"
Những Thứ Họ Mang - Tim O"Brien full mobi pdf epub azw3 [Chiến Tranh]
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Những Thứ Họ Mang - Tim O"Brien full mobi pdf epub azw3 [Chiến Tranh]
Ebooks
Nhóm Zalo
Tác phẩm: Những thứ họ mang Nguyên tác: The Things They Carried Thể loại: Truyện ngắn
Tác giả: Tim O'Brien
Dịch giả: Trần Tiễn Cao Đăng Nhà phát hành: Nhã Nam
Nhà xuất bản: Văn Học
Năm xuất bản: 2011
Dự án Ebolic #57
Chụp sách: Chou
Đánh máy: Danny Do, Nhật Huyền, Chua Trần, Hồ Thanh Trà, hoangtuananh69, Uyen Vo, Huân
Soát lỗi: Tornad
Điều hành & xuất bản: Tornad
Ngày hoàn thành: 10/3/2018
Ebolic là dự án chế bản ebook do Bookaholic thực hiện. Chúng tôi hoạt động hoàn toàn phi lợi nhuận và dựa trên tinh thần tự nguyện, với mục đích mang đến cho độc giả những đầu sách hay và lan tỏa văn hóa đọc cho cộng đồng. Chúng tôi khuyến khích độc giả mua sách in, và chỉ nên tìm đến ebook này khi không thể tiếp cận ấn phẩm sách.
Liên hệ với Ebolic qua:
Email: EbolicEbook@gmail.com
Group: Facebook.com/groups/ebolic
Fanpage: Facebook.com/EbolicEbook
MỤC LỤC
Những thứ họ mang
Yêu
Xoáy
Trên dòng sông mưa
Thù
Bạn
Làm thế nào kể một câu chuyện chân thực về chiến tranh Nha sĩ
Người tình sông Trà Bồng
Tất chân
Nhà thờ
Kẻ mà tôi giết
Phục kích
Phong cách
Nói về lòng can đảm
Ghi chú
Trên cánh đồng
Hình thức tốt
Chuyến đi thực địa
Lính ma
Sống về đêm
Cuộc sống của những người chết
Cuốn sách này xin thân ái tặng cho những người ở Đại đội Alpha, đặc biệt là cho Jimmy Cross, Norman Bowker, Rat Kiley, Mitchell Sanders, Henry Dobbins, và Kiowa.
Lời tri ân
Lời tri ân của tôi xin gửi tới Erik Hansen, Rust Hills, Camille Hykes, Seymour Lawrence, Andy McKillop, Ivan Nabokov, Les Ramirez, và, trên tất cả, tới Ann O’Brien.
Những thứ họ mang
Thiếu úy Jimmy Cross mang mấy lá thư của một cô gái tên Martha, sinh viên năm thứ ba trường Mount Sebastian ở New Jersey. Đó không phải thư tình, nhưng Thiếu úy Cross đang ôm hy vọng, cho nên thư này hắn giữ kỹ, gấp làm đôi gói trong bao ni lông lận đáy ba lô. Chiều muộn, sau một ngày hành quân, hắn đào công sự cá nhân cho mình, rửa tay bằng nước bi đông, mở cái gói ra, nhón đầu ngón tay cầm lấy mấy lá thư, và suốt tiếng đồng hồ cuối cùng khi trời còn sáng, hắn giả vờ. Hắn sẽ lại mường tượng ra những chuyến cắm trại lãng mạn đến vùng Núi Trắng ở New Hampshire. Đôi khi hắn lè lưỡi nếm nắp phong bì, biết rằng lưỡi của nàng đã từng ở đó. Hơn hết thảy, hắn muốn Martha yêu hắn như hắn yêu nàng, nhưng các bức thư này hầu hết toàn tán gẫu linh tinh, tránh né chuyện yêu đương. Nàng là gái trinh, hắn gần như tin chắc. Nàng học khoa Anh ngữ trường Mount Sebastian, nàng viết rất hay về các giáo sư, về các bạn cùng phòng và các kỳ thi giữa học kỳ của nàng, về lòng kính trọng Chaucer và niềm yêu thích lớn lao nàng dành cho Virginia Woolf. Nàng hay trích thơ; nàng chẳng bao giờ nhắc tới cuộc chiến tranh, chỉ nói, Jimmy, bảo trọng nhé. Các bức thư nặng 10 ao-xơ. Chúng đều ký Yêu, Martha, nhưng Thiếu úy Cross biết Yêu ở đây chỉ là một cách để ký cuối thư chứ không hàm cái nghĩa mà đôi khi hắn vờ là nó có. Khi mặt trời lặn, hắn sẽ cẩn thận cất thư vào lại ba lô. Chậm chạp, hơi lơ đãng, hắn sẽ đứng dậy đi tới đi lui giữa đám lính, kiểm tra vòng rào ngoài, rồi khi trời tối hẳn, hắn sẽ lại quay về công sự của mình ngắm trời đêm và tự hỏi có phải Martha là gái trinh không.
Những thứ họ mang hầu hết là cần thiết mới mang. Trong số những thứ không thể thiếu hoặc gần như không thể thiếu có dao mở
đồ hộp P-38, dao bỏ túi, viên Trioxin châm lò, đồng hồ đeo tay, thẻ ghi tên, thuốc đuổi muỗi, kẹo cao su, kẹo, thuốc lá, viên muối, gói Kool-Aid, bật lửa, diêm, kim chỉ. Chứng nhận Thanh toán cho Quân nhân, khẩu phần C, và hai ba bi đông nước. Gộp hết lại, các thứ này nặng từ 15 đến 20 pao, tùy theo thói quen hay mức tiêu thụ của từng người. Henry Dobbins, vốn bự con, phải mang thêm khẩu phần; hắn đặc biệt khoái đào đóng hộp dầm xi rô đặc rưới lên bánh trứng. Dave Jensen, vốn coi trọng chuyện vệ sinh khi tác chiến hiện trường, thì mang bàn chải răng, chỉ xỉa răng, thêm vài bánh xà bông loại thường thấy trong khách sạn, mấy bánh này hắn thó được ở Trung tâm Nghỉ ngơi Giải trí dành cho quân nhân ở Sydney, Úc. Ted Lavender, vốn hay sợ, thì mang những viên an thần cho đến khi hắn bị bắn vào đầu ở ngoài làng Thần Khê hồi giữa tháng Tư. Do cần thiết, mà cũng do quy định bắt buộc, tất cả đều mang mũ cối bằng thép nặng 5 pao kể cả lớp lót và khăn trùm ngụy trang. Họ mang áo khoác và quần đi trận đúng chuẩn. Rất ít người mang đồ lót. Chân họ mang bốt đi rừng – nặng 2,1 pao – và Dave Jensen mang ba đôi tất cùng một lon bột bôi chân của bác sĩ Scholl để phòng chứng bợt da chân. Cho đến khi bị bắn, Ted Lavender mang sáu, bảy ao-xơ thuốc phiện hạng xịn, với hắn đây là thứ không thể thiếu. Mitchell Sanders, lính trực điện đài, mang bao cao su. Norman Bowker mang một cuốn nhật ký. Chuột Kiley mang mấy cuốn truyện tranh. Kiowa, là tín đồ Báp tít thuần thành, mang một cuốn Tân Ước có minh họa mà cha hắn tặng cho, ông là người dạy trường dòng ở Oklahoma City, bang Oklahoma. Tuy nhiên, phòng những lúc gian nguy, Kiowa cũng mang cả lòng nghi ngại của bà hắn đối với người da trắng, chiếc rìu săn cũ của ông hắn. Là do cần thiết cả. Bởi vùng này đầy rẫy mìn với bẫy với chông, theo quy định mỗi người phải mang một áo giáp bên trong là thép, ngoài phủ ni lông, nặng 6,7 pao, song hôm nào nóng thì có vẻ nặng hơn nhiều. Bởi ta có thể chết rất nhanh, nên mỗi người mang theo ít nhất một cuộn băng gạc to, thường là nhét ngay trong đai mũ cối cho dễ lấy. Bởi ban đêm trời lạnh và bởi
các tháng mùa mưa thường nhiều mưa ướt át, nên mỗi người mang một tấm pông-sô bằng nhựa màu xanh lục có thể dùng làm áo mưa hay đệm trải đất hay lều tạm. Với lớp lót có chần, tấm pông-sô nặng gần 2 pao, nhưng nó đáng giá từng ao-xơ một. Chẳng hạn, vào tháng Tư, khi Ted Lavender bị bắn chết, họ dùng tấm pông-sô của hắn bọc hắn lại, khiêng hắn qua cánh đồng, nâng hắn lên đưa vào chiếc trực thăng chở hắn đi.
Họ được gọi là leg (cẳng) hay grunt, kiểu như “lính trơn”.
Mang cái gì đó thì họ bảo là hump (“khuân”) nó, như khi Thiếu úy Jimmy Cross khuân tình yêu hắn dành cho Martha lên mấy ngọn đồi, qua những đầm lầy. Hump cũng được dùng theo nghĩa “đi”, hay “hành quân”, nhưng nó hàm nghĩa sự nhọc nhằn lớn hơn gấp bội chứ không phải chỉ đi mà không khuân một cái gì.
Hầu như ai cũng khuân những bức ảnh. Trong ví, Thiếu úy Cross mang hai tấm ảnh Martha. Tấm thứ nhất là một tấm Kodacolor có ghi “Yêu”, mặc dù hắn biết đấy có phải là yêu thật hay không. Nàng đứng dựa bức tường gạch. Mắt nàng màu xám và không biểu lộ gì, môi nàng hơi hé trong khi nàng nhìn thẳng vào ống kính. Thỉnh thoảng, ban đêm, Thiếu úy Cross tự hỏi ai chụp tấm ảnh ấy, bởi hắn biết nàng có không chỉ một bạn trai, bởi hắn quá yêu nàng, và bởi hắn có thể thấy bóng của người chụp ảnh đổ xuống bức tường gạch. Ảnh thứ hai được cắt ra từ cuốn kỷ yếu năm 1968 của trường Mount Sebastian. Đó là một bức ảnh chụp khi người ta đang vận động – môn bóng chuyền nữ – và Martha đang khom người xuống song song với mặt đất, gần chạm tới sàn, hai lòng bàn tay nàng nổi bật sắc nét, lưỡi căng, vẻ mặt chân thành đầy chí khí tranh đua. Không thấy có mồ hôi. Nàng mặc quần thể thao trắng. Cặp chân nàng, hắn nghĩ, hầu như chắc chắn là chân của một gái trinh, khô, không lông, đầu gối trái cong lại chịu toàn bộ sức nặng của nàng, vốn chỉ hơn 100 pao một chút. Thiếu úy Cross nhớ mình từng chạm vào cái đầu gối trái
ấy. Một rạp xi nê tối, hắn nhớ vậy, hôm ấy là phim Bonnie và Clyde, Martha mặc váy bằng vải tuýt, thế rồi giữa chừng cảnh cuối, khi hắn chạm đầu gối nàng, nàng quay lại nhìn hắn đầy buồn bã, tỉnh táo khiến hắn rụt tay lại, nhưng hắn rồi sẽ luôn luôn nhớ cảm giác sờ tay vào cái váy vải tuýt ấy và cái đầu gối bên dưới nó cùng với tiếng súng đã giết chết Bonnie và Clyde, nó khiến hắn bối rối xiết bao, nó chậm và đè nặng xiết bao. Hắn nhớ mình đã hôn tạm biệt nàng nơi cửa ký túc xá. Hắn nghĩ, ngay khi đó lẽ ra hắn nên làm gì đó dũng cảm. Lẽ ra hắn nên mang nàng lên cầu thang tới tận phòng nàng đoạn trói nàng vào giường và sờ cái đầu gối trái đó suốt cả đêm. Lẽ ra hắn nên liều làm vậy. Cứ hễ nhìn mấy tấm ảnh đó, hắn lại nghĩ ra những điều mới mà đáng lẽ hắn đã làm.
Những thứ họ mang một phần là do cấp bậc, một phần là do chuyên môn khi tác chiến hiện trường.
Là thiếu úy và chỉ huy trung đội, Jimmy Cross mang la bàn, bản đồ, sổ tay mật mã, ống nhòm, và một khẩu súng lục 45 ly nặng 2,9 pao nạp đủ đạn. Hắn mang một cây đèn pin cỡ mạnh và mang trách nhiệm đối với sinh mạng của quân lính hắn.
Là lính thông tin liên lạc, Mitchell Sanders mang máy ra-đi-ô PRC-25, nặng vô cùng, 26 pao kể cả pin.
Là lính quân y, Chuột Kiley mang một cái xắc cốt bằng vải bố đựng đầy moóc phin rồi thì huyết tương rồi thì thuốc trị sốt rét rồi thì băng phẫu thuật rồi thì truyện tranh và tất cả những gì mà lính quân y vẫn thường mang, kể cả sô cô la M&M’s cho những vết thương đặc biệt nặng, tất cả cộng lại nặng gần 20 pao.
Là người bự con, và do vậy là lính súng máy, Henry Dobbins mang khẩu M-60, nặng 23 pao nếu không nạp đạn, nhưng nó hầu như luôn luôn nạp đạn. Ngoài ra, Dobbins mang từ 10 đến 15 pao đạn giắt trong băng đạn quấn quanh ngực và vai.
Là binh nhất, hầu hết bọn họ là bộ binh cho nên họ mang súng trường chuẩn M-16 tự nạp đạn bắng khí nén. Súng này nặng 7,5 pao nếu không nạp đạn, còn nạp đủ băng 20 viên thì nặng 8,2 pao. Tuy thuộc nhiều nhân tố, tỉ như địa hình và tâm lý, các tay súng trường mang theo từ 12 đến 20 băng đạn, bất cứ số nào trong khoảng ấy, thường giắt trong quai đeo súng bằng vải, tức cộng thêm từ 8,4 pao là ít nhất cho đến 14 pao là nhiều nhất. Nếu như có, họ còn mang cả bộ dụng cụ bảo trì M-161 que thông nòng, bàn chải thép, tuýp đựng dầu LSA – tất cả nặng chừng một pao. Trong đám lính bộ, một số người mang súng phóng lựu M-79, 5,9 pao nếu không nạp lựu, kể cũng là nhẹ nếu không kể lựu đạn, cái này thì nặng. Một quả là đã nặng 10 ao-xơ. Một lần nạp bình thường 25 quả. Nhưng Ted Lavender, vốn hay sợ, mang tới 34 quả vào cái lúc hắn bị bắn chết ngoài làng Thần Khê, hắn ngã gục dưới một gánh nặng khác thường, trên 20 pao đạn, cộng thêm áo giáp thép và mũ cối và lương thực và nước và giấy vệ sinh và thuốc an thần và mọi thứ khác, cộng thêm nỗi sợ không gì cân nổi. Hắn gục tắp lự và cả cái đống trình trịch đó gục xuống ngay đơ theo. Không quằn quại không lăn lộn không gì hết. Kiowa nhìn thấy chuyện xảy ra, hắn bảo giống như là nhìn tảng đá rơi hay bao cát bự hay gì đấy – bùm một cái, thế là rồi, sụm – chứ đâu như trong phim, thằng cha bị bắn chết cứ lăn lông lốc rồi lộn vòng vòng chả giống ai rồi thì ngã dúi dụi đầu xuống đất đít lên trời – chả có gì như vậy hết á, Kiowa nói, thằng chó tội nghiệp cứ thế gục đứ đừ. Bùm. Gục. Không gì khác. Ấy là một sáng đẹp trời giữa tháng Tư. Thiếu úy Cross cảm thấy đau. Hắn tự buộc tội mình. Họ lột hết bi đông và đạn của Lavender, tất tật các thứ nặng, và Chuột Kiley nói ra điều ai cũng thấy, thằng oắt chết rồi, và Mitchell Sanders dùng điện đàm báo cáo rằng một lính Mỹ chết khi đang thi hành nhiệm vụ và xin một chiếc trực thăng. Rồi họ quấn Lavender lại trong tấm pông-sô của hắn. Họ mang hắn ra một cánh đồng khô, thiết lập an ninh, rồi ngồi hút chỗ cần sa của người chết cho tới khi trực thăng tới. Thiếu úy Cross lặng lẽ một mình. Hắn hình dung
khuôn mặt mịn màng tươi trẻ của Martha, nghĩ hắn yêu nàng hơn mọi thứ, hơn quân của hắn, và giờ đây Ted Lavender chết bởi hắn yêu nàng quá và không sao thôi nghĩ về nàng. Khi trực thăng quân y tới, họ mang Lavender lên. Sau đó họ đốt Thần Khê. Họ hành quân cho tới mặt trời lặn, họ đào công sự cá nhân, và đêm đó Kiowa giải thích mãi rằng thì tụi bây phải có mặt đặng mà tận mắt thấy, chuyện xảy ra nhanh tới cỡ nào, thằng cha tội nghiệp cứ thế sụm xuống cứ như bao xi măng. Bùm, sụm, hắn nói. Hệt như xi măng.
Ngoài ba thứ vũ khí chuẩn là M-60, M-16 và M-79, họ mang bất cứ thứ gì có trong tay, hoặc bất cứ thứ gì có vẻ thích hợp làm phương tiện để giết hay để sống còn. Họ có gì mang nấy. Có những lúc, trong một số hoàn cảnh, họ mang M-14 và CAR-15 và súng máy Carl Gustav M/45 của Thụy Điển và súng máy hạng nhẹ và AK-47 và Chi-Com và súng chống tăng và cạc bin Simonov tịch thu của địch và Uzi và súng lục Smith & Wesson 38 ly và LAW 66 ly và súng ngắn và bộ hãm thanh và dùi cui bọc da và lưỡi lê và thuốc nổ C-4 bằng chất dẻo mua ở chợ đen. Lee Strunk mang một cái ná bắn đá, thứ vũ khí dùng khi đến nước cùng, hắn bảo. Mitchell Sanders mang mấy bộ khớp ngón để đánh đấm, làm bằng đồng. Kiowa mang chiếc rìu gắn lông chim của ông hắn. Cứ ba bốn người thì có một người mang một quả mìn sát thương Claymore – 3,3 pao cộng cả thiết bị châm ngòi. Tất cả đều mang lựu đạn văng miểng – mỗi quả 14 ao xơ. Tất cả đều mang ít nhất một quả lựu đạn khói màu – 24 ao-xơ. Vài người mang CS hay lựu đạn cay. Vài người mang lựu đạn phốt pho trắng. Họ mang tất tật những gì mang được, rồi thêm vài thứ nữa, kể cả một niềm kính sợ câm lặng dành cho cái sức mạnh kinh khiếp của những thứ họ mang.
Trong tuần đầu tháng Tư, trước khi Lavender chết, Jimmy Cross nhận được một bùa may mắn của Martha gửi. Đó là một hòn sỏi đơn
sơ, nặng một ao-xơ là cùng. Sờ vào nhẵn nhụi, màu trắng sữa phớt cam phớt tím, hình ô van, như một quả trứng nhỏ xíu. Trong thư gửi kèm theo, Martha viết là nàng tìm thấy hòn sỏi trên bờ biển New Jersey, chính ở nơi đất giáp liền với nước mỗi khi triều lên, nơi mọi vật tụ hội bên nhau nhưng cũng cách xa nhau. Chính cái phẩm tính cách-xa-nhưng-ở-bên-nhau này, nàng viết, đã xui khiến nàng nhặt hòn sỏi lên cất vào túi áo mấy ngày liền, ở đó nó dường như không trọng lượng, thế rồi gửi nó đi bằng bưu điện, đường hàng không, như là biểu tượng cho cảm xúc chân thật nhất của nàng dành cho hắn. Thiếu úy Cross nghĩ thế này thật lãng mạn. Nhưng hắn tự hỏi đích xác ra thì cảm xúc chân thật nhất của nàng là gì, ý nàng là sao khi nàng nói cách-xa-nhưng-ở-bên-nhau. Hắn tự hỏi những con triều và ngọn sóng đã đóng vai trò gì vào buổi chiều hôm đó trên bãi biển New Jersey nơi Martha thấy hòn sỏi và cúi xuống cứu nó thoát khỏi số phận nhập vào cấu trúc của đất. Hắn mường tượng đôi chân trần. Martha là nhà thơ, với tính nhạy cảm của nhà thơ, chân nàng chắc hẳn nâu và để trần, móng không sơn, đôi mắt lạnh, trầm tĩnh như đại dương vào tháng Ba, và mặc dù đau đớn, hắn tự hỏi ai đã ở bên nàng chiều hôm đó. Hắn mường tượng một đôi bóng đen đi dọc bờ cát nơi mọi thứ tụ hội bên nhau nhưng cũng cách xa. Đó là một cơn ghen vớ vẩn, hắn biết, nhưng hắn không ghìm mình được. Hắn yêu nàng quá. Giữa khi hành quân, suốt những ngày nóng bức đầu tháng Tư, hắn ngậm hòn sỏi trong miệng, dùng lưỡi vần qua vần lại, nếm vị muối và cái ẩm ướt của biển. Tâm trí hắn để đâu đâu. Khó khăn lắm hắn mới chú tâm được vào cuộc chiến. Đôi khi hắn quát bảo lính của hắn dàn rộng đội hình, ráng mà căng mắt ra, nhưng rồi hắn lại trôi tuột về những cơn mơ mộng, cứ giả vờ, đi chân trần dọc bờ biển Jersey, cùng với Martha, chẳng mang gì. Hắn sẽ lại thấy mình dâng lên. Mặt trời và sóng và gió nhẹ, tất cả là tình yêu và sự nhẹ tênh.
Những thứ họ mang thay đổi tùy theo nhiệm vụ.
Khi một nhiệm vụ buộc họ phải lên núi, họ mang theo mùng, dao quắm, vải bạt, và mang thêm nhiều thuốc chống côn trùng.
Nếu một nhiệm vụ có vẻ đặc biệt nguy hiểm, hoặc nếu để thi hành thì phải đến một nơi họ vốn đã biết là tệ hại, họ mang bất cứ cái gì có thể mang. Ở một số vùng tác chiến đặc biệt nhiều mìn, dày đặc thôi thì Top Popper rồi lại Bouncing Beer1, họ thay nhau khuân cái máy dò mìn nặng 28 pao. Với những cặp tai nghe và cái đĩa cảm ứng to, thiết bị này đè nặng lên vùng thắt lưng và vai, rất khó xoay chuyển, thường là vô dụng do trong lòng đất đầy những mảnh đạn vỡ, nhưng họ vẫn cố mang, phần là để an toàn, phần là do ảo tưởng về sự an toàn.
Khi đi phục kích, hay làm những nhiệm vụ ban đêm khác, họ mang những thứ vặt vãnh chẳng giống ai. Kiowa luôn luôn mang cuốn Tân Ước và một đôi giày da hươu của dân da đỏ để đi không thành tiếng. Dave Jensen mang những viên vi-ta-min giàu ca-rô-ten cho sáng mắt. Lee Strunk mang cái ná; chả bao giờ phải lo chuyện đạn, hắn bảo. Chuột Kiley mang rượu bờ-ren-đi và kẹo M&M’s. Cho đến khi bị bắn chết, Ted Lavender mang kính nhìn đêm, nặng 6,3 pao kể cả cái hộp đựng bằng nhôm. Henry Dobbins mang cái tất quần của bạn gái hắn quấn quanh cổ để làm thứ trấn an tinh thần. Tất cả đều mang những bóng ma. Đêm đến, họ mò ra ngoài xếp thành hàng một đi qua đồng qua ruộng để đến tọa độ phục kích, nơi họ sẽ lặng lẽ đặt mìn Claymore rồi nằm xuống chờ suốt đêm.
Những nhiệm vụ khác thì phức tạp hơn và đòi hỏi thiết bị đặc biệt. Vào giữa tháng Tư, nhiệm vụ của họ là tìm và diệt tổ hợp địa đạo tinh vi ở khu vực làng Thần Khê phía Nam Chu Lai. Để cho nổ địa đạo, họ mang những thỏi thuốc nổ pentrite nặng một pao, mỗi người bốn thỏi, 68 pao cả thảy. Họ mang dây nhợ, ngòi nổ, thiết bị kích nổ chạy pin. Dave Jensen mang nút tai. Hầu như khi nào cũng
vậy, trước khi cho nổ địa đạo, họ được lệnh cấp trên là phải lùng địa đạo, đây thường được cho là tin xấu, nhưng dù thế nào họ cũng chỉ nhún vai và thi hành mệnh lệnh. Bởi to con, Henry Dobbins được miễn nhiệm vụ lùng địa đạo. Số còn lại sẽ bốc thăm. Trước khi Lavender chết ở đó thì có 17 người trong trung đội, bất cứ ai rút được số 17 đều sẽ phải cởi hết đồ lề rồi bò vào địa đạo đầu đi trước, mang theo đèn pin và khẩu súng lục 45 ly của Thiếu úy Cross, số còn lại tản ra yểm trợ. Họ sẽ ngồi hay quỳ gối, không đối diện cái lỗ, lắng nghe đất dưới chân mình, hình dung những mạng nhện những bóng ma, bất cứ cái gì dưới đó – những bức vách địa đạo siết chặt lại – hình dung đèn pin sẽ nặng kinh hồn trong tay và thế nào là tầm nhìn địa đạo theo nghĩa nghiêm ngặt nhất, bị nén chặt từ mọi hướng, kể cả hướng thời gian, và ta phải len vào từng tí một – bằng mông và cùi chỏ – cảm giác như đang bị nuốt vào – và ta chợt thấy mình đang thấp thỏm lo đủ chuyện linh tinh: Liệu đèn pin của mình có chết không? Liệu chuột có truyền bệnh dại không? Nếu mình hét lên, âm thanh đi được bao xa? Liệu anh em mình có nghe thấy không? Liệu họ có đủ gan lôi mình ra không? Về một số mặt, tuy không nhiều lắm, sự chờ đợi còn tồi tệ hơn bản thân địa đạo. Óc tưởng tượng là một thứ giết người.
Vào ngày 16 tháng Tư, khi Lee Strunk rút nhằm số 17, hắn phá lên cười và lẩm bẩm gì đó rồi nhanh nhảu chui xuống. Sáng hôm đó nóng và rất yên tĩnh. Không ổn, Kiowa nói. Hắn nhìn lối vào địa đạo, rồi nhìn qua cánh đồng khô về phía làng Thần Khê. Chẳng có gì nhúc nhích. Không mây không chim chóc không người. Trong khi đợi, đám lính hút thuốc và uống Kool-Aid, không nói chuyện nhiều, thấy thông cảm với Lee Strunk nhưng cũng cảm thấy mình gặp may khi rút thăm. Ta được vài lần, ta mất vài lần, Mitchell Sanders nói, và đôi khi ta phải đành chờ bận sau bù lại. Đó là một câu đùa cũ rích nên không ai cười.
Henry Dobbins ăn một thanh sô cô la nhiệt đới. Ted Lavender tọng một viên thuốc an thần vào mồm rồi đi đái.
Sau năm phút, Thiếu úy Cross đi tới chỗ địa đạo, khom xuống, kiểm tra bóng tối dưới đó. Phiền đây, hắn nghĩ, chắc có sụp hầm hay sao đó. Thế rồi đột nhiên, dù không muốn, hắn nghĩ tới Martha. Những sức ép và chỗ gãy, cú sụp đổ nhanh, hai người trong số họ bị chôn sống dưới toàn bộ sức nặng đó. Tình yêu đặc sệt, nghẹt thở. Quỳ gối, quan sát cái lỗ, hắn cố tập trung vào Lee Strunk và cuộc chiến, tất cả những mối nguy kia, nhưng tình yêu của hắn quá nhiều đối với hắn, hắn thấy mình tê liệt, hắn muốn ngủ trong phổi mình và thở máu của nàng mà ngạt thở. Hắn muốn nàng là gái trinh và không phải gái trinh, cả hai cùng một lúc. Hắn muốn biết nàng. Những bí mật riêng tư: Sao lại thơ? Sao buồn vậy? Sao có màu xám ấy trong mắt nàng? Sao một mình vậy? Không phải cô đơn, mà chỉ là một mình – cưỡi xe đạp đi ngang qua khu học xá hoặc ngồi một mình trong quán cà phê – thậm chí khi đi nhảy nàng cũng nhảy một mình – và chính sự khi nào cũng một mình ấy khiến hắn yêu nàng. Hắn nhớ có một buổi chiều hắn đã bảo nàng vậy. Nhớ nàng đã gật đầu rồi nhìn đi chỗ khác ra sao. Và, sau đó, khi hắn hôn nàng, nàng nhận nụ hôn mà không đáp lại, mắt nàng mở to, không sợ, không phải mắt gái trinh, chỉ là bình thản và hờ hững.
Thiếu úy Cross nhìn cái địa đạo chăm chăm. Nhưng hắn không có đó. Hắn đang vùi mình cùng Martha dưới lớp cát trắng bờ biển Jersey. Họ đang ép chặt vào nhau, và hòn sỏi trong miệng hắn là cái lưỡi nàng. Hắn đang mỉm cười. Mơ hồ, hắn biết ngày hôm đó yên tĩnh ra sao, những cánh đồng ủ rũ, nhưng hắn không sao buộc được mình bận tâm đến chuyện an toàn. Hắn ở ngoài cái dó. Hắn chỉ là một đứa trẻ tham chiến, đang yêu. Hắn hai tư tuổi. Hắn không sao dừng được.
Lát sau Lee Strunk bò lên khỏi địa đạo. Hắn chui ra cười toe toét, bẩn thỉu nhưng còn sống. Trung úy Cross gật đầu và nhắm mắt
trong khi những người khác vỗ lưng Strunk và đùa cợt về chuyện trỗi dậy từ cõi chết.
Toàn giun, Chuột Kiley nói. Từ ngay dưới mộ chui lên. Đồ quỷ nhập tràng chết tiệt.
Cả đám cười rộ. Tất cả đều thở phào nhẹ nhõm.
Thành phố quỷ, Mitchell Sanders nói.
Lee Strunk phát ra một âm thanh ma quái kỳ khôi, kiểu như rền rĩ, nhưng rất là vui sướng, và ngay khi đó, khi Strunk phát ra cái tiếng rền rĩ hào hứng vui sướng đó, khi hắn hét lên A hú u u u u, ngay khi đó Ted Lavender bị bắn vào đầu trên đường quay lại sau khi đái xong. Hắn nằm đó mồm há. Răng vỡ hết. Có một vết bầm sưng húp đen sì dưới mắt trái hắn. Xương gò má biến mất. Ôi chó chết, Chuột Kiley nói, tháng nhãi chết rồi. Thằng nhãi chết rồi, hắn nói mãi, nghe có vẻ sâu xa – thằng nhãi chết rồi. Ý tôi là thực sự chết.
Họ mang cái gì tùy thuộc phần nào vào chuyện dị đoan. Thiếu úy Cross mang hòn sỏi may mắn của hắn. Dave Jensen mang một bàn chân thỏ. Norman Bowker, vốn dĩ rất hiền lành tử tế, mang một ngón tay cái mà Mitchell Sanders tặng hắn làm quà. Ngón cái đó màu nâu sẫm, sờ nghe như cao su và nặng nhiều nhất 4 ao-xơ. Nó được xẻo ra từ một cái xác, một thằng bé mười lăm mười sáu tuổi. Họ tìm thấy nó dưới đáy một cái mương, bị thiêu cháy đen, ruồi bu đầy miệng đầy mắt. Thằng bé mặc quần soóc đen, mang dép. Vào thời điểm chết nó mang một túi gạo, một khẩu súng truờng, ba băng đạn.
Tụi bây muốn nghe ý kiến tao không, Mitchell Sanders nói. Nhứt định là ở đây có một bài học.
Hắn đặt tay lên cổ tay thằng bé chết. Hắn im lặng một hồi, như đang bắt mạch, rồi hắn vỗ cái bụng, hầu như một cách âu yếm, và dùng cái rìu săn của Kiowa để xẻo ngón tay cái.
Henry Dobbins hỏi bài học ấy là gì.
Bài học hả?
Mày biết mà. Bài học.
Sanders gói cái ngón bằng giấy vệ sinh rồi đưa cho Norman Bowker. Không có máu. Mỉm cười, hắn đá cái đầu thằng bé, nhìn lũ ruồi bay loạn xị, rồi nói, giống như trong show truyền hình cũ ấy mà, Paladin. Cầm súng, đi chu du.
Henry Dobbins nghĩ về chuyện ấy.
Ừ, rồi, cuối cùng hắn nói. Tao chả thấy bài học gì ráo trọi. Có đó mày.
Mẹ nó.
Họ mang văn phòng phẩm của USO2sản xuất cùng với bút chì bút mực. Họ mang đồ Sterno, kẹp giấy, đèn pin, đèn hiệu, dây cuộn, dao cạo điện, thuốc lá nhai, nhang và tượng ông Phật cười, nến, bút chì mỡ, cờ sao vạch, bấm móng tay, tờ rơi tâm lý chiến, mũ đi rừng, rìu cỡ bự, và nhiều thứ nữa. Hai lần một tuần, khi trực thăng tiếp tế đến, họ mang đồ ăn nóng đựng trong lon mermite màu xanh lục rồi thì những túi vải bạt to đựng đầy bia và nước ngọt ướp lạnh. Họ mang thùng nhựa đựng nước, mỗi thùng dung tích 2 ga lông. Mitchell Sanders mang một bộ đồ rằn ri dành cho những dịp đặc biệt. Henry Dobbins mang thuốc diệt côn trùng Black Flag. Dave Jensen mang những túi cát rỗng, đêm đến hắn có thể nhồi cát vào đấy để cho công sự cá nhân của hắn an toàn hơn nữa. Lee Strunk mang dầu bôi cho rám nắng. Có vài thứ họ mang chung. Thay phiên nhau, họ mang cái ra-đi-ô vệ tinh PRC-77 to đùng, nặng 30 pao kể cả pin. Họ cùng mang gánh nặng ký ức. Họ nhận lấy những gì người khác không còn mang nổi. Thường thì họ mang vác nhau, người bị thương hay người yếu. Họ mang mầm truyền nhiễm. Họ mang bàn
cờ, trái bóng rổ, từ điển Việt-Anh, phù hiệu cấp bậc, huy chương Sao Bạc và Trái Tim Tía, cái thẻ nhựa trên đó in Quy tắc Nhà binh. Họ mang bệnh, trong số đó có sốt rét và kiết lỵ. Họ mang rận và giun và đỉa và tảo đồng và nhiều thứ mốc meo. Họ mang chính xứ sở này – Việt Nam, nơi chốn này, đất đai này – một thứ đất màu đỏ cam mịn như bụi bám đầy bốt đầy áo đầy mặt họ. Họ mang bầu trời. Toàn bộ bầu không khí, họ mang nó, hơi ẩm, những cơn gió mùa, mùi nấm mốc và thối rữa, tất cả, họ mang sức hút của trái đất. Họ đi như những con la. Ban ngày họ bị bắn tỉa, ban đêm họ bị giội đạn cối, nhưng đó không phải giao chiến mà chỉ là hành quân bất tận, làng này qua làng khác, không mục đích, chẳng được gì chẳng mất gì. Họ hành quân chỉ để hành quân. Họ lê bước chậm rì, ngây dại, khom mình tới trước trong cái nóng, không nghĩ, toàn máu và xương, chỉ những tay lính quèn, đi chiến đấu bằng cặp chân, lặc lè lên đồi hì hụi xuống đồng qua sông rồi lại lên rồi lại xuống, cứ thế bước, một bước rồi bước nữa rồi thêm bước nữa, nhưng không mong muốn, không ý chí, bởi nó là tự động, nó chỉ là cơ chế giải phẫu học, và cuộc chiến này hoàn toàn chỉ là vấn đề tư thế vấn đề mang vác, mang vác là tất cả, một thứ sức ì, một thứ trống rỗng, một thứ trì độn về khát vọng về tri thức về lương tâm về hy vọng về tính nhạy cảm của con người. Nguyên tắc của họ nằm nơi bàn chân họ. Những tính toán của họ thuần mang tính sinh học. Họ không có ý thức gì về chiến lược hay nhiệm vụ. Họ lùng sục các làng mà không biết mình tìm cái gì, không bận tâm, đá tung những hũ gạo, trêu chọc con nít với người già cả, phá toang địa đạo, đôi khi phòng hỏa đôi khi không, rồi tập hợp đội hình và lên đường sang làng kế, rồi những làng khác, mà ở đó rồi cũng luôn luôn y như vậy. Họ mang mạng sống của chính mình. Sức ép thật lớn. Trong cái nóng ban trưa, họ bỏ mũ cối cởi áo khoác, đi chân đất, thế là nguy hiểm nhưng mà đỡ căng thẳng. Họ thường vứt bớt đồ đạc trên đường hành quân. Thuần túy để cho thoải mái, họ vứt đi đồ ăn, cho nổ mìn Claymore và lựu đạn, chẳng sao hết, bởi vì khi trời sẩm tối trực thăng tiếp tế sẽ tới
mang thêm cho cũng từng đấy thứ, thế rồi một hai ngày sau lại còn nhiều hơn nữa, nào dưa hấu tươi nào thùng đạn nào kính râm với áo len – nguồn cung cấp quả thật là quá tuyệt – pháo xẹt dành cho dịp Quốc khánh mồng Bốn tháng Bảy, trứng tô màu cho lễ Phục sinh – quả là cái két sắt tuyệt vời của nước Mỹ thời chiến – hoa trái của khoa học, những ống khói, những nhà máy đồ hộp, những kho đạn dược ở Hartford, những khu rừng Minnesota, những cửa hàng máy móc, những cánh đồng bắp đồng lúa mì thẳng cánh cò bay – họ mang như những đoàn tàu hàng; họ mang nó trên lưng trên vai họ – và dẫu cho tất cả những mập mờ mông lung của Việt Nam, tất cả những huyền bí và điều chưa biết, luôn có ít nhất một điều chắc chắn vĩnh viễn rằng họ sẽ chẳng bao giờ lúng túng không biết phải mang gì.
Sau khi trực thăng mang Lavender đi rồi, Thiếu úy Jimmy Cross dẫn quân vào làng Thần Khê. Họ đốt tất. Họ bắn gà bắn chó, họ làm cỏ cái làng tới nơi tới chốn, họ gọi pháo tới dập cả làng và nhìn cảnh tàn phá tan hoang, rồi họ hành quân vài giờ suốt buổi trưa nóng bức, thế rồi xế chiều, khi Kiowa giải thích làm thế nào Ted Lavender chết, Cross thấy chính mình run rẩy.
Hắn cố không khóc. Bằng dụng cụ đào công sự của mình, nặng 5 pao, hắn bắt tay đào hố dưới đất.
Hắn thấy hổ thẹn. Hắn căm ghét chính mình. Hắn đã yêu Martha nhiều hơn thuộc hạ của mình, hậu quả là Lavender giờ đã chết, đây là một trong những gì hắn sẽ phải mang như hòn đá trong bao tử hắn trong suốt phần còn lại của cuộc chiến tranh.
Hắn chỉ làm được mỗi một việc là đào. Hắn dùng dụng cụ đào cộng sự như một cái rìu, chém chặt, cảm thấy cả yêu thương lẫn hận thù, rồi sau đó, khi trời tối hẳn, hắn ngồi dưới đáy công sự cá nhân của mình mà khóc. Cứ thế một hồi lâu. Một phần hắn khóc Ted
Lavender, nhưng phần lớn là khóc cho Martha và cho chính hắn, bởi nàng thuộc về một thế giới khác, thế giới ấy không hẳn có thực, và bởi nàng là sinh viên năm thứ ba trường Mount Sebastian ở New Jersey, là nhà thơ và là gái tân, và thờ ơ, và bởi hắn nhận ra nàng không yêu hắn và sẽ chẳng bao giờ yêu hắn.
Y xì bao xi măng, Kiowa thì thào trong bóng tối. Tao thề có Chúa, bùm, sụm. Không một lời.
Cái này tao nghe rồi, Norman Bowker nói.
Mới đi đái về, hiểu không? Vẫn đang kéo khóa quần lên. Phựt cái là toi, đang kéo khóa quần.
Được rồi đó. Đủ rồi.
Ừa, nhưng mà mày phải thấy kìa, cái thằng nhãi đó… Tao nghe rồi. Xi măng. Thành thử sao mày không câm mẹ mày đi?
Kiowa lắc đầu buồn bã rồi liếc sang cái hố nơi Thiếu úy Jimmy Cross ngồi ngắm đêm. Không khí nặng, ẩm. Một làn sương dày ấm đã sà xuống cánh đồng và có sự tĩnh lặng thường đến trước khi mưa.
Hồi sau Kiowa thở dài.
Có điều này chắc chắn, hắn nói. Thiếu úy đang tổn thương sâu sắc. Tao muốn nói là cái kiểu khóc lóc ấy – như ổng khóc bây giờ ấy – nó không giả bộ hay gì hết, mà là tổn thương thật, nặng hẳn hoi. Thằng chả coi vậy mà có lòng.
Chắc rồi, Norman Bowker nói.
Tụi bây nói gì thì nói, thằng chả có lòng.
Tụi mình đứa nào mà chẳng gặp chuyện không hay. Lavender thì không.
Không, tao cho là không, Bowker nói. Nhưng dù sao cũng làm ơn giúp tao cái này.
Câm miệng đi hả?
Thằng da đỏ vậy mà khôn. Câm đi.
Nhún vai, Kiowa tháo bốt. Hắn muốn nói nữa, chỉ để khuây khỏa đầu óc đặng ngủ cho ngon, nhưng thay vì vậy hắn giở Tân Ước của hắn ra kê xuống dưới đầu làm gối. Sương mù làm mọi thứ có vẻ rỗng rang trôi nổi. Hắn cố không nghĩ về Ted Lavender, nhưng rồi hắn lại nghĩ sao mà nhanh thế, chả kịch tính gì, sụm xuống chết, và thật khó mà cảm thấy gì khác ngoài kinh ngạc. Xem chừng thật phi Cơ đốc. Hắn ước gì mình có thể tìm ra chút nỗi buồn cao quý nào đó, hay thậm chí giận dữ, nhưng cảm xúc chẳng có đó mà hắn cũng không thể làm cho nó nảy ra. Hầu hết là hắn chỉ thấy hài lòng mình còn sống. Hắn thích cái mùi cuốn Tân Ước kê dưới má hắn, mùi da thuộc mùi mực mùi giấy mùi hồ, dù công thức là thế nào đi nữa. Hắn thích nghe những âm thanh của đêm. Ngay cả cơn mệt mỏi của hắn, nó cũng có vẻ dễ chịu, những bắp cơ cứng đờ và cái cảm nhận ran ran về cơ thể chính hắn, một cảm giác bồng bềnh. Hắn hân thưởng chuyện mình không chết. Nằm đó, Kiowa khâm phục khả năng đau khổ của Thiếu úy Jimmy Cross. Hắn muốn chia sẻ nỗi đau của người đó, hắn muốn có lòng cũng như Jimmy Cross có lòng. Thế nhưng khi nhắm mắt, hắn chỉ có thể nghĩ đến một thứ là Bùm-sụm, và hắn chỉ có thể cảm thấy một thứ là được cởi bốt ra và sương mù cuộn quanh thân hắn và đất ẩm và mùi cuốn Kinh Thánh và sự tĩnh mịch êm mướt của đêm.
Một lát sau Norman Bowker ngồi dậy trong bóng tối. Cái quái gì vậy, hắn nói. Mày muốn nói, thì nói đi. Kể tao nghe. Quên đi.
Không, bạn à, nói đi. Có một thứ tao ghét, là một thằng da đỏ im lặng.
Hầu như mọi lúc họ mang bản thân mình với sự điềm tĩnh, một kiểu đường hoàng đầy phẩm cách. Tuy nhiên, thỉnh thoảng, cũng có những lúc hoảng loạn, họ hét lên hoặc muốn hét mà không hét được, họ quằn quại và rền rĩ và che đầu và nói Lạy Chúa tôi và lồm cồm trên mặt đất và vãi đạn như lũ mù và co rúm lại và khóc thút thít và cầu xin tiếng ồn làm ơn ngưng đi cho và nổi khùng và tự hứa những lời hứa ngu xuẩn với chính mình với Thượng đế với mẹ với cha, mong sao mình không chết. Bằng những cách khác nhau, chuyện này xảy ra với tất cả họ. Sau đó, khi cuộc bắn nhau chấm dứt, họ lại sẽ nhấp nháy mắt nhòm lên. Họ lại sẽ sờ soạng người mình, thấy xấu hổ, rồi nhanh chóng giấu đi. Họ lại sẽ buộc mình đứng dậy. Như trong phim quay chậm, từng khung hình một, thế giới sẽ mang lấy cái lô-gích như cũ – im lặng tuyệt đối, rồi đến gió, rồi đến nắng, rồi đến những giọng nói. Đó là cái gánh nặng khi ta còn sống. Vụng về, đám người sẽ tự chỉnh đốn lại, đầu tiên từng người, sau đó là theo nhóm, lại trở thành lính. Họ sẽ sửa những chỗ rò trong mắt họ. Họ sẽ kiểm tra xem thương vong thế nào, gọi trực thăng tới, châm thuốc, ráng mỉm cười, hắng giọng và khạc nhổ và bắt tay lau vũ khí. Sau một hồi ai đó sẽ lắc đầu nói, Không xạo đâu, suýt nữa tao ỉa ra quần rồi, và một người khác sẽ cười rộ, có nghĩa rằng như thế là kém, nhưng rõ ràng thằng cha kia đã không ỉa ra quần, đâu đến nỗi kém thế, và dù thế nào đi nữa làm gì có ai đã làm vậy rồi mà lại đi nói ra cho mọi người nghe. Họ sẽ nheo mắt nhìn vào ánh nắng dày đặc, chói chang. Trong một thoáng, có lẽ vậy, họ sẽ im lặng, châm một điếu thuốc phiện và nhìn theo nó được chuyền từ người này qua người khác, hít hà, cầm nó mà ngượng ngùng xấu hổ. Thứ này sợ thiệt, một người hẳn sẽ nói. Nhưng rồi một người khác sẽ cười toe
toét nhướn mày nói, Đụ bà nó, thiếu chút nữa tao bị khoét thêm lỗ đít mới rồi, thiếu chút nữa.
Có nhiều tư thế kiểu như vậy. Một vài người mang bản thân mình với một thứ cam chịu đầy u ẩn, người khác thì với lòng tự hào hay kỷ luật nhà binh cứng nhắc hay khiếu hài hước hay nhiệt huyết kiểu anh hùng mã thượng. Họ sợ chết nhưng còn sợ hơn thế cái việc tỏ ra mình sợ chết.
Họ tìm những câu đùa để nói.
Họ dùng một thứ từ vựng cứng rắn để hàm chứa sự nhẹ nhàng khủng khiếp. Greased (“Bị quằm”) rồi, họ nói. Offed, lit up, zapped while zipping (ngỏm củ tỏi, phựt cái rồi đời). Đấy không phải tàn nhẫn, mà chỉ là diễn tuồng. Họ là kịch sĩ. Khi ai đó chết, đó không hẳn là chết, bởi theo một cách kỳ cục nào đó chuyện này dường như có ghi trong kịch bản, và bởi họ có những lời thoại hầu hết đã thuộc lòng, mỉa mai trộn lộn với bi thương. Và bởi họ gọi nó bằng tên khác, như để gói chặt rồi tiêu hủy cái thực tại về bản thân cái chết. Họ đá mấy cái xác. Họ xẻo ngón cái. Họ nói bằng tiếng lóng của lính. Họ kể chuyện Ted Lavender luôn ôm sẵn thuốc an thần, thằng nhãi tội nghiệp chả cảm thấy gì ra sao, nó trông thanh thản đến cỡ nào, nhìn không tin được.
Có bài học ở đây, Mitchell Sanders nói.
Họ đang chờ trực thăng chở Lavender đi, vừa chờ vừa hút thuốc của kẻ mới chết.
Bài học khá rõ, Sanders nói, đoạn nháy mắt. Tránh xa xì ke thuốc phiện đi. Không đùa đâu, mấy thứ đó mỗi lần hút là một lần nó hại đời tụi bây đó.
Ngon, Henry Dobbins nói.
Nổ tung cái đầu ra, hiểu chưa? Cứ ngồi đó nói chuyện tóc tai đi. Đếch còn gì, độc máu với óc.
Họ tự làm mình cười rộ.
Nó đó, họ nói. Lại nữa kìa lại nữa kìa – nó đó, mày, nó đó – như thể bản thân sự lặp đi lặp lại là một hành vi tỏ rõ sự ung dung điềm tĩnh, một sự cân bằng giữa điên khùng với hầu như điên khùng, biết mặc dù không đi, nó đó, tức là hãy bình tĩnh đi, để nó cưỡi đi, bởi vì Ôi chao, bạn à, mày đâu thể thay đổi cái không thay đổi được, nó đó, nó đang có đó, tuyệt đối và chín chắn và mẹ cha nó nó bự chần vần đó.
Họ cứng cỏi.
Họ mang toàn bộ hành trang cảm xúc của những người có thể chết. Đau đớn, kinh hoàng, yêu thương, mong đợi – đó là những thứ vô hình, song những thứ vô hình có khối lượng và trọng lực riêng của chúng, chúng có sức nặng có thể nhận ra được bằng cơ thể. Họ mang những ký ức ô nhục. Họ mang cái bí mật chung của sự hèn nhát khó mà kìm nén, bản năng bỏ chạy hay đờ ra hay ẩn núp, và trong nhiều phương diện đây là gánh nặng nặng hơn cả, bởi nó chả bao giờ đặt xuống được, nó đòi hỏi sự cân bằng hoàn hảo và tư thế hoàn hảo. Họ mang thanh danh mình. Họ mang nỗi sợ lớn nhất của người lính, là sợ đỏ mặt. Người ta bị giết, và chết, bởi vì họ ngượng nếu không như thế. Đó mới là cái đầu tiên đã đưa họ đến cuộc chiến này, chứ chẳng phải cái gì tích cực, chẳng ước mơ vinh quang hay danh dự, chỉ là để tránh nỗi ngượng và mất danh dự. Họ chết để không phải chết vì ngượng. Họ bò vào địa đạo và tiến thẳng tới dưới hỏa lực. Sáng nào cũng vậy, mặc những gì chưa biết, họ buộc chân mình nhúc nhích. Họ chịu đựng. Họ cứ lặc lè tiến. Họ không chịu buông mình làm cái cách thứ hai kia mặc dù nó sờ sờ đó, là cứ vậy nhắm mắt mà gục xuống. Dễ lắm, thật thế. Cứ đi cà nhắc rồi vấp té trên đất và để cơ bắp mình rời rã hết ra và không nói năng gì không cục cựa cho tới khi chiến hữu tới nhắc ta dậy đưa ta lên trực thăng rồi trực thăng sẽ gầm rú sẽ cất mũi lên mà mang ta về với thế giới. Chỉ cần té ngã thôi, thế mà không ai té ngã. Thực ra đấy không phải
là can đảm; ở đây chẳng phải đức can trường gì. Đúng hơn là, họ quá sợ cái chuyện phải làm tên hèn nhát.
Nhìn chung họ mang những thứ đó ở bên trong, duy trì cái mặt nạ điềm tĩnh ung dung. Họ cười khi khỉ trước những vụ xin nghỉ ốm. Họ nói những lời chua cay về mấy thằng cha được cho về bằng cách tự bắn bay ngón chân ngón tay mình. Đồ gà chết, họ nói. Đồ teo dái. Đó là cách nói riết róng, miệt thị, chỉ phảng phất chút nào đó ganh tị hay kính nể, nhưng dù có vậy đi nữa hình ảnh đó vẫn cứ hiển hiện trong mắt họ.
Họ hình dung cái nòng súng áp vào thịt. Dễ quá: bóp cò, bắn bay một ngón chân. Họ mường tượng chuyện đó. Họ mường tượng cái đau nhanh chóng, ngọt ngào, rồi thì chuyến bay cứu nạn sang Nhật Bản, rồi khách sạn với nệm ấm chăn êm và những nàng y tá geisha xinh xẻo.
Và họ mơ những cánh chim tự do.
Ban đêm, khi canh gác, nhìn ra bóng tối, họ mê mẩn cảnh tượng những chiếc máy bay phản lực. Họ cảm nhận được cái lực tràn tới khi cất cánh. Đi đây! Họ hét. Và rồi tốc độ – của cánh và của động cơ – một cô tiếp viên mỉm nụ cười – nhưng ấy không chỉ là một chiếc máy bay, ấy là một con chim thực thụ, một con chim lớn bằng bạc bóng loáng có lông vũ có móng và tiếng rít chói tai. Họ đang bay. Trọng lượng rơi đâu mất; chẳng có gì để mang nữa. Họ cười ha hả, ưỡn thẳng người, cảm thấy gió lạnh và độ cao ập vào mình, cất bổng lên, bụng nghĩ Xong rồi, mình đi đây! – họ trần truồng, họ nhẹ bỗng và tự do – chỉ có mỗi nhẹ tênh, sáng ngời vun vút bồng bềnh, nhẹ như ánh sáng, một tiếng u u của khí hê li trong não, sự nhẹ bồng choáng choáng say say trong phổi khi họ được nâng lên cao vượt khỏi mây và cuộc chiến tranh, vượt xa ngoài nghĩa vụ, ngoài lực hấp dẫn, nỗi nhục và những mối liên thông chằng chịt toàn cầu – Xin lỗi! họ gân cổ hét. Tao xin lỗi, đụ má, tao thoát rồi, tao biến rồi, tao đang trên
tàu vũ trụ, tao chuồn!– và đó là một cảm giác yên bình, không vướng bận, cứ thế mà cưỡi trên sóng ánh sáng, giong buồm cái con chim tự do to đùng bằng bạc ấy qua núi non qua đại dương, qua châu Mỹ, qua nông trại qua thành phố lớn ngủ say qua nghĩa địa qua đại lộ qua những vòng cung vàng của quán McDonald’s, ấy là bay, một kiểu thoát thân, một kiểu rơi, rơi càng lúc càng cao, xoáy tít mà bứt khỏi vùng ven trái đất vùng ra khỏi mặt trời và lao qua chân không bao la câm lặng nơi không còn gánh nặng nào, nơi muôn vật không hề nặng tí ti nào – Đi! họ hét. Tao xin lỗi, tao đi đây! – và thế là về đêm, không hẳn là nằm mơ, họ buông mình theo sự nhẹ bồng, họ được mang đi, họ hoàn toàn được đưa đi.
Buổi sáng sau hôm Ted Lavender chết, Thiếu úy Jimmy Cross ngồi khom dưới đáy công sự cá nhân của mình mà đốt thư của Martha. Rồi hắn đốt hai tấm ảnh. Có một cơn mưa rơi đều hạt, khiến không dễ mà đốt được, nhưng hắn dùng diêm và dầu Sterno chuyên dụng để châm một ngọn lửa nhỏ rồi lấy thân mình che cho nó, dùng đầu ngón tay cầm hai tấm ảnh hơ lên trên lưỡi lửa nhọn màu xanh lục.
Hắn nhận ra đây chỉ là một hành vi mang tính tượng trưng. Ngu xuẩn, hắn nghĩ. Đa cảm nữa, nhưng phần lớn chẳng qua là ngu xuẩn.
Lavender chết rồi. Ta không thể đốt rụi ngọn lửa được.
Ngoài ra, các bức thư nằm trong đầu hắn. Và thậm chí cả bây giờ, không có ảnh, Thiếu úy Cross vẫn thấy được Martha đang chơi bóng chuyền, mặc quần soóc trắng áo pun vàng. Hắn có thể thấy nàng đang chuyển động trong mưa.
Khi lửa tàn, Thiếu úy Cross kéo pông-sô lên trùm kín vai và ăn sáng thẳng từ trong hộp.
Không có bí ẩn lớn nào hết, hắn kết luận.
Trong những lá thư bị đốt đó Martha không một lần nhắc tới cuộc chiến, chỉ trừ khi cô nói, Jimmy, bảo trọng nhé. Cô không quan tâm. Cô ký “Yêu” cuối mỗi thư, nhưng đó không phải tình yêu, và tất cả những dòng hay ho với bao thứ thủ thuật kia chẳng có nghĩa lý gì. Trinh tiết hay không chả còn quan trọng nữa. Hắn ghét nàng. Phải, hắn ghét. Hắn ghét nàng. Yêu, cũng có, nhưng đó là một thứ tình yêu cay nghiệt, yêu nhưng thù ghét.
Buổi sáng đến ướt át mờ mịt. Mọi thứ dường như là một phần của mọi thứ khác, sương mù và Martha và cơn mưa càng lúc càng dày.
Nói cho cùng, hắn là một người lính.
Cười nửa miệng, Thiếu úy Jimmy Cross lôi mấy tấm bản đồ ra. Hắn lắc đầu thật mạnh, như để giũ đầu cho sạch, rồi khom tới trước mà khởi sự hoạch định chuyến hành quân hôm đó. Trong vòng mười phút, cũng có thể hai mươi, hắn sẽ dựng lính của hắn dậy và họ sẽ gói ghém ba lô mà tiến về phía Tây, nơi các bản đồ cho thấy vùng đồng quê có vẻ xanh tươi mời mọc. Họ sẽ làm những gì vẫn luôn làm. Mưa có thể làm cho nặng càng thêm nặng, nhưng ngoài cái đó ra thì đây chỉ là thêm một ngày chồng lên trên mọi ngày khác.
Hắn vốn thực tế về điều đó. Có cái sự cứng rắn mới mẻ này trong bụng hắn. Hắn yêu nàng nhưng hắn ghét nàng.
Không ảo tưởng hoang đường nữa, hắn tự nhủ.
Từ nay, mỗi khi hắn nghĩ về Martha, ấy sẽ chỉ là nghĩ rằng nàng thuộc một nơi khác. Hắn sẽ đóng sập những giấc mơ ban ngày lại. Đây không phải Mount Sebastian, đây là một thế giới khác, nơi không có những bài thơ đèm đẹp hay kỳ thi giữa học kỳ, nơi những người đàn ông chết vì bất cẩn hoặc chỉ vì ngu xuẩn. Kiowa nói đúng. Bùm-sụm, thế là ta chết, chẳng bao giờ chỉ chết một phần.
Trong thoáng chốc, dưới cơn mưa, Thiếu úy Cross thấy đôi mắt xám của Martha nhìn lại hắn.
Hắn hiểu.
Quá buồn, hắn nghĩ. Những thứ mà họ mang bên trong. Những thứ họ làm hay cảm thấy phải làm.
Hắn gần như gật đầu với nàng, nhưng không gật.
Thay vì vậy hắn quay lại mấy tấm bản đồ. Giờ hắn quyết tâm thi hành nghĩa vụ của mình một cách vững vàng, không chểnh mảng. Thế cũng chả giúp gì được Lavender, hắn biết, nhưng từ nay trở đi hắn sẽ hành xử đúng như một sĩ quan. Hắn sẽ vứt bỏ hòn sỏi mang lại vận may của hắn. Nuốt nó, có thể, hay là dùng cái ná của Lee Strunk, hay là thả nó dọc con đường mòn. Trên đường hành quân hắn sẽ áp đặt kỷ luật chiến trường nghiêm ngặt. Hắn sẽ cẩn thận cử người cảnh giới hai bên sườn, phòng tình trạng đi rời rạc hay co cụm, để duy trì nhịp tiến và khoảng cách thích đáng cho đội hình binh sĩ. Hắn sẽ yêu cầu vũ khí lúc nào cũng phải sạch. Hắn sẽ tịch thu chỗ thuốc phiện của Lavender còn sót lại. Đến cuối ngày hôm đó, hẳn thế, hắn sẽ tập hợp quân lại để nói chuyện thẳng thắn với họ. Hắn sẽ nhận mình có lỗi về chuyện đã xảy ra cho Ted Lavender. Hắn sẽ hành xử như một người đàn ông trong việc ấy. Hắn sẽ nhìn vào mắt họ, giữ cằm hắn thật ngay, và hắn sẽ ban chỉ thị hành động mới bằng giọng điềm tĩnh, vô cảm, giọng của một thiếu úy, không để cho ai cãi lý hay bàn luận. Bắt đầu lập tức, hắn sẽ bảo họ, từ nay họ không được phép vứt bớt thiết bị dọc đường hành quân nữa. Họ sẽ phải làm gì cũng đúng theo khuôn phép. Họ sẽ phải xốc lại mọi thứ cho ngay, kể cả cứt mình cũng phải vun lại cho ngay, gì cũng phải nghiêm chỉnh đâu ra đó không một li sai chạy.
Hắn sẽ không dung sự bất nghiêm. Hắn sẽ tỏ rõ sức mạnh bằng cách tách mình ra.
Trong đám lính hẳn sẽ có những tiếng càu nhàu, cố nhiên, có thể còn tệ hơn nữa, bởi vì những ngày của họ sẽ dường như có vẻ dài hơn và gánh nặng nặng hơn, nhưng Thiếu úy Jimmy Cross tự nhắc
rằng nghĩa vụ của hắn không phải là được người ta yêu mến mà là chỉ huy. Hắn sẽ chả cần cái chuyện yêu với mến; giờ nó không còn là một nhân tố nữa. Và nếu có ai cãi cọ hay ta thán, hắn sẽ chỉ căng môi ra và chỉnh lại hai vai mình cho đúng phong thái kẻ chỉ huy. Hắn có thể sẽ gật đầu khẽ, cộc lốc. Cũng có thể không. Hắn có thể chỉ nhún vai nói, Làm đi, thế là họ sẽ xốc hành trang và hợp thành đội hình rồi tiến về phía những ngôi làng ở phía tây Thần Khê.
Yêu
Nhiều năm sau chiến tranh Jimmy Cross đến nhà tôi tại Massachuses để thăm tôi, suốt một ngày chúng tôi uống cà phê hút thuốc và trò chuyện về tất cả những gì chúng tôi đã thấy đã làm từ rất lâu rồi, tất cả những gì chúng tôi vẫn còn mang suốt cả đời. Rải khắp trên bàn bếp là những bức ảnh cũ, dễ tới một trăm bức. Có ảnh chụp Chuột Kiley và Kiowa và Mitchell Sanders, tất cả chúng tôi, những khuôn mặt mềm mại trẻ trung đến không tin được. Tôi nhớ là, đến một lúc, chúng tôi dừng lại trên một bức ảnh chụp Ted Lavender, và sau một hồi Jimmy Cross dụi mắt nói anh chưa bao giờ tha thứ cho mình về cái chết của Lavender. Đó là một thứ sẽ chẳng bao giờ qua dứt, anh nói khẽ, và tôi gật đầu bảo anh, tôi cũng cảm thấy y như thế về một số chuyện. Thế rồi một hồi lâu không ai trong chúng tôi nghĩ ra được gì nhiều để nói. Chúng tôi liền quyết rằng việc đáng làm là quên cà phê đi mà chuyển sang rượu gin, nó sẽ làm tâm trạng phấn chấn lên, thế là chẳng bao lâu sau chúng tôi đã cười ha hả về một vài chuyện điên rồ thường xảy ra vào hồi đó. Chẳng hạn, Henry Dobbins hay quấn chiếc tất quần của cô bạn gái quanh cổ như một thứ bùa may. Đôi giày da hươu và chiếc rìu săn của Kiowa. Mấy cuốn truyện tranh của Chuột Kiley. Đến nửa đêm thì cả hai chúng tôi đều đã hơi túy lúy, và tôi quyết định nếu hỏi về Martha thì chắc cũng chả hại gì. Tôi không chắc mình đã diễn đạt ra sao chỉ là một câu hỏi chung chung – nhưng Jimmy Cross nhìn lên vẻ ngạc nhiên. “Cái bọn nhà văn tụi mày,” anh nói, “tụi mày nhớ dai thiệt đó.” Rồi anh mỉm cười xin lỗi đoạn đi sang phòng khách và quay lại với một bức ảnh nhỏ lồng khung. Đó là ảnh chụp trận bóng chuyền: Martha gập người theo chiều ngang song song với sàn, tay dang xuống, hai lòng bàn tay được đặc tả sắc nét.
“Nhớ cái này chớ?” anh nói.
Tôi gật và bảo anh là tôi ngạc nhiên. Tôi cứ nghĩ anh đốt nó rồi.
Jimmy vẫn cười. Anh nhìn xuống tấm ảnh một lát, mắt rất long lanh, rồi anh nhún vai nói, “Ờ thì tao đốt rồi. Sau khi Lavender chết, tao không thể… Cái này là mới. Tự Martha tặng tao.”
Họ đã tình cờ gặp nhau tại một cuộc họp mặt của trường vào năm 1979, anh nói. Chẳng có gì thay đổi. Anh vẫn yêu nàng. Suốt tám chín tiếng đồng hồ, anh nói vậy, họ hầu như toàn ở bên nhau. Có một bữa tiệc, rồi thì vũ hội, rồi sau đó vừa tản bộ quanh khu học xá vừa kể về cuộc sống của mình. Martha nay là mục sư Tin lành. Là y tá được đào tạo chính quy, mặc dù chăm sóc bệnh nhân không phải là mục đích chính, và nàng từng phụng vụ ở Ethiopia, Guatemala, ở Mexico. Nàng chưa bao giờ lấy chồng, nàng nói, và có lẽ sẽ không bao giờ lấy. Nàng không biết tại sao. Nhưng khi nói vậy, mắt nàng dường như nhìn chếch sang bên, và anh chợt nghĩ, ở nàng có những cái mà anh chẳng bao giờ biết được. Mắt nàng xám và không biểu lộ gì. Sau đó, khi anh cầm tay nàng, không có cái siết chặt đáp lại, và sau đó nữa, khi anh bảo nàng anh vẫn yêu nàng, nàng vẫn bước, không đáp, thế rồi sau vài phút nàng nhìn đồng hồ mà bảo muộn rồi. Anh tiễn nàng về ký túc xá. Có một thoáng anh nghĩ đến chuyện mời nàng về phòng anh, nhưng rồi anh chỉ cười giòn tan bảo nàng rằng hồi còn đi học đã có lần anh suýt làm một việc rất chi dũng cảm. Ấy là sau khi xem Bonnie và Clyde, anh nói, và chính ở chỗ này anh gần như đã bế nàng lên mang nàng đến phòng anh, trói nàng vào giường rồi đặt tay anh lên đầu gối nàng và để vậy suốt đêm. Đã gần như thế rồi, anh bảo nàng – anh hầu như đã làm rồi. Martha nhắm mắt. Nàng khoanh tay trước ngực, làm như trời đột nhiên lạnh, khẽ đu đưa người, rồi lát sau nàng nhìn anh mà nói nàng lấy làm vui rằng anh đã không thử làm thế. Nàng không hiểu tại làm sao đàn ông có thể làm những chuyện như thế được. Chuyện gì? anh hỏi, thì Martha nói, Những gì đàn ông vẫn làm. Chừng đó anh gật. Anh bắt đầu thấy rõ. Ồ, anh nói, mấy chuyện ấy. Lúc điểm tâm sáng
hôm sau nàng bảo anh nàng rất tiếc. Nàng giải thích rằng nàng chẳng thể làm gì được và anh nói là anh hiểu, thế rồi nàng bật cười và đưa anh tấm ảnh, bảo lần này anh đừng đốt nhé.
Jimmy lắc đầu. “Chẳng sao cả,” cuối cùng anh nói. “Tao yêu nàng.”
Từ đó đến hết chuyến thăm của Jimmy, tôi tránh nhắc lại về Martha. Tuy nhiên, phút cuối, khi chúng tôi đi bộ tới xe của anh, tôi bảo anh rằng tôi muốn viết một truyện về đôi điều trong chuyện này. Jimmy ngẫm nghĩ rồi khẽ mỉm cười với tôi. “Sao không?” anh nói. “Có khi nàng sẽ đọc và đến mà van xin. Luôn luôn có hy vọng, phải không?”
“Phải,” tôi nói.
Anh chui vào xe rồi xoay cửa kính xuống. “Làm sao cho tao thành một anh chàng tốt nhé. Dũng cảm đẹp trai, kiểu thế. Chỉ huy trung đội cừ chưa từng có.” Anh ngần ngừ một chút. “Và làm ơn giúp tao cái này. Đừng nhắc gì tới…”
Không, tôi nói. “Tôi sẽ không nhắc.”
Xoáy
Cuộc chiến tranh không phải chỉ là kinh khủng và bạo lực. Đôi khi mọi sự có thể hầu như trở nên ngọt ngào. Chẳng hạn, tôi nhớ có một thằng bé có một bên chân giả. Tôi nhớ nó nhảy cà thọt tới chỗ Azar xin một thanh sô cô la – “GI3số dzách,” thằng nhóc nói – thế là Azar phá lên cười mà đưa thanh sô cô la. Khi thằng nhỏ cà thọt bỏ đi, Azar tặc lưỡi nói, “Chiến tranh là đồ chó.” Hắn lắc đầu buồn bã. “Một giò, lạy Chúa. Thằng cặc chó chết nào đó thiếu đạn đây mà.”
Tôi nhớ cảnh Mitchell Sanders ngồi lặng lẽ dưới bóng cây đa già. Hắn dùng ngón cái khều rận trên người, khều nhẩn nha chậm rãi, cẩn thận cho lũ rận vào một phong bì USO màu xanh dương. Mắt hắn lờ đờ. Ấy là hai tuần dài đằng đẵng trong rừng. Sau khoảng một giờ hay gì đấy hắn dán phong bì lại, viết MIỄN PHÍ ở góc trên bên phải, rồi đề địa chỉ là ban tuyển quân của hắn ở Ohio.
Đôi khi cuộc chiến giống như một quả bóng bàn. Ta có thể bắt nó xoáy những vòng kỳ cục, ta có thể bắt nó nhảy múa.
Tôi nhớ chiều nào cũng vậy, trước khi trời tối, Norman Bowker và Henry Dobbins chơi cờ đam. Đó là một thứ nghi lễ đối với họ. Họ đào công sự cá nhân rồi lôi bàn cờ ra và chơi những ván cờ dài, im lặng trong khi bầu trời chuyển từ hồng sang tía. Lũ còn lại chúng tôi đôi khi dừng chân xem. Có cái gì đó thật yên bình ở đó, cái gì đó thật chân phương và khiến an lòng. Có những quân đỏ và những quân đen. Sân chơi được bố trí thành ô kiểu lưới rạch ròi phân minh, không địa đạo không núi non không rừng rậm. Ta biết ta đang đứng ở đâu. Ta biết tỷ số. Các quân cờ đều nằm đó trên bàn, ta thấy được kẻ thù, ta có thể quan sát các chiến thuật được triển khai thành chiến lược lớn hơn. Có kẻ thắng người thua. Có luật chơi.
Tôi nay bốn ba tuổi, là nhà văn, cuộc chiến đã qua lâu. Hầu hết những gì về cuộc chiến khó mà nhớ được. Tôi ngồi nơi máy chữ này, nhìn chăm chăm xuyên qua con chữ mà thấy Kiowa chìm vào bùn sâu của một cánh đồng cứt, hay Curt Lemon treo lủng lẳng thành từng mẩu trên cây, và trong khi tôi viết về những điều đó, sự nhớ lại trở thành một thứ kiểu như là tái diễn. Kiowa hét gọi tôi, Curt Lemon bước từ bóng râm ra ngoài nắng gắt, mặt hắn nâu bóng, rồi hắn bay vút lên cây. Những điều tồi tệ chẳng bao giờ thôi diễn ra: nó sống trong chiều kích riêng của nó, cứ diễn đi diễn lại không ngừng.
Nhưng cuộc chiến không phải khi nào cũng thế.
Như khi Ted Lavender uống quá nhiều thuốc an thần. “Cuộc chiến hôm nay thế nào?” ai đó nói, thì Ted Lavender sẽ khẽ mỉm cười mơ màng mà nói, “Khoái lắm bạn à. Hôm nay tụi mình có một cuộc chiến khoái ơi là khoái.”
Và như cái lần chúng tôi tuyển một ông bô người Việt4để dẫn chúng tôi qua mấy bãi mìn ngoài bán đảo Batangan5. Ông già đi cà nhắc, chậm, lom khom, nhưng ông biết chỗ nào an toàn còn chỗ nào ta phải cẩn thận và chỗ nào thậm chí dù ta đã an toàn thì cũng có thể tan tành xác pháo. Ông có sự nhạy cảm của diễn viên đi dây đối với mặt đất dưới chân mình – sức căng bề mặt của nó, độ đàn hồi của thứ này thứ nọ. Sáng nào chúng tôi cũng dàn hàng dài, ông già đi đằng trước, và suốt ngày chúng tôi tiến lên sau lưng ông, bám sát dấu ông, chơi trò theo chân thủ lĩnh từng li từng tí, dứt khoát không bao giờ được trệch. Chuột Kiley chế ra một bài vè rất hợp điệu, và chúng tôi cùng nhau nghêu ngao: Bước khỏi hàng, nổ cái oàng, theo đúng nơi, đời vẫn tươi. Bốn phía quanh chúng tôi, chốn này đầy rẫy Bouncing Beer và Toe Popper và đạn cao xạ nổ chậm, nhưng trong năm ngày đó trên bán đảo Batangan chẳng ai trong chúng tôi bị làm sao cả. Chúng tôi thảy đều yêu mến ông già.
Thật là một cảnh buồn khi trực thăng tới đưa chúng tôi đi. Jimmy Cross ôm chặt ông già. Mitchell Sanders và Lee Strunk nhét vào tay ông cả đống đồ hộp khẩu phần C.
Thực sự có nước mắt trong mắt ông già.
“Theo đúng nơi, đời vẫn tươi,” ông nói với mỗi chúng tôi.
Nếu ta không lết (hump, tức là hành quân ấy) thì ta đợi. Tôi nhớ sự đơn điệu. Đào công sự cá nhân. Đập muỗi. Mặt trời và cái nóng và những cánh đồng bất tận. Ngay cả trong rừng sâu, khi ta có thể chết theo vô số cách, cuộc chiến vẫn chán ngắt một cách trần trụi và hung hãn. Nhưng nó là một sự chán ngắt kỳ lạ. Nó là sự chán ngắt có bước ngoặt, kiểu chán ngắt gây rối loạn bao tử. Ta ngồi trên đỉnh ngọn đồi cao, những cánh đồng phẳng lì trải ra bên dưới và ngày hôm đó bình lặng và nóng và trống rỗng vô cùng, và ta cảm thấy sự chán ngắt nó nhỏ giọt vào bên trong ta như một cái vòi bị rò, chỉ có điều đây không phải nước, mà là một thứ a-xít, và cứ mỗi giọt là ta lại cảm thấy cái thứ đó ăn mòn những cơ quan nội tạng trọng yếu của ta. Ta cố thả lỏng. Ta giãn nắm đấm ra và để mặc cái đầu nghĩ gì thì nghĩ, ừ, bạn nghĩ, thế này đâu tệ lắm. Thế rồi ngay khi đó ta nghe tiếng súng sau lưng, ruột ta liền lộn lên đến họng và ta liền rống như lợn rống. Kiểu chán ngắt như thế đó.
Thỉnh thoảng tôi thấy mình có tội. Đã bốn ba tuổi đầu mà tôi vẫn đang viết truyện chiến tranh. Con gái Kathleen của tôi bảo thế là tôi bị ám ảnh rồi, rằng tôi nên viết về một cô bé tình cờ bắt gặp một triệu đô la và dùng toàn bộ khoản đó để mua một con ngựa Shetland. Nhưng cái sự nhớ, nó là thế này: đã nhớ là ta không quên. Ta lấy chất liệu ở bất cứ đâu ta tìm thấy, tức là trong cuộc đời chính mình, nơi giao cắt giữa quá khứ và hiện tại. Dòng lưu chuyển của ký ức nạp vào một cái máy quay trong đầu ta, ở đó nó quay vòng vòng
một hồi, thế rồi chẳng mấy chốc trí tưởng tượng tràn vào và thế là toàn bộ dòng lưu chuyển đó nhập lại và tẽ ra thành hàng ngàn con phố khác nhau. Với tư cách nhà văn, ta chỉ có thể làm mỗi một việc là chọn lấy một con phố và lái xe trên ấy, ghi thứ này thứ nọ xuống ngay khi chúng đến với ta. Đó mới là sự ám ảnh đích thực. Toàn bộ các truyện ấy.
Không nhất thiết là những truyện máu me. Cả những truyện vui tươi nữa, và thậm chí một vài truyện hòa bình.
Đây là một truyện ngắn về hòa bình.
Một tay nọ vắng mặt không xin phép. Trốn đi chơi ở Đà Nẵng cùng một cô y tá Chữ thập đỏ. Thật là tuyệt – cô y tá yêu hắn chết thôi – thằng cha đó muốn gì có nấy muốn đâu được đó. Chiến tranh dứt rồi, hắn nghĩ. Chỉ có quằm nhau và tìm những thế mới mà thôi. Nhưng rồi một hôm hắn quay về đơn vị hắn ở trong rừng. Nóng lòng muốn trở lại chiến đấu. Cuối cùng một trong mấy chiến hữu mới hỏi vậy cô y tá giờ sao rồi, sao lại nhấp nhổm muốn đánh nhau đến thế, thì thằng chả nói, “Cái hòa bình đó ấy mà, nó tuyệt đến nỗi làm tao đau, mày ạ. Tao muốn làm đau lại nó.”
Tôi nhớ Mitchell Sanders mỉm cười khi hắn kể tôi nghe chuyện đó. Hầu hết là hắn bịa, tôi tin chắc, nhưng dù vậy nó vẫn cho tôi cảm giác bịa mà như thật. Bởi tất cả đều thật gần gũi. Ta bị chết gí trong một cái hố trời đánh giữa một cánh đồng, mạng của ta hết một nửa là tiêu rồi, thế nhưng trong một vài giây ngắn ngủi mọi thứ bỗng yên lặng và ta nhìn lên thấy vài cụm mây trắng như bông, và cái sự thanh tĩnh mênh mông ấy nó làm chói hai nhãn cầu của ta – toàn bộ thế giới được bài trí lại – và mặc dù đang bị chết dí vào một cuộc chiến tranh nhưng ta chưa bao giờ cảm thấy bình an hơn thế.
Thường thì, những cái hằn vào ký ức là những mẩu vụn nhỏ chẳng đầu chẳng cuối.
Norman Bowker một đêm nọ nằm ngửa, ngắm sao, rồi thì thào với tôi, “Tao nói mày nghe cái này, O’Brien à. Nếu tao được một lời ước, ước gì cũng được, tao sẽ ước gì ba tao viết cho tao lá thư nói là nếu tao không được cái huy chương nào thì cũng chả sao. Ông già tao cứ nói hoài, nói mãi chuyện ấy, chả nói gì khác. Ông già sốt ruột muốn thấy mấy cái huy chương chết tiệt của tao quá trời quá đất.”
Hay Kiowa dạy cho Chuột Kiley và Dave Jensen điệu múa cầu mưa, cả ba thằng chân đất vừa hú vừa nhảy lúp xúp loanh quanh trong khi một đám dân làng đứng xem với vẻ thích thú pha lẫn khiếp vía song vẫn cười khúc khích. Sau đó Chuột nói, “Nhưng mà mưa đâu?” thì Kiowa nói, “Đất thì thấp, nhưng trâu vẫn bền gan,” thế là Chuột ngẫm nghĩ rồi nói, “Ừm, nhưng mưa ấy mà, nó đâu?”
Hay Lavender nuôi một con chó mồ côi, cho nó ăn bằng cái muỗng nhựa và nhét nó trong ba lô cho đến cái ngày Azar buộc nó vào một quả mìn sát thương Claymore rồi siết thiết bị châm ngòi.
Tuổi trung bình trong trung đội chúng tôi chắc khoảng mười chín hai mươi, hệ quả là mọi chuyện thường nhuốm bầu không khí nghịch ngợm kỳ khôi, như một sự kiện thể thao ở một trường cải huấn khác thường nào đấy. Cuộc ganh đua có thể chết người, nhưng vẫn cứ có một sự quá cỡ nào đó kiểu trẻ con, rất nhiều trò nghịch ngợm và chơi khăm. Như khi Azar cho nổ con chó của Ted Lavender. “Có gì mà mọi người bức xúc dữ vậy?” Azar nói. “Lạy Chúa, tôi chỉ là thằng con nít thôi mà.”
Tôi nhớ cả những chuyện này nữa.
Cái mùi ẩm mốc của một cái túi ngủ rỗng.
Trăng thượng huyền mọc trên đồng lúc về đêm.
Henry Dobbins ngồi lúc hoàng hôn, vừa khâu cái quân hàm hạ sĩ mới toe của hắn lên áo vừa khẽ hát, “A tisket, a tasket, a green and yellow basket.”6
Một đồng cỏ voi nặng trĩu gió, cúi rạp mình dưới cánh quạt trực thăng quay, cỏ sẫm màu và nhu thuận, gập xuống thấp, nhưng rồi dựng thẳng dậy ngay khi trực thăng đi khỏi.
Một đường mòn đất sét đỏ ngoài làng Mỹ Khê.
Một quả lựu đạn cầm tay.
Một gã trai mảnh dẻ, chết, tuấn tú, chừng hai mươi tuổi. Kiowa nói, “Không có cách nào, Tim. Mày có thể làm gì khác?” Kiowa nói, “Đúng không?”
Kiowa nói, “Nói tao nghe.”
Bốn mươi ba tuổi, cuộc chiến diễn ra cách nay đã nửa đời người, thế mà sự nhớ làm cho nó trở thành hiện tại. Và đôi khi sự nhớ sẽ dẫn đến một câu chuyện, câu chuyện làm cho cuộc chiến trở thành mãi mãi. Chuyện về chiến tranh là thế. Những câu chuyện là để gắn liền quá khứ vào tương lai. Những câu chuyện là dành cho những giờ khuya khoắt khi ta không còn nhớ được bằng cách nào mình đã chuyển từ nơi mình từng ở tới nơi mình đang ở. Những câu chuyện là dành cho sự vĩnh hằng, khi ký ức đã bị xóa sạch. Khi chẳng còn gì để nhớ ngoài câu chuyện.
Trên dòng sông mưa
Đây là một câu chuyện trước đây tôi chưa bao giờ kể. Không kể với ai. Với cha mẹ tôi, không, với anh chị em, không, cả với vợ tôi cũng không. Tôi luôn luôn nghĩ, kể nó ra thì sẽ chỉ gây lúng túng cho tất cả chúng tôi, khiến ai nấy đều bỗng nhiên cảm thấy cần phải ở nơi nào đó khác, cái phản ứng tự nhiên trước một lời thú nhận. Ngay cả bây giờ, tôi phải thừa nhận, câu chuyện này vẫn khiến tôi bối rối. Đã hơn hai mươi năm qua tôi cố sức sống chung với nó, cảm thấy hổ thẹn, muốn gạt nó đi, và thế là bằng hành vi nhớ lại này, bằng cách đưa các sự kiện lên trang giấy, tôi những mong cất đi được ít nhất là một phần cái gánh nặng đè lên những giấc mơ của tôi. Dẫu vậy, nó vẫn là một câu chuyện khó kể. Tất cả chúng tôi, chắc vậy, đều muốn tin rằng trong tình huống khẩn cấp về đạo đức chúng tôi sẽ hành xử như những người hùng thời niên thiếu của mình, dũng cảm và trung thực, không nghĩ gì đến thiệt thòi hay mất thể diện cá nhân. Nhất định đó là niềm tin chắc của tôi mùa hè năm 1968, Tim O’Brien, một người hùng ẩn dấu. Người Hiệp Sĩ Đơn Độc. Nếu như phần cược cho cuộc chơi đủ lớn – nếu như cái ác đủ ác, nếu cái thiện đủ thiện – tôi sẽ không khơi thông một nguồn dũng khí đã tích lũy trong tôi suốt nhiều năm. Dường như hồi đó tôi nghĩ rằng lòng cam đảm đến với chúng ta theo từng số lượng hữu hạn, cũng như một món thừa kế và tằn tiện, cất kỹ nó đi, để cho nó sinh lãi, ta sẽ dần dần nâng cao được vốn dũng khí của mình đặng chuẩn bị cho cái ngày khi tài khoản cần phải rút sạch. Đó là một giả thuyết làm ta vững dạ. Nó miễn cho ta khỏi phải làm những hành vi cam đảm nhỏ nhặt và nhiễu sự thường ngày, nó ban niềm hy vọng và sự cao nhã cho sự hèn nhát lặp đi lặp lại; nó biện minh cho quá khứ đồng thời dồn mọi thứ cho tương lai.
Vào tháng 6 năm 1968, một tháng sau khi tốt nghiệp trường Macalester, tôi bị động viên đi đánh nhau ở một cuộc chiến mà tôi căm ghét. Tôi lúc đó hăm mốt tuổi. Trẻ, đúng, và ngây thơ về chính trị, nhưng dù vậy cuộc chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam tôi vẫn thấy hình như là sai trái. Máu một số người đang đổ ra vì những lý do khập khiễng. Tôi chẳng thấy có sự thống nhất nào về mục đích, chẳng có đồng thuận nào về triết học hay lịch sử hay luật pháp. Bản thân các sự kiện cũng bị che phủ trong mơ hồ nhất định: Đó có phải là nội chiến không? Chiến tranh giải phóng dân tộc hay chỉ là sự xâm hấn? Ai phát động nó, khi nào, tại sao? Điều gì đã thực sự xảy ra với chiến hạm USS Maddox của Hoa Kỳ vào cái đêm đen ấy ở Vịnh Bắc Bộ? Hồ Chí Minh là một tay bù nhìn Cộng sản hay một cứu tinh dân tộc, hay cả hai, hay chẳng đằng nào cả? Hiệp định Genève là thế nào? SEATO và Chiến tranh Lạnh thì sao? Chiến lược domino là gì? Nước Mỹ bị chia cắt về những chuyện đó và hàng ngàn chuyện khác, và cuộc khẩu chiến đã trào ra khỏi sàn Thượng viện Hoa Kỳ mà tràn ra phố xá, những người thông minh sáng láng mặc áo quần bảnh chọe không sao nhất trí được với nhau ngay cả trong những vấn đề cơ bản nhất về chính sách công. Điều duy nhất chắc chắn trong mùa hè đó là sự phân vân về đạo đức. Quan điểm của tôi hồi đó, mà bây giờ cũng vậy, là ta đừng nên gây chiến tranh nếu như không biết vì sao. Tri thức dĩ nhiên là luôn luôn bất toàn, nhưng tôi cảm thấy dường như, nếu một đất nước dấn vào chiến tranh, nó phải có niềm tin hợp lẽ vào công lý và sự chẳng đặng đừng của việc mình làm. Ta không thể sửa chữa sai lầm của mình. Một khi người ta đã chết, ta không làm cho họ thôi không chết nữa.
Dù thế nào thì đó là niềm xác tín của tôi, và từ hồi còn đi học tôi đã có một quan điểm ôn hòa chống chiến tranh. Không có gì cực đoan, chẳng đầu nóng hay gì gì, chỉ là rung vài tiếng chuông cảnh báo về chủ nghĩa McCarthy, viết dăm bài bình luận tẻ ngắt, nhạt nhẽo cho tờ báo của khu học xá. Dù vậy, cũng lạ, đó hầu như hoàn
toàn là một hành động thuần trí óc. Tôi có dồn một phần năng lượng vào đó, dĩ nhiên, nhưng đó là thứ năng lượng luôn đi kèm với với bất kỳ nỗ lực nào mang tính trừu tượng; tôi không cảm thấy mối nguy nào cho bản thân mình; tôi không hề thấy có chuyển biến không may nào sắp xảy ra trong đời tôi. Một cách ngu ngốc, với một sự hờ hững đắc ý mà đến giờ tôi vẫn không hiểu nổi, hồi đó tôi cho rằng ba cái chuyện giết người với chết chóc sẽ không lọt vào cái tỉnh lẻ của riêng tôi.
Thông báo động viên đến vào ngày 17 tháng Sáu năm 1968. Tôi nhớ lúc ấy là một bổi trưa ẩm ướt, nhiều mây và rất tĩnh mịch, tôi vừa đi đánh gôn về. Ba mẹ tôi đang ăn trưa dưới bếp. Tôi nhớ mình đã mở thư, lướt qua mấy dòng đầu, cảm thấy máu dồn lên đặc sệt sau hai mắt. Tôi nhớ một âm thanh trong đầu tôi. Nó không phải suy nghĩ, chỉ là một tiếng hú câm lặng. Một triệu thứ cùng một lúc – tôi là người quá tốt đối với cuộc chiến này. Quá thông minh, quá từ ái, quá đủ thứ. Chuyện này không thể nào xảy ra được. Tôi cao hơn nó. Tôi đã lừa được cả thế giới – nào điểm ưu Phi Beta Kappa nào tốt nghiệp hạng tối ưu nào chủ tịch hội sinh viên nào học bổng toàn phần nghiên cứu sau đại học ở Harvard. Chắc là nhầm thôi – văn thư xếp nhầm hay gì đấy. Tôi chả phải lính lác gì hết. Tôi ghét Hướng đạo sinh. Tôi ghét cắm trại ngoài trời. Tôi ghét bùn ghét lều ghét muỗi. Hễ thấy máu là tôi muốn mửa, tôi cũng không chịu được sự chuyên quyền, tôi cũng chả phân biệt được súng trường khác cái ná ra sao. Tôi là người theo chủ nghĩa tự do, lạy Chúa: Nếu họ cần mấy cái xác tươi, sao không đi mà tuyển một tên hiếu chiến sót lại từ thời đồ đá? Hay một thằng sô vanh ngu si đội mũ cứng quèo và cài khuy có chữ Ném bom Việt Nam, hay một trong mấy đứa con gái xinh của Lyndon Johnson hay cả cái gia đình đẹp đẽ của Westmoreland – nào cháu trai cháu gái nào cháu nội mới sinh. Lẽ ta phải có một cái luật, tôi nghĩ. Nếu ta ủng hộ cuộc chiến, nếu ta nghĩ nó đáng giá, thì được thôi, nhưng ta phải cho tuôn vào đấy cả những dòng chất lỏng của
bản thân mình. Ta phải tiến lên tuyến đầu, phải bám theo một đơn vị bộ binh và giúp họ đổ máu. Và ta phải mang vợ mang con mang người tình của mình theo. Phải có một luật như thế, tôi nghĩ vậy.
Tôi nhớ cơn phẫn nộ trong bụng mình. Sau đó cháy rụi thành một nỗi tự thương thân âm ỉ, rồi thành đờ đẫn. Vào một bữa ăn tối ngày hôm đó ba tôi hỏi tôi dự định làm gì. “Chẳng làm gì cả,” tôi nói. “Đợi.”
Suốt hè năm 1968 tôi làm việc tại một nhà máy sản xuất thịt cho quân đội ở thị trấn quê nhà, Worthington, bang Minnesota. Nhà máy này chuyên sản phẩm thịt heo, ngày nào cũng vậy tám tiếng đồng hồ tôi đứng ở một dây chuyền lắp ráp dài một phần tư dặm – đúng ra không phải lắp ráp mà là tháo gỡ – việc của tôi là gỡ hết những cục máu vón lại nơi cổ mấy con heo chết. Chức danh công việc của tôi là Decloer, thợ gỡ máu vón, chắc vậy. Sau khi bị giết, lũ heo bị chặt đầu, xé làm đôi, banh ra, moi lòng ruột, rồi treo lên móc dọc một băng truyền tự động ở trên cao. Rồi lực hấp dẫn vào cuộc. Tới khi mấy cái thân heo đến được chỗ tôi trên dây chuyền, các thứ chất lỏng đã gần như chảy kiệt, chảy hết ráo ngoại trừ những cục máu dày vón lại nơi cổ và khoang ngực trên. Để dỡ mấy thứ đó ra tôi dùng một loại súng phun nước. Cái máy này nặng lắm, có khi tới tám chục pao, thả từ trên trần xuống bằng một cáp cao su nặng. Nó hơi bập bênh, bởi độ co giãn đàn hồi lên xuống, cho nên bí quyết là phải xoay xở khẩu súng bằng toàn bộ thân mình, không nhấc hai tay lên, mà cứ để cho cáp cao su làm việc đó thay mình. Ở một đầu là cò súng; ở đầu nút nòng súng là cái miệng vòi nhỏ và cái bàn chải xoay bằng thép. Khi một thân heo đi ngang, ta liền cúi về phía trước, xoay súng lên hướng vào cục vón, bóp cò, tất cả chỉ trong một động tác, thế là bàn chải sẽ xoáy tròn, nước sẽ bắn ra và ta nghe một tiếng xòa nhanh khi mấy cục vón tan ra thành một thứ sương mịn đỏ. Chẳng phải là công việc dễ chịu gì. Nhất thiết phải mang kính che mắt, đeo
tạp dề cao su, nhưng dù có vậy đi nữa thì cũng chả khác gì đứng tám tiếng một ngày dưới một trận mưa rào âm ấm toàn máu. Đêm nào về nhà tôi cũng toàn mùi heo. Mùi ấy không sao đi được. Dù đã tắm nước nóng, kỳ cọ ra trò, nó luôn luôn còn đó, như mùi thịt hun khói để lâu, hay xúc xích, một thứ mùi heo nhờn mỡ đặc quánh ngấm sâu vào da vào tóc vào lông tôi. Ngoài những chuyện khác, tôi nhớ những ngày ấy thật khó mà hẹn hò ai. Tôi thấy mình bị tách biệt; phần lớn tôi toàn thui thủi một mình. Rồi lại còn tờ thông báo động viên nhét trong ví nữa.
Chiều chiều tôi hay mượn xe cha tôi lái loanh quanh thị trấn, cảm thấy thương thân, nghĩ về cuộc chiến về nhà máy thịt heo và nghĩ đến chuyện đời tôi dường như đang suy sụp về phía sự giết chốc. Tôi thấy mình tê liệt. Quanh tôi những lựa chọn dường như đang thu hẹp lại, như thể tôi đang lao vút xuống một cái phễu cực lớn đen ngòm, toàn thế giới siết chặt lại từ tứ phía. Không có đường thoát may mắn nào. Chính phú đã chấm dứt hoãn quân dịch đối với hầu hết sinh viên tốt nghiệp; danh sách chờ nhập Vệ binh Quốc gia và Lực lượng Dự bị dài chưa từng thấy; sức khỏe tốt; tôi không đủ tư cách để bị liệt vào hàng Phản đối chiến tranh có ý thức (Conscientious objector, CO) – không có nền tảng tôn giáo, cũng chẳng có tiền sử là người theo chủ nghĩa hòa bình. Hơn nữa, tôi không thể tự xưng mình chống chiến tranh dựa trên một nguyên tắc chung. Tôi tin rằng có những trường hợp một dân tộc được biện chính về việc dùng lực lượng quân sự để đạt được mục đích, để ngăn chặn một tên Hitler hay một cái ác cùng kiểu ấy, và tôi tự nhủ rằng trong những tình huống đó tôi sẽ dằn lòng bước vào trận chiến. Tuy nhiên, vấn đề là ban tuyển quân chẳng cho ta quyền lựa chọn cuộc chiến của mình.
Ngoài mấy chuyện đó ra, hay đúng hơn, nằm ngay trên tâm điểm vấn đề, là cái sự thực thô thiển rằng tôi khiếp sợ, tôi không muốn chết. Chẳng phải là tôi muốn đừng bao giờ chết. Nhưng dẫu chết thì
cũng nhất định là không phải khi đó, không phải ở đó, trong một cuộc chiến sai trái. Lái xe dọc theo Phố Chính, qua toàn án qua cửa hiệu Ben Franklin, đôi khi tôi cảm thấy nỗi sợ lan tràn ra bên trong mình như cỏ dại. Tôi không hình dung chính mình chết. Tôi hình dung mình làm những việc vốn không thể làm – xung trận chiếm vị trí của địch, nhắm bắn một con người khác.
Đến một lúc vào giữa tháng Bảy tôi bắt đầu nghiêm túc nghĩ tới chuyện chạy sang Canada. Biên giới chỉ cách vài trăm dặm về phía Bắc, lái xe hết tám giờ là tới. Cả lương thức lẫn bản năng tôi đều bảo tôi cứ làm đi, cứ co giò chạy như điên đừng bao giờ ngừng lại. Ban đầu ý nghĩ đó có vẻ thuần tuý trừu tượng, cái từ Canada hiện tra trong đầu tôi; nhưng sau một hồi tôi nhìn ta được những hình thù và hình ảnh cụ thể, những chi tiết khốn khổ của tương lai chính tôi – một phòng khách sạn ở Winnipeg, một cái va li cũ tả tơi, cặp mắt ba tôi khi tôi cố giải thích qua điện thoại vì sao tôi làm thế. Tôi hầu như nghe được giọng ông, và giọng mẹ tôi. Chạy đi, tôi nghĩ. Rồi tôi nghĩ, không thể được. Rồi một giây sau tôi nghĩ, Chạy đi.
Đó là một kiểu thần kinh phân liệt. Giằng xé về đạo đức. Tôi không sao quyết định được. Tôi sợ chiến tranh, đúng, nhưng tôi cũng sợ cả lưu vong. Tôi sợ phải xa rời cuộc sống của mình, khỏi bạn bè khỏi gia đình, khỏi toàn bộ câu chuyện đời của tôi, bất cứ cái gì quan trọng đối với tôi. Tôi sợ đánh mất niềm tôn trọng của mẹ cha. Tôi sợ pháp luật. Tôi sợ bị người trách móc chê cười. Thị trấn quê tôi là một chốn nhỏ bé bảo thủ vùng đồng bằng, nơi truyền thống rất được xem trọng, nên chẳng khó hình dung người ta ngồi quanh bàn ở quán cà phê Gobble cũ kỹ dưới Phố Chính, mấy cốc cà phê xếp ngay ngắn, cuộc trò chuyện từ từ xoáy vào thằng con nhà O’Brien, cái thằng gà chết trời đánh đó dông sang Canada rồi. Đêm đêm, những khi không ngủ được, đôi khi tôi cãi nhau kịch liệt với những người đó, tôi hét toáng lên với họ, bảo họ rằng tôi ghê tởm cái lối họ thuận theo cuộc chiến tranh này một cách tự động, mù quáng,
không suy nghĩ, cái chủ nghĩa ái quốc thiển cận của họ, sự ngu dốt đầy kiêu căng của họ, những câu ba láp kiểu một-là-yêu-hai-là-bỏ của họ, cái lối bọn họ buộc tôi phải tham gia một cuộc chiến tranh mà họ không hiểu và cũng không muốn hiểu. Tôi quy cho họ phải chịu trách nhiệm. Trước Chúa Trời, phải, tôi đã làm như vậy. Tất cả bọn họ – tôi buộc họ, từng người một, với tư cách cá nhân, phải chịu trách nhiệm – những tay Kiwanis7 mặc áo vải pô-li-ét-te, các thương nhân các nông gia, những con chiên ngoan đạo chăm đi lễ nhà thờ, những bà nội trợ bẻm mép, Hiệp hội Phụ huynh-Giáo viên và câu lạc bộ Sư tử và Hội Cựu chiến binh và mấy vị thượng lưu lịch lãm ở câu lạc bộ giải trí ngoài trời. Họ không biết Bảo Đại khác với người từ mặt trăng tới ở điểm nào. Họ không biết lịch sử. Họ không biết tí ti gì về sự chuyên quyền tàn bạo của Diệm, hay bản chất chủ nghĩa dân tộc của người Việt Nam, hay thời kỳ bị đô hộ lâu dài dưới ách thực dân Pháp – tất cả chuyện này quá ư phức tạp, muốn biết muốn hiểu thì phải đọc – nhưng không sao, đây là một cuộc chiến nhằm ngăn chặn Cộng sản, rõ ràng và đơn giản, họ thích là thích như vậy đấy, và ta là một tên khốn khiếp phản bội nếu như ta cứ đắn đo suy tính mãi về chuyện giết người hay chuyện chết vì những lý do đơn giản.
Tôi cay đắng, dĩ nhiên. Nhưng còn hơn thế nhiều. Cảm xúc chuyển từ phẫn nộ sang kinh hoàng sang hoang mang sang tội lỗi sang buồn phiền rồi quay trở lại phẫn nộ. Tôi cảm thấy một căn bệnh ở bên trong mình. Thực sự là bệnh.
Hầu hết những điều này tôi đã kể rồi, hay ít nhất là có nhắc bóng gió, nhưng cái tôi chưa bao giờ kể là trọn vẹn sự thật. Rằng tôi đã gục ngã. Rằng một sáng nọ đương làm việc, đứng trên dây chuyền thịt heo, tôi thấy có gì đó vỡ tung trong ngực. Tôi không biết đó là gì. Tôi sẽ chẳng bao giờ biết. Nhưng nó có thực, chừng đó thì tôi biết, nó là một sự đứt gãy có tính vật thể – một cảm giác gãy gập-rò-rỉ-bật tung ra. Tôi nhớ mình đã buông lơi cây súng phun nước. Nhanh
chóng, hầu như không suy nghĩ, tôi tháo tạp dề rồi đi nhanh ra khỏi nhà máy, lái xe về nhà. Lúc đó là giữa buổi sáng, tôi nhớ vậy, nhà vắng tanh. Sâu trong ngực tôi vẫn còn cái cảm giác rò rỉ đó, một cái gì đó rất ấm và rất quý giá đang trào ra, người tôi thì đầy máu và mùi hôi của lợn, và suốt một hồi lâu tôi tập trung cố gắng trấn tĩnh lại. Tôi nhớ mình đã tắm nước nóng. Tôi nhớ mình đã gói ghém va li rồi mang xuống bếp, đứng thật im trong vài phút, nhìn kỹ những món đồ quen thuộc xung quanh tôi. Cái máy nướng bánh cũ bằng cờ rôm, cái điện thoại, mặt quầy bếp bằng phoóc mi ca hồng và trắng. Căn phòng đầy nắng sáng. Mọi thứ lấp lánh. Nhà mình, tôi nghĩ. Đời tôi. Tôi không chắc mình đứng đó bao lâu, nhưng cuối cùng tôi ngoáy vội vài chữ cho ba mẹ.
Thư nói gì, nay tôi không nhớ chính xác nữa. Cái gì đó mơ hồ. Con đi, sẽ gọi về, yêu bố mẹ, Tim.
Tôi lái xe về phía Bắc.
Nay thì cảnh đó lờ mờ, hồi đó cũng vậy, tôi chỉ nhớ được mỗi một cảm giác tốc độ cao và cảm nhận về cái vô lăng trong tay mình. Tôi đang lái xe bằng adrenalin. Một cảm giác chóng mặt, theo cách nào đó, trừ mỗi chuyện nó có cái khía cạnh mơ màng của điều bất khả – như là đang chạy trong một mê cung toàn ngõ cụt, không lối thoát – nó không thể trở thành một kết cục có hậu, thế nhưng tôi vẫn cứ làm bởi đó là tất cả những gì tôi có thể nghĩ tới đặng mà làm. Đó là chạy chốn thuần túy, nhanh chóng và không suy nghĩ. Tôi chẳng có kế hoạch gì. Cứ thế mà lao thật nhanh đến biên giới rồi bứt ngang qua và cứ thế chạy tiếp. Trời gần tối thì tôi băng qua Bemidji, rồi rẽ hướng Đông Bắc đến International Falls. Tôi ngủ đêm trên xe, đằng sau một trạm xăng đóng cửa cách biên giới nửa dặm. Sáng ra, khi đổ xăng, tôi đi thẳng về phía Tây dọc theo Sông Mưa – Rainy River, sông này ngăn cách bang Minnesota với Canada, và đối với tôi là ngăn cách cuộc đời này với cuộc đời khác. Nơi đây hầu hết là cảnh
hoang vu. Đây đó tôi đi qua một khách sạn ven đường hay cửa hàng dành cho khách vãng lai, nhưng ngoài ra thì vùng này toàn cây thông với cây bu lô và cây sơn trải dài ngút mắt. Tuy vẫn đang tháng Tám, không khí đã phảng phất của tháng Mười, mùi bóng bầu dục, những đống lá vàng đỏ, mọi thứ đều mát lạnh và trong sạch. Tôi nhớ bầu trời xanh cao rộng. Bên phải tôi là Sông Mưa, đôi chỗ rộng như cái hồ, còn bên kia Sông Mưa là Canada.
Mãi hồi lâu tôi cứ lái, chẳng nhằm một cái gì, thế rồi gần trưa tôi bắt đầu tìm một nơi tạm lánh một hai ngày. Tôi mệt lắm, lại còn sợ đến phát bệnh, thế rồi khoảng giữa trưa tôi đánh xe vào một khu câu cá cũ gọi là Tip Top Lodge. Kỳ thực đó chẳng phải là nhà nghỉ hay gì cả, mà chỉ là tám chín túp lều nhỏ xíu màu vàng túm tụm trên một bán đảo nhô ra Sông Mưa về phía Bắc. Nơi này trông thật thảm thương. Có một bến thuyền bằng gỗ trông nguy hiểm, một bể nuôi cá tuế, một túp nhà để thuyền bằng giấy dầu tuềnh toàng dọc theo bờ. Căn nhà chính, xây giữa một cụm cây thông trên đất cao, dường như chếch hẳn về một phía, giống như một người què, mái nhà sệ về phía Canada. Tôi thoáng nghĩ đến chuyện quay đi, đành chịu thua, nhưng rồi tôi ra khỏi xe mà đi lại phía cổng trước.
Người đàn ông ra mở cửa ngày hôm đó là người hùng của đời tôi. Làm sao tôi có thể nói thế mà không nghe có vẻ ngớ ngẩn? Nói gọn một tiếng – người đã cứu đời tôi. Ông cho tôi đúng cái tôi cần, không gặng hỏi, không một lời nào hết. Ông đón nhận tôi. Ông ở đó đúng vào thời khắc nước sôi lửa bỏng – một sự hiện diện thầm lặng, thấu hiểu. Sáu ngày sau, khi chuyện đó kết thúc, tôi không tìm được cách nào ra hồn để cảm ơn ông, và tôi cũng chưa hề cảm ơn ông, và bởi vậy, nếu không còn gì khác, câu chuyện này là một hành động tri ân nho nhỏ, muộn hai mươi năm.
Thậm chí dù sau hai thập kỷ tôi vẫn có thể nhắm mắt lại và thấy mình quay về nơi cánh cổng ấy ở Tip Top Lodge. Tôi có thể thấy ông già nhìn tôi chằm chặp. Elroy Berdahl: tám mươi mốt tuổi, gầy nhom
teo tóp và hầu như hói trụi. Ông mặc sơ mi vải nỉ và quần lao động màu nâu. Tôi nhớ một tay ông cầm trái táo xanh, tay kia là con dao nhỏ gọt trái cây. Mắt ông có cái màu xám hơi xanh xanh như lưỡi dao cạo, cũng cái ánh bóng láng đó, có cảm giác như cắt được, tựa hồ cái nhìn của ông đang bằng cách nào đó xé toạc tôi ra. Một phần, chắc chắn như vậy, là do cảm giác tội lỗi của chính tôi, nhưng dù có vậy đi nữa tôi cũng tin chắc tuyệt đối rằng ông già chỉ cần nhìn một cái là đã thấu suốt vào tâm điểm sự việc – một cậu trai đang lúc gay go. Khi tôi hỏi thuê phòng, Elroy tặc lưỡi khe khẽ. Ông gật, dẫn tôi đến một trong máy túp lều, rồi thả một chiếc chìa khóa vào tay tôi. Tôi nhớ mình đã cười với ông. Tôi cũng nhớ khi đó tôi ước gì mình đã không cười. Ông già lắc đầu, như muốn bảo rằng chuyện đó chẳng bõ bận tâm.
“Ăn tối lúc năm rưỡi,” ông nói. “Cậu ăn cá không?”
“Gì cũng ăn.”
Elroy nhún vai nói, “Chắc rồi.”
Chúng tôi ở cùng nhau sáu ngày tại Tip Top Lodge. Chỉ hai chúng tôi. Mùa du lịch đã qua, chẳng có chiếc thuyền nào trên sông, cả vùng hoang vắng này dường như thu mình lại thành một sự tĩnh lặng mênh mông thường trực. Suốt sáu ngày đó Elroy Berdahl và tôi hầu như bữa nào cũng ăn cùng nhau. Buổi sáng đôi khi chúng tôi cùng đi bộ mãi lâu vào rừng, còn buổi tối chúng tôi chơi cờ đam hoặc nghe đĩa nhạc hoặc ngồi trước cái lò sưởi to bằng đá của ông. Đôi khi tôi ngượng ngập thấy mình là kẻ ngoài xâm nhập vào đây, nhưng Elroy tiếp nhận tôi vào cái nếp thường lặng lẽ của ông mà không hề đon đả hay khách khí. Ông chấp nhận sự có mặt tôi như là lẽ đương nhiên, cũng như ông cho một con mèo đi lạc vào nương náu nhà mình – không thương hại vớ vẩn, không thở vắn than dài – và không bao giờ nói về chuyện ấy. Ngược lại. Tôi nhớ hơn hết là sự
im lặng đăm chiêu, hầu như bạo liệt của con người đó. Suốt thời gian ở cạnh nhau, ngần ấy tiếng đồng hồ, ông chẳng bao giờ hỏi câu hỏi quá rõ ràng: Tại sao tôi ở đấy? Sao chỉ một mình? Sao bần thần lo lắng vậy? Nếu Elroy có tò mò đi nữa, ông cũng cẩn trọng không bao giờ nói thành lời.
Dẫu vậy, tôi có linh cảm rằng ông đã biết. Ít nhất là về cơ bản. Xét cho cùng, đấy là năm 1968, đám thanh niên đang đốt thẻ quân dịch, và Canada chỉ cách một quãng thuyền. Elroy Berdahl chẳng phải là dân quê mùa thô kệch. Giường ông nằm, theo tôi nhớ, ngổn ngang những sách và tạp chí. Ông hạ sát ván tôi trên bàn cờ đam mà chả cần tập trung gì mấy, và, những lúc hiếm hoi cần đến lời nói, ông có cái kiểu nén chặt các ý tưởng lớn thành những gói ngôn từ nhỏ, bí hiểm. Một chiều nọ, ngay khi mặt trời lặn, ông chỉ vào một con cú đang lượn vòng trên cánh rừng được chiếu rọi trong màu tím về phía Tây.
“Này O’Brien,” ông nói. “Chúa Giê-su đấy.”
Con người này thật sắc bén – ông hiếm hoi bỏ sót cái gì. Cặp mắt như dao cạo đó. Thỉnh thoảng ông bắt gặp tôi đang nhìn chăm chăm ra dòng sông, bờ phía xa kia, và tôi hầu như nghe được những cái lẫy khóa kêu lách cách trong đầu ông. Có thể tôi nhầm, nhưng chắc là không.
Một điều tôi tin chắc, đấy là ông biết tôi đang có chuyện vô cùng khó xử. Và ông biết tôi không thể nói về chuyện ấy, Chỉ cần một lời sai – hay thậm chí một lời đúng – là tôi sẽ biến mất. Tôi đang rất bồn chồn kích động. Da tôi nghe quá căng. Có một tối nọ sau khi ăn tối tôi nôn mửa, liền quay về lều mình nằm một lát rồi lại nôn; lần khác, lúc giữa trưa, tôi toát mồ hôi và không sao dừng được. Suốt mấy ngày liền tôi cứ váng vất vì buồn. Tô không ngủ được: tôi chẳng nằm yên được. Đêm tôi cứ trăn qua trở lại trên giường, nửa thức nửa mơ, cứ tưởng tượng mình lên xuống bờ sông, âm thầm đẩy một trong
mấy chiếc thuyền của ông già xuống sông rồi chèo sang bên Canada. Có những lúc tôi e mình đến nước phát rồ mất. Tôi không còn biết nổi đâu trên đâu dưới, tôi cứ thế rơi, và đêm khuya tôi nằm đó nhìn những hình ảnh kỳ quặc xoáy ngang qua tâm trí tôi. Bị Tuần tra Biên giới săn đuổi – nào trực thăng nào đèn rọi vào nào chó sủa – tôi cứ thế sầm sầm chạy qua rừng, tôi bò bốn chân tay – người ta réo tên tôi – luật pháp siết lại từ bốn phía – ban tuyển quân ở thị trấn quê tôi và FBI và Cảnh sát Cưỡi ngựa của Hoàng gia Canada. Tất cả có vẻ vừa điên rồ vừa không thể có thật. Hai mươi mốt tuổi, một gã trai bình thường với những giấc mơ và tham vọng rất bình thường, chỉ muốn mỗi một điều là được sống cái cuộc đời mình sinh ra để sống – sống như mọi người vẫn sống – tôi thích bóng chày thích hamburger thích Coke vị anh đào – thế mà giờ tôi ở đây mấp mé bên lề kiếp lưu vong, vĩnh viễn rời xa quê hương, chuyện đó với vẻ vừa không thể xảy ra vừa khủng khiếp vừa buồn thảm.
Tôi không biết làm thế nào tôi đã gượng qua được sáu ngày ấy. Hầu hết tôi không còn nhớ được. Có hai, ba buổi chiều, để cho qua thời giờ, tôi giúp Elroy soạn sửa khu nhà nghỉ cho mùa đông, quét dọn các túp lều và kéo thuyền lên bờ, những việc vặt giúp thân thể tôi nhúc nhích. Những ngày đó lạnh và sáng sủa. Đêm thì tối om. Một sáng nọ ông già chỉ cho tôi cách chẻ củi rồi xếp thành đống, và suốt vài giờ chúng tôi lẳng lặng làm việc phía sau căn nhà ông. Tôi nhớ là, đến một lúc, Elroy đặt vồ xuống nhìn tôi hồi lâu, môi ông dẩu ra như thể đang tạo hình cho một câu hỏi khó, nhưng rồi ông lắc đầu và tiếp tục làm. Sự tự chủ của con người này thật đáng kinh ngạc. Ông chả bao giờ tọc mạch dò hỏi. Ông chẳng bao giờ đặt tôi vào cái thế buộc phải nói dối hay chối quanh. Đến độ, tôi hình dung, sự thâm trầm của ông tiêu biểu cho vùng này của Minnesota. Nơi sự riêng tư vẫn còn được người ta kính trọng, và thậm chí dù tôi là một kẻ kỳ hình dị tướng đến độ kinh khiếp – bốn tay ba đầu – đi chăng nữa thì ông vẫn sẽ hiểu rằng lời nói không đủ. Vấn đề đã nằm ngoài
mọi bàn luận. Suốt mùa hè dài ấy tôi cứ lật lui lật tới hết lý lẽ này đến lý lẽ kia, những được và mất, và đo bằng một hành vi thuần lý tính nữa. Trí tuệ đã trỗi dậy chống lại cảm xúc. Lương thức tôi bảo tôi chạy trốn, nhưng có một thứ lực phi lý và mạnh mẽ nào đó cưỡng lại, như một trọng lượng lôi tôi về phía cuộc chiến. Rốt cuộc nó trở thành cảm giác xấu hổ, thật ngu ngốc. Nỗi xấu hổ nóng ổi, ngu ngốc. Tôi không muốn người ta nghĩ xấu về tôi. Cha mẹ tôi, không, anh chị em tôi, không, thậm chí những người ngồi ở cà phê Gobbler cũng không. Tôi xấu hổ vì có mặt ở đó, ở Tip Top Lodge. Tôi xấu hổ vì lương tâm của mình, xấu hổ vì đang làm điều phải.
Chút gì đó ở điều này ắt hẳn ông Elroy hiểu. Không phải chi tiết, dĩ nhiên, nhưng là cái sự thực hiển nhiên rằng đang có một nan đề khó giải.
Mặc dù ông già chẳng bao giờ gặng hỏi tôi về nó, nhưng có một lần ông đã tiến gần đến chỗ buộc tôi phải nói thẳng ra toàn bộ sự việc. Lúc ấy xế trưa, hai chúng tôi vừa ăn xong, đương uống cà phê ăn tráng miệng thì tôi hỏi ông xem tôi phải trả bao nhiêu, cho đến giờ nợ bao nhiêu. Mãi một hồi lâu ông già nheo mắt nhìn tấm khăn trải bàn.
“Ờ thì ở căn bản là năm mươi đô một đêm,” ông nói. “Không tính tiền ăn. Bốn đêm rồi phải không?”
Tôi gật. Tôi có ba trăm mười hai đô trong ví.
Elroy vẫn dán mắt vào khăn bàn. “Nhưng đấy là giá lúc vào mùa. Để công bằng, tôi nghĩ ta có thể hạ xuống chút đỉnh.” Ông ngả người vào ghế. “Theo cậu bao nhiêu là hợp lý?’
“Cháu chả biết,” tôi nói. “Bốn mươi?”
“Bốn mươi, được. Bốn mươi một đêm, còn ăn thì sao, thêm một trăm nữa nhé? Tổng cộng hai trăm sáu mươi?”
“Chắc vậy.”
Ông nhướn mày. “Nhiều quá hả?”
“Không, vậy là vừa. Được rồi. Nhưng mà mai… chắc mai cháu đi thì hơn.”
Elroy nhún vai và bắt tay vào dẹp bàn. Ông bận rộn với đống bát đĩa một hồi, vừa làm vừa huýt sáo như thể vấn đề vậy là dàn xếp xong. Sau khoảng một giây ông vỗ hai tay vào nhau.
“Cậu biết chúng ta quên gì không?” ông nói. “Quên tiền công. Mấy việc vặt cậu đã làm ấy. Việc mình phải làm là tính xem thời gian làm việc của cậu quy ra được bao nhiêu tiền. Việc làm gần đây nhất của cậu – mỗi giờ cậu kiếm được bao nhiêu tiền?”
“Không đủ”
“Kém à?”
“Dạ, hơi kém.”
Thế là, chậm rãi, dẫu không định nói dài dòng, tôi kể cho ông nghe về những ngày làm ở nhà máy thịt heo. Thoạt tiên ấy chỉ đơn thuần thuật lại các sự việc, nhưng chưa kịp ngăn mình lại thì tôi đã bắt đầu nói về những cục máu đông về khẩu súng nước về cái mùi đã ngấm vào da không sao gội đi được. Tôi cứ thế kể hồi lâu. Tôi kể về tiếng heo kêu eng éc trong giấc mơ, về chuyện đôi khi tôi choàng tỉnh dậy nghe cái mùi heo nhầy mỡ đó trong cổ họng mình.
Khi tôi nói xong, Elroy gật với tôi.
“Ừm, nói thật,” ông nói, “khi cậu mới tới đây, tôi đã tự hỏi chuyện đó. Là cái mùi đó mà. Mùi nghe cứ như cậu khoái thịt thăn heo đến mức kinh hồn ấy.” Ông già hầu như mỉm cười. Ông khịt khịt mũi, đoạn ngồi xuống với một cây bút chì và một mảnh giấy. “Vậy là cái nghề cu li đó cậu kiếm được bao nhiêu? Mười đô một giờ? Mười lăm?”
“Ít hơn.”
Elroy lắc đầu. “Cứ cho mười lăm đi. Cậu làm ở đây hai mươi lăm giờ, dễ mà. Tính ra là tổng cộng ba trăm bảy lăm đô tiền công. Trừ hai trăm sáu chục tiền phòng với tiền ăn, tôi còn nợ cậu một trăm mười lăm.”
Ông rút bốn tờ năm chục ra khỏi túi áo, đặt lên bàn.
“Coi như sòng phẳng nha.” Ông nói.
“Không.”
“Cầm lấy. Đi mà cắt tóc.”
Món tiền nằm trên bàn suốt buổi chiều hôm đó. Khi tôi quay về lều mình, nó vẫn ở đấy. Tuy nhiên, sáng hôm sau, tôi thấy một cái phong bì giắt vào khe cửa phòng tôi. Trong phong bì là bốn tờ năm mươi đô và một mẩu giấy ghi mấy chữ, QUỸ PHÒNG KHI KHẨN CẤP.
Ông già biết.
Nay nhìn lại sau hai mươi năm, đôi khi tôi tự hỏi phải chăng các sự kiện mùa hè năm ấy đã không xảy ra một chiều kích khác, nơi mà cuộc đời ta hiện hữu trước khi ta sống nó, và sau đó nó đi đâu. Chẳng có gì có vẻ là thực cả. Suốt thời gian lưu lại Tip Top Lodge tôi cứ có cảm giác mình đã tuột ta khỏi bộ da của chính mình, treo lơ lửng cách đó chừng một mét trong khi một con lật đật thảm hại nào đó mang cái tên và bộ mặt tôi gắng sức tiến tới một tương lai mà nó không hiểu và không muốn. Cả bây giờ tôi cũng thấy được chính mình như hồi đó. Giống như là xem một bộ phim cũ tự mình quay: tôi trẻ trung rám nắng và khỏe mạnh. Tôi có lông tóc – nhiều lông tóc. Tôi không hút thuốc không uống rượu. Tôi mặc quần gin xanh bạc thếch, áo thun trắng. Tôi có thể thấy mình ngồi trên bến thuyền của Elroy Berdahl một chiều nọ khi mặt trời sắp lặn, bầu trời màu hồng lấp lánh rực rỡ, tôi đang viết nốt bức thư gửi ba mẹ trong đó tôi kể tôi sắp làm gì, tại sao làm và tôi hối tiếc đến nhường nào vì
chẳng đủ can đảm nói chuyện với ba mẹ vì chuyện đó. Tôi xin ba mẹ đừng giận. Tôi cố giải thích vài cảm xúc của mình, nhưng không đủ lời, thế nên tôi chỉ nói đó là một việc phải làm. Cuối thư tôi nói về những kỳ nghỉ hè cả nhà tôi thường lên vùng phía Bắc này, ở một nơi gọi là Hồ Cá Trắng, nói rằng phong cảnh ở đây khiến tôi nhớ lại những lần tươi đẹp ấy. Tôi bảo ba mẹ là tôi ổn. Tôi nói với ba mẹ rằng khi đến Winnipeg hay Montreal hay đâu đấy thì tôi sẽ lại viết thư về.
Vào ngày cuối cùng mà tôi ở trọn vẹn tại Tip Top Lodge, ngày thứ sáu, ông già dẫn tôi đi câu trên dòng Sông Mưa. Chiều hôm đó nắng và lạnh. Một làn gió ngột ngạt thổi tới từ phía Bắc, làm tôi nhớ lại con thuyền nhỏ dài hơn bốn mét tròng trành rất dữ khi chúng tôi chống thuyền từ bến ra. Dòng nước chảy nhanh. Tôi nhớ, bốn phía quanh chúng tôi là một thế giới rộng mênh mang, một cảnh nguyên sơ không người, chỉ có cây cối, bầu trời và dòng nước trải dài ngút mắt. Không khí có mùi lành lạnh của tháng Mười.
Trong khoảng mươi mười lăm phút Elroy cho thuyền bơi về phía thượng nguồn, dòng sông gợn sóng màu xám bạc, đoạn ông ngoặt thẳng sang phía Bắc và để động cơ chạy hết ga. Tôi cảm thấy mũi thuyền nâng lên bên dưới tôi. Tôi nhớ gió reo trong tai tôi, âm thanh của chiếc mô tơ Evinrude cũ gắn ngoài thuyền. Trong một lát tôi không chú tâm đến một cái gì, chỉ cảm thấy cái lạnh rây rây trên mặt, nhưng rồi tôi chợt nghĩ ra là có một lúc nào đó ắt hẳn chúng tôi đã tiến sang thủy phận của Canada, băng qua cái đường chấm chấm ngăn giữa hai thế giới khác nhau, và tôi nhớ lúc đó chợt nghe ngực thắt lại khi ngẩng lên nhìn cái bờ xa đang tiến lại gần mình. Đây không phải giấc mơ ngày. Nó sờ mó được, có thực. Trong khi chúng tôi tiến gần đến bờ đất, Elroy tắt động cơ, để cho thuyền bập bềnh nhè nhẹ cách bờ khoảng hai mươi mét. Ông già không nhìn tôi hay nói chuyện. Cúi người xuống, ông mở hộp đồ nghề ra rồi bận bịu
với cục bần và vòng xỏ lưỡi câu, vừa làm vừa hát nho nhỏ, mắt cụp xuống.
Chừng đó tôi chợt nghĩ ra là ắt hẳn chuyện này ông lên kế hoạch trước rồi. Không bao giờ biết chắc được, dĩ nhiên, nhưng tôi nghĩ ông có ý khiến tôi phải đối mặt với thực tại, dẫn tôi sang sông và đưa tôi đến mép bờ rồi làm cảnh giới cho tôi trong khi tôi chọn một cuộc sống cho mình.
Tôi nhớ mình nhìn chăm chăm ông già, rồi nhìn tay tôi, đoạn nhìn Canada. Dải bờ sông dày đặc bụi rậm và cây thân gỗ. Tôi thấy những quả dâu nhỏ xíu màu đỏ trên các bụi cây. Tôi thấy một con sóc trên một trong mấy cây dương, một con quạ to đứng trên tảng đá ven sông nhìn tôi. Gần thế – hai mươi mét – tôi có thể thấy những chòm lá đan thành mắt cáo tinh vi, chất đất, những mũi kim nhọn màu nâu dưới các cây thông, cấu hình địa chất và cấu hình lịch sử con người. Hai mươi mét. Tôi có thể làm được chuyện ấy. Tôi có thể nhảy xuống và khởi sự bơi để làm nên cuộc đời tôi. Cả bây giờ, khi viết chuyện này ra, tôi vẫn còn cảm thấy cái quặn thắt đó. Và tôi muốn bạn cảm nhận được nó – gió từ sông phả lên, sóng nước im lặng, biên giới cây rừng. Bạn đang ngồi trên mũi một con thuyền trên Sông Mưa. Bạn hai mốt tuổi, bạn sợ, và có cái sức ép nặng nề siết chặt lấy ngực bạn.
Bạn sẽ làm gì?
Bạn có nhảy không? Bạn có thương thân tủi phận không? Bạn có nghĩ đến gia đình đến thời thơ ấu đến những giấc mơ của mình và đến tất cả những gì bạn bỏ lại phía sau không? Có đau lòng không? Có cảm thấy như đang chết không? Bạn có sẽ khóc như tôi không?
Tôi cố nuốt nó xuống. Tôi ráng mỉm cười, chỉ có điều tôi khóc.
Giờ thì có lẽ bạn hiểu được vì sao trước đây tôi chưa bao giờ kể chuyện này. Không phải chỉ vì bối rối do mình đã khóc. Một phần là thế, nhất định rồi, nhưng cái còn khiến tôi bối rối nhiều hơn gấp bội
và luôn luôn thế, là nỗi tê liệt đã siết lấy tim tôi. Một sự đông cứng về tinh thần: tôi không quyết được, tôi không hành động được, tôi không thể tự trấn an mình dù bằng cách giả vở rằng mình có cái phẩm giá bình thường giản dị của con người.
Việc duy nhất tôi làm được là khóc. Lặng lẽ, không bù lu bù loa, chỉ thút thít.
Nơi đuôi thuyền Elroy Berdahl vờ không nhận thấy. Ông cầm cần câu, cúi đầu để giấu cặp mắt đi. Ông cứ ậm ừ ngâm nga một điệu nhạc êm êm, đơn điệu. Dường như khắp mọi nơi, trên cây cối trên mặt nước trên bầu trời, một nỗi buồn lớn lao rộng khắp toàn thế giới đang đè nén xuống tôi, một nỗi buồn nghiến nát tôi, một nỗi buồn tôi chưa bao giờ biết tới. Và tôi nhận ra, đau buồn đến thế là do Canada đã trở thành một thứ huyễn tưởng thảm hại. Ngu ngốc và vô vọng. Nó không còn có khả năng thành sự thực. Ngay khi đó, bờ sông gần đến thế, tôi hiểu mình sẽ không làm gì đáng lẽ nên làm. Đột nhiên tôi cảm thấy mình choáng ngợp cảm giác không người giúp không nơi nương tựa, thấy như mình bị chìm nghỉm, tựa hồ tôi vừa ngã khỏi thuyền và đang bị những làn sóng bạc cuốn đi. Từng mẩu đời đã qua lóe lên trước mắt tôi. Tôi thấy một đứa bé bảy tuổi đội mũ cao bồi trắng, đeo mặt nạ Lone Ranger và giắt cặp súng lục sáu viên đút trong bao súng; tôi thấy một tay shortstop8 mười hai tuổi chơi trong giải bóng chày dành cho thiếu nhi, đang xoay mình đánh cú ăn liền hai chốt; tôi thấy một cậu bé mười sáu tuổi áo quần bảnh chọe sẵn sàng cho cuộc dạo chơi đầu tiên với bạn gái, trông thật bảnh, bộ tuxedo trắng thắt nơ đen, tóc cắt ngắn ép thẳng, giày mới đánh. Cả cuộc đời tôi dường như tràn hết xuống sông, xoáy cuộn rời bỏ tôi, tất cả những gì tôi từng là hoặc từng muốn được là. Tôi không thở được; tôi không giữ mình nổi được; tôi không biết phải bơi theo đường nào. Một ảo giác, chắc thế, nhưng nó cũng thực như bất cứ điều gì tôi từng cảm nhận. Tôi thấy ba mẹ tôi đang gọi tôi phía bờ xa. Tôi thấy anh chị tôi, toàn bộ dân thị trấn, thị trưởng và
bộ Phòng Thương mại tất cả thầy cô cũ tất cả bạn gái cũ và bạn bè hồi trung học của tôi. Như là một sự kiện thể thao kỳ khôi nào đấy: mọi người gào thét từ ngoài vòng đấu, hết mình cổ vũ tôi – thứ tiếng gầm đinh tai ở sân vận động. Bánh kẹp thịt và bắp rang – những mùi sân vận động, cái bóng sân vận động. Một đội cổ vũ làm trò nhào lộn dọc bờ Sông Mưa; họ mang loa mang những túm tua và có những bắp đùi nâu nhẵn mịn. Đám bông đu đưa từ bên này sang bên nọ. Một ban quân nhạc chơi những bài ca chiến đấu. Tất cả cô dì chú bác tôi đều ở đấy, cả Abraham Lincoln, cả Thánh George, cả một bé gái chín tuổi tên Linda đã chết vì u não từ hồi học lớp năm, cả một nhà thơ mù hí hoáy viết lên mấy mảnh giấy, cả tổng thống Johnson, cả Huck Finn, cả Abbie Hoffman, và tất cả những người lính đã chết từ dưới mồ sống dậy, cả hàng ngàn người mà rồi sau sẽ chết – dân làng với những vết bỏng ghê rợn, trẻ con không tay không chân – phải, và Bộ Tổng Tham mưu Liên quân cũng ở đó, hai ba giáo hoàng cũng ở đó, cả một thiếu úy tên Jimmy Cross, cả cựu binh cuối cùng từ thời Nội chiến Hoa Kỳ còn sống đến giờ, cả Jane Fonda ăn mặc giả làm Barbarella, rồi một ông già nằm sóng soài cạnh chuồng heo, cả ông tôi, cả Gary Cooper và một phụ nữ có khuôn mặt tử tế mang cây dù và một cuốn Cộng hòa của Plato, và một triệu công dân hung hãn vẫy những lá cờ đủ dạng đủ màu – những người đội mũ cứng, những người đầu quấn dải băng – tất cả đang gào thét đang hòa giọng hát vang và đang giục giã tôi tiến tời bờ này hoặc bờ kia. Tôi thấy những khuôn mặt từ quá khứ xa lắc vào tương lai xa lắc. Vợ tôi ở đó. Đứa con gái chưa ra đời của tôi vẫy tôi, còn hai thằng con trai tôi thì nhảy lên nhảy xuống, và một trung sĩ huấn luyện tên Blyton cười khẩy rồi chĩa một ngón tay lên trời mà lắc đầu. Có một tài xế tắc xi từ Bronx tới. Có một thanh niên mảnh dẻ mà một ngày kia tôi sẽ giết bằng một quả lựu đạn dọc theo một đường mòn đất đỏ gần làng Mỹ Khê.
Con thuyền nhỏ bằng nhôm khẽ bồng bềnh bên dưới tôi. Có gió và có bầu trời.
Tôi cố vận ý chí leo ra khỏi thuyền.
Tôi nắm lấy be thuyền rồi khom người tới và nghĩ, Rồi đây. Tôi đã thử. Chỉ là không thể được.
Tất cả những con mắt đó đang nhìn tôi – toàn thị trấn, toàn vũ trụ – nên tôi không thể liều mình để phải chịu hổ thẹn. Như thể có một đám đông khán giả quan sát cuộc đời tôi, con xoáy những khuôn mặt dọc theo dòng sông, và trong đầu tôi có thể nghe người ta đang quát tháo tôi. Đồ phản bội! họ thét. Thằng đào ngũ! Quân hèn nhát! Tôi thấy mình đỏ mặt. Điều này tôi không chịu được. Tôi không kham nổi lời đàm tiếu làm ô nhục, hay lời nhạo báng của những kẻ ái quốc. Ngay cả trong trí tưởng tượng, bờ sông cách có hai mươi mét, tôi vẫn không sao buộc được mình dũng cảm. Nó chẳng liên quan gì đến tinh thần. Xấu hổ, chỉ có thế.
Và ngay khi đó tôi buông chịu.
Tôi sẽ tham chiến – tôi sẽ giết người và có lẽ sẽ chết – bởi nếu không thế thì tôi xấu hổ.
Đó mới là điều đau buồn. Thế nên tôi ngồi nơi mũi thuyền mà khóc.
Giờ thì khóc to. Khóc to, khóc như mưa như gió.
Elroy Berdahl vẫn lặng thinh. Ông tiếp tục câu. Ông điều khiển dây bằng đầu ngón tay, kiên nhẫn, nheo mắt nhìn cái nút màu đỏ bồng bềnh trên Sông Mưa. Mắt ông bình thản và vô cảm. Ông không nói. Ông chỉ có đó, như dòng sông và mặt trời cuối hè. Thế nhưng bằng sự hiện hữu của ông, sự trông chừng câm lặng của ông, ông làm cho nó có thực. Ông là một nhân chứng như Thượng đế, hay như các vị thánh thần vẫn luôn tuyệt đối lặng thinh quan sát chúng
ta sống cuộc đời mình, quan sát chúng ta lựa chọn hoặc không thể nào lựa chọn.
“Không cắn,” ông nói.
Rồi lát sau ông già thu dây vào và xoay thuyền quay lại Minnesota.
Tôi không nhớ mình có chia tay ông hay không. Buổi tối sau cùng chúng tôi ăn với nhau, và sáng ra Elroy làm bữa sáng cho tôi. Khi tôi bảo ông già tôi sắp đi, ông gật đầu làm như đã biết rồi. Ông nhìn xuống bàn mỉm cười.
Đến một lúc nào đó trong buổi sáng có thể là chúng tôi đã bắt tay nhau – chỉ là tôi không nhớ – nhưng tôi biết chắc là đến khi tôi gói ghém đồ đạc xong thì ông già đã đi mất. Đến gần trưa, khi xách va li ra xe, tôi để ý thấy chiếc xe tải con màu đen của ông không còn đỗ trước nhà nữa. Tôi vào trong nhà đợi một lát, nhưng rồi linh cảm cho rằng ông sẽ không quay lại. Theo cách nào đó, tôi nghĩ, điều đó âu cũng thích đáng. Tôi rửa chỗ bát đĩa ăn sáng, để lại hai trăm đô của ông trên quầy bếp, chui vào xe, trực chỉ phía nam, trở về nhà.
Hôm đó nhiều mây. Tôi đi qua những thị trấn có những cái tên xa lạ, qua những rừng thông rồi xuống vùng thảo nguyên, sau đó sang Việt Nam, nơi tôi làm lính, rồi lại trở về nhà lần nữa. Tôi sống sót, nhưng đó không phải một kết thúc có hậu. Tôi đã là một thằng hèn. Tôi đã đi đến cuộc chiến tranh.
Thù
Một sáng cuối tháng Bảy, trong khi chúng tôi đang tuần tra gần bãi đáp Gator, Lee Strunk và Dave Jensen thụi nhau một trận. Duyên do là một chuyện có phần ngu xuẩn – một con dao xếp bị thất lạc – nhưng dù vậy cuộc ẩu đả thật kịch liệt. Mãi một chặp hai bên bất phân thắng bại, nhưng Dave Jensen bự con và khỏe hơn nhiều, nên rốt cuộc hắn vòng tay siết cổ Strunk, dúi đầu nó xuống, dộng vào mũi nó liên hồi kỳ trận. Hắn đánh thật dữ. Và hắn không dừng. Mũi của Strunk bật ra tiếng gãy sắc nhọn, nghe như tiếng pháo, nhưng dù có vậy thì Jensen vẫn cứ dộng nó, động hoài dộng mãi, những cú dộng lia lịa như trời giáng chẳng trật một cú nào. Phải ba thằng bọn tôi mới lôi được hắn ra. Khi mọi chuyện đã xong, người ta phải cho Strunk lên trực thăng vào hậu cứ, ở đó người ta chăm sóc cái mũi của hắn, và hai ngày sau hắn quay lại với bọn tôi, đeo nẹp kim loại và cả một đống gạc.
Giá như ở hoàn cảnh nào khác, mọi chuyện ắt hẳn đã dừng ở đó. Nhưng đây là Việt Nam, ai người ta cũng mang súng, nên Dave Jensen bắt đầu lo lắng. Chuyện ấy chủ yếu nằm trong đầu hắn. Chẳng ai dọa hắn, chẳng ai thề trả thù, chỉ là sự im lặng căng thẳng giữa hai thằng khiến cho Jensen phải đặc biệt đề phòng. Khi đi tuần tra hắn cẩn thận canh chừng xem Lee Strunk ở đâu. Hắn đào công sự cá nhân ở mãi đầu bên kia vòng rào ngoài; hắn che chắn kỹ sau lưng hắn; hắn tránh những tình huống có thể khiến cho chỉ có hai thằng ở cạnh nhau. Cuối cùng, sau khi cứ vậy được một tuần, sự căng thẳng bắt đầu sinh ra rắc rối. Jensen không sao thư giãn được. Cứ như là phải đánh hai cuộc chiến cùng một lúc, hắn nói. Chẳng có đất nào an toàn: kẻ thù ở bất cứ đâu. Chẳng có tiền tuyến hay hậu phương. Ba đêm hắn khó mà ngủ được – cứ lo ngay ngáy – lúc nào cũng cảnh giác, nghe thấy những tiếng động lạ trong bóng tối,
mường tượng ra một trái lựu đạn lăn vào công sự của hắn hay một mũi dao cọ nhồn nhột tai hắn. Sự khác biệt giữa người tốt và kẻ xấu biến mất đối với hắn. Ngay cả trong những lúc tương đối an toàn, khi tất cả chúng tôi có thể thoải mái xả hơi, Jensen vẫn cứ ngồi tựa lưng vào một bức tường đá, súng gác ngang đầu gối, quan sát Lee Strunk bằng cặp mắt lơ láo, bồn chồn. Đến cái nước, cuối cùng hắn cũng mất tự chủ. Một cái gì đó ắt phải gãy. Một chiều nọ hắn bắt đầu nã súng lên trời, thét to cái tên Strunk, vừa nã vừa thét, cứ thế không ngừng cho đến khi vãi sạch cả một băng đạn. Cả lũ chúng tôi nằm rạp xuống đất. Chả ai đủ gan lại gần hắn. Jensen bắt đầu nạp đạn, nhưng rồi hắn ngồi phịch xuống lấy tay ôm đầu không nhúc nhích. Mãi hai ba tiếng đồng hồ hắn cứ ngồi đó.
Nhưng đó chưa phải phần kỳ quái nhất.
Bởi vì khuya hôm ấy hắn mượn một khẩu súng lục, cầm chỗ nòng súng, và dùng khẩu súng như cái búa để tự đập bể mũi hắn.
Sau đó hắn băng ngang qua vòng rào đến chỗ công sự của Lee Strunk. Hắn cho thằng kia thấy hắn đã làm gì, đoạn hỏi có phải như thế là chuyện giữa hai thằng đã sòng phẳng hay không.
Strunk gật đầu nói, Chắc rồi, giờ thì sòng phẳng.
Nhưng sáng ra Strunk cười mãi không thôi. “Cái thằng điên,” hắn nói. “Là tao ăn cắp con dao khỉ gió của nó chớ ai.”
Bạn
Daven Jensen và Lee Strunk không trở thành bạn ngay tức thì, nhưng rồi tụi nó cũng học được cách tin cậy nhau. Suốt một tháng sau đó hai thằng thường cặp với nhau đi phục kích. Hai thằng yểm trợ nhau đi tuần, dùng chung công sự, thay phiên nhau gác vào ban đêm. Cuối tháng Tám, hai thằng giao ước rằng nếu một trong hai thằng bị thương đến mức tàn đời – phải ngồi xe lăn – thì thằng kia sẽ tự động tìm cách nào đó kết liễu cho xong. Theo như tôi thấy thì hai đứa khá nghiêm túc. Tụi nó ghi hẳn ra giấy, ký tên và nhờ một vài thằng làm chứng. Thế rồi vào tháng Mười, Lee Strunk giẫm lên một trái đạn cối. Trái đạn tiện đứt chân phải hắn đến nửa gối. Hắn cố sức tiến được nửa bước trông đến tức cười giống như nhảy lò cò, rồi xiên về một bên và sụm. “Ôi, mẹ nó,” hắn nói. Hắn cứ nhắc đi nhắc lại, “Mẹ nó, ôi mẹ nó,” một hồi, làm như hắn vừa va ngón chân vào một cái gì. Rồi hắn phát hoảng. Hắn ráng đứng dậy chạy, nhưng chẳng còn gì để mà chạy nữa. Hắn ngã uỳnh xuống. Mẩu chân còn lại của hắn còn đang giật giật. Có những mẩu xương, và máu phụt ra tới tấp như nước phụt ta từ vòi nước. Hắn có vẻ hoang mang. Hắn rướn tay tới làm như muốn xoa bóp cái chân đã mất, đoạn hắn ngất đi, thế rồi Chuột Kiley liền quấn ga rô cầm máu, tiêm moóc phin và truyền huyết tương cho hắn. Chẳng ai còn làm gì được nhiều ngoài chờ trực thăng tới. Sau khi chúng tôi thông báo địa điểm hạ cánh xong, Dave Jensen lại gần quỳ xuống cạnh Strunk. Mẩu chân cụt giờ thôi giật. Đã có một lúc chúng tôi không rõ liệu Strunk còn sống không, nhưng rồi hắn mở mắt nhìn lên Dave Jensen. “Ôi, lạy Chúa,” hắn nói, rồi rên, đoạn cố nhìn đi chỗ khác mà nói, “Lạy Chúa, đừng giết tao mày ơi.”
“Thư giãn đi,” Jensen nói.
Lee Strunk có vẻ hoảng và rối chí. Hắn nằm im một giây rồi ra hiệu về phía cái chân. “Thật ra không tệ quá đâu. Không ghê gớm mà. Nè, thiệt tình người ta có thể khâu lại mà, thiệt đó.”
“Đúng, tao cá người ta làm được.”
“Mày nghĩ thế hả?”
“Chắc chắn.”
Strunk cau mày nhìn trời. Hắn lại lả đi, rồi tỉnh dậy nói, “Đừng giết tao.”
“Tao không giết đâu,” Jensen nói.
“Tao nói nghiêm túc.”
“Chắc chắn.”
“Nhưng mày phải hứa kìa. Thề với tao đi, thề là mày sẽ không giết tao.”
Jensen gật đầu nói, “Tao thề,” rồi lát sau chúng tôi mang Strunk lên trực thăng quân y. Jensen vươn tay chạm vào cái chân lành. “Đi nào,” hắn nói. Sau đó chúng tôi nghe nói Strunk chết ở đâu đó phía bên kia Chu Lai, chuyện đó dường như giúp Dave Jensen cất đi một gánh nặng khổng lồ.
Làm thế nào kể một câu chuyện chân thực về chiến tranh
Chuyện này là chân thực. Tôi có một người bạn ở Việt Nam. Tên hắn là Bob Kiley, nhưng ai cũng gọi hắn là Rat tức là Chuột.
Một thằng bạn của hắn chết trận, thế nên khoảng một tuần sau hắn ngồi xuống viết lá thư gửi cho em gái thằng bạn đó. Chuột kể cô ta nghe cô ta có một ông anh tuyệt vời đến thế nào, một anh chàng mười phân vẹn mười, một người bạn và một chiến hữu số một. Một người lính chân chính hơn ai hết, Chuột nói. Rồi hắn kể vào câu chuyện làm rõ ý này, kể rằng ông anh cô ta luôn luôn tình nguyện làm những việc mà cả triệu năm nữa cũng không ai dám tình nguyện, những việc nguy hiểm, kiểu như đi đặc công hay mấy chuyến tuần tra đêm thực sự là chó chết ấy. Thiệt là gan làm bằng thép không gỉ, Chuột kể với cô thế. Anh chàng hơi điên tí, thì đúng, nhưng điên theo lối tốt, một tay liều mạng thứ thiệt, bởi anh ta thích sự thách thức, anh ta thích thử chính mình, một con người đúng nghĩa đối mặt với thằng mặt bủng. Một anh chàng tuyệt, tuyệt ơi là tuyệt, Chuột nói.
Dù thế nào, đấy là một bức thư hay, rất riêng tư và cảm động. Chuột hầu như khóc hu hu khi viết. Hắn nước mắt lưng tròng khi kể về những lúc tươi đẹp hai thằng bầu bạn có nhau, ông anh cô ta làm cho cuộc chiến trở nên hầu như thú vị, luôn luôn nâng địa ngục lên và thắp sáng những ngôi làng và khó khăn kiểu gì cũng vượt qua ngon như ăn kẹo. Lại còn rất có khiếu hài hước nữa chớ. Như cái lần ở chỗ con sông khi hắn đi câu cá bằng cả một rổ toàn lựu đạn. Có lẽ là chuyện tức cười nhất trong lịch sử thế giới, Chuột nói, bao nhiêu là máu với me, ôi thôi cơ man nào là cá chết đếm làm sao cho xuể kể làm sao cho xiết. Anh trai cô, anh ấy lúc nào cũng biết thế nào là phải. Anh ấy biết làm thế nào để luôn vui vẻ ung dung. Dịp
Halloween, cái đêm thiệt là khoái tỉ mà cũng thiệt kinh hồn, anh chàng bôi toàn thân đủ thứ màu và đeo cái mặt nạ ghê thấy mụ nội rồi lội bộ đến một ngôi làng để chơi trò cho-gì-đi-không-thì-phá trong khi toàn thân hầu như trụi lủi, có độc cặp bốt với hai cái quả toòng teng và một cây em mờ mười sáu. Một con người siêu quần bạt chúng, Chuột nói. Thi thoảng cũng hơi chậm tí, nhưng ta có thể phó thác cho anh trọn cuộc đời mình.
Thế rồi thư đâm ra rất buồn và nghiêm trang. Chuột dốc hết tâm can. Hắn nói hắn yêu quý anh chàng đó. Hắn nói anh ta là bạn thân nhất của hắn trên đời. Họ như đôi bạn tri kỷ, hắn nói, anh em sinh đôi gì đó, họ có rất nhiều thứ chung. Hắn bảo cô em anh ta rằng hắn sẽ trông nom cô chừng nào hết chiến tranh.
Rồi chuyện gì xảy ra ?
Chuột gửi thư đi. Hắn chờ hai tháng. Con mặt lồn ngu đéo bao giờ trả lời.
Một câu chuyện chân thực về chiến tranh chẳng bao giờ dạy đời. Nó không hướng dẫn, không xiển dương đức hạnh, không đưa ra những mẫu mực hay hành vi đúng đắn của con người, không kiềm chế con người đừng làm những việc con người vẫn luôn làm. Nếu một câu chuyện trông có mòi dạy đời, đừng tin nó. Nếu đến cuối câu chuyện về chiến tranh mà bạn cảm thấy tinh thần mình thăng hoa, hay nếu bạn cảm thấy có một chút gì công chính được cứu vãn khỏi sự tàn hại lớn, ấy là bạn đã bị biến thành nạn nhân của một sự dối trá khủng khiếp và cũ rích. Chẳng cái gì là công chính hết. Làm gì có đức hạnh. Vì vậy, quy tắc đầu tiên là: bạn chỉ có thể kể một câu chuyện chân thực về chiến tranh bằng cách trung thành tuyệt đối với cái ác và với sự tục tằn. Nghe Chuột Kiley mà xem. Con mặt lồn, hắn nói. Hắn không nói con đĩ chó. Hắn chắc chắn không nói bà ấy, hay cô ấy. Hắn nói con mặt lồn. Đoạn hắn nhổ nước miếng và nhìn chăm
chăm. Hắn mười chín tuổi – thế là quá nhiều với hắn – cho nên hắn nhìn bạn bằng cặp mắt to buồn hiền lành của kẻ sát nhân mà nói con mặt lồn, bởi vì bạn hắn chết, và bởi chuyện ấy vừa buồn vừa thật đến không tin được: con nhỏ đéo bao giờ trả lời.
Bạn có thể kể một chuyện chân thực về chiến tranh nếu nó làm bạn lúng túng. Nếu bạn không cần sự tục tằn, bạn không cần sự thực; nếu bạn không cần sự thực, hãy dè chừng xem bạn đang bỏ phiếu cho ai. Cứ cho đám thanh niên đi đánh nhau, khỉ trờ về tụi nó toàn ăn nói tục tằn.
Nghe Chuột đi: “Lạy Chúa tôi, tao viết cái lá thư hay ho chết mẹ này, tao cày cục viết, thế rồi chuyện ra sao? Con mặt lồn ngu đéo bao giờ trả lời.”
Tên cái thằng đã chết là Curt Lemon. Chuyện xảy ra là, chúng tôi băng qua một con sông ngầu bùn rồi hành quân về phía núi, và đến ngày thứ ba chúng tôi nghỉ chân dọc ngả ba đường mòn trong rừng sâu. Ngay khi đó, Lemon và Chuột Kiley bắt đầu chơi đùa. Tụi nó không biết sợ là gì. Tụi nó là con nít; chỉ là tụi nó không biết. Một cuộc dã ngoại đi vào chốn thiên nhiên, tụi nó nghĩ vậy, thậm chí chả phải chiến tranh, thành thử tụi nó đi vào dưới bóng râm của vài cái cây khổng lồ – bốn tầng tán lá, hoàn toàn không có ánh mặt trời – thế rồi tụi nó cười khúc khích gọi nhau là đồ gà chết và chơi một trò ngốc nghếch tụi nó tự chế ra. Trò này phải dùng lựu đạn khói, vốn là thứ vô hại trừ phi ta làm những chuyện ngu xuẩn, và tụi nó làm thế này: rút chốt rồi đứng cách nhau chừng hơn năm mét và đuổi bắt nhau dưới bóng mấy cái cây khổng lồ đó. Thằng nào sợ mà chạy thì thằng đó là gà chết. Và nếu chả có thằng nào sợ mà chạy thì lựu đạn nổ bụp một cái và cả hai thằng sẽ bị khói bao quanh mù mịt và hai đứa sẽ cười ha hả nhảy múa vòng quanh rồi lại làm lần nữa.
Chính xác như thế.
Chuyện xảy ra, đối với tôi, đã gần hai mươi năm trước, thế nhưng tôi vẫn còn nhớ chỗ ngả ba đường mòn ấy, những cái cây khổng lồ ấy và tiếng nước nhỏ giọt khe khẽ đâu đó phía sau mấy cái cây. Tôi nhớ mùi rêu. Trên tán lá có những bông hoa nhỏ xíu màu trắng, nhưng hoàn toàn không có ánh mặt trời, và tôi nhớ có những bóng râm tỏa xuống dưới gốc cây nơi Curt Lemon và Chuột Kiley chơi trò hù nhau bằng lựu đạn khói. Mitchell Sanders đang chơi thả yo-yo. Norman Bowker và Kiowa Và Dave Jensen đang ngủ gà ngủ gật hoặc nửa thức nửa gà gật, và bốn phía quanh chúng tôi toàn những ngọn núi lởm chởm màu xanh.
Ngoài tiếng cười như nắc nẻ ra thì mọi thứ tĩnh lặng.
Đến một lúc, tôi nhớ là Mitchell Sanders quay lại nhìn tôi, không hẳn là gật đầu, làm như cảnh báo cho tôi về điều gì đó, làm như hắn đã biết, thế rồi lát sau hắn cuộn cái yo yo lại bỏ đi.
Khó mà kể cho bạn biết chuyện gì xảy ra kế đó.
Tụi nó chỉ đang đùa nghịch. Có một tiếng động, chắc vậy, ắt là tiếng ngòi nổ, thế là tôi liếc ra sau thì thấy Curt Lemon đang từ trong bóng râm bước ra ngoài nắng. Khuôn mặt hắn bỗng dưng có màu nâu và ngời sáng. Một thằng nhóc bô trai, thực vậy. Cặp mắt xám sắc sảo, người mảnh dẻ, eo thon, và khi hắn chết thì chuyện ấy gần như là đẹp, khi ánh nắng tràn tới quanh hắn nâng hắn lên rồi hút hắn vào một cội cây đầy rêu đầy dây leo đầy hoa trắng.
Trong bất cứ câu chuyện nào về chiến tranh, nhưng đặc biệt là một chuyện chân thực, khó mà tách bạch được điều đã xảy ra với điều dường như đã xảy ra. Cái dường như đã xảy ra đến trước khi nó xảy ra và cần được kể lại theo cách đó. Góc độ nhìn bị lệch lạc. Khi một quả mìn nổ, ta nhắm mắt rồi hụp xuống và bản thân ta dạt ra ngoài. Khi một gã chết, như Curt Lemon, ta ngoảnh đi rồi nhìn lại một thoáng rồi lại ngoảnh đi. Nhưng bức tranh bị xáo trộn; ta có xu
hướng bỏ sót nhiều thứ. Rồi sau đó, khi ta đi kể lại chuyện ấy, luôn luôn có cái sự dường như đầy siêu thực ấy, nó làm cho câu chuyện có vẻ như không thực, nhưng trên thực tế lại tiêu biểu cho cái sự thực nghiệt ngã và chân xác như nó vốn dường như thế.
Trong nhiều trường hợp một câu chuyện chân thực về chiến tranh không thể tin được. Nếu bạn tin nó, hãy hoài nghi. Đây là chuyện khả tín. Thường thì phần điên rồ nhất là thực còn phần bình thường là không thực, bởi cái phần bình thường cần phải có đấy để làm cho bạn tin cái sự điên rồ quả tình là không thể tin kia.
Trong những trường hợp khác, bạn thậm chí không thể kể một câu chuyện chân thực về chiến tranh. Đôi khi nó nằm ngoài khả năng kể lại.
Chẳng hạn, tôi nghe được chuyện này, từ Mitchell Sanders. Lúc ấy mặt trời sắp lặn, chúng tôi đang ngồi trong công sự của tôi dọc theo bờ con sông rộng đầy bùn phía Bắc Quảng Ngãi. Tôi nhớ hoàng hôn thật yên bình làm sao. Một màu hồng hồng sâu thẳm đổ tràn trên sông, dòng sông thì chảy êm không tiếng, đến sáng chúng tôi sẽ băng qua sông và hành quân về phía Tây đến vùng núi. Dịp này thật hợp cho một câu chuyện hay.
“Chuyện thiệt, thề có Chúa Trời,” Mitchell Sanders nói. “Một đội tuần tra sáu người đi lên núi để thi hành một chiến dịch nghe lén thông thường. Mục đích là phục một tuần ở đó, chỉ nằm yên nghe ngóng động tĩnh của đối phương. Họ có mang theo đài phát, để nếu nghe được cái gì khả nghi – bất cứ cái gì – thì phải gọi pháo hoặc máy bay chiến đấu tới ngay, dù xa mấy đi chăng nữa. Ngoài ra thì phải giữ nghiêm kỷ luật chiến trường. Tuyệt đối im lặng. Chỉ nghe thôi.”
Sanders liếc tôi để xem có chắc là tôi hiểu bối cảnh không. Hắn đang nghịch cái yo-yo của hắn, cho nó múa bằng những cú giật nhỏ,
ngắn và gắt của cổ tay.
Mặt hắn vô cảm trong ánh chiều.
“Đây là nghe lén đúng quy định, răm rắp theo sách vở hẳn hoi. Sáu thằng đó, tụi nó không hé răng suốt đúng một tuần. Không cựa lưỡi. Dỏng hết tai lên.”
“Đúng,” tôi nói.
“Hiểu tao chớ?”
“Vô hình.”
Sanders gật.
“Đúng quá,” hắn nói. “Vô hình. Vậy nên mấy cái thằng này trốn sâu trong bụi rậm, ngụy trang từ đầu tới chân, rồi tụi nó nằm xuống đợi và chỉ làm độc có vậy thôi, chả làm gì khác, tụi nó nằm đó trọn bảy ngày, chỉ nghe thôi. Mà này, tao bảo mày, rợn lắm đó. Núi kia mà. Mày không biết rợn là thế nào đâu chừng nào mày chưa ở đấy. Ừ thì rừng rậm, chỉ có điều tít ở giữa mây và luôn luôn có sương mù dày đặc – cứ như là mưa, chỉ có điều trời không mưa – cái gì cũng ướt át cũng trơn tuột cũng rối nùi và mày đếch thấy gì, thậm chí đi tè mày cũng đếch thấy cái củ của mình để mà tè. Làm như mày không có cả cơ thể ấy. Rợn thiệt chứ chả chơi. Mày đi cùng với sương với khói – sương mù kiểu như cuốn mày vào… Rồi lại còn âm thanh nữa. Âm thanh vang vang không ngừng. Mày nghe được những thứ mà đáng lẽ đừng một ai nghe mới phải.”
Sanders im một chút, chỉ nghịch nghịch cái yo-yo, đoạn hắn mỉm cười với tôi.
“Vậy là sau khoảng hai ba ngày mấy thằng này bắt đầu nghe thấy thứ nhạc thiệt là êm dịu, nghe lạ hoắc lạ huơ. Nhưng tiếng vọng kỳ quái rồi lại còn gì ấy nữa. Như là ra-đi-ô hay gì đấy, nhưng không phải ra-đi-ô, mà là thứ nhạc kỳ quái của tụi vàng vọng ra từ ngay trong đá. Lúc thì nghe như xa lắm, nhưng mà lại cũng ngay gần. Tụi
nó ráng lờ đi. Nhưng tụi nó đang phục ở đây để nghe mọi thứ, phải không? Thành thử tụi nó nghe. Và đêm nào tụi nó cũng nghe cái cuộc hòa nhạc khỉ gió đó của tụi vàng. Đủ thứ chuông ngân với lại đàn hơi. Mày tính, đây là chốn thâm sơn cùng cốc – không thể nào, chuyện này làm sao mà là thực được – nhưng mà nó đấy, cứ như núi non đã được chỉnh sang kênh Ra-đi-ô Hà Nội chó chết ấy. Lẽ tự nhiên tụi nó như ngồi trên đống lửa. Một thằng tự nhét kẹo trái cây vô tai. Thằng khác thiếu tí nữa là điên. Thế nhưng, tụi nó đâu thể báo cáo về là có tiếng nhạc, vấn đề là thế. Tụi nó đâu thể đeo tai nghe vô gọi về căn cứ mà nói, ‘Ê, nghe nè, tụi này cần tí hỏa lực, tụi này phải bùm cho tan xác cái ban nhạc rốc da vàng khốn kiếp này.’ Tụi nó không làm vậy được. Ai mà nghe được. Cho nên tụi nó nằm đó trong sương mù và ngậm miệng. Rồi lại còn tệ hơn nữa là, coi đó, mấy thằng ôn tội nghiệp này không thể dung dăng dung dẻ như thường được. Không thể đùa cho qua được. Thậm chí không thể nói chuyện với nhau ngoại trừ thì thì thào thào, mà chuyện đó chỉ càng làm cho chim tụi nó thêm nhúc nhích. Chúng chỉ làm mỗi việc là nghe.”
Một lần nữa lại im lặng trong khi Mitchell Sanders nhìn ra con sông. Bóng tối giờ đang kéo đến dày, về phía Tây tôi thấy dựng lên đường viền của núi, mọi điều huyền bí và xa lạ.
“Phần kế mày không tin được đâu,” Sanders nhỏ nhẹ nói. “Chắc là không,” tôi nói.
“Mày không tin đâu. Mà mày biết tại sao không?” Hắn cười với tôi một nụ cười dài, mệt mỏi. “Bởi vì nó đã xảy ra. Bởi vì mỗi một chữ nói ra đều tuyệt đối đúng trăm phần trăm sự thực.”
Sanders làm một âm thanh trong họng, nghe như thở dài, tựa hồ hắn không quan tâm liệu tôi có tin hắn hay không. Nhưng hắn có quan tâm. Hắn muốn tôi cảm nhận được sự thật, tin bằng cái sức mạnh nguyên sơ của cảm xúc. Theo cách nào đó, hắn có vẻ buồn.
“Sáu thằng đó,” hắn nói, “tụi nó giờ đã teo cu lắm rồi, thế mà đêm kia tụi nó bắt đầu nghe thấy những giọng nói. Như là ở bữa tiệc cốc tai ấy. Nghe giống vậy đó, cái tiệc cốc tai linh đình này của tụi vàng ở đâu đó trong sương mù. Nhạc nhẽo rồi tán gẫu rồi lại còn những gì gì nữa. Tụi nó nghe rõ mấy cái ly chuyên dùng uống mác ti ni. Rất chi trịnh trọng, rất chi lịch lãm văn minh, chỉ có điều đây đếch phải văn minh gì ráo. Đây là Việt Nam.
“Dù sao, mấy thằng này vẫn ráng giữ bình tĩnh. Tụi nó cứ nằm đó thưởng thức, nhưng sau một hồi tụi nó bắt đầu nghe thấy – mày không tin được đâu – tụi nó nghe tiếng nhạc thính phòng. Tụi nó nghe thấy tiếng đàn vi ô lông với xen lô. Tụi nó nghe thấy giọng nữ cao rất chi là tuyệt của một mụ Việt nam. Rồi lát sau tụi nó nghe thấy một vở ô-pê-ra của tụi vàng rồi một nhóm đồng ca rồi thì Hợp ca Thiếu nhi Hải Phòng rồi một ban hát a ca gì đó rồi đủ thứ ca với hát thiệt là quái gở rồi thì cả Phật này Bụt nọ. Và suốt ngần ấy thời gian, nơi hậu cảnh, vẫn cứ là cái tiệc cốc tai ấy. Những giọng nói khác nhau ấy. Có điều không phải giọng người, bởi đó là núi. Theo kịp tao chứ? Đá – nó đang nói chuyện. Mà cả sương mù nữa, rồi cả cỏ và cả mấy con cầy man-gút trời đánh nữa. Cái gì cũng nói chuyện. Cây cối nói chuyện chính trị, tụi khỉ nói về tôn giáo. Cả cái xứ này. Việt Nam. Chốn này nó lên tiếng nói. Hiểu không? Việt Nam – nó nói.
“Mấy thằng này không kham nổi. Tụi nó thua. Tụi nó bật ra-đi-ô lên báo cáo về động thái của địch – cả một đạo quân, tụi nó nói – và tụi nó yêu cầu hỏa lực. Tụi nó gọi cao xạ và trực thăng chở quân. Tụi nó gọi pháo kích. Và tao nói với mày, tụi nó nghiền nát cái tiệc cốc tai đéo mẹ đó. Suốt cả đêm tụi nó hun khói mấy trái núi. Tụi nó nghiền rừng ra thành nước quả. Tụi nó cho nổ tung cây cối cho nổ nhóm đồng ca và bất cứ cái gì có đấy để mà cho nổ. Đốt sạch. Tụi nó rải na pan tới rồi lui mấy cái rặng núi. Tụi nó cho biệt kích cho F-4
tới, tụi nó dùng đạn phốt pho dùng chất nổ mạnh dùng bom cháy. Toàn là lửa. Tụi nó cho mấy ngọn núi cháy thành tro.
“Cho đến quãng bình minh thì mọi thứ rốt cuộc trở nên yên tĩnh. Cứ như mày chưa bao giờ nghe thấy yên tĩnh bao giờ ấy. Một trong những cái ngày thật sự dày, thật sự mù mịt – toàn mây với sương, tụi nó lại đang ở cái vùng đặc biệt này – và núi non tuyệt đối im lìm. Như Brigadoon9ấy – toàn hơi nước, mày hiểu không? Cái gì cũng bị hút vào trong sương mù hết. Tĩnh không tiếng động, ngoại trừ tụi nó vẫn nghe thấy nó.
“Thế là tụi nó gói ghém ba lô rồi đi. Tụi nó tiến về phía núi, quay về căn cứ, và khi tới nơi tụi nó đếch nói năng gì. Tụi nó không nói chuyện. Không một lời, cứ như tụi nó câm điếc rồi ấy. Sau đó thằng cha đại tá phì lủ mới đến hỏi cái quái gì xảy ra ở đó vậy hả. Tụi nó nghe thấy gì? Sao phải cần tới bấy nhiêu đạn dược? Thằng cha nổi khùng, khăng khăng làm cho ra lẽ. Chớ sao nữa, họ tiêu hết sáu ngàn tỉ đô cho súng đạn, thế nên thằng đại tá đít bự này cần câu trả lời, thằng chả muốn biết thật ra cái chuyện đéo mẹ này là sao.
“Nhưng mấy thằng này, tụi nó nín khe. Tụi nó chỉ nhìn thằng chả một hồi, phần như hơi tức cười, phần như kinh ngạc, và toàn bộ cuộc chiến tranh nằm ngay trong cái nhìn ấy. Nó nói tất cả những gì mày chả bao giờ nói được. Nó nói là, nè ông bạn, tai ông bị nút sáp rồi. Nó nói là, thằng chó chết tội nghiệp ơi, mày chả bao giờ biết được đâu – sai tần số – mà thậm chí mày sẽ chả bao giờ muốn nghe cái đó đâu. Đoạn tụi nó đứng nghiêm chào thằng chả rồi bỏ đi, bởi vì có một số chuyện mày chả bao giờ kể.”
Bạn có thể kể một câu chuyện chân thực về chiến tranh theo cái lối nó chẳng bao giờ có vẻ kết thúc. Khi đó, không, và vĩnh viễn chẳng bao giờ. Không kết thúc khi Mitchell Sanders đứng dậy bỏ đi vào trong bóng tối.
Tất cả vẫn đang diễn ra.
Ngay cả bây giờ, tại khoảnh khắc này, tôi nhớ cái yo-yo đó. Theo nghĩa nào đó, hẳn vậy, bạn phải có mặt ở đấy, bạn phải nghe nó, nhưng tôi có thể hiểu Sanders tha thiết muốn tôi tin hắn đến thế nào, nỗi thất vọng của hắn khi không thể truyền đạt chân xác các chi tiết, không thể vạch được rõ ràng cái sự thực tối hậu và chung quyết.
Và tôi nhớ mình đã ngồi trong công sự suốt đêm ấy, nhìn những bóng đen của Quảng Ngãi, nghĩ về ngày mai sẽ đến, về chuyện chúng tôi sẽ qua sông và hành quân về phía Tây đến những ngọn núi kia, về tất cả những cách có thể khiến cho tôi chết, tất cả những gì tôi không hiểu.
Khuya hôm đó Mitchell Sanders chạm tay vào vai tôi. “Tao mới nghĩ ra,” hắn thì thầm. “Ý tao là vấn đề tinh thần. Chả ai để tai nghe. Chả ai nghe thấy cái gì. Như cái thằng đại tá đít bự đó. Đám chính trị gia, hết thảy cái đám dân sự. Con bạn gái mày. Bạn gái tao. Con bạn gái nhỏ xinh ngọt ngào trinh trắng của bất cứ thằng nào. Cái tụi nó cần là đi làm một chuyến rình nghe lén. Hơi nước, mày ạ. Cây và đá – mày cần phải lắng nghe kẻ thù của mày.”
Thế rồi, đến sáng, Sanders lại tới chỗ tôi lần nữa. Trong đội đang chuẩn bị lên đường, kiểm tra vũ khí, tiến hành tất cả những nghi thức nhỏ nhặt trước một cuộc hành quân quan trọng này. Nhóm dẫn đầu đã băng qua sông và đang dàn ra tiến về phía Tây.
“Tao có cái này cần tự thú,” Sanders nói. “Đêm qua tao đã phải bịa ra vài thứ mày ạ.”
“Tao biết.”
“Nhóm đồng ca. Chả có nhóm đồng ca nào hết.”
“Phải.”
“Không có ô-pê-ra.”
“Quên đi, tao hiểu mà.”
“Ừ, nhưng mà nghe này, nó vẫn cứ thực. Sáu thằng đó, tụi nó nghe thấy âm thanh ma quái ở đó. Tụi nó nghe thấy thứ âm thanh mày chẳng bao giờ tin nổi.”
Sanders xốc lại ba lô, nhắm mắt một chút, đoạn gần như mỉm cười với tôi. Tôi biết điều gì sắp xảy ra.
“Được rồi,” tôi nói, “thế thì bài học là gì?”
“Quên đi.”
“Không, nói đi.”
Hắm im một hồi lâu, nhìn đi chỗ khác, rồi im lặng cứ kéo dài cho đến khi hầu như chúng tôi lúng túng. Rồi hắn nhún vai và nhìn tôi bằng cái nhìn chằm chằm kéo dài đến cả một ngày.
“Nghe thấy tĩnh lặng không, mày?” hắn nói. “Tĩnh lặng đến thế – chỉ lắng tai nghe thôi. Bài học của mày đó.”
Trong một câu chuyện chân thực về chiến tranh, nếu như có một bài học nào đấy, thì đó là: nó giống như sợi dệt nên tấm vải. Bạn không thể xé nó ra. Bạn không thể rút ra ý nghĩa mà không tháo mở ý nghĩa sâu hơn. Và cuối cùng, kỳ thực, chẳng có gì nhiều để nói về một câu chuyện chân thực về chiến tranh, có chăng là ngoại trừ “Ồ”.
Chuyện chân thực về chiến tranh không khái quát. Chúng không dung sự trìu tượng hay phân tích.
Chẳng hạn: chiến tranh là địa ngục. Như một tuyên ngôn có tính tinh thần, chủ nghĩa vị tha xưa cũ có vẻ như hoàn toàn chân thực, thế nhưng bởi nó trừu tượng hóa, bởi nó khái quát hóa, cho nên tôi không thể tin nó bằng bụng dạ tôi. Chẳng có gì quặn lên trong đó.
Nó phải chạm đến bản năng trong cật ruột. Một chuyện chiến tranh chân thực, nếu kể một cách chân thực, sẽ làm cho cật ruột tin.
Chuyện này làm được điều đó với tôi. Trước đây tôi đã kể chuyện này rồi – nhiều lần, nhiều dị bản – nhưng đây mới là những gì thực sự xảy ra.
Chúng tôi băng qua sông và hành quân về phía Tây vào trong núi. Vào ngày thứ ba, Curt Lemon giẫm lên một quả mìn 105 ly. Hắn đang chơi đuổi bắt với Chuột Kiley, cười ha hả, thế rồi hắn chết. Cây cối rậm dày, phải mất gần một giờ mới phát quang được một bãi đáp cho trực thăng.
Sau đó, khi lên cao hơn trên núi, chúng tôi bắt gặp một con nghé của Việt Cộng. Nó đang làm gì ở đó thì tôi không biết – chẳng có nông trại hay đồng lúa gì ráo – nhưng chúng tôi đuổi bắt nó rồi tròng dây thừng mà dắt nó theo đến một ngôi làng vắng ngắt ở đó chúng tôi dừng chân nghỉ qua đêm. Sau khi ăn tối Chuột Kiley lại gần vuốt mũi con nghé.
Hắn mở một lon khẩu phần C, thịt heo với đậu, nhưng con nghé không quan tâm.
Chuột nhún vai.
Hắn lùi lại rồi bắn xuyên qua đầu gối chân trước bên phải của con nghé. Con vật không kêu một tiếng. Nó ngã ụp xuống, rồi lại đứng dậy, và Chuột nhắm kĩ rồi bắn bay một bên tai. Hắn bắn vào cẳng sau nó và vào cái bướu nhỏ trên lưng nó. Hắn bắn hai lần vào hai bên sườn nó. Không phải bắn để giết; mà bắn để làm đau đớn. Hắn kề họng súng vào mõm và bắn bay cái mõm. Chẳng ai nói gì nhiều. Toàn trung đội đứng đó nhìn, cảm thấy đủ mọi thứ, nhưng chẳng có mấy lòng thương hại dành cho con nghé. Curt Lemon đã chết. Chuột Kiley đã mất thằng bạn tốt nhất của nó trên đời. Về sau, trong tuần lễ ấy, hắn sẽ viết một bức thư riêng dài gửi cho em của thằng bạn, con bé rồi sẽ không trả lời, nhưng lúc này thì vấn đề là nỗi đau đớn. Hắn bắn bay cái đuôi. Hắn bắn bay từng mảng thịt dưới xương sườn. Quanh chúng tôi toàn mùi khói bùn mùi cây rừng rậm rạp,
chiều hôm đó rất ẩm rất nóng. Chuột chuyển sang chế độ bắn liên thanh. Hắn bắn lung tung, hầu như bạ đâu bắn đấy, bòm bòm lia lịa vào bụng và mông. Rồi hắn nạp lại đạn, ngồi xổm xuống, bắn vào đầu gối trước bên trái nó. Con vật lại ngã uỵch rồi gắng gượng dậy, nhưng lần này nó không dậy nổi. Nó loạng choạng rồi đổ vật xuống, nghiêng qua một bên. Chuột bắn vào mũi nó. Hắn khom tới thì thầm gì đó, như đang nói với con thú cưng nuôi ở nhà, rồi hắn bắn vào cổ họng nó. Suốt thời gian ấy con nghé im lặng, hoặc hầu như im lặng, chỉ có một âm thanh lục bục nhỏ nơi từng là cái mũi. Nó nằm rất im. Chẳng có gì cục cựa trừ cặp mắt, rất to, hai con ngươi đen láy và ngốc nghếch.
Chuột Kiley khóc. Hắn cố nói gì đó, nhưng rồi hắn đặt súng vào chỗ cũ đoạn bỏ đi một mình.
Đám còn lại chúng tôi đứng thành một vòng tròn nham nhở quanh con nghé. Hồi lâu không ai nói năng. Chúng tôi vừa chứng kiến một cái gì đó cốt tử. Cái gì đó hoàn toàn mới và sâu thẳm, một mẩu của thế giới gây điếng người đến mức hãy còn chưa có tên cho nó.
Ai đó đá vào con nghé.
Nó vẫn còn sống, dù chỉ thoi thóp, chỉ trong cặp mắt.
“Kỳ thú,” Dave Jensen nói. “Cả đời tao chưa bao giờ thấy cái gì như vầy.”
“Chưa bao giờ?”
“Chưa bao giờ. Chưa một lần.”
Kiowa và Mitchell Sanders khênh con nghé dậy. Họ lôi nó qua khoảnh đất giữa làng, nhấc cao nó lên, thả nó xuống cái giếng làng.
Sau đó, chúng tôi ngồi đợi Chuột bình tâm lại.
“Kỳ thú,” Dave Jensen cứ nói mãi. “Vụ mới này quá hay. Xưa nay chưa bao giờ thấy.”
Mitchell Sanders lôi cái yo-yo ra. “Hà, đây là Việt Nam,” hắn nói. “Vườn Ác. Ở đây, mỗi tội ác đều sống sít và chưa hề có.”
Bạn làm thế nào để khái quát hóa?
Chiến tranh là địa ngục, nhưng chừng đó chưa bằng một nửa sự thực, bởi chiến tranh cũng còn là bí ẩn là kinh khủng là mạo hiểm là can đảm là khám phá là thiêng liêng là thương xót là tuyệt vọng là mong mỏi là tình yêu. Chiến tranh thật hào hứng; chiến tranh thật chán ngắt. Chiến tranh làm cho ta thành người; chiến tranh làm cho ta chết.
Các sự thực thường mâu thuẫn nhau. Chẳng hạn, có thể tranh cãi rằng chiến tranh là ghê tởm. Nhưng trên thực tế chiến tranh cũng là cái đẹp. Dù có rùng rợn đến đâu, ta không thể không há hốc mồm sững sờ trước sự hùng vĩ đáng sợ của chiến trận. Ta tròn mắt nhìn những quả pháo chỉ đường vút qua bóng tối vẽ thành những dải băng đỏ sáng ngời. Đi phục kích ta chui rúc như một vầng trăng lạnh, hờ hững trồi lên trên những cánh đồng giữa đêm thâu. Ta ngưỡng mộ sự cân đối mềm dẻo của các đạo quân khi chuyển động, sự hài hòa của âm thanh của hình dáng của tỷ lệ, những dòng đạn lửa đồ sộ tuôn ra từ dưới máy bay chiến đấu, những quả pháo sáng, lửa phốt pho trắng, màu cam tía của na pan, ánh lóe đỏ của tên lửa. Nó không xinh xẻo đáng yêu, chắc chắn rồi. Nó gây choáng. Nó làm no con mắt. Nó mạnh hơn ta. Ta ghét nó, nhưng mắt ta thì không. Như một đám cháy rừng chết chó, như bệnh ung thư dưới kính hiển vi, bất kỳ trận đánh nào trận ném bom nào cuộc giội pháo nào cũng có vẻ đẹp thẩm mỹ thuần khiết của sự vô phân biệt tuyệt đối về đạo đức – một cái đẹp hùng mạnh, tàn nhẫn – và một câu chuyện chân thực về chiến tranh thì sẽ kể sự thực về điều này, mặc dù sự thực thì xấu xí.
Khái quát hóa về chiến tranh thì cũng như khái quát hóa về hòa bình. Hầu như mọi thứ đều thực. Hầu như chẳng có gì là thực. Có lẽ, trong cốt lõi, chiến tranh chẳng qua là một cái tên khác của cái chết, thế nhưng mỗi người lính đều sẽ nói với bạn, nếu họ nói thực, rằng tiến gần đến cái chết thì cũng đi kèm với một sự tiến gần tương ứng đến sự sống. Sau một trận đọ súng, luôn luôn có cái niềm vui lớn lao về sự sống. Cây cối đang sống. Cỏ, đất – tất thảy. Vạn vật quanh ta thuần túy là đang sống, và ta ở giữa lòng chúng, và việc ta đang sống khiến ta run rẩy. Ta cảm thấy một nhận thức sâu xa, vượt ngoài da thịt rằng ta là một cái tôi đang sống – cái tôi thực nhất của ta, cái con người ta muốn là và rồi trở thành chỉ nhờ sức mạnh của niềm mong muốn đó. Trong lòng sự ác ta muốn trở thành người tốt. Ta muốn có phẩm giá. Ta muốn công lý muốn sự lịch lãm muốn sự hài hòa giữa những con người, những thứ ta chưa bao giờ biết là mình muốn. Ở nó có một sự kiểu như là lớn lao, kiểu như là thiêng liêng. Dù kỳ quặc, nhưng ta chưa bao giờ sống nhiều hơn khi ta hầu như chết. Ta nhận ra cái gì là có giá trị. Một cách mới mẻ, như thể lần đầu tiên, ta yêu những gì tốt đẹp nhất trong ta và trên thế giới, tất cả những gì có thể mất. Lúc hoàng hôn ta ngồi trong công sự nhìn ra dòng sông rộng đang trở màu hồng đỏ, những ngọn núi bên kia sông, và mặc dù sáng ra ta sẽ phải qua sông để tiến vào trong núi đặng làm những chuyện kinh khủng và có thể chết, dù có vậy, ta vẫn nhận ra mình đang chiêm ngắm những màu sắc tinh tế trên dòng sông, ta thấy trầm trồ kính sợ trước cảnh mặt trời đang lặn, và lòng ta tràn đầy tình yêu khắc khoải, đau đớn trước chuyện thế giới lẽ ra có thể ra sao và luôn luôn nên ra sao, song hiện tại thì không.
Mitchell Sanders nói đúng. Đối với người lính bình thường, ít nhất, chiến tranh cho ta cái cảm giác – kiểu như chất thể tinh thần của nó – giống như một làn sương mù vĩ đại ma quái, dày đặc và trường cửu. Không có chút gì sáng sủa. Mọi thứ xoay tít. Những quy tắc cũ không còn áp dụng được, những chân lý cũ không còn đúng
"""