" Những Vì Sao Đất Nước Trọn bộ PDF EPUB 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Những Vì Sao Đất Nước Trọn bộ PDF EPUB Ebooks Nhóm Zalo Tên sách NHỮNG VÌ SAO ĐẤT NƯỚC (TẬP NĂM) Tác giả NGUYỄN ANH – VĂN LANG – QUỲNH CƯ Nhà xuất bản THANH NIÊN Năm xuất bản 1978 Nguồn sách: Dr. No Chụp và chuyển text: Dr. No Kiểm tra chính tả: vqsvietnam, mopie, Dr. No, ThanhLeVN2020 Biên tập ebook: Gassie Ngày hoàn thành: 16/03/2021 LOẠI SÁCH DANH NHÂN VIỆT NAM Ebook này được thực hiện theo dự án phi lợi nhuận «SỐ HÓA 1000 QUYỂN SÁCH VIỆT MỘT THỜI VANG BÓNG» của diễn đàn TVE-4U. ORG Cảm ơn các tác giả NGUYỄN ANH – VĂN LANG – QUỲNH CƯ và nhà xuất bản THANH NIÊN đã chia sẻ với bạn đọc những kiến thức quý giá. LÝ THƯỜNG KIỆT I Chiếc cáng gấm màu tía, hôm nay từ trong hoàng thành trở về phường Thái Hòa muộn hơn hẳn mọi ngày. Khi qua gian nhà ông già thợ mộc ở đầu phường, rèm cáng cũng không vén mở như thường lệ, khiến cho chủ nhà, nhác thấy bóng cáng từ xa, đã xắm nắm thu xếp đồ nghề, đứng chực sẵn ở thềm để chắp tay chào đón như mọi lần cáng đi qua, hôm nay phải ngơ ngẩn đứng nhìn theo mãi cho đến khi hai người lính hộ vệ chạy gằn theo cáng đã khuất hẳn vào trong vòm cổng đồ sộ của tòa phủ đệ dựng khang trang ở giữa phường1. Những người dân phường Thái Hòa2 hôm nay cũng nhận ra vẻ khác thường trong cung cách trở về sau buổi dự đại triều của con người vẫn được trọng vọng nhất phường này. Mấy bà lạ dòng rỗi miệng cụm ngay lại để xì xào: – Quan Đôn quốc Thái úy3 hôm nay hẳn có việc trọng đại… – Hay là sức lực ngài gặp lúc bất an? Đứa cháu nhỏ của ông già thợ mộc, thấy ông quay vào nhà, dáng đăm chiêu, cũng lặng lẽ đến gần, nắm lấy bàn tay gân guốc, ngước mắt dò hỏi. Khẽ xoa mái tóc trái đào, ông già thợ mộc gật gật đầu, nhưng chỉ dõi mắt ra xa, yên lặng suy nghĩ: “Phải, việc triều chính bây giờ đang gặp phải những chuyện tầy trời, Quan Đôn quốc Thái úy phen này tất phải vất vả đương đầu…”. Là người cùng phường lại đồng tuổi với quan Đôn quốc Thái úy, tuy thân phận cách vời, nhưng ông già thợ mộc biết rõ lắm về người đứng đầu triều đình nhà Lý bây giờ. Bởi, từ thuở hàn vi, khi chưa được làm Thiên tử nghĩa nam4 và được ban quốc tính5, khi còn là chú bé mang tên Ngô Tuấn, quan Thái úy ngày ấy với người thợ mộc này đâu có phải là chỗ xa lạ gì! Những cánh cung, ngày càng có yêu cầu phải cứng mạnh hơn, để cho cánh tay ngày ấy còn mảnh dẻ tập giương dây, phóng tên suốt đêm ngày, chẳng phải do bàn tay thợ này miệt mài chế tạo thì là tay ai? Những thành đất, lũy cát, dựng lên hết kiểu này đến cách khác, để cho khối óc còn non trẻ khi ấy thử tính hết cách công phá lại bố phòng, cũng chẳng phải do bàn tay thợ này vất vả xây đắp thì là tay ai?6. Đến khi là một chàng trai hai mươi tuổi, được sung chức Kỵ mã hiệu úy7thì bộ yên cương của viên quan võ trẻ tuổi Ngô Tuấn cũng chẳng phải do bàn tay thợ này dụng công làm thì là tay ai? Chỉ có từ khi được bổ vào ngạch thị vệ để chuyên hầu vua, nhất là từ khi quyết chí tự hoạn8 để vào làm việc hẳn trong cung cấm, trải chưa đầy một giáp9 đã nổi tiếng nội đình: từ chức Hiệu úy, ít lâu sau đã thăng chức Thái bảo, đứng hàng thứ tư trong triều, rồi chức Thái phó - thứ hai trong triều, để rồi bây giờ, bước hẳn lên ngôi Đôn quốc Thái úy đầu triều, Ngô Tuấn - Lý Thường Kiệt mới phải xa người cộng sự cùng tuổi cùng quê với mình. Tuy nhiên, dựng phủ đệ ở phường cũ, mỗi khi từ triều về nhà, có bao giờ Lý Thường Kiệt lại quên vén cánh rèm tía để tỏ mối tình thân xưa cũ với người thợ mộc, nay đã cùng với mình, cứ mỗi ngày một cao tuổi dần lên? Trong khi người thợ mộc già phường Thái Hòa nghĩ ngợi như vậy thì tại sảnh đường giữa tòa phủ đệ rộng lớn, Lý Thường Kiệt cũng đang trầm ngâm suy tính bên chiếc án thư. Trước mặt ông, mở hé tờ mật trình vừa từ nơi viễn châu phía nam gửi về. Đã xem xong bức mật thư, nhưng hẳn trong tờ trình có điều phải suy nghĩ, cho nên nét mặt vị đại thần đứng đầu triều Lý mới u ám đăm chiêu thế kia! Xoay mãi chén sâm trên tay nhưng không nhấp giọng, Lý Thường Kiệt cúi đầu suy tính nhiên man, thỉnh thoảng lại thốt lên khe khẽ: “Chà, Lý Đạo Thành! Lý Đạo Thành…”. Hồi lâu, như tạm dứt khỏi mạch suy nghĩ, Lý Thường Kiệt với tay đặt tờ trình mật vào trong chiếc tráp nhỏ ở góc án thư, đoạn gõ một tiếng vào chiếc chuông đồng nhỏ treo bên cạnh án. Bóng viên quan hầu thân tín hiện ra ở nơi cửa ngách, chắp tay, cúi đầu. – Có tin tức gì từ Ung Châu10 chưa ? Lý Thường Kiệt hỏi khẽ. – Dạ bẩm, người của ta phái đi đã kịp về tới nơi… Viên quan hầu cũng khẽ khàng trả lời. – Cho vào hầu ngay! Tươi nét mặt nhưng vẫn không hết vẻ bồn chồn, Lý Thường Kiệt sửa lại bộ triều phục, tựa mình vào án thư, đợi. Một lát sau, từ nơi cửa ngách, hấp tấp tiến ra một bóng người khoác áo cà sa, cung kính vái chào: – Trình quan Đôn quốc Thái úy, tiểu tử đã về! – Miễn lễ – Lý Thường Kiệt chỉ chiếc đôn đặt cạnh án thư cho người khoác áo nhà sư – Bây giờ, ngươi khá vắn tắt nói cho ta hay công việc bên Tống triều rồi hãy thảo tờ trình kỹ lưỡng sau. – Dạ bẩm, tình hình ngoài biên lúc này rất khó. Tiểu tử nhờ tấm áo khoác này và tờ bằng sắc của nhà chùa nên mới tạm che mắt được người Tống ít lâu11- Ngồi nhón trên chiếc đôn, người thám tử của Lý Thường Kiệt vừa sửa lại nếp áo vừa nói nhỏ–Tống triều vừa cử quan Kinh lược an phủ sứ mới của Quảng Tây là Lưu Di thay Thẩm Khởi12. Di mới nhận chức đã hạ lệnh cấm ngay người Việt ta sang đất Tống buôn bán, đề phòng việc trà trộn dò xét tình hình của chúng. Khắp vùng Tả, Hữu Giang đều được lệnh phải nộp thuế bằng nhóc để tích trữ binh lương. Lại ra sức bắt dân vùng Khê Động tập trận, huy động cả thuyền muối để tập thủy chiến… – Quân đội chính quy của Tống triều đóng tại Ung Châu hiện nay động tĩnh thế nào? – Dạ bẩm, vẫn có một “tướng” gồm năm nghìn quân chực sẵn để đón và nhập vào đại binh từ phía bắc chưa biết lúc nào sẽ bất thần kéo xuống. Nhưng họ vừa chia quân, đặt năm trại Hoành Sơn, Vĩnh Bình, Thái Bình, Cổ Vạn và Thiên Long bao quanh thành Ung về phía nam, sát biên giới với ta để che chở cho Ung Châu, đề phòng ta đánh úp… – Chà, bọn này xảo quyệt thật - Lý Thường Kiệt chợt nghiến răng thốt lên, nhưng rồi lại giữ giọng nhẹ nhàng nói với người thám tử lợi hại Ngươi hãy lui về nghỉ ngơi tĩnh dưỡng và làm tờ trình cho thật đầy đủ! Đợi cho tấm áo cà sa nhẹ nhàng lánh vào tấm cửa ngách, Lý Thường Kiệt mới vươn tấm thân lực lưỡng đứng dậy, đi lại vài bước quanh án thư. Suốt buổi đại triều dự bàn công việc quốc gia đại sự với các đình thần, trở về đến phủ đệ lại dồn dập tình hình biên viễn bắc nam, vị võ tướng đương tuổi năm mươi nhăm sung sức làm việc mà cũng đã thoáng thấy thấm mệt. Nhưng, trước khi lục tráp, cầm lấy tờ mật trình về cựu thái sư Lý Đạo Thành ở châu Nghệ An13 để mang sang gian tư thất tiếp tục tra xét, Lý Thường Kiệt còn dặn với vào tấm cửa ngách: – Truyền sẵn sàng võng cáng để canh năm ngày mai ta vào bệ kiến Hoàng thái hậu! * * * Khi Ỷ Lan trở thành Hoàng thái hậu Nhiếp chính và Lý Thường Kiệt trở thành Tể tướng, Lý triều đang buổi hưng thịnh, quả cũng đang cần những con người sắc sảo và năng nổ ấy để cầm giữ các giường mối, đối với tình thế trong nước, ngoài biên, khiến cho non sông đang đà khởi sắc, càng nhanh chóng thịnh cường. Đúng là như cá gặp nước, Hoàng thái hậu Nhiếp chính Ỷ Lan và quan Đôn quốc Thái úy Lý Thường Kiệt, ở những địa vị mới của mình, đã thả sức thi thố những biện pháp dựng nước yên dân, khiến cho chỉ trong một thời gian ngắn mà thế nước và sức dân đã mạnh hẳn lên. Tiếng khen từ khắp nơi bay về càng làm nức lòng người nắm giữ quyền binh và càng thôi thúc lo toan những việc lớn hơn nữa, vào những lúc như lúc này… Sau khi dâng hầu trà nước xong, đám thị vệ và cung nữ đã lặng lẽ rút cả ra ngoài, gian điện Tập Hiền trở lại không khí trang nghiêm, im ắng. Khi ấy, Lý Thường Kiệt mới nói rõ ý định vào chầu của mình: – Tâu Hoàng thái hậu, thần vừa thu được những tin tức đáng ngại ở mạn biên cương phía Bắc. Tống triều như vậy là càng ngày càng ráo riết mưu toan xâm lấn. Chiến tranh sớm muộn ắt phải xảy ra, không tránh khỏi. Cho nên thần đã quyết định: Ngồi chờ giặc đến, không bằng đem quân ra trước…14 Ỷ Lan mở tròn đôi mắt: – Xưa nay chỉ có việc giặc đến thì ta đánh, chứ có bao giờ lại xảy ra việc nước nhỏ đánh trước nước lớn như vậy đâu? – Tâu Hoàng thái hậu, binh lực Lý triều mà thần ra công xây dựng bấy lâu, nay đã đủ mạnh để làm việc đó15. Vả chăng thần cũng sẽ chỉ nhằm vào thành Ung Châu là trung tâm chuẩn bị các cuộc ra quân xâm lược của Tống triều để mà triệt phá, còn sau đó thì sẽ lui về huy động thêm dân binh đánh giặc trên đất nhà… – Thôi được, việc binh nhung là sở trường của khanh, ta để khanh mặc sức lo liệu… – Tâu thái hậu - Lý Thường Kiệt bỗng trở nên đắn đo – Như vậy là thần sẽ phải cầm quân ra ngoài cõi một thời gian chưa biết bao lâu. Trong khi đó, công việc trong triều trăm phần bề bộn, không người cáng đáng giúp thái hậu là việc thần lo nghĩ đêm ngày. Cho nên, thần mới tính đến Lý Đạo Thành… Lần này thì Ỷ Lan ngạc nhiên thật sự: – Khanh quên rằng Lý Đạo Thành là người đã tôn phò Thượng Dương, kẻ thù của ta rồi sao? Vả lại, phải chăng trước đây khanh không phải là người chủ trương đưa Đạo Thành đi khỏi triều đình? – Tâu thái hậu, Lý Đạo Thành là lão thần của Lý triều, một thời giữ quyền tể tướng nên cũng là người biết việc - Lý Thường Kiệt quả quyết - Phạm lỗi, Đạo Thành bị đổi đi coi châu Nghệ An, nhưng việc ấy không phải là không gây chấn động trong lòng người. Chừng nào mà thần còn ở giữa triều đình thì sức chấn động ấy đành phải lắng xuống. Nay thần phải cất quân ra ngoài, việc triều đình sẽ không biết thế nào để lường được. Mà ở nhà nếu không yên thì tướng ra ngoài cõi cũng không thể đánh giặc… Chờ một lát cho nét mặt Hoàng thái hậu Nhiếp chính dịu lại, Lý Thường Kiệt nhẹ nhàng tiếp: – Vả chăng, Lý Đạo Thành từ khi vào coi châu Nghệ cũng không để xảy ra điều tiếng gì. Thần vừa được mật trình là ở nơi viễn châu ấy, Đạo Thành đã cho dựng chùa và mang theo thần vị của tiên đế để thờ. Đành rằng vua không được tế ở nhà thần bộc, cha không được thờ ở nhà con thứ16, nhưng việc làm ấy của Đạo Thành cũng chứng tỏ là Đạo Thành không có ý gì khác. Vậy nên, nếu bây giờ Hoàng thái hậu lại cho gọi Đạo Thành về triều, trao lại cho Lý lão thần chức Tể tướng như cũ, thần chắc chắn là chẳng những Đạo Thành sẽ hết lòng thay thần giúp thái hậu gánh vác công việc triều chính, mà lòng người ở đâu cũng đều sẽ yên hết! Vừa nói, Lý Thường Kiệt vừa lấy trong bọc ra tờ mật trình công việc ở châu Nghệ An dâng lên Ỷ Lan. Liếc qua tờ trình, Hoàng thái hậu nhà Lý bàng hoàng hồi lâu rồi nhìn thẳng vào mắt người đối diện mà truyền phán: – Quan Đôn quốc Thái úy! Không phải chỉ là việc quân sự mà cả việc chính trị nữa, khanh cũng là người khác vời. Tâm huyết của khanh với Lý triều và nước Đại Việt ta, cũng vừa sâu nặng, vừa rộng mở. Ta thật mừng mà có được một đại thần như khanh… II Những đợt gió lạnh cuối mùa thổi lộng trên sông Cầu. Trời đã sắp sang tháng Ba năm Đinh Tỵ17. Dãy chiến lũy dựng dài tít tắp trên bờ phía nam của dòng sông rộng, tua tủa nhô cao những cọc tre gai nhọn lên bầu trời xám âm u của miền trung du đất nước18. Trên một vọng tiêu đầu sông, người thợ mộc già phường Thái Hòa ở kinh thành co ro trong tấm áo lính rộng thùng thình. Từ giữa năm ngoái, nghe tin giặc Tống sắp vượt biên vào cõi, rất đông người kinh thành đã cùng với người từ khắp các miền đất nước đổ cả về một vùng dọc sông này, theo lệnh nguyên súy Lý Thường Kiệt, cấp tốc dựng lũy cắm chông, xây nên phòng tuyến khổng lồ này để chặn giặc. Người thợ mộc già phường Thái Hòa, khi ấy chẳng đợi phải ai mời giục, đã lẳng lặng xách hòm đồ nghề nhập cùng đoàn trai tráng trong phường, góp vào công trình thổ mộc vĩ đại này những nhát đục đẽo sắc bén, lợi hại của một đời làm thợ của mình. Kịp khi giặc tràn đến bờ bắc sông Cầu, nghe tin triều đình tuyển mộ thêm quân lính chống giặc, ông già Thái Hòa lại lẳng lặng đi gửi hòm đồ nghề, nhận lấy cây giáo và bộ áo lính ở nơi mộ quân, cùng với đủ hạng tuổi tác trong dân các miền, lúc này cũng đều hăm hở kéo lên chiến tuyến sông Cầu với một niềm tin sắt đá mà giản dị: có Thái úy Lý Thường Kiệt bách chiến bách thắng làm nguyên súy trong trận này. Và họ sẵn sàng theo lệnh Lý nguyên súy mà đổ máu ở ngay chính nơi họ đã đổ mồ hôi theo lệnh Lý nguyên súy ngày nào. Riêng ông già thợ mộc ở phường Thái Hòa thì đã sẵn mối quan hệ từ bao lâu nay với Lý Thường Kiệt, nên càng sẵn sàng tỏ rõ nghĩa khí của mình với vị nguyên súy Lý triều cùng quê, cùng tuổi. Trong tấm áo dân binh kinh thành, ông già bỗng nhận thấy một bóng người cao lớn đang từ phía trong đồng nhằm hướng vọng tiêu của mình, bước tới. Nắm chắc ngọn giáo dài trong tay, ông lão vươn người, nheo mắt nhìn. Bóng người đã tiến đến gần, cao lớn, đường bệ, nhưng lại khoác áo lính thường! Một khuôn mặt vuông vức với bộ râu ba chòm thật tốt, nom quen quen lạ lạ, ẩn dưới chiếc nón bịt chóp nhọn của lính phòng thành. Người dân binh già vội vã nghĩ đến phận sự. Xẵng tiếng, ông lão đòi người vừa tới đưa trình thẻ quân. Chẳng nói chẳng rằng, người lính phòng thành cao lớn chậm rãi lấy ra từ trong ngực áo một chiếc thẻ tre in hai chữ son đỏ “Vũ Thắng”19, đưa cho ông lão. Nhận ra hiệu quân của một đạo binh nổi danh triều đình mà tất cả các hàng dân binh cùng phối thuộc chiến đấu ở đây điều kiêng nể, người lính già có phần rụt rè khi trao lại tấm thẻ cho người vừa tới. Nhưng ông lão vẫn không quên liếc nhìn lại một lần nữa khuôn mặt chắc chắn đã từng gặp mà vẫn không sao gợi nhớ rõ ràng được. Lơ đãng quài tay cầm lại chiếc thẻ quân, người lính phòng thành cao lớn xoay người, dướn đôi lông mày nét mác, nhìn sang bên kia sông. Phía đó, xa tít, có những bóng người nhỏ xíu, mang sắc phục lạ, đang lăng xăng bên những cỗ máy bắn đạn đá, đặt ở rìa rừng. Phía sau chúng, lều trận như bát úp, chạy dọc mãi theo triền sông đến tận cùng tầm mắt. Nhô lên trên rừng lều trận đó là những ngọn cờ hiệu, chiếc cao, chiếc thấp, chiếc to, chiếc nhỏ. Không nhìn được rõ chữ, nhưng cũng có thể đoán được ra những tên “Triệu”, “Hoàng”, “Vương”, “Miêu”… in trên những lá cờ ấy của bọn tùy tướng, những tên đã từng nhiều phen tung quân sang phá lũy của ta, toan mở đường tiến thẳng tới kinh thành Thăng Long. Bởi đấy chính là đại binh viễn chinh của Tống triều. Một tràng tiếng thét lớn bỗng dội bật lên trên sông nước ngăn đôi trận địa hai bên: – Này quân ăn cướp! Có giỏi thì dẫn xác sang đây làm keo nữa đi! Giọng quát tháo rền rền như sấm động, vang xa đến hàng dặm, tưởng như không phải thoát ra từ cổ họng người thường nữa. Chiếc nón chóp của người cao lớn mặc áo lính Vũ Thắng vội xoay ngay về phía có tiếng thét. Từ một vọng tiêu xa xa dọc chiến lũy, một dáng hình lực lưỡng đang giơ cao ngọn giáo, vươn người về phía bên kia sông, đâm dứ như trêu chọc quân địch. Một nét cười thoáng hiện giữa chòm râu chải mượt trên khuôn mặt đăm chiêu, người lính Vũ Thắng khẽ lẩm nhẩm: – Phải là dân Hải Đông20 thì mới có được cái giọng dữ dằn đến thế! Ông già thợ mộc phường Thái Hòa thoáng nghe thấy câu ấy, cất tiếng bắt chuyện ngay: – Quả như vậy! Dân chài biển quanh năm phải thét gió quát sóng mà! Người cao lớn mặc áo lính thong thả quay lại, tiến một bước đến gần ngọn giáo của người dân binh kinh thành đang đứng canh chiến lũy sông Cầu, ngẫm nghĩ giây lát rồi nhận ra người quen cũ, thân mật hỏi: – Này, thế nào? Nhớ nhà chứ? Ông già phường Thái Hòa hơi ngạc nhiên, một lúc rồi bỗng nói : – A! Dạ, Quan Thái úy… Như thấy lỡ lời vì biết đây là Lý Thường Kiệt giả trang đi thị sát trận địa, không tiện lúc nói thật, ông già phường Thái Hòa vội vàng trả lời ngay cho kịp: – Nhớ thì cũng chẳng làm gì được! Nhưng mà… bác thì khác gì tôi nào? Người lính Vũ Thắng cao lớn khẽ cười: – Khác chứ! - Và đổi giọng nghiêm trang: - Liệu thế giặc ra sao? Đánh được không? – Sao lại không đánh được? Nhưng… có điều là… một tháng trời nhùng nhằng cầm cự mãi ở đây rồi… Nghe câu trả lời ấy, người cao lớn mặc áo lính lẳng lặng nhìn người lính già phường Thái Hòa một lần nữa, rồi chẳng nói chẳng rằng, quay lưng, đi xuống chân lũy. * * * Ngồi trong chiếc lều trận, nguyên súy Lý Thường Kiệt có dáng đăm chiêu suy nghĩ. Ông đã cởi bỏ bộ sắc phục lính Vũ Thắng vừa cải trang đi xem xét chiến trường. Tình hình chiến tranh đã diễn ra đúng như sự tính toán nấu nung trong bộ óc quân sự thiên tài của ông. Bằng đòn “đem quân ra trước”, ông đã chớp nhoáng đánh hạ thành Ung Châu, triệt phá hàng loạt căn cứ tiền phương của giặc, đập nát cơ sở chuẩn bị chiến tranh của chúng. Rồi đó, giữa lúc triều đình nhà Tống nháo nhào đối phó, ông đã ung dung đưa quân về, dựng nhanh phòng tuyến sông Cầu, sẵn sàng chờ giặc. Hiệp đầu của trận đánh, đã giành được phần thắng oanh liệt. Đến hiệp thứ hai này, ông cũng sẽ phải giành được phần thắng lớn như thế. Trong hiệp này của trận đánh, quyết tâm xâm lược và phục thù của Tống triều thật là lớn. Vì vậy mà, tuy vấp phải vô vàn gian khó do thất bại ở hiệp đầu, Tống triều vẫn gắng sức huy động một đạo binh lớn gồm 10 vạn lính chiến và 20 vạn lính hậu cần21 tràn xuống đất đai Đại Việt. Bằng kế sách “nhử địch vào sâu”22, cắt rời thủy quân và bộ binh của chúng, rồi chặn chúng ở phía trước, phá chúng ở phía sau, Lý Thường Kiệt đã làm cho các cánh quân viễn chinh của giặc phải nhiều phen lao đao, khốn đốn. Nhưng quân giặc cũng đã gây cho vị nguyên súy Lý triều những gian lao vất vả chẳng kém. Bữa trước, một mũi nhọn kỵ bộ của giặc, do các tùy tướng Miêu Lý, Hoàng Kim Mãn chỉ huy, đã bất thần vượt bến Như Nguyệt23, phá được một đoạn phòng tuyến của ta và những toan tràn thẳng đến Thăng Long. Thế trận tưởng đã bị đảo lộn, nhưng sau đấy, đại binh của ta được điều từ phía sau lên, đã cố sức dồn được bọn giặc về bên kia sông. Lý Thường Kiệt biết rằng đấy là những cố gắng cuối cùng của giặc trong hiệp thứ hai này của trận đánh. Bọn tùy tướng của giặc có thể còn hung hăng, nhưng những tên chủ soái của chúng: chánh tướng Quách Quì, phó tướng Triệu Tiết – những danh tướng của Tống triều mà ông đã dày công theo dõi từng cử chỉ và ý đồ - thì rõ ràng đã bải hoải tận gan ruột rồi! Thám tử của ta, được tung sang trận giặc, vừa báo về một mật lệnh của chính tướng Quách Quì mà họ đã dò được: “Phải án binh bất động, không ai được đánh nữa, kẻ nào bàn đánh sẽ bị xử chém!”24 Như vậy là đã sắp đến lúc chuyển sang hiệp cuối cùng của toàn bộ cuộc chiến: phản công. Các hoàng tử Hoằng Chân và Chiêu Văn, điều bát thủy quân Đại Việt tập kết ở khúc cuối sông Cầu, đã được lệnh của nguyên súy Lý Thường Kiệt chuẩn bị vượt sông tấn công vào quân doanh Quách Quì đóng ở mạn ấy. Còn đích thân nguyên súy Lý Thường Kiệt thì sẽ dẫn đại binh, dùng ngay đường bến Như Nguyệt mà giặc đã sử dụng, đánh thẳng vào quân doanh của Triệu Tiết đóng sâu ở chỗ đối diện, bên kia sông. Đây sẽ là những đòn sấm sét của quân đội Đại Việt, nhằm quét giặc Tống ra khỏi cõi bờ, giữ yên non sông gấm vóc mà suốt một đời theo đuổi binh nghiệp, Lý Thường Kiệt không lúc nào vơi nhiệt huyết dâng trọn tài năng và lòng thành của mình. Một cơn gió mạnh lùa qua màn cửa, lọt vào trong lều. Cành hoa mai cắm trên án thư rơi nhẹ mấy cánh xuống cuốn binh thư đọc dở, mở dưới bóng hoa. Nhìn những cánh hoa trắng đã ngả sang màu ngà, vị nguyên súy Lý triều thầm nhủ: – Thế là sắp hết xuân rồi… Và ông mỉm cười: “Xuân này, mải chuyện chống giặc, ta chưa khai bút được bài thơ xuân nào…” Bất giác, trước mắt Lý Thường Kiệt hiện ngay ra hình ảnh một chú học trò nhỏ, tóc để trái đào, ngày nào cũng men theo con đường xanh mướt thướt tha bóng liễu ven hồ Mù Sương25 để từ phường Thái Hòa ngược lên phường Bái Ân26 theo học ở trường tập văn của danh sư Lý Công Ẩn đông nghịt học trò. Thầy Lý Công Ẩn tuy nhiều học trò như vậy mà ngày ấy vẫn đặc biệt chú ý đến trò nhỏ Ngô Tuấn, tướng võ lộ thật rõ, nhưng làm thơ thì lại thật hay… Hồn thơ bỗng thức dậy trong lòng vị nguyên súy Lý triều. Xung quanh vẫn yên lặng như tờ. Nhìn đăm đăm vào mấy cánh hoa nằm trên những dòng chữ binh pháp, Lý Thường Kiệt lại thấy thấp thoáng giữa những nét chữ hiện dần ra cả một vườn mai trắng rực ở trước cung vua, trong ngày ông vào cung bái biệt để làm lễ xuất quân. Vua Lý Nhân Tông, vừa mười hai tuổi, vẫn theo đúng điển lễ, xúng xính tấm hoàng bào, tự tay dắt ngựa dẫn cỗ xe trận của vị đại nguyên súy lăn bánh một quãng đường. Đi theo cạnh cỗ xe, một bên là Hoàng thái hậu Nhiếp chính Ỷ Lan, một bên là Thái sư Tể tướng Lý Đạo Thành, trịnh trọng vịn tay vào thành xe, đẩy chầm chậm. Và rồi, trước khi rời tay đẩy xe để chiến mã tung vó đưa Lý Thường Kiệt ra chiến trường, Tể tướng Lý Đạo Thành mới từ viễn châu Nghệ An trở về còn ân cần nắm lấy tay người cộng sự trọng đại của mình, đoán chắc với quan Đôn quốc Thái úy rằng, mọi việc ở nhà, sẽ có người hết lòng lo liệu, để cho vị tướng ở cõi ngoài vững trí, yên tâm… Một niềm phấn chấn trào dâng lâng lâng khắp tâm hồn, Lý Thường Kiệt thong thả với tay cầm lấy cây bút lông dầm vào nghiên mực. Đôi mày nét mác nhíu lại rồi giãn ra, Lý Thường Kiệt đắn đo cân nhắc hồi lâu rồi bỗng ngẩng cao đầu, ngồi thẳng dậy. Vị nguyên súy Lý triều vung tay, lia nhanh cây bút trên trang giấy. Những hàng chữ đen nhánh nối nhau chạy vùn vụt, nét chữ tươi như cắt. Và cuối cùng, Lý Thường Kiệt buông bút, thong thả đứng lên. Dõi mắt nhìn mãi ra xa, nhà thơ võ tướng khẽ hắng giọng, cất tiếng ngâm ngợi: “Nam quốc sơn hà, Nam đế cư Tiệt nhiên định phận tại thiên thư. Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư”27 Cầm tờ giấy thơ, Lý Thường Kiệt lại thong thả ngồi xuống kỷ. Nhìn lại những hàng chữ còn ướt mực, nhà thơ võ tướng thấy niềm tin sắt đá ở chiến thắng và non sông của ông đã được thi phẩm thể hiện tinh tế. Nhưng làm sao truyền được niềm tin mạnh mẽ này cho quân sĩ để họ sẽ cùng ông dấn lên trong hiệp đánh cuối cùng sắp tới? Hình ảnh ông già cùng tuổi và cùng quê ở kinh thành vừa tình cờ gặp gỡ trên chiến lũy hiện ngay ra, khiến Lý Thường Kiệt vừa thấy cảm kích, thú vị, lại vừa thấy ái ngại, âu lo. Trận đánh cầm cự kéo dài đã khiến quân ta cũng có phần nào sốt ruột, mệt mỏi rồi chăng? Đôi mày nét mác cau lại, vị nguyên súy Lý triều cúi đầu suy tính hồi lâu… Bỗng nhiên, Lý Thường Kiệt lại đứng phắt dậy. Mạch nghĩ từ người lính già phường Thái Hòa đã dẫn ông đến chỗ vụt nhớ tới giọng thét như sấm rền của người lính Hải Đông trên chiến lũy. Một ý định thoáng hiện ra như làn chớp, Lý Thường Kiệt mừng rỡ truyền lệnh cho quân hộ vệ đi lên chiến lũy tìm ngay người lính Hải Đông về lều trận của mình. Không phải đợi lâu lắm, quân hộ vệ đã tìm được người lính Hải Đông đưa về. Chàng trai miền biển có giọng nói của Thiên lôi ấy vẫn còn ngơ ngác và cảm động, không hiểu vì sao lại có vinh dự được nguyên súy vời đến tận nơi trướng lệnh để gặp mặt. Nhưng chẳng để mất thì giờ, Lý Thường Kiệt đã cho đuổi hết tả hữu ra khỏi lều, rồi vẫy gọi người lính trẻ lại gần, trao cho bài thơ vừa thảo xong, và hỏi: – Người đọc được chứ? – Dạ, tiểu tốt cũng võ vẽ dăm ba chữ! – Thế thì được rồi - Lý Thường Kiệt vui vẻ - Ngươi giữ lấy bài thơ này, học cho thuộc, rồi tìm cách đọc thế nào để cho cả quân ta lẫn quân giặc đều nghe thấy, được chứ? Giọng của ngươi là giọng trời cho đó! Người lính Hải Đông lẩm nhẩm đọc bài thơ và chợt hiểu ra ý định sâu xa của vị chủ tướng. Chàng trai biển nở nang mặt mày, ấp úng mãi mới nói được : – Dạ… tiểu tốt xin làm ngay.. Nhưng vừa toan vái chào chủ tướng để quay ra, người lính trẻ đã ngập ngừng dừng lại. Đắn đo một chút, chàng trai biển cố hạ giọng để nói cho được nhỏ: – Bẩm nguyên súy… ở gần cửa sông có một… ngôi miếu thờ hai ông thần sông rất lớn28 ! Dân chúng quanh miền này đều nói rằng các vị rất thiêng, vẫn thường hiển thánh để truyền dạy cho dân những điều phải trái - Đổi giọng tinh nghịch, người lính Hải Đông nói tiếp - Dạ, đêm nay, tiểu tốt xin mạo muội nấp trong miếu để đọc thơ… Lý Thường Kiệt mở to mắt lắng nghe rồi bỗng mỉm cười, nhìn chàng trai Hải Đông chằm chằm. Ý định của người lính trẻ thật táo bạo! Kết quả lạ kỳ chắc sẽ không thể lường hết được! Bắt giác, vị nguyên súy Lý triều thân mật vỗ vai người lính trẻ, khiến chàng trai biển sung sướng đỏ lựng cả mặt mày: – Được! Làm ngay đi! Nhưng phải giả giọng cho khéo và nhớ giữ gìn cho thật cẩn mật! * * * Trận đánh đột nhiên nổ ra và kết thúc nhanh chóng. Thây giặc Tống nằm ngổn ngang khắp trên hàng rào chiến lũy, dưới bãi đất ven sông. Hàng chục chiếc bè ghép tạm, vừa chở quân giặc vượt sông, giờ nằm vật vờ sát mé nước. Bọn tùy tướng Tống triều thấy mùa hè đã sắp tới mà vẫn chưa qua nổi sông Cầu, đã cố gắng thuyết phục được chủ tướng Quách Quỳ lao một cánh quân nữa sang sông, đánh thông một lần nữa con đường máu tiến về kinh đô Đại Việt. Nhưng quân ta đã kìm ngay chúng lại ở bến sông và diệt sạch, không còn một mống! Chưa bao giờ quân ta lại xuất trận dũng mãnh đến thế. Tin báo giặc vượt sông tiến công vừa đưa về đến lều trận của Lý Thường Kiệt, và vị nguyên súy Lý triều vừa điều bát tướng sĩ kéo quân ra bến sông trợ chiến, thì lực lượng quân quan canh phòng chiến lũy đã tự lực cả phá quân giặc rồi. Trên bến sông, Lý Thường Kiệt gặp lại người thợ mộc phường Thái Hòa. Ngọn giáo dài của người dân binh, trong lúc xung sát, đã bị gẫy làm đôi: cán nằm lại trong tay chủ, còn mũi thì vẫn ghim ở ngực một tên giặc nằm dưới chân lũy. Người lính già, một tay cầm cây giáo gẫy, một tay nắm thanh kiếm chuôi ngà vừa cướp được của một tên tùy tướng giặc, phấn chấn nói với Lý Thường Kiệt: – Bẩm nguyên súy, quân ta quả là có thần nhân giúp rập thật! Chẳng thế mà hôm nay một địch mười mà vẫn không núng! Lý Thường Kiệt khẽ mỉm cười, hỏi: – Thần nhân nào ? – Bẩm nguyên súy, người không nghe thấy sao? Tất cả anh em chúng tôi ở đây đều nghe rõ tiếng thần sông trong miếu truyền thơ đêm trước. Giọng thơ vang như sấm động, nhắc đi nhắc lại đến mấy lần. Quân Tống bên kia sông cũng nghe thấy, đứa nào đứa nấy đều sợ hãi mất mật29… Người lính già nói một hơi dài. Lý Thường Kiệt vẫn giữ nụ cười trên khóe miệng: – Bài thơ như thế nào? – Dạ, anh em chúng tôi ở đây đều bảo nhau học thuộc cả. Thơ thần chỉ có bốn câu như thế này… Ông già hăm hở đọc lại một lượt bài thơ “Sông núi nước Nam”. Nghe lại chính thơ của mình, qua giọng đọc sôi nổi của người lính vừa lập chiến công, Lý Thường Kiệt cũng thấy xúc động dạt dào. Vị nguyên súy Lý triều bảo người lính già cùng tuổi, cùng quê với mình: – Quân ta có những người hăng hái dũng mãnh đánh giặc giữ nước như ông, thì có khác gì được thần giúp! Lý Thường Kiệt chưa dứt lời thì trên bờ sông, tiếng thét lớn như hôm đi thị sát ông đã gặp, lại bỗng dội cao trên mặt nước: – Này, quân ăn cướp! Có giỏi thì dẫn xác sang đây làm keo nữa đi! Đó chính là người lính trẻ vùng Hải Đông. Lý Thường Kiệt và người thợ mộc phường Thái Hòa cùng quay nhìn ra dòng sông Cầu đang cuồn cuộn trôi xuôi những xác giặc. Bên trận quân Tống vắng lặng như tờ. Nhìn cảnh ấy, Lý Thường Kiệt nghĩ đến những đòn cuối cùng của trận đánh mà nhân đà phấn chấn này của quân sĩ, ông sẽ cho phóng ra, sớm hơn dự tính. * * * Không khí trong gian lều trận của vị nguyên súy Lý triều bỗng trở nên căng thẳng khác thường. Hai chiếc bản nhỏ kê gần hai bên cửa lều, túm tụm những tùy tướng chuyên trách các việc truyền tin và phát lệnh. Quân tế tác30 nối dài hai dãy từ đấy ra ngoài, sẵn sàng chạy hiệu. Đám thân quân hộ vệ chủ tướng xúm xít trước cửa lều trận. Và phía sau, thủ túc của những đô tướng mà Lý Thường Kiệt đã cất cả về các cánh quân đang giấu kín trong miền, cũng túc trực để sẵn sàng mang lệnh từ nơi lều trận của Lý nguyên súy về các nơi đóng quân của các đô tướng. Chính giữa gian lều trận, oai nghiêm trong bộ giáp trụ sáng loáng, Lý Thường Kiệt ngồi thẳng người trên chiếc ghế trải da cọp. Chiếc kỷ thấp, đặt vừa tầm tay phải, lô nhô những ống lệnh tiễn, mỗi ống mang một loại thẻ tre có dấu son khác nhau, để tiện đánh dấu những hiệu lệnh tiến, lui, công, thủ, của vị chỉ huy tối cao trong loạt trận đánh sắp mở màn. Với sáu vạn chiến binh dưới trướng31, Lý Thường Kiệt đã cân nhắc nát óc để có thể giáng những đòn trí mạng vào đại binh Tống triều trong hiệp này. Lũ quan quân xâm lược ở bên kia sông đã dồn lực lượng của chúng thành hai cụm : một ở trước Thị Cầu32, do chính chủ tướng Quách Quì chỉ huy, một ở trước Như Nguyệt, do phó tướng Triệu Tiết chỉ huy. Suy đi tính lại, Lý Thường Kiệt đã quyết định nhằm chính vào cánh quân Triệu Tiết này để hạ một đòn trời giáng, tạo một chấn động toàn bộ cho đại quân Tống triều. Muốn vậy, phải làm cho Triệu Tiết bị bất ngờ trong sự trễ tràng phòng ngự của hắn, và tốt hơn nữa thì hút bớt được cả lực lượng của hắn đi. Như thế thì, tuy đánh đòn chủ công, nhưng sẽ chỉ dùng được kỳ binh ở Như Nguyệt. Còn chính binh thì sẽ trống giong cờ mở, tấn công vào quân doanh Quách Quì ở phía Thị Cầu. Trong lúc quân Tống dồn cả vào chỗ mà chúng tin chắc là chính trận như thế, kỳ binh sẽ bất ngờ ra quân đánh đòn chính ở Như Nguyệt. Sự biến hóa kỳ ảo của binh pháp như thế, chắc chắn bọn Quách Quì, Triệu Tiết sẽ không thể lường được. Người lính tế tác đầu tiên từ phía Thị Cầu chạy tin về lều trận của nguyên súy Lý triều đã đưa tin tức tới trước cửa. Lý Thường Kiệt chống tay lên thành ghế, nhổm người về phía trước, nghe một viên tùy tướng báo lại : – Các hoàng tử Hoằng Chân và Chiêu Văn đã dẫn bốn trăm chiến thuyền chở hai vạn quân vượt sông, vừa hò reo quát tháo, vừa đánh vào trại giặc… Trận đánh đã mở màn! Gian lều nguyên súy hoạt động hẳn lên. Và tin tức cứ thế mà nối nhau báo về: – Quân ta đã giao chiến cùng quân giặc. Tống binh bị chết rất nhiều. Tiền quân Tống triều đã tháo chạy vào trong núi! – Chủ tướng Quách Quì của giặc đã tự dẫn đạo thân binh của hắn ra ứng cứu, thấy cả hiệu cờ của các tùy tướng Yên Đạt, Lý Tường, Diên Chủng… Lý Thường Kiệt rút ra một cây lệnh tiễn: – Truyền cho hai hoàng tử không được ham đánh. Hễ giặc có thêm viện binh kéo tới thì phải lui quân! Lính chạy hiệu từ ngoài lều trận, phóng ngựa lao đi như tên bắn, trong khi từ phía Thị Cầu, tin tức vẫn chạy ngược trở về: – Quân ta đang tiến sâu vào đất giặc. Đã cướp được một lá cờ tướng… – Chủ tướng Quách Quì đã phải cho gọi thêm quân của Triệu Tiết đến ứng phó! Đôi mày nét mác của Lý Thường Kiệt thoáng giãn ra khi nghe tin này, nhưng rồi lại cau lại khi có tin báo tiếp: – Xuất hiện hai đạo kỵ binh của giặc. Cờ hiệu dẫn đầu mang tên các tùy tướng Trương Thế Cự và Vương Mẫn! Lý Thường Kiệt rút nhanh cây lệnh tiễn thứ hai: – Truyền cho hai hoàng tử tránh kỵ binh của giặc mà đưa quân trở về! Giặc đã phải tung ra những đạo binh tinh nhuệ lợi hại nhất của chúng. Như vậy là đòn đánh dứ bằng chính binh của ta đã có hiệu quả. Chỉ còn ngại là các tướng trẻ của ta quá ham đánh mà không tính đến tổn thất… Lý Thường Kiệt lại chọn lấy cây lệnh tiễn có dấu hiệu khẩn cấp nhất mà truyền lệnh: – Hoằng Chân, Chiêu Văn phải lập tức lui quân ! Trời đã ngả về chiều. Trận đánh mở màn có thể kết thúc. Lý Thường Kiệt với chiếc ghế hổ, bước ra cửa lều trận. Phía Đông, nơi trận đánh vừa nổ ra, nền trời bỗng đùn lên một đám mây đen, mỗi lúc một lớn. Dưới nền trời vần vụ đó, một bóng ngựa phi như tên bắn trở về. Lý Thường Kiệt bước vào lều, và nghe được một tin báo dữ dội: – Quân ta đã trở về bờ nam ngạn. Nhưng chiến thuyền của hai hoàng tử đi sau cùng, bị trúng đạn từ máy bắn đá của giặc. Các hoàng tử và đội thân quân đều chìm theo thuyền33… Trận đánh lẽ ra đã thành công lớn, nếu không có tổn thất này! Nhưng Lý Thường Kiệt chỉ yên lặng một lúc rồi đanh nét mặt lại. Rút một loạt lệnh tiễn, ông truyền cho các đô tướng của mình, đúng giờ Tý34 đêm nay, sẽ phải bất ngờ vượt sông, xung trận. Lý Thường Kiệt đã quyết định khai thác ngay những thuận lợi mà trận đánh mở màn vừa tạo ra. Và cũng là để trả thù cho những người vừa hy sinh vẻ vang cho hiệp đánh cuối cùng này. Lệnh truyền xong, vị nguyên súy Lý triều chậm rãi tiến ra cửa lều. Và đi thẳng đến chỗ bố trí đám thân quân của mình. Đêm ấy, nguyên súy Lý Thường Kiệt đã thân chỉ huy đạo kỳ bình ở phía mặt trận Như Nguyệt đánh trúng vào quân doanh Triệu Tiết, rất đúng lúc và đúng dự định. Đòn sấm sét từ chính tay ông giáng xuống lũ Tống binh đang hý hửng, khảng tảng sau trận đánh ở phía mặt trận Thị Cầu, đã dẫn đến kết quả ghê gớm: quá nửa quân doanh Triệu Tiết bị tiêu diệt35! Và, sau trận ấy, cũng đúng như dự kiến thiên tài của vị nguyên súy Lý triều, cả đạo binh viễn chinh của Tống triều đã bủn rủn rung động, không sao gượng lại nổi, nên đã buộc phải cuốn cờ, rùng rùng rút chạy khỏi cõi bờ Đại Việt36. III Ra khỏi cuộc chiến tranh chống Tống với vòng hào quang chiến thắng quanh vương miện, vương quốc Đại Việt sải chân bước nhanh trên con đường cường thịnh, văn hiến. Vua Lý Nhân Tông cũng trưởng thành và ngày càng tỏ ra là một hoàng đế trị vì có bản lĩnh. Đã đến lúc Hoàng thái hậu Ỷ Lan phải cuốn lá rèm vẫn ngồi nhiếp chính ở đại điện Càn nguyên để lui về cấm cung, yên hưởng hạnh phúc nhàn tản của người làm mẹ vua. Tể tướng Lý Đạo Thành già yếu, đã mất 5 năm sau ngày chiến thắng. Giữa triều đình, chỉ còn lại Đôn quốc Thái úy Lý Thường Kiệt, giờ đã lên hàng lão thần đáng trọng vọng với tuổi sáu mươi ba, và càng được trọng vọng bởi công lao không ai sánh nổi trong suốt những tháng năm hết lòng dựng nước và giữ nước vừa qua. Uy tín của vị lão thành ở giữa triều đình khiến sự trị vì của nhà vua mười bảy tuổi Lý Nhân Tông có phần kệnh vướng. Nhận thấy vùng đất phía nam của địa bàn Đại Việt khi ấy cần phải mở mang, gây dựng cho kịp với miền đất quanh kinh kỳ, hoàng đế Lý triều quyết định đổi vị lão thần của mình vào trị nhậm lâu dài ở nơi xa xôi đó. Cả triều đình ngơ ngác, bàng hoàng trước quyết định của nhà vua. Nhưng triều thần chỉ thấy quan Đôn quốc Thái úy, không chút nề hà, đã vui vẻ rời kinh thành, ra đi. Mười chín năm vào sống ở Thanh Hóa, Lý Thường Kiệt đã làm thay đổi hẳn miền đất này. Tài năng, đức độ và sự năng nổ của một nhân vật từng trải nhiều năm đảm nhiệm những việc trọng đại của cả một quốc gia, hẳn thừa để giúp ông thi thố những công đức chỉ trên một miền đất nước như miền Thanh Hóa37. Tuy vậy triều đình vẫn trông ngóng ông. Thăng Long mong đợi ông. Và tòa phủ đệ ở phường Thái Hòa cũng chờ đợi ông… Cho đến một ngày, tòa phủ đệ ấy, sau mười chín năm vắng lặng, bỗng nhiên lại tấp nập những bóng thợ thuyền và lính tráng vào ra, dọn dẹp, sửa sang, tô điểm gấp gáp những chỗ đổ nát, vỡ hỏng ở trong nhà, ngoài vườn… Người thợ mộc già ở phường Thái Hòa, cùng quê và cùng tuổi với Đôn quốc Thái úy, dĩ nhiên cũng sẽ có mặt ở tòa phủ đệ vốn chẳng xa nhà mình. Ông lão ngoại tám chục tuổi, giờ đã già yếu lắm, nhưng mối tình gắn bó tự nhiên với người đồng tuế đồng hương đáng kính trọng thì vẫn như xưa. Hòm đồ nghề của ông lão vẫn cùng với bàn tay cầm dùi đục, tuy không còn vững vàng chuẩn xác nữa, nhưng vẫn tham gia mê mải vào đủ mọi việc trong tòa phủ đệ. Và vừa làm việc, ông lão vừa lắng tai nghe ngóng những thợ bạn chuyện trò rôm rả bên bồn hoa, trên giàn giáo… Chẳng ai bảo ai mà các câu chuyện cứ dồn lại quanh những điềm gở mà gần đây, mỗi ngày lại mỗi thêm nhiều. Chẳng hạn, một người lính tròn mắt kể lại câu chuyện Thái sư Lê Văn Thịnh - người thay quan Đôn quốc Thái úy làm tể tướng ở triều đình - bỗng nhiên đi thi thố phép lạ lọc được ở nước Đại Lý38 để hóa thành hổ dữ, toan hại vua39. Một người thợ sợ hãi nhắc lại cảnh trời rung đất chuyển năm Dần vừa qua40. Một người thợ nữa kể chuyện đi chôn những xác người mắc dịch năm Thìn41… Các chuyện lạ cứ râm ran bên tai người thợ mộc già, trong khi ông lão chỉ yên lặng ngẫm nghĩ: đấy chẳng qua chỉ là điềm trời xui khiến để hoàng thượng phải nhớ đến vị lão thần ở nơi xa mà gọi về đó thôi! Quả nhiên, đúng như vậy! Quan Đôn quốc Thái úy Lý Thường Kiệt đã nhận được chiếu chỉ của hoàng đế trị vì triệu về kinh thành sau mười chín năm xa vắng. Tòa phủ đệ ở phường Thái Hòa đang được sửa gấp cũng là vì lẽ đó… * * * Trong gian sảnh đường vừa mới được sửa sang lại, Lý Thường Kiệt đang ngồi tiếp chuyện riêng người thợ mộc giả cùng tuổi, cùng phường với mình. Nép bên ông lão phường Thái Hòa là một cô gái mới chín tuổi nhỏ mà đã hết sức đẹp xinh, linh lợi. Cô gái bé lé mắt qua vai áo ông già mà nhìn vị đại quan đầu triều đường bệ tựa mình vào án thư ở trước mặt. Thân hình to lớn, đôi lông mày nét mác trên khuôn mặt phương phi, vẫn là bóng dáng vị nguyên súy trên chiến lũy sông Cầu từ năm xưa mà cô bé hằng nghe truyền tụng. Duy chỉ có đầu tóc và bộ râu ba chòm dài mượt đến rốn của vị lão thần thì đã bạc trắng như cước rồi… Tiếng người thợ mộc già run run nói với Lý Thường Kiệt : – Tôi thì đã xuống sức quá thể, cho nên lần ra quân đánh giặc này, chắc là không còn dịp để xin cắp giáo theo hầu dưới trướng được nữa. Thật khổ tâm cho tôi, con cháu ruột già chẳng còn ai nữa để cậy nhờ việc này. May mà có đứa cháu nuôi đây… - Ông lão chỉ vào cô bé - Cháu nó tên Hoa, họ Trần. Bố nó vốn người Thanh Hóa, từng được gội ơn mưa móc của quan Đôn quốc Thái úy khi người trị nhậm trong đó, nhưng chắc Ngài chẳng có dịp để ý đến. Giờ thì cha con ra làm ăn ở phường Đại Bi ở cạnh phường Thái Hòa ta đây42. Cha con nó biết tôi là chỗ có thể thưa chuyện với quan Đôn quốc Thái úy, nên mới cậy tôi trình với Ngài để xin mở lượng cho cả cha con nó cùng được tòng chinh phen này… Tôi biết đây là việc khó, vì cháu nó là phận gái, nhưng thấy cha con nó quá tha thiết, nhất là con bé thì cứ sôi lên vì chuyện đánh giặc, nên thân già này dù sao cũng thấy ấm lòng, coi như có nó để thay cho phận mình đóng góp với nước non… Lý Thường Kiệt lặng người bên án thư trước sự việc lạ lùng mà tràn đầy hào khí đó. Không thể nào từ chối những tấm lòng nhiệt tình như thế, ông để cho hai ông cháu người thợ mộc tạm ra về, rồi sau đó, bước lên chiếc cáng gấm màu tía vào triều với tâm trạng bừng bừng cảm kích. Vua Lý Nhân Tông hôm nay mở đại triều ở điện Càn Nguyên để nghe đình thần nghị bàn việc ra quân đánh giặc ở biên giới phía nam. Đây cũng là điều mà thiên hạ đang xốn xang chờ đợi. Bởi từ nhiều hôm trước, khi những bóng ngựa lưu tinh từ phía nam sải vó phóng như bay ra kinh thành, dân chúng các phường phố đã nhanh nhạy túm tụm lại để nghe ngóng sự tình. Thế rồi, một đồn mười, mười đồn trăm, tin dữ cứ thế mà bay đi: vua Chế Ma Na của nước Chiêm Thành đã động binh vào cướp đất ba châu Địa Lý, Ma Linh và Bố Chính43 ! Nước Đại Việt bị xâm phạm! Chắc chắn là phải có chiến tranh! Thế là, không ai bảo ai, mọi người đều rộn rịch thu xếp, chuẩn bị. Việc đã thành nếp rồi! Trong khi đó, chuyện bàn nghị giữa triều đình cũng đang vào lúc sôi nổi. Một vị văn quan xuất ban quì tâu: – Muôn tâu thánh thượng, người Chiêm động binh phen này, ngoài Chế Ma Na là tay kiệt liệt, còn có phản thần Lý Giác ở Nghệ An chạy sang ám trợ. Giác là kẻ học được pháp thuật lạ, có thể biến được cỏ cây thành người44. Chúng thần rất lấy làm lo lắng… Vua Lý Nhân Tông từ trên bệ ngọc chau mày phán: – Vậy trẫm muốn hỏi các khanh xem ai là người có thể dẹp yên được giặc? Câu hỏi vừa bay ra, cả trăm cặp mắt trong tòa đại điện đều đổ dồn cả về chỗ Lý Thường Kiệt, râu tóc bạc phơ, đang đứng sừng sững như một cột trụ ở đầu hàng văn võ bá quan. Từ võ ban, một bóng người quì xuống: – Muôn tâu bệ hạ, việc này phi quan Đôn quốc Thái úy thì không còn ai lo nổi… Vua Nhân Tông từ trên bệ ngọc lại chau mày: – Quân giặc là tay kiệt liệt. Vì thế phải chọn tướng trẻ mà cho đi đánh nó. Thường Kiệt dự việc binh lâu năm, nay đã già rồi. Nếu bây giờ trẫm lại giao cho việc binh thì không đành lòng trẫm muốn đãi kẻ lão thần! Cả gian điện yên lặng, một không khí yên lặng, nặng nề kéo dài. Chính lúc ấy, Lý Thường Kiệt từ từ rời chỗ đứng tiến ra giữa sân rồng. Đã có lệ miễn quỳ lạy cho các đại thần trên tám mươi tuổi, thành ra vị Đôn quốc Thái úy râu tóc một màu trắng toát chỉ vòng tay giơ cao trước mặt mà cất giọng sang sảng: – Muôn tâu thánh thượng, tôi vốn là kẻ đã tự rèn cho mình cái nghiệp của người làm tướng. Trước đây, mấy lần ra quân45, tôi may mắn được thành công. Đó là nhờ đức thiêng của Bệ hạ và sự gắng sức của các tướng thần. Nay lại nhờ ơn nước, tôi được dự vào hàng ngôi cao, lộc trọng. Thế mà nếu cứ ngồi yên xem giặc kiêu rông, thì tôi có chết cũng nhất định không nhắm được mắt!46. Đưa bàn tay gân guốc vuốt mạnh chòm râu bạc. Lý Thường Kiệt bừng bừng nét mặt, đưa cặp mắt sáng quắc nhìn khắp hàng bá quan văn võ. Cả triều đình nhà Lý bàng hoàng đứng lặng. Chỉ có vua Nhân Tông lật đật bước xuống chín bậc thềm rồng, cảm động nắm lấy bàn tay vị lão thần. Việc chọn tướng đi đánh giặc như vậy là đã được quyết định. * * * Triều đình nhà Lý và kinh thành Thăng Long lại một lần nữa đưa tiễn Lý Thường Kiệt ra đi. Trong lễ xuất quân long trọng mà hào hùng, sau khi thân dắt cỗ xe trận của vị nguyên súy đi một quãng đường, vua Lý đã trở về hoàng cung. Bây giờ, đã đến lúc quan Đôn quốc Thái úy xuống xe, lên ngựa. Hai người lính hộ vệ thân tín đỡ vị lão tướng trèo lên lưng chiến mã. Dưới lá cờ súy mang một chữ “Lý” cực lớn, Lý Thường Kiệt lỏng tay cương cho con ngựa bạch cao lớn thong thả gõ móng, dẫn đầu đoàn quân gươm giáo sáng lóa, trùng điệp kéo đi. Nhìn người lão tướng vươn mình trên lưng ngựa, râu tóc, giáp trụ và sắc ngựa một màu trắng toát, nhiều người dân kinh thành cảm động không cầm nổi nước mắt. Phải, con người lại một lần nữa ra đi kia, thật đã suốt một đời chẳng biết nề hà gì. Cần hy sinh một phần thân thể cũng như cả gia đình và dòng dõi riêng tư để cho được việc lớn, con người đó đã chẳng nề hả. Cần phải đảm đương những việc tày trời trong lúc vận nước như nghìn cân treo sợi tóc, con người đó cũng đã chẳng nề hà. Vinh quang đã đến tột đỉnh, nhưng cần phải rời bỏ cả danh vị lẫn chức quyền, con người đó cũng đã chẳng chút nề hà. Và bây giờ, gần chót cuộc đời, nhưng khi cần phải bảo toàn bờ cõi, con người đó lại cũng chẳng hề nề hà… Nhìn vị lão thần suốt một đời tận tụy vì non sông Đại Việt đang ra đi chinh chiến như thế, có người đã quay mặt gạt thầm những giọt nước mắt thương cảm cho khỏi sái buổi ra quân. Trong khi đó, vị lão tướng vừa chẵn tám mươi nhăm tuổi, vẫn vững vàng trên yên ngựa, nhìn thẳng về phía trước, dẫn đầu đoàn quân trẩy đi. Không phải để ý nhiều, Lý Thường Kiệt cũng biết rõ lòng dân đối với mình. Vị lão tướng còn biết chắc rằng, trong đám đông chen chúc tiễn mình kia, thế nào cũng có mặt ông già thợ mộc phường Thái Hòa suốt đời gắn bó với mình như hình và bóng. Vị lão tướng cũng còn biết rõ là, trong hàng quần dài dặc đàng sau lưng mình, có cả cô gái nhỏ tên Hoa, từ nay cũng bắt đầu gắn bó với sự nghiệp của mình, nên đã được lệnh cải trang thành con trai để cùng cha theo quân ngũ ra trận mạc, đánh giặc như sở nguyện47. Nghĩ về những con người như thế của các thế hệ dân nước Đại Việt đang ở quanh mình, vị lão tướng thấy mình hoàn toàn có đủ sức mạnh để giành toàn thắng trong trận này. VĂN LANG TRẦN HƯNG ĐẠO I Đánh bại quân xâm lược Nguyên, bắt tướng giặc Ngột Lượng Hợp Thai48 cùng đám tàn quân phải nhục nhã rút chạy như lũ chuột về nước, vua Trần Thái Tôn49 liền mở tiệc khao thưởng các tướng, phủ dụ ba quân ngay trong cảnh đổ nát vì giặc tàn phá ở kinh đô. Trong việc ban thưởng các tướng có công đánh thắng kẻ địch mà vó ngựa của chúng từng băng qua sa mạc Trung Á, tràn tới trung tâm châu Âu, vượt qua Vạn Lý Trường Thành, giày xéo khắp đất Tống mênh mông, riêng Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn chưa được vua Trần Thái Tôn đánh giá công bằng. Nhớ lại, giữa lúc đất nước đang chuyển mình dữ dội trước họa xâm lược mạnh như giông bão của giặc Nguyên, đe dọa quét sạch từng gốc cây ngọn cỏ nước Đại Việt, giữa lúc vua Trần đang lúng túng chưa chọn được vị tướng tài nào đem quân đi chặn giặc thì chính Trần Quốc Tuấn là người đầu tiên tình nguyện xin đi cự giặc. Lĩnh ấn Tiết Chế đem quân lên mạn Hưng-hóa bày trận, Trần Quốc Tuấn tỏ rõ là vị tướng xông xáo mưu trí, am hiểu việc dụng binh, khiến cho quân giặc không thể xem thường sức mạnh và khí phách quân dân Đại Việt. Trong đà tiến như vũ bão về Thăng Long, gặp một địch thủ có biệt tài về chiến trận, quân giặc đã phải sững lại ở Hưng hóa, đủ thời giờ cho vua Trần điều bát binh mã, lấy lại tinh thần và làm những việc cần thiết trước khi chủ động rút khỏi Thăng Long. Đến khi Ngột Lương Hợp Thai phát hiện ra rằng quân Trần rất mỏng, định giáng đòn búa bổ, bắt sống vị tướng trẻ dũng cảm tài trí của nước Đại Việt thì chúng bị một đòn lừa tức hộc máu mồm. Trần Quốc Tuấn làm như bày trận đánh lớn nhưng kỳ thực là tiến hành một cuộc rút lui chiến lược bảo tồn lực lượng, để sau đó không lâu, cùng Thái Sư Trần Thủ Độ chỉ huy quân Trần bất ngờ tiến đánh Đông Bộ Đầu, quét sạch quân giặc ra khỏi kinh đô, làm cho bại tướng Ngột Lương Hợp Thai lẩn trốn về đến Nguyên triều vẫn chưa hết khiếp đảm. Trong chiến công hiển hách đánh bại đạo quân xâm lược tinh nhuệ bậc nhất thế giới lúc ấy, có đóng góp lớn của Trần Quốc Tuấn. Lẽ ra là con An Sinh Vương Trần Liễu, là người gọi Trần Thừa (sau được tôn làm Thái Tổ) là ông nội, gọi vua Trần Thái Tôn là chú ruột và là anh Thiên Cảm sau này trở thành hoàng hậu Thiên Cảm, vợ vua Trần Thánh Tôn50 thì với thiên tài Trần Quốc Tuấn đáng được phong quyền cao chức trọng. Vậy mà khi luận công, Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn không được vua Trần đánh giá đúng mức. Mặc dù vậy, Trần Quốc Tuấn cũng không lấy đó làm điều bận tâm lắm. Vị tướng xuất chúng của đời Trần chưa đầy ba mươi tuổi ấy51 lại nhớ đến câu chuyện đau lòng cũ: Ngày ấy, thân phụ Trần Quốc Tuấn là Trần Liễu có người vợ yêu là công chúa Thuận Thiên, con vua Lý Huệ Tôn, đang có mang. Thái sư Trần Thủ Độ thấy vua Thái Tôn chưa có con, nên đã ép Thuận Thiên lấy Thái Tôn. Vì lý do đó, Trần Liễu dấy binh chống lại triều đình. Nhưng Trần Liễu bị Trần Thủ Độ đánh bại. Trần Liễu phải đi thuyền độc mộc, giả làm một người đánh cá đến thuyền vua Trần Thái Tôn để xin hàng. Trần Thái Tôn không những tha tội cho anh mà còn phong cho anh đất An Sinh làm Thái ấp52. Tuy vậy Trần Liễu vẫn căm Trần Thái Tôn đã cướp mất vợ mình. Có lần, Trần Liễu đã bảo Quốc Tuấn rằng: – Sau này, nếu con không vì ta mà lấy lại thiên hạ thì ta sẽ không sao nhắm mắt được khi đã nằm xuống đất. Cũng bởi nuôi ý ấy nên ngay từ khi Trần Quốc Tuấn còn nhỏ, Trần Liễu đã kén những người tài trong nước đến dạy Quốc Tuấn lọc. Nhờ thông minh tuyệt vời lại hiếu học, Quốc Tuấn đã sớm nắm được tinh hoa của mọi sách vở và sớm nổi tiếng là người văn võ xuất chúng. Những người có dịp gần Quốc Tuấn, nghe Quốc Tuấn bàn về thao lược hoặc có dịp nghe Quốc Tuấn hầu vua giảng nghĩa lý kinh sách, nhất là xem Quốc Tuấn đem những hiểu biết của mình sau khi đọc binh pháp Tôn Tử của Tôn Vũ và phép dụng binh của Ngô Khởi diễn làm đồ trận để dạy các tướng, đều phải thán phục, kinh ngạc trước thiên tài quân sự của vị vương trẻ rất đẹp trai ấy. Nhớ lại câu chuyện đau lòng đã qua để cắt nghĩa sự hiềm khích chưa dứt hẳn của vua Trần Thái Tôn, tuyệt nhiên Trần Quốc Tuấn không cho lời cha nói là phải. Chứng cớ là trước khi cầm trọng binh, Trần Quốc Tuấn đem lời cha mình hỏi thử hai gia nô là Yết Kiêu và Dã Tượng. Cả hai đều nói : – Làm việc ấy dẫu được giàu sang một thời thật đấy nhưng tiếng xấu để mãi nghìn thu. Bây giờ đại vương chẳng giàu rồi ư? Chúng tôi thề rằng thà chết già làm gia nô còn hơn làm hàng quan vô trung vô hiếu. Có một lần, Trần Quốc Tuấn hỏi người con lớn là Hưng Vũ Vương Trần Quốc Hiến: – Người xưa làm nên giàu có cả thiên hạ để truyền cho con cháu, vậy ý con nghĩ sao? Hưng Vũ Vương thưa: – Giả sử đối với họ khác còn không nên làm, huống chi là chỗ họ nhà ta. Trần Quốc Tuấn khen ý của Quốc Hiến. Lần khác, Trần Quốc Tuấn hỏi người con thứ ba là Hưng Nhượng Vương Trần Quốc Tảng. Quốc Tảng thưa: – “Xưa Tống Thái Tổ chỉ là một ông lão làm ruộng mà thừa thời dấy vận lấy được thiên hạ”. Nghe vậy, Trần Quốc Tuấn nổi giận tuốt gươm kể tội Quốc Tảng: – “Xưa nay, kẻ loạn thần là từ đứa con bất hiếu mà ra. Nói đoạn, ông toan cầm gươm giết Quốc Tảng. Quốc Hiến phải khóc xin lỗi cho Quốc Tảng, Quốc Tuấn mới tha”. Năm tháng qua đi, sống ở Thái Ấp Vạn Kiếp không phải không có lúc Trần Quốc Tuấn thấy lòng mình day dứt. Nhưng là người biết nắm vững sợi cương gìn giữ lòng mình trước những dốc đứng của tâm hồn. Trần Quốc Tuấn luôn đặt lợi nước lên trên quyền lợi của dòng họ. Những tháng năm sống xa kinh thành, xa quyền thế, xa cuộc đời bận rộn, Quốc Tuấn thấy niềm vui trong việc tiếp xúc với nhân dân, với việc luyện binh và hơn hết là thú vui đọc sách, học binh thư. Chính trong căn phòng đọc sách rộng rãi, thoáng mát và yên ắng giữa Vương phủ Hưng Đạo ở Vạn Kiếp, Trần Quốc Tuấn đã dày công nghiên cứu, say mê viết cuốn “Binh thư yếu lược”, phòng lúc cần đến để rèn dạy các tướng. Theo Trần Quốc Tuấn, mọi việc đều động và diễn biến không ngừng. Phải lo trước những điều có thể xảy ra là bổn phận của kẻ làm tướng. II Giữa vương phủ ở Vạn Kiếp, Trần Quốc Tuấn sắc mặt giận dữ nghe sứ giả của thượng hoàng Trần Thánh Tôn báo tin giặc Nguyên đang sửa soạn đại binh sang đánh Đại Việt. Trong tờ chiếu gửi Trần Quốc Tuấn, thượng hoàng dặn ông suy nghĩ trước kế đánh giữ, để ba ngày sau, sẽ trình bày ở hội nghị các vương hầu ở bến Bình Than53. Thế là chiến tranh đã bắt đầu! - Trần Quốc Tuấn tự nhủ khi đã tiễn sứ ra về. Trong suy nghĩ của con người am hiểu binh thư như Trần Quốc Tuấn, chiến tranh không phải bắt đầu từ lúc hai bên dàn trận giáp chiến, mà bắt đầu từ trước đó rất nhiều. Cuộc chiến tranh mà nhân dân Đại Việt sắp phải thực sự đương đầu - một cuộc chiến tranh chắc chắn sẽ vô cùng khốc liệt - đã được bộ óc vĩ đại Trần Quốc Tuấn tiên đoán từ trước lúc ông dành tất cả tâm huyết viết Binh thư yếu lược. Nghĩa là từ khi cuộc đương đầu với kẻ thù còn ở địa hạt ngoại giao, bằng việc Hốt Tất liệt54 phong cho chú họ vua là Trần Di Ái55 làm “An Nam Quốc Vương”, và trắng trợn lập ra “An Nam Tuyên úy ti”56, với tên Sài Thung, đương chức thượng thư bộ Lễ triều Nguyên làm “An Nam tuyên úy sứ đô nguyên soái” đi kèm bù nhìn Di Ái sang Đại Việt. Trần Quốc Tuấn căm giận nhớ lại những tội ác tày trời của giặc hơn hai mươi năm về trước và hàng loạt yêu sách trịch thượng, vô lý của Nguyên triều từ đó đến nay đối với nước Đại Việt. Những cảnh giết người đốt làng xóm, tàn phá kinh thành, cướp bóc hãm hiếp của giặc vẫn còn hằn sâu trong tâm trí Trần Quốc Tuấn. Lần này đem quân sang rửa vết nhục thất trận cũ, chắc sự hung tợn tàn bạo của giặc còn gấp bội. Tổ quốc đang đứng trước hiểm họa xâm lược chưa từng có. Đối với kẻ giặc từng đánh bại nhiều nước, làm cỏ nhiều dân tộc, chúng sẽ không ngần ngại gì mà không làm những điều tàn tệ nhất ở Đại Việt. Không thể được - lòng Quốc Tuấn sôi sục - không thể để giặc hoành hành tội ác trên giang sơn gấm vóc này; phải chặn không cho giặc phạm tới một ngọn cỏ, một lá cây của nhân dân Đại Việt. Bởi vậy, kế sách đánh giặc cần phải được trù liệu ngay từ bây giờ. Không trù liệu sớm là có tội với vua, với nước. Trần Quốc Tuấn suy nghĩ về một thế cuộc rộng lớn. Phải tạo cho dân tộc một sức mạnh như nước đổ từ thế cao nghìn nhẫn. Nhưng cái gì là cỗi rễ của cái thế cao nghìn nhẫn ấy? Quân giỏi, tướng giỏi? Vua, tôi đoàn kết? Trên dưới thuận hòa? Trần Quốc Tuấn căng thẳng suy nghĩ. Những kinh nghiệm đánh giặc hơn hai mươi năm trước và kiến thức uyên thâm về binh thư sau bao nhiêu năm nghiền ngẫm, vận dụng, đã giúp cho Trần Quốc Tuấn sớm tìm ra nguồn gốc của sức mạnh ấy. Theo ông, muốn tạo cho dân tộc có thế mạnh áp đảo quân giặc có binh hùng tướng mạnh như quân Nguyên, điều cốt yếu là phải quy tụ được ý chí trăm họ về một mối. Trăm họ chính là gốc rễ của cái thế cao nghìn nhẫn ấy. Phải lấy trăm họ làm binh, cổ vũ cả nước đấu sức lại mà đánh. Phải xem sức trăm họ là sức mạnh của khí thiêng sông núi. Chỉ có dùng sức mạnh ấy mới đánh thắng được giặc, giữ được nước. Nhưng muốn huy động được sức mạnh ấy, triều đình phải khoan nới sức dân, rủ lòng thương yêu muôn dân, phải có những đạo quân cha con sẵn sàng sinh tử vì vua, vì nước, và điều cốt tử bậc nhất lúc này là triều đình phải có được sự nhất trí tập trung mọi cố gắng cho cuộc chiến đấu một mất một còn của dân tộc. Trần Quốc Tuấn chợt nhớ đến những lời trăng trối của Phụng Kiền vương. Dẫu lòng mình đã dứt khoát không bận tâm đến câu chuyện đau lòng ấy, nhưng sự bất hòa giữa Trần Quốc Tuấn và Chiêu minh đại vương Trần Quang Khải, lâu nay khiến ông chẳng dễ quên. Bởi vậy nghĩ đến hiện trạng mình, Trần Quốc Tuấn thấy bâng khuâng vô hạn. Trần Quang Khải được phong tước đại vương từ năm mười tám tuổi, hiện vừa giữ chức thái sư, vừa giữ chức Thượng tướng quân, nắm cả quyền tướng văn, tướng võ. Còn ông thì đã lui về Thái Ấp sống như một hiền triết: đọc sách, nghiền ngẫm sự đời và học binh thư. Mối bất hòa giữa ông và Chiêu minh đại vương dường như cả nước đều biết. Người ta đồ chừng hai vị tướng tài không thể cùng đứng ngang hàng trong triều. Người ta gán ghép hai người gờm nhau về tài cầm quân và so bì tước hơn kém nhưng thiên hạ ít người biết đến nguồn gốc sâu xa của mối bất hòa ấy. Thực ra mối bất hòa ấy không phải vì chuyện riêng tây mà là hai ngành trưởng, thứ. Hơn thế, là người trọng yếu của hai ngành trưởng, thứ. Mối bất hòa ấy còn có dây mơ rễ má từ chuyện xưa giữa Trần Liễu với vua Trần Thái Tôn, cho nên giữa Hưng Đạo vương và Chiêu Minh đại vương, chắc vua sẽ nghe theo Trần Quang Khải, hơn nữa Thượng hoàng với Trần Quang Khải là chỗ anh em ruột thịt. Vậy thì - Trần Quốc Tuấn nghĩ – ta sẽ hành động ra sao khi Tổ quốc lâm nguy? Suy nghĩ căng thẳng khiến Trần Quốc Tuấn thấy không khí trong chính đường trở nên ngột ngạt. Ông đứng dậy bước ra ngoài. Các võ sĩ hộ vệ lặng lẽ đi theo. Ra hiệu cho họ ở lại chính đường, Trần Quốc Tuấn chậm chạp đi về cuối Thái Ấp trong ráng chiều vàng, nét mặt phương phi và kiên nghị của vị tướng năm mươi tuổi trông càng thêm rắn rỏi. Trần Quốc Tuấn dừng lại bên quả đồi kề sát địa giới Thái Ấp. Xa kia, rặng núi Yên Tử đã chuyển sang màu tím ngắt. Chuông chùa Kiếp Bạc buông hồi ngân nga trong thinh không. Trên cánh đồng mùa, gia nô Thái Ấp và dân hương Vạn Kiếp mải mê công việc đồng áng. Ngắm nhìn khung cảnh hùng vĩ, thân thiết ấy, lòng Quốc Tuấn thanh thản trở lại. Những kỷ niệm thời thơ trẻ, những đêm trăng vằng vặc với lời trăng trối của Phụng Kiền vương và những ngày miệt mài nghiền ngẫm sách binh thư như cùng sống lại trong lòng Trần Quốc Tuấn. Ta đã không coi lời cha là phải - Quốc Tuấn đắm mình suy nghĩ - có lẽ nào ta lại đặt lợi ích của gia tộc lên trên lợi ích của đất nước? Chẳng lẽ chỉ vì cá nhân mình mà không hết lòng lo cho giang sơn lúc nguy biến? Hãy biết gạt đi những vấn vương làm cho trí óc kém minh mẫn – Trần Quốc Tuấn thì thầm với chính mình - Đánh giặc là công việc lớn nhất trong chiến tranh, cho nên, mọi người phải tập trung sức lực trí tuệ cho việc đánh giặc. Trong lúc quốc loạn này, nếu ta và Chiêu Minh đại vương còn xung khắc nhau thì thật là bất hạnh cho nước Đại Việt. Bởi vậy, chính ta phải chủ động dẹp mối bất hòa với Chiêu Minh đại vương. Hơn thế, phải cùng Chiêu Minh đại vương chung lo việc nước. * * * Ngay đêm ấy trước sân chính đường Vương phủ Hưng Đạo ở Vạn Kiếp, Trần Quốc Tuấn đã triệu tất cả tân binh và quân gia nô đến hầu. Hàng trăm ngọn đèn lồng được thắp sáng, soi rõ khuôn mặt đăm chiêu của các con trai Hưng Đạo vương, các gia tướng Yết Kiêu, Dã Tượng, Nguyễn Địa Lô và các hiền sĩ Trương Hán Siêu, v.v… Khi tướng sĩ đã tề tựu, Trần Quốc Tuấn chậm rãi: – Giặc Thát lần nữa lăm le xâm lấn Đại Việt. Vó ngựa cuồng loạn của chúng lần nữa định phá trụi kinh đô Thăng Long và bao làng xóm yên lành. Các ngươi đã tận mắt nhìn sứ giặc nghênh ngang giữa kinh đô, uốn tấc lưỡi cú vọ làm nhục triều đình, đem tấm thân chó dê khinh lờn tổ phụ. Nếu không chặn tay chúng lại, nước này còn được chăng? Ta và các ngươi còn được chăng? Trong lúc quốc gia lâm nguy, nếu tướng sĩ không tập luyện cho thành xương đồng da sắt, không tập luyện để giương cây cung cứng có sức khỏe bạt non, khí thế nuốt trâu thì làm sao lúc giặc phạm tới bờ cõi, các ngươi có thể đánh dập đầu chúng? Thế nên từ nay, các ngươi phải khổ luyện không tiếc thân, một người địch được nhiều người để làm rạng danh cho núi sông, không hổ thẹn với tiền nhân đã bỏ bao nhiêu máu xương để xây dựng nước và giữ nước… Từng lời, từng lời của Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn như truyền thêm dũng khí cho dân binh và quân gia nô Vạn Kiếp. Tiếng reo hò đáp lại của tướng sĩ từng đợt rộ lên làm náo động canh khuya. Cuộc hội binh bất thường vừa giải tán thì Trương Hán Siêu bước đến trước mặt Trần Quốc Tuấn: – Thưa Đại vương! Các bô lão hương Vạn Kiếp và các hương kế cận xin được ra mắt đại vương. Cặp mắt Trần Quốc Tuấn sáng ngời: – Cháu hãy dẫn ngay các bô lão vào chính đường. Rồi ông ra lệnh cho quân hầu sửa soạn rượu đãi khách. Chỉ một chốc sau, một đoàn các bô lão các hương xung quanh vùng Vạn Kiếp, xúng xính trong những tấm áo the nhuộm thâm, kéo tới chính đường. Trần Quốc Tuấn chắp tay chào các bô lão và mời vào phòng khách. Một cụ già râu tóc bạc phơ, chậm rãi : – Thưa Đại vương muôn vàn yêu kính: Dân chúng tôi nghe tin giặc phạm đến cõi bờ. Nay mai quan gia sẽ hội vương hầu bàn kế đánh giữ. Chúng tôi tưởng đã già nhưng không thể thấy quốc biến mà bình tâm được. Mất nước là mất hết. Còn nước là còn tất cả. Tiếc mình sức yếu không ra trận được, chỉ xin đại vương cho con em chúng tôi được đứng dưới cờ đại vương, quyết chiến với giặc, cứu giang sơn khỏi họa diệt vong. Một nỗi xúc động lớn lao tràn ngập lòng Trần Quốc Tuấn. Lời nói và việc làm của các bô lão càng củng cố thêm chủ trương nuôi sức dân để cố kết lòng dân, phụng sự nghiệp lớn mà bấy lâu Trần Quốc Tuấn ấp ủ. Các bô lão là tượng trưng cho lòng dân cả nước. Sức mạnh của thế hệ già nua được triều đình liệt vào bậc long lão ấy là ở chỗ biết đem uy tín của mình, động viên con cháu sẵn sàng hiến thân cho dân nước, bảo vệ Tổ quốc. Nếu các bô lão trăm người như một, đều có hành động nghĩa cả ấy thì quả là giặc đã chọn lầm đối thủ. Dựa vào các bô lão, ta có thể huy động cả dân tộc ra trận. Lòng dân chính là pháo đài kiên cố nhất, ý chí trăm họ sẽ là tòa thành vững chắc bảo đảm cho chiến thắng hoàn toàn giữ vững non sông xã tắc. Trần Quốc Tuấn thấy ngời lên niềm tin mãnh liệt. Ta sẽ tâu vua hỏi ý các bô lão - Quốc Tuấn thầm nhủ - qua các bô lão mà hiệu triệu trai tráng xả thân vì nước. Trong sự xúc động ấy, Trần Quốc Tuấn từ tốn : – Lo cho vận nước, các cụ đã tự nguyện dâng con em mình cho nước, đây là hành động cao cả rất đáng nêu gương. Xin hỏi các cụ điều nữa: quân giặc thì ngông cuồng hung hãn, chiến trận lại xảy ra trên đất nước ta, tránh sao khỏi tổn thất cho trăm họ? – Thưa Đại vương! Nước mất thì nhà tan - một cụ đáp – vậy nên, có giữ được nước mới yên được nhà. – Phải, phải đấy! Thưa Đại vương. Nhiều cụ đồng tình. Trần Quốc Tuấn mời các cụ uống rượu rồi nâng cốc: – Trăm họ có thể hy sinh từ niềm vui, lẽ sống đến tài sản, tính mạng để chống giặc giữ nước! Trăm họ là sức mạnh vô địch. Chính các cụ dạy ta điều ấy. Ta hứa sẽ tâu lên Quan gia việc làm nghĩa hiệp của các cụ. Mõ trong vương phủ cầm canh ba. Linh gia nô đổi nhau đốt đèn lồng đi tuần. Tiễn các bô lão về rồi, Trần Quốc Tuấn lại tiếp tục suy nghĩ về những công việc phải làm. Ông vui mừng tìm thấy chỗ dựa to lớn, quyết định trong kế hoạch phá giặc đang hình thành trong đầu ông. * * * Không hẹn mà nên, tất cả các vương hầu khắp nước đều kéo đến bến Bình Than trước ngày hội sư. Bởi vậy chiều ấy, khi đoàn thuyền Trần Quốc Tuấn đến Bình Than, ông đã thấy dọc hai bên bờ sông, đủ các loại thuyền đậu dài san sát mang cờ hiệu của các vương hầu bốn phương tụ về. Hay tin đoàn thuyền của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn đã đến, cả bến sông dày đặc thuyền và cờ hiệu của các vương hầu bỗng sôi động hẳn lên. Sự có mặt của vị tướng tài từng lĩnh ấn Tiết Chế quân Trần đánh bại đại binh giặc hơn hai mươi năm trước, đã đem lại niềm vui và lòng tin tưởng cho các vương hầu khắp nước. Trên thuyền tướng, Trần Quốc Tuấn thong thả vén bức rèm the, bước ra khoang ngoài. Trong nắng chiều, giữa rừng cờ phất muôn màu, vẻ mặt kiên nghị của Trần Quốc Tuấn ánh lên rạng rỡ. Bỗng gia tướng Yết Kiêu bước đến cúi đầu: – Thưa đại vương! Có quan thượng tướng Thái sư đến thăm đại vương. Quay về phía sau, Trần Quốc Tuấn sửng sốt thấy Chiêu Minh đại vương Trần Quang Khải đi trên chiếc thuyền nhỏ không trương cờ hiệu, đã áp mạn vào thuyền tướng của mình. – Thật hân hạnh được đón tiếp Thượng tướng - Trấn Quốc Tuấn cúi chào, giọng thân mật. Trần Quang Khải, người đứng đầu triều, hiện thâu tóm cả quyền tướng văn tướng võ ấy, nhanh nhẹn bước lên thuyền lớn, giọng cởi mở: – Vì mong gặp quốc công bàn đại sự, tôi xin quan gia cho đi trước. Chẳng hay quốc công có được mạnh giỏi không ? Dẫn khách quý vào buồng thuyền tướng, Trần Quốc Tuấn nói vui: – Thượng tướng trông thì biết. Tôi đủ sức lôi giặc ra giữa sông mà dìm. Trần Quang Khải bật cười sảng khoái, Ông hiểu vị tướng kiệt xuất triều Trần mượn câu nói vui để ám chỉ chỗ yếu cơ bản của giặc là thủy trận. Chính Trần Quang Khải tâu xin vua hội sư không phải ở kinh đô mà trên bến sông này cũng ngầm có ý ấy. Hai bộ óc lớn của triều Trần lúc ấy đã gặp nhau vì thấy cần dựa vào nhau để chăm lo việc nước và sự nhạy cảm được ý đồ của nhau, đã khiến cho Trần Quốc Tuấn và Trần Quang Khải xóa đi rất nhanh mối hiềm khích cũ. Hai người bắt tay ngay vào việc nước. Sau lúc thông báo các mặt tinh thần và lực lượng của vương hầu, Trần Quang Khải chợt hỏi Trần Quốc Tuấn: – Hình như Quốc công có một môn khách mới ở đất giặc về? Quốc Tuấn thấy không cần giấu người chỉ huy quân Trần lúc ấy: – Tôi đã phái người ấy đi khi bọn giặc Sài Thung ngông nghênh không tiếp Thượng tướng, lại cho lính lấy mũi sắt nhọn chọc vào đầu tôi57. Nghĩa là lúc cuộc chiến đã báo trước không thể tránh được. Con người mẫn cán, tận trung với nước ấy đã trả lời đầy đủ, rõ ràng những điều tôi muốn biết về địch quân. Nhắc đến Sài Thung, Trần Quang Khải chau mày: – Sài Thung xấc xược thật nhưng chưa phải là kẻ thù ghê gớm nhất. Lần này giặc phái đại binh sang chính là lúc ta phải diệt tan nguồn gốc bạo lực, cuồng chiến của chúng. Thời kỳ ta chịu lép vì sức chưa đủ, của chưa nhiều đã qua rồi. Phải đánh cho giặc khiếp đảm đến ba đời. Việc điều binh khiển tướng, tôi chẳng thể bằng quốc công. Có chiến tranh, mọi việc phải xếp lại. Tôi đã tâu quan gia trao ấn Tiết chế cho Quốc công. Chúng ta phải họp sức đánh bại quân thù. – Lúc nào tôi cũng sẵn lòng giúp Quan gia và Thượng tướng việc điều bát binh mã, đánh thắng giặc. Trần Quang Khải hồ hởi: – Ngày mai, Quan gia sẽ cùng các vương hầu nghị kế. Việc gây khí thế ấy là cần. Nhưng lập kế ra quận, Quan gia đã riêng cậy nhờ quốc công. Quốc công đã nghĩ đến việc đó chưa? Trần Quốc Tuấn cởi mở: – Dụng binh cần hiểu rõ kẻ địch của mình. Hiểu địch rồi mới lập kế ra quân. Mà lập được kế rồi, ba phần đã thắng hai. Chiêu Minh đại vương phấn chấn, quên cả giữ gìn: – Không phải không có người ngại e Quốc công còn bận lòng đến chuyện cũ. Lòng Quốc công sáng như sao Khuê. Vẫn đoán Quốc Công đã trù liệu kế phá giặc từ lâu. – Dã tâm của kẻ giặc, ai mà không thấy. Binh thư dạy: mạnh mà bị bất ngờ cũng có thể thua. Trần Quang Khải trở lại đăm chiêu: – Vừa qua trong cung Quan Triều, tôi được đọc những tờ sớ tấu của các tướng trấn thủ biên thùy. Ở mặt Bắc, giặc động binh năm mươi vạn, nguyên soái giặc là Thoát Hoan, con trai thứ chín của Hốt Tất Liệt, tướng tiên phong là Ô Mã Nhi. Ở mặt Nam, nguyên soái giặc là Toa Đô đã kéo mười vạn quân đổ bộ lên đất Chiêm Thành. Nghe Quan gia nói Quốc công tâu gấp cử quân đi cứu Chiêm Thành. Vì sao vậy? – Xâm lược Chiêm Thành, cánh quân Toa Đô chính là một gọng kìm giương sẵn để đánh nước ta đó. Bởi thế, đem quân giúp Chiêm Thành đánh Toa Đô chẳng qua là để bẻ trước cái gọng kìm đó mà thôi. – Việc rất nên, tôi sẽ tâu thêm với quan gia. Về đạo binh của Thoát Hoan, Quốc công nghĩ thế nào? Trần Quốc Tuấn chậm rãi: – Những tên tướng giặc mà Thượng tướng vừa kể chỉ là loại tướng dũng. Thoát Hoan từng chinh chiến nhiều năm nhưng lần này là lần đầu tiên cầm một đạo quân lớn. Hắn đang thèm khát chiến công nên dễ bị khích. Khi bị khích, hắn dễ liều lĩnh, để hở những chỗ yếu trong thế trận. Tướng Ô Mã Nhi người Hồi Hột, đánh ngựa giỏi nhưng dốt thủy trận. Tất cả chúng chưa đủ bản lĩnh cầm quân lớn. Thầm phục những hiểu biết tường tận của Trần Quốc Tuấn về quân giặc nhưng Trần Quang Khải chưa hết băn khoăn: – Vậy bộ não của quân giặc theo Quốc công là ai? – Tra cứu nhiều nguồn tin, tôi biết đó là A Lý Hải Nha. Tên này giỏi dùng mẹo, đã từng hạ hàng chục thành Tống. Toa Đô, Ô Mã Nhi đều coi hắn là sư phụ. Trần Quang Khải khẽ thở dài: – Hình như gia thần nhà Tống là Lý Hằng cũng là một tướng đáng gờm. – Đúng vậy - Trần Quốc Tuấn xác nhận - nhưng Thoát Hoan không ưa gì chúng. Sự không nhất trí ấy là chỗ yếu của giặc. – Tôi hoàn toàn yên lòng vì bọn tướng giặc không tên nào xứng là địch thủ của Quốc công. Nhưng còn quân giặc? Chúng chuyên đánh ngựa, một địch nổi trăm đến như mưa giông, đi như gió cuốn, thật đáng ngại. – Đây là sự thật. Nhưng bên chỗ mạnh vô địch ấy, giặc lại kém thủy trận. Xem vậy, biết đánh thì vẫn thắng. Vả chăng, đối với giặc dữ, muốn thắng chúng, chẳng những ta cần có tướng giỏi, quân giỏi mà quan trọng hơn là huy động được cả nước vào trận. Lực lượng, ý chí trăm họ bao giờ cũng là cội nguồn của chiến tuyến dân tộc. Cuộc đàm đạo giữa hai vị tướng trụ cột triều Trần kéo dài suốt cả chiều ấy. Đến khi Trần Quang Khải vui vẻ cáo lui, Trần Quốc Tuấn phác cử chỉ ngăn lại. Ông đến bên Chiêu Minh đại vương cười hóm hỉnh: – Biết Thượng tướng bận, việc nước ít có dịp tắm gội, tôi đã mật sai gia nhân đun nước để sẵn. Nay xin được tắm cho Thượng tướng. Không thể chối từ, Trần Quang Khải, vui vẻ nói: – Đến cả cõi lòng tôi, Quốc công cũng đã gột rửa, huống chi là thân thể. Được Quốc công thân tắm cho thật là may mắn! Trời tối dần. Bến Bình Than dậy lên ngàn vạn ngọn đèn lồng đủ màu sắc, trên các thuyền của vương hầu. Cũng từ chiều, dân chúng quanh vùng đã kéo đến đứng đông đặc hai bên bờ sông. Trên bến, dưới thuyền đều náo nức không khí buổi xuất quân. II Hội nghị Bình Than diễn ra cực kỳ sôi nổi và kết thúc tốt đẹp. Khi thượng hoàng Trần Thánh Tôn và vua Trần Nhân Tôn đem việc lớn của xã tắc ra hỏi, các vương hầu mỗi người một ý nhưng rồi đều nhất trí với kế đánh mà Trần Quốc Tuấn đã dày công chuẩn bị. Hội nghị càng phấn khởi và cảm động khi Thượng tướng Thái sư Trần Quang Khải tâu vua xin nhường quyền tiết chế thống lĩnh binh mã các đạo cho Trần Quốc Tuấn. Đo lường được uy tín tuyệt đối của Trần Quốc Tuấn đối với các vương hầu, sau lúc trở về kinh thành, vua Nhân Tôn đã làm lễ trao ấn kiếm Tiết Chế cho Hưng đạo vương Trần Quốc Tuấn. Việc cắt cử ấy đã làm cho quân và dân Đại Việt vô cùng phấn khởi. Nhân dân vững tin vào cuộc chiến đấu mà vị Tiết Chế chẳng những là một thiên tài quân sự, biết nhìn xa thấy rộng mà còn là người có phẩm chất đạo đức trong sáng, nặng tình thương dân và yêu quân lính như cha con trong nhà. Bởi vậy, từ kinh đô Thăng Long đến các thôn cùng xóm vắng, trai tráng náo nức tập luyện võ nghệ, sẵn sàng nghe theo mệnh lệnh của Tiết Chế. Các bễ lò rèn nồi lửa suốt ngày đêm để rèn vũ khí. Hiểu được lòng ngưỡng mộ của nhân dân đối với mình, Trần Quốc Tuấn thấy rõ lần này chỉ có thể đánh thắng giặc. Ngày rời Vạn Kiếp, Trần Quốc Tuấn tưởng dăm bữa nửa tháng sẽ trở về. Nhưng ấn Tiết Chế lưu ông ở lại kinh đô với khối lượng công việc to lớn, nặng nề chưa từng thấy. Việc sắp đặt tướng lĩnh, luyện quân, dự đoán các mũi tiến quân của giặc, giả thiết những khó khăn nhất có thể xảy ra, tìm cách đối phó, đã cuốn hút Trần Quốc Tuấn đến nỗi ông không còn thì giờ dành cho riêng mình. Tuy vậy, Trần Quốc Tuấn làm việc rất thận trọng. Trong việc duyệt lại kế hoạch chống giặc, ông không bỏ qua một chi tiết nhỏ. Ông làm việc với từng tướng, hiểu chỗ mạnh chỗ yếu của từng người. Ông phán bảo những sự suy nghĩ nông cạn của họ, thành thật khen những ý tưởng táo bạo, cách nhìn nhận tình hình mới mẻ, dự kiến được mọi tình huống để chủ động thực hiện mệnh lệnh của ông. Các tướng tùy tùng của ông nhận rõ mặc dù bận rộn, ông chưa hề cáu gắt với bất cứ ai. Ông muốn cấp dưới dám nói những suy nghĩ riêng, uốn nắn họ để họ hiểu thấu phương lược dụng binh của ông, thực hiện nó một cách mưu trí. Chính trong những ngày khẩn trương ấy, muốn các vương hầu tướng lĩnh có thêm năng lực chỉ huy quân đội, Trần Quốc Tuấn xúc tiến mở những lớp học binh thư. Vua Nhân Tôn vốn dòng tướng võ, tự cho mình là giỏi, nhưng chỉ dự mấy buổi nghe Trần Quốc Tuấn giảng về nghệ thuật cầm quân, đã tôn Trần Quốc Tuấn là bậc thầy. Thấy vua và mọi người ca ngợi Trần Quốc Tuấn như thần thánh, thượng hoàng Thánh Tôn nửa tin nửa ngờ. Một lần, lấy cớ xem xét các vương hầu học binh thư, thượng hoàng đến giảng võ đường để nghe Trần Quốc Tuấn giảng về nghệ thuật tiến lui, các cơ hội đánh giặc. Ngay từ đầu, thượng hoàng đã bị Trần Quốc Tuấn chinh phục bởi nội dung bài giảng mẫu mực, lối nói rành mạch, khúc chiết: – Dụng binh phải biết rõ tình hình của địch. Thực hư thế nào rồi nhằm vào chỗ nguy mà đánh. Địch mới ở xa đến, hàng ngũ chưa ổn, có thể đánh; ăn mà chưa phòng bị, có thể đánh; đương rối ren, có thể đánh; nhọc mệt, có thể đánh; chưa được địa lợi, có thể đánh; lỗi thời không theo, có thể đánh; lặn lội đường dài, quân sau chưa nghỉ, có thể đánh; qua sông nửa chừng, có thể đánh; đường hiểm, đường hẹp, có thể đánh; cờ xí loạn động, có thể đánh; tướng lìa quân sĩ, có thể đánh; lòng sợ, có thể đánh. Phàm gặp các trường hợp đó, nên kéo quân tinh nhuệ để xung đột trước, rồi sau chia quân mới đến, cứ việc đánh gấp, không phải ngờ gì nữa. Cả lớp học chăm chú theo dõi như nuốt từng lời vị tiết chế có học vấn uyên thâm. Những người dụng binh giỏi không phải chỉ biết đánh - Trần Quốc Tuấn phấn chấn, tiếp - Thế có lúc không thể đánh ngay được thì nên kéo dài: thế địch rất sắc, tạm phải chờ nó lơ là; Địch đến rất nhiều, tạm phải chờ nó trễ nải; gọi quân chưa đến, phải chờ tập hợp được; người mới phụ chưa hiệp, phải chờ cho họ tin; mưu kế chưa nên, phải chờ cho nó lớn mạnh lên; thời chưa đánh được thời tạm dừng đánh. Động là phải thắng; quân ra phải vẹn toàn. Việc binh không có thử. Thật là một tay cự phách, một con người mẫn tiệp hiếm thay, - thượng hoàng tự nhủ. Bỗng từ giữa giảng võ đường, một người đứng vụt dậy, giọng đứt đoạn: – Thưa Quốc công Tiết chế. Quốc công Tiết chế vừa răn dạy cách đánh, cháu nghe mà sáng mắt ra. Nhưng gặp thế giặc mạnh, có khi phải trốn chạy, binh thư có nói đến không ? Tiếng cười nhất loạt nổi lên. Thượng hoàng nhận ra trang thiếu niên vừa hỏi câu hỏi “ngộ nghĩnh” ấy là Hoài Văn Hầu Trần Quốc Toản. Hoài Văn vì không được dự hội nghị Bình Than đã tức giận bóp nát quả cảm trong tay và sau đó chiêu binh mại mã luyện tập nghiêm chỉnh, cũng đã được Quốc Công Tiết chế thu dụng - Thượng hoàng nhớ lại - thực ra câu hỏi của Hoài Văn có ý lắm – thượng hoàng nghĩ - chỉ có cách nói năng còn quá bồng bột mà thôi. Thượng hoàng nhìn về phía Trần Quốc Tuấn chờ đợi, lòng vui vẻ lạ thường. Vừa khi ấy, Hưng Đạo vương mỉm cười độ lượng, cất cao giọng: – Binh thư, không nói đến việc trốn chạy. Người Đại Việt chúng ta càng không được nói đến câu ấy. Tuy nhiên, việc binh nên nhằm vào chỗ dễ mà tránh chỗ khó. Uy dữ thì hết, sắc nhọn thì gãy. Cho nên, địch đem quân đến, thế bách, muốn thắng ngay, thì ta cầm. Địch đánh có lợi, ta đánh không có lợi thì ta cầm. Cầm cho nó đã mệt, bấy giờ ta nổi dậy mà đánh, thì sức vẹn mà công nhiều. Đánh gấp thì thừa cơ, lợi hoãn thì cầm lại. Thấy chắc thì phòng, thấy mạnh thì tránh. Trêu cho nó tức, nhún cho nó kiêu, địch nhàn thì khiến cho địch nhọc, kéo dài để bền sức mình, cầm lâu để làm khốn địch. Dùng sau làm trước, đó là điều bó của phép binh. Nhiều tiếng thầm thì thán phục nổi lên. Thượng hoàng Thánh tôn đọc được sự sùng kính vị Quốc công tiết chế trong ánh mắt của từng tướng lĩnh. Một người giỏi giang, một bậc kỳ tài xưa nay - Thượng hoàng xác nhận và bỗng thấy lo lắng. Kẻ có tài thường dễ kiêu căng. Cho nên cũng là cách nhắc khéo mọi người, thượng hoàng vẫy tay ra hiệu rồi hỏi Trần Quốc Tuấn: – Trong binh thư có nói đến tướng dũng, tướng tri và tướng nhân. Vậy Quốc công hãy nói cho tướng lĩnh nghe về tướng nhân để làm gương chung. – Tâu Thượng hoàng! xin cho thần được tùy tiện bộc bạch những suy nghĩ còn thô thiển. Tướng tài, mà không có nhân đức thì lợi bất cập hại. Tướng nhân phải thanh liêm về của cải, tiết kiệm về tiêu dùng, lơ là về rượu, giữ mình theo lễ; thờ bề trên lấy trung; vui lo cùng quân lính; lấy của địch mà không tích trữ; nghe mưu mà dùng người; gặp ngờ mà phán đoán; dũng mà không lấn người; nhân mà không bỏ phép; giấu tội nhỏ, răn lỗi lớn; phạm tội không kể là thân, thưởng công không nghĩ đến thù, người già thì nâng đỡ, người trẻ thì vỗ về; người sợ thì làm cho yên lòng; người lo thì làm cho vui. Có kiện thì xử đoán, có lạm thì xét rõ; có giặc thì đánh dẹp; kẻ ngang ngược thì giết; kẻ phục tùng thì tha; người mất thì cho được lại; người quên thì nhắc bảo cho; người quy thuận thì cho tước; người hung bạo thì trấn trị; gần người mưu trí, xa người gièm pha. Trong quân có người ốm, tướng phải thân hành đem thuốc điều trị, quân có người chết, tướng phải khóc thương; quân đi thú xa thì sai vợ con đến nhà thăm hỏi; phàm có khao thưởng thì chia đều cho quan và quân; khi có hành động thì phải họp tướng tá lại để bàn, mưu đã định rồi sau mới đánh; tướng với binh có cái ân hòa rượu58, hút máu59, thế gọi là nhân tướng. Thượng hoàng Thánh Tôn nét mặt rạng rỡ: – Thực không ngờ Quốc công Tiết chế trong một lúc nghĩ được nhiều đến thế. Nếu ai cũng làm được như lời răn của Quốc công Tiết chế, nước Đại Việt sẽ vô địch. Trong cuộc đọ sức với giặc Mông Thát này, nước Đại Việt phải vô địch. Đáp lại lời Thượng hoàng, cả giảng võ đường rung lên trong tiếng hò : – Thượng hoàng muôn tuổi! Quốc công tiết chế trường thọ! Nước Đại Việt vô địch! * * * Ra quân dẹp giặc phải một lần truyền hịch. Công việc cuối cùng phải làm trước lúc động binh này, đã được Trần Quốc Tuấn suy nghĩ từ lâu. Cái khó không phải ở chỗ bút pháp có điêu luyện hay không mà là có truyền được niềm tin tất thắng, làm dậy lên hào khí dân tộc cho chủ tướng và sĩ tốt hay không. Với sức nghĩ phi thường, bằng tài diễn đạt, Trần Quốc Tuấn đã đem vào bài hịch cả khí thế hừng hực ra quân của dân tộc. Ngọn bút song chu60 trong tay Trần Quốc Tuấn lướt nhanh trên giấy lụa. Tưởng như chính ông phải vội lắm mới ghi kịp những ý liên tiếp nảy ra trong đầu. Giữa lúc ấy, lần nữa, sứ Nguyên bắn tin buộc vua Trần nếu không đầu hàng thì hãy sửa soạn đón binh mã Thiên triều sang hỏi tội. Trong thế thúc bách, Nhân Tôn triệu Trần Quốc Tuấn vào cung Quan Triều. Bỏ qua nghi lễ vua tôi, vị vua trẻ hỏi Trần Quốc Tuấn: – Nguyên Triều huy động năm mươi vạn binh sắp tràn vào nước ta, chưa kể mười vạn binh Toa Đô ở Chiêm Thành đánh ra. Vậy Quốc công tiết chế cần bao nhiêu binh để chống lại? – Tâu Quan Gia: Giặc có sáu mươi vạn quân. Muốn đánh thắng, ta phải có gấp đôi số quân ấy. Nhưng ta không thể có được số quân ấy61. Vậy chỉ trông vào binh lính, ta khó mà cự giặc. Vua Nhân Tôn đỡ ngay lời: – Chúng ta không thể dâng nước cho giặc! – Lão thần chưa nói cạn lời – Trần Quốc Tuấn vội đáp - một nước nhỏ chống lại một nước lớn có binh hùng tướng mạnh phải có cách đánh riêng. Việc cần kíp lúc này là phải huy động được sức người, sức của của trăm họ mới có đủ lực lượng chống lại giặc mạnh. Muốn vậy, phải nới sức dân để làm cái chước rễ sâu gốc vững. Nghĩa là phải lấy dân làm căn bản, xem dân là gốc nước. Đối với cái gốc ấy phải trồng cho sâu, vun cho vững, chứ không nên nhũng nhiễu dân, sưu cao thuế nặng làm kiệt sức dân. Vua Nhân Tôn đăm chiêu: – Đây là việc làm lâu dài. Còn trước mắt? – Tâu Quan gia! Quan gia hãy xuống chiếu phủ dụ muôn dân, động viên tất cả trai tráng phải liều chết đánh giặc ở bất cứ đâu và bất cứ lúc nào. Khi không chống nổi thì mọi người phải đem theo toàn bộ của cải, thóc lúa lui vào rừng; nếu phải đốt cả nhà cũng không tiếc để khi giặc đến, chúng không cướp được lương ăn, không nơi cư trú. Đến đâu giặc cũng thiếu lương thảo, phải làm mọi việc, từ bắc cầu cống, kiếm lương ăn đến làm nhà ở. Như vậy chẳng bao lâu giặc sẽ kiệt sức. Từ đó chúng sẽ nản lòng, tinh thần bạc nhược. Đợi đến lúc ấy ta dốc sức đánh vài trận là quét giặc dữ. Không kìm được niềm vui, vị vua trẻ, tính khí còn bồng bột ấy cười lớn và câu chuyện trao đổi giữa hai người cứ thế phát triển. Vừa khi ấy Thượng hoàng Thánh Tôn bước vào. Hiểu được đầu đuôi câu chuyện của Quan gia với Trần Quốc Tuấn, Thượng hoàng khen: – Ý Quốc công Tiết chế phải lắm, cần làm ngay. Còn việc sắp xếp các tướng, Quốc công đã định xong chưa? – Tâu Thượng hoàng, việc đó thần đã có dự kiến, – Toa Đô là tướng lắm mau nhiều mẹo, trải việc đời. Quốc công cử ai đi chặn? – Mặt ấy xa triều đình, cần người có bản lĩnh cầm quân. Chỉ có Thượng tướng Thái sư Trần Quang Khải mới đảm đương nổi. Vua Nhân Tôn kinh ngạc: – Chiêu Minh đại vương? Còn việc triều chính? Trần Quốc Tuấn chậm rãi: – Tâu Quan gia! Nước có chiến tranh, đánh giặc là việc lớn nhất. Chỉ có thượng tướng mới điều khiển nổi mặt trận ấy! – Mặt bể, Quốc công đã chọn được người chưa? Thượng hoàng hỏi. – Người ấy phải là vị tướng đánh thủy giỏi nhất nước. – Nhân Huệ vương Trần Khánh Dư phải không? – Việc cần kíp, thần đã lạm sai Nhân Huệ vương đem binh thuyền ra Vân Đồn tập cho quen sóng biển để rồi dễ dàng trận mạc trên sóng nước. Vua Nhân Tôn phán: – Việc an nguy của xã tắc, trẫm đã phó thác cho Quốc công. Quốc công cứ tùy tiện định liệu… Còn mặt biên thùy, nơi xảy ra những trận đầu với giặc? Nơi ấy lão thần xin đi đốc chiến bởi vì biết thắng đã khó, biết lui quân để thắng càng khó hơn. Thượng hoàng vui vẻ: – Kế đánh giữ, Quốc công đã lập xong, chỉ còn truyền hịch xuất quân. – Cả việc ấy nữa, thần sửa soạn đã xong. * * * Tổ quốc lâm nguy. Hưng Đạo vương quyết định làm lễ duyệt binh lớn ở Đông Bộ Đầu. Vào những ngày này, không khí Thăng Long náo nức lạ thường. Trên bộ, binh các đạo kéo về ầm ầm như sấm động. Dưới sông, thuyền chiến ken đặc các bến. Từ các phố, bãi tập đến các chợ, đâu đâu cũng sôi sục hào khí ra quân chống giặc. Sáng sớm hôm ấy, sau lúc quân Long Dực, Hổ Dực lên ngựa đi trước mở đường, Trần Bình Trọng chỉ huy quân tả, hữu Thánh Dực hộ vệ vua Nhân Tôn từ cửa Việt Thành đến Đông Bộ Đầu. Ngay sau kiệu đồng, Trần Quốc Tuấn, Trần Quang Khải uy nghi trên lưng ngựa chiến, cùng cất bước. Bấy lâu, bận trăm công nghìn việc, ngày quên ăn, đêm quên ngủ, nhưng Trần Quốc Tuấn vẫn quắc thước lạ thường. Đến bến Đông, vua Nhân Tôn xuống kiệu thân giữ cương ngựa cho Trần Quốc Tuấn bước xuống. Các quan văn võ đại thần và trên hai mươi vạn binh lính, đứng lặng dõi theo vua cùng Trần Quốc Tuấn bước lên đài cờ. Vua xúc động nắm tay Trần Quốc Tuấn: – Việc lớn của xã tắc, uy danh nước Đại Việt, trẫm Phó Thác cho Quốc Công. Trần Quốc Tuấn đáp: – Lão thần thề đem cái chết đổi lấy thanh danh cho Bệ hạ, cho dân nước. Vua Nhân Tôn ban cho Trần Quốc Tuấn kiếm quý, hàm ý trao cho ông toàn quyền hành động. Trần Quốc Tuấn quỳ xuống đỡ lấy kiếm. Sau đó, đeo cây kiếm quý, Trần Quốc Tuấn xuống đài cùng các tướng tùy tùng đi xem xét các cơ hội thủy binh và bộ binh. Dù binh đông đến ức vạn, nhưng không cần nhìn cờ hiệu, Trần Quốc Tuấn vẫn nhận ra nét khác biệt giữa các đội. Đội quân lực lưỡng nổi tiếng gan dạ, rất giỏi võ nghệ đứng ngay dưới đài là quân Thánh Dực túc vệ thượng đô của Trần Bình Trọng. Đội quân ăn mặc gọn gàng, đẹp mắt, có cả một đoàn kỵ binh hùng hậu kia là quân của Chiêu Văn Vương Trần Nhật Duật. Đội quân đông nhất, binh khí tua tủa, đứng sát mép nước chính giữa là quân của Chiêu Minh đại vương Trần Quang Khải, Trần Quốc Tuấn đặc biệt phấn chấn tự hào khi nhận ra đội quân thủy của Nhân Huệ vương Trần Khánh Dư vừa ở Vân Đồn về, da mặt sạm đen nắng và gió biển, khỏe mạnh và rất có kỷ luật. Và đây, đội quân thiếu niên của Hoài Văn Hầu Trần Quốc Toản, tươi tắn đứng dưới lá cờ đại mang sáu chữ kiêu hãnh: “Phá cường địch, báo hoàng ân”62. Đi xong một lượt, Trần Quốc Tuấn trở lại đài cờ. Một hồi trống đại ngân vang, vọng vào không trung. Dứt tiếng trống, Trần Quốc Tuấn uy phong lẫm liệt hét lớn: – Bớ ba quân! Tiếng dạ xé gió nhất loạt nổi lên. – Ta phụng mệnh Quan gia thống đốc quân sĩ ra phá giặc. Chúng ta thề quyết xông pha trận mạc như hùm beo, đánh cho lũ giặc ngông cuồng kia phải tan tác như chim muông, mảnh giáp không còn, đem lại vinh quang muôn đời cho nước Đại Việt, làm rạng danh cho Quan gia. Quân sĩ đồng thanh dạ ran. Nhìn rừng cờ xí rợp trời, nhìn tướng sĩ mặt ngời sáng, đầy sĩ khí, Trần Quốc Tuấn thấy tất cả sức mạnh của dân tộc như được chung đúc lại, khiến cho ông càng thấy có đủ sức gánh vác sứ mạng nặng nề. – Trong lễ xuất sư này ta có mấy lời nhắn nhủ các ngươi - Trần Quốc Tuấn rút tờ hịch trong tay áo, tờ hịch mà ông đã soạn bằng cả tâm huyết và bằng tấm lòng yêu nước thương dân cháy bỏng của ông. Tờ hịch ông viết không phải bằng lối văn khoa cử, miệt mài gọt giũa tiểu xảo mà bằng thứ văn hừng hực khí thế chiến đấu, gói gọn các tư tưởng, tâm hồn ông – “Ta từng nghe nói: Kỷ Tín đem thân chết thay, cứu thoát Hán Cao Tổ63. Do Vu lấy lưng đỡ giáo cho Sở Chiêu vương64. Dự Nhượng nuốt than báo thù cho chủ65. Phàn Khoái chặt tay, cứu nạn cho nước66… Tiếng loa xướng họa lời Quốc công tiết chế được truyền đi khắp hàng quân, tới cả từng khối đông dân chúng tụ tập suốt hai bờ sông, gây nên những xúc động lớn. – “Huống chi ta và các ngươi sinh ra giữa buổi rối ren, lớn lên nhằm thời nguy cấp, mắt thấy sứ giặc đi lại đường sá nghênh ngang, uốn lưỡi cú vọ xỉ mắng triều đình… Các ngươi ở dưới trướng ta, đã lâu nắm giữ binh quyền, không có áo thì ta cho mặc, không có cơm thì ta cho ăn, thăng chức, cấp lương, cấp thuyền, cấp ngựa…” Trần Quốc Tuấn nhìn bao quát hàng quân. Bằng trái tim mình ông thấy rõ bài hịch của ông đã có sức truyền cảm lớn. Phải, kẻ thù sẽ biết đến lòng căm hờn và ý chí quyết thắng của nhân dân Đại Việt. Chúng sẽ phải nếm đủ các ngón đòn, ở bất kỳ đâu, vào bất cứ lúc nào. Chúng sẽ rã rời, mệt mỏi và khiếp sợ. Và, khi ấy trước đội quân thân yêu, tràn đầy khí phách này xốc tới, giặc chạy đâu cho thoát. Trong niềm phấn khởi ấy, Trần Quốc Tuấn đọc tiếp đoạn cuối: – “Bởi vì như vậy tức là các ngươi không hề nghĩ đến mối thù không đội trời chung, điềm nhiên không lo rửa nhục không nghĩ đến việc dẹp giặc, không siêng năng luyện sĩ tốt. Như thế là trở giáo hàng giặc. Rồi đây, khi đã tan giặc, các ngươi sẽ phải để thẹn muôn đời, còn mặt mũi nào đứng giữa trời đất nữa? Vì vậy, ta viết bài hịch này để các ngươi rõ bụng ta”67. Trần Quốc Tuấn dứt lời Tiếng reo hò như sấm động đáp lại: – Quan gia vạn tuế! Quốc công Tiết chế vạn tuế! Nước Đại Việt hùng cường vạn tuế! Hơn hai mươi vạn tướng sĩ đua nhau gào thét đến vỡ cả giọng. Ngay sau đấy, nghe hiệu lệnh, cờ nào đội nấy diễu đi trong tiếng trống rung trời, tinh kỳ rợp đất. Ở dưới sông, các thuyền chiến rùng rùng chuyển động rồi phút chốc lao đi, tạo nên những đợt sóng dữ dội, táp mạnh vào bờ như muốn cuốn phăng đi những người đứng gần mép nước. Trần Quốc Tuấn nhìn những đoàn quân thân thiết, khí phách hiên ngang diễu qua trước mặt, lòng rạt rào cảm xúc. Thốt nhiên, một tiếng thét vang như sấm nổi lên: – Sát Thát! Sát Thát. Tiếng binh sĩ hòa theo thành từng đợt như không bao giờ dứt. Đôi mắt quắc sáng của Trần Quốc Tuấn mở to. Ông vui sướng nhận ra vị tướng vừa thét vang ấy là Phạm Ngũ Lão, một chàng trai đan sọt có chí lớn vừa được ông tiến dẫn lên quan gia hồi đầu năm. Lễ duyệt binh đã kết thúc, Theo lệnh Trần Quốc Tuấn, các đạo quân tiến về mặt trận đã được nhận lãnh. Trần Quốc Tuấn vái vua Nhân Tôn: – Xin kính chúc Quan gia an khang, trường thọ. Vua cảm kích: – Quốc công Tiết chế xin vì trẫm, vì nước mà giữ gìn sức khỏe. Trần Quốc Tuấn gặp lại Trần Quang Khải: – Xin Thượng tướng cho truyền lệnh đi các lộ ngay đêm nay. Trần Quang Khải thân ái cầm tay Trần Quốc Tuấn: – Quốc công Tiết chế hãy yên lòng! Kế đã lập, quân đã xuất, thắng lợi đã cầm chắc trong tay. Chúng ta đinh ninh lời thề khải hoàn với kinh thành yêu dấu. Trần Quốc Tuấn bước lên mũi thuyền trước. Nắng long lanh trong mắt vị Tiết chế trông đẹp như một thiên thần. III Vào những ngày rét nhất trong mùa đông năm 1284, ở quân doanh Vạn Kiếp, Quốc công tiết chế Trần Quốc Tuấn được quân tế tác68 báo tin: Năm mươi vạn quân Nguyên do Thái tử Thoát Hoan bắt đầu xuất quân tiến vào nước ta. Trần Quốc Tuấn vội sai người phi báo về kinh đô, mặt khác, phái thêm các tướng Lê Phụ Trần, Nguyễn Khoái, Trần Quốc Toản v.v… gấp đem binh tăng cường cho mặt trận phòng giữ biên thùy. Chính trong những giờ phút thử thách hiểm nghèo ấy, vua Nhân Tôn y lời Trần Quốc Tuấn, triệu các bô lão về điện Diên Hồng hỏi kế đánh giữ. Trần Quốc Tuấn được vua vời về kinh cùng thượng tướng Thái sư Trần Quang Khải lo tổ chức hội nghị. Đúng như dự đoán của vị Quốc công Tiết chế triều Trần, các bô lão trăm người như một, nhất quyết tâu vua đòi đánh. Nghe tiếng thét “đánh” rung lên như sét nổ ở điện Diên Hồng của các bộ lão khắp nước, Trần Quốc Tuấn hiểu rằng, đằng sau các đạo binh đã và sắp lên đường chặn giặc của ông, cả dân tộc đều đứng dậy. Đại binh của Trần Quốc Tuấn được cả kinh thành tiễn đưa, lên tới Lạng Sơn thì giặc cũng vừa tiến vào địa phận Đại Việt. Giặc Nguyên đã mở tới ba mặt trận để từ ba phía Đông bắc, Tây bắc và chính Nam dồn lại chiếm kinh đô Thăng Long ép đánh quân ta, hoàn toàn như dự kiến của vị tiết chế quân Trần. Soát lại kế phòng giữ, Trần Quốc Tuấn yên tâm. Ở mạn Tây bắc, Chiêu Văn vương Trần Nhật Duật đã đem binh đi từ tháng trước. Ở mặt chính Nam, Chiêu Minh đại vương Trần Quang Khải cũng sắp lên đường. Còn ở mặt trận chính do Trần Quốc Tuấn thân đốc suất, việc bài binh bố trận cũng đã làm xong. Mặc dù đã được chuẩn bị đầy đủ từ trước, nhưng trước thế giặc mạnh, đạo quân Trần từ các hướng Đông bắc, Tây bắc phải làm một cuộc rút lui chiến lược để bảo toàn lực lượng. Ở mặt trận chính sau những thắng lợi ban đầu, Trần Quốc Tuấn phải rời bản doanh từ Lạng Sơn về Lạng Giang, rồi lại phải lui về Vạn Kiếp. Đã từng đánh nhau với kỵ binh giặc Nguyên hơn hai mươi năm về trước, nhưng lần này Trần Quốc Tuấn thấy rõ chúng mạnh hơn gấp bội. Đặt quân doanh ở Vạn Kiếp, Trần Quốc Tuấn gấp huy động thêm binh mã. Trong hoàn cảnh hiểm nghèo ấy, dân binh các lộ Hải đông, Vân Trà, Ba Điểm đã tình nguyện đến hội dưới cờ ông rất đông. Một nỗi xúc động lớn đến với Trần Quốc Tuấn những con người phú quí vinh hoa thường chẳng bao giờ được hưởng, vậy mà khi vận nước cần đến thì họ tận tụy dốc lòng dốc sức xem việc nước như việc nhà. Vì vậy, chẳng mấy chốc Trần Quốc Tuấn đã có một đạo binh đông tới hai mươi vạn người. Với đạo binh ấy, Trần Quốc Tuấn bày trận “tắm nước” đợi giặc. Giữa lúc ấy ở kinh đô, biết tin quân Trần bị đánh lui hầu hết các mặt trận, hai vua Trần vô cùng lo lắng. Bởi vậy, hai vua Trần cùng Triều đình rời cung thất, để lại cả kinh thành trống rỗng, chạy ra Hải Đông69, không thiết gì ăn uống. Vua Nhân Tôn cho vời Trần Quốc Tuấn đến hỏi: – Trẫm nghe trong truyện Mạnh Tử có nói “Tranh đất, đánh nhau giết người đầy nơi đồng áng”. Nay thế giặc to lắm, chống lại không nổi, và dù có chống được, thì dân hại, hay là trẫm hàng đi để cứu mạng cho muôn dân? Đọc được nỗi lo lắng, mất tinh thần của vị vua trẻ. Quốc công tiết chế Trần Quốc Tuấn cả quyết, đáp: – Ra trận thua được là chuyện thường, chỉ cần bảo tồn được lực lượng và trận cuối cùng ai sẽ thắng. Vả lại, chỉ sợ kẻ giặc tiến binh thận trọng như tằm ăn lá chứ không sợ giặc hùng hổ, hung hãn. Nay Thoát Hoan tiến binh như gió lốc, nghênh ngang không coi ai ra gì, chính là điểm thua đã báo vậy. Vua đăm chiêu: – Chuyện sau thì chưa rõ nhưng trước mắt quân ta không cự nổi giặc mặc sức tàn sát dân lành. Chẳng thà hàng đi để cứu dân, đợi dịp khác sẽ lấy lại nước. – Tâu quan gia! Không phải giặc đã thắng. Các tướng Phạm Ngũ Lão, Nguyễn Khoái, Trần Quốc Toản cũng đã đánh lui giặc. Thế đánh chưa có lợi thì ta lui cho kiêu lòng giặc. Chứng cớ là tướng lĩnh chưa ai phải bỏ thân ở chiến trường. Dừng lại nén xúc động, Trần Quốc Tuấn lại tiếp, giọng đau khổ: – Vẫn biết bụng Bệ hạ muốn hàng là vì lòng nhân đức, nhưng còn tôn miếu, xã tắc? Nếu Bệ hạ muốn hàng, xin trước hãy chém đầu lão thần đi đã. Đầu lão thần còn thì xã tắc cũng còn. Xin Bệ hạ đừng lo. – Chẳng riêng gì trẫm, triều đình hoàng tộc đều lo lắng. Hiểu bụng trẫm, Quốc công hãy cố đánh lấy vài trận để yên bụng trẫm và quần thần. Trần Quốc Tuấn nén giận: – Việc tiến lui lão thần đã có phương lược. Đánh mà chắc thắng mới đỡ tổn hại xương máu binh lính. Huống chi, giặc hùng hổ tiến sâu vào đất Đại Việt khác nào chúng đi vào chỗ chết. Quân tế tác từ các nơi vừa cho hay: những vùng đất giặc chiếm được cứ 30 dặm, chúng đặt một trạm quân, 60 dặm một trại ngựa, mỗi trại 300 quân trấn giữ để hộ vệ cho việc chuyển lương và cướp lương thảo. Như vậy, giặc sẽ cần bao nhiêu quân khi tiến sâu vào Đại Việt? Điềm chết của chúng đã lộ. Vị vua trẻ thoáng vui: – Gần Quốc công, nghe Quốc công phân giải, trẫm thấy yên lòng. – Tâu quan gia! Lão thần biết chắc rằng quân giặc sẽ không còn tung hoành được đến mùa hè này. Ta sẽ ca khúc khải hoàn vào lúc ấy. Lão thần xin lấy đầu đảm bảo lời nói ấy. Vua Nhân Tôn vái Trần Quốc Tuấn: – Vận nước nhờ Quốc công sẽ được an hưởng cảnh thái bình, thịnh trị. Trần Quốc Tuấn cáo lui. Ông vội trở về quân doanh Vạn Kiếp. * * * Trận Vạn Kiếp do đích thân Quốc công Tiết chế Trần Quốc Tuấn dày công bố trí, chẳng mấy chốc đã bị quân Nguyên do tướng Ô Mã Nhi phá vỡ. Thừa thắng, Thoát Hoan tung quân đánh Vũ Ninh, Đông Ngàn, chiếm Đông Bộ Đầu. Và, sau khi đánh lui được đạo binh tinh nhuệ bậc nhất triều Trần do Bảo Nghĩa vương Trần Bình Trọng chỉ huy, Thoát Hoan đem đại quân tràn vào Thăng Long. Giữa tổng hành dinh vừa được lập ở Thăng Long, Thái tử Thoát Hoan nói với Bình chương A Lý Hải Nha, người được xem là linh hồn đạo quân xâm lược Nguyên: – Ông thường tỏ ra dè dặt đối với dân man Việt. Nay hẳn đã thấy, chúng đã tan tác dưới gót chiến mã của ta. Ngay cả Hưng Đạo Vương tiết chế của quân chúng, người mà các ông luôn tỏ ra sợ hãi về tài dùng binh, trước uy danh của Thái tử Thiên triều, cũng chỉ còn biết chạy. A Lý Hải Nha nét mặt không vui, đáp: – Thưa chủ soái! Ta thắng nhanh nhưng tôi có 4 điều nghi ngại. Thứ nhất, quân man triều tuy thua trận nhưng số bị giết thật không đáng kể. Dường như chúng chưa liều mạng quyết đánh. Lẽ thứ hai, quân man triều rút chạy nhưng dân binh vẫn luôn luôn tiến đánh chúng ta. Ta thắng mà quân thua thiệt nhiều. Lẽ thứ ba, man triều khéo dụ dỗ dân man bỏ chạy, tự phá phách nhà cửa, vườn tược, cất giấu thóc lúa khiến quân ta khốn đốn về lương thảo. Lẽ thứ tư, quân man triều bị bắt không đứa nào chịu hàng phục. Trên tay chúng đều thích chữ “sát Thát” rất đỗi đáng giận. Chỉ bấy nhiều điều đủ tỏ ra tiết chế quân man giỏi điều khiển dân man. Xem vậy, chủ soái phải cẩn thận lắm mới được. Máu hiếu thắng của Thoát Hoan bốc lên: – Mới có 20 ngày, ta đã lấy được kinh đô Nam man. Bất quá một tháng nữa ta sẽ làm cỏ cả nước này cho ông xem. Dứt lời, Thoát Hoan triệu các tướng Khoan Triệt, Lý Hằng tới ra lệnh: – Ta giao cho các ngươi trọng trách phải đem năm vạn binh đi bắt bằng được man vương đem về nộp cho ta rồi lĩnh thưởng. Vừa lúc ấy Ô Mã Nhi từ Đông Bộ Đầu tới, ra mắt Thoát Hoan: – Xin chúc mừng Trấn Nam Vương70 đã hạ được kinh thành giặc. Mọi việc thế là sắp được định đoạt. Thoát Hoa mặt mày nở nang: – Nếu không có tướng quân đánh bại đại binh của Hưng Đạo Vương ở Vạn Kiếp, ta chưa dễ lấy nhanh được kinh thành này. Ô Mã Nhi đổi giọng : – Thưa chủ soái! Hôm qua man triều cho tên Đỗ Khắc Chung đi sứ. Tiểu tướng mạn phép chủ soái tiếp hắn. Xem ra man triều thua to mà vẫn chưa mở mặt. – Tướng quân hãy kể việc tiếp sứ cho nghe. – Thưa chủ soái – Ô Mã Nhi hớn hở, đắc ý – câu đầu tiên tiểu tướng hỏi sứ man: ai đã xui quân man thích những chữ bất kính Thiên triều trên tay? Hắn đáp: việc thích chữ đó là tự bụng trung nghĩa của binh lính, chẳng cần ai xui. Tiểu tướng vặn hỏi: Thấy đại quân Thiên triều đến sao vua tôi nhà ngươi không trở giáo cùng nhau đến yết kiến, lại đi chống mệnh? Châu chấu đá xe rồi sẽ ra sao! – Hắn đáp sao? Thoát Hoan trợn mắt, hỏi. Sứ man đáp: quân Nguyên triều ỷ thế sức họ thì thú cùng đường phải cắn, chim túng thế phải mổ, huống chi là người. Tiểu tượng hạch: Vậy sứ đến đây có việc gì. Hắn đáp: triều đình hắn muốn giảng hòa với chúng ta. – Tướng quân trả lời ra sao? Thoát Hoan sốt ruột, hỏi. – Tiều tướng quát: Nay đại quân mượn đường sang đánh Chiêm Thành, nếu man vương thân đến đây ra mắt, thì trong cõi yên ổn, sợi tóc cũng không ai đụng chạm đến; nhược bằng không đến thì chỉ trong giây phút, giang sơn phẳng nhẵn như không. Nói rồi, tiểu tướng cho hắn về tâu với chủ. – Hay hay - Thoát Hoan khen – tướng quân nói hợp ý ta lắm. Cư xử cao thượng lắm. A Lý Hải Nha xen vào: – Thưa chủ soái! Quốc vương Nam man không thực bụng hòa đâu. Họ sai sứ sang dò xét nội tình ta đó thôi. – Ta đâu bận tâm đến chuyện ấy - Thoát Hoan đáp – Rồi quay sang phía Ô Mã Nhi, hắn đổi giọng, tiếp – trước đây ta đã hẹn với tướng quân Toa Đô, khi đem đại binh vào Đại Việt, Toa Đô sẽ khởi binh từ Chiêm Thành đánh ra. Nhưng sao tới nay vẫn chưa thấy Toa Đô động tĩnh gì. Vậy ta phiền tướng quân hãy gấp đem binh vào đó tiếp ứng cho Toa Đô rồi cùng hợp sức đánh ra. Khi ấy vua tôi Nam man chỉ có độn thổ mới thoát chết. Hạ xong mệnh lệnh ấy, Thoát Hoan lạnh lùng nói với A Lý Hải Nha: – Rồi ông sẽ thấy ta bắt vua tôi Nam man bỏ rọ đem về dâng vua cha ra sao! Ta sẽ bắt cả nước này làm tôi mọi. Còn Hưng Đạo Vương – con người mà bọn văn quan các ông thường nhắc tới với sự sợ hãi - dẫu có phép tàng hình cũng không thoát khỏi nguy khốn khi hai đạo binh của ta đánh dồn lại. A Lý Hải Nha cố giấu sự mỉa mai trong câu nói: – Tôi xin có lời mừng trước những dự định tốt đẹp của chủ soái. Ngay sau đấy, Thoát Hoan vùi đầu vào yến tiệc, chơi bời không bận tâm đến việc binh bị. * * * Trần Quốc Tuấn đang trải qua những khó khăn thử thách vượt quá sức mình. Ngay sau khi trận Vạn Kiếp bị vỡ, ông phải lấy lại niềm tin cho hai vua Trần, vừa đưa vua Trần đi lánh giặc vừa phải theo sát tình hình các mặt trận để chỉ đạo kịp thời. Những tin tức từ các mặt trận đưa về rất xấu : Ngày 21 tháng giêng năm Ất Dậu (1285), trong trận giao chiến ác liệt với cánh quân của Quan Triệt, Lý Hằng ở Thiên Mạc71, Bảo nghĩa vương Trần Bình Trọng đã bị giặc bắt rồi bị giết72. Ngày 1 tháng hai, Chương Hiến hầu Trần Kiện và Lê Tắc trấn giữ Thanh Hóa đã đem tất cả gia quyến sang hàng giặc73. Ngày 2 tháng hai, các tướng Trần: Nguyễn Tất Dũng, Đinh Xá bị tử trận ở Thanh Hóa. Ngày 3 tháng ba, đạo quân của vua Trần ở Đại Hoàng Giang74 bị giặc phục đánh. Bọn Văn Nghĩa hầu Trần Tú Viên và Văn Chiêu hầu Trần Văn Lộng trốn sang hàng Thoát Hoan. Trần Quốc Tuấn đặc biệt choáng váng khi nhận được tin đạo quân của thượng tướng Thái sư Trần Quang Khải bị quân Toa Đô có bọn Trần Kiện giúp sức, đánh thua ở Nghệ An. Mấy ngày sau tin dữ đưa về: Chiêu Quốc vương Trần Ích Tắc, kẻ từng thèm khát ngôi vua, thèm khát cả chức tiết chế quân Trần, đã đem cả gia quyến sang hàng giặc75. Trước tình hình ấy, mặc Trần Quốc Tuấn can gián, vua Trần sai Trung Hiến hầu Trần Dương đi thương thuyết với Thoát Hoan. Vua còn đưa cả quốc muội An Tư công chúa76 dâng Thoát Hoan để xin được thư nạn nước. Mặc dù phải đương đầu với hàng loạt khó khăn chìm ngập trong hàng đống công việc hệ trọng, Trần Quốc Tuấn không hề nao núng. Ông bám sát các chiến trường và làm việc không kể ngày đêm để chỉ đạo các tướng cách đối phó với giặc và tìm sơ hở của giặc. Nhận thấy mưu đồ của giặc đang muốn từ hai mặt Bắc Nam đánh kẹp lại chủ lực quân Trần sau lúc quân Ô Mã Nhi đã gặp quân Toa Đô ở Thanh Hóa, Trần Quốc Tuấn thấy cần tung thêm lực lượng chặn ngay đạo quân này. Trần Quốc Tuấn lập tức phái danh tướng Phạm Ngũ Lão đem quân vào Nghệ An hợp sức với Trần Quang Khải phá giặc. Ít lâu sau tin vui báo về: Trần Quang Khải và Phạm Ngũ Lão đã đánh lui quân Toa Đô, Ô Mã Nhi. Các tướng giặc đang cướp đường chạy ra Thăng Long, hiện chúng đã tới Trường Yên77. Tình hình đã đổi khác, Trần Quốc Tuấn dời quân doanh về Thiên Trường78. Ông phát hiện thấy quân giặc đã mất tinh thần. Hơn thế, chúng đang vấp phải một khó khăn lớn, không sao chạy đủ lương thảo nuôi quân. Như vậy, thời cơ phản công đã đến. Ông hướng cuộc phản công chiến lược đầu tiên không phải vào đạo quân của Thoát Hoan, đạo quân đang kiêu căng khinh địch mà vào đạo quân của Toa Đô đã mệt mỏi vì chiến tranh với Chiêm Thành từ năm 1283, nhất là vì cuộc hành quân từ Chiêm Thành ra Bắc. Bởi vậy, Trần Quốc Tuấn triệu gấp các tướng về quân doanh Thiên Trường. Trong cuộc họp cơ mật ấy, vị Tiết chế quân Trần xin vua Trần cho lệnh bắt đầu phản công và chọn tuyến giặc Nguyên xây dựng trên sông Hồng làm hướng tiến đánh trước tiên. Ba trận đánh lớn mở màn cho cuộc phản công chiến lược đã được Trần Quốc Tuấn quyết định. Đích thân Trần Quốc Tuấn sẽ chỉ huy đánh đại đồn A Lỗ79 để gây khí thế cho toàn quân, làm mất nhuệ khí của giặc. Chiêu Văn vương Trần Nhật Duật đánh tiếp vào cửa Hàm Tử80. Rồi đó, căn cứ Chương Dương81 sát phía Nam thành Thăng Long sẽ do Chiêu Minh đại vương Trần Quang Khải đảm nhận. Chỉ mấy ngày sau, trận đánh mở màn do chính Quốc công Tiết chế Trần Hưng Đạo chỉ huy nhằm vào A Lỗ đã bùng nổ. Quân Trần xung trận với khí thế ngất trời, đánh tan tác cánh quân của Vạn Hộ Lưu Thế Anh, buộc tên tướng giặc gian hùng, xảo quyệt này phải tất tả tháo chạy. Khí thế quân Trần lên nhanh như diều gặp gió. Mấy ngày sau, Trần Quốc Tuấn được báo Trần Nhật Duật và các phó tướng Nguyễn Khoái, Trần Quốc Toản có tướng Tống Triệu Trung giúp sức, đã cả phá quân giặc ở Hàm Tử. Sau hai trận thua lớn, quân xâm lược Nguyên mất hết tinh thần. Nhân cơ hội ấy, Trần Quốc Tuấn phái thêm các tướng Phạm Ngũ Lão, Trần Quốc Toản giúp sức Trần Quang Khải tiến đánh căn cứ Chương Dương. Chỉ sau một trận xung sát ác liệt, căn cứ Chương Dương với một đạo binh thuyền khổng lồ bảo vệ mạn Nam kinh thành Thăng Long của giặc đã bị đánh tan nát. Mất Chương Dương, quân Thoát Hoan ở Thăng Long sẽ lâm nguy. Bởi vậy, Thoát Hoan đã phái nhiều cánh quân đi cứu viện. Nhưng tất cả những cánh quân này đều bị phục đánh tơi bời. Vòng vây xiết dần vào tổng hành dinh quân giặc ở Thăng Long. Đến lượt Thoát Hoan dốc hết đại quân ra quyết chiến. Nhưng quân hắn đại bại. Đến lúc phải rút chạy trở về, Thoát Hoan kinh hoàng thấy quân Trần do Phạm Ngũ Lão chỉ huy đã xuất kỳ bất ý tràn vào Thăng Long từ trước. Thoát Hoan phải dẫn tàn quân cướp đường chạy lên Bắc Giang. Hay tin đạo quân của Trần Quang Khải, Phạm Ngũ Lão, Trần Quốc Toản đã khôi phục kinh thành đuổi đại binh Thoát Hoan chạy lên Bắc Giang và Toa Đô, Ô Mã Nhi đang cụm lại ở Tây Kết, Trần Quốc Tuấn quyết dốc toàn lực đánh những trận cuối cùng, quét sạch giặc Nguyên ra khỏi bờ cõi. Bộ óc mẫn tiệp đã giúp vị Tiết chế sớm hoạch định được kế đánh táo bạo, chính xác, có hiệu quả lớn. Trước hết, Trần Quốc Tuấn gấp phái đi những cánh quân chặn những đường rút của giặc, truyền hịch đi các lộ kêu gọi dân binh nổi lên quét giặc trừ gian. Rồi đó, ông đem toàn quân đánh mạnh vào hai đạo binh giặc ở Tây Kết và Bắc Giang. Quyết diệt gọn đạo quân giặc hiện đóng thành ba trại ở Tây Kết, Trần Quốc Tuấn điều ba cánh quân do các tướng Lê Phụ Trần, Hà Chương; Trần Quốc Toản, Nguyễn Khoái; Hưng Vũ vương Quốc Hiến, Hưng Hiến vương Quốc Uy, các gia tướng Cao Mang, Đại Hành đem cả thảy hơn một vạn quân đánh thẳng vào Tây Kết. Để chặn đường chạy ra biển của giặc, Trần Quốc Tuấn còn sai Phạm Ngũ Lão, Yết Kiêu, Dã Tượng đem ba ngàn quân phục sau núi Tây Kết. Chỉ sau một trận giao chiến ác liệt, ba trại giặc do các tướng Đường Ngột Đãi, Ô Mã Nhi, Toa Đô thống lĩnh gồm hơn năm vạn quân, bị đánh tơi tả. Các tướng giặc đem tàn quân tháo chạy ra biển, đã lọt vào trận phục kích tài tình do sự tính toán chính xác của Trần Quốc Tuấn. Danh tướng Toa Đô bỏ xác trong đám loạn quân82. Ô Mã Nhi phải cướp thuyền con lén chạy ra bể83 để lại hơn năm vạn quân bị giết và bị bắt sống. Sau chiến thắng Tây Kết, một thế trận lợi hại của một thiên tài quân sự được triển khai. Và ngay từ đầu, tướng giặc Thoát Hoan đã mắc vào bẫy, tỏ rõ sự ngu xuẩn đến đần độn trước vị Tiết chế lỗi lạc của quân Trần. Ấy là trước khi thân đem đại binh lên đánh Thoát Hoan, Trần Quốc Tuấn đã cử Phạm Ngũ Lão, Nguyễn Khoái đem ba vạn quân lẻn đường núi, phục sẵn trong rừng sậy bên khúc sông ở Vạn Kiếp. Sáng suốt hơn, Trần Quốc Tuấn còn cử các con mình là Hưng Vũ vương Quốc Hiến, Hưng Hiến vương Quốc Uy đem ba vạn quân đi đường Hải Dương ra Quảng Yên, chặn được giặc về châu Tư Minh. Không thể hiểu nổi ý đồ chiến lược của Quốc công Tiết chế Trần Hưng Đạo, Thoát Hoan ỷ còn mười vạn binh trong tay quyết bày trận đương đầu với đại quân Trần. Nhưng tên tướng tự phụ, từng tuyên bố sẽ bắt vua Trần và Tiết chế Trần Hưng Đạo bỏ rọ đem về nước, hơn thế, muốn biến nhân dân Đại Việt thành tôi mọi của hắn, đã bị đánh gục. Lần đầu tiên sức mạnh ghê gớm nhất của giặc Nguyên đụng phải Trần Quốc Tuấn và chịu thất bại ê chề. Không thể đương đầu nổi trước những dòng thác quân Trần xung trận trong khí thế ngất trời, quân bộ, quân kỵ của giặc từng mảng, từng mảng bị quét sạch. Thoát Hoan kinh hoàng dẫn tàn quân tháo chạy. Đến Vạn Kiếp, quân giặc lại bị ba vạn quân Trần do Phạm Ngũ Lão, Nguyễn Khoái bỗng bất ngờ xuất hiện, chặn trước chặn sau tiếp đánh. Lý Hằng, tên Tống gian bán rẻ dân tộc, theo gót giặc Nguyên sang xâm lược Đại Việt đã bị bắn chết tại trận. Thoát Hoan hồn xiêu phách lạc phải chui vào ống đồng đặt trên xe mới thoát chết. Tàn quân giặc nhốn nháo tìm đường chạy về châu Tư Minh. Nhưng trên đoạn đường ấy, Quốc Hiến, Quốc Uy chờ giặc. Thêm tướng giặc Lý Quán tử trận. Sáu mươi vạn giặc Nguyên xâm lược Đại Việt cuối cùng chỉ còn ít tên tháo chạy được về nước. * * * Đem đạo binh chiến thắng trở về, quốc công tiết chế Trần Hưng Đạo đã được dân chúng Thăng Long nô nức đổ ra đứng đông đặc hai bên đường cung kính chào đón. – Quốc công tiết chế vạn tuế! Quân dân reo hò, tung hô tưởng đến vỡ lồng ngực khi Trần Quốc Tuấn oai phong, lẫm liệt trên lưng ngựa chiến dẫn đầu đoàn quân đi tới. Tiếng hò reo, tung hô từng đợt dậy lên theo bước chân đoàn quân thắng trận. Trên lưng ngựa chiến, Trần Quốc Tuấn mỉm cười đáp lại dân chúng. Mái tóc ông thêm bạc sau nhiều tháng gối đất nằm sương ở chiến trường nhưng trông ông quắc thước lạ lùng. Trần Quốc Tuấn biết rõ dân chúng Thăng Long đã dành cho ông những tình cảm tốt đẹp nhất. Trong niềm hân hoan đến tột đỉnh ấy, Trần Quốc Tuấn chợt buồn: chiến thắng này to lớn, vẻ vang thật nhưng nhân dân Đại Việt đã phải đổi bằng biết bao xương máu và nước mắt? Những ai trong số dân chúng đi đón ông phải gánh chịu những đau thương mất mát? Ông nghĩ đến dân. Bởi vì ông biết sở dĩ có được chiến thắng to lớn, vĩ đại này là nhờ vào sức dân đem lại. Cho nên, giữa cảnh tượng nức lòng trong ngày vui chiến thắng, Trần Quốc Tuấn bỗng thấy rung động niềm biết ơn vô hạn đối với muôn dân. Ý chí trăm họ quả là tòa thành vững chắc đảm bảo cho chiến thắng hoàn toàn, giữ vững non sông xã tắc. Chân lý ấy, qua thử thách của chiến tranh, càng chói ngời, đinh ninh trong lòng vị tướng thiên tài. Nhưng Trần Quốc Tuấn không nghĩ được nhiều. Bởi vì ở phía trước ông đã nhìn thấy thượng hoàng Thánh Tôn, vua Nhân Tôn và thượng tướng Thái sư Trần Quang Khải cùng quần thần thân ra đón ông. Ta sẽ nói gì với quan gia trong ngày vui chiến thắng này? Sau chiến tranh có biết bao việc phải làm - Trần Quốc Tuấn thầm nhủ. Nhưng ta sẽ không nói nhiều. Ta chỉ lưu ý quan gia phải biết thương dân, khoan nới sức dân và chăm lo đến đời sống của muôn dân, những người đã làm nên chiến thắng. Rồi đó, ta xin lui về thái ấp Vạn Kiếp nghỉ ngơi và viết sách “Vạn Kiếp tông bí truyền thư”, cuốn sách đã được thai nghén trong chiến tranh84. Kiệu hai vua Trần đã tới gần. Trần Quốc Tuấn thong thả dừng cương ngựa… QUỲNH CƯ LÊ LAI I Lê Kiều lặng im. Cặp mắt già nua của ông long lanh mở rộng, soi thẳng vào viên đội lệnh và tốp lính huyện Lương Giang. Bầy lâu la này muốn làm gì ông? Thoạt nghe ba hồi trống vang lên một cách khác thường vào giữa buổi, từ đình Trung làng Dựng Tú85 chuyền về các xóm ngõ, ông thầm nghĩ: hẳn là có chuyện. Quả vậy. Lại hạch sách, dọa nạt. Mấy năm gần đây, ở phủ Thanh Hóa này, tên tri phủ Lương Nhữ Hốt núp chân giặc Minh, hầu hạ chúng, đã với tay đến các huyện, xã, hương, ấp… Chúng lập sổ kê khai hộ khẩu, đặt các chức lý trưởng, giáp thủ, đôn dốc dân chúng làng bản phải phu phen, cống nạp. Cái làng Dựng Tú hẻo lánh và cả vùng đất Lam Sơn86 bên ngoài kia nữa, từ bao đời, dân cư chỉ có yên vui làm ăn. Những nẻo đồng nhỏ hẹp đọc theo các lũng hoặc viền hai bên dòng Lương Giang87 cũng đủ cấy cầy, có thóc gạo ăn quanh năm. Ấy là chưa kể đến nguồn lợi không bao giờ cạn của rừng núi. Đất lành chim đậu. Nhiều người từ nơi khác đã tìm đến lập nghiệp, cùng với thổ dân ở đây biến vùng này thành một nơi có thể nói là trù phú. Từ khi giặc Minh giả danh phù Trần diệt Hồ để cướp nước ta, vùng đất này có được yên ổn đâu. Nếu như ở miền biển, giặc mở các trường mò ngọc trai, săn đồi mồi, thì ở vùng núi rừng này, chúng lại bắt dân phải nộp hương liệu, chồn trắng, hươu trắng, voi trắng, rùa chín đuôi, chim đậu ngược, vượn bạc má88. Dân làng Dựng Tú này cũng đã nhiều người phải bỏ xóm làng đi phu phen, binh lính xây dựng thành lũy cho giặc; phải điêu đứng vì cung đốn trâu bò, thóc gạo cho quan lại đủ cấp, đủ cỡ. Rồi đó, dân Dựng Tú và Lam Sơn liền núi kề rừng bảo nhau không chịu khuất phục, cung đốn cho chúng nữa. Vì vậy chúng thường giở chuyện đe dọa, cướp phá. Dân làng một lòng hễ giặc kéo đến đông thì chạy vào rừng lẩn tránh, chúng đánh trống họp dân thì không một ai ra mặt. Tên đội lệnh huyện Lương Giang và tốp lính đập đến thủng trống vẫn không thấy một ai. Hỏi đến lý trưởng, giáp thủ thì chưa có người giữ chức ấy, chúng hùng hổ ập đến nhà Lê Kiều, tróc nã người giữ chức phụ đạo89 cầm đầu, dạy dỗ dân làng Dựng Tú. Thấy có lính huyện đến, Lê Kiều buông sách xuống sập, ngồi nhỏm dậy. Không đợi chủ nhà chào hỏi, viên đội lệnh sấn sổ ngồi phịch xuống phản kê giữa nhà, trước bàn thờ tổ tiên của Lê Kiều. Hắn hất hàm hỏi: – Nghe trống lệnh điểm mặt, sao các người không ra đình làng? Lê Kiều trừng mắt nhìn, không trả lời. Ông đưa tay cài hàng khuyết áo năm thân nhuộm chàm che kín lồng ngực xương xương, to rộng của mình. Gần sáu mươi năm trời làm chủ vùng đất này, Lê Kiều còn có sợ ai. Ông hỏi lại: – Các người đến làng tôi có việc gì? – Việc gì à? Giữ chức phụ đạo ở đây, ông dạy dỗ dân làng như thế nào, mà mấy năm nay không có lấy được một con trâu, một hạt thóc nộp cho cấp trên? Phép nước không dung tha quân phản nghịch. Lê Kiều khủng khỉnh đáp: – Dân tôi không theo giặc, không nuôi giặc, không giúp rập chúng làm hại giống nòi mà bảo là phản nghịch à? Tên đội lệnh giận tím ruột. Sẵn có ý nghĩ dân vùng này chống lại lệnh trên, hắn trút giận vào ông già Lê Kiều cứng đầu cứng cổ đang gườm gườm nhìn hắn: – Chúng mày trói lão già này lại, giải về huyện cho ta! Tên đội lệnh vừa dứt lời, một tiếng thét từ trong buồng bên vang lên: – Khoan! - Một người đàn ông trạc 40 tuổi, mình trần trùng trục, mang một con dao rừng rộng bản bên vòi khố vụt chạy ra, đứng chắn ngang trước mặt Lê Kiều quát lên: – Các người không được chạm đến bố ta, có giỏi thì bắt ta đây! Viên đội lệnh hơi chột dạ. Nhưng với thanh đoản đao trong tay, lại có thêm năm người lính cắp giáo hộ vệ, hắn không lùi bước, truyền lệnh: – Bắt cả hai bố con về huyện! Lê Kiều nói với con trai: – Lê Lãn con, để yên xem chúng làm gì được bố! Người con trai đầu của Lê Kiều bước lại gần tên đội lệnh, dứ nắm tay rắn chắc trước mặt hắn: – Muốn yên thân thì cút! Đây không phải là đất sống của các người. Một hạt thóc lép, một sợi lông đuôi trâu nộp cho giặc, dân làng Dựng Tú này cũng không có, nghe rõ chưa? Tên đội lệnh đã thấy rõ dân làng này quyết tâm chống lại lệnh trên, mà người cầm đầu chính là bố con Lê Kiều. Hắn nhìn quanh. Năm gian nhà gỗ thênh thang, vững chãi, nối liền với hai dãy nhà ngang bằng những nhà cầu nho nhỏ. Phía trước sân, dãy bịch lúa lợp rơm rạ dựng lù lù, dựa lưng vào vách tường đá. Xa hơn, giàn gióng chuồng trâu chiếm một vùng dưới gốc rừng cây thưa. Những căn nhà sàn đậu trên sườn dốc. Tất cả bằng tre nứa gỗ lạt, chỉ cần một mồi lửa là lập tức thành tro bụi. Hắn suy tính: đốt nhà là hạ sách. Ở đây, vào lúc này chúng chỉ có sáu người, kể cả hắn. Làng này bị đốt, thì lũ chúng khó mà sống thoát về được huyện, cứ bắt hai bố con về rồi hãy hay. Khoát tay ra lệnh cho mấy tên lính chĩa giáo vào Lê Lãn, hắn xông đến ông già Lê Kiều. Bàn tay của hẳn chưa nắm vững cổ áo Lê Kiều thì đã phải buông vội ra vì cái gạt mạnh của người con trai thứ hai của Lê Kiều là Lê Lai từ trong buồng kín xông ra. Theo chân Lê Lai, ba thiếu niên trạc 15, 17 tuổi, con của Lê Lai - cũng cắp dao rừng xông ra với bố. Năm tên lính hoảng sợ vội thu giáo, ngơ ngác đợi lệnh, còn viên đội lệnh từ hùng hổ đến sợ xanh mặt. Trước mắt hắn, một người trạc 35 tuổi, cao hơn hắn một đầu, có dáng vóc vạm vỡ, nước da rám nắng, làm cho hắn sợ hãi. Hình đôi giao long màu xanh chàm xăm trên lồng ngực cuồn cuộn, vắt về đôi vai to rộng càng tăng thêm sức mạnh đôi tay của Lê Lai. Mỗi bước chân Lê Lai tay không tiến lại gần làm cho viên đội lệnh lùi bước. Đến một lúc chạm lưng vào vách, hắn đành phải dừng lại tìm cách chống đỡ. Lê Lai quát vào tai hắn: – Đánh giết các người chỉ làm cho bẩn tay, ta không thèm. Nghe đây, tất cả bỏ vũ khí xuống! Viên đội lệnh và năm tên lính ngoan ngoãn vâng lời. Lê Lai dõng dạc hô lớn: – Bước ra sân! xếp hàng một! Nhìn sáu người lạ mặt răm rắp theo lệnh của bố, Lê Lô, Lê Lộ, Lê Lâm phì cười. Riêng Lê Lâm ít tuổi nhất, cậu ước gì mình lớn thêm vài tuổi nữa để được theo bố tập trận như anh vẫn thường cùng người lớn tập luyện ngoài núi. Ở đây cũng tập nhưng lại khác. Bố giận giữ, còn người tập thì da mặt lại tái mét như da bàn chân ngâm lâu dưới bùn. Lê Lâm ngỡ ngàng nhìn bố bước ra sân. Dọng ồm ồm, âm vang của Lê Lai đập vào tai bọn lính: – Quan thày lũ ngươi ta cũng không sợ, huống chi bọn đày tớ. Ta tha cho về, bảo nhau kiềng đất này, dùng có vác mặt đến hạch sách, dò la mà toi mạng cả lũ. Bước! Năm tên lính theo viên đội lệnh lùi lũi ra cổng. Bầy chó săn tinh khôn của Lê Kiều sủa gâu gâu, sấn sổ bám chân lũ chúng đến tận dốc ngõ. Trong nhà, Lê Lai sai bảo Lê Lô: – Con thu nhặt thanh đoản đao và năm ngọn giáo, chiều đem ra bãi tập phát cho anh em chưa có vũ khí. Lê Kiều ngồi xuống sập. Ông vuốt râu nhìn đàn con cháu. Ông vẫn tưởng đàn cháu của ông đã theo chân mọi người chạy tản vào rừng, chỉ có hai con trai của ông ở nhà để giữ làng. Không ngờ cả ba đứa cháu đều không chịu chạy trốn. Mai đây, khi lâm sự, lũ con cháu này sẽ làm vẻ vang cho dân làng Dựng Tú, làm đẹp mặt cho tổ phụ ông90. Từ khi giặc Minh xâm lược, ông vẫn nhắc nhở bà con giữ làng, thà chết không làm tay sai, không hầu hạ, phục dịch lũ giặc. Đàn con cháu của ông đã làm theo lời ông. Làng Dựng Tú này cũng vậy. Trai tráng đều theo đứa con trai thứ hai của ông, liên kết với chúa Lam Sơn là Lê Lợi để mưu chuyện lớn. Ông vẫn thầm nhắc: “Hậu sinh khả úy”. Con trai Lê Lai của ông không chỉ lo việc giữ làng Dựng Tú như ông khuyên bảo, mà còn tính chuyện nổi dậy đánh đuổi giặc Minh, thu phục cả đất nước Đại Việt. Sức già có hạn. Ông xin nhường bước cho đàn trẻ thả sức vẫy vùng. Được như vậy thì tổ tiên ông nằm dưới lòng đất Dựng Tú này cũng lấy làm vinh hạnh. Ông sinh hạ được hai con trai: Lê Lãn và Lê Lai. Cả hai đều khỏe mạnh. Nhưng xem ra Lê Lai dũng mãnh, mưu lược hơn Lê Lãn, nhiều. Cả huyện Lương Giang này đều biết Lê Lai cùng với Lê Lợi bên huyện Lỗi Dương kết bạn keo sơn, cầm đầu khắp vùng thượng du phủ Thanh Hóa này. Ông có nghe tin phong thanh tri phủ Lương Nhữ Hốt thường cho tay chân lui tới dò la hành tung của Lê Lợi và con trai ông. Trước sự việc vừa xảy ra, ông thấy ngài ngại. Ông hỏi Lê Lai: – Công việc đến đâu rồi con? – Dạ, mọi việc đang sửa soạn gấp, còn phải nuôi thêm uy, dưỡng thêm sức mới nổi dậy được bố ạ. Lê Kiều băn khoăn lo lắng: – Cử sự thì phải có lương thảo, quân lính. Liệu các con lấy đâu cho đủ? Công việc chuẩn bị kín đáo của Lê Lợi ở bên phía Lam Sơn làm sao Lê Kiều biết được. Nơi ấy, lúa gạo đã chất đầy kho dụn, hào kiệt khắp nơi về ứng nghĩa đã đông, còn sĩ tốt không phải ai xa lạ, chính là hàng ngàn gia nhân của Lê Lợi vừa cày ruộng vỡ nương vừa luyện tập đó thôi. Chẳng nói đâu xa, ở làng Dựng Tú này, một khi nổi dậy thì trai tráng trong làng từng theo Lê Lai tập luyện sẽ cắp giáo vùng dậy. Còn lương thực thì nhà nào cũng sẵn sàng ứng cấp cho chồng con lo việc nghĩa. Lê Lai nói với bố: – Vâng, mọi việc đều tính toán kỹ. Một khi phất cờ nổi dậy thì phải có đầy đủ cả chứ ạ. – Giặc Minh đông lại mạnh. Bố có nghe nói chuyện các vua Trần nổi dậy bị giặc dồn về tận Hóa Châu, lao đao lận đận mãi mà nghiệp lớn vẫn không thành. Phải xem đó để liệu lượng từng đường đi nước bước đấy con ạ. Lê Lai giảng giải cho bố rõ: – Con có biết việc đó. Các vua Trần khác, các con khác. Các vua Trần không được lòng dân nên bị đánh bại. Còn các con thể theo lòng dân nổi dậy, lấy rừng núi hiểm trở làm chỗ dựa. Ngày nào núi rừng còn sừng sững """