"Nơi Khu Rừng Chạm Tới Những Vì Sao PDF EPUB 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Nơi Khu Rừng Chạm Tới Những Vì Sao PDF EPUB Ebooks Nhóm Zalo Glendy Vanderah Nơi khu rừng chạm tới những vì sao ~ Where the Forest Meets the Stars ~ Người dịch: Đỗ Phan Thu Hà Phát hành: 1980 Books Nhà xuất bản Thanh Niên 2020 Tặng Cailley, William, Grant, Và tặng Scott. K 1 héo có khi bé gái lại là tiểu yêu tinh chứ chẳng phải người. Cô bé gần như vô hình, khuôn mặt nhợt nhạt, chiếc áo nỉ có mũ và chiếc quần nó đang mặc như chìm giữa khu rừng chạng vạng ánh chiều phía sau. Nó đi chân đất, đứng im như tượng, một tay ôm quanh thân cây hồ đào, thậm chí còn chẳng buồn động đậy khi chiếc ô tô xộc thẳng về phía cuối con đường trải sỏi và dừng cách đấy vài mét. Jo tắt động cơ, rời mắt khỏi cô bé và gom đống đồ đạc lỉnh kỉnh nào ống nhòm, ba lô và giấy tờ để trên ghế phụ. Đứa bé có lẽ sẽ trở về với thế giới cổ tích của mình nếu cô đánh mắt đi chỗ khác. Nhưng cô bé vẫn đứng đó khi Jo bước ra khỏi xe. “Cô thấy con đấy,” Jo nói với cái bóng chỗ cây hồ đào. “Con biết mà,” cô bé đáp. Jo cạ đôi bốt đi rừng của mình lên lối đi bộ được láng xi măng để gạt đám bùn đất khô rơi ra. “Con có cần gì không?” Đứa bé không trả lời. “Sao con lại ở trên đất nhà cô?” “Con muốn nựng chó của cô nhưng nó không chịu.” “Nó không phải chó của cô đâu.” “Thế của ai ạ?” “Chẳng của ai cả.” Jo mở cánh cửa dẫn vào hàng hiên. “Trời vẫn còn sáng, con mau chóng về nhà đi.” Cô bật ngọn đèn đuổi côn trùng bên ngoài cửa và tra chìa khóa vào ổ. Sau khi vào nhà và bật chiếc đèn bàn, cô quay ra khóa cánh cửa gỗ lại. Đứa bé đó mới tầm chín tuổi, nhưng dù gì cũng phải cẩn thận, nhỡ đâu nó có âm mưu gì. Jo tắm rửa trong vòng mười lăm phút, sau đó mặc một chiếc áo thun cùng quần nỉ, mang dép xỏ ngón. Cô bước vào căn bếp và bật đèn, kéo theo đám côn trùng khe khẽ đập vào cánh cửa sổ được sơn đen. Trong khi chuẩn bị nguyên liệu nướng đồ ăn, đầu óc cô bâng quơ nghĩ về đứa bé đứng dưới gốc cây hồ đào ban nãy. Khu rừng đen như hũ nút thế này, nó không sợ mới lạ. Chắc hẳn con bé đã về nhà rồi. Giữa khoảnh sân đầy cỏ dại ngăn cách căn nhà gỗ màu vàng với đồng cỏ thênh thang vài mẫu, Jo xếp một miếng phi lê ức gà đã được ướp cùng ba xiên rau củ lên lò nướng. Xây từ thập kỷ 40, căn nhà mang tên Nhà Kinney tọa lạc trên ngọn đồi quay mặt về phía khu rừng, phần hông hướng ra khoảnh đất nhỏ thường xuyên được chủ nhà đốt cỏ để rừng không xâm lấn. Jo thắp lửa trên lò nướng bằng đá rồi đặt vỉ nướng lên. Đang dở tay xếp gà và xiên nướng lên ngọn lửa thì cô nhác thấy một bóng đen đang tiến lại góc căn nhà. Là bé gái đó. Nó dừng chân cách ngọn lửa vài mét, đưa mắt nhìn Jo xếp những xiên rau củ lên trên vỉ nướng rồi cất tiếng hỏi, “Cô không có bếp lò ạ?” “Cô có.” “Sao cô lại nấu ăn ngoài trời?” Jo trả lời khi ngồi xuống một chiếc ghế xếp xù xì. “Vì cô thích.” “Mùi thơm quá!” Nếu đứa bé này đến đây để xin miếng cơm bỏ bụng, ắt hẳn nó sẽ thất vọng trước tủ chạn trống không của một nhà sinh vật học thực địa không có thời gian mua sắm đồ ăn thức uống như cô. Cách nói năng của cô bé chậm rãi, đậm chất thôn quê của dân địa phương, và đôi chân trần chính là bằng chứng cho thấy nó sống ở đâu đó quanh đây. Con bé nên về nhà ăn cơm với bố mẹ thì hơn. Cô bé tiến lại gần, ánh lửa hắt lên đôi má hồng đào và mái tóc hoe vàng, riêng đôi mắt vẫn sâu thăm thẳm như hai hố đen tĩnh lặng trên khuôn mặt. “Trễ rồi, con mau chóng về nhà đi chứ?” Jo giục. Đứa bé tiến lại gần hơn. “Con không có nhà trên Địa Cầu. Con đến từ đằng kia.” Nó nói, rồi chỉ tay lên bầu trời. “Từ đâu kia?” “Đại Hùng.” “Chòm sao Đại Hùng ấy hả?” Đứa bé gật đầu. “Quê của con ở Thiên Hà Chong Chóng[1], nằm gần đuôi gấu lớn[2] ạ.” Jo chẳng biết mô tê gì về thiên hà, nhưng cô đoán cái tên này do đứa bé đó tự bịa ra. Nó muốn đùa với cô đây mà, đã vậy cô hùa theo cho vui. “Nếu con là người ngoài hành tinh, sao nhìn con giống con người vậy?” “Con chỉ đang sử dụng cơ thể của đứa bé này thôi.” “Vậy trong lúc trú ngụ ở cơ thể cô bé này, con bảo cô bé về nhà đi nhé?” “Không được. Lúc con chiếm xác thì đứa bé này chết rồi. Nếu bây giờ bạn ấy về nhà, bố mẹ bạn ấy chắc chắn sẽ sợ mất mật.” Lại đến trò zombie cơ đấy. Jo chẳng lạ gì những trò chơi kiểu vậy. Nhưng nếu đứa bé này muốn kiếm người cùng chơi trò Zombie Ngoài Hành Tinh thì nó đến nhầm nhà rồi. Jo chưa bao giờ hợp với con nít và dăm ba trò chơi đóng giả này, thậm chí lúc cô còn bé cũng thế. Bố mẹ cô, vốn cũng là hai nhà khoa học, thường bảo cô thừa hưởng gấp đôi nguồn gen phân tích nên mới thành ra như vậy. Hai người họ hay đùa rằng khi mới chào đời, cô đã nhăn trán đầy suy tư, như thể đang soạn thảo giả thuyết về việc mình đang ở đâu và đám người trong phòng hộ sinh này là ai. Cô bé ngoài hành tinh trong thân thể con người nhìn Jo lật miếng ức gà. “Con mau về nhà ăn tối đi,” Jo nhắc con bé thêm lần nữa. “Bố mẹ con sẽ lo lắm đấy.” “Con đã bảo là con không có…” “Con có muốn gọi điện thoại không?” Jo lôi điện thoại ra khỏi túi quần. “Con biết gọi cho ai bây giờ chứ?” “Vậy để cô gọi. Con đọc số đi.” “Làm thế nào con có số điện thoại được khi con đến từ những vì sao kia chứ?” “Thế bé gái mà con chiếm thân thể thì sao? Số điện thoại của bố mẹ cô bé ấy là gì?” “Con không biết gì về đứa bé ấy cả, đến cả tên cũng chẳng rõ.” Đến nước này thì quá quắt lắm. Mặc xác đứa bé này muốn gì, Jo chẳng còn sức hùa theo nó nữa. Cô đã phải dậy từ bốn giờ sáng, quần quật làm việc ở các khu thực địa và trong rừng dưới cái nóng đến chết ngốt cùng độ ẩm ngột ngạt hơn suốt mười ba tiếng đồng hồ. Trong nhiều tuần liền, đây là nhịp điệu hàng ngày của cô, và khoảng thời gian vài tiếng được trở về căn nhà gỗ này vô cùng quan trọng để cô có thể trút bỏ mọi căng thẳng. “Nếu con không đi, cô sẽ gọi cảnh sát đấy,” Jo hăm dọa, cố làm giọng mình trở nên đanh thép. “Cảnh sát sẽ làm gì ạ?” Cô bé hỏi như thể chưa bao giờ nghe qua từ này. “Họ sẽ đến kéo con về nhà.” Đứa bé gái đưa tay ôm quanh thân thể gầy gò của mình. “Nếu con nói với họ con không có nhà thì họ sẽ làm gì?” “Họ sẽ đưa con đến trạm cảnh sát và tìm bố mẹ hay người nào đó sống chung với con.” “Vậy họ sẽ làm gì nếu họ gọi điện về nhà đứa bé này và phát hiện bạn ấy đã qua đời ạ?” Lần này, Jo chẳng cần phải giả vờ nổi đóa lên. “Cô bảo này, con đừng đem chuyện cô đơn một mình trên đời ra đùa. Con mau về nhà đi, về với những người lo lắng cho con ấy.” Cô bé siết chặt cánh tay quanh ngực nhưng chỉ lặng thinh. Đứa bé này sống trên mây thế là đủ rồi. “Nếu con thật sự không có gia đình, cảnh sát sẽ đưa con vào trại trẻ mồ côi.” “Là cái gì ạ?” “Ở đó, con sẽ sống với những người hoàn toàn xa lạ, thỉnh thoảng họ sẽ quá đáng với con, nên tốt hơn hết là con đi về đi, trước khi cô gọi cảnh sát.” Đứa bé không nhúc nhích. “Cô nghiêm túc đấy.” Con chó nhỏ xin ăn quanh bếp lửa nhà Jo mấy đêm rồi đang đứng lấp ló đằng xa, chỗ ánh lửa không chiếu tới. Cô bé ngồi xổm xuống, chìa tay ra, lảnh lót dụ chú chó cho mình nựng. “Nó không lại gần đâu,” Jo nói. “Nó là chó hoang, chắc được sinh trong rừng.” “Thế mẹ của nó đâu ạ?” “Ai mà biết được?” Jo đặt điện thoại xuống và lật xiên nướng. “Con sợ về nhà vì lý do gì à?” “Sao cô không tin là con đến từ những vì sao nhỉ?” Đứa trẻ cứng đầu này nhất quyết không chịu từ bỏ câu chuyện bịa đặt kia. “Cô bảo này, con thừa biết chẳng ai tin con là người ngoài hành tinh mà.” Nghe thấy thế, cô bé đi đến rìa khoảnh đất, ngẩng đầu và đưa tay lên bầu trời đầy sao, ngân nga những câu không rõ nghĩa mà có lẽ đối với nó là tiếng của người ngoài hành tinh. Ngôn từ trôi chảy như thể đứa bé đó thuộc nằm lòng thứ tiếng ngoại lai ấy, và sau khi nói xong, nó tự hào quay sang Jo, tay chống nạnh. “Cô hy vọng con vừa bảo những người nhà của con ở ngoài hành tinh đến đón con về,” Jo nhận xét. “Những gì con vừa nói là lời nghênh đón.” “Nghênh đón, con biết dùng từ hay đấy.” Cô bé lại quay sang, nhìn về phía đám lửa. “Con chưa về được. Con phải ở lại Địa Cầu cho đến khi thấy được năm điều kỳ diệu. Đến một độ tuổi nhất định, bọn con phải thực hiện những bài huấn luyện như thế, giống như việc con người đến độ tuổi phải đến trường vậy.” “Nếu thế thì con sẽ phải ở lại đây lâu đấy. Đã mấy nghìn năm rồi, nước lã vẫn chưa biến thành rượu[3] con ạ.” “Ý con không phải như trong Kinh Thánh.” “Thế ý con là điều kỳ diệu kiểu gì?” “Bất cứ thứ gì,” đứa bé đáp. “Cô là một điều kỳ diệu, chú chó kia cũng vậy. Thế giới này hoàn toàn mới mẻ đối với con.” “Tốt, thế là con gom được hai điều rồi đấy.” “Không được, con phải để dành cho những điều thật sự hay ho chứ.” “Ôi trời, cảm ơn cô bé.” Cô bé ngồi xuống chiếc ghế xếp gần Jo. Miếng ức gà nướng ứa ra nước ướp đầy dầu rơi xuống ngọn lửa, xèo xèo mùi hương nức mũi trong buổi đêm. Đứa bé nhìn chằm chằm, một điều rõ ràng là hai chữ đói bụng đang hiện rõ trên khuôn mặt nó. Có thể gia đình con bé không có tiền lo cho nó ăn uống đầy đủ. Jo bất ngờ khi mình không nghĩ theo hướng ấy ngay từ đầu. “Vậy cô cho con ăn gì đó trước khi con về nhà nhé?” Cô đề nghị. “Con thích bánh kẹp gà tây không?” “Làm sao con biết bánh kẹp gà tây có vị như thế nào được ạ?” “Con có muốn ăn hay không, nói một lời thôi.” “Có muốn ạ. Con phải thử thật nhiều thứ mới mẻ trong lúc còn ở đây.” Jo kéo miếng ức gà về phía ít lửa trên vỉ nướng, rồi bước vào nhà lấy một miếng thịt xay đông lạnh, gia vị và bánh mì kẹp. Nhớ mang máng trong tủ lạnh còn đúng một lát phô mai, cô thêm nó vào bữa tối của đứa bé. Có lẽ, đứa bé đó cần nó hơn cô. Jo quay trở ra sân, đặt miếng thịt xay lên lửa, những thứ còn lại cô để tạm trên chiếc ghế trống bên cạnh. “Cô mong con sẽ thích có thêm phô mai trong bánh kẹp của mình.” “Con từng nghe về phô mai rồi,” cô bé đáp. “Mọi người kể nó ngon lắm.” “Ai kể cơ?” “Những anh chị từng đến đây ạ. Trước khi đến đây, bọn con đã được học sơ qua về Địa Cầu mà.” “Thế hành tinh của con tên gì?” “Hơi khó phát âm theo ngôn ngữ của cô, đại khái là Hetrayeh ạ. Cô có kẹo dẻo không?” “Người Hetrayeh chỉ cho con về kẹo dẻo nữa à?” “Mọi người kể rằng con nít ở đây xiên chúng lên que rồi hơ chảy trên lửa. Ai cũng tấm tắc khen ngon.” Cuối cùng, ông trời cũng cho Jo một lý do để khui bịch kẹo dẻo cô đã hứng chí mua khi mới chuyển đến căn nhà gỗ này. Cô cuối cùng cũng có cơ hội dùng tới nó trước khi hết hạn rồi đây. Nghĩ đến đấy, cô bèn đi lấy bịch kẹo dẻo từ trong tủ chạn và thả vào lòng cô bé ngoài hành tinh. “Con ăn xong bữa tối đi rồi mới được xé túi kẹo đấy nhé.” Cô bé ngoài hành tinh tìm một cái xiên, ngồi trên ghế, bịch kẹo nằm gọn trong lòng, đôi mắt đen láy chăm chăm nhìn vào miếng thịt đang được nướng. Jo nướng bánh mỳ, xếp xiên khoai tây, bông cải xanh và nấm đã chín vàng cạnh chiếc bánh kẹp trên đĩa. Rồi cô rót hai ly nước. “Con thích nước táo lên men không?” Đứa bé nhận lấy ly nước và uống một ngụm. “Ngon quá trời quá đất!” “Đủ để trở thành điều kỳ diệu của con chưa?” “Chưa ạ,” cô bé ngoài hành tinh trả lời gọn lỏn, nhưng vẫn uống ừng ực hết hơn nửa ly trong vòng vài giây. Jo mới ăn được một miếng thì đứa trẻ đã ăn lấy ăn để gần xong chiếc bánh kẹp. “Lần cuối cùng con được ăn là khi nào vậy?” Cô thắc mắc. “Trên hành tinh của con,” cô bé ngoài hành tinh đáp, miệng ngồn ngộn thức ăn. “Là khi nào?” Cô bé đáp sau khi nuốt xong đống thức ăn trong miệng. “Là tối qua ạ.” Jo đặt nĩa xuống. “Cả ngày trời con chưa ăn gì sao?” Cô bé bỏ miếng khoai tây vào miệng. “Đến tận bây giờ, con mới muốn ăn. Trước đó, con chỉ cảm thấy hơi mệt sau hành trình đến Địa Cầu, đổi cơ thể rồi đủ thứ.” “Thế sao con ăn như chết đói vậy?” Cô bé bẻ đôi miếng bánh kẹp cuối cùng và ném một nửa về phía con chó đang xin ăn, có lẽ là để chứng tỏ mình không chết đói. Chú chó nuốt trọn miếng bánh nhanh chẳng kém gì đứa bé. Khi cô bé ngoài hành tinh chìa miếng bánh cuối cùng trên tay ra, con chó rón rén lại gần, chộp lấy miếng bánh và vừa lùi lại vừa nhai. “Cô nhìn thấy không?” Cô bé cảm thán. “Nó lấy từ tay con kìa.” “Cô thấy rồi.” Jo còn nhận thấy đứa trẻ đang trong tình thế ngặt nghèo. “Con đang mặc đồ ngủ à?” Cô bé liếc xuống chiếc quần mỏng tang của mình. “Chắc con người gọi nó như vậy.” Jo xắn thêm một miếng ức gà. “Con tên là gì?” Cô bé ngồi xổm xuống, cô tiến lại gần chú chó nhỏ. “Con không có tên Địa Cầu.” “Thế tên ngoài hành tinh của con là gì?” “Khó phát âm lắm ạ…” “Thì con cứ nói thử xem sao.” “Nghe nó hao hao Earpood-na-ahsroo.” “Earpoo…?” “Không phải, là Earpood-na-ahsroo mới đúng ạ.” “Rồi, Earpood, cô muốn con nói thật với cô tại sao con lại ở đây.” Cô bé bắt đầu thấy chán với chú chó nhút nhát, bèn đứng dậy. “Con mở bịch kẹo dẻo được chưa ạ?” “Con ăn hết bông cải xanh đi đã.” Cô bé nhìn chiếc đĩa để trên ghế. “Cái thứ màu xanh xanh ấy ạ?” “Đúng rồi.” “Hành tinh bọn con không ăn những thứ có màu xanh.” “Con vừa mới bảo con phải thử những thứ mới lạ kia mà?” Cô bé đành tống thật nhanh ba bông cải xanh vào miệng. Nó vừa nhai nhồm nhoàm với đôi má phúng phình vừa xé bịch kẹo dẻo. “Con mấy tuổi rồi?” Jo hỏi. Cô bé nuốt xuống miếng bông cải cuối cùng một cách chật vật. “Loài người không hiểu tuổi của con đâu.” “Thế bé gái con chiếm xác bao nhiêu tuổi?” Nó xiên một viên kẹo dẻo vào cuối xiên. “Con cũng không biết.” “Cô thật sự sẽ gọi cảnh sát đấy,” Jo dọa. “Tại sao vậy ạ?” “Con biết tại sao mà. Cô đoán con chắc tầm chín… mười tuổi, phải không? Con không thể ở ngoài một mình giữa đêm hôm khuya khoắt như thế này được. Con sẽ gặp phải người xấu đấy.” “Nếu cô gọi cảnh sát, con sẽ chạy đi ngay.” “Tại sao? Họ có thể giúp con mà.” “Con không muốn sống cùng với những người lạ xấu tính.” “Đấy là cô nói đùa thôi. Cô nghĩ họ sẽ tìm được cho con một người tốt.” Đứa bé thọc viên kẹo dẻo thứ ba vào xiên. “Cô có nghĩ Gấu Nhỏ thích kẹo dẻo không?” “Gấu Nhỏ là ai?” “Con vừa đặt tên cho chú cún này như vậy, dựa trên chòm Tiểu Hùng[4] bên cạnh chòm sao của bọn con. Cô không thấy nó giống gấu con à?” “Đừng cho nó ăn kẹo dẻo. Đường không phải là thứ mà những chú chó cần đâu.” Jo xé miếng ức gà cuối cùng thành những miếng nhỏ và quăng về phía con chó, cô rối trí quá, chẳng còn bụng dạ nào ăn cho xong. Sau khi phần thịt biến mất vào thực quản của con vật bốn chân, cô vứt cho nó nốt phần rau còn sót lại trên hai xiên nướng. “Cô là người tốt,” đứa bé nói. “Cô là kẻ dại thì đúng hơn. Giờ thì cô khỏi mong tống khứ được nó đi.” “Ôi chao!” Con bé đưa những viên kẹo dẻo đang hơi chảy lại gần mặt và thổi phù phù. “Để nó nguội hẳn đã,” Jo nhắc. Nhưng cô bé không đợi mà đưa thẳng miếng kẹo trắng phồng còn nóng vào miệng. Mấy viên kẹo dẻo bốc hơi trong vòng chưa đầy một nốt nhạc, và cô bé lại nhanh chóng nướng thêm xiên nữa trong lúc Jo đem chén đĩa vào bếp. Trong khi nhanh lẹ rửa chén, cô đưa ra một chiến lược mới. Cảnh Sát Xấu Tính rõ ràng không có tác dụng đối với con bé. Cô phải lấy được lòng tin của đứa trẻ này thì may ra mới hỏi được thông tin. Cô thấy con bé ngồi vắt tréo chân trên đất, Gấu Nhỏ mừng rỡ liếm phần kẹo dẻo nướng chảy trên tay nó. “Thế mà trước giờ cô cứ nghĩ con chó ấy sẽ không đời nào chịu ăn thứ gì từ trên bàn tay con người,” cô nhận xét. “Dù là tay người, nhưng nó biết con đến từ Hetrayeh mà.” “Thế thì có tác dụng gì chứ? “Bọn con có những siêu năng lực đặc biệt, có thể khiến những điều tốt đẹp xảy ra.” Tội nghiệp đứa nhỏ. Không nghi ngờ gì nữa, hẳn là hoàn cảnh của nó quá khổ sở nên mới phải chạy trốn thực tại. “Cô dùng cái xiên của con được không?” “Để xiên kẹo ạ?” “Không, để đuổi con ra khỏi đất nhà cô.” Đứa bé nhoẻn miệng cười, bên má trái hằn lúm đồng tiền rất sâu. Jo xiên hai viên kẹo dẻo và hơ chúng trên lửa. Cô gái nhỏ quay lại chiếc ghế xếp, con chó hoang nằm bên cạnh chân như thể cô bé đã thuần phục nó một cách kỳ diệu. Khi kẹo dẻo đã nâu đều các mặt và đủ nguội, Jo ăn nó luôn trên xiên. “Con cứ tưởng người lớn không ăn kẹo dẻo chứ?” Cô bé thắc mắc. “Đó là một bí mật mà trẻ con Địa cầu không biết.” “Cô tên là gì ạ?” Nó hỏi. “Joanna Teale. Nhưng mọi người đều gọi cô là Jo.” “Cô sống ở đây một mình ạ?” “Cô chỉ sống ở đây vào mùa hè thôi. Cô thuê căn nhà này.” “Tại sao vậy ạ?” “Nếu con sống ở cuối con đường này, mà cô dám chắc là vậy, con sẽ biết lý do tại sao.” “Con không sống ở cuối con đường này. Cô kể với con đi!” Jo chực phản đối lời nói dối của cô bé nhưng kìm lại, thầm nhủ trong đầu, mình là một Cảnh Sát Tốt Bụng. “Căn nhà này và bảy mươi mẫu đất xung quanh được một nhà khoa học mang tên Tiến sĩ Kinney sở hữu. Ông ấy cho phép các giáo sư sử dụng nó để dạy học và các sinh viên học lên thạc sĩ dùng trong quá trình thực hiện nghiên cứu.” “Sao ông ấy không muốn sống ở đây ạ?” Jo đặt xiên kẹo dẻo lên cái lò bằng đá. “Tiến sĩ mua căn nhà này khi bước qua tuổi tứ tuần. Ngày trước, ông hay cùng vợ mình đến đây nghỉ dưỡng, ông nghiên cứu các loài côn trùng sống dưới nước ở nhánh sông, nhưng sáu năm trước, họ thôi không đến đây nữa rồi.” “Tại sao vậy ạ?” “Vì bây giờ, hai người họ đã ở tuổi thất thập cổ lai hi rồi, bà cụ phải ở gần bệnh viện vì bệnh tật. Giờ họ cho thuê căn nhà này để có thêm nguồn thu nhập, nhưng chỉ cho các nhà khoa học thuê thôi.” “Cô là nhà khoa học ạ?” “Ừ, cô đang học lên tiến sĩ.” “Nghĩa là sao ạ?” “Nghĩa là sau khi học xong bốn năm đại học, giờ cô học lên tiếp, trở thành trợ giảng và tiến hành nghiên cứu để lấy bằng tiến sĩ.” “Bằng tiến sĩ là gì ạ?” “Là học vị cao nhất sau đại học. Khi có nó rồi, cô có thể trở thành giáo sư và giảng dạy trong trường đại học.” Đứa bé liếm những ngón tay lấm tấm bẩn, đầy dãi nhớt của chú chó và chà tay lên miếng kẹo dẻo đen thui dính trên má. “Giáo sư cũng là một giáo viên phải không ạ?” “Phải, và đa phần những người trong ngành của cô đều phải thực hiện nghiên cứu.” “Nghiên cứu gì vậy cô?” Trí tò mò của con bé này tưởng chừng như vô hạn. Nó mà trở thành một nhà khoa học ắt hẳn sẽ thành công lắm đây. “Lĩnh vực cô nghiên cứu là sinh thái và bảo tồn các loài chim.” “Thế chính xác là cô làm gì ạ?” “Con hỏi thế là đủ rồi đấy, Ear poo…” “Earpood!” “Con lo về nhà đi. Cô dậy sớm lắm nên giờ phải đi ngủ.” Jo vặn vòi nước và kéo ống nước đến gần bếp lửa. “Cô phải dập lửa mới được ạ?” “Gấu Khói[5] bảo cô như vậy.” Lửa kêu xì xì và bốc khói khi nước xối vào. “Buồn quá!” Đứa bé đáp. “Cái gì buồn?” “Thứ mùi tro ươn ướt này này.” Khuôn mặt con bé xanh xao dưới ngọn đèn huỳnh quang hắt ra từ khung cửa sổ nhà bếp, như thể nó đang trở về với lốt yêu tinh của mình. Jo vặn tắt vòi nước, làm phát ra âm thanh cót két. “Thế con đã chịu nói với cô sự thật tại sao con lại đi lang thang chưa?” “Con nói với cô rồi mà,” đứa bé đáp. “Thôi nào. Cô phải vào trong nhà đây, và làm sao cô để con ở ngoài này một mình được chứ.” “Con sẽ ổn thôi mà.” “Con sẽ trở về nhà, đúng không?” “Gấu Nhỏ ơi, mình đi thôi,” con bé gọi, và thật bất ngờ, chú chó nghe lời. Jo nhìn đứa cô bé ngoài hành tinh và chú chó nhỏ bước đi, nhạt nhòa hòa dần vào khu rừng tối đen. Cảnh tượng ấy cũng buồn như thứ mùi tro ướt nước. 2 Đ ồng hồ báo thức gọi Jo thức dậy lúc bốn giờ, giờ bình thường vào những ngày cô phải di chuyển một quãng đường xa để đến khu thực địa. Dưới ánh sáng của ngọn đèn nhỏ, cô mặc áo thun rồi khoác một chiếc sơ mi ra bên ngoài, mang quần túi hộp và đôi bốt. Đến tận lúc bật ngọn đèn huỳnh quang ở bếp lên, cô mới nhớ ra bé gái kia. Thật khó tin bởi lúc mới đi nằm, cô trằn trọc suốt nửa tiếng và chẳng thể nghĩ gì khác ngoài cô bé đó. Cô nhìn ra cửa sau, chỗ mấy cái ghế xếp quanh bếp lò. Cô bật đèn ngoài hiên trước và bước ra phần hiên được ngăn cách với bên ngoài bằng cửa sổ. Không thấy con bé đâu. Chắc nó về nhà rồi. Trong lúc đợi yến mạch chín, Jo làm bánh mì kẹp cá ngừ, đoạn bỏ vào hộp cùng ngũ cốc hỗn hợp để ăn vặt và một chai nước. Chừng hai mươi phút sau, cô ra khỏi nhà và đến khu thực địa lúc bình minh. Tranh thủ lúc khí trời tinh mơ còn mát mẻ, cô tìm tổ chim sẻ đất màu chàm dọc Đường Nhà Thờ, khu vực ít bóng râm nhất trong chín khu thực địa. Sau vài tiếng, cô chuyển sang khu Nông Trại Jory rồi tiếp đến là Đường Cave Hollow. Chừng năm giờ thì cô xong việc, sớm hơn bình thường. Hai năm nay, kể từ lúc mẹ cô bị chẩn đoán ung thư và qua đời, mất ngủ đã trở thành một phần trong cuộc sống thường nhật của cô, nhưng chẳng hiểu vì lý do gì mà suốt ba đêm liên tục, cô trằn trọc hơn hẳn bình thường. Hôm nay cô muốn lên giường trước chín giờ để ngủ bù. Trước khi về nhà, cô tạt qua một sạp hàng nông phẩm, rồi mới rẽ đến Đường Turkey Creek. Lúc đó, Anh Bán Trứng, một chàng trai trẻ râu ria xồm xoàm, vẫn còn ngồi dưới cây dù xanh ở ngã tư giao với cao tốc của hạt[6]. Thỉnh thoảng, vào những ngày không làm việc do thời tiết mưa gió, Jo để ý rằng anh chàng này duy trì rất đều, cứ tối thứ Hai và sáng thứ Năm là anh lại đến đây bán trứng. Anh Bán Trứng gật đầu chào khi Jo vòng qua khúc quanh. Cô vẫy tay lại và thầm ước giá mà mình cần trứng để giúp anh bán thêm được chút hàng, nhưng cô vẫn còn ít nhất bốn quả trong tủ lạnh. Đường Turkey Creek là một con đường cụt trải sỏi dài năm dặm, kết thúc ở con suối và khu đất Nhà Kinney. Để chạy hết con đường này cũng tốn kha khá thời gian, nhất là khi chạy bằng xe SUV. Đi được chừng một dặm thì con đường hẹp lại, quanh co, đầy ổ gà, hằn theo vết xe chạy về phía cuối đường, ở một số vị trí bị suối xói mòn trong mưa lớn, dốc rất cao. Chạy về nhà trên con đường này là khoảng thời gian ưa thích trong ngày của Jo. Cô chẳng bao giờ ngờ được thứ gì sẽ xuất hiện ở khúc quanh tiếp theo: một con gà tây, một đám chim cút hay thậm chí là một con linh miêu đuôi cộc. Đoạn cuối con đường sẽ mở ra một khung cảnh nên thơ của nhánh sông, nước trong vắt và mấp mô đá. Và chỉ cần rẽ trái, Jo sẽ được trở về căn nhà gỗ xưa cũ trên ngọn đồi. Nhưng lúc rẽ vào con đường trong khu đất Nhà Kinney, thứ cô nhìn thấy từ lối đi bộ quanh nhà không phải thiên nhiên hoang dã mà là cô bé ngoài hành tinh đến từ chòm Đại Hùng và chú chó Tiểu Hùng của nó. Đứa bé vẫn mặc cùng một bộ đồ ngủ từ đêm qua, và vẫn đi chân trần. Jo dừng lại, nhảy ra khỏi xe mà không buồn về số. “Sao con lại ở đây?” “Con đã kể với cô,” cô bé giải thích, “con đến từ…” “Con phải về nhà đi chứ!” “Thì con sẽ về mà! Con hứa con sẽ về sau khi được thấy năm điều kỳ diệu.” Jo lôi điện thoại từ trong túi quần ra. “Cô xin lỗi… Cô phải gọi cảnh sát thôi.” “Cô mà gọi là con sẽ chạy đi ngay đấy. Con sẽ đi tìm nhà khác.” “Con không được làm vậy! Ngoài kia có rất nhiều người kỳ cục. Và cả người xấu nữa…” Đứa bé khoanh tay trước ngực. “Vậy thì cô đừng gọi cảnh sát!” Lời khuyên bổ ích đấy. Được rồi, mình sẽ không gọi trước mặt nó. Jo cất điện thoại đi. “Con có đói không?” “Cũng hơi hơi ạ,” đứa bé thành thật. Có lẽ, nó chưa được ăn thêm chút gì từ sau bữa tối bên bếp lửa nhà cô. “Con có thích trứng không?” “Con nghe đồn món trứng bác ngon lắm.” “Có một người bán trứng ở đường dưới. Để cô đi mua vài quả.” Cô bé nhìn Jo tiến về phía chiếc xe. “Nếu cô nói dối và đem cảnh sát tới, con sẽ chạy đi ngay lập tức.” Ánh nhìn tuyệt vọng trong đôi mắt đứa bé khiến Jo cảm thấy bất an. Cô đánh xe vòng lên Đường Turkey Creek. Chạy khỏi nhà được chừng một dặm, cô dừng lại ở ngọn đồi có thể bắt được sóng và gọi tổng đài để xin số điện thoại cảnh sát trưởng báo trường hợp không khẩn cấp. Sau ba cuộc gọi bất thành, cô cất điện thoại vào hộp đựng vật dụng trên xe ô tô. Cô nảy ra một ý tưởng hay hơn. Cô đến con đường ngoài vừa kịp lúc. Anh Bán Trứng vừa dẹp cây dù với tấm biển TRỨNG SẠCH của mình, nhưng chưa cất bàn và ba thùng trứng chưa bán hết vẫn đang để trên ghế. Jo dừng xe ở bãi cỏ bên vệ đường và chộp lấy ví tiền rồi bước khỏi xe. Cô chưa bao giờ thấy cả người anh, bởi những lần mua trứng trước giờ, anh luôn ngồi sau bàn. Anh cao chừng một mét tám, cơ thể vạm vỡ do công việc nặng nhọc hằng ngày, cô thích kiểu người có sức mạnh cân đối này hơn so với việc vai u thịt bắp nhờ nâng tạ. Anh quay đầu lại, mỉm cười với cô và giao tiếp bằng mắt nhiều hơn bình thường. “Bỗng dưng cô muốn ăn ốp lết à?” Anh hỏi, để ý thấy cô cầm ví trên tay. “Cũng mong là vậy,” cô đáp, “nhưng tiếc là tôi không có phô mai. Nên đành phải ăn trứng bác thôi.” “Đúng, không có phô mai thì không phải ốp lết thực thụ.” Cô đã đến đây được năm tuần, mua trứng từ chỗ anh ba lần, nhưng chưa bao giờ thấy anh nói chuyện với cô nhiều như vậy. Cách anh bán hàng thường là một cái gật đầu, rồi chìa bàn tay chai sần của mình ra nhận tiền của cô, nói Cảm ơn quý khách khi cô bảo anh cứ giữ tiền thối. Anh Bán Trứng là một điều bí ẩn với cô. Cô cứ ngỡ một anh chàng bán trứng bên vệ đường sẽ hơi chậm chạp, nhưng đôi mắt anh, đặc điểm duy nhất nổi bật trên khuôn mặt râu ria xồm xoàm kia, lại sắc như mảnh thủy tinh xanh bị vỡ. Anh còn trẻ, chắc tầm tuổi của cô, thế nên cô chẳng hiểu tại sao một thanh niên sức dài vai rộng như anh lại ngồi bán trứng bên vệ đường giữa vùng đồng không mông quạnh này. Anh Bán Trứng để bàn gấp xuống cỏ và đứng đối diện cô. “Cô mua một tá hay nửa tá?” Jo không nghe thấy chút lè nhè đặc trưng nào của người miền Nam Illinois trong giọng nói của anh. “Một tá,” cô trả lời, đưa anh tờ năm đô trong ví. Anh đưa cho cô một vỉ trứng rồi nhận tiền. “Tiền thừa anh cứ giữ lấy,” cô nói. “Cảm ơn quý khách,” anh đáp lại, nhét tờ tiền vào túi. Rồi anh mang chiếc bàn ra chiếc xe tải trắng đã cũ. Jo đi theo. “Tôi hỏi anh điều này được không?” Anh đặt bàn lên thùng xe đang mở rồi quay về phía cô. “Cô cứ hỏi.” “Tôi có chút vấn đề…” Mắt anh ánh lên, ẩn chứa sự hiếu kỳ nhiều hơn là lo lắng. “Anh sống trên đường này phải không?” “Phải,” anh đáp. “Thực ra, tôi sống trên khu đất ngay bên cạnh khu đất của Nhà Kinney.” “Ô, thế mà tôi không biết đấy.” “Thế cô hàng xóm gặp chuyện gì vậy?” “Tôi đoán có lẽ anh sẽ biết hết những người sống trên đường này, chắc anh cũng bán trứng cho họ đúng không?” Anh gật đầu. “Đêm qua, có một cô bé xuất hiện trên khu đất của tôi. Anh có nghe tin con cái nhà ai bỏ nhà đi không?” “Tôi không.” “Cô bé đó tầm chín tuổi, thanh mảnh, mái tóc dài màu vàng sậm, đôi mắt to màu nâu… Khuôn mặt trái xoan xinh xắn, ưa nhìn, khi cười sẽ thấy một má có lúm đồng tiền. Anh có thấy quen không?” “Không.” “Tôi dám chắc con bé sống đâu đó gần đây. Nó đi chân đất và mặc quần ngủ.” “Vậy cô bảo nó về nhà đi.” “Tôi bảo rồi nhưng con bé nhất quyết không chịu. Tôi nghĩ hình như nó sợ nên mới không dám về. Cả ngày trời nó không có gì bỏ bụng.” “Thế thì cô gọi cảnh sát sẽ tốt hơn.” “Con bé dọa sẽ chạy trốn ngay lập tức nếu tôi làm vậy. Nó kể tôi nghe câu chuyện hoang đường về việc nó đến từ một hành tinh khác và đang mượn xác của một đứa bé đã qua đời.” Anh Bán Trứng nhướn mày. “Ừ, nghe điên nhỉ? Nhưng tôi không nghĩ con bé bị điên đâu. Nó thông minh lắm…” “Có rất nhiều kẻ điên thông minh đấy.” “Nhưng con bé hành động theo kiểu nó biết rõ mình đang làm gì.” Đôi mắt xanh như ngọc của anh sắc lên. “Chứ phàm là người mắc bệnh thần kinh thì không biết rõ mình đang làm gì hay sao?” “Điều tôi muốn nói đại loại là thế đấy.” “Là gì cơ?” “Nếu con bé đủ thông minh để biết mình đang làm gì thì sao?” “Ý cô là?” “Nó biết nếu về nhà bản thân sẽ không được an toàn.” “Con bé mới có chín tuổi thôi. Nó phải về nhà.” Anh mở cửa bên ghế khách và đặt hai thùng trứng còn dư lên sàn xe. “Nhỡ tôi gọi cảnh sát xong, con bé thấy họ ập đến bèn bỏ chạy thì ai biết điều gì sẽ xảy ra với nó?” “Vậy thì cô hãy lén đừng để nó biết.” “Bằng cách nào chứ? Có khi họ còn chưa kịp ra khỏi xe thì con bé đã chạy biến vào rừng rồi.” Anh Bán Trứng không biết khuyên gì thêm. “Khốn thật, tôi chẳng muốn dính dáng vào chuyện này chút nào!” Anh chăm chú nhìn cô đầy thông cảm, cánh tay để hờ trên cánh cửa xe đang mở. “Nhìn cô thì biết chắc hôm nay cô đã có một ngày dài phải không?” Cô nhìn xuống bộ quần áo và đôi bốt lấm lem bùn đất của mình. “Phải, và nó càng ngày càng dài hơn mức tôi có thể chấp nhận được.” “Hay để tôi qua nhà cô xem tôi có biết cô bé ấy không nhé?” “Thế có được không?” “Tôi không dám chắc có ăn thua gì không.” Jo đưa cho anh vỉ trứng mà nãy anh đưa cho cô. “Lúc qua, anh mang chúng tới nhé. Tôi sẽ nói anh đã bán hết trứng nên phải về nhà lấy thêm. Nếu không, anh sẽ làm con bé hoảng sợ đấy.” “Cô nhóc này cũng hành cô lên bờ xuống ruộng đấy nhỉ?” Nghĩ lại thì quả đúng là thế. Rốt cuộc thì cô bé ấy đang gặp chuyện gì đây? Anh đặt vỉ trứng lên sàn xe cạnh hai thùng ban nãy. “Cô nghiên cứu gì thế?” Không nghĩ Anh Bán Trứng lại hỏi han gì về bản thân mình, nên cô ngẩn tò te mất vài giây. “Mùa hè năm ngoái có một nhóm sinh viên đến nghiên cứu cá ở khu đất Nhà Kinney,” anh kể. “Mùa hè trước nữa là chuồn chuồn và cây cối.” “Tôi nghiên cứu các loài chim,” Jo giới thiệu. “Loại gì?” “Tôi đang tìm tổ chim sẻ đất màu chàm đã nở.” “Ở đây thì đầy ra ấy mà.” Cô rất bất ngờ khi anh biết đến loài chim này. Rất nhiều người không phân biệt được sẻ đất với loài chim hồng y giáo chủ, thậm chí lắm lúc còn gọi nhầm chúng là chào mào lửa. “Tôi thấy cô đi quanh khu này vài lần,” anh nói tiếp. “Cô là người đã dán những miếng băng dán quan trắc màu cam đúng không?” “Đúng rồi. Đường Turkey Creek là một trong những khu thực địa của tôi.” Cô không kể với anh về những tổ chim được cắm cờ. Nếu đám con nít địa phương phát hiện, chúng có thể phá phách và làm hỏng kết quả nghiên cứu của cô. Cô nhìn anh gấp ghế lại. “Anh có tình cờ mất con chó nào không?” Cô hỏi. “Tôi không nuôi chó, chỉ có vài con mèo trong nông trại thôi. Sao thế?” “Tôi còn vướng vào một con cún sắp chết đói nữa.” “Đúng là họa vô đơn chí.” “Chắc vậy,” Jo đáp và quay lại xe của mình. Lúc chạy vào con đường dẫn về nhà, cô không thấy đứa trẻ hay con chó đâu. Cô dỡ bộ dụng cụ thực địa, trái cây và bánh muffin mới mua ở quầy nông trại khỏi xe. Cô bé đã lẩn đi đâu đó, hoặc có khi nó đánh hơi thấy rắc rối và biến mất rồi cũng nên. Lúc Jo cất xong những thứ vừa mua, có ba tiếng gõ khe khẽ vang lên ngay cửa bếp. Cô mở cửa và nhìn thấy đứa bé qua tấm chắn tả tơi. “Giờ cô làm trứng ạ?” Con bé hỏi. “Anh bán trứng bán hết hàng rồi,” Jo đáp. “Lát nữa anh ấy mang qua cho mình.” “Sao chú ấy mang qua được nếu hết hàng ạ?” “Chú ấy về nhà lấy thêm. Chú này sống ở khu đất ngay sát bên mà. Đằng kia kìa.” Cô bé nhìn về phía hướng tây mà Jo chỉ. “Con ăn bánh muffin việt quất không?” “Có ạ!” Jo để một cái bánh lên bàn tay đầy cáu bẩn của con bé. “Con cảm ơn cô ạ,” nó nói trước khi nhồm nhoàm ăn lấy ăn để. Ngửi thấy mùi đồ ăn, con chó dè dặt tiến lại từ góc nhà, nhưng cô bé quá đói nên không chia cho nó miếng nào. Đứa bé ăn xong chiếc bánh muffin chừng nửa phút thì xe bán tải màu trắng của Anh Bán Trứng ầm ì chạy xuống con đường trải sỏi. Jo lấy miếng giấy lót bánh từ tay cô bé và ném vào phần tro lạnh ngắt trong bếp lò. “Đi lấy trứng thôi,” cô nói, ra hiệu cho đứa bé vòng ra mé căn nhà. “Ôi không!” Cô bé thốt lên. “Sao thế?” “Gấu Nhỏ ăn miếng giấy muffin kìa cô.” “Cô dám cá nó từng ăn những thứ tệ hơn nhiều. Đi thôi!” Hai người bọn họ gặp Anh Bán Trứng ở ngoài xe. Lúc đưa vỉ trứng cho Jo, anh quan sát đứa bé nhem nhuốc, từ đôi chân trần bẩn thỉu đến mái tóc bết dính. Nhìn con bé xác xơ hơn nhiều so với đêm qua. “Con sống ở gần đây à?” Anh Bán Trứng hỏi con bé. “Cô bảo chú hỏi con câu đó đúng không?” Đứa bé vạch trần. “Đó mới là lý do thật sự khiến chú đem trứng đến đây. Chứ chú đâu có hết hàng.” “Đứa bé này mồm mép quá nhỉ?” Anh Bán Trứng nhận xét. “Là sao ạ?” Cô bé thắc mắc. “Nghĩa là con còn nhỏ mà đầu đội trời, chân đạp đất quá chứ sao! Mà nói về chân đạp đất, sao con lại mặc đồ ngủ đi lung tung thế kia?” Đứa bé lang thang nhìn xuống chiếc quần lấp lánh hình ngôi sao màu hoa oải hương của mình. “Bạn nhỏ đó mặc bộ đồ này lúc chết.” “Bạn nhỏ nào?” “Bạn nhỏ loài người mà con chiếm xác. Cô Jo không kể với chú ạ?” “Cô Jo là ai?” “Là tôi,” Jo lên tiếng. Anh Bán Trứng chìa tay ra. “Rất vui được gặp cô, Jo. Tôi là Gabriel Nash.” “Joanna Teale.” Cô siết chặt bàn tay thô ráp nhưng ấm áp của anh, giật mình nhận ra hai năm vừa qua, mình chưa từng chạm vào bất cứ người đàn ông nào. Cô giữ tay anh lâu hơn bình thường, hoặc có khi, anh mới là người giữ chặt lấy. “Thế con tên là gì, hả cô bé xác sống?” Anh hỏi, chìa tay ra với đứa bé gái. Nó lùi lại, sợ anh đang tìm cách chộp lấy nó. “Con không phải xác sống. Con từ Hetrayeh đến đây thăm thú.” “Đó là ở đâu?” Anh thắc mắc. “Là một hành tinh trong Thiên Hà Chong Chóng.” “Thiên Hà Chong Chóng? Thật sao?” “Chú từng nghe về nó rồi ạ?” “Chú còn từng thấy rồi cơ.” Con bé bán tín bán nghi nhìn anh. “Chú nói dối.” “Chú không hề nói dối. Chú nhìn bằng kính viễn vọng.” Trong lời anh nói ẩn chứa điều gì đó khiến khuôn mặt cô bé sáng rỡ hẳn lên. “Nó đẹp chú nhỉ?” “Một trong những thiên hà mà chú thích nhất.” Hóa ra thiên hà ấy có thật. Ít nhất, đứa bé đó không bịa tất tần tật mọi thứ. Anh Bán Trứng tựa người vào đầu xe bán tải, hai tay thọc vào túi quần. “Thế con đến Trái Đất làm gì?” “Đây là trường học của bọn con. Giống như cô Jo làm nghiên cứu sinh vậy đó.” “Nghe thú vị nhỉ? Vậy con tính ở lại đây bao lâu?” “Đến khi nào con thấy đủ thì thôi.” “Đủ cái gì mới được?” “Đủ để hiểu về con người. Sau khi thấy được năm điều kỳ diệu, con sẽ quay về hành tinh của mình.” “Năm điều kỳ diệu?” Anh e ngại. “Thế thì có mà mãn kiếp.” “Điều kỳ diệu mà con muốn nói ở đây chính là những thứ làm con cảm thấy kinh ngạc. Sau khi thấy đủ năm điều, con sẽ trở về và kể cho mọi người ở hành tinh của con nghe. Nó cũng giống như có bằng tiến sĩ và trở thành giáo sư vậy đó.” “Con sẽ trở thành chuyên gia về con người à?” “Chỉ về những gì con được chứng kiến ở thế giới này thôi. Giống như cô Jo sẽ trở thành chuyên gia về sinh thái các loài chim chứ không phải các mảng khoa học khác.” “Ôi chà,” anh cảm thán, quay sang nhìn Jo. “Đứa bé ngoài hành tinh này thông minh phết, đúng không?” Jo đưa vỉ trứng cho cô bé. “Con xếp nó vào tủ lạnh giúp cô nhé?” “Cô sẽ cho con vào nhà ạ?” “Ừ.” “Chỉ vì cô muốn bàn riêng với chú này về con thì có.” “Đi cất trứng đi.” “Cô chú đừng nói xấu con đấy nhé.” “Con đi đi.” Đứa bé chạy nhanh về phía cửa chính. “Đi từ từ thôi,” Jo gọi với theo, “nếu không món trứng bác của con sẽ đáp lên hè đấy.” Đoạn cô quay lại với Anh Bán Trứng. “Anh nghĩ sao?” “Tôi chưa thấy cô bé này bao giờ. Tôi khá chắc nó không sống ở con đường này.” “Con bé chỉ có thể sống ở đâu đó gần đây thôi. Nếu phải đi xa, chân nó đã te tua rồi.” “Có thể trong lúc đến đây thì con bé đánh mất giày chẳng hạn… Hay nó vọc chân xuống suối rồi quên mất mình đã để giày ở đâu.” Anh đứng dậy khỏi xe tải và đưa tay lên chà bộ râu. “Giọng con bé nghe giống như dân sống ở vùng này, nhưng mấy kiến thức về nghiên cứu sinh và giáo sư tiến sĩ…” “Con bé học từ tôi.” “Rõ ràng là thế, nhưng con bé vẫn còn quá nhỏ tuổi để có thể chắp nối tất cả mọi thứ lại với nhau tốt đến như vậy.” “Thì vậy, đó là điều mà tôi đang tìm cách giải thích…” Cô bé hộc tốc nhào ra khỏi cánh cửa ở ngoài hiên, đôi chân trần lạch bạch trên nền sàn xi măng nứt nẻ. “Cô chú đang bàn tán gì vậy ạ?” Con bé hỏi, giọng hết hơi. “Cô chú bảo rằng đã đến lúc con phải trở về nhà mình rồi,” anh trả lời. “Con có muốn quá giang không? Chú sẽ chở con về bằng xe tải của chú.” “Chú tính chở con băng qua trăng sao để con trở về với hành tinh của con hả?” “Một đứa bé thông minh như con hẳn đã biết thừa cô chú không tin con là người ngoài hành tinh,” anh ôn tồn, “và con nên hiểu một bé gái tuổi con không thể cứ lang thang một mình ở ngoài được. Nói cho cô chú sự thật đi.” “Con nói thật mà!” “Vậy cô Jo không còn cách nào khác ngoài gọi cảnh sát cả.” “Toh-id ina eroo-oy!” Đứa bé đột nhiên kêu lên. “Tối đi gì cơ?” Anh hỏi ngược lại. Cô bé tuôn ra một tràng ngôn ngữ ngoài hành tình, trôi chảy giống như đêm hôm trước, nhưng lần này, lời nó nói được dùng với mục đích rủa xả Anh Bán Trứng, bởi con bé vung tay vung chân loạn xạ. “Những lời vừa nãy con nói là gì thế?” Anh hỏi sau khi con bé ngừng lại. “Con nói với chú bằng tiếng mẹ đẻ của con rằng, chú cần phải có thái độ niềm nở đối với nghiên cứu sinh không quản ngại đường sá xa xôi, vượt muôn trùng tinh tú để đến thăm cô chú. Con sẽ không bao giờ có thể trở thành tiến sĩ nếu cô chú không cho con ở lại.” “Con biết con không thể ở đây mà.” “Chú sắp sửa lấy bằng tiến sĩ hả?” Cô bé chất vấn. Anh nhìn con bé bằng ánh mắt kỳ dị. “Nếu có, chú phải biết rằng hành động của mình sẽ là sai trái nếu chú không để con lấy bằng tiến sĩ của mình,” cô bé đáp. Anh đi thẳng một mạch đến xe tải rồi mở cửa. “Chờ đã…” Jo vội lên tiếng. Anh sập cửa, đoạn nói vọng qua cánh cửa xe, “Cô tự lo vụ này đi.” “Nếu ban đầu con bé xuất hiện ở trước cửa nhà anh thì sao?” “Nhưng nó có làm thế đâu.” Anh nhanh chóng đánh xe ra khỏi lối đi, khiến sỏi kêu lạo xạo. “Cái quái gì vậy? Chuồng gà bị cháy chắc?” Jo bực bội. “Cái gì cháy ạ?” Con bé hỏi. “Không có gì.” Rõ ràng, có điều gì đó khiến anh ta cáu tiết. Có lẽ anh ta cảm thấy thua kém trước trình độ học vấn của Jo nên mới như vậy. Thái độ của anh ta thay đổi hẳn khi cô bé hỏi liệu anh có sắp lấy bằng tiến sĩ không. “Trong bếp có bánh, con ăn một miếng được không ạ?” Jo dán mắt vào con đường vắng trong lúc tiếng xe tải của Anh Bán Trứng xa dần. Hàng xóm tối lửa tắt đèn có nhau, cớ sao anh ta lại không biết lo cho hàng xóm láng giềng của mình tí nào kia chứ? Sao lại đem con bỏ chợ, đùn đẩy việc này cho một người còn lạ nước lạ cái với nơi đây như cô chứ? “Có được không ạ?” Đứa bé hỏi lại. Jo quay sang nhìn đứa bé, cố gắng không tỏ ra lo lắng. “Được, con cứ ăn. Nhưng trước tiên phải ăn bữa chính cho xong đã.” Và trước đấy thì Jo cũng phải xoay xở gọi cho cảnh sát trưởng mà không để con bé phát hiện. “Món trứng bác có phải là bữa chính không ạ?” “Phải,” Jo nhẹ nhàng, “nhưng cô muốn con rửa ráy sạch sẽ trước khi ăn. Con phải tắm táp đã.” “Con ăn trước không được sao cô?” “Cô đã nói con nghe về các quy tắc rồi. Nghe lời hoặc không được gì cả.” Cô bé lủi thủi theo Jo vào nhà như một chú cún đói meo. S 3 au khi tắm sơ, Jo dẫn đứa bé vào nhà tắm và đưa cho nó một chiếc khăn sạch. Cô đóng cánh cửa phòng tắm lại, sau khi nghe thấy tiếng nước chảy và dám chắc rằng con bé đang tắm, cô mới vội vàng bước ra ngoài với chiếc điện thoại trên tay. Rừng tranh tối tranh sáng, cũng cái sắc chạng vạng đã đem tiểu yêu tinh này đến căn nhà của cô đêm trước. Jo bước xuống lối xe, xua tay đuổi muỗi, mồ hôi trộn lẫn nước đang tong tỏng thành từng giọt từ tóc cô. Gấu Nhỏ thoắt ẩn thoắt hiện gần đó, đi theo cô từng bước, chẳng khác nào điệp viên cho đứa bé người ngoài hành tinh kia. Jo vào mạng Internet, mất bảy phút để tìm kiếm số điện thoại chuyên dụng của cảnh sát trưởng dành cho các trường hợp không khẩn cấp. Khi tổng đài viên của cảnh sát trưởng trả lời, Jo vội vàng nói thật nhanh, sợ chẳng may con bé bước ra ngoài và nghe thấy. Cô nói với cô nhân viên tổng đài rằng cô cần một bộ phận tiếp nhận đứa trẻ không nơi nương tựa này. Cô cho họ địa chỉ và vài chỉ dẫn để họ có thể tìm đến đây. Cô nhân viên đặt câu hỏi, nhưng Jo chỉ có đủ thời gian để nói rằng cô đang rất lo lắng cho tình hình của đứa bé này và muốn cảnh sát trưởng cử người xuống hỗ trợ ngay lập tức. Cô cất điện thoại vào túi quần rồi nhanh chân quay trở vào trong nhà. May sao vừa kịp lúc. Đứa bé đang ngồi trong phòng khách, khăn tắm choàng quanh người, mái tóc dài phủ xuống đôi vai gầy. Đôi mắt đen láy của nó nhìn Jo một cách dò xét. “Ban nãy cô đi đâu vậy ạ?” Con bé cất tiếng hỏi. “Cô nghe thấy tiếng động bên ngoài,” Jo bịa ra một lý do, “nhưng hóa ra là con chó.” Cô tiến đến gần đứa bé, lòng thầm mong những gì cô nhìn thấy chỉ là những vết cáu bẩn mà con bé kỳ cọ không sạch. Nhưng không, vết đen kia không phải bùn đất. Con bé có những vết bầm tím ngắt trên cổ và bắp tay trái, đùi phải bị xây xát, thâm sì. Chiếc áo nỉ có mũ với cổ cao nên che được vết bầm ở cổ. Tay trái con bé hằn đầy dấu những ngón tay, như thể đã có người chộp mạnh lấy nó. “Sao trên người con có nhiều vết bầm vậy?” Đứa bé lùi lại. “Quần áo của con đâu cô?” “Ai đánh đập con?” “Con không biết chuyện gì đã xảy ra. Xác của bạn nhỏ đã chết này vốn dĩ đã vậy. Có thể bạn ấy bị xe cán phải hay sao đó.” “Đây là lý do khiến con sợ về nhà phải không? Ở nhà có ai hành hạ con ư?” Con bé trừng mắt. “Con tưởng cô là một người tốt, nhưng hóa ra không phải.” “Sao cô lại không tốt chứ?” “Vì cô không chịu tin con.” Jo thở phào. Cô chột dạ, tưởng đứa bé phát hiện cô đã gọi cho cảnh sát trưởng, ơn trời, cô đã gọi được. Tình hình này bắt buộc phải có cảnh sát vào cuộc. Jo hy vọng họ sẽ đánh giá được tầm nghiêm trọng của cuộc gọi và nhanh chóng cử người đến đây, nhưng trong lúc đó, cô phải đánh lạc hướng con bé. “Mình đi kiếm đồ cho con mặc và làm trứng nhé,” cô đề nghị. Jo không thể để con bé mặc lại bộ đồ nhem nhuốc kia được. Con bé không tỏ vẻ gì là khó chịu khi phải mang áo thun và quần bò của cô, dù phải xắn lên tận đùi. Nó còn phụ cô vài việc lặt vặt trong bếp, thậm chí rửa vài cái đĩa trước khi ăn. Cho dù Jo có tìm cách cạy miệng con bé về gốc gác của nó trong lúc hai cô cháu nấu nướng và ăn uống như thế nào, nhưng nó vẫn nhất nhất trung thành với câu chuyện viễn tưởng của mình. Dù bỏ mứa “thứ xanh xanh” tức vài cọng rau bó xôi non, con bé xơi sạch ba quả trứng bác. Sau đó, nó còn đánh chén thêm miếng bánh táo to tướng rồi than mình no nứt bụng. Sau khi hai người dọn rửa thì cô bé năn nỉ Jo cho Gấu Nhỏ ăn, cô đồng ý để con bé cho chú chó ăn phần đậu, cơm và gà thừa trong tủ lạnh đã để lâu ngày. Họ vừa đặt đĩa thức ăn xuống nền xi măng sau nhà, con chó đã vồ đến táp lấy táp để, thậm chí còn nhanh hơn cô bé giám hộ ngoài hành tinh của mình. “Để con rửa đĩa cho,” con bé khẩn khoản. “Con cứ để ngoài đó. Mình vào phòng khách nói chuyện đã.” Cô không muốn đứa bé đứng gần cửa lúc cảnh sát trưởng đến nơi. “Nói chuyện gì ạ?” Con bé tò mò. “Ngồi xuống đây với cô.” Jo dẫn con bé đến chiếc sô pha màu xanh dương đã cũ. Trước khi cảnh sát đến, tranh thủ lúc đứa bé người ngoài hành tinh này vẫn còn niềm tin vào ai đó, cô hy vọng nó sẽ tâm sự với mình lý do tại sao nó lại lang thang vào rừng. “Cô muốn biết tên con,” cô bắt đầu cuộc trò chuyện. “Con nói cho cô rồi mà,” con bé đáp. “Nói cho cô tên thật của con đi.” Con bé chỉ tựa đầu lên nệm và cuộn tròn như một chú sâu bướm bị ai chọc vào. “Dù con đang gặp chuyện gì đi chăng nữa cũng sẽ có người giúp con.” “Con không muốn nói về chuyện này nữa. Con đã phát chán với việc cô không chịu tin con rồi.” “Nhưng con vẫn phải nói với cô.” Con bé kéo một lọn tóc còn ẩm lên mũi. “Con thích mùi dầu gội của cô.” “Đừng đánh trống lảng.” “Con chẳng có trống gì để đánh cả.” “Con không giấu mãi được đâu.” “Con chưa từng nói trên đời này có gì là mãi mãi. Sau khi thấy đủ năm điều kỳ diệu, con sẽ rời đi.” “Chết tiệt, con cứng đầu cứng cổ quá thể!” Hay nói đúng hơn, con bé có vẻ như đang sợ hãi. Rốt cuộc, đứa trẻ tội nghiệp này đã gặp phải chuyện gì? “Con ngủ ở đây được không cô?” Đứa bé ngoài hành tinh có vẻ không được khỏe lắm. Hai gò má hóp lại, gương mặt xanh xao, bọng mắt màu mận bên dưới hàng mi càng khiến đôi mắt bồ câu của con bé to tròn. Đôi mắt của mẹ Jo trước lúc lâm chung cũng giống vậy, nhưng bà không có hàng lông mi dài như con bé, và lúc ấy, mắt bà dại đi vì morphine[7]. “Ừ, con cứ ngủ ở đây cũng được,” cô dịu giọng. Cô đắp chăn cho con bé và ghém chặt xung quanh cơ thể gầy nhẳng của nó. “Cô sắp ngủ chưa ạ?” “Cô sẽ đọc sách một lát, nhưng cô mệt lử cả người rồi nên chắc chẳng đọc được nhiều.” Con bé trở người. “Cô làm gì cả ngày mà mệt vậy?” “Cô tìm tổ chim.” “Thật ạ?” “Ừ.” “Kỳ cục nhỉ?” “Nếu là một nhà sinh học về các loài chim thì không có gì kì cục cả.” “Thế cũng kỳ cục. Con nghe bảo hầu hết phụ nữ trên Trái Đất đều làm bồi bàn hoặc giáo viên, hay những nghề nghiệp tương tự.” “Vậy cô đoán cô không nằm trong nhóm ‘hầu hết phụ nữ trên Trái Đất’ của con rồi.” “Con có thể đi tìm tổ chim cùng cô không ạ? Nghe có vẻ thú vị.” “Đúng là rất thú vị, nhưng giờ con phải ngủ đi đã.” Jo đứng dậy và bước vào căn phòng ngủ dành cho hai người ở bên cạnh. Con bé nhỏm dậy. “Cô đi đâu vậy ạ?” “Đi lấy sách. Cô sẽ ngồi cạnh con trong khi đọc sách.” Cô bước vào phòng ngủ tối đèn, chộp lấy cuốn Lò sát sinh số năm đã cũ của mình và mang vào phòng khách. Cô ngồi xuống cuối ghế, cạnh chân con bé. “Sách gì vậy ạ?” Đứa bé tò mò. “Lò sát sinh số năm. Trong cuốn sách này có những nhân vật là người ngoài hành tinh đấy.” Cô bé làm mặt nghi ngờ. “Thật mà. Họ được gọi là Tralfamadorian. Người Hetrayeh có biết họ không?” “Cô đang đùa con phải không?” “Cô…” Có vài tiếng đập vang lên phía bên ngoài cánh cửa. Cảnh sát đã tới. Xem ra anh hoặc cô cảnh sát này đã gõ cửa một lần nhưng Jo không nghe thấy. Cô bật máy điều hòa không khí ở mức cao, cốt để âm thanh kêu ầm ĩ khỏa lấp tiếng còi ò í e lúc chiếc xe tuần tra đến gần ngôi nhà. Đứa bé sững người như con nai bị dồn vào đường cùng, đôi mắt hoang dại của nó trân trân nhìn ra cửa trước. “Ai vậy ạ?” Jo đặt tay lên cánh tay con bé. “Đừng sợ. Cô chỉ muốn con biết cô thực sự rất quan tâm về những gì đã xảy…” “Cô đã gọi cảnh sát ư?” “Đúng rồi, nhưng…” Con bé bật dậy phòng thủ, ném chăn lên tay Jo để tung hỏa mù. Nó nhìn chằm chằm vào cô bằng ánh nhìn trách cứ đầy tổn thương, sau đó vài giây, cái bóng nhỏ lỉnh vào nhà bếp. Cô nghe thấy tiếng mở chốt ngoài cửa phụ và tiếng cửa ngoài hiên đóng sầm lại phía sau mình. Jo nhấc chăn ra, đặt lên khoảng trống còn ấm trên chiếc sô pha mà ban nãy đứa bé mới ngồi. Cô không đời nào có thể tỏ ra mạnh bạo với đứa trẻ. Không ai có quyền kỳ vọng cô làm điều đó. Tiếng đập cửa lại vang lên. Jo bước ra hiên nhà, mặt đối mặt với một viên cảnh sát mặc quân phục bên kia lớp cửa chắn ngoài hiên. “Cảm ơn anh đã tới,” cô lên tiếng. “Tôi là Joanna Teale.” “Cô là người đã gọi điện báo một bé gái… một bé gái ‘vô gia cư’ xuất hiện ở nhà mình đúng không?” Viên cảnh sát hỏi với cái giọng lè nhè của dân địa phương. “Phải. Anh vào đi.” Cô mời viên cảnh sát lên hiên nhà. Anh ta nhìn vào cánh cửa gỗ, khuôn mặt vàng vọt dưới ánh sáng của ngọn đèn đuổi côn trùng. “Cô bé đó có ở trong nhà không?” “Anh vào nhà đi đã,” Jo nói. Viên cảnh sát theo cô vào phòng khách, đóng cánh cửa sau lưng lại để giữ cho hơi lạnh từ điều hòa không bị phả ra ngoài. Jo đứng đối diện. Bảng tên của anh ta đề K. DEAN. Anh ta chừng ba mươi lăm tuổi, đầu hói, tướng người hơi cục mịch, khuôn mặt trơn láng, tròn vành vạnh như mặt trăng được xẻ ngang bởi một vết sẹo sâu chạy dọc từ hàm bên trái lên trên má. Chừng như theo một thói quen vô thức, viên cảnh sát chuyển ánh nhìn xuống ngực Jo. Hẳn anh ta sẽ không thể tìm thấy thứ gì đó có thể kích thích mắt người nhìn như vết sẹo to tướng trên khuôn mặt của mình, Jo đợi đôi mắt của anh ta ngước lên nhìn thẳng vào cô. Hai giây, khéo còn chưa tới. “Đứa bé đã bỏ chạy lúc anh gõ cửa,” cô giải trình. Anh ta gật đầu, đưa mắt nhìn quanh căn nhà. “Anh biết có đứa trẻ nào mất tích hay có Cảnh Báo AMBER[8] nào quanh đây không?” “Không có,” anh ta trả lời. “Chẳng lẽ không có đứa trẻ nào mất tích thật ư?” “Lúc nào mà chẳng có trẻ em mất tích.” “Ở vùng này sao?” “Thế thì tôi chưa nhận được thông báo nào.” Cô kỳ vọng viên cảnh sát sẽ đặt câu hỏi gì đó, nhưng anh ta chỉ nhìn quanh quất như thể đang đánh giá hiện trường. “Con bé xuất hiện từ hôm qua. Nó khoảng chín tuổi.” Anh ta chuyển sự chú ý sang cô. “Điều gì khiến cô nghĩ nó vô gia cư?” “Nó mặc quần ngủ…” “Tôi nghĩ tụi con nít gọi dạng quần kiểu đấy là ‘tuyên ngôn thời trang’,” viên cảnh sát đáp. “Ngoài ra, con bé còn rất đói bụng, người ngợm dơ dáy. Nó không mang giày nữa chứ.” Nụ cười nhạt của anh ta không khiến vết sẹo nhúc nhích. “Y chang tôi lúc chín tuổi.” “Người nó đầy vết bầm tím.” Cuối cùng, anh ta cũng tỏ ra nghiêm túc. “Trên mặt ư?” “Trên cổ, chân và tay.” Sự nghi ngờ ánh lên trong đôi mắt xanh của anh ta. “Làm sao cô có thể biết được nếu con bé mặc quần áo?” “Tôi đã tắm cho con bé.” Đôi mắt anh ta nheo lại. “Tôi đã trình bày với anh rồi, người ngợm cô bé dơ như hủi. Và tôi phải đánh lạc hướng con bé trong lúc chờ anh tới. Tôi thậm chí còn cho con bé ăn tối nữa.” Viên cảnh sát nhìn cô như thể cô đã làm gì đó sai trái, thật sự khiến cô cáu tiết. “Tôi vẫn chưa hiểu tại làm sao mà cô nghĩ đứa bé đó vô gia cư,” anh ta nói. “Ý tôi khi nói con bé vô gia cư là nó sợ về nhà.” “Vậy thì… đứa bé không vô gia cư rồi.” “Tôi làm sao mà biết gia cảnh của nó được!” Jo cảm thấy hơi bực bội. “Cả cơ thể con bé toàn những vết bầm tím. Có ai đó đánh đập con bé. Chẳng phải đó mới là điều quan trọng nhất sao?” “Con bé có nói ai đánh đập mình không?” Nếu cô kể cho viên cảnh sát về câu chuyện ngoài hành tinh của đứa bé đó chắc chắn chỉ khiến cho tình hình vốn đã căng thẳng này lún sâu vào vũng bùn hơn mà thôi. “Con bé không chịu kể cho tôi tại sao trên người lại có những vết bầm tím. Nó không chịu kể gì cho tôi cả, đến cả tên tuổi cũng không.” “Cô đã hỏi con bé rồi à?” “Vâng, tôi hỏi nó mà.” Viên cảnh sát gật đầu. “Anh có muốn bản mô tả về đứa bé không?” “Được thôi.” Anh ta chẳng buồn lấy sổ tay ra ghi chép, chỉ gật gù nghe Jo mô tả. “Sáng ra, khi mặt trời lên, anh sẽ đi tìm con bé chứ?” “Nó chạy đi tức là không muốn bị ai tìm ra.” “Thì sao? Con bé cần được giúp đỡ.” Viên cảnh sát nhìn chằm chằm vào cô với ánh mắt đầy xét nét. “Cô nghĩ con bé cần sự trợ giúp kiểu gì?” “Rõ ràng con bé cần được giải thoát khỏi kẻ hành hạ mình.” “Gửi nó tới trại trẻ mồ côi sao?” Anh ta hỏi. “Nếu cần thiết.” Viên cảnh sát lặng thinh một lúc, mân mê đầu ngón tay trên vết sẹo như thể nó ngứa ngáy. “Tôi xin nói với cô điều này,” anh ta lên tiếng, “và cô có thể hiểu sai, nhưng dù sao, tôi vẫn sẽ nói. Một trong những người bạn hồi cấp hai của tôi bị tách khỏi mẹ cậu ta vì bà ấy suốt ngày rượu chè bê bết và để mặc con mình quậy phá tưng bừng. Cậu ta bị giao cho những người nhận nuôi trẻ em không nơi nương tựa để bòn rút tiền của nhà nước, mà những dạng người kiểu vậy nhiều nhan nhản, và cuối cùng thì cậu bạn của tôi phải chịu nhiều đắng cay hơn cả khi ở với mẹ ruột của mình. Bố nuôi đánh cậu ta túi bụi, còn bà mẹ nuôi suốt ngày chửi rủa. Cậu bạn tôi đã chết do sốc thuốc năm mười lăm tuổi.” “Anh đang nói gì vậy? Ý anh là cứ để mặc con bé trong một căn nhà bạo hành như thế sao?” “Nào, tôi có nói như thế đâu?” “Nhưng những gì anh vừa nói ám chỉ vậy.” “Điều tôi ám chỉ ở đây là cô đừng mang con bé ra khỏi cái chảo rồi thả nó vào lò lửa. Những vết bầm tím kia có thể là do nó leo trèo hàng rào hay té từ trên cây, và nếu cô cứ tìm cách giao nộp con bé cho cảnh sát, nó có thể sẽ khai như thế dù nguyên nhân thật sự không phải thế. Tụi con nít thông minh hơn chúng ta tưởng nhiều. Chúng biết cách sống sót qua những khắc nghiệt mà ông trời bắt chúng phải chịu, còn biết hơn cả một tay nhân viên phúc lợi chưa ngày nào trải qua cuộc sống cơ cực của chúng đấy.” Liệu đây có phải là những luật bất thành văn mà Jo đang tìm kiếm không? Hay chỉ là góc nhìn của một người đàn ông thù đời do mất đi người bạn thuở thiếu thời? “Tôi đoán điều này nghĩa là anh sẽ không tìm cô bé?” Jo hỏi thẳng. “Chứ cô bảo chúng tôi phải làm gì, cho chó nghiệp vụ đuổi theo chắc?” Và thế là cô tiễn viên cảnh sát ra cửa. J 4 o cầm đèn pin ra sau nhà tìm đứa bé. Khối khí được dự báo sẽ gây mưa vào hôm sau giờ đã tràn về, mây mù phủ lấp trăng sao. Chưa gì Jo đã ngửi thấy mùi mưa trong bầu không khí nóng ẩm. Nhưng cô không thấy dấu vết đứa bé đâu cả. Vài tiếng sau, trời đổ cơn mưa, tiếng mưa rào rào trên mái nhà khiến Jo đang say giấc cũng phải tỉnh dậy. Cô nghĩ tới con bé, có lẽ lúc này nó đang côi cút một thân một mình trong khu rừng tối đen như mực giữa cơn mưa, cô tự dằn vặt bản thân, ước gì mình đã không gọi cảnh sát. Cô nhìn điện thoại. Hai giờ mười bảy phút sáng. Mới qua sinh nhật của mẹ cô vài tiếng. Nếu bà còn sống, bà sẽ bước sang tuổi năm mươi mốt. Cô bước vào nhà tắm, cốt để phân tán tâm trí chứ cũng chẳng có nhu cầu gì. Trong lúc tắm rửa, cô nhoài người đến trước tấm gương trên bồn rửa mặt, săm soi sắc da khỏe mạnh và những lọn tóc sáng màu do cháy nắng của mình. Khuôn mặt cô giờ ốm hơn, tóc chưa đủ dài để cột ra sau, nhưng trông cô gần giống với bản thân mình hồi trước đây. Mới gần thôi. Đôi mắt màu nâu sắc xanh trong gương nhìn cô như thể trêu ngươi. Nhưng ai là kẻ đang được phản chiếu, là con người cũ của Jo hay con người mới gần giống Jo? Cô bấu chặt lấy bồn rửa và cúi đầu, nhìn chằm chằm vào cái hố tối đen dưới vòi xả nước. Có lẽ, từ nay mọi thứ sẽ là vậy, hai phiên bản của cô cùng sống trong một cơ thể. Jo ngước nhìn người phụ nữ trong gương, rồi thình lình gạt công tắc đèn, ruồng rẫy cô ta vào màn đêm. Cơn bão kéo dài cả buổi sáng, mà cô lại chẳng thể làm việc dưới trời mưa. Jo ngủ qua khoảng thời gian mà cô hay tỉnh giấc, chừng một tiếng sau khi bình minh ló dạng. Sau đó, cô thay đồ, uống cà phê, ăn ngũ cốc, rồi gom quần áo đem đi giặt, lộ trình quen thuộc của cô trong một ngày mưa. Quần áo đã mặc của cô bé ngoài hành tinh được vắt ở sọt đồ bẩn. Cô nhét chúng cùng đống đồ dơ, khăn tắm và chai bột giặt vào chiếc túi thể thao của mình. Jo cất laptop và phần dữ liệu thô đủ cho một tiếng nhập liệu của mình vào chiếc cặp chéo. Lúc khóa cửa chính, cô nhác thấy thứ gì đó chuyển động ngoài rìa tầm nhìn. Tấm chăn cũ cô để trên ghế sô pha bằng liễu gai đang phủ lên một bóng hình to đúng bằng đứa bé gái người ngoài hành tinh. Con bé trùm chăn qua đầu, cố gắng ẩn nấp. Jo muốn tìm cách chuyển sự nhẹ nhõm trong lòng mình thành cơn tức giận nhưng không thể. “Cô đoán con chưa biết cách giấu hình hài con người của mình đi thì phải,” cô nói với cái bóng đó. Mép chăn trượt xuống, khuôn mặt nhợt nhạt của cô bé lộ ra. “Con vẫn chưa biết cách,” nó thành thật. “Thế cơ thể người Hetrayeh trông như thế nào?” Đứa bé cân nhắc vài giây. “Bọn con nhìn như ánh sao. Không hẳn là có cơ thể.” Câu trả lời sáng tạo ra phết! Jo tính toán xem mình nên làm gì. Nếu cô gọi cảnh sát trưởng, chỉ tổ con bé lại trốn tiếp. Khả năng duy nhất bây giờ là nhốt cô bé trong một căn phòng cho đến khi cảnh sát đến. Jo không ưng viễn cảnh này cho lắm, mà dù có ưng đi nữa thì căn nhà này cũng chẳng có căn phòng nào không mở được từ bên trong. Đứa bé như cảm nhận được suy nghĩ của Jo. “Con đi ngay đây. Con chỉ quay về bởi vì đêm qua con không nhìn thấy đường để đi.” Dù cô bé cố gắng tìm cách che giấu, Jo vẫn mơ hồ cảm nhận được nỗi túng quẫn mà nó phải trải qua lúc trốn khỏi nhà cô. Đêm qua, mây đen che kín trăng sao, bầu trời tối đen như hũ nút, đến độ dẫu giơ tay ra trước mặt cũng chẳng nhìn thấy rõ. Chắc con bé chỉ lảng vảng đâu đó gần ánh đèn của căn nhà. Đứa bé ngồi dậy và gạt tấm chăn qua một bên. “Thường thì con ngủ trong cái chòi cũ đằng kia, nhưng nước mưa cứ rỏ giọt lên người con.” “Đó là nơi con ở vào cái đêm con đến chỗ bếp lửa nhà cô à?” Con bé gật đầu. “Ở đó có giường. Con ngủ chung với Gấu Nhỏ.” Lúc Jo mới chuyển đến, căn nhà này có duy nhất một tấm nệm khổ lớn, đã tan tành vì bị chuột đóng tổ, để trong nhà suốt cả mùa đông. Nhiều sinh viên sinh học nhắm mắt nhắm mũi sử dụng chiếc giường khai mùi nước tiểu, nhưng Jo không bấm bụng làm vậy nổi. Cô kéo tấm nệm hôi như cú, nham nhở vứt ngoài chòi và chi một phần tiền nghiên cứu của mình mua tấm nệm đôi với giá chiết khấu. “Con không nên ở trong căn chòi ấy đâu,” Jo dặn. “Trông nó như thể sắp sụp bất cứ lúc nào vậy.” “Con biết mà. Mái nhà thủng một lỗ to tướng. Thành ra giường của con cũng ướt sũng.” Con bé nói điều này một cách đầy bi kịch, như thể cái nệm tồi tàn ấy là thứ duy nhất nó trao thân gửi phận trên cõi đời này. “Con có đói không?” Jo hỏi. Đứa bé nhìn cô đầy ngờ vực. “Con muốn ăn bánh kếp chứ?” “Con cá là cô lại lừa con thêm lần nữa,” đứa bé nghi ngờ. “Không hề. Chỉ là cô chuẩn bị phải ra ngoài, và cô không muốn bỏ mặc con một mình với cái bụng đói.” Đứa trẻ nhìn trân trân vào khu rừng ướt mưa bằng đôi mắt buồn rười rợi, cân nhắc xem nên làm gì. Đừng mang con bé ra khỏi cái chảo rồi thả nó vào lò lửa, viên cảnh sát đã nói như thế. Đây thực sự là lựa chọn duy nhất của cô hay sao? Bất giác, Jo muốn ôm con bé vào lòng và giữ rịt nó trong vòng tay. “Cô có si-rô đấy,” Jo dụ dỗ. Con bé ngẩng đầu nhìn cô. “Con nghe nói si-rô rưới lên bánh kếp ăn ngon lắm.” “Thật không thể tin là con vẫn còn nhớ phải giả bộ như mình chưa từng ăn.” “Cô có tính lừa con không vậy?” “Cô không hề.” Jo tra chìa vào ổ để mở cửa. “Nào, vào thôi.” Sau khi đánh chén xong chiếc bánh kếp và cốc nước cam đến căng cả bụng, đứa bé năn nỉ Jo cho Gấu Nhỏ vào trú mưa và ăn bánh kếp ngoài hiên. Jo đành nhân nhượng, với điều kiện con chó và đám bọ chét của nó không được bước vào nhà. Con bé mặc áo mưa của Jo, cầm theo chiếc bánh kếp ra chòi dụ Gấu Nhỏ. Con chó đã đói meo, nhưng phải đợi đến khi Jo bước vào bên trong mới dám lỉnh lên hiên nhà để lấy thức ăn. “Nếu nó đái hay ị ngoài kia, con sẽ phải dọn đấy nhé,” Jo cảnh báo. “Con sẽ dọn mà. Con cho nó tô nước được không ạ?” “Được chứ. Giờ cô đi đến chỗ giặt là đây.” “Sao ở đây không có máy giặt vậy ạ?” “Cô đoán thầy Kinney không muốn lãng phí tiền vào máy giặt khi nơi này chỉ được thuê vài tháng trong một năm.” “Đó cũng là lý do nơi này không có tivi ạ?” “Chắc thế.” “Cô mang tivi của mình tới được mà.” “Ở đây không có truyền hình cáp mà cũng chẳng có mạng Internet đâu,” Jo đáp. “Sao lại thế ạ?” “Thầy Kinney là thế hệ những nhà sinh vật học theo quan niệm: chúng ta làm việc, ăn uống và thực sự sống chỉ khi hoàn toàn hòa mình vào thế giới tự nhiên.” “Cô đi đến tiệm giặt ủi có lâu không?” “Chắc sẽ mất vài tiếng.” Jo đang suy tính xem có nên khóa cửa lại, để đứa bé ở ngoài lúc mình đi vắng hay không. Nhưng ngẫm một hồi, cô quyết định cất ống nhòm vào túi cùng với laptop. Hai thứ này và ví tiền là những món đồ duy nhất cô sở hữu đáng giá để ăn trộm. “Đừng tắt lò khi cô đi vắng nhé,” cô dặn. “Cô cho con ở trong nhà ư?” “Ừ, chí ít là bây giờ. Chúng ta sẽ bàn đến những chuyện sắp tới sau khi cô về, được chứ?” Đứa bé không trả lời. “Đừng rớ đến cái bàn đằng kia trong lúc cô không ở nhà đấy,” Jo nhắc. Con bé nhìn về phía bàn làm việc chất đầy sách, báo và giấy tờ. “Đống đó là gì vậy ạ?” “Tài liệu khoa học của cô. Đừng phá nghe chưa?” Con bé đi theo Jo ra ngoài hiên có tấm chắn. Gấu Nhỏ cuộn tròn mình thành một quả bóng chắc nịch trên thảm, ánh nhìn cảnh giác của nó dán chặt vào người Jo khi cô bước về phía cửa chắn. “Nhớ là không được cho con chó vào nhà đâu đấy,” Jo nhắc con bé một lần nữa. “Con biết rồi mà.” Jo kéo mũ trùm đầu lên và chạy băng qua cơn mưa nặng hạt về phía đường xe chạy. Đứa bé nhìn cô chất đồ rồi bước lên xe, tấm thân bé nhỏ như hư như thực, méo mó mờ ảo qua tấm chắn đùng đục đẫm mưa ngoài hiên. Trên quãng đường bốn mươi lăm phút chạy xe đến thị trấn Vienna, mà người dân địa phương ở đây hay đọc là Vi-enna, mưa chỉ còn lún phún, mặc dù trời vẫn sầm sì mây đen, hăm he khả năng mưa lại trút xuống. Khu trung tâm của Vienna trông giống những nơi Jo từng thấy trên mấy bộ phim ngày xưa, và chẳng hiểu sao, điều này lại khiến cô cảm thấy dễ chịu đến lạ lùng. Cô chạy xe bon bon qua con phố vắng, hai cụ ông cụ bà ngồi dưới mái hiên một cửa tiệm vẫy tay chào cô, cô cũng đưa tay đáp lại. Cô đi ngang qua đồn cảnh sát trên đường đến tiệm giặt ủi. Jo ngồi trên chiếc ghế nhựa màu xanh quen thuộc đối diện cửa sổ, trong lúc quần áo của cô xoay tròn trong lồng hai chiếc máy giặt. Cô mở hình của Tabby trong danh bạ điện thoại, tấm hình chụp cô bạn đeo băng đô tai mèo vằn, một con cá vàng bằng nhựa lủng lẳng trông như điếu thuốc trên môi. Tabby trở thành người bạn thân nhất của Jo từ năm thứ hai đại học, khi cùng làm việc trong phòng thí nghiệm, và cô nàng cũng ở lại Đại Học Illinois làm luận án tốt nghiệp của mình. Tabby đã trúng tuyển vào một trường thú y, có chương trình học rất tốt, nhưng cô nàng hay tự hỏi tại sao mình không chuyển sang một ngôi trường khác có khung cảnh xung quanh non nước hữu tình hơn, chứ không phải bốn bề đều là những cánh đồng trồng bắp và đậu tương. [9] đó “Jojo,” Tabby trả lời sau ba hồi chuông. “Thị Trấn Súc Sích thế nào rồi?” Tabby thấy thật buồn cười khi giữa chốn đồng không mông quạnh của Illinois lại có một thị trấn mang tên Vienna, thành ra cô nàng khăng khăng gán cái tên này với nhãn hiệu xúc xích Vienna, chứ không phải là tên của thủ đô nước Áo. “Sao bà biết tôi lên Vienna?” Jo thắc mắc. “Thì bà chỉ gọi cho tôi khi đi giặt ủi chứ sao với trăng gì. Tôi còn biết trời ở đó đang mưa bởi vì bà thuộc dạng sẽ mặc đi mặc lại đống đồ cho đến khi nó rách như tổ đỉa, chứ nếu là một ngày đẹp trời thì còn lâu bà mới đi giặt ủi, vì mải lo đi nghiên cứu rồi.” “Tôi không ngờ là tôi dễ đoán vậy cơ đấy,” Jo ngạc nhiên. “Chứ còn gì nữa. Điều đó có nghĩa là bà đang quần quật làm việc dù bác sĩ đã dặn bà không được nôn nóng.” “Tôi đã bình chân như vại suốt những hai năm còn gì. Giờ tôi cần làm việc.” “Hai năm vừa rồi không dễ dàng, Jo nhỉ?” Tabby khe khẽ nói. Jo nhìn chằm chằm vào vũng nước trong ổ gà trên mặt đường nhựa bên ngoài cửa sổ mù sương của tiệm giặt ủi, bề mặt nước lăn tăn vì mưa. “Hôm nay là sinh nhật mẹ tôi,” cô nói. “Vậy sao?” Tabby hỏi. “Bà ổn chứ?” “Ừ.” “Xạo!” Cô ổn thật. Ban đầu, cô định gọi cho Tabby để xin lời khuyên về cô nhóc kì lạ kia, nhưng chẳng hiểu sao cô lại lỡ miệng tâm sự về ngày sinh nhật của mẹ mình. “Ở đó có nước không? Bà cầm nước lên đi,” Tabby yêu cầu. Gì cơ? “Chúng ta nâng ly chúc mừng sinh nhật mẹ của bà.” Jo giơ bình nước màu xanh cũ nát đang đặt bên cạnh mình lên. “Sẵn sàng chưa?” Tabby hỏi. “Rồi,” Jo đáp. “Chúc mừng sinh nhật cô Eleanor Teale, người thổi hồn vào hoa, người khiến vạn vật và thế giới xung quanh bừng nở. Ánh sáng của cô vẫn luôn bên cạnh chúng con, nuôi dưỡng thương yêu trên khắp vũ trụ.” Jo nâng chai nước lên bầu trời xám xịt rồi uống. “Cảm ơn nhé,” cô nói, đưa ngón tay chùi khóe mi. “Bà chúc hay lắm.” “Cô El là một trong những người tuyệt vời nhất mà tôi từng gặp,” Tabby kể. “Không tính đến người mẹ mang nặng đẻ đau ra tôi.” “Mẹ tôi cũng quý bà lắm đấy,” Jo nói. “Tôi biết. Chết tiệt… Giờ bà làm tôi rưng rưng rồi đây này, trong khi tôi đang cố gắng tìm cách giúp bà vui lên cơ mà.” “Thì bà đã làm được rồi đấy,” Jo đáp. “Nhưng bà đoán xem ai sắp đến thăm tôi nào?” “Đừng bảo tôi là…” “Ừ, là Tanner.” “Phải chi tôi có mặt ở đó, tôi sẽ đá đít hắn!” “Gã ấy chẳng đáng được nhận chừng đó sự quan tâm đâu.” “Sao hắn dám vác mặt đến đấy cơ chứ?” “Tôi đoán hắn muốn đến. Hắn ta và hai nghiên cứu sinh nữa đang ở buổi hội thảo cùng với giáo sư hướng dẫn của tôi tại Chattanooga. Nghe đâu bốn người bọn họ sẽ tạt vào Nhà Kinney và ở lại qua đêm trên đường lái xe về trường đại học.” “Căn nhà ấy có đủ phòng cho bốn người nữa cơ à?” “Không đủ giường, nhưng những nhà sinh vật học như bọn tôi thì quăng đâu ngủ đó ấy mà.” “Thế bà quăng Tanner vào rừng đi. Ngay chỗ tổ kiến ấy.” Còn đứa bé, Jo biết cho nó ở đâu bây giờ? Suốt quãng đường lái xe từ nhà đến đây, cô chỉ nảy ra một phương án duy nhất. Nhưng nếu nó không có tác dụng… “Bà còn ở đó không vậy?” Tabby hỏi. “Tôi vẫn đang nghe đây,” Jo đáp. “Hai đêm trước có một điều kỳ cục xảy ra…” “Chuyện gì?” “Có một cô bé xuất hiện ở nhà tôi và không chịu đi.” “Con bé đó bao nhiêu tuổi?” “Nó không chịu kể. Tôi đoán nó tầm chín, mười tuổi gì đó.” “Trời đất ơi, Jo! Bà phải bảo nó về nhà ngay đi.” “Tất nhiên là tôi đã bảo rồi. Nhưng rồi tôi thấy người nó toàn vết bầm tím.” “Do bị bạo hành sao?” “Tôi đoán vậy.” “Thế thì bà phải gọi cảnh sát đi chứ!” “Tôi gọi rồi. Nhưng khi cảnh sát đến, con bé liền chạy trốn.” “Tội nghiệp thật!” Trước khi Jo kịp kể cho Tabby chuyện cô bé đã quay trở lại, cô nghe thấy tiếng chuông thông báo cuộc gọi chờ đang vang lên. Nhìn màn hình, cô thấy thầy Shaw Daniels, giáo sư hướng dẫn của cô, đang gọi. “Tôi phải cúp máy đã. Thầy Shaw gọi tôi.” “Ừ, vậy chào nhé,” Tabby tạm biệt. “Với cả thỉnh thoảng dù không mưa bão cũng phải gọi cho tôi đấy nhé.” “Tôi biết rồi.” Jo cúp máy và nhấn nút trả lời cuộc gọi đến. “Em đang tính gọi thầy ạ.” “Em nghe máy làm thầy bất ngờ quá,” Shaw lên tiếng. “Đang ở chỗ thực địa à?” “Trời đang mưa nên em đi giặt một ít đồ.” “Tốt, cuối cùng em cũng chịu ngơi tay rồi.” Có ai trong số họ chịu để cô được là chính bản thân mình trước khi họ biến thành bác sĩ chẩn đoán không nhỉ? Cô ngờ rằng thầy Shaw gọi cốt là để hỏi thăm tình hình sức khỏe cô. Thầy từng thuyết phục cô thuê một trợ lý thực địa lúc cô đang trong quá trình hồi phục, đồng thời thầy cũng rất phản đối chuyện cô sống một thân một mình ở Nhà Kinney. “Tối nay bọn thầy ghé qua đó thăm được không?” Shaw hỏi. “Tất nhiên là được ạ. Thầy dự tính mấy giờ đến?” “Bọn thầy sẽ lên đường sau khi kết thúc chuyên mục cuối, khoảng ba giờ sẽ xong. Chắc tầm bảy rưỡi, hoặc trễ nhất là tám giờ, bọn thầy sẽ đến nơi. Nếu em đợi được thì chúng ta sẽ đưa em ra ngoài ăn tối.” “Mình ăn tại nhà thì sao thầy? Em đang tính nướng thịt burger. Nhưng có khi sẽ phải nướng trong nhà nếu trời vẫn cứ mưa không ngớt.” “Em có chắc là muốn bày vẽ bao nhiêu thứ như vậy không?” “Có gì mà bày vẽ đâu ạ,” Jo đáp. “Nếu em muốn thì được thôi,” ông nói. “Gặp em sau nhé.” Sau khi dừng lại ở tiệm tạp hóa và quầy nông phẩm để mua nguyên liệu, Jo quay về nhà vào khoảng đầu giờ chiều. Không thấy bóng dáng con bé đâu cả. Jo hy vọng nó đã về nhà. Nhưng sau khi tưởng tượng đến viễn cảnh tồi tệ mà con bé đã phải trải qua, cô lại hối hận vì đã nghĩ như thế. Cô kiểm tra loanh quanh trong nhà, con bé không lấy trộm gì cả. Vật duy nhất nằm sai chỗ là cuốn giáo trình Điểu học, không còn ở trên bàn mà bị bỏ lại trên ghế. Jo tìm cách đẩy con bé ra khỏi suy nghĩ. Cô còn rất nhiều thứ phải lo trước khi khách đến. Sau khi dọn dẹp ngăn nắp căn nhà, cô bắt đầu chuẩn bị đồ tráng miệng, là một chiếc bánh mứt đào và một chiếc bánh mứt dâu đại hoàng làm bằng trái cây cô mua ở quầy nông sản. Bình thường, có cho vàng cô cũng không phung phí thời gian thực địa quý giá của mình vào những việc như thế này, nhưng mưa vẫn trút xuống không ngừng và cô muốn chuẩn bị một bữa tối thật ngon cho thầy Shaw - chứ không phải cho Tanner Bruce. Tanner cũng là một trong những nghiên cứu sinh được thầy Shaw hướng dẫn, chỉ trên cô một năm vào lúc cô bắt đầu theo học, nhưng giờ đã vượt trước cô ba năm và gần như hoàn thành chương trình học của mình. Trước khi rời trường để chăm sóc mẹ mình nằm viện, Jo đã lên giường với Tanner. Ba lần. Nhưng mối liên lạc duy nhất mà cô có với hắn ta sau khi rời trường là chữ ký của hắn trên tấm thiệp chia buồn từ thầy Shaw và các nghiên cứu sinh của thầy. Tay Jo điệu nghệ dàn đều bột, nhào thành hình tròn, dù tâm tưởng của cô đang vẩn vơ trở về cái ngày cuối cùng cô ở bên cạnh Tanner. Đêm tháng Bảy ấy trời rất oi và nóng, đến mức họ không thể ngủ trong lều, nên đã lỉnh ra ngoài và mây mưa với nhau trong một cái hồ sâu của con suối gần nơi cắm trại. Đáng ra, ký ức ấy đã là một trong những kỷ niệm đẹp nhất đời cô nếu không có Tanner Bruce. “Cô đang làm bánh cho ai vậy ạ?” Sự chú ý của Jo nhanh chóng kéo ngược về đôi tay mình. Cô bé đã lẻn vào nhà mà không gây ra bất kỳ một tiếng động nào, mái tóc và bộ quần áo quá khổ của Jo đang được khoác trên người con bé ẩm ướt vì mưa. “Con đi đâu vậy?” Jo hỏi. “Con vào rừng.” “Làm gì?” “Con tưởng cô lại đưa viên cảnh sát kia trở lại.” Jo rắc một lớp bột mịn lên cái khay nướng bánh mới mua. “Cô đã quyết định cô cháu mình sẽ tự lo liệu chuyện này. Con có nghĩ chúng ta đủ sức làm vậy không?” “Được ạ,” con bé đáp. “Vậy con hãy nói cho cô nhà con ở đâu và lý do tại sao con lại không chịu quay về. Cô sẽ giúp con giải quyết bất cứ chuyện gì đang xảy ra.” “Con đã nói với cô rồi mà. Con có thể ăn bánh khi bánh ra lò không ạ?” “Bánh này để dành lát nữa, cho khách của cô.” “Ai đến ạ?” “Giáo sư hướng dẫn cô làm luận án và ba nghiên cứu sinh nữa.” “Họ đều là nhà điểu học ạ?” “Phải. Mà sao con biết từ đó?” “Trong cuốn Điểu học của cô. Con đã đọc phần mở đầu và hai chương đầu tiên,” con bé khoe, phát âm từ “mở đầu” thành mở dầu. “Con đọc nó thật hả?” “Con bỏ qua những phần mà người đến từ hành tinh Hetrayeh không hiểu, nhưng không có nhiều lắm. Con thích chương bàn về sự phong phú của các loài chim và việc mỏ chim phù hợp với thứ chúng ăn, còn chân thì phù hợp với môi trường sống. Con chưa bao giờ nghĩ về điều đó cả.” “Khả năng đọc của con ở cấp độ thượng thừa đấy.” “Con dùng não của cô bé đã chết để đọc, bạn ấy cũng thông minh ra phết.” Jo quệt bàn tay dính đầy bột của mình lên chiếc khăn lau đĩa. “Rửa tay đi rồi cô cho con véo phần rìa của lớp vỏ bánh.” Cô bé ngoài hành tinh lon ton chạy về phía bồn rửa. Đợi đến khi con bé rửa xong, Jo lên tiếng, “Cô cần một cái tên dễ hơn để gọi con chứ không phải là Earpood. Con có nghĩ ra tên nào bình thường hơn không?” Đứa bé đưa tay lên xoa cằm, làm bộ ngẫm nghĩ. “Vậy Ursa thì sao ạ? Vì con đến từ nơi loài người gọi là Đại Hùng[10]?” “Cô thích cái tên Ursa này đấy.” “Vậy cô gọi con như vậy nhé.” “Họ của con thì sao?” “Major ạ.” “Nghe cũng hợp lý. Con đã bao giờ làm vỏ bánh chưa, Ursa?” “Bọn con không có bánh ở Hetrayeh.” “Để cô chỉ con.” Ursa học cách làm vỏ bánh nhanh chẳng kém gì nắm bắt các kiến thức ở trình độ đại học trong sách, và trong lúc chờ bánh được nướng chín, căn phòng ngào ngạt mùi thơm, con bé phụ Jo làm salad khoai tây. Hai cô cháu áp dụng công thức của mẹ Jo, mà theo ý kiến của cô là thứ salad khoai tây duy nhất trên đời đáng để ăn. Tiếp đến, hai người chuẩn bị thịt bò xay để làm nhân burger theo cách của mẹ Jo, sử dụng xốt Worcestershire, vụn bánh mì và các loại gia vị khác. Kể từ lúc chuyển đến căn nhà gỗ này, cô chưa lần nào tự nấu một bữa ăn kỳ công như thế. Cô thích ý tưởng nấu các món theo công thức của mẹ vào ngày sinh nhật của bà như một cách để tưởng niệm, và thêm nữa, việc chuẩn bị đồ ăn giúp cô vơi bớt nỗi căng thẳng đang dâng cao khi sắp sửa gặp lại Tanner. Ngay cả đứa bé cũng không đủ để phân tán tâm trí cô. Khi đem cất bơ, Ursa xem xét đống bia trong tủ lạnh. “Các nhà điểu học là dân nghiện rượu bia hở cô?” “Sao con lại nghĩ vậy?” Jo thắc mắc. “Con thấy nhiều bia quá.” “Cho tận bốn người kia mà.” “Cô không uống sao?” “Chắc cô uống một chai thôi.” “Cô không thích say xỉn ạ?” “Ừ, cô không thích.” Jo nhìn thấy sự e dè ánh lên trong mắt con bé. “Con từng có trải nghiệm nào không vui với người rượu chè be bét à?” “Sao mà có được ạ? Con mới đến đây thôi mà.” S 5 au khi hai cô cháu ăn xong bánh mì kẹp và để bánh vừa mới nướng chín ra bên ngoài cho nguội, Jo đưa Ursa đi thay lại bộ đồ đã được giặt sạch của con bé. Ra khỏi phòng ngủ, thấy Jo đang làm việc trên laptop, cô bé liền tiến tới sô pha và đọc tiếp cuốn Điểu học. Jo nghiêng màn hình về phía Ursa để con bé không thấy cô đang dùng điện thoại của mình vào Internet. Khi đã có kết nối, cô gõ bé gái mất tích Ursa trên Google nhưng không có kết quả gì. Mặc dù viên cảnh sát đã nói trong vùng không có trẻ em mất tích, cô vẫn thử gõ trẻ em mất tích ở Illinois, nó dẫn cô đến trang web Trung Tâm Quốc Gia về Trẻ Em Mất Tích Và Bị Lạm Dụng cùng một danh sách dài đến đau lòng ghi tên những đứa trẻ bị mất tích ở Illinois. Nhiều đứa trẻ đã chết, xương cốt chôn giấu trong những ngôi mộ sẽ không bao giờ được tìm ra. Một số bức ảnh chụp những đứa trẻ bị mất tích từ năm 1960, và một số bức được phục dựng bằng máy tính về những đứa trẻ đã chết nhưng không xác nhận được danh tính. Có một tấm suýt chút nữa làm Jo rơi nước mắt. Nó chụp vỏn vẹn một đôi giày, tất cả những gì còn sót lại của đứa trẻ vị thành niên xấu số. Jo cũng dùng trang web này để xem hình những đứa trẻ ở Kentucky gần đó, hay ở những bang lân cận như Missouri, Iowa, Wisconsin và Indiana. Ursa Major không có trong danh sách nào, dù cô bé đã không ở nhà ít nhất hai đêm. Jo đặt điện thoại xuống. “Con đọc Điểu học đến đâu rồi?” “Con không thích hệ thống hóa sinh học cho lắm,” Ursa nhận xét. “Cô cũng chẳng thích thú gì.” Nói rồi cô với lấy chìa khóa xe trên bàn. “Tạnh mưa rồi. Cô tính lái xe xuống đường để kiểm tra các tổ chim. Con có muốn đi cùng cô không?” “Có ạ!” Con bé bật dậy khỏi ghế và mang đôi dép quá khổ của Jo vào chân. “Cô kiểm tra tổ chim như thế nào ạ?” “Cô quan sát và xem tình hình các tổ chim ra sao.” “Đó là cách cô lấy được bằng tiến sĩ ạ?” “Còn nhiều việc hơn chứ không chỉ dừng lại ở đó. Cô ghi lại số mệnh của mỗi tổ chim cô phát hiện ra, rồi từ những dữ liệu đó, cô có thể tính toán tỷ lệ làm tổ thành công của chim sẻ đất màu chàm ở từng nơi cô thực địa.” “Cô nói số mệnh nghĩa là sao ạ?” “Số mệnh là những gì xảy ra sau khi tổ chim được xây dựng. Cô theo dõi số lượng trứng mà chim đẻ ra xem có bao nhiêu con nở, bao nhiêu chim non đủ lông đủ cánh. Đủ lông đủ cánh ở đây nghĩa là những chú chim non này có thể bay khỏi tổ. Nhưng nhiều lúc cũng có những cặp chim bố chim mẹ bỏ tổ trước khi con cái đẻ trứng, hoặc trứng bị động vật săn mồi ăn thịt mất. Và cũng có lúc trứng nở rồi nhưng chim non chưa đủ lông đủ cánh thì đã bị động vật săn mồi ăn thịt.” “Tại sao cô không cản động vật săn mồi ăn chim non ạ?” “Cô không cản được, mà dù có thể cản đi chăng nữa thì mục tiêu nghiên cứu của cô không phải là cứu từng con chim non. Nghiên cứu này giúp chúng ta hiểu thêm về cách bảo tồn số lượng chim trên quy mô lớn.” “Động vật săn mồi bao gồm những con gì ạ?” “Rắn, quạ, giẻ cùi lam, gấu mèo là những động vật săn mồi chính trong các khu thực địa của cô.” Jo lẳng chiếc túi đựng thiết bị thực địa của mình qua vai. “Đi thôi, kẻo thời tiết trở xấu. Cô không muốn dọa chim bay khỏi tổ trong lúc trời mưa tầm tã thế này.” “Vì trứng không được để ướt ạ?” “Cô không muốn trứng hoặc chim non bị ướt hay lạnh. Trong lúc nghiên cứu phải cố gắng hạn chế đến mức tối thiểu tác động lên thành công của việc làm tổ.” Khi Jo và đứa bé ra khỏi nhà, Gấu Nhỏ thủng thẳng bước lại từ căn chòi. Giờ nó ngoan hơn nhiều, thậm chí còn để Ursa xoa đầu. “Ở đây nhé,” cô bé dặn con chó. “Mày hiểu điều tao nói không? Tao sẽ về sớm.” Ursa không thích việc phải ngồi ở ghế sau và thắt dây an toàn. Hẳn trước đó đã có người cho con bé ngồi ghế trước mà không cài dây an toàn cho nó. Jo giải thích với cô bé tại sao việc thắt dây an toàn lại rất cần thiết và túi không khí để phía trên có thể giết chết trẻ em ra sao nếu nó bật ra. “Nếu túi không khí giết chết trẻ em, ai lại để nó trong xe ô tô chứ?” Ursa thắc mắc. “Vì người sản xuất xe hơi muốn trẻ em ngồi ở ghế sau, vì đó là nơi an toàn nhất.” “Vậy nếu có một chiếc xe tải tông vào từ đằng sau, chỗ đứa trẻ đang ngồi thì sao ạ?” “Rốt cuộc con có nghe lời cô hay không đây?” Ursa lọ mọ trườn ra ghế sau và thắt dây an toàn. Gấu Nhỏ chạy theo chiếc xe lúc hai cô cháu rời khỏi đường lái xe Nhà Kinney. “Cô Jo, dừng xe lại! Dừng lại đi mà!” Ursa nài nỉ. “Nó đang chạy theo mình kìa!” “Dừng lại thì giúp ích được gì chứ?” Ursa nhoài người ra cửa sổ và nhìn con chó biến mất ở khúc quanh. “Nó chạy không kịp!” “Cô không muốn nó chạy kịp. Nó không được đến khu vực nghiên cứu của cô. Mang một con thú săn mồi đến sẽ khiến lũ chim hoảng sợ.” “Cô Jo ơi! Nó vẫn chạy theo kìa!” “Con đừng thò đầu ra ngoài cửa sổ nữa. Con đường này rất hẹp, coi chừng bị cây quật trúng mặt bây giờ.” Ursa đau khổ nhìn chằm chằm vào chiếc gương chiếu hậu. “Con chó đó biết con đường này. Nó sinh ra ở đây thì phải?” Jo nói. “Có lẽ là không. Biết đâu nó nhảy ra từ một chiếc xe ô tô thì sao ạ?” “Cô thấy nó bị tống ra khỏi xe vì chủ nhân của nó không muốn có nó thì đúng hơn.” “Cô sẽ quay lại đón nó chứ?” “Không.” “Cô ích kỷ thật đấy!” “Ừm.” “Kia có phải là nơi chú Gabriel Nash sống không ạ?” Ursa hỏi, chỉ tay về phía một con đường đất hằn vết xe qua lại và bảng hiệu đề CẤM VÀO. “Cô nghĩ là phải,” Jo đáp. “Có lẽ Gấu Nhỏ sẽ tạt vào đó.” “Cô đoán Anh Bán Trứng sẽ không thích điều đó đâu. Chú ấy nuôi gà và nuôi mèo mà.” “Sao cô lại gọi chú ấy là Anh Bán Trứng trong khi tên chú ấy là Gabriel ạ?” “Vì cô quen chú ấy nhờ việc mua trứng.” “Con tưởng chú ấy là người tốt?” “Cô chưa bao giờ nói chú ấy là người xấu cả.” Jo lái xe đến tổ chim xa nhất để đảm bảo chú chó không đuổi kịp, vòng xe lại ở cuối con đường phía Tây và dừng xe trước miếng băng dán quan trắc đầu tiên. Cô lấy tài liệu từ bọc hồ sơ đề ĐƯỜNG TURKEY CREEK ra và đưa cho Ursa xem. “Tài liệu này được gọi là ghi chép tổ chim. Cô làm cho mỗi tổ chim mình tìm thấy một bản, mỗi tổ được đánh một con số riêng. Tổ này là TC10, có nghĩa là tổ chim thứ 10 cô tìm thấy ở khu thực địa đường Turkey Creek. Trên cùng của hồ sơ, cô ghi lại thông tin về địa điểm và thời gian tìm thấy tổ chim; còn ở bên dưới, cô ghi những gì mình thấy mỗi lần kiểm tra tổ. Ngày cô phát hiện ra tổ chim, có hai quả trứng bên trong, lần tiếp theo tăng lên bốn quả. Lần gần đây nhất cô đến thì vẫn chỉ có thế, và cô ghi chú lại là mình lỡ làm chim mẹ hoảng sợ bay khỏi tổ.” “Vậy chim non đã nở chưa ạ?” “Vẫn còn sớm quá. Chim mẹ sẽ ấp trứng trong khoảng mười hai ngày.” “Ấp trứng nghĩa là chim mẹ giữ cho trứng được ấm áp sao?” “Đúng vậy. Mình cùng đi xem chim mẹ thế nào rồi nhé.” Hai cô cháu rời khỏi xe. Jo chỉ cho Ursa cách mình đã đánh dấu hướng dẫn lên miếng băng quan trắc màu cam để đưa cô trực tiếp đến tổ chim như thế nào. “INBU là mã của chim sẻ đất màu chàm[11], đây là loài chim chính mà cô nghiên cứu, còn đây là ngày cô phát hiện ra nó. Những con số và chữ cái còn lại thể hiện khoảng cách bốn mét từ đây về hướng Nam - Tây Nam, tổ chim cách mặt đất chừng một mét rưỡi.” “Ở đâu ạ? Con muốn được thấy nó!” “Rồi con sẽ thấy thôi. Đi theo cô.” Hai cô cháu gạt đám cỏ dại ẩm ướt ven đường, tiến tới, thế nhưng đi mãi vẫn chưa nghe thấy tiếng chim sẻ đất. Đây không phải dấu hiệu tốt. Chúng đáng lý ra phải chiêm chiếp báo động cho nhau mới phải. Mối nghi ngờ của Jo đã được xác nhận khi cô nhìn thấy tổ chim nát bấy. “Tổ chim bị sao vậy cô?” Ursa hỏi. “Con phải tự tìm ra nguyên nhân, giống như thám tử nhìn vào manh mối để giải quyết vụ án vậy. Nguyên nhân đôi khi là do chim mẹ không có kinh nghiệm, xây tổ yếu quá nên bị rơi. Nếu tổ không chắc thì những hôm trời mưa như hôm nay cũng đủ làm nó rơi xuống đất.” “Vậy tổ chim này rơi vào trường hợp như vậy hở cô?” “Từ những manh mối cô nhìn thấy thì không phải.” “Manh mối gì vậy ạ?” “Thứ nhất, cô nhớ tổ chim này được xây rất chắc chắn. Thứ hai, trên mặt đất không hề có quả trứng nào. Thứ ba, hoàn toàn không thấy bóng dáng của chim bố và chim mẹ trong khu vực này, chứng tỏ cái tổ đã bị như vậy trước khi mưa xuống. Và manh mối lớn nhất chính là việc tổ chim bị phá nát như thế nào. Cô đoán một con gấu mèo đã kéo nó xuống. Nếu một con rắn hay quạ ăn cắp trứng, tổ cũng không đến nỗi bị nát bấy như vậy. “Gấu mèo đã ăn trứng chim rồi ạ?” “Nói chung, con thú đã phá hủy tổ chim và ăn trứng. Ở một số tổ, cô gắn cả camera nên cô biết chắc loài vật nào là thủ phạm.” “Sao cô không lắp camera cho cái tổ này ạ?” “Cô không thể bạ đâu cũng lắp camera được. Camera đắt lắm. Mình đi đến những tổ chim tiếp theo thôi.” “Liệu chúng có bị con gấu mèo ngu ngốc nào đó đánh chén sạch sành sanh không ạ?” Ursa hỏi lúc họ đi bộ trở lại xe. “Chắc không đến nỗi. Nhưng theo giả thuyết của cô thì ở những vùng rìa do con người xây dựng, như dọc theo con đường hay đồng ruộng, tỉ lệ chim sẻ đất xây tổ thành công thấp hơn những vùng rìa tự nhiên, như cạnh suối hay chỗ một cái cây lớn bị đổ. Con đã nghe từ giả thuyết bao giờ chưa?” “Dạ rồi ạ, nhưng người Hetrayeh dùng một từ khác.” Con bé trèo lên băng ghế sau. “Hôm nay con có một giả thuyết về cô.” “Thế à? Giả thuyết gì vậy?” “Nếu hôm nay cô không đem cảnh sát tới nữa, thì từ nay về sau, cô cũng sẽ không bao giờ gọi họ.” Bằng sự tự tin đầy mình, con bé đã đưa ra một giả thuyết với độ chặt chẽ vượt trội. Jo quay người ra sau nhìn nó. “Điều đó có nghĩa là gì? Con nghĩ giả thuyết của con đã được chứng minh, và giờ con sẽ ở với cô à?” “Cho đến khi con thấy đủ năm điều kỳ diệu thôi mà.” “Hai ta đều biết chuyện này không thể xảy ra. Tối nay con phải về nhà. Vài tiếng nữa là thầy Shaw - giáo sư hướng dẫn của cô - đến đây rồi, và cô chắc chắn sẽ gặp rắc rối nếu thầy ấy phát hiện con đã ở trên đất Nhà Kinney hai ngày hôm nay.” “Thì cô đừng kể với thầy là được mà.” “Thế cô biết giải thích thế nào với việc có một bé gái ngủ trong nhà của cô chứ?” “Con sẽ ngủ chỗ khác.” “Con sẽ ngủ ở nhà của con. Vậy nên chúng ta mới đi ra ngoài thế này. Con chỉ cần chỉ cho cô nơi con sống, cô sẽ đưa con về đến tận cửa. Cô sẽ nói với người đang chăm sóc con là cô sẽ đến đó kiểm tra hằng ngày. Và cô sẽ làm vậy. Cô hứa đấy!” Đôi mắt nâu của đứa bé ầng ậng nước. “Cô nói dối con? Thật ra cô không muốn cho con xem tổ chim có phải không?” “Cô sẽ cho con xem, nhưng sau đó con phải về nhà. Thầy hướng dẫn của cô sẽ…” “Thì cô cứ làm đi, đưa con tới từng nhà mà xem, tất cả mọi người sẽ bảo họ không biết con!” “Con phải về nhà mình chứ!” “Con hứa sẽ về sau khi thấy đủ năm điều kỳ diệu. Con hứa thật mà!” “Ursa…” “Cô là người tốt duy nhất mà con biết! Con xin cô đấy!” Con bé khóc toáng lên, khuôn mặt tím ngắt. Jo vội mở cửa bên hông xe, tháo dây an toàn cho đứa bé và ôm nó trong tay, lần đầu tiên cảm nhận được một cái đầu áp vào lồng ngực đầy xương xẩu của mình. Nhưng đứa bé không để ý đến khiếm khuyết trên cơ thể cô. Nó níu chặt lấy Jo và rống lên nức nở. “Cô xin lỗi,” Jo thủ thỉ. “Cô thật sự xin lỗi, nhưng con phải thấy cô đang ở trong tình thế tiến thoái lưỡng nan như thế nào. Cô có thể sẽ gặp rắc rối nếu cô để con ở lại.” Ursa buông khỏi vòng tay cô, đưa mu bàn tay lên quẹt mũi. “Mình đi xem thêm một tổ chim nữa được không ạ? Con xin cô đấy!” “Vẫn còn bốn tổ nữa, cô sẽ đưa con đi xem hết. Nhưng sau đó, con phải về nhà.” Con bé nhất quyết không chịu. Nó là đứa con nít cứng đầu cứng cổ nhất vũ trụ mà cô biết. Jo tiếp tục lái xe đi kiểm tra những tổ chim tiếp theo. Lúc cô dừng xe ở chiếc cờ màu cam thứ hai, cô nhóc đã hoàn toàn bình tĩnh trở lại sau trận khóc tràn bờ đê ban nãy, chỉ còn đôi má hơi ửng đỏ. “Con mong là lần này gấu mèo không ăn trứng chim nữa,” Ursa cầu nguyện. “Những quả trứng ở tổ này giờ có lẽ đã thành chim con cả rồi. Cô áng chừng chúng đã nở hết trong hôm qua.” Ursa nhảy ra khỏi xe và đọc nội dung được ghi trên lá cờ được cột ở cây sung dâu còn non. “Tổ chim sẻ đất màu chàm cách bảy mét về hướng Đông Bắc và cách mặt đất một mét.” “Giỏi quá. Vậy giờ cô cháu mình tìm hướng Đông Bắc bằng la bàn của cô nhé.” Jo chỉ cho con bé cách dùng la bàn và dẫn cô bé đi đúng hướng. Khi Ursa tiến đến gần tổ chim, chim bố và chim mẹ bắt đầu hót vang cảnh báo. “Con có nghe thấy những tiếng chiêm chiếp rất to và hốt hoảng kia không? Những chú chim sẻ đất màu chàm sẽ kêu như vậy mỗi khi con tiến quá gần đến tổ của chúng.” Con chim trống kích động đậu trên ngọn cây, lớp lông vũ màu ngọc bích ánh lên dưới vầng tà dương vừa ló dạng khi mây đen tản đi. “Con chim trống đậu ngay phía trước con kìa. Con nhìn thấy không?” “Con thấy rồi, con chim đó màu xanh!” Ursa reo lên. “Nó mang mọi sắc xanh luôn kìa cô!” Sự hào hứng của con bé dâng cao và vô cùng chân thật. Nếu nó sống trên con đường đằng kia hoặc bất cứ con đường nào gần đây, chắc chắn đã từng nhìn thấy loài chim này. Chim sẻ đất là giống chim rất phổ biến ở các vệ đường phía Nam Illinois. “Con thấy tổ chim rồi!” Ursa nói. “Con nhìn vào trong có được không ạ?” “Con nhìn đi.” Ursa rẽ đám cây cỏ cao ngang bụng sang hai bên và nhìn vào tổ chim. “Ôi trời ơi!” Con bé kinh ngạc kêu lên. “Ôi trời đất ơi!” “Trứng nở rồi đúng không?” “Dạ phải! Con chim non màu hồng, bé tí xíu! Chúng há mỏ nhìn con kìa cô!” “Chúng đói đấy. Hôm nay trời mưa nên chim bố chim mẹ không tìm được nhiều côn trùng cho chúng.” Jo quan sát bốn con chim sẻ đất vừa nở. “Cô cháu mình nên đi thôi. Con có nghe thấy tiếng chim bố chim mẹ đang kêu thất thanh thế nào không?” Ursa không thể rời mắt khỏi lũ chim non. “Đây quả là một điều kỳ diệu! Đây rồi, điều kỳ diệu thứ nhất!” “Con chưa bao giờ thấy chim non trong tổ à?” “Làm sao con thấy được chứ? Con đến từ một hành tinh không có chim non và tổ chim mà.” “Mình nên đi thôi,” Jo nói. “Chim bố và chim mẹ phải cho chúng ăn trong lúc trời còn sáng.” Khi cả hai đã quay trở lại xe, Jo hỏi Ursa, “Đó thật sự là chú chim sẻ đất màu chàm đầu tiên con thấy à?” “Vâng ạ. Tính đến lúc này, đó là con chim đẹp nhất con từng thấy trên Địa Cầu.” Jo và Ursa tiếp tục kiểm tra tổ chim kế tiếp, có bốn quả trứng bên trong. Sau đó là tổ chim Vireo mắt trắng. Vireo không phải loài chim mục tiêu của cô, nhưng tìm được tổ nào cô cũng tranh thủ lấy dữ liệu. Trong tổ có ba con chim Vireo chưa đủ lông đủ cánh và một con chim chìa vôi chưa cứng cáp. Trên đường quay lại chỗ đậu xe, Jo chỉ cho Ursa loài chim chìa vôi đầu nâu và kể cho cô bé nghe cách chúng gửi trứng của mình vào tổ của những loài chim khác để nhờ chim “chủ nhà” này nuôi con của mình. “Sao chim chìa vôi không muốn chăm sóc con của mình ạ?” Ursa hỏi. “Bởi vì bằng cách này, chúng có thể cho ra đời nhiều chim non hơn, vì các loài chim ‘chủ nhà’ đã thay nó thực hiện công việc nuôi nấng chim non rồi. Trong tự nhiên, kẻ chiến thắng là kẻ tạo ra thế hệ sau nhiều nhất.” “Vậy chim Vireo có bực mình khi phải nuôi con của chim chìa vôi không ạ?” “Chúng không biết mình đang nuôi con của chim chìa vôi. Chúng bị lừa làm việc này. Và thường thì chim non của chim ‘chủ nhà’ sẽ không có đủ thức ăn do chìa vôi non to hơn, lớn nhanh hơn và hót vang hơn khi đòi đồ ăn. Thậm chí, nhiều lúc những con chim non của chim ‘chủ nhà’ còn chết nữa.” “Thế những con chim Vireo này có chết không ạ?” “Cô thấy vẫn ổn. Bố mẹ chúng đang làm rất tốt để mấy con chim non đều đủ ăn.” Ursa chần chừ mãi không chịu lên xe mà nhìn thật chăm chú vào cái tổ chim cuối cùng. Con bé dừng lại ngắm hoa, hỏi Jo về một con bọ cánh cứng, lại còn giả vờ tỏ ra hứng thú với viên đá mà nó tìm thấy trong đám cỏ dại. Ursa cứ nghịch tới nghịch lui hòn đá trong tay suốt quãng đường dẫn đến tổ chim cuối cùng, có một đoạn chạy ngang qua đường nhà Anh Bán Trứng. Hai cô cháu rời khỏi xe, nhưng trước khi Ursa có thời gian đọc thông tin trên dải băng quan trắc thì một chiếc xe Suburban màu trắng mang biển hiệu trường đại học chạy qua khúc quanh. Giáo sư Shaw Daniels với mái tóc bạc trắng ngồi sau tay lái vẫy tay chào Jo. Ông dừng xe ngay phía sau xe của cô và nhoài thân hình lêu nghêu của mình ra khỏi cửa. “Trễ thế này mà em vẫn làm việc à?” “Cũng chưa trễ lắm ạ,” Jo đáp. “Mới sáu giờ thôi mà thầy. Em cứ tưởng gần tám giờ thầy mới tới?” “Mục cuối bị hủy bỏ vì ngộ độc thực phẩm.” “Thầy không phải đang đùa đấy chứ?” Ông lắc đầu. “Có người ăn gì đó ở quầy lễ tân đêm hôm trước và bị ngộ độc.” Qua cánh cửa bên phía người lái đang để mở, Jo nhìn thấy Tanner đang ngồi ở phía sau cùng với Carly Aquino. Ánh nhìn của gã đầy tội lỗi, dù đã cố gắng nặn ra nụ cười gượng gạo để che giấu cảm xúc ấy. Lúc trước, cô đã thích gã vì cái gì ngoài khuôn mặt bảnh bao nhỉ? Cô quay mặt nhìn qua Leah Fisher đang ngồi ở ghế hành khách phía trên. “Có ai bị đau bụng không?” “Cả đám bọn anh đều ổn,” Leah đáp. “May mà thầy và mấy đứa không nán lại quầy tiếp tân lâu,” thầy Shaw trả lời, “vì chúng ta phải đi ăn tối với thầy John Townsend và hai nghiên cứu sinh của thầy ấy.” Ông cứ nhìn chằm chằm vào Ursa. “Và cô bé này là ai đây?” “Đây là Ursa, sống ở gần đây. Em đang chỉ con bé cách em kiểm tra tổ chim.” “Rất vui được gặp con, Ursa,” ông nói. “Thầy tên là Shaw. Con đang cầm gì trong tay thế?” “Một viên đá có tinh thể màu hồng bên trong ạ,” Ursa đáp. “Tuyệt đấy,” thầy Shaw nói, hướng ánh nhìn xuống đôi dép quá khổ so với bàn chân con bé. “Con bé đi chân đất,” Jo giải thích. “Nên em cho nó mượn dép của mình để không bị đau chân. Mọi người đói chưa?” “Đói lắm rồi,” thầy Shaw lên tiếng. “Thầy và mấy đứa chỉ được ăn chút khoai tây chiên cho bữa trưa ở trên xe.” “Vậy mọi người cứ lên nhà uống chút bia, trong lúc em đi kiểm tra tổ chim cuối cùng nhé.” “Anh nghe thấy từ bia thì phải?” Tanner hỏi với ra từ trong xe. “Đúng rồi,” Jo đáp. “Rất nhiều là đằng khác. Cửa dẫn vào nhà không khóa đâu.” Đợi đến khi thầy Shaw đánh xe đi, Jo mới đi bộ về phía tổ chim sẻ đất cuối cùng, những lo lắng về Ursa tạm thời biến mất trước thái độ tội lỗi khá rõ ràng của Tanner. Thể nào cả hai cũng sẽ phải nói với nhau những lời sống sượng hết sức, mà chưa kể, với một người có lá gan chuột nhắt như Tanner, anh ta chắc chắn sẽ tìm cách tránh né tình hình căng thẳng này càng lâu càng tốt. Những tiếng sủa đinh tai nhức óc vang lên dưới con đường. Jo chưa bao giờ thấy con chó nhỏ sủa như thế, nhưng còn ai vào đây nữa. “Chết thật, khéo con chó tấn công họ mất,” cô lo ngại. “Gấu Nhỏ sẽ không cắn họ đâu,” Ursa trấn an cô. “Sao con biết được? Nó đang bảo vệ Nhà Kinney như thể nó sống ở đó. Biết vậy cô đã không cho con để nó lên hiên rồi.” “Con sẽ dạy nó không sủa.” “Con sẽ đem nó ra khỏi khu đất ấy… khi con rời đi.” Tiếng sủa vẫn không dừng lại. Jo hối hả tiến về phía tổ chim cuối cùng. “Thầy Shaw là một người tốt,” Ursa nhận xét khi đi theo phía sau cô. “Thầy ấy rất tốt, nhưng điều đó không có nghĩa là thầy ấy sẽ không bảo con về nhà.” “Nhưng con không có nhà ở đây!” Jo ngừng bước, mặt đối mặt với con bé. “Đừng bao giờ nghĩ đến chuyện nói với thầy ấy rằng con đến từ hành tinh khác. Cũng không được nói với bất cứ ai điều đó. Con hiểu chưa?” C 6 hớp lóe sáng ở quầng mây xa xa phía Nam. “Mong rằng đó chỉ là sét nhiệt,” Jo lo lắng. “Em không muốn lỡ thêm ngày nào ở khu thực địa này nữa.” “Lâu lâu em nghỉ ngơi đi cho khỏe,” thầy Shaw căn dặn. Lại là về căn bệnh của cô. Cả bốn người họ đều hỏi han cô cảm thấy như thế nào. Carly và Leah đề nghị cô tuyển trợ lý thực địa để đỡ đần công việc nghiên cứu. Họ thậm chí còn không cho cô xếp mấy miếng thịt lên vỉ. Em cứ ngồi đi, Joanna. Bọn anh sẽ nấu bữa tối trong lúc em nghỉ ngơi. “Để em đi đóng cửa xe cho chắc ăn,” Jo nói, rời khỏi đám lửa. “Em vào nhà lấy bia. Có ai muốn uống không?” Giọng Tanner vang lên sau lưng cô. “Thầy không, cảm ơn em,” thầy Shaw nói. “Mình không nhé,” Carly đáp. “Mình cũng uống nốt chai này thôi,” Leah trả lời. Ursa đang bắt đom đóm bỏ vào cái lọ mà Jo đưa cho cô bé ban nãy. Khi thấy cô rời khỏi nhóm người đang tụ tập thành vòng tròn quanh bếp lửa, con bé lẽo đẽo đi theo từ đằng xa. Jo để nó ăn tối cùng mọi người và lắng nghe cả nhóm chuyện trò quanh đống lửa, nhưng chẳng chóng thì chày, Jo cũng phải đưa cô nhóc đi chỗ khác. Chưa gì cô đã phải đánh trống lảng trước những câu hỏi về việc tại sao con bé lại lảng vảng quanh căn nhà. Chẳng nói đâu xa, mới mười lăm phút trước, thầy Shaw vừa thắc mắc, “Không phải đã đến giờ cô bé kia nên về nhà rồi hay sao?” Jo ngồi trong chiếc xe tối thui đậu ngoài đường lái, nổ máy, đóng cửa sổ mà cô vẫn để mở từ ban chiều trong lúc ba chân bốn cẳng chạy về giải cứu những vị khách của cô khỏi móng vuốt của Gấu Nhỏ. Con chó nhỏ bình tĩnh ngay lập tức sau khi thấy Jo và Ursa xuất hiện, nhưng cô phải giải thích với thầy Shaw rằng nó là một con chó hoang và nhất quyết không chịu rời khỏi đây. “Chắc là do em đã cho nó ăn, thế là giờ em chết dí với nó rồi đấy,” thầy Shaw nói đầy vẻ trách cứ. Giá mà thầy biết sự thật phía sau. “Xe tốt đấy,” giọng Tanner vang lên từ trong bóng tối. Hắn ta đã uống ít nhất sáu chai bia, đủ để có thể trơn tru già mồm nói những điều mà Jo biết hắn sẽ nói. Cô khóa cửa xe lúc khuôn mặt điển trai của Tanner hiện ra từ sau bóng tối, được chiếu sáng bởi ánh đèn ngoài hiên. “Đúng thế,” Jo đáp. “Nó là chiếc xe đầu tiên còn mới mà em từng sở hữu. Nhưng thành thật mà nói, em thấy chạy chiếc Chevy cũ của mình ở đây thì sẽ tốt hơn. Những con đường rải sỏi của vùng này hành chiếc xe lên bờ xuống ruộng rồi.” Tanner đặt tay lên mui chiếc xe Honda SUV bóng loáng màu đỏ. “Ngày trước nó là xe của mẹ em à?” “Mẹ cứ khăng khăng bắt em nhận, mà anh trai em cũng không muốn dùng.” “Cô Jo ơi, con bắt được thêm một con bọ phát sáng nữa này. Giờ con có bốn con rồi,” Ursa cất giọng từ dưới bóng cây hồ đào. “Nhưng lát con phải thả chúng đi đấy,” Jo dặn. “Con sẽ thả ạ,” con bé ngoan ngoãn. “Cô bé đáng yêu quá,” Tanner nhận xét. “Bố mẹ con bé không lo lắng khi nó ở ngoài đường trễ như vậy à?” “Em nghĩ tình hình nhà con bé hơi đáng ngại,” Jo nói. “Tệ vậy?” “Ừ.” “Jo…” Cô khoanh hai tay trước ngực và chờ đợi. Tanner tiến lại gần, đường nét khuôn mặt hắn mờ đi do bóng cây hắt xuống, khoảng cách gần cùng nét mặt vô chừng khiến màn đêm ẩm ướt chẳng khác nào một buổi xưng tội ở nhà thờ. “Anh xin lỗi vì đã không đi Chicago để gặp em,” anh ta lên tiếng. “Nhưng anh cứ tưởng…” “Tưởng gì?” “Anh tưởng em không muốn anh gặp em trong bộ dạng ấy.” “Bộ dạng gì?” “Thì em biết mà… bệnh tật. Tóc rụng hết và những thứ khác nữa.” Thấy cô lặng thinh, hắn xoay cổ răng rắc hết bên này đến bên kia, một cử chỉ thường thấy khi gã đang căng thẳng. “Anh sai rồi sao?” “Anh nói đúng. Em không muốn gặp ai cả.” Nếu trong suốt hai năm qua cô đã học được điều gì, thì đó là cuộc sống này đã đủ khó khăn rồi, chẳng cần phải thêm những thù hằn vặt vãnh. Hắn tu bia ừng ực như để xua đi chút cảm xúc tội lỗi cuối cùng. “Em muốn uống không?” Gã hỏi, chìa chai bia ra cho cô. “Để anh đi lấy cho em nhé?” “Không cần đâu.” Gã lại tu một hơi rõ dài từ chai bia của mình. “Với lại, nhìn em tuyệt lắm.” “Tuyệt với một người sống sót sau ung thư ư?” “Thì chỉ là anh thấy tuyệt vời thôi.” “Cảm ơn anh.” “Em có tính tái tạo lại ngực sau khi sức khỏe đã ổn định hơn không?” “Sức khỏe của em giờ tốt hơn nhiều rồi.” “Nhưng có lẽ vẫn sẽ phải đợi ít lâu đúng không…?” Jo buông tay khỏi ngực. “Em muốn cứ thế này. Sau khi được trải nghiệm một bộ ngực không vướng víu giống như cánh mày râu, em không muốn trở lại như xưa nữa.” Hắn khẽ nhếch mép cười, cho rằng câu nói hài hước của cô đầy cay độc. “Sau tất cả những chuyện đã xảy ra, anh có thể hiểu tại sao em muốn như vậy. Nhưng ít nhất, mẹ em cũng đã được chẩn đoán kịp thời để rồi cứu được em.” Hắn nghiêng đầu trái phải để bẻ khớp cổ. “Ý anh là…” “Em biết ý anh là gì, và anh nói đúng. Bản thân mẹ em cũng nói thế mà. Chẳng ai lại đi chụp ảnh nhũ hoa của mình ở tuổi hai mươi tư cả. Nếu mẹ em không ngã bệnh và phát hiện mình có đột biến gen thì có lẽ em cũng đã không biết mình mắc căn bệnh ung thư cho đến khi quá muộn.” “Anh hy vọng em sẽ không thấy phiền khi anh biết chuyện, nhưng anh nghe bảo bác sĩ đã cắt bỏ toàn bộ.” “Các y bác sĩ không cắt bỏ hết. Em vẫn giữ tử cung mà. Em khá chắc họ để lại nguyên vẹn bộ não cho em nữa.” Lần này, hắn không cười. “Lý ra em nên chờ thêm một thời gian nữa hẵng quyết định.” Có lẽ, hắn đang trình bày lại với cô những ý kiến mà giáo sư và các nghiên cứu sinh khác trao đổi với nhau trong hai năm cô vắng mặt. “Bà ngoại em và chị em đều qua đời trước tuổi bốn mươi lăm vì ung thư buồng trứng,” cô nói. “Em không muốn bình chân như vại, đợi quả bom nổ chậm ấy nổ tung.” “Em không giữ lại trứng hay gì sao?” “Để làm gì? Để em có thể truyền nỗi thống khổ này cho con gái em chắc?” “Anh hiểu ý em mà. Nhưng còn hoóc-môn các thứ thì sao?” “Sao là sao?” “Không phải nếu không có buồng trứng thì em sẽ bước vào thời kỳ mãn kinh sao?” Chắc chắn, hắn ta đã bàn ra tán vào về quyết định của cô đối với căn bệnh của mình. Cô dám cá hắn chưa lần nào thốt lên từ mãn kinh trước khi cô bị chẩn đoán ung thư. “Em đang điều trị thay thế hoóc-môn,” Jo nói. “Việc này vẫn khiến em cảm thấy bình thường chứ?” Cô cho rằng việc cô đá vào bộ hạ của hắn thì sẽ là không được bình thường cho lắm. Thay vào đó, cô chỉ trả lời, “Ừ, em thấy tuyệt lắm.” Hắn ta gật đầu, đoạn đưa chai bia lên môi, nốc cạn. “Em biết cái cô diễn viên” - hắn cố nặn óc nhớ lại tên cô ta nhưng tế bào não của hắn có lẽ đã ngâm bia quá lâu - “cô này cũng bị đột biến gen, thế là cô ta cắt hết. Sau đấy, cô ấy đi phẫu thuật tái tạo, và nghe đâu giờ cô ta có… đẹp lắm… em biết đấy…” “Cô ta có bộ ngực đẹp vì cô ta không thiếu tiền nên thích làm gì với cơ thể mình cũng được. Với cả, cô ta không bị ung thư. Cô diễn viên ấy vẫn giữ được nhũ hoa, phần da và cơ của cô ta chưa bị tác động.” Hắn gom đủ can đảm nhìn vào ngực cô. “Nhưng em không nghĩ một ngày nào đó em sẽ…” “Không hề! Anh thôi đi! Tôi hài lòng với vẻ ngoài hiện tại của mình, và anh cũng nên như vậy đi. Anh hiểu điều đó không, Tanner? Liệu anh có thể xem tôi là một con người trọn vẹn nữa hay không?” “Chết tiệt… Jo, anh xin lỗi…” “Anh nên quay lại chỗ Carly đi. Và hai người có thể thôi cái trò giả vờ như mình không quen nhau để thương hại tôi rồi đấy. Vì tôi không mướn điều đó.” Jo quay lưng bước đi, tiến về khoảng không tối đến tê người, tiếng dế và châu chấu vang lên réc réc. Cô cảm thấy mình như thể đang bị gây mê, màn đêm ngày càng sâu hơn, thăm thẳm theo từng bước chân cô. Khi bước ra ngoài, cô dừng lại cạnh con suối. Nước mắt giàn giụa trên khuôn mặt. “Cô Jo ơi?” Cô quay lại. Dưới ánh trăng huyền ảo, đứa bé gái nhìn giống hệt một tiểu yêu tinh, khuôn mặt nhợt nhạt của nó hằn bóng cây rừng. “Cô có ổn không?” Con bé hỏi. “Tất nhiên rồi,” Jo đáp. “Con nghĩ cô đang nói dối.” Tiếng Gấu Nhỏ bì bõm trong suối phủ lấp khoảng không im lặng giữa hai người. “Ursa, con phải…” “Con biết rồi. Giờ con phải đi,” cô bé ngắt lời cô. “Con về nhà à?” Con bé vặn nắp hộp và giơ chiếc hộp thủy tinh lên trên không. Lần lượt, từng con đom đóm tìm về với tự do, tựa hồ một chòm sao đang nở rộng trong khu rừng tối. Con bé đậy nắp lại và trả Jo cái lọ. “Đi thôi, Gấu Nhỏ,” con bé gọi con chó. Jo dõi theo bóng đứa bé và chú chó đi lên con dốc dẫn ra đường. “Con đi đâu thế?” “Con đi đến nơi cô muốn con đi,” nó đáp. 7 N gày hôm sau, Jo cuốc bộ suốt mười lăm tiếng đồng hồ ròng rã trong Rừng Shawnee, vừa để đẩy Tanner Bruce ra khỏi tâm trí, vừa để bù lại khoảng thời gian làm việc đã uổng phí sau những ngày mưa. Có lẽ, cô cũng làm vậy để chứng minh mình không bị bệnh. Cô kiểm tra và tìm kiếm tổ chim trong tất cả các khu vực thực địa “vùng rìa tự nhiên” của mình, đây là phần việc nhọc nhằn nhất vì các địa điểm này đều nằm ngoài sự tác động của con người, và để đến nơi, thường cô phải băng qua những bụi dây leo xù xì đầy gai ven sông cùng những cành tầm ma tua tủa. Vầng dương chỉ còn lấp ló sau đỉnh ngọn cây khi cô, cùng cơ man các thể loại sinh vật dính lên người, trèo vào chiếc xe Honda. Hoạt động thể chất và hòa mình cùng thiên nhiên đã giúp cô lấy lại sinh lực, như trước giờ vẫn thế. Tanner và những ý kiến vô duyên của gã vẫn lởn vởn trong đầu nhưng cô nhắm mắt cho qua, giống như ngọn đèn ngu ngốc bị trục trặc trên bảng điều khiển xe mà thôi. Tuy nhiên, Jo không tài nào gạt bỏ cô bé ngoài hành tinh ra khỏi suy nghĩ của mình. Từ giây phút thức giấc, cô đã cảm thấy tự dằn vặt bản thân mình vì không đưa con bé về tận cửa, mặc dù cô nghi ngờ không biết con bé có về nhà thật hay không. Khi bỏ đi, con bé đã nói với cô Con đi đến nơi cô muốn con đi. Jo càng cố gắng lý giải ý của con bé thì càng nhận thấy điềm không lành. Vậy mà lúc ấy, cô chỉ đứng đó, nhìn con bé biến mất vào màn đêm. Cô quay lại Đường Turkey Creek, trong lòng đinh ninh đứa bé đang đợi mình ở Nhà Kinney. Nhưng rồi cô lại ước giá mà nó đã biến mất. Trong ánh sáng xám nhờ nhờ cuối cùng của chạng vạng, cô chạy xe vào con đường trải sỏi. Cô nhìn cây hồ đào trong sân trước. Không thấy con bé cũng như chú chó. Cô bỏ trang thiết bị xuống hiên và đi về phía đống lửa. “Ursa?” Cô cất tiếng gọi. Câu trả lời duy nhất cô nghe thấy là tiếng pin pin của một con cú muỗi đang kiếm ăn sau nhà. Một chiếc xe đang tiến vào. Không ai lái sâu vào con đường này như vậy, trừ phi họ bị lạc đường. Tấm biển đề ĐƯỜNG CỤT được đặt ở ngay phía đầu đường giúp đa phần mọi người không đi nhầm vào đây. Jo bước về phía trước lúc chiếc xe bán tải màu trắng của Anh Bán Trứng rẽ vào khúc quanh. Dưới ánh chiều nhập nhoạng, cô gần như không nhận ra chiếc xe đó. Lốp xe của anh nghiến xuống đường, đỗ xịch phía sau xe cô, đoạn anh tắt máy. Xem ra, điều khiến anh cất công đến tận đây để nói chuyện sẽ mất nhiều thời gian. Jo tiến tới chào khi anh bước ra khỏi xe. “Tôi nghe tiếng xe cô chạy vào con đường,” anh nói. “Tôi đợi cô nãy giờ.” Cô giữ khoảng cách giữa hai người. “Có chuyện gì vậy?” Anh tiến lại gần. “Tôi nghĩ cô biết mà. Cô mau tống khứ cô bé ngoài hành tinh đi cho tôi.” “Tôi không hề bảo nó đến nhà anh!” “Sao cô không đưa nó đến cảnh sát?” “Anh đưa con bé đi à?” Anh bước lại gần hơn, đủ để cô ngửi thấy mùi nấu nướng rất nồng. Không biết anh ta nấu gì cho bữa tối, nhưng nó ngào ngạt đến độ khiến cô cảm thấy đói ngấu. “Cô phải kiếm người sửa cái đèn này đi thôi,” anh nói, ngẩng đầu nhìn cột điện. “Nó đã hỏng từ hai tuần trước rồi, và tôi quyết định để tối một chút cũng hay.” “Không có gì là hay đâu vì dăm ba phường thảo khấu xem những căn nhà tối là mục tiêu dễ dàng hơn so với những căn nhà sáng đèn.” Phường thảo khấu. Thời nay ai còn dùng từ này kia chứ? Anh chà bàn tay của mình lên phần má lởm chởm râu. “Cô nhóc này quả là kiệt xuất đấy. Cô biết con bé đang làm gì không?” “Đọc Chiến tranh và Hòa bình?” “Thế là cô hiểu rồi đấy.” “Hiểu cái gì?” “Hiểu nó thông minh một cách lạ thường đến thế nào.” “Hôm chúng ta nói chuyện, tôi cũng đã bảo anh như vậy rồi mà.” “Ừ, nhưng giờ tôi mới có dịp chứng kiến. Mẹ tôi cũng cảm thấy con bé rất sáng dạ.” “Mẹ anh?” “Tôi chăm sóc bà ấy. Mẹ tôi đang bệnh.” “Tôi rất lấy làm tiếc,” cô lên tiếng, lặp lại điều mà rất nhiều người đã từng nói với cô. Anh gật đầu. “Cô bé ngoài hành tinh đó có nói với anh tên của nó không?” Jo hỏi. “Nó gọi mình là Ursa Major, vì đó là quê hương của nó.” “Cũng cùng cái tên mà con bé bảo tôi. Tôi nghĩ Ursa là tên thật của nó.” “Tôi cũng cho là vậy,” anh gật gù. “Tôi đã tìm trên mạng xem có cô bé nào mất tích mang tên Ursa hay không.” Jo tiến lại gần anh ta. “Anh tìm trên trang web Trẻ Em Mất Tích Và Bị Lạm Dụng phải không?” “Đúng rồi,” anh đáp. “Anh có thấy bức hình đôi giày không?” “Cô cũng thấy nó à? Sao chuyện đó có thể xảy ra kia chứ? Sao không ai nhớ đến cậu bé ấy nhỉ?” “Có vẻ anh cũng đi qua một quá trình giống tôi,” cô nhận xét. “Tôi đã suýt gọi lên văn phòng cảnh sát trưởng ít nhất năm lần. Nhưng tôi quyết định trước tiên phải trao đổi với cô đã.” “Tôi cũng không biết phải làm thế nào,” cô thành thật. “Trừ phi anh sẵn sàng nhốt con bé vào một căn phòng.” “Cô nói thế là sao?” “Đúng y như những gì tôi nói. Tôi đã gọi cho cảnh sát trưởng vào cái đêm hai chúng ta nói chuyện. Con bé không kể với anh điều đó à?” “Không. Đã có chuyện gì xảy ra vậy?” “Nó dọa nó sẽ trốn và nó làm y như vậy. Cuối cùng thì phía cảnh sát không kịp nhìn thấy cô nhóc.” “Chết tiệt,” anh nói. “Tôi linh cảm nếu tôi gọi điện, chuyện đó sẽ xảy ra. Thế viên cảnh sát bảo thế nào? Anh ta có thông tin đứa trẻ nào mất tích không?” “Anh ta không có thông tin nào cả. Tay cảnh sát làm như thể tôi đang lãng phí thời gian của anh ta vậy. Anh ta còn không thèm bảo sẽ cố gắng tìm con bé, ngay cả khi tôi kể con bé bị bầm tím khắp người.” Rõ ràng, người anh sượng lại. “Nó bị bầm tím ư?” “Trên cổ, tay và chân. Chúng đều bị quần áo che đi.” “Trời ơi. Những vết bầm tím ấy có giống do bị bạo hành không?” “Một trong số những vết bầm tím ấy có dấu tay.” “Cô có báo cảnh sát điều đó không?” “Tôi đã nhắc đi nhắc lại với tay cảnh sát ấy rằng tôi dám chắc có người đã làm đau con bé. Nhưng anh ta không mấy ủng hộ chuyện đưa những đứa trẻ ra khỏi nhà của chúng. Anh ta kể cho tôi nghe chuyện một người bạn thời cấp hai của anh ta. Người bạn ấy bị giao vào tay ông bố bà mẹ nuôi bạo hành, và rốt cuộc cũng tự tử.” “Anh ta bảo cô đừng giao nộp con bé à?” “Không hẳn. Nhưng tay cảnh sát bảo có nhiều người nhận nuôi trẻ cơ nhỡ chỉ để hưởng tiền. Thậm chí, anh ta còn nói ngay cả khi Ursa bị bầm tím do bạo hành, con bé sẽ nói dối về nguyên nhân. Anh ta bảo viện trẻ cơ nhỡ có khi cũng tám lạng nửa cân so với căn nhà của nó, và con bé biết điều đó.” “Cảnh sát gì mà lại đưa ra mấy lời khuyên vớ vẩn kiểu đấy kia chứ?” “Anh thấy vậy à?” “Cô đồng ý với anh ta sao?” “Tôi không biết,” cô thành thật. “Tôi chưa có thời gian suy xét từ sau khi nói chuyện với anh ta. Hôm qua tôi có khách…” “Ursa có kể với tôi.” “Anh biết đêm qua tôi phát hiện điều gì không? Tôi nghĩ con bé không phải người ở đây.” “Thật lạ khi nghe cô nói thế…” Anh hiếu kỳ. “Sao vậy?” “Hôm nay, tôi cũng nghĩ điều tương tự. Khi tôi khoe với cô nhóc mấy con mèo mới sinh, con bé mừng như bắt được vàng. Nó bảo những con mèo này là điều kỳ diệu. Rõ ràng, con bé chưa được thấy mèo con bao giờ, mà con nít vùng quê thấy mèo con như cơm bữa.” “Con bé lại có thêm một điều kỳ diệu rồi à?” “Nó bảo chỉ còn ba điều nữa.” “Điều kỳ diệu đầu tiên của nó là chim non.” “Cô bé cũng kể với tôi,” anh đáp. “Giống như anh nói, con nít vùng quê ở tuổi con bé chắc hẳn đã thấy chim non ít nhất một lần. Tôi nghĩ con bé đến từ thành phố khác và có lẽ bị tống khỏi xe.” “Giọng con bé nghe cũng hao hao người vùng này.” “Có thể là Saint Louis,” Jo đoán. “Người dân vùng ấy không nói giọng nghèn nghẹt kiểu vùng quê như vậy đâu.” “Paducah?” “Tôi đã tìm từng bang miền Nam có thể nói giọng giống vậy, thậm chí tìm xuống tít Florida,” anh kể. “Nhưng không thấy con bé trong danh sách mất tích.” “Nếu những người chăm sóc tống cổ con bé ra khỏi xe, rõ ràng họ sẽ không báo nó mất tích.” “Có thể nó chạy trốn,” anh nêu ý kiến. “Con bé rất thông minh, không lý gì nó lại giơ đầu chịu báng trước những kẻ ngu ngốc ấy. Tôi chưa nói cho cô biết con bé đang làm gì đúng không nhỉ?” “Làm gì?” “Nó thấy mấy cuốn sách về Shakespeare trên giá sách nhà tôi và hỏi tôi có thích nhà văn hào ấy không. Khi tôi đáp tôi rất thích Shakespeare…” Jo để lọt mất vài chữ tiếp theo khi mải thẩm thấu thông tin Anh Bán Trứng thích Shakespeare. “… con bé đòi đặt tên cho sáu chú mèo con theo tên của nhân vật trong các vở kịch của ông. Nó xin dùng máy tính của tôi để đọc về các nhân vật rồi mới quyết định xem nên đặt tên gì. Và đó là điều nó đang làm: nghiên cứu các vở kịch.” “Con bé cũng làm thế với tôi, nó hợp cạ với niềm đam mê chim chóc của tôi, thậm chí còn đọc vài phần trong cuốn giáo trình Điểu học. Tôi đoán nó làm vậy để có thể gắn kết với mọi người.” “Đó có thể là cách con bé sống sót trong căn nhà không cơm lành canh ngọt chút nào của mình.” “Dễ thấy gia đình nó không hề gắn kết.” “Phải.” Jo tựa người vào đầu xe tải và đưa tay lên trán. “Cô không sao chứ?” Anh hỏi han. “Tôi mệt quá, không còn sức lo chuyện này nữa.” “Nhìn cô hơi đuối, ngồi xuống đi.” Cô rời khỏi xe tải của anh. “Tôi đã làm việc suốt mười lăm tiếng đồng hồ. Điều tôi cần bây giờ là đi tắm, ăn tối và ngủ.” “Cô có muốn nói chuyện với con bé không?” “Nói gì mới được chứ?” Anh khoanh tay trước ngực. “Tôi phải thú thật với cô điều này. Tối nay, Ursa và tôi đã ghé qua tìm cô hai lần.” “Chi vậy?” “Con bé lo cho cô. Nó bảo cô bị ung thư.” “Chết tiệt! Anh loan cái tin ấy cho mọi cột sóng điện thoại luôn đi.” Anh buông tay. “Tôi không biết có thể làm điều ấy đấy.” “Tôi không nghĩ có thể, nhưng các nghiên cứu sinh và thầy hướng dẫn của tôi cũng đã tận tình loan tin lắm rồi.” “Bệnh tình của cô thuyên giảm chưa?” “Có lẽ họ gọi tình trạng của tôi là đã thuyên giảm.” “Vậy cô có thể báo cho Ursa biết rằng cô ổn, hay tốt hơn hết là nói trực tiếp với nó điều đó không? Con bé cứ lo cô sẽ chết.” “Thì con người trước sau ai chẳng chết.” “Cô làm sao cho đứa trẻ chín tuổi hiểu là được.” “Được rồi. Đằng nào tôi cũng phải nói chuyện với cô nhóc. Tôi cảm thấy tội lỗi khủng khiếp khi để nó rời đi vào đêm qua.” “Chuyện bất đắc dĩ thôi mà. Con bé bảo cô sẽ gặp rắc rối với thầy hướng dẫn của mình.” “Có chi tiết nào về đời tôi mà hai người chưa đem ra mổ xẻ không?” “Chúng tôi chưa đụng tới việc cô mặc xiêm y bên trong như thế nào.” Xiêm y. Hẳn là người mẹ đã ảnh hưởng rất nhiều đến câu chữ của anh ấy. “Để tôi chở cô đi bằng xe tải của mình,” anh đề nghị. “Người tôi như một cái nùi giẻ.” “Xe tôi cũng có hơn gì đâu”. Cô không biết gì về Anh Bán Trứng - hay còn gọi là Gabriel Nash - trừ việc là một người thích Shakespeare, anh hẳn sẽ có trình độ học vấn ở mức tương đối, chứ không thể chỉ bán trứng trên một con đường ở vùng quê như thế này. Cô nhớ anh đột nhiên tỏ ra tức giận khi Ursa hỏi liệu anh có bằng tiến sĩ không. Chưa kể, Jo chưa bao giờ thấy bóng dáng người mẹ mà anh kể. Biết đâu anh ta đã giết Ursa và dùng con bé làm mồi để dụ Jo sập cái bẫy tương tự thì sao? Lần thứ một trăm có lẻ trong ngày, Jo tự dằn vặt bản thân vì đã để một cô bé mới chín tuổi đơn thương độc mã đi vào rừng. Anh nhìn thấy sự ngập ngừng của cô. “Nếu muốn thì cô lái xe theo tôi cũng được.” “Chắc tôi sẽ làm vậy.” “Cô đủ thông minh để không cần phải quá cẩn trọng như vậy.” “Anh nói vậy là sao?” Anh cân nhắc câu trả lời. “Nếu muốn hại cô, tôi đâu thiếu gì cơ hội, vì cô sống ở đây mà.” “Tôi cũng thế, nếu tôi muốn hại anh,” cô ăn miếng trả miếng, vì anh ta không có quyền xem phụ nữ sống đơn chiếc trong rừng là miếng mồi để giở trò bạo lực. Anh khẽ cười, hàm răng trắng lộ ra dưới màn đêm. “Thường thì có nhiều hơn một người đến thuê căn nhà này. Sao hè năm nay chỉ có mình cô vậy?” “Thì dòng đời đẩy đưa thế,” cô đáp. Sự thật là, ban đầu, có một nghiên cứu sinh chuyên các loài côn trùng đồi - đồng cỏ cũng dự tính sống ở Nhà Kinney vào mùa hè này, nhưng khi nghe tin phải ở chung với Jo, anh ta ngay lập tức đổi ý. Anh ta dùng tiền nghiên cứu của mình để thuê một căn nhà khác, viện cớ muốn ở gần khu thực địa hơn. Nhưng Jo nghi ngờ anh ta không muốn lửa gần rơm với một người phụ nữ đã không còn là phụ nữ đúng nghĩa nữa. Không ít đàn ông trong số các nghiên cứu sinh tỏ ra lúng túng như gà mắc tóc trước mặt cô kể từ khi cô trở về, nhất là những người ngày trước đã từng tán tỉnh cô. Bác sĩ tâm lý của Jo đã chuẩn bị tinh thần cho cô trước những phản ứng như vậy từ phái mạnh, nhưng nỗi tổn thương nó gây ra chẳng hề thuyên giảm nhờ bất cứ đợt trị liệu nào. Ngày qua ngày, cô phải vật vã đối mặt với đau đớn ấy. Chỉ có thiên nhiên và công việc nghiên cứu mới giúp cô vơi bớt nỗi lòng. “Thế thì tệ quá,” Anh Bán Trứng nói. “Hẳn cô phải cô đơn lắm.” “Cũng bình thường thôi,” cô thủng thẳng. “Tôi muốn ở một mình khi làm nghiên cứu. Có thêm người xung quanh chỉ tổ khiến tôi phân tâm.” Anh mở cửa xe tải. “Tôi đoán đó là gợi ý của cô. Đi theo tôi nhé.” C 8 on đường hẹp chằng chịt cành cây dẫn vào khu đất nhà Anh Bán Trứng hẳn bao nhiêu năm nay không hề được trải sỏi, và bề ngang của chiếc xe tải chính là cứu cánh duy nhất giữ cho con đường không bị rừng cây xâm lấn. Jo chạy xe theo thật cẩn trọng, bởi con xe Honda của cô hết rung lắc lại ken két rít lên khi bánh xe trượt xuống dưới rãnh sâu. Cô đã nghe thấy tiếng sủa oang oang của Gấu Nhỏ trước khi thấy đôi mắt của nó sáng lên trước ánh đèn xe. Nó tiếp tục sủa nhặng, tíu tít chạy tới chạy lui giữa xe tải và chiếc SUV, trong khi màn đêm tăm tối của khu rừng đã bắt đầu bao phủ lên khoảng sân được chiếu sáng bằng ngọn đèn chuyên dụng. Anh Bán Trứng nhảy ra khỏi xe và cố gắng ra hiệu cho chú chó im lặng. “Tôi thấy anh kế thừa cả Gấu Nhỏ lẫn Gấu Lớn nhỉ?” Jo nói trong khi bước xuống xe. “Tôi đã dặn Ursa không cho con chó ở trên đất của tôi.” “Chúc anh may mắn nhé.” “Tôi cũng biết vậy mà,” anh cười khổ. “Tôi để cô nhóc cho nó ăn.” “Coi chừng nó quen đấy.” “Đành chịu thôi. Tôi không muốn nó xách bụng đói đi loanh quanh đàn gà và đàn heo tôi nuôi.” “Anh nuôi cả heo à?” “Cô không ngửi thấy mùi hả?” “Tôi còn chẳng phân biệt được mùi heo và mùi ngựa.” “Đúng là dân thành đô.” Cái từ dân thành đô lại bắt tai cô. “Anh có ăn thịt những con heo mình nuôi không?” Cô hỏi. “Thật ra tôi còn đọc Shakespeare cho chúng nghe kìa.” Anh mỉm cười với cô. “Ừ, tôi ăn chúng chứ. Nhà tôi cố gắng tự cung tự cấp nhất có thể. Tôi ghét đi đến tiệm tạp hóa lắm.” “Tại sao? Anh không thích vẽ chuyện à?” “Cô không tưởng tượng nổi đâu,” anh nói, nhưng cô không hiểu ý anh muốn nói ở đây là gì. Anh liếc qua ô cửa sổ còn sáng đèn trong nhà. “Vấn đề của Ursa là con bé sống ở đâu đó quanh vùng này, nhưng bố mẹ nó có trục trặc. Ấy là suy nghĩ của mẹ tôi, nhưng bà không bằng lòng lắm khi con bé ở đây.” “Ursa có kể cho mẹ anh chuyện con bé là người ngoài hành tinh không?” “Có, nhưng câu chuyện đó chỉ càng khiến mẹ tôi tội nghiệp con bé. Bà bảo Ursa bịa ra thế giới viễn tưởng ấy để trốn chạy thực tại.” “Và đúng là như thế.” “Không, không phải thế đâu,” anh phản đối. “Ursa không tin điều vớ vẩn đó.” “Thế tại sao con bé cứ kể đi kể lại chuyện ấy?” “Vì con bé rất thông minh.” “Thông minh thế nào mà lại giả vờ rằng mình là người ngoài hành tinh chứ?” “Sao tôi biết được. Tôi dốt đặc cán mai nên chưa hiểu ra.” Ursa hào hứng lao qua cửa chính, chạy dọc hàng hiên, nhảy xuống ba bậc tam cấp như thể nó đã quen làm thế mấy năm nay. “Chú tìm ra cô rồi!” Con bé vòng tay ôm quanh người Jo và dụi đầu vào bụng cô. “Con nhớ cô quá, cô Jo ơi! Với cả cô biết gì không? Con thấy thêm một điều kỳ diệu rồi!” “Cô có nghe, mèo con hả?” Jo hỏi. “Con dẫn cô đi xem nhé?” Cô bé hỏi Gabe. “Nửa đêm rồi nên chúng ta tốt nhất đừng làm chúng kinh động, với cả cô Jo phải ăn nữa.” Anh quay sang Jo. “Chúng tôi còn rất nhiều đồ ăn sau bữa tối.” “Ồ… Cảm ơn anh,” cô đáp, “nhưng tôi…” “Cô ăn là giúp chúng tôi đấy. Tôi lỡ tay nấu nhiều quá.” “Sườn heo, xốt táo, đậu leo và khoai tây nghiền,” Ursa quảng cáo. “Chú Gabe trồng tất tần tật ở nhà đấy cô ạ. Chú ấy thậm chí còn làm cả xốt táo. Ở đây có cây táo nữa cô Jo ạ! Hôm nay con vừa mới trèo lên cây đấy!” “Mèo con, heo con và cây táo, đúng là thế giới mà đứa trẻ nào cũng mơ đến,” Jo nhận xét. “Kể ra con bé cũng thích thú lắm,” anh nói. “Tôi thấy mà.” Ursa dùng tay kéo Jo lên bậc thang phía dưới tấm biển gỗ đề NHÀ CỦA NASH. Hai cô cháu đi ngang qua một hàng ghế bập bênh dưới mái hiên rồi bước vào nhà. Nội thất bên trong căn nhà là một khoảng không gian rất bắt mắt, với tường gỗ, sàn gỗ, lò sưởi bằng đá và đồ đạc cũng tông xuyệt tông được làm từ gỗ. Căn nhà nhìn tươm tất hơn hẳn những gì Jo hình dung trong đầu, nhất là khi nhìn con đường nhếch nhác dẫn vào nhà cùng tấm biển CẤM VÀO cũ kĩ. Nhà bếp được trang bị đồ dùng hiện đại cùng mặt bếp bằng đá granite vô cùng trang nhã. Và nếu như căn Nhà Kinney cô đang ở thông gió bằng máy điều hòa không khí treo trên ô cửa sổ đã cũ kĩ thì nhà Nash sử dụng hệ thống điều hòa trung tâm. Một phụ nữ khuôn mặt phúc hậu, tóc bạc như tơ mà cô đoán là bà của Gabe đang ngồi ở bàn bếp, bên cạnh là cây gậy bốn chân. “Ta là Katherine Nash,” bà giới thiệu, quan sát Jo bằng đôi mắt xanh da trời sắc lẹm. Bà chìa bàn tay run run của mình ra chào cô, có lẽ là do bệnh Parkinson[12]. Jo nắm lấy tay bà. “Hân hạnh được gặp bà. Cháu là Joanna Teale, nhưng bà cứ gọi cháu là Jo.” “Ursa đã kể về cháu suốt ngày hôm nay.” “Cháu xin lỗi về điều đó,” Jo đáp, và bà Katherine mỉm cười. Gabe nhanh tay bày ra đĩa thức ăn nóng sốt từ cơ man nồi niêu xoong chảo trên bếp. Anh đặt nó lên bàn và kéo ghế cho cô. “Anh có chắc không đấy?” Jo nói với Gabe. “Đôi bốt của tôi sẽ khiến sàn nhà bẩn mất.” “Cháu đừng lo,” bà Katherine nói. “Ngày trước, chồng ta hay nói nhà gỗ mà không có chút đất bẩn dính trên sàn thì không đúng điệu.” “Một triết lý rất phù hợp cho một đứa nhóc lúc nào cũng lấm bẩn,” Gabe đế thêm. Jo tự hỏi liệu có phải anh được ông bà cưu mang nhận nuôi từ nhỏ. Ban nãy anh có kể mẹ mình bị bệnh. Có lẽ, mẹ anh mắc một căn bệnh mãn tính, khiến bà mất khả năng chăm sóc con cái từ lúc anh còn bé. Jo ngồi xuống, xắt miếng thịt được om nhừ, ăn một miếng sườn được nêm nếm vừa miệng. “Căn nhà đẹp quá,” cô cảm thán với bà Katherine. “Nó có sẵn lúc bà mua khu đất ư?” “Arthur - chồng ta - và một vài người bạn đã cùng nhau xây dựng nó đấy,” bà kể. “George Kinney, chủ của khu đất cháu đang thuê, cũng giúp chúng ta một tay. Cháu không biết sao, ông ấy và chồng ta là bạn thân lắm.” “Cháu không biết đấy,” Jo thật thà đáp. “Họ quen nhau từ thời làm nghiên cứu sinh và ở chung phòng tại Đại học Illinois. Sau khi học xong tiến sĩ, họ rốt cuộc cùng ở lại Illinois. Chồng ta dạy Văn học Anh ở Đại học Chicago, và ta nghĩ chắc cháu biết ông George là một nhà côn trùng học ở Đại học Illinois.” “Vâng, cháu biết ạ,” Jo trả lời. Cô liếc về phía Gabe, để ý anh vẫn đang dõi theo cô từ căn bếp. Giờ thì cô ngộ ra thêm một vài điều bí ẩn ở anh. Người ông nuôi lớn anh là một giáo sư văn học. Chẳng trách anh có mối liên hệ với Shakespeare và có lẽ đó cũng là lý do anh phản ứng trước câu hỏi liên quan đến văn bằng học vị của Ursa. Nhác thấy cô nhìn mình, Gabe vô thức quay đi, lấy chiếc hộp nhựa cất vào tủ lạnh. “Giữa Giáo sư Kinney và chồng bà, ai là người đầu tiên mua đất ở đây ạ?” Jo hỏi Katherine. “Ông Arthur và ta mua trước. Chúng ta muốn tìm chốn ẩn cư, rời xa phồn hoa đô thị, và ông Arthur từ thuở ấu thơ đã luôn mơ ước xây một căn nhà gỗ. Vài năm sau, vợ chồng ông George cũng mua khu đất bên cạnh khi nó giảm giá. Ông ấy thích mê vì được nghiên cứu động vật dưới nước ở Turkey Creek, chỉ cách cửa nhà dăm bước chân.” “Khi ông bà xây dựng căn nhà này, con cái của ông bà lớn chưa ạ?” Jo hỏi tiếp. “Khi chúng ta xây xong thì Gabe chưa ra đời, nhưng chị gái của nó đã vào trung học rồi.” Bà mỉm cười trước sự bối rối của Jo. “Chắc cháu tưởng ta là bà của Gabe phải không?” Jo ngượng chín mặt, không dám nói gì. “Gabe là một đứa trẻ ‘lộc trời cho’ như người đời hay gọi đấy,” bà Katherine kể. “Ta sinh ra nó năm ta bốn mươi sáu tuổi, còn chồng ta lúc ấy bốn mươi tám. Chị gái hơn nó đến mười chín tuổi.” “Bố của anh vẫn khỏe mạnh chứ?” Jo hỏi Gabe. Trước khi người con trai kịp trả lời, bà Katherine đã lên tiếng, “Ông Arthur qua đời hai năm trước rồi.” “Cháu rất tiếc,” Jo chia buồn. “Ông ấy khỏe như vâm,” bà kể. “Nhưng chứng phình mạch máu não khiến ông ấy ra đi đột ngột.” Ursa lắng nghe cuộc trò chuyện, nhưng con bé chạy qua phòng khác khi Jo bắt đầu dùng bữa. Con bé quay lại với một tờ giấy cầm trên tay. “Con nghĩ ra ba cái tên rồi,” nó khoe với Gabe. “Chú muốn nghe thử không ạ?” “Tất nhiên rồi.” Anh ngồi trên ghế đối diện con bé. “Một con sẽ mang tên Hamlet.” “Thế thì mệnh nó sẽ buồn lắm,” Gabe nhận xét. “Con biết. Con đọc về nhân vật này rồi,” Ursa giải thích. “Nhưng Hamlet là một người rất quan trọng.” “Đúng là thế,” Gabe đồng tình. “Vậy chú mèo nào sẽ mang tên Hamlet?” “Chú mèo xám, vì màu xám là một màu tương đối buồn.” “Nghe cũng có lý đấy,” Gabe nhận định. “Chú mèo trắng sẽ mang tên Juliet trong Romeo và Juliet. Con rất thích cái tên này.” “Chú cũng vậy,” Gabe tán đồng. “Nhưng số phận của Juliet cũng rất hẩm hiu.” “Chú đừng nói thế nữa! Chỉ là cái tên thôi mà!” “Cháu nói đúng. Dù gì, Juliet cũng từng hỏi một câu rất nổi tiếng, ‘Có gì trong tên tôi?’. Thế cái tên còn lại là gì?” “Macbeth.” “Ờ rồi, chú sẽ không nhận xét gì về số phận nhân vật nữa. Thế Macbeth là cái tên cho chú mèo nào?” “Chú mèo nhị thể trắng đen.” “Chắc con bận rộn lắm nhỉ? Đây là ba vở kịch nổi tiếng nhất của Shakespeare đấy.” “Con tra xem vở kịch nào quan trọng nhất mà. Tiếp theo là Julius Caesar. Nhưng chú có thấy ‘Julius’ nghe có vẻ giống ‘Juliet’ quá không?” “Thì con gọi nó là Caesar thôi.” “Cũng được. Nhưng trước nhất, con phải tìm hiểu về nhân vật này để xem chú mèo nào sẽ phù hợp với cái tên này đã.” “Chú thấy không hay lắm… nếu xét về mặt số phận nhân vật.” Ursa mắm môi mắm lợi đầy vẻ cáu tiết, còn Gabe bụm miệng nén cười. Jo nhìn khung cảnh này với vẻ thích thú. Chưa gì hai chú cháu đã trông như đôi bạn lâu năm, đùa giỡn hết sức hồn nhiên. “Có lẽ con nên chuyển qua mấy vở hài kịch xem sao,” Gabe gợi ý. “Con bé nên chuyển qua việc về nhà,” bà Katherine ngắt lời. “Con sẽ đưa nó về hay để Jo đưa?” Gabe liếc nhìn Jo bằng ánh mắt lo lắng. “Bọn con chưa bàn đến việc này.” “Bố mẹ con bé chắc lo sốt vó lên rồi,” bà Katherine nói. “Dạ không đâu ạ,” Ursa phản đối. “Bố mẹ con rất vui khi con đến đây, vì con sẽ có bằng tiến sĩ.” """