năm trước. “Gặp lại anh sau.” Cô ta quay xe, lăn bánh dọc lối đi và ra khỏi cửa.
CHƯƠNG 4
Ngôi nhà nằm biệt lập được xây bằng gạch đỏ thẫm. Màu sắc rất giống với màu gọng kính của cảnh sát tuần tra Buddy Everett, màu máu khô, màu nội tạng. Người ta khó lòng nghĩ khác. Dưới tình huống này.
Amelia Sachs ngần ngừ, mắt cô quan sát ánh sáng ấm áp toả ra từ bên trong, nó cứ bập bùng khi các vị khách ở trong đi qua đi lại giữa bóng đèn và cửa sổ. Trông như một cái bóng đèn bị hỏng nhấp nháy liên hồi, căn nhà nhỏ xíu và có quá nhiều khách.
Cái chết gắn kết cả những con người dù họ chỉ có một liên kết mỏng manh.
Ngần ngừ.
Trong những năm làm cảnh sát, Sachs đã báo tin về cái chết cho rất nhiều gia đình. Cô rất thạo việc đó, góp nhặt các câu nói được dạy bởi các nhà tâm lý học ở học viện. (“Tôi lấy làm tiếc với mất mát của anh.” “Chị có ai để dựa vào không?” Với kịch bản kiểu như thế, người ta phải biết đường ứng biến.)
Nhưng tối nay thì khác. Bởi Sachs không thể tin mình từng hiện diện vào đúng thời điểm mà dòng điện trong người nạn nhân rời bỏ các tế bào, hay, nếu người ta có quan điểm khác, thì là thời điểm linh hồn rời bỏ thể xác. Tay cô đã đặt lên cánh tay của Greg Frommer vào khoảnh khắc cái chết ập đến. Và dù cô có không muốn thực hiện chuyến viếng thăm này đến thế nào đi nữa thì cô cũng đã có một lời hứa. Và cô sẽ không nuốt lời.
Cô đẩy bao súng ra hẳn sau lưng, khuất tầm mắt. Đó có vẻ là một hành động đúng đắn, dù cô cũng không biết giải thích thế nào. Trước khi thực hiện sứ mệnh này, cô cũng đã phải tạt qua căn hộ của mình, cũng ở Brooklyn, không quá xa xôi cách trở, để tắm và thay đồ. Chắc phải có luminol và nguồn sáng thay thế* thì mới tìm được vết máu ở bất kỳ đâu trên người cô.
Giúp làm xác định vết máu sau khi tương tác với luminol. Bước lên bậc thềm và bấm chuông.
Cửa được mở ra bởi một người đàn ông cao ráo mặc sơ mi Hawaii và quần ngắn màu cam. Tầm năm mươi tuổi. Tất nhiên, đây chưa phải là tang lễ, đó là chuyện sau này. Tối nay chỉ là buổi tụ họp của gia đình và bạn hữu vội vã đến động viên, mang thức ăn đến, để vừa xoa dịu nỗi buồn vừa tập trung vào nó.
“Xin chào,” ông ta nói. Mắt ông ta đỏ quạch như vòng hoa choàng quanh cổ con vẹt ở thắt lưng ông ta. Anh trai của Frommer chăng? Sự tương đồng đập ngay vào mắt.
“Tôi là Amelia Sachs. Thuộc NYPD. Liệu bà Frommer có thể dành vài phút nói chuyện với tôi không?” Cô nói một cách tử tế, giọng điệu hoàn toàn không mang vẻ nhân viên công quyền.
“Đương nhiên rồi. Mời cô vào.”
Ngôi nhà không có nhiều đồ đạc, các đồ trang trí cũng không đồng bộ và đều đã sờn cũ. Vài bức tranh lưa thưa trên tường chắc hẳn được mua từ Walmart hoặc Target. Frommer, theo cô tìm hiểu, làm nhân viên bán hàng ở một hiệu giày trong trung tâm mua sắm, làm việc với mức lương tối thiểu. Tivi nhỏ xíu và bộ truyền hình gói cơ bản nhất. Không có máy chơi game, dù cô đoán được là họ có ít nhất một đứa con – một tấm ván trượt, sứt sẹo và được quấn đầy băng dính nằm tít trong góc. Vài quyển truyện tranh Nhật Bản nằm thành chồng trên sàn cạnh một cái bàn nhỏ mòn vẹt.
“Tôi là Bob, anh họ của Greg.”
“Tôi lấy làm tiếc về những gì đã xảy ra.” Thỉnh thoảng người ta vẫn bị đi theo lối mòn.
“Chúng tôi vẫn không tài nào tin nổi chuyện đó. Hai vợ chồng tôi sống ở Schenectady. Chúng tôi tới đây nhanh hết mức có thể.” Ông ta nhắc lại, “Chúng tôi vẫn không tài nào tin nổi chuyện đó. Chuyện… đấy, ra đi trong một tai nạn như thế.” Bỏ qua bộ đồ nhiệt đới, Bob dần trở nên nóng nảy hơn. “Phải có ai đó trả giá cho chuyện này chứ. Chuyện đó không bao giờ nên xảy ra hết.”
Vài vị khách khác trong phòng cũng gật đầu chào cô, đánh giá quần áo của cô, dò xét một cách cẩn thận. Váy dài ngang bắp chân màu xanh lục sậm, áo khoác và áo sơ mi đen. Cô ăn mặc để đến dự tang lễ, dù không cố tình. Đây là đồng phục thường nhật của Sachs. Màu tối mang lại một ấn tượng khó hợp tác hơn là màu sáng.
“Để tôi đi gọi Sandy.”
“Cảm ơn.”
Bên kia phòng là một cậu bé tầm mười hai tuổi, được vây giữa một người đàn ông và hai người phụ nữ mà Sachs đoán họ trạc năm mươi tuổi. Khuôn mặt tròn, lốm đốm tàn nhang của cậu bé đỏ quạch vì khóc, tóc tai thì bù xù. Cô tự hỏi có phải thằng bé đã nằm lì trên giường, chết sững trước tin về cái chết của cha mình, trước khi người thân đến thăm hay không.
“Tôi đây, xin chào?”
Sachs quay lại. Người phụ nữ tóc vàng mảnh khảnh có khuôn mặt trắng bệch, một sự đối lập chói mắt đến mức khó chịu giữa màu đỏ của hàng mi với làn da dưới mắt bà ta. Càng thêm kỳ quái là hai tròng mắt màu xanh lục nổi bần bật. Chiếc áo không tay màu xanh dương sẫm của bà ta thật nhăn nhúm và dù hai chiếc giày có kiểu dáng khá tương đồng nhưng chúng vẫn thuộc hai đôi khác nhau.
“Tôi là Amelia Sachs, từ sở cảnh sát.”
Không đưa phù hiệu. Không cần thiết.
Sachs hỏi liệu họ có thể nói chuyện riêng được không.
Thật kỳ cục khi chuyện này còn khó hơn cả việc chĩa khẩu Glock của cô vào một gã tội phạm phê thuốc cũng đang chĩa súng của hắn vào cô cách đó ba chục mét, hoặc hạ từ số bốn xuống số hai trong khi đang vào cua ở tốc độ tám mươi cây số trên giờ, máy đo số vòng quay báo động đỏ, để bảo đảm chắc chắn một tên khốn nạn nào đó không trốn thoát được.
Vững tinh thần nào. Cô có thể làm được.
Bà Sandy Frommer dẫn Sachs ra phía sau nhà và họ đi qua phòng khách bước vào một cái hốc nhỏ xíu mà, cô đã chú ý từ khi họ bước chân vào, là phòng cậu con trai – đầy tranh ảnh và truyện về siêu anh hùng, quần jean và áo len chất đống, cái giường bừa bộn là bằng chứng quan trọng nhất.
Sachs đóng cửa lại. Bà Sandy vẫn đứng nguyên và nhìn vị khách một cách thận trọng.
“Tôi vô tình có mặt ở hiện trường lúc chồng bà mất. Tôi đã ở cạnh ông ấy.”
“Ôi. Trời ơi.” Vẻ mất phương hướng của bà ta chợt phóng đại lên trong giây lát. Rồi bà lại dồn sự chú ý vào Sachs. “Một cảnh sát đã tới để thông báo cho tôi. Một người tử tế. Anh ta không ở trung tâm mua sắm khi chuyện đó xảy ra. Có ai đó đã gọi cho anh ta. Anh ta thuộc đội tuần tra địa phương. Một người châu Á thì phải? Ý tôi là sĩ quan.”
Sachs lắc đầu.
“Nó khủng khiếp lắm phải không?”
“Đúng là thế.” Cô không thể nói giảm về những gì đã xảy ra. Câu chuyện đã lên bản tin. Tình tiết đã được giảm nhẹ nhưng cuối cùng thì bà Sandy sẽ vẫn đọc được báo cáo y khoa và sẽ biết được một cách chính xác những gì ông Greg Frommer đã trải qua trong những giây phút cuối cùng trên đời. “Nhưng tôi chỉ muốn bà biết là tôi đã ở cạnh ông ấy. Tôi đã nắm tay ông ấy và ông ấy đã cầu nguyện. Và ông ấy đã nhờ tôi tới gặp bà và nói với bà là ông ấy yêu bà và con trai của hai người lắm.”
Như thình lình vừa nhận được một sứ mệnh sống còn, Sandy bước về phía bàn học của con trai, ở trên có một chiếc máy tính bàn kiểu cũ. Bên cạnh là hai lon soda, một đã bị nghiền bẹp. Một túi khoai tây chiên đã được ép phẳng. Vị thịt nướng. Bà nhặt hai cái lon lên vứt vào thùng rác. “Tôi đáng ra phải đi gia hạn bằng lái xe của mình. Tôi chỉ có hai ngày. Tôi đã không có thời gian để làm. Tôi làm cho một công ty giúp việc. Lúc nào chúng tôi cũng bận bịu. Bằng lái xe của tôi sẽ hết hạn sau hai ngày nữa.”
Vậy là ngày sinh nhật của bà ta sắp đến.
“Có ai ở đây có thể đưa bà tới Sở Quản Lý Xe Cơ Giới không?” Bà Sandy tìm ra được thêm một món đồ có dấu vết sử dụng của người khác – một bình trà đá. Nó trống trơn và cũng được quẳng luôn vào thùng rác. “Cô không cần phải tới tận đây. Có nhiều người sẽ không bỏ công đến thế này.” Dường như mọi từ nói ra đều làm bà ta đau đớn. “Cảm ơn cô.” Đôi mắt đờ đẫn lại thoáng nhìn Sachs rồi nhìn xuống sàn. Bà ta quẳng đống áo len vào thùng giặt. Bà thò tay vào túi quần jean và rút một chiếc khăn giấy ra, chấm mũi. Sachs nhận thấy nó là quần jean của hãng Armani, nhưng đã khá bạc màu và cũ mòn – không phải kiểu bạc màu cố tình được tạo ra của đồ mới (Sachs, cựu người mẫu thời trang, không mấy thích thú cái xu hướng vô dụng đó). Hoặc chúng được mua lại từ hàng đồ cũ, hoặc theo Sachs phỏng đoán, được mua từ một giai đoạn mà gia đình này có cuộc sống sung túc hơn nhiều.
Rất có thể là như vậy, cô để ý thấy một bức tranh không khung trên bàn học của cậu con trai – cậu bé và cha cậu ta cách đây vài năm, đứng cạnh một chiếc máy bay tư nhân. Trước mặt họ là cần câu cá. Các dãy núi của Canada hoặc Alaska nhấp nhô xa xa. Một bức ảnh khác thì có vẻ là chụp gia đình trong lô ghế riêng trong cuộc đua xe Indy 500.
“Tôi có thể làm gì giúp bà được không?”
“Không cần đâu, sĩ quan. Hay thanh tra? Hay…?”
“Amelia.”
“Amelia. Thật là một cái tên đẹp.”
“Con trai bà đương đầu được chứ?”
“Bryan… Tôi cũng không rõ thằng bé sẽ ra sao nữa. Giờ thì nó đang tức giận, tôi nghĩ thế. Hoặc đang tê liệt. Cả hai chúng tôi đều đang tê liệt.” “Cậu bé bao nhiêu tuổi? Mười hai à?”
“Đúng thế. Mấy năm vừa qua khá là khó khăn. Mà cái tuổi đấy cũng gay go nữa.” Môi run run. Và rồi thốt ra một câu nói gay gắt: “Ai chịu trách nhiệm cho chuyện đó? Làm sao một chuyện như thế lại có thể xảy ra được chứ?”
“Tôi không biết. Nó sẽ được thành phố điều tra. Họ giỏi lắm.” “Chúng ta đặt niềm tin vào những thứ như thế. Thang máy, cao ốc, máy bay, tàu điện ngầm! Những người chế tạo ra chúng phải chế tạo một cách an toàn chứ. Làm thế nào chúng ta có thể biết được là chúng nguy hiểm? Chúng ta chỉ biết tin vào chúng!”
Sachs chạm vào vai bà ta, ấn xuống. Tự hỏi liệu người phụ nữ này có bật khóc nức nở ra đấy không. Nhưng bà Sandy nhanh chóng lấy lại bình tĩnh. “Cảm ơn vì đã tới để chuyển lời cho tôi. Có nhiều người sẽ không bỏ công đến thế này.” Có vẻ như bà ta đã quên là mình vừa mới nói câu ấy rồi.
“Một lần nữa. Nếu bà cần bất kỳ thứ gì.” Sachs đặt một tấm danh thiếp của cô vào bàn tay của bà Sandy. Ở học viện họ không dạy về chuyện này, và nói thật, cô cũng không biết phải làm gì để giúp người phụ nữ này nữa. Sachs chỉ đang làm theo bản năng.
Tấm danh thiếp được đút vào trong túi chiếc quần jean đã từng trị giá ba con số.
“Tôi đi đây.”
“À, vâng. Cảm ơn cô lần nữa.”
Bà Sandy cầm đống bát đũa bẩn của con trai mình lên và đi ra khỏi cửa trước cả Sachs, biến mất tăm trong bếp.
Gần cửa ra vào, Sachs lại tới gần anh họ của Frommer, ông Bob. Cô hỏi, “Ông nghĩ bà ấy sẽ thế nào?”
“Sẽ ổn cả thôi. Vợ tôi và tôi sẽ làm tất cả những gì có thể. Nhưng chúng tôi cũng có ba đứa con. Tôi đang nghĩ là mình có thể sửa lại gara. Tôi khéo tay lắm. Cả con trai cả của tôi cũng thế.”
“Ý ông là gì?”
“Gara của chúng tôi. Nó không có cột đỡ, cô biết đấy. Chứa được hai cái xe ô tô. Hơi nóng vì tôi để bàn gia công ở ngoài đó.”
“Họ sẽ đến sống với nhà ông à?”
“Với ai đó và tôi không biết đó sẽ là ai.”
“Ở Schenectady?”
Bob gật đầu.
“Họ không sở hữu căn nhà này à? Nhà thuê sao?”
“Đúng thế.” Thì thào nói thêm. “Và họ chậm mấy tháng tiền thuê nhà rồi.”
“Ông ấy không có bảo hiểm nhân thọ sao?”
Nhăn mặt. “Không. Cậu ấy đã bỏ nó rồi. Cần tiền. Hiểu không, Greg quyết định là mình muốn trả ơn cuộc sống. Bỏ việc cách đây vài năm và bắt đầu làm rất nhiều công việc từ thiện. Khủng hoảng tuổi trung niên hoặc sao đó. Làm việc bán thời gian ở trung tâm mua sắm để có thể tự do đi tình nguyện ở các bếp ăn từ thiện và các mái ấm tình thương. Tôi đoán là chuyện đó tốt cho Greg. Nhưng rất khó khăn với Sandy và Bry.”
Sachs chào tạm biệt và đi ra cửa.
Ông Bob tiễn cô đi và nói, “Nhưng đừng hiểu nhầm nhé.” Cô quay lại, nhướn một bên lông mày lên.
“Đừng nghĩ là Sandy hối hận. Cô ấy vẫn ở bên cạnh cậu ta qua tất cả mọi chuyện. Chưa từng than vãn. Trời ơi, họ yêu nhau lắm.”
Mình đang đi bộ về phía căn hộ của mình ở Chelsea, hang ổ của mình. Không gian của mình, một không gian tuyệt vời.
Và tất nhiên, vẫn dè chừng sau lưng.
Không có cảnh sát bám đuôi. Không có Đỏ, cả cảnh sát.
Sau vụ hết hồn ở trung tâm mua sắm, mình đã đi bộ hết dặm này đến dặm khác trong Brooklyn, đi tới một tuyến tàu điện ngầm khác. Mình đã dừng lại thêm một lần nữa để mua một chiếc áo khoác mới và cả mũ mới – vẫn là mũ bóng chày nhưng màu nâu vàng. Tóc mình vàng hoe và cụt lủn, mỏng, nhưng mình nghĩ tốt nhất vẫn nên che chắn nó lại khi đi ra ngoài.
Sao lại để bọn Mua Sắm có thứ để nhìn cơ chứ?
Cuối cùng thì giờ mình cũng đã bình tĩnh lại, tim không còn đập thình thịch mỗi lần nhìn thấy bóng dáng xe cảnh sát nữa.
Dường như đường về nhà dài bất tận. Chelsea rất, rất xa Brooklyn. Tự
hỏi vì sao nó lại mang cái tên đó. Chelsea. Mình nghĩ là mình từng nghe nói nó được đặt tên theo một chỗ nào đó ở nước Anh. Nghe cũng Anh lắm. Mình nhớ là có một đội bóng đá ở nước Anh mang cái tên đó. Hoặc có thể chỉ là tên của ai đó.
Đường phố, phố nhà mình, phố 22, ầm ĩ nhưng cửa sổ thì dày. Mình phải nói là cũng ra dáng hang ổ phết. Mái nhà có ban công và mình thích lên trên đó. Không có ai trong tòa nhà này lên đấy hết, hoặc nếu có thì mình cũng chưa thấy bao giờ. Thỉnh thoảng ngồi đó mình lại ước gì mình biết hút thuốc, vì ngồi trên tầng thượng, hút thuốc và ngắm thành phố, dường như là một trải nghiệm phải có của mọi cư dân New York dù cũ dù mới thì phải.
Từ trên mái nhà người ta có thể nhìn thấy mặt sau của khách sạn Chelsea. Có nhiều người nổi tiếng sống tại đó, “sống” theo nghĩa là ở lại đó. Giới nhạc sĩ, diễn viên, và nghệ sĩ. Mình ngồi trong ghế dù, ngắm bồ câu, mây trời, máy bay, phong cảnh và lắng nghe tiếng nhạc từ các nhạc sĩ sống trong khách sạn nhưng mình chưa một lần nghe thấy.
Giờ mình đang ở cửa trước của tòa nhà. Lại liếc nhìn ra sau một cái. Không có cảnh sát. Không có Đỏ.
Đi qua cửa rồi đi vào hành lang tòa nhà nơi mình ở. Màu sơn trên tường là màu xanh sậm và… đầy tính hiếu khách, mình nghĩ như thế về màu sắc ấy. Lời của mình. Vừa nảy ra trong đầu. Lần tới gặp em trai mình sẽ nói với nó điều ấy. Peter sẽ thích thế. (Có quá nhiều rắc rối nghiêm trọng với bọn mình trước đây nên giờ mình học hỏi sự hài hước). Đèn trong hành lang rất tối và tường thì bốc mùi như thể làm bằng thịt ôi. Chưa bao giờ nghĩ là mình sẽ lại cảm thấy thoải mái trong một chỗ như thế này, sau khi trưởng thành trong vùng ngoại ô trù phú xanh tốt. Căn hộ này vốn chỉ là chỗ trú chân tạm thời nhưng mình ngày càng thích nó. Và mình đã khám phá ra là thành phố này có ích cho mình. Mình không quá bị để ý đến nữa. Việc không bị để ý rất quan trọng với mình. Với mọi chuyện đã xảy ra.
Vậy đây, Chelsea dễ chịu.
Hang ổ…
Bên trong, mình bật đèn và khóa cửa lại. Mình tìm dấu hiệu đột nhập nhưng không có ai đột nhập hết. Mình bị hoang tưởng, có người sẽ nói thế, nhưng với cuộc đời mình nó đâu phải là sự hoang tưởng, phải không nào? Mình vẩy thịt cá vào bể cá. Thực đơn này lúc nào cũng có vẻ gì đó sai sai. Nhưng mình ăn thịt và còn ăn rất nhiều là đằng khác. Mình cũng chính là
thịt. Thế nên có gì khác biệt đâu? Bên cạnh đó, chúng thích thú còn mình thích thú cơn cuồng loạn nho nhỏ đó. Bọn chúng màu vàng, đen, đỏ, và lao vùn vụt cứ như đó là động lực thuần túy nhất của chúng.
Mình vào phòng tắm và tắm táp, rửa sạch nỗi lo lắng từ trung tâm mua sắm. Cả mồ hôi nữa. Kể cả trong một ngày xuân lạnh lẽo như hôm nay thì mình vẫn ướt sũng bởi mồ hôi của cuộc trốn chạy.
Mình bật tin tức lên. Phải, sau cả nghìn đoạn quảng cáo, một mẩu tin xuất hiện trên màn hình nói về tai nạn trong một trung tâm mua sắm ở Brooklyn. Sai sót trong vận hành thang cuốn, người đàn ông bị chết một cách khủng khiếp. Còn tiếng súng! À, thì ra là thế. Một sĩ quan cảnh sát đã cố gắng dừng động cơ lại và cứu nạn nhân bằng cách bắn hỏng động cơ. Không ăn thua. Có phải Đỏ là người đã bắn viên đạn vô dụng đó không? Nếu vậy thì mình phải khen cô ta vì sự khéo léo.
Mình nhìn thấy có tin nhắn trên máy trả lời tự động – phải, lạc hậu. “Vernon. Xin chào. Phải làm việc muộn mất rồi.”
Bụng mình thắt lại. Cô ta sẽ hủy hẹn sao? Nhưng rồi mình biết là mọi chuyện đều ổn:
“Nên phải gần tám giờ tôi mới tới được. Nếu cậu không phiền.” Giọng cô ta đều đều, nhưng mà lúc nào chả thế. Cô ta không phải là một người có giọng nói sôi nổi. Mình cũng chưa từng thấy cô ta cười. “Nếu tôi không nhận được hồi âm của cậu thì tôi vẫn sẽ ghé qua như thường. Nếu quá muộn thì cũng không sao hết. Cứ gọi báo cho tôi biết là được.”
Alicia là như thế. Sợ sẽ có sai sót nếu cô ta gây ra bất cứ xáo trộn nào, sợ hỏi han quá nhiều, sợ tranh cãi dù với mọi người đó chỉ là câu hỏi chứ không phải sự bất đồng ý kiến. Hoặc chỉ băn khoăn.
Mình có thể làm bất cứ chuyện gì với cô ta. Gì cũng được. Mà phải nói là mình thích thế. Nó khiến mình cảm thấy quyền lực. Khiến mình cảm thấy sung sướng. Người ta đã làm nhiều chuyện chẳng tốt đẹp với mình. Thứ này cũng công bằng thôi.
Mình nhìn ra ngoài cửa sổ để tìm Đỏ hoặc bất cứ một cảnh sát nào. Không có ai.
Hoang tưởng…
Mình mở tủ lạnh và chạn bát xem đồ cho bữa tối. Xúp, trứng cuộn, ớt nhưng không có đậu, nguyên một con gà, bánh ngô. Rất nhiều xốt chấm khác nhau. Phô mai.
ẳ
Đậu que gầy nhẳng, bò khô hiệu Slim Jim. Đúng thế, chính là mình. Nhưng mình ăn khoẻ như hùm vậy.
Mình đang nghĩ đến hai cái bánh sandwich mà mình đã ăn ở Starbucks lúc nãy, đặc biệt thích thịt hun khói. Nhớ lại tiếng thét, nhìn ra ngoài. Thấy Đỏ quét mắt vào tiệm cà phê, không quay về hướng tiếng thét phát ra giống như bất cứ một người bình thường nào sẽ làm.
Bọn Mua Sắm… Nhả ra từ đó, ít nhất là trong đầu mình.
Cáu tiết với cô ta.
Vậy nên. Mình cần chút an ủi. Mình nhặt lấy cái ba-lô đang để cạnh cửa trước và mang nó ngang qua phòng. Mình ấn số mở khóa vào phòng Đồ Chơi. Mình đã tự tay lắp đặt bộ khóa đó, một điều mà bình thường không được làm khi ở nhà thuê. Người ta không để bạn làm gì nhiều khi đi thuê nhà. Nhưng mình vẫn trả tiền đúng hạn nên không có ai tới ngó nghiêng gì hết. Bên cạnh đó mình cần phòng Đồ Chơi phải được khóa, nên nó phải được khóa lại. Mọi lúc.
Mình mở một cái chốt chết ra. Và rồi mình đi vào trong. Phòng Đồ Chơi tối lờ mờ, chỉ trừ ngọn đèn halogen sáng treo trên cái bàn cũ mòn chứa các báu vật của mình. Các tia sáng của ngọn đèn phản chiếu lên các gờ và lưỡi kim loại, chủ yếu là thép bóng loáng. Phòng Đồ Chơi im như tờ. Mình đã làm cách âm cho căn phòng rất tốt, cẩn thận cắt và lắp các tấm ván, vật liệu cách âm lên tường và các cánh cửa chớp trên cửa sổ. Người ta có thể gào thét đến khàn cả giọng ở trong này mà ngoài kia vẫn không nghe thấy gì hết.
Mình lấy dụng cụ nghiền xương, tức là búa bi ra khỏi ba-lô, lau chùi và tra dầu cho nó, trả nó về đúng chỗ trên giá đựng dụng cụ. Rồi lấy ra một món đồ mới mua, một cái cưa. Mình mở hộp và dùng ngón tay thử lưỡi cưa. Đưa nhẹ, thật nhẹ… Nó là hàng được làm ở Nhật Bản. Mẹ mình từng bảo với mình là hồi trước, thời bà còn nhỏ, đồ làm ở Nhật đều tồi tệ. Mọi thứ mới thay đổi làm sao. Ôi trời ơi, thiết bị này khá thông minh đấy chứ. Một chiếc cưa được làm từ một lưỡi dao cạo dài thẳng. Mình kiểm tra lại lưỡi cưa và thấy rõ là mình vừa cạo đi một lớp biểu bì.
Thứ này, nó giờ đã trở thành dụng cụ ưa thích mới nhất của mình, được mình đặt ở một vị trí trang trọng trên giá. Mình nảy ra một suy nghĩ kỳ cục là các dụng cụ khác sẽ thấy ghen tị và buồn bã. Mình buồn cười như thế đấy. Nhưng khi cuộc đời bạn đã bị xáo trộn bởi bọn Mua Sắm thì bạn cũng chỉ còn có thể gửi gắm cuộc đời mình vào những thứ vô tri vô giác. Nhưng
điều đó kỳ cục đến vậy thật sao? Chúng còn đáng tin cậy hơn con người. Mình lại nhìn lưỡi cưa một lần nữa. Ánh đèn phản chiếu làm mình chói mắt và cả căn phòng chao đảo khi đồng tử co rúm lại. Một cảm giác kỳ lạ nhưng không khó chịu.
Mình chợt nảy ra một thôi thúc muốn đưa Alicia vào trong này. Gần như là một nhu cầu cấp thiết. Mình hình dung ra cảnh ánh sáng sẽ phản chiếu từ lưỡi cưa lên da thịt cô ta, như những gì đang diễn ra với mình lúc này. Thật sự thì mình không hiểu rõ cô ta lắm, nhưng mình nghĩ mình sẽ vẫn mang cô ta vào đây thôi. Cái cảm giác thót cả bụng lại mách bảo mình như vậy.
Giờ thì thở gấp hơn rồi.
Mình có nên làm thế không? Vào tối nay?
Cảm giác sôi sục trong bụng bảo mình hãy làm đi. Và mình có thể mường tượng ra cảnh da thịt cô ta phản chiếu lên các đồ vật kim loại trên bàn dụng cụ, bóng như gương.
Mình ngẫm nghĩ: Kiểu gì cũng phải làm cho xong vào một lúc nào đó. Chẳng thà cứ làm luôn. Cho xong đi…
Có, hay là không?
Mình chết lặng.
Tiếng chuông cửa. Mình rời khỏi phòng Đồ Chơi và tới cửa trước. Rồi một suy nghĩ khủng khiếp thoáng vụt qua.
Nếu không phải là Alicia mà là Đỏ thì sao?
Không, không. Điều đó có thể xảy ra không? Đỏ có đôi mắt sắc bén, đồng nghĩa với việc cô ta có một đầu óc sắc sảo. Và cô ta cũng đã tìm được mình trong trung tâm mua sắm.
Cầm theo máy nghiền xương từ trên giá và đi ra cửa.
Mình ấn nút bộ đàm. Và ngưng lại. “Chào?”
“Vernon. Tôi đây?” Alicia rất hay kết thúc một câu nói bằng giọng hỏi. Cô ta luôn tràn đầy bất an.
Thoải mái, mình đặt búa xuống và ấn nút mở khóa cửa trước, vài phút sau, mình thấy khuôn mặt của Alicia xuất hiện trong màn hình máy quay, nhìn lên chiếc máy quay an ninh nhỏ xíu trên khung cửa. Cô ta bước vào và chúng mình cùng vào phòng khách. Mình ngửi thấy mùi nước hoa kỳ cục của cô ta, đối với mình thì nó có mùi thoang thoảng như hành ngọt* vậy. Mình chắc nó không vậy. Nhưng đó là cảm nhận của mình.
Hành ngọt (sweet onion): Loại hành tây không có vị hăng.
Cô ta tránh ánh mắt của mình. Mình đứng sừng sững nhìn xuống cô ta, cô ta nhỏ xíu và gầy guộc nhưng chẳng khẳng khiu như mình. “Chào.” “Chào.”
Chúng mình ôm nhau, một từ khá thú vị vì mình luôn nghĩ người ta phải tự ôm mình để chuẩn bị tinh thần trước khi chạm vào một người mà họ không muốn chạm. Như mẹ mình những ngày cuối đời. Còn cha mình thì lúc nào cũng vậy. Từ đó không có nghĩa như vậy, chắc chắn nhưng mình thì nghĩ thế.
Alicia cởi áo khoác. Tự treo lên. Cô ta không thoải mái khi người khác giúp đỡ. Cô ta tầm bốn mươi, hơn mình vài tuổi. Cô ta mặc váy xanh dương, cổ cao dài tay. Cô ta hiếm khi sơn móng tay. Cô ta thấy thoải mái với hình tượng đó: một giáo viên. Mình không quan tâm. Cách ăn mặc không phải là thứ khiến mình chú ý tới cô ta. Cô ta từng là giáo viên đến khi kết hôn.
“Ăn tối?” Mình hỏi.
“Không mà?” Một lần nữa, lại hỏi khi ý cô ta muốn nói là: Không. Lo lắng rằng chỉ nhầm một từ, nhấn giọng sai một chỗ thôi là làm hỏng cả buổi tối.
“Cô không đói à?”
Cô ta liếc nhìn về phía phòng ngủ thứ hai. “Chỉ là… Có được không? Chúng ta làm tình được không?”
Thật buồn cười là, dù nghe có vẻ như đúng là một câu hỏi, nhưng mình biết là cô ta không hề thắc mắc. Đó là một lời khẳng định. Và từ cô ta, thì đó là một yêu cầu.
Mình nắm tay cô ta và bọn mình đi qua phòng khách, đi về phía bức tường cuối phòng. Bên phải là phòng Đồ Chơi. Bên trái, phòng ngủ, cửa ngỏ và chiếc giường gọn gàng nằm dưới một quầng sáng dịu dàng.
Mình dừng lại trong giây lát, mắt nhìn cửa phòng Đồ Chơi. Cô ta ngẩng lên nhìn, tò mò, nhưng chẳng bao giờ dám mơ đến việc hỏi ra câu ‘Có gì không ổn à?’.
Mình ra quyết định và quay sang trái, dẫn cô ta đi theo.
CHƯƠNG 5
“Đã xảy ra chuyện gì?” Lincoln Rhyme hỏi. “Ở Brooklyn ấy?” Đây là cách anh dùng để moi tin. Sachs thường không đi sâu vào chi tiết, thậm chí hé lộ chút manh mối, về những điều đang quấy rầy cô – giống hệt anh. Cả hai người họ đều không có thói quen hỏi thẳng, “Chuyện gì không ổn vậy?” Nhưng lại ngụy trang câu hỏi thăm về tâm tình của cô dưới dạng những câu hỏi về một mối quan tâm cụ thể nào đó, như hiện trường vụ án chẳng hạn, đôi khi lại có tác dụng.
“Khá là rắc rối.” Và cô lại im lặng.
À thì đã thử rồi đấy nhé.
Họ đang ở trong phòng khách nhà anh ở Central Park West. Cô thả ví và cặp táp xuống một cái ghế mây. “Đi rửa ráy đã.” Cô đi hết hành lang tới phòng tắm ở tầng trệt. Anh nghe cô trao đổi vài câu xã giao với phụ tá của mình, Thom Reston, đang chuẩn bị bữa tối.
Mùi đồ ăn bay đến. Rhyme nhận ra được mùi cá hầm, bạch hoa, cà rốt với húng tây. Có xíu mùi thì là, chắc được trộn vào cơm. Phải, khứu giác của anh – anh tin là những phối tử thông minh đó đã phát triển hơn sau vụ tai nạn ở hiện trường gây án nhiều năm trước làm anh bị chấn thương cột sống nghiêm trọng và bị liệt cấp độ C4. Tuy nhiên cũng không khó để suy luận; Thom có thói quen nấu các món này một lần một tuần. Dù không phải là kẻ phàm ăn thì Rhyme vẫn mê mẩn chúng. Miễn là chúng đi kèm với vang trắng Chablis. Mà nhất định sẽ có rồi.
Sachs trở lại và Rhyme vẫn kiên trì. “Nghi phạm của em sao rồi? Kể lại xem em đã nhận ra hắn thế nào? Anh quên mất rồi.” Anh chắc chắn là cô từng kể cho anh. Nhưng trừ khi nó liên quan trực tiếp tới vụ mà Rhyme đang xử lý không thì anh sẽ quên luôn.
“Nghi phạm Bốn mươi. Đặt theo tên câu lạc bộ gần chỗ hắn giết nạn nhân.” Cô có vẻ ngạc nhiên khi anh không nhớ gì cả.
“Hắn đã tẩu thoát.”
“Đúng thế. Bốc hơi. Chỗ đó loạn hết cả lên do vụ thang cuốn.”
Anh nhận thấy Sachs không tháo khẩu Glock của cô ra và đặt nó lên giá trong hành lang gần cửa trước. Điều đó có nghĩa là tối nay cô sẽ không ở lại đây. Cô cũng có nhà riêng trong thành phố, ở Brooklyn, và cô phân chia thời gian ở hai nơi. Hoặc cho tới gần đây thì là vậy. Trong mấy tuần vừa rồi, cô chỉ ở lại đây có hai lần.
Quan sát thêm: Quần áo của cô vẫn sạch sẽ, không có vết bẩn và máu đáng ra phải có sau khi cô nhảy xuống hố gắng giải cứu nạn nhân của vụ tai nạn. Vì cả nghi phạm đã tẩu thoát – lẫn vụ tai nạn thang cuốn – đều diễn ra ở Brooklyn nên chắc cô đã về nhà tắm rửa và thay đồ.
Nếu vậy, cô đã dự định sẽ không ở lại, sao còn phải lái xe từ khu đó tới Manhattan này?
Chắc bởi bữa tối? Anh hy vọng là vậy.
Thom từ hành lang bước vào phòng khách. “Của cô đây.” Anh ta đưa cho cô một cốc rượu vang trắng.
“Cảm ơn.” Cô nhấp rượu.
Phụ tá của Rhyme chải chuốt và bảnh bao như người mẫu Nautica, hôm nay anh mặc quần chùng đen, áo sơ mi trắng, và cà vạt màu hồng pha đỏ rượu dịu. Anh ta ăn vận đẹp đẽ hơn mọi hộ lý khác Rhyme từng có, và dù bộ cánh có vẻ hơi bay bướm thì phần quan trọng nhất vẫn được để tâm cẩn thận: Giày của anh ta rất vững vàng và có đế cao su – để có thể chuyển cơ thể chắc nịch của Rhyme một cách an toàn từ giường sang xe lăn. Và có cả một phụ kiện: Thòi ra khỏi túi quần sau của anh ta là một chiếc găng tay cao su màu xanh ánh tím để xử lý mấy nhu cầu vệ sinh.
Anh ta hỏi Sachs, “Cô chắc là mình không thể ở lại ăn tối chứ?” “Không, cảm ơn. Tôi có kế hoạch khác rồi.”
Nó đã trả lời câu hỏi đó, dù việc không nói tỉ mỉ chỉ thêm phần bí ẩn cho việc cô đang ở đây.
Rhyme hắng giọng. Anh liếc nhìn chiếc bình rỗng của mình, nó nằm ở cạnh bên của xe lăn, ngang tầm miệng anh (giá đựng cốc là phụ kiện đầu tiên của chiếc xe này).
“Anh đã uống hai cốc rồi,” Thom bảo anh.
“Tôi mới uống có một cốc, chính là cốc cậu chia ra làm hai. Thật ra thì tôi còn chưa uống trọn một cốc nếu tôi ước lượng đúng.” Thỉnh thoảng anh lại đấu khẩu với trợ lý của mình về vấn đề này, giữa hàng tá vấn đề khác, nhưng hôm nay Rhyme không thật sự thấy cáu kỉnh, anh hài lòng với những gì diễn ra trong lớp học. Mặt khác anh cũng đang băn khoăn. Có
chuyện gì với Sachs vậy? Nhưng, ta đừng phân tích quá tỉ mỉ làm gì, chủ yếu là anh muốn được uống thêm thứ rượu scotch chết tiệt đó. Anh định đế thêm rằng hôm nay là một ngày tồi tệ khủng khiếp. Nhưng đó không phải là sự thật. Hôm nay là một ngày dễ chịu, một ngày êm ả. Không giống như vô số ngày anh gần như phát điên vì lần theo một kẻ sát nhân hoặc một tên khủng bố, trước khi anh không còn làm cố vấn cho cảnh sát.
“Xin cậu đấy?”
Thom nhìn anh hoài nghi. Anh ta ngập ngừng rồi rót thêm rượu từ chai Glenmorangie, mà khỉ gió, anh ta vẫn cất trên một cái giá ngoài tầm với, cứ như thể Rhyme là đứa bé mới biết đi bị một chai nước tẩy rửa màu sắc rực rỡ thu hút vậy.
“Nửa tiếng nữa là đến giờ ăn,” Thom nói và quay về với nồi cá đang sôi lăn tăn của mình.
Sachs nhấp rượu vang, quan sát các thiết bị và dụng cụ xét nghiệm pháp y được chất trong căn phòng khách kiểu Victoria: máy tính, máy sắc ký khí ghép khối phổ, máy kiểm tra đạn đạo, thước đo mật độ, máy nhận diện dấu vân tay, các nguồn sáng thay thế, kính hiển vi điện tử. Với những món đồ này cùng hàng tá bàn khám nghiệm và hàng trăm dụng cụ, căn phòng khách này là một phòng khám nghiệm pháp y đáng ghen tị đối với rất nhiều sở cảnh sát quy mô nhỏ và thậm chí là trung bình. Phần lớn trong số đó giờ đã bị các tấm vải nhựa hoặc vải cotton che phủ, cũng thất nghiệp như chủ nhân của chúng. Cùng với dạy học, Rhyme vẫn tham vấn vài vấn đề không liên quan đến hình sự, nhưng chủ yếu công việc của anh liên quan đến việc viết bài cho các tạp chí học thuật và chuyên môn.
Anh để ý thấy mắt cô nhìn sang một góc phòng tối tăm ảm đạm nơi đặt nửa tá tấm bảng trắng mà họ từng dùng để ghi lại các bằng chứng thu thập được từ các hiện trường gây án bởi người từng được Sachs và Rhyme huấn luyện, sĩ quan tuần tra Ron Pulaski. Ba người họ cùng với một sĩ quan khác từ trụ sở sẽ đứng, hoặc ngồi, trước các tấm bảng và trao đổi ý tưởng về nhân dạng và chỗ ở của hung thủ. Giờ thì chúng đều quay mặt vào tường như thể phẫn nộ khi Rhyme không còn cần dùng đến chúng nữa. Một giây sau, Sachs nói, “Em đã tới gặp góa phụ.”
“Góa phụ?”
“Bà Sandy Frommer. Vợ nạn nhân.”
Anh mất chút thời gian mới nhận ra là cô không nói đến người bị giết
bởi nghi phạm 40 mà đang nói đến người đã chết trong vụ tai nạn thang cuốn.
“Em phải là người báo tin à?” Cảnh sát pháp y, như Rhyme, hiếm khi, thậm chí là không bao giờ phải nhận nhiệm vụ khó khăn giải thích rằng người thân yêu của ai đó không còn trên đời nữa.
“Không. Chỉ là… ông Greg, nạn nhân, muốn em chuyển lời cho vợ mình là ông ấy yêu vợ và con trai. Khi ông ấy đang hấp hối. Em đã đồng ý.”
“Em thật tử tế.”
Nhún vai. “Cậu con trai mới mười hai tuổi. Bryan.”
Rhyme không hỏi thăm xem họ ra sao. Sáo rỗng, những câu hỏi kiểu vậy.
Cầm chặt ly rượu vang bằng cả hai tay, Sachs đi về phía một chiếc bàn không được khử trùng, dựa vào nó. Lại nhìn sang anh. “Em đã ở rất gần hắn. Gần như đã tóm được hắn, ý em là nghi phạm Bốn mươi ý. Nhưng rồi tai nạn xảy ra, thang cuốn. Em phải lựa chọn.” Nhấp rượu vang.
“Đó là hành động đúng đắn, Sachs. Tất nhiên rồi. Em phải làm thế.” “Ngẫu nhiên mà em phát hiện ra hắn – không đủ thời gian chẳng có tẹo thời gian nào để tập hợp đầy đủ một đội bắt giữ.” Cô nhắm mắt lại. Khẽ lắc đầu. “Một trung tâm mua sắm đông đúc. Không thể xoay xở nổi.” Sachs luôn tự chỉ trích bản thân gay gắt nhất và Rhyme hiểu rõ những khó khăn trong các pha bắt người đột xuất có thể giúp xoa dịu cảm giác cay đắng cho nhiều người nhưng, với Sachs, thì không. Giờ anh có bằng chứng ngay đây: tay Sachs vùi vào trong tóc và cô gãi da đầu của mình. Rồi có vẻ như cô cảm giác thấy hành động của mình và khựng lại. Lát sau lại tiếp tục làm thế. Cô là một người phụ nữ đầy mâu thuẫn, có cả ánh sáng và bóng tối. Chúng song hành cùng với nhau.
“Đã có giám định pháp y chưa?” anh hỏi. “Về nghi phạm của em?” “Ở Starbucks, nơi hắn ngồi ăn, thì không có gì nhiều. Hắn đã nghe thấy tiếng hét của Greg Frommer và, cũng như mọi người khác, nhìn về phía đó. Em đã ở ngay trong tầm mắt của hắn. Em đoán là hắn đã nhìn thấy súng hoặc phù hiệu trên thắt lưng của em. Ý thức được chuyện gì đang diễn ra. Hoặc cũng đã hoài nghi. Vậy nên hắn bỏ chạy thật nhanh, mang theo tất cả mọi thứ. Có vài dấu vết trên bàn nhưng hắn mới chỉ ngồi đó được mấy phút.”
“Theo lối thoát hiểm à?” Rhyme không còn làm việc cho NYPD nhưng
các câu hỏi theo thông lệ cứ tự nhiên mà tuôn ra.
“Cửa dỡ hàng. Ron, vài nhân viên đội thu thập bằng chứng và vài sĩ quan đội 84 đang điều tra tiếp, rà soát và có thể có thêm hướng để điều tra. Chúng em sẽ xem thế nào. À, mà em còn bị một đội Thanh Tra Súng điều tra nữa.”
“Vì sao?”
“Em đã bắn vào động cơ.”
“Em…?”
“Anh chưa xem tin tức à?”
“Chưa.”
“Nạn nhân không bị kẹt giữa các bậc thang cuốn. Ông ta ngã xuống rơi vào các bánh răng của động cơ. Không có nút dừng khẩn cấp ở đó. Em đã bắn vào lõi động cơ. Nhưng đã quá muộn.”
Rhyme cân nhắc vấn đề này. “Không ai bị thương bởi phát súng đó nên họ sẽ không để em vào diện giám sát đâu. Em sẽ nhận được một bức thư miễn tội sau khoảng một tuần nữa.”
“Hy vọng là thế. Đội trưởng đội 84 ủng hộ em. Miễn là không có nhà báo nào tìm đường thăng tiến trong sự nghiệp bằng phóng sự về cảnh sát nổ súng trong trung tâm mua sắm thì em sẽ ổn.”
“Anh không nghĩ đó là một đề tài hấp dẫn cánh nhà báo đâu,” Rhyme nói một cách châm biếm.
“À, Madino, đại úy, ông sẽ rửa tội cho tình thế đó một thời gian.” “Từ đó hay đấy,” Rhyme khen cô. “Em đã thoát hiểm ngoạn mục.” Cũng hài lòng với cách dùng từ của chính mình.
Cô mỉm cười.
Rhyme thích điều đó. Dạo này cô rất ít khi cười.
Cô về chỗ chiếc ghế mây gần Rhyme và ngồi xuống. Chiếc ghế phát ra tiếng kẽo kẹt đặc trưng, một âm thanh mà Rhyme chưa bao giờ nghe thấy từ đâu khác.
“Anh đang nghĩ,” cô từ tốn nói, “nếu em thay đồ ở nhà, mà đúng là như vậy, và nếu em không định lại đây tối nay, mà đúng là không…” Cô nghiêng đầu. “Vì sao em lại tới đây?”
“Chính xác.”
Cô đặt ly rượu vang mới uống một nửa xuống. “Em tới để nhờ anh điều này. Em cần một sự giúp đỡ. Phản ứng bản năng của anh sẽ là từ chối nhưng cứ nghe em nói cho hết đã. Thỏa thuận chứ?”
Mình đã không đủ dũng cảm.
Không phải là tối nay.
Mình đã không đưa Alicia tới phòng Đồ Chơi.
Mình đã cân nhắc, nhưng không.
Cô ta đã về – cô ta chưa bao giờ ngủ lại – và mình đang nằm trên giường, khoảng 11 giờ đêm. Mình cũng chẳng rõ. Nghĩ lại cảnh bọn mình trong phòng ngủ ban tối: kéo khóa chiếc váy xanh dương của Alicia, váy nhà giáo, khóa sau lưng. Kín đáo. Áo lót thì phức tạp hơn, không phải khó cởi, mà bởi thiết kế của nó. Dẫu vậy cũng khó mà nhìn thấy rõ ràng vì tất nhiên, cả hai bọn mình đều thích ánh sáng lờ mờ hơn.
Rồi đồ của mình cũng cởi ra, quần áo của mình cứ như tấm khăn trải giường cỡ đại trên chiếc giường đôi. Bàn tay nhỏ nhắn của cô ta di chuyển nhanh như lũ chim ruồi đói khát. Thật sự có nghề. Và hai người cùng chơi trò chơi. Mê mẩn điều đó. Mê mẩn. Dù mình phải thận trọng. Nếu mình không nghĩ tới chuyện gì khác thì nó sẽ kết thúc quá sớm. Lật giở các suy nghĩ và ký ức: cái đục thép mình mới mua tuần trước, cân nhắc những gì nó sẽ làm được với xương. Ăn tối ở quán ăn nhanh ưa thích. Tiếng hét của nạn nhân gần đây trong công trường xây dựng gần 40 độ Bắc, khi búa bi nện xuống xương sọ của hắn. (Mình xem đây là bằng chứng cho thấy mình chưa hoàn toàn là một con quái vật. Mường tượng cảnh máu me hay tiếng xương dập không khiến mình kết thúc nhanh hơn mà còn làm mình đờ đẫn đôi chút.)
Rồi Alicia và mình tìm được nhịp điệu và tất cả tuyệt vời… cho tới khi, chết tiệt, hình ảnh của cô cảnh sát đó xuất hiện trong đầu mình. Đỏ. Mình hình dung lại lúc nhìn về phía tiếng thét phát ra từ thang cuốn, nhìn thấy cô ta, đủ cả phù hiệu lẫn súng, đúng lúc cô ta đang nhìn về phía mình. Mắt sẫm, tóc đỏ bay phấp phới. Không nhìn về phía cái thang cuốn đẫm máu và tiếng gào thét mà nhìn về phía mình, mình, chính mình. Nhưng, kỳ lạ thay, dù cô ta khiến mình sợ chết khiếp ở trung tâm mua sắm, dù cô ta cũng xấu xa như một kẻ Mua Sắm xấu xa nhất, hình dung ra cô ta khi mình chuyển động trên người Alicia bé nhỏ không làm mình chậm lại. Ngược lại là khác.
Dừng lại! Cút đi!
Chúa ơi, mình vừa nói thành lời đấy à? Mình tự hỏi.
Liếc nhìn Alicia. Không. Cô ta còn đang chìm đắm trong một chốn nào đó mà cô ta vẫn thường tới trong những thời khắc như thế này.
Nhưng Đỏ không biến đi.
Và thế là xong. Tách. Alicia có vẻ hơi ngạc nhiên trước tốc độ này. Dù có vẻ cô ta cũng chẳng quan tâm. Tình dục đem lại nhiều loại đồ ăn khác nhau cho phụ nữ, như bánh kẹp vậy, trong khi đàn ông chỉ muốn có đúng một món để ngấu nghiến thật nhanh.
Sau đó, bọn mình ngủ thiếp đi và mình bỗng choàng tỉnh, thầm nghĩ vẫn còn thấy trống rỗng sao đó và nghĩ về phòng Đồ Chơi, hay là đưa cô ta vào đó nhỉ.
Có? Mình tự hỏi. Hay không?
Rồi mình bảo cô ta về nhà.
Tạm biệt, tạm biệt.
Không có lời nào để nói ngoài những từ đó.
Và cô ta ra về.
Giờ thì mình đi tìm điện thoại, nghe tin nhắn thoại từ em trai. “Này. Chủ nhật tới. Anjelika hay Diễn đàn Phim? David Lynch hay Người Đàn Ông Rơi Xuống Trái Đất? Cho anh quyết. Ha ha, không, thật ra là em quyết chứ. Vì em mới là người đang gọi cho anh!”
Thật vui khi được nghe giọng cậu ấy. Nghe giống giọng mình, vậy nhưng chẳng giống hắn.
Rồi mình tự hỏi biết làm gì khi cứ tỉnh như sáo thế này. Có vô số kế hoạch mà mình cần cân nhắc cho ngày mai. Nhưng thay vào đó mình lại lục tìm ngăn kéo táp đầu giường. Tìm nhật ký và tiếp tục sao chép lại. Thật ra thì mình chỉ đang ghi lại những lời trong máy MP3. Nói ra bao giờ cũng dễ hơn, để suy nghĩ bay phấp phới như lũ dơi lúc hoàng hôn, lượn lờ tới đâu tùy thích. Rồi sau đó thì viết lại sau.
Đây là những đoạn văn từ thời kỳ khó khăn, thời trung học. Ai mà chẳng thấy vui vẻ khi bỏ lại được quãng thời gian ấy sau lưng chứ? Mình viết chữ khá đẹp. Nhờ các xơ. Họ không xấu, phần lớn là không. Nhưng khi họ yêu cầu thì bạn phải nghe theo, phải luyện tập, phải làm họ vừa lòng.
Chà. Một ngày thật là. Ở trường tới tận bốn giờ. Dự án câu lạc bộ công dân. Bà Hooper thấy hài lòng với tác phẩm của mình. Mang theo bí mật về nhà. Lâu hơn nhưng tốt hơn (biết vì sao chứ? Quá hiển nhiên rồi mà). Đi qua ngôi nhà chăng mạng nhện trang trí mùa Halloween, đi qua cái hồ mà có vẻ mỗi năm lại nhỏ lại, đi qua nhà của Marjorie, nơi mình từng thấy cô
ẳ
ta lúc cái áo cánh bật cúc mà cô ta chẳng thể biết.
Đã hy vọng, đã cầu nguyện hôm nay mình sẽ về tới nhà an ổn và mình nghĩ sẽ vậy. Nhưng rồi chúng lại xuất hiện.
Sammy và Franklin. Chúng đang rời khỏi nhà của Cindy Hanson. Cindy có thể làm người mẫu. Thật xinh đẹp. Sam và Frank, vô cùng đẹp trai, là kiểu có thể đi chơi cùng cô ta. Mình thậm chí còn chưa từng nói chuyện với cô ta. Với cô ta mình không tồn tại, không có mặt trên hành tinh này. Trắng trẻo sạch sẽ nhưng quá gầy gò, quá lóng ngóng, quá kỳ cục. Không sao. Thế giới này là thế mà.
Sam và Frank chưa bao giờ đánh đập mình, dúi người mình xuống, ấn mặt mình vào bùn hay bãi cứt chó. Nhưng chưa từng ở riêng với chúng. Biết là có vài lần chúng nhìn mình, tất nhiên rồi. Ai ở trường mà chẳng thế. Nếu đây mà là Duncan hoặc Butler thì mình đã bị ăn đòn nhừ tử rồi, vì không có nhân chứng nào xung quanh. Nên mình đoán là chuyện tương tự cũng sắp xảy ra với chúng. Chúng lùn hơn mình, ai mà chẳng thế? Nhưng khỏe hơn và mình không thể đánh lại, không hiểu sao. Tay chỉ biết quờ quạng, mọi người bảo mình thế đấy. Trông mình thật ngớ ngẩn. Nhờ cha giúp. Ông không giúp. Mở một chương trình đấm bốc trên tivi và bỏ mình lại ngồi xem. Nó có ích lắm đấy.
Nên bây giờ phải chịu đòn.
Vì không có nhân chứng nào xung quanh.
Mình không có đường nào để bỏ chạy cả. Mình cứ thế rảo bước. Chờ ăn đòn. Và chúng đang nhăn nhở. Một biểu cảm luôn có ở lũ con trai trong trường trước khi chúng vung nắm đấm.
Nhưng chúng không đánh. Sam chào mình, hỏi thăm mình sống ở gần đây à. Mình trả lời, cách đây vài khu phố. Nên giờ chúng biết việc mình chọn con đường này để về nhà là chuyện khá kỳ cục, nhưng chúng không nói gì cả.
Cậu ta chỉ nói khu phố này thật xinh xắn. Frank nói là cậu ta sống gần đường tàu hỏa hơn, ồn ào và khá khó chịu.
Rồi Frank khen: Anh bạn. Hôm nay ở lớp cậu đỉnh đấy.
Mình kiểu không thể nói nên lời. Cậu ta đang nhắc đến lớp của cô Rich. Số học. Cô ấy đã gọi mình lên vì mình đang nhìn ra ngoài cửa sổ, một việc giáo viên làm khi có người nhìn ra ngoài cửa sổ để làm đám học sinh xấu hổ, không thèm ngoái lại, mình đã trả lời g(1) = h(1)+7 = -10,88222+7 = -3,88222.
Phải, một trong số đó nói, Mặt bà ta hay lắm, Bà Giáo Quỷ Quái đó. Cậu đã cho bà ta một vố đấy.
Đỉnh.
“Gặp cậu sau nhé.” Sam nói. Và họ bỏ đi.
Mình không bị đánh hay bị nhổ nước bọt. Hoặc bị gọi là thằng quái dị, đậu đũa, mấy cái tên như thế.
Không gì cả. Hôm nay là một ngày tốt lành.
Mình ấn nút dừng trên máy ghi âm và nhấp chút nước. Rồi nằm ngả xuống cạnh chiếc gối vẫn còn vương mùi hương của Alicia. Mình từng nghĩ sẽ hẹn hò với một người phụ nữ mù. Đã thử nhưng không thể tìm được ai. Họ không hẹn hò trên báo. Có thể như thế quá nguy hiểm. Người mù sẽ không để tâm đến việc mình quá cao, quá gầy, mặt dài, tay dài, chân dài. Một gã gầy nhẳng quái dị. Một thằng nhóc đậu đũa. Slim Jim. Nên, kế hoạch của mình là đi tìm một người phụ nữ mù. Nhưng không đi tới đâu. Thỉnh thoảng mình lại gặp gỡ người này người kia. Cũng chẳng đến nỗi nào. Rồi nó chấm dứt.
Các mối quan hệ luôn chấm dứt. Mối quan hệ với Alicia cũng thế. Mình nghĩ tới phòng Đồ Chơi.
Rồi mình quay lại với tập nhật ký, lại ghi chép thêm mười, hai mươi phút.
Những thăng trầm của cuộc sống, được ghi âm lại mãi mãi. Cũng giống như các kỷ vật của mình trên các giá đựng đồ trong phòng Đồ Chơi: mình vẫn nhớ cảm giác vui, buồn, hay giận dữ phủ quanh từng thứ một. Hôm nay là một ngày tốt lành.
PHẦ N II
THỨ TƯ
THỰC TẬP SINH
CHƯƠNG 6
“Anh Rhyme, thật đúng là một vinh dự.”
Không chắc phải trả lời thế nào. Gật đầu có vẻ thích hợp. “Anh Whitmore.”
Không gọi bằng tên riêng. Dẫu vậy, Rhyme đã biết được tên anh ta là Evers.
Vị luật sư này trông như được đặt vào thời này từ những năm 1950. Anh ta mặc một bộ âu phục màu xanh dương sậm, vải gabardine, áo sơ mi trắng có cổ và ống tay áo được hồ là đến mức trông như bằng nhựa. Cà vạt nhìn cũng cứng ngắc y như vậy, có màu xanh dương chưa hết ánh tím và nhỏ như một cái thước kẻ. Một hình chữ nhật màu trắng nhô lên khỏi ngực áo khoác.
Mặt của Whitmore dài, xanh xao, và vô cảm đến mức Rhyme thoáng nghĩ hay là anh ta bị mắc chứng liệt cơ mặt hoặc liệt các dây thần kinh. Đúng lúc đưa ra kết luận đó thì lông mày anh ta hơi nhíu lại khi quan sát phòng khách và các thiết bị điều tra hiện trường trong phòng.
Rhyme nhận ra là có vẻ anh ta đang chờ được mời ngồi xuống. Rhyme mời anh ta ngồi và, vuốt phẳng ống quần, cởi khuy áo khoác, Whitmore chọn một cái ghế gần đó rồi hạ người xuống. Ngồi thẳng tắp. Anh ta bỏ kính, lau hai mắt kính tròn bằng một cái khăn màu xanh dương sậm rồi trả cả hai về vị trí cũ, trên mũi và trong túi.
Khi gặp Rhyme, các vị khách thường phản ứng theo một trong hai kiểu. Phần đông sẽ thấy gần như tê liệt, đỏ mặt, khi ở cạnh một người đàn ông bị liệt đến chín mươi phần trăm cơ thể. Những người khác sẽ cười đùa và trêu chọc tình trạng của anh. Một hành động thật nhạt nhẽo, nhưng vẫn còn đỡ hơn kiểu còn lại.
Vài người – đúng như Rhyme thích – khi gặp anh sẽ liếc nhìn cơ thể anh một đến hai lần rồi coi như không có gì, không nghi ngờ gì là đúng cái cách họ sẽ đánh giá nhà thông gia tiềm năng: Chúng tôi sẽ giữ nhận xét của mình lại cho tới khi chúng tôi xác định được thực chất. Đây đúng là những
gì Whitmore đang làm.
“Anh quen Amelia chứ?” Rhyme hỏi.
“Không. Tôi chưa từng gặp thanh tra Sachs. Chúng tôi có một người bạn chung, một bạn học từ thời trung học. Brooklyn. Cũng là luật sư. Cô ấy gọi cho Richard trước và nhờ cậu ấy đánh giá vụ án nhưng cậu ấy không làm kiểu gây thương tích cá nhân. Cậu ấy đã cho cô ấy số của tôi.”
Khuôn mặt hẹp của anh ta càng làm nổi bật sự nghiêm túc, và Rhyme ngạc nhiên khi biết anh ta và Sachs trạc tuổi nhau. Anh cứ ngỡ Whitmore phải hơn khoảng gần chục tuổi.
“Khi cô ấy gọi điện cho tôi nhờ nhận một vụ án và bảo tôi rằng anh có thời gian để làm tham vấn trên tòa, tôi đã rất ngạc nhiên.” Rhyme cân nhắc mốc thời gian ẩn trong câu nói đó. Rõ ràng là Sachs đã đặt Rhyme vào vị trí cố vấn trước khi cô thừa nhận với anh đó là lý do khiến cô phải lái xe từ nhà góa phụ ở Brooklyn tới phòng khách này tối qua.
Em tới để nhờ anh một việc. Em cần một sự giúp đỡ.
“Nhưng tất nhiên tôi rất vui vì anh có thời gian. Mọi vụ kiện tụng về tai nạn làm chết người không được giải quyết ổn thỏa đều bởi sự khó khăn của các vấn đề về bằng chứng. Và tôi biết điều đó sẽ đặc biệt đúng trong vụ này. Anh khá có tiếng.” Anh ta nhìn xung quanh. “Thanh tra Sachs có ở đây không?”
“Không, cô ấy ở trong thành phố. Xử lý một vụ giết người. Nhưng tối hôm qua cô ấy đã kể cho tôi về thân chủ của anh. Sandy, đó là tên bà ta nhỉ?”
“Góa phụ. Bà Frommer. Sandy.”
“Hoàn cảnh của bà ta tồi tệ như Amelia kể sao?”
“Tôi không rõ cô ấy đã nói gì với anh.” Sửa lại cho đúng câu nói thiếu chính xác của Rhyme. Anh không nghĩ nhậu nhẹt với Whitmore sẽ vui, nhưng có anh ta làm cố vấn thì rất tuyệt, đặc biệt là khi phải đối chất. “Nhưng tôi xác nhận là bà Frommer đang phải đối diện với quãng thời gian cực kỳ khó khăn. Chồng bà ta không có bảo hiểm nhân thọ và cũng không làm việc toàn thời gian vài năm rồi. Bà Frommer làm cho một công ty dịch vụ dọn dẹp nhưng cũng chỉ làm bán thời gian. Họ đang nợ nần chồng chất. Họ có họ hàng nhưng không ai có điều kiện để giúp đỡ nhiều về mặt tài chính cả. Một người anh họ có thể cung cấp chỗ trú chân tạm thời – trong một gara. Tôi đã xử lý các vụ án về thương tích cá nhân nhiều năm rồi và
tôi có thể cho anh biết là đối với nhiều thân chủ, tiền bồi thường là món quà bất ngờ, nhưng trong trường hợp của bà Frommer thì nó là điều thiết yếu.
“Còn bây giờ, anh Rhyme… xin lỗi nhưng anh từng là đại úy trong lực lượng cảnh sát đúng không? Tôi có nên gọi anh như thế không?” “Không, Lincoln là được rồi.”
“Giờ tôi sẽ thuật lại cho anh tình thế của chúng ta.”
Anh ta có vẻ gì đấy rất máy móc. Không khó chịu. Chỉ là cực kỳ kỳ cục. Có thể bồi thẩm đoàn thích điều này.
Whitmore mở chiếc cặp táp lỗi mốt của mình – một lần nữa, chắc phải từ những năm 1950 – và rút vài tờ giấy trắng tinh ra. Anh ta mở nắp một cái bút (Rhyme hơi ngạc nhiên khi đó không phải bút máy), và bằng cỡ chữ nhỏ nhất mà mắt người thường đọc được, anh ta ghi lại, xem chừng là ngày giờ và các bên có mặt, đối tượng của cuộc gặp. Giấy không dòng kẻ, đúng vậy, nhưng các chữ cái được viết đều tăm tắp như được đo đạc kỹ càng.
Anh ta nhìn các ghi chép rải rác, có vẻ hài lòng và ngước mắt lên. “Tôi định nộp đơn ở tòa án New York – Tòa Thượng Thẩm, như anh biết.”
Tòa án này, thuộc cấp thấp nhất trong bang, dù mang một cái tên khá kiêu căng, xử lý cả các vụ án hình sự lẫn dân sự; Rhyme đã ra làm chứng ở đó cả nghìn lần với vai trò chuyên gia tư vấn cho bên khởi tố.
“Đơn kiện vì tử vong vô cớ nhân danh quả phụ, bà Frommer. Và con của họ.”
“Một cậu nhóc vị thành niên đúng không?”
“Không. Mới mười hai tuổi.”
“À, phải rồi.”
“Và vì cả những đau đớn và khổ sở nhân danh ông Frommer quá cố nữa. Theo tôi hiểu là ông ấy áng chừng đã trải qua mười phút đau đớn cùng cực. Khoản bồi thường đó, như tôi nói, sẽ được đưa vào phần di sản và sẽ được chuyển giao cho bất kỳ ai được đề cập tới trong di chúc đã được chứng thực của ông ấy hoặc theo quyết định của phiên tòa chứng thực di chúc nếu ông ấy không có di chúc nào. Thêm vào đó, tôi cũng sẽ nộp đơn nhân danh cha mẹ của ông Frommer, người mà ông Frommer, trong khả năng của mình, đã chăm lo. Đó cũng là đơn liên quan tới tử vong vô cớ.”
Đây có lẽ là một luật sư ít cường điệu, nếu không nói là nhàm chán nhất, mà Rhyme từng gặp.
“Khoản yêu cầu đòi bồi thường trong đơn kiện của tôi, nói thẳng ra, sẽ cao một cách thái quá. Ba mươi triệu đô bồi thường tử vong vô cớ, hai mươi triệu đô vì những đau đớn và khổ sở. Chúng ta sẽ chẳng bao giờ có số đó. Nhưng tôi chọn nó chỉ vì muốn thu hút chú ý của bị đơn và mang lại một chút chú ý của công chúng cho vụ kiện này. Tôi không định ra tòa thật.”
“Không à?”
“Không. Tình thế của chúng ta hơi khác thường. Vì không có bảo hiểm và bất kỳ hỗ trợ tài chính nào cho bà Frommer và con trai bà ta, họ cần đạt được thỏa thuận nhanh chóng. Một vụ kiện ra tòa có thể kéo dài cả năm hoặc hơn. Họ sẽ rất cùng cực. Họ cần tiền để có chỗ trú ngụ, cho đứa bé đi học, mua bảo hiểm sức khỏe, mua các đồ thiết yếu. Sau khi chúng ta đưa ra các bằng chứng vững chắc chống lại bị đơn, và tôi ra hiệu sẵn lòng giảm yêu cầu bồi thường xuống một cách đáng kể thì tôi tin là họ sẽ bỏ ra một số tiền nhỏ bé đối với họ nhưng lại đáng kể với bà Frommer, và con số đó sẽ cho thấy công lý đã được thực thi một cách vừa đủ.”
Anh ta cùng nhà với nhân vật của Dickens, Rhyme cho là vậy. “Có vẻ là một chiến lược hợp lý. Giờ thì chúng ta có thể nói về bằng chứng chứ?” “Đợi một chút.” Evers Whitmore sẽ phải đi theo đúng lộ trình mà anh ta đã đặt ra, bất kể thế nào. “Đầu tiên, tôi muốn giải thích với anh về sự phức tạp của điều luật liên quan. Anh có hiểu biết gì về luật bất cẩn không?” Rõ ràng là dù anh có trả lời là có biết, không biết, hoặc có thể biết đều không quan trọng. Luật sư Whitmore sẽ khiến anh phải hiểu. “Thật ra thì, không.”
“Tôi sẽ nói qua cho anh. Luật bất cẩn quy định về các trường hợp bị tổn hại do bên bị đơn gây ra cho nguyên đơn, chứ không phải do phá hợp đồng. Từ đó đến từ…”
“Từ La-tinh mang nghĩa ‘sai trái’? Tortus.” Rhyme rất thích các nghiên cứu về ngôn ngữ.
“Đúng thế.” Whitmore không ấn tượng với hiểu biết của Rhyme mà cũng chẳng thất vọng vì mất một cơ hội để giải nghĩa. “Các tai nạn xe hơi, phỉ báng và vu khống, tai nạn săn bắn, đèn bắt lửa, tràn hóa chất, máy bay rơi, hành hung – đe dọa đánh người – và đánh người – thật sự đánh người. Những thứ đó thường kết hợp với nhau. Đến cả tội cố ý giết người cũng
vừa có thể là tội hình sự lẫn dân sự.”
Vụ O.J. Simpson, Rhyme nghĩ.
Whitmore nói, “Một hành động có hại dẫn đến tử vong vô cớ và thương tích cá nhân cũng vậy. Bước đầu tiên là tìm ra bị đơn của chúng ta – chính xác thì ai phải chịu trách nhiệm cho cái chết của ông Frommer? Hy vọng sáng nhất của chúng ta là chính cái thang cuốn tự gây ra chứ không phải do một bên nào khác. Theo luật bất cẩn thì bất kỳ ai bị thương bởi một sản phẩm – bất kỳ thứ gì, đồ gia dụng, xe, thuốc, thang máy – đều dễ dàng chứng minh hơn nhiều. Vào năm 1963, một quan tòa ở Tòa Thượng Thẩm California tạo ra một nguyên nhân tố tụng được gọi là trách nhiệm pháp lý nghiêm ngặt về sản phẩm – để chuyển thiệt hại từ một khách hàng bị tổn hại sang nhà sản xuất dù đó không phải là hành động cố ý. Theo quy định về trách nhiệm pháp lý nghiêm ngặt thì tất cả những gì anh cần chứng minh là sản phẩm đó có khiếm khuyết và gây hại cho nguyên đơn.”
“Cái gì cấu thành nên một khiếm khuyết?” Rhyme hỏi, phát hiện ra mình đã miễn cưỡng bị hấp dẫn bởi bài giảng.
“Câu hỏi then chốt đấy, anh Rhyme. Khiếm khuyết có thể nằm ở chỗ nó được thiết kế tồi, nó có lỗi hoặc sai sót trong sản xuất, hoặc thiếu sót trong việc cảnh báo cho khách hàng về các nguy cơ. Dạo gần đây anh có thấy xe đẩy trẻ em không?”
Sao mà tôi nhìn thấy được? Môi Rhyme nở nụ cười nhẹ.
Whitmore có vẻ miễn nhiễm với sự mỉa mai và tiếp, “Anh sẽ phải đánh giá cao nhãn dán: Đứa bé ra ngoài trước khi gập xe đẩy lại. Tôi không bịa ra câu đó đâu. Tất nhiên, đúng là nó được gọi là trách nhiệm nghiêm ngặt nhưng cũng không phải tuyệt đối. Phải có một khiếm khuyết nào đó. Một người dùng máy cưa tấn công một nạn nhân chẳng hạn, được gọi là nguyên nhân gián tiếp. Nguyên đơn không thể kiện nhà sản xuất cưa vì một vụ tấn công như thế được.
“Còn bây giờ, quay lại với vụ án của chúng ta: Câu hỏi đầu tiên là, Chúng ta kiện ai? Có sai sót gì về thiết kế hay sản xuất thang cuốn của công ty Midwest Conveyance không? Hay nó đang vận hành tốt và công ty quản lý trung tâm mua sắm, đội vệ sinh, hoặc một công ty bảo trì độc lập nào đó đã sơ sót trong việc sửa chữa hoặc bảo dưỡng nó? Có phải một công nhân đã không cài then lại vào lần cuối nó được mở ra hay không? Có người đã tự ý mở tấm đậy ra trong khi ông Frommer đứng trên nó? Liệu nhà thầu chính xây dựng trung tâm mua sắm có cảnh báo đó là vật nguy
hiểm hay không? Còn nhà thầu phụ lắp thang cuốn thì sao? Thế còn các nhà máy sản xuất linh kiện thì thế nào? Hay nhân viên vệ sinh của trung tâm mua sắm nữa? Họ làm việc cho một nhà thầu độc lập hay là nhân viên của trung tâm đó? Đây là lúc cần anh can thiệp.”
Rhyme đã bắt đầu suy nghĩ xem phải tiến hành như thế nào. “Đầu tiên, tôi cần có người kiểm tra thang cuốn, bộ điều khiển, ảnh hiện trường, dấu vết, và…”
“À. Bây giờ, tôi phải nói cho anh biết là tình huống của chúng ta có một chỗ lắt léo nhỏ. Thực ra là vài chỗ lắt léo cơ đấy.”
Lông mày của Rhyme nhướn lên.
Whitmore tiếp tục, “Mọi tai nạn liên quan đến thang cuốn, thang máy, lối đi có băng chuyền, vân vân, đều do Cục Quản Lý Công Trình và Cục Điều Tra thụ lý.”
Rhyme rất quen với Cục Điều Tra. Một trong những cơ quan hành pháp lâu đời nhất đất nước – khởi nguồn từ đầu thế kỷ mười chín – đơn vị này có nhiệm vụ giám sát các công chức, cơ quan, và bất kỳ ai được thuê hoặc làm việc cho thành phố. Vì chính anh đã bị chấn thương trong khi điều tra một hiện trường gây án trong một công trình xây dựng tàu điện ngầm, Cục Điều Tra đã tham gia điều tra xem làm thế nào mà tai nạn của anh lại xảy ra.
Whitmore tiếp tục, “Chúng ta có thể sử dụng các kết quả trong cuộc điều tra, nhưng…”
“Phải mất nhiều tháng mới lấy được báo cáo của họ.”
“Rắc rối chính là ở chỗ đó đấy, anh Rhyme. Sáu tháng, khả năng cao là một năm. Phải. Chúng ta không thể đợi từng đấy thời gian. Đến lúc ấy chắc bà Frommer vô gia cư mất rồi. Hoặc đang sống với họ hàng của bà ấy ở Schenectady.”
“Rắc rối một. Còn cái thứ hai là gì?”
“Tiếp cận thang cuốn. Nó đã được gỡ ra và tống vào trong một nhà kho của thành phố, chờ điều tra bởi Cục Quản Lý Công Trình và Cục Điều Tra.”
Khỉ thật, chưa gì bằng chứng đã bị hủy hoại nghiêm trọng, Rhyme nghĩ theo bản năng.
“Xin trát đi,” anh nói. Cái này là chuyện hiển nhiên.
“Bây giờ thì chưa được. Ngay khi tôi đâm đơn – trong vòng vài ngày tới – tôi có thể có trát hầu tòa. Nhưng thẩm phán sẽ bác bỏ nó. Chúng ta không
được tiếp cận cho tới khi Cục Điều Tra và Cục Quản Lý Công Trình đã hoàn tất điều tra.”
Thật vớ vẩn. Thang cuốn là bằng chứng tốt nhất, có khả năng còn là bằng chứng duy nhất trong vụ án này vậy mà anh không thể sờ tay vào nó? Rồi anh nhớ ra: Hẳn rồi, đây là án dân sự chứ không phải án hình sự. “Chúng ta cũng có thể đòi các bản thiết kế, sản xuất, lắp đặt, và bảo trì từ các bị đơn trong tầm ngắm: trung tâm mua sắm, nhà sản xuất – Midwest Conveyance – công ty vệ sinh, bất kỳ ai có bất kỳ liên hệ nào với nó. Chúng ta có thể lấy biên bản của họ nhưng sẽ phải giành giật vất vả lắm đấy. Và các kiến nghị sẽ bị đẩy qua đẩy lại vài tháng liền trước khi được công bố. Cuối cùng, rắc rối cuối cùng đây. Tôi đã đề cập tới việc ông Frommer không còn làm việc toàn thời gian nữa chưa?”
“Tôi vẫn nhớ. Khủng hoảng tuổi trung niên hoặc cái gì đó đại loại thế.” “Đúng thế. Ông ấy đã bỏ một vị trí áp lực trong tập đoàn lớn. Gần đây ông ấy làm những công việc mà ông ấy không phải mang việc về nhà buổi tối – giao hàng, bán hàng qua điện thoại, nhận đơn trong một nhà hàng thức ăn nhanh, bán giày ở trung tâm mua sắm. Phần lớn thời gian của ông ấy dùng để làm tình nguyện cho các tổ chức. Dạy đọc, giúp đỡ người vô gia cư, phân phát thức ăn. Vậy nên mấy năm vừa rồi ông ấy chỉ có một khoản thu nhập nhỏ. Phần khó khăn nhất trong vụ án của chúng ta là việc thuyết phục quan tòa rằng ông ấy sẽ quay lại lực lượng lao động với một công việc như ông ấy đã từng làm.”
“Ông ấy trước làm gì?”
“Trước khi bỏ việc ông ấy là giám đốc bộ phận quảng cáo. Patterson Systems ở New Jersey. Tôi đã kiểm tra. Một công ty rất thành công. Nhà sản xuất đầu bơm nhiên liệu hàng đầu ở Mỹ. Và ông ta kiếm được sáu con số. Năm ngoái thu nhập của ông ta là bốn mươi ba nghìn đô. Quan tòa sẽ phán quyết tiền bồi thường cho tử vong không đáng dựa trên thu nhập. Luật sư của bị đơn sẽ dồn vào vấn đề đó, cho dù thân chủ của họ có tội thì khoản tiền bồi thường cũng sẽ rất nhỏ vì ông ấy chỉ kiếm vừa đủ tiền để sống qua ngày.
“Tôi sẽ cố gắng chứng tỏ là ông Frommer đang trải qua một giai đoạn khủng hoảng. Ông ấy rồi sẽ quay lại với công việc được trả lương hậu hĩnh. Có thể tôi sẽ không thành công. Vậy nên đây là nhiệm vụ thứ hai của anh. Nếu anh có thể chứng minh là bên bị đơn, bất kể là ai, đã có những hành vi tùy tiện hoặc bất cẩn khi lắp thang máy hoặc các linh kiện bên
trong, hoặc không bảo trì đầy đủ, thì chúng ta sẽ…”
“… nhận được thêm tiền bồi thường thiệt hại. Và quan tòa, đang cảm thấy có lỗi vì không thể trao cho bà quả phụ một khoản thu nhập nhiều nhặn trong tương lai, sẽ đền bù bằng một khoản phạt lớn.”
“Kiến giải tốt đấy, anh Rhyme. Anh nên theo học luật mới đúng. Đây là tình thế rối bòng bong của chúng ta đấy.”
Rhyme nói, “Nói cách khác, tìm hiểu xem một thiết bị phức tạp tại sao lại xảy ra vấn đề và ai chịu trách nhiệm cho vấn đề đấy trong khi không được tiếp cận thiết bị đó, tài liệu hỗ trợ, hoặc thậm chí là ảnh chụp hoặc báo cáo phân tích tai nạn?”
“Tổng kết tốt đấy.” Whitmore nói thêm, “Thanh tra Sachs nói rằng anh khá sáng tạo khi phải tiếp cận một vấn đề như thế này.”
Người ta có thể sáng tạo đến mức nào khi mà không có bằng chứng chết tiệt nào cơ chứ? Ngớ ngẩn thật, Rhyme lại nghĩ. Toàn bộ chuyện này thật là…
Rồi một suy nghĩ nảy ra. Whitmore vẫn nói nhưng Rhyme đã lờ anh ta đi. Anh quay ra cửa. “Thom! Thom! Anh đâu rồi?”
Tiếng bước chân vọng lại và một giây sau, phụ tá của anh xuất hiện. “Mọi chuyện ổn cả chứ?”
“Ổn, ổn, ổn. Sao lại không? Chỉ là tôi cần một thứ.”
“Và đó là?”
“Một cái thước dây. Càng nhanh càng tốt.”
CHƯƠNG 7
Mỉa mai thay.
One Police Plaza được xem là một trong những công trình kiến trúc của chính phủ xấu xí nhất thành phố New York, nhưng nó lại có một trong những tầm nhìn đẹp nhất trung tâm Manhattan: cảng, sông Đông, đường chân trời nổi tiếng trong bài “Let the River Run” của New York ở đúng góc độ dữ dội nhất. Ngược lại, trụ sở cảnh sát nguyên gốc ở đường Centre có thể xem là tòa nhà thanh lịch nhất ở phía nam đường Houston, nhưng, ban ngày, các sĩ quan đóng ở đó chỉ có thể nhìn thấy các chung cư, người bán thịt, bán cá, gái điếm, những kẻ vô công rồi nghề, và các tay móc túi nằm chờ (có lúc các sĩ quan cảnh sát cũng là mục tiêu béo bở cho lũ trộm, chúng thích đồng phục len và khuy đồng của họ).
Đang bước vào văn phòng thuộc bộ phận Các Vụ Án Nghiêm Trọng ở One Police Plaza, Amelia Sachs nhìn hờ hững vào các cửa sổ lốm đốm vết bẩn khi cô cân nhắc lại sự thật đó. Cô cũng nghĩ thêm: mình chẳng thèm quan tâm đến vẻ đẹp kiến trúc hay tầm nhìn của tòa nhà. Điều cô chán ghét là cô phải vận dụng các kỹ năng điều tra của mình ở đây chứ không phải trong nhà của Lincoln Rhyme.
Khỉ thật.
Không vui với việc anh từ bỏ công việc cố vấn cho cảnh sát, hoàn toàn không, về phương diện cá nhân, cô nhớ sự kích thích trong những cuộc trao đổi, đấu khẩu giữa họ, những sáng kiến nảy ra từ đó. Cuộc sống của cô hồi đó giống như đi học ở một trường đại học online: Vẫn tiếp thu được từng ấy kiến thức nhưng quá trình đưa nó vào trong não bộ nhẹ nhàng hơn.
Các vụ án không tiến triển. Đặc biệt là các vụ giết người, chuyên ngành của Rhyme, đều không được phá. Vụ Rinaldo đã nằm trên sổ của cô khoảng một tháng nay mà vẫn chưa đi đến đâu. Một vụ giết người ở khu West Side, phía nam của Midtown. Echi Rinaldo, một người giao hàng xoàng xĩnh và cũng là một kẻ buôn ma túy, đã bị chém tới chết và bị chém một cách tàn bạo. Con phố và ngõ hẻm đó hết sức bẩn thỉu nên dấu vết vô ẳ
số và bởi vậy lại chẳng hữu dụng cho lắm: đầu lọc thuốc lá, một cái đế kẹp vẫn còn dính một mẩu thuốc, các mẩu giấy bọc đồ ăn, cốc giấy đựng cà phê, bánh xe đồ chơi của trẻ con, lon bia rỗng, bao cao su, giấy vụn, hóa đơn, cùng hàng trăm thứ mùi hôi thối quen thuộc ở đường phố New York. Không một dấu vân tay hay dấu chân nào mà cô thu thập được ở hiện trường đem lại kết quả.
Đầu mối duy nhất là một nhân chứng – con trai của người quá cố. Một dạng nhân chứng. Cậu bé tám tuổi không nhìn rõ mặt kẻ sát nhân nhưng đã nghe thấy tiếng kẻ tấn công nhảy vào một chiếc ô tô và đọc địa chỉ, trong đó có từ “Village”. Giọng nam. Nhiều khả năng là người da trắng hơn người da đen hoặc La-tinh. Sachs đã vận dụng tối đa kỹ năng phỏng vấn của mình để khiến đứa trẻ nhớ lại nhiều hơn nhưng cậu bé hết sức bất an, một việc hoàn toàn hiểu được, khi chứng kiến cảnh cha mình trong con hẻm gục trong đống máu. Rà soát các xe tắc-xi và lái xe dù cũng không được kết quả gì. Và khu Greenwich Village rộng đến hàng chục dặm vuông.
Nhưng cô tin chắc là Rhyme có thể xử lý đống chứng cứ này và đưa ra kết luận về nơi, phần xinh đẹp nào của Manhattan, mà nghi phạm có khả năng tới nhất.
Anh đã định giúp nhưng rồi lại từ chối. Và còn lạnh lùng nhắc nhở cô là anh không còn tham gia vào công việc điều tra nữa.
Sachs vuốt phẳng chiếc váy màu xám chì dài quá gối. Cô đã nghĩ mình nên chọn một chiếc áo sơ-mi màu xám nhạt hơn để tôn nó lên, nhưng rồi khi đứng trên vỉa hè trước cửa nhà trước khi đi thì cô mới nhận ra nó là màu nâu. Đúng là một buổi sáng điển hình của cô. Quá phân tâm.
Cô đang kiểm tra thư điện tử và tin nhắn trên điện thoại, quyết định rằng chúng đều không đáng bận tâm và đi thẳng vào sảnh, đi về phía phòng hội thảo mà cô đã trưng dụng cho vụ án nghi phạm 40.
Lại nghĩ về Rhyme.
Từ chức.
Khỉ gió…
Cô ngước lên và để ý thấy một thanh tra trẻ tuổi, đang đi ngược chiều, đột ngột quay về phía cô. Cô nhận ra là mình hẳn đã nói từ đó thành lời. Cô cười với cậu ta, để chứng minh mình không hề bị loạn trí rồi lẩn vào trong phòng tác chiến của mình, nhỏ thôi, có hai cái bàn làm việc sợi thủy tinh, máy tính đôi, một cái bàn to và một tấm bảng trắng mà trên đó các
tình tiết trong vụ án được viết ngoáy bằng bút dạ.
“Có ngay thôi,” viên sĩ quan tóc vàng trẻ tuổi bên trong nói, ngẩng lên. Anh ta mặc bộ đồng phục NYPD màu xanh dương sậm, ngồi ở cuối bàn. Ron Pulaski không phải là một thanh tra, cũng giống như phần lớn các sĩ quan trong tổ Trọng Án khác. Nhưng anh ta là một cảnh sát mà Amelia Sachs muốn cùng xử lý vụ án nghi phạm 40. Họ đã cùng nhau điều tra hiện trường nhiều năm nay, lúc nào cũng vậy – cho tới bây giờ – từ phòng khách của Rhyme.
Pulaski ra dấu về phía màn hình. “Họ đã hứa thế.”
Có ngay thôi…
“Họ lấy được bao nhiêu?”
“Không chắc. Tôi không nghĩ họ sẽ lấy được địa chỉ và số điện thoại. Nhưng bên đội Thu Thập Bằng Chứng nói rằng họ cũng tìm ra vài kết quả trùng khớp. Quyết định chuẩn đấy, Amelia.”
Sau thảm họa ấy – từ đó mang vài hàm ý khác nhau: cái chết của nạn nhân cũng như việc mất dấu nghi phạm 40 – trong trung tâm mua sắm ở Brooklyn, Sachs đã cẩn thận nghiên cứu khu vực đằng sau cầu dỡ hàng và đấu tranh xem nên đưa đội Thu Thập Bằng Chứng Brooklyn đến đâu, người ta không thể tìm kiếm tứ tung được. Một chỗ đặc biệt thu hút cô là một cửa hàng Mexico có cửa sau dẫn ra một ngõ cụt gần cửa dỡ hàng. Đó cũng là chỗ bán đồ ăn duy nhất gần đó. Có nhiều đường khác nhanh hơn để nghi phạm của họ chạy trốn nhưng Sachs vẫn tập trung rà soát chỗ đó, dựa trên một giả thuyết hơi khó tin đó là nhà hàng này sẽ có nhiều nhân viên bất hợp pháp hơn các cửa hàng khác, những người này sẽ không hợp tác bằng, không muốn nêu tên và địa chỉ để ra làm nhân chứng.
Như cô đã đoán, không một ai, từ quản lý nhà hàng cho tới người rửa bát đĩa, nhìn thấy một kẻ nào đáng nghi.
Dẫu vậy, thế không có nghĩa là hắn không đến đó; trong thùng rác cho khách, đội tìm kiếm đã tìm được cốc Starbucks, cùng với một miếng giấy bọc sandwich và giấy ăn từ cùng cửa hàng, những thứ người ta đã nhìn thấy hắn cầm theo khi chạy trốn.
Họ thu thập toàn bộ rác từ trong thùng rác ở La Festiva, chả biết đó có phải là một từ tiếng Tây Ban Nha thật không nữa.
Kết quả phân tích những chứng cớ này là thứ mà họ đang chờ đợi. Sachs ngồi xuống chiếc ghế mà cô đã kéo ra khỏi văn phòng bé xíu của mình. Ngẫm nghĩ là nếu họ làm việc từ phòng khách của Rhyme thì đến ẳ
giờ dữ liệu hẳn đã nằm trong tay họ. Điện thoại cô báo có thư. Một tin tốt từ đội trưởng đội 84, Madino. Ông ta nói báo cáo tai nạn về súng của cô không cần vội, họ tốn khá nhiều thời gian để tập hợp đội Thanh Tra Súng. Ông ta cũng nói thêm, như cô và Rhyme đã thảo luận trước, vài nhà báo đã gọi điện chất vấn hành động nổ súng trong một trung tâm đông đúc có phải hành động khôn ngoan, nhưng Madino đã gạt đi bằng cách nói rằng vấn đề đó đang được điều tra theo đúng quy trình của cục và không nhả tên cô ra. Không một nhà báo nào bám riết lấy đề tài đó nữa.
Toàn là tin tốt.
Giờ thì máy tính của Pulaski báo có thư. “Được rồi, đến rồi này. Kết quả phân tích bằng chứng.”
Trong khi đọc tài liệu, tay của anh ta đưa lên trán và xoa nhẹ. Vết sẹo không dài nhưng hôm nay trông nó khá rõ, từ góc độ của cô, dưới ánh sáng trong phòng. Trong vụ án đầu tiên điều tra cùng Sachs và Rhyme, anh ta đã phạm phải một sai lầm và nghi phạm, một tên sát nhân chuyên nghiệp cực kỳ hung hãn, đã nện vào trán anh ta. Hậu quả từ chấn thương, ảnh hưởng đến não bộ cũng như lòng kiêu ngạo và diện mạo, suýt chút nữa đã chấm dứt sự nghiệp của anh ta. Nhưng sự quyết tâm, sự cổ vũ từ người anh song sinh (cũng là cảnh sát) cùng sự kiên trì của Rhyme đã giúp anh ta ở lại. Thỉnh thoảng anh ta vẫn thấy mất phương hướng – vết thương trên đầu đã đầu độc sự tự tin của anh ta – nhưng anh ta là một trong những sĩ quan thông minh và bền bỉ nhất mà Sachs biết.
Anh ta thở dài. “Không nhiều thông tin lắm.”
“Có những gì?”
“Dấu vết từ tiệm Starbucks không đem lại kết quả gì. Từ nhà hàng Mexico: có ADN từ vành cốc Starbucks nhưng không có dữ liệu trùng khớp trong CODIS.”
Mọi chuyện ít khi dễ dàng.
“Không có dấu vân tay,” Pulaski nói.
“Sao cơ? Hắn đeo găng ở Starbucks à?”
“Có vẻ là hắn đã dùng giấy ăn để cầm cốc. Nhân viên kỹ thuật ở đội Khám Nghiệm Hiện Trường đã dùng buồng chân không và cả ninhydrin* nhưng chỉ có một phần dấu vân tay hiện lên. Đầu ngón tay. Quá hẹp để phân tích IAFIS.”
Ninhydrin: Có phản ứng đặc trưng tạo ra hình dáng của vân tay có màu tím/xanh do khi nắm hay chạm thì các protein trên bề mặt vân tay bị bong
ra.
Kho dữ liệu vân tay quốc gia rất đầy đủ nhưng chỉ tra được các dấu vân tay nguyên vẹn, chứ một ít đường vân ở đầu ngón thì đành chịu. Một lần nữa cô lại tự hỏi: Nếu bằng chứng này được đưa tới chỗ Rhyme phân tích chứ không phải tới phòng thí nghiệm của Khám Nghiệm Hiện Trường ở Queens, thì liệu anh có thể xác định được một dấu vân tay nguyên vẹn hay không? Máy móc dụng cụ của phòng thí nghiệm ở trụ sở thuộc loại tân tiến nhất, nhưng nó vẫn không phải, đúng thế, không phải như của Lincoln Rhyme.
“Dấu giày từ Starbucks, có thể là của hắn,” Pulaski đọc tiếp, “vì nó chồng lên các dấu chân khác và trùng khớp với một dấu chân trên cầu dỡ hàng và cả một dấu chân ở nhà hàng Mexico nữa. Các dấu vết tương tự được tìm thấy trong dấu chân ở cầu dỡ hàng và nhà hàng. Giày Reebok cỡ 13. Cùng một dấu vết ở hai điểm. Danh tính hóa học của dấu vết đây.”
Cô nhìn màn hình và đọc to một loạt các chất hóa học mà cô chưa từng nghe tới. “Nó là?”
Pulaski kéo chuột xuống. “Chắc là đất mùn.”
“Đất à?”
Viên sĩ quan tóc vàng tiếp tục đọc các dòng chữ nhỏ xíu. “Đất mùn là giai đoạn áp chót khi các chất hữu cơ phân hủy.”
Cô nhớ lại một cuộc trao đổi giữa Rhyme và Pulaski cách đây vài năm khi anh chàng lính mới dùng từ “áp chót” với ý nghĩa “cuối cùng”, không đúng với nghĩa gốc của nó là trước giai đoạn cuối cùng một giai đoạn. Ký ức ấy chua xót hơn cô nghĩ.
“Tức là sẽ sớm thành đất.”
“Gần như vậy. Và nó đến từ một địa điểm khác. Nó không khớp với các mẫu thử mà cô hay đội Thu Thập Bằng Chứng thu thập được trong và xung quanh trung tâm mua sắm, cửa dỡ hàng, hay nhà hàng.” Anh ta vẫn tiếp tục đọc. “Chà, không ổn lắm rồi.”
“Cái gì thế?”
“Dinitroaniline.”
“Chưa từng nghe đến.”
“Có nhiều công dụng, như làm thuốc nhuộm hoặc thuốc trừ sâu. Nhưng ứng dụng hàng đầu là thuốc nổ.”
Sachs chỉ vào tấm bảng ghi lại các bằng chứng ở chính hiện trường gây án, công trường xây dựng nơi nghi phạm 40 đập Todd Williams tới chết
gần một câu lạc bộ cách đây vài tuần. “Nitrat amoni.”
Phân bón – và thành phần gây nổ chính trong các quả bom tự chế, như quả bom đã phá hủy trụ sở chính quyền thành phố Oklahoma những năm 90.
“Vậy nên,” Pulaski chậm rãi nói, “cô có nghĩ nó không chỉ là một vụ cướp giật? Nghi phạm, tôi không biết nữa, đã mua các thành phần tạo bom gần quán 40 độ Bắc hoặc công trường xây dựng và Williams đã bắt gặp?” Anh ta gõ màn hình máy tính. “Và nhìn này.” Trong dấu vết thu thập được gần một dấu chân ở cửa dỡ hàng của trung tâm mua sắm có một lượng nhỏ dầu máy.
Thành phần thứ hai trong một quả bom phân bón.
Sachs thở dài. Gã nghi phạm này có liên quan đến cả khủng bố sao? Tuy vụ giết người diễn ra ở một công trường xây dựng, những chất hóa học này sẽ không được dùng cho các vụ tháo dỡ thương mại. “Tiếp đi.”
“Có thêm phenol. Như chúng ta đã thấy ở hiện trường đầu tiên.” “Nếu nó xuất hiện hai lần có nghĩa là nó quan trọng. Nó được dùng làm gì thế?”
Pulaski mở trang đặc tính hóa học của nó lên. “Phenol. Tiền thân của các chất để chế tạo nhựa, như polycarbonate, nhựa resin, và ni-lông. Cũng để làm aspirin, phoóc-môn, mỹ phẩm, chữa bệnh móng quặp.”
Bốn mươi có đôi bàn chân lớn. Có thể có vấn đề về móng. “Cả cái này nữa.” Anh ta đang ghi lại một chuỗi các chất hóa học khác lên tấm bảng trắng ghi chép bằng chứng.
“Nhiều nhỉ,” cô nói.
“Được định dạng là đồ trang điểm. Mỹ phẩm. Không biết hãng nào.” “Cần biết ai chế tạo ra nó. Bảo ai đó trong trụ sở lần theo nó đi.” Pulaski gửi yêu cầu.
Rồi họ tiếp tục với bằng chứng. Anh ta nói, “Có một mảnh kim loại nhỏ. Từ dấu chân trong hành lang đi tới cầu dỡ hàng.”
“Để tôi xem nào.”
Pulaski mở ảnh ra.
Khó mà nhận diện được bằng mắt – dù là mắt thường hay bằng cặp kính thuốc đọc sách sành điệu mà dạo này Sachs phải dùng đến. Cô phóng to nó lên và nghiên cứu mảnh vụn sáng loáng đó. Rồi quay sang laptop thứ hai, truy cập kho dữ liệu kim loại của NYPD, mà hóa ra là đã được chính Lincoln lập ra cách đây vài năm.
Họ cùng nhau nghiên cứu kho dữ liệu. “Có một thứ tương tự đây này,” Pulaski nói, đứng nhìn qua vai cô khi chỉ vào một trong các bức hình. Đúng, tốt quá. Miếng vụn bé xíu đến từ quá trình mài dao, kéo, hoặc dao cạo.
“Nó là thép. Hắn thích lưỡi sắc.” Hắn đã đánh nạn nhân tới chết ngoài câu lạc bộ 40 độ Bắc nhưng điều đó không có nghĩa là hắn không hứng thú kết liễu nạn nhân bằng các loại vũ khí khác nữa.
Mặt khác, có thể gần đây hắn chẳng làm gì hơn là xẻ thịt con gà cho bữa tối gia đình bằng một con dao mà hắn đã mài sắc vào cạnh bàn. Pulaski tiếp tục, “Có cả mùn cưa nữa. Muốn nhìn không?” Cô nhìn hình ảnh qua kính hiển vi. Hạt bụi quá mịn.
“Có khi là từ việc đánh ráp, anh nghĩ sao?” cô ngẫm nghĩ. “Không phải cưa?”
“Tôi không chắc. Cũng hợp lý.”
Cô gõ ngón tay vào móng cái. Hai lần. Cả người cô căng lên. “Kết quả phân tích từ Queens không cho chúng ta biết loại gỗ. Chúng ta cần tìm ra nó.”
“Tôi sẽ gửi yêu cầu.” Dùng một tay xoa trán, tay còn lại Pulaski lại rê chuột lật giở kết quả phân tích. “Có vẻ như búa và bom là chưa đủ. Gã này còn muốn đầu độc người ta nữa? Có dấu vết của organochlorine và axit benzoic. Độc tố. Đặc trưng của thuốc trừ sâu nhưng cũng được dùng trong các vụ án giết người. Và có cả các chất hóa học…” Anh ta nghiên cứu kho dữ liệu. “… có vẻ giống như véc-ni.”
“Mùn cưa và véc-ni. Hắn là một thợ mộc, công nhân xây dựng? Hoặc là một kẻ cất quả bom vào các thùng gỗ hay giấu sau các bức tường lát ván.” Nhưng vì không có báo cáo nào về các thiết bị kích nổ tự chế trong vùng, dù được đặt trong thùng gỗ hay bất kỳ chỗ nào khác, Sachs đánh giá đây là một khả năng ít có thể xảy ra.
“Tôi muốn biết nhà sản xuất,” Sachs nói. “Véc-ni. Cả loại mùn cưa nữa.”
Pulaski không nói gì.
Cô liếc nhìn anh ta và thấy anh ta đang nhìn điện thoại. Tin nhắn. “Ron?”
Anh ta giật mình và giấu điện thoại đi. Gần đây anh ta rất hay phân tâm. Cô tự hỏi liệu có phải có người thân trong gia đình bị ốm không. “Mọi chuyện ổn cả chứ?”
Ổ
“Chắc chắn rồi. Ổn cả.”
Cô nhắc lại, “Tôi muốn tên nhà sản xuất.”
“Của cái… à, véc-ni.”
“Của véc-ni. Và loại gỗ. Và nhãn hàng mỹ phẩm nữa.”
“Tôi sẽ xử lý.” Anh ta gửi một yêu cầu khác tới phòng điều tra tội phạm.
Họ chuyển sang bộ bằng chứng thứ hai – có thể đến từ nghi phạm hoặc không. Đội Thu Thập Bằng Chứng đã thu thập toàn bộ thùng rác nơi họ tìm được đống vật dụng Starbucks với lý luận là rác thải từ chuỗi cà phê có thể không phải là những thứ duy nhất mà gã tội phạm đã bỏ đi. Có đến ba mươi hoặc bốn mươi món: giấy lau, báo, cốc nhựa, giấy Kleenex đã dùng, tạp chí khiêu dâm hẳn đã bị quẳng đi trước khi ông xã đi về nhà. Mọi thứ đều đã được chụp ảnh và ghi chép lại, nhưng không có gì liên quan hết, như các kỹ thuật viên phân tích ở Queens ghi nhận.
Tuy nhiên, Sachs vẫn dành ra hai mươi phút để nghiên cứu từng thứ một, cả những bức ảnh chụp từng bằng chứng riêng lẻ trong thùng rác lẫn các hình ảnh góc rộng trước khi chúng được đội Thu Thập Bằng Chứng mang về.
“Xem này,” cô nói. Pulaski tiến lại gần hơn. Cô đang chỉ vào hai chiếc khăn giấy từ nhà hàng đồ ăn nhanh White Castle.
“Chuyên về khoai tây chiên.” Pulaski nói thêm, “Tiện thể, xem gì cơ?” Sachs nhún vai, cô biết đó là một cửa hàng hamburger nhỏ. Không rõ cái tên đó từ đâu ra. Một trong những chuỗi đồ ăn nhanh lâu đời nhất ở Mỹ, White Castle chuyên bán burger và sữa lắc.
“Có dấu vân tay nào không?”
Pulaski đọc báo cáo. “Không.”
Họ đã cố gắng đến mức nào? Cô tự hỏi. Nhớ lại hai đối thủ của Rhyme, vừa lười biếng vừa kém cỏi, Sachs nhìn chằm chằm vào giấy ăn. “Có khả năng chúng thuộc về hắn không?”
Pulaski phóng đại hai bức hình góc rộng. Chiếc khăn giấy White Castle nhàu nhĩ nằm ngay cạnh những món đồ Starbucks.
“Có thể lắm. Chúng ta đã biết là gã này thích đồ ăn của các chuỗi.” Thở dài. “Giấy ăn là một trong những nguồn lấy ADN tốt nhất. Các nhân viên phân tích có thể phân tích chúng, rồi so sánh với dữ liệu từ đồ Starbucks.”
Lười biếng, kém cỏi…
Rồi cô dịu xuống.
Hay là do anh đã làm việc quá sức? Câu chuyện về cảnh sát. Sachs phóng to hình của giấy ăn được vuốt phẳng ra. Mỗi tờ đều có vết bẩn.
“Anh nghĩ sao?” Sachs hỏi. “Một cái màu nâu, cái khác đỏ quạch đúng không?”
“Không chắc. Nếu chúng ta được đặt tay vào chúng thì chúng ta có thể phân tích nhiệt độ màu để bảo đảm. Ý tôi là ở chỗ Lincoln.” Tôi tự biết chứ.
Sachs nói, “Tôi đang nghĩ có thể trên một tờ giấy ăn là sôcôla và sữa lắc dâu. Một suy luận hợp lý. Còn tờ kia? Vết bẩn đó rõ ràng là sôcôla. Một vết bẩn khác không đậm màu bằng chắc là đồ uống có ga. Từ hai lần ăn khác nhau. Một lần hắn ta gọi hai cốc sữa lắc. Lần khác thì một sữa lắc một đồ uống có ga.”
“Gầy nhẳng nhưng thấy rõ là hắn tiêu thụ rất nhiều năng lượng.” “Nhưng quan trọng hơn, hắn thích White Castle. Một khách hàng thường xuyên.”
“Nếu chúng ta may mắn thì hắn sống ngay gần đó. Nhưng là ở đâu?” Pulaski lên mạng, kiểm tra chuỗi nhà hàng trong vùng. Có vài nơi. Đầu cô nảy ra một ý nghĩ: dầu máy.
“Có thể dầu đến từ một quả bom hoặc hắn tới nhà hàng White Castle ở Queens,” cô nói. “Nó nằm ở đại lộ Astoria, Automotive Row. Hồi xưa cha tôi và tôi hay mua linh kiện ô tô ở đó vào sáng thứ Bảy rồi về nhà đóng vai thợ cơ khí nghiệp dư. Có thể hắn đã bị dính dầu khi đi mua đồ ăn trưa. Khả năng không cao lắm, nhưng tôi vẫn sẽ tới nói chuyện với quản lý ở đó. Anh hãy gọi cho phòng xét nghiệm ở Queens và bảo người ta phân tích lại các tờ giấy ăn đó. Dấu răng. Dấu vân tay. Cả ADN nữa. Có thể hắn ăn cùng một người bạn và ADN của bạn hắn lại có trong CODIS. Và cứ theo dõi mùn cưa nữa nhé, tôi muốn biết loại gỗ. Và nhớ theo dấu nhà sản xuất véc-ni. Tôi cũng không muốn kỹ thuật viên phân tích đã làm cái báo cáo này tiếp tục phụ trách vụ án này nữa. Gọi cho Mel đi.”
Thanh tra Mel Cooper khiêm tốn, lặng lẽ là chuyên viên pháp y giỏi nhất thành phố, có lẽ còn giỏi nhất cả vùng Đông Bắc nữa. Anh ta cũng là chuyên gia nhận diện con người – dấu vân tay, ADN, tái tạo nhân dạng. Anh ta có bằng toán học, vật lý, hóa học hữu cơ, và từng là thành viên của hai tổ chức danh giá, Hiệp Hội Nhận Dạng Quốc Tế và Hiệp Hội Phân Tích
Hoa Văn Máu. Rhyme đã thuê anh ta từ một sở cảnh sát tỉnh lẻ về làm cho đội Nghiên Cứu Hiện Trường NYPD. Cooper vẫn luôn là một thành viên trong đội của Rhyme.
Khi Sachs mặc áo khoác và kiểm tra súng, Pulaski gọi điện tới đội Thu Thập Bằng Chứng để yêu cầu Cooper hỗ trợ.
Cô đang đứng ở cửa khi anh ta dập máy và nói, “Xin lỗi, Amelia. Phải tìm người khác thôi.”
“Gì cơ?”
“Mel đi nghỉ rồi. Cả tuần.”
Cô bật cười. Suốt chừng ấy năm họ làm việc cùng nhau, cô chưa từng thấy anh ta nghỉ quá một ngày.
“Tìm ai khác giỏi đi vậy,” cô nói và vội vã đi vào hành lang, nghĩ thầm: Rhyme nghỉ việc và mọi thứ đều trở nên tồi tệ.
CHƯƠNG 8
“Đó có phải… Đó là một chiếc thang cuốn. Đúng rồi. À, một phần thang cuốn. Bộ phận trên đầu thang. Nằm trong hành lang nhà anh. Nhưng tôi đoán là anh cũng biết điều đó rồi.”
“Mel. Vào đi nào. Chúng ta có việc phải làm đây.”
Cooper, nhỏ người, mảnh khảnh, luôn mang một nụ cười nhàn nhạt cố hữu trên mặt, đi vào phòng khách nhà Rhyme, đẩy chiếc kính gọng đen lên cao hơn trên sống mũi. Anh ta di chuyển một cách lặng lẽ; đi đôi giày thường nhật, Hush Puppies. Chỉ còn hai người họ. Evers Whitmore đã quay về công ty luật ở Midtown của anh ta.
Khi không nhận được lời giải thích thỏa đáng nào về nửa chiếc thang cuốn đang nằm giữa đống giàn giáo, anh ta cởi áo khoác nâu của mình ra, treo nó lên móc và đặt một chiếc túi đựng đồ tập gym xuống. “Tôi không hề có dự định đi nghỉ mát, anh biết đây.”
Rhyme đã gợi ý – theo phong cách áp đặt đậm chất Lincoln Rhyme – rằng Cooper nên nghỉ ngơi một thời gian. Ý là, nghỉ công việc chính thức ở trụ sở chính của đội Điều Tra Hiện Trường và đến giúp một tay trong vụ án dân sự Frommer chống lại công ty Midwest Conveyance.
“Phải rồi. Cảm ơn anh.” Câu cảm ơn của Rhyme vẫn thờ ơ như thường. Anh thường không mấy quan tâm, mà cũng chẳng có kỹ năng giao tiếp xã hội.
“Có đúng… Ý tôi là, tôi nghĩ mình nên đi kiểm tra. Việc tôi ở đây có vấn đề gì về đạo đức nghề nghiệp không?”
“Không, không, tôi chắc chắn là không,” Rhyme nói, mắt vẫn nhìn thang cuốn, nó cao đến tận sát trần nhà. “Miễn là anh không được trả tiền.” “À. Ra thế. Tôi đang đi tình nguyện.”
“Chỉ là một người bạn đến giúp đỡ vì lẽ phải thôi mà Mel. Một mục đích cao quý. Góa phụ của nạn nhân không có tiền. Bà ta có một đứa con trai. Một đứa con trai ngoan ngoãn. Hứa hẹn.” Rhyme đoán chừng là như thế. Anh chẳng biết gì về Frommer bé bỏng, đến tên anh còn quên luôn rồi.
“Nếu chúng ta không thể đòi được tiền bồi thường cho bà ta thì bà ta sẽ phải sống trong một gara ở Schenectady trong thời gian tới. Mà có khi phải sống hết đời ở đó.”
“Schenectady có kinh khủng đến thế đâu.”
“Từ quan trọng ở đây là ‘gara’, Mel. Bên cạnh đó, đây là một thử thách. Anh thích thử thách mà.”
“Ở một mức độ nhất định nào đó thôi.”
“Mel!” Thom gọi, bước chân vào phòng khách. “Anh đang làm gì ở đây?”
“Bị bắt cóc.”
“Chào mừng.” Rồi viên phụ tá nói thêm. “Anh có tin được không. Nhìn kìa.” Hất đầu đầy thất vọng về phía giàn giáo và thang cuốn. “Sàn nhà. Tôi hy vọng chúng không bị hỏng.”
“Đó là sàn của tôi,” Rhyme nói.
“Anh giao cho tôi nhiệm vụ giữ chúng tinh tươm. Rồi lại đặt hai tấn thiết bị cơ khí lên trên.” Nói với kỹ thuật viên pháp y: “Muốn ăn hay uống gì không?”
“Trà thì tốt quá.”
“Tôi có loại anh thích nhất đấy.”
Cooper thích Lipton. Anh ta có khẩu vị đơn giản.
“Bạn gái anh thế nào rồi?”
Cooper sống với mẹ nhưng có một cô nhân tình cao lớn, lộng lẫy người Bắc Âu là giáo sư ở trường Columbia. Cô ta và Cooper là hai kiện tướng khiêu vũ.
“Cô ấy…”
“Chúng tôi chuẩn bị làm việc đấy,” Rhyme cắt lời.
Thom nhướn một bên lông mày lên với anh chàng kỹ thuật viên, lờ sếp của mình đi.
“Vẫn ổn, cảm ơn,” Cooper đáp lại. “Cô ấy vẫn ổn. Tuần tới chúng tôi có cuộc thi tango khu vực.”
“Nói đến đồ uống.” Rhyme nhìn chai scotch mạch nha.
“Không,” Thom nói một cách thẳng thừng. “Cà phê.” Và quay vào bếp. Thô lỗ thật.
“Được rồi. Còn trò dại dột này là sao đây? Từ đó nghe hay thật.” Rhyme giải thích về tai nạn thang cuốn và đơn kiện sẽ được Evers Whitmore nộp lên nhân danh góa phụ và con trai bà ta.
“À, rồi, trên bản tin. Kinh khủng thật.” Cooper lắc đầu. “Chưa bao giờ thật sự thấy thoải mái khi bước lên bước xuống thứ đó. Tôi sẽ đi thang bộ hoặc thậm chí là thang máy, dù tôi cũng không quá thích hai thứ đó.”
Anh ta đi tới chỗ màn hình máy tính, trên đó có cả tá hình ảnh về hiện trường tai nạn, do Sachs chụp, không chính thống, vì cô không tham gia vào việc điều tra vụ việc không may này. Chúng chụp hình tấm đậy bị lật ra và chụp cả dưới hố, nhìn thấy cả động cơ, bánh xe, và các bức tường, tất cả đều nhuốm đầy máu.
“Chết vì mất máu à?”
“Và hoảng loạn nữa. Gần như bị cắt làm đôi.”
“Hừm. Đó có phải là đồ thật không?” Cooper đi về chỗ giàn giáo và bắt đầu nghiên cứu kỹ lưỡng. “Không có máu. Nó đã được lau chùi à?” “Không.” Rhyme giải thích về lý do không thể tiếp cận thang cuốn thật trong vài tháng tới. Nhưng anh hy vọng họ có thể phỏng đoán sơ bộ về tai nạn đó từ bản dựng này. Là ý của Rhyme trong việc trả tiền để thuê một phần phiên bản tương tự từ một nhà thầu trong khu vực. Thom đã tìm được chiếc thước dây mà Rhyme yêu cầu và họ đã thống nhất là có đủ không gian để đưa cỗ máy này qua cửa trước, đã được tách rời từng bộ phận, rồi lại lắp nó trong hành lang. Giá thuê là năm nghìn đô, sẽ được Whitmore cộng vào phí luật sư rồi trừ đi từ con số mà họ được bên bị đơn bồi thường.
Các công nhân đã dựng giàn giáo và lắp tấm đậy trên nóc – chính là tấm ván đã bật ra và nuốt trọn Greg Frommer – cùng với các linh kiện đi kèm, bản lề, một phần tay vịn, và nút điều khiển. Trên sàn là động cơ và bánh răng, giống y hệt thứ đã kết liễu nạn nhân.
Cooper đang im lặng sải bước quanh thiết bị đó, ngẩng lên, chạm vào một số chỗ. “Sẽ không được xem là bằng chứng.”
“Không. Chúng ta chỉ cần tìm ra thứ gì đã gây ra tai họa, vì sao tấm đậy ở trên đỉnh lại mở ra khi nó không nên thế.” Rhyme lăn bánh lại gần hơn. Kỹ thuật viên gật đầu. “Vậy, theo tôi suy luận thì thang cuốn đang di chuyển lên trên vào thời điểm đó và đúng lúc nạn nhân lên tới bậc trên cùng thì tấm đẩy bật ra. Nó mở ra rộng thế nào?”
“Amelia nói là khoảng ba sáu xăng-ti-mét.”
“Cô ấy đã thụ lý hiện trường à?”
“Không, cô ấy chỉ tình cờ có mặt ở đó đúng thời điểm ấy, khi đang theo dấu một nghi phạm. Cô ấy đã mất dấu hắn khi tai nạn xảy ra và cô ấy cố
gắng cứu nạn nhân. Nhưng không thể.”
“Và tên tội phạm đã bỏ trốn?”
“Đúng thế.”
“Cô ấy chắc sẽ chẳng vui vẻ gì với chuyện đó.”
“Cô ấy tới gặp góa phụ và biết được là tình trạng bà ta khá tệ. Rồi nảy ra ý định giới thiệu một luật sư cho bà ta. Chính vì thế mà tất cả rơi vào tay chúng ta.”
“Vậy là, tấm đậy mở ra – đúng rồi, tôi thấy nó được gắn lò xo. Chắc phải nặng lắm. Nạn nhân bị lọt xuống dưới rồi ngã vào động cơ và bánh răng.”
“Đúng thế. Bánh răng cửa ở mép tấm ván cũng cào vào người ông ta. Thế nên mới có máu trên các bức tường trong ảnh.”
“Tôi hiểu rồi.”
“Giờ tôi muốn anh vào trong, ngó nghiêng xung quanh, khám phá nguyên lý làm việc của cái thứ chết tiệt đấy. Làm sao tấm đậy trên nóc lại mở ra, công tắc, bản lề, đòn bẩy, cơ chế an toàn. Tất cả mọi thứ. Chụp ảnh lại. Và chúng ta sẽ cố gắng xâu chuỗi lại những gì đã xảy ra.”
Cooper nhìn xung quanh. “Nơi này không thay đổi nhiều từ khi anh nghỉ việc.”
“Vậy thì anh cũng biết thiết bị chụp ảnh đặt ở đâu rồi đấy,” Rhyme nói, giọng anh thoáng mất kiên nhẫn.
Kỹ thuật viên cười khẽ. “Anh cũng chẳng thay đổi gì nhiều.” Anh ta đi tới cái giá ở tường phòng khách, chọn một chiếc máy ảnh và đèn pin đeo trên đầu. “Con trai của một người thợ mỏ,” anh ta đùa, đội nó lên trán. “Đi nhanh lên. Đi đi!”
Cooper trèo vào trong bản dựng. Các tia sáng nhỏ lặng lẽ bắt đầu lóe lên. Chuông cửa reo.
Có thể là ai nhỉ? Viên luật sư cứng nhắc, Evers Whitmore, đã quay lại văn phòng của anh ta để nói chuyện với bạn bè và thân nhân của Greg Frommer. Anh ta đang cố gắng xếp đặt bằng chứng để chứng minh là, mặc dù hiện giờ đang thất nghiệp, Frommer sẽ quay lại là một quản lý marketing thành công trong tương lai gần, để khiến cho khoản đòi bồi thường cao hơn nhiều so với con số thu nhập gần đây của ông ta.
Hay vị khách này là một trong các bác sĩ của anh? Tình trạng liệt tứ chi của Rhyme yêu cầu phải được kiểm tra thường xuyên bởi các chuyên gia thần kinh cũng như các nhà vật lý trị liệu, nhưng anh đâu có cuộc hẹn nào
với họ.
Anh lăn bánh xe về phía màn hình máy quay an ninh để xem đó có thể là ai.
Khỉ gió.
Rhyme thường thấy bực bội khi người ta đến mà không thông báo trước (mà có thông báo thì cũng thế thôi).
Nhưng ngày hôm nay cảm giác khó chịu mãnh liệt hơn bình thường rất nhiều.
“À, vâng,” người đàn ông đang quả quyết với Amelia Sachs, “Tôi biết cô đang nói đến ai. Một anh chàng lầm lì.”
Cô đang nói chuyện với quản lý của nhà hàng hamburger White Castle khu Queens ở Astoria.
“Rất cao, rất gầy. Trắng bệch.”
Viên quản lý, ngược lại, là một người đàn ông da bánh mật, với khuôn mặt tròn trịa, hớn hở. Họ đang ngồi cạnh cửa sổ trước. Ông ta vừa tự lau cửa sổ, có vẻ tự hào về cửa hàng dưới sự chăm sóc của mình. Mùi Windex sực lên nồng nặc cũng như mùi hành tây. Mùi sau khá hấp dẫn. Bữa ăn cuối cùng của Sachs là bữa ăn nhẹ tối qua.
“Ông có biết tên hắn ta không?”
“Tôi không. Nhưng…” Ông ta ngước lên. “Char?”
Một người phụ nữ ở quầy tầm hai mươi tuổi ngoái sang. Nếu cô ta đang ăn món ăn đặc biệt của nhà hàng thì cô ta cũng ăn một cách nhỏ nhẹ. Người phụ nữ mảnh dẻ ăn nốt chỗ thức ăn và đến chỗ hai người họ.
Sachs tự giới thiệu bản thân và theo quy định, giơ phù hiệu ra. Mắt người phụ nữ sáng lên. Cô ta hăm hở trước thời khắc CSI của mình. “Charlotte làm nhiều ca khác nhau. Cô ấy là mỏ neo của chúng tôi đấy.” Đỏ mặt.
“Ông Rodriguez nghĩ là cô có thể sẽ biết một người đàn ông cao kều thỉnh thoảng ghé qua đây,” Sachs nói. “Cao, rất gầy. Trắng. Có thể hắn từng mặc một chiếc áo khoác kẻ caro màu xanh lục hoặc áo choàng len. Mũ bóng chày.”
“Chắc chắn rồi. Tôi nhớ anh ta!”
“Cô có biết tên hắn ta không?”
“Không, chỉ là, khó lòng mà không nhận ra anh ta.”
“Cô có thể kể gì về anh ta cho tôi?”
“Như cô nói đấy. Gầy. Gầy nhẳng. Và anh ta ăn nhiều lắm. Mười đến mười lăm cái sandwich.”
Sandwich… hoặc burger.
“Nhưng hắn ta có thể mua chúng hộ những người khác phải không?” “Không, không đâu! Anh ta ăn chúng ngay tại đây. Đa phần là thế. Đúng như lời mẹ tôi hay nói, xơi tái chúng. Và uống hai cốc sữa lắc. Gầy nhẳng thế mà ăn như thế đấy! Thỉnh thoảng uống sữa lắc và nước có ga. Cô làm thanh tra bao lâu rồi?”
“Vài năm.”
“Hết sảy!”
“Hắn ta có bao giờ đi cùng ai không?”
“Tôi chưa bao giờ thấy.”
“Hắn có đến đây thường xuyên không?”
“Khoảng hai tuần một lần.”
“Có ấn tượng gì cho thấy hắn sống quanh đây không?” Sachs hỏi. “Bất kỳ điều gì mà hắn từng nói chẳng hạn?”
“Không. Chưa bao giờ nói một lời nào với tôi. Chỉ gọi món, luôn cúi gằm mặt xuống. Đội mũ.” Mắt cô ta nheo lại. “Tôi cá là anh ta sợ camera an ninh! Cô có nghĩ thế không?”
“Có khả năng. Cô có thể miêu tả hắn ta không, mặt hắn ấy?” “Thật ra thì chưa bao giờ tôi chú ý cả. Mặt dài, hơi tái, như thể anh ta không hay ra ngoài. Theo tôi nhớ thì không có râu ria gì cả.” “Có manh mối nào về nơi hắn sống hay hắn định đi đến không?” Charlotte cố. Nhưng không nghĩ được gì. “Xin lỗi.” Cô ta gần như co rúm người lại vì không thể trả lời được câu hỏi.
“Xe hơi?”
Một lần nữa lại thất bại. “À, tôi không… Chờ đã. Không, hẳn là không. Khi ra về anh ta không đi về hướng bãi đỗ xe, tôi nghĩ vậy.” “Vậy là cô đã từng theo dõi anh ta.”
“Người ta có ý muốn nhìn theo anh ta, cô biết đấy? Không phải do anh ta quái gở hay gì cả. Chỉ là, quá gầy. Ăn rõ nhiều mà rõ gầy. Hoàn toàn không công bằng. Chúng ta phải cố gắng lắm mới được như thế, có đúng không?”
Sachs đoán cô ta đang ám chỉ hai người phụ nữ có mặt ở đây. Cười. “Lần nào cũng thế à? Hắn ta đi hướng đó mỗi lần đi về à?”
“Tôi đoán thế. Khá chắc.”
“Hắn có mang theo cái gì không?”
“À, có vài lần anh ta cầm theo một cái túi, túi nhựa. Tôi nghĩ có lần, phải rồi, anh ta đã đặt nó lên kệ và nó nặng lắm. Có tiếng lách cách. Như kim loại.”
“Túi màu gì?”
“Trắng.”
“Không rõ bên trong có gì à?”
“Không. Xin lỗi. Tôi thật sự ước gì mình giúp được.”
“Cô đã tuyệt lắm rồi. Quần áo thì sao?”
Cô ta lắc đầu. “Ngoài áo khoác và mũ thì tôi không nhớ gì cả.” Sachs hỏi Rodriguez, “Video an ninh đâu?” Đã đoán được câu trả lời. “Nó ghi đè mỗi ngày.”
Phải rồi, đúng như cô đã nghĩ. Mọi đoạn băng có ghi hình tên tội phạm của họ đều đã bị ghi đè lên rồi.
Quay lại với Charlotte. “Cô đã giúp tôi rất nhiều.” Câu tiếp theo Sachs nói với cả hai người họ. “Tôi cần hai người báo cho tất cả mọi người làm việc ở đây là chúng tôi đang tìm kiếm người đàn ông này. Nếu hắn quay lại thì hãy gọi 911. Và nói thêm cho mọi người biết hắn là nghi phạm giết người.”
“Giết người,” Charlotte thì thào, trông vừa hãi hùng vừa hớn hở. “Đúng thế. Tôi là thanh tra 5858. Sachs.” Cô đưa danh thiếp cho quản lý và Charlotte. Người phụ nữ nhìn nó chăm chú như thể mẩu giấy nhỏ xíu đó là một món tiền boa khổng lồ. Cô ta đeo nhẫn cưới và Sachs đoán là cô ta hẳn đang dựng nên câu chuyện trên bàn ăn tối nay rồi. Sachs nhìn hai người họ. “Nhưng đừng gọi cho tôi. Hãy gọi 911 và nhắc đến tên tôi. Sẽ có một xe tuần tra đến đây sớm hơn tôi. Các bạn sẽ phải hành xử như thể không có gì diễn ra hết. Cứ phục vụ hắn như bình thường, rồi khi hắn ra về hoặc ngồi xuống ăn thì gọi cho chúng tôi. Được chưa? Đừng làm gì khác nữa. Tôi có thể dựa vào các bạn không?”
“Chắc chắn rồi, thanh tra,” Charlotte nói, sẵn sàng tuân lệnh sĩ quan chỉ huy.
“Tôi sẽ bảo đảm điều đó,” Rodriguez, viên quản lý, nói. “Bảo đảm tất cả mọi người đều biết.”
“Có vài nhà hàng White Castle khác trong khu vực này. Hắn ta cũng có thể đi tới những chỗ đó nữa. Ông có thể thông báo cho các quản lý khác
điều này không?”
“Được thôi.”
Sachs nhìn ra ngoài cửa sổ, sạch bong và quan sát con đường rộng rãi. Nó phủ kín các cửa hàng, quán ăn, và căn hộ. Bất kỳ cửa hàng nào ở đây cũng có thể bán những món đồ kêu lách cách và đựng chúng trong những cái túi nhựa trắng để khách hàng mang về nhà… hoặc tới hiện trường giết người.
Rodriguez nói thêm, “Thanh tra này… Ăn ít bánh kẹp nhé. Tôi mời.” “Chúng tôi không được ăn đồ ăn mời.”
“Nhưng bánh tròn…”
Sachs mỉm cười. “Đó chỉ là chuyện tưởng tượng ra thôi.” Cô liếc nhìn lò nướng. “Nhưng tôi sẽ mua một cái.”
Charlotte cau mày. “Cô nên mua hai cái đi. Chúng nhỏ lắm.” Đúng thế thật. Nhưng chúng cũng ngon lạ thường. Cả sữa lắc cũng thế. Cô ăn hết bữa sáng/trưa của mình trong vòng có ba phút. Rồi bước ra ngoài.
Cô rút di động ra khỏi túi để gọi cho Ron Pulaski. Không có ai nghe máy điện thoại để bàn trong phòng xử lý vụ án nghi phạm 40 ở One Police Plaza. Cô thử gọi số di động của anh ta. Tin nhắn thoại. Cô để lại lời nhắn.
Được rồi, ta đành đơn thương độc mã vậy. Cô sải bước lên vỉa hè, bị cơn gió xoáy trên trời tạt vào.
Cao, trắng bệch, gầy nhẳng, túi trắng. Hắn đã đi mua sắm. Bắt đầu từ cửa hàng dụng cụ. Mùn cưa, véc-ni.
Búa bi.
Thương tích do vật cùn.
CHƯƠNG 9
Lincoln Rhyme đã quên bẵng là Juliette Archer, sinh viên pháp y của anh, hôm nay sẽ tới để bắt đầu kỳ thực tập không chính thức. Cô ta là loại khách đến không báo trước. Trong hoàn cảnh khác chắc anh sẽ thích sự có mặt của cô ta. Nhưng lúc này anh nghĩ ngay là làm sao để đuổi cổ cô ta đi.
Archer lái chiếc ghế Storm Arrow của cô ta vòng qua thang cuốn, đi vào phòng khách, nhanh nhẹn phanh lại trước đống dây nhợ lằng nhằng phủ kín sàn. Rõ ràng là cô ta không quen đi qua các dây cáp loằng ngoằng nhưng rồi, hẳn đã đi đến kết luận là Rhyme vẫn thường đi qua chúng mà không bị sao, cô ta làm vậy.
“Chào Lincoln.”
“Juliette.”
Thom gật đầu với cô ta.
“Juliette Archer. Tôi là một học viên theo học lớp của Lincoln.” “Tôi là phụ tá của anh ấy. Thom Reston.”
“Rất vui được gặp anh.”
Ngay sau đó một tiếng chuông cửa khác vang lên và Thom lại ra mở cửa. Anh ta và một người đàn ông vạm vỡ khoảng ba mươi tuổi bước vào phòng khách. Vị khách thứ hai mặc đồ công sở, áo sơ mi và cà vạt màu xanh dương nhạt. Khuy áo đầu tiên không cài và cà vạt thì lỏng lẻo. Rhyme chẳng thể hiểu được kiểu ăn mặc này.
Anh ta gật đầu chào tất cả mọi người nhưng hướng mắt về phía Archer. “Jule, em không đợi. Anh đã bảo em đợi cơ mà.”
Archer nói, “Đây là anh trai tôi, Randy.” Rhyme nhớ lại rằng cô ta đang ở cùng vợ chồng anh trai vì phòng xép trong phố của cô ta đang được cải tạo để dễ ra vào hơn. Cặp đôi kia tình cờ thay cũng sống gần đại học John Marshall, tiện thật.
Randy nói, “Đường dành cho xe lăn đằng cửa trước rất dốc.” “Em đã đi nhiều chỗ còn dốc hơn,” cô ta nói.
Rhyme biết nhiều người có kiểu quá chăm chút hoặc coi những người khuyết tật nặng như trẻ con. Nó khiến anh phát điên, và rõ ràng Archer cũng thấy thế. Anh tự hỏi liệu có thể nào cô ta sẽ quen với việc được nâng niu hay không, còn anh thì không bao giờ.
Tuy nhiên, anh nghĩ thầm, sự hiện diện của ông anh trai giúp giải quyết vấn đề. Không đời nào có chuyện hai người – toàn là tay mơ – lại lởn vởn ở đây trong khi anh và Mel Cooper vất vả tìm chứng cứ chống lại nhà sản xuất hoặc trung tâm mua sắm hoặc bất kỳ kẻ nào phải chịu trách nhiệm cho cái chết của chồng bà Sandy Frommer.
“Có mặt, như đã hứa,” Archer nói, mắt quan sát căn phòng khách kiêm phòng thí nghiệm. “Chà. Nhìn này. Các thiết bị, dụng cụ. Còn cả kính hiển vi điện tử nữa sao? Tôi thấy ấn tượng đấy. Có vấn đề về điện à?”
Rhyme không trả lời. Bất kỳ một từ nào thốt ra cũng có thể đẩy lùi tốc độ ra về của họ.
Mel Cooper nhảy từ giàn giáo xuống sàn, nhìn về phía Archer. Cô ta chớp mắt khi bị ánh sáng đèn pin của anh ta rọi vào mắt mình. “Ôi xin lỗi. Mel Cooper.” Gật đầu thay vì chìa tay, cân nhắc đến việc ngồi xe lăn của cô ta.
Archer giới thiệu anh trai mình và rồi, chuyển sự chú ý về với Cooper, nói, “Ôi, thanh tra Cooper. Lincoln đã khen ngợi anh rất nhiều đấy. Anh ấy đã đưa anh ra như một ví dụ điển hình về nhân viên kỹ thuật pháp y…”
“Được rồi,” Rhyme nói vội, lờ đi ánh mắt dò hỏi nhưng đầy vẻ hài lòng từ Cooper. “Ở đây chúng tôi đang bận xử lý một số việc.” Cô ta đẩy xe về phía trước, nhìn các thiết bị khác. “Khi tôi còn nghiên cứu dịch tễ học, thỉnh thoảng chúng tôi cũng dùng máy sắc ký khí ghép khối phổ. Đời khác. Nhưng cũng tương tự. Kích hoạt bằng giọng nói à?” “À. Ừ. Không. Mel hoặc Amelia thường dùng nó. Nhưng…” “À, có một hệ thống giọng nói hoạt động tốt lắm. Công ty RTJ Instrumentation. Trụ sở ở Akron.”
“Thế à?”
“Nói cho anh biết thôi. Một bài trên tờ Forensics Today về việc không cần thao tác bằng tay trong phòng thí nghiệm. Tôi có thể gửi nó cho anh.” “Chúng tôi có đăng ký theo dõi,” Cooper nói. “Tôi đang mong…” Rhyme càu nhàu, “Như tôi đã nói, vụ án mà chúng tôi đang xử lý rất gấp gáp. Đột nhiên vừa xuất hiện thôi.”
“Để tôi đoán xem nào, một cái thang cuốn tới vô định.”
Rhyme cáu kỉnh trước câu đùa đó. Anh nói, “Lẽ ra cô gọi trước sẽ tốt hơn cả. Có thể bớt rắc rối cho cả hai…”
Archer nói thẳng toẹt, “Phải. Mà chúng ta đã thống nhất là tôi đến đây hôm nay. Anh không báo lại chính xác thời gian cho tôi. Tôi đã gửi email.” Vậy là nếu có người phải gọi điện thì nên là anh. Anh thử hướng khác. “Lỗi của tôi. Trăm phần trăm. Tôi xin lỗi vì cô đã phí công tới đây.” Một cái liếc sắc lạnh của Thom cho anh bởi câu nói dối thô lỗ đó. Rhyme thẳng thừng lờ tịt anh ta. “Nên chúng ta sẽ phải gặp nhau sau. Một thời điểm khác. Sau.”
Randy nói, “Thế thì Jule, quay về nhà nào. Anh sẽ lấy xe, rồi đưa em xuống lối đi dành cho xe lăn, và…”
“Nhưng tất cả mọi thứ đã được lên lịch hết rồi. Will Senior sẽ trông Billy trong mấy hôm tới. Còn Button sẽ đến chơi ở nhà Whisker. Tôi cũng đã thay đổi toàn bộ lịch hẹn với bác sĩ. Vậy đấy.”
Button? Whisker? Rhyme nghĩ. Chúa lòng lành. Mình vừa dây vào cái gì thế này? “Xem này, khi tôi đồng ý cho cô tới đây, lúc đấy công việc khá nhẹ nhàng. Tôi có thể… hướng dẫn nhiều hơn. Bây giờ thì tôi sẽ không có ích lắm đâu. Quá nhiều chuyện đang diễn ra. Đây là một vấn đề cực kỳ cấp thiết.”
Vấn đề cấp thiết? Mình thật sự nói vậy? Rhyme tự hỏi.
Cô ta gật đầu nhưng vẫn nhìn chằm chằm vào thang cuốn. “Chắc là vụ tai nạn đây. Ở Brooklyn chứ gì? Trung tâm mua sắm. Một vụ án dân sự. Có vẻ không ai nghi ngờ đây là một vụ hình sự. Cũng có nghĩa là, theo tôi đoán, kiện tụng với vài bị đơn. Nhà sản xuất thang, công ty sở hữu trung tâm mua sắm, đội bảo trì. Chúng ta biết những người đó thế nào rồi đấy.” Cô ta lăn bánh một vòng. “Ai mà không mê Boston Legal? Và cả The Good Wife nữa?”
Ai mà biết đó là cái quái gì chứ?
“Tôi thật sự nghĩ tốt nhất là…”
Archer nói, “Và đây chỉ là bản mô phỏng. Anh không thể đem chiếc thang cuốn thật vào đây chứ gì? Các luật sư dân sự không được rớ vào?” “Đã bị tháo dỡ và tống kho,” Cooper nói, bị Rhyme trừng mắt. “Một lần nữa, tôi xin lỗi, nhưng…”
Archer vẫn tiếp tục. “Có gì cấp thiết đến vậy? Các nguyên đơn khác cũng tranh cướp đòi phần à?”
Rhyme không nói gì. Anh chỉ quan sát cô ta lăn bánh lại gần giàn giáo
hơn. Giờ anh đánh giá cô ta kỹ càng hơn. Cô ta ăn vận khá thanh lịch. Chân váy bút chì dài màu xanh lục, áo sơ mi trắng là phẳng phiu. Áo khoác đen. Một chiếc vòng vàng tao nhã như được tạo thành từ những chữ cái ngoằn ngoèo trên cổ tay trái của cô ta, cổ tay bị buộc cố định vào tay vịn xe lăn. Cô ta điều khiển chiếc Storm Arrow bằng bàn phím, dùng tay phải. Hôm nay mái tóc màu hạt dẻ được búi lên. Rõ ràng là Archer đã bắt đầu học được rằng khi tứ chi của bạn không hoạt động được thì bạn phải làm tất cả những gì có thể để giảm thiểu tình trạng ngứa ngáy và khó chịu do tóc và mồ hôi gây ra. Rhyme ngày càng dùng nhiều thuốc chống muỗi – hữu cơ, do Thom ép – hơn hẳn so với trước khi bị tai nạn.
“Jule,” Randy nói. “Anh Rhyme rất bận. Đừng thử thách lòng hiếu khách của người ta.”
Đã hết hiếu khách rồi đấy, anh nghĩ. Nhưng nụ cười của anh vẫn chan chứa vẻ hối hận. “Xin lỗi. Thật sự như thế là tốt nhất cho cả đôi bên. Tuần sau đi, hai tuần nữa.”
Archer đang nhìn Rhyme chằm chằm, mắt kiên định. Anh nhìn thẳng lại khi cô ta nói, “Anh không nghĩ thêm một người giúp sức sẽ có ích sao? Chắc rồi, tôi chỉ là tay mơ ở lĩnh vực pháp y nhưng tôi đã thực hiện các cuộc điều tra dịch tễ nhiều năm rồi. Bên cạnh đó, không có bằng chứng thật thì chúng ta có vẻ sẽ không cần phân tích dấu vân tay hay gradient mật độ. Anh sẽ phải đưa ra rất nhiều giả thuyết về vấn đề hỏng hóc cơ khí. Chúng tôi cũng toàn phải làm vậy khi đánh giá nguồn gây bệnh – suy đoán, tất nhiên là không phải về máy móc. Tôi có thể làm chân chạy việc thu thập thông tin.” Cười. “Có thể nói vậy.”
“Jule,” Randy nói, đỏ bừng cả mặt. “Chúng ta đã nói về chuyện đó rồi.” Rhyme đoán là họ đã từng đùa cợt với nhau về tình trạng khuyết tật của cô ta. Bản thân Rhyme cũng vui vẻ trêu chọc những kẻ ra vẻ hạ cố, những kẻ quá mẫn cảm và cả những kẻ quá có chừng mực, kể cả – đặc biệt – là trong cộng đồng người khuyết tật. “Người ngồi xe lăn” là danh từ ưa thích của anh, còn động từ là “khép nép”.
Khi Rhyme không có phản ứng gì trước thái độ bền bỉ của Archer, môi cô ta mím lại. “Nhưng,” cô ta cố tỏ ra như không, “nếu anh không có hứng thú thì cũng không sao. Chúng ta có thể hẹn dịp khác.” Giọng cô ta có vẻ đanh đá, và điều này gia cố thêm quyết định của anh. Anh không cần bị tỏ thái độ. Việc anh nhận cô ta làm thực tập sinh đã là giúp đỡ cô ta rồi.
“Tốt nhất là như thế, có lẽ vậy.”
Randy nói, “Anh sẽ lấy xe, đưa nó vòng ra đây. Thật đấy, Jule. Nhớ đợi ở đầu đường dành cho xe lăn nhé.” Quay sang nói với Rhyme. “Cảm ơn,” anh ta nói, gật đầu một cách nồng nhiệt. “Rất biết ơn tất cả những gì anh đã làm cho em tôi.”
“Không có gì.”
“Tôi sẽ tiễn hai người,” Thom nói.
“Mel, quay lại làm việc nào,” Rhyme càu nhàu.
Kỹ thuật viên lại trèo vào trong giàn giáo. Đèn máy quay lại sáng lên. Archer nói, “Gặp anh trong lớp vào tuần sau, Lincoln.”
“Cô có thể quay lại, tất nhiên rồi. Thực tập ở đây. Chỉ là vào một thời điểm khác.”
“Chắc chắn rồi,” cô ta nói một cách hờ hững. Và lăn xe vào hành lang với Thom. Lát sau Rhyme nghe tiếng cửa đóng lại. Anh lăn xe về phía màn hình video và nhìn Archer, thách thức anh trai, dễ dàng điều khiển xe xuống đường dành cho xe lăn và chờ trên vỉa hè. Cô ta ngoái lại nhìn lên nhà anh.
Rhyme lăn bánh xe về phía màn hình máy tính, trên đó hiện các hình ảnh mà Amelia Sachs đã chụp. Anh nghiên cứu chúng trong giây lát. Rồi thở ra thật dài.
“Thom! Thom! Tôi đang gọi anh đấy! Anh ở chỗ quái nào rồi?” “Cách anh khoảng hai mét, Lincoln. Và không, gần đây tôi chưa bị điếc đâu. Anh đang lịch sự đòi hỏi điều gì vậy?”
“Đưa cô ta quay vào đây.”
“Ai?”
“Người phụ nữ vừa ở đây. Mười giây trước. Tôi còn nói về ai được nữa? Tôi muốn cô ta quay lại. Ngay.”
Ron Pulaski trên một vỉa hè xi măng đã tan nát thành các hình tam giác gồ lên như các ngọn núi của tảng băng trôi. Hàng rào dây thép mà anh đứng cạnh có lưỡi gai ở trên cùng và được vẽ lên, các hình vẽ và biểu tượng trở nên xấu xí hơn vì bề mặt phun sơn là mắt lưới. Ai lại làm xấu cả hàng rào dây thép nhỉ? Anh tự hỏi. Có thể là những bức tường gạch và các trụ xi măng đẹp đẽ đã bị xí phần hết rồi.
Nghe tin nhắn thoại của mình.
Amelia Sachs muốn anh. Anh đã chuồn khỏi phòng tác chiến của họ ở
1PP, tin rằng cô sẽ theo dấu manh mối White Castle rồi quay lại Manhattan sau vài giờ nữa. Nhưng rõ ràng là cô đã tìm được thứ gì đó giúp vụ án tiến triển. Anh nghe lại tin nhắn. Quyết định là cô không cần đến anh ngay lập tức. Cũng không có gì khẩn cấp hết. Cô muốn anh giúp lùng sục một khu vực nơi người ta đã thấy nghi phạm 40 cách đây vài ngày và thường xuyên có mặt tại đó. Có thể hắn sống ở đó mà cũng có thể chỉ đến đó mua đồ.
Pulaski không muốn nói chuyện với cô. Anh nhắn tin. Nói dối dễ dàng hơn khi ngón tay, chứ không phải giọng nói, truyền tin. Anh nhắn sẽ đến đó ngay khi có thể. Anh đang tạm rời văn phòng trong chốc lát. Không gì hơn.
Dù vậy, khi nghĩ đến tin nhắn của anh, nó đâu hẳn là nói dối. Anh không có mặt ở văn phòng và ngay khi làm xong việc của mình, anh sẽ đến lùng sục cùng cô. Tuy vậy, khi anh đang đi đường, tuần tra, suy nghĩ của anh là: Không khai báo cũng là lừa dối.
Hoàn thành xong nhiệm vụ nhắn tin, viên sĩ quan trẻ tuổi lại thận trọng trở lại. Đặc biệt cẩn trọng. Cuối cùng thì, anh đang ở khu 33, vậy nên anh buộc phải cẩn trọng.
Pulaski vừa lên vỉa hè từ ga đầu mối Broadway và đang đi bộ dọc đại lộ Van Sinderen. Khu Brooklyn này rất loạn. Không quá bẩn thỉu, không hơn các khu vực khác trong thành phố, chỉ là hỗn loạn. Những chuyến tàu Canarsie và Jamaica kêu rầm rì trên đầu. IND ngầm dưới mặt đất. Vô số ô tô và xe tải, lách qua, bấm còi, đâm ra đâm vào. Cả đàn người đi lại trên vỉa hè. Lại còn xe đạp nữa.
Viên sĩ quan nổi bật giữa đám đông – anh thuộc một hạng người chỉ chiếm khoảng hai phần trăm số cư dân ở đây, nơi Ocean Hill, Brownsville, và Bed-Stuy giao nhau. Không một ai quấy rầy anh, dường như cũng không một ai chú ý đến anh, tất cả mọi người đều đang có nhiệm vụ riêng, mà ở thành phố New York này thì cái gì cũng có vẻ khẩn cấp hết. Hoặc họ đang chúi mặt vào điện thoại hoặc trò chuyện với đám bạn. Như ở phần lớn các khu dân cư, đa số, phần lớn dân địa phương chỉ muốn đến chỗ làm rồi về nhà, gặp gỡ những người họ quen biết ở các quán bar, quán cà phê, hoặc nhà hàng, đi mua sắm, đi dạo với con cái và lũ chó, về nhà.
Nhưng điều đó không có nghĩa là anh có thể gạt bỏ những kẻ ở đây có thể để ý đặc biệt tới anh, băn khoăn vì sao một thằng nhóc da trắng sạch sẽ với kiểu đầu quê mùa và khuôn mặt nhẵn thín như trẻ con lại tản bộ trên những vỉa hè lởm chởm trong một khu vực nhộn nhạo đầy người da đen và
da màu của thành phố. Khu 33, theo các số cuối trong mã ZIP của nó, về mặt số liệu mà nói là khu vực nguy hiểm nhất của thành phố New York. Sau khi Amelia Sachs rời khỏi 1PP, Pulaski đã chờ vài phút rồi mới cởi bộ đồng phục NYPD của mình ra và mặc thường phục vào. Quần jean, giày chạy, áo phông màu xanh lục, áo khoác da màu đen, cũ kỹ. Đầu cúi gằm, anh rời khỏi trụ sở cảnh sát. Anh đã đến một cây ATM gần đó, thần kinh căng thẳng khi thấy các tờ tiền trôi ra. Mình thật sự đang làm chuyện chết tiệt này sao? Anh nghĩ, dùng một từ bổ nghĩa mà cực kỳ hiếm, và chỉ trong các tình huống nghiêm trọng, mới thoát ra khỏi đôi môi hồng hào của anh.
Lội qua sông băng qua rừng… chúng ta tới chỗ kẻ xấu… Qua khu giao lộ, anh đi tới Broadway, qua các xưởng sửa xe ô tô, các cửa hàng dụng cụ, văn phòng bất động sản, các hàng đổi tiền mặt và ứng tiền lương, cửa hàng rượu vang, các hàng ăn rẻ tiền với đầy trứng ruồi, thực đơn viết tay dán đầy trên cửa sổ. Khi anh ngày một rời xa các con phố đầy cửa hàng buôn bán, anh đi qua các khu căn hộ, chủ yếu là các tòa nhà ba đến bốn tầng. Rất nhiều gạch đỏ, rất nhiều đá sơn màu be và nâu, rất nhiều hình vẽ graffiti. Cuối đường chân trời là các dự án chọc trời của Brownsville, không xa lắm. Trên vỉa hè là các đầu thuốc lá, rác, chai rượu mạch nha, vài cái bao cao su và kim tiêm… và thậm chí cả ống tiêm, cảm giác có phần hoài niệm, người ta không mấy khi nhìn thấy thứ tai hại đó nữa.
Khu 33…
Pulaski rảo bước thật nhanh.
Một con phố, hai con phố, ba con phố, bốn.
Alpho ở chỗ quái quỷ nào nhỉ?
Trước mặt, trên cùng vỉa hè, có hai đứa trẻ – phải, trẻ nhưng gộp lại thì phải nặng gấp bốn lần Pulaski – đang đánh giá anh một cách hằn học. Anh có khẩu Smith & Wesson Bodyguard ở mắt cá chân, là vũ khí cá nhân của anh. Nhưng nếu chúng muốn tấn công anh thì anh sẽ nằm gục trên mặt đất và chảy máu đầm đìa trước khi có thể lôi khẩu súng mạnh mẽ của mình ra khỏi bao. Nhưng chúng tiếp tục hút thuốc và cãi cọ, để anh đi qua mà không thèm nhìn lại.
Đi thêm hai dãy phố nữa và, cuối cùng, anh phát hiện ra đứa nhóc mà anh đang tìm kiếm. Ở 1PP anh đã ngấm ngầm đọc báo cáo hoạt động khu vực 73 và đã có ý tưởng mơ hồ về nơi phải đến, nơi Alpho thường lảng
vảng. Thằng nhóc đang chúi mặt vào điện thoại và hút thuốc lá, không phải cần sa, trước tiệm GW Deli và cửa hàng bán thẻ điện thoại. GW. George Washington à? Rồi vì lý do nào đó là Pulaski nghĩ: Gee Whiz chăng?
Cậu nhóc người La-tinh gầy gò đang mặc một chiếc áo thun ba lỗ, khoe ra hai cánh tay khẳng khiu của một người hẳn là không luyện tập nhiều lắm. Đội giám sát Tội Phạm Đường Phố đã chụp được vài bức ảnh rõ mặt của cậu ta, và đó là lý do Pulaski nhận ra cậu ta ngay lập tức. Alpho đã bị triệu tập, thẩm vấn, và rồi thả ra vài lần rồi. Nhưng cậu ta vẫn chưa bị bắt giữ lần nào và Đội Ma Túy tin là cậu ta vẫn đang buôn hàng. Hẳn là sự thật. Nhìn là biết. Từ dáng đứng, vẻ cảnh giác, kể cả khi đang tập trung nghe điện thoại.
Pulaski nhìn quanh. Không có mối đe dọa rõ rệt nào.
Nên làm cho xong nào. Pulaski sải bước về phía Alpho, liếc mắt rồi đi chậm lại.
Cậu nhóc, có làn da đen đúa nhưng xám xịt, ngẩng đầu lên. Nói gì đó như chào tạm biệt vào điện thoại và cất chiếc điện thoại rẻ tiền đi. Pulaski tiến lại gần. “Chào.”
“Yo.”
Mắt Alpho quét qua quét lại con phố, như những con vật bất kham. Không phát hiện ra thứ gì rắc rối. Rồi quay lại nhìn Pulaski. “Ngày đẹp nhỉ?”
“Cũng được. Đoán thế. Tôi quen anh à?”
Pulaski nói, “Alphonse phải không?”
Trừng mắt đáp lại.
“Tôi là Ron.”
“Thì sao?”
“Kett. Quán Richie ở Bed-Stuy.”
“Anh ta ngầu phết. Sao anh quen anh ta?”
Pulaski nói, “Tình cờ thôi. Thỉnh thoảng có gặp nhau vài lần. Anh ta sẽ bảo đảm cho tôi.”
Eddie Kett sẽ bảo đảm cho Ron Pulaski, không phải vì họ là bạn thân mà vì cách đây vài ngày, khi đang can ngăn một cuộc ẩu đả, không trong ca trực, Pulaski đã phát hiện ra là Eddie đang mang theo một khẩu súng khi mà anh ta không bao giờ nên mang. Anh ta cũng có vài viên thuốc trong người. Mấy viên thuốc đã thu hút sự chú ý của Pulaski, người đưa ra gợi ý
"""