"Nỗi Niềm U Minh Hạ - Võ Đắc Danh full mobi pdf epub azw3 [Bút Ký] 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Nỗi Niềm U Minh Hạ - Võ Đắc Danh full mobi pdf epub azw3 [Bút Ký] Ebooks Nhóm Zalo Thông tin ebook Tên truyện : Nỗi Niềm U Minh Hạ Tác giả : Võ Đắc Danh Thể loại : Bút ký Nhà xuất bản : Trẻ Ngày xuất bản : Tháng 01/2008 Số trang : 180 Kích thước : 14 x 20 cm Trọng lượng : 200 g Số quyển / 1 bộ : 1 Hình thức bìa : Bìa mềm Giá bìa : 30.000 VNĐ ---------------------------------- Chia sẽ ebook : http://downloadsachmienphi.com/ Tham gia cộng đồng chia sẽ sách : Fanpage : https://www.facebook.com/downloadsachfree Cộng đồng Google : http://bit.ly/downloadsach Mục Lục Giới thiệu Hồ sơ một vết thương Nhật ký tình người Giữa hai dòng mặn ngọt Thư viết từ đất Mũi Nồi cháo trắng Nỗi niềm U Minh Hạ Dưới chân đài tưởng niệm Đau thương trên đất Cà Mau Nơi ấy bây giờ Giới thiệu "Viết đúng và viết hay là yêu cầu nghiêm khắc của bạn đọc đối với người cầm bút. Nhưng đôi lúc, do nguyên nhân nào đó, tác giả chưa thể viết hay được, thì chí ít: cần viết đúng. ViẾt đúng là bảo toàn sức mạnh văn học và thể hiện nhân cách tác giả. Chúng ta đều biết rằng muốn viết đúng phải “đánh đổi”, phải vượt qua rất nhiều, hoặc vượt qua hết thảy, để đường hoàng bày tỏ với bạn đọc những gì thuộc về cuộc sống - mà số đông cho là Chân lý. Nỗi niềm U Minh Hạ của Võ Đắc Danh, với tôi; đạt được cả hai - Tác giả tập bút ký này viết rất hay và viết đúng! Trong một gian phòng trên bờ sông Gành Hào, ngọn đèn phát sáng qua những trang bản thảo “gần gũi nhưng lạ lùng” của nhà nghệ sĩ. Tôi say sưa đọc suốt và xúc động bồi hồi với những buồn vui, hoặc suy tư lo lắng của các nhân vật - cũng là nhân chứng lịch sử - mà ngòi bút sắc bén của Võ Đắc Danh đã giúp tôi tiếp cận, sống cùng họ. Tôi muốn chia sẻ… Hầu như những đất cùng người ở bài nào, đoạn nào trong tập sách, tôi đều thân thuộc. Nhưng nhờ cách phản ánh riêng của nhà văn - nhà báo, tôi chợt thấy lại, chợt nhớ ra… Tôi nghĩ: ngần ấy, cuốn sách rất đáng quý - bởi vì tôi tin vào năng lực “thông tấn lành mạnh” nhiều mặt của nó. Tôi tin rằng nó sẽ được bảo tồn từng chi tiết cho ta soi vào quá khứ, để tự hiểu mình phải làm gì cho hiện tại và cho tương lai… Nỗi niềm U Minh Hạ không phải là một nỗi buồn, một ưu tư năm tháng cũ - mà là những kỷ niệm có chua xót nhưng ngọt ngào: bao trùm Tình yêu nhân dân và khao khát đền ơn họ. Không phải tập sách không có những hạn chế, những chỗ dông dài, sơ lược, và có những vấn đề có thể bàn lại với tác giả - nhưng phần này rất ít, chiếm một tỷ lệ nhỏ - nó sẽ được bạn đọc “lướt qua” để đến với những gì lớn hơn…". (Nhà văn Nguyễn Bá). "Qua Nỗi niềm U Minh Hạ, ta thấy bật lên một tâm hồn yêu tha thiết đất đai quê nhà Minh Hải - Cà Mau. Anh viết như nói, nhưng là tiếng nói của một nhà hùng biện. Nó cuốn hút người ta như thể một dòng sông đang cuộn chảy ra biển, để gặp những gì to tác hơn, bao la hơn và mặn nồng tình nghĩa hơn. Đó là những mặn nồng tình nghĩa của một khí chất Nam Bộ, chơn chất, gãy gọn, thỉnh thoảng khôi hài ý vị và một chút bóng bẩy văn hoa. Qua Nỗi niềm U Minh Hạ, ta thấy một Võ Đắc Danh của những con số và những sự kiện, nhưng là những con số và những sự kiện ngoài việc khái quát được vấn đề còn là những nghĩa tình dào dạt ẩn chứa bên trong một nhà báo dũng cảm. Đọc nó, ta như thấy được một Hồi ức làng Che của Nguyễn Đức Thọ hoặc “nổi cộm” hơn là Cái đêm hôm ấy… của Phùng Gia Lộc đã làm xôn xao dư luận một thời. Trong Nỗi niềm U Minh Hạ, ta như sống lại cái thời “người thật việc thật thì ít, người giả việc giả thì nhiều quá” (tr.130), để thấy người nông dân Minh Hải không đầu hàng hoàn cảnh. Họ dũng cảm đứng lên bảo vệ công bằng và lẽ phải. Hơn thế nữa, ta còn thấy ở họ những phẩm chất cao quý của những con người lúc nào cũng muốn làm giàu, làm đẹp cho quê cha đất tổ, để càng yêu họ hơn. Và Võ Đắc Danh đã thành công trong việc tạo cảm tình trân trọng nơi người đọc qua tác phẩm nầy, bởi anh “đã viết đúng và viết hay”, “để đường hoàng bày tỏ với bạn đọc những gì thuộc về cuộc sống - mà số đông cho là chân lý” - như lời ngỏ của nhà thơ Nguyễn Bá cho quyển sách này…". (Phù Sa Lộc - Nỗi niềm U Minh Hạ - Báo cần Thơ). Hồ sơ một vết thương Hồi con gái nó đẹp lắm! Ông già kết thúc câu chuyện bằng giọng buồn buồn, hớp một ngụm trà, ông đưa mắt nhìn về phía vườn cam. - Ngày mai tôi sẽ lên Sở Thương Binh đề nghị làm lại hồ sơ cho nó. Vết thương như vậy mà xếp hạng bốn trên bốn thì thiệt thòi cho con nhỏ. Ông lại im lặng.Tôi chợt nhớ lại lời kể của chị Ba Phần hôm trước. Chị kể: Hồi năm 1968, chị đang nuôi chồng bị thương cột sống ở bệnh viện Cà Mau. Một hôm, bất ngờ chị thấy cảnh sát khiêng từ phòng mổ xuống trại điều dưỡng một tù bình Việt cộng bị còng cả hai chân, người đầy thương tích. Và chị hốt hoảng khi nhận ra, người con gái ấy chính là chị Bảy Lòng, bạn cùng xóm của chị ở Tân Lộc. Nhận mà không dám hỏi han chăm sóc. Mẹ của chị Bảy nóng ruột vào liền bị chúng bắt giam. Từ đó thỉnh thoảng chị Phần lén lút gởi tiền, gởi thức ăn cho chị Bảy. Một lần chị Bảy được thay băng và rửa vết thương, chị Phần trộm nhìn rồi bỏ ra ngoài chỗ vắng ngồi khóc. Chị Bảy bị thương khắp cả người, nặng nhất là ngực dài xuống bàn chân, mất hết phần thịt ở hai bên đùi và vùng âm hộ… Ông già đưa tôi về thực tại bằng giọng buồn buồn: - Tội nghiệp, hồi đi giám định nó còn con gái nên không dám cho bọn đàn ông xem vết thương chỗ ấy… Tôi mời ông già điếu thuốc rồi từ giã ra về. Thành phố Cà Mau chìm trong một buổi chiều nắng đẹp. Chiếc cầu mới cong mình đón từng tốp nữ sinh trong tà áo dài trắng muốt, phất phơ, cứ mỗi con gió lùa qua, các em vội vàng đưa tay giữ nhanh vạt áo, mặt đỏ bừng lên như có ai vừa nhìn trộm mình. Những cử chỉ hồn nhiên đó làm tôi chạnh lòng nhớ đến một vết thương… Người kể chuyện cho tôi nghe hôm nay là đại tá quân đội Nguyễn Hoàng Chi, người quen thường gọi ông là ông Tư Mã, chủ tịch hội Cựu chiến binh tỉnh Cà Mau, nguyên chỉ huy phó chính trị Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Minh Hải. Cuối năm 1967, Tư Mã được phân công về thị xã Cà Mau để tổ chức một đội nữ biệt động thành, một phương án tác chiến có tên gọi rất hấp dẫn là “chiến thuật nở hoa trong lòng địch”. Đặc trưng của chiến thuật này là” lấy yếu đánh mạnh, lấy ít đánh nhiều, độc lập tác chiến” và vũ khí chủ yếu là bom và mìn nổ chậm. Tiêu chuẩn của người chiến sĩ biệt động cũng rất khắt khe, ngoài lòng dũng cảm, gan lì, phong cách nhanh nhạy, táo bạo, trí thông minh để xử lý nhanh các tình huống… còn có một tiêu chuẩn khác cũng không thể thiếu được là sắc đẹp. Bởi vì, sự quyến rũ của nhan sắc sẽ làm cho kẻ thù say mê mà quên cảnh giác. Bảy Lòng là cô gái có đầy đủ các tiêu chuẩn ấy. Giữa năm 1968, đánh trận đầu tiên, Tư Mã triển khai cho hai chi đội gồm bốn người chở hai quả bom nổ chậm được chế tạo từ trái bom lép của giặc, mỗi trái từ năm trăm đến bảy trăm ki-lô-gam. Bằng phương pháp thủ công, bộ đội ta tháo một đầu bom, cài vào đó một kíp nổ và một linh kiện hẹn giờ nổ theo ý muốn. Mỗi trái bom được vận chuyển bằng một chiếc xuồng có trọng tải chừng vài ba tấn. Người ta dùng giây dù cột hai đầu trái bom treo phía dưới lườn xuồng, dòng sợi dây lên phía trên để khi đến điểm hẹn chỉ cần cắt dây là trái bom chìm xuống đáy sông tức khắc. Để ngụy trang người ta chất những bao trấu và lúa lên xuồng sao cho lượng bao tương đương với trọng tải. Những lớp trấu để dưới, lớp lúa trên cùng, xuồng máy cứ chạy ung dung như người ta đang đi chà gạo hoặc bán lúa. Hôm ấy một ngày bình thường như mọi ngày trên sông nước Cà Mau. Cũng vẫn xuồng ghe tấp nập xuôi ngược trên sông, không có ai biết có hai quả bom dưới hai xuồng lúa đang từ từ lao vào thị xã. Một chiếc của anh Sáu Anh và chị Út Hà đi về phía căn cứ hải quân; một của chị Bảy Lòng và bé Trung đi về phía đoàn tàu chiến đang đậu dọc theo ngã ba chùa Bà Thiên Hậu để chuẩn bị cho cuộc hành quân. Bé Trung mười ba tuổi ngồi dưới khoang tát nước làm nhiệm vụ cắt dây khi có lệnh, chị Bảy Lòng lái máy. Đến Giồng Kè, gần thị xã bỗng dưng tắt máy, chị Bảy giật hoài không được. Mấy tên cảnh sát chạy ca nô ngang qua, thấy chị đẹp gái nên chúng dừng lại chọc ghẹo, có một tên muốn lấy lòng người đẹp nên nhảy sang sửa máy, hắn giật thử mấy cái rồi théo nhíp lửa ra rửa xăng, chùi giấy nhám. Máy nổ hắn tán tỉnh lấy oai với đồng bọn. Chị Bảy cũng cười tình, xã giao vài câu rồi cho thuyền chạy tiếp. Xuồng cặp sát đoàn tàu, chị ra ám hiệu cho bé Trung cắt dây. Lúc này trời đang mưa. Một tên lính ngồi trên cabin nhìn xuống nói:” mưa lạnh quá em ơi! Lên đây úm với anh cho ấm”. Chị Bảy nhìn lên cười đáp: “Hổng sao đâu anh, một chút nữa là ấm thôi!”. Chị cho xuồng lao đi, tên lính vẫy tay chào mà không hiểu chị muốn nói gì với hắn. Mặt trời vừa lặn, xuồng ghe trên sông vừa vắng bóng. Hai cột nước dựng lên cùng với hai tiếng nổ long trời lở đất. Mười hai chiếc tàu chìm xuống đáy sông, một chiếc bị ném lên bờ. Sau lễ mừng công hai tháng, Tư Mã triển khai kế hoạch đánh vào kho đạn của ngụy quân bằng mìn nổ chậm. Khác với bom, mìn nổ chậm được chế bằng thuốc nổ TNT, mỗi trái khoảng nửa ký-lô-gam và định giờ nổ bằng sự tương ứng giữa lượng axít thấm qua một xấp giấy. Vì vậy mà cách tính đôi khi không chính xác, dễ xảy ra những trường hợp rủi ro. Và rủi ro đã đến với chị Bảy Lòng. Sáng hôm ấy, trong vai người đi đám giỗ chị đặt quả mìn dưới đáy giỏ xách rồi bỏ vô mấy chục trái quít và mấy ốp nhang. Chị đang ung dung đi trên đường phố, vừa tách ra khỏi dòng người để đi về hướng kho vũ khí thì bất thần mìn nổ… Dấu ấn cuộc đời bắt đầu từ hôm tỉnh dậy, thấy mình nằm trong phòng mổ bệnh viện Cà Mau giữa bầy cảnh sát. Chị nhìn chúng rồi khẽ nhấc đầu lên nhìn xuống thân thể của mình. Chị lại ngất đi. Khi tỉnh lại lần sau, chị mới thực sự biết rằng, tất cả những gì kín đáo nhất, tuyệt vời nhất trên thân thể người con gái của chị giờ đây đã trở thành những vết thương. Năm ấy chị mới tròn hai mươi mốt tuổi. Phẫu thuật xong, chúng còng chân chị rồi chuyển qua trại điều dưỡng. Suốt ba tháng nằm viện, chị phải đương đầu liên tục với những đòn tâm lý của bọn cán bộ chiêu hồi. Song, chị chỉ có một lời khai duy nhất: tên Nguyễn Thị Hà, mười bốn tuổi, mồ côi cha mẹ, trên đường đi bỗng dưng bị thương không biết lý do. Chúng đưa mẹ chị vào, chị không nhìn. Sau khi lành bệnh, chúng giải chị qua Ty cảnh sát để tống giam, hỏi cung và tra điện, chị cũng chỉ có bao nhiêu lời khai đó. Cuối cùng chúng bỏ tù chị mười tám tháng. Bốn tháng nằm viện, mười tám tháng tù, chị lên thêm hai tuổi, cái tuổi mà mọi người đang cống hiến và đang yêu. Nhưng với chị, những vết sẹo thầm kín trong người đã gây ra sự tổn thương khủng khiếp đến tâm hồn và ý chí, ám ảnh cả tương lai, mặc dù nhìn dáng vẻ bề ngoài, chị vẫn còn là cô gái trẻ trung xinh đẹp. Có một anh bộ đội địa phương đem lòng yêu chị, và chị cũng biết rằng mình đã yêu anh. Nhưng chị đã không thể cho ai thì cũng không thể nhận của ai. Và để suốt đời trốn tránh tình yêu, chị cố tạo cho mọi người một sự hiểu lầm về cá tính: cao ngạo, cáu gắt, cộc cằn, gây gổ với con trai… Nhưng nghiệt ngã thay, những lớp diễn ấy, theo thời gian nó đã trở thành tính cách của chị như người diễn viên suốt đời sống trọn với nhân vật của mình. Người thứ hai kể lại với tôi câu chuyện trên đây là anh Sáu Sơn, tức nhà báo Đỗ Văn Nghiệp. Tháng bảy năm 1998, khi tôi còn làm biên tập cho tờ báo ảnh Đất Mũi, tôi có nhờ anh viết một bài cho số báo đặc biệt kỷ niệm ngày thương binh liệt sĩ. Đúng hẹn anh đưa cho tôi bài viết có tựa đề là Bản anh Hùng ca không âm thanh, kể về chị Bảy Lòng. Đọc bài viết của anh Sáu Sơn, tôi thấy chị Bảy bây giờ khổ quá, chị mở lớp học tình thương tại nhà để dạy chữ cho những đứa trẻ không có điều kiện đến trường, chị không ra giá học phí, phụ huynh muốn cho chị bao nhiêu tuỳ ý, ai không cho đồng nào cũng được. Ngoài ra chị ươm giá bán để kiếm sống, vậy mà chị xin một đứa con trai, nuôi nó từ lúc hai tuổi, năm nay nó đã là sinh viên đại học sư phạm Cần Thơ. Không có tiền nuôi con, chị đã cầm cái thẻ thương binh một triệu rưỡi, đóng lãnh một tháng một trăm hai chục ngàn đồng. Anh Sáu Sơn vận động bạn bè xin cho chị Bảy được sáu trăm ngàn đồng, hôm mang tiền vô nhà cho chị, anh mời chị Út Vững, Phó Giám đốc Sở thương binh, chị Út Loan, Phó Chủ tịch Hội chữ thập đỏ, chị Nguyệt Hân, Chủ tịch Hội phụ nữ tỉnh cùng đi với mục đích nhờ các chị ấy xem lại vết thương để nâng bậc thương binh cho chị Bảy. Sau khi dẫn chị vào buồng xem vết thương, lúc bước ra chị nào cũng khóc. Hơn hai năm sau khi đăng bài báo, một hôm, anh Sáu Sơn rủ tôi đi thăm chị Bảy. Chúng tôi đi xe honda đến Cầu số 3 rồi lội bộ theo bờ sông khoảng hơn một cây số thì đến nhà chị. Một gian nhà xiêu vẹo nằm trong vườn tạp, cỏ dại bao quanh. Cách nhà chị một con mương có một căn nhà gỗ bỏ hoang, ván phên bốn bề mục nát, trên cửa có tấm bảng nhà tình nghĩa do ngân sách tỉnh cấp năm 1992,thấy tôi định lấy máy ảnh ra chụp, anh Sáu Sơn giải thích, đó là nhà của bà Tư Thâu, bà mẹ Việt Nam anh hùng, mẹ của chị Bảy Lòng, bà có 4 người con ruột và một người con rể đã hy sinh. Nhà mục không có tiền sửa chữa, tuổi già không ai chăm sóc nên ông bà về Thới Bình sống với người con gái thứ ba, một cán bộ hưu trí. Chúng tôi bước sang nhà chị Bảy, chị đang hì hụi cắt rau muống dưới mương. Gọi là nhà theo cách gọi thông thường, thật ra đó chỉ là cái chòi khoảng bốn chục mét vuông được cất bằng nhiều loại cây tạp trong vườn. Tôi nhìn quanh không có món đồ nào đáng giá năm chục ngàn đồng. Hỏi ra mới biết, cái thẻ thương binh chị cầm hai năm rưỡi nay chưa chuộc được, còn chuyện nâng bậc, hồ sơ đã làm xong hai năm nay nhưng chưa có kết quả gì, có lần chị ra ngoài Sở, người ta nói chị được xếp loại 2/4 nhưng phải chờ trên Bộ ký mới xong. Chị Út Vững có nhã ý đưa chị vào sống ở Trung tâm bảo trợ xã hội, chị có đến đó xem, thấy cái cảnh mỗi người một cái giường tám tấc, không có chỗ cho chị làm bánh bò được mười ngàn, buổi chiều cắt rau muống được bốn ngàn nữa, nhờ vậy mà nuôi thằng nhỏ học đại học suốt bốn năm nay. Chị nói mấy năm trước chị dành dụm mua được bộ cột tràm để cất nhà, nhưng năm đầu tiên thằng Đẳng vào Đại học, phải bán đi, năm sau cầm cái thẻ thương binh, năm sau nữa bán vườn, giờ chỉ còn cái nền nhà trọi lõi. Suốt buổi nói chuyện hầu như chị chỉ kể chuyện thằng Đẳng, chị nói, hè có nó ở nhà vui lắm, buổi sáng ngủ dậy thì nó đã hấp xong thau bánh bò, buổi trưa đi bán về thì nó đã dọn sẵn mâm cơm. Nhiều lúc nghĩ cũng thấy tự hào, mình nghèo mà có con học đại học, vài tháng nữa là ra làm thầy giáo cấp III. Xứ này cũng có nhiều nhà giàu mà con cái họ có làm nên trò trống gì đâu… Cả hai buổi chiều liên tiếp ở nhà chị, mấy lần tôi cố gợi lại chuyện xưa nhưng chị chỉ trả lời qua loa rồi lại quay sang chuyện đứa con trai, tôi chợt hiểu nó đã trở thành lẽ sống duy nhất của chị… Ra về, đầu óc tôi miên man, căng thẳng, khi nghĩ về chị, cả cuộc đời con gái chị đã cống hiến cả sự sống còn cho đất nước. Vậy mà đã 25 năm đất nước thống nhất chị vẫn còn lận đận sống dưới mức nghèo khổ, lại còn chắt chiu nuôi cho xã hội một đứa con-một công dân trí thức. Bất giác tôi nhớ: Có lần đồng chí Đặng Thành Học- Ủy viên ban chấp hành trung ương Đảng- Bí thư thành uỷ Cà Mau nói rằng:”Từ đáy lòng chẳng có ai trong chúng ta không xốn xang, day dứt. Đâu thể kéo dài được nữa tình cảnh một bộ phận người có công với nước, nhà cửa còn rách rưới nghèo nàn. Nó đòi hỏi tất cả mọi người không phân biệt lương hiếu nghĩa bác ái, yêu mến bà mẹ Việt nam anh hùng, thương binh và gia đình liệt sĩ, gia đình có công mà sẵn sàng giúp đỡ, chăm sóc ân nhân dân tộc”. Xin được nhắc lại lời nói đầy tâm huyết này và rất mong tất cả chúng ta hãy xem đây là mệnh lệnh-mệnh lệnh từ trái tim mỗi con người… Nhật ký tình người Khi viết bút ký Hồ sơ một vết thương, tôi không có hy vọng làm thay đổi đời sống của chị Bảy Lòng. Cũng như bao nhiêu lần khác và cũng như bao nhiêu người cầm bút khác, khi nói về số phận của một nhân vật nào đó, tôi chỉ muốn bày tỏ lòng khâm phục và sự đồng cảm, sẻ chia ... Khi Hồ sơ một vết thương được đăng trên báo Văn Nghệ vài hôm thì một buổi sáng thật sớm, nhà văn Dạ Ngân từ Hà Nội gọi điện thoại cho tôi, chị nói vắn tắt : “Chuyện dài dòng lắm, nói trên điện thoại đường dài tốn tiền, em mở E-mail xem đi, chị vừa gởi”. Trên hộp thư điện tử, chị Dạ Ngân báo tin : có một cô sinh viên ở Hà Nội du học ở Anh và được học bổng của Hoàng gia Anh, trong mấy tháng nghỉ hè, cô được giảm bảy mươi phần trăm học phí và cô đã trích trong khoảng tiền ấy để gởi cho chị Bảy Lòng năm triệu đồng, cô xin được giấu tên và yêu cầu cho cô tấm ảnh chụp tác giả trao tiền cho chị Bảy Lòng để cô giữ làm kỷ niệm. Mấy ngày sau, cũng vào một buổi sáng sớm, tôi đang ngồi trên taxi ở thành phố Hồ Chí Minh, chuông điện thoại reo, nhìn số máy hiển thị trên màn hình, tôi biết ngay đó là chị Việt Anh, giám đốc Công ty Thương nghiệp Cà Mau, chị nói : “ Đêm qua nghe nghệ sĩ ưu tú Trần Phương đọc bút ký Hồ sơ một vết thương trong chương trình đọc truyện đêm khuya của đài phát thanh Cần Thơ, xúc động quá ! Chị muốn giúp chị Bảy Lòng một triệu đồng, nhờ em chuyển giùm ...” Hồ sơ một vết thương lần lượt được đăng lại trên báo ảnh Đất Mũi và tạp chí Bông Sen, tôi nhận được nhiều cú điện thoại bày tỏ tình cảm với chị Bảy Lòng. Anh Phạm Công Danh, Thường vụ tỉnh ủy kể lại : hôm mẹ anh bệnh nặng, nhiều bà con ở trong quê ra thăm, anh đọc cho mọi người nghe và họ đã khóc. Anh nhờ tôi dẫn đường để anh tổ chức một chuyến đi thăm và tặng quà cho chị Bảy.Trong tình cảm của mỗi độc giả dành cho chị Bảy, hầu như ai cũng muốn làm một công việc gì đó rất cụ thể. Ví dụ như nhà giáo ưu tú Thái Văn Long - phó giám đốc Sở Giáo dục đào tạo Cà Mau - khi đọc xong anh liền gọi điện thoại cho tôi để căn dặn rằng, khi nào cháu Bình Đẳng ra trường thì báo cho anh biết, anh sẵn sàng nhận cháu về dạy tại Cà Mau để nó có điều kiện chăm sóc cho mẹ nó. Rồi Đại tá Hồ Việt Lắm, giám đốc Công an tỉnh lại gọi điện thoại nhờ tôi xem bên báo ảnh Đất Mũi có ai biết nhà chị Bảy để dẫn đường cho các anh mang quà và một triệu đồng vào giúp chị . Anh Trịnh Thành Tâm, giám đốc công ty trách nhiệm hữu hạn Đại Thành cũng mang đến hội nhà báo năm triệu đồng nhờ anh Sáu Sơn chuyển cho chị . Anh Khải, chủ doanh nghiệp tư nhân Tân Phát nhờ tôi trao cho chị bốn triệu đồng. Anh Năm Hồng, giám đốc Công ty công trình giao thông Cà Mau gọi điện cho tôi biết, chị Bảy Lòng ngày xưa là lính biệt động của anh, anh sẽ gởi cho chị vài triệu đồng. Anh Tám Tấn, giám đốc Công ty vật liệu xây dựng Cà Mau nói khi nào chị Bảy được cất nhà tình nghĩa, anh sẽ tài trợ một số vật tư trị giá khoảng hai triệu đồng ... Một buổi sáng, đạo diễn Nguyễn Trung Hiếu ở Đài truyền hình Cần Thơ nhờ tôi chở anh vào thăm chị Bảy. Trên đường đi, anh nói rằng suốt hai đêm qua, sau khi đọc Hồ sơ một vết thương anh cứ trằn trọc mãi. Anh muốn tiếp cận với chị và quan sát hiện trường để dựng một bộ phim. Tháng chín, tôi đi làm phim Một vùng sông nước ở Năm Căn. Một hôm đang ngồi ăn sáng với đoàn phim thì có điện thoại của chú Ba Thám, bí thư tỉnh ủy, ông nói rằng hôm qua ông đã đọc Hồ sơ một vết thương và ông đã chỉ đạo cho giám đốc Sở Thủy sản lo cho chị Bảy Lòng căn nhà tình nghĩa. Ong bảo tôi nên phát hiện thêm những mảnh đời như chị Bảy để nhà nước có chính sách đền bù xứng đáng. Khi tôi kể lại cuộc đàm thoại cho đoàn làm phim nghe, anh phó quay Huỳnh Lâm – đang là sinh viên trường Điện ảnh – nói : “ Em đã đọc Hồ sơ một vết thương hôm còn ở Sài gòn và em đã có ý định dựng phim chân dung chị Bảy Lòng để làm bài tốt nghiệp. Có những người dù không được tặng danh hiệu Anh hùng bởi nhiều nguyên nhân nhưng thực chất với những chiến công và sự hy sinh thầm lặng ấy đã đủ cho ta tôn vinh họ là người Anh hùng”. Một tháng sau tôi về nhà thì được anh Sáu Sơn cho biết, Đài truyền hình Cà Mau mời anh làm biên kịch và đạo diễn cho bộ phim tài liệu chân dung chị Bảy để dự liên hoan phim vào đầu năm nay. Cùng lúc nầy, anh Chín Khải, giám đốc sở Thủy sản gọi tôi và anh Kiên Hùng qua nhận tiền xây nhà cho chị Bảy. Anh Chín nói tổng số tiền hai mươi tám triệu đồng do Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thủy sản quyên góp. Anh hỏi xây nhà ở đâu ? Tôi sực nhớ ra chị Bảy không có nền nhà. Cái nền đang ở chị đã bán cho người ta trong thời gian nuôi cháu Bình Đẳng học đại học. Đây là một chi tiết quan trọng mà tôi bỏ quên trong bài viết của mình. Anh Kiên Hùng nói để số tiền ấy lại cho sở thủy sản quản lý, khi nào có nền nhà sẽ tính sau. Tôi bàn với anh Sáu Sơn viết giùm chị Bảy một lá đơn xin nền nhà, nhờ chính quyền địa phương và sở Thương binh xác nhận rồi tôi mang sang ủy ban tỉnh trình bày với anh Bảy Diệp, phó chủ tịch, anh Bảy hứa ngay mà không cần phải cân nhắc, đắn đo. Khoảng một tháng sau, vào một buổi sáng, anh Mười Trung, phó giám đốc công ty phát triển nhà gọi điện thoại nhờ tôi cử người dẫn đường cho anh đi thăm chị Bảy. Tôi sang cơ quan nhờ nhà báo Nguyễn Tiến Trình cùng đi với anh. Chiều về, Trình báo lại rằng anh Mười mang vào cho chị Bảy hai triệu năm trăm ngàn đồng và cho chị xem cái nền nhà trên bảng vẽ. Cái nền ở dưới phường 1, cạnh công viên văn hoá, bề ngang bốn mét, bề dài hai mươi sáu mét, trị giá mười cây vàng, công ty phát triển nhà cho một nửa, ngân sách cho một nửa. Chị Bảy mừng đến muốn khóc... Khi tôi viết những dòng nầy thì ngôi nhà của chị đang xây, có nghĩa là tết nầy chị sẽ giã từ căn chòi rách nát, xiêu vẹo giữa đám lau sậy bên bờ sông. Dòng sông đã từng soi bóng một cuộc đời bất hạnh ngày ngày đội thúng bánh bò ra chợ để nuôi đứa con nuôi từ lúc nó còn đỏ hỏn cho đến ngày đội mão cử nhân. Tôi biết ngày chị về nhà mới sẽ chẳng có gì mang theo bởi tôi đã từng quan sát trong căn nhà chị chẳng có vật gì đáng giá năm chục ngàn đồng. Có chăng là vài bộ quần áo, vài cái chén sành, cái nồi sức quai và cái xửng hấp bánh bò đã ám khói với thời gian. Nhưng chị hãy yên tâm, anh Mười Trung nói còn chừa một ít tiền để mua cho chị chiếc giường và bộ bàn ghế, anh Kiên Hùng dự định sẽ tặng chị cái tivi, chị Việt Anh nói sẽ tặng chị cái bếp gas, anh Huỳnh Khánh, giám đốc sở Văn hoá thông tin nói sẽ nhận chị vào làm công việc trồng hoa ở công viên văn hoá ... Chị hãy yên tâm vì cuộc sống còn đầy ắp tình người . Giữa hai dòng mặn ngọt Cách đây bảy năm, tôi có soạn ra một đề cương kịch bản phim tài liệu khoa học với chủ đề: "Bán đảo Cà Mau nhìn từ góc độ nhân văn" gởi cho Sở Khoa học - Công nghệ & Môi trường để đăng ký như một công trình nghiên cứu với hy vọng có kinh phí đầu tư. Một hôm, kỹ sư Ngô Dân, Chủ tịch Hội đồng Khoa học, gọi điện thoại mời tôi đến phòng làm việc của anh uống trà, anh nói : "Tao đã đi nhiều nước trên thế giới, chưa thấy nơi nào có những đặc trưng lạ lùng và độc đáo như xứ sở của mình. Sông ngòi, kinh rạch chằng chịt, một mùa nước mặn, một mùa nước ngọt…". Anh bỏ lửng câu nói để châm trà rồi nhìn tôi và nói tiếp : "Tao rất mê cái đề cương của mày là vì nó liên quan tới những đặc trưng ấy. Tao là dân cơ khí nhưng cũng có tìm hiểu chút ít về tính nhân văn của thiên nhiên. Vì thế nên tao muốn góp với mày một ý nhỏ. Tất cả những dòng sông trên đất nước này chỉ có hiện tượng chung là nước lớn nước ròng. Nhưng xứ sở mình lại có thêm con nước rong và nước kém. Cao điểm của con nước rong diễn ra hằng tháng vào ngày rằm và ngày ba mươi, còn cao điểm của con nước kém là ngày mùng mười và ngày hai mươi lăm, tính theo âm lịch. Đặc biệt là con nước lớn trong con nước rong thì các dòng sông tràn bờ linh láng, còn con nước ròng trong con nước kém thì các dòng sông gần như cạn kiệt, lòi bãi, những con sông cạn thì phơi đáy. Điều ấy đã ảnh hưởng đến tính cách con người. Dân xứ mình sống bộc trực, không khách sáo, hễ chịu chơi là chơi hết mình, chơi phạch ngực. Còn hễ thương nhau là thương hết lòng hết dạ, tình thương lai láng, tràn trề như con nước lớn trong con nước rong. Bởi vậy mà tao cứ nhớ hoài mấy câu thơ của Nguyễn Trọng Tín: Xin cảm ơn con nước ròng sát kiệt, để dòng sông không che đậy lòng mình...". Những điều anh Ngô Dân nói làm cho ký ức tôi càng in đậm hơn hình ảnh của dòng sông thời thơ ấu. Con sông Giồng Bớm nằm giữa đồng Phong Thạnh, nó bắt nguồn từ kinh xáng Phụng Hiệp rồi rong chơi len lỏi giữa cánh đồng hoang. Con sông không có gì đặc biệt nhưng tôi đã lặn hụp ở đó trọn cả tuổi thơ của một đời người. Con sông với hai mùa mặn ngọt, ngược xuôi hai con nước lớn ròng chở nặng phù sa. Mùa nước ngọt, dòng sông trổ một rừng bông súng trắng. Trái giác, bông súng, cá rô tạo thành nồi canh chua miễn phí mà ngon đến tuyệt vời. Đến lúc nước cứng, còn gọi là nước ba chè, tức những ngày giao điểm giữa hai mùa ngọt mặn, cá nước ngọt bị nước mặn đuổi chạy thành bầy, kéo vừa xong tay lưới thì cá lóc, cá trê đã quấn chìm phao. Đến mùa nước mặn, suốt con nước rong, tôi với chiếc xuồng con bơi trên dòng sông đặt cua, giăng lưới, lòng lại nơm nớp đợi con nước ròng trong con nước kém, dòng sông phơi đáy, tha hồ mà hì hục dưới bãi bùn để thụt lịt, mò tôm, bắt cá nâu theo ven đó, thụt cá ngát dưới hang sâu... Hai mươi lăm năm qua, tôi trôi dạt nhiều nơi, sống với nhiều dòng sông khác, nhưng trong ký ức vẫn chỉ một dòng sông thời thơ ấu của mình. Cách đây khoảng hai tháng, có một đêm ngủ trong một khách sạn ở Sài Gòn, bỗng dưng tôi nằm mơ thấy mình trở về thăm dòng sông cũ, và tôi chợt hốt hoảng khi thấy con sông thay đổi đến lạ lùng, dòng nước không còn chảy và màu nước không còn ngầu đục phù sa. Dòng nước cứ đứng trân và màu nước phèn trong nhìn tận đáy, dưới đáy sông toàn lá mã đề, bông súng ma và cỏ lá hẹ bị nhuốm đỏ màu phèn, vài con cá lòng tong lội ngơ ngơ ngác ngác. Thế rồi như một đứa trẻ con, tôi ngồi gục đầu bên bờ sông và khóc mướt, khóc như tiếc thương một dòng sông không còn giống trong ký ức của mình. Sau đó tôi gặp lại lão cùi trong xóm, lão ta giải thích rằng ở ngoài kia, cuối nguồn con sông Phụng Hiệp, người ta đã xây một cái cống to để ngăn không cho nước mặn vào đây, từ đó đến nay dòng sông ngừng chảy. Tôi hỏi: "Ngăn nước mặn để làm gì?". Lão đáp: "Ngăn nước mặn để giữ nước ngọt". Tôi lại hỏi: "Giữ nước ngọt để làm gì?". Lão lại đáp: "Không biết, nhưng hình như từ ngày giữ nước ngọt đến nay con gái ở đây đẹp hơn trước". Tôi định nhờ lão dẫn tôi đi xem vài cô gái để đối chứng thì bài thể dục buổi sáng phát trên loa truyền thanh làm tan biến giấc mơ. Người ta nói giấc mơ chẳng qua là sự phản ánh một cách méo mó những hiện tượng của đời sống ban ngày. Biết thế, có hàng trăm giấc mơ rồi sau đó quên ngay, nhưng chẳng hiểu sao giấc mơ về dòng sông ấy cứ lảng vảng trong tôi cho đến bây giờ. Có một đêm nọ không ngủ được, nằm nghiền ngẫm về giấc mơ rồi nghe nhớ thương dòng sông cũ. Sáng hôm sau, tôi lái xe Honda lên cầu Láng Trâm rồi thuê đò dọc chạy về Giồng Bớm. Không còn nhận ra hình ảnh của con sông xưa, con sông rộng rong chơi giữa cánh đồng hoang thời thơ ấu. Bây giờ nó trở thành con kinh xáng, nhà ngói mọc đỏ đôi bờ. Và cánh đồng Phong Thạnh hàng chục ngàn hecta hoang hóa ngày xưa bây giờ con người đã chia nhau làm chủ, biến thành đất nuôi tôm, kinh xáng cắt ngang xẻ dọc như bàn cờ. Tất cả đều xa lạ, tôi hỏi thăm lão cùi trong giấc mơ hôm ấy, thì ra lão đã qua đời mười mấy năm nay. Tôi tìm đến nhà anh Hai Thái, anh mừng rỡ la lên gọi bà con xung quanh kéo đến. Sau một hồi nhắc lại chuyện xưa, tôi hỏi thăm chuyện làm ăn, anh Thái cho biết, mấy năm qua nhờ nuôi tôm sú, bà con ở đây giàu lên, chín đứa con của anh bây giờ đã có cuộc sông riêng, đứa nào cũng xây nhà ngói rộng thênh thang, có máy phát điện, tivi, đầu máy, vỏ composic, máy đuôi tôm... - Nhưng mà bây giờ khổ rồi chú ạ! - Anh bỗng thở dài - Nhà nước đắp đập, xây cống xung quanh để giữ nước ngọt coi như bít cái đường nuôi tôm, mà đất này thì làm sao trồng lúa, chắc rồi sẽ trả về sự hoang hóa như xưa. Anh Hai Thái chỉ tay xuống dòng sông rồi nói tiếp: - Hồi xưa chú ở đây chú biết, con sông này tôm cá đến cỡ nào, chỉ cần chài vài chài là ăn không hết, vậy mà nước ngọt hai năm nay, bây giờ không còn một con. Tôi ngậm ngùi nhìn xuống dòng sông, nước vàng nhạt màu phèn, dòng nước đứng trân không còn nước ròng nước lớn. Tôi chợt bồi hồi nhớ đến con bìm bịp, chắc những ngày đầu đóng cống, nó đã gọi đến khàn hơi mà không thấy con nước lớn quay về. Hôm sau, tôi lại về thăm cánh đồng Chó Ngáp, cánh đồng hoang nổi tiếng đói nghèo của bao nhiêu thế hệ đi qua. Vậy mà chỉ sau sáu bảy năm con người có sáng kiến đưa nước mặn lên đồng để nuôi tôm sú thì sự nghèo đói đã thuộc về quá khứ, nhà tường mọc trắng hai bên bờ sông, sự đổi đời giống như trong cổ tích. Chị Ba Chí ở ấp Chủ Chọt, xã Ninh Thạnh Lợi, kể với tôi, xứ này ngày xưa hiếm thấy ai đeo một chiếc nhẫn vàng, vậy mà bây giờ, hễ có đám tiệc, mỗi cô, mỗi bà đeo trên người năm bảy lượng. Nhà chị hồi trước nghèo rớt mồng tơi, làm năm mươi công ruộng mà năm nào cũng thiếu ăn. Vậy mà sáu năm nay nuôi tôm, năm nào cũng thu nhập từ hai trăm đến ba trăm triệu đồng. Tôi hỏi chị tích lũy được hai trăm cây vàng chưa, chị cười bẽn lẽn nói: "Làm gì nhiều vậy chú, khoảng một trăm thì có...". Rồi chị chợt buồn: "Nhưng mà hết rồi chú ơi, tôi thu hoạch vụ tôm này là vụ tôm cuối cùng...". Tôi hiểu chị Ba muốn nói gì khi đưa mắt nhìn xuống dòng sông... Nước ngọt về. Dòng nước như sự đói nghèo đè lên sự sống. Nước ngọt về. Đất đai sẽ về lại với hoang vu. Nước ngọt về. Sự đổi đời ở đây như vừa thoáng qua một giấc chiêm bao. Vậy mà dòng nước cứ về, mang theo một quyền lực vô hình không ai dám ngăn cản lại. Tôi chợt nhớ đêm qua ngồi nhậu ở Bạc Liêu, khi bàn tán về chuyện mặn ngọt, một cán bộ tỉnh nói với tôi: "Em không hiểu ngọt hóa để làm gì trong khi cây trái nước ngọt bây giờ rẻ thúi. Cậu Hai em trồng mận đường, hôm rồi hái một cần xé hai người khiêng không nổi nhưng bán chỉ được có năm ngàn đồng. Ông ta buồn quá bỏ vườn đi xuống Năm Căn thuê đất để nuôi tôm". Tôi vội vàng lấy sổ tay ra ghi chi tiết ấy thì anh ta hốt hoảng lên và năn nỉ: "Trời ơi em lạy anh! Anh mà ghi tên em với câu nói ấy lên báo là kể như em mất chức như chơi! Ở tỉnh này không ai dám ủng hộ nước mặn, phản đối nước ngọt cả vì sẽ bị kỷ luật". Những ngày sau đó, thỉnh thoảng xem chương trình thời sự của Đài Truyền hình Cà Mau, tôi bắt gặp những mẩu tin: Huyện Thới Bình, U Minh, Trần Văn Thời, Cái Nước xử lý hàng chục, hàng trăm cán bộ đảng viên và bà con nông dân tự ý đưa nước mặn vào ruộng để nuôi tôm trái phép. Rồi có một đêm nọ, Đài Truyền hình Cà Mau phát đi một phóng sự khá dài phản ánh tình hình nông dân đưa nước mặn vào ruộng để nuôi tôm đã lên cao điểm. Chỉ trong một đêm, tại huyện Thới Bình, hàng trăm người hẹn nhau đi phá đến sáu cái đập cùng một lúc. Sáng hôm sau, huyện phải bỏ ra hàng trăm triệu đồng để đắp lại, và một số người chủ mưu đã bị bắt giam. Điều mà tôi chú ý nhất trong phóng sự này là phát biểu của Bí thư Huyện ủy Thới Bình - anh Nguyễn Quốc Việt - anh khẳng định rằng hành động của bà con không nhằm mục đích chống chủ trương của Nhà nước mà xuất phát từ nhu cầu bức xúc vì chén cơm manh áo. Hai hôm sau tôi hành trình xuống Thới Bình, Việt tiếp tôi tại Văn phòng Huyện ủy với gương mặt còn ẩn chứa những nét lo âu: - Khổ lắm anh ạ! Làm đúng theo chủ trương thì dân đói, còn làm theo ý dân thì chẳng khác nào mình chống lại chủ trương. Từ ngày đưa nước ngọt về đến nay nông dân càng khổ thêm vì hạt lúa đã khủng hoảng thừa. Giá lúa từ sáu mươi ngàn đồng tuột xuống còn hai mươi ngàn đồng một giạ. Hiện nay trong huyện còn ứ đọng trên ba mươi ngàn tấn, bà con muốn bán - dù bán lỗ - để trả nợ ngân hàng, trả nợ vật tư nông nghiệp và để trang trải chi phí gia đình nhưng chẳng ai mua. Giá khóm từ một ngàn hai trăm đồng tuột xuống chỉ còn một trăm đồng một trái. Cây mía từ ba trăm đồng nay chỉ còn một trăm hai mươi đồng một ký... Nói chung tất cả các loại cây trái thuộc hệ sinh thái nước ngọt đều rớt giá thê thảm. Chỉ có con tôm mới có thể mang lại sự đổi đời cho nông dân, đưa họ từ kiếp cơ bần trở thành những nhà giàu có. Nhưng toàn bộ diện tích đất Thới Bình lại nằm trong dự án ngọt hóa bán đảo Cà Mau, trong đó có mười hai ngàn ha đất phèn trũng, hoang hóa lâu đời, mấy năm nay bà con nuôi tôm trúng, thậm chí giàu lên. Bây giờ mình cấm đưa nước mặn vào thì chẳng khác nào trả đất trở về hoang hóa, đưa nông dân trở lại kiếp nghèo... Sáng hôm sau Việt lấy ca-nô đưa tôi đi thăm những cánh đồng nuôi tôm dang dở. Cũng như đồng Chó Ngáp, từ kinh Chợ Chủ, kinh Ông Bường qua Cây Khô, Đầu Nai, Láng Cháy, Ban Can, Tràm Thẻ... những cánh đồng năn ngút ngàn bao đời hoang hóa, đói nghèo bây giờ nhà ngói giăng giăng. Việt nhìn đăm chiêu lên cánh đồng và nói với tôi bằng giọng bâng quơ như tâm sự với chính mình: - Có lẽ đây là vụ tôm cuối cùng nếu không có giải pháp nào khác! Việt đi đến đâu, bà con hai bên bờ kinh cứ vẫy chào, mời gọi như người thân. Hai năm trước, Việt mới tròn ba mươi sáu tuổi, không hiểu lý do gì, từ một phó chủ tịch huyện, anh được bổ nhiệm thẳng lên làm bí thư huyện ủy. Nhìn cái tướng ốm ốm, cao cao, nước da trắng như con gái, gương mặt hiền lành, giọng nói nhỏ nhẹ, từ tốn, tôi có cảm giác Việt là một thầy giáo thì đúng hơn là một bí thư. Vậy mà có lần anh Ba Chủ, Trưởng Phòng Nông nghiệp huyện, nói với tôi: "Thằng Việt cư xử với mấy anh mấy chú cán bộ cấp dưới rất lễ phép nhưng cũng rất kiên quyết nên ai cũng vừa thương vừa ngán nó". Rồi anh kể sang chuyện khác: Bà con Thới Bình đặt cho Việt cái tên rất buồn cười là Việt hai tấc, số là vào tháng mười một năm ngoái, đang mùa nước mặn, bà con vừa thả tôm giống xuống đầm nuôi được hơn một tháng thì tỉnh chỉ thị cho các huyện nằm trong vùng ngọt hóa bán đảo Cà Mau phải bơm nước mặn ra khỏi đầm để đưa nước ngọt về trồng lúa theo quy hoạch. Hàng ngàn máy bơm tập trung về khởi động ở khắp các đầm tôm và các đầu kinh từ huyện U Minh sang huyện Thới Bình. Thấy bà con vừa bơm vừa khóc, Việt xót xa cho tiền tỷ của nông dân vừa đổ xuống đầm lại bị hủy hoại đi, anh liền chạy lên tỉnh cầu xin và giải thích rằng, bây giờ là mùa khô, có tát cạn đầm thì cũng không đưa nước ngọt về kịp để trồng lúa, hơn nữa nếu phơi đất suốt mùa khô thì nước mặn sẽ thấm sâu vào lòng đất, mùa sau sẽ không trồng được lúa. Biết rằng bà con nuôi tôm thêm vụ này là vi phạm chủ trương, vì vậy để cảnh cáo, chúng ta nên tát tượng trưng, chừa lại hai tấc nước trên đầm để bà con bắt cá sống qua ngày, vừa giữ cho đất không bị khô nẻ để mùa sau trồng lúa. Tỉnh đồng ý. Việt chỉ đạo cho các xã đo giữ lại hai tấc nước trên mặt đầm, nhưng anh rỉ tai nói nhỏ rằng nên đo những chỗ gò cao để giữ nước cho tôm đừng chết. Thế là năm ấy, Việt đã cứu cho bà con được một mùa tôm, có người thu hàng trăm triệu. Từ đó, bà con đặt cho anh cái tên là Việt hai tấc để ghi nhớ hai tấc nước mà anh đã giành lại để cứu một mùa tôm. Hiểu hết sự giàu có ở đây mới thấy dòng nước mặn quý giá đến vô cùng. Việt kể với tôi về chuyện ông Tư Râu ở kinh Ông Bường, một người chuyên nghề cắm câu giăng lưới để nuôi vợ và sáu đứa con. Hằng ngày, cá ngon ông không dám ăn, cũng không bán cho các chủ vựa mà mang thẳng đến mấy chủ tiệm vàng ở chợ Thới Bình để kiếm thêm vài ngàn đồng một ký. Thế rồi năm ngoái ông nuôi tôm sú trên sáu mươi công đất hoang sau nhà, thu hoạch vụ đầu tiên được hai trăm tám mươi triệu đồng. Hai vợ chồng ông ôm tiền đi mua vàng, người chủ tiệm vàng từng mua cá của ông bỗng giật mình rồi đâm nghi tiền giả, bà lén gọi điện thoại mời công an đến, nhưng người công an ấy biết được ông vừa mới trúng tôm. Tôi đến thăm nhà ông, ngôi nhà mới xây hình chữ L giống như cái trường học. Tiện nghi trong nhà cũng mới mua, đầy đủ và sang trọng như một gia đình giàu có lâu đời. vẫn còn đó căn chòi ọp ẹp dưới mé kinh với mấy bộ vạc tre, mấy cái lò đất, mấy cái nồi nhôm nhuốm đen màu khói, ông không dùng nữa nhưng gài cửa để đó như thứ kỷ vật của một đời nghèo khó. Tôi cảm động nhìn mấy đứa con ông, mặt mày đen sạm, đầu tóc vàng hoe, dường như chúng chưa hết ngỡ ngàng trước sự giàu sang đột ngột, những ánh mắt lúc nào cũng ngơ ngơ ngác ngác khi nhìn những thứ đồ đạc trong nhà, từ máy phát điện, tivi, salon, giường nệm, tủ kính, bếp gas... Có lẽ chúng bị choáng ngợp bởi tất cả sự sang trọng ấy đến cùng một lúc làm cho chúng bàng hoàng như một giấc mơ. Trên đường đi qua Tràm Thẻ, anh Sáu Phố, Bí thư xã Tân Phú, nói với tôi: - Lát nữa tao sẽ dẫn mày tới nhà thằng Ba Nùng, mới ba năm trước đây, nó còn rón rén đến nhà tao hỏi vay một trăm ngàn để mua lưới cá rô, tao cho nó mượn. Mấy tháng sau đến trả tiền, tội nghiệp, nó cho tao mấy ký cá rô mề. Vậy mà bây giờ, tài sản tao không bằng cái lai nào của nó. Mới nuôi tôm có ba năm mà nó xây cái nhà năm trăm triệu, rồi sang huyện Cái Nước mua thêm mấy trăm công đất nuôi tôm. Chúng tôi ghé nhà anh Ba Nùng thì anh đi vắng. Đứng dưới bờ sông nhìn ngôi nhà đồ sộ với lối kiến trúc hiện đại mọc lên trên cánh đồng của những trăm năm nghèo khó, tôi càng thấy thương thêm những ánh mắt ngỡ ngàng của mấy đứa con chú Tư Râu. Không gặp được anh Nùng, Việt đưa chúng tôi đến nhà anh Tư Nhàn cách đó vài trăm mét. Cũng ngôi nhà hộp đổ nóc bằng theo kiểu Mỹ, bên trong dán gạch men lên tới nóc nhà. Nhàn cho biết anh vừa mới xây ba trăm triệu, anh dẫn chúng tôi ra cầu thang đi lên sân thượng để nhìn bốn bên cánh đồng Tràm Thẻ mênh mông, những ngôi nhà tường cứ giăng giăng trên từng ô đất nuôi tôm giống như những quân cờ bất động. Việt nói: "Tràm Thẻ ngày trước nghèo nhất, bây giờ trở thành nơi giàu nhất Thới Bình". Nhàn nói: "Nhưng bây giờ sắp nghèo trở lại rồi anh Việt". Việt hiểu Nhàn muốn nói gì, anh không trả lời, chỉ lặng người đi và nhìn những chùm hoa mua nở tím ven sông. Tôi nhìn theo hướng nhìn của Việt và chợt nhớ ra rằng, trên những vùng đất phèn chua, hoang hóa như thế này ngày xưa dày đặc hoa mua. Có lẽ vì thế mà mẹ tôi từng nói, hoa mua tuy đẹp nhưng tượng trưng cho sự đói nghèo, khổ hạnh. Anh Nhàn kể, từ khi anh lớn lên thì đã thấy đất Tràm Thẻ hoang vu. Mùa mưa nước sâu ngang ngực, người ta khai thác cánh đồng này bằng cách bơi xuồng đi giăng lưới cá rô và nhổ năn bột đem bán để kiếm sống qua ngày. Mùa hạn thì tìm đến những nơi gò cao đốt đồng bắt chuột. Sau giải phóng, Nhà nước quy hoạch thành khu kinh tế mới của quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh. Chẳng bao lâu dân Tân Bình bỏ chạy. Tỉnh tiếp tục đầu tư xây dựng khu kinh tế mới cho dân Hà Nam Ninh, dân Hà Nam Ninh lại bỏ chạy. Huyện Thới Bình thấy rằng đất này không thể nuôi sống con người nên quy hoạch thành vùng đất cầm trâu. Gia đình Nhàn ở Chợ Hội, nhà nghèo lại đông anh em nhưng cha mẹ chỉ có mười công đất ruộng nên không thể chia đều nhau, mà sống chung thì cũng không đủ gạo ăn. Để nhẹ gánh cho gia đình, Nhàn tình nguyện ra đi. Năm 1983, anh cùng vợ và ba đứa con trên chiếc xuồng ba lá chèo chống về đây, đốn lá dừa nước dựng lên căn chòi bằng ý chí của An Tiêm giữa đồng hoang, lúc này anh mới hai mươi lăm tuổi. Tư Nhàn khai phá mười hai ha để trồng khóm, liên tục thất bại hai năm, anh quay sang trồng điều, lại thất bại, anh chuyển qua trồng dừa, dừa chết sạch, anh trồng trúc, trúc không lớn . Đói rách, nhà sập, con bệnh cùng một lúc bốn đứa. Vợ chồng anh bỏ nhà chở con ra bệnh viện Cà Mau sống như cảnh ăn mày. Chữa xong bệnh cho bốn đứa con, Nhàn trở về dựng lại căn chòi, sửa lại chiếc xuồng ba lá và làm lại cuộc sống bằng cái nghề giăng lưới cắm câu, nhổ năn và săn bắt chuột đồng. Năm 1995, một số hộ thử nghiệm đưa nước mặn lên đồng nuôi tôm sú có hiệu quả. Đất Tràm Thẻ bỗng thức dậy sau giấc ngủ mấy trăm năm. Đứng trước mười hai ha đất mà không có một đồng vốn trong tay, Nhàn quyết tâm dùng sức lao động của mình, anh kéo vợ con ra ban liếp, đắp bờ suốt cả ngày đêm. Cải tạo đất xong, vợ chồng anh chia nhau về quê, tìm đến bà con thân tộc vay mượn được hai lượng vàng để mua tôm giống. Con tôm lớn dần, Nhàn cứ hồi hộp, bồn chồn đến không ngủ được. Nhiều đêm anh thức trắng, cầm đèn pin rảo quanh bờ vuông để kiểm tra, canh giữ, đợi chờ. Bốn tháng sau, Nhàn thu hoạch được... ba trăm triệu đồng! Căn chòi ọp ẹp, rách rưới không có chỗ để cất tiền, Nhàn xây nhà đúc. Từ ấy đến nay, ba năm liên tiếp, mỗi năm Nhàn thu hai trăm năm mươi triệu. Riêng năm nay, anh nói nước ngọt về, chỉ vớt vát được khoảng một trăm triệu rồi vụ mùa sau sẽ không còn nuôi được nữa. Nhàn sai con đi mua chai rượu rồi luộc hai dĩa tôm sú loại nhất mang ra đãi chúng tôi. Nhìn hai dĩa tôm bỗng dưng tôi nhẩm tính, giá trị của nó tương đương với mười lăm giạ lúa, bằng ba ngàn trái khóm, bằng hai tấn rưỡi mía đường, bằng bốn chục ký sầu riêng Cái Mơn, và bằng sáu chục cần xé mận mà anh cán bộ ở Bạc Liêu đã kể với tôi hôm trước. Nhàn vừa rót rượu vừa nói : - Từ ngày đắp đập đến nay, tụi em xem nước mặn quý như vàng. Nhiều người đi chở từng ghe về đổ xuống đầm tôm. Họ nói giá mà mở cống cho nước mặn tràn về, họ sẽ uống một bụng cho đã. Anh Sáu Phố quay sang nói với tôi: - Nhà báo nghe chưa ? Dân ở đây khát khao nước mặn đến như vậy đó, mày có cách nào nói thay nguyện vọng của họ được không? Tôi không trả lời anh mà chỉ đọc mấy câu thơ Tố Hữu: Hỡi những con khôn của giống nòi Những chàng trai quý gái yêu ơi! Bâng khuâng đứng giữa đôi dòng nước Chọn một dòng hay để nước trôi? Nhàn nhìn Việt cười nói: - Cái vụ này hay à! Chọn đi anh Việt! Việt nói: - Trong trường hợp này tôi không được quyền lựa chọn. * Kỹ sư Ngô Chí Dũng, Phó Giám đốc Sở Nông nghiệp tỉnh Cà Mau, cầm ăng-ten chỉ lên bản đồ và giải thích với tôi: "Ngọt hóa bán đảo Cà Mau là một chương trình quốc gia do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn làm chủ dự án với tổng số vốn đầu tư là một ngàn bốn trăm tỷ đồng. Khái niệm về ngọt hóa, trước hết phải hiểu là ngăn mặn từ các cửa biển để giữ nước ngọt từ sông Hậu đổ về. Mục tiêu của dự án này là tạo ra hệ sinh thái nước ngọt cho ba trăm ngàn hecta nằm trên bán đảo Cà Mau gồm bốn tỉnh: Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau, Kiên Giang. Trong hệ sinh thái nước ngọt trên ba trăm ngàn hecta này, mục tiêu hàng đầu vẫn là cây lúa...". Cách nay mấy hôm, Giáo sư - Tiến sĩ Võ Tòng Xuân có cho tôi xem một bài viết còn trên máy vi tính của ông với tựa đề: Sự quyến rũ của dòng nước mặn trên bán đảo Cà Mau, theo ông, hệ sinh thái một mùa mặn một mùa ngọt trên bán đảo Cà Mau là một đặc điểm vô cùng quý giá mà thiên nhiên đã ban tặng cho con người, hiếm có nơi nào trên trái đất này có được hệ sinh thái tự nhiên độc đáo như vậy. Ông nói, ngọt hóa có nghĩa là phá vỡ và làm đảo lộn hệ sinh thái tự nhiên thì chúng ta sẽ trả một giá rất đắt. Hơn nữa, hạt lúa ở Đồng bằng sông Cửu Long đang khủng hoảng thừa, các loại cây ăn trái cũng đang khủng hoảng thừa thì chúng ta đầu tư phát triển hệ sinh thái nước ngọt để làm gì, trong khi đất nước đang cần đô-la mà nguồn xuất khẩu mạnh nhất của chúng ta hiện nay vẫn là con tôm. Xu thế chung của khoa học thế giới hiện nay là con người phải biết dựa vào những ưu điểm của thiên nhiên để khai thác, để giữ gìn và tôn tạo, không nên phá vỡ nó. Cái tư tưởng thay trời đổi đất sắp xếp lại giang sơn chẳng những đã lỗi thời mà còn trái với quy luật tự nhiên. Có một buổi chiều tôi dạo chơi trên cống Cà Mau, một công trình được đầu tư gần ba mươi tỷ đồng để ngăn dòng chảy cuối cùng ở hạ nguồn con sông Phụng Hiệp. Cái ranh giới giữa hai dòng mặn ngọt này đã làm cho con sông Cà Mau không còn lưu thông ra biển. Từ đó đến nay, lòng sông âm thầm chịu đựng bao nhiêu thứ chất thải trong mọi sinh hoạt hằng ngày của cư dân trên hai dãy phố ở hai bên bờ sông. Nó như con rắn khổng lồ bị tử thương nằm thối rữa giữa lòng thành phố. Bất chợt, tôi nhớ đến bộ phim tài liệu có cái tên Dòng sông ra biển mà tôi đã làm cách đây cũng khá lâu, ở đoạn kết, tôi dựng cảnh một dòng sông ngoằn ngoèo rồi chồng mờ lên cửa biển, và lời bình của Tố Nhi đã viết như sau: Dòng sông nào rồi cũng đổ ra biển cả, biển chính là nơi giãi bày tâm sự của mọi dòng sông. Thương thay cho những dòng sông từ nay đã không còn được giãi bày tâm sự cùng biển cả. Và, biết đâu sự ức chế của những dòng sông ấy sẽ làm biến đổi tính cách con người...! Cà Mau, tháng 7 năm 2000 Thư viết từ đất Mũi Kính tặng bạn bè xưa Chị Dạ Ngân ! Có lẽ chị và anh Nguyễn Quang Thân rất hài lòng về chuyến đi thăm Đất Mũi vừa qua, nơi mà nhiều nhà văn, nhà thơ ở Thủ đô hãy còn chờ cơ hội. Nhưng thật ra, tôi nghĩ rằng với một chuyến đi mang tính cưỡi ngựa xem hoa như thế, dù có thõa mãn đến đâu đi nữa thì tất cả cũng chỉ là cái cảm giác lạ trước một vùng đất lạ mà thôi. Hôm đưa anh chị đi, tôi có một dự định nhưng lại không làm được dù rất đơn giản, có nghĩa là tổ chức ở trong rừng một đêm để đốt lửa, để nhậu và để nghe mấy ông già Năm Căn kể chuyện ngày xửa ngày xưa. Sẽ có biết bao câu chuyện kỳ thú về rừng đước Cà Mau từ thời khẩn hoang lập ấp cho đến hai cuộc chiến tranh. Chị còn nhớ buổi sáng từ trong xóm Mũi đi ra biển, chiếc võ lãi bị mắc cạn ở bãi bồi, chị đốt lửa nấu cơm, tôi với anh Thân ngồi uống trà, anh Thân cứ xuýt xoa với khu rừng mấm bạt ngàn trải dài ra biển như mái nhà từ thấp đến cao. Tôi chỉ giải thích với anh Thân về hệ sinh thái của rừng ngập mặn, có nghĩa là cây mấm đi tiên phong để giữ lấy đất phù sa cho Mũi Cà Mau mỗi năm bồi thêm vài trăm mét, song, rừng mấm còn có cái phần đời mà tôi sẽ kể cùng chị trong câu chuyện sau đây. Có lẽ chị còn nhớ con sông Cửa Lớn mà chúng ta đã đi qua. Đó là một trong một trăm con sông lớn của thế giới, sở dĩ tôi biết được điều đó là vì năm 1991, đoàn tàu Calipso trong chương trình đi nghiên cứu một trăm dòng sông lớn nhất trên thế giới, họ đã dừng lại ở cảng Năm Căn để nghiên cứu con sông Cửa Lớn. Tất nhiên tôi không thể hiểu họ nghiên cứu những gì về con sông nầy. Riêng trong sự hiểu biết của tôi mà tôi muốn kể với chị rằng, đây là một dòng sông rất lạ, nó bắt đầu từ biển rồi lại về với biển, nghĩa là từ cửa Bồ Đề ở biển Đông đổ về cửa Ông Trang ở biển Tây. Dòng sông nầy cắt khu rừng ngập mặn Năm Căn ra làm hai mảng, một mảng giáp với đất liền, một mảng giáp với biển Đông và biển Tây như một hòn đảo gồm ba xã Đất Mũi, Viên An và Rạch Gốc. Trong chiến tranh, hòn đảo ấy lại là vùng căn cứ, là cái bến cuối cùng của đường Hồ Chí Minh trên biển, để từ cái bến ấy vũ khí được chuyển đi khắp các chiến trường. Biết được điều ấy, quân đội Mỹ mở một chiến dịch gọi là Hạm đội nhỏ trên sông, cứ năm phút có một chiếc tiểu pháo hạm chạy qua dòng sông Cửa Lớn để phong toả khu rừng cho quân và dân ta chết dần trong đói khát. Dĩ nhiên là không bao lâu, hòn đảo đã hết nước ngọt và lương thực dự trữ. Bao nhiêu chuyến tiếp lương vượt sông Cửa Lớn đều bị tàu giặc bắn chìm. Người Mỹ đã không ngờ rằng, trong vòng phong toả của họ, người ta đã luộc trái mấm ăn thay cơm và dùng phương pháp nấu rượu để cất nước mặn thành nước ngọt mà uống. Kết quả của chiến dịch Hạm đội nhỏ trên sông là hàng trăm xác tàu Mỹ chìm dưới đáy sông Cửa Lớn. Bạn tôi – anh Lâm Việt Bắc – một dũng sĩ săn tàu cấp ưu tú đã từng đánh chìm hằng chục chiếc. Trận cuối cùng ngày 17 tháng 3 năm 1971, anh đã bắn chìm bốn chiếc cùng với 37 lính Mỹ tại vàm Bà Thanh, năm ấy Lâm Việt Bắc mới 17 tuổi. Do bị nhiều vết thương nặng và do bắn vượt cơ số của loại súng B40 nên anh bất tỉnh, khi đồng đội chuẩn bị làm lễ truy điệu cho anh thì mới phát hiện anh còn sống. Chẳng biết ai là người nghĩ ra việc ăn trái mấm thay cơm, chỉ biết rằng trong lúc khắc nghiệt ấy, không có trái mấm thì con người ở đây sẽ chết dần trong đói khát. Trái mấm có vị đắng, chát. Muốn ăn được phải luộc đi luộc lại năm bảy lần rồi sau đó đem nấu với đường như một loại chè đậu , phải ăn như một thứ cực hình cho nên trong đời sống bình thường chẳng bao giờ người ta xem trái mấm là một thứ nguyên liệu để chế biến thức ăn. Chiến tranh kết thúc, cộc sống sang trang với với bao nhiêu thứ bộn bề của cơm, áo, gạo, tiền và chính trị. Là một thương binh 2/4, bị mất tròng mắt phải, một vết thương chạm bên trái cột sống và hàng chục vết thương khác trên người, mỗi khi trái gió trở trời, những vết thương ấy kéo về nhắc lại cuộc chiến tranh. Nhưng chính lúc ấy, Lâm Việt Bắc lại thấy mình mắc nợ với rừng, với những đồng đội đã nằm lại rừng vĩnh viễn. Lẽ ra anh bằng lòng với công việc của một trưởng phòng tài vụ ở sở Thương binh, bằng lòng với vợ đẹp con ngoan trong một gia đình hạnh phúc. Thế nhưng anh thường hay vô cớ bỏ nhà đi, lang thang về rừng ngập mặn, tìm thăm mộ đồng đội trong rừng, thăm lại những bà mẹ Năm Căn đã từng nuôi anh bằng trái mấm thay cơm. Có lần, anh trở lại sông Cửa Lớn đúng mùa phóng lao cá dứa. Mùa nầy diễn ra hằng năm vào tháng tám đến tháng mười âm lịch, khi trái mấm rụng đầy sông. Từ các sông rạch nhỏ trong rừng, trái mắm đổ về sông Cửa Lớn, con sông Cửa Lớn có nhiệm vụ đưa chúng ra bãi bồi để chúng làm người lính tiên phong đi mở đất. Chính vì lẽ ấy mà vào mùa nầy, cá dứa từ biển Đông kéo vào cửa Bồ Đề rồi hội tụ trên sông Cửa Lớn để tha hồ ăn trái mấm. Trong trái mấm có chất Alcaloid nên khi ăn no , cá dứa ngủ mê nằm phơi bụng lờ đờ trên mặt nước. Người thợ săn tay cầm lao, tay lách nhẹ máy chèo xuôi êm theo dòng nước, mỗi khi thấy bụng cá dứa là ngọn lao vút đi, người thợ săn chỉ giữ lại sợi dây, cán lao bằng tre lắc lư trên mặt nước. Thế là một con cá đứa to chừng năm bảy ký được vớt lên. Chuyện ăn trái mấm thay cơm thời đánh Mỹ, chuyện săn cá dứa vào mùa trái mấm trên sông Cửa Lớn đã nãy sinh ý tưởng trong Lâm Việt Bắc một công trình nghiên cứu khoa học về cây mấm. Nhưng tiếc thay, anh lại thiếu tất cả, thiếu bằng cấp, thiếu kiến thức khoa học, thiếu tiền, thiếu sức khoẻ. Anh chẳng có gì ngoài cái giấy chứng nhận thương binh, có nghĩa là chứng nhận một tấm thân không còn nguyên vẹn, một kế toán tài vụ trình độ học vấn chưa hết lớp 11 ban đêm. Vậy mà, chị Ngân ạ ! Con người ấy rất lạ lùng và kỳ diệu, kỳ diệu đến không thể nào hiểu nổi. Có lần anh ngồi trò chuyện với Tiến sĩ Trần Đy, tổng cục phó Tổng cục Địa chất về tiềm năng khoáng sản ở Đồng Bằng Sông Cửu Long, bất giác, ông Trần Đy hỏi : “ Anh Bắc tốt nghiệp ngành mỏ năm nào nhỉ ?” Anh Bắc lắc đầu trả lời rằng “ tôi không có học”. Ông Trần Đy không tin, ông cho rằng qua cách nói chuyện, cách dùng từ khoa học chứng tỏ Lâm Việt Bắc là một nhà địa chất có nhiều kinh nghiệm. Nhưng ở đời, cái bằng cấp trước hết lại là thước đo giá trị của kiến thức. Nếu không có nó nằm trong bộ hồ sơ xin việc thì đương nhiên anh bị xếp vào loại lao động phổ thông. Năm 1980, Lâm Việt Bắc lập dự án nghiên cứu việc sử dụng bột lá mấm làm chất dinh dưỡng bổ sung cho thành phần thức ăn trong chăn nuôi công nghiệp. Anh mang đến Uy ban Khoa học Kỹ thuật tỉnh để đăng ký đề tài. Tất nhiên là anh bị từ chối vì thủ tục không hợp lệ, có nghĩa là anh không có bằng cấp chuyên môn. Ngoài cái lẽ ấy, người ta tình nghi Lâm Việt Bắc bị mắc bệnh tâm thần, kiểu tâm thần của những thương binh loại nặng, hay mơ mộng đến những điều có liên quan đến chiến tranh. Người ta chế giễu anh vì cây mấm có còn lạ gì ở cái xứ nầy, nó chỉ là một loài cây vô dụng, chỉ để làm chất đốt. Ai cũng biết, rừng ngập mặn Năm Căn được xếp vào loại lớn nhất Đông Nam Á và đứng hàng thứ hai trên thế giới sau rừng Amazon Nam Mỹ. Vì vậy mà ngay sau hoà bình nó lập tức trở thành đối tượng nghiên cứu của các nhà khoa học lâm sinh. Tất nhiên là khoảng kinh phí nhà nước đầu tư cho các công trình nghiên cứu khoa học về khu rừng nầy không nhỏ. Năm 1983, tôi có dịp tham dự một Hội nghị khoa học cấp Quốc gia về rừng ngập mặn Năm Căn tổ chức tại sở Lâm nghiệp Minh Hải. Tại Hội nghị nầy, Dự án điều chế rừng ngập mặn Năm Căn được xem là nội dung chủ yếu, đây là một công trình đầy tốn kém của nhiều nhà khoa học có tầm cỡ trong nước được tiến hành trong nhiều năm. Cơ sở khoa học của dự án nầy được khẳng định là : Trong quy luật diễn thế của rừng ngập mặn, sự xuất hiện đầu tiên là cây mấm. Mấm có vai trò lấn biển để ổn định đất và khi đất được ổn định thì rừng đước hình thành. Nhưng từ thế hệ rừng mấm sang thế hệ rừng đước phải mất ba mươi năm mà sự tồn tại của rừng mấm trong ba mươi năm ấy không mang lại hiệu quả kinh tế. Vì vậy, cần phải có sự tác động của con người để rút ngắn diễn thế tự nhiên. Như vậy, điều chế rừng ngập mặn, nói cho dễ hiểu là phá rừng mấm để trồng đước. Trong thời gian nầy, Lâm Việt Bắc đã bán gần hết tài sản của gia đình và đồ trang sức của vợ để đi tìm các thông số kỷ thuật có liên quan đến giá trị của cây mấm. Kết quả phân tích của Viện nghiên cứu Hạt nhân Đà Lạt đã làm cho anh bất ngờ sung sướng đến ngất đi : Bột lá mấm có chứa 23 thành phần dinh dưỡng và hoàn toàn không có độc tố, đặc biệt trong đó có Caroten và Protein chiếm hàm lượng rất cao. Giải thích hiện tượng nầy, Lâm Việt Bắc khẳng định : Trong quy luật diễn thế của rừng ngập mặn, sự xuất hiện đầu tiên là cây mấm. Với vai trò ổn định đất, mấm mọc theo triền sông và ven biển. Chính ở môi trường nầy, cây mấm có điều kiện để hấp thụ các khoáng chất trong nước biển và phù sa trẻ. Để hoàn tất công trình nghiên cứu, Lâm Việt Bắc về Năm Căn dựng lên dãy nhà ven rừng mấm bên bờ sông Rạch Rốc để làm cơ sở sản xuất thử nghiệm. Nhưng mọi thứ đều cần phải có tiền, anh sang căn cứ Hải quân ngụy đào bới sắt vụn, vỏ đạn, túi nilon chở lên thành phố Hồ Chí Minh đổi lấy thiết bị máy móc. Chính trong những chuyến đi nầy anh đã mò mẫm đến Viện Kỹ thuật Nông nghiệp Miền Nam, gặp Giáo sư Tiến sĩ Trần Thế Thông, viện trưởng và Kỹ sư Đinh Huỳnh, chủ nhiệm bộ môn thức ăn và dinh dưỡng gia súc để nhờ họ đỡ đầu cho công trình nghiên cứu. Tháng 12 năm 1986, Giáo sư Tiến sĩ Trần Thế Thông dẫn một đoàn cán bộ chuyên môn về Cà Mau để khảo sát rừng mấm và tổ chức một Hội nghị khoa học về cây mấm. Ông nói : Từ kết quả phân tích các thành phần hoá học của bột lá mấm đến kết quả của quá trình thử nghiệm trên chăn nuôi đã cho phép chúng ta đi đến kết luận rằng, bột lá mấm đã rút ngắn được thời gian chăn nuôi gia súc gia cầm, tăng chất lượng thịt mỡ và đặc biệt là giảm tối đa các dịch bệnh. Theo tôi, công trình nghiên cứu của Lâm Việt Bắc có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với nền kinh tế của đất nước ta, đồng thời đây là một công trình khoa học có tầm cỡ Đông Nam Á, nếu tôi không nói rằng có tầm cỡ quốc tế.Vì sao vậy ? Xin thưa rằng, bột lá mấm có hàm lượng dinh dưỡng cao hơn bột cỏ Medicaro và Sativa ở Châu Au, cao hơn cây Bình linh ở Malaisia và Philippin, đặc biệt là nó không có độc tố, lại mọc thành rừng tự nhiên, trong khi đó hầu hết các loại bột cỏ trên thế giới đều phải đầu tư đất đai và chi phí trồng trọt nhưng chúng lại chứa một hàm lượng độc tố nhất định. Vì vậy mà bột cỏ trong chăn nuôi công nghiệp trên thế giới hiện nay vẫn còn là một vấn đề nan giải. Đối với công trình nầy, tôi biết trong thời gian qua Lâm Việt Bắc gặp không ít khó khăn ... nhưng thôi, cái gì đã qua hãy để cho nó trôi qua, chúng ta hãy hướng tới những gì cao đẹp của một nền khoa học chân chính. Mà một nền khoa học chân chính thì không phân biệt đối xử. Nhưng ở đời, cái gì đã bị từ chối thì đừng mong bắt người ta dễ dàng thừa nhận, có chăng là sự miễn cưỡng. Xí nghiệp sản xuất bột lá mấm cuối cùng cũng ra đời bên bờ sông Cái Lớn do Lâm Việt Bắc làm giám đốc. Cái ngày khánh thành thật buồn tẻ làm sao. Anh mời không sót ai, nhưng đến dự chỉ có mấy nhà báo và mấy anh em văn nghệ sĩ. Sau buổi lễ khánh thành, nhà máy lại nằm chờ ... dầu dể sản xuất. Chờ mãi cho đến khi nó hóa thành đống sắt vụn bên bờ sông. Mỗi lần có ai nhắc đến, người ta đổ thừa cho ... cơ chế bao cấp. Vậy là huề. Lâm Việt Bắc bỏ rừng về nhà nằm đọc sách, thỉnh thoảng anh lại vô cớ bỏ nhà đi. Một hôm, anh gọi tôi ra quán cà phê và hỏi nhỏ : “ Mấy ngày nay mầy có nghe tin về cơn sốt đào vàng ở Cạnh Đền không ?” Tôi nói : “ Tưởng chuyện gì chớ chuyện đó rùm beng hổm rày ai mà chẳng nghe”. Lâm Việt Bắc nói : “Tao mới đi bên ấy về. Người ta nói rằng vàng ấy là của vua Gia Long, hoàn toàn không đúng. Tao phát hiện ở độ sâu chừng một mét đến một mét rưởi có những kho chứa đá quặng khổng lồ, bên cạnh đó là dụng cụ luyện vàng của Vương Quốc Phù Nam. Căn cứ vào khả năng vận chuyển thời đó thì đá quặng nầy họ chỉ khai thác ở những vùng lân cận mà thôi”. Tôi hỏi: “Tại sao anh biết đó là đá quặng?” Anh khẳng định: “Nhìn bằng mắt thường cũng đủ biết, nhưng tao đã mang ra Viện nghiên cứu hạt nhân Đà Lạt phân tích rồi, hàm lượng bốn phần ngàn”. Cuối cùng anh đề nghị : “ Tao muốn tụi bây giúp tao một chuyện. Mầy, thằng Tín, thằng Dự tổ chức cho tao đi khảo sát vùng Bảy núi An Giang và một số hòn đảo ở Kiên Giang, tụi mình lấy danh là đoàn cán bộ sáng tác đi thực tế để nhờ các Hội Văn nghệ bên đó dẫn đi. Như vậy vừa đạt được mục đích, vừa giữ được bí mật. Sau khi khảo sát xong, tao sẽ lập dự án khai thác và trình lên ông Kiệt, trận nầy phải làm cho thay đổi nền kinh tế đất nước mới được”. Chúng tôi gom hết tiền nhà, ứng thêm tiền lương, mượn thêm của bạn bè, mỗi thằng mua một cây búa thầu, một cây xà beng giấu trong hành lý rồi phóng lên xe đò làm một chuyến đi với niềm hy vọng làm đổi thay nền kinh tế đất nước. Qua An Giang, chúng tôi rủ nhà điêu khắc Trần Thanh Phong cùng đi. Vì anh Phong là bạn bè chí cốt nên chúng tôi nói rõ mục đích của chuyến đi và dặn anh rằng, nếu có ai hỏi vì sao chúng tôi lượm nhiều đá thì anh Phong sẽ giải thích rằng anh chọn mẫu đá để làm tượng. Chúng tôi đi gần một tháng trời, từ những dãy núi trong đất liền đến các hòn đảo ngoài khơi. Anh Bắc đi trước, chúng tôi mỗi thằng một cái giỏ đệm theo sau. Anh bảo đục đâu thì chúng tôi đục đó, anh đưa cái gì thì chúng tôi lấy cái nấy cho vào giỏ đệm, chẳng biết đó là loại đá gì , nặng cỡ nào cũng phải vác. Có lần, tôi thấy anh Bắc đang đứng trầm ngâm như chiêm nghiệm một điều gì dưới chân Hòn Đất ở Kiên Giang, bất giác anh bảo tôi: “ Mầy tốc đám cỏ tranh trước mặt và đục hòn đá chổ đó lên xem”. Tôi ngạc nhiên hỏi lại; “ Làm sao anh biết dưới đám cỏ tranh nầy có hòn đá ?” Anh bảo: “ Thì cứ làm đi rồi biết”. Tôi đến tốc đám cỏ tranh, quả nhiên là ở dưới có một hòn đá to nằm hơi nhô lên mặt đất.Tôi liền lấy xà beng đục vào một cái, hòn đá vỡ ra, trong đá rực lên những tia kim loại màu vàng lấp lánh. Một lần khác, đang lội ngoài Bãi Chén ở Hòn Tre, bổng dưng Lâm Việt Bắc bảo tôi hốt mớ cát đen cho vào bọc, tôi làm theo trong khi anh Nguyễn Trọng Tín và Võ Đắc Dự cười bảo: “ Loại nầy ở xứ mình thiếu cha gì, lấy làm chi cho nặng”. Anh Bắc nói: “ Tao bảo lấy thì lấy đi, tụi bây biết con khỉ khô gì mà cải”. Mãi đến sau nầy khi ra Hà Nội tôi mới hiểu bọc cát ấy là gì ... Về Cà Mau được mười hôm thì Lâm Việt Bắc gọi tôi đến bảo : “ Mầy dẫn tao đi Hà Nội gặp ông Võ Văn Kiệt ...” Tôi không nói câu nào cả vì biết rằng đó là mệnh lệnh. Lên tới Sài Gòn, để anh Bắc ở khách sạn, tôi đến toà soạn báo Tuổi Trẻ tìm anh Nguyễn Đông Thức để hỏi thăm địa chỉ nhà ông Trần Bạch Đằng, anh Thức vừa chỉ vừa căn dặn : “ Nhà ông ấy ở 14 Phan Kế Bính, nhưng mà ông đừng khai rằng tôi cho địa chỉ nghen, cha nội đó khó dữ lắm, lỡ ông quấy rầy ổng ổng chửi nát ông nát cha tôi hết” Bảy giờ tối, tôi đứng thập thò ngoài cổng 14 Phan Kế Bính, sờ tay vào công tắc chuông mấy lần nhưng không dám bấm. Cuối cùng, tôi phải ra quán ngồi uống hai chai bia mới có thêm can đảm. Bây giờ thì tôi không hiểu rằng do hai chai bia hay do ông Trần Bạch Đằng dễ tính, ông ngồi say mê nghe tôi kể về Lâm Việt Bắc. Cuối cùng ông kết luận: “ Chuyện cũng không có gì ghê gớm, bởi trên thế giới nầy có tới sáu mươi phần trăm mỏ vàng do các nhà địa chất nghiệp dư tìm ra, hai mươi phần trăm do chó tìm, các nhà khoa học chỉ tìm được có hai mươi phần trăm thôi. Vấn đề là chúng ta xử lý vụ nầy như thế nào. Ngày mai mầy dẫn Lâm Việt Bắc lại đây cho tao biết mặt một cái rồi tụi bây đi ngay ra Hà Nội gặp anh Tám Kiệt vì chuyện nầy chỉ có anh Tám mới giải quyết được, tao sẽ gọi điện ra báo cho ảnh hay trước” Hôm sau, sau khi mua vé tàu hỏa xong, tôi đưa Lâm Việt Bắc đến trình diện ông Trần Bạch Đằng, ông già nhìn Lâm Việt Bắc rất lâu rồi lặng người đi vì xúc động, ông vỗ vai anh và hỏi: “ Sức khoẻ thế nào ?” Về khách sạn chuẩn bị hành lý lên tàu tôi mới hay rằng không còn đủ tiền để ăn uống dọc đường. Giữa đất Sài Gòn biết vay mượn của ai ? Đang xúc mồ hôi hột lại gặp quế nhơn : nghệ sĩ Lâm Quang Tèo xuất hiện, lúc nầy hắn đang là sinh viên khoa đạo diễn sân khấu, hắn đi học bằng xe du lịch nhưng trong túi thì không bao giờ có tiền. Khi tôi ra lệnh cho hắn phải kiếm thêm tiền cho chúng tôi đi Hà Nội, hắn cười như điên và chửi thề một tiếng: “ Đ.m. Đi lo chuyện làm giàu cho đất nước mà không có đủ lộ phí là sao? Thôi được rồi, đợi tao mười lăm phút, tao mang tiền tới rồi đưa tụi bây ra ga luôn”. Đúng mười lăm phút sau hắn quay lại, ném một cọc tiền lên giường: “Nè mấy cha ! Con bồ mới tặng cái quần gin chưa mặc giờ phải đem bán. Ra Hà Nội nhớ báo cáo chuyện nầy với ông Kiệt để mai mốt đào được mỏ vàng rồi tính toán lại với tao” Đến lúc tàu chạy, hắn đứng vẫy tay mà miệng vẫn còn la vang câu ấy. Ba ngày sau, chúng tôi có mặt tại nhà chú Sáu Dân vào buổi sáng.Ông già ra bắt tay chúng tôi trong nụ cười sảng khoái. “ Nghe nói tụi bây đi bằng xe lửa phải không ?” “ Dạ phải”. “ Rồi tụi bây định về bằng cái gì?” “ Dạ chắc cũng bằng xe lửa”. “Ví dụ như có máy bay thì tụi bây có chịu đi không?” Rồi ông già lại cười vang lên. Suốt ngày hôm ấy, chú Sáu ngồi nghe Lâm Việt Bắc kể về giá trị kinh tế của rừng mấm, về nguồn lợi khoáng sản của Đồng Bằng Sông Cửu Long. Cuối cùng chú quay sang nói với anh Tuấn thư ký riêng: “ Cậu làm ngay công văn gởi cho tỉnh An Giang và Kiên Giang bảo họ tạm đình chỉ việc khai thác đá xây dựng chờ ý kiến của Tổng Cục Địa chất. Sáng mai cậu đưa hai bạn nầy sang làm việc với Tổng Cục Địa chất, sau đó quay về đây gặp tôi”. Trong bửa cơm chiều, chú Sáu nói với Lâm Việt Bắc: “ Đất nước đang kẹt tiền, gặp mầy hên quá. Tao sẽ chỉ đạo cho khai thác gấp vài mỏ để xoay sở” . Sáng hôm sau, anh Tuấn đưa chúng tôi sang Tổng Cục Địa chất gặp Tiến sĩ Trần Đy, tổng cục phó. Sau khi nghe Lâm Việt Bắc trình bày những phát hiện về khoáng sản ở Đồng Bằng Sông Cửu Long, ông Trần Đy yêu cầu được xem mẫu. Đầu tiên, Lâm Việt Bắc đưa ra bọc cát đen mà anh bảo tôi lấy ở Bãi Chén, Hòn Tre. Ông Trần Đy mở ra xem rồi nói: “ Cái nầy là Titan, xuất khẩu được đấy anh ạ, nhưng họ mua rẽ lắm, một tấn chỉ có hai chục đôla, không đủ chi phí khai thác”. Lâm Việt Bắc nói : “Anh xem kỹ lại đi, trong đó Titan chỉ ít thôi, chủ yếu là Radium”. Nghe nói thế, ông Trần Đy bổng giật mình đưa mắt ra hiệu cho người trợ lý, hai người mang bọc cát đến gần cửa sổ mở ra xem. Xong họ quay lại với nét mặt rạng rỡ khác thường : “ Đúng rồi ! Radium ! Tuyệt vời anh ạ !” . Lâm Việt Bắc lấy tiếp mẫu thứ hai, mẫu đá có những tia kim loại màu vàng lấp lánh. Ông Trần Đy bổng hô to : “ Ôi giời ơi ! Vàng ! Thế nầy là giàu to rồi anh ạ !” Rồi anh hỏi Lâm Việt Bắc: “Thế anh đã cho phân tích chưa ?” “ Dạ rồi anh ạ”. “Bao nhiêu?” “ Dạ bốn phần ngàn”. “Không, thế nầy thì không thể bốn phần ngàn được, hơn nhiều !” Trao đổi một lúc, ông Trần Đy hỏi : “ Anh Bắc học ngành mỏ năm nào nhỉ ?”. Lâm Việt Bắc ngập ngừng nói : “ Dạ tôi không có học anh ạ”. Anh Tuấn tiếp lời: “ Anh ấy là thương binh, chỉ học hết cấp ba ban đêm thôi anh ạ, chính vì vậy mà chú Sáu rất quý”. Ông Trần Đy trố mắt nhìn Lâm Việt Bắc: “ Vậy mà nãy giờ tôi cứ tưởng anh là một nhà địa chất giàu kinh nghiệm, đặc biệt là anh dùng từ khoa học rất chính xác”. Ngẫm nghĩ một lúc, ông Trần Đy nói tiếp: “ Vậy là trong người anh có dòng từ trường sinh học”. Chúng tôi về đến nhà thì chú Sáu đã ra đón ngoài cửa, ông nôn nóng hỏi: “ Làm việc bên ấy thế nào?” Anh Tuấn nói : “ Rất tuyệt vời chú ạ, họ đánh giá rất cao những phát hiện của anh Bắc, họ cho rằng anh thuộc loại trường sinh học”. Ông già hỏi : “ Cách xử lý của họ ra sao?”. “Dạ, họ sẽ chỉ đạo cho Liên Đoàn Địa chất 6 ở Sài Gòn làm việc với anh Bắc”. Ông già tỏ vẽ không vừa ý : “ Tại sao họ không làm việc trực tiếp mà lại giao cho Liên Đoàn 6, đi lòng vòng coi chừng hư bột hư đường hết”. Chúng tôi về Sài Gòn gặp Liên Đoàn trưởng Liên Đoàn Địa chất 6 Nguyễn Xuân Bao. Ông tiếp chúng tôi rất lạnh nhạt. Sau khi xem công văn của phó Chủ tịch Hội Đồng Bộ Trưởng và của Tổng cục Địa chất, ông nói : “ Việc nầy lẽ ra ngay từ ban đầu các anh đến báo với chúng tôi, các anh không đến, lại đi dùi vào cơ quan quyền lực, sẽ chẳng có lợi gì cho các anh cả”. Chúng tôi bị thất vọng chẳng biết phải nói gì, đành ngồi im lặng. Ông Bao lạnh lùng nói tiếp : “ Thôi được, các anh về đi, vài hôm nữa tôi cho người xuống”. Chị Dạ Ngân ! Tôi sẽ không kể tiếp những chuyện xảy ra sau nầy giữa chúng tôi với hai kỷ sư của Liên Đoàn Địa chất 6. Bởi một vài cá nhân không thể huyền bí hoá một nền khoa học của nước nhà. Chỉ tội cho Lâm Việt Bắc, sau cú xốc ấy anh không còn chổ nào để gởi gấm lòng tin. Đến năm 1990, khi đất nước mở cửa, anh lên Sài Gòn làm ăn với hy vọng tìm đối tác để đầu tư cho chương trình chiếc xuất protein từ lá mấm. Nhưng rồi lực bất tòng tâm, làm ăn bị phá sản, bị vào tù vì thiếu nợ. Vợ anh cũng đã bán nhà lên Sài Gòn, giờ không biết trôi giạt nơi đâu. Có người nói gặp anh cất chòi ở Hòn Phú Quốc, có người lại nói anh lên Tây Nguyên sống với đồng bào dân tộc. Nhưng dù ở đâu đi nữa, tôi hy vọng rằng, nếu tình cờ đọc được những dòng nầy, anh hãy liên lạc với tôi. Cà Mau, tháng 5 năm 2.000 Nồi cháo trắng Đầu tháng bảy âm lịch năm nay, tôi trở về nhà chú Chín tôi ở Rạch Lùm để dự ngày giỗ nội. Bà nội tôi vốn là người tu tại gia, ăn chay trường, nên đám giỗ chỉ cúng toàn đồ chay. Cuộc sống ngày càng khó khăn nên việc cúng quải ông bà cũng càng đơn giản. Chú tôi cũng không mời ai cả, chỉ có bà con trong thân tộc tự giác đến, mỗi người mang đến một ít rau cải, trái cây, họp lại nấu thành vài món đồ chay như: đậu đũa hầm dừa, đu đủ kho, canh khoai nấu dừa, dầu dừa xào bắp cải… rồi dọn ra bốn mâm, con cháu ra đứng sắp hàng mỗi người thắp một nén nhang tưởng niệm. Sau đó, hai mâm được dọn ra hai bộ ván nhà trên, một bên dành cho cánh đàn ông thuộc hàng chú bác, một bên dành cho cánh thanh niên trong cánh anh em con chú con bác chúng tôi. Còn lại hai mâm dọn ra nhà sau cho cánh đàn bà, con nít. Đang lúc uống rượu cườm cườm, bỗng có tiếng dượng Ba tôi từ mâm bên kia gọi sang: - Ê, thằng Sanh, năm nay, thằng Tư Ngạn nó về rồi đó nghe mậy. Hai Sanh buông đũa quay sang nói: - Nó về thì kệ nó chớ, ăn thua gì với tôi. Tưởng ai chớ thằng Tư Ngạn, tôi chấp nó câu trước tôi nửa ngày. - Ai mà chẳng biết nó câu dở hơn mày, tao muốn nói đây là để tụi mình cảnh giác cái tật câu trộm đìa của nó. - Thằng nào câu trộm đìa thì bị khất nhượng ráng chịu chớ dượng lo gì. Ở xứ này có hai người câu cá rô nổi tiếng là Tư Ngạn và Hai Sanh. Hai Sanh là con bác Năm tôi, còn Tư Ngạn là dân miệt trên về đây lập nghiệp. Nói là lập nghiệp chớ thật ra sự nghiệp của Tư Ngạn chẳng có gì ngoài chiếc cần câu cá rô để nuôi vợ và tám đứa con. Cách đây năm năm, vào tháng chạp, Tư Ngạn câu trộm đìa ông Tám Trân bị bắt quả tang. Hôm ấy nếu không có mấy người thợ gặt xung quanh đến can kịp thì chắc Tư Ngạn đã bị hai đứa con trai ông Tám Trân nhận nước dưới đìa. Từ đó, hễ mỗi lần Tư Ngạn vác cần câu ra khỏi nhà thì bị người ta hỏi: - "Ê, bữa nay định câu đìa ai đó mậy?". Tư Ngạn cúi đầu xấu hổ. Cái tài câu cá rô đã từng là niềm kiêu hãnh của anh bây giờ đã trở thành xấu hổ. Sau cái tết năm ấy, vào một buổi sáng, người ta phát giác cái chòi của Tư Ngạn trống hoang, nằm há mồm bên bờ lung chuối. Còn lại một mình Hai Sanh độc quyền nổi tiếng ở xứ Rạch Lùm. Sau sự kiện Tư Ngạn là một niềm vinh quang đối với Hai Sanh sau cuộc thách đố với dượng Ba tôi. Sáng hôm ấy, dượng Ba tôi qua nhà Hai Sanh mua cá về nấu cơm cho công gặt, ông nói: - Thằng Tư Ngạn mắc cỡ quá nên nó bỏ xứ rồi, còn mày, muốn ở xứ này thì đừng có câu trộm đìa người ta nghe mậy. Dượng Ba tôi nói chơi nhưng làm Hai Sanh bị tự ái, anh nói như trách: - Xin lỗi dượng, tôi đành câu đìa là một ngày mười ký lấy lên chớ không phải vài ba ký quèn như thằng Tư Ngạn đâu. - Nói trời hoài mậy. - Tôi nói thật, dượng dám thách cho tôi câu đìa dượng hôn. Tôi câu xong rồi dượng cho tát, nếu còn được một ký cá rô, tôi để xứ này cho dượng ở. Dượng Ba tôi vốn mê đá gà nên cũng ham thách đố. Chiều hôm ấy tại nhà chú Chín tôi, cuộc thách đố được giao kèo có nhiều người chứng kiến: Nghĩa là sáng ngày mai, Hai Sanh sẽ ra câu đìa dượng Ba tôi, hai ngày sau, gặt hái xong dượng Ba tôi thuê máy tát đìa, nếu trong đìa còn hơn một ký cá rô thì Hai Sanh sẽ trả lại toàn bộ số cá câu được, còn nếu đúng như Hai Sanh nói, nghĩa là còn dưới một ký cá rô thì chẳng những anh hưởng trọn phần cá câu được mà dượng Ba tôi còn phải chịu thêm cho anh con cá lóc lớn nhất dưới đìa. Sáng hôm sau, Hai Sanh bắt đầu câu cá trong sự hồi hộp của mọi người. Đến hai giờ chiều, anh xách hai thùng cá vô nhà, chị tôi lấy cân ra cân được mười ba ký rưỡi. Hai Sanh rọng đó chờ, đến hai ngày sau, dượng Ba tôi tát đìa lên chỉ toàn cá lóc, cá trê và cá bổi. Cả nhà dượng Ba tôi cố gắng quần bắt đến nhão nhừ, chỉ được bảy con cá rô. Sáng hôm sau, chị Hai chở hai thùng cá rô sang trả lại cho dượng Ba tôi nhưng ông không nhận nên chị chở luôn ra chợ huyện bán lấy tiền sắm đồ Tết cho con. Chiều hôm ấy, dượng Ba tôi lựa hai con cá lóc lớn nhất mang qua nhà Hai Sanh, ông nói: - Con này tao thua tao trả, còn con này tao thưởng cho mày. Đồ cái thằng sát cá! - Vợ thằng Hai đâu, bây lên cò nhỏ hai con cá này rồi luộc hèm cho tụi tao nhậu một bữa coi. Năm năm trôi qua, sự kiện ấy vẫn còn để lại trong lòng Hai Sanh niềm tự hào man mác, mặc dầu cái tài câu cá của anh không làm cho cuộc sống của anh khá hơn năm năm trước. Phải, làm sao khá hơn được khi lượng cá đồng mỗi năm một giảm mà gia đình anh mỗi năm thêm một miệng ăn. Hôm nay, dượng Ba tôi báo tin Tư Ngạn trở về, niềm tự hào trong Hai Sanh bỗng bốc lên. Anh uống cạn ly rượu rồi nhổm người lên nói: - Nè dượng Ba, dượng có gặp thằng Tư Ngạn, dượng nói với nó là câu đìa thì phải câu như tôi vậy mới oai, chớ câu kiểu nó thì đừng có về xứ này nữa. - Sanh à - Dượng Ba tôi nói - Ở đây bà con không hà, mày nói thiệt coi mày có câu mồi thuốc hôn? - Không, tui thề danh dự với dượng là tui chỉ câu bằng trứng kiến vàng hoặc ong vò vẽ non, nếu tui có câu mồi thuốc cho ôn binh đại an vật tui cũng được. Anh Tư Đức, con cô Tư tôi, khều Hai Sanh nói: - Mày nói ong vò vẽ non tao mới nhớ, sau vườn chú Chín có cái đồn bự quá trời. - Thiệt hôn? Ở chỗ nào? - Trên nhánh xoài ở đầu ao Cây lụa. - Đồn mấy lỗ châu mai? - Ba lỗ. - Vậy là ngon rồi, tối nay mình đánh đồn nấu cháo ong non đãi thằng Năm một trận. Thằng Năm, mày biết ăn thứ đó chưa? Tôi trả lời: - Dạ chưa biết. - Chưa biết thì tối nay ăn cho biết. Ong vò vẽ non mà nấu cháo dừa thì tao nói thiệt với mày, thấy mà hổng ăn thì chết còn sướng hơn. Bỗng có tiếng thằng Út la vang ngoài vườn: - Ba ơi , xe tăng, xe tăng. Rồi nó ôm vô con rùa vàng chừng hơn một ký lô, làm cho cả nhà xôn xao. Bác Năm tôi nói: - Tháng này mà lên bờ làm ổ đẻ! Hai Sanh cãi: - Đâu phải ba, tại bà nội thấy mình nhậu đồ chay tội nghiệp nên bà khiến nó lên nạp mạng đó chớ - Rồi anh quay vào trong gọi chị Hai - Má thằng Lành đem con rùa đi làm nồi da xáo thịt, nhanh lên? Mấy phút sau, chị Hai mang ra cái lò nhỏ hừng hực than, cái mu con rùa lật ngửa lên, đặt trên lò làm cái nồi nấu thịt. Hai Sanh mời mấy ông già sang chơi, nhưng bác Năm tôi nói: - Mình chơi kiểu này xỉn rồi làm sao tối nay đánh đồn được tụi bây? - Tối nay không được thì tôi mai chớ gì - Anh Tám Bành con Bác Hai tôi - nói. Hai Sanh hỏi tôi: - Chừng nào thằng Năm mày về? - Dạ sáng mai em về. - Vậy thì không được. Để tao tính coi, bây giờ mà nghỉ chơi chờ đến tối thì phí quá, còn chơi nữa thì tối xỉn mất mẹ rồi. Lâu lâu thằng Năm về mà không đãi nó nồi cháo ong thì uổng lắm. Bây giờ, mình mở chiến dịch đánh đồn giữa ban ngày. Chị Hai đứng ở cửa buồng nói ra: - Tài khôn nữa à, bữa hổm bị mấy chục vít chưa tởn hả? - Bữa hổm tại tui chưa có kinh nghiệm, bữa nay tui biết cách rồi. Bà yên chí. - Tui đã nói không được nghen, cái thứ xỉn xỉn vô rồi hăng máu có ngày bỏ mạng. Hai Sanh vừa nhảy xuống đất vừa nạt vợ: - Đàn bà mà biết cái quái gì - Anh quay sang chúng tôi - Tụi bây, thằng nào ra tháo cây sào quần áo làm móc - Hai Sanh lấy chiếc chiếu cột túm một đầu. Xong, anh bảo chị Hai: - Bà đi bắt nồi cháo lên đi, biểu đứa nào lột trái dừa. Chị Hai đành phải làm theo. Hai Sanh ôm chiếc chiếu và vác cây sào ra vườn. Đến ngồi gần ổ ong, anh trùm chiếc chiếu lên đầu và lội xuống ao. Lúc ấy không còn nhìn thấy Hai Sanh mà chỉ thấy giữa ao một đầu chiếu túm lại nhô lên mặt nước. Mấy đứa con nít kéo ra đứng ở đầu ao hồi hộp chờ xem. Tư Đức nắm tay tôi nói: - Tao với mày lại xích đằng kia coi mới đã. Chúng tôi núp dưới đám sậy cách tổ ong chừng ba chục mét. Tư Đức co hai bàn tay đưa lên mắt và nói: - Mình làm phóng viên quay phim nghen. Cái ổ ong bằng hai cái thúng táo vàng quánh và quằn quện như da cọp trên nhánh cây, chừng vài chục con ong bò ra bò vào ở mấy lỗ cửa. Hai Sanh nhón người lên đặt cây móc cẩn thận, chắc chắn ở kèo ong rồi anh thu người nhỏ lại trong chiếc chiếu. Xong, anh giật mạnh cây móc, nhánh xoài oằn xuống, đàn ong túa ra đen nghịt một vùng trời. Cái kèo ong cứ đùng đưa, đùng đưa không chịu gãy. Đàn ong tủa xuống vây quanh Hai Sanh. Thoáng chốc, chúng bu nghẹt trên đầu chiếu. Hai Sanh như không hay biết gì cả, anh cứ ghịt mạnh cần móc và cái ổ ong cứ đùng đưa. Bất giác, tôi nghe cái bốp trên mí mắt phải, rồi một cái nửa trên lưng. Tôi hốt hoảng và biết ngay chuyện gì xảy ra, tôi co giò chạy. Tư Đức cũng tức tốc chạy theo, anh vừa chạy vừa la: - Chết mẹ, nó đánh, nó đánh. Mấy đứa con nít ở đầu ao bên kia vỗ tay hô đồng thanh: - Vô! Vô! Vô! Anh Tư Đức quát: - Đứa nào đi bứt cọng môn nước cho tao! Vô cái gì mà vô, người ta đau chết mẹ mà tụi bây vui lắm hả? Chúng tôi thoa môn nước lên chỗ ong đánh và chạy lại đầu ao nhìn Hai Sanh, bỗng thấy anh đang cựa quậy trong chiếc chiếu, cái ổ ong vẫn còn nguyên đó và cây móc thì treo lủng lẳng trên nhánh xoài. Đàn ong đớp nghẹt trên đầu chiếu. Chiếc chiếu bỗng hụp lên hụp xuống rồi trườn một đường dài dưới ao, dạt bèo qua hai bên mé. Trườn được một đoạn, Hai Sanh bỏ chiếu, lặn một hơi dài rồi nhảy qua bờ ao, luồn qua đám lau sậy, đàn ong vẫn đuổi theo. Chừng năm phút sau, Hai Sanh chạy về, hai mí mắt sưng húp, anh vừa thở vừa nói: - Đù mẹ, cái nhánh xoài dai quá mà mình lại giựt theo bề xuôi nên giựt hoài không gãy. Hồi nãy tao cột đầu chiếu không kỹ nên mấy con ong nó chui vô làm tao hết năm sáu vít. Chị Hai chạy ra bứt môn nước thoa cho anh, ánh mắt chị nhìn chồng có vẻ vừa thương vừa giận: - Tui đã nói mà không chịu nghe. Một hồi nữa ông vô ăn hết cái nồi cháo trắng cho tôi. Ba anh em tôi nhìn nhau, mặt đứa nào cũng sưng vù, nặng trịch và nhức nhối. Hai Sanh nhìn lại cái ổ ong, đàn ong đã bay về vây quanh như mừng cho sự an toàn sau trận đánh. Hai Sanh lên án: - Chưa yên đâu con, tao hẹn với mày cho chuyến câu cá rô sắp tới. Chúng tôi trở vô nhậu tiếp nửa con rùa còn lại, Hai Sanh nói: - Tại mình nóng ruột mới nông nổi này, chớ đánh nó ban đêm chỉ cần nửa lít đầu lửa là tôi diệt gọn. Sáng hôm sau, tôi từ giã Rạch Lùm, mang về cái mặt không giống ai, cái mặt sưng vù, nặng nề và nhức nhối. Chỉ vài ngày nữa, nó trở lại bình thường, nhưng kỷ niệm thì chắc không thể nào quên được. Nỗi niềm U Minh Hạ TỪ CÂU CHUYỆN CỦA NGƯỜI BẠN ĐỒNG NGHIỆP ... Hồi tháng chín năm ngoái, trong một cuộc họp báo tại văn phòng ủy ban nhân dân tỉnh Cà Mau, tôi được nghe một thông tin khá đặc biệt : nhà báo Đặng Huỳnh Lộc đã viết một bài phóng sự điều tra với tựa đề Những nhà nông không đất, không tờ báo nào dám đăng, anh gởi cho Thủ tướng Võ Văn Kiệt. Bài phóng sự dài mười một trang in vi tính, Lộc kể về thân phận của những người nông dân không đất đai canh tác, họ bồng bế, dắt dìu nhau xuống rừng U Minh thuê đất để làm ruộng. Từ đó tác giả dẫn người đọc qua những cú xốc bởi mấy vấn đề cốt lõi. Thứ nhất : Lâm trường U Minh I cấp cho ủy ban nhân dân huyện U Minh 80 hecta đất rừng để sản xuất nông nghiệp. Huyện khoán lại cho một tư nhân tên là Lê Thanh Liêm với giá 90 triệu đồng mỗi năm. Ông Liêm lại khoán cho 19 hộ nông dân khác theo giá thỏa thuận để họ trồng lúa. Phần ông sử dụng mặt nước để nuôi cá. Đã thế, ông Liêm được huyện trang bị vũ khí để canh giữ cá đồng và để ... đi đòi nợ những người thuê đất. Thứ hai : ông chủ tịch huyện Tần Văn Thời được lâm trường cấp cho 7 ha đất, ông khoán lại cho vợ chồng chị Dung, thương binh nghèo với giá mỗi năm 150 giạ lúa. Năm đầu chị Dung làm được 200 giạ, nộp khoán xong còn lại 50 giạ. Năm sau lâm trường đấp đập giữ nước để phòng chống cháy rừng, cả vùng lúa bị chết úng, chị dung chỉ thu được 56 giạ, không đủ nộp, ông chủ tịch huyện đòi đất lại. Chị Dung không chịu trả vì chị đã đầu tư lên mương phèn và trồng chuối trên bờ bao. Thế là hai bên tranh chấp, ông chủ tịch hăm doạ sẽ ra lệnh cho lâm trường dở nhà chị Dung ... Thứ ba : Một tư nhân khác nữa tên là Trần Minh Quang được lâm trường Trần Văn Thời khoán cho 1.200 hecta đất rừng để nuôi cá. Quang cũng được trang bị ba khẩu súng để canh giữ tài sản. Trong lúc nhà nước ra lệnh cho toàn bộ các lâm trường phải đấp đập giữ nước để phòng chống cháy rừng thì giữa mùa khô năm 1997, Quang lại được lâm trường cho phép xả đập và dùng máy bơm tát cạn 1.200 hecta rừng để bắt cá, làm cháy 1,5 hecta rừng nhưng Quang chỉ bị phạt 1,2 triệu đồng. Trong khi một em bé bắt của Quang hai con cá lóc khoảng nửa ký lô thì bị lâm trường phạt bốn trăm ngàn đồng ... Thủ tướng Võ Văn Kiệt gởi công điện cho Chủ tịch ủy ban nhân dân tỉnh Cà Mau : Tôi đã nhận được phóng sự “Những nhà nông không đất” của nhà báo Đặng Huỳnh Lộc viết về tình hình đất đai, rừng tràm U Minh(gởi kèm theo).Nếu sự thật như phóng sự này phản ánh thì có thể nói tình hình rất nghiêm trọng.Tôi đề nghị đồng chí Chủ tịch tỉnh lập ngay một đoàn thanh tra gồm thanh tra nhà nước tỉnh, sở địa chính, sở nông nghiệp và phát triển nông thôn và nếu tỉnh ủy đồng ý thì mời ủy ban kiểm tra Đảng của tỉnh tham gia, về tại chổ kiểm tra, đối chiếu tình hình.Phải xử lý kỷ luật hành chánh thật nghiêm mọi tổ chức cá nhân nào vi phạm.Nếu có dấu hiệu hình sự thì phải cho tiến hành điều tra, khởi tố theo pháp luật. Đề nghị đồng chí Chủ tịch tỉnh trực tiếp giao nhiệm vụ chỉ đạo đoàn thanh tra và báo cáo kết quả lên Thủ tướng chính phủ. Trong cuộc họp báo hôm ấy, các vị lãnh đạo tỉnh đã quở trách Tổng biên tập báo Cà Mau đã không quản lý nổi phóng viên của mình để cho bài báo đến tay Thủ tướng chính phủ làm mất uy tín lãnh đạo tỉnh. Sau lời quở trách ấy, nhiều người đâm ra lo ngại cho số phận của Đặng Huỳnh Lộc rồi sẽ giống như số phận của những nhà báo trước đây. Mấy ngày sau tình cờ gặp Lộc ngồi trầm tư một mình trong quán cà phê, tôi hỏi: - Chuyện ấy ra sao rồi ? - Chẳng sao cả, chỉ có điều là họ cấm không cho mình ra khỏi thị xã. Và mấy bài viết sau nầy đều bị ách lại không đăng, dù nó chẳng có gì liên quan đến U Minh. Những ngày tháng ấy dường như Lộc sống trong sự cô đơn. Lãnh đạo cơ quan thì xem anh ta như người có tội, ngay cả một số bạn bè đồng nghiệp khi tiếp xúc với Lộc cũng tỏ ra dè dặt vì sợ liên lụy đến tấm thân. Hàng ngày chạy xe đi làm, thỉnh thoảng tôi lại thấy Lộc ngồi trong quán cà phê với vài anh nông dân áo quần lem luốc, có khi là chị phụ nữ ngồi co ro, chiếc nón lá bung vành úp lên đầu gối. Tôi hiểu ngay đó là những nhà nông không đất từ U Minh vượt hàng chục cây số ra đây, mang nặng tâm tư của cái kiếp tá điền thời đại để cần sự chở che của một nhà báo, mà một nhà báo thì có thể giúp cho họ được gì ? Bản thân anh ta còn chưa chắc được yên. Nhưng cũng may mắn cho Lộc. Hơn một tháng sau, ủy ban nhân dân tỉnh ra thông báo ý kiến kết luận của Chủ tịch tỉnh về việc thanh tra đất rùng U Minh theo phóng sự điều tra của Đặng Huỳnh Lộc. Văn bản nầy thừa nhận những vấn đề mà Lộc đã nêu, đồng thời cũng đặt ra cách giải quyết là sẽ thu hồi đất đai, vũ khí của những tên đầu nậu đất và sẽ kiểm điểm những tổ chức, cá nhân trong bộ máy nhà nước ở các huyện và các lâm trường. Chỉ có điều, thông báo nầy không mang tính nhân bản, là vì những nhà nông không đất lẽ ra sẽ trở thành chủ nhân trên mãnh đất mà mấy năm qua họ đã gắn bó với thân phận của kiếp tá điền dưới ba tầng áp bức bốc lột. Vậy mà giờ đây họ lại bị đuổi ra khỏi lâm trường với lý do là cư trú bất hợp pháp. Tôi chợt ngậm ngùi tự hỏi : rồi họ sẽ trôi dạt về đâu, hởi những công dân!!! ... ĐẾN CHUYỆN CỦA MỘT ĐOÀN LÀM PHIM. Bất chợt một ngày của tháng 3 năm 1998, anh Nguyễn Hồ, giám đốc hãng phim truyền hình thành phố Hồ Chí Minh gọi điện thoại hỏi tôi: - Nghe nói rừng U Minh đang cháy lớn lắm phải không ? - Dạ đúng, hiện giờ cũng đang cháy. - Theo mầy thì do đâu mà cháy ? - Dạ do lửa. - Đồ quỷ ! Nói thật nghe coi ! - Theo tôi thì có hai nguyên nhân. - Thứ nhất ? - Do sức ép của dân số. - Thứ hai ? - Do chúng ta. - Chúng ta là ai ? - Là cơ chế. - Đúng ! - Vậy anh hỏi để làm gì ? - Để xem mầy có nhìn ra vấn đề hay không. - Mà nhìn ra để làm gì ? - Để nói, đồ ngu ! - Nhưng nói bằng cách nào ? - Bằng một bộ phim tài liệu. Tao giao cho mầy biên kịch và đạo diễn. Cuối tháng năm, hãng phim truyền hình ra quyết định thành lập đoàn làm phim tài liệu “ Cánh rừng và ngọn lửa”. Gọi là đoàn làm phim cho nó oai, thật ra chỉ có ba người : tôi đạo diễn, Tuấn quay chính và Phương phụ quay. Chúng tôi mời thêm cô Ngọc Mai, phóng viên nhí của báo ảnh Đất Mũi cùng đi với hy vọng cô sẽ viết một cái gì đó về U Minh, ví dụ như phóng sự “ theo chân đoàn làm phim” chẳng hạn. Mai cho biết, toà soạn cũng đã phân công cô viết về những nhà triệu phú trên đất U Minh cho số báo sắp tới. Cô nói cảm thấy lo vì xếp thì phân công như vậy nhưng liệu đến U Minh có tìm được nhà triệu phú nào không ? Tuấn tỏ ra thắc mắc : - Chúng tôi đi U Minh làm phim về chuyện cháy rừng, chuyện nghèo đói, còn cô thì đi viết về những nhà triệu phú. Vậy thì ai đúng ? - Ai cũng đúng cả. Các anh làm đúng với sự thật, còn em làm đúng ý lãnh đạo của em. - Vậy thì chính kiến của cô ở đâu ? - Vấn đề là không được xài cái mình có mà phải xài cái người ta cần. Người làm báo đôi khi phải biết tồn tại như một con két. Chính kiến là thứ của quý nên phải biết cách xài cho đúng nơi, đúng lúc ... Chiếc tàu khởi hành, tiếng máy nổ làm cắt ngang cuộc tranh luận giữa Ngọc Mai và Tuấn. Chúng tôi đành phải lấy báo ra đọc để giết thời gian. * Tiếp chúng tôi trong trạng thái miễn cưỡng, anh Nguyễn Văn Đắc, giám đốc lâm ngư trường Sông Trẹm nói : - Đón tiếp các anh trong lúc nầy thú thật chúng tôi rất ái náy. Thứ nhất là về chổ ăn chổ ở, hiện nay cả một tiểu đoàn U Minh II đang túc trực phòng chống cháy rừng ở đây. Rồi các anh cảnh sát điều tra công an tỉnh, công an huyện đang sử dụng trụ sở của lâm trường để thụ lý hồ sơ can phạm trong các vụ án cháy rừng. Vì vậy mà các anh thông cảm giăng mùng ngủ dưới đất, còn ăn uống thì cố gắng chịu cực với chúng tôi, năm nay nắng hạn kéo dài, kinh xáng bị xì phèn nên cá chết hết, nguồn nước sinh hoạt cũng không có, kinh phí hoạt động của lâm ngư trường cũng đang cạn kiệt ... - Anh yên tâm – tôi nói chen vào – mọi chuyện ăn ở, đi lại chúng tôi sẽ tự lực. Chỉ nhờ các anh giúp cho một hướng dẫn viên để chúng tôi đi sâu vào đời sống của lâm trường. Sau khi nghe tôi trình bài ý đồ của bộ phim, anh Đắc lật sổ tay ra rồi nói: - Mùa khô năm nay, toàn bộ khu vực U Minh hạ xảy ra 87 vụ cháy rừng thì tại Sông Trẹm nầy đã xảy ra 42 vụ cháy. Có lẽ đây là năm bi đát nhất của chúng tôi, một đơn vị nhờ giữ rừng tốt mà được nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng lao động. - Theo anh thì nguyên nhân cháy do đâu ? - Nguyên nhân trực tiếp thì không xác định được. Nhưng chung quy là do sự nghèo đói mà ra cả. Sông Trẹm có 1.142 hộ dân nhận khoáng đất rừng thì đã có gần tám trăm hộ nghèo đói, trong đó có sáu trăm hộ đói nghiêm trọng, đói đến mức không có gì để ăn. Như các anh biết, cái đói xưa nay thường là vào mùa giáp hạt, tức vào khoảng tháng mười âm lịch. Vậy mà năm nay, nạn đói ở đây bắt đầu từ tháng giêng. Như vậy ai biết được chuyện gì sẽ xảy ra từ đây đến mùa lúa chín. Mà hy vọng mùa lúa tới cũng rất mỏng manh, bởi vì từ năm 1995, tức là từ lúc đóng cửa rừng đến nay, cây lúa đã không thể sống với cây tràm. - Vì sao ? - Bởi vì vào khoảng tháng chín âm lịch, lâm trường được lệnh phải đắp đập để giữ nước phòng chống cháy rừng. Thế là cây lúa bị chết úng. - Đắp đập giữ nước mà sao rừng vẫn cháy ? - Thật ra việc đắp đập cũng chưa phải là giải pháp vì rừng không thể giữ nước qua hết mùa khô. - Theo anh thì làm thế nào để giữ được rừng ? - Nếu tiếp tục đóng cửa rừng như thế nầy thì đành chịu ! Ngay như Sông Trẹm bây giờ, bình quân ngủ một đêm thức dậy mất ba ngàn cây tràm, trị giá hai mươi triệu đồng, một tháng mất nửa tỷ bạc. Đó là mùa khô, việc vận chuyển tràm từ trong rừng ra kinh khó khăn mà còn như vậy. Đến mùa mưa, mỗi tên trộm có thể bè năm mươi cây tràm cùng một lúc. Rừng vẫn mất mà dân thì vẫn đói ! Hơn hai mươi năm qua, cây tràm đã đi trong quẩn quanh của bao nhiêu cơ chế, cuối cùng là lệnh đóng cửa rừng nhưng vẫn không thoát khỏi ngọn lửa và bàn tay kẻ trộm. . * Anh Dũng ngồi trên chiếc xuồng ba lá đã mục nát úp trước hàng ba của căn nhà cũng đã không còn nguyên vẹn. Tay vấn thuốc rê, mắt đăm chiêu nhìn ra cánh rừng trước mặt, cánh rừng sau trận mưa đầu mùa trông buồn thảm làm sao ! - Anh vào đây từ năm nào ? – Tôi hỏi. - Ngày 25 tháng 2 năm 1983, tính đến nay đã mười lăm năm ba tháng. - Sao anh nhớ kỹ vậy ? - Làm sao quên được anh ! Đó là cái ngày mà vợ chồng tôi cùng bốn đứa đứa con trên chiếc xuồng ba lá trôi dạt về đây với hy vọng đổi đời. Tôi được lâm trường cho khai hoang bảy công đất rừng để làm ruộng và 130m bờ đê để trồng chuối. Nhưng mười mấy năm qua ruộng liên tục bị mất mùa vì đất phèn trũng, mỗi năm chỉ thu hoạch được ba bốn chục giạ lúa, đủ ăn được sáu tháng. - Thế những tháng còn lại ? - Tôi bán chuối, mỗi tháng được năm chục ngàn đồng. Ngoài ra có ai mướn gì thì làm thêm, còn không thì ăn cháo. - Sao anh không nuôi cá ? - Muốn nuôi cá phải có vài chục triệu để lên bờ bao, nhưng dân ở đây nghèo nên đành chịu. Chúng tôi từ giả anh Dũng. Tuấn ngồi trước mũi xuồng, ống kính hướng lên những căn chòi lụp xụp dọc theo bờ kinh xáng cắt ngang xẻ dọc trong rừng. Và, như một phản ứng tự nhiên, Tuấn khoát tay ra hiệu cho người lái vỏ dừng lại, ống kính cũng dừng lại ở người đàn ông đang chất từng bó rau rừng lên chiếc xuồng ba lá. Từ trong căn chòi nhỏ, người đàn bà trạc tuổi bốn mươi cùng ba đứa bé gái ôm những thúng rau đặt xuống bờ kinh, nào rau muống, đọt nhãn lòng, đọt choại ... Anh Biền, trưởng phòng tổ chức của lâm trường Sông Trẹm nói với chúng tôi : - Đây là gia đình anh Hai Thống, đang lúc đói ăn rau ... như ông bà ta từng nói. Phóng viên Ngọc Mai quay sang hỏi chị chủ nhà : - Một xuồng rau như vậy chị bán được bao nhiêu tiền ? - Dạ nếu bán hết thì được khoảng năm chục ngàn . - Chị đi bán tới đâu ? - Dạ xa lắm, tuốt trên Đầu Sấu, cách đây gần năm chục cây số, đi về mất hai ngày. Tôi bàng hoàng nhẩm tính : hái một ngày, đi bán hai ngày, chèo đi chèo về gần trăm cây số, dãi nắng dầm mưa, và ... 50.000 đồng ! Chị Thống vẫn cười vui vẽ nói : - Tính ra làm mướn thì khá hơn, nhưng ngặt bây giờ ai cũng nghèo, không ai mướn ai cả. Hổm rày thấy mấy người xung quanh hái rau đi bán được, tôi với ổng bắt chước làm theo. - Chừng nào chị mới bắt đầu đi ? – Ngọc Mai hỏi. - Dạ mười giờ khuya. - Vậy là chị phải thức suốt đêm ? - Chớ sao cô ! Chiếc xuồng nhỏ xíu, rau chất đầy hết, chổ đâu mà ngủ. Vã lại tôi phải bơi tiếp ổng cho mau tới. Trời đang vần vũ mây đen báo hiệu một cơn mưa đầu mùa sắp đến. Mấy anh cán bộ lâm trường tỏ vẻ mừng vui vì khỏi phải lo phòng chống cháy rừng, còn tôi chợt nghĩ : đêm nay vợ chồng anh Thống phải chèo chống trong mưa. Chúng tôi dừng lại ở một căn chòi kế tiếp, một đứa bé chừng sáu tuổi, gầy ốm, quần áo tả tơi, tóc vàng hoe, đôi bàn tay lấm lem rửa từng trái chuối luộc dưới dòng kinh. Hỏi ra mới biết, cả nhà đi làm cỏ mướn, trong nhà hết gạo, đứa bé – có tên là Ut Mót – ăn chuối luộc từ sáng đến giờ. Do chuối non, luộc xong để lâu nó bị nhuốm đen màu mủ, Ut Mót thấy vậy mang đi rữa cho sạch mủ và bớt đắng để ăn tiếp buổi chiều. Anh Biền cho chúng tôi biết, căn chòi nầy của ông Lưu Văn Hạnh, thương binh ¾, có chín đứa con, đứa lớn mới lấy chồng, ra riêng vừa dựng lên căn chòi bên cạnh, đứa con trai thứ hai khoảng mười bảy tuổi, mắc bệnh tâm thần, suốt ngày lội lang thang. Chúng tôi tìm đến chỗ gia đình anh Hạnh đang làm mướn. Tất cả tám người, hai vợ chồng, sáu đứa con đang ì ạch phác sậy trên bờ đê. Anh dừng tay và vui vẻ nói : - Phác một ngàn mét chiều dài, mười mét chiều ngang được trả công hai trăm năm chục ngàn đồng. Tám người làm xuyên suốt thì bốn ngày mới xong, phải ăn cơm nhà. Tính ra rẻ mạt nhưng tìm được việc làm thế nầy có phải dễ đâu. Anh Hạnh đốt điếu thuốc gò, hít, phà mấy hơi dài rồi nói tiếp : - Sống hết nổi rồi mấy chú ơi ! Ngày mai về Cà Mau họp chi bộ, tôi sẽ ở lại vài ngày để tìm mối sang nhượng lại quyền sử dụng đất rồi đi nơi khác sống. Kệ, kiếm chổ nào làm mướn làm thuê cũng được. Tuấn ngạc nhiên hỏi : - Ủa, anh nói về Cà Mau họp chi bộ nghĩa là sao ? - Tôi còn sinh hoạt Đảng ở xã Lý Văn Lâm. Tuy vào đây đã sáu năm nhưng vẫn họp định kỳ, không vắng mặt lần nào cả. Kệ, mình đói thì đói chớ đâu có bỏ Đảng được. Trời hỡi ! Anh nói tĩnh bơ mà sao tôi nghe như cổ mình nghẹn lại. Tuấn quay sang hỏi Ngọc Mai : - Nhà báo có còn giữ ý định viết về những nhà triệu phú nữa không? Ngọc Mai chỉ cười chua chát. Anh Biền bảo người lái vỏ ghé nhà chị Ba Phước. Chúng tôi chưa kịp lên bờ thì chị Ba từ trong nhà bước ra,giọng sang sảng : - Chú Biền ! Chú về báo lại với ban giám dốc, nếu không xử được bọn trộm thì tôi trả đất lại cho lâm trường. Tôi giữ rừng bao nhiêu năm nay rồi chú biết đó, đói cũng bấm bụng mà chịu. Giờ cây đến tuổi khai thác, nhà nước ra lệnh đóng cửa rừng tôi cũng chấp hành. Nợ hai chỉ vàng từ đầu năm đến nay, mỗi tháng đóng lời một trăm ngàn tôi cũng ráng chịu, không dám rớ đến một cây tràm. Vậy mà tụi nó ăn cắp hết đêm nầy qua đêm khác. Tôi báo mấy lần mà lâm trường có giải quyết được gì đâu. Giờ tụi nó đâm ra thù oán tôi. Thuốc heo, thuốc chó, bửa xuồng, cắt lưới, viết thư hăm doạ sẽ cho vợ chồng tôi bài học nếu tôi tiếp tục đi tố cáo chúng ... Biền than thở : - Tụi tôi biết làm thế nào được hả chị Ba ! Chỉ có quyền bắt mà không có quyền xử. Giao cho mấy cha kiểm lâm chẳng khác nào bắt cóc bỏ vô dĩa, mấy chả chỉ phạt một trăm ngàn rồi thả về. Chúng tôi lội vào khu rừng rộng mười hecta của chị Ba Phước, thì ra, bên trong cái hàng rào xanh mướt ấy là cành ngọn ngổn ngang, là hàng vạn gốc tràm bị cưa sát đất. Có lẽ con số ba ngàn cây tràm bị bọn lâm tặc cướp đi mỗi đêm mà anh Đắc đã nói với chúng tôi hãy còn khiêm tốn. Tôi cảm thấy xót xa cho vợ chồng chị Ba Phước, chịu khó chịu đói bao nhiêu năm để gìn giữ mảnh rừng để rồi cái lệnh đóng cửa rừng giáng xuống đúng thời kỳ khai thác. Cai cú xốc ấy chưa nguôi thì rừng đã về tay bọn trộm. Tối hôm ấy ngồi uống trà với phó giám đốc Lê Thanh Ngoan, tôi hỏi : - Theo anh thì giải pháp nào để cứu Sông Trẹm ? Anh lắc đầu rồi buông một tiếng thở dài : - Cơ chế bây giờ chưa có lối ra ! Sáng hôm sau, trước khi chuẩn bị rời Sông Trẹm, Tuấn hỏi tôi : - Anh xem còn quay gì nữa không, nếu không thì tụi em chuyển máy xuống xuồng ? Tôi suy nghĩ rồi chợt nhớ : - Cho anh một cú zom in tấm danh hiệu Anh hùng lao động, zom thật chậm. Tuấn cười, mắt liếc nhìn tôi : - Có phải ông đạo diễn muốn nói Sông Trẹm đã trở thành anh hùng liệt sĩ ? ĐOÀN LÀM PHIM BỊ CẤM ? Theo lịch quay, chúng tôi sẽ còn đi hai địa bàn nữa, đó là lâm trường U Minh I, nơi bị cháy rừng lớn nhất trong mùa khô năm nay và lâm trường 30/4, nơi chưa xảy ra vụ cháy nào. Trước khi khởi hành, tôi gọi điện thoại cho anh Năm Phong, chủ tịch huyện U Minh để hẹn trước và nhờ anh giúp đỡ. Anh Năm Phong cho biết rằng suốt ngày nay anh bận hội nghị, song, anh sẽ giao lại cho văn phòng đón tiếp đoàn phim. Mười giờ trưa chúng tôi đến thị trấn U Minh, sau khi trình giấy tờ cho anh Phước, chánh văn phòng ủy ban huyện, tôi gọi điện thoại cho anh Năm Cẩn, giám đốc lâm trường U Minh I báo cho anh biết rằng sau khi ăn cơm trưa, chúng tôi sẽ vào khu rừng cháy để quay phim. Vốn là người quen cũ nên anh Cẩn rất mừng rỡ và hẹn rằng đêm nay sẽ làm thịt chim đãi chúng tôi. Mọi chuyện tưởng bình thường, ai ngờ đang ăn cơm bổng nghe cô chủ quán gọi : - Ở đây anh nào tên Danh trong đoàn làm phim ? Tôi giật mình : - Dạ tôi đây. - Có điện thoại. Từ đầu dây bên kia: - Dạ tôi là Phước ở văn phòng ủy ban đây anh Danh ơi ! - Có chuyên gì vậy anh Phước ? - Trục trặc rồi ! Anh Công Nghiệp, phó chủ tịch tỉnh ra lệnh cho anh Măm Phong là không được tổ chức cho các anh vô rừng. Còn giám đốc lâm trường nào tự ý cho các anh vô thì phải chịu trách nhiệm trước ủy ban tỉnh. - Nhưng tại sao ông ấy biết chúng tôi ở đây mà cấm ? Ai báo về ngoài ấy ? - Đâu phải, ông ấy đang ở tại huyện, anh về gặp ổng xem sao. Tôi bảo mấy anh em trong đoàn cứ yên tâm ngồi ăn cơm chờ tôi. Trên đường sang ủy ban huyện, tôi cứ thắc mắc tại sao lại xảy ra chuyện nầy ? Tôi với anh Công Nghiệp thì có lạ gì nhau ? Cuối cùng tôi chợt nhớ ra, cách nay hơn một tháng, tôi có viết bài báo cánh rừng và ngọn lửa, trong đó tôi có nói đại khái rằng sự nghèo đói chính là ngọn lửa đốt cháy rừng trong mùa khô năm nay. Một hôm sang làm việc để phỏng vấn anh về dự án đa mục tiêu U Minh hạ, tôi có đưa bản thảo cho anh xem và nói : - Anh là người lăn lộn nhiều với rừng, tôi cho anh xem cái nầy để tham khảo, hôm nào anh rảnh tôi sẽ sang nhà anh, hai anh em mình uống rượu lai rai để tranh luận chơi vì tôi biết anh sẽ không hài lòng với cách nhìn của tôi về U Minh. Anh Nghiệp đọc lướt qua mấy trang rồi nói : - Mầy nên nhớ một điều, tỉnh mình hiện nay còn hơn mười ngàn hộ nông dân chưa có đất. Trong khi năm ngàn hộ nầy được giao khoán đất rừng là sướng cha người ta rồi còn đòi vốn liếng gì nữa. Mấy ông nông dân mình theo Đảng thật ra chỉ với mục đích là để giành đất, khi có đất rồi lại đòi đầu tư vốn. Cha ông mình ngày xưa đi khẩn hoang có đồng xu vốn liếng nào đâu, chỉ có cây phảng thôi mà cũng làm nên sự nghiệp ... Nghe anh nói tôi bị choáng người đến mức ngồi lặng thinh. Từ hôm ấy đến nay anh bận đi chỉ đạo phòng chống cháy rừng liên tục nên tôi không có dịp sang nhà anh để tranh cải như lời hẹn ban đầu. Và, có phải chính cái bản thảo ấy là nguyên nhân của sự trục trặc hôm nay? Chúng tôi gặp nhau trong phòng chủ tịch huyện, anh Nghiệp ôn tồn nói: - Thật ra thì không phải chúng ta bưng bít sự thật. Vấn đề là sự thật ấy nên nói lúc nào cho phù hợp. Đó là anh nói cái chung vậy thôi, chớ cụ thể thì anh cũng chưa hiểu cái phim của tụi em định nói những gì. Nhưng nói gì thì nói cũng phải thấy rằng năm nay tỉnh mình giữ được rừng U Minh là cả một kỳ công. Tôi ngồi im lặng, anh Nghiệp nói tiếp : - Bây giờ thế nầy, tụi em nên làm lại thủ tục, tức là trở về gặp sở văn hoá cho họ xem kịch bản, nếu được thì họ cấp giấy phép cho trở vô quay tiếp, còn nếu có gì khó khăn thì họ sẽ xin ý kiến ủy ban, ủy ban sẽ giải quyết. Như vậy là cạn tàu ráo máng, không thể nào đem luật ra mà tranh cải ở đây, chúng tôi đành im lặng vác máy ra về. Trể tàu lại không có đò nhỏ, chúng tôi đành phải thuê chiếc tàu lớn về Cà Mau với giá hai trăm năm chục ngàn đồng. Dọc đường đi, tôi chỉ hối hận một điều là cái chân tình của mình lại hoá ngây thơ khi cho anh Nghiệp xem bản thảo cánh rừng và ngọn lửa. Đến Cà Mau, tôi gọi điện thoại cho anh Huỳnh Khánh, giám đốc sở văn hoá thông tin, anh Khánh cười vang bên kia đầu dây : - Đoàn phim cánh rừng và ngọn lửa bị đuổi về rồi đó phải không ? Thôi, qua đây làm việc đi. Tôi và Tuấn chạy sang, anh Khánh nói : - Phải chi ngay từ ban đầu mấy ông đến đây để tôi giới thiệu cho đi là yên chuyện rồi. - Nhưng cái thẻ nhà báo của chúng tôi để làm gì ? – Tôi nói. - Biết rồi ! Nhưng ở đời đâu phải lúc nào cũng đem luật ra nói với nhau. - Nhưng phải chi thằng cha du kích ấp làm khó thì tôi còn chấp nhận được ! - Đừng nóng chú em ạ ! Đây là một vấn đề tế nhị. Bây giờ thế nầy, bên ấy bảo tôi phải xem kịch bản, nhưng tôi đâu có quyền làm chuyện ấy. Mà trong tình thế nầy cũng rất khó cho tôi. Vì vậy, để giải quyết vấn đề tế nhị nầy, mấy ông cảm phiền viết cho tôi mấy chữ : Thứ nhất, nội dung phim nói gì ? Thứ hai, tác giả và đạo diễn là ai ? Thứ ba, đơn vị nào sản xuất ? Thứ tư, địa bàn quay ở đâu ? Thứ năm, thời gian quay mấy ngày ? Tôi sẽ căn cứ vào đó để làm báo cáo qua bên ấy và làm thủ tục cho mấy ông đi. Sáng hôm sau, theo lời hẹn, tôi sang văn phòng ủy ban để biết kết quả. Nhưng kết quả lại là một công văn từ chối với mấy dòng chữ lạnh lùng: Trước hết, ủy ban nhân dân tỉnh Cà Mau ghi nhận sự quan tâm của đoàn làm phim đối với rừng tràm U Minh. Hiện nay khu vực rừng tràm mới bắt đầu vào mùa mưa, việc quản lý, bảo vệ, phòng chống cháy rừng còn nghiêm ngặt vẫn trong tĩnh trạng báo động khẩn cấp nên mọi tác động vào rừng tràm đều bị cấm. Do đó việc vào rừng tràm quay phim ở thời điểm nầy là chưa phù hợp. Mong các đồng chí trong đoàn làm phim thông cảm chuyển sang địa bàn khác. Năm phút sau khi fax công văn ấy về hãng phim, tôi nhận được điện thoại của anh Nguyễn Hồ : - Tụi bây cứ yên tâm nằm ở đó mà chờ. Tao sẽ gọi điện thoại thương lượng với đồng chí chủ tịch tỉnh. Nếu thương lượng không được thì tao sẽ xin phép Chính phủ cho tụi bây đi quay. Sáng hôm sau, chúng tôi được mời sang văn phòng ủy ban để làm thủ tục cho đoàn phim đi quay tiếp. Trên góc công văn của sở văn hoá thông tin được phê mấy dòng vắn tắt : Đồng ý cho đoàn phim đi quay, nhưng giao cho giám đốc sở văn hoá thông tin kiểm tra nội dung và hướng dẫn thực hiện. Anh Nghiệp niềm nở đến bắt tay tiễn tôi trong phòng khách, anh nói : - Chúc tụi em đi thành công. Tất nhiên là cái phim tụi em đang làm anh cũng chưa hình dung được, nhưng nhớ khẳng định dùm anh một điều : Mùa khô năm nay cả nước mình xảy ra mười hai ngàn vụ cháy rừng mà U Minh hạ chỉ có tám mươi bảy vụ. Cho nên, phải thấy rằng mình giữ được U Minh là cả một kỳ công. - Anh yên tâm – tôi nói – cái phim tụi em đang làm cũng chỉ vì muốn đóng góp một tình cảm cho U Minh mà thôi. - Nếu có thể được thì trước khi đi làm hậu kỳ, em cho anh xem lời bình để anh góp ý… Câu nầy thì tôi không dám hứa, vì với anh, tôi đã trót dại một lần. NHỮNG CẢNH QUAY CUỐI CÙNG. * Cảnh 1: Ông Ba Tận ngồi trên chòi canh, tay cầm tổ hợp máy PRC25, mắt đăm chiêu nhìn về phía khu rừng. Gần bốn tháng qua, ngày nào ông cũng ngồi trên đó. * Cảnh 2 : Nội cảnh nhà ông Ba Tận. Căn nhà đổ nát, nhìn lên lốm đốm ánh mặt trời. Năm đứa con ông gầy còm, hốc hác, tóc cháy vàng hoe. Bé Trúc Ly vo nắm gạo cuối cùng để nấu nồi cháo trắng. Trên bếp, một mẻ cá lòng tong ướp xả từ sáng đến giờ nhưng không có muối để kho. * Cảnh 3 : Ngọc Mai mở máy ghi âm phỏng vấn ông Ba Tận : - Thím Ba đâu hả chú ? - Bả về quê chửa bệnh hơn một tháng nay mà tôi chưa có tiền đi thăm. - Quê chú ở đâu ? - Ở Đầm Dơi. - Chú về đây bao lâu rồi ? - Tám năm. - Chú nhận khoán bao nhiêu đất rừng ? - Năm chục công. - Bao nhiêu năm nửa mới khai thác ? - Tám năn nửa, hiện nay rừng mới ba tuổi. - Chú làm được bao nhiêu ruộng ? - Mười bốn công. - Mỗi năm chú được bao nhiêu lúa ? - Bốn mươi giạ. - Đủ ăn được mấy tháng ? - Có ăn được tháng nào đâu. - Sao vậy ? - Tôi nợ bảy mươi giạ lúa vay, mỗi năm đóng lời ba mươi lăm giạ, bốn năm qua, tôi đã đóng một trăm bốn mươi giạ rồi mà nợ gốc vẫn chưa trả nổi. - Vậy chú sống bằng cách nào ? - Đặt trúm, giăng câu, làm mướn ... - Mấy đứa nhỏ có được đi học không ? - Không. - Tại sao ? - Nhà chỉ có một chiếc xuồng, để chúng lấy đi học thì nhịn đói. * Cảnh 4 : Sáu cha con ông Ba Tận ngồi quanh nồi cháo trắng. Tuấn chưa thực hiện đầy đủ những khung hình theo ý muốn thì nồi cháo đã hết. * Cảnh 5 : Khu rừng cháy ở lâm trường U Minh I, máy doly theo bờ kinh, nhìn mút tầm mắt chỉ thấy những thân tràm đen nằm chồng chất lên nhau. Từ trên chòi canh, đường lia 180 độ cũng vẫn là rừng cháy. * Cảnh 6 : Tuấn đặt máy qua vai tôi, ống kính vào cận cảnh giám đốc Trần Minh Cẩn để thu hình cuộc phỏng vấn : - Anh có thể cho biết tình hình giao khoán đất rừng và thực trạng đời sống nhân dân ? - Lâm trường chúng tôi có diện tích chung là 8721 ha, giao khoán cho 816 hộ với diện tích là 5585 ha. Đời sống của bà con hiện nay có gần 100 hộ đủ ăn, còn lại trên 700 hộ nghèo và đói. - Theo anh thì năm nay vì sao lâm trường anh bị cháy lớn ? - Do nghèo và đói. - Nguyên nhân trực tiếp ? - Vì đói mà họ bất chấp lệnh cấm, lén vào rừng lấy tổ ong. Tôi xin nêu một trường hợp cụ thể : Ông Mười Yểm, nhà hết gạo, vợ bệnh nặng nằm liệt giường, trong khi cái tổ ong trong khu rừng cạnh nhà ông khá lớn cứ thôi thúc ông. Nếu lấy được mười lít mật cũng được hai trăm ngàn đồng. Biết rằng cái lệnh cấm treo trên vách, ông cứ đắn đo trăn trở, đến khi bà vợ lên huyết áp, cần tiền đưa đi bệnh viện thì ông đành phải đánh liều lội vào rừng. Nhưng mới vừa đốt đuốc thì rừng bốc cháy, cháy cả chục hecta. Khi bắt ông giải về huyện, người công an còn vét túi cho ông hai chục ngàn và một cái quẹt gas. Anh ta nói : Ông đã phạm pháp thì luật pháp xử ông, cái ống quẹt của ông là tang vật, tôi giữ lại, còn cái nầy là của tôi, tôi cho ông để ông có mà xài. Tôi biết, nếu ông không đói thì sẽ không phạm pháp. Ông Mười rưng rưng nước mắt, lầm lũi bước xuống nhà giam. MANG THEO NỖI NIỀM U MINH HẠ Tôi về Cà Mau gần một tháng nay, trời đã trút những trận mưa dầm, có nhiều đêm mưa lớn. Cứ những chiều, những đêm mưa như thế, tôi mừng cho các anh giám đốc lâm trường vì lửa rừng không còn đe dọa các anh. Nhưng bên cạnh sự bình yên trong giấc ngủ của các anh thì tôi như chợt thấy vợ chồng anh Thống đang gồng lưng chèo trong gió ngược mưa đêm với chiếc xuồng đầy ắp rau rừng, có cả những tia chớp và những tiếng sét kinh hoàng trong đêm tối. Khi tôi chợp mắt lại thì hình ảnh sáu cha con ông Ba Tận bổng hiện ra, họ nép vào nhau ở một góc nào đó để trú mưa trong căn nhà đổ nát. Và nhiều đêm tôi tự hỏi, trong chuyến về Cà Mau họp chi bộ hôm rồi, anh Hạnh có tìm được người nào để chuyển nhượng lại quyền sử dụng đất hay không ? – “ Kệ, mình đói thì đói chớ đâu có bỏ Đảng được”. Anh nói tĩnh bơ mà sao tôi nghe như cổ mình nghẹn lại. Có những chiều, tôi định sang nhà anh Công Nghiệp – mà tôi quen gọi bằng anh Ba như người anh thân thiện trong nhà – để tâm sự cùng anh, tất nhiên không phải để tranh cải về cái bản thảo Cánh rừng và ngọn lửa mà là tâm sự về những chuyện gió, mưa, đói, lạnh của hàng chục ngàn thân phận con người trong những căn chòi xiêu vẹo giữa U Minh. Tâm sự, để mong tìm sự đồng cảm của anh với cái phần tâm linh của ống kính máy quay phim của chúng tôi mà hôm ấy anh đã dùng quyền lực để che nó lại bằng cái công văn khô khốc, lạnh lùng. Nghĩ thế nhưng đôi chân cứ ngập ngừng khi chợt nhớ những lời anh nói với tôi hôm trước : Tỉnh mình hiện nay còn mười ngàn hộ nông dân chưa có đất, trong khi năm ngàn hộ ở đây dược giao khoán đất rừng, họ sướng cha người ta rồi còn đòi vốn liếng gì nữa ? Mấy ông nông dân của mình theo Đảng chỉ với mục đích là để giành đất, giờ có đất rồi lại đòi đầu tư vốn. Cha ông mình ngày xưa đi khẩn hoang có đồng xu vốn liếng nào đâu, chỉ có cây phảng thôi mà cũng làm nên sự nghiệp ... Nhiều lúc tôi đâm ra thắc mắc, giữa các anh với bọn cầm bút chúng tôi, chúng ta cũng từ nông dân mà ra, cùng chào một lá quốc kỳ, cùng hát một bài quốc ca mà sao trong cõi tâm linh lại quá nhiều khoảng cách ? Tôi nhớ cách đây hơn mười năm, nhà thơ Lê Chí làm một bài thơ có tựa đề Nếu sự thật là điều không nghe nổi, tôi còn nhớ một đoạn mà tôi nghĩ rằng chép ra đây rất phù hợp với hoàn cảnh nầy : Ôi, điều phải biết thì lại là bất biết Mồ hôi nào rõ xuống đồng sâu Đôi mắt nào thức suốt đêm thâu Bàn tay nào nhọc nhằn chay cứng Giữa đau đớn ai là nhân chứng Giữa nhân dân ai biết nhận ra mình Giữa cuộc đời ai thắp sáng niềm tin Giữa hư thực ai nói điều chân lý Có một điều vô cùng giản dị Tưởng ai ai cũng có thể làm Là đến thật với mọi điều cùng đất nước nhân dân Dẫu điều ấy vô cùng cay đắng Vậy mà Sau mười năm toàn thắng Ta mãi quen nghe khúc nhạc chào mừng Ta thích ngắm những bông hoa màu hường Ta thích dạo những con đường thẳng tấp Đã lạ lẫm với mùa khoai mùa bắp Lạ lẫm với tháng năm mưa nắng thất thường Cuộc sống nhân dân thử thách chiến trường Thử thách lòng mình dữ dội Nếu sự thật là điều không nghe nổi Thì còn gì ta đến với nhân dân Sẽ còn gì để biết xa hay gần Mỗi bước đường lên hạnh phúc Phải đến với sự thật nhân dân không cách nào khác được Bởi đất nước nầy là đất nước của nhân dân ... Tháng 8 năm 1998 Dưới chân đài tưởng niệm Đoàn phim chúng tôi thuê nhà trọ ngay cửa biển Khánh Hội, huyện U Minh, một trong những cửa biển giàu có nhất của tỉnh Cà Mau. Ngồi trước nhà nhìn ra chỉ thấy biển mù khơi, tàu cá vào ra tấp nập. Phía sau nhà là Đài Tưởng niệm đồng bào bị tử nạn trong cơn bão Linda. Hơn ba năm trước, tôi đến đây vào những ngày sau bão, cửa biển này đã trùm lên một màu tang tóc. Toàn bộ phố xá hai bên bờ sông sập thành bình địa. Ngoài cửa biển, hàng ngàn người chen nhau đứng ngóng trông, tìm kiếm người thân trong niềm tuyệt vọng. Những ngày ấy, tiếng sóng biển được thay bằng tiếng khóc than, gào thét, rên rỉ đến mỏi mòn của những người vợ mất chồng, của những người mẹ mất con… Bây giờ, tất cả đã đổi thay, sự giàu có của Khánh Hội tưởng như đã xóa đi dấu vết tàn khốc của Linda nếu không có những con số thiệt hại về của, về người được khắc ghi trên Đài Tưởng niệm. Nhưng không... Đoàn làm phim chúng tôi về đây cũng vì cái lẽ nhưng không ấy. Công việc đầu tiên của chúng tôi là nhờ chính quyền địa phương mời khoảng vài chục bà góa phụ của cơn bão Linda đến thắp nhang dưới chân Đài Tưởng niệm để chúng tôi thực hiện những cảnh quay. Nhưng sáng hôm sau, vào giờ hẹn đã có hàng trăm bà kéo đến. Tôi chưa kịp làm công tác đạo diễn thì tiếng khóc gọi chồng, gọi con đã dậy lên thê lương cả một vùng cửa biển và khói hương bay lên nghi ngút cả vùng trời. Đoàn phim của chúng tôi cũng không ai cầm được nước mắt. Tôi đứng lặng người bên hàng rào chờ cho dịu đi cơn sốc, và chợt nhận ra, trong số họ có những người mà tôi đã gặp cách đây hơn ba năm, cũng tại cửa biển này vào những ngày tang tóc ấy, trong sổ tay của tôi vẫn còn nguyên vẹn những trang tốc ký về sự mất mát của mỗi người: Bà Trương Thị Lài, mất bốn người con ruột, một đứa cháu nội cùng với ba chiếc ghe; bà Quách Thị Huê, mất ba người con ruột, hai người con rể, hai đứa cháu ngoại và sáu chiếc ghe; bà Huỳnh Thị Kiểm, mất một ghe, ba người con ruột, hai người con rể và hai mươi ngư phủ;... và, trong hàng ngàn ánh mắt tuyệt vọng ngoài bãi biển hôm ấy, tôi gặp một gương mặt thiếu phụ còn rất trẻ - cô Trần Thị Thu Vân, 21 tuổi - bụng đang mang thai, tay bồng đứa bé mới lên hai tuổi, cô lê từng bước trên bãi bùn với tiếng khóc nghêu ngao. Giờ đây, cô đang đứng dưới chân Đài Tưởng niệm, một tay dắt đứa bé gái năm tuổi, tay bồng đứa bé trai ba tuổi, trông cô già đi gấp mấy lần so với ba năm trước. Tác giả kịch bản của đoàn phim chúng tôi - nhà báo Đỗ Văn Nghiệp - cho biết, cô Vân đặt tên cho đứa con trai của cô là Dương Hận Bão. Chồng chết, nhà sập, con nhỏ, bụng mang thai. Trong cảnh lá rách ít đùm lá rách nhiều của một vùng tâm bão, bà con lối xóm dựng lại cho mẹ con cô căn chòi không quá mười mét vuông trong khóm bạch đàn. Căn chòi như cái tổ chim vì cây đòn dông cột dính vào hai cây bạch đàn đang sống, ngọn cao ngút trời xanh. Cho nên mỗi lần gió thổi thì căn chòi cứ sàng qua lắc lại theo cây bạch đàn. Vậy mà ba mẹ con cô đã sống ở đó đến ba năm! Căn chòi chỉ đủ lót mấy tấm ván và để một cái lò nấu cơm, còn bàn thờ chồng cô phải gởi nhà người khác. Sau khi chồng chết hai tháng, cháu Bão chào đời trong một trường hợp rất thảm thương: Nửa đêm, khi biết mình trở dạ, cô ôm manh chiếu lết ra sân và thảng thốt gọi người hàng xóm, khi người đàn bà hàng xóm nghe được thì trên manh chiếu rách ấy, cô đã tự sinh con. Sau khi thực hiện xong những cảnh quay tại nhà cô, chúng tôi gởi lại cho cô một trăm ngàn đồng và năm mươi ký gạo. Mấy người hàng xóm nói thay cô lời cảm ơn, còn cô thì ngồi lặng im với hai dòng nước mắt. Bà con cho biết: Mấy ngày nay cô đi hốt cỏ mướn, mỗi công cỏ được trả 23.000 đồng, nhưng phải mất bốn ngày lao động. Trong khi đó cô phải thuê giữ con hết 4.000 đồng, như vậy bốn ngày lao động dầm mưa dãi nắng của cô chỉ còn 19.000 đồng mà phải tự lo cơm! Song, mỗi ngày kiếm được 4.750 đồng vẫn hơn những ngày không có ai mướn gì để làm, cô phải đi mượn gạo để nấu cháo mà ăn! Chị Lê Hồng Việt, chồng chết để lại chín đứa con. Hai đứa con trai lớn chưa đến tuổi lao động nhưng phải theo ghe biển làm thuê rồi ở luôn ngoài đảo không về. Cũng như cô Vân, chị Việt phải làm mướn bất cứ việc gì để nuôi bảy đứa con nhỏ. Nhưng đâu phải ngày nào cũng có việc làm, thế là tám mẹ con chị thường xuyên ăn cháo. Chị Đào Kim Ngân, chồng mất tích, mất luôn cả chiếc ghe biển, chị phải bươn chải nuôi hai đứa con với nghề chèo đò ngang bằng chiếc xuồng ba lá. Nhưng chiếc xuồng cứ mục, cứ bể dần, cứ đe dọa nguồn thu nhập hiếm hoi của chị. Khi tâm sự trước ống kính của chúng tôi, chị nói: Tôi chỉ hy vọng vay được quỹ xóa đói giảm nghèo chừng hai triệu đồng đủ đóng lại chiếc xuồng mới để chèo đò nuôi con! Song, được vay hai triệu đồng lại là ước mơ xa vời với các chị, như chị Trần Thị Bạch cho biết, để có vốn mua cá làm chả đi bán, các chị phải vay bạc ngày, bạc góp, tính ra lãi suất từ 50% đến 60%/ tháng. Ở đây có hai phương thức cho vay: Nếu vay bạc ngày thì cứ 100.000 đồng mỗi ngày trả lãi 2.000 đồng, còn vay bạc góp thì cứ 100.000 đồng mỗi ngày góp 10.000 đồng trong thời hạn 12 ngày. Các chị đùm bọc nhau bằng cách đi học nghề vá lưới rồi truyền lại cho nhau để kéo nhau đi làm mướn cho các tàu đánh cá. Nhưng số lượng ghe lưới ở đây cũng không đủ công việc cho cả một tập thể góa chồng. Nhiều chị còn trẻ, có chút ít nhan sắc đành phải bán mình để nuôi con. Phía sau chợ Khánh Hội có một xóm nhà lá liền vách nhau tạo thành hình vuông bao quanh dưới chân Đài Tưởng niệm là khu vực hoạt động mại dâm một cách bán công khai. Trong đó có nhiều địa chỉ có tên gọi là Linda hoặc Bão số 5 là nơi tập trung những chị em có chồng chết trong cơn bão. Số chị em ấy tuy không nhiều nhưng nó làm nhức nhối tâm can những ai đã từng chứng kiến cơn bão Linda trên mảnh đất này. Trước cơn bão Linda, cửa biển Khánh Hội đang vào thời kỳ hưng thịnh của nghề câu mực, mà đặc điểm của nghề câu mực là lao động càng đông thì năng suất càng cao. Thế là lực lượng lao động nhàn rỗi khắp nơi trong tỉnh Cà Mau và các tỉnh miền Tây kéo về Khánh Hội để theo ghe biển. Bất ngờ bão đến. Tất cả đã không về. Không thể thống kê được số liệu thiệt mạng của những người tứ xứ bởi khi ra đi họ trốn tránh sự kiểm soát của Bộ đội Biên phòng. Chỉ biết rằng bằng phương pháp điều tra hộ khẩu, riêng huyện U Minh đã chết 700 người. Song, chưa có phương pháp điều tra nào để xác định rằng từ đó cuộc mưu sinh đã trút lên đôi vai của bao nhiêu trẻ con và phụ nữ? Thật đáng tiếc, Nhà nước đã đầu tư hàng ngàn tỷ đồng cho những dự án khắc phục hậu quả cơn bão Linda, nhưng vì lý do gì nguồn vốn ấy không đến được với những người vợ mất chồng trong cơn bão? Một trong những người được thừa hưởng nguồn vốn ấy, anh Bùi Minh Trí đã nói trước ống kính của chúng tôi: - Trong cơn bão số 5, tôi bị mất một chiếc tàu trị giá 100 triệu đồng cùng với tám ngư phủ. Nay tôi được Nhà nước đầu tư 570 triệu đồng để đóng lại tàu mới. Tôi vô cùng mang ơn Nhà nước nhưng tôi cũng luôn luôn xót xa và ray rứt vì mình mất của mà được đền bù còn những người mất mạng, để lại cho vợ con họ những hậu quả nặng nề mà Nhà nước không quan tâm giúp họ khắc phục. Tôi luôn tâm nguyện rằng, mai mốt tôi làm ăn khá giả, tôi sẽ giúp đỡ gia đình họ. Lạy trời cho anh Trí làm được điều ấy và nhiều chủ tàu có cùng tâm nguyện như anh. Đau thương trên đất Cà Mau ĐÔI DÒNG NHẬT KÝ: Chiều thứ bảy, ngày 1 tháng 11: Tòa soạn nhận được một phong thư, bên ngoài có hàng chữ đỏ: Mời họp hỏa tốc. Bên trong là hai công văn của Ủy ban Nhân dân tỉnh Cà Mau, mang số 905 và 906. Công văn 905 mời các cơ quan báo chí có mặt tại Văn phòng Ủy ban Nhân dân vào 13 giờ 30 ngày thứ hai, 3-11, để được Chủ tịch tỉnh hướng dẫn nội dung tuyên truyền về Đại hội Đảng bộ tỉnh Cà Mau lần thứ XI sẽ khai mạc vào ngày 6-11. Công văn 906 mời đại diện các ban ngành tỉnh, phó chủ tịch và trưởng phòng giáo dục các huyện thị, phóng viên báo chí địa phương và trung ương thường trú tại Cà Mau… có mặt tại Văn phòng Ủy ban Nhân dân tỉnh vào 6 giờ sáng thứ ba 4-11 để dự cuộc họp tổng kết đợt xây dựng 500 phòng học phục vụ cho khai giảng năm học mới 1997-1998. Tối thứ bảy, ngày 1 tháng 11: Thông báo số 1 của Ban Chỉ huy Phòng chống lụt bão tỉnh Cà Mau: "Hồi 7 giờ sáng hôm nay, ngày 1-11-97, áp thấp nhiệt đới có vị trí trung tâm ở vào khoảng 7,5- 8,5 độ vĩ bắc, 113,0- 114,0 độ kinh đông. Sức gió mạnh nhất ở gần trung tâm lên cấp 7 tức là từ 60-65 km/h, cách quần đảo Trường Sa khoảng 180 km về hướng Đông Đông Nam. Dự báo trong 24 giờ tới áp thấp nhiệt đới di chuyển về phía Tây với tốc độ khoảng 20 km/h, và có khả năng mạnh lên thành bão. Ban Chỉ huy Phòng chống lụt bão tỉnh Cà Mau yêu cầu các phương tiện tàu thuyền đang khai thác biển hãy tìm nơi trú ẩn. Tàu còn ở trong sông không ra biển. Các địa phương có ý thức bảo vệ tài sản khi có mưa to gió lớn. Đề nghị theo dõi diễn biến tin về áp thấp nhiệt đới. Các cấp chính quyền, Ban Chỉ huy Phòng chống lụt bão các cấp có kế hoạch sẵn sàng ứng phó khi có bão gần". Trưa chủ nhật, ngày 2 tháng 11: Trời bắt đầu mưa to gió lớn, hàng dừa trước cửa ngả nghiêng, cây bàng lật gốc, một vài căn nhà bị tốc mái, điện cúp, không biết có phải đây là bão hay không? 40 tuổi đời, tôi chưa bao giờ thấy bão. Hỏi người lớn tuổi xung quanh, cũng không ai biết. Chiều chủ nhật, ngày 2 tháng 11: "Mời các bạn nghe tin báo khẩn cấp cơn bão số 5. Hồi 13 giờ chiều nay mồng 2 tháng 11, vị trí tâm bão số 5 ở vào khoảng 8,5 độ vĩ bắc, 108,3 độ kinh đông, cách bờ biển Bạc Liêu- Cà Mau khoảng 100 km về phía Đông Đông Nam, sức gió mạnh cấp 9, cấp 10, giật trên cấp 10 tức là từ 75 đến 102 km/h. Dự báo trong 24 giờ tới, bão số 5 di chuyển theo hướng giữa Tây và Tây Tây Bắc một giờ đi được khoảng 20 km. Như vậy , chiều và đêm nay bão số 5 sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến các tỉnh miền Tây Nam Bộ và Bà Rịa-Vũng Tàu. Do ảnh hưởng của cơn bão, ở vùng biển ngoài khơi từ Bà Rịa-Vũng Tàu đến Cà Mau có gió bão mạnh cấp 8, vùng gần tâm bão cấp 9, cấp 10, giật trên cấp 10, biển động rất mạnh, các tỉnh miền Tây Nam Bộ và Bà Rịa - Vũng Tàu, chiều tối và đêm nay, gió bão mạnh dần lên cấp 7, cấp 8, vùng gần tâm bão cấp 9, cấp 10. Ở vùng biển từ Cà Mau đến Kiên Giang và Vịnh Thái Lan, đêm nay và ngày mai có gió bão mạnh cấp 7, cấp 8. Vùng gần tâm bão cấp 9, cấp 10, giật trên cấp 10, biển động rất mạnh, ở các tỉnh Nam Bộ và Nam Trung Bộ có mưa to đến rất to. Ở vùng ven biển các tỉnh từ Bà Rịa - Vũng Tàu đến Cà Mau cần đề phòng nước dâng cao 3 mét rưỡi đến 4 mét rưỡi". Tối chủ nhật, ngày 2 tháng 11: Điện cúp. Trời tối đen, gió mạnh và giật dữ đội. Vào lúc 21 giờ tôi ghi âm lại bản tin "bão khẩn cấp" của Đài Tiếng nói Việt Nam rồi mở lại cho đồng chí Tổng Biên tập nghe qua điện thoại và cùng theo dõi việc chuẩn bị cử phóng viên đi theo các đoàn chống bão lụt. 21 giờ 30 tôi gọi điện thoại xuống các huyện và các xã vùng ven biển, hầu hết đường dây đã mất liên lạc. Lúc này, tôi bắt đầu đã ý thức được sự nguy hại của cơn bão số 5 đang hoành hành tại Cà Mau. Sáng thứ hai, ngày 3 tháng 11: Mưa lớn, một số đường trong thị xã bị ách tắc giao thông vì cây ngã, cột điện gãy. Tại trụ sở UBND tỉnh, hàng bạch đàn trước sân nằm sắp lớp, nhà xe bị sập. Tôi bước vào trong, đã hơn 8 giờ sáng mà văn phòng vẫn còn vắng lặng, bất ngờ gặp chị Năm Niêm, Giám đốc Sở Thương mại và Du lịch, với nét mặt buồn lạnh, chị lắc đầu nói: - Không có ai trong đó đâu, đừng vô mắc công. Mấy anh lãnh đạo đi xuống các huyện từ sáng sớm rồi. - Chị có nghe thông tin gì không? - Tôi hỏi. - Chưa nghe nguồn tin nào chính xác vì điện thoại ở các huyện bị mất liên lạc, chỉ biết sơ bộ là 12.000 căn nhà bị sập, 600 tàu biển chưa vào đất liền. Trưa thứ hai, ngày 3 tháng 11: Tôi bước lên phòng họp A của Văn phòng UBND tỉnh theo Công văn 905. Cũng đúng giờ giấc và vị trí ấy nhưng thành phần tham dự và nội dung cuộc họp thì khác. Anh Ba Cầu, Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn báo cáo: - Toàn bộ hệ thống trường học ở huyện Cái Nước bị thiệt hại nặng trong đó có 450 phòng học bị bão xóa sạch. Nhà dân bị thiệt khoảng 90%. Riêng các cửa biển từ Cái Đôi Vàm đến Rạch Chèo, hầu như không còn sót căn nào. Chiều thứ hai, ngày 3 tháng 11: Tòa soạn nhận được thông báo của Thường trực Tỉnh ủy Cà Mau, một văn bản hành chính mà sao giống như một bản tin buồn. Ngày 25/10/97 Ban Chấp hành lâm thời Đảng bộ tỉnh Cà Mau có thông báo số 17-TB/TU triệu tập Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Cà Mau lần thứ XI vào các ngày 6, 7 và 8/11/97. Nay trước tình hình thiệt hại rất nặng nề về người và tài sản do cơn bão số 5 gây ra, Ban Chấp hành lâm thời Đảng bộ tỉnh Cà Mau quyết định hoãn thời gian Đại hội nói trên và sẽ tiến hành Đại hội vào thời điểm thích hợp để có thời gian toàn Đảng, toàn quân trong tỉnh dồn sức quyết tâm khắc phục hậu quả do thiên tai gây ra, sớm ổn định đời sống và sản xuất của nhân dân trong tỉnh". NHỮNG BUỔI CHIỀU TANG TÓC Chiều thứ ba, ngày 4 tháng 11, con số thống kê tạm thời: - Chết 28 người, bị thương 367 người, mất tích 622 người, 42.156 căn nhà bị sập, 75.085 căn nhà bị hư hỏng, 1.650 phòng học bị sập, 1.900 phòng học kiên cố bị hư hỏng, 144 tàu đánh cá bị chìm và 604 chiếc mất tích, 68.000 ha đất nuôi tôm bị thiệt hại, 600 miệng đáy hàng khơi bị bão cuốn mất v.v… tổng giá trị thiệt hại ước tính 1.783 tỷ đồng. Chiều thứ tư, ngày 5 tháng 11: - Chết 64 người, bị thương 373 người, mất tích 202 người, 49.086 căn nhà bị sập, 75.085 căn nhà bị hư hỏng, 2.989 phòng học bị thiệt hại, 278 tàu cá bị chìm và 195 tàu bị mất tích, 30.000 ha rừng bị thiệt hại nặng, 50.000 ha lúa bị thiệt hại từ 50% trở lên v.v… Chiều thứ năm, ngày 6 tháng 11: - Chết 93 người, bị thương 373 người, mất tích 734 người, 56.291 căn nhà bị sập, 79.054 căn nhà bị hư hỏng, 3.190 phòng học bị thiệt hại, 328 tàu đánh cá bị chìm, 353 tàu bị mất tích, 91.000 ha đất nuôi tôm bị thiệt hại v.v… Chiều thứ sáu, ngày 7 tháng 11: - Chết 132 người, bị thương 412 người, mất tích 260 người, 1.974 phòng học bị sập và 2.203 phòng bị tốc mái hư hỏng, 366 tàu chìm và 259 tàu mất tích, 695 hàng đáy bị bão cuốn trôi. Chiều thứ bảy , ngày 8 tháng 11: - Chết 141 người, bị thương 464 người, mất tích 273 người, 429 tàu cá bị chìm và 206 tàu bị mất tích, 3.895 miệng đáy bị nước cuốn trôi. 40.570 ha rừng bị thiệt hại, 45 cống thủy lợi bị phá vỡ, 82 km đê biển và 131 km đê sông bị hư hỏng nặng vân vân và vân vân. Ước tính thiệt hại vật chất là 2.500 tỷ đồng. Cứ thế những con số thiệt hại cứ kéo dài theo những buổi chiều u ám. Tại Văn phòng UBND tỉnh - nơi làm việc của Ban Chỉ huy Phòng chống lụt bão, không khí nặng nề khó thở, gương mặt đồng chí chủ tịch UBND tỉnh lúc nào cũng ủ dột, mắt đỏ hoe như người chủ tang gia. Khách trong nước, khách nước ngoài cứ liên tục đến, những cái bắt tay kèm theo những ánh mắt chia buồn và những đồng tiền cứu trợ đầy nặng nghĩa tình được gửi đến. Trước cửa phòng vi tính, vào cuối mỗi ngày, các phóng viên báo chí chen nhau chờ đợi những đáp số dừng lại trên màn hình dù biết rằng đó là những con số đau thương. Nhưng con số cứ tăng dần, tăng dần không cách nào cưỡng lại. Mà làm sao cưỡng lại được vì đó là sự thật. Làm sao cưỡng lại được vì đó là BÃO TÁP. Đã là bão táp thì thiệt hại đâu thể tính bằng vi tính. QUÊ HƯƠNG BÂY GIỜ NHƯ THẾ NÀY SAO ? Đi trên sông rạch Cà Mau, nhìn sự đổ nát của nhà cửa, cây cối hai bên bờ sông mà lòng quặn đau như dao cắt. Quê hương bây giờ như thế này sao? Chúng tôi đi hàng trăm cây số trên các tuyến sông từ Cái Tàu qua sông Ông Đốc, Phú Tân, Rạch Chèo, Tam Giang, Đầm Dơi, Đất Mũi… để rồi chỉ hỏi lòng mình một câu như thế! Trời thì mưa dầm dề mà cỏ cây thì úa màu tang tóc. Lau sậy thì bầm dập. Dừa nước thì tưa tải, rừng chồi thì trụi lá, cây to thì gãy cành, lật gốc. Chúng tôi đến Lâm ngư trường Tam Giang III, nơi đây còn lại 500 ha rừng đước nguyên thủy, một khu rừng duy nhứt của tỉnh Cà Mau được gọi là rừng giống, được giữ gìn nghiêm ngặt vì nó cung cấp trái đước cho kế hoạch khôi phục hàng chục ngàn hecta rừng ngập mặn của tỉnh nhà. Vậy mà bây giờ cảnh tượng của khu rừng giống như một trận bom vừa đi qua. Từng thân cây gãy đỗ gục ngã, nằm chồng chéo lên nhau. Có những thân cây to đến một người dang tay ôm không hết. Vậy mà bão giật chúng gãy ngang như sét đánh. Nhìn khu rừng bị xóa sổ, tôi hỏi thiệt hại bao nhiêu, anh Hai On, Giám đốc lâm ngư trường, nói gọn: - Khoảng 40 tỷ. - Để tái tạo khu rừng như thế này, phải mất bao nhiêu năm? - Khoảng 40 năm. - Rừng giống mất rồi, từ nay lấy đâu ra trái đước để khôi phục rừng ngập mặn? - Anh không trả lời tôi mà chỉ thở dài. Như vậy con số 40 tỷ đâu có thể đo được mức độ thiệt hại của 500 ha rừng nguyên thủy, trong khi diện tích rừng bị thiệt hại trong toàn tỉnh đã lên đến 40.000 ha. Vẫn chưa hết, rừng trụi lá, lá thúi làm chết cá tôm. Nước thúi từ trong rừng đổ ra, đen quánh các dòng kinh, bốc lên nồng nặc. Anh Quang Minh Nhật, phóng viên báo Thanh Niên, nói như tổng kết: - Lên rừng thì ngửi mùi thúi của lá cây, xuống biển thì ngửi mùi thúi của xác người. Thử hỏi trên trái đất này có trận bão nào khủng khiếp thế không? ƯỚC GÌ "BỎ CỦA LẤY NGƯỜI" Dọc theo hai bên bờ sông Tam Giang và Kinh 17 có hàng ngàn hộ dân nghèo sống trong căn chòi lá với chiếc xuồng câu. Cơn bão đi qua, tất cả chỉ còn lại hai bàn tay trắng. Chúng tôi gặp bà Quách Ngọc Anh trong tình cảnh ấy, bà bị mất hồn đến nỗi không nhớ mình có mấy đứa con, không nhớ mình bao nhiêu tuổi. Người ta cho biết bà khoảng ngoài 40 tuổi có 11 đứa con, hai vợ chồng sống nghề câu cá dứa trên sông Tam Giang. Bão đã cuốn sạch của bà tất cả những gì gọi là "tài sản" kể cả phương tiện sống duy nhất là chiếc cần câu. Trời ơi! Rồi đây hàng ngàn gia đình ấy sẽ về đâu khi hiện tại đã trắng tay trong cảnh màn trời chiếu đất. Xóm Rạch Chèo, một cửa biển sung túc vừa được hình thành cách mấy năm nay, có thể gọi đây là một trong những cụm kinh tế của huyện Cái Nước. Vậy mà trong một đêm bỗng hóa ra bình địa. Chị Ngọc Nữ, một chủ doanh nghiệp kinh doanh hàng thủy sản giàu có nhất nơi này, thoáng chốc đã trở thành tay trắng, thậm chí lâm vào cảnh nợ nần. Chị nói: "Tôi bị thiệt hại gần 500 triệu đồng. Mấy ngày đầu chỉ biết khóc. Nhưng mấy ngày nay thấy cảnh bà con chết chóc tang thương, nghĩ lại dù sao mình cũng chỉ mất của, còn người…". Ôi! Giá như tất cả chỉ mất của còn người sau cơn bão… Nhưng làm sao mà "giá như" được khi trước mắt chúng tôi người thiếu phụ 39 tuổi - chị Phan Thị Lệ, ấp Rạch Tàu, xã Đất Mũi, đang ngồi gào thét dưới sàn nhà, chị đã bị mất cả của cải lẫn người thân. Bão đã cướp của chị 1 chiếc ghe biển, 20 miệng đáy trị giá 300 triệu đồng cùng với người chồng và 2 đứa con trai. Nhưng đâu chỉ có thế, trên chiếc ghe ấy còn có cả 6 người bạn chòi cùng mất tích. Chị lập một bàn hương án trước cửa nhà ngày đêm khấn nguyện "nếu chồng con trở về, tôi sẽ xuống tóc". Một ông lão ngồi cạnh chị nói với chúng tôi: - Tội nghiệp nó, chín năm trước, thằng Hiển, chồng trước của nó, cũng chết ngoài biển. Giờ đến thằng chồng sau. Chị Nguyễn Thị Tụi, 41 tuổi, một trong những chủ tàu giàu có ở cửa biển Sông Đốc. Nhà chị có đến 3 chiếc ghe lưới đèn trị giá gần 2 tỷ đồng. Vậy mà, tất cả đều ra đi cùng với 23 thuyền viên, trong đó có chồng chị - anh Trương Tấn Hòa - và người con rể - Trần Minh Hiếu. Vợ của Hiếu - cô Trương Việt Tân - 22 tuổi, vừa mới sinh con, giờ trở thành quả phụ, đồng cảnh ngộ với mẹ mình. Có lẽ từ nay, biển sẽ trở thành tiếng ru buồn đối với hai mẹ con người quả phụ ấy đến suốt cuộc đời. Ở cửa sông Ông Đốc, mỗi ngày có hàng trăm người, đứng chen chân nhìn ra biển để ngóng trông tin tức của người thân đang mất tích. Trên bờ sông, mỗi ngày có vài chục xác người được chở về từ biển. Nhưng những xác chết đã trở nên vô thừa nhận bởi đã sình trương, biến dạng, không còn lại dấu vết gì để người thân nhận dạng người thân. Tôi gặp má Nguyễn Thị Mười ở Mỹ Tho xuống đây tìm kiếm con mình. Má nói, con má tên Trần Đức Lợi, bên tai trái có đeo một chiếc bông tai. Hai ngày qua, má cứ lật tìm chiếc bông tai trên gần 30 thi thể. Đến ngày thứ ba, người ta thấy má gào lên: - Con ơi là con! Trời ơi tôi chỉ có một thằng con trai duy nhất. Má chỉ nói được bao nhiêu đó rồi ngất xỉu. Những người đồng cảnh ngộ xúm lại dìu má đến gò đất khô và cạo gió cho má. Tất cả đều khóc, không biết rằng họ khóc cho ai. Một thiếu phụ ngồi kế bên, úp mặt xuống đầu gối nức nở: "Anh ơi! Dù anh có chết đi cũng phải về đây cho em chôn cất đàng hoàng…". Tôi rời cửa Sông Đốc trước cảnh tượng ấy trong một cơn mưa tầm tã, mưa trắng xóa cả một vùng biển, vùng trời. Cứ tưởng như những ngày sau cơn bão, nước mưa hòa trong nước mắt của hàng vạn con người, mà đâu chỉ riêng gì trên đất Cà Mau. Hỡi các thế hệ mai sau! Xin nhớ cho rằng từ nay, những giọt nước tinh khôi lấy lên từ lòng đất, trong đó có lẫn nước mắt của một lớp người. Nơi ấy bây giờ I - TRÍCH MỘT BÀI VIẾT CŨ Cho đến bây giờ vẫn chưa ai biết được hai chữ Long Điền xuất xứ từ đâu. Kể cả những cụ già cao tuổi nhất trong làng cũng bảo rằng khi các cụ lớn lên thì đã nghe mảnh đất này mang tên ấy. Nhiều người hiểu về Long Điền bằng một khái niệm giản đơn theo từ Hán, tức là mảnh “đất rồng “ . Người ta kể rằng hồi đó Long Điền chiếm toàn bộ phần đất phía Đông huyện Giá Rai có bờ biển chạy dài từ cửa sông Gành Hào lên Vĩnh Mỹ. Dân cư thưa thớt bởi hơn hai phần ba đất đai thuộc rừng rậm, nhiều thú dữ. Vùng đồng bằng tuy nhỏ nhưng rất phì nhiêu do hai tên Huyện Kệ và Phủ Mầu làm chủ. Khoảng đầu thế kỷ XX, có một người Hoa tên Sổn chuyên làm nghề lái đường từ Gia Định về Bạc Liêu , không hiểu duyên cớ vì sao , có lẽ vì tên chủ hãng đường ở Gia Định sơ ý để lộn hũ bạc xuống ghe đường của tên Sổn mà sau chuyến đi ấy, tên Sổn từ giã nghề lái đường. Hắn mua được chức quan huyện và phần đất của Phủ Mầu. Từ đó, những người nông dân thuộc tá điền của Phủ Mầu bỗng dưng “đổi chủ” , trở thành tá điền của huyện Sổn. Mấy năm sau, huyện Sổn qua đời, con rể của hắn là tú tài Cộc lên thừa kế cơ ngơi. Tên chúa đất trẻ tuổi này lại càng ra sức bóc lột nặng nề hơn cả cha vợ . """