"
Những Thiên Thần Mất Tích PDF EPUB
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Những Thiên Thần Mất Tích PDF EPUB
Ebooks
Nhóm Zalo
NHỮNG THIÊN THẦN MẤT TÍCH –❊ ❖ ❊–
Tác giả: Karin Slaughter
Dịch thu ị ật: Đoàn Lê Hoa
Nhà xuất bản: Trẻ
ebook©vctvegroup
i.
K
hi con vừa mất tích, í mẹ đã cảnh báo cha rằng, biết được chíní h xác chuyện gì xảy đến với con thì còn đau lòng hơn không bao giờ biết. Cha mẹ cãi nhau liên miên vì chuyện này. Lúc ấy, cãi vã lại thành cái cớ duy nhất giữ mẹ ở lại bên cha.
Mẹ con răn: “Biết rõ ngọn ngành chẳng giúp chúng ta thanh thản hơn đâu. Sự thật sẽ khiến anh tan nát.”
Nhưng cha là một nhà khoa học. Nhà khoa học phải biết được sự thật. Dù không muốn, thì trong đầu cha chưa bao giờ ngừng đặt giả thuyết: Bắt cóc? Cưỡng hiếp? Phá trinh?
Nổi loạn.
Đó là giả thuyết tay cảnh sát trưởng đặt ra. Hoặc, ít í nhất hắn dùng lý do này để lấp liếm việc không tìm ì ra sự thật. Cha mẹ từng mừng thầm khi có cô con gái bướng bỉnh ỉ biết sống hết mình ì vì lý tưởng. Nhưng lúc mất con rồi, chúng ta mới ngộ ra, nếu cá tính í khiến con trai có vẻ thông minh và giàu hoài bão hơn, thì con g ì ái cá tính l í ại bị coi l ị à khó bảo.
“Con gái bỏ nhà đi hoài ấy mà.” Tay cảnh sát trưởng nhún vai như thể con cũng như bao đứa con gái khác. Như thể sau một tuần, một tháng, hay một năm, con sẽ tự quay về, xin lỗi qua loa vì đã trốn theo trai hay lỡ bám theo đứa bạn nào đó vượt biển chu du.
Nhưng, cha mẹ vẫn tổ chức các đội tìm ì kiếm. Không ngừng gọi hỏi thăm các bệnh viện, đồn cảnh sát, mái ấm cho người vô gia cư. Vẫn dán thông báo đầy thị trấn, vẫn gõ cửa từng nhà. Hỏi han từng người quen biết. Lục lọi từng khu nhà hoang, từng căn nhà cháy ở khu ổ chuột trong thành phố. Bỏ hẳn nửa số tiền dành dụm trước nay để thuê thám tử,
nửa số còn lại thì một tên ngoại cảm vét sạch. Cha mẹ vẫn cầu cạnh báo đài, mặc cho họ đã chán ngấy vì chì ẳng có chút tin giật gân nào báo về. Rốt cuộc thì những gì cha mẹ biết là đây: Con đã ở một quán rượu. Uống không nhiều hơn bình ì thường. Con bảo đám bạn rằng mình ì mệt và muốn đi bộ về nhà. Đó là lần cuối cùng có người nhìn th ì ấy con. Nhiều năm sau, lời khai man lần lượt xuất hiện. Đám người tàn ác bịaị đủ chuyện về nơi con mất tích. í Chúng hết tung ra chi tiết vô lý này rồi lại đến đầu mối bế tắc khác. Nhưng ít í nhất lúc bị lật tẩy, chúng cũng tỏ ra thật thà. Hơn hẳn đám ngoại cảm chỉ đổ lỗi cho cha không chịu ị tìm ì đến cùng.
Bởi vì cha chưa bao gi ì ờ ngừng tìm ki ì ếm con.
Cha hiểu lý do mẹ con từ bỏ. Hoặc ít í nhất cũng hiểu được tại sao mẹ con phải cố tỏ ra như vậy. Mẹ con phải gầy dựng lại cuộc sống. Nếu không phải vì bà ấy, thì cũng vì những người còn lại trong gia đình ì này. Em gái con vẫn ở nhà. Nó chẳng nói chẳng rằng, cứ lén lút giao du với đám con gái chuyên xúi giục nó làm bậy, kiểu như trốn vào quán rượu nghe nhạc, rồi không bao giờ về nhà nữa.
Vào ngày ký giấy ly hôn với cha, mẹ nói mẹ chỉ hy vọng một ngày nào đó sẽ tìm ì thấy thi thể con. Mẹ vẫn đeo bám ý nghĩ ấy, rằng sau tất cả sẽ có ngày chúng ta đưa được con về nơi an nghỉ cuỉ ối cùng.
Cha động viên mẹ rằng vẫn có hy vọng tìm ì ra con ở Chicago, hay ở Santa Fe, Portland hay một thôn quê đẹp đẽ nào đó, vì con gái chúng ta vốn dĩ cĩ ó một tâm hồn tự do mà.
Nghe cha nói thế, mẹ con chẳng buồn xúc động nữa. Đó là thời quả lắc hy vọng cứ đung đưa qua lại giữa cha và mẹ. Có ngày mẹ lên giường trong đau buồn, nhưng lại có hôm mẹ ra cửa hàng mua về một chiếc áo
sơ-mi hoặc áo len, hay một chiếc quần jean, để dành chờ con trở về sẽ tặng con.
Thế rồi cũng đến lúc cha buông xuôi. Cha vẫn nhớ in ngày hôm ấy. Lúc cha đang làm việc ở phòng khám thú y trong trung tâm, người ta mang đến một con chó bị bỏ rơi. Trông nó thật thảm hại và rõ ràng đã bị hành hạ. Một con labrador lông vàng nhưng giờ xỉn ỉ lại vì nắng mưa. Hai bên hông bám đầy gai. Nhiều chỗ trên da rách đỏ, do nó đã gãi hoặc liếm quá nhiều, hoặc vì nó đã cố thử đủ cách loài chó thường làm dịu ị cơn đau khi bị vị ứt bỏ.
Đầu tiên cha dành thời gian trấn an con vật tội nghiệp. Đưa mu bàn tay để nó liếm cho đến khi quen mùi. Lúc nó đã bình ì tĩnh, ĩ cha mới bắt đầu kiểm tra. Một con chó đã già nhưng răng vẫn còn tốt nguyên. Đầu gối có một vết sẹo phẫu thuật chứng tỏ nó đã từng được chăm sóc khá
chu đáo và chữa trị tốn kém. Những ngược đãi vừa qua vẫn chưa hằn sâu vào trí nhớ nó. Mỗi khi cha đặt tay lên mặt nó, nó lại dụi đầu vào lòng bàn tay cha.
Nhìn ì vào đôi mắt đau thương ấy, trong đầu cha hiện rõ từng chi tiết cuộc đời của con vật khốn khổ. Dẫu không biết rõ sự thật, nhưng trong lòng đã thấy rõ gì đã xảy ra: Nó không bị bỏ rơi. Có lẽ nó chạy chơi hoặc tuột xích, í khi đó chủ nhà chắc đang đi mua đồ hoặc đi chơi xa. Bằng cách nào đó, cổng vô tình ì để mở, một thanh rào bung ra, hay cánh cửa để hé bởi người trông nhà tốt bụng mà vô ý. Thế là, chú chó cưng này chạy lang thang trên phố đến lạc lối về.
Một đám trẻ, hay một thứ quái vật ác ôn nào đó, hoặc là hỗn hợp của cả hai loại đó đã bắt nó. Chúng biến con vật đáng yêu này thành mồi cho cơn thú tính. í
Cũng giống như ông nội con, cha đã dành cả đời mình ì vào việc chăm sóc động vật, nhưng đây là lần đầu tiên cha nhìn ì ra sự khủng khiếp khi con người xuống tay với động vật, hay thậm chí ví ới cả đồng loại của họ.
Da thịt ị nát bươm vì dây trói. Bầm dập vì bị đánh. Đây chínhí là hìnhì ảnh của người lạc vào một thế giới chẳng hề yêu thương họ và cũng không cho họ trở về nhà.
Mẹ nói đúng.
Sự thật đã làm cha tan nát.
CHƯƠNG 1
T
rong một nhà hàng ở khu trung tâm Atlanta, ngoại trừ một người có vẻ dân làm ăn ngồi lẻ loi trong góc và một anh pha chế trông bộ tự tin mình ì dẻo miệng cưa gái, thì quán hầu như vắng tanh. Dưới bếp, mọi người đang gấp rút chuẩn bị cho giờ ăn tối. Tiếng dao kéo, chén bát va chạm lanh canh. Đầu bếp la hét ỏm tỏi. Phục vụ cười đùa. Trên quầy bar, chiếc ti-vi đang phát ra âm thanh đều đều nho nhỏ về đủ loại tin xấu.
Claire Scott ngồi ở quầy bar. Cô gắng phớt lờ mớ âm thanh liên hồi, tay mân mê ly soda thứ hai. Paul đến trễ 10 phút. Anh không bao giờ trễ hẹn, thậm chí còn hay đến sớm 10 phút. Cô thường trêu anh đến sớm, nhưng vẫn mong anh luôn như thế.
“Thêm một ly nữa nhé?”
“Chắc chắn rồi.” Claire mỉm ỉ cười lịch ị sự với anh chàng pha chế. Cậu nhóc đã cố gắng thu hút cô ngay từ lúc cô ngồi xuống. Cậu thật trẻ trung và đẹp trai. Nhưng cô không hề có cảm tình. ì Trái lại cô còn cảm thấy mình ì già nua. Không phải vì Claire thật sự đã già, mà vì cô nhận ra, càng gần đến tuổi bốn mươi, cô càng thấy khó chịu ị khi ở gần đám nhóc hai mươi. Chúng luôn khiến cô nghĩ đĩ ến câu “Khi ở tuổi đó…”
“Ly thứ ba đây.” Giọng cậu chút trêu chọc khi đổ đầy ly soda của Claire. “Chị uị ống mạnh thật đấy.”
“Vậy à?”
Anh chàng nháy mắt với Claire: “Nếu chị cần người đưa về thì cứ nói em nhé.”
Claire phì cười. Cô nghĩ bảo cậu nhóc này chở gái thì dễ, chứ bảo cậu chải cho gọn mớ tóc rũ xuống mắt rồi đi học lại chắc khó hơn nhiều. Cô mở điện thoại xem giờ. Paul đến trễ 12 phút rồi. Đầu bắt đầu suy đoán lung tung: bị cướp xe, bị xe buýt tông, mảnh máy bay rơi trúng, bị một tên điên bắt cóc…
Cửa nhà hàng bật mở. Một nhóm người tiến vào, nhưng không có Paul. Tất cả đều vận đồ đi làm, giống nhân viên từ các tòa nhà xung quanh. Có lẽ họ muốn làm vài ly trước khi về nhà ở ngoài ngoại ô hay rúc vào tầng hầm trong nhà ba mẹ.
“Chị có theo dõi tin này không?” Anh chàng pha chế nghiêng đầu hướng về màn hình ti-vi. ì
“Không để ý lắm.” Claire đáp, dù cô dĩ nhiên đã biết tin này. Lúc nào bật ti-vi lên chẳng nghe ra rả tin mất tích í của một em gái vị thành niên. Mười sáu tuổi. Da trắng. Gia đình ì trung lưu. Rất đẹp. Nếu một bà già xấu xí mí ất tích, ch í ắc chẳng ai thèm quan tâm.
“Tội quá.” Cậu nhóc cảm thán: “Em ấy quá đẹp.”
Claire nhìn ì lại điện thoại lần nữa. Paul đã trễ 13 phút rồi đấy. Ngày hôm nay đâu khác gì những ngày khác. Paul là một kiến trúc sư, chứ đâu phải bác sĩ thần kinh. Không thể có trường hợp nào quá khẩn cấp đến mức Paul không thể bỏ ra 2 giây nhắn tin hay gọi điện cho cô cả.
Cô bắt đầu xoay xoay chiếc nhẫn cưới trên ngón tay. Mỗi khi lo lắng, cô hay làm như thế. Nhưng cô chỉ nhận ra thói quen này cho đến khi Paul chỉ ra cho cô. Trước đây, họ từng cãi nhau về một chuyện gì đó có vẻ quan trọng với Claire, nhưng bây giờ cô lại nhớ không ra cãi việc gì hoặc lúc nào. Tuần trước hay tháng trước nhỉ? ỉ Claire đã biết Paul 18 năm. Họ cũng lấy nhau ngần ấy năm. Giữa họ đâu có gì nhiều để buộc tội nhau.
“Liệu có thể làm bà chị vui hơn với món gì đó mạnh hơn không?” Cậu pha chế đang cầm một chai Stoli, nhưng ý tứ thì đì ã rõ.
Claire ép mình ì bật cười. Đời cô đã biết quá rõ kiểu đàn ông này. Cao ráo, da ngăm, hấp dẫn với đôi mắt lấp lánh, miệng lưỡi mật ngọt. Thuở 12, Claire sẽ viết tên cậu ta vào khắp tập toán, ở tuổi 16, cô sẽ cho phép cậu đặt tay lên chiếc áo len trên người. Năm 20, cậu ta muốn chạm vào đâu cũng được. Và bây giờ, ở tuổi 38, cô chỉ muốn cậu nhóc này tránh xa cô ra.
Cô đáp: “Cám ơn em nhé. Không cần đâu. Tay cảnh sát quản thúc chị khuyên chị không nên uống rượu, trừ phi chị chịu ị ở rịt ị trong nhà cả đêm.”
Anh chàng pha chế cười, nhưng chưa hiểu được câu đùa của Claire: “Gái hư. Mình th ì ích. í ”
“Lẽ ra em nên thấy bộ dạng chị khi đeo vòng giám sát ở cổ chân.” Cô nháy mắt với cậu ta. “Phiên bản mới của bộ phim Trại Giam Kiểu Mỹ đấy.”
Cánh cửa bật mở. Lần này là Paul. Claire thấy nhẹ cả người khi anh tiến về phía c í ô.
Cô nhắc: “Anh tới trễ nhé.”
Paul hôn lên má cô. “Xin lỗi. Tại anh cả. Đáng lẽ ra anh nên gọi điện báo em trước. Hoặc ít nh í ất là nhắn tin cho em.”
“Đúng vậy. Đáng ra anh phải làm thế.”
Paul bảo anh chàng pha chế: “Glenfiddich, loại đơn cất, không đá.” Claire nhìn ì chàng trai trẻ rót rượu cho Paul với dáng vẻ đã mất hẳn sự chuyên nghiệp. Chiếc nhẫn cưới, sự phớt lờ khéo léo lẫn lời từ chối
thẳng thừng của Claire đối với anh chàng không hiệu nghiệm bằng nụ hôn của người đàn ông khác lên má cô.
“Đây thưa ông.” Cậu ta đặt ly rượu trước mặt Paul, rồi bước thẳng về cuối quầy rượu.
Claire hạ thấp giọng: “Cậu nhóc muốn đưa em về nhà kia đấy.” Lúc này, Paul mới ngước nhìn ì cậu nhóc pha chế lần đầu tiên kể từ lúc bước qua cửa. “Anh có nên đấm vào mũi cậu nhóc này không nhỉ?”ỉ “Nên.”
“Vậy em sẽ đưa anh đi bệnh viện nếu cậu ấy đấm lại anh chứ?” “Được.”
Paul cười, nhưng chỉ là cười phụ họa theo nụ cười của Claire. “Em thấy thế nào sau khi được tháo vòng giám sát?”
Claire nhìn ì xuống mắt cá chân trống trơn. Cô thoáng mong đợi thấy dấu bầm hay vết gì đó lưu lại từ chiếc vòng màu đen to nặng ấy. Đã sáu tháng trôi qua kể từ lần cuối cô diện váy ra đường. Cũng ngần ấy thời gian cô phải đeo vòng giám sát theo lệnh của tòa án. “Em thấy được tự do.”
Paul vuốt thẳng ống hút từ ly rượu của Claire, đặt nó song song với chiếc khăn ăn. “Em vẫn còn bị theo dõi qua điện thoại và GPS trong xe đấy.”
“Không ai có thể tống em vào tù mỗi khi em rời điện thoại hoặc ra khỏi xe được.”
Paul nhún vai không bàn thêm trong khi Claire thấy câu chuyện đang rất thú vị. Anh l ị ái qua chuyện khác: “Còn lệnh giới nghiêm thì sao?” ì “Được bỏ rồi. Miễn là em không gây thêm rắc rối gì nữa trong năm tới thì ti ì ền án sẽ được xóa bỏ. Mọi chuyện sẽ như chưa bao giờ xảy ra.”
“Tốt quá rồi.”
“Phải tốn cả đống tiền thuê luật sư chứ ít gí ì.ì”
Paul cười toe toét: “Thế vẫn còn rẻ hơn cái vòng em đòi mua ở Cartier.”
“Anh vẫn chưa tính í cả đôi bông tai em muốn mua nữa kìa. ì ” Đáng ra cả hai không nên lôi chuyện này ra đùa cợt, nhưng họ đang cố làm câu chuyện bớt nặng nề. Claire nói tiếp: “Lạ thật. Dù đã tháo vòng rồi đấy, nhưng em vẫn cảm thấy như nó còn ở trên chân.”
“Lý thuyết nhận dạng tín í hiệu đấy.” Paul vuốt thẳng chiếc ống hút lần nữa. “Cơ quan thụ cảm của em vẫn bị ảnh hưởng bởi cảm giác còn chiếc vòng đó chạm vào da. Người ta cũng có cảm giác tương tự với điện thoại. Họ tưởng nó rung ngay cả khi nó không rung.”
Cưới một anh chàng mê kỹ thuật là thế đấy.
Paul nhìn ì chằm chằm vào màn hình: ì “Em nghĩ họ sẽ tìm ì được cô bé đó chứ?”
Claire không trả lời. Cô nhìn ì xuống ly rượu trong tay Paul. Cô chưa bao giờ thích í hương vị rượu Scotch. Nhưng vì bị cấm không được uống rượu, cô lại càng thèm uống một trận tràn cung mây.
Chiều hôm nay, vì chán chẳng biết phải nói gì với bà bác sĩ tâm thần bên tòa án, cô nói mình ì rất ghét bị dạy dỗ. “Ai mà thích í bị dạy dỗ chứ?” Bà bác sĩ đầu tóc bù xù nghi ngờ hỏi gặng. Hai má cô nóng bừng lên. Nhưng cô biết mình ì không nên bộc lộ cảm giác bực dọc ra đây. Thay vào đó, cô nên thừa nhận chính í mình ì đã tự nguyện đăng ký trị liệu theo tòa yêu cầu, vì bản thân mong muốn được giúp đỡ. Nhưng, cô sẽ không cho bà ta thỏa mãn vì đì ạt đột phá sớm như vậy đâu.
Ngoài ra, Claire vẫn còn ám ảnh giây phút chiếc còng tay bập vào cổ tay.
“Bọn ngu.” Cô lầm bầm chửi khi cảnh sát tống cô vào xe. “Câu đó sẽ nằm trong báo cáo của tôi đấy.” Một nữ cảnh sát nhanh nhảu cảnh cáo cô.
Ngày hôm đó chỉ toàn nữ cảnh sát. Một đám đàn bà với đủ mọi cân nặng và vóc dáng, quấn quanh eo vòng thùng phuy là cái thắt lưng da giắt đủ loại vũ khí chết người. Claire tin hoàn cảnh sẽ khá hơn nhiều nếu có ít í nhất một nam, nhưng buồn thay, không có nam cảnh sát nào xuất hiện cả. Chủ nghĩa ĩ bình ì đẳng giới bắt đầu hành hạ cô. Cô bị nhốt vào băng sau của chiếc xe cảnh sát nhớp nháp, chiếc váy tennis cô đang mặc bị tị ốc lên đùi.
Đến trại giam, đầu tiên cô gặp một mụ quản giáo to béo với nốt ruồi to tướng nằm giữa hai chân mày. Vừa nhìn ì bà ta, đầu cô liên tưởng ngay tới con rệp. Tất cả nhẫn cưới, đồng hồ, và dây giày tennis của cô đều bị bà ta tịch ị thu sạch. Trên nốt ruồi không có cọng râu nào mọc ra. Claire thắc mắc tại sao bà ta chỉ nhổ lông ở nốt ruồi chứ? Sao không tỉa ỉ nốt cả chân mày đi? Nhưng chưa kịp ị hỏi thì cô đã bị một bà quản giáo cao gầy như bọ ngựa đẩy qua phòng khác.
Lấy dấu vân tay chẳng hề giống trên ti-vi mô tả chút nào. Thay vì dùng mực, Claire phải nhấn ngón tay vào tấm kính í bẩn thỉu ỉ để máy tínhí lưu lại dấu tay. Tuy nhiên, các xoáy trên tay cô rất mờ nhạt. Phải mất đến bảy lần cô mới lấy xong dấu tay.
“May là tôi chưa đi cướp ngân hàng.” Claire pha trò, sau đó chêm vào. “ha ha” để tăng hài hước.
“Ấn ngón tay đều vào,” bà quản giáo bọ ngựa nghiêm giọng nhắc. Khuôn mặt Claire nghệch ra được chụp lại trên nền trắng với vạch thước đo thiếu mất một phân. Cô lại thắc mắc tại sao không ai kêu mìnhì cầm biển tên hay đeo số thứ tự tù nhân nhỉ?ỉ
“Làm sẵn bằng photoshop cả rồi.” Bà quản giáo chán chường đáp, dường như vì phải lặp đi lặp lại câu trả lời này quá nhiều lần rồi. Bức ảnh này cũng là tấm duy nhất Claire chụp ở nơi không ai cần cô cười cả.
Sau đó, viên quản giáo thứ ba có cái mũi nom hệt mỏ vịt ị trời xuất hiện. Bà ta hăng hái đẩy cô qua phòng tạm giam. Lúc này, Claire mới ngạc nhiên nhận ra mình kh ì ông phải là người duy nhất mặc đồ tennis.
Nữ tù nhân mặc bộ tennis còn lại hỏi: “Chị dính í gì mà vào đây?” Cô ta có vẻ bực bội và căng thẳng, rõ ràng đã bị bắt khi đang chơi giữa hiệp tennis.
“Giết người.” Claire đáp gọn lỏn. Cô quyết định ị không phản ứng thái quá với chuyện này.
“Này.” Paul đã uống cạn ly Scotch. Anh ra dấu cho cậu pha chế châm thêm rượu. “Em đang nghĩ gĩ ì đì ấy?”
Claire đáp: “Em nghĩ, ĩngày hôm nay của anh chắc còn tệ hơn của em, thế nên anh mới uống tiếp ly thứ hai.”
Paul rất ít í khi uống rượu. Đó là điểm chung giữa họ. Cả hai đều không thích b í ị mị ất kiểm soát. Mà như thế thì nh ì à tù rỗi việc, haha… Cô hỏi Paul: “Anh dạo này thế nào?”
“Ổn cả.” Anh xoa lưng cô. “Thế bà bác sĩ thĩ ần kinh đã nói gì vì ới em?” Claire đợi đến khi anh chàng pha chế quay về góc bên kia quầy, cô mới nói: “Bà ấy bảo em chưa sẵn sàng để lộ ra cảm xúc riêng.” “Chẳng giống em chút nào.”
Họ cười với nhau. Lại cãi nhau về chuyện cũ nữa thì không đáng chút nào.
“Em không thící h bị phân tích. í ” Claire nói tiếp. Cô mường tượng nhà phân tích í của cô sẽ nhún vai đầy vẻ khoa trương rồi gặng hỏi: “Ai mà
muốn thế chứ?”
“Em biết anh nghĩ gì hôm nay không?” Paul nắm lấy tay cô. Bàn tay anh thô ráp. Anh đã cặm cụi trong nhà xe cả cuối tuần. “Anh đang nghĩ anh yêu em nhiều đến mức nào.”
“Chồng nói với vợ như vậy thì ng ì he hơi buồn cười nhỉ?”ỉ “Nhưng đó là sự thật.” Paul áp bàn tay cô vào môi anh. “Anh không thể tưởng tượng được cuộc sống của anh sẽ như thế nào nếu thiếu em.” “Gọn gàng hơn.” Cô đáp. Paul luôn là người phải nhặt những chiếc giày bị ném bừa bãi, hoặc thu gom đống quần áo vứt trên bồn rửa mặt trong khi chúng phải được bỏ vào máy giặt.
Anh đáp: “Anh biết bây giờ đang là lúc khó khăn. Nhất là khi…” Anh nghiêng đầu nhìn ì ti-vi. Màn hình ì đang chiếu tấm hình ì mới của cô bé 16 tuổi mất tích. í
Claire cũng nhìn ì ti-vi. Cô bé đẹp thật. Dáng người thể thao săn chắc với mái tóc đen bồng bềnh.
Paul nói tiếp: “Anh chỉ muốn em biết rằng, anh luôn ở bên em dù có chuyện gì đi n ì ữa.”
Cổ họng Claire chợt nghẹn lại. Nhiều lúc cô đã không trân trọng Paul đúng mực. Đời sống hôn nhân dài lâu mới khiến người ta như thế. Nhưng, Claire biết cô vẫn yêu anh. Cô cần anh. Anh là chiếc neo giữ cô không bị cuị ốn trôi đi mất.
Anh nói: “Em biết rõ em là người phụ nữ duy nhất mà anh yêu.” Cô bỗng nhớ ra tên một đàn chị ở trường đại học: “Ava Guildford sẽ sốc khi nghe câu này.”
“Đừng giỡn. Anh nghiêm túc đấy.” Paul nghiêng người gần đến mức trán anh gần chạm vào cô. “Claire Scott, em là tình ì yêu của đời anh. Em
là tất cả đối với anh.”
“Mặc kệ em có tiền án à?”
Paul hôn cô. Tha thiết. Cô nếm thấy vị rượu Scotch lẫn trong hương bạc hà. Khoái cảm trào lên đột ngột khi ngón tay anh luồn vào đùi cô. Họ ngừng lại để thở. Cô nhắc: “Về nhà thôi anh.”
Paul nốc một hớp cạn sạch chỗ rượu còn lại. Anh thảy tiền lên quầy bar, đặt tay lên lưng Claire dìu ì cô ra khỏi quán. Gió lạnh hất tung váy của Claire. Paul xoa xoa cánh tay cô để giữ ấm. Anh đi bên cô gần đến mức hơi thở phả cả vào gáy cô.
Anh hỏi: “Em đỗ xe ở đâu?”
Cô đáp: “Trong hầm xe.”
“Anh để xe trên phố.” Anh đưa cô chìa kh ì óa. “Lấy xe anh đi đi.” Cô đề nghị: “Đi chung đi anh. ị ”
“Qua đây với anh.” Anh đẩy cô vào một con hẻm, rồi ấn cô vào tường. Claire toan hỏi Paul định ị làm gì, ì thì anh đã khóa miệng cô bằng những nụ hôn tới tấp. Tay anh luồn sâu vào váy cô. Claire thở gấp, nhưng không hẳn vì nụ hôn, mà vì con hẻm này vẫn còn quá sáng sủa và người qua lại trên phố vẫn chưa ngớt. Cô thấy rõ những người vận đồ đi làm vừa đi vừa ngoái đầu nhìn ì theo họ mãi đến khi đi khuất. Thế nên những cảnh này mới thường xuyên bị tung l ị ên mạng.
“Paul.” Cô đặt tay lên ngực chồng. Trong đầu nghi ngờ không biết chuyện gì đã xảy ra với người chồng chỉ biết chăn gối theo kiểu “truyền thống” của mình. ì Anh thậm chí còn thấy kỳ cục khi phải làm chuyện ấy ở phòng khách nữa mà.
“Mọi người đang nhìn ch ì úng ta đấy.” Cô nhắc.
“Vậy qua đây.” Anh kéo tay cô vào sâu hơn trong hẻm.
Claire theo chồng bước qua một khoảng sân xả đầy đầu lọc thuốc lá. Con hẻm chạy theo hình ì chữ T nối với một con hẻm khác dẫn đến các quán ăn và cửa hiệu. Rõ khéo chọn. Claire tưởng tượng mấy tay đầu bếp đang đứng ở cửa, miệng ngậm thuốc lá, tay cầm điện thoại. Ngay cả khi không có ai thấy, thì vì ẫn có vô vàn lý do không nên làm chuyện ấy ở đây.
Nhưng, ai mà thích b í ị dị ạy dỗ chứ.
Paul kéo cô vào một góc hẻm. Claire nhanh chóng quét mắt khắp một lượt trước khi dựa vào tường. Môi hai người lại khóa lấy nhau. Tay Paul bấu lấy vòng ba của Claire. Anh ham muốn quá cuồng nhiệt đến mức cô cũng bị kích í thích í theo. Cô nhắm nghiền mắt, sẵn sàng phục tùng. Họ hôn nhau sâu hơn. Anh giật tung quần lót của cô. Cô cũng giúp chồng. Người run lên vì lạnh và vì sợ, nhưng giờ cô chẳng màng đến gì nữa.
“Claire…” Anh thì thì ầm vào tai cô. “Nói với anh là em muốn đi.” “Em muốn.”
“Nói lại đi.”
“Em muốn.”
Không một lời báo trước, anh xoay người cô lại. Má cô trượt sướt qua tường gạch. Anh nhấn cô vào tường. Cô lùi lại chạm vào anh. Anh rên rỉ, đung đ ỉ ẩy vì kho ì ái cảm, còn cô gần như bị ng ị ạt thở. “Paul…”
“Đứng yên.”
Claire nghe rõ hai từ này. Nhưng đầu óc cô phải mất nhiều giây để xử lý giọng nói không phải từ chồng mình. ì
“Quay lại đây.”
Paul bắt đầu quay lại.
“Không phải mày, thằng chó.”
Claire. Ý hắn là Claire. Cô cứng đờ. Chân run lẩy bẩy. Dường như cô không thể đứng nổi nữa.
“Tao bảo mày xoay con khốn đó lại đây.”
Paul nhẹ nhàng nắm lấy tay Claire. Cô vấp một cái khi anh từ từ xoay người cô lại.
Có một tên đứng ngay phía í sau Paul. Hắn vận áo mũ trùm màu đen, ngấn cổ mập mạp đầy hình ì xăm trổ. Trên quả táo cổ hắn xăm đầu con rắn chuông nhe nanh cười độc ác.
“Giơ tay lên.” Miệng hắn nói mà miệng con rắn cũng chuyển động theo.
“Chúng tôi không muốn rắc rối.” Tay Paul vẫn giơ cao. Người anh không nhúc nhích. í Claire nhìnì chồng. Anh gật đầu ra ý mọi chuyện sẽ ổn, trong khi tình ì thế đang hoàn toàn ngược lại. “Ví tiền nằm trong túi áo khoác này.”
Hắn móc lấy ví tiền chỉ bằng một tay. Claire đoán hắn giữ súng bên tay còn lại. Đầu cô tưởng tượng ra khẩu súng đen tuyền, sáng loáng ấn vào cổ chồng.
“Đây.” Paul tháo nhẫn cưới, nhẫn tốt nghiệp. Anh tháo cả chiếc đồng hồ Patek Philippe mà Claire đã mua tặng cách đây 5 năm. Mặt sau đồng hồ còn khắc chữ cái đầu tiên của tên anh.
“Claire, đưa cho hắn cả ví cí ủa em.” Giọng Paul đầy miễn cưỡng. Claire trân trân ngó chồng. Động mạch cổ đập dồn dập. Khẩu súng dí ngay sau gáy Paul. Họ đang bị cướp. Không phải chuyện đùa mà đang xảy ra sờ sờ đây. Claire ngó xuống tay, mò mẫm chậm chạp vì sợ hãi đến mức cứng đờ ra. Xâu chìa ì khóa của Paul vẫn nằm trong tay cô. Từ đầu
đến cuối, ngón tay cô vẫn đan vào chúng. Sao cô có thể làm chuyện ấy trong khi tay vẫn nắm chìa kh ì óa của chồng nhỉ?ỉ
“Claire,” Paul nhắc lại, “đưa ví cho h í ắn.”
Claire thả chìa kh ì óa vào xắc tay, rút ví ti í ền chìa r ì a cho tên cướp. Hắn ấn nó vào túi, sau đó lại chìa ta ì y ra thêm: “Điện thoại.” Claire giao iPhone. Tất cả liên lạc của cô. Tất cả ảnh du lịch ị trước đây ở Martin, London, Paris, Munich…
“Nhẫn nữa.” Tên cướp lướt mắt quét khắp con hẻm. Claire cũng nhìnì theo. Không có ai cả. Thậm chí đến cả vỉa ỉ hè cũng vắng tanh. Lưng của Claire vẫn dán chặt vào tường. Góc rẽ dẫn đến đường lớn chỉ cách đấy một cánh tay. Chỗ đó hẳn sẽ có người qua lại. Rất đông người qua lại.
Tên cướp đọc được ngay suy nghĩ của Claire, “Đừng giở trò. Tháo nhẫn ra!”
Claire tháo nhẫn cưới. Món này mất cũng không sao. Nó đã được bảo hiểm rồi và cũng chẳng phải cái đầu tiên. Hai vợ chồng chọn mua nó nhân dịp ị Paul hoàn thành khóa thực tập và thi đậu chứng chỉ chuyên môn.
“Cả hoa tai nữa,” hắn ra lệnh. “Nhanh lên, con khốn.”
Claire sờ lên dái tai. Hai tay lập tức run bắn. Cô quên mất sáng nay mình ì đã chọn đeo một đôi hoa tai đính í kim cương, nhưng ngay lúc này đây sực nhớ rõ rành rành.
Cuộc sống như thể đang trôi dần qua trước mắt Claire chăng? Mọi thứ đang từ từ trôi đi mất.
“Nhanh lên.” Hắn vung tay còn lại thúc giục cô.
Claire lóng ngóng tháo chuôi hoa tai. Vì run nên ngón tay cứng đờ vụng về. Cô lại nhớ lúc mình ì ướm nó ở cửa hàng Tiffany vào lần sinh
nhật thứ 32. Paul liếc nhìn ì cô kiểu: “Em có tin nổi là chúng ta sẽ mua nó không?” Khi cô nhân viên bán hàng dẫn họ vào phòng riêng cho khách mua món xa xỉ.ỉ
Claire thả đôi bông vào bàn tay đang xòe ra của hắn. Cô run lẩy bẩy. Ngực đánh như trống trận.
“Hết rồi đấy.” Paul xoay người lại. Lưng anh áp vào Claire che chắn bảo vệ vợ. Hai tay vẫn giơ cao. “Mày đã có tất cả rồi.”
Claire có thể nhìn ì rõ hắn qua vai Paul. Hắn không cầm súng mà cầm dao. Một con dao dài, sắc lẻm, lưỡi có khía í và mũi cong như lưỡi câu. Loại thợ săn thường dùng để moi ruột động vật.
Paul nhắc lại, “Không còn gì nì ữa đâu. Biến đi được rồi đấy.” Nhưng hắn không biến đi. Hắn nhìn ì Claire như thể mới tìm ì ra một thứ còn đáng giá hơn đôi hoa tai kim cương 36,000 đô kia. Môi hắn nhếch lên, lộ ra một cái răng cửa mạ vàng. Claire nhận ra con rắn chuông xăm trên cổ hắn cũng nhe hai cái răng nanh vàng hệt như vậy. Thì rì a hắn không chỉ mu ỉ ốn cướp.
Paul nói, “Tao có tiền đây.”
“Cóc cần.” Hắn thoi một cú trời giáng vào ngực Paul. Claire cũng bị dội ngược theo. Xương vai của anh đập thẳng vào xương đòn của cô. Đầu anh đập vào mặt cô, khiến đầu cô va vào bức tường gạch phía sau. í
Claire nhất thời choáng váng. Mắt nổ đom đóm. Miệng sặc mùi máu. Cô chớp mắt lia lịa ị nhìn ì xuống chân. Paul đang nằm quằn quại trên nền đất.
“Paul…” Cô nhào tới chồng nhưng da đầu bất giác nhói lên. Hắn tóm tóc lôi đầu cô kéo sâu vào con hẻm. Claire bị vấp. Hai đầu gối kéo xềnh xệch lê theo vỉa ỉ hè. Hắn đi xăm xắn, gần như chạy. Còn Claire phải cố
gập người lại để bớt đau đớn. Một gót giày của cô đã gãy lìa. ì Cô cố ngoái nhìn ph ì ía sau. P í aul đang co tay ôm lấy người như lên cơn đau tim. “Không,” cô nghẹn ngào. Thậm chí cô cũng tức mình ì tại sao không thể hét to lên chứ: “Không, không, không!”
Hắn lôi cô xềnh xệch về phía í trước. Claire nghe thấy cả tiếng thở khó nhọc của mình. ì Phổi cô đầy cát. Hắn đang định ị kéo cô vào một con phố nhỏ khác. Ở đó đã đậu sẵn một chiếc xe tải đen ngòm mà cô không để ý thấy. Claire cào cấu cổ tay hắn. Hắn giật xốc đầu cô làm cô tuột tay. Rồi
hắn giật thêm lần nữa. Cơn đau khôn tả nhưng đâu sánh bằng nỗi sợ. Cô muốn gào thét. Phải gào to lên. Nhưng cổ họng lại không thốt nổi ra lời vì nhận ra chuyện sắp xảy đến. Hắn sẽ ném cô vào chiếc xe tải đó, rồi
đưa đến một nơi bí mí ật. Một nơi mà cô đừng hòng thoát lần nữa. “Đừng…” Cô van nài. “Xin đừng… đừng…”
Hắn buông Claire ra, nhưng không phải tha. Hắn xoay phắt lại chĩaĩ mũi dao ra phía í trước. Paul đang ở ngay sau. Anh đang lao về phía í hắn. Anh rú lên ngay khi lao tới trước.
Sự việc diễn ra quá nhanh đến mức chóng vánh. Thời gian chẳng hề chậm lại để Claire kịp th ị ấy chồng mình chi ì ến đấu.
Paul hẳn sẽ đánh bại hắn trên máy chạy bộ, hoặc giải xong phương trình ì trước cả lúc hắn kịp ị gọt xong bút chì. ì Song, đối thủ của Paul đã được học thứ mà anh chưa từng được dạy ở trường đại học: Đánh nhau bằng dao.
Chỉ một tiếng vút xé gió vang lên khi mũi dao lướt vào không trung. Claire đã đoán trước được chuỗi âm thanh đến sau: một tiếng phập khi mũi dao móc câu xuyên qua da thịt ị Paul. Tiếng rít í khi lưỡi răng cưa lướt qua xương sườn. Tiếng khậc khi lưỡi dao cắt đứt sụn và xương.
Paul ôm ghì lấy bụng. Ngón tay chặn cán dao khảm xà cừ. Anh lảo đảo lùi lại bức tường phía í sau, miệng há hốc, mắt trợn hết cỡ. Hôm nay anh mặc bộ vét Tom Ford màu xanh hải quân hơi căng vai. Claire thoáng nghĩ phải nhớ nới bớt ra cho anh, nhưng không kịp ị nữa rồi. Chiếc áo ngoài đã thấm đẫm máu.
Paul nhìn ì xuống tay anh. Dao đã cắm ngập đến tận chui, gần như lấp đúng giữa khoảng cách từ rốn đến tim. Áo xanh loang lổ máu. Vẻ mặt đầy sững sờ. Cả hai đều bị sốc. Họ đã tính í về nhà sớm, ăn tối cùng nhau, mừng Claire mới được thả ra, chứ nào phải chảy máu tới chết trong con hẻm tối tăm, lạnh giá thế này.
Claire nghe thấy tiếng chân từ xa. Tên Đầu Rắn đã bỏ chạy, nhẫn và trang sức kêu lanh canh trong túi hắn.
“Cứu với,” Claire lên tiếng, nhưng thều thào nhỏ đến mức chính í cô cũng khó nghe thấy, “C… Cứu với…” cô lắp bắp. Nhưng ai đến cứu đây? Chỉ cỉ ó Paul là người cứu cô. Chỉ cỉ ó Paul luôn lo liệu tất cả. Cho đến lúc này.
Thân thể Paul trượt theo bờ tường, đổ ập ra nền đất. Claire quỳ sụp bên anh. Hai tay huơ loạn nhưng không biết phải chạm vào đâu. Mười tám năm yêu anh. Mười tám năm cùng anh đầu gối tay ấp. Cô từng áp tay vào vầng trán ấy kiểm tra thân nhiệt, lau khuôn mặt ấy khi ốm đau, hôn đôi môi ấy, đôi má ấy, bờ mi ấy, thậm chí đánh cả anh khi nổi nóng, nhưng ngay lúc này, cô không biết nên chạm vào đâu đây.
“Claire.”
Giọng của Paul. Giọng nói quá đỗi thân thiết với Claire. Claire nhào về phía í chồng, tay chân ôm trọn lấy anh. Kéo đầu anh sát vào ngực. Áp môi vào đầu anh. Hơi ấm đang dần rời xa Paul. “Paul, làm ơn. Đừng đi. Anh phải ở lại.”
“Anh không sao.” Paul đáp, nghe như rất ổn cho đến khi không còn ổn được nữa. Hai chân anh bắt đầu co giật, chuyển qua run bắn khi cơn co giật lan ra toàn thân. Hai hàm răng đánh lập cập vào nhau. Mắt dần mất thần thái.
Anh nói, “Anh yêu em.”
“Đừng…” cô rên rỉ, ỉ vùi mặt vào cổ anh, hít í lấy hít í để mùi hương nước cạo râu, chạm vào mảng râu anh cạo sót sáng nay. Ở đâu cô chạm đến, da anh cũng lạnh. Rất lạnh. “Xin anh đấy, đừng bỏ em đi, Paul. Xin anh.” “Anh không đi đâu.” Anh hứa.
Nhưng sau đó, Paul đã ra đi.
CHƯƠNG 2
L
ydia Delgado nhìn ì chằm chằm vào đám choai choai trong đội cổ vũ đang nhảy nhót trên sân thi đấu, lòng thầm biết ơn con gái mìnì h không nằm trong số đó. Chẳng phải cô có thành kiến gì với
mấy em ấy. Lydia nay đã bốn mươi mốt tuổi rồi. Đã xa lắc cái thời cô không ưa mấy em cổ động viên. Bây giờ, cô chỉ ghét mấy bà mẹ của chúng thôi.
“Lydia Delgado!” Mindy Parker luôn gọi đủ tên họ khi chào người khác, ngân nga nhấn nhá ở cuối đầy đắc thắng: Thấy tôi thông minh chưa, nhớ hết tên họ các người đấy!
“Mindy Parker,” Lydia nhái lại, cố ý hạ giọng xuống thật thấp. Cô không nhịn đư ị ợc. Cô luôn thích l í àm ngược lại.
“Trận mở màn mùa giải! Tôi tin năm nay các cô gái của chúng ta sẽ có cơ hội.”
“Tất nhiên rồi,” Lydia hùa theo, dù ai cũng biết sắp có một trận thua te tua.
“Dù thế nào…” Mindy duỗi thẳng chân trái, duỗi haitay quá đầu rồi gập người với xuống đầu ngón chân. “Tôi vẫn cần chị ký giấy phép cho Dee.”
Lydia kịp ị ngăn mình ì suýt hỏi giấy phép về vụ gì. ì “Tôi sẽ ký nó gửi chị ngày mai.”
“Tuyệt lắm.” Mindy thở ra đầy khoa trương. Môi trề ra để lộ cả hàm dưới, làm Lydia liên tưởng ngay đến mặt chó bun Pháp. “Chị biết rõ là chúng tôi không bao giờ muốn cô lập bé Dee nhà chị mà. Chúng tôi rất tự hào khi cháu lấy được học bổng.”
“Cám ơn Mindy.” Lydia cười nụ. “Cũng tội khi con bé phải cố giỏi để vào được Westerly, thay vì chì ỉ cỉ ần đóng tiền học là xong nhỉ?”ỉ Nụ cười của Mindy đông cứng. “Vâng, giỏi lắm. Tôi sẽ chờ tờ giấy phép tới sáng mai.” Cô ta bấu lấy vai Mindy để nhảy qua hàng ghế đến chỗ mấy bà mẹ khác. Mấy ĐỨC MẸ. Lydia hay gán biệt danh cho họ thế, vì cì ô đang cố nhịn kh ị ông dùng từ thô lỗ nữa.
Lydia nhìn ì lướt qua mặt sân tìm ì con gái. Cô chợt sợ đến đứng tim, nhưng kịp ị nhận ra Dee đang đứng ở góc sân. Con bé vừa nói chuyện với cô bạn thân Bella Wilson, vừa tâng bóng qua lại.
Cô gái trẻ kia có thật là con của Lydia không? Mới cách đây hai giây, Lydia vẫn còn thay tã cho nó, vậy mà ngoảnh đi ngoảnh lại đã thấy một cô bé Dee 17 tuổi. Chỉ còn 10 tháng nữa Dee sẽ vào đại học. Đúng như Lydia lo sợ, con bé đã soạn sẵn đồ. Túi hành lý Dee để trong tủ đầy đến mức không thể khóa nổi nữa.
Lydia chớp mắt ngăn lệ. Một người đàn bà đứng tuổi khóc bên hành lý thì trông kỳ lắm. Thay vào đó, cô nghĩ đến tờ giấy phép vẫn chưa đưa cho Dee. Cả đội bóng có thể đã kéo nhau đi ăn một bữa tối thịnh ị soạn mà Dee lo Lydia sẽ không đủ tiền góp. Con bé vẫn chưa biết rằng nhà nó không hề nghèo. Quả đúng là trước đây họ sống khá chật vật vào lúc Lydia mới mở dịch ị vụ chải lông chó. Song, bây giờ họ chắc chắn đã vào tầng lớp trung lưu rồi, khá hơn nhiều so với nhiều người tưởng.
Họ chỉ không so được với giới thượng lưu ở Westerly mà thôi. Hầu hết phụ huynh ở Westerly đều thừa sức chi trả ba mươi ngàn đô la một năm để gửi con cái vào trường tư. Họ có thể đi trượt tuyết ở hồ Tahoe vào dịp ị Giáng sinh, hay thuê cả phi cơ riêng đi nghỉ ở Caribe. Tuy nhiên, dù Lydia không bao giờ đủ cho con ngần ấy, cô vẫn có đủ tiền cho con đi ăn ở quán Chops, gọi món bít t í ết đắt như quỷ ở đấy.
Lydia chắc phải tìm ì cách nào đó nhẹ nhàng hơn để giải thící h lại với con gái về chuyện này mới được.
Cô với lấy túi xách, lôi ra một gói khoai tây chiên. Vị mằn mặn beo béo ngay lập tức đem đến cảm giác dễ chịu, ị hệt như ngậm vài viên Xanax dưới lưỡi. Sáng nay, lúc xỏ quần thun, cô đã tự hứa sẽ đi tập gym. Sau đó, cô đã đến gần phòng tập thật, nhưng trong bãi đỗ xe lại có một quán Starbucks. Lễ Tạ ơn đang đến gần. Thời tiết lại lạnh thế kia. Hôm nay là ngày hiếm hoi cô không đi làm. Thế nên, cô xứng đáng được khởi đầu ngày mới bằng một cốc cà phê sữa dậy hương caramel bí ngô. Vả lại, caffeine rất cần cho hôm nay. Trước trận đấu của Dee sẽ có khối chuyện tầm phào nhồi vào đầu cô. Cô ghé tiệm tạp hóa, tiệm thú cưng, cửa hàng Target, nhà thuốc, ngân hàng, về tới nhà dỡ đồ xuống; đến buổi trưa lại ra khỏi nhà đi cắt tóc. Đứng tuổi rồi nên không thể cứ cắt gọn là xong. Lydia phải trải qua cả một quy trình ì mệt mỏi để nhuộm mái tóc chớm bạc trở lại với màu vàng gốc. Có thế cô mới không bị nhầm thành họ hàng nhà mụ Cruella de Vil’s. Đó là chưa kể tóc mới nhuộm thì càng cần chăm sóc kỹ.
Lydia đưa tay quẹt môi trên. Muối trong khoai tây chiên gây mẩn rát vùng da khô.
“Chúa ơi,” cô làu bàu. Hôm nay cô đã tẩy ria mép, thế mà lại quên béng đi mất. Cô bé phục vụ đã dùng thuốc làm se lỗ chân lông. Thuốc ấy làm vùng da trên mép của cô tấy đỏ. Vì thế, thay vì chỉ có một hai cọng lông mép, giờ thì Lì ydia có nguyên cả một bộ ria màu đỏ.
Đầu cô tưởng tượng cảnh Mindy Parker loan tin này đến các bà mẹ, “Lydia Delgado ria đỏ.”
Lydia tọng một vốc khoai tây vào miệng. Nhai lớn tiếng, mặc cho mảnh vụn rơi vãi khắp ra áo. Mặc kệ các Đức Mẹ nhìn ì cô nhồm nhoàm
một đống tinh bột. Cô đã từng cố kiêng cữ rồi đấy chứ. Hồi mới bước vào tuổi 40.
Giảm cân bằng nước trái cây. Bữa ăn nếu không có nước ép thì thay bằng trái cây. Rồi ăn kiêng bằng trứng. Tham gia trại vận động kiểu quân đội. Tiếp đến, chương trình ì cardio 5 phút mỗi ngày. Rồi chương trình ì cardio 3 phút mỗi ngày. Sau đó lại tập theo phương pháp South Beach. Rồi qua phương pháp Atkins. Phương pháp Paleo. Jazzercise. Tủ quần áo của Lydia chất cả đống thứ minh chứng thất bại mua trên Ebay: Giày nhảy Zumba, giày tập, ủng leo núi, chũm chọe để tập múa bụng, một sợi dây chưa bao giờ được dùng ở lớp múa cột vì cô nghe khách hàng của mình ch ì ê bai lớp này.
Lydia biết mình ì thừa cân tí, í nhưng đã béo phì đâu nhỉ? ỉ Hay cô chỉ béo trong mắt dân Westerly? Điều duy nhất cô thừa nhận là mình ì không gầy. Ngoại trừ ở tuổi thiếu niên và những năm đầu tuổi 20, vấn đề cân nặng lúc nào cũng giày vò cô.
Lý do Lydia ghét các Đức Mẹ thật ra còn vì ngầm đố kỵ. Cô không thể chịu ị nổi họ vì cô không thể giống họ được. Cô ghiền khoai tây chiên. Cô yêu bánh mì. ì Ý nghĩa ĩ cuộc sống nằm ở một chiếc cupcake thơm ngon, hoặc là cả ba món trên. Cô không có thời gian mời huấn luyện viên rèn giữ dáng hay tập các lớp Pilates liền nhau. Cô vừa phải quản lý việc kinh doanh, vừa phải làm mẹ đơn thân. Không chỉ thế, công việc của cô còn gắn với lũ động vật. Thật khó mà trông quyến rũ khi vừa mới thông hậu môn cho chó cảnh.
Khi ngón tay chạm đáy gói khoai tây chiên, cô lập tức đau khổ. Thật ra cô đâu muốn ăn khoai tây chiên. Ngay sau miếng đầu tiên, cô đã chẳng cảm thấy mùi vị gị ì nì ữa rồi mà.
Đằng sau cô, các Đức Mẹ vỡ òa trong tiếng reo hò. Một cô bé đang thực hiện một chuỗi động tác nhào lộn giữa các bạn khác. Động tác rất mềm mại, hoàn hảo và cực kỳ ấn tượng cho đến tận lúc cô vươn tay lên cao ở phần kết thúc. Lydia chợt nhận ra cô ấy không phải thành viên đội cổ động, mà lại là một bà mẹ.
Một trong các bà mẹ của cổ động viên.
“Penelope Ward!” Mindy Parker gào lên, “Cừ lắm, cô gái!” Lydia làu bàu dè bỉu, ỉ quay qua lục túi kiếm đồ ăn tiếp. Penelope tiến thẳng đến chỗ Lydia. Cô giả bộ phủi vụn bánh trên áo, gắng nghĩ xem nên nói gì. Nì ói gì mì à không bất lịch s ị ự nhỉ?ỉ
May quá. Huấn luyện viên Henley đã giữ chân Penelope lại. Lydia thở phào nhẹ nhõm. Cô rút điện thoại ra khỏi túi. Mười sáu email thông báo từ trường. Hầu hết đều bàn về cách giải quyết dịch ị chí rận đang lây lan ở khối tiểu học. Lúc Lydia đang lướt qua các thông báo, màn hình ì báo tin nhắn mới từ thầy hiệu trưởng. Ông xin lỗi phụ huynh vì không thể tìm ì ra bé nào đã lây bệnh chí rận, và ông mong các bậc phụ huynh ngưng tra hỏi bé nào để quy trách nhiệm.
Lydia xóa hết đống thư này. Tiếp đến cô trả lời vài tin nhắn từ khách hàng cần đặt hẹn. Cô lục lại thư rác để chắc chắn giấy phép của Dee không sơ ý bị lẫn vào đây. Vẫn không thấy. Sau đó, cô mới gửi email cho cô gái lo việc bàn giấy và nhắc cô ta nộp lại phiếu chấm công. Chuyện này đâu có khó nhớ, nhất là khi có nộp phiếu đó thì cô ta mới được trả công mà. Nhưng cô nhóc lại được bao bọc quá mức bởi một bà mẹ độc đoán, đến mức quên cả buộc dây giày, trừ phi trên giày đính í trước một tờ giấy vẽ mặt cười kèm với dòng chữ: NHỚ CỘT DÂY GIÀY NHÉ, YÊU CON, MẸ CỦA CON. TÁI BÚT: MẸ RẤT TỰ HÀO VỀ CON.
Dạy con thế khác nào hạn chế nó. Lydia chẳng lạ gì những bà mẹ thích í dán giấy dặn dò khắp nơi như thế. Lydia bảo vệ con gái theo cách bảo đảm Dee biết tự lo cho bản thân. TẬP ĐỔ RÁC ĐI KHÔNG TÔI XỬ CÔ ĐẤY. YÊU CON, MẸ. Giá mà cô biết trước dạy con tự lập thế này cũng dẫn đến lắm chuyện, ví dụ như phát hiện ra trong tủ một túi hành lý đầy ắp,
trong khi còn đến tận 10 tháng nữa nó mới rời nhà đi học. Lydia thả điện thoại lại vào túi. Cô dõi theo Dee chuyền bóng cho Rebecca Thistlewaite, một cô bé gốc Anh xanh xao khó lòng ghi bàn nổi, ngay cả khi đặt rổ ngang mặt. Lydia bật cười trước sự nhường nhịn ị của con gái. Ở tuổi ấy, Lydia đã chạm trán với cả đám con gái nổi loạn, rồi còn dọa dẫm bỏ học. Còn Dee thì tham gia vào đội tranh luận, rồi làm tình ì nguyện viên. Con bé sinh ra đã ngoan, rộng lượng tốt bụng và cực kỳ thông minh. Khả năng để ý chi tiết cực giỏi, đến mức hơi phiền khi cãi nhau. Thậm chí ngay từ lúc còn nhỏ, Dee đã có năng lực nhại lại cái mình ì nghe, đặc biệt lànhái lại Lydia. Thế nên con bé mới bị gọi là “Dee” thay vì cì ái tên đẹp đẽ Lydia đã đặt trong giấy khai sinh. “Chúa Deedus ơi.” Con bé đã từng gào lên như thế, tay chân đá lung tung trên ghế. “Chúa Dee-dus ơi! Chúa Dee-dus ơi!”
Nghĩ lĩ ại, Lydia thấy mình đ ì ã sai lầm khi làm Dee tưởng thế là hay. “Lydia?” Penelope Ward giơ một ngón tay như thể bảo Lydia chờ một lát. Ngay lập tức, Lydia quét mắt nhìn ì ra mấy cánh cửa. Phía í sau, mấy Đức Mẹ cười khúc khích. L í ydia biết mình k ì ẹt bẫy rồi.
Penelope thuộc dạng có chút máu mặt ở Westerly. Chồng cô ta là luật sư, một mẫu ông bố điển hình ì ở Westerly, lại còn là thượng nghị sĩ của bang. Gần đây, ông ta mới tuyên bố sẽ tranh cử vào Hạ viện Mỹ. Trong số các ông bố ở trường này, Branch Ward trông đẹp trai nhất, nhưng chủ
yếu là vì ông ta vẫn chưa tới tuổi sáu mươi, bụng vẫn chưa vượt mặt thôi.
Còn Penelope là mẫu vợ điển hình ì của các chính í trị gia. Trong tất cả các cuộc vận động tranh cử của chồng, cô ta luôn mở mắt tròn xoe ngưỡng mộ, hệt như mắt chó Border Collie. Bề ngoài trông rất hấp dẫn, nhưng không làm người khác phải sững sờ mất tập trung. Dáng người mảnh khảnh, nhưng không ốm yếu theo kiểu nhịn ị ăn. Cô ta đã từ chối hợp tác với một công ty luật hàng đầu để về chăm sóc năm đứa con xinh đẹp bảnh bao hết chỗ chê. Cô là chủ tịch ị Tổ chức cha mẹ - giáo viên ở Westerly, một cái tên biến thể thừa thãi của Hiệp hội phụ huynh - giáo viên quốc gia. Tổ chức này được cô ta điều hành bằng bàn tay sắt. Mọi văn bản cô ban ra đều theo kiểu “gạch đầu dòng” hoàn hảo, ngắn gọn và
đi thẳng vào trọng tâm đến mức các Đức Mẹ thành viên đọc là làm được ngay. Thế nên, Penelope cũng hay nói chuyện theo kiểu “gạch đầu dòng”. Cô ta hay nói, “Nào, các cô gái,” rồi giơ hai tay vỗ mấy cái. Các Đức mẹ sẽ vỗ theo lớn hơn. “Các em năm nhất! Dọn tiệc! Treo bong bóng! Dọn bàn! Xếp dao nĩa!” ĩ
“Lydia, chị đây rồi,” Penelope gọi, khuỵu gối nhảy phóc qua hàng ghế đáp xuống ngồi bên cạnh Lydia. “Ngon quá!” Cô ta chỉ vào gói khoai tây. “Ước gì tì ôi cũng được ăn!”
“Tôi cá tôi sẽ ép chị ăn được đấy!”
“Ôi, Lydia, tôi khoái cái khiếu hài hước tỉnh ỉ khô của chị lắm!” Penelope xoay người lại đối diện Lydia, mắt nhìn ì cô như một chú mèo Ba Tư đang rình ì mồi. “Tôi không biết làm sao chị cáng đáng hết được nhỉ? ỉ Vừa mở kinh doanh riêng, vừa lo cho gia đình. ì Lại còn có một đứa con gái quá giỏi nữa.” Cô ta đặt tay lên ngực. “Chị đúng là thần tượng của tôi.”
Lydia khẽ nghiến răng.
“Dee đúng là một cô bé giỏi toàn diện!” Giọng Penelope đột nhiên hạ thấp một quãng tám. “Con chị học chung cấp hai với cô bé mất tích í đó, đúng không?”
“Tôi không biết nữa.” Lydia nói dối. Anna Kilpatrick kém Dee một lớp. Nhưng hai đứa vẫn học chung lớp thể dục, cho dù chúng chơi với những nhóm bạn bè khác hẳn nhau.
“Đúng là bi kịch, ị ” Penelope cảm thán.
“Họ sẽ tìm r ì a con bé thôi. Mới có một tuần mà.”
“Nhưng, trong một tuần đó ai mà biết được chuyện gì đã xảy ra?” Penelope ra bộ nhún vai. “Thật không dám nghĩ thĩ êm nữa.” “Vậy đừng nghĩ nĩ ữa.”
“Lời khuyên hay đấy.” Penelope đáp, tỏ vẻ nhẹ nhõm pha chút vẻ kẻ cả. “À, Rick đâu rồi? Chúng ta cần Rick. Liều testosterone của cả hội đấy.” “Anh ta đang ở bãi đậu xe ấy.” Thật ra Lydia không biết Rick đang ở đâu cả. Sáng nay họ đã cãi nhau một trận nảy lửa. Chắc chắn Rick không bao giờ muốn thấy mặt cô nữa.
Không. Lydia lầm rồi. Rick sẽ xuất hiện vì bé Dee, nhưng có lẽ anh ấy sẽ ngồi ở hàng ghế bên kia sân để né Lydia.
“Nhảy đi! Nhảy đi!” Penelope hét lên, dù mấy em cổ động viên vẫn đang khởi động. “Trời. Trước đây tôi không để ý kỹ. Dee giống chị thị ật.” Lydia cười trừ. Đây không phải lần đầu có người nhận xét hai mẹ con giống nhau. Dee thừa hưởng làn da trắng và đôi mắt tím í phớt xanh của Lydia. Khuôn mặt cũng giống nhau. Cười cũng y hệt. Cả hai đều có mái tóc vàng tự nhiên, nổi bật hơn những đầu tóc vàng nhuộm khác trong phòng tập. Vòng eo đồng hồ cát của Dee sẽ mất dần nếu sau này nó cũng
vận quần thể dục mà lười biếng ngồi nhai khoai tây chiên. Ở tuổi Dee, Lydia cũng từng xinh đẹp và thon thả như vậy. Chỉ có điều phải tốn cả đống cocaine mới giữ được cái dáng thon thả ấy.
“Vậy thì…ì ” Penelope vỗ tay vào đùi khi quay lại nhìn ì Lydia. “Không biết chị gi ị úp tôi chuyện này được không?”
“Oka-a-ay.” Lydia nhả từng chữ, cố tình ì lộ vẻ lúng túng. Đây là kiểu Penelope đưa người ta vào tròng đây. Cô ta không bao giờ sai bảo ai. Cô ta chỉ nh ỉ ờ giúp đỡ thôi.
“Tháng tới chúng ta tổ chức Lễ hội Quốc tế.”
“Lễ hội Quốc tế?” Lydia lặp lại như thể cô chẳng hề biết chút gì về phong trào gây quỹ kéo dài cả tuần rồi, khi các quý ông quý bà da trắng dòng dõi nhất ở Bắc Atlanta họp nhau ở quán Dolce & Gabbana, nhẩn nha nhấm nháp há cảo và thịt vi ị ên Thụy Sĩ do m ĩ ấy bà giúp việc nấu cho.
“Tôi sẽ gửi chị lại tất cả email,” Penelope đề nghị. ị “Kiểu gì chị cũng giúp tôi mang vài món Tây Ban Nha đến nhé, Arros negre, Tortilla de patates. Cuchifritos.” Cô ta tự tin dùng giọng Tây Ban Nha phát âm từng chữ một. Chắc là cóp nhặt từ anh chàng giữ hồ bơi đây. “Hai vợ chồng tôi đã thử món escalivadakhi đi du lịch ị Catalonia năm ngoái. Ngon tuyệt.”
Lydia đã chờ suốt bốn năm để nói câu này, “Tôi đâu phải người Tây Ban Nha.”
“Thật à?” Penelope không nao núng. “Vậy thì bánh Tacos.Burritos. Hoặc món arroz con pollo hoặc barbacoa được không?” “Tôi cũng không phải gốc Mexico luôn.”
“À, đúng rồi, rõ ràng Rick chưa phải chồng chị. ị Tôi tưởng lầm vì tên chị lị à Delgado thì cha c ì ủa Dee phải là…”
“Penelope này, trông Dee giống dân Mỹ La-tinh lắm sao?”
Giọng cười chói tai của cô ta có thể làm vỡ cả pha lê. “Chị có ý gì vậy? Trông giống ‘Mỹ La-tinh’? Chị vui t ị ính qu í á đi, Lydia.”
Lydia cũng cười, nhưng với ẩn ý hoàn toàn khác.
“Trời ạ.” Penelope cẩn thận lau những giọt nước mắt ứa ra. “Kể cho tôi biết đi, có chuyện gì vì ậy?”
“Chuyện gì cơ?” ì
“Nào, thôi đi. Chị lúc nào cũng giấu chuyện cha của Dee và cả của chị nữa. Chúng tôi hầu như không biết tí gì cả.” Penelope nghiêng người lại thật gần cô. “Tiết lộ chút đi. Tôi sẽ không kể ai đâu.”
Lydia tính í nhanh bài toán lợi hại trong đầu. Về mặt lợi, nét di truyền chưa rõ ràng của Dee sẽ làm các Đức Mẹ phải co vòi thận trọng mỗi khi nói bóng gió bất cứ gì liên quan đến sắc tộc. Mặt hại là cô sẽ phải tham gia gây quỹ cho tổ chức cha mẹ - giáo viên.
Quả là một lựa chọn khó khăn. Kiểu kỳ thị “mát mẻ” là truyền thống của họ rồi.
“Đi mà.” Penelope năn nỉ, rỉ a vẻ xuống nước.
“Được thôi.” Lydia hít í sâu như thể cô sắp đánh ván bài đời mình. ì Cô bỏ vào đấy chút sự thật, rút ra một lời nói dối, thêm thắt, rồi trộn chúng lại.
“Tôi đến từ thành phố Athens, bang Geogia.” Mặc dù cặp ria mép giống Juan Valdez có thể đánh lừa chị. “Cha Dee tên là Lloyd, sống ở South Dakota.” Thực ra ở South Mississipi, nhưng nói bang South Dakota nghe có giá hơn. “Anh ấy được cha dượng nhận nuôi.” Ông lấy mẹ Lloyd chỉ để bà ta khỏi khai ra hắn. “Cha dượng của ảnh qua đời.” Trong tù. “Lloyd lái xe đến Mexico để báo tin cho ông bà nội.” Thực ra để nhận chuyển 20 ký cocaine. “Anh ta bị một xe tải tông phải.” Hắn chết trong thùng xe tải, khi đang hít cả nửa bánh cocaine. “Mọi chuyện xảy ra nhanh
quá.” Hắn bị quặn thắt rồi nôn mửa đến chết. “Dee còn chưa được biết mặt cha.” Đây cũng là điều đáng giá nhất tôi làm được cho con bé. “Hết chuyện.”
“Lydia này.” Penelope đưa tay bưng miệng, “Tôi thực sự không biết chuyện đã xảy ra như vậy.”
Lydia nhẩm tính í không biết bao lâu nữa chuyện này sẽ lan truyền ra ngoài. Lydia Delgado! Mụ góa phụ đáng thương!
“Mẹ của Lloyd ra sao?”
“Chết vì ung thư.” Bị tay ma cô của bà ta bắn vào mặt. “Bên nội không còn ai cả.” Chưa ai ra tù cả.
“Ôi, đáng thương quá.” Penelope vỗ vỗ tay lên ngực. “Dee chưa bao giờ nói gì vì ề chuyện này cả.”
“Nó biết hết đấy.” Ngoại trừ những phần khiến nó gặp ác mộng thôi. Penelope nhìn ì xuống sân bóng. “Thảo nào chị bảo bọc nó đến vậy. Nó là tất cả những gì cì òn lại của anh ấy.”
“Đúng vậy.” Trừ khi cô tính cả đám mụn rộp. “Tôi có mang Dee lúc chồng mất.” Phải trải qua quá trình cai nghiện kinh khủng. Họ sẽ loại bỏ cái thai, nếu tìm thấy ma túy trong người tôi. “Tôi thật may mắn khi có Dee.” Dee đã cứu mạng tôi.
“Ôi, bà bạn yêu quý.” Penelope chộp lấy tay Lydia khiến cô chán nản nhận ra câu chuyện mình ì kể đã thất bại. Nó đã lay động được Penelope phần nào, hoặc chí ít í cũng khiến cô ta tò mò, nhưng cô ta vẫn chưa quên nhiệm vụ của mình. ì Và nhiệm vụ đó phải được bàn giao. “Khoan, vẫn còn phần chưa kể về gốc gác của Dee phải không nào? Ý tôi là, cha mẹ kế thì vẫn chỉ là cha mẹ kế. Ở trường này có đến 31 đứa trẻ được nhận làm con nuôi, nhưng chúng vẫn thuộc về nơi chúng sinh ra!”
Phải mất một giây Lydia mới xử lý xong thông tin trên. “31 đứa? Chính x í ác là 31 đứa cơ à?”
“Đúng vậy đấy.” Penelope giả vờ kinh ngạc. “Cặp song sinh nhà Harris sắp vào mẫu giáo đấy. Chúng là cả một gia tài.” Cô ta hạ thấp giọng. “Cả một gia tài đầy chí rí ận, nếu chị tin l ị ời đồn.”
Lydia toan mở miệng, nhưng ngậm lại.
“Thôi, dù thế nào…” Penelope tươi cười đứng dậy, “cũng phải làm món ăn cho tôi trước nhé? Tôi biết chị thích í Dee đảm nhận những dự án đòi hỏi kỹ năng đặc biệt mà. Chị thật may mắn khi có con gái cùng vào bếp. Sẽ vui lắm.”
Lydia làm thinh. Việc duy nhất hai mẹ con Lydia làm chung trong bếp là cãi nhau xem chai sốt mayonnaise vẫn còn hay hết, để vứt đi. “Cám ơn chị đị ã tự nguyện tham gia!”
Penelope nhảy lên các hàng ghế trên, cánh tay nổi cơ khỏe mạnh. Lydia tự hỏi không biết Penelope sẽ mất bao lâu để kể lại cho các Đức Mẹ nghe về cái chết đau thương của Lloyd Delgado. Cha cô đã từng dạy, việc hóng hớt sẽ bị trả giá bằng việc bị người khác hóng hớt lại. Ước gì cha vẫn còn sống để nghe cô kể về các Đức Mẹ. Hẳn ông ấy sẽ cười chảy nước mắt cho xem.
Huấn luyện viên Henley thổi còi, ra hiệu cho các cô gái giãn cơ. Cái câu “dự án cần kỹ năng đặc biệt” cứ lởn vởn trong đầu Lydia. Vậy là chắc chắn các Đức Mẹ đã để ý rồi.
Lydia không hề thấy mình ì ác khi bắt con gái phải học lớp sửa xe căn bản. Như thế để nó biết cách tự thay bánh xe thủng. Hoặc cô cũng chẳng thấy gì quá đáng khi bắt con học võ tự vệ vào mùa hè, thậm chí nếu nó phải bỏ học bóng rổ đi nữa. Hay khăng khăng ép Dee tập la lớn khi sợ
hãi, bởi vì nó có tật chết trân lúc sợ. Im lặng là phản ứng tệ hại nhất khi đối mặt với thằng đàn ông định h ị ãm hại mình. ì
Lydia dám chắc là ngay bây giờ, bà mẹ của Anna Kilpatrick đang hối hận. Giá như bà ta đã dạy con bé biết thay bánh xe. Xe của nó được tìmì thấy ở bãi giữ xe ở trung tâm mua sắm. Lốp trước cán đinh. Chẳng chút khó khăn gì đì ể suy ra kẻ găm đinh chính l í à kẻ đã bắt cóc nó.
Huấn luyện viên Henley thổi hai hồi còi ngắn để bắt đầu trận đấu. Đội Những Cô Gái Westerly tụm lại thành nửa vòng tròn. Các Đức Mẹ đứng giậm cả chân lên ghế, cố gắng lên tinh thần cho trận đấu, dù lại sắp chứng kiến trận thua chắc. Đội bạn còn chẳng buồn khởi động. Thành viên thấp nhất đội kia đã cao tận lm83, bàn tay to ngang cái đĩa. ĩ
Cửa phòng thể thao mở ra. Lydia thấy Rick đang nhìn ì lướt qua đám đông. Anh đã nhìn ì thấy Lydia. Sau đó, anh ta nhìn ì vào hàng ghế trống đối diện. Cô nín í thở khi thấy anh phân vân. Sau đó, cô thở phào vì anh tìm ì đường đến chỗ cô. Anh từ từ bước qua các hàng ghế. Những ai phải lao động kiếm sống không hay nhảy qua ghế đâu.
Cô nói, “Chào.”
Rick nhón lấy túi khoai tây rỗng, nghiêng đầu ra sau, dốc chỗ vụn vào miệng. Hầu hết vụn khoai rơi vào xuống cổ và áo thun.
Lydia cười bởi vì ai n ì ỡ ghét người cười cơ chứ.
Rick nhìn c ì ô đầy đề phòng. Anh biết tỏng trò của cô rồi. Rick Butler thật khác hẳn các ông bố ở Westerly. Trước nhất, Rick là dân lao động chân tay thực sự. Anh làm thợ sửa xe ở một trạm xăng vẫn còn bán xăng cho các khách hàng lớn tuổi. Thường xuyên phải nhấc bánh xe lắp vào vành, nên ngực và cánh tay anh nổi cơ cuồn cuộn. Mái tóc đuôi ngựa thả sau lưng vẫn tồn tại, kệ cho hai người đàn bà trong đời anh đều hết sức muốn cắt phăng nó đi. Tùy theo tâm trạng, Rick có
lúc trông rất quê mùa, nhưng lại có lúc rất phá cách. Lydia yêu cả hai hiện thân ấy vì chì úng đều mang lại bất ngờ cho cuộc sống của cô. Anh trả lại túi bánh không. Hàm râu vẫn còn dính í đầy vụn khoai tây. “Ria đẹp đấy.”
Cô sờ mép môi khô. “Chúng ta vẫn cãi nhau à?”
“Em vẫn đang cáu à?”
“Bản năng của em bảo là đúng thế.” Cô thừa nhận. “Nhưng em rất ghét chúng ta cãi nhau. Cứ như là cả thế giới trong em đổ ụp xuống vậy.” Chuông báo khai trận vang lên. Cả hai đều nhíu í mày, hy vọng trận đấu bẽ mặt này sẽ chóng kết thúc. Nhưng lạ thay, các cô gái nhà Westerly đang xoay xở tốt theo lời chỉ dẫn của huấn luyện viên. Càng thần kỳ hơn, Dee đang dắt bóng lao lên phía trư í ớc.
Rick hét lớn, “Tiến lên, Delgado!”
Dee thấy rõ ba cái bóng lù lù bám sát ngay phía í sau.Không có ai để chuyền bóng cả. Con bé nâng bóng ném đại về phía í rổ. Đành nhìn ì quả bóng dội vào tấm bảng rồi bật ra ngoài dãy ghế trống bên kia sân. Lydia cảm thấy ngón út của hai người khẽ chạm nhau.
Rick hỏi, “Làm sao mà con bé chơi hay thế nhỉ?”ỉ
“Nhờ ăn ngũ cốc Wheaties thôi.” Lydia hầu như không thốt thêm được lời nào. Lòng cô luôn mềm nhũn mỗi khi thấy Rick yêu thương Dee đến mức nào. Chỉ thế thôi là cô có thể bỏ qua cho anh chàng đuôi ngựa này. “Em xin lỗi. Gần đây em quá đáng quá.” Cô thêm vào, “Gần đây ý là khoảng 10 năm nay.”
“Ừ, anh chắc chắn em đã như thế từ trước đó rồi.”
“Em đã từng vui tươi hơn thế này nhiều.”
Rick nhướng mày. Họ đã gặp nhau lần đầu ở hội “12 bước cai nghiện” cách đây 10 năm. Lúc ấy chẳng ai vui tươi gì cì ả.
“Em thon thả hơn thế này.” Lydia gắng pha trò.
“Ừ, vóc dáng góp phần quan trọng đấy.” Rick vẫn dõi theo trận đấu. “Chuyện gì khiến em thành như vậy? Gần đây lúc nào anh mở miệng, em cũng la hét như chó bị dị ội nước sôi vậy.”
“Anh không vui khi chúng ta sống riêng sao?”
“Em lại muốn cãi nhau nữa hả?”
Cô suýt nữa lại khơi mào. Lại cái câu “nhưng tại sao hai ta cứ phải ở chung, trong khi hai nhà ngay cạnh nhau nhỉ?” ỉ đang nằm ngay cửa miệng cô.
Cố gắng của cô không công cốc. “Tốt. Em biết không nói ra những điều không nên nói rồi đấy.” Rick huýt sáo cổ vũ khi Dee đang cố giành 3 điểm. Ném bóng trật rồi. Nhưng Rick vẫn giơ ngón tay khíchí lệ Dee khi con bé nhìn qua ph ì ía h í ọ.
Lydia rất muốn nói với Rick rằng Dee sẽ chẳng để ý gì đến cái khíchí lệ của anh đâu, nếu họ sống chung với nhau. Nhưng cô quyết định ị giữ lại lý lẽ ấy cho lần cãi nhau tới.
Rick thở dài khi đội đối thủ lấy được bóng, “Ôi trời, giờ thì xì ong rồi.” Con bé có đôi bàn tay to ngang cái đĩa ĩ đang chặn đường Dee. Nó thậm chí cí òn không buồn dang tay ra nữa.
Rick ngồi lại xuống ghế. Gác chân lên ghế trước. Trên đôi giày da đã nứt, vết dầu mỡ loang lổ. Dầu mỡ cũng lốm đốm lên cả quần jean. Người anh thoang thoảng mùi máy móc. Đôi mắt hiền hòa. Rick rất thương con gái của Lydia. Anh ấy cũng yêu động vật. Ngay cả lũ sóc. Anh đọc tất cả sách của Danielle Steele vì thích í tìm ì hiểu về các chương trình ì cai nghiện
tại nhà. Anh cũng chẳng để tâm nếu quần áo của Lydia dính í đầy lông chó, hay chuyện duy nhất Lydia thấy tiếc trong đời sống tình ì dục của hai người là cô không thể lên đỉnh ỉ trong cái lần chơi trò mặc áo trùm Hồi giáo.
“Vậy em phải làm gì?” L ì ydia hỏi.
“Nói ra cái gì đang l ì àm em phát điên.”
“Nói xong em sẽ phải giết anh.”
Rick cân nhắc vài giây rồi nói. “Được thôi. Nhưng đừng hủy hoại nhan sắc của anh nhé.”
Lydia nhìn ì bảng điểm. 10-0. Chớp mắt một cái. 12-0. “Chỉ là…” Cô không biết diễn đạt thế nào tiếp theo. “Chỉ lỉ à quá khứ lại lặp lại thôi.” “Nghe giống lời bài hát đồng quê nhỉ.ỉ” Rick nhìn ì vào mắt Lydia. “Anna Kilpatrick.”
Lydia cắn môi. Rick không hỏi mà đang khẳng định. ị Anh đã thấy Lydia cắt ra tất cả những mẩu tin liên quan đến vụ bắt cóc Anna Kilpatrick. Cả cái cách Lydia chực khóc bất cứ lúc nào tin tức cô bé mất tích đ í ó xuất hiện trên ti-vi.
Anh nói tiếp, “Nghe nói cảnh sát đã có manh mối mới.”
“Tất cả những gì hì ọ có thể làm bây giờ là cố tìm r ì a xác con bé thôi.” “Nó có thể vẫn còn sống mà.”
“Lạc quan đúng là chiếc cốc bạc trong trái tim anh.”
“Lại trích t í ừ một bài hát khác sao?”
“Từ cha em.”
Anh cười. Cô thích í nhìn ì những nếp nhăn quanh mắt anh dúm lại. “Cưng à, anh muốn em tránh xa mục tin tức, nhưng anh nghĩ em cần biết vài chuyện.”
Rick không cười nữa. Lòng Lydia bấn loạn.
“Anna chết rồi sao?” Lydia đặt tay lên cổ. “Họ đã tìm th ì ấy nó chưa?” “Không phải. Không phải chuyện này. Em biết mà.”
Cô biết chứ, nhưng tim vẫn đang đập loạn xạ.
“Anh đọc mục tin tội phạm hàng ngày sáng nay.” Rick lộ vẻ khó xử, nhưng anh vẫn tiếp tục nói. “Cách đây ba ngày, Paul Scott, kỹ sư, chồng của Claire Scott. Trong lúc đi xuống phố, họ đã bị cướp. Paul bị đâm. Chết trước khi nhập viện. Đám tang được tổ chức vào ngày mai.”
Các Đức Mẹ lại òa ra reo hò cổ vũ. Dee đã tìm ì cách giành được bóng. Lydia nhìn ì con gái chạy hết tốc lực qua sân. Đứa tay to như cái đĩa ĩ lao vào cướp được bóng. Nhưng con bé không bỏ cuộc mà bám theo. Nó không biết sợ là gì, ì không sợ bất cứ thứ gì trong cuộc sống cả. Tại sao nó lại không biết sợ ư? Vì chưa ai đánh nó ngã thôi. Đời chưa có dịp ị hại nó. Nó chưa bao giờ phải chịu ị mất mát. Nó chưa bao giờ phải trải qua cảm giác bị cưị ớp mất người thân.
Rick hỏi, “Em định n ị ói gì sao?” ì
Lydia có nhiều điều muốn nói lắm. Nhưng cô sẽ không để cho Rick thấy khía í cạnh kia của cô đâu: Cái khía í cạnh hung hãng, độc ác mà cô cố làm tê liệt đi bằng ma túy, và khi đã quá liều thì vi ì ện tới đồ ăn. “Liddie?”
Cô lắc đầu. Nước mắt lăn dài trên má. “Mong rằng hắn ta đã phải chịuị đau đớn.”
ii.
H
ôm nay là sinh nhật con. Sinh nhật lần thứ tư trôi qua vắng con. Như thường lệ, cha dành chút thời gian xem lại ảnh gia đình ì mình. ì Kỷ niệm dội về trong cha. Mỗi năm cha chỉ cho phép niềm vui này đến một lần, vì làm sống lại những kỷ niệm quý giá ấy giúp cha sống qua những ngày vô tận, vô định thi ị ếu vắng con.
Tấm hình ì chụp con ngày sinh nhật đầu tiên là tấm cha thích í nhất. Cha mẹ còn hào hứng hơn cả con ấy chứ, dù con vốn là đứa bé hoạt bát. Với con, sinh nhật chỉ là một ngày bình ì thường. Chẳng có gì đặc biệt ngoại trừ thêm một cái bánh. Nó lập tức tan tành dưới nắm đấm của con. Khách mời sinh nhật chỉ có cha và mẹ. Mẹ nói, thật vớ vẩn khi mời đông người vì con thậm chí không bao giờ nhớ nổi dịp ị này. Cha hoàn toàn đồng ý. Vì cha vốn ích í kỷ mà. Vì cha sung sướng nhất khi mẹ và con ở riêng bên mình. ì
Cha đã định ị thời gian cho cơn hoài niệm này tràn tới. Đúng hai giờ thôi. Không hơn không kém. Sau đó, cha lại cẩn thận đặt quyển album vào hộp, đóng nắp lại, đặt lên kệ, chờ dịp n ị ày năm tới.
Tiếp theo cha quay lại với công việc thường lệ: đến văn phòng tay cảnh sát trưởng. Hắn đã ngừng không trả lời điện thoại cha từ lâu rồi. Mắt hắn ánh lên nỗi khiếp đảm mỗi khi thấy cha qua bức ngăn kính. í
Cha là thách thức của hắn. Cũng là sự thất bại. Là cái nhọt không bao giờ lặn ở mông hắn. Là kẻ không bao giờ chịu ị chấp nhận sự thật con gái trốn nhà.
Vào lần sinh nhật đầu tiên vắng con, cha bước vào phòng hắn, điềm tĩnh ĩ đòi cho xem tất cả các hồ sơ liên quan đến con. Hắn từ chối. Cha dọa gọi báo chí đến. Hắn thách cha làm đi. Cha đến ngay bốt điện thoại
ở sảnh. Bỏ vào 20 xu. Hắn lao đến giật ống nghe gác máy, rồi bảo cha đi theo vào phòng họp ban.
Hết năm này qua năm khác, cha và hắn tái diễn cùng một màn như vậy. Đến mức hắn cuối cùng phải đầu hàng. Tên cấp phó dẫn cha vào lại căn phòng điều tra nhỏ. Trong phòng trưng ra tất cả hồ sơ liên quan đến vụ của con. Hắn mời cha ly nước, nhưng cha chỉ vào hộp cơm trưa và
bảo mình chu ì ẩn bị đị ủ rồi.
Không có lời tường thuật nào rõ ràng trong báo cáo cảnh sát. Hồ sơ của con không biết đâu là đầu, là giữa, là đuôi. Trong đó gồm nhiều bảng tóm tắt lời khai của nhân chứng (hầu hết đều bị bôi đen tên một cách không cần thiết), ghi chú viết tay từ thám tử bằng thứ ngôn ngữ cha vẫn chưa đọc thạo. Rồi những lời khai man đã được vạch trần, những nghi phạm giả (lại bị bôi đen tên), lời khai thật (ai mà không nói dối đôi phần khi bị thẩm vấn chứ), ghi chép phỏng vấn với danh sách nghi phạm chẳng tích í sự gì. ì (vâng, tên tuổi lại bị bôi đen như trong những văn bản khác.)
Hai tấm bản đồ khác nhau được bấm chung. Một tấm vẽ sơ đồ thành phố. Một tấm vẽ sơ đồ khu trường học, ghi lại dấu vết cuối cùng của con trong thành phố.
Ngoài ra còn có hai bức ảnh. Một bức chụp phòng ký túc xá của con, bộ đồ ưa thích í đã biến mất, đồ dùng vệ sinh cũng bị mất theo một cách bí ẩn, sách giáo khoa để lại, bài luận đang viết dang dở phân nửa, chiếc xe đạp cũng mất tích (sau n í ày đã được tìm th ì ấy.)
Trang đầu tiên trong hồ sơ cũng là trang đầu cha đã đọc vào lần sinh nhật đầu tiên vắng con. Đến sinh nhật thứ hai, thứ ba, rồi thứ tư. Vụ án để treo cho đến khi có tiếp manh mối mới.
Nếu là mẹ con, hẳn bà ấy sẽ dùng bút đỏ sửa chữ “tiếp” thành chữ “thêm”, nhưng cha lại mừng thầm khi biết họ đã sai ngay từ trang đầu tiên.
Thời tiết vào thứ Hai, ngày 4 tháng Tư năm 1991, như sau: Nhiệt độ cao nhất lên đến 51 độ, thấp nhất là 37 độ. Trời trong. Thậm chí một gợn mây cũng không có. Gió Tây Bắc thổi ở tốc độ 16 dặm/giờ. Lúc đó là 12 giờ, 23 phút giữa trưa.
Trên tin tức xuất hiện vài mục:
Phiên tòa khởi tố vụ giết Pamela Smart đã bắt đầu.
Rodley King bị cị ảnh sát Sở Cảnh Sát Los Angeles đánh.
Chiếc máy bay của hãng United Airline bị rị ơi gần Colorado Springs. Tổng thống Bush tuyên bố cuộc chiến với Iraq đã kết thúc. Con mất tích. í
Dưới đây là phần giải thích í của tay cảnh sát trưởng về lý do con rời bỏ chúng ta:
Con giận cha mẹ vì kh ì ông cho con dọn ra khỏi ký túc xá. Con cáu vì cha m ì ẹ không cho con lái xe đi xem hòa nhạc ở Atlanta. Con đã cãi em gái về nguồn gốc ra đời chiếc mũ rơm.
Con không thèm nói chuyện với bà nữa vì bà nói bóng gió chuyện con lên cân.
Tay cảnh sát trưởng đúng là không có con cái, nên hắn không hiểu được những lúc nóng giận thế này chỉ là phản ứng sinh lý của một cô gái trẻ 19 tuổi. Những cãi vã thế này chỉ là cơn lốc vặt vãnh trong cơ chế vận hành của một gia đình. ì Lúc đầu cha mẹ không báo với hắn các chi tiết đó.
Thế là, hắn tưởng cha mẹ đang cố che giấu điều gì đì ó.
Nhưng khách quan mà nói, con cũng không ngây thơ hoàn toàn trong mắt cảnh sát. Con đã bị bắt 2 lần trước đó. Lần đầu tiên, con bị bắt ở khu thí nghiệm bí mật của trường, lúc đang biểu tình ì chống lại nghiên cứu sinh vật biến đổi gen. Lần thứ hai, con bị bắt quả tang hút cần ở phía sau ti í ệm bán đĩa Wĩ uxtry, chỗ đứa bạn con, Sally, đang làm việc.
Dưới đây là những thứ gọi là “manh mối” mà tay cảnh sát trưởng dùng để củng cố cái giả thiết con bỏ nhà:
Lược và bàn chải của cô ta đã biến mất (Hay chỉ là con vô tình ì để quên chúng ở nhà tắm công cộng?)
Chiếc cặp da nhỏ trong tủ bạn cùng phòng cũng mất. (Có khi cô bé ấy cho bạn khác mượn vào kỳ nghỉ xỉ uân)
Một vài bộ đồ dường như cũng biến mất. (Hay là bạn con mượn mà không hỏi chăng?)
Chết tiệt nhất là, trên bàn con để lại một bức thư tình ì dang dở: Hôn em từ Paris… nắm tay em ở Rome.
Cái này, tay cảnh sát tuyên bố, là bằng chứng cho thấy con đã có ý định b ị ỏ nhà ra đi.
Cái này, em con nói, là bài bình ì luận dở dang của con cho bài hát “Justify my Love” của Madonna.
Tất nhiên con có một đứa bạn trai. Người cha nào chẳng biết quanh đứa con gái mới lớn của mình ì luôn có một cậu con trai. Nó hay đưa tay vò tóc, tự cuốn thuốc lá hút, thích í bày tỏ cảm xúc quá đà vượt mức chịuị đựng của cha. Con thích í nó, nhưng chưa hẹn hò. Có tin nhắn qua lại giữa hai đứa, kèm theo cả băng ghi âm cả các cuộc gọi đêm khuya.
Đoạn băng phát ra những mẩu chuyện trò tình ì cảm của hai đứa. Cả hai đều còn rất trẻ, nên đây có thể là khởi đầu cho tất cả, hoặc chẳng đi tới đâu.
Trả lời cho câu hỏi kinh điển, cậu ta đang đi cắm trại với gia đình ì vào đêm con mất tích. í Bằng chứng ngoại phạm vững chắc. Một bảo vệ khu cắm trại đã thấy cậu ta đi cùng gia đình. ì Ông này đã ghé khu cắm trại của nhà cậu để nhắc là có chó sói trong khu vực cắm trại. Cậu bạn trai ngồi cùng gia đình n ì ày, bàn luận bóng đá với người cha.
Đóng góp của anh bảo vệ không chỉ dừng ở đó. Sau này, anh ta còn gợi ra thêm một hướng lý giải khác, mà sau này tay cảnh sát trưởng coi luôn là chuyện thật.
Cũng trong tuần đó, đội kiểm lâm tình ì cờ gặp một đám lang thang dựng trại trong rừng. Chúng đã lang bang trong tiểu bang này một thời gian. Chúng mặc đồ tối màu, tự nhóm lửa nấu ăn. Khi xuống phố, chúng cúi đầu đi chui chúi, tay chắp sau lưng. Có vẻ chúng trữ cả ma túy nữa. Bởi vì nh ì ững thể loại thế này luôn luôn dính d í áng đến ma túy.
Có người đồn chúng là một giáo phái. Có người lại cho là chúng một đám vô gia cư. Người khác lại nói chúng đang lẩn trốn. Song, hầu như ai cũng đồng tình ì là chúng chỉ mang lại rắc rối. Còn con, con gái yêu của cha, nhiều bạn của con đã thông cảm mà gọi đám ấy là những tâm hồn tự do. Thế nên, tay cảnh sát trưởng mới lập luận rằng, vì thiếu địnhị hướng, nên đơn giản là con đã trốn ra ngoài gia nhập với đám người này.
Con từng tình ì nguyện làm việc ở mái ấm cho người vô gia cư, từng uống rượu khi chưa đủ tuổi, rồi lại bị bắt khi hút cần sa, thế nên lập luận trên nghe có vẻ hợp lý.
Lúc lập luận này đã bám rễ trong đầu tay cảnh sát trưởng, thì lũ lang thang, đám cuồng tín í hoặc những tâm hồn tự do (bất kể gọi bọn chúng là gì đi nữa) đã chuyển đi nơi khác. Chúng cuối cùng nán lại North
Caronlina, vừa ngáo thuốc lại còn tùy tiện vô tổ chức, nên khó nhớ được ai cùng chúng lang thang trong rừng trước đây.
“Cô ta trông quen lắm.” Một tên trong số ít í tên trong nhóm ban đầu viết trong tờ tường trình ì như vậy. “Nhưng ai chẳng có mũi, miệng, răng, thế thì tì ất cả chúng ta đều trông ‘quen quen’ à?”
Dưới đây là lý do vì sao ba m ì ẹ nghĩ con đ ĩ ã bị bị ắt cóc:
Con đúng là có nổi cáu với mẹ, nhưng hôm kia con vẫn về nhà. Con vừa nói chuyện với mẹ trong bếp, vừa giặt đồ.
Con đúng là có giận em gái, nhưng vẫn cho em mượn chiếc khăn choàng cổ màu vàng.
Con giận bà, nhưng vẫn chuẩn bị thiệp mừng sinh nhật. Con địnhị bụng email tấm thiệp vào ngày sinh nhật bà trong tuần tới. Cứ cho là vẫn có chút khả năng con bỏ vào rừng đi theo đám lông bông kia, thì cì ũng không thể nào con cứ thế đi mà không cho ba mẹ biết. Dưới đây là những gì cha m ì ẹ biết con đã làm vào ngày bị bị ắt cóc: Vào lúc 7 giờ 30 phút, sáng thứ Hai, ngày 4 tháng Ba, con cùng một vài bạn xuất phát từ mái ấm cho người vô gia cư đến quán Hot Corner để phân phát thức ăn và chăn. Lúc 9 giờ 48 phút, Carleen Loper, nhân viên giám sát đang trực ở Sảnh Lipscomb đã ghi lại thời gian con quay về ký túc xá. Bạn cùng phòng Nancy Griggs ra khỏi ký túc xá, để lên lớp học làm gốm vào lúc 10 giờ 15 phút. Nancy nói con mệt nên đã đi ngủ. Thầy dạy tiếng Anh nhớ là đã thấy con ở hội thảo vào buổi trưa. Ông ấy chỉ ra vài chỗ cần sửa trong bài luận về nhà văn Spenser của con. Theo ông ấy nhớ, thì hai thầy trò đã thảo luận rất sôi nổi. (Sau này, ông ấy được loại ra khỏi diện tình ì nghi, vì tối hôm ấy, ông ấy vẫn có lớp ở tòa nhà khác trong trường.)
Khoảng 1 giờ trưa, con đến Trung tâm Sinh viên Tate. Ở đây, con cùng với Veronia Voorhees ăn bánh mì kì ẹp phô mai nướng và rau trộn. Đoạn tiếp theo, thông tin trở nên mơ hồ. Dựa vào các cuộc phỏng vấn, tay cảnh sát trưởng cố gắng tổng hợp một danh sách các việc con có thể làm xảy ra chiều hôm đó. Con ghé qua văn phòng Đỏ & Đen, để gửi bài viết về nỗ lực tư nhân hóa dịch ị vụ cơm nước ở trường Đại học Georgia (UGA). Con quay về trường chơi bi-da với một bạn nam tên Ezekiel Mann. Con ngồi trên chiếc ghế bọc nỉ ở hành lang cùng một bạn nam khác tên David Conford. Cậu này tiết lộ với con rằng, nghe nói tối nay, Micheal Stipe, danh ca chính í của nhóm REM, sẽ xuất hiện ở quán Manhattan Cafe. Những người bạn gần đó khẳng định ị nghe thấy Conford rủ con đi chung. Nhưng, cậu ta khăng khăng nói không có hẹn hò gì vì ới con cả.
“Bọn cháu chỉ là bạn thôi,” Conford nói trong lời khai. Tên cấp phó phỏng vấn cậu ta ghi chú thêm, rõ ràng cậu nhóc này còn muốn nhiều hơn thế. (Nhiều nhân chứng đã thấy cả Mann và Conford đều ở Trung tâm Sinh viên vào tối hôm đó.)
Vào lúc hoặc khoảng 4 giờ 30 phút chiều hôm đó con rời khỏi Trung tâm Sinh viên Tate. Con đi bộ về nhà, bỏ xe đạp lại bên ngoài trung tâm. Có thể vì trời lạnh, nên con không muốn bị rét cóng khi phi xe lao xuống đồi Baxter. (Hai tuần sau, xe đạp của con được tìm ì thấy xích í vào hàng rào bên ngoài trung tâm.)
Theo theo dõi trên máy tính, í khoảng 5 giờ tối, con quay về ký túc xá. Bạn cùng phòng Nancy nhớ thấy con hào hứng báo tối nay Michael Stipe sẽ đến Manhattan. Thế là, hai đứa quyết định ị sẽ tụ tập bạn bè và ra ngoài trễ tối hôm đó. Hai đứa con vẫn chưa đến tuổi vào quán, nhưng
có quen biết với John MacCallister, tên gác cửa từ hồi học cấp 3. Nancy gọi thêm nhiều bạn bè. Thời gian gặp được chốt vào 9 giờ 30 phút tối. Giáo viên dạy môn tâm lý đã xếp lịch ị thi trước kỳ nghỉ xuân, nên con và Nancy đến thư viện phía í Bắc học bài. Khoảng 8:30 tối, hai đứa đều được nhìn ì thấy ở Taco Stand, một nhà hàng ở góc khuất, dưới mái vòm sắt màu đen trên lối đi chính í dẫn vào ký túc xá. Con mua thức ăn đem về. Con đi vào qua cổng sau đã được chèn mở sẵn, nên Beth Tindall, bà giám sát trực ban đêm, không ghi lại được giờ về của con. Lên lầu, con và Nancy tắm rửa, diện đồ cho buổi đi chơi tối. Con mang một đôi giày vải, quần jean đen, áo nam cài nút kín í cổ, khoác áo ghi lê thêu chỉ vàng bạc. Cổ tay đeo xuyến bạc. Cổ đeo dây chuyền mặt trái tim lấy của em gái.
Sau đó, Nancy không nhớ rõ liệu con có cầm về cái rổ đựng đồ dùng vệ sinh sau khi dùng nhà tắm chung không nữa (Cái rổ ấy sau này không còn trong phòng nữa). Nancy nói thêm trong lời khai rằng, đồ đạc bỏ quên trong nhà vệ sinh bị mị ất cắp hoặc vứt đi là bình thư ì ờng.
Vào lúc 9 giờ 30 phút, con gặp bạn ở quán Manhattan Cafe. Tin Michael Stipe diễn ở quán này hóa ra là tin vịtị . Có người nói họ đang lưu diễn ở Châu Á. Người khác nói họ đang ở California.
Cả đám đều tiu nghỉu ỉ nhưng bọn con vẫn đồng ý sẽ ở lại uống nước. Hôm đó là tối thứ Hai. Trong nhóm chỉ có mỗi con phải lên lớp sớm sáng hôm sau. Điểm này về sau bất lợi cho con. Nancy tưởng con về nhà giặt đồ. Còn cha mẹ thì tưì ởng con ở trường.
Đầu tiên tụi con uống một chầu Pabst Blue Ribbon, mỗi ly có giá 1 đô la. Lát sau, mọi người thấy con cầm ly Moscow Mule, có giá 4.5 đô la và ly vodka soda gừng chanh Blenheim. Nancy Griggs đoán một người đàn
ông nào đó đã mua cho con. Vì các cô gái thường gọi món mắc tiền khi đàn ông trả.
Nghe đến bài hát con thích, í con bắt đầu nhảy nhót. Có người nói bài hát của nhóm C+C Music Factory. Người khác lại nói là của nhóm Lisa Lisa. Dù bài nào, thì con cũng đã hâm nóng bầu không khí. í Sàn nhảy nhanh chóng đầy người.
Đêm đó, không có đứa con trai nào lọt vào mắt con cả. Tất cả bạn bè con đều nói, con nhảy vì con thích í nhảy, chứ không phải để thu hút đàn ông. (Vì thế con không phải là ả lẳng lơ, dù tên cảnh sát trưởng cố chứng minh điều đó.)
Vào đúng 10 giờ 38 phút, con nói với Nancy rằng con bị đau đầu nên sẽ về ký túc xá trước. Nancy biết chính í xác giờ vì con bé có nhìn ì đồng hồ. Nó nhắc con ngồi nán đến 11 giờ để về chung luôn. Con bảo không chịu ị thêm được nữa, và nhắc cô bạn khi về phòng sau thì cố gắng nhẹ nhàng.
Tay cảnh sát trưởng chắc chắn đã hỏi Nancy về tình ì trạng tỉnh ỉ táo của con lúc đó. Hắn ghi chú lại rằng Nancy nói con không có vẻ gì bị say cả, nhưng con ngáp liên tục và dường như mất tập trung.
Câu cuối cùng trong lời khai của Nancy đơn giản là: “Sau 10 giờ 38 phút, cháu không còn gặp lại bạn ấy nữa.”
Không ai gặp lại con sau đó. Ít nhất không ai trong số những người định l ị àm hại con.
Lời nói cuối cùng của Nancy cũng là câu cuối cùng trong hồ sơ của con. Ba mẹ chẳng biết được thêm gì cả. Giống như tay cảnh sát trưởng nói, chúng tôi chưa có thêm gì mì ới cả.
Còn đây là những điều hắn chưa biết và mẹ con không muốn tin: Cha nhớ đã nhìn ì đồng hồ vào đêm đó. Đó là lúc 11 giờ kém, gần vào thời
điểm con bị bị ắt đi.
Cha mẹ đang ăn tối ở nhà hàng Harry Bissett’s Grill ở phố Broad, cách Manhattan khoảng 5 tòa nhà. Mẹ con xuống cầu thang tìm ì nhà vệ sinh. Phục vụ đem hóa đơn đến. Cha nhìn ì đồng hồ (nên nhớ được khoảnh khắc ấy). Em gái út của con đang ở nhà học bài với bạn. Con bé đủ lớn để tự biết khi nào đến giờ đi ngủ. Vì thế cha quyết định ị gọi thêm món tráng miệng mẹ con thích. í
Cha nhớ dáng bà ấy bước lên lại từ cầu thang, cha cứ cười hoài, bởi vì mẹ con rất đẹp vào đêm hôm ấy. Tóc xõa sau vai. Diện một chiếc váy cotton trắng ôm trọn lấy đường cong ở hông. Khi mẹ con cười lại với cha, trái tim cha như nổ tung. Có lẽ cha yêu mẹ con nhất vào thời khắc đó: vợ tôi, bạn tôi, người phụ nữ đã ban cho tôi những đứa con ngoan ngoãn, thông minh, đẹp đẽ.
Mẹ con ngồi xuống đối diện cha. Cha nắm lấy tay bà ấy.
“Anh cười gì vì ậy?” Mẹ con hỏi.
Cha hôn vào cổ tay bà ấy. Câu trả lời của cha lúc ấy theo cảm xúc hoàn toàn là sự thật: “Bởi vì mì ọi thứ hoàn hảo quá em ạ.” Giờ thì cha đ ì ã biết cha là ai:
Một thằng ngốc.
CHƯƠNG 3
C
ô ấy vừa mới chôn cất chồng xong.
Claire lặp đi lặp lại câu này trong đầu, như thể cô đang tường thuật hơn là chính b í ản thân đã trải qua biến cố đó.
Claire Scott vừa mới chôn cất chồng xong.
Còn nhiều hơn thế nữa. Buổi lễ diễn ra rất lâu với nhiều cảnh Claire phải nhớ lại bằng đôi mắt người kể chuyện lạnh lùng.
Chiếc hòm xám ánh màu thép lạnh. Thảm hoa huệ trắng phủ lên nắp hòm. Đất ướt dậy mùi hăng hăng khi chiếc máy hạ thi thể anh vào trong mộ. Đầu gối Claire không còn trụ vững nữa. Bà ngoại phải xốc cô dậy. Mẹ chìa tay ra. Claire lắc đầu. Cô nghĩ đến những vật cứng: Sắt. Thép. Paul. Phải tận đến khi họ leo lên phía sau chiếc xe hòm màu đen, Claire mới thật sự nhận ra cô sẽ không bao giờ thấy chồng mình nữa.
Cô về nhà - căn nhà nơi họ đã từng chung sống. Trên con đường vào uốn lượn, người ta thường thấy cô đậu xe ở đó, lấn cả ra đường chính. í Hai vợ chồng cùng nướng bánh mì, ì cùng tán gẫu. Trong di chúc, Paul muốn có người thức canh bên quan tài. Từ này khiến Claire ám ảnh. Cô
tự hỏi: Thức, như thể Paul sẽ tỉnh ỉ lại ư? Thức, như thể anh sẽ không an nghỉ?ỉ
Claire cảm giác cách nghĩ thứ hai có lý hơn. Sự an yên đã bị khuấy động. Cô bị rơi trong vòng xoáy nước. Quẫy đạp chống lại nỗi đau. Chết đuối trong thương cảm.
Có rất nhiều cú điện thoại, vòng hoa và phúng điếu được gửi đến Paul. Hội Kiến trúc Nhân đạo. Hội Môi trường sống Nhân đạo. Cộng đồng Ung thư Mỹ, mặc dù Paul không chết vì ung thư ì .
Liệu có một tổ chức từ thiện cho các nạn nhân bị giết? Chắc chắn Claire phải tìm ì hiểu mới được. Còn kịp ị chăng? Bốn ngày đã trôi qua kể từ cái đêm kinh hoàng đó. Đám tang đã mãn cuộc. Những người cô không gặp cũng không liên lạc trong nhiều năm cũng gửi điện chia buồn. Họ cứ kể về cảm nghĩ của mình ì về cô và về Paul rằng, Paul là một
người đàn ông tốt, rằng họ sẽ luôn ở đó bên cô.
Ở đó là ở đâu? Claire cứ gật đầu khi họ nói câu ấy ở đồn cảnh sát, bệnh viện, ở nhà tang lễ, chỗ hạ huyệt. Nhưng cô cũng không biết họ nói “ở đó” là ở đâu cả.
“Chị sao r ị ồi?” Họ hỏi, “Chị cị ảm thấy thế nào?”
Hồn lìa khỏi xác.
Cụm này mô tả chính í xác nhất cảm giác của Claire lúc này đây. Đêm qua, cô đã tra lại định ị nghĩa ĩ của cụm từ ấy trên iPad để chắc chắn mìnhì dùng đúng từ.
Tồn tại không có thể xác hoặc tách rời thể xác.
Thiếu kết nối rõ ràng với nguồn vật chất.
Một lần nữa, địnị h nghĩa ĩ thứ hai vẫn đúng hơn với trường hợp của cô. Paul chính í là nguồn vật chất của cô. Anh neo cô lại với cuộc sống này, cột cô vào thế giới này, vì bản chất của cô là muốn bềnh bồng trên mọi thứ, như thể chuyện xảy ra luôn là chuyện của người khác.
Suốt bốn ngày qua, cô cảm nhận mạnh mẽ cảm giác hồn lìa ì khỏi xác ấy. Bắt đầu từ khoảnh khắc tên Đầu Rắn bảo họ quay lại. Cho đến khi cảnh sát, nhân viên khâm liệm hỏi cô muốn nhìn ì lại xác chồng lần cuối không? Nghe từ “xác”, mặt cô mới tái nhợt, rồi vỡ òa như đứa trẻ. Bởi vì
cô đã luôn ở bên Paul từng giây từng phút kể từ lúc họ gỡ Paul ra khỏi tay cô, hòng xua đi hình ì ảnh không còn sự sống của anh ra khỏi tâm trí cô.
Claire Scott muốn gặp lại chồng.
Cô không muốn thấy lại xác chồng.
Cô nhìnì chằm chằm ra cửa kíní h xe. Họ đang tiến chầm chậm hòa vào dòng xe cộ dày đặc ở bang Atlanta. Đám đưa tang bị cắt ra thành hai hàng ở phía í sau. Chỉ có chiếc xe hòm của họ có thể vượt lên trước. Không phải như ở thôn quê, nơi người lạ tôn trọng nhường đường cho đám tang đi qua. Họ tảng lờ nhóm cảnh sát đang chạy mô-tô mở đường phía í trước. Họ phớt lờ luôn lá cờ tang màu vàng cắm trên đoàn xe. Họ không để ý ai cả ngoại trừ Claire. Cô có cảm giác cả thế giới đang nhìnì theo đuôi xe để cố thấy được một nét đau buồn nơi cô.
Cô cố nhớ lại lần cuối mìnhng ì ồi xe limousine. Đã mấy chục năm trôi qua kể từ lúc cô cùng mẹ và bà cùng ngồi một xe. Chuyến xe limousine đúng ra phải đưa cô và Paul ra sân bay. Bên dịch ị vụ xe đã đổi cho cô chiếc xe cao cấp hơn thay vì dì òng xe mui kín th í ông thường. “Chúng ta đi chơi hội nhé?” Paul hỏi.
Hai vợ chồng khi ấy đang trên đường đi Munich để tham dự một hội thảo kiến trúc. Paul đã đặt phòng ở khách sạn Kempinski. Sáu ngày tràn đầy sung sướng, Claire bơi trong hồ khách sạn, mát-xa người, mát-xa mặt, gọi dịch ị vụ phòng, đi mua sắm với các bà phu nhân Trung Đông giàu có. Chồng họ đến Đức để khám chữa bệnh. Paul về ăn tối cùng cô và
hai người đi dạo khuya trên phố Maximilianstrasse.
Nếu cố nhớ thêm, cô nhớ được cảm giác nắm lấy bàn tay anh, cùng anh dạo qua các ô cửa tối của các cửa tiệm đã đóng cửa. Giờ cô không bao giờ được nắm tay anh nữa. Cô sẽ không bao giờ còn được cuộn tròn trên giường, gối đầu vào ngực anh nữa. Không còn những buổi sáng thấy anh xuống nhà ăn sáng, mặc chiếc quần short nhung xấu xí mà cô thậm ghét. Không còn những buổi thứ Bảy cả hai
cùng ngồi trên ghế dài, anh xem bóng đá, còn cô đọc sách. Không còn dịp ị đi ăn tiệc công ty, tiệc thử rượu hay đi đánh golf nữa. Thậm chí giờ đây nếu cô có đi, thì chúng còn ý nghĩa ĩ gì nữa, nếu thiếu tiếng cười của Paul?
Claire há miệng thở dốc. Chiếc xe hòm đóng kín í này như muốn bóp ngạt cô. Cô kéo kính x í e xuống, hít l í ấy một hơi khí lí ạnh bên ngoài. “Chúng ta sắp đến rồi.” Mẹ cô nói. Bà ngồi đối diện Claire. Tay bà đặt lên mấy bình ì rượu trên giá bên cho yên, vì âm thanh thủy tinh chạm nghe như móng tay cào bảng đen.
Ginny, bà của Claire, cài lại cổ áo, nhưng không tỏ lời kêu lạnh. Claire kéo cửa kính í lên. Cô toát mồ hôi. Phổi run rẩy. Cô không nghĩ gì được xa hơn vài tiếng đồng hồ tới. Trong căn nhà ấy sẽ có đến hơn trăm người. Cộng sự của Paul ở công ty, Adam Quinn, đã biến danh sách khách mời lễ canh thức thành danh sách khách đi họp cho công ty Quinn + Scott. Có cả một thượng nghị sĩ Mỹ, nhiều quan chức đầu ngành và những cô vợ trẻ của họ; giám đốc các quỹ đầu tư mạo hiểm, chủ ngân hàng, chủ nhà hàng, thầu xây dựng và một đám khoe khoang mà Claire chưa từng gặp. Nói thẳng ra, cô chưa bao giờ muốn gặp, nhưng họ sẽ sớm có mặt trong căn nhà đó.
Căn nhà của hai người.
Hai người sống ở Dunwoody, thuộc khu ngoại ô ngay bên ngoài Atlanta. Lô đất thả dốc thoai thoải. Trên đỉnh ỉ từng có một ngôi nhà nhỏ. Một chiếc đu bằng lốp xe đung đưa ở sân sau. Ngày đầu tiên đến, xe ủi đã san bằng tất cả. Paul tự tay thiết kế lại toàn bộ căn nhà. Anh biết rõ
mọi ngõ ngách, từ cái đinh đến con vítí . Anhấy có thể nói vanh vách mỗi sợi dây dẫn đến đâu và được dùng để làm gì.ì
Còn đóng góp của Claire vào toàn bộ công trình ì là giúp Paul dán nhãn tên. Paul khoái dán nhãn tên. Cái modem thì dán nhãn MODEM. Cục router thì dán nhãn ROUTER. Đến van khóa nước cũng cột một miếng nhãn dán to đùng. Mỗi thiết bị đều được dán nhãn ghi ngày chúng được lắp đặt. Mọi thứ đều có một tập ghi chép mỏng, từ chuẩn bị
máy nước ngoài trời cho mùa đông, cho đến cách sửa lỗi dàn âm thanh hình ì ảnh trông cứ như bảng điều khiển điện tử của NASA. Quản lý căn nhà ấy đúng nghĩa ĩ là công việc bán thời gian. Mỗi đầu tháng Một, Paul đều đưa cho Claire một danh sách các nhà thầu để cô sắp xếp lịch ị hẹn họ đến bảo hành, nào là máy phát điện, máy đo địaị nhiệt, cửa nhà để xe, máng nước bằng đồng, mái nhà bằng chất liệu tổng hợp, hệ thống tưới tiêu, giếng nước cho hệ thống tưới, đèn sân, thang máy, thiết bị thị ể thao, thiết bị hị ồ bơi, và cả hệ thống an ninh. Đây chỉ mới là những việc cô mới nhớ ra thôi. Mới cách tháng Một chưa đến một tháng, ai cô sẽ gọi tiếp theo đây? Claire có tật vứt bảng danh sách đi ngay sau khi người thợ sửa cuối cùng rời đi. Paul có lưu những danh sách ấy vào đâu không nhỉ? ỉ Liệu cô có biết đường tìm ì ra chúng không đây?
Tay Claire bắt đầu run rẩy. Mắt trào nước. Cô bị choáng vì có quá nhiều thứ cô không biết phải làm sao cả.
Mẹ cô hỏi, “Sao vậy con?”
Cô chùi nước mắt, cố gắng dùng lý trí khống chế nỗi sợ. Tháng Một để năm tới tínhí . Còn giờ phải “thức” cho qua cái lễ sắp tới đã. Claire chưa được ai chỉ tổ chức một buổi ăn uống thế nào cả. Bên cung cấp đồ ăn chắc đã đến cách đây một giờ rồi. Các thứ rượu đã được giao đến vào sáng nay. Lúc Claire bận chuẩn bị đồ tang, người làm vườn đã ra sân dọn lá rồi. Hồ bơi đã được vệ sinh hôm qua, vào lúc bàn ghế chưa dỡ ra.
Có hai nhân viên pha chế và sáu người phục vụ. Bánh đậu đen nhân tôm. Bí ngòi và bánh ngô chiên. Gà sốt chanh cay ăn với dưa muối. Thịtị heo cuộn mù tạt, món này Claire chỉ đặt thêm cho vui nhưng lại luôn là món đầu tiên bên cung cấp đồ ăn hết hàng vì ai cũng thích í những miếng bánh hot dog nho nhỏ đó.
Cái dạ dày trống rỗng của Claire ợ lên khi nghĩ tới đồ ăn. Cô nhìnì chằm chằm vào bình ì rượu trong xe hòm. Tay mẹ cô đang đặt hững hờ trên nút chai. Chiếc nhẫn cưới đính í đá sapphire là món quà từ người chồng thứ hai. Một người đàn ông hiền hòa đã ra đi lặng lẽ vì cơn đau tim, 2 ngày sau khi nghỉ hưu ở phòng nha. Bà Helen Reid năm nay 62 tuổi, nhưng bề ngoài trông chỉ mới xấp xỉ tuổi Claire. Helen có một làn da đẹp vì làm việc ở thư viện làm việc suốt 40 năm. Thực tế là, suốt những năm còn trẻ của Claire, người ta hay nhầm Claire và mẹ là hai chị
em.
“Con muốn uống không?” Helen hỏi.
Theo phản xạ, miệng Claire toan nói không, nhưng lại phát ra từ: “Vâng.”
Helen lấy chai rượu ra, hỏi, “Ginny, mẹ uống luôn chứ?” Bà mỉm cư ỉ ời, “Không. Cám ơn con.”
Helen rót nhiều gấp đôi bình ì thường. Tay Claire run run nhận lấy ly. Sáng nay, cô đã uống thuốc an thần Valium. Nó chẳng có tác dụng gì cả. Thế là, cô uống thêm một ít í thuốc giảm đau sót lại từ lần rút tủy răng. Đáng ra cô không nên uống rượu ngay sau khi uống thuốc. Tuy nhiên, trong tuần này, cô đã lỡ phạm rất nhiều chuyện rồi.
Cô nốc rượu vào miệng. Đầu óc cô lóe lên hình ì ảnh của Paul. Cách đây 4 ngày, anh vẫn còn đang uống rượu Scotch ở nhà hàng đây mà. Cô vội bụm miệng. Rượu vừa xuống dạ dày lại trào ngược lên.
“Trời ạ.” Ginny vỗ vào lưng Claire. “Ổn không cháu?”
Claire gập người gắng nuốt rượu ngược vào trong. Một bên má nhói đau. Trên má vẫn còn vết trầy xước lúc mặt bị chà vào tường trong con hẻm đó. Ai cũng tưởng vết ấy do lúc bị cướp, chứ không phải từ trước đó.
Ginny nói tiếp, “Hồi cháu còn bé, bà từng cho cháu uống rượu Scotch với đường để trị ho. Nh ị ớ không?”
“Nhớ ạ.”
Bà cười với Claire bằng niềm cảm thông chân thành nhất. Nhưng cô vẫn chưa quen với cảm giác này. Năm ngoái, bà được chẩn đoán mắc một loại bệnh gọi là chứng mất trí nhớ tích í cực, nghĩa ĩ là bà đã quên sạch mọi thứ ám ảnh và tính í khí khó chịu. ị Bà thay đổi lại khiến mọi người e dè. Họ như đang chờ đợi bà Ginny cũ sẽ hồi sinh như phượng hoàng tỉnh l ỉ ại thiêu đốt họ lần nữa.
Helen bảo Claire, “Đội tennis của con cũng đến kìa. ì Họ tốt với con quá.”
“Vâng.” Claire cũng bất ngờ khi họ đến. Lần cuối cô gặp họ là khi bị nhấn đầu đẩy vào ghế sau xe cảnh sát.
“Họ ăn mặc đẹp quá chừng,’’Ginny nói. “Cháu có bạn dễ thương quá.” “Cám ơn bà,” Claire đáp, mặc dù cô không chắc họ đến vì vẫn là bạn của cô, hay vì không thể bỏ lỡ dịp ị giao lưu thú vị này. Từ thái độ của họ ở đám tang khó biết lý do nào là thật. Họ ôm hôn cô, ngỏ lời chia buồn, sau đó tự động tản đi khi Claire đi chào các vị khách khác. Cô không nghe thấy, nhưng thừa biết họ đang nói gì: ì Bình ì luận cách ăn mặc của mọi người, hóng hớt ai ngủ với ai, vụ ly hôn này nọ sẽ tốn bao nhiêu tiền…
Claire cảm giác như hồn cô đang thật sự lìa ì khỏi xác, bay lơ lửng trên đầu họ, nghe họ thì thầm, “nghe nói Paul lúc đó đã xỉn. ỉ Tại sao cả hai lại lang thang vào con hẻm đó nhỉ? ỉ Họ nghĩ có cái gì hay ho ở khu đó chứ?” Sẽ luôn có ai đó lại cười nhạo, “Một người đàn bà trong bộ tennis màu đen nên gọi là gì nh ì ỉ? ỉ Ả góa phụ Dunwoody.”
Cả đời Claire đã quen làm bạn với mấy cô nàng xấu bụng kiểu này rồi. Cô đủ đẹp để làm thủ lĩnhĩ , nhưng không đủ bản lĩnh ĩ khiến đám sói cái ấy sợ hãi quy phục. Thay vào đó, cô lại trầm tính, í hay cười hùa theo mấy trò đùa, lẽo đẽo theo chúng ở các khu mua sắm, ngồi ở vị trí bất tiện trên băng ghế sau, và không bao giờ để chúng biết cô đã lén ăn nằm với cả đám bạn trai của chúng.
Ginny hỏi, “Con bị bị ắt vì đì ánh nhau với cô bạn nào?”
Claire lắc đầu để rũ bỏ hình ì ảnh đó. “Cô ta không có ở đó. Và không phải tội đánh nhau mà là tội gây rối. Hai tội, theo luật, khác nhau xa đấy.”
Ginny mỉm ỉ cười nhẹ, “Ừ. Bà chắc chắn cô ta sẽ gửi thiệp tới. Ai cũng yêu quý Paul cả mà.”
Claire và mẹ trộm nhìn nhau. ì
Bà Ginny thậm ghét Paul. Bà còn ghét hơn khi Claire sống chung với Paul. Bà vốn là một góa phụ phải nuôi cha Claire bằng đồng lương ít í ỏi từ việc làm thư ký. Nhưng bà lại trưng những vất vả đó ra như huy hiệu danh dự. Những bộ quần áo thiết kế riêng, trang sức, nhà cao cửa rộng, xe hơi đắt tiền, kỳ nghỉ xa hoa của Claire lãnh đủ sự xem thường của người đàn bà sống sót qua cuộc khủng hoảng kinh tế, Thế chiến, cái chết của chồng, cái chết của hai người con và vô số những khó khăn khác.
Claire vẫn nhớ như in một lần cô mang đôi giày da hiệu Louboutin đến thăm bà.
“Giày đỏ chuyên dành cho trẻ con mới tập đi hoặc bọn đĩ thõa.” Bà mỉa mai. ỉ
Sau này, Claire kể lại với Paul. Paul lại đùa, “Vậy có đáng sợ không, nếu anh thích c í ả hai?”
Claire đặt lại ly không vào giá đỡ. Cô nhìn ì chằm chằm ra ngoài cửa kính í xe. Cô cảm giác đã thoát ly đến mức không nhận ra cảnh quen thuộc nữa. Phải lát sau cô mới nhận ra họ sắp về tới tổ ấm của mình. ì Tổ ấm.
Từ này không còn hợp nữa rồi. Không có Paul thì làm sao thành tổ ấm chứ? Đêm đầu tiên khi cô trở về nhà. Căn nhà đột nhiên quá rộng rãi, quá trống trải với một mình c ì ô.
Paul muốn nhiều hơn thế. Anh bàn về chuyện con cái trong lần hẹn hò thứ hai, thứ ba, rồi vô vàn những ngày sau này. Anh kể cho Claire nghe về gia đình ì mình. ì Cha mẹ anh mới tuyệt vời làm sao. Anh đã suy sụp thế nào khi mất họ. Năm Paul 16 tuổi, cả gia đình ì anh đều mất trong một vụ tai nạn xe giữa cơn bão tuyết lớn. Lúc ấy Paul chỉ mới là đứa trẻ. Chỉ có người chú là họ hàng duy nhất còn sót lại. Ông cũng qua đời khi Paul tới Auburn.
Chồng Claire đã nói rõ từ đầu rằng anh muốn có một gia đình ì lớn. Anh muốn có nhiều thật nhiều con cái để bù đắp lại những mất mát hồi nhỏ. Claire cũng hợp tác với anh nhiều lần cho đến khi cuối cùng cô cũng chịu ị đi gặp chuyên gia tư vấn sinh sản. Bà ta báo với Claire rằng cô không thể có con, vì cì ô đang dùng vòng và thuốc tránh thai.
Dĩ nhiên Claire không nói ra điều này với Paul. Cô lại bảo chồng rằng bác sĩ chẩn đoán cô mắc một chứng gọi là “Tử cung không thể thụ thai”
được. Tất nhiên đúng rồi, bởi vì làm sao thụ thai được khi có một ống hút chặn ngay cổ tử cung.
“Sắp tới rồi,” Helen báo. Mẹ vươn người tới vỗ vỗ vào đầu gối Claire, “Chúng ta sẽ vượt qua được, con yêu à.”
Claire nắm lấy tay mẹ. Mắt cả hai đều ngấn nước. Cả hai đều nhìn ì qua hướng khác để tránh chạm vào mắt nhau.
“Có mộ để viếng là tốt rồi cháu à.” Ginny nhìn ì ra ngoài cửa, miệng mỉm ỉ cười nói. Không biết trong đầu bà đang nghĩ gì nữa. “Khi cha cháu mất, bà nhớ đã đứng trước mộ con trai và nghĩ: ĩ Đây là nơi mình ì có thể trút bỏ đau buồn. Dĩ nhiên, không phải ngay lập tức trút ngay được đâu. Nhưng bà đã có nơi để ghé thăm. Mỗi lần thăm, rồi quay lại xe, bà lại thấy như đau buồn từng chút một tan đi.”
Bà Helen phủi xơ vải li ti trên váy.
Claire gắng nhớ lại những kỷ niệm đẹp về cha. Lúc Claire vào đại học, mẹ gọi điện báo cha mất. Vào cuối cuộc đời, cha rất đau khổ và suy sụp. Thậm chí kh í ông ai bất ngờ khi biết ông tự sát.
Ginny hỏi, “Cô bé mất tích đ í ó tên gì nh ì ỉ?”ỉ
“Anna Kilpatrick.”
Chiếc xe hòm chạy chầm chậm rẽ vào lối vào. Helen xích í lại gần cửa kính đ í ể nhìn r ì õ hơn bên ngoài. “Cổng này vốn luôn để mở sao?” “Con đoán bên cung cấp thức ăn…” Claire chưa kịp ị nói hết câu, thì đã thấy cảnh sát đứng ngay sau xe cung cấp thức ăn. “Ôi trời, gì nì ữa đây?” Cảnh sát ra dấu cho xe hòm tấp vào lối dẫn vào khu nhà chính. í Helen quay qua Claire, “Con đã làm gì vì ậy?”
“Gì cơ?” Claire không tin nổi mẹ lại hỏi thế. Nhưng cô nghĩ đến thuốc an thần Valium, thuốc giảm đau Tramadol, rượu Scotch, rồi viên giám
sát lạnh lùng. Hắn đã nói miệng lưỡi sắc sảo của cô rồi sẽ có ngày gây rắc rối. Claire đáp ngày đó đã đến và qua rồi; rằng cô sẽ không còn cần cảnh sát giám sát nữa.
Phải chăng hắn muốn đến kiểm tra cô ngay cả trong ngày đưa tang chồng?
“Trời ơi, vì Chúa nhân từ…” Helen lướt về phía í cửa. “Claire, trấn tĩnhĩ một chút đi. Nhìn như th ì ể con lại phạm tội gì rì ồi đấy.”
“Con đâu có làm gì đâu,” Claire đáp bằng cái giọng làu bàu như hồi cô còn học lớp Chín. í
“Để mẹ giải quyết chuyện này.” Helen đẩy cửa mở. “Có vấn đề gì vậy, cô cảnh sát?” Bà dùng giọng điệu thủ thư, trầm ngắn và đầy khó chịu. ị Viên cảnh sát giơ tay lên. “Thưa quý bà, bà cần đứng qua một bên.” “Đây là nhà riêng của tôi. Tôi thừa biết mình c ì ó quyền gì.ì” “Xin lỗi cô nhé.” Claire lách ra đằng trước mẹ. Cô chắc chắn lại dínhí vào rắc rối với cảnh sát rồi. “Tôi là Claire Scott. Chủ căn nhà này.” “Thẻ căn cước của cô đâu?”
Helen giậm chân thình ì thịch. ị “Ôi trời ơi. Các người thật sự đem ba chiếc xe cảnh sát đến đây để bắt con gái tôi đi à? Ngay trong ngày nó đưa tang chồng nó sao?” Bà chỉ tay về phía í Claire, “Nhìn ì nó giống tội phạm lắm hả?”
“Mẹ, không sao đâu.” Claire không chỉ nói cho có lệ. Cô là tội phạm thật. Theo cam kết khi cô được thả, cảnh sát có thể ghé qua bất cứ lúc nào họ muốn. Cô mở túi tìm ì cái ví, í rồi chợt nhớ ra tên Đầu Rắn đã lấy nó đi rồi.
Trước mắt Claire lại hiện ra hình ì xăm, răng nanh vàng. Tên Đầu Rắn là người da trắng. Chi tiết này khiến chính í cô cũng giật mình ì khi mô tả
lại với thám tử ở đồn cảnh sát. Chắc vì chịu ị ảnh hưởng của thói phân biệt chủng tộc, nên cô tưởng rằng dân da trắng nhà giàu luôn bị băng đảng da màu hoặc Mễ cướp bóc? Hay do cô đã nghe quá nhiều nhạc rap trong lớp học đạp xe thể dục? Phải chăng do nghĩ thế nên trong đầu cô mới tưởng tượng ra họng súng đen bóng loáng, trong khi thực tế nó chỉ
là một con dao chĩa ĩ vào lưng Paul? Một con dao trông không giống đồ thật cho lắm, nhưng đủ lấy mạng chồng cô.
Mặt đất đột nhiên nghiêng ngả. Claire cảm thấy cơn chao đảo chạy dọc từ bàn chân lên đùi.
“Claire?” Helen gọi.
Cách đây vài năm, hai vợ chồng gặp phải động đất trong một lần đến Napa. Claire từ trên giường lăn thẳng xuống đất. Paul ngã đè lên cô. Họ chỉ kịp ị với lấy đôi giày rồi chạy vội ra ngoài bên dưới các ống nước đang gãy đổ và kính rung v í ỡ.
“Hệ thống gia cố tránh đứt gãy chưa đạt.” Paul nói giữa lúc họ đang đứng giữa đường phố chen chúc, hoang tàn, trên người mặc mỗi cái áo lót và quần đùi. “Mấy tòa nhà mới đáng ra phải có trụ đỡ riêng, hoặc hệ thống cửa neo chịu đư ị ợc tác động rung lắc.”
Nghe Paul cứ đều đều nói về cơ chế chống động đất như thế lại giúp Claire trấn tĩnh l ĩ ại.
“Claire?” Claire chớp chớp mắt. Cô ngước nhìn ì mẹ, lấy làm lạ tại sao mặt bà lại dí sí át mặt mình như v ì ậy.
“Con vừa bị ng ị ất đi.”
“Đâu có.” Cô cãi, dù sự thật rõ ràng ngược lại. Cô đang nằm trên lối vào nhà xe. Một nữ cảnh sát đang đứng bên cạnh cô. Claire thử liên tưởng đến con côn trùng nào đấy giống cô ta, nhưng đầu óc đã kiệt sức đến đừ đi rồi.
Cô cảnh sát nói, “Cô cứ nằm yên một chỗ. Xe cứu thương sẽ đến trong vòng 10 phút nữa.”
Claire cố xua đuổi hình ì ảnh nhân viên cứu thương khiêng cáng chạy vội vã vào hẻm, cố quên đi cả cách họ dành ra chưa đến một phút kiểm tra Paul đã lắc đầu.
Rồi một người nào đó lên tiếng, “Anh ấy chết rồi.” Hay chíní h cô lên tiếng? Rồi tự nghe thấy. Tự cảm nhận. Tự nhìn ì theo chồng mình ì từ một người sống chuyển thành người chết.
Claire nhờ mẹ, “Kéo con đứng dậy với.”
“Quý cô đừng ngồi dậy.” Nữ cảnh sát ra lệnh.
Helen đỡ con gái ngồi dậy. “Con đã nghe thấy cảnh sát nói gì chưa?” ì “Mẹ là người đỡ con ngồi dậy mà.”
“Không phải chuyện đó. Nhà con bị cưị ớp.”
“Bị cưị ớp?” Claire lặp lại, bởi vì vì ô lý quá. “Tại sao?”
“Mẹ nghĩ chắc có kẻ muốn ăn trộm cái gì đó.” Giọng Helen rất nhẫn nại, nhưng cũng không giấu nổi vẻ bối rối vì tin này. “Bên cung cấp đồ ăn vào ngay giữa lúc nhà bị đị ột nhập.”
Đột nhập. Từ ấy do mẹ Claire nói nghe chẳng hợp chút nào. Helen nói tiếp, “Đã xảy ra ẩu đả. Một nhân viên pha chế bị đánh trọng thương.”
“Tim phải không?” Claire hỏi thêm. Bởi vì cô nghĩ mình ì nên biết nhiều chi tiết hơn thì sì ẽ dễ ý thức được chuyện này đã thực sự diễn ra. Helen lắc đầu. “Mẹ không biết tên cậu ta.”
Claire ngước nhìn ì ngôi nhà. Hồn phách lại như thoát ly khỏi thân xác, trôi lơ lửng ra vào lễ canh thức của Paul.
Sau đó, hình ì ảnh tên Đầu Rắn bất chợt hiện ra, khiến cô ngay lập tức tỉnh r ỉ a quay về với thực tại.
Claire hỏi cảnh sát: “Đâu chỉ cỉ ó một tên đâu phải không?” Viên cảnh sát trả lời, “Có ba tên người Mỹ gốc Phi, tầm vóc trung bình, tu ì ổi độ 25, 26. Chúng đeo mặt nạ và găng tay.”
Helen chưa bao giờ tin cảnh sát. “Cứ mô tả thế thì chắc các vị sẽ tìmì ra chúng sớm đấy nhỉ?”ỉ
“Mẹ.” Claire ngăn lại, bởi nói thế có ích g í ì đì âu.
“Chúng đang tẩu thoát trong một chiếc xe màu bạc, cửa mở 4 cánh, dòng xe mới gần đây.” Cô ta siết chặt cán dùi cui như thể muốn vung tay nện lắm rồi. “Chúng tôi đã gửi thông báo truy nã trên toàn bang qua tất cả phương tiện.”
“Cô em ơi, với tôi thì cái thông báo truy nã ấy chẳng khác gì thứ đồ làm cảnh.” Helen cất giọng thủ thư, trút hết tất cả lo lắng mà bà không thể trút lên Claire. “Cô không thể nói dễ hiểu hơn được à?”
Bà Ginny bồi thêm, “Đã có lệnh truy nã rồi sao?” Bà mỉm ỉ cười ngọt ngào với cô cảnh sát. “Trong phòng khách nhà bà đã sắm ti-vi màu đấy.” Claire chen vào, “Con không ngồi mãi ở đây được.” Helen đỡ cánh tay Claire dìu ì cô đứng dậy. Paul sẽ làm gì nếu anh ở đây? Anh sẽ làm chủ tình ì hình. ì Claire không làm được như vậy. Cô còn đứng chưa vững nữa. “Bọn chúng đã lấy mất gì chưa?” ì
Cảnh sát đáp, “Chắc là chưa, thưa cô. Nhưng chúng tôi cần cô nói chuyện ít í phút với bên thám tử và bên an ninh.” Cô ta chỉ tay về một nhóm người đang đứng bên tủ đồ. Tất cả đều mặc áo choàng Columbo. Một người trong số họ còn đang cắn điếu xì gà. “Họ sẽ đưa cô một danh sách để kiểm kê lại đồ đạc. Cô cần một báo cáo hoàn chỉnh ỉ để làm việc với bên bảo hiểm.”
Claire ngạc nhiên đến mức muốn bật cười. Cô cảnh sát này làm như muốn cô ngồi phân loại lại bảo tàng Smithsonian chắc? “Tôi còn phải đón khách nữa. Giờ phải lo sắp xếp bàn ghế. Bên cung cấp thức ăn…”
“Quý cô à,” cô ta ngắt lời, “chúng tôi sẽ không cho ai vào nhà cho đến khi hiện trường được kiểm tra xong.”
Claire tự nhét tay vào miệng để kiềm không nhắc cô ta dẹp cái kiểu gọi “quý cô” ngu xuẩn ấy đi.
“Quý cô sao vậy?” Cô ta hỏi.
Claire thả nắm tay xuống. Một chiếc xe hơi đang đỗ lại ở lối vào nhà xe. Một chiếc Mercedes màu xám. Đèn pha đang nhấp nháy. Cờ tang màu vàng treo ra ngoài cửa kíní h. Một chiếc Mercecdes khác chầm chậm dừng lại phía í sau. Đoàn xe đưa tang cuối cùng cũng bắt kịp. ị Cô phải làm gì đây? Ngất ra đất lúc này xem ra là cách đơn giản nhất. Nhưng, sau đó phải làm gì tiếp theo? Xe cứu thương. Bệnh viện. Thuốc giảm đau. Cuối
cùng, cô vẫn bị trả về nhà. Cuối cùng cô vẫn phải đứng lại chỗ này với đám thám tử, đồ đạc, bảo hiểm và đủ thứ trò vớ vẩn. Tất là là tại Paul. Anh nên có mặt ở đây. Anh đáng ra phải lo liệu hết những việc này. Đây là việc của anh.
Claire Scott giận người chồng đã mất. Tại anh ta chết rồi, nên giờ không thể xuất hiện giải quyết chuyện của cô được.
“Con sao vậy cưng?”
“Con ổn cả.” Từ lâu Claire ngộ ra rằng, nếu mình ì biết cách nói dối đầy thuyết phục, thì thường cô có thể lừa được cả bản thân. Giờ cô chỉ phải tự viết ra một danh sách việc nên làm. Paul cũng sẽ làm như vậy. Anh ấy luôn nói chỉ cần lập danh sách là mọi chuyện xong cả. Giải quyết từng chi tiết là giải quyết được vấn đề. “Con sẽ dẫn thám tử đi một vòng quanh căn nhà. Chúng ta phải hủy bỏ buổi lễ.” Cô quay sang tài xế lái
chiếc xe hòm. Ông ta đã kín í đáo đứng qua một bên. “Ông đưa mẹ tôi về nhà được chứ?” Cô quay sang cô cảnh sát. “Phiền cô khỏi gọi xe cứu thương nữa nhé. Tôi ổn rồi. Sẽ có đến hơn một trăm người đang trên đường đến đây. Nếu cô không muốn họ vào đây, thì nên cần cắt cử người đứng ở đầu lối vào để ngăn họ lại.”
“Được thôi.” Cô ta trông rất sung sướng khi được tách ra khỏi gia đình Clair ì e, ngay lập tức chạy ngay xuống lối vào.
Cảm giác phẫn nộ trong lòng Claire đã tiêu tan. Cô nhìn ì mẹ, “Con có thể tự lo được chuyện này.”
“Con đang làm rất tốt.” Helen luồn tay vào cánh tay Claire, đi cùng cô ra chỗ đám người mặc áo khoác đi mưa. “Khi nãy con té xỉu ỉ có bị đập đầu không?”
“Không sao.” Claire mấy vết thương vẫn còn ê ẩm sau gáy. Giờ thêm một cục u khác cũng chẳng khác gì. ì “Trước đây con có bao giờ bị xỉu ỉ thế này không mẹ?”
“Theo mẹ nhớ thì chưa từng. Lần sau có xỉu ỉ thì xỉu ỉ trên cỏ ấy. Mẹ tưởng đầu con bị nị ứt toác ra rồi.”
Cô bóp nhẹ tay mẹ. “Mẹ không cần phải ở đây đâu.”
“Mẹ sẽ không đi đâu cho đến khi nào biết chắc là con không sao.” Claire mím í môi. Từng có một khoảng thời gian dài, mẹ không thể đối mặt hiện tại. “Mẹ à, con biết mẹ nghĩ gì về cảnh sát, nhưng mẹ cứ an tâm đi.”
“Một lũ bị thịt”ị , Helen lầm bầm từ bà thường dùng để chỉ những tên cảnh sát bất tài. “Con biết không. Tự nhiên giờ mẹ mới phát hiện ra mẹ là người duy nhất trong nhà mình chưa đi t ì ù.”
“Bị tị ạm giam. Chỉ khi m ỉ ẹ đã bị kị ết tội mới gọi là vào tù thôi.”
“Ơn trời. Mẹ đã không dùng sai từ ở câu lạc bộ sách.”
“Cô Scott phải không?” Một người đàn ông trong nhóm mặc áo khoác, tay đeo phù hiệu tiến lại chỗ Claire, ông phà khói thuốc, làm như mặc áo khoác dài chưa đủ ra vẻ thám tử. Trên người ông ta cũng phả ra khói thuốc. “Tôi là Đại úy Mayhew, đến từ sở Cảnh sát Dunwoody.”
“Đại úy?” Claire hỏi lại. Sau cái chết của Paul, Claire chỉ được làm việc với một thám tử thường. Vụ đột nhập này còn to tát hơn cả vụ giết người sao? Hay là những vụ án mạng xảy ra quá thường xuyên đến mức cô bị giao cho th ị ám tử?
“Tôi thật sự lấy làm tiếc cho những mất mát của cô.” Mayhew bỏ phù hiệu vào túi áo. Ông ta có hàm râu rậm rạp, cắt tỉa ỉ không gọn gàng. Râu thò cả ra ngoài mũi. “Ngài nghị sĩ nhắc tôi thu xếp chuyện này theo hướng riêng tư.”
Claire biết ai là ngài nghị sĩ. ĩJohnny Jackson từng là ân nhân của Paul từ thuở ban đầu. Ông ta đem lại cho anh nhiều gói thầu chạy dự án chính í phủ trong khi chúng đáng lẽ thuộc về những kỹ sư giàu kinh nghiệm hơn. Đầu tư vào Paul dần dần mang lại cho ông ta nhiều cái lợi. Mỗi khi công ty Quinn+Scott lãnh được một gói thầu dự án chính í phủ mới, hóa đơn thẻ Amex của Paul lại bí ẩn xuất hiện những khoản thanh toán lạ như thuê những chiếc máy bay anh chưa bao giờ cần, hay khách sạn năm sao anh chưa bao giờ ở.
Cô thở thật sâu rồi hỏi, “Đại úy, tôi xin lỗi. Có vài chỗ tôi chưa hiểu. Ông có thể kể lại từ đầu chuyện gì đì ã xảy ra được không?” “Được. Tôi biết, cô còn phải đưa tang và làm nhiều chuyện khác, hẳn cô không mong gì có chuyện thế này. Tôi thật sự chia buồn với cô và gia đình. ì ” Mayhew cũng thở sâu để nén bực mình. ì “Chúng tôi đại khái đã biết rõ vụ việc, nhưng vẫn còn vài chỗ cần bổ sung thông tin. Cô không
phải người đầu tiên ở hạt này bị trộm. Chúng tôi ngờ rằng đám thanh niên này đọc thấy bảng cáo phó, rồi tìm ì ra địa ị điểm tiến hành tang lễ. Sau đó, dùng Google Earth để xem liệu nhà này có đáng cướp hay không.”
“Ôi trời ơi.” Helen cảm thán. “Thật không bình thư ì ờng chút nào.” Mayhew có vẻ bực mình ì không kém gì bà. “Bọn chúng chỉ có vài phút trước khi đội cung cấp đồ ăn đến. Chúng để lại đám kính í vỡ tung tóe ở cửa phụ.” Ông ta chỉ tay về phía í bậc tam cấp lát đá xanh. Trên thềm đá vẫn còn vương vãi mảnh kínhí . “Người pha chế đi luôn vào nhà. Thật chẳng phải ý tưởng sáng suốt cho lắm. Anh ta bị đánh bầm dập, nhưng nhờ đó bọn cướp không kịp d ị ọn sạch nhà cô.”
Claire ngước nhìn ì tòa dinh thự lần nữa. Paul đã chỉnh ỉ tới chỉnh ỉ lui cả đống bản vẽ, kể từ lúc còn đang học ở trường kiến trúc. Nhưng thứ duy nhất phải chỉnh ỉ là số tiền họ có thể xoay được. Không ai trong số họ xuất thân giàu có. Cha Claire là một giáo viên cao đẳng. Cha mẹ của Paul
thì có một trang trại riêng. Paul yêu tiền vì nó khiến anh an tâm. Còn Claire yêu tiền, bởi vì khi cô đã trả tiền mua thứ gì xong, thì không ai có thể lấy chúng đi được nữa.
Cô vẫn trả chưa đủ ư? Hay cô chưa chịu ị chăm chỉ làm việc? Yêu chưa đủ? Thế nên Paul mới bỏ cô ra đi?
“Cô Scott?”
“Xin lỗi.” Claire cũng không hiểu tại sao mình ì cứ phải xin lỗi. Paul đáng lẽ ra đã tíní h đến chuyện này. Anh ta chắc sẽ nổi giận khi nhà bị đột nhập. Cửa kính í bị đập vỡ! Bọn chúng đã tấn công người giúp việc nhà cô. Claire đáng ra chỉ ở bên cạnh, cũng cáu giận như thế, nhưng giờ không có Paul, cô gắng lắm mới xử lý mọi chuyện được.
Helen hỏi, “Anh nhân viên pha chế có sao không? Tên Tim phải không?”
“Vâng, tên Tim.” Mayhew vừa gật đầu vừa nhún vai. “Chỉ xây xước ngoài da thôi. Đưa anh ấy đến bệnh viện khâu vài mũi là xong.” Claire cảm thấy nỗi sợ hãi đang len lỏi vào trong cô. Tim đã làm người pha chế cho họ nhiều năm rồi. Anh còn có một đứa con trai bị bệnh tự kỷ. Anh đang cố gắng hàn gắn lại tình ì cảm với vợ cũ, nhưng giờ đây lại phải nằm khâu mấy mũi ở bệnh viện, chỉ vì dính í phải chuyện xảy ra ở nhà chủ.
Helen hỏi tiếp, “Thế tại sao ông vẫn đòi Claire đi kiểm tra khắp nhà, để xem đồ đạc có bị lị ấy đi không à?”
“Vâng, chủ yếu là thế. Tôi biết xen vào lúc này là không đúng lúc, nhưng ngay bây giờ chúng tôi cần cô Scott dẫn tới nơi lắp đặt các thiết bị báo trộm.” Ông lại chỉ vào quả địa ị cầu màu đen ở góc nhà, “Chúng tôi chắc chắn camera ghi hình l ì ại được chúng đến và đi thế nào.”
“Tôi sẽ đưa các anh đến đó.” Nhưng Claire không nhúc nhích. í Tất cả đều nhìn ì chằm chằm vào cô chờ đợi. Cô còn nhiều chuyện khác cần làm. Rất nhiều chuyện khác.
Lập danh sách đi. Cô cảm thấy não mình như đư ì ợc bật mở trở lại. Claire quay sang mẹ. “Mẹ bảo giùm con bên cung cấp thức ăn quyên tặng đồ ăn cho các mái ấm được không? Và báo Tim biết là bên con sẽ lo hết viện phí cho cậu ta. Con chắc chắn khoản này đã nằm trong hợp đồng của chủ nhà rồi.” Giấy tờ để đâu nhỉ? ỉ Claire thậm chí còn không biết ai đứng ra đại diện bên cô làm hợp đồng nữa.
“Cô Scott phải không?” Một người đàn ông khác xuất hiện ngay sau Đại úy Mayhew. Anh ta cao hơn vài inch và ăn mặc đẹp hơn số còn lại. Anh ta cũng khoác áo khoác đẹp đẽ hơn. Quần áo được may đúng số đo.
Mặt mũi cạo râu sạch sẽ. Phong thái giản dị của anh ta đáng lẽ phải làm Claire bình ì tâm, nhưng ở anh ta có cái gì đó rất đáng lo, đặc biệt là một con mắt của anh bị bị ầm tím. í
Anh ta chỉ vào con mắt bầm, cười khùng khục. “Vợ tôi không thíchí chồng cãi ấy mà.”
Helen đáp, “Bạo lực gia đình ì có gì đáng cười đâu?” Nhưng thấy vẻ dè chừng của Claire, bà liền nói, “Tôi xuống bếp đây. cần gì cì ứ gọi.” Người bầm mắt tự giới thiệu lại: “Xin lỗi cô Scott. Tên tôi là Fred Nolan. Chúng ta có thể vừa đi vừa nói chuyện trên đường cô đưa chúng tôi đến chỗ lắp máy quay an ninh được không?”
Anh ta đứng sát đến nỗi Claire phải lùi lại một chút. “Lối này.” Cô bắt đầu đi bộ về phía nh í à xe.
“Chờ chút nào.” Nolan đặt tay lên cánh tay Claire.
Ngón tay cái của anh ta bóp vào mặt trong cổ tay cô. “Bảng điều khiển nằm cùng với hệ thống an ninh trong nhà để xe chứ?” Claire chưa bao giờ ghét ai ngay tức thì theo bản năng như với gã này. Cô nhìn x ì uống, tay đang bị si ị ết thấu đến tận xương. Nolan nhận ra phản ứng của cô. Hắn thả tay Claire ra.
“Tôi nhắc lại. Lối này.”
Claire giấu đi cái rùng mình ì khi cô tiếp tục bước đi. Mayhew đi ngay bên cạnh cô. Nolan bám theo sát gót. Quá gần. Hắn không chỉ đáng lo mà còn đáng sợ. Trông hắn giống du côn hơn là cảnh sát. Nhưng, rõ ràng hắn rất thạo nghề. Claire chưa bao giờ phạm tội, ít í nhất cho tới gần đây. Nhưng, hắn vẫn làm cô cảm giác có tội.
Nolan nói, “Thường thì khu vực thiết bị an ninh sẽ nằm ngay ở trung tâm của tòa nhà.”
“Hay đấy.” Claire làu bàu. Cơn đau đầu lại dâng lên hai bên thái dương. Có thể vụ cướp là may mắn trời cho. Thay vì phải bỏ ra tới bốn tiếng tiêu khiển cho đám khách đưa tang, cô chỉ cần bỏ ra 30 phút với mấy tên khốn này. Sau đó cô sẽ tống tiễn chúng ra khỏi nhà, uống một vốc Valium rồi đi ngủ.
Paul từng gắng giải thích í với cô, tất cả các máy an ninh chính í đều đặt trong nhà xe. Chúng được đặt trong một căn phòng xây ngăn hai tầng ở bên trong, kiểu dáng tương tự ngôi nhà chính. í Phòng làm việc của Paul nằm ở tầng trên, có một cái bếp lò, hai tủ quần áo âm tường và một phòng tắm. Họ từng đùa rằng, nếu cô có đuổi chồng ra khỏi nhà, thì chỗ
này ở còn sướng hơn cả khách sạn.
“Cô Scott, xin hỏi vì sao chuông báo động không reo nhỉ?” ỉ Mayhew hỏi. Ông ta đã lôi ra bút viết sẵn sàng. Vai ông gù lên, như có ai bảo ông nhái nhân vật thám tử trong tiểu thuyết Raymond Chandler vậy.
Claire nói, “Tôi tắt chuông báo cửa riêng với bên cung cấp thức ăn. Và cổng luôn đóng.”
Ria của Đại úy vểnh lên. “Bên cung cấp đồ ăn có biết mã vào cổng không?”
“Họ có chìa kh ì óa vào tòa nhà chính. í ”
“Còn ai có chìa kh ì óa nữa không?”
Câu hỏi làm cô thấy kỳ cục, hoặc do cô đang bực bội vì Fred Nolan cứ phả hơi vào gáy. “Nếu có chìa ì khóa thì việc gì mấy tên trộm phải phá cửa kính ch í ứ?”
Mayhew rời mắt khỏi quyển sổ tay nhìn ì lên Claire, “Chỉ là câu hỏi theo thủ tục thôi mà. Chúng tôi cần hỏi chuyện với bất cứ ai có thể vào được nhà này.”
Claire thấy ngứa ngáy cổ họng. Đầu lại bắt đầu thấy choáng. Chuyện này chắc chắn Paul biết rõ hơn cô. Cô cố gắng nhớ ra, “Lao công, mấy người phụ việc lặt vặt, trợ lý, cộng sự của Paul, và mẹ tôi. Tôi có thể tìmì lại tên và số điện thoại của họ đưa cho các anh.”
“Mẹ cô rất mạnh mẽ,” Nolan nói.
Claire nhấn mã số vào bàn phím í gắn bên cạnh khu nhà xe bốn gian. Tấm cửa gỗ nặng nề được kéo lên không chút tiếng động. Cô dõi theo ánh mắt dò xét của hai tên cảnh sát lướt qua chân tường lát tấm kim loại vân kim cương, hợp tông với buồng nhà kho. Nền nhà lát tấm cao su hai màu trắng đen. Thứ nào cũng được xếp trên giá gọn gàng: dụng cụ sửa chữa, dây nối, vợt tennis, gậy đánh golf, bóng rổ, kíní h râm, giày. Ghế dài làm việc của Paul chiếm hẳn cả chiều dài của căn phòng. Anh còn lắp thêm trụ sạc điện, tủ lạnh mi-ni, ti-vi màn hình ì phẳng và máy điều hòa cho mùa hè.
Ngoài ra, dĩ nhiên còn có chiếc BMW của Claire và chiếc Porsche Carrera của Paul.
“Trời đất quỷ thần ơi!” Giọng Nolan thốt lên đầy nể phục. Claire đã thấy đàn ông choáng váng vì khu nhà xe của Paul, còn hơn cả choáng váng vì đì àn bà.
“Đi qua đây nữa.” Claire nhập bốn con số mật mã vào một bàn phímí khác dẫn lối xuống tầng hầm. Cô yêu cái cách Paul yêu nhà xe này. Paul thường ở đây hàng giờ liền để làm các mô hình. ì Claire từng trêu anh rằng, lý do duy nhất khiến anh thích í lắp ráp chúng ở đây hơn ở cơ quan là vì anh c ì ó thể tự tay dọn dẹp chúng.
“Có vẻ là một người cuồng ngăn nắp nhỉ?” ỉ Nolan nói như thể đọc được suy nghĩ cĩ ủa Claire.
“Tôi thật may mắn.” Claire trả lời hắn. Paul bị ám ảnh nhẹ về sự bừa bãi, nhưng tật này chưa bao giờ làm ảnh hướng đến cuộc sống cả hai, hoặc khiến anh cư xử khác người, ví dụ như phải chùi nắm đấm cửa cả tá lần. Thực ra, tật này lại khiến anh làm những việc mà các bà vợ còn biết ơn nữa là khác: Anh luôn nhớ đậy nắp bồn cầu xuống, gấp hết quần áo, dọn dẹp nhà bếp mỗi tối.
Tới cuối cầu thang, Claire lại nhấn 4 con số khác lên bàn phím í trên cửa. Ổ khóa bật mở.
Mayhew bình lu ì ận, “Chưa bao giờ thấy một nhà xe như thế này.” Nolan tán theo, “Giống trong Sự im lặng của bầy cừu.”
Claire ấn công tắc mở đèn. Một căn phòng nhỏ nhưng kiên cố hiện ra. Paul đã thiết kế căn phòng này giống như hầm tránh bão. Các kệ kim loại chứa sẵn thức ăn và đồ tiếp tế. Có cả một ti-vi nhỏ, đài báo thời tiết, vài cái lều và một đống đồ ăn vặt. Bởi vì Claire bảo chồng rằng, nếu ngày tận thế có đến, thì cì ô sẽ cần ăn rất nhiều sô-cô-la và kẹo Cheetos.
Claire thấy mừng vì trên người vẫn còn mặc nguyên áo khoác. Nhiệt độ phòng khá thấp vì toàn đồ điện tử. Mọi thứ đều được điều khiển từ bên trong căn phòng này. Không chỉ riêng dàn camera an ninh mà còn cả dàn thiết bị âm thanh hình ì ảnh, hệ thống cửa và các hệ thống tự động khác khiến căn nhà hoạt động trơn tru như có phép màu. Trên khung treo là một dãy linh kiện gắn đèn tín í hiệu chớp tắt và một cái bàn nhỏ xếp bốn cái màn hình ph ì ẳng chồng lên nhau.
Nolan hỏi, “Chồng cô bí mí ật làm việc cho NSA không vậy?” “Ờ.” Claire chán ngán những câu hỏi của hắn, nghe còn khó chịu ị hơn bởi chất giọng ngang ngang miền Trung Tây. Kế hay nhất bây giờ là cứ cho họ biết những điều họ muốn, để họ chóng biến đi.
Claire mở ngăn kéo tìm ì tập danh sách mỏng hướng dẫn sử dụng camera. Paul từng cố gắng chỉ cô từng bước một nhưng cô cứ ngơ ngác. Cô còn lo mình s ì ẽ lên cơn động kinh mất.
Cô vỗ lên bàn phím đ í ể nhập vào mật mã truy cập.
“Nhiều mật mã để nhớ quá.” Nolan nghiêng người qua vai cô để nhìnì màn hình. ì
Claire lách người tránh khỏi gã phiền toái này. Cô đưa cho Mayhew tập chỉ dỉ ẫn. “Giờ ông phải tự xem lấy thôi.”
Nolan hỏi, “Căn nhà nào của cô cũng thế này à?”
“Chúng tôi chỉ cỉ ó một căn này thôi.”
“Chỉ cỉ ó một.” Nolan bật cười.
Hắn đã đi quá sức chịu ị đựng của Claire rồi. “Chồng tôi vừa mất. Nhà tôi mới bị cưị ớp. Anh thấy có gì đì áng cười hả?”
“Whoa.” Nolan giơ tay ra đỡ như thể cô sắp móc mắt hắn ra. “Thưa cô, tôi không có ý xúc phạm.”
Ria của Mayhew lại vểnh lên. “Khó mà không xúc phạm ai, nếu anh không câm cái mồm thối lại.”
Claire lườm Nolan trước khi quay người tránh xa. Cô biết cách khiến đàn ông im mồm. Hắn không bỏ đi, chỉ lỉ ùi lại vài bước ra vẻ đã hiểu ý. Claire nhìn ì màn hình ì trong khi Mayhew đang đọc chỉ dẫn Paul để lại. Màn hình ì được chia ra nhiều khung, mỗi cái đều thấy hết bốn góc từ 16 cái camera khác nhau. Từng lối vào, từng cửa sổ, khu bể bơi và mọi ngóc ngách trên lối vào xe đều được ghi lại. Claire thấy bên cung cấp đồ ăn đang quay đầu xe ở khu vực để xe mô-tô. Chiếc Ford bạc của Helen đang đậu phía í bên kia nhà xe. Bà đang nói chuyện với một trong số các thám
tử bên ngoài phòng gửi đồ. Tay chống hông. Claire mừng thầm vì đang tắt âm thanh.
Mayhew lật qua các trang trong sổ ông ta. “Được rồi. Chúng tôi đã xác địnhị được khoảng thời gian vụ đột nhập xảy ra dựa vào thời điểm bên cung cấp đồ ăn gọi 911.” Ông ta gõ vài phím. í Hình ì ảnh Helen biến mấtkhỏi màn hình. ì Chiếc xe cung cấp đồ ăn giờ đang đỗ trong sân.
Mayhew bỏ lướt qua nhiều đoạn cho đến khi thấy cái cần tìm. ì Ba bóng người xuất hiện cuối lối vào. Vẫn còn khá xa để nhìn ì rõ, chỉ là những cái bóng đen mờ mờ đang tiến vào căn nhà.
Claire chợt thấy lạnh tóc gáy. Những chuyện này thực sự đã diễn ra trong nhà cô.
Cô nhìnì lại thời gian ghi trên màn hình. ì Vào lúc những tên cướp đang vượt qua bãi đỗ xe ở trước nhà, thì cô đang đứng trong nghĩa ĩ địa ị và đang tự dằn vặt tại sao mình kh ì ông chết cùng chồng trong hẻm. “Đây rồi.” Mayhew reo lên.
Những cái bóng hiện rõ thành dáng đàn ông. Claire lập tức thấy ngực nhói đau. Tận mắt chứng kiến là điều cô phải tập đương đầu. Khá giống với những gì cô đã được kể lại: ba tên đàn ông Mỹ gốc Phi đeo mặt nạ trượt tuyết và găng tay, chạy chầm chậm trên lối vào. Chúng vận nguyên bộ đồ đen, từ áo thun bó sát đến giày. Đầu chúng ngó quanh trái phải
cùng một kiểu phối hợp nhịp ị nhàng. Một tên cầm xà beng. Tên khác cầm súng.
Nolan nhận xét, “Trông khá chuyên nghiệp.”
Mayhew tán thành, “Xem ra không phải là vụ đầu tiên của chúng.” Claire quan sát chúng bước đi rất tự tin về phía í phòng thay đồ. Paul đặt mua tất cả cửa ra vào và cửa sổ từ Bỉ. ỉ Chúng đều làm bằng gỗ hồng đào cứng với khóa mật mã 4 số. Nhưng chúng lại bị phá dễ dàng chỉ với
một cây xà beng phang vào tấm thủy tinh, rồi một cánh tay thò qua cửa sổ mở then cài bên trong.
Miệng cô khô khốc. Mắt bắt đầu ngấn nước. Đây là chỗ cởi giày cất áo khi về nhà của cô. Đây là cái cửa mà cô sử dụng vô số lần mỗi ngày mà. Cái cửa mà Paul bước qua mỗi ngày sau giờ tan làm về nhà mà. Đã từng bước qua mới phải.
“Nếu các anh cần gì thì ì tì ôi ở ngay trên lầu nhé.”
Claire bước lên cầu thang. Vừa đi vừa lau nước mắt. Miệng há ra thở. Cô buộc mình ì phải hít í sâu vào, phải để mọi chuyện qua đi, phải chống lại cơn kích đ í ộng đang dâng lên trong lòng.
Cầu thang của Paul. Bàn làm việc của Paul. Xe của Paul.
Cô đi khắp nhà xe. Cô leo cầu thang ở cuối phòng. Cố leo nhanh nhất có thể. Cô không nhận ra mìnhì đang đi đâu, cho đến khi chợt thấy mìnhì đứng giữa phòng làm việc của Paul.
Ở đây có cái đi-văng anh hay ngủ trưa. Có cái ghế anh hay ngồi đọc sách hay xem phim. Có bức tranh cô tặng anh vào lần thứ ba kỷ niệm ngày cưới. Cái bàn anh hay ngồi vẽ nháp. Cái bàn để máy, anh khéo thiết kế không lộ ra dây điện. Giấy thấm cũ. Hộp đựng đồ lặt vặt xếp gọn gàng giấy tờ có chữ viết góc cạnh của Paul. Máy tính í của anh. Hộp bút chì của anh. Khung ảnh treo hình ì Claire từ nhiều năm về trước. Paul đã chụp cô bằng máy Nikon của mẹ anh.
Claire nhấc khung ảnh lên. Lần đó họ đi xem đấu bóng. Áo khoác của Paul quấn quanh vai Claire. Cô vẫn nhớ cảm giác ấm áp và an toàn khi ấy. Tấm ảnh chụp khoảnh khắc cô đang cười thoải mái, đầu hơi ngả ra sau. Thần thái vô cùng hạnh phúc.
Cả hai đều vào Đại học Auburn ở bang Alabama. Paul chọn học ở đây vì chương trình ì kiến trúc thuộc tốp đầu cả nước. Còn Claire vào đây vì
được đi xa khỏi nhà. Nhưng cuối cùng cô lại lấy một chàng trai từng lớn lên ở nơi cách xa nhà cô chưa đến 20 dặm. Đây là bằng chứng cho thấy dù có cao chạy xa bay cỡ nào, thì cuối cùng cô vẫn quay lại nơi mình ì đã ra đi.
Paul như một làn gió mới, khác hẳn với đám con trai cô từng hẹn hò ở đại học. Anh rất tự tin vào bản thân, rất biết mình ì muốn gì và mình ì sẽ đi đâu. Ba năm học đại học, anh đều đạt học bổng toàn phần. Đến khi học tiếp sau đại học, anh dùng tiền thừa kế từ cha mẹ đã mất. Thêm một khoản bồi thường nhỏ của công ty bảo hiểm, tiền lời từ đợt bán đi nông trại và khoản thu xếp riêng của công ty vận tải có chiếc xe 18 bánh cán chết cha mẹ anh. Tất cả đã thừa sức trả tiền học và chi phí hàng ngày cho anh.
Mặc dù vậy, Paul luôn đi làm kể từ hồi còn đi học. Anh lớn lên từ nông trại, nên sáng nào cũng bắt đầu làm việc từ sớm tinh sương. Lên năm lớp chín, í anh giành được học bổng vào một trường quân đội ở phíaí nam bang Alabama. Môi trường hai nơi đã rèn cho anh ý thức làm việc hằng ngày. Anh không quen lười biếng. Ở đại học, anh từng làm việc ở hiệu sách Tiger Rags của trường. Ngoài ra, anh cũng từng làm gia sư ở phòng máy tính. í
Claire học chuyên ngành Lịch ị sử Mỹ thuật. Cô không bao giờ giỏi toán, cũng như cô chưa bao giờ muốn cố gắng với môn này. Cô còn nhớ như in lần đầu cô ngồi cạnh Paul cùng làm bài tập.
“Mọi người đều thấy em xinh đẹp,” anh nói với cô, “nhưng không ai biết em thông minh.”
Thông minh.
Ai cũng có thể tỏ ra khôn khéo. Nhưng người đặc biệt thì mới thông minh.
Claire đặt lại khung ảnh về vị trí cũ. Cô ngồi xuống bàn của Paul. Đặt tay mình ì vào nơi anh từng đặt. Cô nhắm mắt cố lần tìm ì lại mùi hương của anh. Cô hít í thật sâu cho đến khi phổi nhói đau, rồi mới chầm chậm thở ra. Giờ cô đã gần bốn mươi tuổi rồi. Lại không có con cái. Chồng thì
đã mất. Đám bạn hay chơi chắc giờ này đang uống margaritas ở quán bar, bàn tán trông cô thảm hại đến mức nào ở đám tang. Claire lắc đầu. Cô còn cả phần đời còn lại để gặm nhấm cô đơn. Còn giờ thì việc cô cần làm ngay lúc này là vượt qua ngày hôm nay đã. Hoặc ít nh í ất là qua vài giờ tới.
Cô nhấc điện thoại lên, bấm số di động của Adam Quinn. Paul quen biết Adam từ trước khi gặp Claire. Họ ở chung phòng vào năm đầu vào đại học Auburn.Cùng học chung ngành kiến trúc. Hồi đám cưới hai vợ chồng, Adam là người bạn chu đáo nhất. Và quan trọng hơn cả, Adam và Paul thường dùng chung các nhà cung cấp dịch v ị ụ.
Adam nhấc máy ngay từ hồi chuông đầu tiên. “Clairephải không? Em ổn chứ? Cảnh sát không cho bọn anh vào.”
“Nhà em bị cướp. À, không phải cướp. Chúng không lấy được gì cả. Chỉ là chút phiền toái thôi. Em không sao cả.” Liệu cô không sao thật chứ? Hay chỉ vì ngay lúc này, có việc cụ thể cần làm cô mới cảm thấy ổn như thế thôi. “Anh này, em xin lỗi đã làm phiền anh, nhưng anh có biết tên nhân viên bảo hiểm của bọn em không anh?”
“À biết. Được rồi.” Giọng Adam thoáng bối rối, có lẽ vì chẳng hề trông đợi câu hỏi như thế từ Claire trong lúc này. “Cô ta tên Pia Lorite.” Anh ta đánh vần lại tên. “Để anh nhắn tin em thông tin của cô ta.”
“Em không có điện thoại di động.” Claire chợt nhớ ra. “Tên Đầu Rắn cướp đi rồi. Ý em là cái kẻ đã…”
“Để anh email cho em.”
Claire định ị nói với Adam là cô cũng không vào được email, nhưng chợt nhớ ra mình ì vẫn còn cái iPad. Nó thuộc đời cũ rồi. Paul liên tục dọa dẫm thay nó bằng cái laptop, nhưng cô khăng khăng không chịu. ị Nhờ thế mà bây giờ cô có thể mở nó xem lại; sau này cầm vật chứa kỷ niệm hơn 30 năm này vào viện dưỡng lão được rồi.
“Claire này.” Giọng Adam như thể hụt hơi. Cô đoán có lẽ anh đang đi bộ qua một phòng khác. Có bao nhiêu cuộc gọi đã đến giữa cuộc lúc nãy và bây giờ khi Adam đi qua một phòng khác? Có lẽ cả nửa tá cũng nên. Quá vô nghĩa. Qu ĩ á ngu ngốc.
Anh nói, “Nghe này Claire, anh rất tiếc về chuyện đã xảy ra.” “Cám ơn anh.” Cô cảm thấy muốn khóc nữa. Cô căm ghét bản thân vì hoàn toàn chẳng muốn nhỏ nước mắt trước mặt Adam.
“Anh muốn em biết là nếu em cần bất cứ thứ gì…ì ” Anh im lặng. Cô nghe thấy tiếng sột soạt. Cô đoán anh đang gãi cằm. Adam thuộc kiểu người râu ria cứ mọc tua tủa liên tục ngay cả khi anh ta mới cạo râu xong.Claire chưa bao giờ bị đàn ông râu ria hấp dẫn. Thế mà cô vẫn ngủ được với Adam.
Cô thậm chí cí òn không thèm tự nhủ chuyện đó đã xảy ra lâu lắm rồi. “Claire?”
“Em đây.”
“Anh xin lỗi vì nhờ em chuyện này. Trên máy Paul hẳn có tập tin đang làm dở. Em có thể email tập tin đó cho anh không? Anh không địnhị phiền em, nhưng bọn anh sắp có buổi thuyết trình ì quan trọng vào sáng thứ Hai tới. Để làm lại phần của Paul phải mất nhiều thời gian lắm.”
“Không sao. Em hiểu rồi.” Cô đến bàn của Paul, kéo bàn phímí ra. “Em sẽ gửi tập tin đó từ máy của Paul.”
“Em có mật mã đăng nhập chưa?”
“Có. Anh ấy tin em mà.” Claire hiểu rõ rằng cả cô và Adam đều biết đáng ra Paul không nên tin ai cả.
Thật là một sai lầm ngớ ngẩn, chẳng ra sao.
Claire gác máy. Cô nghĩ về khoảng thời gian cô trải qua với Adam Quinn. Khoảng thời gian cô ở với chồng. Và khoảng thời gian cô phải sống cho qua sắp tới.
Không thể quay lại được nữa. Cô phải tiến về phía trư í ớc. Chiếc máy tính í để bàn iMac của Paul chỉ có màn hình ì xanh trống trơn và thanh ứng dụng. Bên cạnh các biểu tượng ứng dụng của Paul là ba thư mục chính: í Công việc, Cá nhân, Việc nhà. Claire nhấn vào Việc nhà. Cô nhanh chóng nhìn ì thấy danh sách các công việc của tháng Một. Cô cũng thấy một tập tin tên “Bảo hiểm”. Nó không chỉ có tên nhân viên bảo hiểm mà còn chứa các hồ sơ định ị dạng PDF, bao gồm cả các mô tả, ảnh, và số đăng ký cho tất cả mọi thứ trong nhà này. Cô bấm in ra tất cả 508 trang.
Sau đó, cô mở thư mục “Công việc”. Thư mục này còn phức tạp và rối rắm hơn nhiều. Không có mục nào nào có tên “Đang làm”, chỉ có một danh sách dài toàn đánh số thay vì ghi tên. Claire đoán đây là mã số dự án, nhưng cô không dám chắc. Cô đành bấm chuột sắp xếp các tập tin theo thứ tự thời gian. Trong hai tuần gần đây, Paul đã làm việc với khoảng 15 tập tin. Cái cuốicùng được mở vào đêm trước khi Paul chết.
Claire nhấn mở tập tin. Cô tưởng sẽ nhìn ì thấy biểu đồ hoặc danh sách dự án, nhưng tất cả những gì cô nhìn ì thấy chỉ là một biểu tượng chiếu phim nhỏ iMovie nhảy ra trên thanh dock.
“Ồ!” Claire thốt lên, bởi vì đầu tiên cô không hiểu mình ì đang xem cái gì. ì Sau đó, lần đầu tiên cô bật cườikể từ lúc chạm trán với tên Đầu Rắn
"""