"
Nụ Hôn Đầu Cho Em - Suzanne Brockmann full prc, pdf, epub [Lãng mạn]
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Nụ Hôn Đầu Cho Em - Suzanne Brockmann full prc, pdf, epub [Lãng mạn]
Ebooks
Nhóm Zalo
NỤ HÔN ĐẦU CHO EM
TÁC GIẢ: Suzanne
Brockmann
DỊCH GIẢ: Nguyễn Trung
NHÀ XUẤT BẢN: Lao Động - Thái Uyên
SỐ TRANG: 262
HÌNH THỨC BÌA: Bìa mềm
NGÀY XUẤT BẢN: 20 - 9 – 2012
BOSS DỰ ÁN: Devil
CHỤP PIC: Con Đần
TYPE: Mimi Ngoc, Cao Thu Trang, Tuyết Minh, Yến Ngọc
BETA + EBOOK: TT
Mục lục
Giới thiệu tác phẩm
Chương một
Chương hai
Chương ba
Chương bốn
Chương năm
Chương sáu
Chương bảy
Chương tám
Chương chín
Chương mười
Chương mười một Chương mười hai Chương mười ba
Chương mười bốn Chương mười lăm
Giới thiệu tác phẩm
Có bao giờ, bạn nghĩ mình sẽ yêu một anh chàng vốn là bạn thân của mình trong suốt hai mươi năm, một người từng chia sẻ với bạn mọi buồn vui, mơ ước, thành công, thất bại…, chỉ trừ một quan điểm yêu đương nghiêm túc và đích thực?
Có bao giờ, bạn nghĩ mình sẽ yêu anh chàng ấy, khi trong con mắt bạn, anh ta là gã phóng đãng nhất ở nơi bạn sống, là một Don Juan thật sự vì anh ta ngủ với mọi phụ nữ rồi sau đó bỏ rơi họ, chưa bao giờ muốn thốt ra một lời nguyện ước chung thủy, chân thành?
Có bao giờ, bạn nghĩ mình sẽ phải lòng anh chàng ấy, trong những tình huống hết sức trớ trêu, rồi nhận ra mình không thể rời xa anh ta dù chỉ trong ý nghĩ, và rốt cuộc anh ta cũng để mắt tới bạn, khao khát bạn từ rất lâu, rất lâu rồi….
Hãy cùng đến với hòn đảo Sunrise Key xinh đẹp trong cuốn tiểu thuyết "Nụ Hôn Đầu Cho Em” để trải nghiệm câu chuyện tình yêu thú vị tuyệt vời ấy.
Chương một
“A lô!”
“Simon à? Làm ơn nói với tôi là Leila có ở đó nhé!” Sau phút im lặng ngắn ngủi, giọng nói quen thuộc của Simon Hunt cất lên, “Dĩ nhiên tôi có thể nói thế với cô, Francine, nhưng chẳng hóa ra tôi nói dối à? Hiện em gái tôi không có nhà. Nó và chồng sắp cưới đã đi gặp mấy tay quản lý khách sạn tới lần thứ ba rồi. Nếu cô hỏi tôi, thì cái đám cưới này đang rối tung lên đây.”
Frankie Paresky nhắm mắt lại và thầmnguyền rủa. “Simon này, tôi cần anh
giúp.” Cô nói liến thoắng, không cho anh trai của người bạn thân có cơ hội xen vào một lời, nói gì đến chuyện từ chối. “Tôi đang ở sân bay. Một chuyến bay vừa hạ cánh và tôi đã bắt được một khách – nhưng hóa ra người này lại đến Sunrise Key để gặp tôi. Lúc tôi hỏi ông ta về đâu, ông ta liền cho ngay địa chỉ của tôi. Tôi muốn nhờ anh một việc vô cùng hệ trọng – phiền anh đến văn phòng của tôi và mở khóa cửa, anh hãy mời ông ta vào phòng chờ và giữ chân ông ta cho đến khi tôi tìm được cách vào nhà từ lối vườn sau và thay quần áo nhé!”
Simon cười khùng khục, quỷ tha ma bắt anh ta, “Ý cô là cô không muốn khách hàng biết rằng nghề tay trái của cô
là một tài xế taxi lẫy lừng của đảo chứ gì?”
“Chẳng có gì sai trái khi tôi chạy taxi để kiếm thêm mấy đồng cả,” Frankie nói, “nhưng… tôi thực sự muốn người này coi trọng tôi.”
“Và cô cho rằng ông ta sẽ coi trọng cô nếu cô nhanh chóng thay sang chiếc áo choàng và mũ phớt và coi như ông ta không biết cô chính là người đã chở ông ta từ sân bay về?”
“Anh ngưng cái trò đùa về áo choàng một lần thôi được không?” Frankie yêu cầu. “Tôi không có áo choàng, và anh cũng biết thế.”
“Tôi tưởng cô được phát một cái khi tốt nghiệp trường thám tử tư?”
“Cảm ơn anh vạn bội, Simon. Chẳng hiểu tại sao tôi lại đi nhờ anh…”
“Đừng nóng, Francine. Tôi sẽ giúp cô. Nhưng cô có chắc là không nên thành thật với người này và nói cho ông ta biết thực ra cô là ai không?”
Qua sóng điện thoại rõ mồn một, giọng Simon vang lên thật trầm ấm và mượt mà, như thể anh đang đứng ngay sau cô, phả hơi thở ấm áp lên gáy cô. Tưởng như chỉ cần quay lại là cô có thể thấy anh, đôi mắt xanh rực sáng ánh lên vẻ thích thú, đôi môi thanh tú cong lên
cười cợt, và mái tóc vàng rối tung trước làn gió biển vờn nhẹ. Frankie khẽ nhắmmắt, cố gạt hình ảnh phân tâm đó ra khỏi đầu.
“Ông ta chưa nhìn kỹ mặt tôi,” cô nói. “Ông ta có vẻ mệt mỏi, chắc là chặng đường bay từ đất liền ra đảo đã làm ông ta bị say. Hơn nữa, sáng nay tôi đã đi tắm biển, tôi đang đội một chiếc mũ bóng chày và đeo kính râm. Tôi còn không chắc ông ta nhận ra tôi là phụ nữ nữa kìa.”
“Say máy bay đâu có làm người ta bị mù,” Simon chỉ ra. “Cô cao cùng lắm là một mét sáu mươi lăm chứ mấy, Paresky. Tôi cá toàn bộ khoản lợi nhuận tháng
trước của tôi là ông ta biết cô là phụ nữ.”
“Có thể tôi là một cậu bé mười sáu tuổi…”
“Không,” Simon nói như đinh đóng cột, “không thể đâu.”
Từ dãy nhà tôn lắp ghép dùng làmphòng chờ sân bay, cửa phòng vệ sinh nam bật mở và vị khách của cô bước ra.
“Tôi phải đi đây,” Frankie vội nói. “Anh giúp tôi thật chứ?”
“Cô muốn tôi mở cửa và giữ chân ông khách chứ gì? Được rồi.”
“Làm ơn đừng phá hỏng cơ hội này của tôi.”
“Cô phải nói ‘cám ơn anh’ mới đúng chứ.”
“Cám ơn anh.”
“Cô nợ tôi đấy nhé, Francine.”
Frankie gác máy rồi hối hả chạy ra ngoài. Cô ngồi vào sau vô lăng chiếc taxi trước khi người đàn ông – vị khách hàng đầu tiên bên ngoài hòn đảo của cô – đi ra khỏi dãy nhà tôn. Qua gương chiếu hậu, cô thấy ông ta nheo mắt và hơi lảo đảo trước ánh nắng chói chang của Florida. Vừa cẩn thận nhét khổ người to lớn của mình vào ghế sau taxi, ông ta
vừa lấy ra một chiếc khăn tay trắng gấp gọn để lau mồ hôi trên trán.
Ông ta ăn vận chẳng phù hợp chút nào với tiết trời oi bức của một vùng nhiệt đới như Sunrise Key. Frankie đoán ông ta đến từ Chicago, hoặc một thành phố nào đó thuộc vùng Trung Tây. Có lẽ là Cleverland. Cô thấy ti vi thông báo rằng đợt nắng nóng trái mùa vào tháng Tư này đang làm phần lớn vùng ven biển phía Đông ấm lên và biển Florida thành một cái bồn tắm hơi, nhưng sức ảnh hưởng của nó không lan đến tận Ohio. Ban nãy cô đã giúp ông khách xếp chiếc áo mưa nặng nề nhăn nhúm cùng với hành lý của ông ta vào băng ghế sau – nếu thời tiết chỗ ông ta không lạnh và ẩm ướt thì chắc
ông ta chẳng mang theo áo mưa làm gì.
Dù ông ta là ai thì tên viết tắt của ông ta cũng là C.A.Q, và cái túi bằng da của ông ta trông cực kỳ sang trọng. Mọi thứ trên người ông ta, từ bộ complet cắt may tỉ mỉ đến những móng tay được chăm sóc cẩn thận, đều toát lên hai chữ ‘Có tiền’.
Khi Frankie lái xe ra đường Airport, cô bỗng cảm thấy vô cùng háo hức, Frankie Paresky, thành viên của hiệp hội thám tử tư, chắc chắn đang có một khách hàng sộp từ đất liền ra.
Cô liếc nhìn ông ta qua gương lần nữa khi ông ta tựa đầu vào ghế và nhắm mắt lại. Ông ta phải cao hơn mét chín, với
khổ người đồ sộ của một cựu cầu thủ trường trung học hay đại học. Nhưng có lẽ nhiều năm rồi không còn thi đấu – ông ta cũng phải xấp xỉ bốn mươi rồi chứ ít gì – và dáng vóc một thời săn chắc đã hơi nhão ra. Tóc ông ta màu nâu và hơi mỏng trên đỉnh đầu. Gương mặt vẫn còn đẹp trai, với những nếp nhăn hằn sâu quanh mắt và khóe miệng khi cười.
Tại sao người này cần nhờ đến thámtử tư nhỉ? Và tại sao ông ta phải vội vã tới mức không tranh thủ ghé qua khách sạn để nghỉ ngơi cho lại sức sau một chuyến bay rõ ràng không thoải mái trước khi vào việc?
Frankie rất muốn hỏi ông ta vài câu –
bất cứ câu nào có thể cho cô manh mối về mục đích đến hòn đảo của ông ta, nhưng cô sợ nếu mình lên tiếng sẽ gây chú ý. Những câu hỏi ấy đành phải để sau vậy.
Khi Frankie rẽ trái sang đại lộ Ocean, hướng đến cụm cửa hàng và văn phòng tạo thành khu buôn bán kinh doanh của Sunrise Key, cô cố nhớ xem trong tủ áo còn những bộ đồ nào sạch. Lúc làm việc cô thường mặc quần soóc jeans và áo phông. Nhưng cô có cảm giác rằng quần áo dân dã như vậy sẽ không gây ấn tượng với người đàn ông mang cà vạt hàng hiệu, khuy tay áo bằng vàng, và đi giày Italia bóng lộn này. Mặt khác, nếu cô thay sang một trong hai chiếc váy của
mình – chắc chắn là chúng còn sạch bởi cô hiếm khi mặc đến – cô có thể sẽ trở nên quá nữ tính. Bất đắc dĩ lắm cô mới mặc quần dài trong thời tiết ba mươi lămđộ thế này, nhưng cô đành phải mặc quần kaki và áo sơ mi trắng vậy.
Frankie hy vọng Simon sẽ tinh ý chỉnh điều hòa ở mức lạnh nhất.
Cô rẽ vào đường Harcourt và cho xe dừng lại trước mặt ngôi nhà bên bãi biển nơi cô vừa ở vừa dùng làm văn phòng. Vị khách tiềm năng của cô mở mắt và lục túi áo jacket tìm ví.
“Hết bao nhiêu vậy?” Ông ta hỏi. “Năm đô la một chuyến.” Frankie kéo
sụp chiếc mũ bóng chày xuống mắt, cố nói với giọng trầm khàn. Chiếc xe jeep của Simon đang đỗ bên kia đường, Chúa phù hộ anh ta. Anh ta đã đến giúp cô.
Cô nợ tôi đấy nhé, Francine. Giọng nói nhẹ nhàng gợi cảm của Simon vang lên trong đầu cô, khiến cô vắt óc nghĩ xem anh ta có thể đòi những gì. Rồi cô lập tức đảo tròn mắt ghê tởm khi thấy trước mắt mình hiện lên hình ảnh Simon Hunt đang nằm ườn ra trên chiếc giường cỡ lớn của cô, cơ thể săn chắc, nước da rám nắng, mái tóc vàng óng ả và nụ cười tươi rói khoe hàm răng trắng bóng. Làmnhư cô thèm quan tâm đến con người được coi là Don Juan của Sunrise Key này vậy. Simon thường hẹn hò với những
phụ nữ đến đảo du lịch. Họ ở lại khoảng một tuần, và đến lúc từ biệt anh thì rưng rưng nước mắt. Đôi lúc có người nán lại lâu hơn – trước sự hốt hoảng của Simon. Sau hai tuần thì trong ánh mắt anh chỉ còn nỗi khiếp sợ, và cùng lắm là sau ba tuần, người phụ nữ ấy sẽ ngậm ngùi rời đảo, mang theo cõi lòng tan nát.
Không, Frankie thừa thông minh để không điền tên mình vào danh sách những kẻ bị Simon chinh phục. Anh đúng là một trong những người đàn ông hấp dẫn nhất cô từng gặp, nhưng nhiều nămqua cô đã dập tắt thành công sức hút ấy. Cô biết tường tận về anh. Cô là bạn thân của em gái anh. Cô gần như đã lớn lên trong nhà anh. Bố mẹ anh cũng giống như
bố mẹ cô vậy. Quả thực, Simon đã và vẫn sẽ là bạn của cô, và chỉ là bạn mà thôi.
Ông khách ngồi ở băng ghế sau đưa cho cô tờ mười đô la. “Cứ giữ lại tiền thừa,” ông ta bảo.
Ngay khi ông ta vừa ra khỏi xe và đóng cửa lại, Frankie đã lập tức lùi ra khỏi cổng nhà và đánh xe ra đường. Cô rẽ trái sang đại lộ Ocean, rồi rẽ trái lần nữa vào con đường nhỏ chạy song song với đường Harcourt. Cô đỗ lại trước cửa một ngôi nhà có sân sau liền kề với sân sau nhà cô và nhảy ra ngoài. Một con chó chợt sủa vang làm cô giật bắn mình khi đang chạy dọc ngôi nhà. Cô cắm đầu
chạy nhanh hơn.
Những bụi cây rậm rạp ngăn vách hai khoảng sân khó vượt qua hơn Frankie tưởng. Vừa dùng tay gạt đám cành lá, cô vừa luồn lách trườn sấp bụng trên mặt đất mềm để về sân nhà mình. Sau đó cô lại đứng lên và chạy tiếp. Chỉ mất một giây cô đã băng qua mảnh sân nhỏ và trèo lên hiên, rồi đến lan can và mái bếp.
Lối duy nhất để lên tầng hai nhà cô là đi qua văn phòng dưới lầu một – hoặc leo qua cửa sổ tầng hai.
Nhưng cô đã quên nhờ Simon mở chốt cửa sổ phòng ngủ. Làm ơn, cô âm thầmcầu nguyện, làm ơn để cửa mở nhé.
Nó bị khóa. Chết tiệt.
Bỗng chiếc rèm được kéo vẹt sang một bên và khuôn mặt Simon hiện ra. Anh mở cửa sổ, giơ tay kéo Frankie vào.
Cô loạng choạng suýt ngã, và anh dễ dàng đỡ lấy cô, đôi tay vòng qua người giữ cô thật chặt.
“Whoa,” Simon lẩm bẩm, miệng anh kề sát bên tai cô. “Bình tĩnh nào Francine. Cô vừa chạy với tốc độ một dặm trên phút đấy à.”
Đúng thế. Tim cô đập thình thịch, và hình như cô không thể bình ổn nhịp thở. Với cơ thể cô bị ép chặt vào thân hình rắn chắc của Simon, mọi chuyện dường
như càng tồi tệ hơn. Chúa ơi, xin hãy cứu rỗi linh hồn cô.
Simon chẳng hề nhận ra anh có khả năng làm mạch Frankie đập loạn xạ, và dù chết cô cũng sẽ không để cho anh biết chuyện đó. Cô vùng ra khỏi vòng tay anh. “Lẽ ra anh phải ở dưới nhà để đánh lạc hướng ông ta chứ.”
“Tôi đã đưa khách hàng của cô vào văn phòng rồi, và hiện ông ta đang ngồi nhấp trà ở dưới đó. Tôi đã nói với ông ta rằng cô đang nói chuyện điện thoại đường dài với một khách hàng khác, nên ít ra cô còn vài phút nữa để chuẩn bị. À, ông ta có đưa tôi cái này,” Simon chìa ra một tấm danh thiếp trang nhã.
Frankie cầm lấy nó từ tay anh. Clayton Alan Quinn, cô đọc, luật sư đến từ công ty Quinn, Conners, Alberts & Maine ở Grosse Pointe, Michigan. Quần soóc jeans và áo phông chắc chắn phải để nguyên trong tủ rồi.
Frankie cởi chiếc áo phông lấm lemđất ra. Bộ đồ bơi màu xanh trắng cô mặc bên trong đã khô ráo. Nó khiến cô ngứa ngáy vì dính muối và cát, nhưng cô có thế chịu đựng được. “Si, lấy hộ tôi cái quần kaki và cái áo sơ mi trắng trong tủ được không?”
Cô đi vào phòng tắm nhỏ xíu sát ngay sau đó và bắt đầu rửa sạch đất bẩn khỏi
bàn tay và khủy tay. Liếc nhìn vào gương, cô thấy Simon đang mở cửa tủ áo. Thay vì tìm quần và áo sơ mi, anh lại lôi ra một chiếc váy in những bông hoa nhỏ màu lam.
“Francine.” Anh giơ cao nó lên để cô có thể nhìn thấy qua gương phòng tắm. “Hình như người ngoài hành tinh vừa xâm lăng nhà cô, và bỏ lại mấy thứ quần áo kì lạ chưa thấy có trong tủ của cô bao giờ thì phải.”
“Nó là một chiếc váy thôi mà, Simon.”
“Tôi biết nó là gì. Nhưng trừ lễ Halloween ra, tôi không nghĩ đã từng
nhìn thấy cô mặc váy.” Anh thò tay vào tủ lấy ra chiếc váy màu xanh lục. “A, gì thế này? Một cái nữa à? Giờ thì tôi thực sự hoang mang đấy. Paresky, cô vẫn bí mật mặc đồ phụ nữ ư?”
Miệng ngậm bàn chải đánh răng, Frankie ló đầu ra khỏi phòng tắm, ra sức ném cho Simon một cái nhìn sắc như dao. Nhưng Simon đang ở tình trạng miễn nhiễm cao độ, nên cô phải bỏ bàn chải ra để giải thích. “Cái váy xanh lục tôi mua cách đây ba năm để dự đám tang Evan Water. Còn cái màu xanh lam là để mặc trong đám cưới của Kim và Noah Kavanaugh…”
“Ôi trời, gì thế này?” Simon nhấc lên
cái mắc áo bọc plastic treo món đồ suy đồi nhất trong tủ áo của Frankie – một chiếc váy mà bạn thân nhất của cô, emgái Leila của Simon, đã đặt mua cho cô từ catalogue của hãng Victoria’s Secret. Nó có màu đen, ngắn cũn cỡn và mặc dù Frankie đã thề sống thề chết là sẽ không bao giờ mặc nó nhưng Leila vẫn quyết mua cho bằng được.
Frankie vội vội vàng vàng súc miệng, rửa bàn chải rồi chạy ào ra giật lấy cái váy từ Simon. “Đó là một trò đùa nhỏ của Leila.”
Cô treo nó lại vào tận trong cùng tủ áo, rồi hối hả tìm quần dài và áo sơ mi.
“Frankie, cô có nhớ là cô vẫn muốn lên Sarasota để xem ballet không!”
“Chẳng có ai chịu đi cùng tôi hết.” Frankie gỡ chiếc quần kaki ra khỏi móc và ném xuống giường. Cô liếc sang Simon, anh đang dựa vào tường nhìn cô, hai tay khoanh lại và hai chân bắt chéo. “Trừ Leila ra, mà từ giờ tới lúc cưới xong thì cô ấy chẳng có tí thời gian rỗi nào.”
“Tôi sẽ đưa cô đi xem ballet,” Simon nói, “với điều kiện cô mặc cái váy đen kia.”
“Không đời nào!”
Anh tỏ ra cực kỳ nghiêm túc, “Tôi còn
đưa cô đi ăn tối ở Chez Jean-Paul nữa. Nhà hàng năm sao nổi tiếng…?”
“Chỉ để đổi lấy một tiếng cười nhạo thì làm thế là quá phiền phức và tốn kémđấy.”
“Ai nói về cười cợt đâu nào?”
“Ồ vâng.” Frankie đã tìm thấy chiếc áo mình cần và mặc luôn ra ngoài bộ đồ tắm. Cô cởi quần soóc và xỏ chân vào chiếc quần sài, cài cúc áo và nhét vạt áo vào trong quần. Rồi cô vừa đi sandal vừa đóng cúc quần và bẻ thẳng cổ áo. Cào sơ qua mái tóc đen cắt ngắn và…
“Trông tôi thế nào?”
Trên mặt Simon hiện lên một vẻ kỳ lạ, và trước câu hỏi của cô anh mới giật mình chú ý, rồi hơi nheo mắt. “Cô cần một chiếc thắt lưng.”
“Không cần đâu.”
“Có đấy. Vì Clayton Alan Quinn đến từ Grosse Pointe, Michigan, nên cô nhất định phải mang thắt lưng.”
“Vậy thì tốt nhất anh hãy cho tôi mượn thắt lưng của anh, bởi tôi không hy vọng tìm được thắt lưng của mình trong mấy phút đâu.”
“Nó quấn được hai vòng quanh eo cô đấy,” Simon phản đối.
Frankie chìa tay ra. “Cứ đưa tôi đi.”
Simon bắt đầu tháo chiếc thắt lưng da màu nâu của mình. “Nếu tôi cho cô mượn thắt lưng, cô phải hứa sẽ mặc chiếc váy đen đó trong một ngày gần đây đấy nhé.”
“Vậy nếu anh cho tôi mượn thắt lưng và tôi hứa sẽ không giết anh thì thế nào?”
“Tôi thích điều kiền của mình hơn.” Simon đưa thắt lưng cho cô.
Tuy không đến mức quấn đủ hai vòng quanh eo cô, nhưng cho dù đã cài chặt hết sức, nó vẫn thật lỏng lẻo. Nhưng nomcòn đỡ hơn sơ vin mà không có thắt lưng.
“Chỉ là tò mò thôi, Francine,” Simon
nói, bước đến chặn đường ra khỏi phòng của cô. “Phải làm thế nào thì cô mới chịu mặc cái váy đó?”
Frankie ngẩng đầu nhìn vào mắt Simon. “Có lẽ không phải là làm thế nào. Mà là người nào.”
“Là tôi không được ư?”
Frankie khịt mũi và đẩy anh sang một bên. “Chắc chắn không phải anh.”
Chương hai
“Ngài Quinn, tôi là Frankie Paresky. Xin lỗi vì đã để ngài đợi lâu.”
Simon nhìn người đàn ông to béo nhổm người dậy để bắt tay Frankie qua mặt bàn.
“Cô là Frankie Paresty?” Miệng Clayton Quinn cong lên thành nụ cười.
“Có vấn đề gì ư?” Frankie hơi giương vây khi cả hai ngồi xuống.
“Tôi cứ nghĩ là một người nào đó…”
“Cao hơn?” Simon đỡ lời, đi vào phòng và ngồi xuống chiếc ghế bên cạnh Quinn.
“Già hơn,”Quinn thành thật.
Frankie quay sang Simon. Mắt cô từ
màu nâu ấm áp thoắt cái đã trờ nên băng giá. Ngay cả giọng nói miền Nam nồng hậu dường như cũng lạnh nhạt hẳn. “Simon, tôi dám chắc ngài Quinn sẽ hoan nghênh một chút riêng tư trong buổi gặp này…”
“Quả thực tôi không phiền đâu nếu trợ lý của cô ở lại.”
Quinn tặng cho Simon một nụ cười thân thiện. Ngay từ lúc mở cửa nhà Frankie cho ông ta, Simon đã lập tức thấy mến người đàn ông này. “Thực ra, tôi đến đây để tìm một người, và càng có nhiều người biết chuyện thì tôi càng có cơ hội thành công hơn.”
Simon cảm thấy ánh mắt của Frankie lại chiếu vào mình, và anh biết cô muốn anh ra khỏi đây ngay. Nhưng bây giờ sự tò mò của anh đã nhân lên gấp đôi. Anh muốn biết Quinn đang tìm ai, và muốn xem Frankie Paresty, thám tử tư, làmviệc ra sao.
Phải công nhận rằng trông cô rất ổn. Nếu chỉ vừa mới bước vào phòng, anh sẽ không hề biết cô đang mặc bộ đồ tắmSpeedo và có lẽ dính đầy cát biển bên dưới bộ trang phục chỉnh tề nghiêm ngắn. Cô vẫn rám nắng và rực rỡ như mọi khi – đôi má và cái mũi thanh tú hơi nhếch hồng hào hẳn lên so với những chỗ khác trên khuôn mặt hình trái tim.
Mái tóc đen cắt ngắn của cô có lẽ vẫn còn vương vị muối, nhưng trông cô như đã dành kha khá thời gian ở trước gương phòng tắm với gel và máy sấy để có được mái tóc bay bay trong gió kia.
Trông cô chuyên nghiệp đến từng centimét, ngay cả tập tài liệu luật màu vàng cô lấy từ ngăn kéo bàn ra cũng sạch sẽ, gọn gàng.
“Trước khi chúng ta đi vào các chi tiết trong vụ của ngài,” cô nói, mở một ngăn kéo hồ sơ ở bàn và lấy ra một thứ trông giống như mẫu hợp đồng, “tôi muốn ngài nắm được mức phí của tôi. Bảy mươi lăm đô la một giờ, một trămđô la cho mỗi giờ phải đi lại và thời gian
nằm ngoài mười hai tiếng trong ngày. Nếu ngài đồng ý ký hợp đồng hôm nay, ngài sẽ phải trả trước một nghìn đô la. Đổi lại, tôi sẽ cung cấp cho ngài bản kê đầy đủ thời gian, công sức, các phí tổn, cộng với tất cả thông tin tôi thu nhập được trong quá trình điều tra.”
Clayton Alan Quinn rút cuốn séc ra, không hề chớp mắt. “Tôi sẽ trả trước cho cô năm nghìn,” ông ta nói, “bởi vì tôi ngờ rằng cô sẽ không thể tìm ra người tôi muốn tìm trong ngày một ngày hai. Thật ra, nếu cô xoay sở hoàn thành công việc trong vòng một tuần, tôi sẽ thưởng thêmcho cô mười nghìn đô la.”
Simon nghe giọng Frankie run lên,
nhưng khẽ đến mức có lẽ Quinn không nhận thấy. “Nếu như chưa đầy một tuần tôi đã làm xong việc thì sao?
Quinn cười vang. “Chúng ta sẽ đàmphán sau.”
Frankie gật đầu. “Cụ thể là ngài muốn tìm ai, ngài Quinn?”
“Clay,” Quinn sửa lời cô với một nụ cười khi xé tờ séc từ cuốn séc bìa da và đặt lên bàn trước mặt cô. “Xin hãy gọi tôi là Clay. Tôi đang tìm một người tên John.”
Frankie cất tờ séc vào ngăn kéo trên cùng của bàn, thậm chí không hề nhìn sang phía Simon. Anh biết rằng mười
nghìn đô la đã nhiều hơn một nửa thu nhập năm ngoái của cô. Sao cô có thể ngồi đó và nói về mười nghìn đô la tiền thưởng với gương mặt điềm nhiên như không vậy nhỉ?
Nhưng Clay có vẻ tin tưởng rằng cô xứng đáng với nó. Cuộc kiểm nghiệmthực tế sắp bắt đầu – khi cô buộc phải giải quyết vụ này. Trong chưa đầy một tuần.
Simon nhìn cô viết một ghi chú lên tập giấy. John. Cô ngẩng nhìn Quinn, đôi mắt đen sâu thẳm mở to. “John… gì cơ ạ?”
Clay cười buồn bã. “Vấn đề là ở chỗ
ấy. Tôi không biết họ của người đó.”
Frankie ngả người vào lưng ghế. “Có lẽ ngài nên giải thích.”
“Tôi là người thi hành di chúc của bà trẻ tôi. Bà ấy có một ngôi nhà nghỉ ở Sunrise Key này.”
Frankie liếc nhanh sang Simon, và anh biết cô đang nghĩ gì. Cả hai đều biết tất cả những người có cơ ngơi trên hòn đảo nhỏ bé này, và tất cả họ đều đang sống khỏe mạnh. Trừ một người…
”Có phải bà trẻ của ngài là Alice Winfield?” Frankie hỏi, ngồi thẳng dậy.
“Đúng vậy.”
“Nhưng bà ấy đã mất hơn tám nămtrước. Chúng tôi còn cho rằng nhà cửa của bà ấy đã sang tên đổi chủ…”
“Tám năm trước bà đã bị một cơn đột quỵ nặng,” Clay nói với Frankie. “Bà chưa bao giờ hồi phục hẳn, và cuối cùng đã ra đi vào tháng trước.”
“Bà ấy vẫn còn sống cho đến tháng trước ư?” Frankie nhìn Quinn chầmchậm như thể ông ta là hiện thân của ác quỷ chứ không phải người đàn ông vừa đưa cô năm nghìn đô la trả trước. “Sao không một ai ở Sunrise Key được biết? Bà Alice Winfield có nhiều bạn bè ở đây, ngài Quinn – chí ít họ cũng muốn
viết thư hỏi thăm bà!”
Clay giơ cả hai tay lên như để tránh một đòn tấn công tiềm ẩn. “Tôi xin lỗi, tôi thậm chí còn không biết bà Alice có một ngôi nhà ở dưới này cho đến sau khi bà qua đời.”
Frankie quay sang Simon, và anh thấy mắt cô đang rưng rưng. Trời, cô đúng là một quả cầu lửa dễ xúc động. Từ xưa đến nay vẫn thế. Dễ buộc tội, dễ lao vào thử thách, dễ tranh cãi, dễ tấn công. Nhưng cũng dễ dàng tha thứ và bỏ qua.
Nhìn đôi mắt nâu ươn ướt của cô, Simon tự hỏi – không phải lần đầu tiên – rằng Frankie sẽ như thế nào khi ở trên
gường. Không phải lần đầu tiên ư? Khỉ thật, thậm chí không phải lần đầu tiên trong ngày hôm nay. Làm tình với Frankie Paresky sẽ ra sao là điều anh cứ tự hỏi gần như mỗi ngày suốt mười hai năm qua. Và gần đây tần suất tự hỏi của anh có vẻ càng lúc càng thường xuyên hơn. Như lúc cô làm anh giật mình khi cởi bỏ quần áo ngoài chỉ để lại đồ tắmtrên người trước mặt anh, hay cách cô trèo lên tầng hai chưa đầy vài phút trước. Như lúc anh nhìn thấy cô đi về phía anh trên đại lộ Ocean, hay khi cô nở nụ cười tươi rói với anh. Khi anh nghe thấy âm thanh khàn khàn trong tiếng cười hay giọng nói miền Nam lên bổng xuống trầm êm dịu của cô. Khi anh thức giấc
vào buổi sáng. Khi anh chìm vào cơn mơ buổi tối…
“Anh có nhớ bà Alice Winfield không, Si?” cô hỏi.
Anh có thể hình dung ra cô đang mặc chiếc váy đen gợi cảm đó, chất vải mềmôm sát thân hình uyển chuyển – một thân hình tuyệt mỹ mà cô luôn che giấu kỹ càng trong những chiếc áo phông lùng thùng, quần soóc ống rộng và những bộ đồ tắm liền mảnh tiện dụng. Anh có thể hình dung ra cô không một mảnh vải che thân – với khuôn miệng đầy khao khát, những ngón tay lùa trong tóc anh, cơ thể háo hức chờ đợi…
“Có,” anh hắng giọng và hơi ngọ nguậy trên ghế. “Alice Winfield, tất nhiên là tôi nhớ bà ấy.” Đúng hơn là, anh nhớ bà ấy có một ngôi nhà kiểu Victoria trên đường Pelican mà anh ngờ rằng toàn chứa đồ nội thất cổ hoàn hảo được giữ gìn cẩn thận – một miếng mồi béo bở đối với những tay buôn đồ cổ như anh. Anh luôn muốn vào trong ngôi nhà đó ghê gớm. Tốt hơn là nên nghĩ về điều đó, đừng mê mải với những ý nghĩ gợi tình điên rồ nữa. “Bà ấy là giáo viên tiểu học phải không?”
“Tôi hay ghé qua giúp bà ấy dọn cỏ trong vườn,” Frankie nói. “Tôi chăm sóc khu vườn cho bà ấy vào mùa hè, khi bà ấy đi lên miền Bắc. Bà ấy là người phụ
nữ đôn hậu và tử tế nhất. Giá như tôi biết bà ấy vẫn còn sống, tôi đã giữ liên lạc với bà ấy rồi.”
“Tôi không biết về bà tường tận đến thế,” Clay Quinn thú nhận. “Nhưng hình như người chồng quá cố của bà đã để lại cho bà một gia tài kết xù, và bà đã đầu tư nó thành công. Tiền bạc của bà rất dư dả, và bà khá hào phóng phân phát cho họ hàng. Bà không có con cái gì cả, cô biết đấy.”
Frankie gật đầu, tập trung hoàn toàn vào Quinn.
Simon phát hiện mình lại đang nhìn cô chằm chằm. Khỉ thật, anh bị làm sao
vậy? Dĩ nhiên cô cực kỳ xinh đẹp – cho dù cô thường ăn mặc như một phu khuân vác. Nhưng thế thì sao nào? Ngay lúc này có tới hàng trăm phụ nữ xing đẹp đang đi lại ngoài bãi biễn hình trăng lưỡi liềm của Sunrise Key kìa. Và có lẽ đó chính là vấn đề của anh. Có lẽ chỉ vì lâu rồi anh chưa mời ăn tối – và tán tỉnh – một vị khách đáng yêu nào đến hòn đảo này. Tối nay anh sẽ đến nhà hàng nằmtrong khu resort, tìm cho mình một cái hẹn ăn tối, và không nghĩ ngợi gì về Frankie Paresky nữa.
“Alice viết trong di chúc là bà sẽ để lại tài sản ở Sunrise Key cho một người tên John,” Quinn nói. “Trong khoảng thời gian cuối những năm bảy mươi đầu
những năm tám mươi, mùa xuân nào người đó cũng về nghỉ ở đây hai tuần lễ. Theo lời bà Alice, ông ấy thuê một ngôi nhà gần nhà của bà ở đường Pelican. Hình như trong lúc vợ ông ấy thư giãn ngoài bãi biển, ông ấy thường giúp bà Alice những việc vặt và sửa mấy món đồ hỏng hóc. Bà biết rằng ông ấy chưa bao giờ lấy một đồng nào cho tất cả những công việc đã làm cho bà, và thường sang chơi nhà bà vào buổi tối để đánh bài tay đôi với bà. Alice không nhớ rõ bà có biết họ của ông ấy hay không. Bà nghĩ vợ ông ấy tên là Lynn hay Lana gì đó, và họ có một cậu con trai có biệt danh là Biff hoặc Buzz hoặc…”
“Jazz?” Frankie hỏi.
Simon không nén được cười. Ai mà ngờ được? Có lẽ ý niệm Frankie Paresty làm thám tử tư không đến nỗi quá vô lý. Xét cho cùng, cô biết tất cả mọi người trên đảo – và hình như cả những người đã từng ghé lại đảo này nữa.
“Tôi biết một chàng trai tên Jazz vẫn hay về nghỉ xuân ở đây trong nhiều năm,” Frankie nói tiếp. “Lần đầu tiên tôi gặp anh ấy là khi, tôi cũng không chắc lắm, có lẽ khi tôi mười hai tuổi. Lần cuối cũng tôi nhìn thấy anh ấy là năm tôi mười tám tuổi. Anh ấy từ trường đại học về đây vào kỳ nghỉ - hình như là đại học Boston thì phải. Gia đình anh ấy luôn thuê một ngôi nhà trên đường Pelican.”
“Không thể tin cô lại nhớ được một anh chàng chỉ ở đây hai tuần mỗi năm,” Simon nói.
Frankie liếc anh một cái thật nhanh. “Jazz… là người không dễ gì quên được. Tôi không nhớ họ của anh ấy, nhưng chắc chắn tôi đã ghi lại ở đâu đó.”
Jazz, cái tên này – và vẻ mặt của Frankie – đột nhiên khơi lại trong Simon những ký ức về một thiếu niên cực kỳ đẹp trai với mái tóc nâu vàng và vóc người săn chắc như một vận động viên marathon. Thực ra anh có thể tưởng tượng ra cảnh Jazz đang chạy dọc bãi biển, tay trong tay với Frankie, cười
vang, thở hổn hển và ngã nhào xuống bãi cát để hôn cô – những nụ hôn dài, chậmvà sâu khiến chỉ nhìn thôi cũng làm timngười ta ngừng đập. Và chỉ có Chúa mới biết là Simon đã nhìn thấy. Đó là mùa hè Frankie bước sang tuổi mười tám – lúc Simon nhận ra cô bạn thân của em gái anh từ một cô bé lôi thôi lếch thếch đã lột xác thành một mỹ nhân. Anh đã không thể rời mắt khỏi Frankie – ngay cả khi cô ở bên Jazz.
Simon đã mời Frankie đi chơi vào mùa hè đó, nhưng hình như cô chẳng để ý đến anh. Cô chỉ nghĩ đến tên Jazz khó ưa nọ - cho dù thằng nhóc đã đi khỏi đảo được gần hai tháng.
“Cô định bắt đầu tìm kiếm từ chỗ đó sao?” Quinn hỏi. “Từ cậu con trai ấy?”
“Tôi nghĩ chúng ta buộc phải làmthế,” Frankie nói với ông. “Nếu tôi nhớ không nhầm, thì Jazz sống với mẹ và bố dượng. Nếu bố dượng của Jazz quả thực là người chúng ta đang tìm kiếm, thì John và Jazz sẽ không cùng một họ.” Cô lấy một cặp hồ sơ từ ngăn kéo và viết chữ “Quinn” lên nhãn. “Tôi cũng sẽ đến hỏi một người bạn làm ở văn phòng nhà đất. Sự việc diễn ra cách đây mười hoặc mười hai năm rồi, nhưng có thể cô ấy có sổ sách ghi chép tiền thuê của những ngôi nhà trên đường Pelican thời đó. Có lẽ ta sẽ tìm ra họ của John theo cách ấy.”
Quinn gật đầu. “Tôi sẽ ở tại khu resort Seaholm cho đến khi chuyến bay của tôi cất cánh vào tối mai. Nếu cô tìmhiểu được gì, xin hãy cho tôi biết.”
“Ngài đi sớm thế ư?”
Ông ta cười buồn. “Đáng ra tôi có thể tranh thủ nghỉ ngơi. Nhưng rủi thay, công việc ở nhà còn đang chất như núi đợi tôi giải quyết. Thậm chí tôi còn không có thời gian gọi cho cô trước khi rời Michigan. Tôi xin lỗi vì đã đến mà không báo trước.”
Frankie xếp những ghi chú vào cặp file rồi đóng lại. “Không sao đâu ạ.”
Clay Quinn liếc nhìn chiếc đồng hồ
Rolex trên tay. “Cô gọi hộ tôi một chiếc taxi được không?”
Frankie cứng người. “Umm…”
Simon biết cô đang nghĩ gì. Cô đang nghĩ đến chiếc taxi duy nhất trên đảo hiện đậu ở khu nhà kế bên. Cô đang nghĩ cho dù có chạy lên lầu và thay lại cái áo phông, quần soóc và mũ bóng chày, thì lần này cô cũng không thể nào che mắt được ông Quinn.
Simon đành làm người giải cứu cho cô. “Xe jeep của tôi đỗ ngay bên ngoài. Sao ngài không để tôi chở ngài đến khu resort?”
“Ồ, cảm ơn anh, thế thì còn gì bằng.”
Quinn đứng dậy, thu thập hành lý và áo mưa. Ông quay lại nhìn Frankie. “Suýt nữa quên mất – sáng mai tôi sẽ đến ngôi nhà trên đường Pelican, cô có muốn đi cùng không? Tôi không dám chắc sẽ có manh mối, nhưng biết đâu đấy?”
“Mấy giờ ạ?” Frankie hỏi.
“Chín giờ.”
“Tôi sẽ gặp ngài ở đó.”
“Cả tôi nữa.” Simon nói.
Frankie mỉm cười ngọt ngào với Simon. Quá đỗi ngọt ngào. “Anh vào trong với tôi một lát được không?” Cô quay sang Clay. “Xin phép ngài nhé?”
“Được thôi.”
Simon theo Frankie ra hành lang và xuống bếp, rồi nhìn cô khi cô đóng cửa xoay lại sau lưng.
“Tôi cảm ơn anh đã cho ông Clay Quinn đi nhờ về khu resort.” Cô hạ giọng nói, “và tôi sẽ mãi mãi yêu mến anh vì đã đến đây giúp tôi chiều nay, nhưng anh không phải là trợ lý hay cộng sự gì gì khác của tôi. Tất nhiên trừ khi anh muốn giúp tôi một công việc kém hấp dẫn hơn – như tra cứu sổ sách văn phòng nhà đất chẳng hạn…?”
“Chín giờ sáng mai, cánh cửa ngôi nhà số sáu trên đường Pelican sẽ được
mở lần đầu tiên sau nhiều năm.” Simon cũng gắng hạ thấp giọng, nhưng không thể giấu nổi sự phấn khích. “Thử nghĩ đến những báu vật có thể có trong đó xem!”
“Có thể chẳng có gì ngoài đồ bỏ đi, Si ạ.”
“Có thể có những món đồ vô giá. Có thể có những món đồ mà khách hàng của tôi đang tìm kiếm.”
“Và tất cả chúng thuộc về con người bí ẩn tên John này,” Frankie chỉ ra.
“Khi nào cô tìm ra ông ta,” Simon nói, “tôi sẽ thuyết phục ông ta bán cho tôi đồ nội thất cổ của bà Alice Winfield.”
Frankie nhìn anh, ánh mắt thật khó đoán định. Cô đang nghĩ gì nhỉ? Với những phụ nữ khác, anh có thể đọc tâmsự họ như một cuốn sách. Nhưng còn Frankie… cô đúng là một bí ẩn.
“Nghe này.” Simon hy vọng giọng anh không tuyệt vọng như anh cảm nhận. “Tôi chỉ muốn vào trong ngôi nhà đó và nhìn ngó một chút thôi. Sáng mai hãy cho tôi đến đấy cùng cô đi, và chúng ta sẽ chẳng nợ nần gì nhau nữa. Đôi bên cùng có lợi mà.”
Cô không nói lời nào. Chỉ nhìn anh.
“Thôi được,” anh nói. “Tôi cũng sẽ đến văn phòng nhà đất với cô chiều nay,
giúp cô kiểm tra sổ sách tiền thuê nhà. Thế là chúng ta sẽ thực sự sòng phẳng nhé.” Anh dừng lời. “Vậy được chưa?”
Frankie mỉm cười. “Tôi tự hỏi, nếu tôi cứ đứng ì ra đây, chẳng nói năng gì, thì đến cuối cùng liệu anh có đưa tôi giấy tờ nhà anh không.”
“Tôi chỉ nghĩ ngó nhà bà Alice Winfield một cái thôi cũng phải đánh đổi bằng giấy tờ nhà của mình,” Simon nói, “nhưng tôi sẽ rất cảm kích nếu cô cho tôi ít phút để nghĩ thấu đáo.” Anh ngừng lại trong một phần mười giây. “Được, tôi sẽ gán thêm cả cái đó nữa.”
Frankie phì cười, lắc đầu. “Không thể
nào từ chối anh được.”
“Mới vài phút trước cô làm điều đó rất tốt còn gì.”
Frankie đẩy cửa bếp, ra hiệu cho anh đi ra trước. “Tôi sẽ gặp anh ở văn phòng nhà đất trong nửa giờ nữa.”
Chương ba
“Mãi đến năm 1989, những số liệu về tiền thuê nhà mới được lưu vào máy tính,” Maia Fox nói với Frankie, lấy xuống những hộp hồ sơ bám đầy bụi bặmtừ các kệ lưu trữ dưới tầng hầm của văn phòng nhà đất. Cô mang một hộp ra cái
bàn lớn kê bên dưới dãy đèn huỳnh quang sáng trưng. Một máy phô-tô để sẵn bên cạnh. “Người chủ trước đã tự tay ghi lại tất cả vào sổ sách. Hộp này đựng sổ sách từ năm 1971 đến 1975. Tôi không rõ chúng đầy đủ đến mức nào hay có những thông tin cô cần không. Nhưng nếu ngôi nhà được thuê thông qua văn phòng này, ắt sẽ có số liệu giao dịch thanh toán trong đây. Những cuốn từ năm 1976 đến 1980 và từ 1981 đến 1985 thì ở đằng kia.”
“Cảm ơn chị, Maia,” Frankie nói với người quản lý văn phòng nhà đất có gương mặt dễ mến.
“Nếu cô cần gì khác thì cứ cho tôi
biết nhé,” Maia mỉm cười nói. Nụ cười của cô lập tức nhạt đi khi trông thấy Simon. Cô khẽ khịt mũi rồi leo lên những bật thang ọp ẹp của tầng hầm.
Frankie quay sang Simon, một bên lông mày nhướng lên.
Simon mở hộp hồ sơ ra và rút ra cuốn sổ kế toán đầu tiên, giả bộ chăm chú vào cái bìa giả da của nó.
“Anh có định nói cho tôi biết chuyện đó là thế nào không?” Frankie hỏi. “Hay tôi phải tự đoán mò?”
Simon biết không thể giả ngây được nữa. Anh cười thiểu não. “Cô ấy chưa tha thứ cho tôi.”
“Tôi hỏi lý do được không?”
“Vài năm trước chúng tôi từng có một mối quan hệ ngắn ngủi.”
“Ôi, Simon, không phải chứ?”
Simon trông thật dễ thương khi xấu hổ. “Cô ấy xuất hiện với món thịt hầm và sự an ủi sau đám tang của ba tôi. Tôi đã suy nghĩ không được sáng suốt cho lắmkhi bỏ qua món thịt hầm và đón nhận sự an ủi. Tôi nên chọn thứ kia mới phải, bởi vì cô ấy đang tìm kiếm một điều gì đó mang tính lâu dài. Tôi có thể lấy cái cớ quẫn trí nhất thời do buồn đau để bao biện cho cảm giác tội lỗi, nhưng đó là sự thật, lẽ ra ngay từ đầu tôi phải nhận ra
rằng Maia là một sai lầm.”
“Còn ai ở thị trấn này mà anh chưa ngủ cùng không?” Frankie hỏi. “Thôi…quên chuyện đó đi. Tôi thực không muốn biết đáp án đâu.”
Cô ngồi xuống và bắt đầu đọc lướt qua cuốn sổ thứ hai. Các trang được sắp xếp theo thứ tự từng tháng. Tên những ngôi nhà thuê nằm ở cột bên trái. Có bốn ngôi nhà trên đường Pelican được thuê đều đặn. Và – đây rồi! – tên của những người thuê nhà, địa chỉ, và số điện thoại được viết bằng nét chữ thanh mảnh ở hàng cột bên phải.
“Chúng ta sẽ tiến hành như sau,” cô
nói. “Ta sẽ photo lại các trang có ghi chép về bất kỳ ngôi nhà nào được thuê trên đường Pelican từ tháng Hai đến tháng Năm. Sau đó dùng bút vàng đánh dấu những dòng có tên đường Pelican trên bản photo và đảm bảo rằng thời gian thuê nhà phải rõ ràng trên trang giấy. Và nếu thấy có người thuê nhà nào tên John thì hãy đánh dấu đỏ.”
“Cô biết không, Francine, tôi không ngủ với hết thảy mọi người trong thị trấn.”
Frankie ngẩng lên. Simon vẫn đứng ở chỗ cũ, cầm cuốn sổ cái, gương mặt nghiêm túc và nhìn cô đăm đăm. Cô đứng dậy và đi tới máy photo, đặt trang
giấy lên mặt kính, đóng nắp lại, rồi nhấn nút Start.
“Nếu có thì cũng không phải việc của tôi.”
“Tôi biết có vẻ như tôi lợi dụng phụ nữ…”
“Có vẻ như? Điều gì đó mách bảo tôi rằng Maia sẽ cười lớn nếu chị ấy nghe anh nói vậy.”
“Không,” Simon phản đối. “Ít nhất tôi cũng không có ý định đó. Tôi chưa bao giờ hứa hẹn với bất cứ người nào – và chắc chắn tôi không hứa hẹn gì với Maia cả. Lạy Chúa, không phải cô ấy không biết về tôi. Chẳng lẽ cô ấy thực sự nghĩ
rằng một đêm với cô ấy sẽ làm cả cuộc đời tôi thay đổi ư?”
“Phải,” Frankie châm biếm. “Có thể chị ấy nghĩ thế thật. Và tôi ghét phải truyền đạt lại cho anh, nhưng có lẽ ngoài kia không chỉ có một người phụ nữ coi những hành động của anh là những hứa hẹn không lời đâu.”
“Những hứa hẹn không lời?” Simon cáu tiết bật ra một tiếng cười ngắn. “Ồ, đó là vấn đề của bọn họ.”
“Nó cũng là vấn đề của anh nữa.” Frankie lật cuốn sổ và tìm tháng Năm. “Maia nghĩ anh là loại đàn ông chuyên thất hứa. Tôi chắc chắn không phải mình
chị ấy có suy nghĩ này đâu.”
Máy photo lại kêu vo vo.
Simon lắc đầu. “Nếu tôi hứa chung thủy, thì tôi sẽ làm thế. Nếu tôi cầu hôn một người phụ nữ, tôi sẽ giữ trọn những lời thề thiêng liêng đó.”
Đôi mắt xanh của anh rực lên mãnh liệt, và Frankie nhận ra cô đang tin anh. Tất nhiên là cô tin anh. Simon sẽ giữ những lời hứa. Song riêng lời hứa duy trì một mối quan hệ thì anh chưa bao giờ đưa ra, trong cả triệu năm nữa cũng không.
“Tôi chỉ chưa gặp được người phụ nữ nào khiến tôi muốn chung sống trọn đời,”
anh nói tiếp. “Chưa có mối quan hệ nào khiến tôi cảm thấy… chà, biết nói thế nào nhỉ… mình không bị mắc bẫy.” Anh nhìn xuống cuốn sổ vẫn cầm trên tay và hắng giọng. Frankie nhận ra mình vẫn đang nín thở, chờ nghe điều anh buộc phải nói. “Ai cũng nghĩ tôi chỉ thích vui vẻ chơi bời, nhưng cô biết không, tôi chẳng thấy vui thú chút nào cả. Tất cả bạn bè tôi đều lần lượt lập gia đình và sinh con đẻ cái, còn tôi vẫn đang hẹn hò với những cô em gái của họ. Với cái đà này, có khi chẳng mấy chốc tôi sẽ bắt đầu hẹn hò với con gái bọn họ. Tôi mệt mỏi rồi, Frankie ạ. Nhưng mỗi khi ở bên một người phụ nữ, tôi lại tự hỏi liệu cô ấy có phải người mình đang tìm kiếm không,
rồi tôi nghĩ ra một danh sách dài cả mét liệt kê những lý do tôi nên quay đầu bỏ chạy. Thế là tôi chạy.”
Simon ngẩng lên nhìn cô, chờ một phản ứng nào đó, muốn nghe ý kiến và lời khuyên của cô. Kỳ lạ thay – Frankie biết Simon từ hồi gia đình anh chuyển tới đảo khi anh còn là một thiếu niên. Nămtháng trôi qua, cho dù cô là bạn của Leila em gái anh, nhưng họ có khá nhiều lần bộc bạch tâm tư với nhau như thế này, và Frankie chưa bao giờ hết ngạc nhiên trước sự chân thành và tin tưởng Simon đặt vào tình bạn với cô.
Cô biết chắc rằng những cuộc trò chuyện của anh với cô bạn gái mới đây,
dù cô ta là ai chăng nữa, cũng không sâu sắc đến mức này. Tuy nhiên, mỗi khi Frankie nhìn thấy anh tán tỉnh cô bạn gái đi cùng trong một nhà hàng đông đúc, nâng tay cô ấy lên môi mình, hay khi anh đưa một cô gái trẻ đáng yêu nào đó trong điệu slow ở quán Rustle Hideout – cô lại nguyện đánh đổi những cuộc tâm tình để lấy một chút thân mật về thể xác như thế.
Nhưng từ giờ sẽ không như vậy nữa, Frankie nhắc nhở mình. Cô được thuê để tìm Jazz. Phải chăng là số mệnh run rủi? Cô sẽ được trả thù lao – một khoản thật hậu hĩnh – để tìm ra chàng trai năm xưa mà cô không cách nào quên được.
Nhưng nếu Jazz khó quên đến vậy, thì vì sao cô cứ bị hớp hồn bởi vẻ ngoài hoàn hảo của Simon, với gò má thanh tú và sống mũi thẳng, với đôi mắt xanh sáng ngời và đôi môi duyên, với mái tóc vàng dày dặn và thân hình đầy sức hấp dẫn kia…?
“Có lẽ anh phải ngừng cho rằng mình bị mắc bẫy đi.” Cô nói, dứt ánh mắt khỏi anh. “An toàn là một từ hay hơn nhiều đối với một mối quan hệ lâu dài. Và nếu anh trân trọng những gì anh có hơn là cái không thể có…”
“Nói thì bao giờ chẳng dễ hơn làm.” “Anh biết không, tôi đoán anh sẽ gặp
một người phụ nữ mà anh không thể sống thiếu được,” Frankie nói. “Chỉ cần nhìn cô ấy một lần thôi, anh sẽ nhận ra ngay rằng cô ấy chính là tri kỷ của anh, và anh sẽ hứa tặng cô ấy cả mặt trăng, mặt trời.”
“Tri kỷ ư? Cô lãng mạn hết thuốc chữa rồi đấy, Paresky ạ. Chà, ai lại đi nghĩ như thế?”
Frankie quay lại với máy photo, mở nắp và lật trang sổ. Cô nhấn nút Start và chiếc máy kêu lạch xạnh. “Lãng mạn thì sao chứ?”
Simon nhảy tót lên bàn ngồi. Frankie đứng quay lưng lại với anh, cần mẫn photo hết trang này đến trang khác của
cuốn sổ. “Kể tôi nghe về gã Jazz cô đang tìm kiếm đi. Tôi thực sự không hiểu cậu ta, nhưng tôi nhớ cô và cậu ta đã từng có một thời nồng nàn say đắm.”
Frankie quay lại nhìn anh, và như thường lệ, đôi mắt cô không đọc nổi. “Tôi chưa bao giờ đi chơi với những đứa trẻ cùng trang lứa tới đây vào các kỳ nghỉ,” cô nói. “Trừ Jazz. Anh ấy khác hẳn bọn họ. Anh ấy là tuýp người đọc văn học cổ điển và xem những bộ phimcó phụ đề. Anh ấy có thể ngâm thơ và chơi piano, và lần nào đi chơi với nhau, anh ấy cũng hái tặng tôi một bó hoa dại. Tôi chưa từng biết người nào như anh ấy.” Cô mỉm cười. “Anh ấy là lần đầu tiên của tôi.”
"""