" Niên Lịch Miền Gió Cát - Aldo Leopold & Dương Mạnh Hùng (dịch) full mobi pdf epub azw3 [Tự Nhiên] 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Niên Lịch Miền Gió Cát - Aldo Leopold & Dương Mạnh Hùng (dịch) full mobi pdf epub azw3 [Tự Nhiên] Ebooks Nhóm Zalo Niên Lịch Miền Gió Cát Tác giả: Aldo Leopold Người dịch: Dương Mạnh Hùng Phát hành: Phương Nam Book NXB Lao động – Xã hội 6/2020 —★— ebook©vctvegroup Niên Lịch Miền Gió Cát như một sự tổng hòa giữa lịch sử tự nhiên, nghệ thuật miêu tả phong cảnh bằng ngôn từ và cả triết học. Bằng việc ghi chép lại những thay đổi của sinh vật tại khu trang trại ở Wisconsin, Leopold đã khéo léo mô tả vẻ đẹp thiên nhiên, mối liên hệ giữa từng sinh vật với cả hệ sinh thái. Những bài viết này không chỉ thể hiện sự quan sát, khảo cứu và kiến văn của Leopold về địa chất - sinh thái, mà còn thể hiện rõ quan điểm của ông về đạo đức đất đai: Một hành động là đúng đắn khi nó hướng tới việc bảo tồn được tính toàn vẹn, ổn định và vẻ đẹp của cộng đồng sinh vật. Hành động đó là sai nếu không bảo tồn được những điều vừa nói… Năm 1990, Hiệp hội Nghiên cứu Tự nhiên Mỹ đã bầu chọn Niên Lịch Miền Gió Cát cùng với Mùa xuân vắng lặng (Silent Spring) của Rachel Carson là hai cuốn sách đáng trân trọng và đáng chú ý nhất về chủ đề môi trường trong thế kỷ 20. Đã một thế kỷ trôi qua kể từ khi Darwin vén màn bí mật về nguồn gốc muôn loài. Chúng ta giờ đây đã biết những điều mà các thế hệ đi trước không hề hay biết: con người chỉ là những người bạn đồng hành cùng các loài vật khác trong chuyến phiêu lưu tiến hóa. Nhận thức mới này đáng lẽ giờ đây đã phải khiến chúng ta có một tình anh em khăng khít với các sinh vật khác, một mong ước được sống và cùng sống, một tâm thế ngưỡng mộ trước sự đường bệ và chiều dài tiến hóa của cả cộng đồng sinh thể. Và trên hết, sau một thế kỷ, chúng ta đáng lẽ đã phải nhận ra rằng, mặc dù con người giờ đây đã trở thành thuyền trưởng lèo lái con tàu phiêu lưu này nhưng chúng ta không phải là hành khách duy nhất, và những lầm tưởng về vị thế của chúng ta đều bắt nguồn từ sự mông lung ngu muội. “Một trong những tác phẩm cực kỳ quan trọng và có tầm ảnh hưởng mạnh mẽ đến phong trào môi trường.” — The Boston Globe “Cuốn sách có thể được đặt trên cùng kệ với các tác phẩm của Thoreau và John Muir.” — The San Francisco Chronicle ALDO LEOPOLD (1887-1948) là nhà khoa học, nhà địa chất học, nhà triết học và nhà môi trường học người Mỹ. Tên tuổi của ông có tầm ảnh hưởng lớn đối với lịch sử phát triển của lĩnh vực đạo đức môi trường, đặc biệt trong phong trào bảo tồn thiên nhiên hoang dã. Ông là giáo sư tại Đại học Wisconsin và nổi tiếng với tác phẩm Niên lịch miền gió cát – cuốn sách đã bán được hơn hai triệu bản. LỜI TỰA T rong cuộc sống, những gì thuộc về tự nhiên có thể không cần thiết với người này, nhưng lại hoàn toàn thiết yếu cho sự tồn tại của người khác. Những tiểu luận này chia sẻ niềm hân hoan cũng như nỗi trăn trở của một kẻ không thể sống thiếu thiên nhiên. Như gió và hoàng hôn, chúng ta luôn coi những gì hoang dã là nghiễm nhiên có được trong tay, cho đến ngày công cuộc phát triển dẹp bỏ chúng đi. Giờ đây, chúng ta phải đối diện với câu hỏi rằng liệu một mức sống “ngày càng cao” có đáng để đánh đổi những điều tự do và hoang dã hay không. Với nhóm thiểu số chúng tôi, cơ hội ngắm nhìn một đàn ngỗng còn quan trọng hơn xem ti-vi, và việc tìm thấy một bông hoa đồng nội là một quyền lợi không thể chối cãi như quyền tự do ngôn luận vậy. Những thứ hoang dã này, tôi công nhận, chứa đựng rất ít giá trị con người cho tới khi máy móc cơ giới đảm bảo cho chúng ta bữa ăn sáng thịnh soạn, và cho tới khi khoa học bóc tách mổ xẻ câu chuyện về nguồn gốc cũng như cách sống của chúng. Mâu thuẫn giữa hai phe đa số và thiểu số vì thế tóm gọn lại trong câu hỏi về mức độ. Nhóm thiểu số chúng tôi nhận thấy một quy luật: giá trị nhận lại đang ngày càng giảm, còn nhóm đối kháng với chúng tôi thì không. დღდ Chúng ta luôn phải học cách liệu cơm gắp mắm. Những bài viết được gộp thành ba phần này là nỗ lực thực hiện điều đó của tôi. Phần I kể về những gì gia đình tôi thấy và làm trong những buổi cuối tuần đi trốn khỏi thế giới hiện đại ngột ngạt bủa vây, khi chúng tôi lánh tới “túp lều”. Tại trang trại trên miền gió cát này ở Wisconsin, mới đầu là một nơi xập xệ bị xã hội quên lãng, chúng tôi đã cố gắng gầy dựng lại, với xẻng và cưa, những gì chúng tôi đã đánh mất ở các nơi khác. Chính tại nơi đây chúng tôi tìm kiếm, đến giờ vẫn tìm, nguồn lương thực từ Chúa trời. Những bài viết này được sắp xếp theo tháng thành một “Niên lịch Miền gió cát”. Phần II, “Những phác họa đó đây”, hồi tưởng lại những trải nghiệm trong đời đã khiến tôi dần dần nhận ra một cách chua xót rằng xã hội của chúng ta đang ngày càng đi lệch quỹ đạo. Những hành trình trải rộng khắp châu lục qua bốn mươi năm này đại diện cho các vấn đề nằm cùng dưới một cái nhãn mang tên bảo tồn. Phần III, “Buổi yến tiệc”, bày biện theo trình tự lô-gích một vài ý tưởng mà nhóm thiểu số chúng tôi dùng để minh chứng cho ý kiến bất đồng của mình. Chỉ có những người đọc với sự đồng cảm sâu sắc mới muốn thử thách mình bằng những câu hỏi triết lý ở phần III. Tôi nghĩ rằng những bài viết trong phần này sẽ gợi dẫn cho chúng ta cách để đưa xã hội quay trở về quỹ đạo. დღდ Việc bảo tồn đang không đi đến đâu vì nó không ăn nhập gì với khái niệm của chúng ta về đất đai từ thời ông tổ Abraham. Chúng ta lạm dụng đất đai vì chúng ta coi nó như một thứ của cải thuộc về mình, chỉ khi nào chúng ta nhìn nhận đất đai như một phần cộng đồng chúng ta thuộc về, khi đó chúng ta mới có thể bắt đầu sử dụng nó một cách yêu thương trân trọng. Sẽ không có cách nào khác để đất đai tiếp tục chịu đựng ảnh hưởng của xã hội cơ giới hóa, hay để chúng ta tiếp tục gặt hái những mùa màng bội thu và giá trị văn hóa từ đất đai. Việc coi đất đai như một tổ hợp cộng đồng là một khái niệm cơ bản trong sinh thái học, nhưng việc coi đất đai như một thứ để yêu thương trân trọng lại là phần mở rộng của đạo đức. Sự thật rằng đất đai hàm ẩn các giá trị văn hóa là một sự thật lâu đời, nhưng gần đây hầu như đã rơi vào quên lãng. Các tiểu luận sau đây sẽ cố gắng khơi lại ba suy niệm trên. Cách hiểu như vậy về đất và người hẳn nhiên phụ thuộc rất nhiều vào lớp lang trải nghiệm và định kiến cá nhân. Nhưng dẫu cho sự thật nằm ở đâu thì ta cũng nhận thấy một điều hiển nhiên, rằng xã hội ngày càng ẳ “phồn vinh” của chúng ta giờ đây chẳng khác gì một kẻ mắc bệnh tưởng, ám ảnh về sức khỏe kinh tế của mình đến độ hoàn toàn mất đi khả năng đề kháng. Cả thế giới phát cuồng lên sản xuất bồn tắm hàng loạt đến độ chúng ta mất đi thế cân bằng để sản xuất, hay thậm chí là để tắt vòi nước. Giờ đây, không có điều gì đáng tuyên dương hơn là một chút khinh thường gờn gợn với những núi vật chất ngồn ngộn này. Có lẽ sự thay đổi trong hệ giá trị đó có thể đạt được nếu chúng ta nhìn nhận lại những gì phi tự nhiên, đã thuần hóa và trói buộc qua lăng kính của những gì tự nhiên, hoang dã và tự do. ALDO LEOPOLD Madison, Wisconsin Ngày 4 tháng Ba năm 1948 PHẦN I NIÊN LỊCH MIỀN GIÓ CÁT THÁNG GIÊNG Tháng Giêng tuyết tan H àng năm, sau những cơn bão tuyết giữa kỳ đông chí, sẽ có một buổi tối mà khắp đất trời tí tách vang lên tiếng những giọt tuyết tan chảy khi vạn vật chuyển mình rã đông. Thời khắc này không chỉ làm xao động tâm hồn các giống loài đang say ngủ, mà còn đánh động cả những loài đã ngủ vùi trong suốt mùa đông. Con chồn hôi ngủ đông, lúc này đang cuộn tròn sâu bên trong ổ, duỗi mình và bước ra thăm thú sục sạo thế giới ẩm ướt bên ngoài, kéo lê cái bụng trên lớp tuyết. Dấu vết mà nó để lại sẽ đánh dấu một trong những mốc sự kiện sớm nhất trong cái chu kỳ của khởi nguồn và kết thúc mà chúng ta vẫn gọi là một năm. Vết chân con chồn ít khi thể hiện một mối bận tâm đến những diễn biến đời thường hiếm gặp trong các mùa khác; nó cứ băng băng chạy thẳng qua miền đồng quê, như thể chủ nhân của con đương tự tạo này đã buông dây cương cỗ xe của mình và để cho nó cứ thế bám đuôi một vì tinh tú. Tôi lần theo dấu chân con chồn, lòng không khỏi tò mò muốn luận ra suy tư cũng như tập tính ăn uống của con vật, hay cả đích đến nếu có trong đầu nó. დღდ Các tháng trong năm, từ tháng Giêng đến tháng Sáu, là một chuỗi tịnh tiến theo cấp số nhân của vô vàn những điều cám dỗ lòng người. Vào tháng Giêng, ta có thể lần theo vết chân loài chồn hôi, hay tìm kiếm bầy chim bạc má, hay quan sát xem lũ hươu đang nhấm nháp những nhánh thông non nào, hay lùng xem những cái tổ chuột xạ hương mới đắp. Trong những cuộc thăm thú tháng Giêng lãng đãng và dung dị như sương tuyết, dàn trải như cái lạnh cuối đông, chỉ thỉnh thoảng thì tâm trí ta mới xao nhãng và sa đà vào việc khác. Thời gian dư dả cho phép ta không chỉ mục sở thị loài nào đã làm những gì, mà còn ngẫm ngợi về lý do đằng sau của chúng. დღდ Một con chuột đồng, giật mình khi nghe tiếng chân tôi bước lại gần, phóng ngang qua vệt đường ướt nước mà con chồn hôi để lại. Tại sao nó lại hiện hữu ngay giữa ban ngày như thế? Có lẽ nó đang lấy làm phiền lòng vì mùa tuyết tan. Hôm nay, mê lộ mà nó đã dày công gặm nhấm tạo lối trong đám cỏ bết chôn vùi dưới tuyết không còn là những đường hầm bí mật nữa, mà chỉ còn là những tuyến đường lộ thiên phơi bày ra cho thiên hạ soi mới chế nhạo. Quả thực, ánh nắng sưởi ấm của mặt trời đã giễu cợt nơi trú thân căn bản trong hệ thống sinh hoạt loài chuột! Con chuột đồng như một công dân thức thời hiểu rằng cỏ mọc sẽ giúp nó tích trữ những bó rơm làm đường, và tuyết rơi sẽ tạo điều kiện cho nó dùng từng bó rơm đó để xây nên những đường hầm: một trật tự cung - cầu và vận chuyển hết sức chặt chẽ. Với con chuột, tuyết rơi đồng nghía với việc được giải thoát khỏi nhu cầu sinh tồn và nỗi sợ thường trực. დღდ Một con diều hâu chân xù đang từ trên trời sà xuống phía cánh đồng trước mặt. Lúc thì nó dừng lại, có lúc lại chao liệng như một con bói cá, rồi bổ nhào xuống đồng cỏ ngập nước như một trái bom phủ lông. Nó không bay lên sau đó nữa, nên tôi dám chắc rằng nó đã bắt được mồi, và giờ thì đang xé thịt một kỹ sư chuột đồng nào đó không đủ kiên nhẫn để đợi trời tối trước khi mò ra xem xét những chỗ sập lở trong cái thế giới ngăn nắp mà mình tạo ra. Con diều hâu không màng gì đến chuyện tại sao cỏ lại mọc, nhưng nó nhận thức rõ rệt rằng tuyết tan sẽ giúp cho diều hâu có thể tiếp tục bắt chuột. Và nó đã bay xuống đây từ Bắc cực lạnh giá với hy vọng sẽ gặp đúng mùa tuyết tan, vì tuyết tan đối với loài diều hâu đồng nghĩa với việc được giải thoát khỏi nhu cầu sinh tồn và nỗi sợ thường trực. დღდ Vết chân con chồn dẫn vào trong khu rừng, cắt ngang một trảng rừng thưa nơi những con thỏ đã kịp để lại vết chân của mình cùng những vệt nước tiểu lấm tấm hồng trên nền tuyết trắng. Những mâm cây sồi mới nhú chào đón mùa tuyết tan băng những chồi non vừa tẽ vỏ. Các búi lồng thỏ rơi vãi đánh dấu những cuộc tranh giành mở màn giữa mấy con đực rạo rực men tình. Đi sau hơn nữa, tôi tìm thấy một vũng máu nhỏ, viền xung quanh là vòng cung sải cánh của loài cú. Với con đực xấu số này, mùa tuyết tan mang lại sự tự do ham muốn, nhưng đồng thời cũng khiến con vật liều mạng quên đi nỗi sợ bản năng. Và con cú đã nhắc nhở nó rằng mùa xuân về không đồng nghĩa với việc ta được phép lơ là bất cẩn. დღდ Con chồn vẫn tiếp tục để lại những vết chân, dường như tâm trí nó lúc này không dành cho việc kiếm tìm thức ăn, mà cũng chẳng màng đến những chuyện hỉ nộ ái ố của các bên hàng xóm. Tôi băn khoăn trong đầu nó đang suy nghĩ điều gì; cái gì đã đưa chân nó ra khỏi ổ? Liệu có phải anh chàng cũng đang kéo lê cái bụng bự trên nền tuyết bùn nhão nhoét để tìm nơi thỏa chí yêu đương? Sau cùng thì vết chân đi vào trong một đám cành củi trôi dạt và không thấy trở ra. Tôi lắng tai nghe tiếng những giọt nước chảy tong tỏng qua những thân củi, và tôi đồ rằng con chồn hẳn cũng nghe thấy. Tôi quay bước về nhà, lòng vẫn miên man tự hỏi. THÁNG HAI Gỗ sồi C ó hai điều nguy hại cho tâm hồn con người nếu chúng ta không sở hữu một trang trại. Thứ nhất là việc chúng ta tưởng rằng bữa sáng đến từ cửa tiệm; thứ hai là nguồn nhiệt đến từ lò đốt. Để tránh điều nguy thứ nhất, ta nên trồng một khu vườn, tốt nhất là ở nơi cách xa những cửa hàng tạp phẩm để tránh làm câu chuyện thêm rắc rối. Để tránh điều nguy thứ hai, ta nên bắc một khúc gỗ sồi lên vỉ lò sưởi, tốt nhất là nên cách xa các lò đốt, và để nhiệt từ khúc củi làm ấm hai cẳng chân ta trong khi bên ngoài những cơn bão tháng Hai đang vần vũ rung lắc những tán sồi. Nếu ai đó đã từng tự tay chặt, bổ, kéo, và chất củi sồi thành đống, trong lúc đầu óc vu vơ nghĩ ngợi, người đó hẳn sẽ nhớ lấy câu chuyện về nơi xuất phát của nguồn nhiệt kia, với những chi tiết dồi dào phong phú không dành cho những ai chỉ biết ngồi bên máy sưởi những ngày cuối tuần nơi phố thị. დღდ Khúc gỗ sồi giờ đây đang bập bùng tỏa sáng trên vỉ lò sưởi nhà tôi từng là một trong những thân cây mọc ven con đường của các di dân thuở trước, uốn quanh quả đồi đất cát pha. Khi tôi đốn hạ thân cây, đường kính phần gốc cây đo được là 76 xen-ti-mét (30inch). Bề mặt cắt ngang cho thấy 80 vòng tròn tuổi thọ, chứng tỏ rằng cái vòng đầu tiên hẳn đã xuất hiện từ năm 1865, vào khoảng giai đoạn cuối cuộc Nội chiến (American Civil War). Nhưng dựa trên lịch sử thu thập của các cây sồi giống hiện thời, tôi cũng biết rằng bất cứ cây sồi nào mọc lên cao khỏi tầm với của lũ thỏ cũng phải trải qua ít nhất một thập kỷ bị bầy thú gặm nhấm này bào vỏ mỗi mùa đông, để rồi lại cố gắng mọc vỏ trở lại khi xuân về. Quả tình, thật quá rõ ràng rằng tất cả các cây sồi sống sót đến tuổi trưởng thành đều là do bị lũ thỏ bỏ sót hoặc may mắn mọc trúng vào mùa ít thỏ. Một ngày không xa, vài nhà thực vật học kiên nhẫn nào đó sẽ vẽ đồ thị tần suất sinh trưởng của họ nhà sồi, để thấy rằng cứ hết mười năm thì vòng cung đồ thị lại nhô lên; mỗi lần nhô lên sau mười năm của họ nhà sồi sẽ ứng với một lần lõm xuống sau mười năm trong đồ thị tần suất của họ nhà thỏ. (Quá trình giằng co qua lại trong cùng một loài và giữa các loài khác nhau này khiến cho hệ động vật và hệ thực vật cùng nhau đạt đến ngưỡng trường sinh bất tử.) Theo giả thuyết này, có lẽ đã có một đợt số lượng thỏ giảm xuống vào giữa những năm sáu mươi khi cây sồi tôi đốn hạ bắt đầu tỏa ra các vòng tuổi thọ qua từng năm, nhưng hạt sồi gốc của nó thì đã chạm đất trước đó cả thập kỷ, khi các cỗ xe ngựa kéo đang lăn bánh trên con đường đến với miền tây Bắc Mỹ rộng lớn. Có lẽ chính việc xe cộ đi lại của đoàn dân di cư nọ đã cày xới con đường này rồi tạo điều kiện cho hạt sồi kia bén rễ và vươn những chiếc lá đầu tiên về phía mặt trời. Cứ một nghìn hạt sồi thì chỉ có một hạt lớn thành cây đủ cao để cự nổi bầy thỏ; số còn lại thì chết dưới những gợn sóng trên đại dương thảo nguyên bao la. Việc cây sồi này chẳng những không chết yểu mà còn sống tới tám mươi năm để tiếp nạp ánh mặt trời tháng Sáu khiến tôi cảm thấy ấm lòng đôi chút. Nguồn ánh sáng mặt trời đó giờ đang tỏa ra thành nhiệt, dưới sự can thiệp của cái rìu và cái cưa của tôi, để sưởi ấm tinh thần tôi cùng căn lán nho giữa muôn vàn bão tố vây quanh. Và cứ mỗi lọn khói luồn lách qua ống khói của tôi lại trở thành nhân chứng, cho bất cứ ai để tâm, rằng mặt trời đã không tỏa sáng một cách vô ích. Chú chó của tôi thì chẳng mấy bận tâm xem nhiệt đến từ đâu, nhưng nó tha thiết quan tâm rằng nhiệt sẽ đến, và đến sớm. Và quả thật nó coi khả năng tạo ra nhiệt của tôi là một điều thần kỳ, vì mỗi sáng khi tôi ra khỏi giường lúc trời còn tờ mờ và run run quỳ xuống bên cạnh lò sưởi để nhóm lửa, nó sẽ nhẹ nhàng lách mình vào giữa tôi và khúc củi đang bén lửa mà tôi vừa đặt lên đống muội than. Thậm chí, tôi còn phải luồn tay giữa hai chân nó để quẹt diêm nhóm lửa. Niềm tin nhường ấy, theo tôi, hẳn là thứ có thể dời non lấp bể. Một tia sét chính là thứ đã kết liễu sự nghiệp tích gỗ trồng rừng của cây sồi này. Một đêm tháng Bảy nọ, cả hai chúng tôi dựng người thức dậy khi tiếng chớp ầm ầm đi kèm với tiếng đổ ngã vang trời; chúng tôi nhận ra sét hẳn đã đánh xuống đâu quanh đây, nhưng vì nó không đánh thẳng vào lán nên chúng tôi cứ thế đi ngủ tiếp. Con người dùng bản thân làm phép thử cho vạn vật, và điều này đặc biệt đúng với những ca sét đánh. Sáng hôm sau, trong lúc tàn bộ lên đồi đất cát pha và hân hoan tận hưởng khi trời mát mẻ sau cơn mưa cùng những bông cúc nhụy nón và những khóm cỏ ba lá, chúng tôi bất gặp một miếng vỏ cây bị sét gọt khỏi thân cây sồi bên lề đường. Trên thân cây vẫn còn in một vết sẹo dích dắc kéo dài do nhựa cây rỉ ra từ phần thân không còn vỏ, rộng khoảng 30 xen ti-mét và còn tươi rói, chưa vàng đi dưới ánh mặt trời. Qua ngày hôm sau thì lá cây đã héo rũ xuống, và chúng tôi biết rằng lưỡi sét kia đã ban cho chúng tôi ít nhất ba bó củi đốt[1]. Dù vẫn tiếc nuối trước sự ra đi của cây sồi cổ thụ, chúng tôi biết rằng có ít nhất một tá con cái của nó đang ngẩng cao đầu kiêu dũng trên nền đất cát và sẵn sàng kế thừa sự nghiệp trồng rừng của cây mẹ. Chúng tôi để cho thân cây liệt sĩ nằm phơi một năm dưới mặt trời giờ đây đã trở nên vô nghĩa với nó, để rồi vào một ngày đông se sắt, chúng tôi đốn hạ thành trì gốc rễ của nó bằng một lưỡi cưa mới mài dũa. Trong thâm tâm chúng tôi nhận thấy rằng hai núi mùn cưa sau khi đốn cây ẩn chứa điều gì sâu xa hơn là những phần gỗ dư thừa: chúng là mặt cắt ngang của một thế kỷ; với từng lưỡi cưa, chúng tôi lại cắt sâu hơn qua từng thập kỷ, dọc theo biên niên ký của một cuộc đời viết bằng những vòng tròn đồng tâm loang ra qua từng năm trên mặt gỗ sồi. დღდ Chỉ cần khoảng một tá lần kéo là lưỡi cưa đã vượt qua số năm ít ỏi mà trang trại này thuộc về chúng tôi, khoảng thời gian khi chúng tôi đã học cách yêu thương trân trọng nơi này. Ngay sau đó, chúng tôi cắt qua thời đại của người chủ trang trại trước đó, một tay buôn bán hàng lậu và hết sức căm ghét mảnh đất này, người đã hút kiệt chất màu còn lại trong nó, trước khi châm lửa đốt căn nhà nông trang và quăng trả nó lại cho quyền quản lý của hạt (đồng thời cũng bùng luôn việc đóng thuế), sau đó thì gã biến mất vào dòng người di cư không miếng đất cắm dùi trong giai đoạn Đại Khủng Hoảng (The Great Depression). Dù vậy thì bao dung với gã; những mùn gỗ trong thời kỳ của gã vẫn đậm hương, mịn màng, và ửng hồng như trong thời của chúng tôi tôi vậy. Mà một cây sồi thì có quan tâm gì đến con người xung quanh đâu. Thời trị vì của gã buôn lậu mãn hạn đâu đó giữa những mùa hạn hán khô cằn từ 1936, 1934, 1933, đến 1930. Khói gỗ sồi từ kho chung cất rượu và than bùn quyện lại sau khi đốt đầm lầy hẳn đã che mờ ánh mặt trời trong những năm ấy, và các cơ quan đặc trách phục hồi tái trồng rừng cứ thế lan ra khắp nơi, nhưng những mùn gỗ kia thì vẫn chẳng hề thay đổi. Nghỉ tay! Trưởng nhóm thợ cưa cất giọng, và chúng tôi tạm nghỉ lấy hơi. დღდ Giờ thì lưỡi cưa đã cắt đến những năm 1920, thập kỷ của Tầng lớp Trung lưu (Babbittian decade) khi mọi thứ đều được thổi phồng và nâng cấp một cách ẩu tả và ngạo mạn - chí ít là đến năm 1929 khi sập sàn chứng khoán. Giả như cây sồi có nghe thấy tiếng đổ rầm của sàn chứng khoán thì những thớ gỗ của nó cũng chẳng mảy may rung động. Và nó cũng sẽ chẳng bận tâm đến những kháng nghị nhằm bảo vệ cây cối của Cơ quan Lập pháp: một đạo luật về Rừng Quốc Gia và khai thác sản vật rừng được thông qua năm 1927, một khu bảo tồn ở vùng bãi bồi sông Thượng Mississippi năm 1924, và một chính sách khai thác rừng mới vào năm 1921. Và có lẽ nó cũng không nhận thấy ngày tàn của loài chồn mác-tét ở bang Wisconsin năm 1925, hay sự xuất hiện lần đầu của bầy sáo ghi nhận vào năm 1923. Vào tháng Ba nãm 1922, trong khi cơn mưa đá biệt danh Cỡ Đại (Big Sleet) đã băm nát những cây du xung quanh thành từng mảng, thì sồi của chúng ta vẫn không hề hấn gì. Một tấn băng đá thì có sá gì so với một cây sồi cổ thụ? Nghỉ tay! Trưởng nhóm thợ cưa cất giọng, và chúng tôi tạm nghỉ lấy hơi. დღდ Giờ thì lưỡi cưa đã cắt đến giai đoạn 1910 - 1920, thập kỷ của khát khao rút nước, khi những máy xúc chạy bằng hơi nước đã hút cạn những đầm lầy miền trung Wisconsin để lấy đất làm trang trại, và kết cục chỉ để lại một mớ tàn dư thất bại. Những đầm lầy liên tục trốn thoát, không phải do sự bất cẩn hay thiếu tiền liệu của các kỹ sư nạo vét, mà bởi vì chúng luôn được con sông hùng hổ cấp nước vào mỗi tháng Tư - một sự hùng hổ mang tính tự vệ - trong những năm 1913 - 1916. Cây sồi thì vẫn tiếp tục lên vỏ gỗ, ngay cả vào năm 1915, khi Tòa án Tối cao bãi bỏ việc các bang tự quản lý rừng, và Thống đốc bang là Phillip lên mặt phán rằng “ngành lâm nghiệp không phải là một đề án kinh doanh tốt cho các bang”. (Ngài Thống đốc đã không tính đến chuyện có thể có nhiều hơn một định nghĩa cho cái gì là tốt, hay thậm chí là cái gì có thể được coi là kinh doanh. Ngài cũng không dự trù được rằng, trong khi tòa án đang thảo ra một cách hiểu của chữ “tốt”, thì cùng lúc đó những trận cháy rừng lại đang viết xuống trên nền đất một cách hiểu khác xa. Có lẽ để có thể giữ cương vị Thống đốc thì đầu óc người ta cần thông suốt kiên định trong những vấn đề ngữ nghĩa như vậy.) Trong khi lâm nghiệp ở thập kỷ này suy giảm, những khu bảo tồn chuyên dành cho săn bắt lại gia tăng. Vào năm 1916, loài gà lôi chính thức chuyển hộ khẩu đến hạt Waukesha; năm 1915, một đạo luật liên bang nghiêm cấm săn bắn vào mùa xuân; năm 1913 một trang trại thú săn của bang Wisconsin được thành lập; năm 1912, một đạo luật “hươu đực” ra đời để bảo vệ luôn cả các con hươu cái; năm 1911, một đại dịch những khu bảo tồn lan ra khắp toàn bang. “Bảo tồn” trở thành một từ thiêng liêng, nhưng cây sồi vẫn hoàn toàn không hay biết. Nghỉ tay! Trưởng nhóm thợ cưa cất giọng, và chúng tôi tạm nghỉ lấy hơi. დღდ Giờ thì chúng tôi cắt đến năm 1910, trong lúc một hiệu trưởng trường đại học danh giá xuất bản một cuốn sách về bảo tồn, một nạn dịch ong cắn lá đã càn quét hàng triệu cây thông rụng lá, một trận đại hạn hán làm cho các rừng thông héo tàn, và một cái máy nạo vét cỡ đại đã hút cạn kiệt đầm lầy Horicon. Chúng tôi cắt đến năm 1909, khi cá trứng lần đầu được nuôi thả trong vùng Ngũ Đại Hồ (The Great Lakes), và vào một mùa hè ẩm ướt thì Cơ quan Lập pháp quyết định cắt giảm ngân sách cho việc phòng chống cháy rừng. Chúng tôi cắt đến năm 1908, một năm khô hạn với những đợt cháy rừng lớn hoành hành, và Wisconsin nói lời từ biệt với con báo sư tử cuối cùng còn sót lại trong bang. Chúng tôi cắt đến năm 1907, khi một con linh miêu lang thang kiếm tìm miền đất hứa ở nhầm chỗ, và kết cục là bỏ xác lại giữa những trang trại trong hạt Dane. Chúng tôi cắt đến năm 1906, khi người kiểm lâm đầu tiên của bang nhậm chức, và những trận cháy rừng tàn phá gần 7000 héc-ta rừng trong những hạt thuộc vùng đất cát pha này; chúng tôi cắt đến năm 1905 khi một bầy ưng ngỗng bay xuống từ phương Bắc và ngốn ngấu đến hết đám gà gô trăng bản địa (chúng hẳn đã bay tới đậu trên cây sồi này và gắp mất vài con gà gô của tôi). Chúng tôi cắt tới những năm 1902 - 1903, một mùa đông giá buốt khắc nghiệt; năm 1901, năm xảy ra một trận hạn hán lịch sử (mưa rơi chưa đầy một mét nước trong cả năm); năm 1900, một năm kỷ niệm 100 năm hy vọng, nguyện cầu, và một vòng đời thường niên nữa trên thân sồi. Nghỉ tay! Trưởng nhóm thợ cưa cất giọng, và chúng tôi tạm nghỉ lấy hơi. დღდ Bây giờ thì lưỡi cưa đã cắt đến những năm 1890, quãng thời gian hứng khởi vui tươi cho những ai hướng mắt về phía ánh đèn thành phố thay vì nhìn xuống đất dưới chân mình. Chúng tôi cắt tiếp vào năm 1899, khi một hòn đạn đâm xuyên con chim bồ câu di cư cuối cùng ở gần hạt Babcock, cách nơi này khoảng hai hạt nữa về phía bắc; chúng tôi cắt tới năm 1898 vào một ngày trời thu khô hanh, tiếp nối bằng một mùa đông không một bông tuyết nhưng đủ lạnh để làm băng giá len lỏi vào sâu hơn hai mét đất và giết chết những cây táo; năm 1897, lại một năm hạn hán, năm của một ủy ban lâm nghiệp nữa ra đời; năm 1896, khi chỉ nội ngôi làng Spooner đã vận chuyển được 25.000 con gà gồ đồng cỏ ra chợ bán; năm 1895, lại một năm cháy rừng; năm 1894, thêm một năm hạn hán; và năm 1893, năm của trận bão Chim Sơn Ca (The Bluebird Storm), khi một cơn bão tuyết tháng Ba quét sạch đến gần như không sót lại một con chim sơn ca di cư nào. (Những con sơn ca đầu tiên luôn cất cánh từ cội sồi già này, nhưng vào giữa những năm 90 có lẽ chúng đã bỏ qua nơi này.) Chúng tôi kéo lưỡi cưa vào đến năm 1892, thêm một năm cháy rừng nữa; năm 1891, một mùa kém sinh sản với loài gà gô trắng; và năm 1890, năm của Phương pháp Định lượng Chất béo trong Sữa do Giáo sư Babcock sáng chế (Babcock Milk Tester), tạo đà cho phát biểu nửa thế kỷ sau của Thống đốc bang là Heil rằng Wisconsin là Thủ phủ Bơ sữa của nước Mỹ. Không có ai, ngay cả Giáo sư Babcock, có thể ngờ rằng biệt danh ấy giờ đây sẽ nằm chễm chệ trên bất cứ biển số xe nào trong bang. Cũng trong năm 1890 đó, những bè chở gỗ thông lớn nhất trong lịch sử đã xuôi dòng về phía hạ nguồn sông Wisconsin và trôi ngang cây sồi của tôi, để sau đó dựng xây nên một đế chế những nông trang gỗ đỏ cho những đàn bò của các bang thảo nguyên nước Mỹ. Chính những thân gỗ thông đó đã che chở cho những con bò khỏi cơn bão tuyết, giống như những vách gỗ sồi đang bảo bọc tôi khỏi cái lạnh thấu xương bên ngoài. Nghỉ tay! Trưởng nhóm thợ cưa cất giọng, và chúng tôi tạm nghỉ lấy hơi. დღდ Bây giờ thì lưỡi cưa đã chạm tới những năm 1880; năm 1889, một năm khô hạn, năm mà Lễ trồng cây Arbor được phát động trên toàn bang; năm 1887, khi Wisconsin bổ nhiệm người giám sát luật săn bắn đầu tiên; năm 1886, khi Đại học Nông nghiệp tổ chức khóa học ngắn hạn đầu tiên cho nông dân; năm 1885, mở màn bằng một mùa đông “dài và lạnh lẽo chưa từng thấy trong lịch sử”; năm 1883, khi Chủ nhiệm khoa W. H. Henry báo cáo rằng các loại hoa mùa xuân ở Madison nở muộn hơn 13 ngày so với bình thường; năm 1882, khi hồ Mendota mở cửa đón khách muộn hơn một tháng do trận bão Đại Hàn (Big Snow) lịch sử kèm theo tiết trời lạnh buốt trong những năm 1881 - 1882. Cũng chính vào năm 1881, Hội Nông nghiệp Wisconsin đưa ra thảo luận câu hỏi, “Làm sao chúng ta cắt nghĩa được kỳ tăng trưởng thứ sinh[2] của giống cây sồi gỗ đen, vốn đã và đang bén rễ đâm chồi trên toàn quốc trong ba mươi năm qua?” Cây sồi của tôi là một trong số các cá thể đó. Một cử tri nhận xét là do sinh sản ngẫu nhiên, người khác lại cho rằng đó là do lũ bồ câu di cư về phương Nam đã nhả ngược hạt sồi ra. Nghỉ tay! Trưởng nhóm thợ cưa cất giọng, và chúng tôi tạm nghỉ lấy hơi. დღდ Giờ lưỡi cưa đã liếm vào đến những năm 1870, thập kỷ của cơn say túy lúy với việc trồng lúa mì ở Wisconsin. Vào thứ Hai, chúng tôi tiến đến năm 1879, khi lũ bọ lúa mì, ấu trùng bọ cánh cứng, bệnh rỉ sắt, và đất thiếu màu cuối cùng đã buộc các nông dân Wisconsin đối mặt với sự thật rằng họ không thể tiếp tục mở rộng diện tích đất trồng lúa mì trên các thảo nguyên hoang sơ về phía tây, nếu họ không muốn đất dưới chân trở nên cằn cỗi đến không thể cứu vãn nổi. Linh tính mách bảo tôi rằng trang trại này cũng góp phần trong cuộc chơi “phát rừng làm rẫy” đó, và những hạt cát khô cằn thổi về phía bắc cây sồi của tôi có nguồn gốc từ giai đoạn lạm phát trồng lúa mì đó. Cũng trong năm 1879, chúng ta chứng kiến đàn cá chép đầu tiên được thả nuôi ở Wisconsin, kèm theo là chuyến đi lậu vé của giống cỏ lúa mì từ châu Âu vào trong bang. Vào ngày 27 tháng Mười năm 1879, sáu con gà gô đồng cỏ di trú đậu trên đòn nóc của Nhà thờ Giám lý Đức quốc (German Methodist Church) ở Madison, nhìn ngắm thành phố đang ngày càng phát triển này. Vào ngày 8 tháng Mười một, các chợ ở Madison đầy ắp những con vịt bán đổ đống với giá chỉ 10 cent một con. Năm 1878, một thợ săn hươu đến từ Sauk Rapids đưa ra lời nhận xét có phần tiên đoán, “Số thợ săn rồi sẽ áp đảo số lượng hươu”. Vào ngày 10 tháng Chín năm 1877, hai anh em thợ săn ở hồ Muskego đã bắn hạ và đóng túi 210 con mòng két đuôi xanh chỉ trong một ngày. Năm 1876 là năm ẩm ướt nhất trong lịch sử bang, với lượng nước mưa dâng lên đến gần một mét rưỡi, số lượng gà gô đồng cỏ tụt xuống, có lẽ phần vì mưa lớn. Năm 1875, bốn thợ săn đã bắn chết 153 con gà gô đồng cỏ trên thảo nguyên York, cách đây một hạt về hướng đông. Trong cùng năm ấy, Hiệp hội Thủy sản Hoa Kỳ đã thả giống cá hồi Đại Tây Dương vào hồ Devil, cách cây sồi của tôi tầm 16 cây số về phía nam. Năm 1874, những thước dây kẽm gai đầu tiên sán xuất trong nhà máy được bấm dập xung quanh các gốc sồi. Tôi hy vọng là không có thứ “cổ vật” nào như thế còn kẹt lại trong thân sồi chúng tôi đang cưa này! Năm 1873, một công ty ở Chicago đã tiếp nhận và tung ra thị trường 25.000 con gà gô đồng cỏ. Người tiêu dùng ở Chicago đã mua tổng cộng 600.000 con ở mức giá 3,25 đô-la một tá. Năm 1872, con gà tây hoang dã cuối cùng ở Wisconsin đã bị săn hạ, ở địa điểm cách đây hai hạt về hướng tây nam. Thật hợp tình hợp lý khi thập kỷ đánh dấu sự thoái trào trong cơn sốt tiên phong trồng lúa mì cũng kết thúc luôn cơn sốt săn bắt bồ câu. Vào năm 1871, trong vòng bán kính 80 cây số tính từ cây sồi của tôi về phía tây bắc, ước tính có khoảng 136 triệu con bồ câu đã làm tổ; một số con có lẽ đã làm tổ ngay trên cây sồi này, vì lúc đó nó đã là một cây sồi con lớn mạnh cao tầm sáu mét. Những tay săn bồ câu lũ lượt truy kích những con chim với bẫy lưới và họng súng săn, dùi cui và những cục muối liếm nhử mồi, để rồi sau đó chất đầy những con bồ câu để nhồi nhân bánh nướng lên các toa tàu chạy hướng nam và đông về các thành phố. Đó là đợt làm tổ lớn cuối cùng của loài bồ câu ở Wisconsin, và có lẽ cũng là lần gần cuối ở bất cứ bang nào khác. Cùng trong năm 1871, xuất hiện các bằng chứng khác về cuộc hành quân của đế chế loài người: Trận cháy Peshtigo thiêu rụi cây cối và đất đai của một vài hạt, và Trận cháy Chicago, nghe đồn là bắt đầu từ cú đá hậu phản đối của một con bò cái. Vào năm 1870, đế chế chuột đồng đã bắt đầu cuộc càn quét của riêng mình; chúng dọn sạch các vườn cây trái của tiểu bang lúc đó còn non trẻ, chỉ để đó kéo nhau chết hàng loạt. Chúng không kịp gậm nhấm cây sồi của tôi, phần vì lớp vỏ cây lúc đó đã quá dày và cứng với lũ chuột. Đồng thời, trong năm 1870, một tay súng đã khoe khoang trên kênh American Sportsman (Thể thao Nước Mỹ) rằng mình đã giết được 6.000 con vịt chỉ trong một mùa săn bắn gần Chicago. Nghỉ tay! Trưởng nhóm thợ cưa cất giọng, và chúng tôi tạm nghĩ lấy hơi. დღდ Lưỡi cưa giờ đã tiến đến những năm 1860, khi hàng nghìn người tử trận trong cuộc Nội chiến chỉ để trả lời câu hỏi: liệu cộng đồng giữa người với người này có dễ dàng chia tách đến vậy? Cuối cùng thì mọi chuyện cũng qua đi, tuy nhiên họ đã không thấy được, và chúng ta đến giờ vẫn chưa nhận ra, rằng câu hỏi tương tự đó cũng ứng với mối quan hệ giữa con người và thiên nhiên đất đai. Thập kỷ này cũng trải qua những cuộc dò dẫm tìm đường trong đêm để giải quyết các vấn đề vĩ mô. Vào năm 1867, Quý ngài Increase A. Lapham đã thuyết phục Hội Làm vườn của Tiểu bang (State Horticultural Society) trao giải thưởng cho các khu trồng rừng. Vào năm 1866, con nai sừng tấm Wisconsin cuối cùng đã bị giết hại. Lưỡi cưa giờ đây đã cắt vào năm 1865, một năm cốt lõi cho cây sồi của chúng ta. Đó là năm mà John Muir đã ngỏ lời mua lại từ tay anh trai mình một căn nhà nông trang cách cây sồi gần 50 cây số về hướng đông, và biến nó thành một vườn bảo tồn các loại hoa dại từng khiến ông ngây ngất một thời non trẻ. Anh trai ông khước từ lời đề nghị đó, nhưng ông ta cũng không khống chế được ý tưởng đó lan tỏa đến toàn bang: 1865 luôn là cột mốc trong lịch sử bang Wisconsin, đánh dấu năm chớm nở tình thương và lòng trắc ẩn cho những gì thuộc về thiên nhiên hoang dã và tự do. Chúng tôi đã cưa đến phần lõi xốp. Lưỡi cưa của chúng tôi đã đảo chiều tịnh tiến của lịch sử; chúng tôi vừa cắt vừa giật lùi qua các năm trong khi vẫn đi tới về phía bên kia của thân cây. Cuối cùng thì thân cây cũng rúng động; miệng vết cưa bỗng nhiên há rộng ra; lưỡi cưa nhanh chóng được rút ra trong khi những ngươi thợ cưa nhảy lùi lại vào vùng an toàn; tất cả cùng kêu vang “Cây đổ!”; cây sồi của tôi nghiêng người, rên rỉ, và đổ nhào một tiếng kinh thiên động địa, và nằm ngửa án ngữ giữa con đường của dân di cư nơi nó đã sinh ra. დღდ Bây giờ thì đến công đoạn xẻ gỗ. Từng nhịp vồ rung lên trên những nêm gỗ bằng thép trong lúc từng khúc thân cây lan lượt bị lật úp, tách rời nhau ra thành từng khối đẫm hương gỗ mới, để rồi sau đó được kéo bằng dây sang bên vệ đường. Có một câu chuyện ngụ ngôn cho các nhà sử học xoay quanh các công năng đa dạng của lưỡi cưa, cái nêm, và cái rìu. Lưỡi cưa chỉ cắt qua các năm, và nó phải tuần tự giải quyết từng năm một. Cứ đến một năm thì các răng cưa lại kéo ra một vài mẩu gỗ thông tin bé xíu, sau đó sẽ tích tụ lại thành từng đống nhỏ, được các thợ xẻ gỗ gọi là mùn cưa còn các nhà sử học thì gọi là kho lưu trữ. Và cả hai bên đều đánh giá thực chất những cái nằm bên trong thông qua những mẫu vật nhìn thấy được bên ngoài. Chỉ đến khi đường cắt ngang hoàn tất thì cái cây mới đổ xuống, và gốc cây sẽ tiết lộ một điểm nhìn bao quát về một thế kỷ. Với cú ngã của mình, cái cây trở thành người chứng cho mớ hổ lốn ta gọi là lịch sử. Ngược lại, cái nêm chỉ vận hành dựa trên các nhát bổ theo bán kinh xoay tròn; mỗi nhát bổ như thế lại cho thấy một góc nhìn tổng quan của tất cả các năm cùng một lúc, hoặc sẽ không hé lộ điều gì cả, tất cả tùy thuộc vào kỹ năng lựa chọn mặt cắt của người bổ. (Nếu bạn do dự, thì cứ để yên cho phần gỗ phơi nắng trong một năm cho đến khi xuất hiện một vài vết nứt trên mặt gỗ. Rất nhiều bàn tay nóng vội đã nén những cái nêm kẹt chặt vào thân câu, để chúng nằm đó rỉ sét đi và cứng ngắc giữa những thớ gỗ đan xen không tài nào chẻ nổi.) Cái rìu chỉ vận hành ở một góc chéo so với các năm, và chỉ giúp hé lộ các vòng ngoài rìa hay quá khứ gần đây. Công năng đặc biệt của nó là cắt xén bớt cành nhánh mà cả lưỡi cưa và cái nêm đều bất lực đầu hàng. Cả ba dụng cụ đều cần thiết để tạo tác nên một khúc gỗ sồi tốt và một pho sử quý. დღდ Tôi ngẫm ngợi về những điều này trong lúc ấm nước hát reo trên bếp, và khúc gỗ sồi cháy thành những viên than hồng trên nền tro tàn trắng. Khi xuân về, tôi sẽ mang chỗ tro tàn đó quay lại mảnh vườn dưới chân ngọn đồi cát pha. Chúng sẽ quay trở lại với tôi, có lẽ dưới hình dáng những trái táo đỏ ngọt, hay có thể trong hình bóng một chú sóc béo tốt với tinh thần táo bạo, vì một lý do nào đó ngay cả chú cũng không biết, đang hì hục quyết tâm trồng những trái sồi rụng. THÁNG BA Bầy ngỗng trở về M ột cánh én chẳng làm nên trời hè, nhưng một đàn ngỗng sải cánh cắt xuyên qua nền trời bàng bạc của mùa tuyết tan tháng Ba thì quả là dấu hiệu báo xuân về. Một con chim hồng y, nếu lỡ nhầm lẫn cất tiếng hót báo hiệu mùa xuân về với từng bông tuyết tan, sau đó có thể chữa thẹn bằng cách tiếp tục im lặng như trong suốt mùa đông dài. Một con sóc chuột đang chui ra ngoài tắm nắng nhưng lại gặp đúng cơn bão tuyết thì chỉ cần quay về ngủ vùi trong tổ. Nhưng một con ngỗng trời di cư chấp nhận đặt cược khi vượt hơn 300 cây số đường trường rằng mình sẽ tìm thấy một lỗ hổng trên mặt hồ đóng băng thì không có đường lui dễ dàng như vậy. Sự hiện diện của nó mang sức nặng quả quyết của một nhà tiên tri đã bỏ tất cả lại phía sau. Buổi sang tháng Ba chỉ âm u ảm đạm với những ai đi bộ bên ngoài quên không ngước nhìn lên trời hay vểnh tai lắng nghe tiếng ngỗng kêu. Tôi từng biết một quý bà có học, một thành viên gạo cội của Hội nhóm Phi Beta Kappa (The Phi Beta Kappa Society), người từng kể với tôi rằng bà ấy chưa từng nghe hay nhìn thấy tiếng đàn ngỗng cứ hai năm một lần lại báo hiệu mùa về trên mái nhà cách nhiệt của bà. Liệu giáo dục có phải là một quá trình đánh đổi nhận thức để nhận lại những thứ vô giá trị hơn? Con ngỗng nào mà lựa chọn như vậy chẳng sớm thì muộn sẽ biến thành một mớ lông cánh nát bấy. Đàn ngỗng báo hiệu mùa về trên trang trại của chúng tôi nhận thức rõ về rất nhiều thứ, bao gồm cả những đạo luật ở Wisconsin. Những đàn ngỗng bay về phương Nam vào tháng Mười một thường bay cao vút phía trên đầu chúng tôi, tuyệt nhiên im bặt không một tiếng động ngay cả khi chúng nhận ra những bãi cát và đầm nước thân thuộc còn trơ gốc rạ mới cắt trong đêm. Bất chấp thôi thúc muốn tới liền các hồ vũng rộng cách đó hơn 30 cây số về phía nam, nơi chúng rảo bước buổi sáng trời rồi lại lượm trộm bắp ngô mới gặt lúc đêm xuống, bầy ngỗng vẫn không dám lao thẳng tới nơi theo đường chim bay. Bầy ngỗng tháng Mười một hiểu rõ hơn ai hết rằng luôn có những họng súng rình rập khắp các đầm lầy và ao hồ từ rạng đông đến tối mịt. Bầy ngỗng tháng Ba thì lại là một câu chuyện hoàn toàn khác. Mặc dù đã bị bắn tỉa trong suốt cả mùa đông, bằng cớ còn nằm trên những bộ cánh tả tơi, chúng biết rằng mùa xuân đến nghĩa là lệnh tạm ngừng bắn bắt đầu có hiệu lực. Chúng lướt gió trên doi đất nhô ra sông, sà xuống thấp trên những cù lao và bãi bồi giờ đây đã vắng bóng thợ săn, và lật đật nhào xuống các bãi cát như tìm thấy một cố nhân lâu ngày chưa gặp. Chúng lượn vòng đan xen thật thấp trên các đầm lầy và đồng cỏ, khám phá từng ao vũng mới tan. Cuối cùng, sau một vài vòng chiếu lệ trên đầm lầy, chúng cụp cánh và chao liệng về phía mặt hồ, bàn chân đen dân đáp xuống và cái phao câu trắng nõn vểnh lên trên nên quả đồi đằng xa. Khi chạm nước, những vị khách mới tới của chúng ta bắt đầu kêu quàng quạc và đập nước đến độ ý nghĩ cuối cùng về mùa đông cũng trôi tuột khỏi những thân cỏ hương bồ cứng đờ. Đàn ngỗng của chúng ta đã quay trở về nhà. Cứ vào thời khắc này hàng năm là tôi lại ước gì mình được làm một chú chuột xạ hương, ngụp lặn trọng đầm lầy. Khi tốp ngỗng đần tiên đã hạ cánh an toàn, chúng kêu những tiếng ồn ào ngăn vang để mời gọi những bầy khác bay đến, và chỉ trong vài ngày thì đầm lầy đã trở thành thủ phủ loài ngỗng. Ở trang trại, chúng tôi đo biên độ dao động của mùa xuân bằng hai thước đo: số lượng thông nảy mầm và số lượng ngỗng ghé qua. Con số kỷ lục của chúng tôi là 642 con ngỗng vào ngày 11 tháng Tư năm 1946. Như vào mùa thu, bầy ngỗng mùa xuân ngày ngày ghé thăm các bãi ngô, nhưng chúng không cần phải lén lút lẻn ra khi đêm xuống nữa; trái lại, cả bầy lao xao di chuyển từ gốc ngô này sang gốc ngô khác suốt cả ngày. Mỗi lần di dời là lại một lần chúng tranh luận ỏm tỏi, và mỗi lần quay lại thì chúng dường như lại xôn xao hơn trước. Bầy ngỗng sau khi trở về và hoàn toàn nhập gia thì thậm chí chẳng buồn bay vòng lấy lệ kiểm tra đầm lầy nữa. Chúng chao liệng trên không như những lá phong, hết liệng trái lại tạt phải để giảm dần cao độ, chân giang ra đón chào những tiếng quàng quạc chào mừng bên dưới. Tôi đoán rằng những tiếng quàng quạc chào mừng bên dưới. Tôi đoán những tiếng ầm ĩ sau đó là cách chúng bình phẩm về chất lượng bữa tối ngày hôm ấy. Giờ thì chúng đang đánh chén những hạt ngô sót lại đã được lớp tuyết bảo vệ khỏi lũ quạ, thỏ đuôi bông, chuột đồng, và gà gô. Có một điều dễ nhận thấy là những gốc ngô được bầy ngỗng tuyển lựa làm đồ ăn thường là những thân ngô trước đó mọc trên thảo nguyên. Không ai biết rằng việc ưu ái giống ngô thảo nguyên này có phản ánh giá trị dinh dưỡng ưu việt hơn hay không, hay đây đơn thuần là một tập tục cha ông truyền lại từ thế hệ ngỗng này sang thế hệ ngỗng khác từ thuở chúng còn sống trên thảo nguyên. Có thể nó phản ánh thực tế đơn giản là các cánh đồng ngô mọc trên thảo nguyên thường rộng lớn. Nếu tôi có thể hiểu được những cuộc tranh luận om sòm trước và sau những chuyến đi tìm ngô này của bầy ngỗng, thì có thể tôi sẽ sớm biết được lý do vì sao chúng lại ưng bụng giống ngô thảo nguyên. Nhưng vì tôi không thể, nên tôi hoàn toàn hài lòng để cho điều đó mãi là một ẩn số. Thế giới này sẽ buồn tẻ biết nhường nào nếu ta biết tất cả mọi thứ cần biết về loài ngỗng! Khi quan sát lề thói hằng ngày của một đàn ngỗng mùa xuân, ta sẽ để ý thấy một số lượng phổ biến những con ngỗng lẻ bầy - chúng thường bay một mình và kêu ca inh ỏi. Ai đó có thể sẽ nhanh chóng quy chụp qua tông giọng ai oán của chúng rằng đây là những con ngỗng góa phụ sầu muộn, hay những bà mẹ đang hối hả tìm con. Nhưng một nhà điểu cầm học lâu năm sẽ biết rằng việc kết luận phiến diện như vậy về hành vi của loài chim là việc đầy rủi ro. Từ lâu tôi đã cố giữ đầu óc cởi mở khi tiếp cận những câu hỏi như thế. Sau khi tôi và học trò đã dày công đếm số ngỗng trong một đàn trong suốt sáu năm, một tia sáng lóe lên trong đầu chúng tôi về ý nghĩa đằng sau những con ngỗng đơn độc nọ. Các phân tích toán học cho thấy rằng các tổ hợp bầy sáu con hay bội số của sáu xuất hiện với tần suất cao hơn hẳn mức ngẫu nhiên cho phép. Nói theo cách khác, một bầy ngỗng được tạo thành bởi một gia đình, hay một nhóm các gia đình, và điều này có lẽ đã xác tín cho những tưởng tượng ban đầu của chúng ta về những con ngỗng đơn côi khi xuân về. Chúng là những cá thể sống sót côi cút sau những đợt săn bắn vào mùa đông, và giờ đây đang vô vọng tìm kiếm bầy đàn của mình. Bây giờ thì tôi có thể cho phép mình xót thương trước mất mát của những cánh ngỗng lẻ loi kia. Rất hiếm khi toán học khô khan xác chứng cho những ý tưởng có phần ủy mị của người yêu chim. Vào những đêm tháng Tư khi tiết trời đã ấm lên đủ để ta có thể ngồi ngoài trời, chúng tôi thường tận hưởng việc lắng nghe các trình tự nghi thức của cuộc tụ họp muôn loài nơi đầm lầy. Có những khoảng lặng dài khi ta chỉ nghe thấy tiếng chim dẽ giun vỗ cánh, tiếng rúc lên của một con cú ở đằng xa, hay tiếng cục tác âm mũi của vài con sâm cầm gọi bạn. Rồi bất chợt, một tiếng ngỗng trời lanh lảnh dồn vang, và trong phút chốc cả đầm lầy trở nên huyên náo hỗn độn. Đâu đây là những tiếng cánh ngỗng đập nước, bóng những con ngỗng đạp chân phóng nhào vào nhau, đi kèm với những tiếng kêu la phàn nàn của những con đứng ngoài cuộc cãi vã gay gắt này. Cuối cùng một con ngỗng với tông giọng trầm sâu cất lên một tiếng phán xét cuối cùng, và những âm thanh ồn ã tắt dần đi, chỉ còn những tiếng rúc rích thì thào không ngớt giữa những con ngỗng. Một lần nữa, tôi ước gì mình là một con chuột xạ hương! Khi những cây bạch đầu ông đã nở đầy hoa thì cũng là lúc hội đồng ngỗng nơi đây dần biến mất, và trước khi tháng Năm nhón gót tới thì đầm lầy của chúng ta lại trở về thành một vùng ẩm ướt um tùm cây cỏ, lấp ló đâu đây vài con chim hét cánh đỏ hay gà nước. დღდ Lịch sử thật nực cười khi cho rằng các cường quốc mới là những người khám phá ra mô hình liên minh các quốc gia liên lục địa ở Cairo vào năm 1943. Các cộng đồng ngỗng toàn cầu đã sớm phát hiện ra điều này từ rất lâu, và cứ mỗi tháng Ba chúng lại đặt cược mạng sống của mình lên chân lý giản đơn này. Thuở ban đầu liên minh này chỉ tồn tại trên những phiến băng trong kỷ Băng Hà. Sau đó, mối liên minh tiếp tục được duy trì khi tuyết tan tháng Ba và những bầy ngỗng từ khắp nơi hành hương trở về phía bắc. Kể từ thế Canh Tân (Pleistocene), cứ vào mỗi dịp tháng Ba, những con ngỗng lại cất cao tiếng gọi bầy từ biển thuộc Trung Hoa đến những dãy núi Siberia, từ sông Euphrates đến sông Volga, từ sông Nile đến cảng biển Murmansk, từ hạt Lincolnshire đến đảo Spitsbergen. Cứ mỗi tháng Ba kể từ thế Canh Tân, những đàn ngỗng lại kháo nhau kêu gọi liên minh từ hạt Currituck đến vùng Labrador, từ hồ Matamuskeet đến bán đảo Ungava, từ hồ Horseshoe đến vịnh Hudson, từ đảo Avery đến đảo Baffin, từ eo đất Panhandle đến lưu vực Mackenzie, từ thành phố Sacramento đến lãnh thổ Yukon. Nhờ vào mạng lưới không vận quốc tế này của loài ngỗng mà những hạt ngô mót ở Illinois đã cưỡi mây đến với miền lãnh nguyên Bắc cực trơ trọi; ở đây, cùng với ánh nắng rơi rớt trong những đêm trắng tháng Sáu ở Bắc Cực tại nơi vĩ độ cao, chúng góp phần nuôi lớn những con ngỗng tơ chập chững suốt dọc chiều dài lãnh nguyên. Và giữa những phi vụ thường niên để đổi thức ăn lấy ánh nắng, đổi hơi ấm giữa mùa đông lấy cái tĩnh mịch ngày hè, những con ngỗng đã mang lại cho cả châu lục một khoản lợi ròng dưới dạng một bài thơ hoang hoải rơi rớt từ trên bầu trời âm u xuống nền đất bùn tháng Ba. THÁNG TƯ Mùa nước nổi L ô-gích đằng sau việc các con sông lớn luôn chảy qua các thành phố lớn khiến cho những nông trại nhỏ đôi khi bị cô lập trong dòng nước lũ đầu xuân. Trang trại của chúng tôi cũng không phải ngoại lệ, và có đôi lần khi lên thăm trang trại vào tháng Tư, chúng tôi đã bị kẹt ở đó. Dĩ nhiên chuyện này hoàn toàn nằm ngoài chủ đích, nhưng ở mức độ nào đó thì ta có thể phỏng đoán dựa trên dự báo thời tiết ràng khi nào thì tuyết trên miền Bắc sẽ tan, và có thể ước lượng rằng sau bao nhiêu ngày thì nước lũ sẽ xối xả thách thức các thành phố trên thượng nguồn. Đó là lý do mà đến tôi Chủ nhật, ta không thể quay trở về phố thị để chuẩn bị hôm sau đi làm. Tiếng ầm òa của dòng nước tuôn trào mới ngọt ngào làm sao khi chúng thì thầm bày tò nổi cảm thông vì đã làm đổ bể biết bao kế hoạch cho buổi sáng thứ Hai! Và tiếng kêu quàng quạc của những con ngỗng mới trầm và sâu làm sao khi chúng lượn vòng trên khắp các cánh đồng ngô mà giờ đang dần biến thành những hồ nước. Cứ hết một trăm mét thì lại có vài con ngỗng đập cánh trên không, khi đang cố gắng chỉ huy bầy đàn dàn quân theo hình bậc thang trong chuyến thăm dò buổi sớm cái thế giới mới mẻ ngập chìm trong biển nước này. Sự hào hứng của lũ ngỗng trước mùa nước nổi xem chừng vẫn còn ra chiều ý tứ, và có thể bị những đôi tai không quen nghe cách chúng kháo chuyện bỏ qua, nhưng nỗi hân hoan của những con cá chép thì quá rõ rệt và không nhầm lẫn vào đâu được. Nước lũ vừa mới dâng ướt chân cỏ thôi là chúng đã tề tựu đông đủ, quẫy đuôi đầm mình với một sự say mê lạ thường, giống như cách những con lợn chạy rông trên bãi cỏ, rượt đuổi những con chim hét cánh đỏ và chim bụng vàng, rong ruổi theo vết xe kéo và vết chân bò, và rung lay những đám sậy và bụi cỏ trong cơn phấn chí khám phá một vũ trụ mới đang mở ra trước mắt. Không giống như đám ngỗng trời và cá chép, các loài thú trên cạn chấp nhận mùa nước nổi với sự hờ hững của một triết gia. Một con chim hồng y đậu trên một thân cây bạch dương ven sông huýt sáo vang lừng để đánh dấu một lãnh địa vô hình mà chỉ những cái cây mới biết. Tiếng một con gà gô cổ khoang đập cánh liên hồi vọng ra từ những cánh rừng ngập nước; nó phải đậu ở phần cao nhất trên khúc gỗ cao nhất trong rừng. Các con chuột đồng đạp nước bơi về phía các mỏm đất nhấp nhô trên mặt nước với vẻ tự tin điềm tĩnh như những con chuột xạ hương tí hon. Từ trong vườn cây ăn trái ló ra một chú hươu vừa bị chiếm mất chỗ ngủ thường ngày trong bụi liễu rậm rạp. Khắp trên ngọn đồi noi trang trại của chúng tôi la liệt những con thỏ đóng quân tạm trú, như trên “chiếc thuyền của Noah” mà thiếu vắng Noah. Cơn lũ mùa xuân không chỉ mang đến cho chúng tôi tinh thần vui chơi thám hiểm; nó còn đưa lại một cơ man những món đồ lạc xoong khó đoán trôi dạt xuống từ các trang trại phía thượng nguồn. Một tấm ván cũ mắc cạn trên cánh đồng, với chúng tôi còn có giá trị gấp đôi so với một tấm ván tương tự mua mới ở xưởng mộc. Mỗi tấm ván cũ là cả một câu chuyện riêng, luôn luôn bí ẩn, nhưng đến chừng mực nào đó thì vẫn có thể đoán định được dựa trên loại gỗ dùng làm ván, kích thước, những cái dinh và ốc vít, lớp sơn, véc-ni quét ngoài (cú hoặc không), và dù mòn vẹt mục nát của nó. Ta thậm chí còn có thể đoán được dựa trên độ bào mòn các góc cạnh của tấm ván, rằng nó đã được chuyên chở qua bao nhiêu cơn lũ trong nhiều năm qua. Chồng gỗ của chúng tôi, tất cả đều được thu lượm từ dòng sông, vì thế không chỉ là một bộ sưu tập các tính cách khác nhau, mà còn là một tuyển tập vẻ những câu chuyện vượt lên số phận của con người ở những trang trại và khu rừng đầu nguồn. Cuốn tự truyện của một tấm ván cũ là một dạng văn học chưa được giảng dạy trong nhà trường, nhưng mỗi bãi sông lại là một thư viện nơi những người làm nghe kéo cưa xẻ gỗ có thể tùy nghi tìm đọc. Mỗi khi con nước lớn là một đợt sách vở mới lại về. დღდ Tồn tại trân đời những dạng thức và mức độ khác nhau của sự đơn độc. Một cồn đất giữa biển hồ là một dạng đơn độc; nhưng trên hồ thì có thuyền ghe qua lại, và hẳn nhiên sẽ có ngày một chiếc thuyền cập cồn thăm bạn. Một đỉnh núi nằm giữa muôn trùng mây là một dạng khác; nhưng đỉnh nào thì cũng có đường lên, và trên đường thì sẽ có du khách. Tôi chưa hề biết tới một sự đơn độc nào triệt để như sự đơn độc của một người bị bao vây bởi dòng nước lũ mùa xuân; lũ ngỗng trời cũng vậy, và chúng thì đã trải nghiệm nhiều tầng lớp và hình dạng của sự cô đơn còn hơn cả tôi. Thế nên chúng tôi ngồi trên đồi bên cạnh một đám cây bạch đầu ông mới trổ và ngắm bầy ngỗng bay qua. Tôi trông thấy con đường dẫn xuống đồi từ từ thoải vào dòng nước, và tôi kết luận (với một chút vui le lói tuy ngoài mặt làm lơ) rằng câu chuyện tắc đường hôm nay, dù là ra hay vào, cũng chỉ là chuyện giữa những con cá chép mà thôi. Hoa cải báo xuân[3] Chỉ trong vài tuần nữa thôi là những bông hoa cải trắng báo xuân bé xíu, giống hoa dại nhỏ nhất có thể phát tán hạt, sẽ đơm trổ trên khắp những vùng có đất cát pha. Người nào chỉ biết nhướng mắt lên trông chờ mùa xuân sẽ không bao giờ để ý thấy một tạo vật nhỏ nhoi như bông hoa cải báo xuân. Người nào chán nản khi xuân về sẽ cụp mắt xuống và vô tình dẫm đạp lên chúng. Chỉ có những ai với đầu gối lấm sình đi tìm mùa xuân trong bùn đất thì mới trông thấy hằng hà sa số những bông hoa tí hon này. Hoa cải báo xuân cần, và nhận được, rất ít nắng ấm và sự chăm sóc ưu ái; nó tồn tại bên rìa những vùng không gian - thời gian không ai đoái hoài tới. Những cuốn sách thực vật học dành cho nó chỉ vài ba dòng, thậm chí còn chẳng có nổi một tiêu bản hay hình minh họa. Với cải báo xuân, những lớp cát nghèo nàn dinh dưỡng và ánh mặt trời quá yếu ớt với những giống cây hoa nở to đã là đủ. Dù sao thì nó cũng không phải là hoa của mùa xuân, mà chỉ là một bông hoa báo xuân, một dòng tái bút cho một mùa hy vọng. Hoa cải báo xuân làm lay động con tim. Mùi hương của nó, nếu có, cũng tản mác bay theo những cơn gió rít. Những cánh của nó trắng nhạt một màu. Từng phiến lá phủ lên mình một lớp tong nhung che chở. Chẳng con gì thèm ăn nó vì quá bé nhỏ. Không thi sĩ nào viết lời tán tụng nó. Một vài nhà thực vật đã từng cho nó một pháp danh Latin, chỉ để quên bẵng nó đi sau đó. Tựu trung thì nó là một tạo vật vô thưởng vô phạt - chỉ là một sinh linh nhỏ với một nhiệm vụ cũng nhỏ, nhưng nó thực thi công việc đó một cách gọn lẹ và hiệu quả. Cây sồi trắng[4] Khi đám trẻ trong trường bầu cử để chọn ra loài chim, loài hoa, hay giống cây đại diện cho bang, chúng thực ra không tự quyết định mà chỉ đơn thuần là đang phê chuẩn lịch sử. Lịch sử đã chọn cây sồi trắng làm giống cây đặc trưng cho miền Nam Wisconsin khi những đám cỏ trên thảo nguyên mới bắt đầu chiếm hữu khu vực này. Cây sồi trắng là thứ cây duy nhất có thể hiên ngang chống chọi với đám cháy trên thảo nguyên và sống sót. Đã bao giờ bạn tự hỏi tại sao toàn bộ cây sồi lại được bao phủ bởi một lớp vỏ dày gồ ghề sần sùi cho đến những cành nhỏ nhất chưa? Lớp vỏ này chính là một lớp áo giáp, sồi trắng là đội quân xung kích được các khu rừng gửi đến để chiếm đất trên thảo nguyên, và lửa cháy đồng là mối đe dọa lớn nhất mà chúng phải chống chọi. Cứ mỗi tháng Tư, trước khi lớp cỏ mới kịp che phủ thảo nguyên bằng lớp áo giáp xanh chống lửa, những đám cháy đồng tự do càn quét trên thảo nguyên, chỉ chừa lại những thân sồi già đã mọc vỏ đủ dày để không bị thiêu rụi. Đa phần các cây sồi trắng kỳ cựu nay mọc thành lùm rải rác, được các nhà khai khẩn đất đai gọi là các “mảng sồi thưa” (oak openings). Các kỹ sư không tự sáng chế ra quy trình cách ly nhiệt, mà chỉ sao chép lại từ kỹ thuật của các chiến binh sồi già trong cuộc chiến giữa rừng già và thảo nguyên. Các nhà thực vật học có thể lần lại lịch sử cuộc chiến này tới hai mươi nghìn năm về trước. Các văn thư ghi chép được lưu lại dưới dạng các hạt phấn nằm sâu trong lớp than bùn, một phần của các thân cây cổ được cài cắm bên rìa cuộc chiến và bị lãng quên ở đó. Văn thư này cho thấy tiền tuyến của rừng già có khi bị đẩy lùi đến tận hồ Superior; có khi nó lại tiến xa xuống đến tận phía nam. Có một thời gian, đường biên này nam tiến xa đến độ những cây vân sam và các giống cây “hậu vệ” vượt ra xa khỏi biên giới phía nam bang Wisconsin, bằng chứng là hạt phấn cây vân sam xuất hiện ở một vài tầng khắp các đầm lầy than bùn trong vùng. Tuy nhiên, chiến tuyến trung bình giữa rừng già và thảo nguyên vẫn quay lại vị trí hiện thời, và tỷ số của cuộc chiến này tính đến giờ vẫn hòa đều. Một lý do cho kết quả này là sự tồn tại của các đồng minh lần lượt chống lưng hết bên này đến bên kia chiến tuyến. Những loài gặm nhấm như thỏ và chuột dọn dẹp hết những giống thảo mộc trên thảo nguyên vào mùa hè, trong khi mùa đông thì chúng lại bóc khoanh vỏ tất cả các gốc sồi non đã sống sót qua đám cháy. Đám sóc thì trồng các hạt sồi vào mùa thu trong khi lại dùng chúng làm nguồn lương thực trong suốt thời gian còn lại trong năm. Những con bọ cánh cứng tháng Sáu là kẻ thù của những đồng cỏ trên thảo nguyên khi còn là ấu trùng, nhưng khi trưởng thành thì chúng lại hút nhựa làm rụng lá sồi. Tuy nhiên, nếu không nhờ quá trình dùi gắng của các đồng minh, và dẫn đến thắng lợi của từng bên chiến tuyến, thì chúng ta cũng sẽ không có được những mảng thảo nguyên đa sắc và lớp đất rừng phong phú như trên bản đồ ngày nay. Jonathan Carver đã dùng câu chữ vẽ nên một bức tranh sinh động về biên giới thảo nguyên trước cái ngày con người tới định vào ngày 10 tháng Mười năm 1763, ông đến thăm khu Blue Mounds, một cụm đồi cao (giờ đã phủ rừng) gần góc phía tây nam của hạt Dane. Ông kể: Tôi leo lên một trong những ngọn đồi cao nhất và từ đó đánh tầm mắt ra nhìn toàn cảnh vùng đồng quê. Trong bán kính mấy trăm cây số, ta không nhìn thấy gì khác ngoài những quả đồi thấp hơn và trọc lốc, nhấp nhô đằng xa như những đụn cỏ khô. Đâu đó chỉ có vài lùm cây mại châu và mấy gốc sồi lùn mọc che phủ vài thung lũng xa xa. Vào những năm 1840, một giống loài mới, những người khai khẩn lập cư, can thiệp vào cuộc chiên trên thảo nguyên. Họ không cố tình làm như vậy, chỉ là họ đã vô tình cày xới đồng ruộng nhiều đến nỗi cắt đứt nguồn viện trợ của đồng minh chí cốt của thảo nguyên: những đám cháy đồng. Những đạo quân cây sồi non được đã túa ra khắp nơi trên đồng cỏ, khiến cho nơi từng là lãnh địa thảo nguyên trở thành một khu nông trại bao quanh là vườn trồng cây. Nếu bạn vẫn còn bán tín bán nghi, bạn có thể đi đếm số vòng trên bất cứ gốc cây nào mọc trong các vườn cây “vùng ven” ở miền tây nam Wisconsin. Tất cả các cây, ngoại trừ các cây đại thụ, sẽ có niên đại từ những năm 1850 và 1860, trùng với thời điểm các đám cháy đồng ngừng quét qua thảo nguyên. John Muir lớn lên ở hạt Marquette trong thời gian này khi các khu rừng mới lấn chỗ các thảo nguyên cũ và phủ kín các mảng rừng sồi thưa với những thân sồi non. Trong cuốn sách Boyhood and Youth, ông kể lại rằng: Đất đai màu mỡ đồng đều khắp các thảo nguyên ở Illinois và Wisconsin đã nuôi dưỡng một thế hệ cỏ mọc dày và cao - nguồn nguyên liệu cho các đám cháy đồng - khiến không cây nào có thể mọc được ở đây. Nếu không nhờ các đám cháy chắc hẳn các thảo nguyên tươi xanh nay, vốn là một cảnh quan tiêu biểu chốn đồng quê, sẽ bi các khu rừng rậm rạp nhất nhanh chóng che phủ. Ngay khi các nông dân bắt đầu ngăn chặn các đám cháy đồng hoành hành, các cây sồi con lập tức bén rễ thành cây lớn và tạo thành những bụi rậm dày và cao đến nỗi khó mà băng qua được, và mọi dấu vết của những “khoảng rừng thưa” ngập nắng nhanh chóng bị phủi nhòa. Vì lẽ đó, cây sồi trắng mà bạn sở hữu không đơn thuần chỉ là một cái cây. Nó còn là một thư viện lịch sử, và một chiếc ghế đặt trước để xem vở kịch của sự tiến hóa. Với những con mắt hiểu biết, cây sồi trong nông trại của bạn là một huy chương và biểu tượng cho cuộc chiến trên thảo nguyên. Thiên điểu vũ Mất hai năm làm chủ trang trại thì tôi mới biết rằng mình có thể ngắm một màn thiên điểu vũ ngay tại khu rừng trong trang trại vào mỗi tối tháng Tư và tháng Năm. Từ khi phát hiện ra điều này, tôi và gia đình luôn cố gắng không bỏ lỡ một màn biểu diễn nào cả. Màn trình diễn bắt đầu vào buổi tối ấm áp đầu tiên của tháng Tư vào đúng 6 giờ 50 tối. Cứ mỗi ngày qua thì rèm sẽ kéo muộn hơn một phút cho đến tận ngày 1 tháng Sáu, khi giờ mở màn là 7 giờ 50 tối. Sự trì hoãn này bị thói phù phiếm của các vũ công chi phối: họ đòi hỏi thứ ánh sáng biểu diễn lãng mạn với độ sáng tiêu chuẩn 0,05 foot-nến (đơn vị đo lường ánh sáng). Đừng đến muộn, và bạn phải ngồi thật im nếu không muốn vũ công vùng vằng bay mất. Các đạo cụ sàn diễn, tương tự như giờ mở màn, cũng phản ánh các yêu sách thất thường của vũ công. Sân khấu phải là một nhà hát vòng tròn ngoài trời trong rừng hay bụi cây; ở chính giữa sân khấu phải có một khoảng rêu ẩm ướt, một vệt đất cằn cỗi, một hòn đá lộ thiên trồi lên từ dưới đất hay một lối mòn trơ trọi. Vì sao còn chim dẽ gà trống lại khăng khăng chọn một sàn nhày trống trơn ban dầu làm tôi khó hiểu, nhưng giờ thì tôi nghĩ điều này liên quan tới cặp chân của con vật. Chân loài dẽ gà vốn ngắn, và nó sẽ không thể thực hiện các bước nhảy một cách nhuần nhuyễn ở nơi cỏ rậm rạp, và cô nàng nó tán tỉnh cũng không thể ngắm nhìn nó ở một chỗ như thế. Nơi tôi ở có nhiêu dẽ gà hơn các nông trại khác vì tôi có nhiêu bãi cát phủ rêu hơn, căn bản vì đất ở đó quá nghèo dinh dưỡng cho cỏ mọc. Khi đã biết giờ diễn và địa điểm, bạn hãy ngồi núp dưới một bụi cây ở mé phía đông sân khấu và chờ đợi con chim dẽ gà xuất hiện trên nền trời hoàng hôn. Chàng ta sẽ bay sà xuống từ một bụi rậm gần đó, đáp cánh xuống thảm rêu, và lập tức bắt đầu khúc dạo đầu: một chuỗi những tiếng pin (peent) khàn đục, mỗi tiếng cách nhau hai giây và nghe gần giống tiếng kêu mùa hè của loài cú muỗi. Bất chợt những tiếng pin tạm dừng lại và con chim vỗ cánh bay lên trong lúc xoay vòng trôn ốc trên không, miệng không ngớt chiêm chiếp những âm điệu líu lo. Càng bay lên cao thì các vòng xoay càng nhỏ dần và xoáy xuống sâu hơn, cho đến khi chàng vũ công chỉ còn là một chấm nhỏ trên bầu tròi. Khi đó, không hề báo trước, chàng lao xuống như một chiếc phi cơ gãy cánh, cất lên chất giọng dịu dàng êm ái đủ khiến một con sơn ca tháng Ba phải đâm ghen tị. Khi chỉ còn cách mặt đất vài mét, anh chàng giảm tốc để trở về với sân khấu ban đầu và lại cất lên những tiếng kêu pin pin. Màn đêm nhanh chóng buông xuống, quá tối để có thể nhìn dẽ gà trên mặt đất. Nhưng ta vẫn có thể nhìn thấy nhưng pha bay lượn của nó in lên nền trời trong khoảng một tiếng sau đó, thường cũng là lúc màn trình diễn kết thúc. Vào những đêm sáng trăng, chàng vũ công có thể sẽ tiếp tục vừa diễn vừa nghỉ, miễn là ánh trăng tiếp tục soi rọi sân khấu. Khi trời hửng sáng là lúc buổi diễn được lặp lại. Vào đầu tháng Tư thì sân khấu hạ màn lúc 5 giờ 15 sáng, và cứ thế tịnh tiến lùi hai phút một ngày cho tới tháng Sáu, khi màn trình diễn kết thúc vào lúc 3 giờ 15 sáng. Tại sao lại có sự chênh lệch về thời gian bắt đầu như vậy? Than ôi, tôi nghĩ rằng ngay cả những trái tim lãng mạn nhất cũng có lúc chùn chân mỏi gối, vả lại vào lúc bình minh thì chỉ cần một phần năm ánh sáng ban ngày đã đủ để chú chim dừng biểu diễn, so với khi nó nhảy múa lúc hoàng hôn. დღდ Có lẽ thật là một điều may rằng, cho dù ta có nghiên cứu hàng trăm nghìn chuyện “thị phi” diễn ra trong rừng và trên đồng cỏ đến mức nào, ta cũng không bao giờ hiểu được tường tận mọi thứ về bất cứ một chuyện nào trong số chúng. Điều tôi vẫn còn chưa biết về điệu thiên điểu vũ là: cô nàng của chàng chim dẽ ở đâu, và cô ấy góp phần thế nào, nếu có, vào màn biểu diễn? Tôi thường thấy hai con dẽ gà trên cùng một sân khấu, đôi khi bay lượn cùng nhau, nhưng không bao giờ cùng cất tiếng kêu pin pin. Liệu con dẽ gà thứ hai có phải là con chim mái, hay là một con trống khác đến cạnh tranh? Một ẩn số nữa: liệu những tiếng chiêm chiếp kia thuộc về phạm trù thanh âm hay cơ học? Bạn tôi, Bill Feeney, có lần đã sập lưới phải một chú dẽ gà đang kêu và tước mất lớp lông cánh ngoài cùng của chú. Chú chim sau đó vẫn có thể kêu pin pin và hót líu lo, nhưng nó không kêu chiêm chiếp được nữa. Nhưng chỉ có một thí nghiệm như vậy thôi thì khó mà nói lên điều gì cụ thể. Thêm một bí ẩn khác: con trống tiếp tục màn thiên điểu vũ cho đến thời điểm nào trong quá trình làm tổ? Con gái tôi có lần đã nhìn thấy một con dẽ gà kêu pin pin cách một cải tổ với vỏ trứng đã nở khoảng gần 20 mét, nhưng liệu đó có phải cái tổ của vợ nó không? Hay cậu chàng ranh mãnh này có lẽ tuân theo chế độ song thê mà chúng ta không hề hay biết? Những câu hỏi trên, và còn nhiều câu hỏi nữa, đến giờ vẫn là những câu đố của hoàng hôn tím sẫm. Vở trình diễn thiên điểu vũ bày ra mỗi tối ở hàng trăm nông trại, nơi những người chủ luôn mong mỏi kiếm tìm sự giải trí nhưng lại ảo tưởng cho rằng họ chỉ có thể tìm được những thứ ấy trong rạp hát. Họ sống trên đất, nhưng lòng họ lại không thuận theo đất. Con chim dẽ gà là phản chứng sống cho lý thuyết rằng một con chim chỉ dùng làm mục tiêu săn bắn, hay nằm im nhã nhặn trên một miếng bánh mì nướng. Hơn ai hết, tôi là người mê săn bắn chim dẽ gà vào tháng Mười. Nhưng kể từ khi khám phá ra điệu nhảy thiên vũ, tôi cảm thấy chỉ cần bắt tầm một hai con chim lớn là đủ. Tôi cần phải đảm bảo rằng, sang tháng Tư, sẽ không thiếu những vũ công dẽ gà nhảy múa trên nền trời hoàng hôn. THÁNG NĂM Trở về từ Argentina K hi những cánh bồ công anh ra dấu tháng Năm đã về trên những đồng cỏ ở Wisconsin, đó cũng là lúc ta có thể lắng nghe tín hiệu cuối cùng của mùa xuân. Ngồi xuống một bụi cỏ, đưa tai về phía trời xanh, lọc ra khỏi màng nhĩ những tiếng chao chát của loài sáo Bắc Mỹ và chim hét cánh đỏ, và bạn sẽ sớm nghe thấy nó: tiếng hát ngao du bay lượn của chú chim choi choi vùng cao, vừa trở về từ Argentina ở phía nam. Nếu mắt bạn đủ tinh, bạn có thể rà soát bầu trời và nhìn thấy nó, với đôi cánh hơi run run đang xoay vòng quanh những cụm mây trắng tựa bông. Nếu thị lực bạn yếu, thì không cần cố gắng tìm: chỉ cần quan sát các cây cột hàng rào. Chỉ một lát sau là một vệt màu trắng bạc sẽ xoẹt qua, báo cho bạn biết con choi choi đã đậu lên cây cột nào để gập đôi cánh dài nghỉ ngơi. Người nào phát minh ra chữ “duyên dáng” thì hẳn đã trông thấy cách một con choi choi xếp cánh. Con chim ngồi đó, toàn bộ thần thái toát lên thông điệp rằng bạn nên liệu nhanh chóng rời khỏi lãnh địa của chúng. Cục Văn thư của hạt có thể đã lưu tên bạn là chủ cánh đồng, nhưng con chim choi choi thì phẩy cánh coi nhẹ những thứ pháp lý tầm thường đó. Nó vừa mới bay hơn 6.000 cây số về đây để thiết lập lại tước hiệu mà những người thổ dân châu Mỹ đã phong cho nó, và đến chừng nào mà những con choi choi con còn chưa biết bay, thì chừng đó đây vẫn là cánh đồng của nó và không ai có quyền xâm lấn mà không gặp phải sự phản đối của con choi choi. Ở một chỗ gần đó, con choi choi mái đang nằm ấp bốn quả trứng lớn với đầu hình chóp mà sớm thôi sẽ nở ra bốn chú chim con có thể tự kiếm sống ngay sau khi sinh. Ngay khi lớp lông tơ của chúng vừa kịp khô, những con chim con lập tức nháo nhào chạy vào bụi cỏ như những con chuột đi cà kheo, nhưng vẫn thừa sức né tránh những bàn tay vụng về muốn tóm bắt chúng. Sau ba mươi ngày, lũ chim con đã hoàn toàn trưởng thành (không một loài chim nào có thể phát triển với tốc độ tương tự). Đến tháng Tám thì chúng đã thuần thục trong chuyện bay lượn; vào những đêm tháng Tám mát trời, bạn có thể nghe tiếng chúng huýt sáo ra hiệu trước khi chuẩn bị bay đến các đồng cỏ pampa ở Nam Mỹ, một lần nữa chứng tỏ mối liên kết từ thời thượng cổ trên khắp dải châu lục. Mối giao hảo giữa hai bán cầu tuy còn mới mẻ so với con người, nhưng lại quá đỗi thông thường giữa những cư dân lông vũ của trời xanh. Con chim choi choi vùng cao dễ dàng hòa mình vào khung cảnh vùng đồng quê trồng trọt. Nó bám đuôi những con bò bison lông đen trắng nhởn nhơ gặm cỏ nơi trên thảo nguyên, chấp nhận việc chúng thấy thế những con bò bison nâu hoang dã trước kia. Nó làm tổ trên cả cánh đồng cỏ khô và bãi chăn thả gia súc, nhưng không bị cuốn vào các máy gặt rơm rạ những con gà gô vụng về. Trước khi đám cỏ khô đủ thu hoạch, những con choi choi con đã đủ lông cánh để bay đi. Ở vùng nông trang này, loài chim choi choi chỉ có hai kẻ thù thực sự: mương rãnh và cống thoát nước. Có lẽ một ngày nào đó chúng ta sẽ nhận ra đây cũng là những kẻ thù của loài người. Vào những năm 1990, đã từng có một khoảng thời gian khi các trang trại ở Wisconsin suýt nữa thì đã để mất loài chim gọi mùa từ xa xưa này, khi các cánh đồng tháng Năm cỏ mọc xanh trong im ắng, và không còn những tiếng huýt sáo báo hiệu thu sắp tới giữa những đêm tháng Tám. Thuốc súng, cộng thêm sự cám dỗ của món chim choi choi trên bánh mì nướng trong các bữa tiệc lớn theo phong cách Hậu Victoria, đã để lại một hậu quả ngoài tầm cứu vãn. Thật may mắn là đạo luật bảo vệ các loài chim di cư đã được bang Wisconsin áp dụng kịp thời. THÁNG SÁU Ngã ba sông Alder – Thú điền viên giăng câu bắt cá C húng tôi phát hiện thấy mực nước sông chính đã xuống thấp đến độ một con chim dẽ giun ven bờ có thể rảo chân đi lại ở noi trước kia là vũng nông cho cá hồi. Nước sông ấm đến nỗi chúng tôi nhúng mình xuống vũng sâu nhất mà không kêu toáng lên vì lạnh. Ngay cả sau khi tắm mát, đôi ủng lội nước của chúng tôi vẫn nóng ran như giấy tẩm hắc ín dưới ánh nắng mặt trời. Quả như điềm báo, chuyến đi câu cá tối hôm đó thật đáng thất vọng. Chúng tôi xin dòng sông cá hồi, và nó trả lại cho chúng tôi một con cá bống. Đêm hôm ấy, chúng tôi ngồi quanh một cái lò hun đuổi muỗi và bàn bạc kế hoạch cho ngày hôm sau. Chúng tôi đã vượt hơn 300 cây số đường bụi bặm nóng nực để đến đây, hòng một lần nữa cảm nhận sức kéo mãnh liệt của dòng sông hay một con cá hồi cầu vồng. Nhưng đáng tiếc lại chẳng có bóng dáng con cá hồi nào ở đây cả. Thế nhưng, chúng tôi chợt nhớ ra, đây là một con sông đa nhánh. Xa hơn về phía thượng nguồn, chúng tôi từng nhìn thấy một ngã ba sông hẹp và sâu, được tiếp nước bởi các con suối lạnh buốt, nước ồng ộc chảy bên những bức tường các cây tổng quán sủi (alder) khép kín. Một con cá hồi tự trọng sẽ làm gì trong thời tiết nóng nực thế này? Cũng như chúng tôi thôi: nó sẽ lội ngược về thượng nguồn. Sáng sớm tinh mơ hôm sau, khi một trăm con chim chích cổ bạc cũng quên rằng thời tiết mát lịm ngọt ngào này sẽ nhanh chóng biến mất, tôi leo xuống bãi sông ướt sương đêm và đặt chân vào địa phận ngã ba sông Alder. Một con cá hồi đang ngoi lên ngay phía thượng nguồn. Tôi kéo dây câu, lòng thầm mong nó sẽ luôn mềm và khô như thế. Sau khi áng chừng khoảng cách thả câu với một hai cú lia thử, tôi liền quăng dây thả câu mồi ruồi cách chỗ con cá vừa ngụp lặn khoảng 30 xen-ti-mét. Những chặng đường thiêu đốt, lũ muỗi mòng, và con cá bống mắc dịch kia đã rơi vào quên lãng. Con cá hồi đớp mồi cái bập, và lập tức tôi có thể nghe thấy tiếng nó giãy giụa dưới đáy sông phủ một lớp lá tổng quán sủi. Một con nữa, dù to hơn, trong lúc đó đã trồi lên ở vùng nước bên cạnh, nằm ở chóp điểm lèo lái tàu chỗ các cây tổng quán sủi ken dày thành bụi rậm rạp khó lòng xuyên thủng. Một bụi cây trong hàng ngũ đó, với thân màu nâu bắc ngang qua giữa nhánh sông, khẽ rùng mình như đang nén một cú cười khẩy, tỏ vẻ chế nhạo bất cứ miếng mồi ruồi nào mà thần thánh hay người phàm vô tình quăng chỉ một phân quá lạm và mắc kẹt vào cành nhánh rậm rì của nó. დღდ Tôi ngồi trên một hòn đá giữa sông đủ lâu để hút hết một điếu thuốc lá, mắt ngắm nhìn con cá hồi ngoi lên bên đuôi lùm cây hộ vệ của nó, trong lúc cần và dày câu của tôi đang mắc trên các nhánh tổng quán sùi để hong khô trên bãi sông ngập nắng. Và rồi, hãy thận trọng nào, chỉ một chút nữa thôi. Cái hồ nước đó còn lặng quá. Một cơn gió nhẹ đang cuộn thổi và chỉ vài phút nữa thôi sẽ làm mặt hồ lay động, giúp cho cú quăng cần câu hoàn hảo mà tôi chuẩn bị ngắm vào chính giữa hô thêm phần sát ca. Nó sẽ đến, một cơn gió đủ mạnh để hất một con bướm cánh mốc từ thân cây tổng quán sủi đang cười nhạo kia rơi xuống mặt hồ. Thời cơ đã chín muồi! Quấn cuộn dây đã khô lại và đứng giữa dòng, cần câu sẵn sàng trên tay. Nó đang đến rồi, một luồng run rẩy truyền xuống từ cây hoàn diệp liễu trên quả đồi báo hiệu cho tôi kéo ra nửa cuộn dây câu, rồi nhẹ nhàng đưa cần tới lui để lấy tinh thần sẵn sàng khi ngọn gió chạm đến mặt hồ. Các bạn nhớ đấy, không được rút dài hơn nửa cuộn dây câu! Mặt trời giờ đã lên cao, và bất cứ một bóng đen nào vút qua trên đầu cũng có thể đánh động cho con mồi của tôi về số phận đang cận kề của nó. Chính lúc này đây! Cuộn dây câu phóng hết gần ba mét cuối, và con ruồi nhựa hạ cánh uyển chuyển ngay gốc cây tổng quán sủi nọ - cậu chàng cắn câu rồi! Tôi ra sức kéo con cá ra khỏi khu rừng ẩn náu. Nó cố lội về cuối sông. Nhưng cũng chỉ vài phút sau là chàng ta cũng nằm lọt thỏm giãy giụa trong giỏ đựng cá. Tôi ngồi suy tư trên tảng đá trong niềm hân hoan, ngẫm nghĩ trong lúc chờ cuộn dây khô, về dòng đời của cá hồi và con người. Rằng chúng ta mới giống lũ cá làm sao: luôn sẵn sàng, nhưng không hăm hở, để đớp lấy bất cứ thứ gì mới lạ mà ngọn gió của số phận đưa đẩy ném xuống dòng sông thời gian! Và sau đó chúng ta hối hận nhường nào vì đã quá hấp tấp, mồm mắc vào lưỡi câu giấu trong miếng mồi tưởng rằng béo bở kia. Dù vậy, tôi nghĩ bản tính sẵn sàng vẫn hàm chứa giá trị của nó, bất luận mục đích cuối cùng là thanh cao hay đê hèn. Một người đàn ông, một con cá hồi, hay một thế giới cẩn trọng thái quá thì thật nhàm chán biết bao! Có phải lúc nãy tôi đã nói là tôi chờ đợi “vì muốn cẩn trọng” không? Thực tế thì không phải đâu. Sự cẩn trọng duy nhất mà những người câu cá cần là thứ để tạo đà cho một cơ hội khác, có lẽ kéo dài hơn lần trước. Đến lúc quay lại công việc rồi - chẳng mấy chốc nữa bầy cá sẽ ngừng ngoi lên. Tôi lội ra chóp điểm lèo lái tàu đến khi nước lên đến hông, lấc cấc thò đầu vào trong bụi cây tổng quán sủi đang run rẩy, và đảo mắt nhìn quanh. Gọi chỗ này là một khu rừng quả cũng không sai! Những vòm cây xanh đan dày vào nhau tạo nên một mái vòm đen như phủ muội than trên đầu, dày đến độ bạn không thể vung nổi một cành dương xỉ chứ đừng nói đến một cái cần câu lên cao quá ngọn cây. Và ở đằng kia, gần như đang cọ sườn vào bờ đất tối, là một con cá hồi to lớn đang lười biếng lăn qua lăn lại trong lúc đang hút tụt một con bọ vào miệng. Không có cơ để theo đuôi con vật ở đây, ngay cả khi nó đang bận rộn với con bọ xấu số. Nhưng ở phía xa cách chừng gần 20 mét, tôi nhìn thấy ánh sáng chiếu xuống trên mặt nước - một cửa khác ra khỏi bụi rậm. Quăng câu thả mồi về phía cuối nguồn ư? Chuyện nghe có vẻ bất khả, nhưng nó cần phải được thực thi. Tôi thoái lui và trèo lên bãi sông. Lặn lội qua những bụi cây phượng tiên và cây tầm ma cao đến cổ, tôi đi đường vòng qua bụi cây tổng quán sủi um tùm về phía khoảng rừng thưa phía trước. Với những bước nhẹ nhàng như loài mèo để tránh đánh động nước trong bãi tắm của ông hoàng cá hồi, tôi lội xuống nước, và đứng yên như tượng trong vòng năm phút để mọi thứ lắng xuống. Trong lúc đợi, tôi bung dây câu, thoa dầu bôi trơn, để khô, rồi cuộn vào tay trái tầm 10 mét dây. Đó cũng là khoảng cách giữa tôi và cửa vào khu rừng. Bây giờ là lúc cho cơ hội tốt hơn! Tôi thổi lên con ruồi mồi của mình một hơi cuối cùng, đặt nó xuống dòng chảy dưới chân, và nhanh chóng tháo từng vòng dây trong tay ra. Sau đó, trong lúc sợi dây bắt đầu trải thẳng ra khi con ruồi dần bị hút tụt vào trong khu rừng, tôi nhanh chân lội về phía hạ nguồn, căng mắt ra nhìn vào bên trong vùng tối để dõi theo vận may của con ruồi. Qua một vài khoảng trống được chiếu sáng le lói, tôi nhìn thấy con ruồi vẫn đang trơn tru trôi theo dòng nước. Nó vòng qua khúc quanh. Chẳng mấy chốc, trước cả khi bước chân khuấy nước của tôi làm lộ tẩy cú lừa này, nó đã chạm đến hồ nước tối. Tức thì, tôi nghe thấy tiếng con cá to lớn nhao đến con ruồi; tôi ghì dây câu, và trận đấu chính thức bắt đầu. Không một người thận trọng nào lại dám liều để mất một con ruồi mồi đáng giá một đô-la và lưỡi câu để kéo một con cá hồi về đầu suối qua một hàng phòng thủ hình răng lược gồm cành nhánh cây tổng quán sủi rào quanh khúc cua của con suối. Nhưng, như tôi đã nói, người cẩn trọng quá thì không câu được cá. Từng tí một, trong lúc thận trọng thu dây, tôi kéo được con cá lên khỏi mặt nước và cuối cùng thì cho nó yên vị trong giỏ câu. Giờ tôi có thể thú nhận với bạn là không có con nào trong số ba con cá này phải bị chặt đầu, hay bẻ quặt làm đôi, để nhét vừa cái giỏ quan tài của chúng. Cái đáng nói ở đây không nằm ở kích thước các con cá, mà là việc thử sức vận may. Thứ đong đầy không phai là cái giỏ, mà là những kỷ niệm của tôi. Như bầy chim chích cổ trăng, tôi đã quên rằng cuối cùng thì ngày sẽ lại sáng tươi trên ngã ba sông. THÁNG BẢY Những của cải quý giá B ốn mươi chín héc-ta, thể theo lời ngài chánh văn phòng hạt, là toàn bộ diện tích đất đai cõi tạm của tôi. Nhưng ngài chánh văn phòng lại là một người mê ngủ, và không bao giờ mở sổ sách ra kiểm kê trước chín giờ sáng. Những gì ta thấy được lúc ngày vừa sang mới là câu hỏi đáng chú tâm ở đây. Dù có sổ sách hay không, vẫn tồn tại một sự thật hiển nhiên với cả tôi và chú chó của tôi, là khi bình minh hé rạng, thì tôi là chủ sở hữu độc nhất của mọi héc-ta đất đai mà chân tôi có thể đi qua. Đó là khi không chỉ các ranh giới biến mất, mà ý niệm về việc bị ràng buộc cũng tan biến theo. Những vùng trời chưa được lưu lại bằng văn kiện hay bản đồ nay mở ra ngút tầm mắt trong buổi bình minh, và sự tĩnh mịch, tưởng như không còn tồn tại nơi hạt tôi ở, thì giờ đây bao trùm lên đất trời còn đọng sương đêm. Cũng như những đại địa chủ khác, tôi cũng có khách thuê nhà. Chúng tuy trễ nải việc trả tiền nhà, nhưng lại rất kỹ tính trong việc chiếm dụng đất đai. Quả thực, từ tháng Tư sang tháng Bảy, cứ khi mặt trời lấp ló đằng đông là chúng lại lên giọng phân chia ranh giới lẫn nhau, và theo cách đó gián tiếp công nhận tôi là người phong đất đai cho chúng. Nghi lễ diễn ra hàng ngày này, trái với những gì bạn có thể hình dung, bắt đầu hết sức lịch thiệp chừng mực. Tôi cũng không biết ai là kẻ đã đặt ra các tiền lệ này nữa. Vào lúc 3 giờ 30 sáng, với tất cả vẻ đạo mạo mà tôi có thể trưng ra được vào một sáng tháng Bảy, tôi bước ra khỏi cửa chòi gỗ, trong tay là hai vật biểu trưng cho chủ quyền tối cao của mình: một ấm cà phê và một cuốn sổ tay. Tôi ngồi xuống một băng ghế, mặt hướng về phía ánh sáng trắng của ngôi sao mai. Tôi đặt cái ấm bên cạnh mình. Tôi rút trong túi áo ngực ra một cái cốc, lòng thầm mong không có ai phát hiện ra cách vận chuyển kém phần chính thống này. Sau đó, tôi lấy đồng hồ đeo tay ra, rót cà-phê, và đặt cuốn sổ lên đùi. Đây là ám hiệu bắt đầu các diễn văn tuyên bố chủ quyền. Vào lúc 3 giờ 35, con sẻ đồng gần nhất thú nhận, bằng một bài tụng kinh ở tông giọng nam cao, rằng nó làm chủ khu rừng cây thông lùn phía bắc bãi sông và phía nam con đường cũ nơi xe bò kéo từng qua lại. Lần lượt sau đó, những con sẻ đồng khác kế bên cũng thuật lại văn kiện chủ quyền của mình. Tính đến giờ phút này thì chưa xảy ra tranh chấp gì, nên tôi chỉ ngồi lắng nghe, lòng thầm mong các cô sẻ mái sẽ ưng lòng với sự đồng tình giao hảo này về hiện trạng chủ quyền trước đó. Trước khi đám sẻ đồng kết thúc một vòng thảo luận, con chim cổ đỏ sống trong cây du đại thụ bắt đầu lớn giọng kêu ríu rít chứng tỏ quyền sở hữu cái chạc cây mà cơn lốc băng đá đã cưa đứt một nhánh, cũng như tất cả các phụ mục gắn liền với cái chạc cây từ đó đến nay (trong trường hợp này, chú ta đang ám chỉ tất cả đám giun mồi trong bãi cỏ không lấy gì làm rộng lắm bên cạnh). Tiếng hót ríu rít không ngừng của con chim cổ đỏ đã đánh thức con chim vàng anh, và nó tức tốc bắt đầu kể với hội đồng vàng anh rằng cái cành chìa ra trên thân cây du thuộc về nó, cũng như tất cả các thân cỏ bông tai giàu chất xơ mọc kế bên, tất cả những dây nhợ thừa thãi trong vườn, và cuối cùng là đặc quyền được phi như tên lửa từ cây này sang bụi nọ trong diện tích nêu trên. Đồng hồ của tôi chỉ 3 giờ 50 sáng. Con sẻ đất lông chàm trên đồi đang thiết lập danh hiệu chủ sở hữu gốc sồi đã chết khô sau trận hạn hán năm 1936, cũng như quyền mò móc những con bọ trong lùm bụi kế bên. Nó không nhắc đến, nhưng tôi đồ là nó có ngụ ý ám chỉ, quyền được khoác áo xanh hơn tất cả các con sơn ca lưng xanh, cũng như quyền nếm náp tất cả những cây rau trai vừa ngước mặt lên ngắm bình minh. Kế đến là con chim hồng tước - kẻ đã khám phá ra hốc mắt gỗ nơi mái hắt của căn chòi - bắt đầu cất cao tiếng hót. Nửa tá con hồng tước lập tức góp lời, và sau đó thì không gian tràn ngập tiếng kêu hỗn độn như ong vỡ tổ. Chim sẻ mỏ to, chim họa mi đỏ, chim chích vàng, sơn ca, chim khướu mào bụng trắng, chim sẻ Mỹ, và chim hồng y - tất cả đều đồng thanh lên giọng, cầm trong tay danh sách đầy trang trọng có tên các ca sĩ, theo thứ tự xuất hiện và thời điểm bắt đầu cất tiếng hát, tôi bắt đầu do dự, nao núng, chần chừ, vì tai tôi bây giờ không còn lọc được tiếng chim nào cần ưu tiên nữa. Hơn nữa, ấm cà-phê giờ đã cạn và mặt trời cũng chuẩn bị lên. Tôi cần phải đi tuần tra lãnh thổ của mình trước khi chức danh của tôi hết hiệu lực. Chúng tôi cất bước dạo chơi tung tăng, tôi và chú chó. Chú có vẻ khá hờ hững trước tất cả những lời qua tiếng lại chao chát này, vì với chú thì chủ quyền được đánh dấu bằng mùi chứ không phải bài hát. Bất cứ một gã thất học đầy lông vũ nào, chú nói, cũng có thể rung cây tạo tiếng. Bây giờ thì chú sẽ phiên dịch các bài thơ khứu giác viết bằng mùi của các con vật im hơi lặng tiếng (mà có trời mới biết chúng là gì) đã viết trong đêm hè ở cuối mỗi bài thơ là tác giả - nếu chúng ta có thể tìm ra nó việc chúng tôi tìm thấy hoàn toàn nằm ngoài dự kiến: một con thỏ đột nhiên cao hứng muốn nhảy đi đâu đó; một con dẽ gà vây cánh khước từ tác quyền, một con gà gô trống càm ràm vì bộ lông vũ bị ướt khi đi qua bụi Cỏ. Có đôi khi chúng tôi sẽ chạm trán một con gâu trúc Mỹ hay một con chồn đang trở về nhà sau một đêm đục phá cướp bóc. Đôi khi chúng tôi quấy rầy một con diệc đang dở tay bắt cá, hay làm một con vịt rừng cùng đám vịt con giật bắn mình, vội vàng chạy hết tốc lực tìm chỗ trú ẩn trong đám lục bình. Đôi khi chúng tôi lại nhìn thấy bầy hươu tản bộ nhàn nhã về rừng rậm, um tùm những đám cỏ linh lăng đang ra hoa, cây thủy cư, và xà lách dại. Nhưng thường thì chúng tôi chỉ thấy những đường vết chân đan chéo mà các móng guốc lười biếng in lên trên nền đất ẩm sương mềm như lụa. Tôi có thể cảm thấy ánh nắng mặt trời rồi. Dàn hợp xướng các loài chim cũng đã dần hết hơi tắt tiếng. Tiếng chuông bò đeo cổ lanh lảnh báo hiệu một đàn bò đang đi nước kiệu ra bãi chăn tha. Tiếng động cơ máy kéo xình xịch cho biết là hàng xóm đôi bên đã thức giấc. Thế giới đã thu về những kích thước định hạn quen thuộc với ngài chánh văn phòng hạt. Chúng tôi quay về nhà, bắt đầu bữa sáng. Sinh nhật trên thảo nguyên Trong các tuần từ tháng Tư đến tháng Chín, có trung bình ít nhất mười loài cây dại bắt đầu nở hoa. Vào tháng Sáu thì trong một ngày có thể có đến tận mười hai giống hoa bừng nở hé nụ. Không ai có thể theo kịp tất cả các lễ kỷ niệm của chúng, nhưng cũng không ai có thể phớt lờ chúng được. Người nào vô tình dẫm chân lên những bông bồ công anh tháng Năm có thể sẽ phải dừng chân vì phấn hoa từ cây cỏ phấn hương tháng Tám; người nào bỏ qua những cụm hoa du màu hung đỏ trong tháng Tư có lẽ sẽ phải trượt xe trên thảm hoa trắng sọc tím rơi xuống từ những cây đinh tán tháng Sáu. Kể cho tôi nghe xem một người đã để ý nhìn thấy bữa tiệc sinh thần trổ bông của loài cây nào, và tôi sẽ ít nhiều kể cho bạn nghe về thiên hướng công việc, sở thích, chứng cảm sốt mùa hè, và tầm kiến thức chung về sinh thái của anh ta. დღდ Mỗi tháng Bảy, tôi lại háo hức quan sát một nghĩa trang đồng quê mà tôi đi qua trên đường về trang trại. Đã đến lúc cho tiệc sinh nhật trên thảo nguyên của tôi, và trong một góc nghĩa trang này là một chứng nhân kỷ niệm còn sống sót của sự kiện từng một thời quan trọng đó. Đây là một nghĩa trang thông thường, rào quanh bởi những cây vân sam thông thường, và rải rác khắp trong nghĩa trang là những bia mộ cũng rất bình thường bằng đá gra-nít hồng hoặc trắng. Bên cạnh mỗi bia mộ là một vòng hoa phong lữ màu đỏ hoặc hồng thông thường. Điểm làm cho nghĩa trang này khác thường là khuôn viên xây thành hình tam giác chứ không phải hình vuông. Đồng thời, khu đất bên trong hàng rào của nó gợi nhắc đến vùng thảo nguyên bản địa xưa kia, nơi nền móng cho nghĩa trang được xây dựng vào những năm 1840. Vốn được bảo vệ khỏi lưỡi liềm cắt cỏ hay máy ủi, vào mỗi tháng Bảy, trên nền khu di tích vỏn vẹn gần một mét vuông của thiên nhiên Wisconsin thời hoang sơ này lại mọc lên một thân cây cúc la bàn (cutleaf Silphium) cao bằng đầu người, chi chít những bông hoa màu vàng to bằng cái đĩa nhỏ và nhìn giống hoa hướng dương. Đây là chứng tích duy nhất của loài cây này ở khu vực chạy dọc đường cao tốc, và có lẽ cũng là chứng tích duy nhất còn lại ở phần tôi đang sống. Câu hỏi liệu một cánh đồng 400 héc-ta bạt ngàn cúc la bàn mơn man ve vuốt bụng các con bò rừng trông như thế nào là một câu hỏi không bao giờ còn lời đáp, và có lẽ cũng không còn ai hỏi nữa. Năm nay, những đóa cúc la bàn bắt đầu nở rộ vào ngày 24 tháng Bảy, muộn hơn một tuần so với lệ thường (trong sáu năm vừa qua thì ngày hoa nở đầu tiên thường rơi vào ngay 15 tháng Bảy). Khi tôi đi ngang khu nghĩa trang lần nữa vào ngày 3 tháng Tám, một đội xây dựng đã di dời hàng rào đi, còn cây cúc la bàn cũng đã bị chặt bỏ. Cũng dễ tiên đoán điều gì sẽ xảy ra: trong một vài năm tới, cây cúc la bàn của tôi sẽ cố gắng trong vô vọng để đương đầu với cái máy ủi, và cuối cùng thì nó cũng sẽ buông xuôi. Sự ra đi của nó sẽ đặt dấu chấm hết cho thời kỳ của những thảo nguyên hoang sơ. Bộ Quản lý Cao tốc nói rằng có 100.000 lượt xe chạy qua tuyến đường này mỗi năm trong ba tháng hè khi cúc la bàn nở hoa. Trong những chiếc xe đó có ít nhất 100.000 người đã từng “học” cái gọi là lịch sử, và có lẽ tầm 25.000 đã từng “học” môn gọi là thực vật học. Thế nhưng tôi nghi ngờ rằng sẽ chỉ có trên dưới một tá trong số họ đã từng trông thấy một cây cúc la bàn, và nếu có thì họ cũng khó mà nhận ra ngày tàn đang đến của loài hoa ấy. Nếu tôi nói với một thầy giảng đạo trong nhà thờ kế bên rằng toán công nhân làm đường thực ra đang mượn danh nghĩa vào dọn cỏ để đốt sách sử trong nghĩa trang nhà thờ, thì ông ta hẳn sẽ và bối rối lắm. Làm sao mà một cây cỏ dại có thể có giá trị bằng một quyển sách được? Đây chỉ là một chương trong bài điếu văn của một loài hoa bản địa, đồng thời là một phần trong bản sầu ca của mọi loài hoa trên thế giới. Giống người cơ khí chúng ta đã gạt qua các loài hoa cỏ để có thể ngạo mạn xúc tiến việc dọn dẹp cảnh quan, mà nực cười thay, chính chúng ta sau này phải sống cùng. Có lẽ sẽ là khôn ngoan nếu ngay bây giờ chúng ta đặt lệnh cấm giảng dạy bộ môn thực vật học thực thụ và lịch sử thực thụ, đề phòng trường hợp một vài công dân trong tương lai bị cắn rứt lương tâm về cái giá mang tên “hoa cỏ” mà chúng ta đã trả để có được một cuộc sống tốt đẹp. დღდ Từ đó ta có thể suy ra rằng mức độ phát triển của các khu trang trại tỉ lệ thuận với sự nghèo nàn về cây cỏ ở cùng khu vực đó. Tôi lựa chọn trang trại của mình vì độ kém phát triển và vị trí cách xa cao tốc của nó, và thực tế là cả khu vực mà tôi ở tọa lạc tại khu vực nước chảy ngược của sông Progress. Con đường trải ngang nhà tôi là con đường đất cũ do những chiếc xe bò kéo của những người đi khai khẩn đất đai chạy qua mà thành, không hề rải cuội hay đổ nhựa đường và cũng hoàn toàn vắng bóng xe ủi đất hay máy phun nước. Hàng xóm đôi bên của tôi vẫn than phiền với nhân viên đại diện của hạt. Khoảnh đất ôm sát hàng rào của họ cả tỷ năm rồi chưa được cắt tỉa sửa sang. Đầm ngập nước quanh nhà họ không được hút cạn mà cũng chẳng được dẫn máng thoát nước. Giữa việc đi câu và hướng về tương lai thì hẳn họ sẽ lựa chọn việc đi câu. Vì thế vào mỗi cuối tuần, tôi đi tìm tiêu chuẩn sống “xanh” của mình ở trong các cánh rừng sau nhà, còn vào giữa tuần thì tôi đành cố gắng tạm thay thế nó bằng các loài cây trong những trang trại và khuôn viên thuộc trường đại học, cũng như các khu ngoại ô lân cận. Trong một thập kỷ, tôi có một thú tiêu khiển là ghi lại danh sách các loài cây dại ra hoa lần đầu trong hai khu vực đa dạng sinh thái dưới đây: Các loài nở hoa lần đầu vào Khu ngoại ô và trong trường Khu rừng sau trang trại Tháng Tư 14 26 Tháng Năm 29 59 Tháng Sáu 43 70 Tháng Bảy 25 56 Tháng Tám 9 14 Tháng Chín 0 1 Tổng thể các loài đã thị sát 120 226 Từ quan sát này, ta có thể thấy rõ rằng một ngươi nông dân tận hưởng một cuộc sống thiên nhiên mãn nhãn gấp đôi một sinh viên đại học hay một doanh nhân. Dĩ nhiên là ca hai bên đều chưa thực sự nhìn nhận cây cối theo đúng nghĩa, nên một lần nữa chúng ta lại phải đối diện với hai lựa chọn đã nêu ở trên: hoặc chúng ta phải đảm bảo dân chúng tiếp tục sống trong u mê thờ ơ, hoặc chúng ta phải nghiêm túc xem xét câu hỏi liệu phát triển và thiên nhiên có thể đi đôi với nhau hay không. Quá trình thu hẹp của các loài thú vật là sự hiệp đồng của nhiều lý do bao gồm dọn rừng làm trang trại, đốt rừng làm rẫy, và xây dựng đường sá. Mỗi bước chuyển cần thiết này dĩ nhiên đòi hỏi sự thu hẹp diện tích ngày càng lớn đất đai dành cho cây dại, tuy nhiên chúng không yêu cầu, hay được lời gì từ việc xóa sổ các giống cây khỏi toàn bộ các trang trại, làng mạc, hay các hạt. Chúng ta có thể chừa các khoảnh để không trong mỗi trang trại cho thiên nhiên và các dải cây cối tự nhiên có thể viền hai bên và chạy dọc theo môi đường cao tốc. Chúng ta cần đẩy gia súc, máy xới, và máy ủi ra xa khỏi các khu vực này - chỉ cần như thế thôi thì các giống hoa bản địa, cùng với hàng tá các kỳ hoa dị thảo ngoại lai khác, hoàn toàn có thể trở thành một phần trong môi trường sống hàng ngày của mỗi công dân. Khu vực bảo tồn sáng giá nhất cho các giống cây thảo nguyên, ngược đời thay, lại chẳng biết gì hay bận tâm đến những chuyện có vẻ bao đồng như thế: đó chính là các đường tàu hỏa với dải đất bên lề có rào chắn xung quanh. Rất nhiều hàng rào ray xe lửa này được dựng lên trước khi thảo nguyên bị cày xới. Nằm trong những khu bảo tồn tuyến tính này, không phải bận tâm đến xỉ than, bồ hóng, và việc đốt cây dọn dẹp thường niên, các giống hoa cỏ thảo nguyên theo đúng lịch nở hoa, từ những bông hoa sao băng màu hồng tháng Năm đến những bông cúc lam tháng Mười. Đã từ lâu tôi mong muốn được đối chất với một ông chủ tịch hãng hỏa xa với con tim sắt đá để chỉ cho ông ta thấy bằng chứng rằng trái tim của ông ta vẫn còn nhịp đập. Nhưng tôi chưa làm vậy được, vì tôi chưa có dịp được gặp ông chủ tịch nào cả. Tất nhiên là các đường ray cũng dùng súng phun lửa và máy xịt hóa chất để diệt cỏ dại mọc trong lòng đường ray, nhưng chi phí cho việc dọn dẹp cần thiết đó vẫn quá cao để có thể kéo rộng diện tích diệt cỏ ra khỏi phạm vi thực tế của đường ray. Có thể trong tương lai họ sẽ đề ra những cải tiến trong việc diệt cây cỏ này. Sự biến mất của ngay cả một giống loài cận người (human subspecies) cũng không đủ để khiến tim ta gợn đau nếu đầu óc chúng ta thiếu hiểu biết về chúng. Một người Trung Quốc qua đời chẳng khiến chúng ta bận tâm nếu tất cả kiến thức về Trung Hoa của chúng ta được gói vỏn vẹn trong một vài đĩa mì miến xào ở quán ăn Tàu. Chúng ta chỉ đau xót trước những gì chúng ta biết. Cuộc tận diệt loài cúc la bàn ở bờ tây của hạt Dane, vì thế ẳ cũng chẳng phải lý do khiến ta sầu khổ nếu ta chỉ biết đến nó qua một cái tên bâng quơ trong một cuốn sách về cây cối. Lần đầu tiên tôi nhận thức rõ rệt về tâm tính của loài cúc la bàn là khi tôi cố đào một cây lên để mang nó về trang trại của mình. Cứ như là đào gốc một cây sồi mới lớn vậy. Sau nửa tiếng lao động hì hục, mồ hôi nhễ nhại, tôi vẫn thấy rễ cây tiếp tục phình to ra như một củ khoai lang cữ đại dựng đứng Sau một hồi đào bới thì tôi nhận ra rằng củ rễ của cây cúc la bàn đậm sâu đến tận lớp đá mẹ dưới lòng đất. Cuối cùng thì tôi tay không ra về, nhưng bù lại tôi đã học được về những mưu chước ẩn sâu dưới đất mà giống cúc la bàn đã tính toán để tự vệ trước những trận hạn hán làm thảo nguyên khô kiệt. Tiếp đến, tôi thử gieo hạt cây cúc la bàn; chúng to, chắc thịt, và có vị bùi như hạt hướng dương. Các hạt nhanh chóng nảy mầm, nhưng sau năm năm thì các cây con vẫn chưa hoàn toàn trưởng thành và không bói ra nổi một cành hoa nào. Liệu có phai một cây cúc la bàn cần tới một thập kỷ để đủ tuổi ra hoa, và nếu như thế thì cây cúc la bàn trong nghĩa trang của tôi đã trải qua bao nhiêu năm đời cỏ dại? Nó có lẽ còn già hơn cả bia mộ lâu đời nhất ở đó, được dựng vào năm 1850. Có lẽ nó đã chứng kiến tộc người thổ dân Black Hawk tháo chạy từ vùng hồ Madison về phía sông Wisconsin, vì vị trí của nó nằm ngay trên tuyến đường lịch sử đó. Hẳn nhiên là nó đã chứng kiến hết thảy các đám tang của những người khai hoang mở đất ở đó, lần lượt từng người về với nơi an nghỉ dưới cao xanh bao la. Tôi đã từng nhìn thấy một chiếc máy xúc, trong khi đào bới cống thoát nước bên đường, đã cắt đứt phần rễ “củ khoai lang” của một cây cúc la bàn. Phần củ bị đứt nhanh chóng mọc thêm lá mới, và cuối cùng lại bắt đầu mọc cành trổ hoa. Điều này giải thích tại sao loài cây này, vốn không có đặc tính xâm lấn các vùng đất mới, đôi khi vẫn được tìm thấy ở các vệ đường vừa mới độ. Một khi đã bén rễ cứng cáp, nó có thể chống chọi lại mọi hình thức cắt xén ngoại trừ việc bị gia súc gặm lá, hay đào xới và ủi đất liên tiếp. Tại sao giống cúc la bàn lại biến mất khỏi những khu vực chăn thả gia súc? Tôi từng nhìn thấy một nông dân lùa đàn bò vào một cánh đồng thảo nguyên còn hoang sơ, trước đó mới chỉ được dùng vài lần vào việc gặt hái cỏ khô. Đàn bò cái lập tức ngốn ngấu các cây cúc la bàn đến tận gốc rễ trước khi chúng đụng tới bất cứ loại cây nào khác. Ta có thể hình dung rằng loài bò hoang đã từng có thời ưa thích loài cúc la bàn, nhưng khi đó các hàng rào chưa xuất hiện để bó buộc chúng chỉ được gặm cỏ trên một cánh đồng duy nhất trong suốt mùa hè. Tựu trung, đàn bò lúc đó không gặm cỏ liên tục ở một điểm, và điều này giúp cho loài cúc la bàn có thể sống sót qua các đợt “làm cỏ” của chúng. Ý Chúa trời đã định rằng Ngài sẽ che chở hàng ngàn giống loài động thực vật khỏi nhận thức về sự tàn nhẫn của lịch sử, trong quá trình chúng triệt tiêu lẫn nhau để tạo nên thế giới ngày nay. Và giờ đây thì Ngài cũng thực hiện ý định đó lên cả chúng ta. Rất ít người than khóc khi con bò rừng cuối cùng biến mất khỏi Wisconsin, và cũng sẽ ít ai khóc thương khi cây cúc la bàn cuối cùng nối chân con bò rừng tới những thảo nguyên xanh tươi ở bên kia vườn địa đàng. THÁNG TÁM Cánh đồng xanh cỏ M ột vài bức họa may mắn chịu đựng được thử thách của thời gian và nhờ thế được nhiều thế hệ liên tiếp chiêm ngưởng; trong mỗi thế hệ, sẽ lại có một vài người xem trân trọng chúng. Tôi biết một bức họa phù du chóng tàn đến nỗi nó hiếm khi có người xem, ngoại trừ một vài chú hươu thơ thẩn. Bức tranh đó do một dòng sông chấm phá nét cọ, và trước khi tôi kịp mời bạn bè đến chiêm ngưỡng tuyệt tác này thì chính dòng sông ấy cũng tự xóa nó khỏi tầm mát. Sau đó thì bức họa chỉ còn tồn tại trong tâm trí tôi mà thôi. Như các nghệ sĩ khác, dòng sông của tôi cũng dễ thay tâm đổi tính. Không ai có thể đoán trước được nó sẽ cao hứng vẽ tranh lúc nào, và liệu cơn thiên hứng đó sẽ kéo dài bao lâu. Nhưng vào giữa những ngày hè rực rỡ, khi những dải mây trắng bồng bềnh lơ lửng tầng không, ta nên đi bộ xuống bãi cát ven sông để ngó xem dòng sông đã bắt đầu sáng tác hay chưa. Tác phẩm bắt đầu bằng một dải phù sa rộng lớn quét mỏng trên bãi cát nơi triều rút. Trong lúc lớp phù sa này dần khô dưới ánh nắng, bầy sẻ cánh vàng tắm gội trong vũng nước trên bãi sông, trong khi hươu nai, chim diệc, chim choi choi, gấu trúc Bắc Mỹ, và các con rùa dệt những vết chân trên nền vải sa-tanh của bãi bồi. Tính đến thời điểm này thì chúng ta vẫn chưa thể đoán định được liệu sẽ có chuyện gì tiếp diễn. Nhưng khi tôi nhìn thấy những nhánh cây năng ngọt (Eleocharis) bắt đầu phủ xanh lớp phù sa, thì sau đó tôi bắt đầu quan sát kỹ hơn, vì đây là dấu hiệu cho thấy dòng sông đang nổi hứng vẽ tranh. Chỉ sau một đêm các cây năng ngọt đã mọc thành mảng lớn, rậm rì xanh mướt khiến cho những con chuột đồng từ trên quả đồi bên cạnh cũng không thể cưỡng được cơn thèm muốn. Từng đàn lũ lượt kéo xuống cánh đồng mới lên xanh và hiển nhiên đã dành nhiều đêm sục sạo trong đám cỏ mềm mượt như nhung. Bằng chứng cho cuộc khám phá hồ hởi của chúng là một mê cung những lối mòn vết chân chuột bằng phẳng. Bầy hươu thì chỉ đi lại trên đám cỏ, tận hưởng cảm giác nệm cỏ mơn man dưới chân. Ngay cả một con chuột chũi cả đời không đi đâu cũng đào hầm tìm đường đến bãi cát khô để thăm thú dải cỏ năng xanh ngắt, nơi nó có thể tới lui gặm nhấm đến khi thỏa chí. Ở giai đoạn này, các chồi non của vô vàn loại cây khác, quá nhiều để điểm mặt gọi tên, liền nhất loạt chui lên từ nền cát ẩm phía dưới mảng cỏ xanh. Để xem bức tranh toàn thể, hãy để dòng sông âm thầm làm việc thêm ba tuần nữa, sau đó quay lại thăm bãi cát vào một sáng trời trong khi mặt trời đã xua tan làn sương mù buổi sớm. Người nghệ sĩ đã tô điểm sắc màu lên tranh, và phun lên đó những giọt sương long lanh. Lớp cỏ năng với màu xanh nổi bật hơn bao giơ hết, giờ đây được điểm xuyết bằng những bông mao địa hoàng màu lam, hoa mõm rồng phớt hồng, và những đóm hoa rau mác mọc lên một nhành cẩm chướng đâm màu trắng sữa. Đó đây mọc lên một nhành cẩm chứng đâm thẳng lên trời như một mũi lao đỏ thắm. Ở mé đầu bãi cát, những bông cúc bạc đầu màu tím và cúc mâm xôi (joe-pye) màu hồng phấn đứng ngẩng cao đầu bên cạnh những bờ liễu. Và nếu bạn đi tới một cách yên lặng và khiêm nhường, như bất cứ ai nên làm khi đặt chân tới bất cứ nơi đâu với vẻ đẹp hiếm hoi, bạn có thể sẽ khiến một chú hươu với màu lông cáo khẽ giật mình trong lúc đang đứng chìm đắm trong khu vườn tuyệt tác của mình. Đừng mất công quay lại tìm kiếm cánh đồng hoa này lần thứ hai, vì nó sẽ không còn nữa. Hoặc là thủy triều rút đã làm nó trở nên khô cạn, hoặc thủy triều lên đã bào mòn bờ cát trở về nguyên trạng ban đầu. Nhưng bạn có thể treo bức tranh đó mãi mãi trong tâm trí, và tự thầm hy vọng rằng, vào một mùa hè nào đó, cơn hứng khởi sáng tác sẽ lại đến với dòng sông. THÁNG CHÍN Bản hợp xướng rừng cây bụi Đ ến tháng Chín, ngày mới thường bắt đầu mà vắng bóng tiếng chim. Một con chim sẻ có thể hót một bài vô thưởng vô phạt, một con dẽ gà họa chăng sẽ rúc lên vài tiếng ngân nga trên đường bay về lùm cây trú ẩn, một con cú sọc có lẽ sẽ chấm dứt cuộc tranh luận xuyên đêm bằng một tiếng kêu từ biệt rơi rớt, nhưng đa phần các con chim khác thì tuyệt không có một lời ca tiếng hót nào. Vào một vài buổi sáng sớm mùa thu như thế, tuy không phải tất cả, ta có thể nghe thấy tiếng dàn đồng ca chim cút. Không gian im ắng bỗng bị phá vỡ bởi một tá những giọng nữ trầm, bật ra khỏi vòm họng như không kiềm chế nổi mong muốn ngợi ca ngày mới. Chỉ sau một hai phút ngắn ngủi, bản hòa âm này tắt ngấm đột ngột như cách nó bắt đầu. Có một điểm hấp dẫn lạ thường trong âm nhạc của những chú chim khó bắt gặp. Những con chim hót vang trên các cành cao nhất thường dễ thấy và cũng dễ quên; sự lộ liễu khiến chúng khoác lên mình vẻ tầm thường. Cái mà ta sẽ nhớ là tiếng con hét ẩn sĩ tuôn ra những nốt nhạc trong trẻo từ trong bóng tối dày đặc; những con sếu sải cánh bay và kêu lên từng tràng sau đám mây; con gà gô đồng cỏ ngân giọng như tiếng vang vọng trong lớp sương mù giăng mắc; bài thánh ca Ave Maria của con chim cút trong cái tĩnh lặng buổi bình minh. Chưa một nhà nghiên cứu thiên nhiên nào từng nhìn thấy những con chim cút vô hình trong lúc hợp âm, phần vì ổ của chúng luôn nằm trong lớp màn vô hình của đám cỏ và bất cứ tiếng xì xào nào đến gần sẽ lập tức được trả lời bằng im lặng. Vào tháng Sáu, chúng ta có thể chắc chắn rằng con chim cổ đỏ sẽ cất tiếng khi ánh sáng đạt tới 0,01 foot-nến, và một tổ hợp các ca sĩ khác sẽ lần lượt theo trình tự lên tiếng ca. Trái lại, vào mùa thu, con chim cổ đỏ sẽ nín lặng, và ta cũng không tài nào đoán trước được rằng dàn đồng ca gà gô có cất tiếng thay thế hay không. Sự thất vọng tràn ngập tâm trí tôi trong những buổi sáng im ắng như thế này đủ để cho ta thấy là những gì ta mong đợi sẽ luôn có giá trị cao hơn những gì ta chắc có. Một tá lần thức giấc trong đêm là cái giá xứng đáng để trả cho niềm hy vọng mong manh được nghe thấy tiếng hót loài chim cút. Trang trại của tôi luôn có một vài ổ chim cút vào mùa thu, nhưng những bản thánh ca đón bình minh luôn chỉ vang vọng đến từ đằng xa. Tôi nghĩ điều này có lẽ bởi vì bầy chim cút luôn muốn làm ổ càng xa con chó của tôi càng tốt, vì nó còn có mối quan tâm đặc biệt với bầy chim cút hơn tôi nhiều. Tuy nhiên, vào một sớm tinh mơ tháng Mười, trong lúc tôi đang ngồi nhấm nháp cà-phê bên đám lửa ngoài trời, một dàn đồng ca chợt cất cao tiêng hát chỉ cách đó vài bước chân. Chúng đã làm tổ trong một bụi cây thông trắng, có lẽ vì muốn tránh cơn ẩm ướt tê tái từ những giọt sương trĩu nặng. Chúng tôi cảm thấy vinh dự vì được nghe bản thánh ca này gần như ngay tiên bậc thêm nhà mình. Vì lẽ nào đó mà những lá thông kim xanh bỗng trở nên xanh óng ả hơn, và thảm mâm xôi trải dưới gốc thông bông trở nên mọng đỏ hơn bao giờ hết. THÁNG MƯỜI Sắc vàng nhuộm khói T rên đời này có hai kiểu đi săn: đi săn thông thường và đi săn gà gô cổ khoang. Có hai chỗ để săn gà gô cổ khoang: mọi chỗ trên đồi và hạt Adams. Có hai thời điểm để đi săn ở Adams: mọi thời điểm trong năm, và khi những rừng thông lá rụng chuyển sang màu vàng nhuộm khói. Câu chuyện này được viết cho những ai kém may mắn chưa từng được đứng ngắm nhìn những chiếc lá kim màu vàng rơi lấm tấm lên nền đất, trên tay là khẩu súng hết đạn còn miệng thì há ra sững sờ. Trong khi đó, con gà gô nhẹ nhàng lướt như một trái tên lửa xù lông qua cơn mưa lá thông lả tả rồi hạ cánh an toàn trong bụi cây thông lùn. Những cây thông rụng lá chuyển màu từ xanh sang vàng khi những đợt sương giá đầu mùa đuổi bạt những con chim dẽ gà, chim sẻ lông hung, và sẻ Bắc Mỹ ra khỏi vùng trời phương Bắc. Từng toán chim cổ đỏ đang vặt trụi những trái sơn thù du trắng, để lại đằng sau những cành nhánh phớt hồng trên nền đồi. Những cay tổng quán sủi bên bờ suối đã trút hết lá, hé lộ đâu đây những cây nhựa ruồi um tùm. Những bụi mâm xôi trái chín đỏ mọng như những ngọn đèn dẫn đường cho ta đi đến nơi trú ngụ của bầy gà gô. Loài chó hẳn sẽ biết dò đường đến với lũ gà gô hơn chúng ta, nên tốt hơn hết là bạn nên theo sát chân nó, và học cách đọc từ đôi tai vểnh lên của nó những câu chuyện thì thầm trong ngọn gió. Cuối cùng khi nó dừng khựng lại và liếc nhìn sang bên cạnh như ngụ ý “sẵn sàng đi ông bạn”, câu hỏi ở đây là sẵn sàng cho điều gì? Một con dẽ giun kêu chiêm chiếp, tiếng om sòm của một con gà gô mỗi lúc một gần, hay có lẽ là một con thỏ? Giây phút ngập ngừng này là sự cô đặc những gì hấp dẫn nhất của việc đi săn gà gô cổ khoang. Người nào biết chắc chắn mình cần sẵn sàng cho điều gì, tốt hơn là nên đi săn gà lôi chim trĩ thì hơn. დღდ Phong vị của mỗi chuyến đi săn là khác nhau, và những lý do của sự khác biệt này cũng không kém phần tinh tế. Những con mồi thi thú nhất là những con mồi nẫng được ngay dưới mũi các thợ săn khác. Để làm được điều này, hoặc bạn phải đi sâu vào trong rừng nơi chưa ai từng đặt chân đến, hoặc bạn phải tìm được một nơi săn bắn chưa một ai khám phá ra. Rất ít thợ săn biết về sự tồn tại của loài gà gô ở hạt Adams, vì khi lái xe ngang qua, họ chỉ nhìn thấy một vùng toàn cây thông lùn và bụi sồi. Điều này là do đường cao tốc cắt qua một chuỗi các con suối đổ về hướng tây; mỗi con suối lại hướng về một khu đầm lầy, nhưng trước đó sẽ chảy qua những bãi đất cát khô. Vậy thì hẳn nhiên là đường cao tốc chạy về phía bắc sẽ cắt qua những khu vực cằn cỗi này. Tuy nhiên, chếch lên phía trên khu đường cao tốc, nằm đằng sau hàng rào những bụi cây khô, mỗi con suối nhỏ sẽ hòa mình vào một dải đầm lầy rộng lớn, một thiên đường lý tưởng cho loài gà gô. Tại đây, mỗi dịp tháng Mười, tôi ngồi một mình dưới những rặng cây thông rụng lá và lắng nghe tiếng xe của các thợ săn trên cao tốc, chen chúc phóng hết tốc lực về hướng các khu săn bắn đông nghẹt ở các hạt phía bắc. Tôi bật cười khi tưởng tượng ra kim chỉ công-tơ-mét của họ nhảy múa loạn xạ, bộ mặt căng thẳng và ánh mắt hau háu dán chặt vào đường chân trời phía bắc. Một con gà gô trống rúc lên một tràng phản pháo khi nghe thấy tiếng những chiếc xe lao qua. Con chó của tôi nhe răng cười sau khi đã ghi nhớ hướng của con gà. Chúng tôi đồng tình rằng cậu chàng đó cần vận động xương khớp một chút, và chúng tôi lập tức bắt đầu cuộc truy lùng. Những cây thông lá rụng không chỉ mọc trong đầm lầy, mà còn mọc ở chân vùng núi cao kế bên, nơi những dòng suối từ đó tuôn chảy. დღდ Rong rêu đã làm nghẽn dòng chảy của các con suối, tạo nên một khu địa hình lầy lội. Tôi gọi những khu vực này là các vườn treo, vì chính từ lớp mùn tạp chất này mà những cây long đởm cho ra đời những bông hoa ngọc thạch bọc trong diềm lá xanh. Những thảm hoa long đồm tháng Mười ấy, rắc lên trên một lớp bụi lá thông vàng óng, quả đáng để ta dừng chấn thưởng ngoạn hồi lâu, ngay cả khi con chó đang ra dấu rằng có gà gô ở phía trước. Lọt giữa mỗi khu vườn treo và bờ suối là một con đường phủ rêu do vết chân hươu để lại, tiện cho các tay thợ săn lần theo và cũng dễ dàng cho các con gà gô băng qua chỉ trong tích tắc. Câu hỏi đáng nói ở đây là liệu con gà gô và khẩu súng có cùng chung khái niệm thế nào là một tích tắc hay không. Nếu hai dòng suy nghĩ này lệch nhau, con hươu tiếp theo đi qua lối mòn này sẽ chỉ tìm thấy vài vỏ đạn rỗng, nhưng không có sợi lông gà nào vương lại. Đi lên nữa về phía thượng nguồn con suối, tôi bắt gặp một trang trại bỏ hoang. Tôi cố gắng đoán xem, dựa trên tuổi của các cây thông lùn đang tiến quân chiếm đóng một thửa ruộng cũ, từ khi nào mà ông chủ trang trại xấu số này phát hiện rằng những cánh đồng cát chỉ nảy mầm lên sự cô độc, chứ không phải những bắp ngô. Những cây thông lùn là những người kể chuyện dân gian về nơi chốn, tuy có phần kém tin cậy vì chúng mọc ra nhiều vòng xoắn lá mỗi năm thay vì chỉ một. Tôi tìm được một thước đo thời gian đáng tin cậy hơn là một cây du non, giờ đang đứng án ngữ trước cổng trang trại. Những vòng tuổi thọ của nó bắt đầu từ mùa hạn hán năm 1930. Từ đó đến nay, đã không còn ai lui tới trang trại này để mua sữa nữa. Tôi băn khoăn không biết gia đình này đã nghĩ gì khi tiền thế chấp tài sản của họ đội lên cao hơn tiền bán hoa màu, đánh dấu việc họ phải di dời đi nơi khác. Có nhiều ý nghĩ không để lại dấu vết gì như những con gà gô sải cánh bay, nhưng một vài ý nghĩ khác thì lại sống sót qua nhiều thập kỷ. Người đàn ông trồng cây đinh hương này vào một tháng Tư kỷ niệm nào đó, hẳn đã khoan khoái nghĩ về những nhành hoa thơm ngát nở rộ những ngày tháng Tư sau đó. Người đàn bà từng dùng tấm ván vò quần áo này, những nếp gấp đã mòn sau nhiều thứ Hai giặt giũ, hẳn đã mơ đến một ngày thứ Hai không phải làm lụng (và điều đó quả đã sớm xảy ra). Trong lúc miên man suy nghĩ về những câu hỏi ấy, tôi chợt nhận ra con chó đã men xuống gần suối, ngồi kiên nhẫn ở đó được một lúc lâu. Tôi đi tới chỗ nó, lẩm bẩm xin lỗi về sự mất tập trung của mình. Đâu đó phía trước, một con dẽ gà cất tiếng kêu thoắt ẩn thoắt hiện, bộ ngực màu cá hồi của nó phản chiếu cái nắng tháng Mười. Giờ là lúc cuộc đi săn bắt đầu. Ngày hôm ấy quả thật khó để tập trung nghĩ về đám gà gô trong khi có báo điều khác xung quanh mời gọi. Tôi đi qua một lối mòn vết chân hươu đực trên nền cát, và tò mò lần theo nó. Vết chân dân thẳng từ bụi cây táo lá trà vùng Jersey (Jersey tea bush) này sang bụi khác, lý do tại sao thì mời bạn nhìn vào những nhánh cây đầy vết gặm. Việc này nhắc tôi nhớ rằng mình chưa ăn trưa. Nhưng trước khi kịp lôi bữa trưa ra khỏi túi đựng gà gô, tôi nhác thấy một con chim ưng lượn vòng phía trên cao, và bỗng dưng nảy ý định nhận diện nó. Tôi đợi cho đến khi nó nghiêng cánh và khoe ra cái đuôi màu hung đỏ. Tôi với tay lần nữa định lấy bữa trưa, nhưng vừa lúc đó mắt tôi lại chạm vào một dải da sừng hươu gợn sóng. Ở đây một con hươu đực nào đó đã cọ sừng để bóc đi lớp nhung cũ ngứa ngáy. Chuyện này đã xảy ra được bao lâu rồi? Vết cọ sừng trên thân cây đã ngả màu nâu. Tôi đồ chừng giờ này thì những cái gạc hươu đã sạch sẽ và lên đế sừng mới rồi. Tôi với tay lần nữa định lấy bữa trưa, nhưng lần này thì bị tiếng sủa đầy hào hứng của con chó gián đoạn, kèm theo tiếng chân nhảy ụp xuống đầm lầy. Từ đầm lầy phóng ra một con hươu đực sừng sững hiên ngang, với cặp sừng sáng loáng và bộ lông mềm mượt ánh sắc xanh. Vậy là dải da sừng hươu kia đã kể đúng sự thật. Cuối cùng thì tôi cũng lấy được bữa trưa ra và ngồi xuống để ăn. Một con chim bạc má quan sát tôi, trong khi lại giữ kín việc nó đã ăn gì cho bữa trưa. Có lẽ là một món sơn hào hải vị nào đó như những búi trứng kiến béo ngậy, hay một món gì tương tự như thịt gà gô nướng nguội (cold roast) trong thế giới loài chim. Sau khi ăn trưa, tôi nằm ngắm nhìn những cây thông rụng lá mới lớn mọc thành hình chữ V, những cành lá vàng ươm của chúng chỉa thẳng lên trời. Dưới gốc cây là những lớp lá kim rụng xuống hôm qua, dệt nên một tấm chăn màu vàng sắc khói, trong khi mở mỗi đầu cành là một búp non mới nhú, đang trong tư thế sẵn sàng chờ đợi mùa xuân của ngày mai. Quá sớm Thức dậy quá sớm là một thói tật ăn vào máu của những con cú sừng, các vì sao, đàn ngỗng trời, và xe lửa chở hàng hóa. Một vài thợ săn đã học thói quen này từ bầy ngỗng, và một vài ấm cà-phê thì đã bắt chước theo các ông thợ săn. Thật lạ lùng rằng, trong số tất cả các giống loài buộc phải thức giấc vào lúc nào đó trong buổi sáng, chỉ có những loài ít ỏi nêu trên là tìm ra thời điểm dễ chịu nhất nhưng cũng kém hữu ích nhất để làm điều đó. Chòm sao Thợ Săn (Orion) hẳn là người thầy đầu tiên của giáo phái dậy-quá-sớm này, vì chính ông là chòm sao báo hiệu giờ thức dậy cho các môn đồ - đó là khi chòm Thợ Săn đã đi qua phía tây thiên đỉnh một khoảng bằng quãng bay của một con mòng két. Những kẻ dậy sớm thường thoải mái khi gặp gỡ nhau, một phần có lẽ do, khác với những kẻ ngủ nướng, họ thường không đề cao thành tích của mình. Chòm Thợ Săn, nhà du hành bôn ba khắp nơi, không hề đả động gì đến những cuộc rong ruổi của mình. Cái ấm cà-phê, từ những tiếng lục bục nhẹ nhàng trên bếp, cũng chẳng buồn kể lể về những giá trị của thứ đang sôi sùng sục trong ấm. Con cú, bằng chất giọng trầm chỉ đúng ba nốt của nó, tặc lưỡi cho qua câu chuyện về những vụ sát hại săn đuổi trong màn đêm. Bầy ngỗng trên bãi cát, ngắn gọn điểm qua các vấn đề thủ tục trong một cuộc thảo luận lầm rầm bằng tiếng ngỗng, không hề hé lộ chút manh mối nào rằng chúng đã từng thương thuyết với tất cả các chúa tể ngự trị trên khắp các ngọn núi và đại dương. Mặc dù tôi công nhận đoàn tàu chở hàng không hề dè dặt trong việc thể hiện tầm quan trọng của mình, tự thân nó cũng mang một nét gì khiêm tốn: nó chỉ tập trung hướng mắt vào việc của minh một cách huyên náo, và không bao giờ lăng xăng chõ mũi vào chuyện của người khác. Tôi cảm thấy một sự tin tưởng chắc chắn với kiểu suy nghĩ thẳng thắn một chiều này của những con tàu chở hàng. დღდ Việc đi vào khu đầm lầy quá sớm là một chuyên du hành thuần để lắng nghe: đôi tai tự do rà soát những tiếng động của đêm mà không bị tay hay mắt can thiệp phá bĩnh. Khi bạn nghe thấy tiếng húp sì sụp của một con vịt trời, bạn có thể tưởng tượng ra cảnh cả đàn vịt đang ngốn ngấu đánh chén giữa những cụm bèo tấm. Khi một con vịt trời Mareca kêu quang quác, bạn có thể mặc nhiên hình dung ra một sư đoàn vịt trời mà không gặp cản trở về thị giác. Và khi một bầy chim di mỏ xanh nhằm hướng mặt hồ và xé toang tấm voan mờ tỏ phủ lên đất trời bằng một cú lao dài chúi mũi, bạn nín thở lắng nghe âm thanh của chúng để lại, nhưng mắt bạn chẳng nhìn thấy gì ngoài những ngôi sao. Cũng cùng màn biểu diễn đó, nếu xảy ra vào ban ngày, chúng ta sẽ cẩn phải chiêm ngưỡng và chụp hình nó, và nếu không may bỏ lỡ nó thì chúng ta sẽ cần tạo chứng cứ ngoại phạm để biện minh cho sự sơ ý của mình. Và dù sao thì ánh sáng ban ngày cũng không tô điểm thêm được gì cho bức tranh trong đầu bạn về những cánh chim rung lên xẻ đôi màn đêm dày đặc. Thời gian lắng nghe kết thúc khi những con chim bắt đầu lặng lẽ cất cánh rời đi đến những vùng nước rộng rãi an toàn hơn, một đàn trở thành một đốm mờ dần trên nền trời phía đông đang dần ngả sang màu xám. Giống như mọi khế ước ràng buộc khác, hiệp ước trước lúc bình minh chỉ có hiệu lực đến chừng nào màn đêm còn kìm giữ những kẻ ngạo ngược. Dường như mặt trời chính là nhân tố đẩy sự ôn tôn dè dặt lui về phía sau cánh gà. Bất luận thế nào, vào lúc sương sớm phủ trắng những vùng đất trũng, tất cả các con gà trống bắt đầu ứng khẩu kèn cựa nhau tiếng gáy, và mỗi thân cây ngô thì lại tỏ ra mình cao hơn gấp đôi bất kỳ thân ngô nào từng mọc trên đồi. Khi mặt trời lên, tất cả các con sóc đều đang làm bộ bị hàng xóm xúc phạm nặng nề, và tất cả các con chim giẻ cùi đều đang la làng lên với vẻ thảng thốt ngụy tạo những giả thuyết về hiểm họa cho xã hội mà chúng vừa phát hiện ra mới đây thôi. Những con quạ đằng xa đang cao giọng nhiếc mắng một con cú tưởng tượng nào đó, tất cả chỉ cốt để khoe rằng loài quạ đề cao cảnh giác đến mức nào. Và cuối cùng là một con gà lôi trống, mải suy ngẫm về thời trai trẻ đào hoa của mình, đập cánh phành phạch và hô hoán lên những tiếng răn đe với thế giới rằng gã ta là chủ nhân đầm lầy này và tất cả những ả gà mái trong đó. Và những ảo tưởng hào nhoáng này không chỉ ảnh hưởng lên loài cầm điểu và muông thú. Khi đến giờ ăn sáng, tiếng còi xe, la hét và huýt sáo bắt đầu vang dội trên khắp mọi nông trang, và cuối cùng khi đêm xuống là tiếng rè rè của một chiếc radio bỏ quên. Sau đó thì tất thảy đều lên giường đi ngủ để ôn lại những bài học về sự khiêm nhường của màn đêm. Đèn lồng đỏ Cách thông thường để săn gà gô là lên kế hoạch, sử dụng lô-gích và xác suất, dựa trên địa hình nơi bạn đi săn. Cách này sẽ dẫn bạn đến nơi trú ẩn giả định của những con gà gô. Còn một cách khác là đi lang thang, nhìn ngó hết từ chiếc đèn lồng đỏ này đến chiếc khác. Cách này nhiều cơ may sẽ dẫn bạn đến nơi trú ngụ thực tế của bầy gà gô. Và những chiếc “đèn lồng” tôi nói đến ở đây là những chiếc lá cây mâm xôi, vốn nhuộm sắc son trong ánh nắng tháng Mười. Đèn lồng đỏ đã soi đường chỉ lối cho tôi trong nhiều chuyến hành trình đi săn thú vị ở nhiều vũng khác nhau, nhưng tôi nghĩ có lẽ loài cây mâm xôi đã phải học cách thắng sáng những chiếc lá của mình trên các hạt vùng gió cát ở miền trung Wisconsin. Dọc theo những con suối nhỏ lầy lội của miền đất hiền lành bị lãng quên này, nơi người khác gọi là vùng “đất nghèo” (mặc dù chính họ cũng chẳng khá giả gì hơn ai), những bụi mâm xôi sáng ngời sắc đỏ trong những ngày nắng đậm suốt từ đợt sương giá đầu tiên đến ngày cuối cùng của mùa đông. Tất cả các con dẽ giun và gà gô đều dùng những bụi cây mâm xôi này làm buồng sưởi ấm riêng. Đa phần các thợ săn nào hay biết điều này; họ hoài công phí sức tìm mồi trên những bụi rậm không có cây mâm xôi, để rồi sau đó trở về nhà tay trắng và để cho chúng tôi được yên thân. “Chúng tôi” ở đây bao gồm bầy gà gô, dòng suối, con chó, và chính tôi. Dòng sông là một kẻ lười biếng: nó uốn lượn khập khừng quanh các thân cây tổng quán sủi như thể nó thà ở lại đây còn hơn là đổ ra biển lớn. Và chính tôi cũng cảm thấy vậy. Mỗi khúc cua chần chừ của nó đồng nghĩa với việc có nhiều thêm các bờ suối nơi các bụi cây mâm xôi gặp gỡ với các thảm dương xỉ đông cứng và mai dạ thảo ẩm ướt trong các bàu trũng. Không con gà gô nào có thể cầm lòng đặng trước một nơi như vậy quá lâu, và tôi cũng vậy. Đi săn gà gô vì thế trở thành một cuộc dạo chơi dọc bờ suối, ngược chiều gió, từ bụi mâm xôi này sang bụi mâm xôi khác. Khi con chó tấp vào các bụi mâm xôi, nó nhìn quanh để chắc chắn tôi đang đứng đâu đó trong tầm ngắm. Sau khi đã chắc no tiến từng bước thận trọng, cái mũi ướt rà soát không khí để lọc ra đúng một thứ mùi đó, sự hiện diện vô hình chỉ báo sự sống và ý nghĩa của nó trên từng mảnh đất. Nó là kẻ “đãi vàng” trong không khí, luôn luôn lùng sục các tầng không gian để chắt ra đúng thứ mùi cần thiết. Mùi của những con gà gô là thứ tiêu chuẩn “vàng” kết nối thế giới của nó với tôi. Bên cạnh đo, con chó của tôi nghĩ rằng tôi còn nhiều điều phải học lắm về những con gà gô, và dưới góc độ của một nhà tự nhiên học thì tôi đồng tình với nó. Với sự kiên nhẫn của một vị giáo sư môn lô-gích, nó tận tình kèm cặp tôi về nghệ thuật rút ra kết luận từ một cái mũi lão luyện. Tôi hân hoan ngắm nhìn nó rút ra một kết luận bằng cú hếch mõm chỉ đường, dựa trên những dữ liệu hiển nhiên đối với nó, nhưng hoàn toàn mang tính võ đoán trong đôi mắt khù khờ của tôi. Có lẽ nó mong một ngày nào đó ông học trò ngờ nghệch của nó sẽ học được cách đánh hơi. Như những anh học trò ngu ngơ khác, tôi biết khi nào thì giáo sư của mình đúng, mặc dù chính tôi cũng không hiểu tại sao. Tôi kiểm tra cây súng và tiến lại gần. Như bất kỳ vị giáo sư giỏi nào, con chó không bao giờ cười chê khi tôi bắn hụt, và điều đó là khá thường xuyên. Nó chỉ liếc nhìn tôi một cái, sau đó tiếp tục lội ngược về đầu con suối để truy lùng một con gà gô khác. Đi dọc theo những bờ suối, ta sẽ đi thăng bằng giữa hai quang cảnh khác nhau, một bên là sườn đồi nơi ta săn bắn, một bên là mặt đất nơi con chó săn mồi. Có một sự thi vị đặc biệt ẩn chứa trong việc giẫm nhẹ chân lên những thảm cây thạch tùng để xua lũ chim bay ra khỏi các thân cây mục, và phép thử đầu tiên cho một con chó đi săn gà gô là nó chịu đi trên nền đất ẩm ướt trong khi chủ nó sánh hàng trên phía bờ khô ráo. Một vấn đề đặc biệt nảy sinh khi dải cây tổng quán sủi nói rộng ra và con chó biến mất khỏi tầm nhìn của bạn. Bạn cần phải nhanh chân đến một gò đất hay một khoảng trống, nơi bạn sẽ án binh bất động và căng tai căng mắt ra để theo chân con chó. Một vài con chim chích cổ bạc vụt bay tán loạn có thể chỉ cho bạn biết con chó đang ở đâu. Bạn cũng có thể sẽ nghe thấy tiếng chân nó giẫm gãy cành cây, hay lệt sệt đi qua vũng lội, hay nhảy xuống dòng nước suối. Nhưng khí mọi thứ bỗng im bặt, hãy sẵn sàng hành động vì rất có khả năng đó là lúc nó đã tìm thấy mồi. Hãy lắng nghe thật kỹ tiếng tắc lưỡi sợ sệt của một con gà gô ngay trước khi tháo chạy. Sau đó thì hay đuổi theo con chim nháo nhào bỏ trốn, hoặc đôi khi là hai, hay có lần tôi đã nhìn thấy những sáu con, vừa cục tác vừa đập cánh, mỗi con lướt bay lên cao tìm nơi trú ẩn trên gò cao. Liệu có con nào rơi vào tầm ngắm họng súng của bạn hay không phụ thuộc hoàn toàn vào vận may, dù bạn có thể tính toán xác suất bắn trúng nếu bạn có thời gian: 360 độ chia cho 30, hay bất kỳ góc phần trăm đường tròn nào mà súng của bạn có thể bắn trúng. Chia lần nữa cho 3 hay 4, đây là khả năng bạn bắn hụt, và bạn sẽ có được xác suất thực tế để bạn có được một búi lông gà gô trong túi đi săn. Phép thử thứ hai cho một con chó săn gà gô tốt là liệu nó có đi thám thính và về báo cáo kết quả sau khi chủ đã nhả đạn không. Hãy ngồi xuống và cập nhật tình hình trong lúc con vật thở dốc. Sau đó hãy đi tìm bụi cây mâm xôi lá đỏ tiếp theo, và tiếp tục chuyến đi săn. Cơn gió tháng Mười đánh động lỗ mũi chú chó của tôi với nhiều thứ mùi bên cạnh mùi gà gô, mỗi mùi trong số chúng có thể dẫn đến một diễn biến hoàn toàn khu biệt. Khi nó chỉ điểm với đôi tai ở một góc dựng kỳ khôi như một nụ cười tủm tỉm, tôi biết là nó đã tìm thấy một con thỏ đang ngủ. Lần khác thì cú chỉ điểm của nó hoàn toàn nghiêm nghị trong khi không có một con chim nào xung quanh. Tuy nhiên, con chó vẫn đứng yên bất động: trong một bụi cây lách ngay dưới mũi nó là một con gấu trúc Mỹ to béo đang say ngủ trong lúc sưởi mình dưới cái nắng tháng Mười. Trong mỗi chuyến đi săn, có ít nhất một lần con chó chỉ điểm về phía con chồn hôi, thường náu mình dưới một bụi mâm xôi rậm rạp bình thường. Có lần con chó chỉ điểm về giữa dòng sông: một cặp cánh bay về thượng nguồn, theo sau là ba tiếng kêu vần điệu, cho tôi biết là nó đã quấy rầy bữa tối của một con vịt Carolina. Thỉnh thoảng nó cũng đánh hơi thấy cây thông lùn trong một rừng tổng quán sủi rậm rạp, và có lúc nó sẽ tìm thấy một con hươu đang ngả lưng bên một bờ sông nhô cao, bao quanh là các thân cành tổng quán sủi. Liệu có phải con hươu có một tâm hồn thi sĩ yếu lòng trước dòng nước chảy róc rách, hay niềm yêu thích đặc biệt dành cho một chiếc giường nằm nơi không ai có thể lại gần mà không gây tiếng động? Nhìn vào cú hất đầu ngạo nghễ của nó thì dường như là cả hai. Điều gì cũng có thể xảy ra trên đường từ chiếc đèn lồng đỏ này đến chiếc đèn lồng đỏ khác. დღდ Khi trời xuống vào ngày cuối cùng của mùa săn gà gô, tất cả các bụi mâm xôi đồng loạt thổi tắt ngọn đèn trong lồng lá. Tôi không thể hiểu làm sao một bụi cây bình thường lại có thể nắm bắt không sai lệch một ly các luật lệ trong bang Wisconsin, mà tôi cũng chưa từng quay lại vào ngày hôm sau để kiểm chứng. Trong mười một tháng sau đó, những chiếc đèn lồng chỉ bừng sáng lên trong ký ức. Đôi khi tôi nghĩ rằng các tháng còn lại chỉ là một quãng chuyển giao giữa các tháng Mười, và tôi ngờ rằng những con chó, và cả những con gà gô, cũng có cùng suy nghĩ ấy. THÁNG MƯỜI MỘT Nếu được làm ngọn gió C ơn gió vội vã thổi những nốt nhạc qua các kẽ ngô tháng Mười một. Gốc ngô khẽ ngâm nga, những lớp vỏ ngô vút lên trời xanh trong lúc đong đưa nô giỡn, còn cơn gió thì cứ thế tăng tốc. Trong đầm lầy, cơn gió để lại từng đợt sóng loang dài trên vũng bùn lầy cỏ rậm và lung lay rặng liễu phía xa. Một cái cây toan phản đối, chìa ra những cánh tay trụi lủi, nhưng chẳng có gì có thể cản đường cơn gió. Trên bãi cát chỉ còn độc cơn gió hiện hữu, trong khi con sông trườn mình về phía biển. Mỗi búi cỏ thổi rạp lại vẽ nên những vòng tròn trên cát. Tôi lững thững đi trên bãi cát về phía một thanh gỗ trôi dạt, ngồi xuống và lắng nghe tiếng hú hét của vũ trụ và tiếng từng con sóng nhỏ ì oạp vỗ bờ. Sự sống đã biến mất khỏi dòng sông: tất cả những con vịt, con diệc, diều hâu đầm lầy, hay chim mòng biển đã tìm nơi trú ẩn khỏi cơn gió rét. დღდ Giữa không gian ấy, tôi nghe thấy một tiếng chó sủa văng vẳng. Thật lạ là mỗi khi tiếng động đố vang lên thì cả thế giới lại dỏng tai nghe và đoán. Chẳng mấy chốc tiếng động mỗi lúc một lớn: đó là tiếng quàng quạc của lũ ngỗng, tuy chưa nhìn thấy được nhưng đang trên đường đến đây. Bầy ngỗng xuất hiện từ sau những quầng mây thấp: một bầy đoàn những con chim tả tơi, trồi lên ngụp xuống, thổi bạt hết bên này qua bên kia, tách ra xa rồi lại nhào vào nhau, nhưng vẫn cố gắng tiến lên bất chấp cơn gió đang ưu ái vật tay với từng đôi cánh vỗ phành phạch. Khi cả bầy chỉ còn là những chấm mờ trên nền trời, tôi nghe thấy tiếng kêu cuối cùng của chúng, những vệt dư âm cuối mùa hè. დღდ Không gian phía sau thanh gỗ trôi dạt đã ấm lên rồi, vì những cơn gió đã đuổi theo bầy ngỗng. Và tôi cũng sẽ làm điều tương tự - nếu tôi được làm ngọn gió. Chiếc búa trong tay Chúa ban cho và Chúa cũng lấy đi, nhưng Ngài không còn là người duy nhất làm việc đó. Khi một tổ tiên xa xôi nào đó của chúng ta phát minh ra cái xẻng, họ trở thành một người ban phát: giờ họ có thể trồng một cái cây. Và khi đến lượt cái rìu ra đời, thì họ trở thành người lấy đi: giờ họ có thể đốn hạ cái cây. Bất cứ ai sở hữu đất đai, dù biết hay không biết, đều đã từng một lần đảm nhiệm công việc thiêng liêng của Chúa trời khi anh ta tạo ra rồi phá hủy những cái cây. Các tổ tiên khác gần gũi hơn thì đã phát kiến ra các dụng cụ khác; tuy nhiên, nếu ta quan sát tĩ mỉ mỗi dụng cụ này, thì chúng chỉ là một hình thức tân tiến hơn, hay một phụ kiện đi kèm, của cặp đôi công cụ cơ bản rìu - xẻng. Chúng ta phân loại bản thân theo ngành nghề, mỗi ngành lại sử dụng một dụng cụ nhất định, hoặc bán chúng, hoặc sửa chữa chung, hoặc mài sắc chúng, hoặc đưa lời khuyên về cách vận hành chúng. Nhờ vào sự phân chia lao động này mà chúng ta tránh được trách nhiệm trong việc dùng sai bất cứ công cụ nào, ngoại trừ công cụ của riêng chúng ta. Nhưng trong các ngành thì có triết học là ngành duy nhất biết rằng, tùy vào mong muốn và suy nghĩ mà tất cả chúng ta thực ra sẽ sử dụng tất cả mọi công cụ có thể. Triết học hiểu rằng con người quyết định xem việc sử dụng bất kỳ một công cụ nào là có đáng hay không, dựa trên cách họ suy nghĩ và điều họ mong muốn. დღდ Tháng Mười một, vì rất nhiều lý do, trở thành tháng của lưỡi rìu. Tiết trời đủ ấm để mài rìu mà không bị cóng tay, nhưng đủ lạnh để thoải mái đốn cây. Các cây thân gỗ đã rụng hết lá, và ta có thể nhìn thấy rõ cách các cành nhánh đan xen vào nhau và cách chúng đã sinh trưởng trong suốt mùa hè. Nếu không có điểm nhìn quang đãng lên tận ngọn này, ta sẽ không chắc chắn liệu có cây nào cân đốn hạ vì lợi ích chung của cả khu đất hay không. Tôi đã đọc nhiều định nghĩa về một người bảo tồn thiên nhiên; và cũng đã tự lên kha khá định nghĩa cho công việc này. Tuy vậy, tôi ngờ rằng định nghĩa tốt nhất của một người bảo tồn không được viết bằng cây bút mà là bằng lưỡi rìu. Đây là vấn đề liên quan đến suy nghĩ của một người trong lúc đốn cây, hoặc trong lúc quyết định xem cái gì cần đốn. Một người bảo tồn là người nhận thức một cách khiêm tốn rằng với mỗi nhát rìu, anh ta đang để lại chữ ký trên mảnh đất. Và các chữ ký thì hẳn nhiên đêu khác nhau khi viết bằng bút hay bằng rìu. Tôi cảm thấy lúng túng khi phải phân tích những lý do đằng sau quyết định vung lưỡi rìu của mình, nhất là sau khi mọi sự đã ngã ngũ. Trước tiên, tôi không coi tất cả các cây đều sinh ra bình đẳng. Nếu một cây thông trắng và cây bu lô đỏ đang kèn cựa nhau, tôi sẽ luôn ưu tiên chặt cây bu lô thay vì cây thông. Tại sao vậy? Trước tiên, chính tay tôi đã cầm xẻng trồng cây thông trắng, trong khi cây bu lô kia đã lách qua hàng rào và tự bén rễ xuống đất. Lựa chọn thiên vị của tôi có thể giống như một người làm cha làm mẹ, nhưng đó không phải là tất cả câu chuyện, vì nếu cây thông trắng cũng là một hạt giống mọc hoang như cây bu lô thì thậm chí tôi còn ưu ái nó hơn. Vì vậy, tôi cần phải đào sâu kiếm tìm lô-gích đằng sau sự thiên vị của tôi, nếu có. Cây bu lô là một giống cây ngày càng mọc tràn lan trong thị trấn của tôi, trong khi các cây thông vốn đã ít nay lại càng trở nên khan hiếm. Vậy thì cỗ lẽ sự ưu ái của tôi là dành cho những giống loài yếu thế. Nhưng tôi sẽ quyết định ra sao nếu trang trại của tôi nằm xa hơn về phía bắc, nơi có bạt ngàn các cây thông và chỉ một nhúm nhỏ những cây bu lô thân đỏ? Tôi thú nhận tôi cũng không biết nữa, vì trang trại của tôi nằm ở đây. Tuổi thọ của cây thông là cả một thế kỷ, trong khi tuổi thọ của cây bu lô chỉ bằng phân nửa. Liệu có phải tôi lo sợ rằng dấu ấn tôi để lại sẽ phai nhạt đi? Những người hàng xóm của tôi tuy chưa trồng cây thông nào nhưng lại có rất nhiều cây bu lô. Vậy thì có phải tôi đang hợm hĩnh vì mình có một khoảnh đất đặc biệt hơn họ? Cây thông thì xanh quanh năm, còn cây bu lô thì “hết ca” và rụng lá vào mỗi tháng Mười. Có phải tôi ưu ái những loài cây cũng chịu đựng được cơn gió đông như tôi? Cây thông là nơi trú ẩn của gà gô, nhưng cây bu lô lại là nguồn thức ăn cho chúng. Vậy thì phải chăng tôi coi trọng chỗ ngủ hơn là miếng ăn? Cây thông đáng giá mười đô la cho một nghìn gốc, còn cây bu lô chỉ đáng giá hai đô-la. Liệu có phải tôi là kẻ tham tiền? Tất cả những lý do giải thích sự thiên vị của tôi đều có chút trọng lượng, nhưng không cái nào trội hơn cái nào. Thế là tôi thử lại lần nữa, và lần này có thể tôi sẽ gặp may mắn hơn. Dưới gốc cây thông cuối cùng sẽ mọc lên một dải cây dương mai, cây thạch nam đơn hoa sống ký sinh, cây thạch nam hoa hồng sống cộng sinh, hay cây kim ngân song hoa; trong khi đó, dưới gốc cây bu lô thì giỏi lắm chỉ mọc lên được cây long đởm hoa hình lọ. Trong thân cây thông, một con gõ kiến đầu đội mũ cuối cùng sẽ khoan lỗ làm tổ, trong khi chỉ có loài gõ kiến lông xù nhỏ xíu thì mới chọn thân cây bu lô làm tổ. Gió sẽ rì rào thổi qua những tán thông và hát cho tôi nghe những ngày tháng Tư, trong khi cùng lúc đó thì cây bu lô sẽ chỉ trơ ra những cành khăng khiu khô gầy. Những lý do khả dĩ này có trọng lượng hơn, nhưng tại sao? Liệu có phải do cây thông kích thích óc tưởng tượng và hy vọng của tôi hơn là cây bu lô? Nếu quả đúng vậy, thì sự thiên vị này đến từ những cái cây hay từ chính tôi? Kết luận duy nhất mà tôi từng rút ra được, đó là tôi thương quý hết thảy các loài cây, nhưng tôi chỉ dành tình yêu cho các cây thông. Như đã nói, tháng Mười một là tháng dành cho các lưỡi rìu. Cũng như trong tất cả các mối tình khác, việc thực hành sự thiên vị đòi hỏi kỹ năng. Nếu cây bu lô mọc cao hơn và đứng về phía nam của cây nó sẽ che bóng ngọn thông vào mùa xuân và khiến cho những con mọt thông không đẻ trứng lên cây thông đó. Việc chen đua với cây bu lô chỉ là chuyện nhỏ so với loài mọt thông có khả năng ăn mòn chóp thông và khiến cây biến dạng. Thật thú vị rằng sở thích tắm nắng của loài bọ này không chỉ quyết định việc duy trì nòi giống của nó, mà còn định đoạt cả hình dáng tương lại cho cây thông của tôi, kèm theo đó là thành công của tôi với tư cách một người thợ cầm rìu và xẻng. Thêm nữa, nếu tôi đốn bỏ cây bu lô ngay trước thềm một mùa hè khô hạn, thì việc không phải tranh giành nguồn nước cũng sẽ chẳng thấm tháp gì so với lượng nhiệt gia tăng trong đất, và cây thông của tôi cũng sẽ chẳng may mắn gì hơn vì tôi đã ưu ái nó. Cuối cùng, nếu các cành cây bu lô chà xát vào các chồi thông khi gió thổi, cây thông chắc chắn sẽ bị biến dạng. Trong trường hợp đó thì bất luận thế nào tôi cũng cần phải đốn hạ cây bu lô, hoặc tôi phải cắt tỉa các cành của nó mỗi mùa đông để cho chúng khỏi cọ quẹt vào chồi thông trong mùa hè. Đó là những điểm lợi điểm hại mà một người cầm rìu phải tiên liệu, so sánh thiệt hơn, và quyết định một cách bình thản nhưng vững tâm rằng nhìn chung sự thiên vị của anh ta sẽ thực sự mang lại kết quả chứ không chỉ là những thiện chí sáo rỗng. Trong trang trại của người cầm rìu có bao nhiêu giống cây thì anh ta có từng đấy thành kiến thiên vị trong đầu. Trong suốt những năm tháng đời mình, anh ta gán cho mỗi loài cây một chuỗi các đặc điểm làm nên tính cách của chúng, dựa trên cách anh ta phản ứng với vẻ đẹp cũng như mức độ hữu dụng của mỗi loài, hay cách chúng phản ứng với công sức lao động anh ta bỏ ra để nuôi dưỡng hay triệt tiêu chúng. Tôi luôn bất ngờ trước những tính cách đa dạng mà những người khác nhau gán cho cùng một loài cây. Vì thế, có thể với tôi thì cây dương lá rung là một loài cây tốt tính vì nó vừa tô điểm cho tháng Mười vừa là nguồn thức ăn cho những con gà gô trong mùa đông, nhưng với một vài người hàng xóm thì nó chỉ là một thứ cây dại tầm thường, có lẽ vì nó mọc lan tràn mạnh mẽ trên những lô đất còn trơ gốc cây mà từ thời cha ông họ đã cố gắng phát quang. (Tôi không thể chế nhạo họ, vì chính tôi cũng đang khó chịu với đám cây du đang nảy mầm lăm le chiếm đất của những cây thông của tôi.) Một lần nữa, thông lá rụng là loài cây yêu thích thứ hai của tôi chỉ sau cây thông trắng, có lẽ vì nó gần như đã tuyệt chủng trong phạm vị thị trấn tôi ở (thiên vị dành cho kẻ yếu), hoặc có lẽ vì nó rải rác những chiếc là vàng kim lên bộ lông đám gà gô tháng Mười (thiên vị của người thợ săn), hoặc có lẽ vì nó làm chua đất và giúp nuôi dưỡng giống hoa lan hài, một trong những loài hoa lan lan xinh đẹp nhất trong vườn tôi. Mặt khác, những người trồng rừng đã loại trừ thông lá rụng ra khỏi danh sách vì tốc độ mọc quá chậm khiến cho nó không phải là lựa chọn kinh tế khi trả lãi suất thuê đất. Để chặn họng những ai muốn tranh cãi, họ đế thêm rằng loài thông lá rụng thường xuyên bị ong cắn lá (mặc dù từ đó đến nay những cây thông của tôi đã sống được năm mươi năm rồi, nên tôi sẽ để cho cháu tôi lo đến chuyện đó) Trong khi đó, các cây thông rụng lá của tôi vẫn tiếp tục lớn lên một cách đầy quyến rũ, khiến cho tinh thần tôi cũng theo thế mà nhẹ lên cao. Đối với tôi, một cây cơm nguội đại thụ là loài cây tuyệt vời nhất, vì thời trẻ nó đã từng che mát cho đàn bò rừng và đeo một vòng thiên sứ kết từ những tổ chim bồ câu trên tán lá. Và tôi cũng thích cả một cây cơm nguội con nữa, vì mai đây nó sẽ kế nghiệp cha ông trở thành một cây đại thụ. Nhưng một bà nông dân (và theo đó là cả chồng bà ấy) thì thù ghét cây cơm nguội vì cứ đến tháng Sáu là những cây cái sẽ nở ra những cụm bông trắng bám đầy cửa sổ. Giáo lý thời hiện đại là đề cao sự thoải mái bằng mọi giá. Tôi thấy mình có nhiều sự thiên vị hơn hết thảy những người hàng xóm bởi tôi có nhiều kỷ niệm cá nhân với nhiều loài cây mà họ gọi chung bằng một cái tên báng bổ: cây bụi. Vì thế nên tôi thích cây dây gối, một phần vì hươu, thỏ, và chuột rất ưa gặm nhấm những cành nhánh và lớp vỏ màu xanh và cũng một phần khác vì những quả dây gối màu anh đào đỏ hồng luôn rực rỡ ấm áp trên nền tuyết tháng Mười một. Tôi thích cây son thù du đỏ vì nó nuôi dưỡng những con chim cổ đỏ trong tháng Mười, và cây tần bì gai loài chim dẽ giun thường trú ẩn dưới tán lá đầy gai của nó để sưởi ấm. Tôi thích cây phỉ vì những bông hoa màu tím của nó làm tôi thêm yêu những ngày tháng Mười, cộng thêm những chùm hoa đuôi sóc của nó là nguồn thức ăn cho hươu và gà gô trong tháng Mười một. Tôi thích cây cà dược vì cha tôi cũng thích nó, và phần nữa vì cứ đến đúng ngày 1 tháng Bảy hàng năm là những con hươu sẽ bắt đầu ăn lá cà dược non (và tôi đã học cách tiên đoán chính xác sự kiện này cho các vị khách tới thăm). Làm sao tôi có thể không ưa một loại cây khiến cho tôi, một giáo sư tầm thường, có thể lột xác trở thành một nhà tiên tri tài ba mỗi năm chứ. Ta có thể thấy rằng việc chúng ta thiên vị loài cây nào cũng có tính cha truyền con nối. Nếu ông của bạn mê trái cây mại châu, bạn cũng sẽ thích cây mại châu vì ông bạn dạy bạn điều đó. Ngược lại, nếu ông bạn vô tình đốt một khúc gỗ trong đó có lẫn nhành cây sơn độc và bị khói cây phả trúng người, bạn cũng sẽ ghét giống cây đó, bất luận cho những chiếc lá đỏ rực của nó khiến bạn mãn nhãn thế nào mỗi độ thu về. Ta cũng có thể thấy rõ rằng việc chúng ta ưu ái các loài cây khác nhau cũng thể hiện không chỉ ngành nghề mà còn cả thú tiêu khiển với sợi dây ngăn cách mong manh giữa các loài cây ta ưu tiên cho công việc hay sở thích. Người nông dân thích săn gà gô hơn vắt sữa bò sẽ không chán ghét cây táo gai, cho dù nó có xâm lấn vào cánh đồng chăn thả của anh ta. Thợ săn gấu trúc Bắc Mỹ sẽ không ghét bỏ cây gỗ đoạn, và tôi biết những người săn chim cút cũng không oán ghét gì cây cỏ phấn hương, mặc dù hàng năm họ đều khổ sở vì dị ứng phấn hoa. Sự thiên vị của chúng ta là một mục lục nhạy bén về tâm tư tình cảm, sở yêu sở ghét, lòng trung thành cũng như sự hào phóng, cũng như cách chúng ta giết thời gian mỗi cuối tuần. Dù sao đi nữa, tôi vẫn hài lòng với việc cầm rìu lên mỗi cuối tuần trong tháng Mười một. Một pháo đài kiên cố M ỗi khu rừng gỗ trong các trang trại, bên cạnh việc cung cấp gỗ, chất đốt, và cột chống thì cũng nên mở ra cơ hội cho giáo dục khai phóng. Những mùa gặt kiến thức này không bao giờ thất bát, nhưng ít khi có cơ hội được thu hoạch. Ở đây tôi muốn ghi lại những bài học tôi đã thu lượm được từ chính khu rừng gỗ của mình. დღდ Ngay sau khi tới mua khu rừng này một thập kỷ trước, tôi nhận ra mình đã mua không chỉ vô số loại cây mà còn cả từng ấy loại dịch bệnh trên cây. Khoảng rừng lấy gỗ của tôi chi chít những mầm bệnh có thể điểm mặt kể tên trên mọi cây thân gỗ. Tôi bắt đầu ước rằng Noah đã để lại đám dịch bệnh cây cối phía sau khi ông đưa muôn loài lên con thuyền của mình. Nhưng tôi nhanh chóng nhận ra rằng chính những dịch bệnh này đã biến khu rừng của tôi thành một pháo đài kiên cố, không có đối thủ trên toàn hạt. Khu rừng của tôi là đại bản doanh của một dòng họ gấu trúc Bắc Mỹ, trong khi chúng hiếm khi xuất hiện trong các trang trại hàng xóm. Một ngày Chủ nhật tháng Mười một, sau một tôi đã hiểu lý do tại sao. Vết chân còn mới nguyên của một thợ săn gấu trúc và con chó săn dẫn đến một thân cây thích đã bật rễ gần nửa, và dưới rễ cây là nơi con gấu trúc của tội đang trú ẩn. Những cội rễ ngoằn ngoèo đóng băng lởm chởm đến độ không thể chặt được và cũng quá cứng để có thể đào lên. Thêm vào đó, có quá nhiều lỗ dưới gốc cây để hun khói đuổi con gấu trúc ra. Người thự săn đã phải ra về tay trắng vì một loại nấm bệnh đã làm suy yếu rễ cây thích. Cái cây, bị quật ngã phân nửa sau một cơn bão, tạo nên một pháo đài bất khả xâm phạm cho họ nhà gấu trúc Bắc Mỹ. Nếu không có căn hầm “chống đạn” này, đàn gấu trúc trong rừng của tôi sẽ bị thợ săn càn quét dần mỗi năm. Khu rừng của tôi cũng là nơi cư ngụ của một tá gà gô cổ khoang, tuy nhiên trong những mùa tuyết rơi dày thì chúng lại di cư sang bên rừng nhà hàng xóm để tìm chỗ trú ẩn tốt hơn. Tuy nhiên, tôi vẫn có được một số lượng bình ổn gà gô trong rừng của mình vì ở đó luôn có sẵn những thân cây sồi bị những cơn bão mùa hè quật ngã. Mỗi thân cây đổ trong mùa hè vẫn còn nguyên cành lá khô, và giữa những trận tuyết rơi thì chúng trở thành nhà cho một con gà gô. Lớp phân gà quanh thân cây cho thấy mỗi con gà gô đã cư trú, kiếm ăn, và rong chơi suốt mùa bão tuyết trong khuôn viên hạn hẹp của tán cây sồi rậm rạp, nơi nó được che chở khỏi gió rét, cú, cáo, và thợ săn. Lá sồi khô ngoài việc tạo lớp che chắn, vì lý do lạ lùng nào đó, còn là món ăn ưa thích của gà gô. Tất nhiên, những cây sồi bị đổ này đều là cây bị bệnh. Nếu không có loại bệnh dịch này, rất hiếm cây sồi sẽ đổ, và kéo theo một số lượng cũng ít các con gà gô trú ẩn quanh thân cây. Các cây sồi bệnh cũng cung cấp một nguồn thức ăn khoái khẩu cho loài gà gô: vú lá sồi. Vú lá sồi, hay mụn sồi, là một khối u mọc ra từ các cành non đã bị một con ong bắp cày vú lá trong lúc còn đang tươi xanh mọng nước. Cứ mỗi tháng Mười là các con gà gô trong rừng của tôi lại chén no nê các vú lá sôi này. Cứ mỗi năm, những con ong rừng lại trám đầy các thân sồi rỗng của tôi bằng những tầng mật, và cứ mỗi năm những gã hanh nghề ăn trộm mật ong lại nẫng tay trên của tôi. Lý do một phần là bởi bọn họ khéo léo hơn tôi trong việc “lần ra” các cây có ong mật, và một phần vì họ dùng lưới bảo vệ, vì thế có thể thu hoạch mật trước khi bầy ong bắt đầu ngơi tay vào mùa thu. Nhưng nếu không phải vì bệnh thối lõi thì sẽ không có thân cây sồi rỗng nào để cho bầy ong trang hoàng bằng những lớp tổ ong đầy mật ngọt. Vào đợt cao điểm trong mùa sinh sản, khu rừng của tôi luôn phải chịu nạn dịch thỏ. Chúng ăn vỏ và cành của hầu hết các loại cây và bụi rậm mà tôi muốn kích cho phát triển, trong khi lại ngó lơ tất cả các loại mà tôi muôn dẹp bỏ bớt. (Khi người thự săn thỏ trồng một rừng thông hay một vườn cây ăn trái, thì đám thỏ biến thành một loài gây hại thay vì con mồi cho cuộc đi săn.) Mặc dù là giống ăn tạp, loài thỏ theo cách nào đó lại là một kẻ rất sành ăn. Chúng luôn ưa chuộng các cây thông, cây thích, cây táo, hay cây dây gối do tự tay người trồng, hơn là một cây mọc dại. Chúng cũng nhất quyết đòi hỏi những món sa-lát nhất định phải được tẩm ướp trước khi ăn. Bằng chứng là chúng không hề đụng đến những cây sơn thù du đỏ đến khi các cây này bị bệnh vẩy vỏ sò. Lớp vỏ cây sau đó trở thành một món hảo hạng được tất cả các con thỏ xung quanh ngốn ngấu. Một bầy tầm một tá con chim bạc má sinh sống suốt năm trong khu rừng của tôi. Vào mùa đông, tiếng rìu chặt các cây bệnh hay cây chết là tiếng kẻng báo giờ cơm của bộ tộc chim bạc má này. Chúng nấp trong lùm cây để chờ đến khi các thân cây đổ xuống, chỉ trỏ bàn tán một cách xấc xược về tiến độ lao động chậm chạp của chúng tôi. Khi thân cây cuối cùng cũng đổ và những chiếc nêm bổ dọc hé lộ phần ruột cây, những con bạc má đeo khăn ăn lên và nhào vào bữa tiệc. Mỗi mẩu vỏ cây chết với chúng là món sơn hào hải vị gồm trứng, ấu trùng, và nhộng. Với chúng, mỗi lõi gỗ bị kiến đào đều căng đầy mật ngọt cao lương. Chúng tôi thường tựa một khúc cây vừa mới cắt vào một cây gần đó chỉ để nhìn lũ chim háu ăn mổ rỉa đống trứng kiến. Việc biết rằng chúng tôi hay lũ chim cũng đều tìm kiếm nguồn sống và sự chở che từ mùi hương nồng nàn của những thanh gỗ sồi mới bửa khiến một ngày lao động có phần nhẹ nhàng hơn. Nếu không phải vì lũ côn trùng phá phách và đám bệnh dịch, thì hẳn lũ chim bạc má sẽ không kéo đến kiếm ăn và khiến khu rừng của tôi thêm phần rộn ràng sinh động trong mùa đông. Rất nhiều sinh vật khác trong tự nhiên cùng sống nhờ vào dịch bệnh trên cây. Những con gõ kiến đầu mào đẽo đục các thân cây thông còn sống để moi móc từ lõi cây bị bệnh ra những con đuông thông béo ú. Những con quạ và chim giẻ cùi lẩn trốn đám cú vằn trong lòng một thân gỗ đoạn rỗng ruột; nếu không nhờ có cái cây bệnh này thì những khúc nhạc réo rắt ban chiều của chúng hẳn đã sớm tắt ngấm. Bầy vịt Carolina làm tổ trong những thân cây rỗng, và cứ mỗi tháng Sáu là một bầy vịt con non tơ lại lẫm chẫm chào đời gần đầm lầy trong rừng của tôi. Hộ khẩu thường trú của tất cả các con sóc đều phụ thuộc vào sự cân bằng giữa một cái lỗ sâu khoét trên thân cây và những tế bào vỏ cây cố gắng đóng miệng vết thương hở này lại. Con sóc đóng vai trọng tài bằng cách gặm bớt phần vỏ cây đang nhăm nhe che phủ phần cửa ra vào nơi cái hốc nó đang trú ngụ. Nhưng kho báu thật sự trong khoảng rừng bệnh tật của tôi chính là con chim chích vàng mỏ đen (prothonotary warbler). Nó làm tổ trong cái tổ cũ của con gõ kiến, hay các lỗ sâu nhỏ trên một thân cây đổ bắt ngang dòng suối. Bộ lông vàng pha xanh của nó ánh lên giữa nền rừng ảm đạm mục nát là minh chứng cho việc những thân cây chết lại thổi sinh khí vào các loài vật sống, và ngược lại. Bất cứ khi nào bạn nghi ngờ về sự thông thái ẩn trong sắp đặt này của thiên nhiên, hãy cứ ngắm nhìn con chim chích vàng mỏ đen. THÁNG MƯỜI HAI Vùng cư ngụ N hững sinh linh hoang dã trong trang trại của tôi khá kiệm lời trong việc chia sẻ với tôi lịch trình ngày đêm của chúng gồm bao nhiêu phần diện tích thị trấn đồng quê nhỏ bé này. Tôi khá tò mò về điều này, vì nó sẽ cho tôi biết tỷ lệ giữa kích thước thế giới của chúng so với với thế giới của tôi. Nó cũng khiến tôi nghĩ tới một câu hỏi quan trọng hơn: bên nào là bên nắm bắt tường tận hơn về thế giới mà họ đang sống? Cũng như con người, các con thú của tôi thường xuyên chia sẻ qua hành động những gì chúng từ chối nói ra thành lời. Và cũng thật phức tạp để đoán trước rằng bằng cách nào và khi nào thì những điều chúng tiết lộ sẽ được phơi bày. დღდ Con chó, vốn không bị ràng buộc bởi lưỡi rìu trong tay, tự do săn lùng trong khi đám người chúng tôi chặt gỗ bổ củi. Một tràng thật thanh những tiếng yip-yip-yip vang lên báo hiệu cho chúng tới biết là một con thỏ vừa bị đuổi ra khỏi chỗ nằm trên bãi cỏ và giờ đang chạy thục mạng đi đâu đó. Nó lao thẳng về phía một đống củi cách đó gần 500 mét, nơi nó lủi vào núp giữa hai bó củi và bỏ cách kẻ theo đuổi nó một quãng an toàn. Con chó, sau khi gầm gừ để lại vài dấu răng ra oai trên những khúc gỗ sồi cứng chắc, đành bỏ cuộc và tiếp tục đảo quanh tìm kiếm một vài con thỏ đuôi bông kém thận trọng hơn, còn chúng tôi thì lại tiếp tục vung rìu bổ củi. Cuộc rượt đuổi trong tích tắc này cho tôi thấy là con thỏ nắm rất rõ địa hình giữa nơi nó nằm ngủ trên cánh đồng và căn hầm trú ẩn của nó bên dưới đống củi. Nếu không thì làm sao nó có thể chạy một mạch đến đó như ẳ vậy? Bán kính vùng cư ngụ của con vật chắc hẳn phải kéo dài ít nhất hơn 500 mét. Những con chim bạc má ghé qua trạm tiếp tế đồ ăn của chúng tôi đều được bắt lại và đánh dấu mỗi mùa đông. Một vài người hàng xóm cũng có cho chim bạc má ăn, nhưng không ai đánh dấu chúng cả. Bằng cách theo dõi khoảng cách xa nhất bầy chim bạc má sẽ bay đến từ nơi tôi cho chúng ăn, chúng tôi đã phát hiện rằng vùng cư ngụ của đàn chim này có bán kính kéo dài gần một cây số trong mùa đông, có điều chúng chỉ trú ngụ ở những nơi kín gió. Vào mùa hè, khi cả đàn đã túa đi tìm nơi làm tổ, những con chim được đánh dấu xuất hiện ở những địa điểm xa hơn, thường sẽ giao phối với những con không đánh dấu. Trong mùa hè thì những con chim bạc má không mấy bận tâm đến những cơn gió và thường được tìm thấy ở những nơi đồng trống gió thổi bạt ngàn. Vết chân của ba con hươu đã đi qua rừng của chúng tôi hôm qua còn mới nguyên trên nền tuyết phủ. Tôi đi ngược lại hướng vết chân của chúng và tìm thấy trong một bụi liễu rậm rạp bên bờ cát ba cái ổ nằm lót lá không ướt tuyết. Sau đó tôi đi xuôi theo vết chân, và chúng dẫn tôi đến cánh đồng ngô nhà hàng xóm, nơi những con hươu đã đào những bắp ngô còn sót lại dưới lớp tuyết và bới tung một trong những đống thân ngô lên. Vết chân sau đó dẫn theo một đường khác đến bờ cát ven sông. Trên đường đi, những con hươu đã lấy guốc cào vào bụi cỏ, dụi mũi vào để tìm những mầm xanh non bên trong, và chúng cũng đã dừng lại bên một con suối để uống nước. Bức tranh về hành trình ban đêm của chúng đã hoàn tất. Tổng khoảng cách từ giường ngủ đến nơi chúng ăn sáng là hơn một cây số rưỡi. Những khu rừng của chúng tôi luôn là nơi ẩn náu của gà gô. Thế nhưng, vào một ngày cuối đông, sau một trận tuyết dày và mịn, tôi không nhìn thấy bóng dáng hay vết chân một con gà gô nào. Tôi đã những tưởng rằng các chú gà gô của tôi đã dọn nhà đi nơi khác, khi con chó ghếch mũi chỉ vồ tán lá rậm rạp của một cây sồi đã đổ từ mùa hè năm ngoài. Ba con gà gô phóng ra, lần lượt từng con một. Bên dưới hay xung quanh thân cây đổ không có một dấu chân nào cả. Rõ ràng là những con gà đã hạ cánh xuống đây, nhưng chúng từ đây bay tới? Gà gô cần thức ăn, đặc biệt là trong thời tiết không độ này, thế nên tôi quyết định kiểm tra phân của chúng để tìm manh mối. Trong số những cặn lợn cợn không xác định, tôi tìm thấy vảy của búp cây, và lớp vỏ màu vàng của những trái ớt mả đông cứng. Trong một bụi rậm những cây thích non, tôi đã từng trông thấy một đám cây ớt mả mọc um tùm giữa mùa hè. Tôi lại gần đó, và sau một hồi tìm kiếm thì đã nhìn thấy những vết chân gà gô trốn một thân cây. Những con gà đã không lội qua tuyết: chúng đã chọn đi trên các thân cây và ăn những quả ớt mả mọc trong tầm với. Chỗ nãy nằm cách thân cây sồi khoảng 400 mét vẻ hướng đông. Tối hôm đó, khi hoàng hôn buông xuống, tôi nhìn thấy một con gà gô trong một bụi cây gợn sóng khoảng 400 mét về hướng tây thân cây sồi. Không có vết chân nào trên tuyết cả. Câu chuyện thế là đã rõ. Những con chim này, trong mùa tuyết rơi ngập lối, đã di chuyển trong vùng cư ngụ của chúng bằng cánh chứ không phải bằng chân, và vùng cư ngụ của chúng có bán kính khoảng 400 mét. დღდ Hiểu biết của khoa học về vùng cư ngụ vẫn còn rất hạn chế: kích thước của nó qua mỗi mùa khác nhau, nó phải hàm chứa các loại thức ăn và nơi trú ẩn nào, nó có những hàng rào phòng thủ nào chống kẻ đột nhập, và liệu quyền sở hữu vùng cư ngụ thuộc về một cá nhân, một gia đình, hay một bầy. Đây là những quy tắc cơ bản của nền kinh tế trong thế giới loài vật, hay sinh thái học. Mỗi trang trại là một cuốn sách về hệ sinh thái muông thú; và tay nghề của một người thợ gỗ sẽ giúp chúng ta thông ngôn cuốn sách này. Những rặng thông trên tuyết Những việc sáng tạo thường dành riêng cho thần thánh và thi sĩ, nhưng những người phàm trần đôi khi có thể lách luật nếu như họ biết cách. Ví dụ, việc trồng một cây thông không đòi hỏi ta phải là một đấng tối cao hay một nhà thơ; chúng ta chỉ cần một cái xẻng mà thôi. Nhờ vào lỗ hổng trong luật lệ này mà bất cứ gã quê mùa cục mịch nào cũng có thể phán: Hãy để một cái cây mọc lên - và quả nhiên một thân cây sẽ mọc lên. Nếu lưng người đó khỏe và cái xẻng của anh ta đủ sắc, dần dà sẽ có đến cả chục nghìn cái cây. Và sau bảy năm, anh ta có thể chống tay lên cây xẻng và ngắm nhìn những cái cây, các tác phẩm tuyệt đẹp của mình. Chúa Trời sau bảy ngày đã dừng công việc tạo tác của mình, nhưng tôi để ý thấy Ngài có vẻ thờ ơ với những giá trị phẩm hạnh của thế giới Ngài tạo nên. Tôi đồ rằng có thể Ngài đã trông đợi quá nhiều, hoặc những thân cây thì trông vẫn trác tuyệt hơn những cái lá sung che hạ bộ và bầu trời trên thiên đường. დღდ Tại sao cái xẻng lại được coi là biểu tượng của lao dịch? Có lẽ vì phồn lớn những cái xẻng trông thật tẻ nhạt. Mặc dù công việc nặng nhọc nào cũng có sự góp mặt của những cái xẻng nhàm chán, nhưng tôi khổng chắc giữa hai thứ này thì cái nào là nguyên nhân cái nào là kết quả. Tôi chỉ biết rằng sau khi được mài dũa cật lực đến sắc bén thì cái xẻng của tôi như cất tiếng ca vang khi nó xắn vào lớp đất mùn mềm xốp. Tôi đã từng được nghe nói về thứ âm nhạc vang lên từ cái bào, một cái chạm gỗ, và một con dao mổ bén nhọn. Tuy nhiên, tôi nghe thấy thứ thanh âm này rõ nhất từ cái xẻng của tôi: nó ngân nga từng đợt trên cổ tay tôi trong khi trồng một cây thông. Tôi nghĩ rằng cái gã từng cất công để gẩy được một nốt nhạc trong trẻo trên cây đàn hạc cổ xưa hẳn đã chọn nhầm một thứ nhạc cụ quá rắc rối. Thật là một điều tốt khi mùa trồng cây chỉ diễn ra trong tiết xuân, vì sự cân băng tiết độ là cần thiết cho vạn vật, ngay cả những cái xẻng. Trong những tháng còn lại, ta có thể ngắm nhìn quá trình sinh trưởng của một cây thông. Mỗi năm mới của cây thông bắt đầu vào tháng Năm, khi chồi chớp của cây biến thành hình “cây nến”. Cho dù ai là người nghỉ ra cụm lừ đó để gọi chồi cây thông thì tâm hồn họ cũng đong đầy sự ý nhị tinh tế. “Cây nến” thoạt nghe thì có vẻ là một ám chỉ tầm thường về những thực tế hiển nhiên: chồi thông mới nhú này mọc thẳng, đóng sáp xung quanh, và dễ gãy. Nhưng bất cứ ai sống lâu năm với loài thông thì sẽ hiểu rằng cây nến còn là một hình ảnh hoán dụ sâu xa hơn, vì trên chóp nến là hình ảnh ngọn lửa """