"
Nỗi Kinh Hoàng Trườn Tới - James Patterson full prc pdf epub azw3 [Trinh thám]
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Nỗi Kinh Hoàng Trườn Tới - James Patterson full prc pdf epub azw3 [Trinh thám]
Ebooks
Nhóm Zalo
Tác phẩm Tác giả
Dịch giả Tủ sách
Thể loại
Phát hành NXB
THƯ VIỆN EBOOK (TVE-4U)
NỖI KINH HOÀNG TRƯỜN TỚI James Patterson
Trần Quý Dương - Dương Kim Thoa Văn học nước ngoài
Trinh Thám
Nhã Nam
Nhà xuất bản Hà Nội 2016
—✥—
EBOOK©VCTVEGROUP
12-04-2019
MỞ ĐẦU
CÙNG CHƠI TRÒ TƯỞNG TƯỢNG
(1932)
NEWJERSEY, gần Princeton;
tháng Ba năm 1932
TÒA NHÀ trong nông trại của Charles Lindbergh sáng rực với những bóng đèn màu cam. Nó trông như một tòa lâu đài đang bừng cháy, nhất là trong khu rừng linh sam tối tăm của bang Jersey. Những lớp sương mỏng chạm người thằng bé khi nó tiến ngày càng gần tới khoảnh khắc đầu tiên của vinh quang thực sự, lần giết người đầu tiên của nó.
Trời tối đen như mực, mặt đất ướt, nhầy nhụa và đặc quánh bùn. Thằng bé đã biết trước những điều này. Kế hoạch của nó đã tính đến mọi chuyện, kể cả thời tiết. Thằng bé đi đôi ủng lao động cỡ số chín dành cho đàn ông. Mũi và gót ủng nhồi đầy những mảnh vải nhỏ và vụn báo Người điều tra Philadelphia.
Nó muốn để lại các dấu chân, thật nhiều dấu chân. Những dấu chân của một người đàn ông. Chứ không phải dấu chân của một thằng bé mười hai tuổi. Những dấu chân ấy xuất phát từ quốc lộ chạy qua hạt, đường Stoutsburg-Wertsville, tới nông trại, rồi từ đó chạy đi.
Thằng bé bắt đầu run rẩy khi bước tới chỗ hàng thông, còn chưa đầy ba mươi mét nữa là đến tòa nhà trải rộng trên khu đất. Tòa nhà to lớn đúng như thằng bé đã tưởng tượng: chỉ riêng tầng hai đã có bảy phòng ngủ và bốn phòng tắm. Đây là nơi nghỉ dưỡng của Lindy May Mắn và Anne Morrow ở vùng nông thôn.
Tuyệt cú mèo, thằng bé nghĩ.
Thằng bé từ từ nhích về phía cửa sổ phòng ăn. Nó bị hấp dẫn bởi thứ gọi là sự nổi tiếng. Nó đã nghĩ về điều này rất nhiều. Hầu như lúc nào cũng nghĩ. Sự nổi tiếng thực ra là thế nào nhỉ? Nó có mùi gì? Vị nó ra sao? Sự nổi tiếng ở gần trông thế nào?
“Người đàn ông quyến rũ và nổi tiếng nhất thế giới” đang ngồi ở ngay bàn này. Charles Lindbergh cao ráo, lịch lãm, mái tóc vàng óng đầy quý phái và làn da sáng. ”Lindy May Mắn”
thực sự nổi trội hơn tất cả những người khác.
Vợ ông là - Anne Morrow Lindbergh. Anne có mái tóc ngắn. Tóc đen, xoăn, khiến cho làn da bà trông trắng như phấn. Ánh sáng từ những ngọn nến trên bàn như nhảy múa quanh bà. Cả hai vợ chồng đều ngồi rất thẳng người trên ghế. Đúng, chắc chắn cặp vợ chồng này trông cao quý, như thể họ là những món quà Chúa dành tặng thế giới. Cả hai đều giữ đầu ngẩng cao, thưởng thức những món ăn bằng phong thái lịch thiệp. Ông miễn cưỡng nhìn những thứ bày trên bàn. Trên bộ đồ ăn bằng sứ đẹp hoàn hảo là món gì đó trông như thịt cừu. “Ta sẽ nổi tiếng hơn bất kỳ kẻ nào trong các ngươi, những kẻ đáng thương bảnh chọe kia,” rốt cuộc thằng bé thì thào. Nó đã tự hứa với mình điều đó. Từng chi tiết đã được tính toán cả nghìn lần hoặc ít nhất cũng gần mức ấy. Nó bắt đầu thực hiện công việc một cách rất cẩn thận. Thằng bé lấy một chiếc thang gỗ mà cánh công nhân đã để lại gần gara. Kẹp chiếc thang vào sát người và di chuyển tới vị trí ngay gần phía dưới cửa sổ thư phòng. Rồi nhẹ nhàng leo lên phòng dành cho trẻ con. Mạch máu chảy rần rật, tim đập mạnh tới mức nó có thể nghe thấy tiếng thình thịch.
Ánh sáng từ đèn ngủ ở lối vào rọi sáng phòng của đứa trẻ. Thằng bé có thể trông thấy chiếc cũi và hoàng tử nhỏ đang ngủ trong đó. Charles con, “đứa trẻ nổi tiếng nhất trái đất”. Ở một phía là bức mành chắn gió đầy màu sắc in hình những vật nuôi ở nông trại. Thằng bé cảm thấy mình thật ma mãnh và xảo quyệt. “Ông Ba Bị đến đây,” nó vừa thì thào vừa khẽ đẩy cho cửa sổ mở ra.
Rồi thêm một bước trên thang, cuối cùng nó cũng leo được vào trong phòng. Đứng ở một đầu cũi, nó chằm chằm nhìn hoàng tử nhỏ. Những lọn tóc vàng xoăn giống tóc của cha nó, nhưng mập. Chỉ hai mươi tháng tuổi nhưng Charles con đã mập rồi. Thằng bé không thể kiểm soát bản thân được nữa. Những giọt nước mắt nóng hổi ứa ra từ hai mắt. Toàn bộ cơ thể nó bắt đầu run lên vì thất vọng, giận dữ trộn với niềm vui khó tin xuất hiện trong đời.
“Nào, con bé nhỏ của cha. Bây giờ là lúc dành cho chúng ta đây,” thằng bé lẩm bẩm với chính mình.
Nó lấy từ trong túi ra một quả bóng cao su bé xíu gắn với một đoạn dây đàn hồi. Nhanh chóng luồn thứ đồ kỳ quái đó qua đầu Charles con ngay khi đôi mắt nhỏ màu xanh lam mở ra. Khi đứa trẻ bắt đầu khóc, thằng bé thả quả bóng cao su vào thẳng cái miệng đầy dớt dãi. Nó cúi người xuống cũi, bế Lindbergh con lên rồi nhanh chóng leo xuống thang. Tất cả đều diễn ra đúng kế hoạch.
Ôm cái bọc quý giá đang giãy giụa trong tay, thằng bé chạy băng qua những cánh đồng nhầy nhụa bùn và biến mất vào bóng đêm.
Ở một nơi cách tòa nhà hơn ba ki lô mét, nó chôn đứa trẻ được nâng niu, chiều chuộng đến hư người của gia đình Lindbergh -chôn sống.
Đó chỉ là khỏi đầu của những chuyện sắp diễn ra. Rốt cuộc, nó chỉ là một thằng bé. Nó, chứ không phải Bruno Richard Hauptmann*, mới là kẻ bắt cóc con của Lindbergh. Nó tự tay thực hiện toàn bộ chuyện này.
Tuyệt cú mèo.
PHẦN 1
MAGGIE ROSE VÀ NHÃI CON GOLDBERG (1992)
CHƯƠNG 1
SÁNG SỚM NGÀY hai mươi mốt tháng Mười hai năm 1992, tôi bày ra dáng vẻ mãn nguyện trên khoảng hiên đầy nắng ở căn nhà nằm trên con phố số 5 tại thủ đô Washington của chúng tôi. Căn phòng nhỏ, hẹp vương vãi những chiếc áo khoác đi mưa đang lên mốc, những đôi ủng lao động và đống đồ chơi hỏng. Tôi chẳng quan tâm. Đây là nhà tôi.
Tôi chơi nhạc của Gershwin với chiếc dương cầm lớn, cũ và lên dây hơi sai của mình. Chỉ mới hơn năm giờ sáng, ngoài hiên trời lạnh như tủ đá. Vì bản “Một người Mỹ ở Paris”, tôi sẵn sàng hy sinh một chút.
Điện thoại trong bếp reo. Chắc là tôi trúng xổ số của D.C. hoặc bang Virginia hay bang Maryland mà đêm trước người ta quên gọi điện thông báo. Tôi thường mua xổ số của cả ba nơi này và vẫn trượt đều đặn.
“Bà ơi! Bà nghe điện thoại được không ạ?” tôi gọi với vào từ ngoài hiên.
“Điện thoại gọi con đấy. Có khi con nên tự nghe đi,” người bà hay gắt gỏng của tôi nói vọng lại. “Cũng chẳng có lý gì mà bà phải dậy. Theo từ điển của bà thì chẳng có lý nghĩa là vớ vẩn đấy.”
Đó không chính xác là những gì bà nói, nhưng đại loại là thế. Lúc nào cũng thế. Tôi tập tễnh đi vào bếp bằng đôi chân hay bị tê vào buổi sáng, vừa đi vừa né đống đồ chơi. Lúc đó tôi ba mươi tám tuổi. Như người ta vẫn nói, nếu biết trước mình sẽ sống lâu được đến thế thì tôi đã chăm sóc bản thân tốt hơn.
Hóa ra đó là cuộc gọi từ đồng sự của tôi trong đội điều tra tội phạm, John Sampson. Sampson biết tôi sẽ dậy. Cậu ta còn hiểu tôi hơn các con tôi.
“Chúc buổi sáng tốt lành, người đẹp da màu. Cậu dậy rồi phải không?” Sampson hỏi. Chẳng cần phải xưng tên. Sampson và tôi đã trở thành bạn thân nhất của nhau từ hồi chín tuổi và còn thó đồ ở cửa hiệu Corner Variety của ông Park gần khu nhà giá rẻ. Hồi ấy chúng tôi chẳng biết rằng chỉ ăn cắp một gói thuốc lá Chesterfields cũng có thể bị ông già Park đó bắn chết. Nana Mama* sẽ còn phạt nặng hơn thế nếu phát giác trò phạm tội đó của hai đứa.
“Nếu lúc nãy chưa dậy thì bây giờ cũng dậy rồi,” tôi nói vào ống nghe. “Cho tớ nghe điều gì hay ho đi.”
“Có một vụ giết người nữa. Có vẻ lại là đối tượng của bọn mình,” Sampson nói. “Họ đang chờ bọn mình. Một nửa thế giới tự do đã có mặt ở đó rồi đấy.”
“Hãy còn sớm quá, không đáng phải trông thấy ‘xe chở thịt’,” tôi lầm bầm. Tôi có thể cảm thấy bụng dạ nhộn nhạo. Đây không phải kiểu bắt đầu một ngày mới mà tôi muốn. “Chó chết. Khốn nạn thân tôi.”
Nana Mama ngước nhìn lên từ tách trà bốc khói và mấy quả trứng còn lỏng. Bà bắn về phía tôi một trong những ánh nhìn cao đạo của một bà chủ nhà. Bà đã mặc đồ xong để tới trường - nơi bà vẫn làm công việc tình nguyện ở tuổi bảy mươi chín. Sampson tiếp tục cung cấp cho tôi những chi tiết đẫm máu của vụ án mạng đầu tiên trong ngày.
“Ăn nói cẩn thận, Alex,” Nana nói. “Nếu con có kế hoạch sống trong căn nhà này thì liệu mà ăn nói cho cẩn thận.”
“Khoảng mười phút nữa tớ sẽ tới đó,” tôi bảo Sampson. Rồi quay sang bảo Nana, “Con sở hữu căn nhà này.”
Bà rên rỉ như thể mới nghe thông tin tệ hại đó lần đầu tiên.
“Có một vụ giết người tệ hại khác ở Langley Terrace. Có vẻ là tên sát nhân đó. Con e là thế,” tôi nói với bà.
“Thế thì tệ quá,” Nana Mama bảo tôi. Đôi mắt nâu của bà vồ lấy tôi và dừng lại. Mái tóc trắng trông cứ như một trong những chiếc khăn lót mà bà đã trải lên tất cả ghế trong phòng khách. “Đó là phần xấu xa của cái thành phố tệ hại mà lũ chính trị gia đã thả nổi này. Thi thoảng bà nghĩ rằng chúng ta phải rời khỏi Washington, Alex ạ.”
“Thi thoảng con cũng nghĩ thế,” tôi nói, “nhưng có khi chúng ta phải chịu đựng chuyện đó thôi.”
“Đúng, người da đen luôn thế. Chúng ta kiên nhẫn. Chúng ta luôn im lặng chịu đựng.” “Không phải lúc nào cũng im lặng,” tôi nói với bà.
Tôi quyết định mặc chiếc áo khoác cũ hiệu Harris Tweed. Hôm nay là ngày xảy ra án mạng, nghĩa là tôi sẽ gặp những người da trắng. Ngoài chiếc áo vest thể thao, tôi mặc chiếc áo khoác thể thao mỏng hiệu Georgetown. Như thế sẽ họp với khu tôi ở.
Trên tủ, bên cạnh giường là ảnh Maria Cross. Ba năm trước vợ tôi chết trong một vụ lái xe xả súng. Giống như phần lớn các vụ giết người khác ở khu Đông Nam, vụ đó không bao giờ có lời giải.
Bước ra khỏi bếp, tôi hôn bà. Chúng tôi vẫn làm thế từ hồi tôi mới tám tuổi. Một lời chào tạm biệt, phòng khi hai người không bao giờ gặp lại. Đã như thế gần ba mươi năm, ngay từ khi
Nana Mama đưa tôi về nuôi và quyết định rằng bà có thể nuôi dạy tôi trở thành một người nào đó.
Và bà đã nuôi dạy tôi trở thành một thanh tra chuyên phụ trách án mạng, có bằng tiến sĩ tâm lý học, đồng thời sống và làm việc trong khu ổ chuột tại Washington, D.C.
CHƯƠNG 2
TRÊN GIẤY TỜ, tôi là Phó phòng thanh tra, cái chức danh mà theo như lời của Shakespeare và Faulkner thì nghe rất kêu, dữ dội và đầy những thứ vốn chẳng là gì được phóng đại lên. Chức danh này phải đẩy tôi lên vị trí thứ sáu hay thứ bảy gì đó ở Sở Cảnh sát Washington. Nhưng không phải thế. Mặc dù vậy người ta vẫn trông đợi tôi xuất hiện tại hiện trường của các vụ án ở D.C.
Một nhóm ba chiếc xe sơn trắng-xanh của Sở Cảnh sát đậu chẳng thành hàng lối ngay phía trước nhà 41-15 đường Benning. Một xe tải nhỏ với cửa sổ sơn đen của lực lượng khám nghiệm hiện trường đã có mặt. Một xe cứu thương cấp cứu cũng có mặt. Trên cửa sơn hàng chữ NHÀ XÁC bắt mắt.
Tại căn nhà xảy ra vụ giết người có vài chiếc xe cứu hỏa. Đám hàng xóm chuyên theo đóm ăn tàn - hầu hết là mấy gã đàn ông có ánh nhìn như ăn tươi nuốt sống phụ nữ đang lượn lờ xung quanh. Các bà già, với áo rét choàng bên ngoài bộ pyjamas hoặc váy ngủ cùng lô uốn tóc hồng và xanh trên đầu, đang đứng run rẩy trước hiên nhà vì lạnh.
Nhà liền kề là một ngôi nhà tường lợp ván cũ nát, sơn màu xanh nước biển Caribbean lòe loẹt. Một chiếc Chevette cũ với một bên cửa sổ bị vỡ và được dán lại bằng băng dính trông như thể đã bị bỏ đi trên lối dẫn vào nhà.
“Kệ mẹ nó đi. Bọn mình quay về ngủ thôi,” Sampson nói. “Tớ đã nhớ ra chuyện này rồi sẽ tiếp tục thế nào. Gần đây tớ ghét cái nghề này quá.”
“Tớ yêu công việc của mình, yêu án mạng,” tôi nói với một nụ cười giễu cợt. “Thấy chưa kìa? Có một nhân viên pháp y đã mặc bộ đồ nylon rồi. Còn có những anh bạn của đội khám nghiệm hiện trường. Và bây giờ ai đang tiến về phía bọn mình kia?”
Một viên trung úy cảnh sát da trắng mặc chiếc áo khoác dài liền mũ màu xanh pha đen có cổ lông lạch bạch bước về phía Sampson khi hai chúng tôi tiến tới ngôi nhà. Hai tay ông ta thọc vào túi để giữ ấm.
“Sampson hả? À, thanh tra Cross à?” Viên trung úy hạ phần hàm dưói xuống như người ta vẫn làm cho khỏi ù tai khi ở trên máy bay. Ông ta biết chính xác chúng tôi là ai. Ông ta biết chúng tôi là cảnh sát. Ông ta đang chế nhạo chúng tôi.
“Sao hả, ông bạn?” Sampson không thích bị người khác chế nhạo cho lắm. “Thanh tra cao cấp Sampson,” tôi trả lời viên trung úy. “Tôi là Phó phòng Cross.” Viên trung úy là một tay Ai Len bụng-nần-nẫn, có lẽ là kẻ còn sót lại từ thời Nội chiến. Mặt
ông ta trông như chiếc bánh cưới bị bỏ mặc dưới mưa. Có vẻ như viên cảnh sát này không tin vào chiếc áo khoác vải tuýt của tôi.
“Ai cũng lạnh đến cóng hết cả mông,” ông ta khò khè. “Chỉ có thế thôi chứ sao siếc gì.” “Có khi ông lại giảm được ít cân nhờ mấy cái mông cóng đó.” Sampson khuyên ông ta. “Có thể gọi một cú điện cho Jenny Craig* đấy.”
“Tiên sư bố ông,” viên trung úy nói. Thật vui khi gặp ông bạn Eddie Murphy da trắng. “Ăn miếng trả miếng siêu hạng.” Sampson cười nhăn nhở với tôi. “Cậu nghe thấy ông ấy nói gì chứ? Tiên sư bố ông?”
Cả Sampson và tôi đều to khỏe. Chúng tôi tập ở phòng thể hình nằm ở nhà thờ Thánh Anthony. Tổng cân nặng của hai chúng tôi rơi vào khoảng gần hai trăm ba mươi cân. Chúng tôi có thể uy hiếp nếu thấy cần. Trong nghề của chúng tôi, đôi khi đó là việc cần thiết.
Tôi chỉ cao một mét chín. John cao hai mét và vẫn còn cao thêm. Cậu ta luôn đeo kính râm hiệu Wayfarer. Đôi lúc bạn tôi đội một chiếc mũ Kangol rách rưới hay chiếc băng đô màu vàng. Một số người gọi cậu là “John-John” bởi cậu to lớn đến mức có thể tách ra thành hai chàng John.
Chúng tôi bước thẳng qua mặt viên trung úy về phía căn nhà xảy ra án mạng. Người ta cho rằng tầm của đội chuyên trách tinh nhuệ chúng tôi phải vượt lên trên sự đối đầu kiểu này. Đôi lúc chúng tôi cũng được như thế thật.
Vài cảnh sát mặc sắc phục đã có mặt bên trong ngồi nhà. Khoảng bốn giờ ba mươi, một người hàng xóm thấy lo ngại đã gọi điện cho đồn cảnh sát khu vực. Bà cho rằng mình đã phát hiện ra một tên du đãng đang lần mò quanh đó. Người phụ nữ đã dậy vì thấy động giữa đêm. Ở khu này là thế.
Hai cảnh sát tuần tra mặc sắc phục phát hiện ra ba xác chết trong nhà. Khi báo cáo về trung tâm, họ được lệnh đợi Đội Điều tra Đặc biệt. Đội này gồm tám sĩ quan da đen nằm trong danh sách đề cử cho những công việc khá khẩm hơn ở Sở.
Cửa ngoài của bếp đang khép hờ. Tôi đẩy cho cửa mở hẳn ra. Cửa của mọi căn nhà đều có tiếng động rất riêng khi đóng và mở. Cửa này rên rỉ như một ông già.
Trong nhà tối đen. Kỳ quái. Gió bị hút qua cánh cửa mở và tôi có thể nghe thấy tiếng gì đó lạch cạch bên trong.
“Chúng tôi không bật điện, thưa ngài,” một trong những cảnh sát mặc sắc phục cất lời từ phía sau tôi. “Ngài là Tiến sĩ Cross, phải không?”
Tôi gật đầu. “Lúc các anh đến thì cửa bếp có mở không?” Tôi quay sang viên cảnh sát tuần tra. Cậu ta là người da trắng, mặt trông như trẻ con, đang nuôi chút ria mép để nhìn già dặn hơn. Có lẽ cậu ta chừng hai ba, hai tư tuổi, vẫn còn sợ hãi về chuyện xảy ra sáng nay. Tôi không thể trách móc gì cậu ta.
“À, không. Không có dấu hiệu cho thấy cửa bị phá. Cửa không khóa, thưa sếp.” Viên cảnh sát tuần tra căng thẳng thực sự. “Trong đó quả thực rất kinh khủng, thưa sếp. Đó là một gia đình.” Một trong các viên cảnh sát tuần tra bật chiếc đèn pin cực mạnh vỏ bằng nhôm cán và tất cả chúng tôi cùng nhòm vào trong bếp.
Có một chiếc bàn ăn rẻ tiền bằng nhựa với những chiếc ghế nhựa cùng tông màu xanh vỏ chanh. Trên tường treo một chiếc đồng hồ hình Bart Simpson da đen. Đó là những thứ ta thấy ở cửa sổ trước của mọi hiệu thuốc Nhân dân. Mùi thuốc khử trùng Lysol và mỡ cháy quyện thành một thứ gì đó rất lạ dù không hoàn toàn khó chịu. Ở hiện trường án mạng có những mùi còn đáng sợ hơn nhiều.
Sampson và tôi lưỡng lự, cố gắng nhận định sát nhất về cách thức vụ án xảy ra trước đó vài giờ.
“Hắn đã có mặt đúng chỗ này,” tôi nói. “Thủ phạm đã vào qua đường bếp. Hắn đã ở đây, nơi chứng ta đang đứng.”
“Đừng nói như thế, Alex,” Sampson nói. “Nghe cứ như Jeane Dixon*. Làm tớ phát khiếp.” Dù đã làm không biết bao nhiêu lần nhưng chưa bao giờ công việc này trở nên dễ dàng hơn. Ta không muốn phải vào bên trong. Ta không muốn thấy thêm bất kỳ cơn ác mộng nào trong đời.
“Họ ở trên gác,” viên cảnh sát nuôi ria mép nói. Cậu ta thông báo cho chúng tôi về các nạn nhân. Một gia đình mang họ Sander. Hai phụ nữ và một bé trai.”
Đồng sự của viên cảnh sát - một tay da đen đậm người - vẫn chưa nói lời nào. Anh ta tên Butchie Dykes. Đây là một tay cảnh sát trẻ nhạy cảm tôi đã từng trông thấy ở đồn. Bốn chúng tôi cùng tiến vào căn nhà chết chóc. Từng người trong chúng tôi hít một hơi sâu. Sampson vỗ vào vai tôi. Cậu ta biết án mạng với trẻ em khiến tôi run rẩy.
Ba xác chết nằm trên gác, ở phòng ngủ phía trước, ngay đầu cầu thang.
Một người là bà mẹ, Jean “Poo” Sanders, ba mươi hai tuổi. Ngay cả khi đã chết, gương mặt cô trông vẫn đầy ám ảnh. Người phụ nữ này có đôi mắt to màu nâu, gò má cao, đôi môi dày đã
chuyển sang màu tím sẫm. Miệng cô há ra như đang la hét.
Suzette Sanders - con gái của Poo - đã sống mười bốn năm trên trái đất này. Chỉ là một thiếu nữ nhưng đã đẹp hơn mẹ. Con bé đeo dải ruy băng trên mái tóc tết và một chiếc khuyên bé xíu ở mũi để chứng tỏ mình già hơn tuổi thật. Suzette bị bịt miệng bằng một chiếc quần lót màu xanh nước biển.
Còn đứa bé trai ba tuổi Mustaf Sanders thì đang nằm ngửa mặt, đôi gò má bé nhỏ dường như ướt đẫm nước mắt. Nó đang mặc bộ “pyjamas bao tải” giống loại mà mấy đứa con tôi vẫn mặc.
Đúng như Nana Mama đã nói, đây là một phần xấu xa của cái thành phố tệ hại mà người ta đã thả nổi này. Ở cái đất nước rộng lớn tệ hại này của chúng tôi. Người mẹ và đứa con gái bị trói vào chân giường làm bằng chất liệu giả đồng. Đồ lót bằng vải xa tanh, vớ dạng lưới hai màu đen và đỏ, ga trải giường in hoa đã được dùng để trói cả hai lại.
Tôi lấy chiếc máy ghi âm bỏ túi mang theo ra và bắt đầu ghi lại những quan sát đầu tiên của mình. “Các vụ án mạng số hiệu H234 914 tới 916. Một mẹ, một con gái tuổi thiếu niên, một bé trai. Hai người phụ nữ đã bị cứa bằng thứ gì đó cực sắc. Có thể là dao cạo lưỡi thẳng.
“Ngực đã bị cắt rời. Không tìm thấy ngực. Lông tại vùng kín của hai phụ nữ đã bị cạo sạch. Có nhiều vết đâm, mà các nhà nghiên cứu bệnh học gọi là ‘đâm kiểu giận dữ’. Có rất nhiều máu và phân. Tôi tin rằng cả hai phụ nữ - mẹ và con gái - đều là gái bán dâm. Tôi đã từng thấy cả hai người này.
Giọng tôi khá trầm. Tôi tự hỏi liệu sau này chính tôi có hiểu được toàn bộ những lời mình đã nói hay không.
“Dường như xác đứa bé trai chỉ tình cờ bị quăng sang một bên. Mustaf Sanders mặc bộ pyjamas in đầy hình gấu Care. Nó là dấu hiệu nhỏ bé của sự tình cờ xuất hiện trong phòng.” Tôi không thể ghìm được cảm giác đau đớn khi nhìn xuống thằng bé, đôi mắt buồn không còn sự sống của nó trừng trừng nhìn tôi. Đầu tôi bỗng ù đi. Tim tôi đau thắt. Tội nghiệp Mustaf bé nhỏ, dù nó là người thế nào đi nữa.
“Tớ không tin rằng hắn muốn giết thằng bé,” tôi bảo Sampson. “Hắn hoặc ả.” “Hoặc thứ gì đó.” Sampson lắc đầu. “Đó là một thứ, Alex. Chính thứ đó đó đã gây ra vụ ở Condon Terrace đầu tuần này.”
CHƯƠNG 3
TỪ HỒI CÒN BA HAY BỐN TUỔI, Maggie Rose Dunne đã luôn bị người ta để ý. Lên chín tuổi, nó đã quen với sự chú ý đặc biệt dành cho mình, với việc người ta trố mắt nhìn như thể nó là Maggie “tay kéo” hay “cô gái Frankenstein”.
Sáng hôm đó nó bị theo dõi nhưng không biết. Giá mà lần này Maggie Rose để ý. Lần này có chuyện đã xảy ra.
Maggie Rose học trường Washington Day ở Georgetown, nơi nó cố gắng hòa nhập với một trăm ba mươi học sinh khác. Vào thời điểm ấy, chúng đang hát trong hội trường rất hào hứng. Hòa nhập không phải chuyện dễ với Maggie Rose, ngay cả khi nó muốn làm thế kinh khủng. Rốt cuộc nó vẫn là cô con gái chín tuổi của Katherine Rose. Maggie không thể bước qua một cửa hiệu nhỏ bán băng video mà không nhìn thấy hình ảnh của mẹ mình. Gần như cứ cách một hôm thì truyền hình lại chiếu phim có mẹ nó đóng. Mẹ Maggie được đề cử giải Oscar mười chín lần, nhiều hơn hầu hết các nữ diễn viên xuất hiện trên tạp chí People. Vì những điều ấy, Maggie Rose rất nhiều lần cố gắng biến mất sau lớp vỏ mà nó tạo nên. Sáng hôm đó nó mặc chiếc áo len Fido Dido đã cũ mèm với những lỗ khoét cả ở mặt trước và sau. Nó chọn quần jean bụi hiệu Guess. Chân đi đôi giày đế mềm cũ màu hồng hiệu Reebok - một đôi giày “đi quen chân” của nó, cùng đôi tất Fido moi từ đáy tủ đồ. Maggie cố tình không gội mái tóc dài vàng óng trước khi đến trường.
Mẹ Maggie tròn xoe mắt khi thấy những thứ đồ con gái mặc. Cô nói, “Trông kinh quá” nhưng rồi vẫn để Maggie ăn mặc như vậy đi học. Tính mẹ nó rất hay. Cô thực sự hiểu những khó khăn mà Maggie phải sống chung.
Tất cả bọn trẻ, gồm học sinh từ lớp một tới lớp sáu, tập trung lại và đang hát bài “Xe tốc độ” của Tracy Chapman. Trước khi chơi bài hát theo phong cách folk/rock trên chiếc piano đen bóng hiệu Steinway đặt trong phòng nhạc, cô Kaminsky đã cố gắng giải thích cho tất cả học sinh về thông điệp của bài hát.
“Bài hát đầy xúc động của một phụ nữ trẻ da đen từ Massachusetts này nói về cảnh nghèo kiết xác ở đất nước giàu nhất thế giới, về thân phận của người da đen trong những năm một chín chín mươi.”
Cô giáo nhạc họa nhỏ nhắn xinh xắn này luôn mãnh liệt như thế. Cô cảm thấy nhiệm vụ của một giáo viên giỏi không phải cung cấp thông tin mà là thuyết phục, để rèn đúc những cái đầu trẻ trung và quan trọng ở ngôi trường danh giá.
Bọn trẻ thích cô Kaminsky, thế nên chúng cố gắng hình dung tình cảnh khổ sở của người nghèo và thua thiệt. Vì mức học phí ở trường Washington Day lên đến mười hai ngàn đô la, lũ trẻ cũng không dễ mà tưởng tượng ra cảnh nghèo.
“Bạn có chiếc xe tốc độ,” chúng hát cùng cô Kaminsky và tiếng đàn piano cô đánh. “Còn tôi có kế hoạch đưa chúng ta rời khỏi đây.”
Khi Maggie hát “Xe tốc độ”, nó thực sự cố gắng tưởng tượng xem nghèo như thế sẽ ra sao. Nó đã thấy đủ số người nghèo ngủ trong cái lạnh trên những đường phố Washington. Nếu tập trung, nó có thể hình dung được những cảnh tượng khủng khiếp quanh Georgetown và Vòng xoay Dupont. Đặc biệt là những người đàn ông cùng đám giẻ bẩn lau kính chắn gió xe nó thấy ở mọi cột đèn giao thông. Mẹ nó luôn cho họ một đô la, thi thoảng nhiều hơn thế. Vài người ăn xin nhận ra cô và rõ ràng phát cuồng lên. Họ mỉm cười như gặp vận may, còn Katherine Rose luôn có điều gì đó tốt đẹp để nói với họ.
“Bạn có chiếc xe tốc độ,” Maggie Rose hát to lên. Con bé cảm thấy giọng mình đang lên cao vút.
“Nhưng nó có đủ nhanh để chúng ta có thể bay đi không
“Chúng ta phải quyết định
“Chúng ta phải ra đi đêm nay, hoặc sẽ sống và chết như thế này.”
Bài hát kết thúc trong những tiếng hò reo và vỗ tay lớn từ đám đông lũ trẻ. Cô Kaminsky cúi người một cách hơi lạ trước đàn piano.
“Vất vả thật,” Michael Goldberg lầm bầm. Michael đứng ngay cạnh Maggie. Nó là bạn thân nhất của Maggie ở Washington - thằng bé nhập học một năm trước, khi cùng cha mẹ chuyển từ Los Angeles tới.
Michael đang châm biếm, tất nhiên là thế rồi. Như mọi khi. Đó là cách cư xử “Bờ Đông” của nó với những người không thông minh bằng mình - tương đương với tất cả mọi người trên thế giới tự do.
Michael Goldberg thực sự là một thằng bé có đầu óc cực kỳ thông minh, Maggie biết thế. Thằng bé đọc mọi thứ, không chừa thứ nào; một tay sưu tầm kỳ lạ; một người thích làm hơn nói; luôn hài hước nếu nó thích ta. Nhưng Michael từng là một “em bé xanh xao”, và thằng bé vẫn không được to con hay khỏe mạnh lắm. Điều đó mang lại biệt danh “Nhãi Con” cho nó, có thể
nói biệt danh ấy đã kéo thằng bé rơi khỏi bệ cao trí tuệ của mình.
Hầu như sáng nào Maggie và Michael cũng đến trường cùng xe. Sáng hôm đó chúng đến bằng xe của Sở Mật vụ. Bố Michael là bộ trưởng Bộ Tài chính. Chính xác là bộ trưởng Bộ Tài chính. Thực tế là ở trường Washington Day chẳng có ai thực sự “bình thường”. Mọi học sinh đều phải cố gắng hòa nhập, bằng cách này hay cách khác.
Khi đám học sinh giải tán khỏi buổi tập trung sáng, từng đứa đều được hỏi xem ai sẽ đón chúng sau khi tan trường. Ở Washington Day, an ninh là vấn đề cực kỳ quan trọng. “Chú Devine...” Maggie từ trong phòng nhạc đáp lời giáo viên kiêm giám thị đứng ở cửa. Tên thầy là Guestier, dạy ngoại ngữ ở trường, gồm các thứ tiếng Pháp, Nga, Trung. Biệt hiệu của thầy này là “Le Pric”.
“Và Jolly Chollie Chakely,” Michael Goldberg hoàn thành nốt câu giúp Maggie. “Tổ đặc vụ số mười chín. Xe hiệu Lincoln. Biển số SC-59. Lối ra phía Bắc, sảnh Pelham. Họ được giao bảo vệ em vì băng buôn ma túy Colombia đã đe dọa giết cha em. Au revoir, mon professeur.”*
Điều này được ghi lại trong bảng theo dõi của trường ngày hai mươi mốt tháng Mười hai. M.Goldberg và M.R. Dunne - Sở Mật vụ đón. Lối ra phía Bắc, sảnh Pelham, lúc ba giờ. “Đi nào, nhóc con New York.” Michael Goldberg chọc mạnh vào sườn Maggie Rose. “Tớ có một chiếc xe chạy nhanh, ù, ờ, ờ. Và tớ có kế hoạch đưa chúng ta rời khỏi đây.” Không cần phải hỏi, mình thích cậu này, Maggie nghĩ. Còn ai khác gọi nó là nhóc con? Ai khác ngoài “Nhãi Con” Goldberg chứ?
Khi hai đứa trẻ bước ra khỏi hội trường, chúng đã bị theo dõi. Chẳng đứa nào trong hai đứa nhỏ nhận thấy điều gì không ổn hay bất cứ điều gì khác thường. Đúng kế hoạch là phải như thế. Đó là toàn bộ ý tưởng. Đó là kế hoạch lớn.
CHƯƠNG 4
VÀO LÚC CHÍN GIỜ SÁNG HÔM ĐÓ, cô Vivian Kim quyết định tái hiện vụ Watergate trong tiết dạy của mình ở trường Washington Day. Cô sẽ không bao giờ quên buổi hôm đó. Vivian Kim là một giáo viên lịch sử Mỹ thông minh, xinh đẹp và biết cách khơi gợi. Giờ dạy của cô là một trong những tiết được học sinh ưa thích. Cứ mỗi tuần hai lần cô Kim lại chuẩn bị một vở kịch lịch sử. Thi thoảng cô để bọn nhỏ tự chuẩn bị một vở kịch. Chúng diễn rất tốt, và Kim có thể thật lòng nói rằng tiết học của mình không bao giờ nhàm chán. Vào buổi sáng hôm ấy, Vivian Kim đã chọn Watergate. Trong tiết học ở lớp ba có Maggie Rose Dunne và Michael Goldberg. Lớp học đang bị theo dõi.
Vivian Kim lần lượt đóng vai tướng Haig, H. R. Haldeman, Henry Kissinger, G. Gordon Liddy, Tổng thống Nixon, John và Martha Mitchell, John và Maureen Dean. Cô bắt chước rất giỏi và thực hiện hoàn hảo vai Liddy, Nixon, tướng Haig, đặc biệt là hai vợ chồng nhà Mitchell và Modean.
“Trong thông điệp liên bang hằng năm của mình, qua truyền hình, Tổng thống Nixon đã phát biểu với toàn dân,” cô Kim nói với bọn trẻ. “Nhiều người cảm thấy rằng ông ta nói dối tất cả chúng ta. Khi một quan chức cấp cao nói dối, người đó đã phạm phải một tội nghiêm trọng. Chúng ta đã đặt niềm tin vào con người đó, căn cứ trên lời thề thiêng liêng và sự liêm khiết của người đó.”
“Ây.” “Ê!” Vài đứa trẻ trong lớp tham gia bài học. Trong phạm vi vừa phải, Vivian Kim khuyến khích sự tham gia kiểu này.
“Ê là hoàn toàn đúng,” cô nói. “Ây, cũng vậy. Dù sao thì vào thời điểm này trong lịch sử của chúng ta, ngài Nixon đã đứng trước cả dân tộc, trước những người như các em và cô.” Vivian Kim làm điệu bộ như đang trên bục phát biểu. Cô bắt đầu đóng vai Richard Nixon cho cả lớp xem.
Kim làm vẻ mặt u ám và ủ rũ. Cô lắc đầu từ bên nọ sang bên kia. “Tôi muốn các bạn biết... rằng tôi chưa bao giờ có ý định rời khỏi công việc mà người dân Mỹ đã bầu để tôi thực hiện cho Hợp chúng quốc Hoa kỳ.” Vivian Kim dừng lại ở những lời thực sự trong bài phát biểu tai tiếng của Nixon. Không khác gì một nốt bị treo lại trong một vở opera đầy sức mạnh nhưng dở tệ.
Cả lớp hai mươi bốn học sinh không có một tiếng động. Lúc này Kim đã hoàn toàn thu hút được sự chú ý của chúng. Đó là cõi niết bàn của một giáo viên, dù nó thật ngắn ngủi. Tốt, Vivian Kim nghĩ.
Có một tiếng gõ nghe rất giòn, tiếng gõ trên ô kính của cửa lớp. Tâm trạng mê hoặc bị phá vỡ.
“Ê! Ây,” Vivian Kim lẩm bẩm. “Có? Ai đó? Xin chào? Ai thế ạ?” cô gọi to. Cánh cửa bằng kính và gỗ gụ đánh bóng từ từ mở ra. Một trong đám học sinh lẩm bẩm hát theo điệu nhạc của phim Cơn ác mộng trên phố Elm. Thầy Soneji, một cách do dự, gần như rụt rè, bước vào lớp. Khuôn mặt hầu như toàn bộ học sinh sáng lên tức thì.
“Có ai ở nhà không?” Thầy Soneji phát ra tiếng chút chít như chuột. Bọn trẻ cười phá lên. “Ô! Xem này. Mọi người đều ở nhà cả,” thầy nói.
Gary Soneji dạy toán và cả khoa học máy tính - môn còn được yêu thích hơn cả môn của Vivian Kim. Tóc thầy đang hói dần, bộ ria mép rủ xuống, cặp kính giống như kính của học sinh. Soneji có vẻ ngoài không giống một nam diễn viên nhiều người hâm mộ nhưng lại đúng là một nhân vật như thế trong trường này. Ngoài việc là một giáo viên đầy sáng tạo, Soneji còn là một tay cự phách về các trò chơi điện tử Nintendo.
Việc được học sinh yêu thích và là một tay phù thủy máy tính khiến ông thầy này có biệt danh là “Thầy Chips”.
Vừa bước nhanh về phía bàn cô Kim, thầy Soneji vừa chào vài học sinh bằng tên. Rồi hai giáo viên kín đáo nói chuyện ở bàn giáo viên. Cô Kim đã xoay lưng lại phía lớp. Cô gật đầu liên tục, không nói gì nhiều. Cô trông nhỏ xíu khi đứng cạnh thầy Soneji - người cao tới hơn một mét tám.
Cuối cùng cô Kim quay về phía các học sinh. “Maggie Rose và Michael Goldberg? Hai em có thể lên đây được không? Mang theo những đồ đạc của các em nếu muốn.” Maggie Rose và Michael Goldberg bối rối nhìn nhau. Chuyện này là thế nào nhỉ? Chúng thu dọn đồ của mình rồi hướng về phía cửa để tìm câu trả lời. Những đứa khác bắt đầu thì thào, thậm chí nói chuyện ồn ào trong lớp.
“Được rồi. Dừng chuyện đó đi. Đây không phải giờ giải lao,” cô Kim nhắc đám học sinh trật tự. “Đây vẫn là giờ học. Hãy tôn trọng các quy định mà tất cả chúng ta đã đồng ý tuân thủ ở đây.”
Khi cả ba lên phía trước lớp học, thầy Soneji cúi xuống nói riêng với Maggie và Michael. Goldberg “Nhãi Con” thấp hơn Maggie Rose ít nhất mười phân.
“Có một trục trặc nhỏ, nhưng chẳng có gì đáng lo ngại đâu.” Thầy Soneji điềm tĩnh và rất nhẹ nhàng với bọn trẻ. “Về cơ bản mọi thứ đều ổn. Chỉ có một chút trục trặc nhỏ, thế thôi. Nhưng mọi thứ đều ổn.”
“Em không nghĩ thế,” Michael Goldberg nói và lắc đầu. “Cái gọi là trục trặc nhỏ này thực sự là gì ạ?”
Maggie Rose vẫn chưa nói gì. Vì một lý do nào đó mơ hồ, nó cảm thấy sợ. Chuyện gì đó đã xảy ra. Chắc chắn có chuyện gì đó không ổn. Sâu thẳm trong lòng nó cảm nhận được điều ấy. Mẹ Maggie luôn bảo rằng con bé có trí tưởng tượng quá mạnh, thế nên nó cố gắng giữ một vẻ ngoài bình thản, hành động bình thản, sắm vai một người bình thản.
“Chúng tôi vừa nhận được một cú điện thoại từ Sở Mật vụ,” cô Kim nói. “Họ đã nhận được một lời đe dọa. Đe dọa này liên quan tới cả em và Maggie. Có thể đó là cuộc gọi giả. Nhưng chúng tôi sẽ phải sớm đưa hai em về nhà để đề phòng. Chỉ để đề phòng nhằm đảm bảo an toàn thôi. Các em biết quy định an toàn mà.”
“Thầy chắc chắn là cả hai em sẽ trở lại trước bữa trưa,” thầy Soneji nói thêm vào để tăng tính thuyết phục, dù nghe giọng thầy không thực sự thuyết phục lắm.
“Kiểu đe dọa nào ạ?” Maggie Rose hỏi thầy Soneji. “Nhằm vào cha của Michael phải không ạ? Hay liên quan tới mẹ em?”
Thầy Soneji vỗ vào cánh tay Maggie. Nhiều khi các giáo viên tại trường tư này ngạc nhiên vì độ chín chắn của hầu hết học sinh ở đây.
“À, loại thi thoảng chúng ta vẫn gặp thôi. To mồm rồi chẳng làm gì. Chỉ là dạng ngớ ngẩn thích thu hút sự chú ý ấy mà, thầy chắc chắn. Một gã dở hơi nào đó.” Thầy Soneji làm vẻ mặt khoa trương. Ông thầy thể hiện sự lo ngại đúng mức nhưng cũng khiến cho hai đứa trẻ cảm thấy yên tâm.
“Vậy tại sao bọn em phải về tận Potomac, để khóc lóc ạ?” Michael Goldberg nhăn mặt và làm bộ như một luật sư bé nhỏ trước tòa. Xét theo nhiều mặt, thằng bé là phiên bản dạng hoạt hình của cha nó - vị Bộ trưởng.
“Chỉ để đảm bảo an toàn thôi. Được chứ? Nói thế đủ rồi. Thầy sẽ không tranh cãi với em đâu, Michael. Em sẵn sàng đi chưa?” Thầy Soneji tốt bụng nhưng cũng cương quyết. “Không thực sự sẵn sàng ạ.” Michael tiếp tục nhíu mày và lắc đầu. “Không, không đâu. Nghiêm trọng, thưa thầy Soneji. Thế này thật không công bằng. Thế này thật không đúng. Tại sao Sở Mật vụ không tới đây và ở lại cho tới khi tan trường ạ?”
“Đó không phải cách họ muốn,” thầy Soneji đáp. “Thầy không bịa ra các quy định.”
“Em nghĩ là bọn em sẵn sàng,” Maggie lên tiếng. “Thôi nào, Michael. Đừng cãi nữa. Chuyện này được thống nhất rồi.”
“Chuyện này được thống nhất rồi.” Cô Kim nở một nụ cười đầy khích lệ. “Cô sẽ gửi bài tập về tận nhà cho các em.”
Cả Maggie Rose và Michael bật cười. ”Cảm ơn cô, cô Kim!” Chúng đồng thanh nói. Cô Kim lúc nào cũng biết đùa đúng lúc, đúng chỗ.
Các hành lang bên ngoài lớp học gần như vắng tanh và rất yên tĩnh. Một người quét dọn - một người đàn ông da đen tên Emmett Everett - là người duy nhất trông thấy bộ ba khi họ rời khỏi tòa nhà.
Tì người trên cây chổi, Everett nhìn theo thầy Soneji và hai đứa trẻ bước dọc theo hành lang dài. Ông là người cuối cùng trông thấy cả ba bên nhau.
Khi đã ra ngoài, cả ba vội vã băng qua khu đỗ xe rải sỏi có những cây sồi và bụi cây cảnh tao nhã bao bọc. Đôi giày của Michael gõ lạch cạch trên nền sỏi.
“Giày lởm.” Maggie Rose tựa người vào bạn và đùa. “Trông giống như giày lởm, hành động như giày lởm, nghe như giày lởm.”
Michael không cãi. Nó có thể nói gì đây? Bố mẹ thằng bé vẫn mua quần áo cho nó ở những cửa hàng Brooks Brothers chết tiệt. “Tôi phải mặc gì đây, thưa cô Gloria Vanderbilt? Giày hồng à?” Thằng bé lộ vẻ đau khổ.
“Chắc chắn rồi, giày hồng,” Maggie tươi cười. “Hoặc giày có lỗ màu xanh vỏ chanh. Nhưng không phải giày dự đám tang đâu, Nhãi Con.”
Thầy Soneji dẫn hai đứa trẻ tới một chiếc xe tải nhỏ đời cũ màu xanh nước biển đậu dưới tán những cây du và sồi chạy dọc theo tòa nhà hiệu bộ và nhà thể chất của trường. Những tiếng nảy của bóng rổ rời rạc vọng ra từ phía trong nhà thể chất.
“Hai em có thể nhảy vào từ phía sau xe đây này. Lên nào. Ta đi thôi,” ông thầy nói. Rồi thầy Soneji đẩy hai đứa bé leo vào trong thùng sau chiếc xe tải nhỏ. Cặp kính của ông thầy cứ trễ xuống mũi. Cuối cùng ông thầy bỏ hẳn kính ra.”
“Thầy chở bọn em về nhà ạ?” Michael hỏi.
“Thầy biết đây không phải xe Mercedes, nhưng việc phải thế, thưa ngài Michael. Thầy chỉ tuân theo những chỉ dẫn qua điện thoại. Thầy đã nói chuyện với ông Chakely.” “Jolly Chollie.” Michael dùng biệt danh nó đặt cho nhân viên Sở Mật vụ. Thầy Soneji leo vào chiếc xe tải xanh. Rồi sập mạnh cửa kéo và gây ra một tiếng rầm.
“Chỉ một chút thôi. Hai đứa cứ thoải mái nhé.” Ông thầy lục lọi các hộp bìa cứng xếp đầy phía trước chiếc xe. Trong xe lộn xộn kinh khủng. Nó là sự tương phản với phong cách đầy gọn gàng ngán nắp, gần như bị đóng khung của ông thầy dạy toán ở trường. “Ngồi chỗ nào cũng được, hai nhóc.” Ông thầy tiếp tục nói trong khi tìm thứ gì đó.
Khi quay lại, Gary Soneji đeo một chiếc mặt nạ có vẻ làm từ cao su đen và trông thật đáng sợ. Phía trước ngực, ông thầy cầm một thứ dụng cụ bằng kim loại. Trông như bình cứu hỏa thu nhỏ, chỉ có điều hiện đại hơn.
“Thầy Soneji?” Maggie Rose hỏi, giọng ré lên. “Thầy Soneji!” Con bé đưa hai tay lên bưng mặt. “Thầy làm bọn em sợ đấy. Đừng đùa nữa!”
Soneji chĩa đầu vòi kim loại nhỏ thẳng vào Maggie Rose và Michael. Hắn bước nhanh một bước về phía hai đứa nhỏ. Rồi tay giáo viên trụ thật chắc trên đôi giày đen đế cao su. “Cái gì thế?” Michale hỏi, thậm chí còn khống chắc là nó đã nói ra câu ấy. “Này, tao chịu thôi. Làm một hơi nhé, thằng lỏi thiên tài. Mày nói tao nghe xem.” Soneji phun một đám thuốc gây mê vào hai đứa trẻ. Hắn giữ ngón tay trên nút bấm đủ mười giây. Cả hai đứa trẻ đều bị phủ bởi một lớp sương mỏng khi chúng ngã gục xuống hàng ghế sau của chiếc xe.
“Tắt đi, tắt đi, những ngọn đèn sáng.” Thầy Soneji nói bằng giọng khẽ khàng, nhẹ nhàng nhất. “Giờ thì sẽ chẳng ai biết.” Đó là cái hay của việc này. Sẽ chẳng có ai biết được sự thật. Soneji leo lên phía trước chiếc xe tải xanh và nổ máy. Khi chạy ra khỏi khu đỗ xe, hắn hát bài “Xe buýt ma thuật” của ban nhạc The Who. Hôm nay tâm trạng của hắn đang tốt kinh khủng. Hắn đang có kế hoạch trở thành kẻ bắt cóc hàng loạt đầu tiên ở Mỹ, bên cạnh nhiều danh hiệu khác.
CHƯƠNG 5
LÚC ĐANG Ở NHÀ SANDERS, khoảng mười một giờ kém mười lăm tôi nhận được một cuộc gọi “khẩn”. Tôi không muốn nói chuyện với ai có các trường hợp khẩn cấp nữa. Tôi mới chỉ có mười phút bên cạnh những người mới. Vào thời điểm xảy ra các vụ án mạng ở khu nhà giá rẻ, một số tay đưa tin là bạn tôi. Tôi là thú nuôi của cánh báo chí, thậm chí còn được đưa lên số Chủ nhật của tờ Washington Post. Một lần khác tôi nói về tỉ lệ án mạng trong cộng đồng người da đen ở D.C. Năm ngoái ở thủ đô của chúng ta có gần năm trăm vụ giết người. Chỉ mười tám nạn nhân là người da trắng. Thực tế là vài phóng viên đã chú ý đến điều đó. Có sự gia tăng.
Tôi nhận máy điện thoại từ một thanh tra trẻ, sáng sủa của Đội Điều tra Đặc biệt, Rakeem Powell, và lơ đãng đạp vào một quả bóng rổ cũ chắc hẳn từng thuộc về Mustaf. Quả bóng tạo cho tôi cảm giác kỳ lạ. Tại sao lại giết một thằng bé xinh xắn như thế? Tôi không thể tìm được câu trả lời. ít nhất thì giờ vẫn chưa tìm được.
“Đó là sếp Jefe.” Rakeem nhăn mặt. “Ông ấy đã để ý rồi.”
“Cross đây,” tôi nói vào điện thoại của nhà Sanders. Đầu tôi vẫn quay cuồng. Tôi muốn cho cuộc nói chuyện này qua thật nhanh.
Ống nghe bốc ra mùi nước hoa rẻ tiền. Nước hoa của Poo hoặc Suzette, có thể là cả hai. Trên bàn gần điện thoại là những tấm ảnh chụp Mustaf lồng trong khung hình trái tim. Làm tôi nhớ đến hai đứa trẻ nhà mình.
“Trưởng phòng thanh tra Pittman đây. Tình hình ở đó thế nào?”
“Tôi nghĩ chúng ta đang gặp phải một tên giết người hàng loạt. Mẹ, con gái, một thằng bé. Là gia đình thứ hai trong vòng chưa tới một tuần. Điện trong nhà tắt hết. Hắn thích làm việc trong bóng tối.” Tôi vạch ra vài chi tiết hay ho cho Pittman. Thường thì như thế là đủ cho ông ta. Sếp sẽ để mặc tôi với vụ án. Những vụ án mạng ở khu Đông Nam không mấy khi được ưu tiên chú ý.
Sau lời tôi là một hay hai giây im lặng không mấy dễ chịu. Tôi có thể trông thấy cây thông Giáng sinh của gia đình Sanders trong phòng khách. Rõ ràng nó được trang trí rất kỹ: kim tuyến, những đồ trang trí óng ánh bán trong các cửa hiệu rẻ tiền, những sợi dây lồng quả man việt quất
và bỏng ngô. Trên đỉnh có một thiên thần do gia đình tự làm từ các lá thiếc. “Tôi nghe rằng đó là một tay buôn ma túy. Một tay buôn ma túy và hai gái mại dâm,” Jefe nói.
“Không, không phải thế,” tôi nói với Pittman. “Ở đây họ có cây thông Giáng sinh đẹp đấy.” “Chắc chắn là thế rồi. Đừng nói vớ vẩn với tôi, Alex. Không phải hôm nay. Không phải bây giờ.”
Nếu muốn tôi cao giọng thì ông ta đã thành công.
“Một nạn nhân là thằng bé ba tuổi mặc pyjamas. Có thể nó đã từng buôn bán ma túy. Tôi sẽ xác minh việc đó.”
Lẽ ra tôi không nên nói câu ấy. Tôi không nên nói rất nhiều thứ. Gần đây tôi cảm giác như mình sắp bùng nổ. Gần đây nghĩa là khoảng ba năm trở lại đây.
“Anh và John Sampson khẩn trương về trường Washington Day,” Pittman lệnh. “Ở đó mọi việc không còn kiểm soát được nữa rồi. Tôi nói nghiêm túc đấy.”
“Tôi cũng nghiêm túc đấy,” tôi nói với Trưởng phòng thanh tra. Tôi cố gắng giữ thấp giọng. “Tôi chắc chắn đây là một tên giết người chủ động để lại dấu vết. Ở đây kinh khủng lắm. Người ta đang la hét ngoài phố. Gần Giáng sinh rồi.”
Dù vậy sếp Pittman vẫn ra lệnh cho chúng tôi đến ngôi trường ở Georgetown. Mọi chuyện không còn kiểm soát được nữa, ông ta liên tục nhắc lại thế.
Trước khi rời đi để đến trường Washington Day, tôi điện thoại cho nhóm điều tra giết người hàng loạt trong phòng mình, rồi gọi “nhóm siêu hạng” ở căn cứ Quantico của FBI. FBI có hồ sơ lưu trong máy tính về tất cả những vụ giết người hàng loạt đã được công bố, hồ sơ phân tích tâm thần học ứng với những cách thức giết người nhất định, kết hợp với rất nhiều chi tiết chưa được công bố trong các vụ giết người hàng loạt. Tôi tìm kiếm một kẻ khớp về tuổi tác, giới tính, kiểu gây biến dạng.
Một nhân viên kỹ thuật đưa một bản báo cáo để tôi ký trước khi rời khỏi nhà Sanders. Tôi ký bằng cách thông thường - một chữ thập*.
Cross.
Một gã rắn mặt từ khu vực ghê gớm của thành phố, đúng thế.
CHƯƠNG 6
VÙNG XUNG QUANH NGÔI TRƯỜNG TƯ hơi đáng sợ với Sampson và tôi. Nơi này khác xa với những ngôi trường và con người ở khu Đông Nam.
Chúng tôi là hai trong số rất ít người da đen có mặt trong sảnh của trường Washington Day. Tôi đã nghe nói trong trường tư này có bọn trẻ con châu Phi, là con của các nhà ngoại giao, nhưng lúc này không trông thấy đứa nào. Chỉ có vài nhóm giáo viên, trẻ em, cha mẹ đang bị sốc cùng lực lượng cảnh sát. Ở các bãi cỏ ngoài mặt tiền và trong sảnh trường, nhiều người đang gào khóc mà chẳng hề có ý giấu giếm.
Hai đứa bé, hai học sinh nhỏ đã bị bắt cóc ở một trong những trường tư uy tín nhất của thủ đô Washington. Tôi hiểu rằng hôm nay là một ngày buồn, một ngày đầy bi kịch đối với mọi người có liên quan. Gạt chuyện đó sang một bên, tôi tự nhủ. Cứ lo việc của mình đã.
Chúng tôi đến thực hiện công việc của mình với tư cách cảnh sát. Chúng tôi cố gắng kìm nén cơn giận trong lòng, nhưng không dễ dàng. Tôi cứ liên tục thấy đôi mắt buồn của thằng bé Mustaf Sanders hiện lên. Một cảnh sát mặc sắc phục thông báo rằng có người muốn chứng tôi vào phòng hiệu trưởng. Trưởng phòng thanh tra Pittman đang đợi chúng tôi trong đó. “Thoải mái đi,” Sampson khuyên. “Sống là để tiếp tục chiến đấu.”
Khi làm việc, George Pittman thường mặc chiếc áo vét doanh nhân màu xám hoặc xanh nước biển. Ông ta thích áo sơ mi sọc nhỏ cùng cà vạt sọc xanh và bạc. Ông ta hâm mộ giày và thắt lưng của hãng Johnson & Murphy. Mái tóc xám luôn được vuốt ngược về sau cho phù họp với cái đầu hình viên đạn, trông giống như chiếc mũ bảo hiểm đội chật. Trưởng phòng thanh tra được gọi bằng các biệt danh Jefe, Sếp Của Các Sếp, Nhà Độc Tài, Kẻ Khó Chịu Nhất, Georgie Porgie*...
Tôi nghĩ là tôi biết trục trặc giữa mình với Trưởng phòng thanh tra Pittman bắt đầu khi nào. Là sau khi tờ Washington Post đăng bài về tôi trên số ra ngày Chủ nhật. Bài viết nêu chi tiết chuyện tôi là một nhà tâm lý học nhưng lại làm việc ở bộ phận Án mạng và Trọng án - tại D.C. Tôi đã nói cho phóng viên biết tại sao tôi tiếp tục sống ở khu Đông Nam. “Sống ở nơi hiện tại khiến tôi thấy yên ổn. Sẽ không có ai đẩy tôi ra khỏi nhà của chính tôi.”
Thực ra tôi nghĩ chính cái tít được chọn cho bài báo đó đã khiến sếp Pittman (và một số người khác trong phòng) nổi giận. Khi chuẩn bị cho bài viết, tay nhà báo trẻ đã phỏng vấn bà
tôi. Bà tôi là giáo viên tiếng Anh, và tay phóng viên nhẹ dạ đã dính đòn. Nana đã nhồi vào đầu anh ta quan điểm của bà rằng: vì cơ bản người da đen theo quan điểm truyền thống, và theo logic họ sẽ là những người cuối cùng ở miền Nam từ bỏ tôn giáo, đạo đức, thậm chí cách thức giao tiếp. Bà nói rằng tôi là một người miền Nam thực thụ, sinh ra ở Bắc Carolina. Bà còn hỏi tại sao trong phim ảnh, sách vở và báo chí, chúng ta lại tôn sùng những gã thanh tra gần-tâm
thần.
Tít của bài báo - chạy ngang tấm ảnh ủ dột của tôi - là “Quý ông cuối cùng của miền Nam”. Bài báo đã gây ra những rắc rối lớn trong phòng thanh tra vốn rất căng thẳng của chúng tôi. Sếp trưởng Pittman cảm thấy bị xúc phạm ghê gớm. Tôi không thể chứng minh nhưng tin rằng bài báo này do kẻ nào đó trong Văn phòng Thị trưởng dàn xếp.
Tôi gõ cửa phòng hiệu trưởng theo nhịp một-hai-ba và cùng Sampson bước vào. Trước khi tôi kịp nói bất kỳ lời nào, Pittman giơ bàn tay phải lên. “Cross, anh chỉ cần nghe điều tôi phải nói thôi,” rồi bước đến hai chúng tôi. ”Có một vụ bắt cóc ở trường này. Đây là một vụ bắt cóc nghiêm trọng...”
“Đó là chuyện thực sự tệ hại,” tôi lập tức cắt ngang. “Thật không may là một tên giết người cũng đã tấn công khu Condon Terrace và Langley. Tên đó đã gây ra hai vụ rồi. Đến nay đã có sáu người chết. Sampson và tôi chịu trách nhiệm vụ đó. về cơ bản là chúng tôi thuộc về vụ ấy.”
“Tôi đã được thông báo về tình hình ở khu nhà giá rẻ Condon và Langley. Tôi đã dự tính trước. Vụ đó đã được lo liệu rồi,” Pittman nói.
“Sáng nay hai phụ nữ da đen đã bị cắt đứt ngực. Lông ở vùng kín của họ bị cạo sạch khi họ bị trói vào giường. Ông đã được thông báo về điều đó chứ?” tôi hỏi Pittman. “Về việc một thằng bé ba tuổi bị giết hại, khi nó còn đang mặc bộ pyjamas?” tôi lại hét lên. Tôi liếc qua Sampson và thấy cậu ta lắc đầu.
Một nhóm giáo viên trong phòng nhìn về phía chúng tôi. “Hai phụ nữ trẻ bị cắt rời ngực,” tôi nhắc lại cho họ nghe thấy. “Sáng nay có kẻ nào đó lang thang quanh D.C. với hai bộ ngực của họ trong túi.”
Sếp Pittman ra hiệu về phía phòng trong của hiệu trưởng. Ông ta muốn hai chúng tôi vào trong phòng đó. Tôi lắc đầu. Tôi muốn có các nhân chứng khi xảy ra đối đầu với Pittman. “Tôi biết anh đang nghĩ gì, Cross.” Ông ta hạ thấp giọng, dí sát mặt tôi và nói. Mùi hôi của thuốc lá phả vào tôi. “Anh nghĩ rằng tôi muốn gây chuyện với anh, nhưng không phải thế. Tôi biết anh là cảnh sát giỏi. Tôi biết trái tim anh thường đặt đúng chỗ.”
“Không, ông không biết điều tôi đang nghĩ đâu. Đây là điều tôi đang nghĩ này! Sáu người
da đen đã chết. Một tên điên giết người hàng loạt đang ở ngoài kia. Hắn đang sôi sùng sục. Hắn đang mài sắc răng nanh. Bây giờ hai đứa trẻ da trắng bị bắt cóc, và đó là chuyện khủng khiếp. Khủng khiếp! Nhưng tôi đang phải xử lý một vụ khốn nạn rồi!”
Pittman đột nhiên chỉ thẳng ngón trỏ vào tôi. Mặt ông ta đỏ bầm.“Tôi là người quyết định anh xử lý những vụ nào! Là tôi! Anh có kinh nghiệm của một người đàm phán về vấn đề con tin. Anh là chuyên gia tâm lý. Chúng ta đã có những người khác để điều tới Langley và Condon. Ngoài ra, Thị trưởng Monroe chỉ định đích danh anh.”
Hóa ra là thế. Bây giờ thì tôi đã hiểu mọi chuyện. Thị trưởng của chúng tôi đã can thiệp. Tất cả liên quan đến tôi.
“Thế còn Sampson thì sao? ít ra cũng để cho cậu ấy xử lý các vụ án mạng ở khu nhà giá rẻ chứ,” tôi nói với Trưởng phòng thanh tra.
“Nếu anh có bất kỳ khiếu nại nào, hãy trình bày với thị trưởng. Cả hai anh sẽ xử lý vụ bắt cóc này. Đó là tất cả những gì tôi phải nói với anh vào thời điểm này.”
Pittman xoay lưng lại phía chúng tôi và bước đi. Chúng tôi sẽ giải quyết vụ bắt cóc Dunne Goldberg, dù thích hay không. Chúng tôi không thích.
“Có lẽ chúng ta nên quay trở lại nhà Sanders,” tôi nói với Sampson.
“Ở đây cũng chẳng ai nhớ nhung gì chúng ta đâu,” Sampson đồng ý.
CHƯƠNG 7
CHIẾC XE MÁY K1 đen bóng của hãng BMW phanh khựng lại ở khu cổng đá thấp có lối đi rải sỏi của trường Washington Day. Người lái trình giấy tờ rồi chiếc xe phóng vọt theo con đường dài và hẹp về phía một cụm những tòa nhà màu xám của trường. Bây giờ là mười một giờ.
Chỉ cần vài giây, chiếc BMW-Kl vọt lên tốc độ gần một trăm ki lô mét một giờ và có mặt ở khu hiệu bộ. Rồi nó phanh lại dễ dàng và êm ái, gần như chỉ khiến vài viên sỏi nhỏ bắn lên. Người lái xe lách chiếc BMW vào phía sau một chiếc xe hòm màu xám ngọc trai hiệu Mercedes mang biển ngoại giao DP101.
Vẫn ngồi trên xe máy, Jezzie Flanagan bỏ chiếc mũ bảo hiểm đen ra, để lộ mái tóc vàng khá dài. Cô trông mới gần ba mươi. Thực ra Jezzie đã bước sang tuổi ba mươi hai từ mùa hè năm nay. Cuộc sống đang dọa dẫm bỏ qua cô. Người phụ nữ này tin rằng bây giờ mình đã trở thành cổ vật, trở thành lịch sử lâu đời. Cô đến thẳng trường từ căn nhà bên hồ của mình, còn chưa kể đó là kỳ nghỉ đầu tiên của cô trong vòng hai mươi chín tháng qua.
Kỳ nghỉ đầu tiên trong hai mươi chín tháng đó giải thích cách ăn mặc của Jezzie: áo khoác da dùng cho dân chơi xe máy, quần jean bạc có ủ chân, thắt lưng dày bằng da, áo sơ mi kẻ ca rô đỏ-đen của thợ rừng, ủng kỹ sư đã mòn.
Hai cảnh sát của Sở Cảnh sát D.C. vội vàng áp sát hai bên Jezzie. “Ổn mà, hai sĩ quan,” cô nói, “thẻ của tôi đây.” Sau khi nhìn thẻ, hai cảnh sát nhanh chóng lùi lại và tỏ ra đầy quan tâm. “Cô có thể vào thẳng bên trong,” một trong hai người nói. “Có một cánh cửa bên ngay sau bờ giậu cao kia, thưa cô Flanagan.”
Jezzie Flanagan gượng nở một nụ cười với hai viên cảnh sát có vẻ mặt khó chịu. “Tôi biết hôm nay mình trông không thật đúng tác phong. Tôi đang nghỉ phép mà. Chạy xe máy. Thế nên tôi phóng thẳng cả xe tới đây.”
Jezzie Flanagan đi tắt qua bãi cỏ mới trồng vẫn còn phủ một lớp băng nhẹ. Rồi cô đi vào trong tòa nhà hiệu bộ.
Không ai trong hai viên cảnh sát D.C. rời mắt khỏi Jezzie cho tới khi cô khuất hẳn. Mái tóc vàng của cô bay như cờ đuôi nheo trong gió mùa đông khắc nghiệt. Ngay cả khi mặc đồ jean bụi và đi đôi ủng lao động, trông Jezzie vẫn cực kỳ bắt mắt. Và cô có vị trí đầy quyền lực. Qua thẻ của cô, cả hai viên cảnh sát đều biết điều đó. Cô là người đóng vai trò quyết định.
Khi đi qua sảnh trước, ai đó tóm lấy cô. Ai đó đã nhận ra một phần của Jezzie Flanagan, phần đặc trưng cho cuộc sống của cô ở D.C.
Victor Schmidt đã bám lấy cánh tay cô. Một thời như thế, và bây giờ, đây là điều Jezzie khó tưởng tượng nổi: Victor từng là đồng sự của cô. Trên thực tế là đồng sự đầu tiên. Bây giờ anh ta được giao bảo vệ một trong các học sinh của trường Washington Day.
Victor lùn và hói. Một tay ăn mặc đồ hiệu GQ. Tự tin mà không có lý do hợp lý nào cả. Tay này luôn tạo cho Jezzie Flanagan ấn tượng rằng anh ta bị đặt nhầm chỗ ở Sở Mật vụ, có lẽ hợp hơn với vị trí cấp thấp của cơ quan ngoại giao.
“Jezzie, cô sao rồi?” anh ta nửa nói nửa thầm thì. Jezzie nhớ rằng anh ta chưa bao giờ vào đề thẳng với bất kỳ chuyện gì. Điều đó luôn làm cô khó chịu.
Jezzie Flanagan tức điên. Sau đó cô nhận ra rằng mình đã thực sự khó chịu khi bị Schmidt chặn lại. Không phải cô cần một cái cớ để nổi đóa. Không phải sáng nay. Không phải trong hoàn cảnh này.
“Vic, anh có biết rằng hai đứa trẻ đã bị đưa ra khỏi trường này, và có lẽ là bị bắt cóc không?” cô gắt lên. “Một trong hai đứa là con trai của Bộ trưởng? Đứa còn lại là con gái của Katherine Rose phải không? Nữ diễn viên Katherine Rose Dunne. Anh nghĩ tôi đang ra sao chứ? Bụng thì hơi nôn nao. Tôi đang giận dữ. Tôi đang chết đứng đây.”
“Tôi chỉ muốn chào thôi mà. Xin chào, Jezzie. Tôi biết chuyện khốn nạn đã xảy ra ở đây mà.”
Nhưng Jezzie Flanagan đã bỏ đi, ít nhất đủ xa để không phải nói gì khác với Victor. Cô đang cảm thấy lo lắng. Lại không được khỏe. Và gần như quá kích động. Cô không tìm kiếm những khuôn mặt quen thuộc trong sảnh của trường học đầy người hay các gương mặt phải gặp. Bây giờ đã có hai gương mặt như thế rồi!
Charlie Chakely và Mike Devine. Hai nhân viên dưới quyền của cô. Hai người cô đã chỉ định bảo vệ Michael Goldberg và cả Maggie Rose Dunne kể từ khi chúng bắt đầu đi học và về nhà cùng nhau.
“Làm thế nào mà chuyện này có thể xảy ra được chứ?” Jezzie cao giọng. Cô không quan tâm rằng tiếng nói chuyện gần đó đã ngừng lại và người ta đang chằm chằm nhìn mình. Dường như một hố đen hiện ra giữa những ồn ào và lộn xộn trong sảnh của trường. Rồi Jezzie hạ giọng thành tiếng thì thầm khi hỏi hai nhân viên về những điều đã xảy ra cho tới thời điểm này. Cô im lặng lắng nghe, để cho hai người giải thích. Rõ ràng cô không thích những điều họ phải nói.
“Biến ra khỏi đây đi,” Jezzie bùng nổ lần thứ hai. “Biến ngay. Cho khuất mắt tôi!”
“Chúng tôi chẳng thể làm được gì,” Charlie Chakely cố gắng thanh minh. “Chúng tôi có thể làm được gì chứ? Chúa ơi!” Rồi anh ta và Devine len lén bước đi.
Những người biết về Jezzie Flanagan có thể hiểu được phản ứng kích động của cô. Hai đứa trẻ đang mất tích. Chuyện xảy ra trong thời gian cô chịu trách nhiệm. Cô là một giám sát viên của Sở Mật vụ bảo vệ cho hầu như bất kỳ nhân vật nào ngoại trừ Tổng thống: các thành viên chủ chốt trong nội các cùng gia đình họ, khoảng năm sáu thượng nghị sĩ trong đó có Ted Kennedy. Cô trực tiếp báo cáo với bộ trưởng Bộ Tài chính.
Cô đã làm việc vất vả đến mức khó tin để có được sự tin cậy và trách nhiệm lớn như thế, và cô là người có trách nhiệm. Mỗi tuần làm việc cả trăm giờ; năm này qua năm khác không được nghỉ phép, không có cuộc sống riêng để nói tới.
Cô có thể nghe thấy những lời đàm tiếu trước khi nó diễn ra. Hai nhân viên của cô đã làm mọi chuyện lộn tùng phèo. Sẽ có một cuộc điều tra - một cuộc săn lùng phù thủy kiểu cổ điển. Jezzie Flanagan đang ngồi trên ghế nóng. Vì là người phụ nữ đầu tiên giữ vị trí hiện cô đang đảm nhiệm, cú ngã - nếu xảy ra - sẽ nặng nề, đau đớn, và có rất nhiều người biết.
Cuối cùng cô cũng phát hiện ra người cô đã tìm kiếm trong đám đông và hy vọng không phải gặp. Bộ trưởng Bộ Tài chính Jerrold Goldberg đã có mặt ở trường của con trai mình. Đứng cạnh vị Bộ trưởng là Thị trưởng Carl Monroe và một đặc vụ FBI mà cô biết tên là Roger Graham, cùng hai người da đen cô không nhận ra ngay. Cả hai tay da đen này đều cao, một trong hai cực kỳ to con, khổng lồ.
Jezzie Flanagan hít một hơi sâu rồi bước nhanh về phía Bộ trưởng Goldberg và những người khác.
“Tôi rất tiếc, Jerrold,” cô nói như thầm thì khi bước tới nơi. “Tôi chắc chắn là bọn trẻ sẽ được tìm thấy.”
“Một giáo viên” là tất cả những gì Jerrold Goldberg có thể thốt ra. Ông lắc mái tóc trắng, lượn sóng được cắt rất ngắn của mình. Hai mắt ông rơm rớm. “Một giáo viên của bọn trẻ, của những đứa bé. Sao chuyện này lại xảy ra được chứ?”
Rõ ràng vị Bộ trưởng rất đau đớn. Ông trông già hơn chục tuổi so cái tuổi bốn mươi chín của mình. Khuôn mặt ông trắng bệch như những bức tường trát vữa của nhà trường. Trước khi tới Washington, Jerrold Goldberg đã làm việc cho Salomon Brothers ở Phố Wall. Ông đã kiếm được hai mươi, ba mươi triệu đô la trong thập kỷ tám mươi thịnh vượng và điên cuồng. Ông sắc sảo, thông thái và đã chứng minh được sự khôn ngoan của mình. Kèm theo những phẩm chất đó, ông cũng là một người thực dụng.
Nhưng ngày hôm nay, vị Bộ trưởng chỉ là cha của một đứa bé trai bị bắt cóc, và ông trông hết sức mong manh.
CHƯƠNG 8
TÔI ĐANG NÓI CHUYỆN với một đặc vụ FBI là Roger Graham thì giám sát viên của Sở Mật vụ Jezzie Flanagan bước tới nhập hội. Cô cố gắng an ủi Bộ trưởng Goldberg. Rồi cuộc nói chuyện nhanh chóng quay trở lại vụ bắt cóc và những bước tiếp theo cần tiến hành.
“Chúng ta có chắc trăm phần trăm rằng chính tay giáo viên toán này bắt cóc bọn trẻ không?” Graham hỏi. Trước đây tôi và ông đã sát cánh cùng nhau. Graham cực kỳ thông minh và đã là một ngôi sao của Cục trong nhiều năm. Ông là đồng tác giả của một cuốn sách viết về việc loại trừ tội phạm có tổ chức ở New Jersey. Cuốn sách đó đã được chuyển thể thành một bộ phim đình đám. Chúng tôi tôn trọng và quý mến nhau - điều hiếm thấy giữa nhân viên Cục và cảnh sát địa phương. Hồi vợ tôi bị sát hại ở Washington, Roger đã “vượt rào” và đưa Cục tham gia vào cuộc điều tra. Ông đã giúp đỡ tôi còn nhiều hơn những thanh tra cùng phòng.
Tôi quyết định thử trả lời câu hỏi của Roger Graham. Lúc này đã đủ bình tâm để nói chuyện, tôi nói cho họ những nhận định của Sampson và tôi tới thời điểm này. “Chắc chắn cả ba đã cùng rời khỏi trường,” tôi nói. “Một người quét dọn đã trông thấy họ. Tay giáo viên toán Soneji đã tới lớp học của cô Kim. Hắn đã nói dối cô ấy. Nói rằng có một thông điệp đe dọa gửi qua điện thoại và hắn có nhiệm vụ đưa hai đứa bé tới văn phòng của hiệu trưởng để xin phép được đưa về nhà. Nói rằng khi ấy Sở Mật vụ chưa xác định được là mối đe dọa nhằm vào bé trai hay bé gái. Rồi hắn tiếp tục đi cùng hai đứa. Bọn trẻ đủ tin hắn để chấp nhận việc ấy.”
“Làm thế nào một kẻ bắt cóc tiềm tàng có thể gia nhập đội ngũ giáo viên của trường kiểu này được?” viên đặc vụ hỏi. Một cặp kính râm nhô lên từ túi ngực chiếc áo vest của ông. Kính râm dùng cho mùa đông. Diễn viên Harrison Ford đã đóng vai Graham trong bộ phim chuyển thể từ cuốn sách của ông. Thực sự thì vai diễn đó không hề tồi. Sampson gọi Graham là “Màn ảnh rộng”.
“Điều đó thì chúng ta vẫn chưa biết,” tôi nói với Graham. “Ta sẽ sớm biết thôi.” Cuối cùng Thị trưởng Monroe cũng giới thiệu Sampson và tôi với Bộ trưởng Goldberg. Monroe nói một chút về việc chúng tôi là hai trong số những thanh tra ngon lành nhất của D.C., vân vân và vân vân. Rồi viên thị trưởng dẫn bộ trưởng vào trong văn phòng của hiệu trưởng. Đặc vụ Graham tụt lại. Ông nhướng mắt với Sampson và tôi. Ông muốn chúng tôi biết rằng đây
không phải đất diễn của ông.
Jezzie Flanagan ở lại phía sau. “Tôi đã nghe nói về anh, thanh tra Cross, tôi đang nghĩ về chuyện này. Anh là chuyên gia tâm lý. Đã có một bài trên tờ Washington Post.” Jezzie nở một nụ cười đẹp, một nụ cười chúm chím.
Tôi không cười đáp lại. “Cô biết báo chí thế nào rồi đấy,” tôi nói. “Thường thì đầy những sự thật nửa vời. Trong trường hợp đó thì chắc chắn sẽ có một số chuyện bịa đặt ghê gớm.” “Tôi không chắc chắn đến thế,” cô nói. “Dù sao cũng rất vui được gặp anh.” Đoạn cô bước vào phòng hiệu trưởng, phía sau Bộ trưởng Goldberg, viên thị trưởng cùng viên đặc vụ ngôi sao của FBI. Không ai mời tôi, thanh tra kiêm chuyên gia tâm lý nổi danh nhờ mấy tờ tạp chí. Không ai mời Sampson.
Monroe thò đầu ra ngoài. “Ở đó nhé, hai anh. Đừng gây xáo trộn gì. Cũng đừng có cáu tiết. Chúng tôi cần các anh ở đây. Tôi cần nói chuyện với anh, Alex. Cứ ở yên đó. Đừng cáu.” Sampson và tôi gắng làm hai cảnh sát tốt. Chứng tôi đứng ở phía ngoài văn phòng hiệu trưởng khoảng mười phút nữa. Cuối cùng cả hai cũng rời khỏi vị trí. Chứng tôi cảm thấy cáu tiết.
Tôi cứ liên tục thấy gương mặt của thằng bé Mustaf Sanders hiện ra. Ai sẽ đi và tìm ra kẻ giết thằng bé? Chẳng ai cả. Mustaf đã rơi vào lãng quên - tôi biết rằng điều đó sẽ không bao giờ xảy ra với hai đứa học sinh của trường tư.
Sau đó một chút, Sampson và tôi cùng vài đứa trẻ nằm trên sàn gỗ thông của “phòng chơi” tại trường Washington Day. Mấy đứa trẻ này gồm Luisa, Jonathan, Stuart, Mary-Berry, và chị gái “lớn” Brigid của nó. Chưa ai đến đón được bọn trẻ này nên chúng sợ hãi. Một vài đứa ở trường đã tè ướt cả quần, thậm chí có đứa còn nôn tung tóe. Có khả năng xảy ra tổn thương do khủng hoảng, một tình trạng mà tôi đã có chút kinh nghiệm điều trị.
Cùng ngồi trên mặt sàn gỗ được đánh bóng với chúng tôi là cô giáo Vivian Kim. Chúng tôi muốn nói chuyện với cô về chuyến thăm của Soneji tới lớp cô và những điểm tổng quát về Soneji.
“Bọn chú là học sinh mới của trường cháu,” Sampson đùa với bọn trẻ. Thực tế là cậu ta đã bỏ cặp kính râm ra, dù tôi không chắc chắn liệu cậu có phải làm thế không. Trẻ con thường thích Sampson. Cậu ta hợp với vai trò “yêu quái thân thiện” của bọn chúng.
“Không, không phải thế!” Mary-Berry nói. Sampson đã khiến con bé cười. Đó là dấu hiệu tốt.
“Đúng thế đấy, bọn chú là cảnh sát thật,” tôi nói với lũ trẻ. “Bọn chú ở đây để đảm bảo rằng bây giờ mọi người đều ổn. Ý chú là, phù, đúng là buổi sáng tuyệt vời!”
Cô Kim từ phía bên kia sàn mỉm cười với tôi. Cô biết rằng tôi đang cố tạo cho đám trẻ chút yên tâm. Cảnh sát đã có mặt và tình hình lại an toàn. Bây giờ không ai có thể làm tổn hại chúng, trật tự đã được khôi phục.
“Chú có phải là cảnh sát giỏi không ạ?” Jonathan hỏi tôi. So với một thằng nhỏ, nó có vẻ rất nghiêm túc.
“Có, chú là cảnh sát giỏi. Thanh tra Sampson, đồng nghiệp của chú đây cũng thế.” “Các chú to lắm. Các chú to ghê,” Luisa nói. “To, to, TO như nhà cháu ạ!” “Thế nên các chú có thể bảo vệ mọi người tốt hơn,” Sampson nói với bé gái. Sampson đã hòa nhập rất nhanh.
“Các chú có con không ạ?” Brigid hỏi tôi. Con bé thận trọng quan sát cả hai chúng tôi trước khi cất lời. Nó có đôi mắt sáng đẹp tuyệt, và chưa gì tôi đã thấy quý nó rồi. “Chú có con,” tôi đáp. “Một trai một gái.”
“Tên hai bạn ấy là gì ạ?” Brigid hỏi. Nó đã hoán đổi vai trò hỏi-đáp với chúng tôi một cách nhanh gọn.
“Janelle và Damon,” tôi nói với con bé. “Janelle bốn tuổi còn Damon sáu tuổi.” “Vợ chú tên là gì ạ?” Stuart tham gia.
“Giờ chú không có vợ,” tôi nói với thằng bé.
“Ông Rogers, ông Rogers của tôi ơi,” Sampson thì thào.
“Chú ly dị ạ?” Mary-Berry đặt câu hỏi cho tôi. “Vấn đề là thế phải không?” Cô giáo Kim bật cười to. “Đúng là một câu hỏi lạ dành cho người bạn tốt của chúng ta, Mary ạ.”
“Họ có làm Maggie Rose và Michael Goldberg đau không ạ?” Jonathan “nghiêm túc” muốn biết. Đó là câu hỏi hay và hợp lý. Xứng đáng nhận được câu trả lời. “Chú hy vọng là không, Jonathan ạ. Chú sẽ cho cháu biết một điều. Sẽ không ai có thể làm cháu đau. Thanh tra Sampson và chú ở đây để đảm bảo việc đó.”
“Các chú sẽ rất cứng rắn, nếu các cháu chưa tin,” Sampson nhăn nhở. “Gừ, gừ. Sẽ không bao giờ có kẻ nào làm bọn trẻ này đau đớn được. Gừ, gừ.”
Vài phút sau Luisa bắt đầu khóc. Nó là đứa bé dễ thương. Tôi muốn ôm con bé nhưng không thể. “Có vấn đề gì vậy, Luisa?” cô Kim hỏi. “Mẹ hoặc bố em sẽ đến ngay thôi mà.”
“Không, họ sẽ không đến đâu.” Con bé lắc đầu. “Họ sẽ không đến. Họ chẳng bao giờ đón em ở trường.”
“Ai đó sẽ tới,” tôi khẽ khàng nói. “Và ngày mai mọi chuyện sẽ lại ổn thôi” Cửa phòng chơi từ từ mở ra. Tôi rời mắt khỏi đám trẻ và xoay về phía ấy. Đó là chuyến thăm của Thị trưởng Carl Monroe tới những ngôi trường dành cho tầng lớp đặc quyền của thành phố chứng tôi.
“Anh đang ngăn chặn rắc rối đấy à, Alex?” Viên thị trưởng hỏi và mỉm cười khi bước vào căn phòng chơi khác thường này. Monroe chừng bốn lăm tuổi, mang vẻ điển trai xù xì. Ông ta để tóc dày và bộ ria mép đen, rậm. Monroe trông như doanh nhân trong bộ vest màu xanh hải quân, áo sơ mi trắng, cà vạt vàng tươi.
“À, đúng thế. Tôi chỉ cố gắng làm điều gì đó có ích trong thời gian rảnh ở đây thôi. Cả Sampson và tôi đều thế.”
Câu nói đó khiến viên thị trưởng cười thầm. “Xem ra có vẻ các anh đã thành công rồi đấy. Ta lên xe thôi. Đi cùng tôi nhé, Alex. Chúng ta phải bàn vài vấn đề.”
Tôi tạm biệt lũ trẻ và cô giáo Kim rồi cùng Monroe bước ra khỏi tòa nhà của trường. Có lẽ tôi sẽ biết được bây giờ điều gì đang thực sự diễn ra, và vì sao tôi lại xử lý vụ bắt cóc chứ không làm vụ án mạng. Và liệu tôi có lựa chọn nào về vấn đề này không.
“Anh tới đây bằng xe của anh à, Alex?” Monroe nói khi cả hai cùng sải bước theo những bậc thềm phía trước trường.
“Xe của tôi và cũng là xe của công ty tài chính HFC,” tôi nói.
“Ta sẽ dùng xe của anh. Đội Điều tra Đặc biệt gợi cho anh điều gì? Một khái niệm thật mạnh mẽ,” thị trưởng nói khi cả hai tiếp tục bước về phía khu đỗ xe. Rõ ràng ông ta đã điều lái xe và chiếc xe của mình đi trước. Một người vì nhân dân, thị trưởng của chúng tôi là thế.
“Chính xác thì khái niệm Đội Điều tra Đặc biệt là gì?” tôi hỏi. Tôi đang trầm tư suy nghĩ về vị trí công việc hiện tại của mình, đặc biệt là việc báo cáo với George Pittman. Carl Monroe cười to. Ông ta có thể rất khéo léo với mọi người, và thực tế là cũng rất khôn ngoan. Viên thị trưởng luôn tỏ ra quan tâm và rộng lượng, có thể ông ta là thế. Ông ta thậm chí có thể lắng nghe nếu cần thiết.
“Ý tưởng chính là đảm bảo rằng những phụ nữ và nam giới da đen mạnh mẽ nhất trong lực lượng cảnh sát thành phố được lên tới vị trí cao nhất, xứng đáng với những gì họ được hưởng. Không chỉ những kẻ nịnh bợ đâu, Alex ạ. Trong quá khứ không phải lúc nào chuyện đó cũng
diễn ra.”
“Tôi nghĩ chúng tôi đều ổn mà không cần chương trình chống phân biệt đối xử. Ông đã nghe về mấy trường hợp bị giết ở Condon và Langley Tafface chưa?” tôi hỏi viên thị trưởng. Monroe gật đầu nhưng không nói gì thêm về kẻ sát nhân chuyên để lại dấu tích. Hôm nay đó không phải là ưu tiên của thị trưởng.
“Mẹ, con gái, một bé trai ba tuổi,” tôi vẫn tiếp tục và lại bắt đầu cảm thấy bực tức. “Chẳng ma nào thèm để tâm tới chuyện đó.”
“Thế có gì mới nào, Alex? Chẳng ai quan tâm tới cuộc sống của họ. Tại sao phải có người nào quan tâm tới cái chết của họ chứ?” Chúng tôi đã đến được chỗ xe tôi, một chiếc Porsche đời 74 đã lỗi thời. Những cánh cửa xe kêu kèn kẹt và phảng phất mùi hôi của những bữa trưa ăn nhanh. Tôi đã chạy chiếc xe này trong ba năm làm việc tự do. Cả hai cùng vào xe.
“Anh biết đấy, Alex, Colin Powell bây giờ là Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân. Louis Sullivan là Bộ trưởng Bộ Y tế và Dịch vụ con người. Jesse Jackson đã giúp tôi có được vị trí này,” Monroe nói khi cả hai chạy vào đường Canal và hướng về phía trung tâm. Ông ta vừa nói vừa chằm chằm nhìn vào hình ảnh phản chiếu của mình trên kính cửa sổ xe.
“Và bây giờ ông đang giúp tôi à?” tôi hỏi. “Mà không cần tôi đề nghị cơ đấy. Như thế thật tốt, thật chu đáo.”
“Đúng thế,” viên thị trưởng đồng ý. “Anh hiểu nhanh ghê, Alex.”
“Vậy thì hãy giúp tôi thoát khỏi vụ này. Tôi muốn giải quyết vụ án mạng ở khu nhà giá rẻ. Tôi rất lấy làm tiếc về vụ hai đứa trẻ da trắng đó, nhưng vụ bắt cóc sẽ không cần sự chú ý hoặc hỗ trợ đâu. Thực tế là chuyện đó sẽ trở thành rắc rối. Quá nhiều sự giúp đỡ chả ra gì rồi.”
“Tất nhiên là thế. Cả hai chúng ta cùng biết điều đó.” Monroe gật đầu đồng ý. “Những gã khốn nạn dốt nát đó chỉ dẫm chân nhau mà làm hỏng chuyện thôi. Hãy lắng nghe tôi, Alex. Anh sẽ chỉ lắng nghe thôi, được chứ?”
Khi Carl Monroe muốn điều gì đó từ ta, nếu phải làm, ông ta sẽ thuyết phục để ta khuất phục. Trước đây tôi đã chứng kiến việc này, và giờ đây ông ta bắt đầu việc ấy với tôi. “Theo đúng như truyền thuyết về Alex Cross, bây giờ thì anh túng quẫn.” “Tôi vẫn đang ổn,” tôi nói. “Có nhà để ở. Có đồ để ăn.”
“Anh đã sống ở khu Đông Nam khi anh có thể dễ dàng rời khỏi đó,” viên thị trưởng tiếp tục với bản lý lịch rời rạc mà tôi đã từng nghe trước đây. Anh vẫn làm cho nhà thờ Thánh Anthony chứ?”
“Vâng. Nấu xúp. Một số buổi điều trị miễn phí. Người Samarita da đen.”
“Anh biết đấy, một lần tôi đã trông thấy anh tham gia vở kịch ở nhà thờ Thánh Anthony. Anh cũng biết diễn đấy. Anh đã tham gia thực sự.”
“Vở Giọt máu của Athol Fugard.” Tôi nhớ thời điểm đó. Maria đã dụ tôi tham gia nhóm diễn của cô. “Vở kịch ấy quả là đầy sức lan tỏa. Nó có thể khiến mọi người trở nên tốt hơn.” “Anh vẫn theo kịp điều tôi đang nói chứ? Anh có lắng nghe tôi chút nào không đấy?” “Ông muốn cưới tôi.” Tôi cười to với Monroe. “Nhưng trước hết ông vẫn muốn hò hẹn với tôi.”
“Đại loại như thế,” Monroe cười to đáp lại.
“Ông đang làm đúng cách đấy, Carl. Tôi muốn nghe những lời ngọt ngào trước khi làm tình.”
Monroe cười thêm một chút và to hơn một chút so với mức cần thiết. Viên thị trưởng có thể làm bạn với ta, rồi lần sau gặp lại ông ta sẽ chằm chằm nhìn xuyên thấu ta. Một số người trong phòng gọi ông ta là “Dừa”. Tôi là một trong số đó. “Bên ngoài thì nâu, bên trong thì trắng.” Tôi có cảm giác rằng thực tế Monroe là một kẻ cô đơn. Tôi vẫn băn khoăn xem chính xác thì ông ta muốn gì từ tôi.
Monroe im lặng một lát. Khi xe chạy vào đường cao tốc Whitehurst, viên thị trưởng lại cất tiếng. Xe cộ rất đông, con đường có tuyết đang tan chẳng giúp ô tô chạy nhanh hơn. “Tình huống chúng ta đang đối mặt đầy bi kịch, rất bi kịch. Vụ bắt cóc này cũng quan trọng với chúng ta. Bất kỳ ai xử lý nó cũng sẽ là một việc quan trọng. Tôi muốn anh giúp xử lý nó, là một người có vai trò quyết định. Tôi muốn anh có được tên tuổi nhờ vụ này.” “Tôi không cần danh tiếng” tôi huỵch toẹt với Monroe. “Không muốn làm một kẻ có vai trò quyết định chết tiệt nào hết.”
“Tôi biết anh không muốn. Và đó là một trong những lý do anh nên tham gia. Tôi sẽ nói cho anh biết sự thật. Anh thông minh hơn chúng tôi, và anh sẽ trở thành nhân vật quan trọng trong thành phố này. Hãy ngừng việc làm tên khốn cứng đầu đi. Thôi xù lông nhím đi.”
“Tôi không đồng ý. Không đồng ý nếu có thể cưỡng lại được. Không đồng ý nếu tôi có thể ngăn cản được. Ý tưởng về thành công của ông không phải là ý tưởng của tôi.” “Này, ở đây tôi biết điều gì đúng. Cho cả hai chúng ta,” viên thị trưởng nói. Lần này Carl Monroe không mỉm cười chút nào. “Anh hãy liên tục cập nhật cho tôi về diễn tiến của vụ này. Anh và tôi cùng tham gia vụ này với nhau, Alex. Đây là một vụ làm nên sự nghiệp đấy.” Tôi gật đầu với Monroe. Chắc chắn rồi, tôi nghĩ. “Sự nghiệp của ai vậy ông Carl?”
Tôi đã dừng xe phía trước tòa nhà của quận với những chi tiết trang trí đẹp đẽ. Monroe lách người ra khỏi ghế. Ông ta từ phía ngoài cúi xuống nhìn tôi.
“Vụ này sẽ cực kỳ quan trọng, Alex. Nó là vụ của anh.”
“Không, cảm ơn,” tôi nói. Nhưng Monroe đã bỏ đi.
CHƯƠNG 9
MƯỜI GIỜ HAI LĂM, vẫn nằm trong khoảng thời gian đã dự tính trước cho cuộc đào thoát từ Washington, Gary Soneji đánh lái cho chiếc xe tải chạy vào một con đường không có biển chỉ dẫn. Con đường ven này lỗ chỗ ổ gà và mọc dày cỏ dại. Hai bên mé đường là những bụi mâm xôi.
Từ nơi cách quốc lộ chưa tới năm mươi mét, Soneji không thể trông thấy gì ngoài con đường đất và một mớ cây bụi lộn xộn mọc nhô lên. Từ quốc lộ sẽ chẳng ai có thể trông thấy chiếc xe tải của hắn.
Chiếc xe tải rung lắc chạy qua một căn nhà nông trại xiêu vẹo với lớp sơn trắng đã nhạt. Trông như thể căn nhà này sắp co lại và đổ sụp xuống tận nền. Qua căn nhà chưa tới bốn mươi mét là một nhà kho cũng tồi tàn không kém.
Soneji lái xe vào trong. Hắn đã hoàn thành công việc; khó khăn nhưng hắn đã thành công. Trong nhà kho có một chiếc Saab đen đời 1985. Khác với phần còn lại của nông trại bị bỏ hoang, nhà kho có cảm giác vẫn có người ở.
Nhà kho này có nền đất. Vải thưa dán vào ba ô cửa sổ đã vỡ trong vựa chứa cỏ khô. Không thấy có chiếc máy kéo han gỉ hay máy móc nào ở đây. Nhà kho tỏa ra mùi đất ẩm và xăng. Gary Soneji lôi ra hai lon Coke từ một thùng lạnh bên ghế hành khách. Hắn lau bóng cả hai lon, thở ra một hơi khoan khoái sau khi uống cạn lon lạnh thứ hai.
“Có đứa nào trong chúng mày muốn uống Coke không?” Soneji nói to với hai đứa trẻ đang mê man vì thuốc. “Không hả? Thế thì được thôi, nhưng bọn mày sẽ sớm thấy khát thực sự đấy.” Trên đời chẳng có gì là chắc chắn, Soneji nghĩ thế, nhưng hắn không thể tưởng tượng ra bây giờ cảnh sát có thể tóm được hắn bằng cách nào. Tự tin đến thế này có phải là ngốc nghếch và nguy hiểm không? Hắn tự hỏi. Không thực sự thế, bởi hắn cũng thực tế. Bây giờ không có cách nào lần theo hắn. Không có một manh mối nào cho họ lần theo.
Hắn đã lên kế hoạch bắt cóc người nổi tiếng từ hồi, có lẽ là xưa lắm rồi. Mục tiêu bắt cóc cứ thay đổi, rồi lại tiếp tục thay đổi, nhưng mục đích chính rõ ràng trong đầu hắn thì không bao giờ như vậy. Hắn đã làm việc ở trường Washington Day trong nhiều tháng. Lúc này, chính thời điểm này đang chứng minh rằng mỗi phút của việc ấy đều có giá trị.
“Thầy Chips.” Soneji nghĩ về biệt danh của hắn ở trường. Thầy Chips! Quả là một vai diễn hay, rất hay mà hắn đã sắm. Thực sự đáng được trao giải Oscar. Hay như bất kỳ thứ gì hắn từng được xem kể từ khi Robert De Niro diễn trong Vua hài. Và vai diễn đó là kinh điển. Bản thân De Niro ngoài đời thực chắc hẳn phải là một kẻ tâm thần.
Gary Soneji kéo mở cửa trượt của chiếc xe tải. Trở lại với công việc, làm việc, làm việc không ngừng nghỉ.
Hắn lần lượt kéo từng đứa trẻ vào nhà kho. Trước tiên là Maggie Rose Dunne. Rồi tới cậu bé Goldberg. Tên bắt cóc đặt hai đứa đang mê man nằm cạnh nhau trên nền đất. Hắn cởi đồ của từng đứa, chỉ để lại quần áo lót. Soneji cẩn thận chuẩn bị vài liều thuốc gây mê. Như một dược sĩ địa phương đầy thân thiện đang miệt mài làm việc. Một liều có cường độ gây mê cao hơn một viên thuốc ngủ nhưng thấp hơn một liều gây mê tại bệnh viện. Nó sẽ có tác dụng trong khoảng mười hai tiếng.
Hắn lấy ra những chiếc kim tiêm dùng một lần hiệu Tubex đã chứa sẵn thuốc. Đây là một bộ đồ tiêm đã được đóng gói sẵn, có đủ một liều thuốc và kim tiêm. Soneji chuẩn bị hai miếng gạc. Hắn phải rất cẩn thận. Liều lượng có sẵn trong kim tiêm có thể gây nguy hiểm cho trẻ nhỏ.
Tiếp theo, hắn kéo chiếc Saab đen về phía trước khoảng hai mét. Để lộ ra một khoảng trống có kích thước 1,2 x 1,5 mét trên sàn nhà kho.
Soneji đã đào cái hố trong mấy lần tới nông trại bỏ hoang này trước đó. Bên trong hố là một khoang nhỏ tự làm bằng gỗ, một dạng chỗ ở. Khoang này có bình cấp oxy riêng. Có đủ mọi thứ trừ một chiếc ti vi màu để xem băng ghi hình.
Soneji đặt cậu bé nhà Goldberg vào trong khoang này trước. Trong tay hắn, Michael Goldberg gần như chẳng có chút trọng lượng nào, đó chính xác là điều Soneji cảm thấy về cậu bé. Chẳng là gì hết. Rồi tới cô công chúa nhỏ, niềm vui và niềm tự hào nhỏ bé mang tên Maggie Rose Dunne. Hoàn toàn cách xa chốn phồn hoa.
Hắn ấn kim tiêm vào cánh tay từng đứa bé. Hắn cẩn thận để tiêm từng liều một cách từ từ, mỗi liều hết ba phút.
Các liều thuốc được tính theo trọng lượng, hai mươi lăm mi li gam tương ứng với mỗi ki lô gam trọng lượng cơ thể. Soneji kiểm tra hơi thở của từng đứa nhỏ. Ngủ ngon hai bé con triệu đô của ta.
Gary Soneji đóng mạnh cửa kéo. Rồi hắn vùi khoang gỗ dưới một lớp đất mới dày khoảng mười lăm phân. Bên trong nhà kho của nông trại bỏ hoang. Giữa vùng nông thôn của bang Maryland mà Chúa đã bỏ hoang. Giống hệt như cậu bé Charlie Lindbergh con chín tuổi đã bị
chôn cách đây sáu mươi năm.
Sẽ chẳng có ai tìm thấy chúng ở đây. Không thể tìm được cho tới khi Soneji muốn họ tìm thấy chúng. Nếu hắn muốn chúng được tìm thấy. Chữ NẾU rất to.
Gary Soneji lê bước trở lại con đường đất và đi tới phần còn lại của tòa nhà nông trại có từ lâu đời. Hắn muốn tắm rửa. Hắn cũng muốn bắt đầu tận hưởng việc này một chút. Thậm chí hắn đã mang theo một chiếc ti vi bỏ túi hiệu Watchman để xem hình ảnh của mình trên truyền hình.
CHƯƠNG 10
CỨ KHOẢNG MƯỜI LĂM PHÚT lại có một bản tin phát trên màn hình ti vi. Gary Soneji hiện lên những màn hình lớn trên cao. Hắn trông thấy những tấm ảnh chụp “Thầy Chips” trong mọi bản tin. Nhưng những bản tin lại chẳng cung cấp được chút thông tin nào về chuyện đang thực sự diễn ra.
Thế ra sự nổi tiếng là thế này đây! Đây là cảm giác của sự nổi tiếng. Hắn rất thích sự nổi tiếng. Đây là điều hắn đã thực hành suốt bao năm qua.”Chào Mẹ! Xem ai trên ti vi kìa. Là Thằng Bé Hư đấy!”
Suốt buổi chiều chỉ có một trục trặc nhỏ, đó là cuộc họp báo do FBI tổ chức. Một đặc vụ tên Roger Graham đã phát biểu, và rõ ràng tay đặc vụ này nghĩ mình là ngôi sao. Hắn muốn chút nổi tiếng cho bản thân. “Mày nghĩ đây là bộ phim của mày hả, Graham? Sai rồi nhóc ạ!” Gary Soneji hét vào màn hình. “Ở đây tao là ngôi sao duy nhất!”
Soneji quanh quẩn trong ngôi nhà giữa nông trại suốt nhiều giờ, theo dõi màn đêm chầm chậm buông xuống. Hắn cảm nhận được nhiều kiểu bóng tối khác nhau đang trùm lên nông trại. Bây giờ là bảy giờ, đã đến lúc tiếp tục với kế hoạch lớn của hắn.
“Làm thôi.” Hắn nhanh nhẹn bước quanh ngôi nhà như một võ sĩ sắp thượng đài. “Lên nào.”
Trong chốc lát Soneji nghĩ tới Charles và Anne Morrow Lindbergh, cặp vợ chồng nổi tiếng hắn luôn yêu thích. Điều đó làm hắn bình tĩnh lại đôi chút. Hắn nghĩ về bé con Charles và về anh chàng Bruno Hauptmann tội nghiệp, người rõ ràng đã bị gài trong vụ bắt cóc được sắp đặt và tiến hành một cách cực kỳ khôn ngoan. Soneji tin rằng vụ liên quan đến gia đình Lindbergh là vụ án nổi tiếng nhất thế kỷ, không chỉ bởi vì nó vẫn chưa có lời giải - có nhiều, rất nhiều vụ án không có lời giải – mà bởi nó vừa là một vụ quan trọng lại vừa không có lời giải.
Soneji tự tin, thực tế và, trên hết là, có quan điểm thực dụng về tuyệt tác của mình. Luôn có chỗ cho “may mắn”. Một “tai nạn may mắn” của cảnh sát có thể xuất hiện. Việc trao đổi tiền mặt trên thực tế có thể có rủi ro. Làm thế nghĩa là có sự liên hệ, mà trong cuộc sống thì liên hệ luôn có độ nguy hiểm rất cao.
Theo kiến thức của Soneji - vốn chẳng khác gì cuốn bách khoa toàn thư - chưa có kẻ bắt cóc nào ở thời hiện đại giải quyết thỏa đáng được vấn đề trao đổi tiền chuộc. Chưa thể coi là
thỏa đáng nếu những kẻ bắt cóc muốn được trả tiền cho công sức của mình, và với hai đứa bé triệu đô này, Soneji muốn một khoản công xá hoành tráng.
Đợi cho đến khi chúng nghe về số tiền chuộc.
Suy nghĩ ấy khiến Soneji mỉm cười. Tất nhiên là vợ chồng nhà Dunne nổi tiếng khắp thế giới và gia đình Goldberg đầy quyền lực có thể, và cũng sẽ chịu nhả tiền. Chẳng phải ngẫu nhiên mà hắn chọn hai gia đình có hai đứa con được nuông chiều hết mức cùng nguồn tài sản và quyền lực không giới hạn này.
Soneji đốt một ngọn nến trắng hắn cất ở túi bên của chiếc áo khoác. Tên bắt cóc hít mùi sáp dễ chịu. Rồi hắn bước tới phòng tắm nhỏ cạnh bếp.
Soneji nhớ tới một bài hát cũ của Chambers Brothers, “Đến lúc”. Đã đến lúc... đến lúc... đến lúc tặng tất cả một bài học. Đến lúc... đến lúc... đến lúc... đến lúc dành cho chút ngạc nhiên của hắn, bất ngờ đầu tiên trong rất nhiều bất ngờ. Đến lúc... đến lúc... đến lúc bắt đầu xây dựng huyền thoại của riêng hắn. Đây là bộ phim của hắn.
Căn phòng và cả căn nhà vào cuối tháng Mười hai lạnh như đóng băng. Khi bắt đầu công việc trong phòng tắm, Gary Soneji có thể thấy hơi thở của hắn phả ra thành làn khói. May là căn nhà bỏ hoang có nước giếng trong phòng tắm. Thực tế là nước rất lạnh. Gary Soneji đốt vài ngọn nến và bắt đầu công việc của hắn. Phải mất nguyên nửa tiếng để hắn hoàn thành.
Trước tiên kẻ bắt cóc gỡ bộ tóc giả màu nâu sẫm đang rụng dần. Hắn đã mua thứ này cách đây ba năm trong một cửa hiệu bán đạo cụ sân khấu ở thành phố New York. Đêm đó hắn đi xem vở kịch Bóng ma nhà hát. Hắn yêu thích nhạc kịch Broadway. Soneji đồng cảm với Bóng Ma đến mức việc ấy khiến hắn sợ hãi. Việc đó khiến hắn đọc cả cuốn tiểu thuyết gốc, ban đầu là tiếng Pháp, sau là tiếng Anh.
“Nào, nào, chúng ta có gì đây?” Soneji nói với khuôn mặt trong gương.
Khi lớp keo dính và bụi đã bong hẳn, một mái tóc vàng lộ ra. Những lọn tóc vàng dài lượn sóng.
“Thầy Soneji? Thầy Chips? Có phải thầy không thế, ông bạn?”
Thực ra trông cũng không tệ. Triển vọng đấy chứ, phải không? Đúng, rõ ràng là có triển vọng.
Và chẳng có gì giống Chips. Chẳng có gì giống thầy Soneji của chúng ta. Bộ ria mép dày mà Gary Soneji đeo từ ngày đến phỏng vấn ở trường Washington Day giờ đã rời ra. Rồi tới cặp kính áp tròng được gỡ ra. Đôi mắt hắn chuyển từ xanh về nâu hạt dẻ.
Gary cầm cây nến đang lụi dần tới chỗ chiếc gương rạn nứt, dơ dáy trong phòng tắm. Hắn dùng ống tay áo khoác lau sạch một góc gương.
“Kìa. Nhìn anh kìa. Giờ hãy nhìn anh. Thiên tài bộc lộ qua tiểu tiết, phải không?” Tay giáo viên dở hơi và nhạt nhẽo của trường tư đó gần như bị xóa bỏ hoàn toàn. Gã đàn ông nhút nhát, kẻ tốt bụng. Thầy Chips đã chết và vĩnh viễn biến mất.
Quả là một màn kịch tuyệt vời. Quả là một kế hoạch hành động táo bạo, và được tiến hành chu đáo. Thật tiếc là sẽ chẳng bao giờ có ai biết những gì đã thực sự diễn ra. Nhưng hắn có thể nói cho ai chứ?
Gary Soneji rời căn nhà khoảng mười một giờ ba mươi đêm, theo đúng lịch trình đã định. Hắn đi ra gara nằm riêng rẽ ở phía Bắc căn nhà.
Ở một nơi đặc biệt trong gara, nơi rất đặc biệt, Soneji đã giấu năm ngàn đô la tiền tiết kiệm của hắn, khoản dự trữ bí mật của hắn, số tiền hắn đã đánh cắp được qua nhiều năm. Đó cũng là một phần của kế hoạch lớn. Nhìn xa trông rộng.
Rồi hắn đi về hướng nhà kho, về phía chiếc xe của mình. Khi đã vào trong kho, Soneji xem xét tình trạng hai đứa nhỏ lần nữa. Cho đến giờ thì mọi chuyện tuyệt vời.
Không một lời kêu ca từ hai đứa trẻ.
Chiếc Saab nổ máy ngay. Hắn đánh xe ra đường chính, chỉ bật đèn cốt.
Rồi tới quốc lộ, Soneji bật đèn pha. Đêm nay hắn vẫn có việc phải làm. Vở diễn tuyệt tác tiếp tục.
Tuyệt cú mèo.
CHƯƠNG 11
ĐẶC VỤ FBI ROGER GRAHAM sống ở Manassas Park, ở đoạn giữa Washington và Học viện FBI tại Quantico. Graham tạo ấn tượng mạnh với thể hình cao lớn cùng mái tóc màu cát cắt ngắn. Ông đã xử lý nhiều vụ bắt cóc lớn nhưng chưa vụ nào phức tạp như cơn ác mộng hiện tại.
Đến hơn một giờ sáng một chút thì Graham cũng về tới nhà. Căn nhà thấp và trải rộng ra theo phong cách kiến trúc thuộc địa trên một con phố như bao con phố khác ở Manassas Park. Sáu phòng ngủ, ba phòng tắm, một sân lớn rộng hơn nửa héc ta.
Nhưng không may là hôm nay không phải một ngày bình thường. Graham đã mệt mỏi và kiệt sức. Ông thường tự hỏi tại sao mình không đơn giản là chia tay công việc và viết một cuốn sách nữa. Nghỉ hưu sớm và rời Cục. Để quan tâm, tìm hiểu ba đứa con mình trước khi chúng rời khỏi gia đình để ra ở riêng.
Dãy phố nhà ông ở Manassas Park vắng tanh. Những ngọn đèn ngoài hiên nhà nhấp nháy dọc theo con đường, chúng tạo thành một cảnh tượng thân thiện và nhẹ nhõm. Ánh sáng bỗng xuất hiện trên gương chiếu hậu chiếc Ford Bonco của Graham.
Chiếc xe thứ hai đã dừng lại trên con phố phía trước nhà Graham, hai đèn pha sáng lóa. Một người đàn ông bước ra, tay nắm chặt cuốn sổ và vẫy ra hiệu.
“Đặc vụ Graham phải không? Tôi là Martin Bayer của tờ New York Times,” người đàn ông gọi to khi bước theo đường dẫn vào nhà. Anh ta chìa thẻ nhà báo ra.
Chúa ơi! Bọn New York Times chó chết, Graham nghĩ. Tay phóng viên mặc một bộ com lê màu sẫm, sơ mi sọc mảnh, cà vạt bằng vải sọc gân. Hắn là một tay phóng viên trẻ, đầy triển vọng, đặc trưng của tờ New York Times đang thực hiện nhiệm vụ. Tất cả những tay khốn kiếp của tờ Times và Post trong mắt Graham đều như nhau cả. Không còn những phóng viên thực thụ trong đám người đó nữa.
“Anh đã chạy cả một quãng đường dài tới đây vào giờ này chỉ để nhận một câu ‘miễn bình luận’, anh Bayer ạ. Tôi rất tiếc,” Roger Graham nói. “Tôi không thể cung cấp thông tin gì cho anh về vụ bắt cóc. Thật lòng là không có thông tin nào để cung cấp.”
Graham chẳng hề tiếc, nhưng ai mà muốn có kẻ thù từ New York Times chứ. Bọn khốn này có thể dùng ngòi bút độc địa của chúng đâm xuyên từ tai nọ sang tai kia của ta.
“Một câu hỏi, chỉ một câu thôi. Tôi hiểu rằng ông có quyền không trả lời, song nó quan trọng với tôi - cho tôi. Để tôi phải đến đây vào lúc một giờ sáng.”
“Được thôi. Vậy thì hỏi đi. Câu hỏi của anh là gì?” Graham đóng sập cánh cửa chiếc Bronco. Ông khóa cửa xe để đảm bảo an toàn cả đêm, tung chùm chìa khóa lên rồi bắt lấy. “Tất cả bọn mày đều ngu ngốc và nhút nhát đến không thể tin nổi như thế này à?” Gary Soneji hỏi Graham. “Đó là câu hỏi của tao, Graham khoác lác ạ.”
Một lưõi dao dài và sắc ngay lập tức vung về phía trước. Rồi một lần nữa. Lưỡi dao cứa đi cứa lại quanh cổ họng Roger Graham.
Nhát thứ nhất đẩy ông vào chiếc Ford Bronco. Nhát thứ hai cứa đứt động mạch cảnh. Graham sụp xuống chết ngay trên đường dẫn vào nhà. Không đủ thời gian để né, bỏ chạy hay thậm chí thốt lên một lời cầu nguyện.
“Người ta cứ tưởng mày là một ngôi sao ghê gớm, Roger. Mày muốn trở thành ngôi sao, đúng không? Tao chẳng thấy bằng chứng nào của việc ấy. Không, hoàn toàn không,” Soneji nói. “Lẽ ra mày phải giỏi hơn thế này. Tao muốn kẻ giỏi nhất, khôn ngoan nhất thách đấu mình.”
Soneji cúi thấp người và nhét một tấm phiếu làm mục lục vào túi áo ngực trên chiếc sơ mi trắng của đặc vụ Graham. Thủ phạm vỗ vào ngực viên đặc vụ đã lìa đời. ”Nào, một tay phóng viên New York Times có thực sự tới đây lúc một giờ sáng không, đồ khốn ngạo mạn? Chỉ để nói chuyện với thằng chó khắm như mày ấy à?”
Rồi Soneji đánh xe rời hiện trường án mạng. Cái chết của đặc vụ Graham chẳng phải chuyện to tát gì với tên bắt cóc. Không thực sự to tát. Trước vụ này hắn đã giết hơn hai trăm người. Làm nhiều quen tay. Đây cũng sẽ không phải trường hợp cuối cùng.
Nhưng vụ này sẽ khiến mọi người thức tỉnh. Soneji chỉ hy vọng rằng cảnh sát có người nào đó giỏi hơn đang đợi sau cánh gà.
Nếu không thì niềm vui ở đâu? Thách thức ở đâu? Làm thế nào để vụ này còn lớn hơn vụ bắt cóc Lindbergh?
CHƯƠNG 12
TÔI TRỞ NÊN đa cảm sau vụ hai đứa trẻ bị bắt cóc. Đêm đầu tiên, giấc ngủ của tôi chập chờn và đầy kích động. Trong mơ, tôi thấy lại nhiều cảnh tệ hại trong ngôi trường đó. Liên tục thấy Mustaf Sanders. Đôi mắt buồn của thằng bé chằm chằm nhìn tôi, khẩn cầu sự giúp đỡ từ tôi nhưng chẳng nhận được gì.
Tôi tỉnh giấc và nhận ra hai đứa con đang nằm trên giường mình. Chắc chắn là lúc sáng sớm hai đứa đã chui lên đây. Đó là một trong những trò hai đứa thích, trò đùa nhỏ của chúng với “Bố Bự”.
Damon và Janelle đang ngủ say trên một chiếc chăn may từ nhiều mảnh. Đêm qua tôi mệt mỏi đến mức không buồn kéo nó ra khỏi giường. Hẳn là mấy bố con trông giống như hai thiên thần đang nghỉ ngơi và một con ngựa kéo ngã quỵ.
Damon sáu tuổi và luôn làm tôi nhớ rằng mẹ nó đã đặc biệt thế nào. Nó có đôi mắt của Maria. Jannie là cục cưng thứ hai của tôi. Con bé bốn tuổi, đang lớn nhanh như thổi. Nó thích gọi tôi là “Bố Bự”, nghe giống như tiếng lóng của người da đen mà nó đã sáng tạo ra. Hình như ở kiếp trước nó đã biết ngôi sao bóng bầu dục “Bố Bự” Lipscomb.
Trên giường còn có một cuốn sách của William Styron nói về nỗi u uất của mình, cuốn Bóng tối hiện hữu mà tôi đang đọc. Tôi hy vọng nó sẽ mang lại được chút manh mối giúp tôi vượt qua nỗi u uất của chính mình - thứ đã làm tôi khốn khổ kể từ khi Maria bị giết. Ba năm qua với tôi dài như thể hai mươi năm.
Điều thực sự khiến tôi tỉnh giấc sáng nay là những ánh đèn pha quét qua rèm cửa sổ. Tôi nghe tiếng cửa xe hơi đóng mạnh và những tiếng chân lạo xạo bước nhanh trên sỏi ngoài lối dẫn vào nhà. Cẩn thận không làm lũ trẻ tỉnh giấc, tôi nhẹ nhàng bước ra cửa sổ phòng ngủ.
Tôi nhòm xuống hai chiếc xe tuần tra của cảnh sát D.C. đậu phía sau chiếc Porsche cũ ở lối dẫn vào nhà. Bên ngoài có vẻ lạnh kinh khủng. Chúng tôi mới chỉ bước vào thời kỳ lạnh nhất của mùa đông ở D.C.
“Để tôi nghỉ chút đi,” tôi lầm bầm nói vào rèm cửa sổ lạnh buốt. “Biến đi.” Sampson đang hướng về phía cửa sau dẫn vào bếp nhà tôi. Đồng hồ cạnh giường chỉ năm giờ kém hai mươi. Đến giờ đi làm rồi.
Lúc sát năm giờ, Sampson và tôi rẽ vào một tòa nhà xây bằng đá cát kết nâu từ trước Thế chiến giờ đang xuống cấp nằm ở Georgetown, cách phố M một dãy nhà về phía Tây. Chúng tôi quyết định tự kiểm tra căn hộ của Soneji. Cách duy nhất để mọi việc được thực hiện đúng là tự mình thực hiện.
“Tất cả đèn đều bật. Có vẻ ai đó đang ở trong nhà,” Sampson nói khi chúng tôi bước ra khỏi xe. “Bây giờ đó có thể là ai nhỉ?”
“Có ba phán đoán. Hai phán đoán đầu không tính,” tôi lẩm bẩm. Tôi vẫn đang bị ảnh hưởng của cảm giác khó chịu từ sáng sớm. Một chuyến đi tới hang ổ của quỷ cũng sẽ chẳng có tác dụng gì.
“FBI. Có lẽ Efrem Zimbalist, Jr. đang ở đó,” Sampson đoán. “Có thể họ đang quay Những câu chuyện có thật từ FBI.”
“Ta vào xem thôi.”
Chúng tôi đi vào tòa nhà và theo một cầu thang hẹp xoáy trôn ốc dẫn lên trên. Đến tầng hai, những dây băng vàng bảo vệ hiện trường đã được mắc thành hình dích dắc dẫn từ hành lang tới cửa căn hộ của Soneji. Nơi này trông không giống như chỗ ở của “Thầy Chips”. Có lẽ giống nơi ở của một Richard Ramirez hay sát thủ sông Green hơn.
Cánh cửa gỗ sứt sẹo đang mở. Tôi có thể thấy hai nhân viên kỹ thuật của FBI làm việc ở phía trong. Từ một chiếc đài trên sàn, một tay DJ sống ở khu vực này, người có biệt danh là Người Mỡ, đang tạo ra những âm thanh chói tai.
“Này Pete, đang làm gì thế?” tôi gọi vào trong. Tôi biết một trong hai nhân viên kỹ thuật đang làm việc, Pete Schweitzer. Anh ngước lên khi nghe thấy giọng tôi.
“Chà, xem ai ở đây nào. Xin đón chào quý vị tới với kênh Inner Sanctum*.” “Chúng tôi tới để làm phiền các anh. Xem mọi chuyện thế nào,” Sampson nói. Trước đây cả hai chúng tôi đều từng làm việc với Pete Schweitzer, quý và tin tưởng anh như ta có thể tin bất cứ người nào của FBI.
“Mời vào và hãy tự nhiên tại hang ổ của Soneji. Đây là anh bạn chuyên tìm kiếm và đóng gói của tôi, Todd Toohey. Todd thích nghe Người Mỡ vào buổi sáng. Đây là hai tay quỷ quái giống như bọn mình đấy, Toddie.”
“Loại đỉnh nhất đấy,” tôi nói với Todd Toohey. Tôi đã bắt đầu ngó nghiêng quanh căn hộ. Một lần nữa mọi thứ lại có cảm giác không thật. Trong đầu tôi có gì đó rất lạ, như linh cảm thấy chuyện gì không hay sắp xảy ra. Thời điểm kỳ lạ.
Căn hộ nhỏ một phòng này cực kỳ lộn xộn. Không có đồ nội thất nào cả - chỉ thấy một tấm nệm trần trên sàn, một chiếc bàn và đèn ngủ ở đầu giường, một chiếc ghế xô pha trông như nhặt từ ngoài đường về - nhưng sàn thì bày la liệt đủ thứ.
Những tấm ga nhăn nhúm, khăn mặt, đồ lót chiếm một phần đáng kể trong đống lộn xộn. Đồ thay ra đủ nhét đầy hai, ba sọt quần áo nằm vương vãi trên sàn nhà. Nhưng phần lớn vẫn là sách và tạp chí. Vài trăm cuốn sách và ít nhất cũng chừng đó cuốn tạp chí được xếp đầy trong căn hộ một phòng này.
“Đến giờ có gì đáng quan tâm không?” tôi hỏi Schweitzer. “Các anh đã kiểm tra hết thư viện của hắn chưa?”
Schweitzer nói chuyện với tôi mà không ngước mắt khỏi chồng sách anh đang rắc bột để tìm dấu vân tay. ”Mọi thứ đều đáng quan tâm. Kiểm tra đống sách xếp dọc tường đi. Cũng phải tính đến chuyện anh bạn bảnh chọe của ta đã lau sạch toàn bộ căn hộ chết tiệt này trước khi đánh bài chuồn nữa.”
“Hắn đã làm tốt chứ? Đạt tiêu chuẩn của các anh không?”
“Làm tuyệt vời. Bản thân tôi có làm cũng không thể tốt hơn được. Bọn tôi chưa tìm được một phần dấu vân tay nào ở bất cứ đâu. Thậm chí không có trong bất kỳ một cuốn nào trong những cuốn sách chết tiệt kia.”
“Có khi hắn đã đeo găng tay khi đọc,” tôi đề đạt.
“Tôi nghĩ có thể hắn đã làm thế. Tôi nghĩ anh đếch nên làm thế. Nơi này được một tay chuyên nghiệp rắc bột rồi đấy, Alex.”
Bây giờ thì tôi đã cúi xuống gần vài chồng sách. Tôi đọc tựa trên vài gáy sách. Hầu hết là sách phi hư cấu trong khoảng năm năm gần đây.
“Một tên hâm mộ sách viết về những vụ án có thật,” tôi nói.
“Nhiều, rất nhiều những câu chuyện về các vụ bắt cóc,” Schweitzer đáp. Anh ngước lên và chỉ tay. “Bên mé phải giường, gần đèn đọc sách ấy. Đó là sách viết về các vụ bắt cóc.” Tôi bước đến và nhìn lên những cuốn sách. Hầu hết là sách đánh cắp từ thư viện ở Georgetown. Tôi cho rằng chắc hẳn Soneji có thẻ để được vào tận giá sách. Hắn từng là sinh viên sao? Hay có thể là một giảng viên?
Trên bức tường trống phía trên thư viện riêng toàn sách bắt cóc của Soneji có dính vài tờ giấy in từ máy tính. Tôi bắt đầu đọc theo các danh sách.
Aldo Moro. Bị bắt cóc ở Rome. Năm vệ sĩ bị giết trong vụ bắt cóc này. Thi thể của Moro được tìm thấy trong một chiếc xe hơi bỏ không.
Jack Teich, được thả sau khi đã trả 750.000 đô la.
J. Reginald Murphy, chủ bút tờ Atlanta Constitution, được thả sau khi trả 700.000 đô la. J. Paul Getty đệ tam, được thả ở miền Nam Italia sau khi trả 2.800.000 triệu đô la tiền chuộc.
Bà Virginia Piper ở Minneapolis được phóng thích sau khi chồng chi 1.000.000 đô la. Victor E. Samuelson được thả tự do ở Argentina sau khi chi 14,2 triệu đô la tiền chuộc.
Tôi huýt sáo khi thấy những con số trên bảng danh sách của Soneji. Hắn sẽ đòi hỏi gì để đổi lấy Maggie Rose Dunne và Michael Goldberg?
Chỗ này thật sự hẹp, và không có nhiều không gian để Soneji lau sạch các dấu vân tay. Thế nhưng Schweitzer nói rằng hắn không để lại một dấu vết gì. Tôi tự hỏi liệu Soneji có từng là cảnh sát không. Đó đúng là một cách lên kế hoạch gây án, và có thể cải thiện cơ hội tẩu thoát nhờ nó.
“Vào đây một phút.” Sampson đang ở trong phòng tắm nằm tách riêng ở một bên của căn hộ một phòng này.
Những bức tường dán đầy ảnh cắt từ các tạp chí, báo, bìa đĩa nhạc, bìa ngoài sách. Soneji đã để lại cho chúng tôi điều ngạc nhiên cuối cùng. Không có dấu vân tay nào, nhưng hắn đã viết nguệch ngoạc một thông điệp. Ngay trên chiếc gương là một thông điệp viết theo kiểu chữ in: TAO MUỐN LÀ AI ĐÓ!
Trên các bức tường là cả một triển lãm. Tôi thấy River Phoenix. Rồi Matt Dillon. Có các bức ảnh từ sách của Helmut Newton. Tôi nhận ra kẻ đã giết Lennon, Mark David Chapman. Và Axl Rose, Pete Rose cũng ở trên tường. Cùng Neon Deion Sanders. Wayne Williams cũng ở đó. Và các bài báo. Hỏa hoạn ở câu lạc bộ Happy Land tại thành phố New York. Một bài viết trên tờ New York Times về vụ bắt cóc Lindbergh. Một bài về vụ bắt cóc Samuel Bronfman - người thừa kế của Seagram, và một bài viết về đứa nhỏ mất tích Etan Patz.
Tôi nghĩ về tên bắt cóc Soneji, hoàn toàn một mình trong căn hộ tiêu điều của hắn. Hắn đã cẩn thận lau sạch từng phân để xóa hết dấu vân tay. Bản thân căn phòng rất nhỏ, như phòng tu. Hắn là một tay ham đọc sách, hay ít nhất cũng thích có sách quanh mình. Rồi đến bức tường trưng bày ảnh của hắn. Điều đó nói với chúng tôi điều gì? Các đầu mối? Hay đánh lạc hướng?
Tôi đứng trước tấm gương phía trên bồn rửa và chằm chằm nhìn nó theo đúng cái cách mà
tôi biết hắn đã làm rất, rất nhiều lần. Tôi sẽ thấy gì? Gary Soneji đã thấy gì? “Đây là hình ảnh của hắn trên tường - gương mặt trong tấm gương này,” tôi nêu ra một giả thuyết với Sampson. “Bức ảnh mấu chốt, bức ở chính giữa. Hắn muốn làm ngôi sao của tất cả những thứ này.”
Sampson đang đứng tựa vào bức tường dán những tấm ảnh và các mẩu báo. “Tại sao lại không có dấu vân tay, Tiến sĩ Freud?”
“Hẳn hắn phải biết rằng chúng ta đã lưu vân tay của hắn trên hồ sơ nằm đâu đó. Tớ nghĩ rằng có lẽ khi ở trường hắn đã cải trang. Có thể hắn dùng đồ hóa trang trước khi đến trường. Có thể hắn từng là diễn viên sân khấu. Tớ không nghĩ chúng ta từng nhìn thấy mặt thật của hắn.”
“Tớ nghĩ thằng cha này có những kế hoạch lớn. Dứt khoát hắn muốn làm một ngôi sao,” Sampson nói.
Tao muốn là ai đó!
CHƯƠNG 13
MAGGIE ROSE DUNNE thức giấc sau giấc ngủ lạ lùng nhất trong đời nó. Những giấc mơ kinh khủng không thể tả nổi.
Con bé cảm thấy như thể mọi thứ xung quanh mình đang ở trạng thái quay chậm. Nó khát. Nó mót tiểu kinh khủng.
Sáng nay con mệt quá mẹ ạ. Làm ơn đi! Con không muốn dậy. Hôm nay con không muốn đi học. Xin mẹ đấy. Con cảm thấy không khỏe. Nói thật là con thực sự cảm thấy không khỏe, mẹ ạ. Maggie Rose mở bừng hai mắt. Ít nhất nó cũng nghĩ nó đã mở hai mắt, nhưng con bé chẳng trông thấy gì. Không một thứ gì.
“Mẹ ơi! Mẹ ơi! Mẹ ơi!” Rốt cuộc Maggie hét lên và không thể ngừng lại. Trong suốt một giờ sau đó, ít nhất cũng phải dài chừng ấy, con bé hết tỉnh dậy rồi lại ngất đi. Nó cảm thấy toàn thân yếu ớt. Nó bồng bềnh như một chiếc lá trên dòng sông rộng lớn nhất. Những dòng chảy cuốn con bé tới bất cứ nơi nào chúng muốn.
Maggie nghĩ về mẹ mình. Mẹ nó có biết con gái mình đã biến mất không? Bây giờ mẹ nó có đang tìm nó không? Chắc hẳn mẹ nó đang tìm nó.
Hình như ai đó đã cắt bỏ hai chân và hai tay của Maggie. Nó không thể cảm nhận được chúng. Chắc hẳn cũng thế này từ khá lâu rồi.
Xung quanh tối đen. Ắt hẳn con bé đã bị chôn dưới đất. Chắc chắn nó đang thối rữa, đang dần trở thành một bộ xương. Đó phải chăng là lý do nó không thể cảm nhận được chân tay mình?
Mình sẽ như thế này mãi mãi sao? Con bé không thể chịu đựng được điều đó, và nó lại khóc. Nó rất bối rối. Nó không thể suy nghĩ được gì.
Nhưng Maggie Rose có thể mở và nhắm hai mắt. Ít nhất nó nghĩ là nó có thể. Nhưng nó có nhắm hay mở mắt thì cũng chẳng khác gì. Mọi thứ đều là bóng tối. Nhắm hay không cũng đều thế cả.
Cứ làm đi làm lại việc ấy, mở rồi nhắm mắt thật nhanh, Maggie thấy màu sắc. Bây giờ, bên trong bóng tối, nó trông thấy những vệt, những giọt nước mắt có màu. Chủ yếu là màu đỏ và vàng tươi.
Maggie băn khoăn liệu nó bị siết đai hay bị trói chặt hay không. Đó có phải việc người ta thực sự làm với người nằm trong quan tài không? Họ có trói ta lại không? Tại sao họ làm việc ấy? Để ta khỏi chui lên mặt đất? Hay để giữ cho linh hồn ta mãi ở dưới lòng đất?
Đột nhiên con bé nghĩ ra một điều. Thầy Soneji. Màn sương xoáy quanh Maggie tan đi trong một tích tắc.
Thầy Soneji đã đưa nó ra khỏi trường. Chuyện ấy diễn ra khi nào? Tại sao? Bây giờ thầy Soneji ở đâu?
Còn Michael nữa! Chuyện gì đã xảy ra với Michael? Hai đứa đã cùng nhau rời khỏi trường. Maggie chỉ nhớ được có vậy.
Rồi nó cử động, và điều ngạc nhiên nhất xảy ra. Con bé phát hiện rằng nó có thể lăn người được.
Đó là việc Maggie Rose đã làm. Nó lăn người đi, rồi đột nhiên chạm vào thứ gì đó. Một lần nữa nó có thể cảm nhận được toàn bộ cơ thể mình. Nó vẫn có một cơ thể để cảm nhận. Con bé tuyệt đối chắc chắn rằng mình còn có cơ thể và rằng mình không phải một bộ xương.
Và Maggie hét lên!
Nó đã lăn vào một người hoặc thứ gì đó.
Một người khác đang ở trong bóng tối cùng nó.
Michael?
Chắc chắn phải là Michael rồi.
“Michael?” Giọng Maggie thấp như một lời thì thào. “Michael à? Cậu đó phải không?” Nó đợi câu trả lời.
“Michael?” Maggie thì thào to hơn.
“Thôi nào, Michael. Làm ơn nói với tớ đi.”
Dù là ai thì người đó cũng không trả lời. Thế này còn đáng sợ hơn khi chỉ có một mình. “Michael... Tớ đây mà... Đừng sợ... Maggie đây... Michael, làm ơn thức dậy đi.” “Ôi, Michael, làm ơn đi... Làm ơn đi mà, Nhãi Con. Tớ chỉ đùa về đôi giày ngớ ngẩn ở trường của cậu thôi. Thôi nào Michael. Nói với tớ đi, Nhãi Con. Nhóc con New York đây.”
CHƯƠNG 14
NGÔI NHÀ CỦA GIA ĐÌNH DUNNE là thứ mà các chuyên gia bất động sản ở khu này có thể gọi là nhà kiểu tân Elizabeth theo trường phái Lutyens. Cả Sampson và tôi đều chưa từng thấy nhiều ngôi nhà kiểu này ở Đông Nam D.C.
Ở bên trong, ngôi nhà có sự tĩnh lặng và đa dạng mà có lẽ ta thường thấy ở những gia đình giàu có. Có rất nhiều đồ đắt tiền. Các tấm trang trí, màn kiểu phương Đông, một chiếc đồng hồ mặt trời của Pháp, một tấm thảm Turkestan, một thứ gì đó trông như bệ thờ của người Nhật Bản hay Trung Quốc. Tôi nhớ có lần Picasso đã nói: ”Hãy cho tôi một bảo tàng, tôi sẽ lấp kín nó”.
Có một nhà vệ sinh nhỏ bên cạnh một trong những phòng khách chính. Trưởng phòng thanh tra George Pittman túm lấy và lôi tôi vào đó sau khi tôi có mặt vài phút. Bây giờ mới là tám giờ. Hãy còn quá sớm cho việc đó.
“Anh nghĩ anh đang làm gì thế?” ông ta hỏi tôi. “Anh định làm gì, Cross?” Phòng vệ sinh này thực sự chật chội, chẳng có không gian cho hai tay đàn ông trưởng thành to con. Đây cũng chẳng phải nhà vệ sinh loại bình thường nữa. Sàn trải thảm William Morris. Một chiếc ghế thuộc dạng “hàng thửa” đặt ở góc phòng.
“Tôi nghĩ tôi định đi lấy ít cà phê. Rồi tôi sẽ dự cuộc họp buổi sáng,” tôi nói với Pittman. Tôi rất muốn thoát khỏi nhà vệ sinh này.
“Đừng có lằng nhằng với tôi.” Ông ta bắt đầu cao giọng. “Đừng vớ vẩn với tôi.” Ồ, đừng có làm thế, tôi muốn nói với ông ta như vậy. Đừng tạo ra cảnh tượng ghê gớm, đáng sợ ở đây nhé. Tôi nghĩ đến việc dìm đầu ông ta xuống bồn cầu chỉ để ông ta ngậm miệng lại.
“Hạ cái giọng xuống, không là tôi bỏ đi đấy,” tôi nói. Gần như lúc nào tôi cũng phải cố gắng hành xử một cách biết điều và hợp lý. Đó là một trong những khiếm khuyết trong tính cách của tôi.
“Đừng có bảo tôi phải hạ giọng. Thằng chó chết nào bảo các anh về nhà đêm qua? Anh và Sampson. Ai bảo các anh sáng nay tới căn hộ của Soneji?”
“Chỉ có vậy mà ông nói tôi thế này hả? Đó là lý do bây giờ chúng ta ở trong này với nhau à?” tôi hỏi.
“Đúng thế đấy. Tôi đang chỉ đạo cuộc điều tra này. Nghĩa là thậm chí khi muốn buộc dây giày, anh cũng phải hỏi tôi trước.”
Tôi cười nhăn nhở. Tôi không thể ngừng lại. “Ông học được câu ấy ở đâu thế? Có phải Lou Gossett nói câu đó trong phim Sĩ quan và Quý ông không vậy?”
“Anh nghĩ là chuyện này vui vẻ lắm hả, Cross?”
“Không, tôi không nghĩ thế. Tôi không nghĩ có chút gì vui. Bây giờ thì ông hãy mang cái thứ chó chết ấy tránh xa cái mặt tôi ra, nếu không ông sẽ chẳng còn cái chó chết gì mà lôi ra đâu,” tôi cảnh cáo ông ta.
Tôi bỏ ra khỏi nhà vệ sinh. Trưởng phòng thanh tra Pittman không đi theo. Đúng, tôi có thể bị khiêu khích. Không, tên đê tiện đó không nên gây chuyện với tôi.
Sau tám giờ một chút, rốt cuộc Đội Giải cứu Con tin cũng tập họp trong phòng khách lớn được bài trí tráng lệ. Ngay lập tức tôi cảm nhận được điều gì đó không ổn. Chắc chắn đang có chuyện gì đó.
Jezzie Flanagan của Sở Mật vụ đã chiếm vị trí phát biểu. Tôi nhớ vì cô đã xuất hiện sáng hôm trước ở trường Washington Day. Jezzie đứng trước lò sưởi đang cháy. Mặt lò sưởi treo các nhánh nhựa ruồi, đèn nhỏ màu trắng, các tấm thiệp mừng Giáng sinh. Nhiều tấm thiệp không theo phong cách truyền thống rõ ràng được gửi từ bạn bè của gia đình Dunne ở California - ảnh những cây cọ được trang trí, xe tuần lộc của ông già Noel trên bầu trời Malibu. Gia đình Dunne mới chuyển tới Washington sau khi Thomas Dunne nhận chức chủ tịch Hội Chữ thập đỏ.
Jezzie Flanagan ăn mặc nghiêm túc hơn hôm ở trường. Cô mặc chiếc váy rộng màu xám, áo len đen cổ lọ, đeo đôi khuyên tai nhỏ bằng vàng. Trông cô như một luật sư ở Washington, một luật sư hấp dẫn và rất thành đạt.
“Nửa đêm hôm qua Soneji đã liên lạc với chúng ta. Rồi một lần nữa vào lúc một giờ. Chúng ta đã không trông đợi hắn liên lạc với chúng ta sớm đến thế. Không ai trong chúng ta trông đợi như vậy,” Jezzie mở lời.
“Cú điện thoại đầu tiên xuất phát từ một khu vực ở Arlington. Soneji nói rõ rằng hắn không có gì để nói về hai đứa trẻ, trừ một điều là cả Maggie Dunne và Michael Goldberg đều đang ổn. Tên bắt cóc còn nói được gì khác cơ chứ? Hắn không cho phép chúng ta nói chuyện với đứa nào, thế nên chúng ta không chắc chắn về tuyên bố của hắn. Giọng Soneji cho thấy hắn minh mẫn và rất tự chủ”
“Đã phân tích băng ghi âm giọng nói của hắn chưa?” Pittman hỏi từ ghế ngồi gần hàng đầu. Nếu Sampson và tôi là những kẻ bị đẩy ra ngoài cuộc, thì thật tốt khi biết rằng Pittman cũng chẳng hơn gì chúng tôi. Rõ ràng là chẳng người nào nói chuyện với ông ta cả.
“Việc đó đang được thực hiện,” Flanagan trả lời một cách lịch thiệp. Cô dành cho câu hỏi đó vừa đủ sự chú ý mà nó xứng đáng, tôi nghĩ, nhưng cũng tránh bất kỳ sự nhún nhường nào. Cô thực sự giỏi trong việc kiểm soát bản thân.
“Thực tế là hắn nói chuyện bao lâu?” Luật sư Richard Galletta của Bộ Tư pháp là người đặt câu hỏi tiếp theo.
“Tiếc là không lâu lắm. Chính xác là ba mươi tư giây,” Flanagan đáp lời viên luật sư với sự trang trọng vừa đủ. Bình thản nhưng đủ dễ chịu. Khôn ngoan.
Tôi quan sát Jezzie Flanagan. Rõ ràng cô cảm thấy thoải mái khi đứng trước nhiều người. Tôi đã nghe nói rằng cô có được sự tín nhiệm nhờ một số chủ trương mạnh mẽ của Sở Mật vụ trong vài năm qua, điều đó nghĩa là cô rất có uy tín.
“Hắn đã cao chạy xa bay khi chúng ta đến được buồng điện thoại công cộng ở Arlington. Chúng ta không thể sớm gặp may đến thế,” cô nói. Cô thoáng cười, và tôi nhận thấy rằng có vài người đàn ông trong phòng cười đáp lại.
“Theo cô thì tại sao hắn thực hiện cuộc gọi đó?” Cảnh sát trưởng đặt câu hỏi từ phía cuối của căn phòng. Đầu ông ta đang hói dần, bụng phệ, miệng rít tẩu thuốc.
Flanagan thở dài. “Xin hãy để tôi tiếp tục. Thật không may là còn có nhiều vấn đề hơn cuộc gọi ấy. Đêm qua Soneji đã giết đặc vụ FBI Roger Graham. Vụ việc diễn ra ngay phía ngoài nhà của Graham ở Virginia, ngay ở lối dẫn vào nhà.”
Thật khó làm rung động một nhóm nhiều kinh nghiệm như nhóm được tập trung ở nhà của gia đình Dunne. Nhưng thông tin về vụ giết Roger Graham đã làm được điều ấy: tôi biết bởi vì thông tin này làm hai chân mình nhũn ra. Trong vài năm qua Roger và tôi đã có lúc sát cánh bên nhau. Bất kỳ khi nào làm việc với ông, tôi luôn biết rằng sau lưng mình đã có hỗ trợ. Không phải tôi cần một lý do khác để có động cơ săn tìm Soneji, nhưng bây giờ hắn đã cho tôi một lý do xứng đáng.
Tôi băn khoăn liệu Soneji có biết điều đó hay không. Và nó có ý nghĩa ra sao nếu hắn biết điều ấy. Với tư cách một nhà tâm lý học, tôi cảm giác được sự đáng sợ từ tên sát thủ. Cảm giác đó cho tôi biết rằng Soneji có đầu óc tổ chức, có đủ tự tin để chơi với chúng tôi, và sẵn sàng giết người. Điều đó không phải điềm lành cho Maggie Rose Dunne và Michael Goldberg.
“Hắn để lại một thông điệp hết sức rõ ràng cho chúng ta,” Flanagan tiếp tục. “Thông điệp
được đánh máy trên một tấm phiếu làm mục lục hoặc thứ gì đó giống như tấm thẻ thư viện. Thông điệp dành cho tất cả chúng ta. Nó có nội dung thế này ‘Roger Graham ngạo mạn nghĩ hắn ghê gớm. Thực ra, rõ ràng hắn không phải người như thế. Nếu bọn mày đang xử lý vụ này, bọn mày đang gặp phải nguy hiểm lớn!..’ Thông điệp này có chữ ký. Hắn tự gọi mình là Con Trai Nhà Lindbergh.”
CHƯƠNG 15
BÁO CHÍ NGAY LẬP TỨC nhảy vào viết về vụ bắt cóc một cách chộp giật và đầy ác ý. Một trong những tờ báo ra buổi sáng giật tít ngay trang đầu: CÁC CẬN VỆ CỦA SỞ MẬT VỤ BỎ ĐI UỐNG CÀ PHÊ. Đám báo chí vẫn chưa biết gì về việc đặc vụ Roger Graham bị sát hại. Chúng tôi đang cố gắng ngăn chặn chuyện này.
Những tin tức sáng hôm nay xoáy vào việc làm thế nào mà hai đặc vụ của Sở Mật vụ là Charles Chakely và Michael Devine lại bỏ vị trí của mình tại ngôi trường tư. Thực tế là khi các lớp đang học, họ đã ra ngoài để ăn sáng. Với dạng nhiệm vụ này thì làm việc đó là hoàn toàn đúng quy định. Tuy nhiên buổi nghỉ giải lao uống cà phê này có giá rất đắt. Nó sẽ khiến Chakely và Devine mất chức, thậm chí mất cả sự nghiệp.
Trên một khía cạnh khác, cho tới giờ Pittman không điều động Sampson và tôi nhiều lắm. Chuyện này đã diễn ra hai ngày. Khi được thả cho tự do, Sampson và tôi tập trung vào những dấu vết rất mờ nhạt mà Gary Soneji để lại. Tôi lần theo những cửa hàng trong khu vực, nơi người ta có thể mua đồ trang điểm và những thứ đồ hóa trang. Sampson tới thư viện Georgetown nhưng chẳng có ai ở đó từng trông thấy Soneji. Họ thậm chí không nhận ra là có những cuốn sách đã bị đánh cắp từ giá sách của mình.
Soneji đã biến mất thành công. Khó hiểu hơn, dường như hắn chưa bao giờ tồn tại trước khi đảm nhận công việc ở trường Washington Day.
Không có gì ngạc nhiên khi hắn đã làm giả hồ sơ việc làm và nhiều thư giới thiệu. Hắn đã hoàn thành từng bước đi một cách thành thạo như chúng tôi từng chứng kiến trong các vụ lừa đảo. Hắn không để lại bất kỳ dấu vết nào.
Soneji đã rất trơ tráo và cực kỳ tự tin về việc giành được vị trí của hắn ở trường này. Một người (không có thật) được coi là ông chủ trước đó của Soneji đã liên hệ với trường Washington Day và tha thiết giới thiệu Soneji, người khi ấy chuẩn bị chuyển tới sống ở khu vực Washington. Nhiều thư giới thiệu khác từ cả chương trình đào tạo đại học và sau đại học được gửi qua fax từ Đại học Pennsylvania. Sau hai cuộc phỏng vấn đầy ấn tượng, nhà trường rất muốn tuyển tay giáo viên hăng hái và dễ coi này (và bị Soneji dắt mũi cho tin rằng họ đang phải cạnh tranh hắn với các trường tư khác ở Washington), do vậy họ lập tức tuyển Soneji.
“Và tất nhiên là chúng tôi chưa bao giờ ân hận về việc tuyển dụng Soneji, cho đến tận lúc
này,” vị hiệu phó thừa nhận với tôi. “Hắn thậm chí còn làm tốt hơn những gì được giới thiệu. Nếu thực sự tên bắt cóc không phải giáo viên toán trước khi tới trường này, tôi sẽ hoàn toàn bất ngờ. Nếu đúng thế thì hắn quả là một diễn viên kiệt xuất.”
Cuối buổi chiều ngày thứ ba, tôi nhận được một văn bản từ Don Manning - một trong các phó phòng của Pittman. Tôi được lệnh nghiên cứu và đánh giá Katherine Rose Dunne cùng chồng cô. Trước đây tôi đã một vài lần tự liên hệ với gia đình Dunne nhưng đều bị khước từ.
Tôi gặp Katherine và Thomas Dunne ở sân sau của căn nhà. Một bức tường bằng đá xám cao ba mét - một thứ hữu hiệu trong việc ngăn cách nơi này với thế giới bên ngoài. Một hàng cây đoan khổng lồ cũng làm nhiệm vụ tương tự. Trên thực tế, sân sau gồm nhiều khoảnh vườn được ngăn cách bởi những bức tường đá và một con suối lững lờ chảy. Các khoảnh vườn này có người chăm sóc riêng - một cặp vợ chồng trẻ từ Potomac rõ ràng đã có được cuộc sống khấm khá nhờ việc chăm sóc cho những khu vườn quanh thành phố. Chắc chắn những người làm vườn này kiếm được nhiều tiền hơn tôi.
Katherine Rose mặc một chiếc áo len cổ chữ V, quàng một chiếc khăn cũ bằng lông lạc đà bên ngoài áo bò. Hình như cô có thể mặc bất kỳ thứ gì mình muốn mà vẫn đẹp, tôi nghĩ khi chúng tôi cùng bước bên ngoài.
Gần đây tôi đọc được thông tin ở đâu đó rằng Katherine Rose vẫn còn được coi là một trong những phụ nữ đẹp nhất thế giới. Cô đã đóng một loạt phim kể từ sau khi sinh Maggie Rose nhưng không hề đánh mất chút nhan sắc nào, theo tôi quan sát thì thế. Thậm chí trong khi lo lắng cực độ thì vẻ đẹp của cô vẫn nguyên vẹn.
Chồng cô - Thomas Dunne - là một luật sư tiếng tăm trong lĩnh vực giải trí tại Los Angeles khi hai người gặp nhau. Trước đây ông đã tham gia vào Tổ chức Hòa bình xanh và Cứu lấy thế giới. Sau khi ông trở thành chủ tịch Hội Chữ thập đỏ Mỹ, gia đình đã chuyển tới Washington.
“Ông đã tham gia xử lý các vụ bắt cóc khác chứ, thanh tra?” Thomas Dunne muốn biết. Ông đang cố gắng tìm hiểu xem tôi ở vị trí nào. Tôi có quan trọng hay không? Tôi có thể giúp gì cho con gái họ không? Ông hơi thiếu tế nhị, nhưng tôi nghĩ mình không thể trách móc Thomas trong những hoàn cảnh thế này.
“Khoảng hơn chục vụ,” tôi đáp. “Ông bà có thể nói cho tôi một chút về Maggie chứ? Điều đó có thể có ích. Chúng tôi càng biết nhiều thì cơ hội tìm thấy Maggie càng cao.” Katherine Rose gật đầu. “Tất nhiên chúng tôi sẽ nói, thanh tra Cross. Chúng tôi đã cố gắng nuôi dạy Maggie càng bình thường càng tốt,” cô nói. “Đó là một trong những lý do rốt cuộc
chúng tôi quyết định chuyển về Bờ Đông.”
“Tôi không biết liệu tôi có gọi Washington là một nơi bình thường để người ta lớn lên hay không. Nơi đây không hẳn là thị trấn yên ả Mayberry.” Tôi mỉm cười với hai vợ chồng. Vì một lý do nào đó, câu nói ấy bắt đầu phá vỡ khoảng cách giữa chúng tôi.
“So với Beverly Hills thì nó rất bình thường,” Tom Dunne nói. “Tin tôi đi, đúng như thế đấy.”
“Tôi thậm chí còn không chắc chắn ‘bình thường’ nghĩa là thế nào nữa,” Katherine nói. Đôi mắt cô có màu xanh nước biển pha xám. Khi đứng gần cô, cảm giác như đôi mắt ấy có thể nhìn xuyên vào trong ta. “Tôi nghĩ rằng ‘bình thường’ ứng với một hình ảnh lỗi thời trong tiềm thức của chúng tôi, của Tom và của tôi. Maggie không hư hỏng. Nó không phải loại so sánh ‘Bạn Suze có thứ này’ hay ‘Bố mẹ Casey mua cho bạn ấy thứ kia’. Nó không quá tự hào về bản thân. Kiểu ‘bình thường’ ấy đấy. Nó chỉ là một đứa con gái bé bỏng, thanh tra ạ.”
Trong khi Katherine Rose trìu mến nói về con gái mình, tôi phát hiện ra rằng bản thân mình đang nghĩ tới các con, nhưng đặc biệt là Janelle. Jannie cũng “bình thường”. Nói như vậy, ý tôi là Jannie đang cân bằng, hoàn toàn không hư hỏng và đáng yêu ở mọi mặt. Sau khi thấy những điểm tương đồng giữa con gái của hai nhà, tôi thậm chí còn lắng nghe cẩn thận hơn khi vợ chồng Dunne nói về Maggie Rose.
“Nó rất giống Katherine.” Thomas Dunne đưa ra một điểm mà ông cảm thấy có ý nghĩa quan trọng cho tôi. “Katherine là người khiêm nhường nhất mà tôi từng gặp. Tin tôi đi, để sống qua được sự xu nịnh mà một ngôi sao có được ở Hollywood và sự lạm dụng kinh tởm, rồi trở thành con người như cô ấy bây giờ là rất khó đấy.”
“Sao con bé lại được đặt tên là Maggie Rose?” tôi hỏi Katherine Rose.
“Việc đó hoàn toàn do tôi.” Thomas Dunne nhướng hai mắt. Tôi có thể thấy rằng ông thích nói thay vợ. “Đó là một biệt hiệu xuất hiện bất chợt trong đầu tôi. Xuất phát từ lần đầu tiên tôi nhìn thấy hai mẹ con tại bệnh viện.”
“Tom gọi chúng tôi là ‘hai cô gái hoa hồng’, “Hai chị em Hoa Hồng’. Chúng tôi làm việc ở ngoài này, trong ‘vườn hồng’. Khi Maggie và tôi tranh cãi, đó là ‘cuộc chiến hoa hồng’. Đại loại thế.”
Hai người rất yêu đứa con gái nhỏ của mình. Tôi cảm nhận được điều ấy trong từng từ họ nói về Maggie.
Soneji, dù tên thật của hắn là gì đi nữa, cũng đã khôn ngoan khi chọn gia đình này làm mục tiêu. Đó là một nước đi hoàn hảo nữa của hắn. Hắn đã hoàn thành bài tập của mình. Một ngôi
sao điện ảnh nổi tiếng và một luật sư được kính trọng. Cặp cha mẹ đầy lòng yêu thương. Tiền. Uy tín. Có lẽ tên này thích những bộ phim của Katherine Rose. Tôi cố gắng nhớ xem liệu Katherine Rose từng đóng vai nào khiến Soneji thất vọng không. Tôi không nhớ liệu mình đã từng thấy tấm ảnh nào của cô trong căn hộ của hắn chưa.
“Ông đã nói rằng ông muốn biết Maggie có thể phản ứng thế nào trong những hoàn cảnh tệ hại thế này,” Katherine tiếp tục. “Tại sao ông lại hỏi thế, thanh tra Cross?” “Nói chuyện với các giáo viên của cháu, tôi biết rằng cháu rất ngoan ngoãn. Đó có thể là một lý do khiến Soneji chọn cháu.” Tôi thẳng thắn với họ. “Ông bà có thể nghĩ ra lý do nào khác không? Xin cứ liên hệ tới tất cả những gì có thể.”
“Dường như đầu óc Maggie dao động giữa trạng thái nghiêm túc - rất nghiêm khắc và chỉn chu - và rất mơ mộng,” Katherine nói. “Ông có con chứ?” cô hỏi tôi.
Tôi do dự. Tôi lại đang nghĩ về Jannie và Damon. Những điểm tương đồng. “Hai đứa. Tôi cũng đang xử lý một vụ liên quan đến đám trẻ sống ở khu nhà giá rẻ,” tôi nói. “Maggie có nhiều bạn ở trường không?”
“Có cả đống,” cha Maggie đáp. “Con bé thích những đứa bạn có nhiều ý tưởng nhưng không quá coi mình là trung tâm. Tất cả trừ Michael, đứa cực kỳ quan tâm tới bản thân.” “Hãy nói cho tôi nghe về Maggie và Michael đi.”
Katherine Rose nở nụ cười đầu tiên kể từ khi chúng tôi nói chuyện. Thật lạ, tôi đã thấy nụ cười này nhiều lần trong các bộ phim. Giờ thì tôi được thấy nụ cười ấy tận mắt. Tôi bị mê hoặc. Tôi cảm thấy một chút ngại ngùng, một chút bối rối khi thấy mình có phản ứng như vậy.
“Chúng là bạn thân nhất của nhau kể từ khi chúng tôi chuyển về đây. Chúng là đôi bạn kỳ quặc nhất nhưng cũng không thể tách rời,” cô nói. “Đôi khi chúng tôi gọi hai đứa là Felix và Oscar.”
“Ôg bà nghĩ Michael sẽ phản ứng thế nào trong những hoàn cảnh thế này?” tôi hỏi. “Khó mà đánh giá được.” Thomas Dunne lắc đầu. Dường như ông là người rất thiếu kiên nhẫn. Có lẽ đã quen với việc đạt được ngay những gì ông muốn. “Michael luôn phải có một ‘kế hoạch’. Cuộc sống của nó rất quy củ, rất trật tự.”
“Thế còn những vấn đề về thể chất của nó?” Michael bị tim bẩm sinh, tôi biết như thế. Nó vẫn có chút vấn đề về tim. Katherine Rose nhún vai. Rõ ràng đây không phải vấn đề. “Thi thoảng nó mệt mỏi. Thằng bé hơi nhỏ so với tuổi của nó. Maggie cao lớn hơn Michael.”
“Bọn chúng gọi nó là Nhãi Con, cái biệt danh mà tôi nghĩ là nó thích. Biệt danh đó khiến nó có vẻ dễ gần hơn,” Tom Dunne giải thích. “Về cơ bản nó thuộc loại thần đồng. Maggie gọi
nó là bộ óc siêu phàm. Như thế là cơ bản khái quát được về Michael.”
“Michael dứt khoát là đứa rất có đầu óc.”
“Nó thế nào khi mệt mỏi?” Tôi trở lại với điều Katherine đã nói, có lẽ là điều gì đó quan trọng. “Nó có bao giờ cáu kỉnh không?”
Katherine suy nghĩ về câu hỏi của tôi một chút trước khi trả lời. “Nó chỉ kiệt sức. Đôi khi nó thiếp đi một chút. Tôi nhớ có lần thấy hai đứa đang ngủ gần bể bơi. Cặp đôi kỳ lạ này nằm dài ra cỏ. Chỉ là hai đứa bé thôi.”
Katherine chằm chằm nhìn tôi với đôi mắt xám và bắt đầu khóc. Cô đã cố gắng kiểm soát mình nhưng rốt cuộc vẫn phải buông xuôi.
Dù ban đầu do dự đến mức nào thì bây giờ tôi đang trở thành một phần không thể tách rời của vụ án khủng khiếp này. Tôi thấy thương cảm cho gia đình Dunne và Goldberg. Tôi liên hệ Maggie Rose với hai đứa con của mình. Tôi đã tham gia vụ án này theo cách không phải lúc nào cũng có ích. Con giận tôi dành cho tên sát thủ ở khu nhà giá rẻ đang chuyển sang kẻ đã bắt cóc hai đứa nhỏ vô tội này.
Thầy Soneji... Thầy Chips.
Tôi muốn chìa tay ra và nói với cặp vợ chồng rằng mọi chuyện sẽ ổn, cũng để tự thuyết phục mình rằng mọi chuyện sẽ ổn. Nhưng tôi không chắc mình có nên làm thế hay không.
CHƯƠNG 16
MAGGIE ROSE VẪN TIN RẰNG nó đang nằm một mình. Như thế này còn hơn cả mức kinh khủng và đáng sợ. Còn tệ gấp triệu lần bất kỳ cơn ác mộng nào con bé từng tưởng tượng ra. Và Maggie biết rằng trí tưởng tượng của nó khá phong phú. Khi muốn, nó có thể khiến bạn bè phải thấy ghê sợ hoặc kinh ngạc.
Bây giờ có phải là đêm? Hay là ban ngày?
“Michael?,, con bé yếu ớt rên rỉ. Cả miệng, đặc biệt là lưỡi của nó có cảm giác như bị nhét đầy bông. Miệng nó khô không tin nổi. Nó khát nước. Đôi khi Maggie nghẹn vì lưỡi của mình. Nó cứ liên tục tưởng tượng rằng mình đang nuốt lưõi. Chưa bao giờ có ai khát thế này. Thậm chí trên sa mạc ở Iraq hay Kuwait cũng không thể khát được như vậy.
Maggie Rose cứ liên tục thiếp đi rồi lại tỉnh. Những giấc mơ liên tục đến với nó. Một giấc mơ khác lại bắt đầu. Ai đó đang gõ vào cánh cửa gỗ nặng nề gần đó.
Dù có là ai, người đó cũng gọi tên con bé. “Maggie Rose... Maggie Rose, nói chuyện với mình đi!”
Rồi Maggie cũng không thể chắc là đó có phải giấc mơ hay không.
Ai đó đang thực sự có mặt ở đây.
Ai đó đang chui xuống mồ của nó chăng? Đó là cha hay mẹ nó? Hay rốt cuộc đó là cảnh sát?
Đột nhiên có ánh sáng từ phía trên khiến mắt Maggie bị lóa! Nó chắc chắn đó là ánh sáng. Như thể nó đang nhìn vào cả trăm bóng đèn cùng bật lên một lúc.
Tim Maggie Rose đập nhanh và mạnh đến mức nó biết chắc chắn mình còn sống. Ở một nơi tệ hại, kinh khủng. Ai đó đã đưa nó tới đây.
Maggie Rose thầm thì nói lên phía ánh sáng, “Ai thế? Ai trên đó? Ai ở trên đó thế? Cháu trông thấy mặt rồi!”
Ánh sáng mạnh đến mức Maggie Rose không thực sự trông thấy gì.
Đến lần thứ hai hoặc thứ ba, mọi thứ chuyển từ tối đen như mực sang màu trắng lóa. Rồi ai đó đứng chắn gần hết ánh sáng. Maggie vẫn không thể trông thấy ai đang ở đó. Ánh sáng tỏa ra phía sau lưng người ấy.
Maggie nhắm hai mắt, thật chặt. Rồi mở ra. Nó làm đi làm lại việc ấy.
Con bé không thấy rõ. Không thể tập trung xem đó là ai hay cái gì. Nó phải liên tục chớp mắt. Dù là ai trên ấy thì người đó cũng sẽ thấy con bé chớp mắt và cũng phải biết rằng nó còn sống.
“Thầy Soneji à? Xin hãy cứu em,” Maggie muốn hét lên. Cổ họng nó sao khô thế. Giọng nó khàn và không thể nhận ra nổi.
“Khâm mồm! Khâm mồm!” Một giọng người từ bên trên hét lên. Lúc này có một người đang ở trên ấy! Người nào đó đang thực sự ở trên đó và có thể đưa nó ra khỏi đây. Nghe giọng như... như của một người phụ nữ rất già.
“Làm nơ cứu cháu. Hãy làm ơn,” Maggie van nài.
Một bàn tay vụt ra tát mạnh vào mặt nó.
Maggie bật khóc. Nó sợ hãi nhiều hơn đau đớn, nhưng đòn ấy cũng đau lắm. Trước đây chưa bao giờ con bé bị tát. Cú tát ấy làm bật lên một tiếng gào lớn trong đầu nó. “Mày câm ngay!” Cái giọng đáng sợ kia lại gần hơn.
Rồi người đó xuống mồ và đứng ngay phía trên Maggie. Maggie có thể ngửi thấy mùi cơ thể nồng nặc và cả hơi thở đáng sợ của kẻ đó. Bây giờ nó bị dúi người xuống nhưng quá yếu nên không thể chống cự được.
“Đừng chống cự tao, đồ nhóc con khốn kiếp! Đừng bao giờ chống cự tao! Mày nghĩ mày là ai hả đồ nhóc con khốn kiếp?
“Mày đã bao giờ giơ tay trong giờ của tao chưa? Mày nghe tao nói không? Đã bao giờ giơ tay chưa?”
Ôi Chúa ơi, chuyện gì đang diễn ra thế này?
“Mày là con bé Maggie Rose nổi tiếng phải không? Con ranh nhà giàu hư hỏng? Này, để tao nói cho mày một bí mật nhé. Bí mật của chúng ta. Mày sắp chết, con nhóc nhà giàu ạ. Mày sắp chết rồi!”
CHƯƠNG 17
ĐÊM MAI LÀ ĐÊM GIÁNG SINH. Nhưng dường như không phải lúc để vui vẻ. Và trước ngày Giáng sinh, mọi thứ trở nên tệ hại hơn nhiều.
Chẳng ai trong chúng tôi có thể cùng gia đình chuẩn bị cho một kỳ nghỉ lễ như vẫn thường làm. Điều đó khiến Đội Giải cứu Con tin cảm thấy căng thẳng hơn. Khiến cho nhiệm vụ vốn nặng nề trở nên kinh khủng hơn. Nếu như Soneji chọn ngày lễ vì lý do này, hắn đã chọn đúng. Hắn đã phá hỏng hoàn toàn kỳ nghỉ Giáng sinh của mọi người.
Khoảng mười giờ sáng, tôi bước theo đại lộ Sorrel tới nhà Goldberg. Trong khi đó Sampson đã lỉnh đi thực hiện chút việc liên quan tới các vụ án mạng ở khu Đông Nam. Chúng tôi dự định quay lại gặp nhau vào tầm trưa để so sánh những câu chuyện đáng sợ.
Tôi nói chuyện với gia đình Goldberg hơn một tiếng. Họ không khép mình lắm. Xét theo nhiều khía cạnh, cặp vợ chồng này còn cởi mở hơn cả Katherine và Thomas Dunne. Họ nghiêm khắc hơn vợ chồng Dunne nhưng Jerrold và Laurie Goldberg cũng rất yêu con trai mình. Cách đây mười một năm các bác sĩ thông báo với Laurie Goldberg rằng cô không thể có con. Tử cung của cô đã bị tổn thương. Khi Laurie phát hiện ra mình đang mang bầu Michael, dường như đó là phép màu. Liệu Soneji có biết điều đó không? Tôi tự hỏi. Hắn đã lựa chọn các nạn nhân của mình cẩn thận như thế nào? Tại sao lại là Maggie Rose và Michael Goldberg?
Vợ chồng Goldberg cho phép tôi vào quan sát phòng ngủ của Michael và cho tôi chút thời gian ở đó một mình. Tôi đóng cửa phòng và ngồi im lặng một lát. Tôi cũng đã làm việc tương tự ở phòng của Maggie tại gia đình Dunne.
Căn phòng của cậu bé thật đáng ngạc nhiên. Đó là một kho quý giá đầy những thiết bị và phần mềm máy tính cực kỳ hiện đại mang thương hiệu Macintosh, Nintendo, Prodigy, Windows. Các phòng thí nghiệm của hãng viễn thông AT & T còn ít thiết bị hơn Michael Goldberg.
Những tấm poster của Katherine Rose từ các bộ phim Cấm kỵ và Trăng mật của cô được dán trên tường. Một tấm của Sebastian Bach - ca sĩ chính của ban nhạc Skid Row - nằm ngay phía trên đầu giường. Một tấm ảnh Albert Einstein với mái tóc ngang tàng màu tím hoa cà chằm chằm nhìn ra từ phòng tắm riêng của Michael. Còn có bìa tạp chí Rolling Stone với câu hỏi”Ai
giết Pee-wee Herman?”
Một tấm ảnh chụp Michael và Maggie Rose được đóng khung đặt trên bàn học của cậu bé. Tay trong tay, hai đứa nhỏ trông như những người bạn thân nhất. Điều gì đã tạo cảm hứng cho Soneji? Có phải điều gì đó liên quan đến tình bạn đặc biệt của chúng chăng?
Chưa ai trong vợ chồng Goldberg từng gặp Soneji, dù Michael đã nói rất nhiều về hắn. Soneji là người duy nhất - trong số cả người lớn hay trẻ em - từng đánh bại Michael trong các trò chơi điện tử “Ultima” và “Super Mario Brothers” của Nintendo. Như vậy có thể Soneji cũng là một tay có bộ óc cừ khôi, một thần đồng khác nhưng không sẵn lòng để cho một cậu bé chín tuổi đánh bại hắn khi chơi điện tử, chỉ vì hiếu thắng. Không sẵn lòng thua trong bất kỳ cuộc chơi nào.
Tôi quay lại thư viện cùng vợ chồng Goldberg và nhìn ra vườn, trong lúc mọi thứ liên quan đến vụ bắt cóc trở nên hoàn toàn điên rồ, mãi mãi điên rồ.
Tôi thấy Sampson đang chạy xuống phố từ phía nhà Dunne. Mỗi sải chân của cậu ta chiếm tới một phần ba dãy nhà. Tôi lao ra ngoài cửa trước nhà Goldberg đúng lúc Sampson tới bãi cỏ. Cậu ta đổi nhịp chạy như Jerry Rice ở trong vùng cấm địa.
“Hắn lại gọi à?”
Sampson lắc đầu. “Không! Nhưng đã có chuyện. Chuyện gì đó đã xảy ra, Alex. FBI đang bưng bít,” Sampson nói. “Họ đã có gì đó. Đi thôi.”
Chốt chặn đường của cảnh sát đã được dựng lên ngay mé đại lộ Sorell ở đoạn cuối đường Plately Bridge gần đó. Chốt chặn hình thành từ sáu chiếc xe chim mồi đã hoàn thành nhiệm vụ ngăn cánh báo chí bám theo những chiếc xe đã rời khỏi nhà Dunne ngay sau hai giờ chiều. Sampson và tôi ngồi trong chiếc xe thứ ba.
Sau đó bảy mươi phút, ba chiếc xe mui kín phóng nhanh qua những quả đồi thấp bao quanh Salisbury, Maryland. Những chiếc xe lượn vòng xuống theo con đường quanh co tới một khu công nghiệp nằm nép mình trong rừng thông mọc dày.
Khu nhà trông tạm bợ chẳng hề có người vào đêm Giáng sinh. Nó im lặng một cách kỳ lạ. Những bãi cỏ phủ tuyết dẫn tới ba tòa nhà văn phòng xây bằng đá trắng nằm riêng rẽ. Sáu xe cảnh sát và xe cứu thương đã có mặt ở hiện trường đầy bí ẩn.
Một dòng sông nhỏ chắc hẳn đổ vào vịnh Chesapeake lững lờ chảy phía sau các dãy nhà văn phòng. Nước có màu đỏ nâu và có vẻ ô nhiễm. Trên những tấm biển màu lam sẫm ghi: Nhà máy sản xuất J. Cad, Tổ hợp Raser/ Becton, Techno-Sphere.
Cho đến bây giờ thì vẫn chưa có manh mối gì, chưa có một lời nào về việc đã xảy ra trong khu công nghiệp này.
Sampson và tôi nhập vào nhóm hướng về phía con sông. Bốn đặc vụ FBI đã có mặt tại nơi này, trông họ đầy lo lắng.
Giữa khu công nghiệp và dòng sông có một vạt cỏ dại vàng nhạt, đã thưa bớt đi vì thời tiết mùa đông. Rồi đến một dải đất trống dài ba mươi hoặc bốn mươi mét dẫn tới dòng sông. Bầu trời trên đầu có màu xám nhạt, đe dọa sẽ có thêm tuyết rơi.
Trên một bờ đầy bùn, các sĩ quan cảnh sát đang rải hợp chất lấy khuôn để tìm dấu chân. Liệu Gary Soneji đã từng ở đây chăng?
“Họ đã nói gì với cô chưa?” tôi hỏi Jezzie Flanagan khi cả hai cùng bước xuống bờ sông dốc và đầy bùn đất. Đôi giày công sở của cô sắp hỏng đến nơi. Dường như cô chẳng nhận thấy điều ấy.
“Chưa, vẫn chưa. Chẳng gì hết!” Cô cũng bực tức như Sampson và tôi. Đây là dịp đầu tiên để “nhóm” không hành động thống nhất. Cục Điều tra Liên bang đã có cơ hội hợp tác. Họ đã gạt đi. Không phải dấu hiệu tốt. Chẳng phải khởi đầu hứa hẹn gì.
“Làm ơn đừng là hai đứa trẻ ấy,” Jezzie Flanagan lẩm bẩm khi hai chúng tôi đến chỗ đất phẳng hơn.
Hai đặc vụ Cục là Reilly và Gerry Scorse đang ở mé sông. Những bông tuyết đã rơi. Một cơn gió lạnh thổi trên làn nước xám đen có mùi như nhựa cháy.
Suốt quãng thời gian này tim tôi cứ thắt lại. Tôi không thể trông thấy gì dọc theo mép nước. Đặc vụ Scorse làm một bài phát biểu ngắn mà tôi cho là nhằm trấn tĩnh những người còn lại. “Xin hãy lắng nghe, biện pháp giữ bí mật này không liên quan gì tới người nào trong số các vị. Vì vụ án này được sự quan tâm rộng rãi của giới truyền thông, chúng tôi đã được yêu cầu - thực ra là được lệnh - không nói bất kỳ điều gì cho tới khi tất cả chúng ta đã ra tới đây. Cho tới khi chúng ta có thể tận mắt trông thấy.”
“Thấy gì không?” Sampson hỏi viên đặc vụ FBI. “Anh sẽ nói với chúng tôi chuyện khỉ gì đang diễn ra chứ? Bỏ cái trò khua môi múa mép này đi.”
Scorse ra hiệu cho một trong số đặc vụ FBI rồi nói ngắn gọn với đặc vụ ấy. Người này là McGoey, từ văn phòng giám đốc tại D.C. Ông ta đã từng ra vào nhà Dunne. Tất cả chúng tôi nghĩ rằng ông ta là người thay cho vị trí của Roger Graham, nhưng chẳng bao giờ điều ấy được xác nhận.
McGoey gật đầu đồng tình với những gì Scorse vừa trao đổi rồi bước lên trước. Ông ta là
một gã béo có vẻ ngoài nghiêm chỉnh với những chiếc răng to và mái tóc trắng cắt ngắn. McGoey trông như một quân nhân đã sắp đến lúc nghỉ hưu.
“Khoảng một giờ hôm nay cảnh sát sở tại đã phát hiện ra một đứa trẻ nổi trên sông,” McGoey thông báo. ”Họ không có cách nào để biết liệu đó có phải là một trong hai đứa trẻ bị bắt cóc hay không.”
Rồi đặc vụ McGoey dẫn chúng tôi đi xuống phía bờ sông đầy bùn thêm khoảng bảy mươi mét nữa. Qua một mô đất phủ đầy rêu và cây hương bồ, chúng tôi dừng lại. Không có một âm thanh nào phát ra từ bất kỳ ai, chỉ có tiếng gió lạnh rít trên mặt nước.
Cuối cùng chúng tôi cũng biết vì sao chúng tôi được đưa tới đây. Một cái xác nhỏ đã được phủ bằng chăn len xám lấy từ một trong những chiếc xe cứu thương. Đó là cái bọc nhỏ bé nhất, đơn độc nhất trong vũ trụ.
Một trong những cảnh sát sở tại được đề nghị cung cấp cho chúng tôi những chi tiết cần thiết. Khi mở lời, giọng anh ta nặng nề và không đều.
“Tôi là trung úy Edward Mahoney. Thuộc lực lượng tại Salibury này. Cách đây khoảng một tiếng hai mươi phút, một nhân viên an ninh của Raser/Becton đã phát hiện ra thi thể của một trẻ nhỏ ở dưới này.”
Chúng tôi bước lại gần hơn những tấm chăn được căng ra. Cái xác được đặt trên một ụ cỏ dốc dần về phía làn nước đen. Hết ụ cỏ về phía tay trái là một đầm lầy mọc đầy thông rụng lá tối tăm.
Trung úy Mahoney quỳ xuống bên cái xác nhỏ. Phần đồng phục đầu gối màu xám của anh ngập trong lớp bùn nhão. Vài bông tuyết bay quanh mặt rồi bám vào tóc và hai má viên cảnh sát. Với vẻ gần như thành kính, Mahoney kéo những tấm chăn len ra. Lúc này anh dường như
là một người cha đang nhẹ nhàng đánh thức con dậy để tham gia chuyến câu cá vào sáng sớm. Chỉ cách đây vài giờ, tôi còn đang nhìn bức ảnh chụp hai đứa trẻ bị bắt cóc. Tôi là người đầu tiên cất tiếng nói về thi thể của đứa bé bị giết hại.
“Đây là Michael Goldberg,” tôi nói bằng giọng nhẹ nhàng nhưng rõ ràng. “Tôi rất tiếc khi nói đó là Michael. Đó là thằng bé Nhãi Con tội nghiệp.”
CHƯƠNG 18
ĐẾN TẬN SÁNG SỚM NGÀY GIÁNG SINH Jezzie Flanagan mới về nhà. Đầu cô quay cuồng, như muốn nổ tung với quá nhiều ý nghĩ về vụ bắt cóc.
Cô phải ngừng nghĩ đến những hình ảnh đầy ám ảnh đó một lúc. Cô phải tắt các “động cơ” của mình, nếu không toàn bộ “nhà máy” sẽ nổ tung. Cô phải ngừng vai trò của một cảnh sát. Cô biết điểm khác biệt giữa cô và một số cảnh sát khác là cô có khả năng dừng lại.
Jezzie đang sống ở Arlington cùng mẹ. Cả hai sống trong một căn hộ nhỏ chật chội gần Crystal City Underground. Jezzie nghĩ nó là “căn hộ tự sát”. Cách sắp xếp cuộc sống như mang tính tạm bợ, trừ một việc là tính tới giờ Jezzie đã sống ở đây được gần một năm, kể từ khi ly dị Dennis Kelleher.
Những ngày này Dennis Hiểm Họa đang ở Bắc Jersey, vẫn đang cố gắng đạt được thành công với tờ New York Times. Anh ta sẽ không bao giờ làm được điều đó, thâm tâm Jezzie biết như vậy. Điều duy nhất Dennis từng giỏi làm là cố gắng khiến Jezzie hoài nghi về bản thân. Dennis quả từng là một kẻ đặc biệt giỏi trong khoản đó. Nhưng cuối cùng cô không để anh ta khiến cô cúi đầu.
Jezzie đã làm việc quá vất vả ở Sở nên cũng chẳng có đủ thời gian để chuyển ra khỏi căn hộ của mẹ cô. Ít nhất đó là điều cô luôn tự nhủ. Không có thời gian cho cuộc sống riêng. Cô đang tiết kiệm tiền - cho một điều gì đó lớn lao, một thay đổi lớn trong đời. Mỗi tuần vài ba lần, cô đều tính toán số tiền mình kiếm được. Jezzie đã có hai mươi tư ngàn đô la. Tất cả chỉ có vậy. Bây giờ cô đã ba mươi hai tuổi. Cô biết mình ưa nhìn, có thể coi là đẹp - theo kiểu có thể coi Dennis Kelleher là một cây viết giỏi.
Jezzie thường nghĩ, cô đã có thể là một đối thủ đáng gờm. Cô đã suýt thành công. Tất cả những gì cô cần là một kỳ nghỉ tử tế, và rốt cuộc cô nhận ra rằng mình phải tự tạo kỳ nghỉ đó cho bản thân mình. Cô quyết tâm làm điều ấy.
Jezzie uống một ly Smithwich, một thứ đồ uống thực sự dễ chịu từ quê hương cô. Smitty từng là nhãn hiệu của thứ nước độc hại mà cha cô ưa thích. Jezzie lấy một miếng pho mát mới. Rồi vừa tắm vừa uống thứ bia pha từ bia Hallway Number One đáng sợ của mẹ cô. Gương mặt bé nhỏ của Michael Goldberg lại hiện lên trong đầu cô.
Cô sẽ không cho phép thêm một hình ảnh nào của cậu bé Goldberg xuất hiện. Cô sẽ không
cảm thấy chút tội lỗi nào, ngay cả khi cô đang ngập ngụa trong tội lỗi...
Hai đứa trẻ đã bị bắt cóc trong phiên trực của cô. Đó là cách mà mọi chuyện bắt đầu... Hãy dừng những hình ảnh lại! Lúc này, hãy ngừng mọi thứ lại.
Irene Flanagan ho khi đang ngủ. Mẹ cô đã làm việc ba mươi chín năm cho công ty điện thoại C&P. Bà sở hữu một căn hộ ở Crystal City. Bà cũng là một tay chơi bài cự phách. Thông tin về Irene là thế.
Cha của Jezzie làm cảnh sát ở D.C. được hai mươi năm. Đoạn kết đến với Terry Flanagan là cơn đau tim giữa nhà ga Union đông đúc - vài trăm người hoàn toàn xa lạ nhìn ông từ giã cõi đời, chẳng ai thực sự để ý gì. Dù sao đó luôn là cách Jezzie kể lại chuyện này.
Một lần nữa Jezzie lại quyết định, lần thứ một ngàn, rằng cô phải chuyển ra khỏi nhà của mẹ mình. Dù thế nào đi nữa. Không thêm một cái cớ thiếu thuyết phục nào nữa. Hãy chuyển đi hoặc chịu thua, cô gái. Tiếp đi, tiếp đi, hãy tiếp tục với cuộc sống của mình.
Jezzie hoàn toàn không biết cô đã ngâm mình trong bồn nước bao lâu với cốc bia đã uống cạn trên tay và phần cốc thủy tinh mát lạnh cọ vào đùi. “Đồ nghiện ngập tuyệt vọng,” cô lầm bầm với bản thân. “Thật là đáng thương hại.” Dù gì thì Jezzie đã tắm đủ lâu để uống hết ly Smithwich, thấy khát và muốn uống thêm một ly nữa. Khát khao điều gì đó.
Cô đã thành công trong việc tránh suy nghĩ về cậu bé nhà Goldberg được một lúc. Nhưng không hẳn. Làm thế nào cô làm thế được chứ? Michael Goldberg bé bỏng. Nhưng vài năm qua Jezzie Flanagan ngày càng giỏi việc lãng quên - tránh đau đớn bằng mọi giá. Thật ngu ngốc khi phải chịu đau đớn trong khi ta có thể tránh được nó. Tất nhiên điều đó đồng nghĩa với việc tránh những mối quan hệ thân thiết, thậm chí tránh cả những thứ gần giống với tình yêu, đoạn tuyệt hầu hết những cảm xúc tự nhiên của con người. Cũng hợp lý. Có lẽ đó là sự đánh đổi chấp nhận được. Cô phát hiện ra rằng mình có thể sống sót khi không có tình yêu trong đời. Nghe có vẻ kinh khủng song đó là sự thật. Đúng, ở thời điểm hiện tại, đặc biệt là lúc này đây, sự đánh đổi đó thực sự đáng giá, Jezzie nghĩ. Điều đó giúp cô vượt qua từng ngày, từng đêm khủng hoảng. Dù gì thì nó cũng giúp cho cô trụ đến lúc thưởng thức những món đồ uống mình thích.
Jezzie đương đầu với mọi việc tạm ổn. Cô có tất cả những công cụ phù hợp để tồn tại. Nếu như có thể thành công với tư cách một nữ cảnh sát, cô có thể thành công ở bất kỳ chuyện gì. Các đặc vụ khác của Sở nói rằng cô có “hai hòn bi”. Với họ, đó là một lời khen, thế nên Jezzie đón nhận nó đúng như vậy. Mà họ nói hoàn toàn đúng, cô có “hai hòn bi” bằng đồng. Và những lúc không có, Jezzie đủ khôn ngoan để vờ là mình có.
Lúc một giờ sáng, Jezzie Flanagan phải làm một vòng trên chiếc mô tô BMW; cô phải thoát khỏi căn hộ bé xíu ngột ngạt ở Arlington.
Phải làm, phải làm, phải làm.
Chắc chắn mẹ Jezzie đã nghe tiếng mở cửa ra hành lang. Từ trong phòng mình, bà gọi với ra, có lẽ gọi ngay lúc vừa tỉnh ngủ.
“Jezzie, con đi đâu muộn thế? Jezzie? Jezzie, phải con không thế?”
“Con chỉ ra ngoài thôi mẹ ạ.”
Ra siêu thị mua sắm dịp Giáng sinh, một ý nghĩ đầy nhạo báng hiện ra thật phấn khích trong đầu Jezzie. Như mọi khi, cô giữ cho nó ở yên bên trong. Cô ước rằng Giáng sinh sẽ biến đi. Cô sợ ngày hôm sau.
Rồi nữ cảnh sát trên chiếc BMW-Kl lao vào bóng đêm, hoặc trốn khỏi, hoặc đuổi theo những cơn ác mộng của riêng cô, những điều khủng khiếp của riêng cô.
Bây giờ là Giáng sinh. Có phải Michael Goldberg đã chết vì những tội lỗi của chúng ta không? Có phải chuyện là như thế không? Jezzie nghĩ.
Cô không đồng ý để cho bản thân cảm thấy tội lỗi. Bây giờ là Giáng sinh, và Chúa đã chết vì tội lỗi của mọi người. Thậm chí cả những tội lỗi của Jezzie Flanagan. Cô cảm thấy mình hơi điên. Không, cô cảm thấy rất điên, nhưng cô có thể kiểm soát được. Luôn luôn kiểm soát. Đó là điều cô sẽ làm bây giờ.
Jezzie hát bài “Xứ sở kỳ diệu mùa đông” - ở tốc độ gần một trăm tám mươi ki lô mét một giờ trên quốc lộ thoáng đãng hướng ra khỏi Washington. Trước đây cô không sợ lắm nhưng lần này thì cô sợ.
CHƯƠNG 19
Ở MỘT SỐ VÙNG CỦA WASHINGTON và các khu ngoại ô lân cận thuộc Maryland và Virginia, những cuộc kiểm tra lần lượt từng căn nhà được thực hiện vào buổi sáng Giáng sinh. Những chiếc xe cảnh sát sơn xanh-trắng lượn khắp các đường phố trung tâm. Chúng phát đi những thông điệp qua hệ thống loa:
“Chúng tôi đang tìm kiếm Maggie Rose Dunne. Maggie chín tuổi. Maggie để tóc dài, màu vàng. Maggie một mét ba mươi và nặng ba mươi ba cân. Bất kỳ ai có thông tin giúp đưa Maggie trở về an toàn sẽ được thưởng lớn.”
Trong nhà, nửa tá đặc vụ FBI làm việc với vợ chồng Dunne sát sao hơn bao giờ hết. Cả Katherine Rose và Tom Dunne đều sốc ghê gớm trước cái chết của Michael. Katherine đột ngột trông già đi cả chục tuổi. Họ chờ đợi cuộc gọi tiếp theo của Soneji.
Một ý nghĩ đến với tôi từ trước là Gary Soneji sẽ gọi cho vợ chồng Dunne vào ngày Giáng sinh. Tôi bắt đầu cảm thấy như mình hiểu hắn hơn một chút. Tôi muốn tên bắt cóc liên lạc, muốn hắn bắt đầu hành động, bắt đầu mắc sai lầm lớn đầu tiên. Tôi muốn tóm hắn.
Vào khoảng bảy giờ sáng ngày Giáng sinh, Đội Giải cứu Con tin được triệu tập vội vàng trong phòng khách nhà Dunne. Bây giờ nhóm chúng tôi đã có gần hai mươi người, có được thông tin quan trọng hay không còn phụ thuộc vào thiện chí của FBI. Căn nhà ồn ào. Con Trai Nhà Lindbergh đã làm gì?
Chúng tôi vẫn chưa được cung cấp nhiều thông tin. Chúng tôi biết rằng một bức điện đã được chuyển tới nhà Dunne. Nó không được xử lý như bất kỳ thông điệp kỳ quái nào trước đó. Đó hẳn phải là Soneji.
Các đặc vụ FBI đã độc quyền sử dụng các điện thoại trong nhà suốt khoảng mười lăm phút vừa qua. Đặc vụ Scorse đã trở lại đây ngay trước mười một giờ ba mươi phút, có lẽ trở về từ tiệc Giáng sinh ở nhà riêng của anh ta. Sếp Pittman đến sau đó năm phút. Người đứng đầu cơ quan cảnh sát đã được gọi đến.
“Chuyện này đang trở thành một vụ thật tồi tệ. Lúc nào cũng bị bưng bít thông tin.” Sampson ngồi lên thành lò sưởi trong phòng. Khi Sampson ngồi, anh chỉ còn cao khoảng mét
chín. “Bọn dối trá* không tin chúng ta. Chúng ta thậm chí tin tưởng bọn họ còn ít hơn lúc đầu.” “Từ đầu ta đã không tin FBI,” tôi nhắc Sampson.
“Việc ấy thì cậu đúng.” Sampson nhăn nhở. Tôi có thể thấy hình ảnh của chính mình trên cặp mắt kính hiệu Wayfarers của Sampson, trông tôi thật nhỏ bé. Tôi tự hỏi liệu từ góc nhìn của Sampson, cả thế giới trông có bé xíu hay không. “Thằng lỏi của bọn mình chuyển thông điệp qua Westem Union hả?” Sampson hỏi tôi.
“Đó là điều FBI nghĩ. Có lẽ đó chỉ là cách gửi lời chúc Giáng sinh của hắn. Có lẽ hắn muốn trở thành một phần của một gia đình.”
Sampson nhìn tôi qua đôi gọng kính râm. “Cảm ơn, Tiến sĩ Freud.”
Đặc vụ Scorse đang bước ra phía trước phòng. Trên đường đi, anh ta gặp Pittman. Cả hai bắt tay. Quan hệ xã giao tốt cho công việc.
“Chúng tôi đã nhận được một thông điệp khác có vẻ xuất phát từ Gary Soneji,” Scorse thông báo ngay khi đến trước mặt chúng tôi. Khi lo lắng, anh ta có kiểu vươn cổ và xoay đầu từ bên nọ sang bên kia khá kỳ quặc. Anh ta đã làm việc đó vài lần khi bắt đầu phát biểu.
“Tôi sẽ đọc cho các vị nghe. Bức điện đề gửi tới địa chỉ nhà Dunne... ‘Katherine và Tom thân mến... Mười triệu đô la thì sao nhỉ? Hai triệu bằng tiền mặt. Phần còn lại bằng kim cương và chứng khoán có thể chuyển nhượng. Ở MIAMI BEACH. Cho tới giờ M.R. vẫn ổn. Tin tôi đi. NGÀY MAI là một ngày quan trọng... Chúc một ngày... Con Trai Nhà L.’ ”
Mười lăm phút sau khi bức điện được chuyển đến nơi, người ta đã xác định rằng nó được gửi từ một văn phòng của hãng Westem Union trên đại lộ Collins tại Miami Beach. Ngay lập tức các nhân viên FBI tới văn phòng này để thẩm vấn viên quản lý và các nhân viên. Họ không thu thập được gì - hoàn toàn giống như phần còn lại của cuộc điều tra đã diễn ra cho tới lúc này.
Chúng tôi không có lựa chọn nào ngoài việc lập tức lên đường tới Miami.
CHƯƠNG 20
ĐỘI GIẢI CÚU CON TIN có mặt tại sân bay Tamiami của Florida lúc bốn giờ ba mươi chiều ngày Giáng sinh. Bộ trưởng Jerrold Goldberg đã sắp xếp để chúng tôi bay bằng một chiếc phản lực riêng do lực lượng Không quân điều động.
Một xe hộ tống của cảnh sát Miami khẩn trương đưa chúng tôi tới văn phòng FBI trên đại lộ Collins, gần các khách sạn Fountainebleu và Gold Coast. Văn phòng của Cục chỉ cách văn phòng Westem Union mà Soneji đã gửi bức điện đúng sáu dãy nhà.
Liệu hắn có biết trước điều đó không? Có thể hắn đã biết. Đó dường như là cách mà tư duy của hắn hoạt động. Soneji là một gã “cuồng kiểm soát”. Tôi liên tục ghi lại những nhận định về hắn. Cuốn sổ nhỏ tôi bỏ trong áo khoác đã kín hai chục trang. Tôi chưa sẵn sàng viết hồ sơ về Soneji bởi bản thân mình chưa có thông tin nào về quá khứ của hắn. Nhưng những ghi chú của tôi vẫn đầy những cụm từ thông dụng lột tả chính xác: có tổ chức, tàn bạo, có phương pháp, có kiểm soát, có lẽ mắc chứng hưng cảm.
Liệu bây giờ hắn có đang quan sát chúng tôi nhốn nháo chạy quanh Miami không? Rất có khả năng như thế. Có lẽ đang hóa trang theo một kiểu khác. Liệu hắn có ân hận về cái chết của Michael Goldberg không? Hay hắn sắp bước vào một cấp độ điên cuồng mới?
Tại văn phòng FBI, các đường dây riêng phục vụ liên lạc khẩn cấp đã được thiết lập. Chúng tôi không biết từ đây Soneji sẽ liên lạc bằng cách nào. Bây giờ đội đã được bổ sung nhiều sĩ quan cảnh sát Miami. Ngoài ra còn có hai trăm đặc vụ nữa từ lực lượng đông đảo của Cục ở Nam Florida. Đột nhiên mọi thứ trở nên khẩn trương, hối hả, vội vã. Vội vã rồi lại chờ đợi.
Tôi tự hỏi liệu Gary Soneji có biết gì về tình trạng rối loạn hắn tạo ra khi hạn chót của hắn đề ra đang đến gần. Liệu đó cũng là một phần kế hoạch của hắn không? Maggie Rose có thực sự an toàn không? Con bé còn sống hay không?
Chúng tôi cần thêm chút bằng chứng trước khi cuộc trao đổi cuối cùng được thông qua. Ít nhất chúng tôi cũng nên đòi hỏi Soneji về bằng chứng cụ thể. Cho tới giờ M.R. vẫn ổn. Tin tôi đi, hắn đã nói như thế. Chắc chắn rồi, Gary.
Tin xấu theo chúng tôi tới tận Miami Beach. Báo cáo sơ bộ giải phẫu tử thi của Michael Goldberg đã được gửi qua fax tới văn phòng Cục tại Miami. Ngay khi chứng tôi tới, một cuộc họp được tổ chức tại phòng xử lý khủng hoảng của FBI. Chúng tôi ngồi ở những chiếc bàn xếp
thành hình lưỡi liềm, từng bàn đều có bàn phím và màn hình máy tính. Căn phòng yên tĩnh lạ lùng. Không ai trong chúng tôi thực sự muốn nghe những chi tiết về cái chết của cậu bé. Một nhân viên kỹ thuật của Cục tên Harold Friedman được chọn để giải thích cho chúng tôi về những kết quả giải phẫu. Ít nhất cũng có thể nói Friedman là trường hợp không bình thường ở Cục. Anh là người theo đạo Do Thái chính thống nhưng lại có thân hình và vẻ ngoài của một tay chơi Miami. Trong cuộc họp về giải phẫu tử thi này, anh đội một chiếc mũ cầu nguyện nhiều màu sắc của người Do Thái.
“Chúng ta có cơ sở để chắc chắn rằng cái chết của cậu bé Goldberg là tai nạn” Friedman bắt đầu bằng một giọng sâu, rõ ràng. “Có vẻ trước tiên nạn nhân đã bị gây mê bằng thuốc chloroform dạng xịt. Trong hốc mũi và họng cậu bé có những dấu vết của chất này. Rồi cậu bị tiêm thuốc gây mê secobarbital, có lẽ là sau đó chừng hai giờ. Secobarbital là chất gây mê mạnh. Nó còn có những đặc tính gây ngừng thở.
“Có vẻ đó là những gì đã xảy ra trong trường hợp này. Có lẽ hoạt động hô hấp của thằng bé đã trở nên bất thường, rồi tim và hoạt động hô hấp ngừng hẳn. Nếu khi ấy nó đang ngủ thì sẽ không đau đớn. Tôi nghĩ là khi đó Goldberg đang ngủ, và thằng bé đã chết trong giấc ngủ.
“Ngoài ra còn có vài chiếc xương bị gãy,” Harold Friedman tiếp tục. Bất chấp vẻ ngoài của một tay chơi, anh có vẻ buồn và thể hiện sự thông minh qua cách báo cáo. “Chúng tôi tin rằng thằng bé đã bị đá, bị đấm, những hành động đó diễn ra nhiều lần. Nhưng chuyện này không liên quan gì tới cái chết của nó. Các xương gãy và những vết sây sát trên da xuất hiện sau khi nạn nhân đã chết. Các vị cũng nên biết rằng Goldberg còn bị lạm dụng tình dục sau khi đã qua đời. Thằng bé bị hiếp dâm, bị cấu xé trong quá trình ấy. Tên Soneji này là một con chó cực kỳ bệnh hoạn,” Friedman tạm kết cho phần đầu của bản báo cáo.
Đây cũng là một trong những thông tin cụ thể ít ỏi mà chúng tôi có được về bệnh lý của Gary Soneji. Rõ ràng cơn giận của hắn đã bùng lên khi phát hiện thấy Michael Goldberg đã chết. Hoặc rốt cuộc điểm nào đó trong kế hoạch hoàn hảo của hắn đã không còn hoàn hảo.
Các đặc vụ và cảnh sát ngọ nguậy trên ghế. Tôi băn khoăn liệu cơn điên mà Soneji trút vào Michael Goldberg có tác dụng làm dịu bớt hay càng kích động hắn hơn.
Hơn lúc nào hết, tôi lo cho cơ hội sống sót của Maggie Rose.
Khách sạn của chúng tôi nằm ở bên kia phố, đối diện với văn phòng của Cục. Khách sạn này không có được những tiêu chuẩn cao cấp của khu Miami Beach nhưng ở phía giáp biển có một bể bơi lớn ngoài hiên.
Tới khoảng mười một giờ, hầu hết trong chúng tôi đã ngừng việc để nghỉ ngơi. Nhiệt độ vẫn còn khoảng hai mươi bảy độ C. Bầu trời đầy những vì sao sáng và thi thoảng điểm những chiếc máy bay phản lực từ phương Bắc tới.
Sampson và tôi đi bộ qua đại lộ Collins. Chắc hẳn người ta nghĩ rằng những cầu thủ của đội bóng rổ Lakers đang có mặt trong thành phố để chuẩn bị đấu với đội Miami Heat. “Muốn ăn trước không? Hay cứ uống đến bết luôn?” cậu ta hỏi tôi khi đang ở đoạn giữa đại lộ.
“Tớ đã khá bết rồi,” tôi nói với Sampson. “Lúc nãy tớ đã nghĩ đến chuyện bơi. Đang ở Miami Beach mà.”
“Đêm nay cậu không có được làn da rám nắng Miami Beach đâu.” Sampson dùng hai môi đẩy đi đẩy lại một điếu thuốc chưa châm.
“Đó là một lý do khác để bơi vào buổi đêm đấy.”
“Tớ sẽ tác chiến ở quán rượu,” Sampson nói khi chúng tôi đi mỗi người một hướng từ sảnh khách sạn. “Tớ sẽ là người thu hút phụ nữ đẹp.”
“Chúc may mắn,” tôi nói với Sampson. “Hôm nay là Giáng sinh. Tớ hy vọng cậu sẽ có quà.”
Tôi thay đồ bơi và bước ra bể bơi trong khách sạn. Bản thân tin rằng vấn đề mấu chốt với sức khỏe là tập thể dục nên tôi tập thể dục hằng ngày, bất kể ở đâu. Tôi còn thường xuyên tập các bài tập co dãn cơ, việc có thể làm bất kỳ lúc nào và ở bất kỳ đâu.
Bể bơi lớn bên phía giáp biển đã đóng cửa, nhưng điều ấy không cản được tôi. Nhìn chung cảnh sát thường bị mang tiếng về chuyện đi bộ ẩu, đậu xe sai chỗ, vi phạm quy định. Đó là đặc quyền duy nhất của chúng tôi mà.
Người nào đó cũng có ý tưởng giống tôi. Ai đó đang thực hiện những vòng bơi một cách êm ái, khẽ khàng đến mức tôi không nhận ra cho tới khi đến giữa những chiếc ghế ở rìa bể và cảm thấy nước mát dưới chân.
Người đang bơi là một phụ nữ, mặc bộ đồ tắm màu đen hoặc xanh thẫm. Cô có vóc dáng mảnh mai và khỏe khoắn, hai cánh tay và cặp chân dài. Cô là một hình ảnh đẹp trong một ngày không được tốt đẹp lắm. Những động tác bơi của cô trông không hề vất vả mà lại mạnh mẽ và có nhịp điệu. Dường như đây là chốn dành riêng cho người này, tôi không muốn phá vỡ sự riêng tư ấy.
Khi cô bơi vòng lại, tôi thấy đó là Jezzie Flanagan.
Điều đó khiến tôi ngạc nhiên. Việc này dường như không giống nữ giám sát viên của Sở
Mật vụ chút nào.
Cuối cùng tôi leo xuống đầu kia bể bơi một cách thật nhẹ nhàng và bắt đầu những vòng bơi của mình. Không có những động tác đẹp đẽ và đầy nhịp điệu nhưng tôi có thể bơi tốt, và thường thì tôi có thể bơi khá lâu.
Tôi bơi ba mươi lăm vòng một cách dễ dàng. Tôi cảm thấy như đây là lần đầu tiên được thả lỏng cơ thể trong vài ngày qua. Những chuyện rối rắm đang bắt đầu lùi xa. Có lẽ tôi sẽ bơi thêm hai mươi vòng nữa rồi đi nghỉ. Hoặc làm một chầu bia mừng Giáng sinh với Sampson.
Rồi khi tôi ngừng để thở ra thật mạnh, Jezzie Flanagan đang ngồi ngay đó, bên mép một chiếc ghế.
Một chiếc khăn tắm trắng mịn hờ hững quàng trên đôi vai trần của cô. Jezzie Flanagan thật đẹp dưới ánh trăng bao phủ Miami. Mềm mại, mái tóc vàng óng, đôi mắt xanh sáng chăm chăm nhìn tôi.
“Năm mươi vòng à, thanh tra Cross?”
Cô mỉm cười và nụ cười ấy để lộ ra một con người khác hẳn con người tôi đã làm việc cùng trong vài ngày qua. Dường như cô thư thái hơn rất nhiều.
“Ba mươi lăm. Tôi không được giỏi như cô,” tôi nói với Flanagan. “Thậm chí gần bằng cũng chẳng được. Tôi học bơi ở trung tâm thể thao của Hội Thanh niên Cơ đốc giáo.” “Anh chịu khó thật.” Nữ giám sát viên vẫn giữ nụ cười đầy thiện cảm. “Dáng người anh chuẩn đấy.”
“Dù kiểu bơi của tôi được gọi là gì thì chắc chắn đêm nay tôi cũng sẽ thấy rất khoan khoái. Sau những giờ bị nhốt trong căn phòng đó. Với những ô cửa sổ nhỏ đóng chặt.” “Nếu họ có những ô cửa sổ lớn thì tất cả những gì người ta nghĩ sẽ chỉ là trốn ra bãi biển. Người ta chẳng làm được việc gì ra hồn ở cái bang Florida này đâu.”
“Chúng ta sẽ hoàn thành được việc gì chứ?” tôi hỏi Jezzie.
Cô cười to. “Tôi có một người bạn tin vào lý thuyết ‘làm hết sức có thể’ trong công việc của cảnh sát. Tôi đang làm hết sức mình. Trong những hoàn cảnh không thể. Còn anh thế nào?” “Tôi cũng đang làm hết sức mình,” tôi đáp.
“Ơn Chúa!” Jezzie Flanagan giơ cả hai cánh tay lên trời vui mừng. Sự cởi mở của cô khiến tôi ngạc nhiên. Thật vui vẻ, và nhẹ nhõm khi thay đổi không khí bằng một tràng cười lớn. Thực sự nhẹ nhõm. Thực sự cần thiết.
“Trong những hoàn cảnh thế này, tôi làm hết khả năng có thể,” tôi nói thêm.
“Trong những hoàn cảnh thế này, ơn Chúa!” Jezzie lại cao giọng lần nữa. Cô vui tính, hoặc do đã khuya, hoặc do cả hai điều ấy.
“Cô ăn nhẹ chút chứ?” tôi hỏi. Tôi muốn nghe suy nghĩ của Jezzie Flanagan về vụ án. Trước đây tôi chưa từng thực sự nói chuyện với cô.
“Tôi muốn ăn gì đó,” cô đáp. “Hôm nay tôi đã bỏ hai bữa rồi.”
Chúng tôi nhất trí gặp nhau trên phòng ăn của khách sạn, là nhà hàng xoay nằm ở tầng trên cùng.
Jezzie Flanagan đã thay đồ xong trong khoảng năm phút, một điều làm tôi thật sự ấn tượng. Quần rộng màu nâu sô cô la, áo phông cổ chữ V, giày vải màu đen kiểu Trung Quốc. Mái tóc vàng của cô vẫn còn ướt. Cô đã chải tóc ngược về phía sau, và kiểu này trông khá ổn. Jezzie không trang điểm, và thực sự không cần phải làm điều đó. Dường như trông cô khác nhiều so với khi làm việc - nhẹ nhàng và thoải mái hơn rất nhiều.
“Hoàn toàn thực lòng và công bằng, tôi phải nói với anh một điều.” Cô bật cười. “Điều gì thế?”
“À, anh là một tay bơi khỏe nhưng hơi vụng. Mặt khác anh mặc đồ bơi trông ổn lắm.” Cả hai chúng tôi đều bật cười. Một chút căng thẳng của một ngày dài bắt đầu lùi xa. Chúng tôi đều giỏi khai thác nhau qua những chầu bia và một chút đồ ăn vặt. Nhiều nội
dung trong đó có nguyên nhân là những tình huống oái oăm, sự căng thẳng và sức ép của vài ngày qua. Cũng do một phần nghề của tôi là khai thác người khác, và tôi thích thử thách. Tôi khiến Jezzie Flanagan thừa nhận rằng cô từng là Người đẹp Washington D.C. hồi mười tám tuổi. Cô từng là một thành viên Hội Nữ sinh Đại học Virginia nhưng bị loại ra vì “hành vi không đúng mực” - một cụm từ tôi thích.
Nhưng trong khi chúng tôi nói chuyện, tôi thấy ngạc nhiên rằng tôi đã kể cho cô nhiều hơn dự liệu. Flanagan là người dễ nói chuyện.
Jezzie hỏi về những ngày đầu tiên của tôi với công việc của một nhà tâm lý học ở Washington. “Đó gần như một sai lầm tai hại,” tôi kể cho cô, song không nói rõ sai lầm ấy đã khiến tôi giận dữ đến mức nào, thậm chí cho đến bây giờ. “Rất nhiều người chẳng hề muốn một tay chuyên gia tâm thần da đen. Quá nhiều người da đen không thể chi trả cho việc ấy. Trên ghế của tay chuyên gia tâm thần ấy không có kẻ nào mang đầu óc tiến bộ.” Jezzie Flanagan khiến tôi phải kể về Maria, nhưng chỉ một chút. Cô nói cho tôi biết một phụ nữ ở Sở Mật vụ với chín mươi phần trăm đàn ông chuẩn men là như thế nào. “Ôi, họ muốn kiểm tra tôi, chừng mỗi lần một ngày. Họ gọi tôi là ‘Gã Đàn Ông’.” Cô còn kể vài chuyện vui về Nhà Trắng. Cô biết vợ
chồng Bush và Reagan. Tóm lại đó là một giờ thoải mái và trôi qua rất nhanh. Thực tế là hơn một giờ đã trôi qua. Giống như hai giờ hơn. Cuối cùng Jezzie nhận thấy rằng cô phục vụ bàn chúng tôi đang lẻ loi đi quanh chỗ quầy bar. “Chuồn thôi. Khách ở nhà hàng này chỉ còn chúng ta.”
Chúng tôi thanh toán và theo thang máy rời khỏi nhà hàng xoay. Phòng Jezzie ở tầng cao hơn. Có lẽ nơi cô ở cũng có thể nhìn ra đại dương. Từ phòng hạng sang của mình. “Như thế thật dễ chịu,” tôi nói khi cô dừng bước. Tôi nghĩ đó là một câu khá sến từ vở kịch của Noel Coward. “Cảm ơn vì đã đồng hành. Chúc mừng Giáng sinh.”
“Chúc mừng Giáng sinh, Alex.” Jezzie mỉm cười. Cô vén lọn tóc vàng ra sau tai, đó là một thói quen của cô mà tôi đã nhận ra từ trước. “Quả là dễ chịu thật. Nhưng không may là ngày mai có thể sẽ không được thế.”
Jezzie bẹo má tôi và quay bước về phòng. “Tôi sẽ mơ thấy anh mặc đồ bơi đấy,” cô nói khi cửa thang máy khép lại.
Tôi đi xuống thêm bốn tầng, tắm nước thật lạnh và một mình đón Giáng sinh. Tôi nghĩ về Jezzie Flanagan. Những ảo tưởng ngốc nghếch trong một phòng khách sạn lẻ loi ở Miami Beach. Chúng tôi sẽ không đi tới đâu nhưng tôi thích cô. Tôi cảm thấy mình có thể nói chuyện với Flanagan về bất kỳ chuyện gì. Tôi đọc thêm một chút về thời gian nhà văn Styron chống chọi với bệnh trầm cảm, cho tới lúc có thể chợp mắt. Tôi có những giấc mơ của riêng mình.
CHƯƠNG 21
HÃY CẨN THẬN, bây giờ hãy thật cẩn thận nhé, thằng nhóc Gary.
Gary Soneji quan sát người phụ nữ béo mập qua khóe mắt trái. Hắn quan sát người đàn bà ấy theo kiểu một con thằn lằn quan sát côn trùng ngay trước khi ăn thịt nó. Người phụ nữ không biết rằng hắn đang quan sát mình.
Có thể nói người phụ nữ này là cảnh sát, đồng thời cũng là nhân viên thu phí ở đường thoát số 12 trên tuyến đường có thu phí. Bà từ từ đến chỗ tiền lẻ Soneji đưa. Người đàn bà này thật mập, đen như bóng đêm, hoàn toàn hình thành từ bóng đêm. Ngủ cả trong ca trực. Soneji nghĩ Aretha Franklin sẽ trông giống như người phụ nữ này nếu Aretha không thể hát được một nốt nào và phải kiếm sống trong thế giới thực tại tẻ nhạt.
Bà không biết gì về kẻ đang đi qua đây, trong dòng xe đơn điệu của kỳ nghỉ. Dù bà và nhóm của mình có nhiệm vụ phải ra sức truy tìm kẻ bắt cóc. Quá tệ cho “đợt truy tìm quy mô lớn của cảnh sát” hay “cuộc săn lùng trên quy mô toàn quốc” của các vị. Đúng là một sự thất vọng không thể tin nổi. Những con người như thế này tham gia cuộc truy lùng thì làm sao bọn họ có thể hy vọng bắt được Gary Soneji. Ít nhất bọn họ cũng có cố giữ cho hắn sự hứng thú chứ.
Đôi khi, nhất là những lúc thế này, Gary Soneji muốn tuyên bố chân lý không thể chối cãi của cả vũ trụ.
Tuyên bố. Lắng nghe nhé, đồ chó cái cảnh sát bẩn thỉu và ngu dốt! Mày không biết tao là ai à? Mày không phát hiện được chút hóa trang đơn giản này sao? Tao là kẻ chúng mày đã trông thấy trong mọi bản tin suốt ba ngày qua. Mày và một nửa thế giới, Aretha bé yêu ạ.
Tuyên bố. Tao đã lên kế hoạch và thực hiện Vụ án Thế kỷ thật hoàn hảo. Tao đã trở nên vĩ đại hơn John Wayne Gacy, Jeffrey Dahmer, Juan Corona. Mọi thứ đều ổn cho tới khi thằng nhóc nhà giàu buồn rầu khiến cho tao khó chịu.
Tuyên bố. Hãy nhìn tao thật gần. Nhìn cho kỹ vào. Hãy một lần làm anh hùng trong đời đi xem nào. Hãy làm gì đó khác ngoài con số không vừa đen vừa béo trên Con đường Tình yêu. Nhìn tao đi, được chứ! Nhìn tao đi!
Người phụ nữ trả lại tiền lẻ cho Soneji. “Chúc ông Giáng sinh vui vẻ.”
Soneji nhún vai. “Cũng chúc bà Giáng sinh vui vẻ,” hắn nói.
Khi lái xe xa dần những bóng đèn nhấp nháy của trạm thu phí, Soneji tưởng tượng ra nữ cảnh sát với gương mặt nở nụ cười chúc-một-ngày-vui-vẻ. Hắn hình dung cả một đất nước đầy những khuôn mặt bóng bay mỉm cười. Chuyện này cũng đang diễn ra.
Thực tế là mọi thứ đang trở nên tệ hại hơn cả Cuộc xâm lăng của người nhân bản*. Soneji phát điên khi nghĩ về nó, việc mà hắn đang cố gắng không làm. Đất nước của những cái đầu rỗng tuếch mỉm cười. Hắn yêu Stephen King, với sự lập dị đặc trưng của ông, và ước rằng King sẽ viết về tất cả những kẻ đần độn thích mỉm cười ở nước Mỹ này. Hắn có thể hình dung ra lớp bìa chống bụi bọc bên ngoài tuyệt tác của King - Những cái đầu bóng bay.
Bốn mươi phút sau, Soneji bẻ lái đưa chiếc Saab rời khỏi đường 413 chạy vào Crisfield, Maryland. Hắn tăng ga chạy theo con đường đất đầy vết lún dẫn vào căn nhà nông trại. Đến lúc này tên bắt cóc phải mỉm cười, phải cười to. Hắn đã hoàn toàn đánh lừa và chơi khăm được bọn họ. Làm mọi chuyện lộn tùng phèo.
Cho tới giờ, họ không biết lối nào lên, lối nào xuống hay lối nào đi ngang. Có phải hắn đã đẩy vụ việc Lindbergh lên đến đỉnh điểm không? Giờ là lúc cho những cái đầu bóng bay kia thêm một gáo nước lạnh nữa.
"""