" Những Vị Thần Nước Mỹ PDF EPUB 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Những Vị Thần Nước Mỹ PDF EPUB Ebooks Nhóm Zalo Shadow sắp sửa mãn hạn tù. Anh khấp khởi nghĩ về thời khắc phóng thích sắp đến, về một cuộc sống giản dị êm đềm bên cạnh người vợ mà anh yêu tha thiết. Nhưng ngày ra tù, anh biết tin vợ mình vừa qua đời trong một tai nạn giao thông, và trên máy bay anh gặp một ông già tự xưng là Wednesday đòi thuê anh làm vệ sĩ. Theo một lối dần dà nhưng chắc chắn, mềm mại nhưng khôn cưỡng, Shadow bị cuốn vào một trận chiến kinh thiên động địa của các vị thần giữa lòng nước Mỹ hiện đại. Hiếm nhà văn nào có thể tạo ra được một thế giới hư cấu vừa chân thực lại vừa kỳ ảo, vừa phức tạp lại vừa cuốn hút được như Neil Gaiman. Một cách khéo léo và tinh vi, Neil Gaiman lồng vào bên dưới bề mặt thực tại vô cùng gần gụi và bình thường với chúng ta, một thế giới thăm thẳm và biến ảo khôn lường, khiến người đọc không ngừng mê say. Mục lục Mục lục LỜI CẢNH BẢO DÀNH CHO CÁC LỮ KHÁCH PHẦN MỘT Những cái bóng CHƯƠNG MỘT ĐÂU ĐÓ TRÊN NƯỚC MỸ Los Angeles, 11:26 tối CHƯƠNG HAI CHƯƠNG BA ĐẾN NƯỚC MỸ Năm 813 CHƯƠNG BỐN ĐẾN NƯỚC MỸ 1721 CHƯƠNG NĂM CHƯƠNG SÁU CHƯƠNG BẢY ĐÂU ĐÓ TRÊN NƯỚC MỸ CHƯƠNG TÁM PHẦN HAI Ainsel của tôi[*] CHƯƠNG CHÍN TRONG KHI ĐÓ. MỘT CUỘC TRÒ CHUYỆN CHƯƠNG MƯỜI CHƯƠNG MƯỜI MỘT ĐẾN MỸ 1778 CHƯƠNG MƯỜI HAI CHUYỂN TIẾP CHUYỂN TIẾP 2 CHUYỂN TIẾP 3 Jacksonville, Florida. 2 giờ sáng CHƯƠNG MƯỜI BA ĐẾN MỸ Năm 14000 TCN PHẦN BA Khoảnh khắc của cơn bão CHƯƠNG MƯỜI BỐN CHƯƠNG MƯỜI LĂM CHƯƠNG MƯỜI SÁU CHƯƠNG MƯỜI BẢY CHƯƠNG MƯỜI TÁM PHẦN BỐN Phần kết: Điều người chết giữ lại CHƯƠNG MƯỜI CHÍN CHƯƠNG HAI MƯƠI TÁI BÚT LỜI CẢM ƠN PHỤ LỤC LỜI CẢNH BẢO DÀNH CHO CÁC LỮ KHÁCH Đ ây là một tác phẩm hư cấu, không phải một cuốn sách hướng dẫn. Mặc dù địa lý của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ trong câu chuyện này không hoàn toàn là tưởng tượng - các bạn có thể viếng thăm rất nhiều địa danh trong cuốn sách, bám theo các lối mòn, vẽ bản đồ các con đường - tôi cũng đã mạn phép thay đổi đôi điều. Ít hơn là bạn tưởng, nhưng vẫn là thay đổi. Tôi đã không xin phép và cũng không được phép sử dụng các địa danh thật trong câu chuyện này: tôi đoán rằng chủ nhân Thạch Thành hoặc Ngôi Nhà Trên Đá, và những người thợ săn có căn nhà nghỉ ở chính giữa nước Mỹ, cũng sẽ bối rối như ai khi họ thấy cơ ngơi của mình ở đây. Tôi đã che giấu địa chỉ của vài nơi trong cuốn sách này: thị trấn Lakeside chẳng hạn, cũng như trang trại có cây tần bì cách phía Nam Blacksburg một giờ lái xe. Nếu muốn bạn có thể đi tìm chúng. Thậm chí bạn sẽ có thể tìm thấy chúng. Ngoài ra, không cần phải nói cũng biết, tất cả mọi nhân vật trong câu chuyện này, dù sống, chết, hay khác đều là hư cấu hoặc được dùng trong ngữ cảnh hư cấu. Chỉ có các vị thần là thật. Có một câu hỏi đã luôn khiến tôi tò mò là điều gì xảy ra với các sinh vật yêu tinh khi những người nhập cư rời khỏi quê hương họ. Người Mỹ-Ireland còn nhớ những vị tiên, người Mỹ-Na Uy nhớ các nisser[*], người Mỹ-Hy Lạp nhớ các vrykólakas[*], nhưng chỉ là trong liên hệ với những sự kiện được nhở đến ở Cố Hương mà thôi. Có lần tôi hỏi tại sao các sinh vật đó lại không xuất hiện ở Mỹ, những người được hỏi cười khúc khích vẻ bối rối và nói, “Họ sợ vượt biển, đường xa quá,” và chỉ ra rằng Chúa Jesus cùng các tông đồ của Người đã không hề đến Mỹ. - Richard Dorson,“Giả thuyết về văn hóa dân gian Mỹ,” Văn hóa dân gian Mỹ và nhà sử học (Nhà in Đại học Chicago, 1971) PHẦN MỘT Những cái bóng CHƯƠNG MỘT Ranh giới của đất nước chúng tôi ư, thưa ngài? Kìa, ở phía Bắc chúng tôi có biên giới là Bắc Cực Quang, ở phía Đông chúng tôi có biên giới vầng dương đang mọc, ở phía Nam chúng tôi có biên giới là các kỳ Xuân phân, Thu phân luân chuyển, và ở phía Tag biên giới là Ngày Phán xử. - Người Mỹ trong Sách cười của Joe Miller S hadow[*] đã ở tù được ba năm. Anh to con và nhìn có vẻ đừng-giỡn-mặt-tao, đủ để vấn đề lớn nhất của anh chỉ là giết thời gian. Vì vậy anh tập thể dục, tự học làm ảo thuật bằng đồng xu và nghĩ rất nhiều về việc anh yêu vợ ra sao. Cái hay nhất - và theo ý của Shadow thì có lẽ là cái hay duy nhất - về việc ở tù là cảm giác nhẹ nhõm. Cái cảm giác rằng anh đã sa xuống sâu nhất có thể và đã chạm đáy rồi. Anh không cần phải lo mình sẽ bị bắt nữa, vì anh đã bị bắt. Anh không cần phải sợ ngày mai sẽ đem đến điều gì nữa, vì ngày hôm qua đã đem nó đến. Shadow quyết định rằng ta có làm cái điều ta bị buộc tội hay không cũng không quan trọng. Theo kinh nghiệm của anh, tất cả những người anh gặp trong tù đều phiền muộn vì điều gì đó: luôn có điều gì đó mà chính quyền đã sai, một điều họ nói ta đã làm trong khi ta không làm - hoặc không làm đúng như họ nói. Điều quan trọng là họ đã bắt được ta. Anh đã nhận ra điều đó trong những ngày đầu tiên, khi tất thảy mọi thứ, từ tiếng lóng cho đến thức ăn dở ẹc, đều mới mẻ. Bất chấp nỗi khốn khổ và cảm giác kinh hoàng rợn người của việc ở tù, anh vẫn hít thở đầy nhẹ nhõm. Shadow cố không nói quá nhiều. Đến khoảng giữa năm thứ hai thì anh mới nhắc tới giả thuyết của mình với Low Key Lyesmith, tay bạn cùng xà lim. Low Key, một tay lừa đảo đến từ Minnesota, mỉm cười bằng cái miệng có sẹo. “Ừ,” hắn nói. “Đúng đấy. Còn tốt hơn nếu mày bị tuyên án tử hình. Khi ấy mày sẽ nhớ ra truyện cười về mấy thằng cha đá ủng đi khi thòng lọng siết quanh cổ, vì bọn bạn luôn nói chúng nó sẽ chết mà vẫn đi ủng[*].” “Đấy là truyện cười à?” Shadow hỏi. “Chứ còn gì nữa. Truyện cười giá treo cổ. Loại hay nhất đấy - rầm, thế là ăn án tử. Mày mất vài ngày mới ngấm được cái tin đó, rồi sau đó mày được cưỡi xe để đi làm trò nhún nhảy trên không.” “Lần cuối họ treo cổ phạm nhân ở bang này là khi nào?” Shadow hỏi. “Tao biết thế quái nào được?” Lyesmith luôn cạo mái tóc màu đỏ cam của mình gần như trụi lủi. Ta có thể thấy từng cái rãnh trên hộp sọ của hắn. “Nhưng tao bảo nhé. Đất nước này đã xuống địa ngục kể từ khi chúng nó thôi treo cổ phạm nhân. Hết giá treo. Hết kèo, treo mõm.” Shadow nhún vai. Anh chẳng thấy án tử hình có gì là lãng mạn. Anh nghĩ, nếu không bị án tử hình, thì nhà tù giỏi lắm cũng chỉ là một đợt ân xá tạm thời khỏi đời, vì hai lý do. Thứ nhất, đời vẫn luôn lọt vào nhà tù. Đừng tưởng bị loại khỏi cuộc chơi rồi thì ta không rơi xuống sâu hơn được nữa; sự sống vẫn tiếp diễn, dù là sự sống dưới kính hiển vi, hay đời sống trong một cái xà lim. Và thứ hai, nếu ta vẫn không nản chí, thì đằng nào một ngày nào đó họ chẳng phải thả ta ra. Mới đầu tự do còn quá xa xôi để Shadow có thể tập trung vào nó. Rồi nó trở thành một tia hy vọng xa xăm, và anh học được cách tự nhủ “việc này rồi cũng sẽ qua” khi những chuyện khốn nạn trong tù xảy ra, như những chuyện khốn nạn trong tù vẫn luôn như vậy. Một ngày kia cánh cửa thần kỳ sẽ mở và anh sẽ bước qua nó. Vậy là anh đánh dấu từng ngày trên cuốn lịch Các loài chim biết hót ở Bắc Mỹ, cuốn lịch duy nhất được bán ở kho nhu yếu phẩm của nhà tù, và mặt trời lặn anh không để ý rồi mặt trời mọc anh cũng không để ý. Anh tập các trò ảo thuật với đồng xu học từ một cuốn sách anh tìm thấy trong cái thư viện cằn cỗi của nhà tù; anh tập thể dục; và anh lập ra trong đầu danh sách những việc anh sẽ làm khi ra tù. Danh sách của Shadow ngày một ngắn lại. Sau hai năm, anh chỉ còn lại ba việc. Thứ nhất, anh sẽ tắm. Ngâm mình thật lâu, thật ra trò, trong bồn tắm đầy bọt. Có thể đọc báo hoặc không. Có ngày anh nghĩ mình sẽ đọc, có ngày anh lại nghĩ là không. Thứ hai, anh sẽ lau mình cho khô rồi mặc áo choàng vào. Có thể đi dép nữa. Anh thích ý nghĩ về đôi dép. Nếu anh hút thì lúc đó anh sẽ hút bằng tẩu, nhưng anh không hút. Anh sẽ bế bổng vợ mình lên (“Cún con,” cô sẽ ré lên với vẻ sợ hãi giả tạo và thích thú thực sự, “anh đang làm gì thế?”). Anh sẽ bế cô vào phòng ngủ, và đóng cửa lại. Họ sẽ gọi điện đặt pizza nếu thấy đói. Thứ ba, sau khi anh và Laura ra khỏi phòng ngủ, có lẽ là sau hai, ba ngày, anh sẽ giữ mình và tránh xa mọi rắc rối cho đến hết đời. “Rồi khi đó mày sẽ hạnh phúc chứ?” Low Key Lyesmith hỏi. Hôm đó họ đang làm việc trong xưởng của nhà tù, lắp máng cho chim ăn, một việc chẳng thú vị hơn việc dập biển số xe là mấy. “Chẳng kẻ nào hạnh phúc,” Shadow đáp,“cho tới khi hắn chết.” “Herodotus,” Low Key nói. “Này, mày học được rồi đấy.” “Herodotus là thằng chết mẹ nào?” Iceman hỏi, lắp hai mặt bên vào cái máng rồi chuyển nó cho Shadow để anh bắt vít và vặn chặt. “Một ông Hy Lạp đã chết,” Shadow nói. “Con bồ cũ của tao người Hy Lạp,” Iceman nói. “Gia đình nó ăn toàn thứ quái gở. Không thể tin được. Kiểu như cơm gói trong lá ấy. Những thứ đại loại thế.” Iceman có kích cỡ và hình thù của một cái máy bán nước tự động, với cặp mắt xanh và mái tóc sáng màu đến nỗi nhìn gần như trắng. Hắn đập bể ruột một thằng cha nào đó đã phạm sai lầm là sờ mó cô bồ của hắn ở quán bar nơi cô ta làm vũ công và Iceman làm bảo kê. Bạn thằng cha đó gọi cảnh sát, cảnh sát bắt Iceman và khi kiểm tra thì phát hiện ra Iceman đã lợi dụng chương trình làm việc ngoài trại giam mà bỏ trốn mười tám tháng trước. “Thế tao biết làm gì đây?” Iceman đã rầu rĩ nói sau khi hắn kể cho Shadow nghe toàn bộ câu chuyện buồn ấy. “Tao đã bảo thằng đó cô ấy là bồ của tao. Chẳng lẽ tao lại để cho nó láo với tao như thế? Phải không? Ý tao là, tay nó sờ soạng khắp người cô ấy.” Shadow đã nói một câu gì vô nghĩa, kiểu “Chắc thế,” và không nói gì thêm. Một điều anh sớm học được là ở tù ta hãy lo chịu án của mình. Đừng có chịu án cho kẻ khác. Tránh xa rắc rối. Chịu án của mình. Mấy tháng trước, Lyesmith đã cho Shadow mượn cuốn Lịch sử của Herodotus, bản bìa mềm cũ nát. “Không chán đâu. Hay lắm,” hắn nói khi Shadow kêu anh không đọc sách. “Cứ đọc đi, rồi cho tao biết là có hay không.” Shadow nhăn mặt, nhưng rồi anh vẫn đọc, và bị cuốn vào cuốn sách dù không muốn. “Bọn Hy Lạp,” Iceman nói về kinh tởm. “Và mấy chuyện đồn thổi về bọn chúng cũng chẳng đúng đâu. Tao thử chơi con bồ tao từ đằng sau, nó suýt móc cả mắt tao ra.” Một hôm Lyesmith bất ngờ bị chuyển đi, không báo trước. Hắn để lại cuốn Herodotus cho Shadow. Giữa các trang giấy có vài đồng xu: hai đồng hai mươi lăm xu, một đồng một xu, một đồng năm xu. Tiền xu là hàng cấm: ta có thể mài sắc cạnh đồng xu bằng một hòn đá để rạch mặt kẻ khác khi đánh nhau. Shadow không cần vũ khí; anh chỉ cần có việc cho hai bàn tay. Shadow không mê tín. Anh không tin vào bất kỳ điều gì anh không thấy được. Nhưng anh vẫn cảm thấy tai họa đang lơ lửng đâu đó trên nhà tù trong những tuần cuối đó, giống như anh đã cảm thấy nó trong những ngày trước vụ cướp. Anh cảm thấy một cảm giác trống rỗng nơi thượng vị, mà anh tự nhủ đấy chỉ là nỗi sợ khi phải quay về với thế giới bên ngoài. Nhưng anh không chắc. Anh trở nên nghi ngại hơn bình thường, mà trong nhà tù thì bình thường nghĩa là rất nhiều, và là một kỹ năng sống sót. Anh trở nên lặng lẽ hơn, lẩn khuất hơn trước kia. Anh thấy mình quan sát ngôn ngữ hình thể của đám lính canh, của các tù nhân khác, tìm kiếm manh mối về điều tồi tệ sắp xảy ra, bởi anh chắc chắn nó sẽ xảy ra. Một tháng trước khi mãn hạn tù. Shadow ngồi trong một văn phòng lạnh lẽo, đối mặt với một người đàn ông thấp bé có vết chàm trên trán. Họ ngồi đối diện nhau ở một cái bàn; người đàn ông có tập hồ sơ của Shadow mở ra trước mặt, tay cầm cái bút bi. Đầu bút đã bị cắn nham nhở. “Anh lạnh không, Shadow?” “Có,” Shadow đáp. “Một chút thôi.” Người đàn ông nhún vai. “Hệ thống là thế đấy,” ông ta nói. “Không được bật lò sưởi trước mồng một tháng Mười hai. Rồi đến mồng một tháng Ba là phải tắt. Luật thế đành phải chịu.” Ông ta lướt ngón trỏ dọc theo tờ giấy ghim ở bên trong phía trái của tập hồ sơ. “Anh ba mươi hai tuổi?” “Thưa vâng.” “Trông anh trẻ hơn tuổi đấy.” “Nhờ sống điều độ.” “Ở đây có nói anh là một tù nhân mẫu mực.” “Tôi đã nhận được bài học, thưa ngài.” “Thật ư? Thật không đấy?” Ông ta chăm chú nhìn Shadow, vết chàm trên trán hạ xuống thấp. Shadow tính kể cho ông ta nghe vài giả thuyết của anh về nhà tù, nhưng anh không nói gì. Anh chỉ gật đầu và tập trung vào việc tỏ ra ăn năn thật sự. “Ở đây có nói anh đã có vợ, Shadow.” “Tên cô ấy là Laura.” “Mọi chuyện ở nhà thế nào?” “Khá ổn. Cô ấy khá bực lúc tôi bị bắt. Nhưng cô ấy cố năng đến thăm tôi hết mức có thể - đường xa quá. Chúng tôi viết thư cho nhau và tôi gọi điện cho cô ấy khi nào có thể.” “Vợ anh làm nghề gì?” “Cô ấy làm ở đại lý du lịch. Đưa mọi người đi khắp thế giới.” “Hai người gặp nhau như thế nào?” Shadow không hiểu sao ông ta lại hỏi thế. Anh định bảo đó không phải là việc của ông ta, rồi đáp,“Cô ấy là bạn thân của vợ bạn thân của tôi. Họ mai mối cho chúng tôi. Chúng tôi hợp nhau ngay.” “Và anh có việc làm đang đợi sẵn rồi chứ?” “Vâng. Anh bạn tôi, Robbie, người tôi vừa kể đấy, anh ấy sở hữu trang trại Cơ Bắp, chỗ tôi từng tập. Anh ấy nói vị trí cũ vẫn để trống chờ tôi.” Một bên mày nhướng lên. “Thật ư?” “Anh ấy bảo tôi sẽ hút khách. Kéo về mấy khách cũ và thu hút đám ngầu chiến muốn trở nên ngầu hơn nữa.” Người đàn ông có vẻ hài lòng. Ông ta nhai đầu cây bút bi, rồi giở tờ giấy. “Anh cảm thấy thế nào về tội của mình?” Shadow nhún vai. “Tôi đã thật ngu ngốc,” anh nói, và nói thật lòng. Người đàn ông có vết chàm thở dài. Ông ta đánh dấu vài mục trên một danh sách. Rồi ông ta lật qua tập hồ sơ của Shadow. “Anh sẽ về nhà bằng cách nào?” ông ta hỏi. “Xe buýt Greyhound à?” “Tôi đi máy bay. Có vợ làm ở đại lý du lịch cũng có cái lợi.” Người đàn ông nhíu mày làm vết chàm nhăn nhúm lại. “Cô ấy gửi vé cho anh à?” “Không cần phải thế. Cô ấy chỉ gửi tôi số xác nhận. Vé điện tử. Tôi chỉ cần xuất hiện ở sân bay trong vòng một tháng và chìa căn cước ra cho họ là xong.” Người đàn ông gật đầu, viết nguệch ngoạc ghi chú cuối cùng, rồi đóng tập hồ sơ lại và đặt cây bút bi xuống. Hai bàn tay trắng xanh đặt trên cái bàn màu xám trông như hai con vật hồng hồng. Ông ta chắp tay vào nhau, đầu ngón tay chụm lại, và nhìn Shadow bằng cặp mắt màu hạt dẻ ươn ướt. “Anh may mắn đấy,” ông ta nói. “Anh có người đợi ở nhà, anh có công ăn việc làm sẵn sàng. Anh có thể bỏ lại nơi này sau lưng. Anh có một cơ hội thứ hai. Hãy tận dụng nó hết mức có thể.” Ông ta không chìa tay ra để bắt tay Shadow khi đứng lên rời đi, và Shadow cũng không mong ông ta sẽ làm thế. Tuần cuối cùng là tệ hơn cả. Theo một cách nào đó thì nó còn tệ hơn cả ba năm trước dồn lại. Shadow tự hỏi có phải là do thời tiết không: nặng nề, u ám, và lạnh lẽo. Có cảm giác như một cơn bão sắp đến, nhưng cơn bão không bao giờ đến. Anh thấy bồn chồn và ngột ngạt, một cảm giác sâu thẳm trong tâm can rằng có điều gì đó cực kỳ không ổn. Ngoài sân tập, gió giật từng cơn. Shadow tưởng có thể ngửi thấy mùi tuyết trong không khí. Anh gọi về cho vợ, cuộc gọi do người nhận trả tiền. Shadow biết các công ty điện thoại luôn tính thêm ba đô cho mỗi cuộc gọi đến từ điện thoại trong tù. Shadow nghĩ chính vì thế mà những người trực tổng đài luôn hết sức lịch sự với những người gọi điện từ trong tù: họ biết anh trả lương cho họ. “Có điều gì đó lạ lắm,” anh nói với Laura. Thực ra đó không phải là cầu đầu tiên anh nói với cô. Câu đầu tiên là “Anh yêu em,” vì nếu ta có thể nói câu đó thật lòng thì thật tốt, và Shadow nói thế. “Chào anh,” Laura nói. “Em cũng yêu anh. Cái gì lạ cơ?” “Anh không biết nữa,” anh đáp. “Có lẽ là thời tiết. Có cảm giác như nếu bão được một trận là sẽ ổn.” “Ở nhà dễ chịu lắm,” cô nói. “Lá vẫn chưa rụng hết. Nếu trời không bão thì anh sẽ thấy chúng khi về đến nhà.” “Năm ngày nữa thôi,” Shadow nói. “Một trăm hai mươi giờ, rồi anh sẽ về nhà,” cô nói. “Mọi việc ở nhà đều ổn chứ? Không có chuyện gì chứ?” “Ổn cả. Tối nay em sẽ gặp Robbie. Bọn em đang chuẩn bị tiệc bất ngờ mừng anh về nhà.” “Tiệc bất ngờ ấy à?” “Tất nhiên rồi. Anh không biết gì về nó, phải không nào?” “Chẳng biết tí gì.” “Thế mới là chồng em chứ,” cô nói. Shadow nhận ra anh đang mỉm cười. Anh đã ở tù được ba năm, vậy mà cô vẫn có thể khiến anh mỉm cười. “Yêu em, cưng ạ,” Shadow nói. “Yêu anh, cún con ạ,” Laura nói. Shadow dập máy. Khi họ mới cưới, Laura bảo với Shadow rằng cô muốn nuôi một con cún, nhưng ông chủ nhà nói rằng theo điều khoản thuê nhà, họ không được phép nuôi thú cưng. “Thôi,” lúc đó Shadow đã nói,“anh sẽ là cún của em. Em muốn anh làm gì? Nhai dép của em nhé? Tè bậy lên sàn bếp nhé? Liếm mũi em nhé? Ngửi mông em nhé? Anh cá là chẳng có gì con cún làm được mà anh không làm được đâu!” Và anh bế bổng cố lên như thể cô nhẹ bỗng và bắt đầu liếm mũi cô trong lúc cô cười ré lên, rồi anh đưa cô vào giường. Trong căng tin, Sam Fetisher len lén đến bên Shadow và cười, khoe bộ răng cải mả. Lão ngồi xuống cạnh Shadow và bắt đầu ăn món mì nui với pho mát. “Ta phải nói chuyện,” Sam Fetisher nói. Sam Fetisher là một trong những người có làn da đen bóng nhất mà Shadow đã từng thấy. Lão có thể sáu chục tuổi. Lão có thể đã tám chục tuổi. Nhưng Shadow cũng đã từng gặp những thằng đập đá ba mươi tuổi nhìn còn già hơn cả Sam Fetisher. “Hử?” Shadow nói. “Sắp có bão,” Sam nói. “Tôi cũng thấy thế,” Shadow nói. “Chắc trời sắp đổ tuyết.” “Không phải bão kiểu đó. Bão to hơn thế sắp đến. Tao bảo cho mà nghe, nhóc, mày ở trong này sẽ tốt hơn là ở ngoài kia khi cơn bão đến.” “Tôi thụ án xong rồi,” Shadow nói. “Đến thứ Sáu này là tôi biến.” Sam Fetisher nhìn Shadow chằm chằm. “Mày quê đâu?” lão hỏi. “Eagle Point. Indiana.” “Mày đừng bốc phét,” Sam Fetisher nói. “Ý tao là nguyên quán cơ. Bố mẹ mày quê ở đâu?” “Chicago,” Shadow đáp. Mẹ anh sống ở Chicago hồi bé, và đã mất ở đó, cách đây nửa đời người. “Tao nói rồi đấy. Bão to đang đến. Cúi đầu xuống, nhóc Shadow ạ. Như thể… cái mà các lục địa nằm trên gọi là gì ấy nhỉ? Tầng gì gì ấy?” “Tầng kiến tạo?” Shadow đoán. “Đúng rồi. Tầng kiến tạo. Giống như chúng trôi nổi, khi Bắc Mỹ đâm vào Nam Mỹ, mày không muốn bị kẹt ở giữa. Hiểu không?” “Chẳng hiểu tí gì.” Một con mắt nâu của lão nhắm lại trong một cái nháy mắt chậm. “Mẹ kiếp, đừng nói là tao không cảnh báo trước đấy nhé,” Sam Fetisher nói, rồi lão xúc một thìa thạch vị cam núng nính vào miệng. Cả đêm hôm đó Shadow trằn trọc, hết thức lại ngủ, lắng nghe gã bạn tù mới lầm bầm và ngáy ro ro ở giường bên dưới. Cách đó mấy xà lim một kẻ nào đó đang gào thét và khóc lóc như thú vật, và thỉnh thoảng lại có người hét lên bảo hắn câm mồm. Shadow cố không nghe. Anh để những giây phút trống rỗng tràn qua mình, cô đơn và chậm chạp. Còn hai ngày nữa. Bốn mươi tám tiếng, bắt đầu bằng chảo yến mạch và cà phê tù, rồi một tay lính gác tên Wilson đập lên vai Shadow mạnh hơn cần thiết và nói,“Shadow? Lối này.” Shadow kiểm tra lại lương tâm. Lương tâm anh yên lặng, nhưng trong tù anh hiểu là điều đó không có nghĩa là anh không gặp rắc rối to. Hai người bọn họ đi gần như cạnh nhau, tiếng chân âm vang trên nền kim loại và xi măng. Shadow thấy có vị của nỗi sợ trong cổ họng, đắng nghét như cà phê cũ. Điều tồi tệ đang xảy ra… Có một giọng nói trong đầu anh thì thầm rằng họ sẽ đập cho anh thêm một năm tù nữa, ném anh vào buồng biệt giam, chặt tay, chặt đầu anh. Anh tự nhủ mình đang ngớ ngẩn, nhưng tim anh đập đến muốn nổ tung trong lồng ngực. “Tao không hiểu mày, Shadow ạ,” Wilson nói trong lúc họ bước đi. “Có gì mà không hiểu đâu, sếp?”. “Mày ấy. Mày quá trật tự. Quá ngoan ngoãn. Mày chờ đợi như lũ già đời, trong khi mày mới bao nhiêu? Hai lăm? Hai tám?” “Ba mươi hai ạ.” “Thế mày là giống gì? Mễ à? Hay Digan?” “Thưa, theo tôi biết thì không. Có lẽ vậy.” “Hoặc mày có máu của bọn mọi đen. Có đúng mày gốc mọi đen không, Shadow?” “Có thể, thưa sếp.” Shadow đứng thẳng và nhìn thẳng về phía trước, tập trung không để bị gã này chọc tức. “Thế à? Tao chỉ biết là mày làm tao sởn cả gai ốc.” Wilson có mái tóc vàng cát, bộ mặt vàng cát và nụ cười vàng cát. “Mày sắp chia tay bọn tao rồi nhỉ.” “Hy vọng là thế, thưa sếp.” “Mày sẽ trở lại thôi. Tao có thể thấy điều đó trong mắt mày. Mày là thằng chẳng ra gì, Shadow ạ. Nếu mà cứ như ý tao ấy, thì chẳng thằng chó đẻ nào chúng mày thoát ra được đầu. Bọn tao sẽ ném mày vào hố rồi quên phắt mày luôn.” Oubliettes[*], Shadow nghĩ, và không nói gì. Cái này chính là khôn sống mống chết: anh không trả lời lại, không đả động gì chuyện đảm bảo công việc của cai ngục, không tranh luận về bản chất của ăn năn, hối cải hay tỉ lệ tái phạm. Anh không nói điều gì hài hước hay khôn ngoan, và để cho an toàn, khi nói chuyện với một cán bộ nhà tù, anh sẽ không nói gì hết bất cứ khi nào có thể. Chỉ nói khi được hỏi. Đừng xía vào việc của người khác. Ra khỏi đây. Về nhà. Tắm nước nóng một trận đã đời. Bảo Laura mày yêu cô ấy. Làm lại cuộc đời. Họ bước qua mấy chốt kiểm tra. Mỗi lần Wilson lại chìa phù hiệu ra. Lên một cầu thang là họ đã đứng bên ngoài văn phòng của giám đốc nhà tù. Shadow chưa bao giờ tới đây, nhưng anh biết nơi này. Trên cửa có gắn tên của ông ta - G. Patterson - bằng chữ đen, và bên cạnh cửa là một cột đèn giao thông tí hon. Cái đèn trên cùng sáng đỏ. Wilson ấn cái nút bên dưới cột đèn. Họ im lặng đứng đó vài phút. Shadow cố tự nhủ rằng mọi chuyện đều ổn, rằng sáng thứ Sáu này anh sẽ lên máy bay bay về Eagle Point, nhưng chính anh cũng không tin vào điều đó. Cái đèn đỏ tắt rồi đèn xanh bật lên, và Wilson liền mở cửa. Họ bước vào. Shadow mới chỉ thấy ngài giám đốc mấy lần trong ba năm vừa qua. Một lần ông ta đưa một chính trị gia đi tham quan; lúc đó Shadow không nhận ra ông. Một lần khác, trong một đợt phong tỏa, giám đốc đã nói chuyện với từng nhóm một trăm tù nhân một, rằng nhà tù đang quá tải và vì nó sẽ vẫn quá tải như vậy nên họ cần làm quen với việc đó. Đây là lần đầu tiên Shadow đến gần người đàn ông này. Nhìn gần, Patterson trông tệ hơn nhiều. Ông ta có bộ mặt dài thuôn, mái tóc bạc húi cua kiểu nhà binh. Ông ta có mùi lăn khử mùi Old Spice. Đằng sau ông ta là một giá sách, cuốn nào cũng có chữ Nhà tù trong tựa; bàn của ông ta sạch tinh, trống trơn ngoại trừ một cái điện thoại và một cuốn lịch xé in hình tranh biếm họa Far Side. Tai phải ông ta có đeo máy trợ thính. “Mời anh ngồi.” Wilson đứng sau lưng anh. Shadow ngồi xuống, ghi nhận thái độ lịch sự. Ngài giám đốc mở một cái ngăn kéo, lấy ra một tập hồ sơ và đặt nó lên bàn. “Ở đây có nói anh bị tuyên án sáu năm vì hành hung và đe dọa người khác với tình tiết tăng nặng. Anh đã thụ án được ba năm. Lẽ ra anh sẽ được thả vào thứ Sáu này.” Lẽ ra ư? Shadow cảm thấy dạ dày mình cuộn lên. Anh tự hỏi mình sẽ phải ở lại thêm bao lâu nữa - một năm nữa ư? Hai năm? Cả ba năm tròn? Anh chỉ nói,“Vâng, thưa ngài.” Ngài giám đốc liếm môi. “Anh nói gì cơ?”. “Tôi nói,“Vâng, thưa ngài.”” “Shadow, chúng tôi sẽ thả anh chiều nay. Anh sẽ được ra tù sớm vài ngày.” Ngài giám đốc nói điều đó mà không chút vui mừng, cứ như thể ông ta đang đọc án tử. Shadow gật đầu, và anh đợi nghe nốt điều còn lại. Ngài giám đốc nhìn xuống tờ giấy trên mặt bàn. “Cái này vừa được gửi đến từ Bệnh viện Tưởng niệm Johnson ở Eagle Point… Vợ anh. Cô ấy đã qua đời sáng sớm nay. Vì tai nạn giao thông. Tôi rất tiếc.” Shadow gật đầu một lần nữa. Wilson đưa anh về xà lim mà không nói gì. Gã mở cửa xà lim cho Shadow vào. Rồi gã nói,“Cứ như là chuyện cười tin tốt, tin xấu ấy nhỉ? Tin tốt, bọn tao thả mày sớm, tin xấu, vợ mày chết rồi.” Gã cười, cứ như thể cầu đó buồn cười thật. Shadow không nói một lời. Với vẻ đờ đẫn, anh xếp đồ, cho đi vài thứ. Anh để lại cuốn Herodotus của Low Key và cuốn sách ảo thuật với đồng xu, và, với một thoáng day dứt, để lại cả những miếng kim loại trắng dẹt mà anh đã lấy trộm từ xưởng đúc để dùng thay xu trước khi anh tìm thấy mấy đồng xu lẻ của Low Key trong cuốn sách. Sẽ có những đồng xu, đồng xu thật, ở thế giới ngoài kia. Anh cạo râu. Anh mặc thường phục. Anh đi qua hết cánh cửa này đến cánh cửa khác và biết anh sẽ không bao giờ bước qua chúng nữa, trong lòng trống rỗng. Mưa đang bắt đầu trút xuống từ bầu trời xám xịt, một màn mưa lạnh buốt. Những mảnh băng chích lên mặt Shadow, còn mưa thấm ướt chiếc áo khoác mỏng khi họ rời khỏi nhà tù mà đi về phía chiếc xe buýt màu vàng từng là xe đưa đón học sinh, sẽ chở họ đến thành phố gần nhất. Khi họ đến được chiếc xe thì tất cả đều đã ướt sũng. Có tám người cả thảy, Shadow nghĩ. Một ngàn năm trăm người vẫn còn trong. Shadow ngồi trên xe buýt và run rẩy cho tới khi hệ thống sưởi trên xe bắt đầu hoạt động, tự hỏi anh đang làm gì, giờ anh biết đi đâu đây. Những hình ảnh ma mị bất chợt hiện ra trong đầu anh. Trong trí tưởng tượng của mình, anh đang rời một nhà tù khác, cách đây lâu lắm rồi. Anh đã bị giam cầm trong một căn gác xép tối tăm quá lâu: râu anh rối tung và tóc anh như tổ quạ. Lính gác đã giải anh xuống một cầu thang đá xám và ra một quảng trường đầy những thứ màu sắc rực rỡ, đầy người và đồ vật. Đó là một ngày chợ phiên và anh choáng váng vì âm thanh và màu sắc, anh nheo mắt vì ánh mặt trời tràn ngập khắp quảng trường, anh ngửi mùi không khí ẩm ướt mặn mòi và những thứ ngon lành ở phiên chợ, và bên trái anh, mặt trời lấp lánh trên làn nước… Xe buýt rùng rùng dừng lại chỗ đèn đỏ. Gió gào thét quanh xe, và cần gạt nước nặng nề quẹt qua lại trên kính chắn gió, làm thành phố nhòe đi thành những vệt màu neon vàng và đỏ. Đang là đầu giờ chiều, nhưng qua lớp kính trời nhìn như đã về đêm. “Vãi,” người ngồi sau Shadow nói, đưa tay lau lớp hơi nước đọng trên cửa sổ và trố mắt nhìn một dáng người ướt lướt thướt đang chạy vội trên vỉa hè. “Ngoài kia có gái kìa.” Shadow nuốt khan. Anh chợt nhận ra mình chưa hề khóc - thậm chí còn chẳng cảm thấy gì hết. Không nước mắt. Không đau buồn. Không gì hết. Anh bỗng nghĩ về một tay tên là Johnnie Larch, bạn cùng xà lim với anh khi anh mới vào tù. Hắn kể cho Shadow nghe chuyện sau năm năm ở tù hắn đã từng được thả với một trăm đô và một tấm vé đến Seattle, nơi chị hắn sống. Johnnie Larch đến sân bay, hắn đưa vé cho người phụ nữ ngồi ở quầy, và bà ta đòi xem bằng lái xe của hắn. Hắn đưa nó cho bà ta xem. Nó đã hết hạn mấy năm trước. Bà ta nói nó không thay được thẻ căn cước hợp lệ. Hắn nói nó có thể không phải là bằng lái hợp lệ, nhưng chắc chắn nó là thẻ căn cước hợp lệ, và chết tiệt, bà ta nghĩ hắn có thể là ai khác được, nếu không phải là chính hắn? Bà ta nói bà ta sẽ cảm ơn nếu hắn nhỏ giọng xuống. Hắn bảo bà ta phải đưa cái thẻ lên máy bay chết tiệt cho hắn ngay, không thì bà ta sẽ phải hối hận, và hắn sẽ không để mình bị sỉ nhục như thế. Trong tù ta không được để người khác sỉ nhục mình. Rồi bà ta ấn một cái nút, và vài phút sau an ninh sân bay xuất hiện, và họ cố thuyết phục Johnnie Larch yên lặng rời sân bay, nhưng hắn không muốn đi, và đã xảy ra xô xát. Kết quả là Johnnie Larch đã chẳng đến được Seattle và hắn dành mấy ngày tiếp theo ở các quán rượu trong thành phố, và khi tiêu hết một trăm đô thì hắn cướp một trạm xăng bằng một khẩu súng đồ chơi để lấy tiền nốc rượu tiếp, và cuối cùng cảnh sát bắt hắn vì tội tiểu bậy trên phố. Chẳng mấy chốc hắn đã bị tống trở lại nhà tù để ngồi nốt mấy năm còn lại và thêm mấy năm nữa cho vụ cướp trạm xăng. Và bài học của câu chuyện này, theo Johnnie Larch, là: đừng chọc giận đám nhân viên sân bay. “Mày có chắc nó không phải là gì đó đại loại như “Kiểu hành vi có tác dụng trong một môi trường đặc biệt, như là nhà tù, có thể không có tác dụng và thậm chí còn có tác hại khi được áp dụng bên ngoài môi trường đó chứ?” Shadow hỏi, sau khi Johnnie Larch kể xong chuyện. “Không, nghe tao đây, tao nói cho mà biết,” Johnnie Larch nói,“đừng có chọc giận mấy con mụ ở sân bay.” Shadow thoáng mỉm cười khi nhớ lại chuyện đó. Bằng lái của anh vẫn còn vài tháng nữa mới hết hạn. “Bến xe buýt! Tất cả xuống!” Bến xe nồng nặc mùi nước tiểu và bia chua lòm. Shadow trèo lên một chiếc taxi và bảo tài xế đưa anh đến sân bay. Anh cũng nói sẽ trả thêm năm đô nếu chuyến đi diễn ra trong im lặng. Họ đến nơi trong vòng hai mươi phút và tay tài xế không hề hé miệng. Rồi Shadow loạng choạng bước qua sảnh sân bay sáng rực. Anh hơi lo về vụ vé điện tử. Anh biết anh có vé cho chuyến bay vào thứ Sáu, nhưng anh không biết nó có dùng được vào hôm nay không. Đối với Shadow, bất kỳ cái gì điện tử cũng gần như là phép thuật và có thể bốc hơi bất kỳ lúc nào. Anh thích những thứ có thể cầm nắm được. Nhưng anh vẫn còn ví, đã trở về tay anh lần đầu tiên sau ba năm trời, trong đó có vài thẻ tín dụng đã hết hạn và một thẻ Visa mà anh sung sướng ngạc nhiên nhận ra vẫn còn hạn đến tận cuối tháng Một năm sau. Anh có số giữ chỗ. Và anh nhận ra, anh có cảm giác chắc chắn rằng khi anh về nhà, bằng cách nào đó, mọi chuyện sẽ ổn. Laura sẽ ổn. Có lẽ đây chỉ là trò bịp gì đó để lôi anh ra sớm vài ngày. Hoặc có lẽ là một nhầm lẫn đơn giản: thi thể của một Laura Moon nào khác đã được lôi ra khỏi đống đổ nát trên đường cao tốc. Chớp lòe lên bên ngoài sân bay, qua các bức tường kính. Shadow nhận ra mình đang nín thở, chờ đợi điều gì đó. Một tiếng sấm rền xa xăm. Anh thở ra. Một phụ nữ da trắng mệt mỏi nhìn anh từ sau quầy. “Xin chào,” Shadow nói. Chị là người phụ nữ lạ mặt đầu tiên bằng xương bằng thịt mà tôi nói chuyện cùng trong ba năm. “Tôi có số vé điện tử. Lẽ ra tôi sẽ bay vào thứ Sáu nhưng tôi phải đi hôm nay. Gia đình tôi có tang.” “Ừm. Tôi rất tiếc vì điều đó.” Chị ta gõ gõ bàn phím, nhìn màn hình, rồi lại gõ. “Không vấn đề gì. Tôi đã cho anh lên chuyến lúc ba rưỡi. Nó có thể bị hoãn vì cơn bão, nên anh để ý màn hình nhé. Có gửi hành lý gì không?” Anh giơ lên một chiếc túi đeo vai. “Tôi không cần gửi cái này chứ?” “Không,” chị ta đáp. “Không cần. Anh có căn cước ảnh không?” Shadow cho chị ta xem bằng lái. Rồi anh đảm bảo với chị ta là không có ai đưa anh bom đem lên máy bay đâu, và đáp lại, chị ta đưa anh một cái thẻ lên máy bay. Rồi anh đi qua máy quét kim loại, trong khi túi của anh thì đi qua máy soi sân bay. Sân bay không rộng lắm, nhưng số người lang thang khắp sân bay, chỉ lang thang thôi, khiến anh kinh ngạc. Anh quan sát mọi người thản nhiên bỏ túi xuống, nhét ví vào túi sau quần, túi xách đặt dưới gầm ghế mà chẳng cần canh chừng. Đó là lúc anh nhận ra mình không còn trong tù nữa. Còn ba mươi phút nữa mới đến giờ lên máy bay. Shadow mua một miếng pizza và bị bỏng môi vì lớp pho mát nóng. Anh đem tiền lẻ ra chỗ bốt điện thoại. Gọi Robbie ở trang trại Cơ Bắp, nhưng chỉ thấy máy trả lời tự động. “Này Robbie,” Shadow nói. “Người ta bảo tôi là Laura chết rồi. Họ thả tôi sớm. Tôi đang trên đường về nhà.” Rồi, vì đôi khi người ta vẫn nhầm lẫn, anh từng thấy chuyện đó xảy ra, anh gọi về nhà và nghe giọng nói của Laura. “Xin chào,” cô nói. “Hiện tôi không có nhà hoặc không nghe điện thoại được. Xin để lại lời nhắn và tôi sẽ gọi lại. Chúc một ngày tốt lành.” Shadow không thể bắt mình để lại lời nhắn. Anh ngồi xuống một cái ghế nhựa bên cổng lên máy bay và siết chặt túi đến mức tay anh đau điếng. Anh đang nhớ lại lần đầu tiên anh nhìn thấy Laura. Lúc ấy anh còn chưa biết tên cô. Cô là bạn của Audrey Burton. Anh đang ngồi với Robbie trong bàn riêng ở quán Chi-Chi, nói chuyện về một việc gì đó, chắc là chuyện một trong những huấn luyện viên vừa tuyên bố cô ấy đang mở lớp khiêu vũ riêng, thì Laura bước vào, đi sau Audrey một bước, và Shadow không thể rời mắt khỏi cô. Cô có mái tóc dài màu hạt dẻ và cặp mắt xanh biếc đến nỗi Shadow lầm tưởng cô đeo kính áp tròng màu. Cô gọi một ly daiquiri dâu và đã bắt Shadow nếm nó cho bằng được, rồi cười thích thú khi anh nếm thử. Laura rất thích mọi người nếm thử các đồ ăn thức uống mà cô đã nếm. Đêm đó anh đã hôn tạm biệt cô, và môi cô có vị như daiquiri dâu, và anh không muốn hôn ai khác nữa. Một phụ nữ báo đã đến giờ lên máy bay, và hàng ghế của Shadow được gọi đầu tiên. Anh ngồi ở dưới cùng, bên cạnh là một chiếc ghế trống. Mưa không ngừng lộp độp lên thân máy bay: anh tưởng tượng có những đứa trẻ đang ném từng vốc đậu khô từ trên trời xuống. Khi máy bay cất cánh, anh ngủ thiếp đi. Shadow đang ở một nơi tăm tối, và vật đang nhìn anh có cái đầu bò rừng, hôi hám, đầy lông, với cặp mắt khổng lồ ươn ướt. Thân mình của vật đó là thân người, bóng mượt dầu. “Đổi thay đang đến,” con bò rừng nói mà môi không nhúc nhích. “Anh sẽ phải đưa ra nhiều quyết định.” Ánh lửa bập bùng trên những vách hang ướt nước. . “Tôi đang ở đâu?” Shadow hỏi. “Trong lòng đất và dưới lòng đất,” người đầu bò nói. “Anh ở nơi những kẻ bị quên lãng đang chờ đợi.” Mắt người đó là hai viên bi lỏng đen thẳm, và giọng nói của ông ta rền vang từ dưới mặt đất. Ông ta có mùi bò ướt. “Hãy tin,” giọng rền vang nói. “Nếu anh muốn sống sót, anh phải tin.” “Tin cái gì?” Shadow hỏi. “Tôi phải tin cái gì?” Ông ta, người đầu bò đó, nhìn Shadow và vươn mình lên khổng lồ, lửa rừng rực trong mắt. Ông ta mở cái mõm bò rừng ngầu bọt ra và bên trong miệng đỏ rực vì những lưỡi lửa đang cháy bên trong ông ta, dưới lòng đất. “Tất cả mọi thứ,” người đầu bò gầm lên. Thế giới chao đảo ngả nghiêng, và Shadow lại đang trên máy bay; nhưng sự chao đảo vẫn tiếp tục. Ở đầu máy bay, một người phụ nữ khẽ ré lên lấy lệ. Chớp lóe lên chói mắt quanh khắp máy bay. Cơ trưởng lên tiếng qua loa thông báo là ông sẽ tìm cách nâng độ cao để tránh cơn bão. Máy bay rung lắc và rùng rùng, còn Shadow băn khoăn, thờ ơ và lạnh lùng, rằng có phải anh sắp chết không. Anh quyết định chuyện đó là có thể, nhưng ít có nguy cơ. Anh nhìn ra ngoài cửa sổ và ngắm chớp chiếu sáng cả đường chân trời. Rồi anh lại gà gật ngủ đi, và mơ anh lại đang ở trong tù, và Low Key đã thì thào với anh khi đứng xếp hàng lấy đồ ăn, là ai đó đã thuê người khử anh, nhưng Shadow không phát hiện ra được là ai hay tại sao; và khi anh tỉnh dậy thì họ đã bắt đầu hạ cánh. Anh loạng choạng xuống máy bay, chớp chớp mắt cho tỉnh hắn. Mọi sân bay nhìn đều như một, anh thầm nghĩ. Đã đến sân bay rồi thì ở đâu cũng thế cả: gạch lát sàn, lối đi bộ và nhà vệ sinh, cổng đáp máy bay, quầy bán báo và đèn neon. Cái sân bay này nhìn giống một sân bay. Chỉ có điều nó không phải là sân bay anh phải đến. Đây là một sân bay lớn, có quá nhiều người và quá nhiều cổng. Mọi người có cái vẻ đờ đẫn, rù ra mà ta chỉ thấy xuất hiện ở các sân bay và các nhà tù. Nếu Địa ngục là kẻ khác, Shadow nghĩ, thì Luyện ngục chính là các sân bay. “Xin lỗi chị?” Người phụ nữ nhìn anh qua cái bìa kẹp giấy. “Vâng?” “Đây là sân bay gì?” Chị ta bối rối nhìn anh để xem có phải anh đang đùa không, rồi chị ta đáp,“St. Louis.” “Tôi tưởng đây là chuyến bay đến Eagle Point.” “Đúng thế. Họ chuyển hướng nó đến đây vì mấy cơn bão. Họ không thông báo à?” “Chắc là có. Tôi ngủ quên mất.” “Anh cần nói chuyện với người đằng kia, mặc áo khoác đỏ ấy.” Người đàn ông đó cao gần bằng Shadow: nhìn ông ta giống một ông bố trong một bộ phim sitcom thời thập niên bảy mươi, và ông ta gõ gõ cái gì đó vào máy tính và bảo Shadow chạy - chạy nhanh! - đến cái cổng ở đầu bên kia của sảnh. Shadow chạy xuyên qua sân bay, nhưng cánh cửa đã khép lại khi anh đến được cổng. Anh nhìn chiếc máy bay rời khỏi cổng qua lớp kính. Rồi anh đến giải thích vấn đề của mình với cô tiếp viên ở cổng, và cô này dẫn anh tới bàn trợ giúp hành khách, ở đó Shadow giải thích rằng anh đang trên đường về nhà sau một thời gian dài và vợ anh vừa qua đời trong một tai nạn giao thông, và việc anh phải về nhà ngay bây giờ là cực kỳ hệ trọng. Anh không nhắc gì đến chuyện nhà tù. Người phụ nữ ở bàn trợ giúp hành khách (thấp bé, da nâu, bên cạnh mũi có nốt ruồi) hỏi một người phụ nữ khác và gọi một cú điện thoại (“Không, chuyến đó thôi rồi. Họ vừa hủy xong.”), rồi chị ta in ra một thẻ lên máy bay khác. “Chuyến này sẽ đưa anh tới đó,” chị ta nói. “Chúng tôi sẽ gọi điện tới cổng trước để họ biết anh đang đến.” Shadow cảm thấy mình như một hạt đậu đang bị chuyển giữa ba cái cốc hoặc một lá bài bị xáo trong bộ bài. Anh lại chạy qua sân bay, về đúng gần chỗ anh đã xuống máy bay lúc trước. Một người đàn ông nhỏ thó đứng ở cổng đón lấy thẻ lên máy bay của anh. “Chúng tôi đang đợi anh đấy,” anh ta nói, xé cuống thẻ lên máy bay, với số ghế của Shadow - 17D - in trên đó. Shadow vội vã lên máy bay và họ đóng cửa lại sau lưng anh. Anh đi qua khoang hạng nhất - chỉ có bốn ghế, ba ghế đã có người ngồi. Một người đàn ông có râu mặc bộ vét màu nhạt ngồi cạnh cái ghế trống ở ngay đầu toét miệng cười với Shadow khi anh lên máy bay rồi giơ cổ tay lên gõ gõ đồng hồ khi Shadow đi qua. Ừ, ừ, tôi làm ông bị muộn, Shadow thầm nghĩ. Cứ coi đó là nỗi lo lớn nhất của ông đi. Máy bay có vẻ khá kín chỗ trong khi anh đi dần xuống phía sau. Thật ra, như Shadow nhận thấy, nó đã hoàn toàn kín chỗ, và một phụ nữ trung niên đang ngồi ở ghế 17D. Shadow chìa cuống thẻ lên máy bay của mình cho bà ta, bà ta cũng chìa cuống thẻ của mình ra: chúng giống hệt nhau. “Anh làm ơn ngồi xuống được không ạ?” cô tiếp viên nói. “Không,” anh đáp. “Tôi e là không. Bà này đang ngồi chỗ của tôi rồi.” Cô ta chép miệng và kiểm tra thẻ lên máy bay của họ, rồi cô ta dẫn anh quay lại đầu máy bay và chỉ anh vào cái ghế trống ở khoang hạng nhất. “Có vẻ hôm nay là ngày may mắn của anh rồi,” cô ta nói. Shadow ngồi xuống. “Anh có muốn uống chút gì không? Vẫn kịp trước khi cất cánh đấy. Và tôi dám chắc anh sẽ cần uống một chút sau đó.” “Cho tôi xin một ly bia,” Shadow nói. “Loại gì cũng được.” Cô tiếp viên rời đi. Người đàn ông mặc bộ vét màu nhạt ngồi cạnh Shadow lại giơ tay lên và gõ gõ móng tay lên đồng hồ. Đó là một chiếc Rolex màu đen. “Anh đến muộn,” ông ta nói và lại toét miệng nở một nụ cười chẳng nồng ấm chút nào. “Ông nói sao?” “Tôi bảo là anh đến muộn.” Cô tiếp viên đem cho Shadow một ly bia. Anh nhấp một ngụm. Trong một thoáng, anh tự hỏi người đàn ông kia có bị điên không, rồi anh nghĩ chắc ông ta nói đến việc cả máy bay phải đợi một hành khách cuối cùng. “Xin lỗi vì tôi đã làm ông chậm trễ,” anh lịch sự nói. “Ông đang vội à?” Máy bay lùi khỏi cổng. Cô tiếp viên quay lại và lấy ly bia đã vơi một nửa của Shadow đi. Người đàn ông mặc bộ vét màu nhạt cười với cô ta và nói,“Đừng lo, tôi sẽ giữ chặt cái này,” và cô ta để lại ly rượu Jack Daniel của ông ta trong lúc yếu ớt phản đối rằng như vậy là trái với quy định của hãng. (“Việc đó thì để tôi phán xét, cô bé ạ.”) “Quả là thời gian rất quan trọng,” người đàn ông nói. “Nhưng không, tôi chẳng hề vội chút nào. Tôi chỉ lo anh không lên được máy bay.” “Ông thật tử tế.” Máy bay nằm bồn chồn trên đường băng, động cơ giần giật, ngứa ngáy muốn cất cánh. “Tử tế cái con tườu,” người mặc bộ vét màu nhạt nói. “Tôi có việc cho anh đây, Shadow.” Động cơ gầm lên. Cái máy bay nhỏ chồm tới trước, đẩy Shadow vào lưng ghế. Rồi họ bay lên không trung, và những ngọn đèn của sân bay chìm xuống bên dưới họ. Shadow nhìn người đàn ông ngồi cạnh anh. Ông ta có mái tóc đỏ đã ngả xám; bộ râu của ông ta, hơi dài hơn mức lởm chởm một tí, thì màu xám ánh đỏ. Ông ta nhỏ con hơn Shadow, nhưng dường như chiếm chỗ nhiều ghê gớm. Mặt ông ta vuông vức, rắn rỏi, với cặp mắt xám nhạt. Bộ vét nhìn đắt tiền, có màu như kem vani chảy. Cà vạt của ông ta bằng lụa xám, ghim cài hình một cái cây uốn bằng bạc: thân cây, cành cây, và bộ rễ cắm sâu. Ông ta cầm ly Jack Daniel trong lúc họ cất cánh, và không làm rớt một giọt. “Anh không định hỏi tôi là việc gì à?” ông ta hỏi. “Sao ông biết tên tôi?” Người đàn ông bật cười. “Ồ, biết tên người khác là việc dễ nhất trần đời. Chỉ cần nghĩ một chút, hên một chút, nhớ một chút. Hỏi tôi xem đó là việc gì đi.” “Không,” Shadow đáp. Cô tiếp viên đem cho anh một ly bia khác và anh nhâm nhi nó. “Sao không?” “Tôi đang trên đường về nhà. Tôi có công việc đợi sẵn ở đó rồi. Tôi không muốn việc gì khác.” Nụ cười lởm chởm của ông ta bề ngoài không hề thay đổi, nhưng giờ thì ông ta có vẻ vui thích thực sự. “Anh không có công việc đợi sẵn ở nhà đâu,” ông ta nói. “Anh chẳng có gì đợi anh ở nhà nữa. Trong khi đó tôi lại đang mời anh một công việc hoàn toàn hợp pháp - lương khá, ổn định, phúc lợi bổ sung đáng kể. Chết tiệt, nếu anh sống được lâu đến thế, tôi sẽ còn thêm vào cả lương hưu nữa ấy chứ. Nghĩ lại xem, biết đâu anh lại thích?” Shadow nói,“Chắc ông đã thấy tên tôi trên thẻ lên máy bay. Hoặc trên túi.” Người đàn ông không nói gì. “Dù ông là ai đi chăng nữa,” Shadow nói,“thì ông cũng không thể biết tôi sẽ lên cái máy bay này. Chính tôi còn không biết tôi sẽ lên cái máy bay này, và nếu chuyến bay của tôi không bị chuyển tới St. Louis thì tôi đã không có mặt ở đây rồi. Tôi đoán ông là người thích chơi khăm. Hoặc có lẽ ông đang bày trò lừa đảo gì đó. Nhưng tôi nghĩ sẽ tốt hơn nếu chúng ta kết thúc cuộc trò chuyện này ở đây.” Người đàn ông nhún vai. Shadow cầm cuốn tạp chí máy bay lên. Cái máy bay nhỏ xóc nẩy và chồm lên chồm xuống trên bầu trời, khiến anh càng khó tập trung. Những từ ngữ bồng bềnh qua tâm trí anh như bong bóng xà phòng, anh vừa đọc chúng xong, thì chỉ một giây sau là chúng đã hoàn toàn biến mất. Người đàn ông ngồi im lặng bên cạnh anh, nhâm nhi rượu Jack Daniel. Mắt ông ta nhắm nghiền. Shadow đọc danh sách các kênh âm nhạc có trên các chuyến bay vượt Đại Tây Dương, rồi anh xem tấm bản đồ thế giới có những đường màu đỏ chỉ các đường bay của hãng. Rồi anh đọc xong cuốn tạp chí và miễn cưỡng gập nó lại rồi bỏ nó vào cái hộc trên vách. Người đàn ông mở mắt ra. Mắt ông ta có gì đó hơi lạ, Shadow nghĩ vậy. Một bên màu xám sẫm hơn bên kia. Ông ta nhìn Shadow. “Mà này,” ông ta nói,“tôi rất tiếc về chuyện của vợ anh, Shadow ạ. Một mất mát lớn.” Khi ấy Shadow suýt nữa đã đấm ông ta. Thay vào đó, anh hít một hơi thật sâu. (“Như tao đã nói đấy, đừng chọc tức mấy con mụ sân bay,” tiếng Johnnie Larch vang lên trong đầu anh, “không thì chúng sẽ lôi cái xác khốn nạn của mày về đây trước khi mày kịp nhổ bọt.”) Anh đếm đến năm. “Tôi cũng vậy,” anh nói. Người đàn ông lắc đầu. “Giá mà có cách nào khác,” ông ta nói và thở dài. “Cô ấy mất vì tai nạn giao thông,” Shadow nói. “Cách ấy ra đi cũng nhanh. Cách khác có khi còn tệ hơn.” Người đàn ông chậm rãi lắc đầu. Trong thoáng chốc, Shadow thấy như ông ta không tồn tại, như thể máy bay đã trở nên thực hơn, còn người ngồi cạnh anh thì không còn thực nữa. “Shadow,” ông ta nói. “Đây không phải là trò đùa. Không phải lừa đảo. Tôi có thể trả anh hậu hơn bất kỳ công việc nào anh có thể tìm được. Anh có tiền án. Sẽ chẳng có nhiều người xếp hàng chen lấn đòi thuê anh đâu.” “Này ông, dù ông là thằng chết đâm chết chém nào đi chăng nữa,” Shadow nói, vừa đủ to để át tiếng ồn của động cơ,“tất cả tiền trên đời này cũng không đủ đâu.” Nụ cười của ông ta càng rộng hơn. Shadow chợt nhớ lại một chương trình của kênh PBS về loài tinh tinh mà anh đã xem khi còn là thiếu niên. Chương trình đó nói rằng khi đười ươi và tinh tinh cười thì đó là vì chúng chỉ muốn nhe răng với một vẻ mặt căm ghét, dọa dẫm, hoặc sợ hãi. Khi một con tinh tinh nhe răng, đó là một lời đe dọa. Nụ cười kia chính là như thế. “Chắc chắn là có đủ tiền chứ. Lại còn có thưởng nữa. Hãy làm việc cho tôi, và tôi sẽ nói cho anh biết nhiều thứ. Tất nhiên, sẽ có một chút nguy hiểm, nhưng nếu anh sống sót, anh sẽ muốn gì được nấy. Anh có thể trở thành vị vua tiếp theo của nước Mỹ. Nào,” người đàn ông nói,“còn ai có thể trả công cho anh hậu hĩnh đến thế? Hở?” “Ông là ai?” Shadow hỏi. “À, phải. Thời đại thông tin - cô bé ơi, cô có thể rót cho tôi một ly Jack Daniel nữa không? Ít đá thôi nhé - tất nhiên, làm gì có thời đại nào khác. Thông tin và tri thức: đây là những thứ không bao giờ hết đát.” “Tôi nói, ông là ai?” “Để xem nào. À, vì hôm nay chắc chắn là ngày của tôi - sao anh không gọi tôi là Wednesday? Ông Wednesday. Mặc dù xét theo thời tiết thì có lẽ phải là Thursday mới đúng, phải không nhỉ[*]?” “Tên thật của ông là gì?” “Nếu anh làm việc cho tôi đủ lâu và làm đủ tốt,” người đàn ông mặc bộ vét nhạt nói,“thì thậm chí tôi sẽ cho anh biết tên thật của tôi. Đó. Một lời đề nghị. Hãy suy nghĩ đi. Không ai đòi anh phải trả lời ngay khi vẫn chưa biết mình có đang nhảy vào một đầm cá hổ hay một chuồng gấu. Cứ từ từ.” Ông ta nhắm mắt lại và ngồi ngả ra trên ghế. “Tôi không nghĩ vậy,” Shadow nói. “Tôi không ưa ông. Tôi không muốn làm việc với ông.” “Như tôi đã nói đấy,” người đàn ông nói, không mở mắt, “đừng vội. Cứ từ từ.” Máy bay hạ cánh thịch một cái và một vài hành khách rời đi. Shadow nhìn ra cửa sổ: đó là một sân bay nhỏ ở giữa chốn khi họ cò gáy, và vẫn còn hai sân bay nữa mới đến Eagle Point. Shadow liếc nhìn người đàn ông mặc bộ vét màu nhạt - ông Wednesday? Ông ta có vẻ đang ngủ. Anh đứng dậy, xách lấy túi, và ra khỏi máy bay, đi xuống các bậc thang lên đường băng trơn ướt, rồi đều bước tiến về phía ánh đèn của sân bay. Màn mưa bụi phả vào mặt anh. Trước khi vào sân bay, anh dừng lại, quay đầu và quan sát. Không ai khác xuống máy bay cả. Đám nhân viên mặt đất đẩy cầu thang đi, cửa đóng lại, và máy bay lại cất cánh. Shadow nhìn nó chằm chằm cho đến khi nó cất cánh, rồi anh đi vào trong và thuê một chiếc xe mà khi ra đến bãi đỗ thì anh phát hiện ra một chiếc Toyota nhỏ màu đỏ. Shadow giở tấm bản đồ họ đã đưa cho anh ra. Anh trải nó lên ghế hành khách, Eagle Point cách đó chừng 400 cây số, hầu hết là đi đường cao tốc. Ba năm rồi anh không lái xe. Nếu những cơn bão có đến tận đây thì chúng cũng đã qua rồi. Trời lạnh và quang đãng. Mây bay dạt trước mặt trăng, và trong thoáng chốc, Shadow không chắc là mây hay mặt trăng đang chuyển động. Anh lái xe về phía Bắc suốt một tiếng rưỡi. Trời đã khuya rồi. Anh thấy đói, và khi nhận ra mình đang đói đến mức nào thì anh liền rẽ vào lối ra tiếp theo và đến thị trấn Nottamun (dân số: 1.301). Anh đổ xăng ở trạm xăng Amoco và hỏi người phụ nữ ủ ê ở quầy tính tiền xem quán bar được nhất nằm ở đâu - nơi anh có thể ăn cái gì đó. “Quán Cá Sấu của Jack,” chị ta bảo anh. “Nó ở phía Tây Hạt lộ N. ấy.” “Quán Cá Sấu ấy à?” “Ừ. Jack bảo nghe thế ngầu.” Chị ta vẽ bản đồ cho anh vào mặt sau một tờ rơi màu hoa cà, quảng cáo một bữa tiệc gà quay để quyên tiền ghép thận cho một bé gái. “Ở đó có mấy con cá sấu, một con rắn và một con kiểu thằn lằn to ấy.” “Kỳ đà à?” “Đúng rồi.” Đi xuyên qua thị trấn, qua một cây cầu, đi tiếp vài cây số nữa, rồi anh dừng lại ở một tòa nhà thấp hình chữ nhật với cái biển quảng cáo bia Pabst sáng đèn và một cái máy bán Coca Cola cạnh cửa. Bãi đỗ còn trống quá nửa. Shadow đỗ chiếc Toyota đỏ rồi đi vào bên trong. Bên trong mịt mù khói và bài “Walkin’ after Midnight” đang bật trên máy hát. Shadow nhìn quanh tìm cá sấu, nhưng chẳng thấy chúng đâu. Anh tự hỏi có phải người phụ nữ ở trạm xăng đã trêu anh không. “Anh dùng gì?” người phục vụ quầy hỏi. “Anh là Jack à?” “Đêm nay Jack nghỉ. Tôi là Paul.” “Chào Paul. Bia cỏ, và một burger với tất cả các thứ ăn kèm. Không khoai tây chiên.” “Khai vị bằng một bát thịt hầm ớt nhé? Ngon nhất bang đấy.” “Được,” Shadow nói. “Nhà vệ sinh ở đâu nhỉ?” Người phục vụ chỉ một cánh cửa ở góc quầy bar. Trên cửa có treo một cái đầu cá sấu nhồi bông. Shadow đi qua cửa. Nhà vệ sinh sạch sẽ, sáng sủa. Shadow nhìn quanh trước, do thói quen. (“Nhớ nhé, Shadow, đi đái thì không đánh lại được,” Low Key nói, vẫn khiêm nhường như mọi khi, trong đầu anh.) Anh chọn bồn vệ sinh ở bên trái. Rồi anh cởi khóa quần và đi tiểu một lúc lâu, nhẹ nhõm cả người. Anh đọc mẩu báo ố vàng dán ở ngang tầm mắt, có in hình Jack và hai con cá sấu. Có một tiếng dằng hắng lịch sự ở bồn vệ sinh sát bên phải anh, mặc dù anh không nghe thấy ai bước vào. Người đàn ông mặc bộ vét nhạt khi đứng nhìn to cao hơn là khi ngồi trên máy bay bên cạnh Shadow. Ông ta cao gần bằng Shadow, mà Shadow rất to con. Ông ta đang nhìn thẳng phía trước. Ông ta đi tiểu xong, vẩy nốt mấy giọt cuối và kéo khóa quần lên. Rồi ông ta nhe răng nhăn nhở như một con cáo già đang bắt gà qua hàng rào dây thép. “Thế đấy,” ông Wednesday nói,“anh đã có thời gian suy nghĩ, Shadow ạ. Anh có muốn làm việc cho tôi không?” ĐÂU ĐÓ TRÊN NƯỚC MỸ Los Angeles, 11:26 tối Trong một căn buồng màu đỏ sẫm - tường có màu gần như gan sống - là một người phụ nữ ăn vận lòe loẹt với chiếc quần soóc lụa quá chật, bộ ngực được nâng lên và đẩy tới trước bởi chiếc áo vàng buộc lại bên dưới. Mái tóc đen của ả được cuốn lên thành một búi cao trên đỉnh đầu. Đứng cạnh ả là một gã đàn ông thấp lùn, mặc áo phông màu ôliu và quần bò xanh đắt tiền. Trong tay phải gã cầm một cái ví và một chiếc điện thoại di động Nokia có mặt trước màu xanh, đỏ, và trắng. Căn buồng đó có một cái giường trải ga sa tanh trắng và chăn màu máu bò. Ở chân giường là một cái bàn gỗ nhỏ, trên đặt một bức tượng đá hình một người phụ nữ có bộ hông khổng lồ và một cái giá nến. Người phụ nữ kia đưa cho người đàn ông một cây nến nhỏ màu đỏ. “Đây,” ả nói. “Thắp lên đi.” “Tôi ấy à?” “Ừ,” ả đáp. “Nếu anh muốn có em.” “Lẽ ra tôi cứ bảo cô thổi kèn trong xe luôn đi cho rồi.” “Có lẽ,” ả nói. “Anh không muốn em ư?” Tay ả đưa dọc thân mình từ đùi lên ngực, một cử chỉ mời gọi, như thể ả đang giới thiệu một món hàng mới. Tấm khăn lụa đỏ phủ trên ngọn đèn ở góc phòng khiến anh sáng tỏa ra đỏ ối. Gã đàn ông thèm thuồng nhìn ả, rồi đón lấy cây nến và cắm vào giá. “Cô có lửa không?” Ả đưa cho gã một hộp diêm. Gã lấy ra một que, châm ngọn bấc: nó bập bùng rồi cháy lên một ngọn lửa đều đều, khiến bức tượng bên cạnh nó như đang chuyển động, toàn ngực và hông. “Để tiền xuống cạnh bức tượng.” “Năm mươi đô.” “Phải.” “Khi tôi nhìn thấy cô lần đầu, ở Sunset, tôi cứ tưởng cô là đàn ông.” “Nhưng em có cái này,” ả nói, cởi cái áo cánh vàng, thả rông bộ ngực. “Ngày nay nhiều thằng cũng có cái đó.” Á vươn vai và mỉm cười. “Phải,” ả nói. “Nào, giờ thì đến đây yêu em đi.” Gã cởi khuy quần bò và cởi chiếc áo phông xanh ôliu ra. Ả xoa bóp đôi vai trắng của gã bằng những ngón tay nâu bóng của mình; rồi ả xoay gã lại và bắt đầu ân ái với gã bằng bàn tay, ngón tay, và miệng. Gã thấy như ánh đèn trong căn buồng đỏ đã mờ đi, và nguồn sáng duy nhất là cây nến đang cháy với một ngọn lửa rực rỡ. “Tên cô là gì?” gã hỏi ả. “Bilquis,” ả ngẩng đầu lên đáp. “Nữ hoàng.” ” “Cái gì cơ? “Đừng để ý.” Giờ gã đã thở hổn hển. “Cho tôi phang cô,” gã nói. “Tôi phải phang cô mới được.” “Được rồi, cưng ạ,” ả nói. “Ta sẽ làm thế. Nhưng trong lúc đó anh làm việc này giúp em được không?” “Này,” gã nói, đột nhiên cáu bẳn,“tôi mới là người trả tiền cho cô cơ mà.” Bằng một động tác mềm mại, ả trườn lên người gã, thì thầm,“Em biết, cưng à, em biết, anh trả tiền cho em, và ý em là, nhìn anh kìa, lẽ ra em phải trả tiền cho anh mới phải, em thật là may mắn…” Gã mím môi, cố tỏ ra rằng mấy câu đưa đẩy kiểu gái gọi của ả chẳng có tác dụng gì với gã đầu, gã sẽ không bị lừa; ả chỉ là gái đứng đường mà, Chúa ơi, trong khi đó gã đã gần như là một giám đốc sản xuất rồi, gã biết thừa mấy trò kỳ kèo phút chót này, nhưng ả không đòi thêm tiền. Thay vào đó ả chỉ nói,“Cưng à, trong lúc mình yêu nhau, trong lúc anh đang đưa cái to đùng cứng ngắc ấy vào em, anh tôn thờ em được không?” “Gì cơ?” Ả uốn éo qua lại trên người gã: đầu dương vật cương cứng của gã cọ vào cửa mình ướt át của ả. “Anh gọi em là Nữ Thần được không? Anh cầu khấn em được không? Anh tôn thờ em bằng cơ thể anh được không?” Gã mỉm cười. Ả chỉ muốn vậy sao? “Được thôi,” gã nói. Chúng ta ai mà chẳng có vài thú quái đản. Ả thò tay vào giữa hai đùi và kéo cái của gã vào trong mình. “Thế này có tuyệt không hả Nữ Thần?” gã hổn hển nói. “Tôn thờ em đi, cưng à,” ả điếm Bilquis nói. “Được,” gã nói. “Tôi tôn thờ ngực và tóc và chỗ kín của nàng. Tôi tôn thờ đùi và mắt và đôi môi đỏ như anh đào của nàng… “Đúng rồi…” ả ngân nga, trong lúc vẫn cưỡi lên người hắn như một con thuyền cười lên sóng giữa bão tố. “Tôi tôn thờ núm vú của nàng, từ đó tuôn ra dòng sữa nguồn sống. Nụ hôn của nàng là mật ngọt và cái chạm của nàng là lửa đốt, và tôi tôn thờ chúng.” Lời nói của hắn đang trở nên nhịp nhàng hơn, hòa với nhịp đẩy và thúc của cơ thể họ. “Hãy đem tới cho tôi sự ham muốn của nàng vào buổi sáng, và cho tôi sự thanh thản và phúc lành vào buổi tối. Hãy để tôi được đi lại an toàn trong chốn tối tăm và cho tôi được đến với nàng lần nữa, nằm bên cạnh nàng và ân ái với nàng lần nữa. Tôi tôn thờ nàng bằng tất cả những gì trong tôi, và tất cả những gì trong tâm trí tôi, với tất cả những nơi tôi đã tới và giấc mơ của tôi và…” Gã ngừng lại, hổn hển lấy hơi. “Cô đang làm gì thế này? Cảm giác tuyệt quá. Tuyệt quá…” Và gã nhìn xuống hông, chỗ thân hình họ nối với nhau, nhưng ả ấn ngón tay lên cằm gã, đẩy gã nằm ngửa ra, để gã lại chỉ nhìn thấy mặt ả và trần nhà. “Nói tiếp đi, cưng,” ả nói. “Đừng dừng lại. Có sướng không?” “Sướng hơn bất kỳ thứ gì trên đời,” gã nói với ả, và gã nói thật. “Mắt nàng là những vì sao, cháy sáng trên, chết tiệt, trên bầu trời, và môi nàng là làn sóng dịu nhẹ liếm vào bờ cát, và tôi tôn thờ chúng.” Và giờ gã đang thọc vào sâu hơn, sâu hơn bên trong ả: gã cảm thấy rừng rực, như thể toàn bộ thân dưới đã được kích thích: cương cứng, căng phồng, mê đắm. “Cho tôi món quà của nàng,” gã lầm bầm, không còn biết mình đang nói gì nữa,“món quà chân chính của nàng, và xin cho tôi luôn được… luôn như thế này… tôi cầu xin… tôi…” Rồi khoái lạc lên đỉnh thành cực khoái, đẩy tâm trí gã vào hư vô, đầu óc, bản ngã và toàn bộ tồn tại của gã chỉ là một khối trống rỗng hoàn toàn trong lúc gã vẫn tiếp tục thọc vào ả sâu hơn và sâu hơn nữa… Mắt nhắm lại, người co giật, gã đắm mình trong khoảnh khắc đó; rồi gã bỗng thấy giật một cái, và gã đột nhiên thấy như mình đang treo lơ lửng, đầu lộn xuống đất, mặc dù khoái lạc vẫn còn. Gã mở mắt ra. Lấy lại suy nghĩ và lý trí, gã nghĩ về sự sinh nở, và tự hỏi, mà không hề sợ hãi, trong một khoảnh khắc tỉnh táo hoàn toàn sau cuộc giao cấu, có phải cái gã đang nhìn thấy chỉ là ảo ảnh không. Cái gã nhìn thấy là thế này: Gã đang ở trong người ả, lút đến tận ngực, và trong lúc gã trố mắt nhìn cảnh tượng này vẻ kinh ngạc và sững sờ, thì ả đặt cả hai tay lên vai gã và nhè nhẹ ấn lên người gã. Gã trượt vào sâu hơn bên trong ả. “Sao cô lại làm được như thế với tôi?” gã hỏi, hoặc gã nghĩ là mình đã hỏi, nhưng có lẽ câu đó chỉ ở trong đầu gã thôi. “Chính anh đang làm đấy chứ, cưng,” ả thì thầm. Gã cảm thấy hai mép âm hộ của ả bóp quanh ngực và lưng gã, siết chặt và bao bọc lấy gã. Gã tự hỏi cảnh này sẽ trông như thế nào với một người đứng ngoài nhìn. Gã tự hỏi tại sao gã không thấy sợ. Rồi gã chợt hiểu ra. “Tôi tôn thờ nàng bằng cơ thể tôi,” gã thì thào, trong lúc ả ấn gã vào trong người mình. Mép âm hộ của ả kéo trơn tuột qua mặt gã, rồi mắt gã chìm vào bóng tối. Ả vươn mình trên giường như một con mèo khổng lồ, rồi ả ngáp dài. “Đúng,” ả nói. “Ngươi đã làm thế.” Cái điện thoại Nokia kêu ré lên một phiên bản điện tử the thẻ của bài “Khải Hoàn Ca”. Ả cầm điện thoại lên, ấn một phím, rồi đưa điện thoại lên tai. Bụng ả phẳng lì, môi âm đạo nhỏ và kín. Một lớp mồ hôi lấp lánh trên trán và môi trên của ả. “A lô?” ả nói. Rồi ả nói,“Không cưng à, anh ta không có đây. Anh ta đi rồi.” Ả tắt điện thoại đi rồi nằm ngả ra trên cái giường trong căn buồng màu đỏ sẫm, ả vươn vai một lần nữa, rồi nhắm mắt lại và ngủ. ©Facebook Group: We Love Ebook, mời các bạn tham gia Nhóm để tải nhiều sách hơn nữa! CHƯƠNG HAI Họ đưa nàng đến nghĩa địa Trên một chiếc Cadillac Họ đưa nàng đến nghĩa địa Nhưng họ chẳng đưa nàng về. - Bài hát xưa “T ôi đã tự tiện,” ông Wednesday nói trong lúc rửa tay ở nhà vệ sinh tại quán Cá Sấu của Jack,“gọi món cho tôi và bảo họ đem đến bàn của anh. Dù sao thì chúng ta cũng có nhiều điều cần bàn bạc.” “Tôi không nghĩ vậy,” Shadow nói. Anh lau tay bằng khăn giấy, vò nát cái khăn và thả nó vào thùng rác. “Anh cần việc làm,” Wednesday nói. “Người ta không thuê người có tiền án. Mấy người như anh khiến họ không thoải mái.” “Tôi đã có việc đợi sẵn rồi. Một công việc tử tế.” “Có phải là việc ở trang trại Cơ Bắp không?” “Chắc thế,” Shadow đáp. “Không. Không còn đâu. Robbie Burton chết rồi. Không còn anh ta thì trang trại Cơ Bắp cũng chết luôn.” “Ông là đồ nói dối.” “Tất nhiên rồi. Và nói dối rất giỏi nữa. Người nói dối giỏi nhất anh từng gặp. Nhưng tôi e là việc này thì tôi không nói dối anh đâu.” Ông ta thò tay vào túi rút ra một tờ báo gập lại, và đưa nó cho Shadow,“Trang bảy,” ông ta nói. “Quay lại quầy bar đi. Anh có thể đọc nó ở bàn.” Shadow đẩy cửa quay về quầy bar. Không khí xanh lè khói, và máy hát đang bật bài “Iko Iko” của nhóm Dixie Cups. Shadow thoáng mỉm cười khi nhận ra bài hát thiếu nhi ngày xưa. Tay phục vụ quầy chỉ một cái bàn ở góc. Có một bát thịt hầm ớt và một cái burger đặt ở một bên bàn, còn ở phía đối diện là một miếng bít tết tái và một bát khoai tây chiên. Kìa trông đức vua mặc toàn đồ đỏ Iko Iko suốt cả ngày Cá năm đô ngài sẽ cho mày về chầu ông tổ Jockamo-feena-nay Shadow ngồi xuống bàn. Anh đặt tờ báo xuống. “Tôi vừa mới ra tù sáng nay,” anh nói. “Đây là bữa ăn đầu tiên với tư cách là người tự do của tôi. Ông không phản đối nếu tôi ăn xong rồi mới đọc trang số bảy của ông chứ?” “Hoàn toàn nhất trí.” Anh ăn cái bánh burger. Nó ngon hơn bánh burger trong tù. Thịt hầm ớt cũng ngon, nhưng sau vài miếng thì anh nghĩ nó không đến mức ngon nhất bang. Laura nấu món thịt hầm ớt cực ngon. Cô dùng thịt nạc, đậu tây đỏ, cà rốt thái nhỏ, khoảng một chai bia đen và ớt tươi thái lát. Cô sẽ hầm thịt một hồi lâu, rồi thêm vào rượu vang đỏ, nước chanh và một nhúm thì là tươi, rồi cuối cùng mới đong đo và bỏ ớt bột vào. Không chỉ một lần Shadow đã cố dụ cô chỉ cho anh cách nấu: anh quan sát mọi việc cô làm, từ thái hành và bỏ hành vào xào với dầu ôliu ở đáy nồi. Anh thậm chí còn ghi lại trình tự thao tác, từng nguyên liệu một, và một lần, vào một dịp cuối tuần khi cô đi vắng, anh đã tự nấu cho mình món thịt hầm ớt của Laura. Ăn tạm được - chắc chắn là nuốt trôi, nhưng nó không phải là món thịt hầm ớt của Laura. Bản tin trên trang số bảy là bản tường thuật đầu tiên về cái chết của vợ anh mà Shadow đọc được. Cảm giác thật kỳ lạ, như thể anh đang đọc về một nhân vật nào đó trong một câu chuyện: Laura Moon, mà bài báo viết là hai mươi bảy tuổi, và Robbie Burton, ba mươi chín, đang ở trong xe của Robbie trên đường cao tốc liên bang thì đột ngột tạt đầu một chiếc xe công ba mươi hai bánh, nó đã đâm vào hông xe họ khi cố gắng chuyển làn để tránh. Chiếc xe tải xô vào xe của Robbie làm nó quay tròn bay vào vệ đường, đâm vào một cái biển báo ở đó, đâm mạnh và dừng lại. Đội cứu hộ đã đến hiện trường trong vài phút. Họ kéo Robbie và Laura ra khỏi đống đổ nát. Khi họ đến được bệnh viện thì cả hai đều đã chết. Shadow gập tờ báo lại và đẩy nó qua bàn về phía Wednesday, đang phồng mang ăn miếng bít tết còn máu me sống nhăn đến nỗi hình như chưa bao giờ được đưa qua lửa bếp. “Đây. Trả lại ông,” Shadow nói. Robbie là người cầm lái. Chắc hẳn anh ta say, mặc dù bài báo không nhắc đến chuyện đó. Shadow bỗng thấy mình tưởng tượng ra khuôn mặt Laura khi cô nhận ra Robbie quá say để lái xe. Cảnh tượng hiện ra trong tâm trí anh, và anh chẳng thể làm gì để ngăn nó lại: Laura gào lên với Robbie, bảo anh ta dừng xe lại, rồi tiếng xe đập vào xe tải, và vô lăng vặn đi… … rồi chiếc xe bên vệ đường, kính vỡ lấp lánh như băng và kim cương dưới ánh đèn pha, máu đọng như hồng ngọc trên mặt đường bên cạnh chúng. Hai thân thể, đã chết hoặc sắp chết, được đưa ra khỏi đống đổ nát, hoặc được đặt ngay ngắn bên vệ đường. “Thế nào?” ông Wednesday hỏi. Ông ta đã ăn xong miếng bít tết, xắt nhỏ và ngốn ngấu như người chết đói. Giờ ông ta đang nhấm nháp khoai tây chiên, xiên chúng bằng chiếc dĩa. “Ông nói đúng,” Shadow nói. “Tôi thất nghiệp rồi.” Shadow lấy một đồng hai lăm xu trong túi ra, mặt sấp lên trên. Anh tung nó lên không trung, dùng ngón tay để gảy nó lên khiến nó hơi lảo đảo như thể đang xoay, rồi bắt lấy nó và úp lên mu bàn tay mình. “Đoán đi,” anh nói. “Tại sao?” Wednesday hỏi. “Vì tôi không muốn làm việc cho người xúi quẩy hơn tôi. Đoán đi.” “Ngửa,” ông Wednesday nói. “Xin lỗi,” Shadow nói mà không buồn nhìn đồng xu. “Là mặt sấp. Tôi đã ăn gian trong lúc tung.” “Mấy trò ăn gian là dễ xử nhất đấy,” Wednesday nói, phe phẩy một ngón tay vuông vức trước mặt Shadow. “Nhìn lại nó xem.” Shadow liếc nhìn đồng xu. Mặt ngửa đang ở trên. “Chắc tôi tung hỏng,” anh bối rối nói. “Anh tự hạ thấp mình đấy,” Wednesday nói, rồi ông ta lại toét miệng cười. “Tôi chỉ cực kỳ, cực kỳ may mắn mà thôi.” Rồi ông ta ngước lên. “Thật không ngờ. Sweeney Điên. Làm một ly với chúng tôi chứ?” “Southern Comfort pha với Coca, không đá,” một giọng nói vang lên sau lưng Shadow. “Để tôi đi bảo với phục vụ,” Wednesday nói. Ông ta đứng dậy và đi về quầy bar. “Ông không định hỏi tôi uống gì à?” Shadow gọi với theo. “Tôi đã biết anh sẽ uống gì rồi,” Wednesday nói, rồi ông ta đến đứng bên quầy bar. Trên máy hát, Patsy Cline lại đang hát bài “Walkin’ after Midnight”. Kẻ uống Southern Comfort với Coca ngồi xuống cạnh Shadow. Y có bộ râu ngắn hung hung đỏ. Y mặc một chiếc áo khoác vải thô khâu đầy những mảnh vá màu sắc sặc sỡ, và bên dưới là một chiếc áo phông trắng ố bẩn. Chiếc áo phông có in dòng chữ: NẾU KHÔNG ĂN NÓ, UỐNG NÓ, HÚT NÓ HAY HÍT NÓ ĐƯỢC… THÌ ĐM NÓ! Y còn đội một chiếc mũ lưỡi trai có in dòng chữ: NGƯỜI PHỤ NỮ DUY NHẤT TÔI YÊU LÀ VỢ THẰNG KHÁC… MẸ TÔI! Y bóc một gói thuốc lá Lucky Strikes bằng móng tay cái cáu bẩn, rút ra một điếu thuốc, chìa một điếu cho Shadow. Shadow suýt nữa đã tự động đón lấy điếu thuốc - anh không hút, nhưng thuốc lá là món hàng đổi chác tiện lợi - rồi anh chợt nhớ ra mình không còn trong tù nữa. Giờ anh có thể mua thuốc lá bất cứ lúc nào mình muốn. Anh lắc đầu. “Vậy mày làm việc cho lão già hả?” người có râu hỏi. Y không còn tỉnh táo nữa, nhưng cũng chưa say hẳn. “Có vẻ thế,” Shadow đáp. “Thế còn anh làm gì?” Người có râu châm thuốc. “Tao là thần lùn[*],” y nhe răng cười nói. Shadow không cười. “Thật à?” anh nói. “Vậy anh phải uống bia Guinness mới đúng chứ?” “Vơ đũa cả nắm. Mày phải học cách suy nghĩ thoáng ra,” người có râu nói. “Ở Ireland còn nhiều thứ khác ngoài Guinness.” “Anh không có giọng Ireland.” “Tao ở đây lâu con mẹ nó quá rồi.” “Vậy anh đến từ Ireland?” “Tao đã bảo rồi. Tao là thần lùn mà. Bọn tao đếch có đến từ Moscow!” “Chắc là không.” Wednesday quay về bàn, ôm ba ly rượu dễ dàng trong đôi bàn tay to tướng. “Southern Comfort pha Coca cho anh, anh bạn Sweeney của tôi, và một ly Jack Daniel cho tôi. Còn đây là cho anh, Shadow.” “Cái gì thế?” “Nếm thử đi.” Ly rượu có màu vàng nâu sóng sánh. Shadow nhấp một ngụm, cảm thấy một vị pha trộn lạ lùng giữa chua và ngọt trên lưỡi. Anh cảm thấy vị rượu bên dưới, và một sự lẫn lộn kỳ quặc các vị. Anh thấy nó hơi giống rượu lậu trong tù, ủ trong một cái túi rác bằng hoa quả ủng, bánh mì, đường và nước, nhưng cái món này mướt hơn, ngọt hơn và kỳ lạ hơn vô kể. “Được rồi,” Shadow nói. “Tôi đã nếm rồi. Nó là cái gì?” “Rượu mật,” Wednesday đáp. “Rượu nấu bằng mật. Thức uống của các anh hùng. Thức uống của các vị thần.” Shadow ngập ngừng nhập thêm một ngụm nữa. Phải, anh có nếm thấy vị mật ong. Đó là một trong các vị của ly rượu. “Có vị giống nước dưa muối,” anh nói. “Như rượu ngọt pha nước dưa muối.” “Vị như nước đái của một thằng tiểu đường say rượu ấy,” Wednesday đồng tình. “Tôi ghét đặc nó.” “Thế sao ông lại bắt tôi uống?” Shadow hỏi đầy hợp lý. Wednesday nhìn Shadow bằng cặp mắt lệch màu. Shadow nghĩ một bên mắt của ông ta là mắt giả, nhưng anh không biết là bên nào. “Tôi cho anh uống rượu mật vì đây là truyền thống. Và giờ chúng ta cần tất cả mọi truyền thống có thể tìm được. Nó sẽ chứng thực giao kèo của chúng ta.” “Chúng ta đã có giao kèo gì đâu.” “Rồi chứ. Giờ anh làm việc cho tôi. Anh bảo vệ tôi. Anh giúp tôi. Anh đưa tôi đi các nơi. Thỉnh thoảng anh điều tra - đi đây đó hỏi han cho tôi. Anh chạy việc cho tôi. Trong trường hợp khẩn cấp, nhưng chỉ là trường hợp khẩn cấp thôi, anh đánh những kẻ cần đánh. Trong trường hợp khó xảy ra là tôi chết, anh sẽ làm lễ vọng cho tôi. Và đổi lại, tôi sẽ đảm bảo lo tươm tất mọi nhu cầu của anh.” “Lão đang lừa mày đấy,” Sweeney Điên nói, xoa xoa bộ râu hung đỏ bờm xờm. “Lão là đồ lừa đảo.” “Chuẩn mẹ nó rồi, tôi đúng là đồ lừa đảo,” Wednesday nói. “Chính vì thế tôi mới cần người trông chừng cho tôi.” Bài hát trên máy hát kết thúc, và trong chốc lát, cả quán chìm vào im lặng, mọi cuộc trò chuyện đều tạm lắng. “Có người bảo tôi rằng những khoảnh khắc mọi-người-đều im-lặng như thế chỉ xảy ra vào lúc kém hoặc quá hai mươi phút,” Shadow nói. Sweeney chỉ cái đồng hồ trên quầy bar, đặt trong bộ hàm khổng lồ và thờ ơ của một cái đầu cá sấu nhồi bông. Đang là mười một giờ hai mươi phút. “Đấy,” Shadow nói. “Nhưng vì sao lại thế thì tôi chịu.” “Tôi biết tại sao đấy,” Wednesday nói. “Sao ông không nói cho mọi người cùng biết?” “Một ngày nào đó tôi sẽ nói cho anh. Hoặc có thể không. Uống rượu mật đi.” Shadow một hơi uống cạn chỗ rượu còn lại. “Uống với đá có lẽ ngon hơn,” anh nói. “Chưa chắc,” Wednesday nói. “Nó kinh lắm.” “Đúng thế,” Sweeney Điên nói. “Xin quý vị thứ lỗi, nhưng tôi đang thấy hết sức cần đi đái một phát thật lâu.” Y đứng dậy và rời đi, người cao nghều ngoào. Chắc y phải cao hơn hai mét, Shadow nghĩ. Một cô bồi bàn lấy khăn lau bàn và đem đĩa không của họ đi. Cô đổ cái gạt tàn của Sweeney và hỏi họ có muốn gọi thêm đồ uống không. Wednesday bảo cô ta đem một chầu tương tự ra cho họ, chỉ khác là thêm đá vào rượu mật của Shadow. “Thế đấy,” Wednesday nói,“đấy là những thứ tôi cần ở anh, nếu anh làm cho tôi. Mà tất nhiên là anh đang làm cho tôi rồi.” “Đấy là thứ ông muốn,” Shadow nói. “Thế ông không muốn biết tôi cần gì ư?” “Thật không gì khiến tôi mong muốn hơn.” Cô bồi bàn đem rượu đến. Shadow nhấp ly rượu mật thêm đá. Đá không làm rượu ngon hơn - thậm chí nó còn làm vị chua gắt hơn và khiến vị đó đọng lại trong miệng sau khi rượu đã được nuốt xuống. Tuy thế, Shadow tự an ủi mình là rượu cũng không mạnh lắm. Anh không muốn say. Chưa đến lúc. Anh hít một hơi thật sâu. “Được rồi,” Shadow nói. “Cuộc đời tôi, mà trong ba năm vừa qua đã chẳng tốt đẹp gì, giờ thì rành rành là đã rẽ sang một hướng còn tồi tệ hơn. Giờ có một vài việc tôi cần làm. Tôi muốn về dự đám tang Laura. Tôi muốn từ biệt cô ấy. Sau đấy, nếu ông vẫn cần tôi, tôi muốn lương khởi điểm là năm trăm đô một tuần.” Anh chỉ tung ra một con số hú họa thế thôi. Mắt Wednesday không để lộ bất kỳ điều gì. “Nếu chúng ta làm việc hợp nhau thì trong vòng sáu tháng ông phải tăng lên thành một ngàn một tuần.” Anh ngừng lại. Đó là bài nói dài nhất của anh suốt mấy năm nay. “Ông nói ông cần đánh người. Tôi sẽ đánh người nếu họ tìm cách làm hại ông. Nhưng tôi sẽ không đánh người cho vui hay vì tiền. Tôi sẽ không quay lại nhà tù. Một lần là quá đủ rồi.” “Anh sẽ không phải quay lại nhà tù,” Wednesday nói. “Không,” Shadow nói. “Tôi sẽ không làm thế.” Anh uống nốt chỗ rượu mật. Đột nhiên anh tự hỏi, đâu đó trong tâm trí, liệu có phải thứ rượu mật này đã khiến anh bạo miệng hơn không. Những lời nói cứ tuôn ra khỏi miệng anh như nước phun ra từ vòi cứu hỏa bị hỏng giữa mùa hè, và dù có muốn anh cũng không thể dừng chúng lại. “Tôi không ưa ông, ông Wednesday hay bất kể tên thật ông là gì đi chăng nữa. Chúng ta không phải bạn. Tôi không biết làm sao ông xuống được máy bay mà tôi không nhìn thấy, hay làm sao ông bám theo tôi đến đây. Nhưng tôi bị ấn tượng đấy. Ông cũng được phết đấy. Và ngay lúc này tôi lại chẳng có việc gì để làm. Khi nào xong việc là tôi sẽ biến. Và nếu ông chọc tức tôi, tôi cũng sẽ biến. Từ giờ đến lúc đó, tôi sẽ làm việc cho ông.” Wednesday toét miệng cười. Shadow nghĩ, nụ cười của ông ta thật là kỳ lạ. Chúng không hề có tí hóm hỉnh nào, không chút hạnh phúc, không chút đùa vui. Cứ như là Wednesday đã học cách cười trong sách. “Tốt lắm,” ông nói. “Vậy là chúng ta có giao kèo. Và chúng ta nhất trí.” “Cứ cho là thế đi,” Shadow nói. Phía bên kia quán, Sweeney Điên đang nhét mấy đồng hai lăm xu vào máy hát. Wednesday nhổ vào lòng bàn tay và chìa tay ra. Shadow nhún vai. Anh cũng nhổ vào lòng bàn tay. Họ bắt tay. Wednesday siết chặt tay anh. Shadow cũng siết lại. Sau vài giây, tay anh bắt đầu đau. Wednesday giữ tay anh thêm một lúc nữa rồi mới buông ra. “Tốt,” ông ta nói. “Tốt. Rất tốt.” Ông ta mỉm cười, rất nhanh, còn Shadow phân vân liệu có phải có một vẻ hài hước thực sự trong nụ cười đó, một vẻ thỏa mãn thực lòng. “Vậy thì hãy uống một ly rượu mật kinh tởm lộn mề cuối cùng nữa để chứng thực giao kèo của chúng ta, và thế là xong.” “Tôi thì sẽ uống một ly Southern Comfort với Coca,” Sweeney nói, lảo đảo quay về từ chỗ cái máy hát. Máy hát bắt đầu bật bài “Who Loves the Sun?” của nhóm Velvet Underground. Shadow nghĩ bài đó cũng có trên máy hát thì thật là lạ. Thật là khó mà tin được. Nhưng cả buổi tối hôm nay đã mỗi lúc một kỳ lạ hơn rồi. Shadow nhặt từ trên bàn đồng xu anh vừa tung lúc nãy, tận hưởng cảm giác của một đồng xu mới đúc trên những ngón tay mình, giơ nó ra kẹp giữa ngón trỏ và ngón cái bên tay phải. Anh giả vờ chuyền nó sang tay trái bằng một động tác uyển chuyển, nhưng thực ra lại bình thản giấu nó vào giữa những ngón tay. Anh nắm tay trái lại quanh đồng xu tưởng tượng. Rồi anh lấy một đồng xu thứ hai trên tay phải, kẹp giữa ngón trỏ và ngón cái, và khi giả vờ thả đồng xu này vào tay trái, anh thả đồng xu giấu trong tay trái vào tay phải, đụng vào đồng xu anh vẫn giữ ở đó. Tiếng cách khẽ khiến người khác tưởng cả hai đồng xu đều ở trong tay trái anh, trong khi thực ra chúng đều được nắm chắc trong tay phải anh. “Ảo thuật bằng đồng xu à?” Sweeney hỏi, cằm hếch lên, bộ râu rối bù xù ra. “Nếu là ảo thuật bằng đồng xu thì xem đây.” Y lấy một cái cốc rỗng trên bàn, vừa nãy đựng rượu mật. Rồi y thò tay ra rút một đồng xu to, vàng chóe, từ không khí. Ý thả nó vào cái cốc. Y rút một đồng xu vàng khác từ không khí và thả nó vào cái cốc, nó leng keng đập vào đồng xu đầu tiên. Y rút một đồng xu khác từ ngọn lửa của cây nến trên tường, một đồng nữa từ trong bộ râu, một đồng thứ ba từ bàn tay trái trống không của Shadow, và thả chúng, từng đồng một, vào cái cốc. Rồi y chụm ngón tay trên cái cốc, thổi mạnh, và mấy đồng xu nữa rơi từ tay y vào cái cốc. Y đổ cái cốc đầy xu dính ướt vào túi áo, rồi đập đập túi áo để thấy rõ là nó trống không, không thể nhầm lẫn được. “Đó,” y nói. “Đó mới là ảo thuật bằng đồng xu.” Shadow, đang quan sát chăm chú từ nãy đến giờ màn trình diễn bất ngờ, ngoẹo đầu sang bên. “Ta phải nói về chuyện này.” anh bảo. “Tôi cần biết anh đã làm như thế nào.” “Tao đã làm,” Sweeney nói, như đang tiết lộ một bí mật khủng khiếp,“một cách đầy khoa trương và kiểu cách. Tao đã làm như thế đấy.” Y cười không thành tiếng, đu đưa người trên gót chân, nhe ra hàm răng nham nhở. “Ừ,” Shadow nói. “Anh đã làm như thế. Anh phải dạy tôi. Trong tất cả những cách làm trò biến đồng xu từ không khí mà tôi đã đọc, thì anh sẽ giấu xu trong bàn tay cầm cốc và thả chúng vào đó trong khi anh giơ đồng xu ra và làm chúng biến mất trong tay phải.” “Nghe vất vả quá,” Sweeney Điên nói. “Nhặt chúng từ không khí ra dễ hơn nhiều.” Y cầm lên cái ly Southern Comfort và Coca uống dở, nhìn vào trong, rồi đặt nó lại lên bàn. Wednesday nhìn chằm chằm cả hai người như thể ông ta vừa phát hiện ra những dạng sống mới trước đó không thể hình dung nổi. Rồi ông ta nói. “Rượu mật cho anh, Shadow. Tôi sẽ trung thành với ngài Jack Daniel, còn gã Ireland ăn bám kia thì…?” “Một chai bia, loại gì đậm đậm ấy,” Sweeney nói. “Ăn bám hả?” Y cầm ly rượu còn thừa giơ lên với Wednesday như để nâng cốc mừng. “Cầu cho cơn bão đi qua mà chúng ta vẫn khỏe mạnh và không hề hấn gì,” y nói và nốc cạn ly rượu. “Một lời chúc rất hay,” Wednesday nói. “Nhưng sẽ không như thế đâu.” Một ly rượu mật nữa được đặt trước mặt Shadow. “Tôi phải uống hết chỗ này à?” “E là vậy. Nó sẽ chứng thực giao kèo của chúng ta. Quá tam ba bận, nhỉ?” “Chết tiệt,” Shadow nói. Anh nốc cạn ly rượu mật bằng hai ngụm to. Vị dưa muối pha mật tràn khắp miệng anh. “Đó,” Wednesday nói. “Giờ anh là người của tôi rồi.” “Thế,” Sweeney nói,“mày có muốn biết cách làm trò đó không?” “Có,” Shadow đáp. “Anh giấu chúng trong tay áo à?” “Chúng không bao giờ ở trong tay áo tao,” Sweeney nói. Y cười khùng khục một mình, lắc lư và nhún nhảy như một quả núi lửa râu ria cao nghều đang sắp nổ tung vì vui thích với tài khéo của chính mình. “Đó là trò đơn giản nhất trên đời. Mày đánh tao mà thắng thì tao sẽ mách cho.” Shadow lắc đầu. “Tôi xin kiếu.” “Thế có hay không cơ chứ,” Sweeney nói với cả quán. “Lão già Wednesday đã kiếm được một thằng vệ sĩ mà hắn lại nhát cáy đến độ không dám giơ nắm đấm lên.” “Tôi sẽ không đánh anh đâu,” Shadow nhắc lại. Sweeney lảo đảo, đổ mồ hôi. Y loay hoay với cái lưỡi trai trên mũ. Rồi y rút một đồng xu từ không khí và đặt nó lên bàn. “Vàng thật đấy, nếu mày còn băn khoăn,” Sweeney nói. “Dù thắng hay thua - và mày sẽ thua - nó cũng sẽ là của mày, miễn là mày đấu với tạo. Một thằng to con như mày - ai lại nghĩ mày là thằng hèn chứ?” “Anh ta đã nói anh ta sẽ không đấu với anh rồi!” Wednesday nói. “Đi đi, Sweeney Điên. Cầm chai bia ra chỗ khác đi, để chúng tôi yên.” Sweeney bước lại gần Wednesday. “Gọi tao là đồ ăn bám à, thằng già khốn khổ kia? Thằng già treo cây máu lạnh, không tim kia.” Mặt y đang đỏ tía lên giận dữ. Wednesday chìa tay ra, lòng bàn tay ngửa lên trên vẻ cầu hòa. “Thật ngu ngốc, Sweeney. Coi chừng lời nói của anh đấy.” Sweeney trừng mắt nhìn ông ta. Rồi y nói với vẻ nghiêm trang của kẻ say khướt,“Ông đã thuê một thằng hèn. Ông nghĩ hắn sẽ làm gì nếu tôi đánh ông?” Wednesday quay sang Shadow. “Tôi chán lắm rồi,” ông ta nói. “Xử hắn đi.” Shadow đứng dậy và ngước lên nhìn mặt Sweeney Điên. Y cao bao nhiêu? anh tự hỏi vậy. “Anh đang làm phiền chúng tôi,” anh nói. “Anh say rồi. Tôi nghĩ anh nên đi đi.” Một nụ cười từ từ nở ra trên mặt Sweeney. “Thế đấy,” y nói. “Như một con chó ăng ẳng, cuối cùng cũng dám chiến. Này mọi người,” y lớn tiếng nói với cả phòng,“sắp có đứa lĩnh bài học đây này. Nhìn đây!” Y vung nắm đấm to tướng vào Shadow. Shadow nhảy bật ra sau: tay Sweeney đã đập trúng dưới mắt phải anh. Anh nổ đom đóm mắt và thấy đau nhói. Và thế là cuộc đấu bắt đầu. Sweeney đánh không có phong cách hay kỹ thuật gì hết, chẳng có gì ngoài sự hào hứng dành cho chính cuộc đấu: tung ra những đòn phủ đầu cực mạnh nhưng đấm trượt cũng nhiều ngang với đấm trúng. Shadow đánh giữ thế, thận trọng, gạt hoặc tránh đòn của Sweeney. Anh nhận thức rất rõ là họ đang có khán giả. Bàn được kéo ra xa với những tiếng kêu ca phản đối, lấy chỗ cho họ so nắm đấm. Shadow cũng luôn ý thức được cặp mắt của Wednesday đang dán vào mình, và nụ cười không chút hài hước của Wednesday. Đây là một bài kiểm tra, điều đó thì rõ rồi, nhưng là bài kiểm tra kiểu gì? Trong tù, Shadow đã học được là có hai kiểu đánh nhau: kiểu thứ nhất là đừng có chơi tao, nghĩa là ta phải đánh cho thật hoành tráng và phô trương, còn kiểu thứ hai là những cuộc chạm trán cá nhân, những cuộc dằn mặt thực sự, diễn ra chóng vánh, khắc nghiệt và hiểm ác, và thường kết thúc trong vòng vài giây. “Này Sweeney,” Shadow hổn hển nói,“chúng ta đang đánh nhau vì cái gì thế?” “Cho vui thôi,” Sweeney đáp, giờ y đã tỉnh rượu, hay ít nhất là cũng không say thấy rõ nữa. “Chỉ vì niềm vui đơn giản rồ dại bỏ mẹ của nó thôi. Mày không thấy niềm vui đang dâng lên trong huyết quản như nhựa sống mùa xuân à?” Môi y đang chảy máu. Cả khớp đốt ngón tay của Shadow cũng vậy. “Thế anh đã làm trò rút đồng xu như thế nào?” Shadow hỏi. Anh lảo đảo vặn người, đưa vai đỡ một cú đấm nhắm vào mặt. “Nói thật nhé,” Sweeney càu nhàu, “tao đã bảo với mày ngay khi mày vừa hỏi rồi còn gì. Nhưng chẳng có kẻ nào mù dở - Ui da! Được đấy! - bằng bọn không chịu lắng nghe cả.” Shadow đấm thọc về phía Sweeney, đẩy y ngã ngửa ra một cái bàn; cốc chén và gạt tàn rỗng rơi xuống sàn vỡ tan. Khi đó Shadow đã có thể hạ gục y. Y nằm chơ vơ, sõng soài ra đấy, trong một tư thế chẳng thể làm được gì. Anh liếc nhìn Wednesday, ông ta gật đầu. Shadow cúi xuống nhìn Sweeney Điên. “Chúng ta xong chưa?” anh hỏi. Sweeney Điên ngần ngừ, rồi gật. Shadow buông y ra, và lùi lại vài bước. Sweeney hổn hển đứng thẳng dậy. “Đừng hòng!” y hét lên. “Tao chưa nói là xong thì chưa xong đâu!” Rồi y nhăn nhở cười và lao tới trước, vung nắm đấm vào Shadow. Y giẫm phải một viên đá trên sàn, và điệu cười nhăn nhở của y biến thành một cái nhăn nhó sững sờ khi y trượt chân và ngã vật ra sau. Đầu y đập xuống sàn quán với một tiếng thịch rành rọt. Shadow tì gối lên ngực Sweeney Điên. “Hỏi lại lần nữa, chúng ta đánh xong chưa?” anh nói. “Ừ thì coi như là xong,” Sweeney ngóc đầu lên đáp,“vì niềm vui đã rút cạn khỏi người tao rồi, như nước đái ào ra khỏi một thằng nhóc trong bể bơi vào một ngày nóng vậy.” Rồi y nhổ máu trong miệng ra, nhắm mắt lại và bắt đầu ngáy, những tiếng ngáy trầm, vang dội. Ai đó vỗ lưng Shadow. Wednesday dúi một chai bia vào tay anh. Bia ngon hơn rượu mật. * * * Shadow thức giấc và thấy mình đang nằm duỗi dài trên ghế sau một chiếc sedan. Ánh nắng buổi sáng chói chang rọi xuống, và đầu anh nhức như búa bổ. Anh vụng về ngồi dậy, dụi mắt. Wednesday đang lái xe. Ông ta vừa lái vừa ngâm nga chẳng theo giai điệu nào. Trong giá đựng cốc có một cốc giấy đầy cà phê. Họ đang đi trên con đường trông giống một cao tốc liên bang, hệ thống điều khiển hành trình được cài ở tốc độ một trăm cây số trên giờ. Ghế lái phụ trống trơn. “Anh cảm thấy thế nào vào buổi sáng đẹp trời thế này?” Wednesday hỏi mà không quay đầu lại. “Xe tôi đâu rồi?” Shadow hỏi. “Là xe thuê đấy.” “Sweeney Điên đem trả hộ anh rồi. Đó là một phần thỏa thuận của hai người tối qua.” “Thỏa thuận ư?” “Sau cuộc đấu.” “Cuộc đấu?” Anh giơ một tay lên xoa má, rồi nhăn mặt. Phải, đã có một cuộc ẩu đả. Anh nhớ một tay đàn ông cao lớn có bộ râu hung đỏ, tiếng hoan hô và hò reo của đám khán giả tán thưởng. “Thế ai thắng?” “Anh không nhớ gì à?” Wednesday khục khục cười. “Không nhiều lắm,” Shadow nói. Những cuộc trò chuyện từ đêm hôm qua bắt đầu chen chúc hiện về đầy khó chịu trong đầu Shadow. “Ông còn cà phê nữa không?” Ông ta với tay sang ghế bên và đưa cho anh một chai nước chưa mở. “Đây. Anh bị mất nước. Bây giờ cái này sẽ tốt hơn là cà phê. Chúng ta sẽ dừng lại ở trạm xăng tiếp theo và mua cho anh bữa sáng. Anh cũng sẽ cần rửa ráy nữa. Nhìn anh như cái gì bị con dê lôi vào ấy.” “Mèo chứ,” Shadow sửa lại. “Dê,” Wednesday nói. “Một con dê to đùng hôi hám với hàm răng to tướng.” Shadow mở nắp chai nước và uống ừng ực. Có thứ gì leng keng nằng nặng trong túi áo anh. Anh thò tay vào túi và lấy ra một đồng xu cỡ bằng đồng năm mươi. Nó nặng trịch và vàng chói. Nó lại còn hơi dính nữa chứ. Shadow giấu nó trong bàn tay phải, ngón giấu kinh điển, rồi giơ nó ra kẹp giữa ngón giữa và ngón áp út. Anh giấu nó vào lòng bàn tay, giữ nó bằng ngón trỏ và ngón út, thế là nhìn từ đằng sau sẽ không nhận ra nó, rồi anh luôn hai ngón giữa xuống dưới nó, xoay nó thiện nghị về mu bàn tay. Cuối cùng anh thả đồng xu vào tay trái, rồi bỏ nó vào túi. “Tối qua tôi đã uống cái quái gì vậy?” Shadow hỏi. Những sự kiện đêm qua đang vây quanh anh, không hình thù, không cảm giác, nhưng anh biết chúng đã xảy ra. Wednesday nhìn thấy một biển lối ra, hẳn sẽ có một trạm xăng, và ông ta nhấn mạnh chân ga. “Anh không nhớ à?” “Không.” “Anh uống rượu mật,” Wednesday nói. Ông ta lại toét miệng cười. Rượu mật. Phải. Shadow ngả người ra sau ghế, uống nước từ cái chai, để những ký ức đêm qua tràn qua tâm trí mình. Một số thứ anh nhớ được. Một số thứ thì không. * * * Ở trạm xăng, Shadow mua một bộ đồ vệ sinh cá nhân Clean U-Up, trong có một con dao cạo, một gói kem cạo râu, một cái lược và một cái bàn chải dùng một lần kèm theo một tuýp kem đánh răng nhỏ xíu. Rồi anh vào nhà vệ sinh và nhìn mình trong gương. Anh bị bầm tím dưới một bên mắt - khi anh lấy ngón tay chạm thử thì thấy đau nhói - và môi dưới sưng vù. Tóc anh rối bù, trông như thể anh đã dành nửa đầu đêm qua để đánh nhau, rồi dành toàn bộ thời gian còn lại ngủ khìn khịt mà vẫn mặc nguyên đồ trên hàng ghế sau chiếc xe. Có tiếng nhạc loảng xoảng vẳng lại: anh phải mất một lúc mới nhận ra đây là bài “Fool on the Hill” của The Beatles. Shadow rửa mặt bằng xà phòng rửa tay trong nhà vệ sinh, rồi anh xoa kem lên mặt và cạo râu. Anh vuốt nước lên tóc rồi chải ngược tóc lên. Anh đánh răng. Rồi anh rửa sạch xà phòng và kem đánh răng khỏi mặt mình bằng nước ấm. Nhìn lại mình trong gương: râu ria nhẵn nhụi, nhưng mắt anh vẫn đỏ và phù ra. Anh trông già hơn mình tưởng. Anh tự hỏi Laura sẽ nói gì khi cô thấy anh, rồi anh nhớ ra Laura sẽ chẳng bao giờ nói gì nữa, và anh thấy mặt mình trong gương hơi run rẩy, nhưng chỉ trong giây lát thôi. Anh đi ra. “Trông tôi tã quá,” Shadow nói. “Tất nhiên rồi,” Wednesday đồng tình. Wednesday đem một đống đồ ăn vặt các loại ra quầy rồi trả tiền cho chúng và xăng, phân vân đổi ý hai lần xem nên trả bằng thẻ hay tiền mặt, khiến cô gái nhai kẹo cao su đứng quầy rất khó chịu. Shadow quan sát trong lúc Wednesday càng lúc càng tỏ ra bối rối và hối lỗi hơn. Đột nhiên ông ta già khọm đi. Cô gái trả lại tiền mặt cho ông ta và tính tiền vào thẻ, rồi đưa hóa đơn thẻ cho ông ta và lấy tiền mặt, rồi lại trả lại tiền mặt và cầm lấy một tấm thẻ khác. Rõ ràng là Wednesday sắp khóc đến nơi, một ông già bất lực vì cuộc xâm lăng không thể ngăn cản của thẻ nhựa lên thế giới hiện đại. Shadow ra chỗ bốt điện thoại: một tấm biển máy hỏng được treo ở đó. Họ bước ra khỏi trạm xăng ấm áp, và hơi thở của họ phả ra thành sương trong không khí. “Ông muốn tôi lái không?” Shadow hỏi. “Thôi, xin kiếu,” Wednesday nói. Lại lên đường những đồng cỏ ngả nâu lướt qua hai bên họ. Cây cối đều trụi lá, im lìm như chết. Hai con chim đen sì nhìn họ từ một đường dây điện tín. “Này Wednesday?” “Gì cơ?” “Theo như tôi thấy trong kia thì ông đã không hề trả tiền xăng.” “Thế à? “Theo như tôi thấy thì cô ta còn trả tiền cho ông vì cái đặc ân được đón tiếp ông trong trạm xăng của cô ta là đằng khác. Ông nghĩ cô ta đã đoán ra chưa?” “Cô ta sẽ không bao giờ đoán ra.” “Thế ông là cái gì? Một tay lừa đảo cò con à?” Wednesday gật đầu. “Ừ,” ông ta đáp. “Tôi đoán vậy. Ngoài các thứ khác ra.” Ông ta ngoặt sang làn bên trái để vượt một chiếc xe tải. Bầu trời tuyền một màu xám ảm đạm. “Sắp có tuyết,” Shadow nói. “Ừ.” “Sweeney ấy. Y có chỉ cho tôi cách làm trò ảo thuật với đồng xu vàng không?” “Có chứ.” “Tôi không nhớ nổi nữa.” “Anh sẽ nhớ thôi. Đêm qua là một đêm dài.” Vài bông tuyết nhỏ lướt qua kính chắn gió, tan ngay trong chốc lát. “Xác vợ anh đang được quàn ở Nhà tang lễ Wendell,” Wednesday nói. “Rồi sau bữa trưa họ sẽ đưa cô ấy từ đó đến nghĩa trang để chôn cất.” “Sao ông biết?” “Tôi đã gọi hỏi trước trong lúc anh ở trong nhà vệ sinh. Anh biết Nhà tang lễ Wendell ở đâu chứ?” Shadow gật đầu. Những bông tuyết xoay tít đến hoa cả mắt trước mặt họ. “Lối ra đây rồi,” Shadow nói. Chiếc xe rời khỏi cao tốc liên bang và đi qua cụm nhà nghỉ ở phía Bắc Eagle Point. Ba năm đã qua. Phải. Nhà nghỉ Super-8 đã sập tiệm, bị dỡ bỏ; thế chỗ nó là một cửa hàng ăn nhanh Wendy. Có nhiều đèn giao thông hơn, nhiều cửa hiệu không quen. Shadow bảo Wednesday chậm lại khi họ đi qua trang trại Cơ Bắp. ĐÓNG CỬA VÔ THỜI HẠN, một tấm biển viết tay trên cửa đề, DO CÓ TANG. Rẽ trái trên Phố Chính. Đi qua một tiệm xăm mình mới và Trung tâm Tuyển mộ Quân đội, rồi đến quán Burger King và tiệm thuốc Olsen, vẫn quen thuộc và chẳng thay đổi tí nào, và cuối cùng là đến mặt tiền bằng gạch vàng của Nhà tang lễ Wendell. Một tấm biển neon ở cửa sổ đề chữ NƠI AN NGHỈ. Các bia mộ trống chưa được làm lễ và khắc tên được đặt trong cửa sổ bên dưới tấm biển. Wednesday đưa xe vào bãi đỗ. “Anh có muốn tôi vào cùng không?” ông ta hỏi. “Không hẳn.” “Tốt.” Nụ cười lại lóe lên, không chút hài hước. “Tôi có vài công chuyện cần xử lý trong lúc anh nói lời từ biệt. Tôi sẽ đặt phòng cho chúng ta ở Nhà nghỉ Mỹ. Xong thì đến đó gặp tôi.” Shadow ra khỏi xe và nhìn theo cho tới khi xe rời đi. Rồi anh bước vào. Hành lang mờ tối có mùi hoa và mùi xi đánh đồ gỗ, chỉ thoáng một chút xíu mùi formaldehyde và mùi thối rữa ẩn hiện. Ở cuối hành lang là Nhà nguyện An Nghỉ. Shadow nhận ra anh đang giấu đồng xu vàng trong lòng bàn tay, bồn chồn chuyển từ giấu ở phía trước ra giấu phía sau rồi lại giấu kiểu Downs[*], lặp đi lặp lại. Sức nặng của đồng xu trong tay khiến anh bình tĩnh hơn. Tên vợ anh được in trên một tờ giấy bên cạnh cửa ở cuối hành lang. Anh bước vào Nhà nguyện An Nghỉ. Shadow quen gần hết mọi người trong phòng: gia đình Laura, đồng nghiệp của cô ở đại lý du lịch, vài người bạn của cô. Họ đều nhận ra anh. Anh thấy rõ điều đó trên mặt họ. Nhưng họ không mỉm cười, cũng chẳng chào hỏi. Ở cuối phòng là một cái bệ nhỏ và trên đó là một chiếc quan tài màu kem với vài vòng hoa bày xung quanh: hoa đỏ, vàng, trắng và tím sậm màu máu. Anh bước tới trước vài bước. Anh có thể thấy xác Laura từ chỗ anh đang đứng. Anh không muốn bước tới trước; anh cũng không dám rời đi. Một người đàn ông mặc bộ vét tối màu - Shadow đoán là nhân viên nhà tang lễ - nói,“Thưa anh? Anh có muốn để lại lời chia buồn và ký sổ tang không ạ?” và chỉ anh về phía một cuốn sổ bọc da đang mở ra trên một cái bục nhỏ. Anh viết SHADOW và ngày tháng bằng nét chữ viết tay rõ ràng của mình, rồi, chậm rãi, anh viết thêm (CÚN CON) bên cạnh, trì hoãn việc phải đến cuối phòng nơi có mọi người, chiếc quan tài, và cái vật đã không còn là Laura nữa trong chiếc quan tài màu kem. Một phụ nữ nhỏ nhắn bước qua cửa và ngần ngừ đứng lại. Có ta có mái tóc đỏ đồng và quần áo thì rất đắt tiền, đen tuyền. Áo tang của góa phụ, Shadow thầm nghĩ, anh biết rõ người phụ nữ đó. Audrey Burton, vợ của Robbie. Audrey đang cầm một cành violet, cuống bọc giấy bạc. Nó giống như một thứ đồ chơi trẻ con thường làm vào tháng Sáu, Shadow nghĩ. Nhưng giờ không phải mùa violet. Audrey nhìn thẳng vào Shadow và chẳng có vẻ gì là cô nhận ra anh. Rồi cô đi qua căn phòng, đến chỗ quan tài của Laura. Shadow đi theo cô ta. Laura nằm đó, mắt nhắm, tay bắt tréo trên ngực. Cô mặc một bộ vét kín đáo màu xanh lơ mà anh không nhận ra. Mái tóc nâu dài của cô được vén khỏi mắt. Đó vừa là Laura của anh lại vừa không phải: anh nhận ra cái khiến cô có vẻ khác thường như thế là sự thanh thản của cô. Laura luôn là một người hay ngủ mê. Audrey đặt cành violet mùa hè lên ngực Laura. Rồi cô ta mím đôi môi màu dâu đen của mình, đảo miệng một hồi và nhổ, rất mạnh, lên khuôn mặt đã chết của Laura. Bãi nước bọt rơi trúng má Laura và bắt đầu chảy xuống tai cô. Audrey đã đi ra cửa. Shadow chạy đuổi theo cô ta. “Audrey?” anh nói. Lần này cô nhận ra anh. Anh tự hỏi có phải cô ta đang dùng thuốc an thần không. Giọng cô ta xa lạ và vô cảm. “Shadow? Anh trốn ra đấy à? Hay họ thả anh rồi?” “Họ thả tối hôm qua. Tôi tự do rồi,” Shadow nói. “Vụ vừa nãy là cái quái gì thế?” Cô ta dừng lại trong hành lang tối. “Hoa violet ấy à? Đó luôn là loài hoa ưa thích của cô ấy. Hồi còn bé chúng tôi thường cùng nhau hái violet.” “Không phải hoa violet.” “À, cái đó ấy à,” cô ta nói. Cô ta lau một giọt thứ gì vô hình ở khóe mép. “Ờ, tôi tưởng phải rõ rành rành rồi chứ.” “Với tôi thì không, Audrey ạ.” “Họ không cho anh biết à?” Giọng cô ta bình thản, không chút cảm xúc. “Vợ anh chết với của quý của chồng tôi trong mồm cô ta, Shadow ạ.” Cô quay người, đi tới chỗ đỗ xe, và Shadow nhìn cô đi. Anh quay vào nhà tang lễ. Ai đó đã lau vết nước bọt đi rồi. * * * Không người nào chứng kiến cảnh đó dám nhìn vào mắt Shadow. Những người đến và nói chuyện với anh thì cố sao làm cho thật chóng, lầm bầm những lời chia buồn lúng túng rồi đi ngay. Sau bữa trưa - Shadow ăn ở quán Burger King - là lễ an táng. Chiếc quan tài màu kem của Laura được đặt tại nghĩa trang liên phái nhỏ ngoài rìa thị trấn: không có rào bao quanh, một đồi cỏ ven rừng đầy bia mộ bằng cẩm thạch đen và trắng. Anh đi đến nghĩa địa trong chiếc xe tang Wendell, cùng với mẹ của Laura. Dường như bà McCabe cảm thấy cái chết của Laura là lỗi của Shadow. “Nếu anh có mặt ở đây,” bà nói,“thì chuyện này đã chẳng xảy ra. Tôi chẳng hiểu sao con bé lại lấy anh. Tôi đã bảo nó. Tôi đã nhắc đi nhắc lại với nó. Nhưng chúng nó có chịu nghe lời mẹ bao giờ đâu, phải không?” Bà ngừng lời, nhìn kỹ mặt Shadow. “Anh vừa đánh lộn đấy à?” “Vâng,” anh đáp. “Du côn,” bà nói, rồi bà mím chặt môi, ngẩng đầu lên khiến cái cằm đôi run run, và nhìn thẳng về phía trước. Shadow ngạc nhiên khi thấy Audrey Burton cũng có mặt ở đám tang, đứng ở đằng cuối. Buổi lễ ngắn gọn kết thúc, chiếc quan tài được hạ xuống lòng đất lạnh. Mọi người ra về. Shadow không đi. Anh đứng đó, tay đút túi, run rẩy, mắt nhìn chằm chằm vào cái hố trên mặt đất. Trên đầu anh bầu trời có màu xám sắt, phẳng lì và trơn nhẵn như một tấm gương. Tuyết vẫn rơi chập choạng, với những bông tuyết chao đảo mờ ảo. Anh muốn nói với Laura điều gì đó, và anh sẵn sàng đợi cho đến khi anh biết nó là điều gì. Thế giới đang mất dần ánh sáng và màu sắc. Chân Shadow đang tê cứng đi, còn tay và mặt anh nhức nhối vì lạnh. Anh thọc tay vào túi áo cho ấm, và ngón tay anh tóm được đồng xu vàng. Anh bước đến bên ngôi mộ. “Cái này là cho em,” anh nói. Mấy xẻng đất đã được đổ lên quan tài, nhưng cái huyệt còn lâu mới đầy. Anh ném đồng xu vàng vào huyệt cùng với Laura, rồi anh hất thêm đất vào huyệt để che đồng xu khỏi con mắt của những người đào huyệt tò mò. Anh phủi đất trên tay và nói, “Chúc ngủ ngon, Laura.” Rồi anh nói thêm,“Anh xin lỗi.” Anh hướng về phía ánh đèn của thị trấn và bắt đầu đi bộ về Eagle Point. Nhà nghỉ của anh cách đó hơn ba cây số, nhưng sau ba năm trong tù, anh thích cái ý nghĩ rằng anh có thể cứ đi hoài, đi mãi, đi không bao giờ ngừng nếu cần. Anh có thể cứ đi tiếp về phía Bắc và đến Alaska, hoặc đi về phía Nam, đến Mexico và xa hơn nữa. Anh có thể đi bộ đến Patagonia hoặc đến Tierra del Fuego. Vùng đất của Lửa. Anh cố nhớ tại sao nó lại được đặt tên như thế: anh nhớ hồi nhỏ đã đọc về những người đàn ông trần truồng, khom mình bên đống lửa để giữ ấm… Một chiếc xe tiến đến cạnh anh. Cửa sổ rè rè hạ xuống. “Anh cần đi nhờ không. Shadow?” Audrey Burton hỏi. “Không,” anh nói. “Và không phải với cô.” Anh đi tiếp. Audrey lái xe cạnh anh với tốc độ năm cây số một giờ. Những bông tuyết quay cuồng trong ánh đèn pha. “Tôi cứ tưởng cô ta là bạn thân nhất của tôi,” Audrey nói. “Ngày nào chúng tôi cũng nói chuyện. Khi Robbie và tôi cãi nhau, cô ta là người đầu tiên biết, chúng tôi sẽ đến quán Chi-Chi uống margarita và nói chuyện về việc đàn ông là một lũ mạt hạng. Thế mà suốt thời gian đó cô ta lại ngủ với hắn sau lưng tôi.” “Xin cô đi đi, Audrey.” “Tôi chỉ muốn anh biết tôi có lý do chính đáng để làm điều đó.” Anh không nói gì. “Này!” cô ta quát. “Này! Tôi đang nói chuyện với anh đấy!” Shadow quay lại. “Cô muốn tôi nói là cô đã đúng khi nhổ vào mặt Laura sao? Cô muốn tôi nói nó không khiến tôi đau đớn sao? Hay điều cô cho tôi biết khiến tôi ghét cô ấy nhiều hơn là nhớ cô ấy sao? Sẽ không có chuyện đó đâu, Audrey.” Cô ta lái xe cạnh anh thêm một phút nữa, không nói gì. Rồi cô ta nói,“Thế ở tù thế nào, Shadow?” “Ổn,” Shadow nói. “Cô sẽ hợp với nơi đó lắm đấy.” Nghe vậy, cô ta liền nhấn bàn đạp ga, khiến động cơ rồ lên, và phóng xe đi. Khi ánh đèn pha biến mất, thế giới chìm vào bóng tối. Chạng vạng biến thành đêm. Shadow nghĩ việc đi bộ sẽ làm anh ấm lên, truyền hơi ấm qua tay chân lạnh bằng của anh. Nhưng nó không xảy ra. Ở tù, Low Key Lyesmith đã có lần gọi cái nghĩa địa nhỏ của nhà tù đằng sau trạm xá là Vườn Xương, và hình ảnh đó đã bám chặt vào tâm trí Shadow. Đêm đó anh đã mơ về một khu vườn dưới ánh trăng, với những thân cây khẳng khiu trắng hếu, ở các đầu cành của chúng là những bàn tay trơ xương, còn rễ của chúng thì đâm sâu xuống những nấm mồ. Trên cây trong vườn xương cũng có quả, trong giấc mơ của anh, và những quả cây trong giấc mơ đó có một vẻ gì hết sức ghê rợn, nhưng khi thức giấc thì anh không còn nhớ nổi những thứ quả kỳ lạ đã mọc trên cây và tại sao anh lại thấy chúng ghê rợn đến thế. Những chiếc xe lao vun vút qua anh. Shadow ước gì ở đây có vỉa hè. Anh vấp phải cái gì đó anh không nhìn thấy trong bóng tối và ngã sõng soài xuống cái mương bên rìa đường, tay phải ngập vào lớp bùn dày lạnh buốt. Anh đứng dậy và chùi tay vào ống quần. Anh lúng túng đứng đó. Anh chỉ có đủ thời gian để nhận ra ai đó đang đứng cạnh mình trước khi một thứ ươn ướt chụp lên mũi và miệng anh, và anh nếm thấy mùi hóa chất nồng nặc. Lần này cái mương có vẻ ấm áp và dễ chịu. * * * Hai thái dương Shadow có cảm giác như chúng đã được gắn lại vào sọ anh bằng đinh đóng mái, mắt anh thì mờ đi. Tay anh bị trói quặt ra sau lưng bằng cái gì đó như một sợi đai. Anh đang ở trong một chiếc xe, ngồi trên ghế bọc da. Trong thoáng chốc anh tự hỏi có phải mắt anh có vấn đề không, nhưng rồi anh nhận ra là không, ghế kia quả thực cách anh rất xa. Có nhiều người ngồi cạnh anh, nhưng anh không thể quay đầu nhìn họ. Tay thanh niên béo ú ngồi ở đầu kia của chiếc limo dài lấy một lon Coca không đường từ quầy rượu và bật nắp. Nó mặc một chiếc áo khoác đen dài làm bằng thứ vải gì láng mịn, và có vẻ nó vừa mới qua tuổi thiếu niên: một bên má nó còn lấm chấm trứng cá. Nó mỉm cười khi thấy Shadow đã tỉnh. “Này, Shadow,” nó nói. “Đừng có chơi tao.” “Được,” Shadow đáp. “Tôi sẽ không chơi cậu. Cậu có thể thả tôi xuống Nhà nghỉ Mỹ cạnh đường cao tốc liên bang được không?” “Đánh nó đi,” thằng thanh niên nói với kẻ ngồi bên trái Shadow. Một cú đấm nện vào bụng Shadow, khiến anh hụt hơi gập người xuống. Anh từ từ ngồi thẳng dậy. “Tao đã bảo không được chơi tao. Như thế là chơi tao. Phải trả lời ngắn gọn, rõ ràng, không thì tao giết bỏ mẹ mày đi dây. Hoặc cũng có thể không. Có thể tao sẽ cho bọn trẻ con bẻ gãy từng khúc xương trong người mày. Có đến hai trăm linh sáu khúc xương đấy. Vì thế đừng có chơi tao.” “Hiểu rồi,” Shadow nói. Đèn trên trần chiếc limo chuyển từ tím sang xanh lơ rồi xanh lục rồi vàng. “Mày đang làm việc cho Wednesday,” thằng thanh niên nói. “Phải,” Shadow đáp. “Lão đang làm cái mẹ gì thế? Ý tao là, lão làm gì ở đây? Chắc lão phải có kế hoạch. Kế hoạch của lão là gì?” “Tôi mới bắt đầu làm việc cho ông Wednesday sáng nay,” Shadow nói. “Tôi chỉ là chân chạy thôi. Cũng có thể làm tài xế, nếu ông ấy cho tôi lái. Chúng tôi mới nói chuyện được vài câu.” “Ý mày là mày không biết?” “Tôi nói là tôi không biết.” Thằng nhóc nhìn anh chằm chằm. Nó nốc thêm ít Coca, ợ hơi, rồi lại nhìn chằm chằm tiếp. “Thế nếu biết thì mày có nói cho tao không?” “Chắc là không rồi,” Shadow thừa nhận. “Như cậu nói đó, tôi đang làm việc cho ông Wednesday.” Thằng thanh niên mở áo khoác và lấy ra một hộp thuốc lá bằng bạc từ một túi áo trong. Nó mở cái hộp và chìa một điếu cho Shadow. “Hút không?” Shadow tính đến chuyện bảo nó cởi trói tay anh, nhưng quyết định thôi. “Không, cảm ơn,” anh nói. Điếu thuốc có vẻ được cuốn bằng tay, và khi thằng thanh niên châm thuốc bằng một cái bật lửa Zippo màu đen mờ, cái mùi tỏa ra đây chiếc limo không phải là mùi thuốc lá. Nó cũng không phải cần sa. Mùi hơi giống thiết bị điện tử bị cháy. Thằng thanh niên rít một hơi dài, rồi nín thở. Nó để khói rỉ ra khỏi miệng, rồi lại hít khói vào mũi. Shadow ngờ nó đã tập như thế trước gương rất lâu trước khi biểu diễn trước mặt người khác. “Nếu mày nói dối tao,” thằng thanh niên nói, như từ nơi xa xăm vọng về,“tao sẽ giết bỏ mẹ mày đi. Mày biết đấy.” “Tôi biết rồi.” Thằng thanh niên lại rít một hơi thuốc thật dài nữa. Ánh sáng bên trong chiếc limo chuyển từ cam sang đỏ, rồi trở lại tím. “Mày nói là mày ở Nhà nghỉ Mỹ hả?” Nó gõ lên cửa tài xế sau lưng. Ô cửa kính hạ xuống. “Này. Nhà nghỉ Mỹ. Cạnh cao tốc liên bang. Chúng ta phải thả khách xuống.” Tay tài xế gật đầu và cửa kính lại nâng lên. Những ngọn đèn bằng sợi quang học lấp lánh trong chiếc limo liên tục thay đổi, biến chuyển qua một loạt những màu sắc mờ ảo. Shadow thấy dường như mắt thằng thanh niên nọ cũng đang lấp lánh, màu xanh lét như màn hình một cái máy tính cổ. “Mày về bảo lão Wednesday thế này. Bảo rằng lão là đồ cổ rồi. Lão bị quên lãng rồi. Lão già rồi. Lão nên chấp nhận đi. Bảo với lão là bọn tao mới là tương lai và bọn tao đếch thèm quan tâm đến lão hay những kẻ như lão. Lão hết thời rồi. Nhớ chưa? Mày nói với lão như thế. Lão đã bị ký gửi vào thùng rác của lịch sử trong lúc những người như tao cưỡi limo trên siêu cao tốc của ngày mai.” “Tôi sẽ nói lại,” Shadow nói. Anh đang bắt đầu thấy choáng váng. Anh hy vọng mình sẽ không nôn. “Bảo lão là bọn tao đã tái lập trình cả thực tại rồi. Bảo lão rằng ngôn ngữ là một loại virus còn tôn giáo là một hệ điều hành, còn lời cầu nguyện chỉ là đống thư rác chết tiệt. Bảo lão thế không thì tao giết bỏ mẹ mày đi đấy,” thằng thanh niên nhẹ nhàng cất tiếng từ giữa đám khói. “Hiểu rồi,” Shadow nói. “Cậu có thể thả tôi ở đây. Tôi sẽ đi bộ nốt đoạn đường còn lại.” Thằng thanh niên gật đầu. “Nói chuyện vui đấy,” nó nói. Thuốc đã làm nó thư giãn hơn. “Mày nên biết là nếu bọn tao định giết mày thì bọn tao sẽ xóa mày luôn. Hiểu chưa? Nhấp chuột một cái là mày sẽ bị ghi đè lên bằng hàng loạt các số một và không. Không có lựa chọn phục hồi đâu.” Nó gõ lên cửa sổ sau lưng. “Hắn xuống ở đây,” nó nói. Rồi nó quay lại nhìn Shadow và chỉ vào điếu thuốc lá. “Da cóc nhân tạo,” nó nói. “Mày có biết bây giờ họ tổng hợp được cả bufotenin[*] rồi không?” Chiếc xe dừng lại và cửa mở ra. Người ở bên phải Shadow xuống xe và giữ cửa cho anh. Shadow loạng choạng trèo ra, tay vẫn bị trói lại đằng sau. Anh nhận ra mình đã không nhìn kĩ những người ngồi ở ghế sau cùng mình. Anh không biết họ là đàn ông hay đàn bà, già hay trẻ. Chúng cắt dây trói cho anh. Sợi dây nylon rơi xuống mặt đường nhựa. Anh quay lại. Bên trong xe đã biến thành một đám mây khói cuộn xoáy với hai đốm sáng lóe lên, có màu đồng, như cặp mắt tuyệt đẹp của một con cóc. “Quan trọng là hệ hình nào thống trị thôi, Shadow ạ. Ngoài ra chẳng có gì đáng kể nữa. À này, rất tiếc về chuyện con vợ mày.” Cửa đóng lại và chiếc limo dài lặng lẽ rời đi. Shadow chỉ còn cách nhà nghỉ vài trăm mét và anh đi về đó, hít bầu không khí lạnh giá, đi qua những biển hiệu lắp đèn đỏ, vàng, xanh, quảng cáo đủ loại thức ăn nhanh mà con người có thể tưởng tượng ra miễn nó là hamburger; và anh đến được Nhà nghỉ Mỹ mà không gặp sự cố gì nữa. ©Facebook Group: We Love Ebook, mời các bạn tham gia Nhóm để tải nhiều sách hơn nữa! """