"
Những Thành Phố Giấy - John Green full prc pdf epub azw3 [Best Seller]
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Những Thành Phố Giấy - John Green full prc pdf epub azw3 [Best Seller]
Ebooks
Nhóm Zalo
Trân trọng gửi tới Julie Strauss-Gabel, toàn bộ câu chuyện này sẽ chẳng là gì nếu thiếu cô ấy. ----★----
Và sau đó, khi chúng tôi ra ngoài xem chiếc đèn lồng của cô ấy, đã tắt bên vệ tường, tôi nói rằng tôi thích cách ánh sáng của cô ấy tỏa ra từ gương mặt, dập dờn lung linh trong bóng tối. • “Đèn lồng bí ngô”, Katrina Vandenberg, tập thơ Atlas
Người ta nói bạn bè chẳng làm hại nhau Họ biết gì về bạn bè cơ chứ?
• “Trò tạp kĩ cảm động”, ban nhạc The Mountain Goats
Khó có thể khiến người ta quan tâm đến những câu chuyện Của những gì đã chết. Tất thảy đã úa vàng, chồng chất trong bụi bặm.
• Katrina Vandenberg, tập thơ Atlas
8
Tôi đã hình dung ra như thế, rằng ai rồi cũng sẽ có một điều kì diệu. Chẳng hạn, có lẽ tôi sẽ không bao MỞ ĐẦU
giờ bị sét đánh, giành giải Nobel, trở thành nhà cầm quyền độc tài trên một quốc đảo bé nhỏ giữa Thái Bình Dương, hoặc mắc bệnh ung thư tai vô phương cứu chữa, và chắc cũng chẳng bao giờ tự dưng toàn thân bốc cháy. Nhưng nếu suy xét tất cả những điều bất khả ấy, ít nhất một trong số đó có thể sẽ xảy đến với từng người trong chúng ta.
Tôi có thể từng chứng kiến trời đổ xuống một cơn mưa ếch. Tôi có thể từng đặt chân lên sao Hỏa. Tôi có thể từng bị cá voi nuốt chửng. Tôi có thể từng làm đám cưới với bà hoàng của nước Anh, hay sống sót sau hàng tháng trời lênh đênh trên biển. Nhưng điều kì diệu của tôi không phải như vậy. Điều kì diệu của tôi là: trong tất cả các ngôi nhà ở tất cả các tiểu khu trên toàn bang Florida, trời xui đất khiến thế nào tôi lại là hàng xóm của Margo Roth Spiegelman.
Khu chúng tôi ở, Jefferson Park, từng là một căn cứ hải quân. Nhưng rồi hải quân không cần nơi này nữa, nên nó lại là vùng đất của những công dân tại thành phố Orlando, bang Florida, những người đã quyết định xây dựng một khu dân cư ra vành ra vẻ, vì đó là cách Florida cư xử với đất đai. Bố mẹ tôi và Margo rút cục dọn đến ở ngay cạnh nhau, sau khi những ngôi nhà đầu tiên vừa được hoàn thiện. Margo và tôi khi ấy lên hai.
Trước đây Jefferson Park là một kiểu Pleasantville[1], và trước khi là căn cứ hải quân, nó thuộc về một người có thật tên là Jefferson, một ông Bs. Jefferson Jefferson. Ở Orlando có một ngôi trường và một quỹ từ thiện lớn mang tên ông, nhưng điều lí thú và không-thể-tin-nổi-nhưng-thề-là-có-thật về Bs. Jefferson Jefferson chính là ông chẳng phải bác sĩ gì sất. Ông ta là dân làm ăn, chuyên kinh doanh nước cam, tên thật là Jefferson Jefferson. Khi phất lên và có sức ảnh hưởng, ông đã đến tòa án làm thủ tục đổi Jefferson thành tên đệm, và lấy tên thường gọi là “Bs.” B viết hoa. s viết thường. Chấm.
Năm ấy Margo và tôi chín tuổi. Bố mẹ hai đứa là bạn bè, nên bọn tôi thường chơi với nhau, cùng đạp xe qua những con phố cụt dẫn vào chính Công viên Jefferson, cái rốn của khu vực này[2]. Tôi luôn hồi hộp mỗi khi nghe tiếng biết Margo sắp đến, bởi cô ấy là điều đẹp đẽ kì diệu nhất mà Chúa từng tạo ra. Buổi sáng đó, cô ấy mặc quần soóc trắng và áo phông màu hồng, có hình con rồng xanh đang khè ra lưỡi lửa da cam. Lúc ấy chẳng hiểu sao tôi thấy cái áo đẹp lạ lùng.
Như mọi ngày, Margo nhổm khỏi yên khi đạp xe, cánh tay duỗi thẳng khi cô ấy tì lên tay lái, đôi giày thể thao màu tím nhòe đi theo những vòng nhấn pê-đan. Đó là một ngày tháng Ba nóng muốn bốc hơi. Trời trong nhưng không khí chua chua hăng hăng như sắp có bão.
Khi ấy, tôi tự ảo tưởng rằng mình là một nhà sáng chế. Sau khi khóa xe đạp và bắt đầu đi bộ một đoạn ngắn qua công viên để đến sân chơi, tôi kể với Margo về ý tưởng tôi đang ấm ủ cho một phát minh tên là Ringolator. Đó là một khẩu đại bác khổng lồ có thể bắn ra những tảng đá lớn, nhiều màu sắc, bay theo quĩ đạo rất thấp, tạo thành những vành đai quanh trái đất, từa tựa như vành đai sao Thổ vậy. (Đến giờ tôi vẫn cho rằng đó là một ý tưởng bá cháy, nhưng xem ra chế tạo một khẩu đại bác có thể bắn đá gộc bay đi theo quỹ đạo thấp là việc cũng phức tạp ra phết).
Tôi đã chơi trong công viên này không biết bao nhiêu lần, đến mức thuộc nó như lòng bàn tay, nên mới đi được vài bước, tôi đã bắt đầu cảm thấy có gì đó không ổn, dù chưa thể tức khắc phát hiện ra sự thể gì khác biệt.
“Quentin ơi,” Margo gọi khẽ, giọng bình tĩnh.
Cô ấy đưa tay chỉ. Và rồi tôi nhận ra cái khang khác đó là gì.
Trước mặt cách chúng tôi mấy mét có một cây sồi tươi tốt. Vòm lá rậm rạp, thân cành xù xì, xem chừng cổ thụ. Điều này không mới. Sân chơi ở bên tay phải chúng tôi. Cũng chẳng có gì mới. Nhưng kia, một người đàn ông mặc bộ com-plê xám, gục ở gốc cây sồi. Không cử động. Điều này mới. Toàn thân người đó đẫm máu, một dòng máu đã khô phân nửa trào từ miệng ra. Khuôn miệng há hốc theo cái cách mà nhìn chung miệng không bao giờ há ra như vậy. Ruồi đậu trên vầng trán xanh nhợt.
“Bác ấy chết rồi,” Margo nói, như thể tôi vẫn chưa nhận ra.
Tôi khẽ giật lùi hai bước. Tôi nhớ khi ấy đã nghĩ rằng nếu tôi đột ngột cử động, người đàn ông có thể sẽ
tỉnh lại và lao tới tấn công tôi. Chưa biết chừng ông ta là một dạng thây ma biết đi. Tôi biết thây ma không có thật, nhưng chắc chắn trông ông ta có tiềm năng là một thây ma.
Trong khi tôi giật lùi hai bước đó, Margo yên lặng tiến lên hai bước tương đương. “Bác ấy mở mắt,” cô ấy nói.
“Mìnhvềnhàthôi,” tôi líu díu.
“Tớ tưởng khi chết thì nhắm mắt chứ,” cô ấy nói tiếp.
“Margoơichúngmìnhvềnhàbáomọingườiđi.”
Cô ấy tiến thêm bước nữa, ở gần đến mức có thể vươn tay ra chạm vào bàn chân ông ta. “Theo cậu chuyện gì đã xảy ra với bác ấy vậy?”, Margo hỏi tôi. “Chắc tại thuốc hay cái gì đó nhỉ.” Tôi không muốn bỏ Margo lại một mình với cái người đã chết rất có thể là một thây ma biết tấn công ấy. Nhưng tôi cũng chẳng có lòng dạ nào đứng tán chuyện về bối cảnh tử vong của ông ta. Dốc hết can đảm, tôi tiến lên nắm lấy tay cô ấy. “Margoơiđimau!”
“Ừ, được rồi mà,” cô ấy đáp. Chúng tôi chạy về chỗ để xe đạp, bụng tôi cuộn lên thứ gì đó y chang như cảm giác phấn khích, nhưng không phải. Chúng tôi lên xe, tôi để Margo đi trước vì tôi đang khóc ròng và không muốn cô ấy biết. Tôi thấy vết máu trên đế đôi giày thể thao màu tím của Margo. Máu của ông ta. Người đàn ông đã chết.
Rồi đứa nào về nhà nấy. Bố mẹ tôi gọi 911. Tôi nghe thấy tiếng còi hụ từ xa, xin được ngó ra xem xe cứu hỏa nhưng mẹ tôi không cho. Rồi tôi thiu thiu ngủ một lúc.
Bố mẹ tôi đều là chuyên gia trị liệu, điều đó có nghĩa là tôi luôn được chăm bẵm nắn chỉnh đâu ra đấy. Thế nên khi tôi tỉnh ngủ, mẹ đã nói với tôi một lô những chuyện dài dằng dặc về vòng đời, rằng làm sao cái chết lại là một phần của sự sống, nhưng không phải phần tôi cần đặc biệt lưu tâm khi mới chín tuổi đầu, và tôi đã thấy dễ chịu hơn. Thật ra tôi chưa bao giờ quá lo lắng về chuyện ấy. Điều này cũng có chút giá trị nhất định, vì tôi có thể làm những chuyện đáng lo ngại thật.
Thế đấy: Tôi tìm thấy một xác chết. Cậu bé chín tuổi xinh giai đáng yêu là tôi, và cô bạn chơi còn xinh xắn dễ thương hơn tôi bội phần, đã tìm thấy một người đàn ông mồm miệng be bét máu, và vết máu còn lấm trên đế đôi giày thể thao xinh xinh của cô ấy khi chúng tôi đạp xe về nhà. Tất cả thật li kì và đầy kịch tính, nhưng thế thì sao? Tôi chẳng hề quen biết người đàn ông đó. Những con người tôi không quen biết vẫn qua đời vào bất cứ thời điểm quái quỉ nào. Nếu tôi suy sụp tâm lí mỗi khi điều gì đó khủng khiếp xảy ra trên thế giới này, thì tôi sẽ còn điên loạn hơn cả một con chuột chù ở chuồng chồ.
Tối hôm đó, tôi về phòng lúc chín giờ để đi ngủ, vì chín giờ tối là giờ tôi đi ngủ. Mẹ đắp chăn cho tôi, nói rằng mẹ yêu tôi, và tôi nói: “Mai gặp mẹ ạ,” còn mẹ đáp: “Mai gặp con nhé.” Rồi mẹ tắt đèn và khép hờ cửa.
Trở mình nằm nghiêng, tôi thấy Margo Roth Spiegelman đang đứng bên ngoài cửa sổ phòng tôi, mặt cô ấy gần như áp vào tấm lưới cửa. Tôi nhỏm dậy mở cửa sổ, nhưng tấm lưới vẫn ngăn giữa chúng tôi, khiến mặt cô ấy như nhòe đi.
“Tớ đã điều tra rồi,” Margo nói có vẻ khá nghiêm túc. Dù cô ấy ở gần tấm lưới chắn cửa sổ đến mức khuôn mặt trông như rạn ra, tôi vẫn nhìn thấy cô ấy đang cầm cuốn sổ nhỏ và cái bút chì một đầu có cục gôm nham nhở vết răng. Margo liếc xuống những ghi chép. “Bà Feldman ở Jefferson Court nói rằng bác ấy tên là Robert Joyner. Bà ấy kể rằng bác ấy ở Jefferson Road, một trong những căn hộ ở tầng trên của hiệu tạp hóa. Thế là tớ đến đấy và có cả đống cảnh sát ở đó. Một trong số họ hỏi có phải tớ làm việc cho tờ báo của trường không, tớ trả lời là trường mình không phát hành báo, nên chú ấy nói miễn tớ không phải là nhà báo thì chú ấy sẽ trả lời câu hỏi của tớ. Chú ấy nói rằng bác Robert Joyner ba mươi sáu tuổi. Là luật sư. Họ không cho tớ vào trong căn hộ, nhưng một cô tên là Juanita Alvarez ở ngay cạnh phòng đó, tớ đã sang phòng cô ấy hỏi vay một tách đường, rồi cô ấy kể rằng bác Robert Joyner đã tự sát bằng súng. Tớ hỏi tại sao thì cô ấy bảo là bác ấy đang tiến hành li hôn và buồn rầu vì chuyện đó.”
Margo dừng lại, và tôi nhìn cô ấy. Gương mặt cô ấy xam xám nhờn nhợt dưới ánh trăng, tan ra thành hàng ngàn mảnh nhỏ vì hằn lên tấm lưới cửa sổ. Đôi mắt to tròn chớp qua chớp lại, hết nhìn tôi lại nhìn trang sổ. “Nhiều người li dị và không tự sát,” tôi nói.
“Tớ biết,” Margo nói, chút phấn khích nhen lên trong giọng nói. “Đó chính là điều tớ đã nói với cô
Juanita Alvarez. Và cô ấy nói...” Margo lật trang sổ tay. “Cô ấy nói rằng bác Joyner đang gặp rắc rối. Tớ hỏi thế nghĩa là thế nào, thì cô ấy bảo chúng ta chỉ nên cầu nguyện cho bác ấy, và rằng tớ cần mang đường về cho mẹ. Tớ bảo cô ấy hãy quên chuyện tớ hỏi vay đường đi, rồi tớ đi khỏi đó.”
Một lần nữa tôi không nói gì. Tôi chỉ muốn Margo cứ nói–cái giọng thì thầm pha lẫn phấn khích vì biết gần hết mọi thứ ấy khiến tôi linh cảm một điều gì đó hệ trọng đang xảy đến với tôi. “Tớ nghĩ chắc là tớ biết tại sao đấy,” cuối cùng Margo nói.
“Tại sao?”
“Có lẽ tất cả dây nối bên trong bác ấy đã đứt hết rồi.”
Trong khi cố nghĩ ra điều gì đó để đáp lại, tôi rướn lên ấn lẫy khóa trên khung lưới ngăn cách chúng tôi, giật nó ra khỏi cửa sổ. Tôi đặt tấm lưới xuống sàn, nhưng Margo không cho tôi cơ hội nói gì. Tôi còn chưa kịp ngồi xuống, cô ấy đã đưa mặt sát lại tôi và thì thầm: “Đóng cửa sổ lại đi.” Thế là tôi làm theo. Tôi ngỡ Margo sẽ đi, nhưng cô ấy chỉ đứng đó, nhìn tôi. Tôi vẫy cô ấy và cười, nhưng ánh mắt cô ấy như đang găm vào thứ gì đó đằng sau tôi. Thứ gì đó khủng khiếp đã rút cạn máu trên mặt cô ấy, mà tôi sợ quá chẳng dám quay lại nhìn. Nhưng chẳng có gì phía sau tôi, dĩ nhiên rồi–có lẽ chỉ trừ người đàn ông đã chết.
Tôi thôi vẫy. Đầu tôi ở ngang tầm với Margo khi chúng tôi đăm đăm nhìn nhau, đối diện qua kính cửa sổ. Tôi không nhớ chuyện đã kết thúc thế nào–không nhớ tôi hay Margo đã đi ngủ trước. Trong tâm trí tôi, nó không kết thúc. Chúng tôi chỉ ở đó, mặt đối mặt, mãi mãi.
Margo luôn thích những điều bí ẩn. Và trong tất cả những chuyện xảy ra sau đó, chưa bao giờ tôi thôi nghĩ rằng có lẽ vì quá ham thích bí ẩn mà chính Margo đã trở thành một bí ẩn.
PHẦN I
8
NHỮNG DÂY NỐI
1.
N
gày dài nhất trong cuộc đời tôi bắt đầu khá muộn. Tôi dậy trễ, ngâm nga quá lâu trong nhà tắm nên kết quả là phải thưởng thức bữa sáng trong chiếc minivan của mẹ vào hồi 7:17 sáng thứ Tư đó. Thường ngày tôi quá giang thằng chiến hữu thân nhất, Ben Starling, nhưng hôm ấy Ben đã vi vu đến trường đúng giờ, cho nên tôi hết trông cậy được vào nó. “Đúng giờ” đối với tụi tôi là ba mươi phút trước lúc vào học, vì nửa giờ vàng ngọc trước hồi chuông đầu tiên chính là điểm sáng trong lịch trình xã giao của chúng tôi: tụ tập tán chuyện bên ngoài cửa phụ của phòng tập và biểu diễn nhạc. Đa phần bạn bè tôi chơi nhạc cụ, và đa phần thời gian rảnh ở trường của tôi được nướng trong phạm vi dăm bảy mét quanh phòng tập nhạc. Nhưng tôi không chơi nhạc cụ gì cả, vì tôi bị một chứng điếc thanh điệu, nói chung là có liên quan đến bệnh điếc thực sự. Hôm nay tôi sẽ bị muộn hai mươi phút, tức là về mặt kĩ thuật mà nói, tôi vẫn đến trước giờ vào lớp chục phút.
Vừa lái xe mẹ vừa hỏi tôi về trường lớp, thi cử và dạ hội tốt nghiệp.
“Con có bao giờ khoái dạ hội đâu mẹ,” tôi nói trong khi mẹ rẽ ở một góc phố. Lập tức, tôi điệu nghệ trở nghiêng món ngũ cốc cho cân bằng với trọng lực. Trò này tôi diễn nhiều rồi.
“Ờ, đi cùng một người bạn thì có sao đâu con. Chắc chắn con có thể mời Cassie Hiney mà.” Dám là tôi mời Cassie Hiney lắm chứ, một cô bạn thực sự dễ mến, thân thiện và xinh lung linh, nhưng ngặt nỗi bạn ấy lại mang một cái họ vô địch về độ nhạy cảm[3].
“Không chỉ vì con không khoái dạ hội. Con không khoái cả những người khoái dạ hội,” tôi cố giải thích, dù thẳng thắn mà nói thì cũng chẳng phải. Ben mới là thằng rối rít bấn loạn về dạ hội này. Mẹ rẽ vào trường, tôi giữ chặt cái bát sắp hết bằng cả hai tay khi đi qua mấy con lươn giảm tốc. Tôi liếc nhanh ra bãi đỗ xe cho học sinh năm cuối. Con Honda màu bạc của Margo Roth Spiegelman đỗ ở chỗ quen thuộc. Mẹ tấp xe vào một đoạn cụt ngay gần phòng tập nhạc và hôn lên má tôi tạm biệt. Tôi nhác thấy Ben và mấy thằng khác đứng giăng thành một đường bán nguyệt.
Tôi đi đến chỗ chúng nó, vòng bán nguyệt lập tức giãn ra để thêm tôi vào. Chúng nó đang nói đến bạn gái cũ của tôi, Suzie Chung, cô nàng chơi cello và rõ là đã khuấy động dư luận khi cặp với một anh cầu thủ bóng chày tên là Taddy Mac. Tôi cũng chẳng biết đó có phải là tên thật của anh ta không nữa. Dù gì thì Suzie cũng đã quyết định đến dạ hội với Taddy Mac. Thêm một nạn nhân.
“Êu ông ơi,” Ben đứng đối diện tôi và gọi. Nó gật đầu ra hiệu rồi đi. Tôi theo nó ra khỏi đám, đi vào phòng tập. Một gã nhỏ người da ngăm ngăm đã qua tuổi dậy thì nhưng chưa bao giờ kết thúc cái tuổi ấy một cách hoành tráng, Ben là thằng bạn chí cốt với tôi từ hồi lớp năm, khi cả hai rút cục đành thừa nhận rằng chẳng thằng nào đủ sức kiếm được đứa khác làm bạn thân. Cơ mà, nó đã rất cố gắng, và tôi khoái như vậy–phần lớn thời gian.
“Sao thế ông?” tôi hỏi. Chúng tôi đã an toàn trong phòng nhạc, những người xung quanh đang nói đủ để lấp đi câu chuyện của bọn tôi.
“Radar sẽ đi dạ hội,” Ben nhấm nhẳng. Radar là chiến hữu oách của bọn tôi. Nó bị gọi là Radar vì trông nó y chang một thằng thấp bé nhẹ cân đeo đít chai tên là Radar trong xê-ri M*A*S*H trên truyền hình ngày xưa, ngoại trừ 1. Radar trên ti-vi da không đen, và 2. Vào một lúc nào đó sau khi đã bị gán tên, Radar của bọn tôi cao thêm khoảng mười lăm phân nữa và bắt đầu đeo kính sát tròng, nên tôi nghĩ rằng 3. Nó trông không còn giống chú em trong M*A*S*H nữa, nhưng 4. Còn ba tuần rưỡi nữa là tốt nghiệp, chúng tôi chẳng buồn đặt tên mới cho nó nữa.
“Con bé Angela ấy hả?” tôi hỏi. Radar chả bao giờ hé gì về chuyện tình êu tình báo của nó cả, nhưng như thế cũng chẳng ngăn được bọn tôi bàn ra tán vào.
Ben gật, rồi nói, “Ông biết kế hoạch vĩ đại của tôi chứ? Lôi một em thỏ non đến dạ hội vì chỉ có các em thỏ mới không hề hay biết sự tích về chàng Ben Bỉ Bựa.” Tôi gật gật.
“Chậc,” Ben nói tiếp, “thế mà sáng nay có một nhóc thỏ non xinh xinh lớp chín tìm tôi hỏi có phải tôi chính là Ben Bỉ Bựa không, tôi phải giải thích rõ ràng đó là chứng nhiễm trùng thận, con nhóc ấy khúc khích rúc rích cười rồi chạy đi luôn. Hết chuyện.”
Hồi lớp mười, Ben từng phải nhập viện vì bị nhiễm trùng thận, nhưng Becca Arrington, bạn thân của Margo, đã châm ngòi tin đồn rằng nguyên nhân thực sự khiến Ben tiểu ra máu là do nó đã thủ dâm vô độ. Dù vô căn cứ về mặt y học nhưng từ đó những đồn đại cứ bám dính lấy Ben. “Khiếp quá,” tôi không biết nói gì hơn.
Ben bắt đầu vạch kế hoạch để chăn được một em, nhưng tôi nghe tai nọ ra tai kia, vì phóng mắt qua những người là người mỗi lúc một đông đúc ở hành lang, tôi đã thấy Margo Roth Spiegelman. Cô ấy đứng bên ngăn tủ đựng đồ, cạnh bạn trai của cô ấy, Jase. Margo mặc váy trắng dài đến đầu gối, áo xanh dương có in hình. Tôi thấy được hai bên xương quai xanh của cô ấy. Margo đang cười như nắc nẻ về chuyện gì đó–hai vai so về trước, đôi mắt to anh ánh nước ở khóe, khuôn miệng mở rộng. Nhưng hình như không phải cười vì điều gì Jase nói, vì cô ấy không nhìn Jase mà đưa mắt qua hành lang nhìn một dãy tủ đựng đồ khác. Tôi theo ánh mắt ấy và thấy Becca Arrington đang bám nhằng lấy một anh chàng bóng chày, cứ như nàng là vật trang trí và chàng là cây thông Giáng Sinh vậy. Tôi mỉm cười nhìn Margo, dù tôi biết cô ấy không thấy tôi.
“Ông rồ ga lấn tới đi chứ. Mặc kệ thằng Jase. Trời ơi, đúng là một nàng thỏ bọc đường mà,” Ben lảm nhảm. Chân đi nhưng mắt tôi vẫn liếc nhìn cô ấy qua đám đông, chớp lại trong tâm tưởng những khoảnh khắc có thể làm thành một loạt ảnh với tiêu đề Cái đẹp hoàn hảo lắng đọng, chỉ những kẻ phàm bước qua. Đến gần hơn, tôi nghĩ có thể
Margo chẳng hề cười. Có thể cô ấy đã ngạc nhiên hoặc nhận được một món quà hay thứ gì đó. Hình như cô ấy không khép miệng lại được.
“Ừ,” tôi lơ đãng trả lời Ben, nhưng thực ra không để ý nghe nó nói vì tôi đang cố gắng nhìn Margo càng nhiều càng tốt mà không tỏ ra quá lộ liễu. Thật ra không phải vì Margo xinh. Cô ấy đẹp đến sững sờ luôn, theo nghĩa đen của từng từ. Và rồi bọn tôi đã ở quá xa chỗ cô ấy, có quá nhiều người đi đi lại lại giữa Margo và tôi, thậm chí tôi đã không đến đủ gần để nghe thấy tiếng cô ấy nói, hay để hiểu điều thú vị gì đã khiến cô ấy ngạc nhiên đến vậy. Ben gục gặc đầu vì nó đã thấy tôi nhìn Margo như vậy cả ngàn lần, đến mức nó đã quá quen rồi.
“Ừ thì cô nàng nóng bỏng, nhưng không nóng bỏng đến mức ấy. Mà ông có biết ai thực sự nóng bỏng không?”
“Ai cơ?” tôi hỏi.
“Lacey,” Ben đáp, Lacey là một bạn thân khác của Margo. “Cả mẹ ông nữa. Tôi đã thấy mẹ ông hun lên má ông sáng nay. Đừng trách tôi nhé, thề có Chúa lúc ấy tôi đã trộm nghĩ: Ôi ôi, giá mà mình là thằng Q. Mà nữa, giá mà hai má mình mọc được tờ-rym thì sướng.” Tôi thúc cùi chỏ vào mạng sườn nó, nhưng tôi vẫn đang nghĩ đến Margo, vì cô ấy là huyền thoại duy nhất ở ngay cạnh nhà tôi. Margo Roth Spiegelman, cái tên dài sáu âm tiết ấy thường được nhắc đến đầy đủ, kèm theo chút thầm ngưỡng mộ. Margo Roth Spiegelman, câu chuyện về những chuyến phiêu lưu kinh điển của cô ấy có thể quét qua trường học như một cơn bão mùa hè: chẳng hạn như chuyện một ông già sống trong căn nhà đổ nát ở Hot Coffee, Mississippi, đã dạy Margo chơi guitar. Margo Roth Spiegelman, cô gái đã rong ruổi suốt ba ngày theo một đoàn xiếc–họ cho rằng cô ấy rất có năng khiếu biểu diễn nhào lộn trên dây. Margo Roth Spiegelman, cô gái đã uống một tách trà thảo mộc cùng ban nhạc The Mallionaires trong hậu trường sau một buổi biểu diễn ở St. Louis, còn họ uống rượu whiskey. Margo Roth Spiegelman, cô gái đã vào được buổi biểu diễn đó bằng cách nói với người soát vé rằng cô là bạn gái của tay guitar bass. Họ không nhận ra cô ư? Thôi nào ông anh, nói nghiêm túc nhé, tôi là Margo Roth Spiegelman, bây giờ nếu ông anh vào trong bảo anh chàng chơi guitar bass hãy nhìn tôi một cái, thì anh chàng sẽ bảo ngay với ông anh rằng tôi là bạn gái anh ta, hoặc anh ta muốn có tôi là bạn gái. Người soát vé làm như vậy thật, và tay bass đã nói “đúng bạn gái tôi đấy, để cô ấy vào đi.” Sau đó anh chàng muốn đi lại nghiêm chỉnh với Margo, và cô ấy đã từ chối tay guitar bass của The Mallionaires.
Những chuyện ấy, khi được kể đi kể lại, luôn kết thúc bằng câu Thế đấy, có tin được không ta? Thường
là không thể tin nổi, nhưng đó luôn là những chuyện có thật.
Bọn tôi đến chỗ ngăn tủ cá nhân của mình. Radar đang dựa lưng vào ngăn của Ben, tay bấm bấm máy tính cầm tay.
“Vậy là ông sẽ đến dạ hội tốt nghiệp,” tôi nói với nó. Radar ngước lên rồi lập tức cúi xuống. “Tôi đang chấn chỉnh một bài viết trong Toàn Thư Đủ Thứ về cựu Thủ Tướng Pháp. Đêm qua thằng xỏ lá nào đó đã xóa toàn bộ bài và chèn vào câu Jacques Chirac đang bị đồng tính, một điều không chính xác cả về thực tế lẫn ngữ pháp.” Radar là biên tập viên cự phách của một trang thông tin tham khảo trực tuyến do cộng đồng mạng sáng lập, tên đầy đủ là Toàn Thư Đủ Thứ. Cả đời nó tận tâm cống hiến để duy trì và phát triển kho Toàn Thư này. Đây là một trong những lí do tại sao việc nó hẹn hò đi dạ hội lại là chuyện đáng ngạc nhiên đến vậy.
“Vậy là ông sẽ đến dạ hội tốt nghiệp nhỉ,” tôi nhắc lại.
“Xin lỗi nhé,” nó nói mà chẳng buồn nhìn lên. Thằng nào cũng biết là tôi ớn vụ dạ hội. Hoàn toàn và tuyệt đối không có gì về cái dạ hội ấy hấp dẫn được tôi–nhảy điệu slow ư, nhảy nhạc bốc ư, váy vóc xúng xính ư, bộ vét đuôi tôm đi thuê ư, không gì sất. Đi thuê vét đuôi tôm đối với tôi là cách hoàn hảo để bị lây nhiễm một thứ bệnh kinh khủng nào đó từ người từng mặc bộ quần áo ấy, và tôi không ham là chàng trai trong trắng duy nhất trên thế gian này chăn trên mình cả một bầy rận mu.
“Này ông,” Ben nói với Radar, “các em thỏ non bé bỏng đã biết hết chuyện Ben Bỉ Bựa rồi.” Rút cục Radar chịu cất cái máy cầm tay đi, gật gật đầy thông cảm và thấu hiểu. “Dù sao,” Ben tiếp tục, “hai chiến thuật còn lại của tôi là vào Internet rao quảng cáo cần tìm người đi dạ hội cùng, hoặc bay đến Missouri bắt cóc một nàng thỏ ngon ngon, ngoan ngoan, ngu ngu nào đó về vậy.” Tôi từng cố nói với Ben rằng “nàng thỏ non” nghe có vẻ phân biệt giới và yếu đuối quá, không có chút cá tính nào cả, nhưng nó vẫn không chịu thay đổi thói quen. Cả mẹ nó cũng bị nó gọi là thỏ. Thật đúng là hết thuốc chữa với thằng này.
“Tôi sẽ hỏi Angela xem có biết ai không,” Radar nói. “Cơ mà cua được một em chịu đi dạ hội với ông còn khó hơn cả chuyện luyện chì thành vàng.”
“Cua được một em chịu đi dạ hội với ông là chuyện khó nhằn đến mức riêng giả thuyết ấy thôi đã đủ sức rắn cắt được kim cương rồi,” tôi bồi thêm.
Radar khẽ đấm hai cú vào ngăn tủ để bày tỏ sự tán thành, và tiếp tục đi đến kết luận. “Ben này, cua được một em chịu đi dạ hội với ông là chuyện gian nguy đến mức Chính phủ Hoa Kì tin rằng vấn đề không thể giải quyết được bằng đường ngoại giao, mà phải viện đến vũ lực.”
Tôi đang nghĩ dở vế tiếp theo thì cả ba thằng cùng trông thấy cái bình đựng hoóc-môn tăng cơ có hình dạng con người tên là Chuck Parson đang hằm hằm tiến lại phía chúng tôi. Chuck Parson không chơi trong đội thể thao nào cả vì như thế sẽ làm xao nhãng mục tiêu to tát của đời nó: một ngày nào đó được kết tội giết người. “Này, mấy thằng ái kia,” nó gọi.
“Chào Chuck,” tôi đáp, dàn hòa cầu thân hết mức có thể. Mấy năm nay Chuck không xích mích gì nghiêm trọng với bọn tôi–có đứa trong đám có máu mặt đã phán rằng như thế là bọn tôi được yên thân. Thế nên khi chính Chuck bắt chuyện với bọn tôi thì điều này có vẻ kì kì.
Có thể tại tôi đã mở miệng, hoặc cũng có thể không phải vậy, nhưng Chuck đã đấm uỳnh hai nắm tay lên cánh cửa tủ đựng đồ, găm tôi ở giữa, gí mặt sát lại đến mức tôi có thể tha hồ suy đoán xem nó đã dùng loại thuốc đánh răng nào. “Mày biết gì về Margo và Jase?”
“Ờ,” tôi đáp, trong đầu nghĩ đến mọi thứ tôi biết về hai người đó: Jase là bạn trai nghiêm túc đầu tiên và duy nhất của Margo Roth Spiegelman. Cả hai bắt đầu hẹn hò hồi cuối năm ngoái. Sang năm cả hai sẽ cùng đến Đại học Florida. Jase được học bổng vì sẽ chơi trong đội bóng chày của trường. Hắn chưa bao giờ ở lâu trong nhà cô ấy, trừ phi đến đón Margo. Cô ấy chưa bao giờ tỏ ra là thích hắn đến mức ấy, nhưng cô ấy cũng chưa bao giờ tỏ ra thích bất cứ ai đến mức ấy. “Chả biết gì cả,” rút cục tôi nói.
“Đừng hòng lừa tao,” Chuck gầm lên.
“Tôi hầu như chẳng hiểu gì về Margo cả,” tôi nói, và đúng là như vậy.
Nó cân nhắc câu trả lời của tôi trong chốc lát, còn tôi cố hết sức nhìn thẳng vào hai tròng mắt sát nhau của nó. Chuck gật đầu rất khẽ, rời dãy tủ đựng đồ và vào lớp học môn tiết một của nó: Chăm sóc và dinh dưỡng cho cơ ngực. Hồi chuông thứ hai reo. Còn một phút trước giờ vào lớp. Radar và tôi có giờ giải tích,
còn Ben có giờ toán tổ hợp. Các phòng học san sát cạnh nhau, bọn tôi vào lớp, ba thằng giăng hàng ngang, tin rằng lũ bạn sẽ dạt ra đủ rộng cho chúng tôi qua, và đúng như vậy.
Tôi nói:
“Cua được một em chịu đi dạ hội với ông là chuyện khó xảy ra đến mức một ngàn con khỉ gõ một ngàn cái máy chữ trong một ngàn năm cũng không một lần gõ dòng Tôi sẽ đi dạ hội với Ben.” Ben không thể kìm nén khỏi suy sụp. “Viễn cảnh đi dạ hội của tôi thảm đến mức bà của Q cũng chẳng thèm đi với tôi. Bà bảo bà đang đợi Radar mời bà đi kìa.”
Radar từ tốn gật đầu. “Đúng đấy, Q. Bà của ông khoái các chiến hữu mà.”
Dễ như bỡn thế là đã quên được Chuck, để say sưa bàn tán về buổi dạ hội dù tôi chẳng mảy may quan tâm đến nó.
Cái sự đời sáng ngày hôm ấy: chẳng có gì thực sự quá hệ trọng, cả chuyện tốt lẫn chuyện xấu. Chúng tôi bận mỗi việc mua vui tiêu khiển cho nhau, và chúng tôi đã ung dung hào phóng một cách rất chính đáng.
Ba giờ đồng hồ tiếp theo tôi ở trong lớp, cố không nhìn lên đám đồng hồ treo trên những tấm bảng đen, rồi nhìn đồng hồ, rồi tá hỏa nhận ra mới có mấy phút trôi qua kể từ lần cuối tôi xem giờ. Tôi đã có gần bốn năm kinh nghiệm xem đồng hồ, nhưng tốc độ rùa bò ì ạch đó chưa bao giờ khiến tôi hết ngạc nhiên. Giả sử chỉ được sống thêm một ngày, tôi sẽ lao ngay đến những hành lang hun hút của trường Winter Park, nơi ai cũng biết một ngày kéo dài như cả ngàn năm.
Hoặc dài như môn vật lí ở tiết thứ ba tưởng chừng không bao giờ đi đến hồi kết, nhưng cuối cùng nó cũng đã kết thúc, và rồi tôi vào căng-tin với Ben. Radar ăn bữa trưa vào tiết năm với hầu hết những đứa khác, thế nên nhìn chung Ben và tôi một mình ngồi cạnh nhau, có một đôi ngồi giữa chúng tôi và một nhóm trong đội kịch mà bọn tôi quen. Hôm nay, hai thằng bọn tôi đều ăn pizza xúc xích cay.
“Pizza ngon tuyệt,” tôi nói. Ben lơ đãng gật đầu. “Có chuyện gì vậy?” tôi hỏi.
“Khùng cú giừ,” Ben trả lời bằng một miệng đầy bánh. Nó nuốt đánh ực. “Tôi biết ông nghĩ trò này rất lố, nhưng tôi muốn đi dạ hội.”
“1. Đúng là tôi thấy trò này lố; 2. Nếu ông thích thì cứ việc đi; 3. Nếu tôi không nhầm, ông đã ngỏ lời mời ai đâu.”
“Trong giờ toán tôi đã hỏi Cassie Hiney. Tôi viết giấy hẳn hoi.” Tôi trợn mắt lên đầy nghi hoặc. Ben thò tay vào túi quần lôi ra tờ giấy gấp dày cui đưa cho tôi. Tôi mở giấy ra:
Ben,
Tớ cũng muốn đi dạ hội cùng cậu, nhưng tớ đã đồng ý sẽ đi với Frank rồi. Xin lỗi nhé! –C
Tôi gập giấy lại và trượt trả nó qua mặt bàn. Tôi vẫn nhớ đã từng chơi bóng đá bằng giấy trên những mặt bàn kiểu này. “Chán thế,” tôi nói.
“Ừa, chán gì đâu.” Những bức tường âm thanh dường như khép lại quanh chúng tôi, hai thằng ngồi lặng ngắt một lúc, rồi Ben nhìn tôi vẻ nghiêm trọng và nói, “Vào đại học tôi sẽ quậy tưng trường cho coi. Tôi sẽ được ghi vào Sách Kỉ Lục Guinness ở mục ‘Người chiều được nhiều thỏ non nhất.’”
Tôi cười phá lên. Còn đang mải nghĩ chuyện bố mẹ Radar đã thực sự được đưa vào Sách Guinness như thế nào, tôi chợt nhận thấy có một cô bạn người gốc Phi trông rất xinh với những lọn tóc tinh nghịch đang đứng trước mặt mình. Mất một lúc tôi mới nhận ra đó là Angela, theo-phỏng-đoán-của-tôi là bạn gái Radar.
“Chào,” cô ấy lên tiếng với tôi.
“Chào cậu,” tôi đáp. Tôi đã học chung lớp với Angela nên cũng biết sơ sơ, nhưng tôi và cô ấy chưa từng chào nhau ở hành lang hay đại loại như vậy. Tôi nhích sang một bên nhường chỗ cho Angela ngồi. Cô ấy lách qua ghế ngồi xuống phía đầu bàn.
“Hình như các cậu là những người hiểu Marcus nhất,” Angela vào đề, dùng tên thật của Radar. Cô ấy nghiêng người về phía bọn tôi, khuỷu tay tì lên mặt bàn.
“Một sứ mệnh chán òm, nhưng cũng phải có ai đó chịu trận chứ,” Ben đáp, nhe răng cười. “Các cậu có nghĩ cậu ấy, ừm, xấu hổ vì tớ không?” Ben cười phá lên. “Cái gì cơ? Không đâu,” nó nói.
“Thật ra thì,” tôi thêm thắt, “chính cậu thấy xấu hổ vì cậu ta mới phải.”
Cô ấy tròn mắt chớp chớp và mỉm cười. Một cô nàng quen được khen ngợi đây. “Nhưng dù gì cậu ấy chưa bao giờ, thế nào nhỉ, rủ tớ tụ tập cùng các cậu.”
“Ồồồ...,” rút cục tôi đã hiểu ra vấn đề. “Tại cậu ta xấu hổ vì bọn tớ chứ sao.”
Angela bật cười. “Các cậu có gì quái đản đâu.”
“Cậu chưa chứng kiến cảnh Ben hít Sprite bằng mũi rồi phì ra đằng mồm đấy thôi,” tôi nói. “Lúc đó trông tớ như một đài phun nước có ga đang trong cơn cuồng nộ ấy,” Ben nói tỉnh rụi. “Nhưng nếu là các cậu thì các cậu có lo không? Bọn tớ hẹn hò được năm tuần rồi mà cậu ấy chưa bao
giờ đưa tớ đến nhà cả.” Ben và tôi liếc nhau một cái kiểu biết-ngay-mà, mặt tôi như muốn rúm lại vì nhịn cười. “Sao thế?” Angela hỏi.
“Không sao,” tôi đáp. “Tớ nói thật, Angela ạ, nếu cậu ta bắt cậu tụ bạ với bọn tớ và suốt ngày đưa cậu đến nhà cậu ta...”
“Thì như vậy đứt đuôi con nòng nọc là cậu ta không thích cậu chút nào đâu,” Ben kết thúc vấn đề. “Bố mẹ cậu ấy dị lắm à?”
Tôi chật vật tìm cách trả lời câu hỏi ấy một cách thành thực. “Ừm, không đâu. Hai bác ấy hay phết. Cơ mà tớ nghĩ hai bác cưng cậu ta hơi kĩ thôi.”
“Ờ, cưng hơi kĩ,” Ben đồng ý phắt luôn, một cách hơi bị quá nhanh.
Angela mỉm cười đứng dậy, nói là phải đi kiếm ai đó trước khi hết giờ ăn trưa. Ben đợi cô ấy đi khuất rồi mới thốt lên, “Một cô nàng hơi bị được!”
“Chứ còn gì nữa,” tôi nói. “Hay là ông với tôi đá béng thằng Radar đi để chơi với cô nàng này nhỉ.” “Cơ mà chắc cô nàng không kì tài máy tính bằng thằng Radar đâu. Bọn mình cần người giỏi máy tính mà ông. Mới cả tôi cá là cô nàng chơi Hồi Sinh rất ấm ớ,” đó là trò chơi điện tử mấy đứa bọn tôi đều ghiền. “Mà này,” Ben nói thêm, “nói ông bà già của Radar cưng nó hơi kĩ nghe hay đấy.” “Ờ thì tôi sao có thể bép xép gì được,” tôi nói.
“Không biết khi nào Angela sẽ được tham quan Dinh Thự Bảo Tàng Nhà Radar nhỉ,” Ben cười nhăn nhở.
Sắp hết giờ nghỉ, Ben và tôi đứng dậy đặt khay đồ ăn trưa lên băng chuyền. Chính cái băng chuyền Chuck Parson đã từng lẳng tôi lên hồi tôi mới lơ ngơ vào trường, ném tôi xuống lãnh địa ngầm đầy kinh hãi của tập đoàn tẩy rửa bát đĩa Winter Park. Bọn tôi đi đến chỗ ngăn tủ cá nhân của Radar và vẫn đứng đó khi nó xoẹt đến sau hồi chuông thứ nhất.
“Trong giờ học môn nhà nước và chính quyền, tôi đã quyết định rằng nếu phải liếm bi của lừa mà có thể được bỏ qua môn ấy cho đến hết học kì, thì tôi sẵn sàng cam tâm tự nguyện làm như vậy,” Radar làu bàu. “Ờ, bi của lừa có thể dạy ông khối thứ về nhà nước và chính quyền đấy,” tôi nói. “Mà này, nói về những lí do có thể khiến ông ước gì mình đã ăn trưa từ tiết bốn, tụi tôi vừa ngồi ăn cùng Angela đấy.” Ben nhếch mép với Radar và nói: “Ừa, cô nàng thắc mắc là sao chả bao giờ được đến nhà ông.” Radar thở hắt ra một hơi dài thườn thượt trong khi quẳng một đống hầm bà lằng vào tủ đựng đồ. Nó thở dài lâu đến mức tôi tưởng nó sẽ đứt hơi ngất xỉu luôn mất.
“Mạt quá đi mất,” rút cục nó nói.
“Ông xí hổ chuyện gì sao?” Tôi cười cười hỏi.
“Tắt ngay,” Radar cau có thúc cùi chỏ vào bụng tôi. “Nhà ông đẹp thế còn gì,” tôi chưa tha. “Tôi nói nghiêm túc với ông nhé,” Ben bồi thêm. “Angela thật sự dễ mến. Tôi không hiểu sao ông không cho bạn ấy gặp bố mẹ ông và xem một vòng Casa[4] Radar nhỉ.”
Radar ném nốt sách vào ngăn tủ rồi đóng lại. Không khí trò chuyện chộn rộn quanh chúng tôi tắt lịm khi Radar nhìn thẳng lên trời và hét, “ÔNG BÀ GIÀ TÔI CÓ BỘ SƯU TẬP ÔNG GIÀ NOEL DA ĐEN ĐỒ SỘ NHẤT THẾ GIỚI THÌ CÓ PHẢI LỖI TẠI TÔI QUÁI ĐÂU!”
Tôi đã nghe Radar rên rẩm “bộ sưu tập ông già Noel da đen đồ sộ nhất thế giới” cả ngàn lần trong đời, và chưa bao giờ tôi nén nổi phì cười vì điều đó. Nhưng Radar không nói giỡn. Tôi vẫn nhớ lần đầu đến nhà nó. Hình như lúc ấy tôi mười ba. Hồi đó là mùa xuân, đã mấy tháng sau Giáng Sinh, thế mà vẫn có vô số
những ông già Noel da đen giăng trên các bậu cửa sổ. Các ông già Noel da đen bằng giấy treo dọc tay vịn cầu thang. Những cây nến hình ông già Noel da đen đặt trang trí trên bàn ăn. Một bức sơn dầu vẽ ông già Noel da đen treo phía trên lò sưởi, còn trên bệ lò sưởi là một loạt hình nộm các ông già Noel da đen. Trong nhà có một lọ đựng kẹo hình ông già Noel da đen mua từ Namibia. Cây đèn hình ông già Noel da đen thường được đặt cạnh thùng thư ở sân trước từ lễ Tạ ơn đến Năm mới, những lúc khác trong năm đứng hiên ngang trong góc phòng tắm dự phòng, một phòng tắm có giấy dán tường tự chế với họa tiết ông già Noel da đen và miếng bông tắm hình ông già Noel. Trong mỗi phòng, trừ phòng Radar, vương quốc của ông già Noel da đen bành trướng khắp nơi nơi–trên thạch cao, chất dẻo, đá hoa, đất sét, gỗ và vải vóc. Tổng cộng, bố mẹ Radar sở hữu hơn một ngàn hai trăm ông già Noel da đen dưới mọi hình thức. Như được trịnh trọng viết trên tấm bảng nhỏ cạnh cửa chính, nhà Radar là một di tích về ông già Noel được Hiệp hội Giáng Sinh chính thức công nhận.
“Ông chỉ việc nói với Angela thôi,” tôi nói. “Đại loại như, ‘Angela này, tớ thực sự thích cậu, nhưng có điều này cậu cần phải biết: khi ở trong nhà tớ và dính lấy nhau, tụi mình sẽ được quan sát bằng hai ngàn bốn trăm con mắt của một ngàn hai trăm ông già Noel da đen.’”
Radar đưa tay cào cào mái đầu húi cua, lắc lắc. “Ừa, không nghĩ là tôi sẽ nói y chang như vậy, nhưng tôi sẽ giải quyết việc đó.”
Tôi vào lớp học môn nhà nước và chính quyền, Ben học môn tự chọn về thiết kế trò chơi điện tử. Tôi nhăm nhăm xem đồng hồ suốt hai tiết học nữa, rồi cuối cùng cơn thở phào cũng bật khỏi lồng ngực khi hết giờ–khúc cuối một ngày luôn giống như chạy việt dã đến lễ tốt nghiệp còn chưa đầy một tháng nữa.
Tôi về nhà. Ăn lót dạ hai miếng bánh mì với bơ lạc và mứt. Xem pô-cơ trên ti-vi. Bố mẹ về nhà lúc sáu giờ, ôm nhau và ôm tôi. Bữa tối nghiêm chỉnh có mì ống bỏ lò. Bố mẹ hỏi tôi về trường lớp. Về dạ hội tốt nghiệp. Bố mẹ tấm tắc rằng nuôi dạy tôi khôn lớn là một kì tích của bố mẹ. Rằng trong công việc hàng ngày bố mẹ phải xoay xở với những người lớn lên trong cảnh ít được chăm sóc chu đáo. Bố mẹ đi xem ti vi. Tôi về phòng kiểm tra e-mail. Tôi viết một ít về cuốn Gatsby Vĩ đại cho giờ Quốc ngữ. Tôi đọc một ít Những văn bản Liên bang, chuẩn bị trước cho kì thi môn nhà nước và chính quyền. Tôi chát chíu trên mạng với Ben, một lúc sau Radar cũng vào mạng. Trong lúc tán chuyện, nó đã bốn lần nhắc đến “bộ sưu tập ông già Noel da đen đồ sộ nhất thế giới”, lần nào tôi cũng bật cười khùng khục. Tôi bảo nó rằng tôi rất mừng vì nó đã có bạn gái. Nó bảo mùa hè năm nay sẽ hay ho đây. Tôi đồng ý. Hôm nay ngày mùng năm tháng Năm, nhưng cũng chẳng quan trọng. Chuỗi ngày của tôi giống nhau một cách dễ chịu. Tôi luôn thích như vậy: nhịp sinh hoạt đều đặn. Tôi thích cảm giác chán chán. Tôi không muốn như vậy, nhưng đúng là tôi thích thế. Và như vậy mùng năm tháng Năm có thể là bất cứ ngày nào–cho đến ngay trước nửa đêm hôm ấy, khi Margo Roth Spiegelman trượt mở ô cửa sổ không có lưới chắn của phòng tôi, lần đầu tiên kể từ khi cô ấy bảo tôi hãy đóng nó lại cách đây chín năm.
2.
T
ôi quay lại khi nghe thấy tiếng cửa mở, và đôi mắt xanh của Margo đang chăm chú nhìn tôi. Thoạt đầu đôi mắt cô ấy là tất cả những gì tôi thấy được, nhưng khi thị giác đã điều chỉnh, tôi nhận ra Margo bôi đen mặt và mặc áo khoác có mũ màu đen. “Cậu đang gạ tình qua mạng đấy à?” cô ấy hỏi tôi. “Tớ đang chát chíu với Ben Starling.”
“Điều đó không trả lời câu hỏi của tớ, đồ dê cụ.”
Tôi cười như mếu, rồi đi đến cửa sổ và quì xuống, mặt tôi chỉ cách mặt cô ấy vài phân. Tôi không thể hiểu được sao cô ấy lại ở đây, bên cửa sổ phòng tôi, như thế này. “Sao tớ lại có vinh hạnh này đây?” tôi hỏi. Margo và tôi vẫn là bạn bè, tôi nghĩ thế, nhưng không phải kiểu bạn gặp-nhau-lúc-nửa-đêm-với-bộ mặt-bôi-đen. Tôi dám chắc cô ấy có bạn bè cho kiểu hoàn cảnh này. Và tôi không nằm trong số bạn đó.
“Tớ cần xe của cậu,” Margo giải thích.
“Tớ không có xe,” tôi nói, một thú nhận hơi có phần nhức nhối trong tôi.
“Chậc, tớ cần xe của mẹ cậu.”
“Cậu có xe riêng mà,” tôi nói lại.
Margo bụng má thở dài. “Đúng, nhưng vấn đề là bố mẹ giữ chìa khóa xe tớ và cất chìa trong một cái két, dưới gầm giường, và Myrna Mountweazel”–con chó của Margo– “ngủ trong phòng bố mẹ. Mà Myrna Mountweazel lên cơn phình mạch máu mỗi khi trông thấy tớ. Ý là, tớ hoàn toàn có thể lẻn vào phòng, nẫng két, cạy ra lấy chìa khóa xe và phóng đi, nhưng vấn đề ở chỗ chẳng cần phải thử vì tớ chỉ cần mở cửa phòng thôi là Myrna Mountweazel sẽ sủa loạn xà ngầu. Thế nên tớ nói rồi đấy, tớ cần một cái xe. Tớ cũng cần cậu lái xe nữa, vì đêm nay tớ có mười một việc cần làm, và ít nhất năm đầu việc cần đến đồng bọn đánh tháo.”
Khi tôi không tập trung điểm nhìn vào đâu, Margo như tan biến bồng bềnh trong không khí, chỉ còn lại đôi mắt. Còn khi tập trung nhìn cô ấy, tôi có thể thấy đường viền khuôn mặt, thứ màu đen vẫn còn ướt trên da Margo. Hai gò má và cái cằm tạo thành một hình tam giác, và bờ môi đen thẫm mơ hồ cong một nụ cười. “Có cướp giết hiếp gì không đấy?” tôi hỏi.
“Hừm,” Margo đáp. “Hãy nhắc tớ nếu đột nhập bị coi là cướp giết hiếp.”
“Không,” tôi đáp gọn.
“Không đó không bị coi là cướp giết hiếp hay là không cậu sẽ không giúp tớ?”
“Không tớ không giúp được đâu. Cậu không tuyển được đứa đàn em nào đưa cậu đi sao?” Lacey và/hoặc Becca luôn ngoan ngoãn theo Margo đấy thôi.
“Thực ra tụi nó là một phần của vấn đề,” Margo nói.
“Vấn đề gì?” tôi hỏi.
“Có mười một vấn đề tất cả,” cô ấy nói, vẻ sốt ruột.
“Không đốt nhà giết người cưỡng bức con nhà lành đâu đấy,” tôi giao hẹn.
“Tớ thề có Chúa chứng giám rằng cậu sẽ không phạm phải trọng tội như vậy đâu.” Và đúng lúc ấy, nhà Margo bỗng sáng bừng lên. Nhanh như cắt, cô ấy lộn cù mèo qua cửa sổ vào phòng tôi, lăn vào gậm giường. Chỉ tích tắc sau, bố Margo đứng ở hiên sau nhà réo. “Margo! Bố thấy mày rồi đấy!”
Tôi nghe thấy tiếng rên rẩm trong gậm giường, “Ôi trời ơi!” Margo bò khỏi gậm giường, đứng dậy đi đến bên cửa sổ và nói: “Bố ơi bố, con chỉ đang nói chuyện với Quentin thôi ạ. Bố luôn bảo là cậu ấy có tác động tích cực đến con còn gì.”
“Chỉ nói chuyện với Quentin thôi sao?”
“Vâng.”
“Thế sao phải bôi mặt đen sì thế kia?”
Margo thoáng hoảng hồn trong một tích tắc vô cùng ngắn. “Giải thích đầu đuôi dài dòng lắm ạ, bây giờ chắc bố mệt rồi thì đi ng...”
“Về nhà ngay,” bố Margo gầm lên. “Tức khắc!”
Margo níu áo tôi, thì thầm “Một phút nữa tớ quay lại” vào tai tôi, rồi trèo qua cửa sổ. Ngay khi Margo rời đi, tôi vớ lấy chìa khóa xe trên bàn. Chìa khóa là của tôi, còn chiếc xe, éo le thay, thì không. Vào ngày sinh nhật thứ mười sáu của tôi, bố mẹ tặng một món quà rất nhỏ, tôi lập tức hiểu ra bố mẹ cho tôi một chiếc chìa khóa ô-tô. Tôi mừng suýt phát tiểu vì bố mẹ vẫn nói đi nói lại là không đủ tiền mua xe cho tôi. Nhưng khi bố mẹ trao cho tôi hộp quà bé xíu, tôi biết ngay hóa ra lúc trước bố mẹ chỉ trêu thôi, và rằng cuối cùng thì tôi cũng sắp có xe rồi. Tôi xé ngay giấy bọc, mở cái hộp con con. Đúng thật, ở trong là cái chìa khóa.
Nhìn kĩ thì đó là chìa khóa xe Chrysler. Chìa khóa một chiếc minivan Chrysler. Chính là con minivan Chrysler của mẹ.
“Quà cho con là chìa khóa xe của mẹ ạ?” tôi hỏi mẹ.
“Anh Tom à,” mẹ quay sang bảo bố, “em đã nói với anh là thằng bé sẽ đặt kì vọng cao mà.” “Ơ kìa, đừng trách anh,” bố nói. “Em đang đá sự căng thẳng của em vào tiền lương của anh đấy.” “Đấy chẳng phải một phân tích vội vàng có phần thụ động-hung hăng sao?” mẹ hỏi lại. “Khi buộc tội một cách đầy hùng biện về lối hung hăng thụ động, chẳng phải chính những buộc tội ấy
đã có bản chất thụ động-hung hăng rồi không?” bố đáp trả, và bố mẹ cứ liên tu bất tận như thế một lúc lâu. Nhưng lâu hay chóng thì tóm lại cũng là thế này: tôi được thụ hưởng sự vận tải tuyệt vời của chiếc minivan Chrysler đời cũ, trừ những lúc mẹ lái xe. Và vì sáng nào mẹ cũng lái xe đi làm, tôi chỉ có thể dùng vào dịp cuối tuần. Ờ, cuối tuần và giờ giấc quái quỉ lúc nửa đêm.
Margo mất hơn một phút như đã hứa mới quay lại bên cửa sổ phòng tôi, nhưng không quá lâu. Đúng lúc sắp sửa lên đường hành sự, tôi lại thấy đầu óc lung bung. “Mai tớ phải đi học đấy,” tôi nói với Margo. “Ừa, tớ biết chứ,” Margo đáp. “Mai phải đi học, ngày kia cũng thế, cơ mà con trai suy đi tính lại lâu la có thể khiến con gái cáu điên lên đấy. Rồi, coi như đây là trường học ban đêm đi. Thế nên bây giờ chúng ta đi, vì phải trở về trước khi trời sáng.”
“Tớ không biết nữa.”
“Q này,” cô ấy nói. “Q ơi. Bạn tốt ơi. Chúng ta là bạn bè thân thiết được bao lâu rồi?” “Chúng ta không phải bạn bè. Chúng ta là hàng xóm.”
“Ôi trời ơi, Q ơi là Q. Tớ có gì tệ với cậu ư? Tớ không bảo ban đám đàn em nhan nhản của tớ ở trường phải tử tế với cậu sao?”
“Ưm hừm,” tôi ậm ừ, dù đúng là tôi vẫn luôn ngờ ngợ rằng chính Margo đã ngăn Chuck Parson và đồng đảng của nó chơi xỏ bọn tôi.
Cô ấy nháy mắt, cả hàng mi cũng được bôi đen. “Q ơi,” Margo nói, “chúng ta phải đi.” Và thế là tôi đi. Tôi lặng lẽ nhảy qua cửa sổ, và chúng tôi khom người chạy dọc hông nhà, cho đến khi mở được cửa chiếc minivan. Margo thì thầm bảo đừng đóng cửa xe–như vậy gây tiếng động quá lớn–thế là với cửa xe để mở, tôi không khởi động xe mà thò chân ra đẩy xuống nền xi-măng, để xe từ từ lăn xuống đường. Chúng tôi chầm chậm qua mấy ngôi nhà rồi tôi mới khởi động máy và bật đèn. Chúng tôi đóng cửa xe, và tôi bắt đầu lái qua những con phố ngoằn ngoèo tưởng như vô tận của khu Jefferson Park, những căn nhà còn mới và bằng chất dẻo, trông như một ngôi làng đồ chơi với hàng chục ngàn con người bằng xương bằng thịt.
Margo bắt đầu kể. “Vấn đề là bố mẹ chẳng thực sự quan tâm, bao nhiêu kì tích hay ho của tớ, họ chỉ thấy như vậy là làm hỏng thể diện của họ. Như lúc nãy, cậu có biết bố tớ nói gì không? ‘Bố không cần biết mày bày đặt trò gì với cuộc đời mày, nhưng đừng có mà làm bố mẹ mất mặt với nhà Jacobsen–cô chú ấy là bạn của bố mẹ.’ Buồn cười thật. Và cậu không biết bố mẹ tớ đã sảy vảy đến mức nào để có được cái nhà khủng ấy đâu. Cậu biết trong mấy bộ phim về vượt ngục, người ta nhét quần áo lùng bùng dưới chăn, giả bộ có người đang nằm chứ?” Tôi gật. “Ừ, đấy, mẹ tớ bày đặt xài một cái thiết bị giám sát bé chết giẫm trong phòng tớ để đêm nào cũng chực nghe tiếng tớ thở trong khi ngủ. Thế là tớ phải trả cho Ruthie năm đồng để nó ngủ trong phòng tớ, còn tớ nhét một đống quần áo lùng bùng lên giường nó.” Ruthie là em gái
Margo. “Thế là thành một mớ Nhiệm vụ bất khả thi rồi đấy. Tớ đã từng chỉ việc lẻn khỏi nhà, như bất cứ người Mĩ bình thường chết tiệt nào–chỉ việc trèo qua cửa sổ và nhảy từ mái nhà xuống. Nhưng trời đất quỉ thần ơi, bây giờ không khác gì sống trong chế độ độc tài phát-xít mà.”
“Cậu có cho tớ biết là chúng ta sẽ đi đâu không?”
“Ờ, đầu tiên đến siêu thị Publix. Vì những lí do tớ sẽ giải thích sau, tớ cần cậu vào mua đồ cho tớ. Sau đó sẽ đến cửa hàng Wal-Mart.”
“Sao cơ, chúng ta sẽ lượn một vòng hoành tráng qua các tụ điểm mua sắm ở Trung Florida sao?” tôi hỏi.
“Đêm nay, bạn thân mến ạ, chúng ta sẽ chấn chỉnh lại rất nhiều những sai trái. Và chúng ta sẽ làm trái một số điều phải. Kẻ đầu sẽ nên rốt và kẻ rốt sẽ nên đầu, người nhu mì sẽ hưởng được đất cho mà xem. Nhưng trước khi có thể tái định hình thế giới một cách căn bản, chúng ta phải đi mua sắm cái đã.” Thế là tôi lái xe đến Publix, bãi xe gần như không có ai, chúng tôi đỗ lại.
“Này,” Margo nói, “hiện giờ cậu có bao nhiêu tiền?”
“Không đồng và không xu,” tôi đáp. Tôi tắt động cơ và quay sang nhìn cô ấy. Margo lùa tay vào túi quần jeans sẫm màu, kéo ra mấy tờ một trăm đô-la. “Ơn trời may quá đã có đây rồi,” cô ấy nói. “Tiền này là sao?” tôi hỏi.
“Tiền từ lễ Trưởng Thành Bat mitzvah đấy, ngốc ạ. Tớ không được động đến tài khoản, nhưng tớ biết thừa mật khẩu của bố mẹ vì họ dùng ‘myrnamountw3az3l’ cho tất cả mọi thứ. Thế là tớ rút thôi.” Tôi cố gắng chớp mắt cho bớt vẻ ngây thộn, nhưng Margo đã thấy cách tôi nhìn cô ấy và nhếch mép cười với tôi. “Nói đơn giản,” cô ấy bảo, “đây sẽ là đêm tuyệt nhất đời cậu.”
3.
V
ề Margo Roth Spiegelman, tất cả những gì tôi có thể làm là để cô ấy nói, và khi cô ấy ngừng lời thì tôi sẽ khích lệ cô ấy hãy cứ nói tiếp đi, vì sự thật là 1. Không thể phủ nhận rằng tôi mến cô ấy, 2. Ở mọi góc độ, hoàn toàn không thể dự đoán được cô ấy sẽ làm gì, và 3. Cô ấy không bao giờ thực sự hỏi tôi
điều gì, cho nên cách duy nhất để tránh sự im lặng là khuyến khích cô ấy cứ tiếp tục câu chuyện. Ở bãi đỗ xe vào siêu thị Publix, cô ấy nói, “Rồi, đây. Tớ đã lập danh sách cho cậu. Nếu cần hỏi gì cậu cứ gọi vào điện thoại di động của tớ. Mà này, nói mới nhớ, tớ đã tự giành lấy chút tự do xếp một ít đồ ở phía sau xe rồi nhé.”
“Hả, sao cơ, kể cả khi tớ chưa đồng ý ấy hả?”
“Ờ, ừ. Thực tế như vậy đấy. Dù sao, nếu có gì thắc mắc thì cứ gọi điện cho tớ. Riêng về Vaseline, cậu cần lấy loại to hơn nắm tay cậu một chút. Như là có loại Vaseline Bé Cưng này, loại Vaseline Mẹ Bé này, rồi Vaseline Bố Bé béo ú, đấy là loại cần mua. Nếu không thấy loại đó thì lấy, xem nào, ba lọ Vaseline Mẹ Bé.” Margo đưa tôi tờ danh mục và một trăm đô-la, nói. “Thế này đủ đấy.” Danh mục của Margo:
_3 con Cá da trơn, Gói riêng từng con
Veet (Để Làm sạch lông chân Chỉ khi không Cần đến dao cạo Ở chỗ mĩ phẩm cho Con gái) Vaseline
sáu chai, Mountain Dew
Mười hai bông Tulip
một Chai Nước
Khăn giấy
một Bình xịt Phun sơn màu xanh da trời_
“Kiểu viết hoa này hay đấy,” tôi nhận xét.
“Ừ, tớ hết sức cổ xúy lối viết hoa ngẫu hứng mà. Quy tắc viết hoa thông thường rất bất công với các từ không đứng đầu câu.”
Chà, không biết bạn sẽ nói gì với nhân viên thu ngân siêu thị vào lúc mười hai rưỡi đêm khi bạn xếp lên quầy thanh toán khoảng sáu kí cá da trơn, kem tẩy lông Veet, tuýp Vaseline loại bố-bé-béo-ú, một bịch sáu chai nước có ga Mountain Dew, một bình xịt phun sơn màu xanh da trời và mười hai bông hoa tulip. Còn đây là những gì tôi đã nói: “Trông có vẻ kì quặc nhưng thực ra không đến nỗi ấy đâu ạ.”
Cô thu ngân hắng giọng nhưng không nhìn lên. “Tức là vẫn kì quặc mà,” tôi nghe thấy cô ấy lẩm bẩm. “Tớ thực sự không muốn dính vào bất cứ rắc rối nào đâu,” quay lại chiếc minivan, tôi nói với Margo như vậy, trong khi cô ấy dốc nước trong chai ra lau sạch thứ màu đen trên mặt bằng khăn giấy. Rõ ràng là cô ấy chỉ cần lớp ngụy trang ấy để ra khỏi nhà. “Trong thư mời học mà trường Duke gửi cho tớ, họ nói rõ ràng rành mạch rằng sẽ không nhận tớ vào học nếu tớ bị cảnh sát bắt.”
“Cậu rất biết lo xa đấy Q.”
“Vậy làm ơn đừng có dây vào chuyện gì rắc rối,” tôi nói. “Đúng là tớ cũng khoái vui vẻ và đủ thứ, nhưng không thể trả giá bằng, xem nào, tương lai của tớ chẳng hạn.”
Margo ngước nhìn tôi, khuôn mặt cô ấy đã gần như hoàn toàn sạch sẽ, và phảng phất nụ cười mơ hồ. “Tớ ngạc nhiên đấy, cái đống chết tiệt ấy còn xa tít mù khơi mới đến mà cậu đã bấn lên thế sao.” “Hả?”
“Đại học: vào học hay không vào học. Rắc rối: dính dáng hay không dính dáng. Trường phổ thông: đạt điểm A hay điểm D. Sự nghiệp: gây dựng hay không gây dựng. Nhà cửa: to hay nhỏ, mua đứt hay đi thuê. Tiền bạc: có hay không có. Toàn một mớ chán òm.”
Tôi chực muốn nói, rằng rõ ràng là Margo chẳng chịu chú tâm nghiêm túc gì cả, vì cô ấy học hành giỏi giang và năm tới sẽ theo học chương trình cử nhân tài năng tại Đại học Florida, nhưng Margo đã hô lên,
“Wal-Mart.”
Chúng tôi cùng vào Wal-Mart và chọn một món dụng cụ mà quảng cáo trên ti-vi vẫn gọi là The Club, có tác dụng khóa cứng tay lái ô-tô lại. Trong khi đi qua khu đồ cho trẻ em, tôi hỏi Margo, “Mua cái The Club này để làm gì?”
Margo đáp bằng kiểu độc thoại xen lẫn chút hưng phấn quen thuộc mà không trả lời trực tiếp câu hỏi của tôi. “Cậu biết không, từ xưa lắc xưa lơ và kéo dài rất lâu trong lịch sử nhân loại, tuổi thọ trung bình của con người chưa đến ba mươi. Tức là người ta có khoảng mười năm của tuổi trưởng thành, phải không? Như thế tức là chẳng cần lập kế hoạch nghỉ hưu. Chẳng có kế hoạch xây dựng sự nghiệp nữa. Chẳng có khái niệm lên kế hoạch. Làm gì có thời gian để lên kế hoạch. Không có thời gian cho tương lai. Nhưng rồi vòng đời bắt đầu dài dần ra, con người bắt đầu có nhiều cái gọi là tương lai hơn, thế là họ dành nhiều thời gian nghĩ đến nó hơn. Nghĩ về tương lai. Và bây giờ sự sống đã trở thành tương lai rồi. Mỗi khoảnh khắc trong đời cậu đều sống vì tương lai–cậu học phổ thông để có thể vào đại học để có được công việc tốt để mua được nhà đẹp để kiếm được tiền lo cho con cái cậu vào đại học để chúng có được công việc tốt để chúng mua được nhà đẹp để chúng kiếm được tiền lo cho con cái chúng vào đại học.”
Hình như Margo cứ lảm nhảm như vậy để tránh trả lời câu hỏi đã rõ ràng. Thế nên tôi nhắc lại. “Sao chúng ta lại cần cái The Club này?”
Margo vỗ nhè nhẹ lên lưng tôi. “Chẳng phải tớ đã bảo cậu rằng mọi chuyện sẽ dần sáng tỏ trước khi trời sáng đấy ư.” Và rồi, ở khu bày dụng cụ chèo thuyền, Margo chọn lấy một cái còi hơi. Cô ấy lấy nó ra khỏi hộp đựng và giơ cao lên, tôi lập tức bảo, “Không được đâu”, và Margo hỏi lại, “Cái gì không được cơ?” Tôi nói tiếp, “Không được dùng còi hơi ở đây,” hiềm nỗi tôi mới nói đến chữ d trong từ dùng thì cô ấy đã bóp còi và một tiếng rít đinh tai nhức óc xé qua không khí, ong ong trong đầu tôi, như thể các mạch máu đang phình ra và lùng bùng đập. Margo tỉnh rụi hỏi, “Xin lỗi, lúc nãy tớ không nghe rõ, cậu vừa bảo gì cơ?” Và tôi đang dở dang “Đừng b...” thì cô ấy đã lại bóp còi một lần nữa.
Một nhân viên của Wal-Mart, chắc chỉ lớn hơn chúng tôi vài tuổi, đi đến và nói, “Này, không được dùng còi hơi ở đây.” Margo liền đáp với một vẻ tưởng như hết sức chân thành, “Xin lỗi anh, em không biết ạ,” còn anh chàng kia nói ngay, “Ồ, cũng vui, không sao đâu, thật đấy.” Màn đối thoại có lẽ chỉ có thế, ngoại trừ việc anh chàng không thể rời mắt khỏi Margo. Thật lòng tôi không trách anh ta, vì đã nhìn Margo thì khó có thể rời mắt đi được. Rút cục anh ta nói, “Hai em có kế hoạch gì bây giờ không?”
Margo đáp, “Không có gì nhiều. Còn anh?”
Anh ta nói, “Anh hết giờ làm lúc một giờ, sau đó sẽ tới quán bar ở Orange, nếu em cũng muốn đến đó. Nhưng phải để em trai em lại đâu đó, quán ấy kiểm tra giấy tờ tùy thân nghiêm lắm.” Cái gì của cô ấy cơ?! “Tôi không phải là em trai,” tôi nói trong khi nhìn đôi giày thể thao của anh chàng đó.
Thế là Margo bắt đầu bày trò. “Thực ra đây là anh họ em,” cô ấy nói, nhích sát lại, vòng tay qua hông tôi và tôi có thể cảm thấy từng ngón tay Margo ấn lên mỏm hông của tôi. Rồi cô ấy nói thêm, “Và là bồ của em.”
Anh chàng kia tròn mắt bước đi, tay Margo vẫn nguyên như vậy thêm một phút nữa, tôi liền chớp cơ hội quàng tay qua vai cô ấy. “Cậu đúng là cô em họ mà tớ rất thích đấy,” tôi nói với Margo. Cô ấy mỉm cười, hông khẽ huých tôi ra và rời khỏi vòng tay tôi.
“Chẳng lẽ tớ lại không biết điều đó ư,” cô ấy nói.
4.
C
húng tôi lái xe dọc cao tốc I-4, may phước là không có ai, và tôi đi theo chỉ dẫn của Margo. Đồng hồ trên bảng điều khiển chỉ 1:07.
“Đẹp đấy chứ, hả?” cô ấy nói khi quay khỏi tôi và chăm chú nhìn ra cửa sổ xe, thế nên tôi gần như không thấy nét mặt cô ấy. “Tớ rất thích lái xe thật nhanh trong ánh đèn trên phố.” “Ánh sáng,” tôi nói, “thứ hữu hình gợi nhắc Ánh Sáng Vô Hình.”
“Đẹp quá,” Margo thốt lên.
“T.S. Eliot,” tôi nói. “Cậu cũng đọc rồi mà. Trong môn Quốc ngữ năm ngoái.” Thực ra tôi chưa từng đọc toàn bộ bài thơ có câu vừa rồi, nhưng vài câu trong những đoạn tôi đã đọc vẫn còn vướng lại trong đầu.
“Ồ, hóa ra cậu trích thơ à,” cô ấy nói, có vẻ hơi thất vọng. Tôi thấy tay Margo đặt trên bảng điều khiển chính. Tôi có thể đặt tay mình lên bảng điều khiển ấy, thế là tay chúng tôi sẽ ở cùng một chỗ, vào cùng một thời điểm. Nhưng tôi đã không làm vậy. “Cậu đọc lại đi,” Margo nói. “Ánh sáng, thứ hữu hình gợi nhắc Ánh Sáng Vô Hình.”
“Ôi chao, thật sự rất hay. Hẳn là đã khiến cô nàng của cậu cảm động.”
“Cô nàng cũ,” tôi chữa lại.
“Suzie đá cậu rồi à?” Margo hỏi.
“Sao cậu biết bạn ấy đá tớ?”
“Ôi, xin lỗi nhé.”
“Dù sao cũng đúng là như thế,” tôi thừa nhận, và Margo bật cười. Chuyện chia tay từ mấy tháng trước rồi, nhưng tôi không trách Margo đã không để ý đến kiểu chuyện tình nhạt nhẽo ấy. Những gì xảy ra trong phòng tập nhạc sẽ ở lại trong phòng tập nhạc.
Margo gác bàn chân lên bảng điều khiển và ngúc ngoắc ngón chân theo tiết tấu giọng nói. Cô ấy luôn có kiểu nói chuyện như vậy, với nhịp điệu lên xuống rõ rệt, nghe như đang ngâm thơ. “Phải rồi, ừ nhỉ, tớ xin lỗi nhé. Nhưng tớ cũng có chuyện tương tự đấy. Anh chàng bạn trai đẹp mã từ ối chao là mấy tháng nay đang mần cô bạn thân nhất của tớ.”
Tôi quay sang nhưng tóc che gần hết mặt Margo, nên tôi không hiểu có phải cô ấy đang đùa không. “Cậu đang nghiêm túc đấy à?” Cô ấy không đáp. “Nhưng sáng nay cậu còn cười với cậu ta cơ mà. Tớ thấy hai cậu mà.”
“Tớ không biết cậu đang nói đến lúc nào. Tớ biết chuyện trước khi vào tiết một, rồi tớ thấy người ta nói chuyện với nhau và tớ bắt đầu hét lên đồ giết người khát máu, Becca lao vào vòng tay Clint Bauer còn Jase đứng ngây như phỗng, cái miệng hôi hám nhểu đầy nước dãi.”
Hóa ra tôi đã hoàn toàn hiểu nhầm cảnh ở hành lang sáng nay. “Lạ thật, sáng nay Chuck Parson không dưng hỏi tớ biết gì về cậu và Jase.”
“Ừa, tớ đoán là Jase bảo Chuck đi hỏi đấy. Chắc là cố moi tin cho Jase xem ai đã làm vỡ lở sự việc.” “Trời ạ, tại sao cậu ta lại đi lằng nhằng với Becca chứ?”
“Chậc, cô nàng không lẫy lừng vì bầu trời nhân cách hay lòng hào hiệp ngời ngời, vậy thì chắc là vì cô nàng nóng bỏng thôi.”
“Becca làm sao nóng bỏng bằng cậu được,” tôi nói mà không kịp nghĩ gì hay ho hơn. “Tớ luôn thấy như vậy thật nực cười, rằng người ta cứ xoắn lấy ai đó chỉ vì bề ngoài đẹp đẽ thôi. Y như là chọn ngũ cốc ăn sáng dựa vào màu sắc chứ không phải mùi vị. Mà này, rẽ ở chỗ tiếp theo. Nhưng tớ không đẹp, vả lại cũng không thân mật. Nói chung càng ở gần tớ thì sẽ càng thấy độ nóng của tớ giảm đi.” “Như thế...” tôi toan nói.
“Thôi bỏ đi,” Margo đã gạt luôn.
Trong lòng tôi rộn lên cảm giác bất công, tại sao thằng tồi như Jason Worthington lại ngon lành nẫng được cả Margo và Becca, trong khi những người đàng hoàng tử tế một cách hoàn hảo như tôi lại không thể chạm được một phân vào một trong hai, hoặc bất cứ cô gái nào. Thực ra, tôi muốn nghĩ rằng mình là kiểu con trai không thèm dính đến Becca Arrington. Cứ cho là cô nàng nóng bỏng đi, nhưng cũng 1. ngốc một cách thảm hại, và 2. là một ả cún dại kinh điển. Mấy thằng hay tụ bạ quanh phòng tập nhạc bọn tôi lâu nay vẫn ngờ rằng Becca giữ được dáng thon chuẩn như vậy là nhờ chế độ ăn chỉ gồm linh hồn mèo sữa và những giấc mơ của trẻ con nhà nghèo. “Becca toàn bày những trò chẳng ra gì,” tôi nói, cố gắng kéo Margo trở lại câu chuyện.
“Ừ,” cô ấy đáp, vẫn nhìn ra cửa sổ bên ghế ngồi, mái tóc óng ánh phản chiếu ánh sáng từ ngoài phố. Trong tích tắc tôi ngỡ như cô ấy sẽ khóc mất, nhưng Margo thay đổi tâm trạng rất nhanh, kéo mũ đội lên đầu và lấy The Club ra khỏi cái túi Wal-Mart. “Xem nào, trò này sẽ vui ở mọi cấp độ,” cô ấy nói trong khi mạnh tay xé toạc bao bì The Club.
“Cho tớ hỏi chúng ta đến đâu được không?”
“Nhà Becca,” Margo đáp.
“Hả?” tôi thốt lên và phanh xe, dừng chiếc minivan lại và bắt đầu nói với Margo rằng tôi sẽ đưa cô ấy về nhà.
“Không có đốt nhà giết người cưỡng bức con nhà lành đâu. Hứa. Chúng ta cần tìm xe của Jase. Phố nhà Becca là phố trước mặt bên tay phải, nhưng hắn ta không đỗ xe trên phố ấy đâu, vì bố mẹ Becca ở nhà. Thử rẽ vào phố tiếp theo xem. Đó là việc đầu tiên.”
“Được rồi,” tôi nói. “Rồi về nhà đấy nhé.”
“Không, rồi chúng ta sẽ đến Phần Hai trong tổng số Mười một Phần.”
“Margo, ý tưởng đó không hay chút nào đâu.”
“Cậu cứ lái xe đi,” cô ấy nói, và thế là tôi cứ lái. Chúng tôi thấy con Lexus của Jase ở cách phố nhà Becca hai dãy nhà, đỗ trong một ngõ cụt. Tôi chưa kịp dừng xe hẳn lại thì Margo đã nhảy ra ngoài, tay cầm cái The Club. Cô ấy mở cửa chiếc Lexus, phía ghế lái xe, ngồi vào ghế và bắt đầu lắp The Club vào tay lái của Jase. Rồi cô ấy nhẹ nhàng đóng cửa chiếc Lexus lại.
“Đồ đần ấy chẳng bao giờ khóa xe cả,” Margo lẩm bẩm khi trở lại vào xe tôi. Cô ấy đút chìa khóa The Club vào túi quần, rồi đưa tay sang bới loạn tóc tôi lên. “Phần Một– xong. Bây giờ, đến nhà Becca.” Trong khi tôi lái, Margo bắt đầu giải thích Phần Hai và Ba.
“Nghe hay phết nhỉ,” tôi nói dù bụng dạ lục bục căng thẳng.
Tôi rẽ vào phố nhà Becca và đỗ cách biệt thự của Becca hai căn. Margo bò qua phía sau cái minivan và quay lại với đôi ống nhòm và một máy ảnh kĩ thuật số. Cô ấy nhìn qua ống nhòm trước rồi đưa cho tôi. Tôi thấy ánh sáng từ tầng hầm căn biệt thự, nhưng không có động tĩnh gì. Tôi hơi ngạc nhiên vì tòa nhà có tầng hầm–gần như khắp nơi ở Orlando, không cần đào sâu cũng có thể gặp mạch nước ngầm.
Tôi thò tay vào túi lấy điện thoại di động, gọi theo số Margo đọc cho tôi. Đầu dây bên kia đổ chuông, một hồi, hai hồi, rồi một giọng nam phều phào nhấc máy, “Xin chào?”
“Bác Arrington đấy phải không ạ?” tôi hỏi. Margo muốn tôi gọi vì không ai nhận ra được giọng tôi. “Ai đấy? Trời ơi, mấy giờ rồi không biết?”
“Thưa bác, có điều này cháu nghĩ bác nên biết, con gái bác giờ này đang ngủ say tít cung mây với Jason Worthington ở dưới tầng hầm đấy bác ạ.” Rồi tôi lập tức gác máy. Phần Hai: hoàn thành. Margo và tôi để ngỏ cửa xe minivan, chạy men theo con phố, gập người cúi rạp xuống sau hàng cây quanh sân nhà Becca. Margo đưa cho tôi cái máy ảnh, và tôi thấy một buồng ngủ ở tầng trên bắt đầu sáng đèn, rồi đến đèn cầu thang và phòng bếp, cuối cùng là cầu thang xuống tầng hầm. “Đây rồi,” Margo thì thầm. Tôi chẳng hiểu cô ấy muốn nói gì cho đến khi tôi liếc xéo thấy Jason Worthington thân không mặc áo lẳng mình qua cửa sổ tầng hầm. Hắn lao như tên bắn qua bãi cỏ, trên người chỉ có mỗi mảnh quần đùi, và khi hắn đến gần, tôi nhảy vụt lên chộp được một bức hình của hắn, hoàn thành Phần Ba. Ánh sáng nhá lên từ máy ảnh hình như khiến cả hai thằng tôi cùng sững sờ. Hắn chớp mắt nhìn tôi qua bóng tối trong một tích tắc bàng hoàng chóng vánh, rồi co giò chạy thẳng vào màn đêm. Margo níu lấy ống quần jeans của tôi, tôi cúi xuống và thấy cô ấy gập người cười như điên. Tôi đưa tay
đỡ Margo đứng dậy, chúng tôi cùng chạy về xe. Tôi đang bật khóa khởi động xe thì cô ấy nói, “Cùng xem ảnh đi.”
Tôi đưa máy ảnh cho Margo, chúng tôi cùng xem ảnh trên màn hình, hai mái đầu gần như chạm vào nhau. Nhác thấy bản mặt sửng sốt tái dại của Jason Worthington, tôi không thể nén nổi phì cười. “Ôi trời,” Margo thốt lên và chỉ cho tôi thấy. Trong lúc hoảng hồn và cấp bách, hình như Jason đã không kịp nhốt Jason Bé Bỏng vào trong quần đùi, thế nên chú bé chễm chệ lộ thiên cùng tuế nguyệt, được kĩ thuật số ghi lại và lưu truyền cho hậu thế.
“Cái con giống này,” Margo nói, “y chang kiểu Rhode Island là một tiểu bang: có thể đã trải qua một lịch sử vẻ vang thật, nhưng rõ ràng là nhỏ xíu à.”
Tôi nhìn lại ngôi nhà và thấy đèn dưới tầng hầm đã tắt. Tôi tự thấy mình cũng hơi tệ với Jason–thực ra không phải lỗi của hắn khi mang trên mình một con tờ-rym xíu xiu và có cô bạn gái rất biết cách trả thù ngọt ngào. Cơ mà hồi tôi học lớp sáu, Jase đã hứa sẽ không đấm vào cánh tay tôi nếu tôi chịu nuốt một con giun đất còn sống, tôi đã nuốt và hắn đã thụi một cú thẳng vào mặt tôi. Thế nên mặc cảm ân hận trong tôi cũng nhanh chóng tan biến.
Tôi quay sang Margo, cô ấy đang quan sát ngôi nhà bằng ống nhòm. “Chúng ta đi thôi,” cô ấy nói. “Xuống tầng hầm.”
“Gì cơ? Tại sao?”
“Phần Bốn. Thó quần áo của hắn phòng khi hắn tìm cách lẻn trở lại nhà. Phần Năm. Tặng cá cho Becca.”
“Không.”
“Có. Ngay và luôn,” Margo nói. “Cô nàng đang bị bố mẹ rủa sả ở trên gác. Nhưng màn thuyết giảng sẽ kéo dài bao lâu chứ? Là cậu thì cậu sẽ nói gì? ‘Con không nên bập vào bạn trai của Margo ở dưới tầng hầm như thế.’ Về căn bản màn dạy dỗ chỉ nhai đi nhai lại câu ấy thôi. Thế nên chúng ta phải lẹ lên.”
Margo ra khỏi xe, một tay cầm bình xịt sơn, tay kia một gói cá. Tôi rên rẩm, “Chuyện này không hay ho chút nào,” nhưng tôi theo sau Margo, rạp người xuống như cô ấy, cho đến khi cả hai đứng trước cửa sổ tầng hầm còn để ngỏ.
“Tớ vào trước,” Margo nói. Cô ấy thò chân qua và đứng trên bàn máy tính của Becca, nửa người ở trong nhà, nửa ở ngoài. Khi ấy tôi hỏi, “Tớ ở ngoài này canh gác thôi nhé?”
“Lê cái mông nhọn của cậu vào đây,” Margo đáp, và thế là tôi làm theo. Nhanh gọn, tôi vơ hết mấy thứ quần áo kiểu con trai mà tôi thấy trên sàn trải thảm màu tím hoa oải hương. Cái quần jeans với thắt lưng da, đôi dép lê, mũ lưỡi trai của đội bóng chày Mèo Hoang Winter Park, và cái áo phông xanh nhạt. Tôi quay lại phía Margo, cô ấy đưa tôi gói cá và một trong mấy cái bút nhũ màu tím của Becca, bảo tôi hãy viết lên giấy gói:
Thông điệp từ Margo Roth Spiegelman: Tình bạn của mi với cô ấy–ngủ với cá rồi. Margo giấu gói cá giữa mấy đôi quần soóc đã gấp trong tủ quần áo của Becca. Nghe thấy tiếng bước chân trên cầu thang, tôi liền gõ gõ vào vai Margo và nhìn cô ấy, hai mắt tôi như muốn bắn ra khỏi tròng. Margo chỉ mỉm cười và thong thả rút bình xịt sơn ra. Tôi lồm cồm chui qua cửa sổ, quay lại thì thấy Margo đang nhoài mình trên bàn, từ tốn lắc bình sơn. Bằng động tác duyên dáng–những chuyển động khiến chúng ta nghĩ ngay đến nghệ thuật viết chữ đẹp hoặc những đường kiếm của Zorro–Margo dùng bình xịt phun một chữ M lên mảng tường phía trên bàn máy tính.
Cô ấy giơ tay lên và tôi kéo Margo qua cửa sổ. Cô ấy vừa đặt chân xuống đất thì chúng tôi nghe thấy một tiếng rít vút lên nhọn hoắt, “ANH DWIGHT ƠI!” Tôi ôm mớ quần áo và chạy, Margo chạy theo bén gót.
Tôi nghe thấy, nhưng không nhìn được, cửa nhà Becca bật mở. Tôi không dừng cũng chẳng ngoái lại, kể cả khi một giọng trầm đục như sấm rền vang lên “ĐỨNG LẠI!”, thậm chí cả khi tôi nghe thấy âm thanh không thể nhầm lẫn được tiếng nạp đạn súng hoa cải.
Tôi nghe thấy Margo lầm bầm “súng” ở phía sau–nghe không có vẻ như cô ấy đang lo lắng hay hoảng loạn, mà chỉ đang ghi nhận tình hình–và tôi không chạy vòng qua hàng dậu bao quanh nhà Becca mà cắm đầu lao qua. Tôi không chắc mình muốn hạ cánh thế nào–có thể là một màn lộn cù mèo thiện nghệ hoặc
đại khái thế–nhưng rút cục hóa ra tôi buông mình sóng soài xuống mặt đường nhựa, tiếp đất bằng vai trái. May có đống quần áo của Jase bị ném xuống đất trước nên màn đo đường của tôi có phần êm ái hơn. Tôi lầm bầm chửi rủa, còn chưa kịp chuẩn bị đứng dậy thì Margo đã xốc tôi lên. Chúng tôi vào xe và tôi lái giật lùi mà không bật đèn, thế nên suýt nữa đã tông phải chàng tuyển thủ chặn bóng của đội bóng chày Mèo Hoang Winter Park lúc này gần như hoàn toàn khỏa thân. Jase đang chạy rất nhanh, nhưng hình như hắn cứ chạy loạn xà ngầu thế thôi chứ không biết đi đâu. Tôi lại cảm thấy lưỡi dao hối hận cứa vào mình khi chúng tôi vượt qua hắn, thế nên tôi trượt cửa sổ xuống phân nửa, ném cái áo phông của hắn ra. May phước chắc hắn không thấy cả Margo lẫn tôi, và hắn không có cơ sở gì để nhận ra cái minivan vì–tôi không muốn tỏ ra chua chát hay đại loại thế khi cứ phải nhay lại điều này–tôi không được lái xe đến trường. “Ma quỉ phương nào xui khiến cậu làm vậy hả?” Margo hỏi khi tôi bật đèn và lái xe đi, bây giờ tìm cách ra khỏi khu mê hồn trận ngoại thành này để vào cao tốc liên bang.
“Tớ thấy tội nghiệp hắn.”
“Hắn ư? Tại sao chứ? Vì hắn đã lừa dối tớ suốt sáu tuần ư? Vì có thể hắn đã lây sang tớ một thứ bệnh nào đó có-trời-mới-biết-là-gì ư? Vì hắn là thằng ôn ngu độn tởm lợm có thể cả đời sẽ được ăn sung mặc sướng, minh chứng hoàn hảo cho sự bất công của vũ trụ này ư?”
“Trông hắn cứ kiểu thảm thảm thế nào ấy,” tôi nói.
“Kệ xác hắn. Chúng ta sẽ đến nhà Karin. Ở Pennsylvania, cạnh tiệm rượu ABC Liquors.” “Đừng chơi tớ thế,” tôi nói. “Một người đàn ông vừa chĩa súng hoa cải vào tớ vì tớ ra tay giúp cậu, cho nên đừng có chơi đểu nhau nữa chứ.”
“TỚ CHƠI ĐỂU GÌ CẬU!” Margo gào lên và đấm mạnh xuống bảng điều khiển. “Ái chà, cậu đang gào thét đấy.”
“Tớ cứ ngỡ có lẽ... chẳng biết nữa. Tớ đã nghĩ biết đâu hắn không lừa dối tớ.”
“Ờ.”
“Karin đã nói với tớ khi ở trường. Và tớ đoán là nhiều người đã biết tỏng từ lâu rồi. Thế mà chả có ai cho tớ biết, trừ Karin. Tớ cứ tưởng con bé muốn dựng chuyện đặt điều gì chứ.”
“Tớ rất tiếc,” tôi nói.
“Ờ, ờ, không thể tin được là tớ lại động lòng đấy.”
“Tim tớ đang nện mạnh lắm,” tôi nói.
“Đó là cách cậu biết mình đang có trò vui mà,” Margo nói.
Nhưng thực ra không giống cảm giác vui vẻ, mà giống một cơn đau tim hơn. Tôi tấp xe vào bãi đỗ của một cửa hàng 7-Eleven, đặt ngón tay lên chỗ động mạch cổ trong khi đếm thời gian bằng số lần dấu : nhá lên và tắt mỗi giây trên mặt đồng hồ điện tử. Khi quay sang, tôi thấy Margo đang tròn mắt nhìn mình. “Mạch của tớ nhanh một cách đáng ngại,” tôi giải thích.
“Tớ chẳng nhớ nổi lần cuối tớ thấy phấn kích vì điều gì đó như vậy. Adrenaline trong cổ họng và buồng phổi cứ thế trào lên.”
“Hít vào đằng mũi, thở ra đằng miệng,” tôi nối lời cô ấy. “Tất cả những chộn rộn nho nhỏ ấy. Chẳng phải thật...”
“Đáng yêu sao?”
“Ngày nay người ta coi như thế là trẻ con nông nổi đúng không?” Margo mỉm cười. Cô ấy bò xuống băng ghế sau rồi quay lại với cái túi con. Những thứ hầm bà lằng gì chất ở phía sau thế không biết? Tôi trộm nghĩ. Cô ấy mở túi, lấy ra một lọ đầy sơn móng tay màu đỏ sậm, gần như đen. “Trong khi chờ cậu bình tĩnh lại, tớ sẽ sơn móng tay,” cô ấy nói và mỉm cười với tôi qua mấy lọn tóc mái. “Cậu cứ thong thả đi.”
Và chúng tôi ngồi đó, Margo với lọ sơn móng tay đặt thăng bằng trên bảng điều khiển, tôi với ngón tay xương xẩu chặn trên mạch đập của mình. Màu sơn móng tay rất bắt mắt, và ngón tay Margo rất đẹp, mảnh mai và xương xương hơn phần còn lại của cô ấy, những đường cong và góc lượn mềm mại. Margo có kiểu ngón tay khiến người khác chỉ muốn đan tay mình vào đó. Tôi nhớ những ngón tay ấy ở trên hông tôi trong gian hàng Wal-Mart, cứ như đã từ nhiều ngày trước. Tôi nghe tim mình chậm lại. Và tôi cố tự nhủ: Margo nói đúng. Ngoài kia chẳng có gì đáng sợ cả, không phải trong cái thành phố bé nhỏ này, vào cái đêm yên
tĩnh này.
5.
“P
hần Sáu,” Margo nói khi chúng tôi tiếp tục hành trình. Cô ấy vung vẩy những ngón tay trong không khí, trông như đang chơi dương cầm. “Đặt hoa trên thềm nhà Karin với lời nhắn xin lỗi.” “Cậu đã làm gì cậu ấy vậy?”
“Ờ, lúc cậu ấy kể về Jase cho tớ biết, tớ đã xử bắn sứ giả luôn.”
“Thế nào cơ?” tôi hỏi. Tôi tăng tốc qua một đèn giao thông, có mấy nhóc trong một xe thể thao đi cạnh cũng rồ ga lao theo–như thể tôi muốn đua trên cái Chrysler này lắm không bằng. Ép nó chạy nhanh là nó rên rỉ ngay.
“Chậc, cũng chẳng nhớ chính xác tớ đã gọi Karin là gì nữa, nhưng đại loại một tràng kiểu ‘đồ cún cái mông bự răng hô mụn cóc ngu ngốc thối tha èo uột có quả đầu xấu nhất Trung Florida’–và như thế là động chạm đến người ta rồi.”
“Tóc tai Karin đúng là dị dị thật mà,” tôi nói.
“Tớ biết chứ. Đó là điều duy nhất xác thực trong những gì tớ đã nói về con bé. Khi nói những lời không hay về người khác, không bao giờ nên nói sự thật, vì thực ra không thể hoàn toàn thực sự và thật lòng rút lại những lời ấy, cậu hiểu chứ? Tớ muốn nói là, có những điểm sáng, có những dị biệt, và có những thứ đê tiện thật bốc mùi.”
Xe dừng trước nhà Karin, Margo biến mất ở phía sau xe rồi quay lại với bó hoa tulip. Ở cuống một bông hoa trong bó có đính mẩu giấy Margo đã gấp lại, trông như phong thư. Cô ấy đưa cho tôi bó hoa, và tôi xẹt qua lối đi bộ, đặt bó hoa xuống thềm nhà Karin, rồi lại xẹt về xe.
“Phần Bảy,” Margo nói ngay khi tôi vào xe. “Tặng cá cho ngài Worthington đáng yêu.” “Tớ nghĩ giờ này hắn chưa về nhà đâu,” tôi nói với một chút xíu tiếc rẻ.
“Ước gì một tuần nữa cảnh sát bắt được hắn trong cảnh chân đất, tâm thần điên loạn, mình trần như nhộng vạ vật ở rãnh nước bên vệ đường,” Margo rất hào hứng.
“Hãy nhắc tớ đừng bao giờ chọc giận Margo Roth Spiegelman,” tôi làu bàu và Margo cười phá lên. “Nói nghiêm túc nhé,” cô ấy nói. “Chúng ta thả giông bão xuống đầu kẻ thù của chúng ta.” “Kẻ thù của cậu,” tôi chỉnh lại.
“Để rồi xem,” cô ấy đáp nhanh, rồi mặt chợt sáng bừng lên. “Ái chà, tớ sẽ xử lí vụ này. Vấn đề là nhà Jason có hệ thống an ninh siêu đẳng cấp. Mà chúng ta không thể để bản thân bị tấn công thêm một cú kinh hoàng nào nữa.”
“Ừa,” tôi nói.
Đi xuôi phố nhà Karin sẽ đến chỗ Jason, cái khu sang chảnh tên là Casavilla. Tất cả các căn nhà ở Casavilla đều theo kiến trúc Tây Ban Nha, mái ngói đỏ đặc trưng và tất cả các thứ khác nữa, ngoại trừ không phải do người Tây Ban Nha xây dựng. Người kiến tạo những căn nhà ấy là bố Jason, một trong những tay buôn bán bất động sản giàu có nhất Florida. “Nhà vừa to vừa xấu cho những người vừa xấu vừa to,” tôi nói với Margo trong khi tấp xe vào khu Casavilla.
“Bó tay luôn. Nếu tớ chẳng may đi đến kết cục trở thành người có mỗi một quí tử và nhà có bảy phòng ngủ, làm ơn hãy cho tớ một ân huệ là bắn quách tớ đi.”
Chúng tôi đỗ lại trước nhà Jase, một ca quái đản về kiến trúc, nhìn tổng thể từa tựa một nông trại Tây Ban Nha ngoại cỡ, trừ ba cây cột to uỵch kiểu Hi Lạp đâm thẳng đến mái nhà. Margo với gói cá thứ hai ở ghế sau, cắn mở nắp bút bằng răng, và loằng ngoằng ngoáy một dòng trông không giống chữ viết hàng ngày của cô ấy lắm:
tình yêu của MS dành Cho mi: đã yên Ngủ Với Cá rồi
“Tớ bảo này, đừng tắt động cơ xe,” Margo nói. Cô ấy đội ngược cái mũ lưỡi trai đội bóng chày Mèo Hoang Winter Park của Jase lên đầu mình.
“Ừ,” tôi nói.
“Để sẵn sàng phóng đi nhé.”
“Được rồi mà,” tôi đáp, cảm thấy mạch lại rộn lên. Hít vào đằng mũi, thở ra đằng miệng. Hít vào đằng mũi, thở ra đằng miệng. Tay cầm gói cá và bình xịt sơn, Margo mở cửa xe, từ từ đi bộ qua thảm cỏ mênh mông trước nhà Worthington, rồi nấp sau một cây sồi. Cô ấy vẫy vẫy tôi trong bóng tối, tôi vẫy lại, và Margo hít vào một hơi thật sâu, hai má phồng lên, quay đi và chạy.
Margo mới chỉ bằng được một sải chân thì toàn bộ căn nhà đã sáng trưng lên như cây thông Giáng Sinh ở trung tâm thành phố, và còi hụ inh ỏi. Tôi thoáng nghĩ hay là phó mặc Margo cho định mệnh, nhưng tôi tiếp tục hít vào đằng mũi, thở ra đằng miệng khi cô ấy chạy về phía tòa nhà ấy. Margo quẳng gói cá vào nhà qua một cửa sổ, còi báo động chói tai đến mức tôi hầu như không nghe thấy tiếng kính vỡ. Và rồi, vì cô ấy là Margo Roth Spiegelman, cô ấy tranh thủ thời gian lượn một chữ M mĩ miều lên phần cửa sổ không bị hư hại. Rồi Margo chạy hết tốc lực về xe, tôi đã đặt sẵn một chân lên chân ga, chân kia lên phanh. Chiếc Chrysler lúc đó như đang trong một cuộc đua ngựa thuần chủng dòng Thoroughbred. Margo chạy nhanh đến mức cái mũ trên đầu bay lên rơi lại phía sau, cô ấy nhảy phộc vào xe và chúng tôi lao đi trước khi cô ấy kịp đóng cửa xe.
Tôi dừng xe ở đèn giao thông cuối phố, Margo kêu lên, “Gì thế này? Đi thôi, mau mau mau!” và tôi đáp, “Ồ, được thôi,” vì tôi quên mất rằng tôi đã ném hết mọi cẩn trọng vào gió và đủ thứ khác nữa, mặc kệ và bất chấp. Tôi vượt qua ba đèn đỏ nữa trong khu Casavilla, và chúng tôi đã chạy được một dặm trên đại lộ Pennsylvania khi một xe cảnh sát rú còi và bật đèn hiệu chạy qua.
“Màn vừa rồi gớm thiệt,” Margo nói. “Như tớ mà tớ cũng thấy gớm. Còn nói theo kiểu của Q, mạch máu tớ cũng đập nhanh hơn chút chút.”
“Chúa ơi,” tôi nói. “Kì thực cậu không thể nhét nó vào xe hắn ta sao? Hay chí ít để lại trên thềm nhà thôi?”
“Chúng ta thả giông bão mà Q. Không phải mưa rào rải rác đâu nhé.”
“Hãy nói với tớ là Phần Tám sẽ ít hãi hùng hơn đi.”
“Đừng lo. Phần Tám là trò trẻ nít thôi. Chúng ta trở lại khu Jefferson Park. Nhà Lacey. Cậu biết nhà con bé đúng không?” Tôi biết, nhưng chỉ có Chúa mới biết tại sao Lacey Pemberton chả bao giờ thèm mời tôi đến nhà. Nhà Lacey ở phía bên kia Công viên Jefferson, cách nhà tôi một dặm, một căn hộ xinh xắn ở tầng trên hiệu văn phòng phẩm–chính là khu chung cư ngày xưa người đàn ông bị chết đã từng ở. Tôi đã từng vào trong vì bạn bố mẹ tôi ở tầng ba. Trước khi vào được tòa chung cư, còn phải qua hai lần cửa khóa. Tôi trộm nghĩ kể cả Margo Roth Spiegelman cũng khó lòng đột nhập vào nổi.
“Thế là Lacey đã ngoan hay hư vậy?” tôi hỏi.
“Lacey cực kì là hư,” Margo đáp. Cô ấy đang mải tìm xem có ô cửa sổ nào không, quay đi không nhìn tôi, nên tôi nghe câu được câu chăng. “Mà chúng tớ là cạ cứng với nhau từ hồi mẫu giáo đấy.” “Rồi sao?”
“Thế mà nàng ấy chẳng nói gì về Jase cho tớ biết. Nhưng không chỉ có thế thôi đâu. Khi tổng kết lại, tớ thấy nàng ta là đồ bạn tồi. Chẳng hạn, cậu có cho là tớ béo không?”
“Trời ơi, không hề,” tôi đáp. “Cậu...” Tôi ngăn mình thốt lên cậu không lẳng khẳng, nhưng đó là toàn bộ vấn đề về cậu; vấn đề ở cậu là trông cậu không giống một tên con trai. “Cậu đừng có mà giảm cân đấy nhé.”
Margo bật cười, vẫy tay về phía tôi và nói. “Cậu chỉ khoái cái mông bự của tớ thôi chứ gì.” Tôi không nhìn đường mà ngoái lại một giây và liếc cô ấy. Thực ra tôi không nên làm vậy, vì Margo có thể đọc được nét mặt tôi, và cái mặt này đang nói: Ồ, một là tớ sẽ không nói chính xác rằng nó bự, mà hai là nó thực sự ngoạn mục. Nhưng mà còn hơn thế. Không thể chia tách con người Margo và thể xác Margo. Không thể chỉ nhìn cái này mà không nhìn cái kia. Khi nhìn vào mắt Margo, ở đó có màu xanh dương và cả màu Margo nữa. Rút cục, không thể nói rằng Margo Roth Spiegelman béo hay gầy, giống như không thể nói rằng Tháp Eiffel cô đơn hay không cô đơn. Vẻ đẹp của Margo là sự hoàn hảo nằm trong một dạng vỏ chứa kín–không chút rạn nứt và không thể rạn nứt được.
“Thế mà cô nàng ấy lúc nào cũng lóe xóe những chuyện như vậy,” Margo nói tiếp. “‘Tớ sẽ cho bồ
mượn quần nhưng chắc bồ chẳng mặc vừa đâu.’ Rồi là ‘Bồ mạnh mẽ quá ta.
Tớ khoái cách bồ làm tụi con trai điêu đứng vì cá tính của bồ đấy.’ Lúc nào cũng nhạo tớ. Hình như cô nàng không bao giờ nói gì mà lại không cố ý chìm tớ xuống.”
“Dìm.”
“Cảm ơn ngài Xành Ngữ Pháp Đến Phát Phiền.”
“Sành Ngữ Pháp,” tôi nói.
“Giời ạ, tớ sẽ giết cậu cho coi!” Nhưng Margo bật cười khi nói vậy.
Tôi lái xe men theo Công viên Jefferson để tránh đi qua nhà tôi và Margo, phòng trường hợp bố mẹ hai đứa thức giấc và phát hiện ra chúng tôi trốn nhà. Chúng tôi đi men hồ (Hồ Jefferson), rẽ ở Jefferson Court, vào phố mua sắm trung tâm của cả khu Jefferson Park, lúc này vắng vẻ và yên tĩnh một cách đầy ma mị. Chúng tôi thấy chiếc SUV màu đen của Lacey đỗ trước một hiệu sushi. Tôi đỗ xe cách đó một tòa nhà, nơi đầu tiên có thể đỗ được mà không có đèn đường chiếu sáng.
“Cậu làm ơn đưa tớ con cá cuối cùng được không?” Margo hỏi. Tôi mừng rơn thoát được con cá đó vì nó bắt đầu bốc mùi. Và Margo viết lên giấy bọc theo kiểu của cô ấy: tình Bạn của mi với ms đã Ngủ với Lũ cá rồi
Chúng tôi tránh những chùm sáng từ đèn đường, bước đi tự nhiên hết mức có thể dù một người (Margo) đang cầm một con cá to gói trong giấy bọc, và người kia (tôi) đang lăm lăm bình xịt sơn trong tay. Một con chó nhăng nhẳng sủa, hai đứa tôi đều bất động, nhưng rồi lại yên tĩnh, và chúng tôi đã đến được chỗ xe của Lacey.
“Chà, thế này sẽ khó hơn đây,” Margo nói khi thấy xe được khóa. Cô ấy tìm trong túi và lấy ra một đoạn dây kim loại từng là cái mắc áo. Chưa đầy một phút Margo đã mở được cửa xe. Tôi chỉ biết ngây ra thán phục.
Mở được cửa bên ghế lái xe, Margo nhoài người mở cánh cửa bên kia cho tôi. “Này, giúp tớ dựng ghế ngồi lên,” cô ấy thì thầm. Chúng tôi cùng dựng ghế sau lên. Margo nhét con cá xuống dưới rồi đếm đến ba, và chỉ bằng một động tác, chúng tôi thả tấm ghế xuống, đè lên con cá. Tôi nghe thấy âm thanh gớm ghiếc khi lòng phèo nội tạng cá bị dẹp lép. Tôi cho phép mình tưởng tượng chiếc SUV của Lacey sẽ đượm mùi thế nào sau một ngày như rang như quay trong ánh mặt trời, và phải thừa nhận rằng một cảm giác thư thái mãn nguyện đã trào dâng trong tôi. Rồi Margo nói, “Ịn một chữ M lên nóc xe cho tớ.”
Chẳng nghĩ hết một giây tôi đã gật đầu tắp lự, trèo lên thanh hãm xung ở phía sau, rướn về phía trước và nhanh gọn phun một chữ M khổng lồ lên nóc xe. Nhìn chung, tôi chống lại mọi hình thức phá hoại. Nhưng nhìn chung tôi cũng chống lại Lacey Pemberton–và rút cục, đó chính là lời tuyên án sâu xa và sâu sắc hơn. Tôi nhảy khỏi chiếc xe, chạy vội trong bóng tối–bắt đầu thở dốc và gấp gáp hơn–về phía chiếc minivan ở cách đó một khối nhà. Khi đặt tay lên tay lái, tôi nhận ra ngón trỏ của mình có màu xanh da trời. Tôi giơ lên cho Margo xem. Cô ấy cười, cũng giơ ngón tay xanh của mình ra, và những ngón tay chạm nhau, ngón tay xanh của Margo mềm mại chạm vào tôi, mạch máu trong người tôi không tài nào chậm lại nổi. Mãi một lúc lâu sau, Margo mới nói: “Phần Chín–trung tâm thành phố.”
Lúc ấy là 2:49 sáng. Chưa bao giờ, trong cả cuộc đời mình, tôi thấy rã rời đến vậy.
6.
K
hách du lịch không bao giờ đến trung tâm Orlando vì ở đó chẳng có gì ngoài vài tòa cao ốc của các ngân hàng và hãng bảo hiểm. Khu trung tâm hoàn toàn vắng vẻ về đêm và cuối tuần, trừ mấy hộp đêm lẻ tẻ, phân nửa trong số khách là những người thảm hại hoặc dặt dẹo một cách thảm hại. Trong khi tôi lái xe, Margo chỉ đường cho tôi đi qua mê cung những con phố một chiều, chúng tôi thấy lác đác có người ngủ trên vỉa hè hoặc vạ vật trên ghế băng, nhưng không có ai cử động cả. Margo hạ cửa kính xe xuống, không khí căng tràn từ bên ngoài phả lên mặt tôi, ấm áp hơn tiết trời đêm thông thường. Tôi liếc sang thấy mấy lọn tóc lòa xòa bay ngang mặt cô ấy. Dù Margo ở ngay đây, tôi vẫn cảm thấy hoàn toàn cô đơn giữa những cao ốc đồ sộ trống trải này, như thể tôi là kẻ sống sót sau ngày tận thế và thế giới đã được ủy thác
cho tôi, toàn bộ thế gian vô tận và ẩn giấu đầy bất ngờ này, tất cả là của tôi, để tôi mặc sức khám phá. “Cậu dẫn tớ đi vòng vòng thế này thôi sao?” tôi hỏi.
“Không,” Margo đáp. “Tớ đang chỉ đường đến tòa nhà SunTrust, ở ngay cạnh Cây Măng Tây.” “Ồ,” tôi thốt lên, vì lần đầu tiên trong đêm nay tôi biết chút thông tin hữu ích. “Chỗ đó ở hướng nam.” Tôi lái xe qua vài khối nhà rồi rẽ. Margo vui vẻ chỉ, đúng, kia rồi, trước mặt chúng tôi, là Cây Măng Tây. Cây Măng Tây thực ra không phải là đọt măng tây mọc từ dưới đất lên, cũng không dính dáng gì đến bộ phận nào của măng tây. Đó chỉ là khối điêu khắc tương đồng một cách kì dị với hình thù một cây măng tây cao cỡ chục mét, cơ mà tôi cũng thấy nhiều người bảo rằng nó giống:
1. Một cây đậu leo bằng thủy tinh xanh
2. Mô phỏng trừu tượng về một cái cây
3. Tượng đài Washington phiên bản xanh hơn, có vẻ ve chai và xấu xí hơn
4. Tượng sinh thực khí khổng lồ màu xanh lục của Người Khổng Lồ Xanh Vui Vẻ Ở mọi góc độ, khối điêu khắc chẳng có gì từa tựa Tháp Ánh Sáng, tên thật của nó cả. Tôi dừng trước một cột đồng hồ ở bãi đỗ xe và nhìn sang Margo, thấy cô ấy đang đăm đăm nhìn ra vô định, ánh mắt trống rỗng, không nhìn Cây Măng Tây mà đưa mắt đi xa hơn. Lần đầu tiên tôi cảm thấy có gì đó không ổn– không phải chuyện bạn-trai-tớ-là-đồ-bốc-mùi, mà là chuyện gì đó thực sự không ổn. Lẽ ra tôi nên nói gì đó. Hẳn là vậy. Tôi nên nói chuyện này chuyện kia chuyện đây chuyện đó. Nhưng tôi đã chỉ nói rằng, “Cho tớ hỏi này, sao lại đưa tớ đến Cây Măng Tây thế?”
Cô ấy quay lại và mỉm cười với tôi. Margo đẹp đến mức thậm chí những nụ cười giả dối của cô ấy cũng thành đáng tin. “Chúng ta sẽ kiểm tra tiến độ công việc. Và nơi lí tưởng để làm việc đó là từ nóc tòa nhà SunTrust.”
Tôi trợn tròn mắt. “Không. Không đâu. Không đời nào. Cậu đã bảo không có đột nhập lén lút và tự tiện ra vào rồi cơ mà.”
“Đây không phải là đột nhập lén lút. Chỉ việc đi vào thôi, vì có một cửa không khóa.” “Margo, như vậy nực cười quá. Tất...”
“Tớ điểm lại cho cậu hay, đêm nay mình đã nhúng tay vào cả mớ đột nhập lén lút và tự tiện ra vào rồi đó. Xông vào nhà Becca. Lẻn vào nhà Jase. Bây giờ chúng ta sẽ đàng hoàng vào đây. Nhưng không thể vừa đột nhập lén lút vừa tùy tiện ra vào được. Về lí thuyết, cảnh sát có thể bắt chúng ta vì tội đột nhập lén lút hoặc tùy tiện ra vào, nhưng họ không thể bắt chúng ta vì tội đột nhập lén lút và tự tiện ra vào. Tức là tớ vẫn giữ lời hứa mà.”
“Tòa SunTrust chắc phải có nhân viên an ninh bảo vệ gì đó chứ,” tôi nói.
“Có,” cô ấy đáp, tháo đai an toàn. “Tất nhiên họ có bảo vệ. Anh ấy tên là Gus.”
Chúng tôi đi vào qua cổng chính. Ngồi sau một bàn rộng hình bán nguyệt là một anh tre trẻ, cằm râu dê lún phún, mặc đồng phục công ty An ninh Regents. “Gì thế, Margo?” anh ta hỏi.
“Chào anh Gus,” cô ấy đáp.
“Nhóc nào đấy?”
CHÚNG TÔI BẰNG TUỔI NHAU ĐÓ! Tôi muốn gào lên, nhưng đã để Margo lên tiếng thay: “Bạn học của em, tên là Q ạ. Q ơi, đây là anh Gus.”
“Có chuyện gì thế Q?” Gus hỏi.
Ồ, chúng tôi vừa rải cá chết trong thành phố, đập vỡ mấy cái cửa sổ, chụp ảnh giai lõa thể, bây giờ sẽ bày trò vui ở hành lang một tòa nhà chọc trời vào lúc ba giờ mười lăm phút sáng, đại loại thế. “Không đáng kể,” tôi đáp.
“Đêm thang máy không lên đâu,” Gus nói. “Phải tắt đi lúc ba giờ. Hai đứa cứ tự nhiên đi cầu thang bộ.” “Hay đấy, gặp sau nhé Gus.”
“Ừ, Margo.”
“Thế quái nào mà cậu lại quen nhân viên bảo vệ tòa nhà SunTrust vậy?” tôi hỏi khi cả hai đã yên ổn leo thang bộ.
“Hồi chúng ta vào phổ thông thì anh ấy học năm cuối,” Margo đáp. “Phải nhanh lên mới được. Thời gian hao mòn lãng phí.” Cô ấy bắt đầu bước hai bậc một, lao người lên, một tay bám tay vịn cầu thang, tôi cố sức theo mà không kịp. Margo không chơi môn thể thao nào nhưng thích chạy bộ–thỉnh thoảng tôi vẫn thấy cô ấy vừa chạy một mình vừa nghe nhạc trong Công viên Jefferson. Cơ mà tôi lại không thích chạy. Hoặc vì thế mà không tham gia bất cứ loại vận động lao lực nào. Giờ tôi cố gắng giữ tốc độ ổn định, quệt mồ hôi túa ra trán và phớt lờ cơn đau thốn trong bắp chân. Khi tôi lên đến tầng hai mươi lăm, Margo đã đứng ở chiếu nghỉ đợi tôi.
“Xem này,” cô ấy nói, mở cánh cửa cạnh cầu thang và chúng tôi đi vào một căn phòng thênh thang với cái bàn gỗ sồi dài bằng hai chiếc ô-tô và mảng tường với những ô cửa sổ trổ từ sàn lên đến trần. “Phòng hội thảo,” Margo nói. “Trong cả tòa nhà đây là nơi có tầm nhìn đẹp nhất.” Tôi theo sau khi cô ấy đi dọc dãy cửa sổ. “Đây rồi, chỗ đó,” cô ấy vừa nói vừa chỉ, “là Công viên Jefferson. Thấy nhà tụi mình không? Đèn vẫn tắt, vậy là tốt.” Cô ấy tiến thêm vài ô cửa. “Nhà Jase này. Tắt đèn, không còn xe cảnh sát nữa. Tuyệt, dù như vậy có thể là hắn đã mò về nhà, hơi bị chán.” Nhà Becca ở xa quá nên không thấy được, dù nhìn từ tận đây.
Margo yên lặng chốc lát, rồi đi về phía cửa kính và áp trán lên đó. Tôi lần chần ở phía sau, nhưng cô ấy giật giật áo phông của tôi và kéo tôi về phía trước. Tôi không muốn dồn sức nặng của cả hai lên một ô kính duy nhất, nhưng Margo cứ kéo tôi lại, tôi cảm thấy nắm tay cô ấy ngay bên cạnh mình. Thế là rút cục tôi dựa đầu vào kính, rón rén hết mức có thể, và nhìn ra ngoài.
Từ trên cao, Orlando sáng rực rỡ. Phía bên dưới, tôi có thể thấy bảng hiệu CẤM ĐI BỘ nhấp nháy chỗ vòng xuyến giao thông, đèn đường lô xô một mạng lưới hoàn hảo, lan ra đến mép khu trung tâm, nơi khởi đầu những phố ngõ ngoằn ngoèo vùng ngoại ô vô tận của Orlando.
“Đẹp thật,” tôi nói.
Margo khụt khịt. “Thật ư? Cậu thực sự nghĩ vậy ư?”
“Ờ, có lẽ cũng không đẹp mấy,” tôi đáp, dù quả thực tôi có thấy đẹp. Khi tôi nhìn Orlando từ máy bay, trông thành phố như khối lắp ráp đồ chơi LEGO được thả xuống một đại dương xanh lục. Còn đây, vào ban đêm, thành phố là một địa danh có thực–nhưng lần đầu tiên, là nơi tôi có thể nhìn thấy được. Khi đi quanh phòng hội thảo, rồi sang những văn phòng khác ở cùng tầng, tôi có thể thấy được tất cả: một tổng thể. Trường học. Kia là Công viên Jefferson. Xa xa là Disney World. Công viên nước Wet ’n Wild. Kia là cửa hàng 7-Eleven nơi Margo đã sơn móng tay trong khi tôi chật vật điều hòa nhịp thở. Tất cả ở đây–toàn bộ thế giới của tôi, và tôi thấy được trọn vẹn, chỉ việc thong dong đi lại trong một tòa nhà. “Ấn tượng thật,” tôi nói lớn. “Ý tớ là nhìn từ xa ấy mà. Chẳng thấy khiếm khuyết nào, cậu hiểu ý tớ chứ? Cậu không thể thấy được những hoen gỉ tàn tạ, cỏ dại um tùm hay sơn bong tróc lở. Cậu nhìn thấy thành phố đúng như ai đó đã từng tưởng tượng ra nó vậy.”
“Gần lại thì cái gì cũng xấu đi mà,” Margo nói.
“Trừ cậu,” tôi đáp mà chẳng kịp nghĩ ra điều gì hay ho hơn.
Margo vẫn áp trán trên cửa kính, cô ấy quay lại và mỉm cười với tôi. “Bắt bài nhé: cậu đáng yêu khi cậu tự tin. Và bớt đáng yêu đi khi thiếu tự tin.” Tôi chưa kịp phản ứng gì, cô ấy đã lại hướng tầm mắt ra ngoài
và bắt đầu nói. “Phần không đẹp là thế này: từ đây, cậu không thấy được những hoen gỉ tróc lở, nhưng cậu có thể nói lên được nơi này đích thực là gì. Cậu thấy tất cả chỉ là đồ hàng mã. Thậm chí còn chẳng đủ chắc chắn để nói rằng nó được làm từ nhựa hay chất dẻo. Đây là một thành phố giấy. Cậu nhìn mà xem, Q: hãy nhìn tất cả những phố cụt ấy, những con phố rẽ vòng vào chính mình, tất cả những ngôi nhà được xây lên để rồi sẽ bị kéo sập. Tất cả những con người giấy sống trong những ngôi nhà giấy đó, đốt tương lai để sưởi ấm. Tất cả những đứa trẻ giấy đó, uống thứ bia một gã lang thang vô công rồi nghề nào đó đã mua cho chúng trong một cửa hàng tiện lợi giấy. Ai cũng như phát điên trong cơn cuồng sở hữu tài sản. Tất cả những tài sản mỏng manh như giấy và dễ rách như giấy. Và tất cả những con người đó cũng như giấy vậy. Tớ đã sống ở đây mười tám năm, và tớ chưa từng một lần trong đời gặp được ai đó quan tâm đến những điều thực sự có ý nghĩa.”
“Tớ sẽ cố gắng không nghĩ rằng cậu đang nói đến cá nhân cụ thể nào,” tôi nói. Chúng tôi cùng nhìn khoảng không hút mắt màu mực, những phố cụt và những lô đất làm nhà. Nhưng bờ vai cô ấy tì vào cánh tay tôi, mu bàn tay chúng tôi chạm nhau, và dù tôi không nhìn Margo, nhưng áp mặt vào cửa kính cũng khiến tôi cảm thấy gần như đang áp mặt vào cô ấy.
“Xin lỗi nhé,” Margo nói. “Có thể mọi thứ đối với tớ đã rất khác nếu bấy lâu nay tớ chơi với cậu chứ không... ừ... Chỉ là, trời ạ, tớ chỉ thấy ghét bản thân quá, vì vẫn còn bận tâm đến những người bạn trong ngoặc kép của tớ. Nói thật với cậu, không phải là tớ ôi-quá-đau-khổ vì Jason. Hay Becca. Hoặc thậm chí cả Lacey, dù tớ thực sự thích cậu ấy. Nhưng đó là sợi dây nối cuối cùng. Một dây nối yếu ớt, hẳn là thế rồi, nhưng đó là sợi dây tớ để lại, và cô gái giấy nào cũng cần ít nhất một dây nối, phải không?”
Và đây là những gì tôi đã nói. “Mai cứ tự nhiên ngồi ăn trưa cùng bọn tớ đi.”
“Tốt với tớ thế,” cô ấy đáp, tiếng nói nhỏ dần. Margo quay lại và khẽ gật đầu. Tôi mỉm cười. Cô ấy mỉm cười. Tôi tin nụ cười ấy. Chúng tôi ra cầu thang rồi theo các bậc thang chạy xuống. Hết mỗi tầng, tôi nhảy cách bậc cuối và đá gót chân để làm Margo cười, và cô ấy đã bật cười. Tôi nghĩ mình đang làm cô ấy vui lên. Tôi nghĩ cô ấy dễ vui vẻ phấn khích. Tôi nghĩ nếu tôi tự tin được, biết đâu điều gì đó có thể xảy ra giữa hai đứa.
Tôi đã nhầm.
7.
N
gồi trong chiếc minivan khi chìa khóa đã cắm trong ổ nhưng chưa khởi động động cơ, Margo hỏi tôi, “Mà này, bố mẹ cậu dậy lúc mấy giờ vậy?”
“Tớ chẳng biết, khoảng sáu giờ mười lăm chăng?” Đang là 3:51. “Tức là chúng ta có hơn hai tiếng và đã qua truông được chín phần.”
“Ừ, nhưng tớ đã để dành phần nhọc sức nhất đến cuối cùng. Dù gì cũng sẽ xong thôi. Phần Mười–đến lượt Q chọn nạn nhân.”
“Hả?”
“Tớ chọn sẵn hình phạt rồi. Cậu chỉ việc chọn người bị chịu hứng cơn bão tố cuồng nộ mà chúng ta sẽ trút xuống thôi.”
“Người phải hứng chịu cơn bão tố cuồng nộ mà chúng ta sẽ trút xuống,” tôi sửa lỗi diễn đạt của cô ấy và Margo ngao ngán lắc đầu. “Tớ không thực sự muốn trút cáu giận của mình xuống đầu ai cả,” tôi nói, vì đúng là như vậy. Tôi luôn có cảm giác rằng phải là người quan trọng thì mới có kẻ thù. Chẳng hạn: Xét về lịch sử, nước Đức có nhiều kẻ thù hơn nước Luxembourg. Margo Roth Spiegelman là nước Đức. Là nước Anh. Nước Mỹ. Là nước Nga trong triều đại các Sa Hoàng. Còn tôi, tôi là Luxembourg. Chỉ nhẩn nha ngồi loanh quanh, chăn cừu và hát dân ca thôi.
“Chuck thì sao?” Margo hỏi.
“Hừm,” tôi đáp. Chuck Parson đã cực kì kinh khủng khiếp trong nhiều năm liền rồi mới được kìm bớt lại. Ngoài vụ vứt tôi lên băng chuyền trong căng-tin, một lần nó đã tóm lấy tôi ở ngoài cổng trường khi tôi đang đợi xe buýt, bẻ giật tay tôi ra sau và ra lệnh, “Tự nhận mình là ái đi.” Đó là kiểu sỉ nhục trong-mọi hoàn-cảnh, vì-từ-vựng-của-tao-chỉ-có-mười-hai-từ-thôi-nên-đừng-mong-tao-sỉ-nhục-mày-theo-kiểu-khác của Chuck. Dù trò này trẻ con đến nực cười, rút cục tôi vẫn phải tự nhận mình là ái, chuyện thực sự khiến tôi cáu tiết vì 1. Tôi không nghĩ rằng bất cứ ai, huống chi là tôi, nên nói ra từ đó, 2. Dù chuyện đã xảy ra, nhưng tôi không ái, hơn nữa 3. Đối với Chuck, bắt ai đó tự nhận mình ái là cách phỉ báng thậm tệ nhất, dù thực ra đồng tính hoàn toàn không phải là điều đáng xấu hổ. Tôi cố gắng nói vậy với Chuck khi nó xoắn cánh tay tôi như muốn long khỏi bả vai, nhưng nó một mực: “Nếu mày tự hào rằng mình ái đến thế, sao không thừa nhận phắt là mình ái đi, hả đồ ái?”
Rõ như ban ngày, động đến lô-gíc thì Chuck không phải là Aristotle. Nhưng khi nó cao gần hai mét, nặng trên trăm kí, thì điều đó cũng đáng dè chừng lắm.
“Làm một vụ cho Chuck cũng được,” tôi ghi nhận. Thế là tôi quay xe, lái trở lại cao tốc liên bang. Tôi không biết sẽ đi đâu, nhưng chắc như ăn bắp là không ở khu trung tâm.
“Cậu có nhớ hồi ở trường vũ đạo Crown không?” Margo hỏi. “Đêm nay tự dưng tớ chợt nhớ lại.” “Ừa, nhớ.”
“Mà nhân thể tớ xin lỗi nhé. Chẳng hiểu sao hồi đó tớ lại nghe nó dụ khị.”
“Ờ, không sao đâu,” tôi nói, nhưng thực ra trong bụng vẫn ôm cái vố nhớ đời ở trường vũ đạo Crown. “Được. Chuck Parson. Cậu biết nhà nó không?”
“Tớ biết tớ có thể lôi ra ánh sáng bộ mặt trả thù của cậu mà. Chuck ở College Park. Rẽ ở Princeton ấy.” Tôi rẽ sang phần dốc ở vai đường, khiến gầm xe hơi cà xuống đất. “Ái dà,” Margo nói. “Đừng làm tan tành em Chrysler này chứ.”
Hồi lớp sáu, đám nhóc tì có cả Margo, Chuck và tôi bị bố mẹ bắt đi học khiêu vũ ở trường Crown chuyên bồi dưỡng nhân cách và vũ đạo. Trong giờ học, con trai đứng một bên, con gái đứng bên kia, khi nào cô giáo bảo thì con trai sẽ tiến đến trước con gái, hỏi, “Cho phép tớ mời cậu nhảy điệu này được không?”, và con gái trả lời, “Được chứ.” Con gái không được phép từ chối. Nhưng một hôm–lớp học điệu fox-trot–Chuck Parson đã thuyết phục được từng đứa con gái hãy từ chối tôi. Không ai khác nữa. Chỉ mỗi
tôi. Thế là khi tôi đến trước Mary Beth Shortz và nói, “Cho phép tớ mời cậu nhảy điệu này được không?”, con bé đáp không. Tôi hỏi một đứa con gái khác, một đứa khác nữa, và Margo, cô ấy cũng đáp không, và một đứa khác nữa nữa, rồi tôi khóc.
Điều duy nhất tệ hại hơn bị từ chối trong lớp khiêu vũ là khóc lóc vì bị từ chối trong lớp khiêu vũ, và điều duy nhất tệ hại hơn thế là tèm lem nước mắt đi kiếm cô giáo mách, “Bọn con gái không chịu nhảy với con và bọn nó hông được làm càn như vậy.” Hồi đó tất nhiên tôi đã thút thít mách cô, và phần lớn những năm tháng còn lại ở trường phổ thông cơ sở, tôi phải vật vã chung sống với sự kiện mất mặt đó. Nói ngắn gọn, Chuck Parson khiến tôi không bao giờ nhảy fox-trot nữa. Đối với một thằng lớp sáu thì cũng không phải đại họa khủng khiếp gì. Tôi không còn thực sự cố chấp nghĩ ngợi chuyện đó nữa, cũng như những chuyện khác Chuck đã gây ra cho tôi mấy năm qua. Nhưng chắc chắn tôi sẽ không nhỏ nước mắt thương cảm nếu nó phải lãnh chịu điều gì.
“Hượm đã, nó sẽ không phát hiện ra tớ chứ?”
“Ừ, không đâu. Sao thế?”
“Tớ không muốn Chuck tưởng bở rằng tớ vẫn còn đủ bận tâm vì nó đến mức muốn trả miếng nó.” Một tay tôi đặt xuống bảng điều khiển xe và Margo vỗ nhẹ nhẹ lên đó. “Đừng lo,” cô ấy nói. “Chuck sẽ không bao giờ biết được ai đã ra tay triệt mao nó đâu.”
“Hình như cậu vừa dùng từ sai rồi, nhưng tớ không biết từ đấy nghĩa là gì.”
“Tớ biết một từ mà cậu không biết,” Margo reo lên.
“TỚ LÀ NỮ HOÀNG TỪ VỰNG MỚI ĐĂNG QUANG! TỚ TIẾM NGÔI CỦA CẬU RỒI NHÉ!” “Có giỏi thì đánh vần từ tiếm ngôi đi,” tôi bảo Margo.
“Không đời nào,” cô ấy cười giòn tan. “Tớ sẽ không bị mất ngai vàng vì từ tiếm ngôi đâu. Cậu phải thể hiện được oách hơn.”
“Được thôi,” tôi mỉm cười.
Chúng tôi lái xe vào College Park, một khu ghi dấu lịch sử của Orlando, xét ở góc độ phần lớn nhà ở đây được xây từ khoảng ba chục năm trước. Margo không nhớ chính xác địa chỉ nhà Chuck, cũng không nhớ căn nhà trông như thế nào, thậm chí còn không chắc nó ở phố nào. (“Tớ nghĩ chín mươi lăm phần trăm là nó ở Vassar.”). Cuối cùng, sau khi chiếc Chrysler rề rề lướt qua ba khối nhà trên Phố Vassar, Margo chỉ bên tay trái, nói, “Nhà kia.”
“Cậu chắc không?” tôi hỏi.
“Tớ chắc khoảng chín-mươi-bảy-phảy-hai phần trăm. Ý là tớ khá chắc phòng ngủ của Chuck ở ngay kia,” cô ấy chỉ. “Một lần nó mở tiệc, và khi cảnh sát đến tớ đã vọt qua cửa sổ phòng nó. Tớ khá chắc chính là cửa sổ kia.”
“Dự là sẽ dính rắc rối đây.”
“Nhưng nếu cửa sổ để mở thì có phải là lén lút đột nhập đâu. Chỉ là đi vào nhà người ta thôi mà. Chúng ta vừa đi vào SunTrust đấy thôi, mà cũng có gì to tát ghê gớm đâu, đúng chứ?”
Tôi bật cười. “Cậu sắp cảm hóa tớ thành một gã bất kham rồi đấy.”
“Tham vọng lớn của tớ đấy. Được rồi, tác chiến cần có: Veet, bình sơn và Vaseline.” “Xong,” tôi vớ mấy món đó.
“Đừng làm tớ choáng thế chứ Q. Tin tốt là Chuck ngủ như một con gấu ú ngủ đông–tớ biết vì năm ngoái tớ học Quốc ngữ với nó và nó vẫn say giấc điệp kể cả khi cô Johnston tẩn nó bằng cuốn Jane Eyre. Thế nên chúng ta sẽ trèo lên cửa sổ phòng nó, mở cửa, tháo giày, khe khẽ vào trong, tớ sẽ xử Chuck. Rồi cậu và tớ sẽ tỏa đi hai hướng ngược nhau trong nhà, chúng ta sẽ bôi Vaseline lên từng tay nắm cửa, phòng trường hợp có ai thức giấc thì cũng phải mất chán vạn thời gian mới ra được khỏi nhà và đuổi theo mình. Tụi mình sẽ xử nốt đoạn cuối với Chuck, sơn vẽ nhà nó tí chơi, rồi biến. Mà không nói gì trong khi hành động nhé.”
Tôi đặt tay mình lên tĩnh mạch cổ, nhưng tôi mỉm cười.
Chúng tôi ra khỏi xe và đi bộ cạnh nhau, Margo đưa tay ra nắm tay tôi, đan những ngón tay cô ấy vào các ngón tay tôi, và siết chặt. Tôi cũng siết tay mình và liếc nhìn cô ấy. Margo lặng lẽ gật đầu, tôi gật đầu đáp lại, và cô ấy thả tay tôi ra. Chúng tôi lẹ làng đến trước cửa sổ. Tôi khẽ đẩy khung gỗ lên. Hơi khẽ phát
ra tiếng động, nhưng mở được ngay. Tôi nhìn vào trong. Tối quá, nhưng tôi thấy một người nằm trên giường.
Cửa sổ hơi cao so với Margo, nên tôi chắp tay để cô ấy dận một chân đi bít tất lên, và tôi đẩy Margo lên. Cô ấy vào trong êm ái đến mức ninja thứ thiệt chắc cũng phải ghen tị. Tôi nhảy lên, chui được đầu và vai qua cửa sổ, rồi với nỗ lực xoắn vặn cơ thể, tôi uốn éo như sâu lùn chùn bò vào trong. Sự thể lẽ ra đã suôn sẻ, nếu tôi không lỡ cọ hai quả trứng cò vào bậu cửa sổ, đau tê tái đến mức tôi không nén nổi rên rẩm, gây ra một sai lầm vô cùng tệ hại.
Đèn ở đầu giường bật sáng. Người nằm trên giường là một bác trai có tuổi–rõ ràng không phải Chuck Parson. Bác ta tròn mắt kinh hãi và không nói nổi lời nào.
“Ơ,” Margo lên tiếng. Tôi toan té và phóng thẳng ra xe, nhưng vì Margo mà tôi nán lại, nửa thân trên ở trong nhà theo phương song song với sàn. “Dạ, chắc tụi cháu đi lộn nhà rồi bác.” Cô ấy quay lại và nhìn tôi đầy khẩn thiết. Lúc ấy tôi mới nhận ra rằng mình đang chặn đường thoát của cô ấy. Thế là tôi lẳng người khỏi cửa sổ, vớ vội đôi giày và chạy thẳng.
Chúng tôi lái xe đến đầu kia của College Park để hoàn hồn trở lại.
“Vụ vừa rồi cả hai đứa mình đều ấm ớ,” Margo nói.
“Ờ, là cậu chỉ nhầm nhà đấy nhá,” tôi nói.
“Đúng, nhưng cậu là đứa manh động đấy nhá.” Yên lặng một phút, rồi bọn tôi chỉ biết lái xe vòng vòng. Cuối cùng tôi nói, “Mình có thể mò được địa chỉ nhà Chuck trên Internet. Radar đăng nhập được vào danh bạ của trường.”
“Giải pháp xuất sắc,” Margo nói.
Thế là tôi gọi cho Radar, nhưng điện thoại của nó nhảy ngay sang hộp thư thoại. Tôi tính gọi vào điện thoại cố định nhà nó, nhưng bố mẹ nó cũng biết bố mẹ tôi, thế thì hỏng việc mất. Rút cục, tôi thình lình nảy ra ý gọi cho Ben. Ben không phải là Radar, nhưng nó biết hết tất cả các mật khẩu của Radar. Tôi gọi. Điện thoại nhảy sang hộp thư thoại sau vài hồi chuông. Thế là tôi gọi lại. Thư thoại. Gọi lại. Thư thoại. Margo nói, “Chắc cậu ấy không nhấc máy đâu,” tôi vừa gọi lại vừa nói, “Ồ, cậu ta sẽ trả lời cho coi.” Gọi thêm bốn cuộc nữa thì Ben nhấc máy thật.
“Hẳn là ông gọi cho tôi để thông báo rằng có mười một em thỏ non ngon ngon đang thoát y trong nhà ông, và rằng các em ấy đang mong mỏi Xúc Cảm Đặc Biệt mà chỉ có Bố Già Ben mới đáp ứng được.” “Tôi cần ông dùng tài khoản của Radar đăng nhập vào danh bạ của trường và tra một địa chỉ. Chuck Parson.”
“Không.”
“Đi mà,” tôi nói.
“Không.”
“Ông sẽ mừng vì đã ra tay vụ này, Ben ạ. Tôi hứa đấy.”
“Rồi rồi, làm xong rồi đó. Tôi đã làm trong khi nói không rồi đó–không thể làm gì ngoài giúp đỡ há. Bốn-hai-hai Amherst. Này, thế quái nào mà ông lại cần địa chỉ của
Chuck Parson vào lúc bốn giờ mười hai phút sáng vậy?”
“Ông ngủ đi cho lành.”
“Tôi sẽ ngỡ rằng tất cả chỉ là một giấc mơ,” Ben đáp rồi tắt máy.
Amherst chỉ cách đó mấy dãy nhà. Chúng tôi đỗ xe trên phố, trước nhà số 418, nhặt nhạnh đồ nghề và băng qua bãi cỏ nhà Chuck, sương sớm rung rung rời nhành cỏ, bám lên bắp chân tôi. May phước là cửa sổ phòng Chuck thấp hơn cửa phòng ông bác Đi Nhầm vừa nãy. Tôi nhẹ nhàng trèo được vào trong và giúp Margo vào theo. Chuck Parson nằm ngửa, ngủ tít. Margo nhón chân đi về phía nó, tôi đứng sau cô ấy, tim nện thình thình. Chuck mà tỉnh dậy thì dám nó nghiền nát hai đứa bọn tôi lắm. Margo lấy thuốc Veet ra, phun một nhúm trông như kem cạo râu vào lòng bàn tay, rồi từ từ thận trọng bôi lên lông mày bên phải của Chuck. Nó chẳng hề cựa quậy động đậy chút nào.
Rồi Margo mở hộp Vaseline–cái nắp bật ra một tiếng oách rõ to, nhưng Chuck vẫn không có vẻ gì là tỉnh cả. Margo vục một vốc tướng sang bàn tay tôi, và chúng tôi đi ngược chiều nhau trong nhà. Tôi đi từ cửa chính trước, trát Vaseline lên tay nắm cửa, rồi đến một cửa phòng ngủ để ngỏ. Tôi chà Vaseline lên tay
nắm phía trong phòng, và khe khẽ, chỉ hơi tách một tiếng nhỏ, đóng cửa phòng lại. Cuối cùng tôi quay lại phòng Chuck–Margo đã ở đó– chúng tôi cùng đóng cửa phòng lại, quết vô khối Vaseline lên tay nắm cửa. Chúng tôi phết nốt chỗ Vaseline còn lại lên khắp khung cửa sổ buồng nó, hi vọng như vậy sẽ làm cửa khó mở hơn sau khi chúng tôi đóng cửa lại trên đường rút. Margo liếc đồng hồ và giơ hai ngón tay lên. Chúng tôi đợi. Trong hai phút ấy hai đứa chỉ nhìn nhau, và tôi nhìn màu xanh trong mắt cô ấy. Thật tuyệt–trong bóng tối và không gian yên tĩnh, không có nguy cơ tôi sẽ vạ miệng nói lung tung làm hỏng khung cảnh, và đôi mắt cô ấy nhìn lại tôi, như thể có gì đó ở tôi đáng được nhìn vậy.
Rồi Margo gật đầu, và tôi lại gần Chuck. Tôi bọc bàn tay mình trong lần áo phông, Margo đã dặn thế từ trước, cúi xuống và–nhẹ nhàng hết mức có thể–miết ngón tay mình lên trán nó, nhanh gọn lau hết thuốc Veet đi. Song hành với tất tật lông từng là chân mày bên phải của Chuck. Tôi đang đứng trước mặt Chuck với hàng lông mày bên phải của nó trên áo phông tôi, thì bỗng dưng mắt nó mở trừng. Nhanh như chớp, Margo vớ lấy cái chăn và ném bừa lên Chuck, tôi ngước lên thì nàng ninja đã ở ngoài cửa sổ rồi. Tôi vội vàng ra theo, trong khi Chuck kêu la rầm trời, “MÁ ƠI! ỐI BA MÁ ƠI! TRỘM! TRỘM!”
Tôi rất muốn nói rằng, Tụi này chỉ lấy hàng lông mày của bồ thôi mà, nhưng đành mím chi trong khi đu người qua cửa sổ. Tôi xém rơi trúng Margo trong khi cô ấy phun một chữ M lên lớp tường nhựa bao ngoài nhà Chuck, rồi hai đứa xách giày chạy tóe khói ra xe. Tôi quay lại nhìn ngôi nhà, đèn đóm đã bật sáng nhưng chưa có ai ra khỏi nhà, minh chứng hùng hồn cho hiệu quả bá cháy của những tay nắm cửa được xử lí kĩ lưỡng bằng Vaseline. Đến khi chú (hoặc cũng có thể là cô, tôi nhìn không rõ lắm) Parson kéo được rèm phòng khách lên và nhìn ra ngoài, chúng tôi đã ung dung lái xe ngược lại Phố Princeton, vào cao tốc liên bang.
“Được!” tôi hét lên. “Trời ơi, đúng là bá cháy con bọ chét!”
“Cậu có thấy không? Mặt Chuck thiếu một bên lông mày ấy. Bản mặt nó mang một vẻ ngờ vực vĩnh cửu, kiểu như ‘ồ, thật sao? Chúng mày bảo tao chỉ có một chân mày thôi à? Bá láp bá xàm.’ Tớ khoái bắt thằng cùi bắp ấy phải lựa chọn: cạo nốt cánh tả hay tô vẽ cánh hữu? Ôi, vui thật! Nó còn ngoạc mồm gọi mẹ nữa chứ, đúng là đồ mít ướt nhão nhoét.”
“Này, sao cậu lại ghét nó chứ?”
“Tớ có bảo tớ ghét nó đâu. Tớ chỉ nói nó là đồ mít ướt nhão nhoét thôi mà.”
“Nhưng hình như cậu luôn bạn bè với nó cơ mà,” tôi nói, ít nhất tôi nghĩ cô ấy cũng từng bạn bè với Chuck.
“Ờ, lúc nào tớ chả bạn bè với khối người,” Margo đáp. Cô ấy nghiêng người ngả đầu lên bờ vai xương xẩu của tôi, sóng tóc buông xuống chạm vào cổ tôi. “Mệt quá,” Margo nói.
“Ca-phê-in,” tôi nói. Cô ấy nhoài ra sau, lấy cho mỗi đứa một chai Mountain Dew, tôi uống hết sau hai ngụm dài.
“Bây giờ đi đến thế giới đại dương SeaWorld thôi,” Margo bảo tôi. “Phần Mười Một.” “Sao cơ, chúng ta có đi Giải Cứu Willy hay đại loại thế không đấy?”
“Không,” cô ấy đáp. “Chúng ta sẽ chỉ đến SeaWorld, vậy thôi. Đó là công viên duy nhất tớ chưa từng đột nhập vào.”
“Tụi mình không thể đột nhập SeaWorld được,” tôi nói, tấp xe vào bãi đỗ của một cửa hàng bán đồ nội thất và tắt máy.
“Không còn nhiều thời gian nữa đâu,” Margo nói và vươn tay để bật lại động cơ.
Tôi đẩy tay cô ấy ra, nhắc lại. “Tụi mình không thể đột nhập SeaWorld được.”
“Cậu lại lảm nhảm về đột nhập rồi,” Margo dừng lại và mở thêm một chai Mountain Dew. Ánh sáng phản chiếu qua chai, trùm lên mặt cô ấy, và trong một giây, tôi thấy Margo mỉm cười trước điều cô ấy sắp nói. “Tụi mình sẽ không đột nhập chỗ nào hết. Đừng nghĩ rằng như vậy là đột nhập vào SeaWorld. Hãy nghĩ rằng tụi mình đến SeaWorld chơi lúc nửa đêm và được miễn phí đi.”
8.
“Đ
ược rồi, trước hết, bọn mình sẽ bị bắt,” tôi nói. Tôi không khởi động động cơ và bắt đầu giải thích với Margo tại sao tôi chưa làm việc đó, tự hỏi không biết cô ấy có nhìn thấy tôi trong bóng tối này không.
“Tất nhiên chúng ta sẽ bị bắt. Vậy thì sao?”
“Như vậy là phạm pháp.”
“Q này, theo nhìn nhận của cậu, SeaWorld có thể đẩy cậu vào rắc rối gì nào? Tớ muốn nói, Chúa ơi, sau tất cả những gì tớ đã làm cho cậu đêm nay, cậu không thể làm một việc vì tớ được sao? Cậu không thể yên lặng bình tĩnh và thôi tá hỏa vì mỗi cuộc phiêu lưu bé như con kiến thế này ư?” Và rồi qua hơi thở, Margo nói, “Ý tớ là, trời ạ, cậu hãy nuôi chút điên rồ đi.”
Giờ thì tôi cáu điên lên thật. Tôi chui đầu qua đai an toàn đeo chéo vai để có thể nghiêng người qua bộ phận điều khiển mà nhìn cô ấy. “Sau tất cả những gì CẬU đã làm cho TỚ sao?” tôi gần như gào lên. Cô ấy muốn tự tin ư? Tôi đang tự tin lên đây. “Cậu có gọi điện cho bố của bạn TỚ, đứa bạn đang quặp lấy bạn trai CỦA TỚ để không ai phát hiện ra là tớ đã gọi điện không? Cậu có lái xe chở cái bàn tọa CỦA TỚ đi loạn lên khắp nơi, không phải vì cậu ôi-quá-quan-trọng với tớ, mà vì tớ cần đi nhờ và cậu ở ngay cạnh không? Đó có phải là những thứ thổ tả cậu đã làm cho tớ trong đêm nay không?”
Margo không nhìn tôi. Cô ấy chỉ nhìn thẳng trước mặt, về phía lớp cửa bao bằng nhựa của cửa hàng nội thất. “Cậu tưởng tớ cần cậu sao? Cậu không nghĩ rằng tớ có thể cho Myrna Mountweazel một liều Benadryl để nó ngủ chết giấc trong khi tớ khua cái két dưới gầm giường bố mẹ đi sao? Hoặc mò vào phòng cậu trong khi cậu đang ngủ và nẫng chìa khóa xe cậu đi ư? Tớ không cần cậu, ngốc ạ. Tớ đã chọn cậu. Rồi chính cậu đã chọn lại tớ.” Giờ Margo nhìn tôi. “Và điều đó như một lời hứa. Ít nhất cho đêm nay. Khi ốm đau cũng như khi khỏe mạnh. Lúc thuận lợi cũng như lúc khó khăn. Khi giàu hơn cũng như khi nghèo đi. Cho đến khi nào bình minh chia lìa chúng ta.”
Tôi khởi động máy và lái xe ra khỏi bãi đỗ, nhưng gạt tất cả những gì liên quan đến tinh thần đồng đội của Margo sang bên, tôi vẫn cảm thấy như mình bị buộc làm một điều gì đó, và tôi muốn nói cho ra ngô ra khoai. “Được thôi, nhưng khi SeaWorld, công ty hoặc bất cứ cá nhân nào viết thư đến Đại học Duke, nói rằng cái cậu Quentin Jacobsen đầy tội lỗi đã đột nhập cơ sở vật chất của họ vào lúc bốn giờ ba mươi phút sáng cùng với cô nàng đồng hành có cặp mắt hoang dại, thì Đại học Duke sẽ điên lên đấy. Mà bố mẹ tớ cũng phát điên luôn.”
“Q ơi, cậu sẽ theo học ở Duke. Cậu sẽ trở thành luật-sư-hay-gì-đó công thành danh toại, lập gia đình, sinh con và sống hết cuộc đời con con này. Đến phút lâm chung, những khoảnh khắc cuối cùng của cuộc đời, khi cay đắng nghẹn ngào trong nhà thương, cậu sẽ tự nhủ: ‘Ồ, mình đã lãng phí cả cuộc đời chết giẫm này, nhưng chí ít vào năm cuối cùng ở trường phổ thông, mình đã lén vào SeaWorld cùng với Margo Roth Spiegelman. Ít nhất mình đã có một ngày huy hoàng, carpe diem.’”
“Một đêm huy hoàng, carpe noctem[5],” tôi sửa.
“Được rồi, cậu lại là Vua Ngữ Pháp. Cậu vừa giành lại ngai vàng rồi đó. Giờ đưa tớ tới SeaWorld thôi.” Lặng lẽ lái xe dọc cao tốc I-4, tôi nhận ra mình đang nghĩ đến người đàn ông mặc bộ đồ xám bị phát hiện đã chết năm đó. Có thể đó là lí do cô ấy đã chọn mình, tôi nghĩ. Và khi đó, cuối cùng, tôi nhớ ra
những gì Margo đã nói về người chết và những dây nối–về chính cô ấy và những dây nối. “Margo này,” tôi lên tiếng phá vỡ bầu im lặng.
“Q,” cô ấy đáp.
“Cậu từng nói... Người đàn ông bị chết năm ấy, cậu từng nói rằng có lẽ tất cả những dây nối bên trong ông ta đã đứt hết, rồi lúc nãy cậu vừa nói về chính cậu, và dây nối cuối cùng bị đứt.” Margo nửa bật cười. “Cậu lo lắng quá nhiều rồi đấy. Tớ không muốn đứa trẻ con nào tìm thấy tớ trong
cảnh ruồi bâu kiến đậu vào một sáng thứ Bảy ở Công viên Jefferson đâu.” Cô ấy nghỉ một nhịp rồi nói điều cốt lõi. “Tớ quá tự kiêu cho một kết cục như vậy.”
Tôi cười khì, thở phào và lái xe ra khỏi cao tốc liên bang. Chúng tôi rẽ vào đường International Drive, thủ phủ mua sắm của xứ này. Có đến cả ngàn cửa hàng ở International Drive, tất cả đều bán một thứ giống nhau: thứ bỏ đi. Những thứ bỏ đi dưới đủ mọi hình dạng: vỏ sò, móc đeo chìa khóa, đồi mồi bằng thủy tinh, nam châm gắn tủ lạnh hình bang Florida, hồng hạc bằng nhựa, gi gỉ gì gi đủ thứ. Thực ra có vài cửa hàng trên đường I-Drive bán thứ bỏ đi thật, nghĩa đen, phân con ta-tu, bốn đô-la chín mươi lăm xu một túi.
Nhưng vào 4:50 sáng, khách du lịch vẫn còn đang ngủ. Con đường hoàn toàn vắng ngắt, giống như những đường phố khác, khi chúng tôi lái xe qua hết bãi đỗ này đến bãi đỗ khác.
“Đi qua hàng cây kia là đến SeaWorld,” Margo nói. Cô ấy ra sau xe, lục tìm trong ba-lô hay cái gì đó. “Tớ có đủ bản đồ vệ tinh và đã vạch kế hoạch tác chiến của chúng ta, nhưng quái lạ sao chả thấy đâu nhỉ. Dù sao cứ đi qua đoạn đường có hàng cây, bên tay trái sẽ là một cửa hàng bán đồ lưu niệm.” “Bên tay trái tớ có khoảng mười bảy ngàn cửa hàng bán đồ lưu niệm.”
“Đúng, nhưng chỉ có một ngay sau khi đi hết qua hàng cây thôi.”
Quả là chính xác, chỉ có một cửa hàng như vậy, tôi đưa xe vào chỗ đỗ trống, dừng ngay dưới một cột đèn đường, vì ở I-Drive này rất dễ bị mất xe. Chắc chỉ có gã đạo chích siêu quái đản mới tìm cách thổi bay chiếc Chrysler này, nhưng tôi cũng không khoái nghĩ đến việc phải giải thích với mẹ làm thế nào và tại sao xe của mẹ đã biến mất trong mấy tiếng đồng hồ khuya khoắt này.
Chúng tôi đứng bên ngoài, dựa vào đuôi chiếc minivan, không khí nóng và nặng đến mức tôi thấy quần áo như dính chặt lên da mình. Tôi lại có cảm giác rờn rợn, như thể ai đó đang nhìn tôi mà tôi lại không thấy họ. Đêm tối quá lâu, bụng dạ tôi đau nhói sau nhiều tiếng đồng hồ lo lắng căng thẳng. Margo đã tìm thấy bản đồ, dưới ánh đèn đường, đầu ngón tay dính sơn xanh của cô ấy dò theo tuyến đường. “Tớ nghĩ ngay đây có một đoạn hàng rào,” cô ấy nói, giơ tay chỉ một vạt um tùm phía bên kia con đường có hàng cây. “Tớ đã đọc trên mạng. Mấy năm trước người ta dựng hàng rào vì một gã say nào đó nửa đêm mò vào công viên và nảy ra ý tưởng bơi cùng Shamu, cho nên đã bị Shamu xực luôn.”
“Có chuyện ấy thật sao?”
“Ừ, nhưng nếu gã đó hành động trong cơn say, thì chúng ta sẽ ra tay khi hoàn toàn tỉnh táo. Tụi mình là ninja mà.”
“À, chắc cậu là ninja thôi,” tôi nói.
“Cậu là chàng ninja ồn ào và lắm chuyện,” Margo nói, “nhưng hai đứa mình đều là ninja.” Cô ấy vén tóc ra sau vành tai, đội mũ lên, thít chặt dây rút; ánh sáng từ ngọn đèn đường rọi lên những nét sắc sảo trên khuôn mặt nhợt nhạt của cô ấy. Có thể cả hai đứa tôi đều là ninja, nhưng chỉ Margo mặc trang phục thích hợp.
“Được rồi,” cô ấy nói. “Ghi nhớ bản đồ nhé.” Đến thời điểm này, phần gian nguy nhất trong hành trình nửa dặm mà Margo đã vạch ra chính là hào nước. Địa hình SeaWorld như một tam giác. Một cạnh là mặt đường, Margo suy luận rằng sẽ thường xuyên có nhân viên an ninh đi tuần tra ban đêm. Cạnh thứ hai sát với một hồ nước chu vi ít nhất một dặm, và cạnh thứ ba tiếp giáp hào thoát nước. Nhìn từ bản đồ, hào nước này rộng cỡ một con đường hai làn. Và ở Florida, ở đâu có hào thoát nước cạnh hồ, ở đó thường có cá sấu.
Margo đặt cả tay lên hai vai tôi và xoay tôi lại phía cô ấy. “Bọn mình sẽ bị tóm, có thể thôi, trong trường hợp đó, cứ để tớ nói mọi chuyện. Cậu chỉ cần tỏ ra hiền hiền kiểu nửa ngây thơ nửa thẳng thắn, rồi ta sẽ ổn cả thôi.”
Tôi khóa xe, cố gắng vuốt gọn mái đầu bù xù, lẩm nhẩm, “Mình là ninja.” Tôi không định để Margo nghe thấy, nhưng cô ấy đã thốt lên, “Khỉ ạ, cậu đúng là ninja đấy. Đi mau thôi.”
Chúng tôi đi bộ qua I-Drive, bắt đầu mò đường qua đám sồi rậm rạp và cây bụi lùm xùm. Tôi hơi lo về độc tố của cây thường xuân, nhưng ninja không sợ độc tố thường xuân, thế là tôi xông lên, cánh tay giơ trước mặt, gạt cành gai lá lẻo sang hai bên để tiến về phía hào nước. Cuối cùng cũng qua được vạt cây và tầm nhìn thoáng ra, tôi thấy con đường với hàng cây ở bên tay phải và hào nước thẳng phía trước mặt. Ai ngồi trong xe trên đường hẳn sẽ nhìn thấy chúng tôi, nhưng chẳng có chiếc xe nào cả. Chúng tôi cùng chạy qua bụi rậm, rẽ ngoặt về phía hàng cây. Margo nói, “Nào, nào!” và tôi xẹt qua đường cao tốc sáu làn xe.
Dù trên đường hoàn toàn không có ma nào, trong tôi vẫn dội lên cơn phấn khích và cảm giác sai trái to đùng khi chạy cắt qua một con đường lớn đến vậy.
Băng qua đường rồi, chúng tôi lom khom đi trong đám cỏ lác cao đến đầu gối bên vệ đường. Margo chỉ lằn cây giữa bãi đỗ xe mênh mông bát ngát của SeaWorld và mặt hào nước tĩnh lặng sẫm màu. Chúng tôi chạy dọc hàng cây khoảng một phút, rồi Margo kéo lưng áo tôi, khẽ nói,
“Lội nước thôi.”
“Mời quí cô,” tôi nói.
“Không đâu, thật đấy. Cậu cứ tự nhiên đi,” cô ấy đáp.
Và tôi chẳng còn nghĩ đến cá sấu hay lớp bùn lầy rong rêu tù đọng bốc mùi nữa. Tôi chỉ chạy lấy đà và nhảy xa hết mức có thể. Tôi rơi xuống một chỗ nước cao đến thắt lưng, liền sải từng bước đi tiếp. Nước xộc lên một mùi nồng nặc và ướt lớp nhớp trên da tôi, nhưng ít nhất từ thắt lưng trở lên tôi không bị ướt. Hoặc ít nhất là tôi chưa bị ướt cho đến khi Margo nhảy xuống, bắn nước tung tóe lên khắp người tôi. Tôi quay lại và té nước lên người cô ấy. Margo giả bộ sặc nước, làu bàu nói:
“Ninja không té nước lên người đồng đội.”
“Ninja thứ thiệt không rơi oạch xuống làm nước tóe lên như vậy,” tôi nói.
“Ồ, tớ bị trúng tim đen rồi.”
Tôi nhìn Margo đi lên từ hào nước. Tôi thầm mừng rỡ vì không phải đụng độ cá sấu. Mạch máu của tôi nếu có đập nhanh thì cũng ở mức chấp nhận được. Bên dưới vạt áo khoác không cài của Margo, chiếc áo phông đen thấm nước ướt đẫm. Tóm lại, rất nhiều thứ đang diễn ra suôn sẻ, nhưng bất chợt tôi nhác thấy có gì đó loang loáng trên mặt nước ngay cạnh Margo. Cô ấy nhảy lên bờ, tôi thấy gân gót của Margo căng lên, và trước khi tôi kịp kêu lên, con rắn đã bắn đến cắn vào cổ chân trái, ngay dưới gấu quần jeans của cô ấy.
“Bỏ xừ!” Margo thốt lên, cô ấy nhìn xuống và lại nói “Bỏ xừ rồi!” Con rắn vẫn chưa rời chân Margo. Tôi lao đến tóm lấy đuôi rắn, giật nó ra khỏi chân cô ấy và ném thẳng xuống hào nước. “Ôi trời ơi,” Margo kêu lên. “Con gì vậy? Có phải rắn hổ mang không?”
“Tớ không biết. Nằm xuống, nằm xuống đi,” tôi nói rồi nâng chân Margo trong tay và kéo gấu quần jeans của cô ấy lên. Có hai giọt máu rỉ ra từ vết cắn, tôi cúi xuống, áp miệng lên vết thương và hút mạnh hết sức, cố gắng rút nọc độc ra. Tôi nhổ máu đi, định hút tiếp thì cô ấy nói, “Từ từ đã, tớ thấy nó rồi.” Tôi hoảng hồn đứng bật dậy, Margo nói, “Trời ơi, không sao, loài này không độc.” Cô ấy chỉ về phía hào nước, tôi theo hướng ngón tay Margo và thấy một con rắn sọc nhỏ đang lướt dọc mép nước, bơi ngay chỗ có ánh đèn rọi xuống. Nhìn ở chỗ đủ sáng, con rắn chỉ như con thằn lằn con, chẳng đáng sợ mấy.
“Ơn giời,” tôi nói, ngồi xuống cạnh Margo và lấy lại nhịp thở của mình.
Sau khi xem vết cắn và nhận ra máu đã cầm, cô ấy hỏi tôi, “Gặm chân tớ thấy thế nào?” “Ngon đấy,” tôi đáp, vì đúng là như vậy. Margo hơi nghiêng người về phía tôi, tôi cảm thấy cánh tay cô ấy áp vào sườn mình.
“Tớ cạo lông chưn sáng nay chính vì lí do này, kiểu như: Ái chà, biết đâu có người trong lúc cấp bách sẽ tóm lấy bắp chân mình mà hút nọc rắn ra.”
Có một hàng rào mắt cáo trước mặt chúng tôi, nhưng chỉ cao cỡ hai mét. Như Margo nhận xét, “Thật không vậy, thoạt đầu là con rắn ranh, rồi đến hàng rào này sao? An ninh kiểu này sỉ nhục ninja quá.” Cô ấy leo lên, lẳng người qua và trèo xuống, uyển chuyển như bước trên thang vậy. Tôi cũng cố không để bị ngã.
Chúng tôi chạy qua một bụi cây nhỏ san sát, bám chặt trên những bể chứa lớn màu xanh ngọc, chắc hẳn có động vật ở trong. Chúng tôi chạy đến một dải đường nhựa, từ đây tôi thấy được khán phòng lớn nơi Shamu từng làm bắn nước lên tôi hồi tôi còn bé. Giàn loa nhỏ mắc dọc lối đi đang phát nhạc không lời êm dịu. Chắc để các con vật cũng cảm thấy êm dịu. “Margo ơi,” tôi nói, “tụi mình ở trong SeaWorld rồi.”
Margo đáp, “Hẳn rồi,” và cô ấy bắt đầu đi quanh còn tôi đi theo. Chúng tôi dừng lại trước khu nuôi hải cẩu, nhưng hình như không có con hải cẩu nào ở trong.
“Margo ơi,” tôi nói lại lần nữa. “Chúng ta ở trong SeaWorld rồi.”
“Hãy vui đi,” cô ấy nói mà như không cử động môi. “Vì an ninh đến rồi kìa.” Tôi phóng vội qua mấy bụi cây cao đến thắt lưng, nhưng Margo không chạy nên tôi dừng lại. Một người đi tuần trong bộ đồng
phục AN NINH SEAWORLD tiến đến và tỉnh bơ hỏi, “Có chuyện gì vậy?” Tay anh ta cầm cái gì đó–bình xịt hơi cay, tôi đoán thế.
Để bình tĩnh lại, tôi tự thắc mắc, Anh ta có còng tay thông thường không hay dùng còng tay đặc dụng của SeaWorld nhỉ? Kiểu như còng tay hình hai con cá heo cong mình lại chẳng hạn? “Thực ra bọn em đang trở ra ạ,” Margo nói.
“Ồ, chắc là vậy rồi,” anh kia nói. “Vấn đề là cô em muốn tự đi ra hay được cảnh sát trưởng Hạt Orange đưa ra?”
“Nếu đối với anh cả hai đều như nhau,” Margo nói, “thì chúng em muốn tự đi ra hơn.” Tôi nhắm mắt lại, những muốn nói với Margo rằng lúc này không có thời gian để dẻo mỏ đâu. Nhưng người đàn ông kia bật cười.
“Cô em có biết mấy năm trước có người đã thiệt mạng ở đây vì nhảy vào một bể nhốt động vật không? Bọn anh được lệnh nếu có người đột nhập thì không được thả đi, dù người ta có xinh đẹp đến đâu cũng không thả.” Margo kéo kéo áo phông để lớp áo không dính sát người. Đến lúc này tôi mới nhận ra rằng anh ta đang nói đến ngực cô ấy.
“Ồ, vậy chắc anh phải bắt bọn em rồi.”
“Nhưng vấn đề chính ở đây. Anh sắp hết giờ làm, muốn về nhà làm chai bia và đánh một giấc. Nếu anh gọi cảnh sát thì họ sẽ dành ra thời gian quí báu đến đây. Anh đang nói to những suy nghĩ của mình lên đấy nhé,” anh ta nói, và Margo nhướn mắt lên vẻ hiểu ra. Cô ấy ngúc ngoắc bàn tay trong túi áo ướt và rút ra tờ một trăm đô-la ướt nhẹp thứ nước ở trong hào.
Người bảo vệ nói, “Chà, cô em nên đi ngay đi. Nếu là anh thì anh sẽ không loạng quạng đi ngang bể cá voi đâu. Quanh đó có camera an ninh bật suốt đêm, và tụi anh không muốn ai biết rằng cô em đã ở đây.” “Rõ ạ,” Margo e dè đáp, và người bảo vệ đi tiếp về phía khu vực tối. “Trời ạ,” Margo lẩm bẩm khi anh ta đã đi khuất, “tớ thực sự không muốn xì tiền cho gã dê xồm đó. Nhưng thôi, tiền là để tiêu.” Tôi gần như không nghe rõ những lời ấy, điều duy nhất tôi cảm thấy là cơn thở phào lan ra trên da. Cái cảm giác khoan khoái một cách rất thô thiển này cũng xứng đáng với những lo lắng lúc trước lắm chứ. “Ơn Chúa anh ta không gọi cảnh sát,” tôi nói.
Margo không đáp. Cô ấy nhìn xa xôi, hai mắt nhíu lại gần như nhắm. “Tớ cảm thấy lần này giống hệt hồi vào trong phim trường của hãng Universal,” lát sau Margo nói. “Chỗ này cũng hay hay, đại loại thế, nhưng chẳng có gì xem được nữa. Các loại xe trượt cảm giác mạnh không hoạt động. Những thứ hay ho đều bị khóa lại cả rồi. Buổi đêm đa phần các con vật đều bị nhốt trong các lồng bể khác nhau.” Margo quay đầu lại và nhận xét về SeaWorld mà chúng tôi đang chứng kiến. “Tớ nghĩ phần lí thú không phải là được đứng ở đây.”
“Vậy phần lí thú chính là ở đâu?” tôi hỏi.
“Ở lúc vạch kế hoạch, tớ nghĩ thế. Cũng chẳng biết nữa. Ta hi vọng làm một việc gì đó thì sẽ vui lắm, nhưng khi thực sự làm việc đó, lại chẳng thấy vui như đã mong đợi nữa.”
“Tớ thấy trò này vui đấy chứ,” tôi thú nhận. “Dù chẳng có gì để xem cả.” Tôi ngồi xuống một băng ghế, Margo ngồi xuống cạnh tôi. Chúng tôi cùng nhìn về phía khu hải cẩu, nhưng không có con hải cẩu nào ở trong, chỉ là hòn đảo nhỏ chẳng có gì ngoài mấy đụn giả sơn xù xì bằng chất dẻo. Tôi ngửi thấy mùi của Margo ngay bên mình, mùi mồ hôi và rong rêu từ hào nước, mùi dầu gội đầu thơm như tử đinh hương, và mùi làn da cô ấy, thoang thoảng như hạnh nhân mới nghiền vậy.
Lần đầu tiên tôi thấy mệt. Và tôi mường tượng ra cảnh chúng tôi nằm bên nhau trên vạt cỏ trong SeaWorld, tôi nằm ngửa còn Margo nằm nghiêng, cánh tay buông trên người tôi, đầu ngả vào vai tôi và đang nhìn tôi. Không làm gì cả–chỉ nằm cạnh nhau dưới bầu trời, màn đêm ở đây vẫn sáng quá, lút cả những vì sao. Và hình như tôi cảm nhận được hơi thở của Margo mơn man trên cổ mình, và có lẽ chúng tôi có thể cứ nằm như vậy đến sáng, mọi người bắt đầu đi ngang qua chúng tôi khi họ vào đây, họ sẽ thấy chúng tôi và sẽ nghĩ rằng chúng tôi cũng là khách tham quan, và thế là chúng tôi chỉ việc nhập vào và biến mất trong đám du khách.
Nhưng không. Còn phải chứng kiến cảnh Chuck Parson lông mày một mất một còn. Còn phải to nhỏ kể lại chuyện này với Ben. Còn lớp học, phòng tập nhạc, trường Duke và tương lai.
“Q ơi,” Margo nói.
Tôi nhìn lên cô ấy, thoáng chốc tôi không hiểu sao cô ấy lại gọi tên mình, nhưng rồi tôi hết hẳn cơn nửa tỉnh nửa mơ. Và tôi nghe thấy. Giàn loa đang phát nhạc, nhưng không phải nhạc không lời dìu dịu nữa, mà là nhạc thực sự. Một bài hát jazz cũ kĩ mà bố tôi thích, tên là “Sao sa ở Alabama.” Qua những cái loa bé xíu, có thể nghe thấy ca sĩ như đang cất lên cả ngàn nốt nhạc cùng một lúc.
Và tôi cảm thấy sợi dây liền mạch nối tôi với cô ấy, kéo suốt từ hồi hai đứa nhóc tì ở trong cũi, đến người đàn ông đã chết năm nào, cho tới sự gần gũi ngày hôm nay. Và tôi muốn nói với Margo rằng phần vui nhất đối với tôi không ở chỗ lập kế hoạch, hành động hay đào tẩu; mà phần vui nhất là thấy được những dây nối của chúng tôi gặp nhau rồi chia tách, và lại trở về với nhau–nhưng nói ra như vậy có vẻ sến sẩm quá, vả lại cô ấy cũng đã đứng lên rồi.
Đôi mắt xanh thứ màu xanh kì diệu của Margo chớp chớp, khi đó cô ấy đẹp đến không tưởng, ống quần jeans ướt bó trên chân, gương mặt sáng lên trong ánh ngày nhàn nhạt.
Tôi đứng lên, chìa tay ra và nói, “Cho phép tớ mời cậu nhảy điệu này được không?” Margo nhún chân, đưa tay cho tôi và nói, “Được chứ.” Tôi đặt tay lên đường cong giữa eo và hông cô ấy, và tay cô ấy đặt trên vai tôi. Bước-bước-bước ngang. Bước-bước-bước ngang. Chúng tôi nhảy fox-trot một vòng quanh khu hải cẩu, bài hát vẫn ngân nga về những vì sao sa trên bầu trời. “Điệu chậm lớp sáu nào,” Margo nói, và chúng tôi đổi tư thế, tay cô ấy trên vai tôi và tay tôi trên hông cô ấy, khuỷu tay đan vào nhau, hai đứa chỉ cách nhau có nửa mét. Rồi chúng tôi lại nhảy theo điệu fox-trot cho đến hết bài hát. Tôi tiến một bước và đỡ Margo ngả ra, như chúng tôi được dạy hồi ở trường vũ đạo Crown. Margo giơ một chân lên, dồn toàn bộ trọng lượng vào tôi khi tôi đỡ lưng cô ấy. Cô ấy đã tin tưởng tôi, hoặc là muốn bị ngã.
9.
C
húng tôi mua khăn bông ở một cửa hàng 7-Eleven trên đường I-Drive, cố lau sạch những thứ nhớp nhớp mùi mùi khỏi quần áo và da mình. Tôi đổ đầy bình xăng đúng như lúc trước khi đi lòng vòng khắp Orlando. Chỗ ngồi trong chiếc Chrysler sẽ ươn ướt tí chút khi mẹ lái xe đi làm, nhưng tôi vẫn nhấp nhỉnh hi vọng rằng mẹ sẽ không phát hiện ra, vì mẹ tôi vốn khá xuề xòa những chuyện kiểu này. Nhìn chung bố mẹ tin rằng tôi là đứa nghiêm chỉnh, ít có hành-vi-gây-nguy-cơ-đột-nhập-vào-Sea-World nhất quả đất, và rằng sự phát triển lành mạnh về tâm thần kinh của tôi chính là minh chứng hùng hồn cho chuyên môn nghề nghiệp của bố mẹ.
Tôi lập tức tranh thủ thời gian về nhà, tránh cao tốc liên bang mà đi theo các đường nhỏ. Margo và tôi cùng nghe radio, cố dò xem đài nào đã phát bài “Sao sa ở Alabama,” nhưng rồi Margo tắt đi và nói, “Tóm lại, tớ nghĩ thế là đã thành công.”
“Đồng ý,” tôi nói, dù lúc này đang tự hỏi không biết ngày mai sẽ ra sao. Margo có đến chỗ phòng tập nhạc trước giờ vào lớp để tụ bạ với bọn tôi không? Có ăn trưa với tôi và Ben không? “Tớ thắc mắc quá ta, không biết ngày mai có gì khác không nhỉ,” tôi nói.
“Ừ,” Margo đáp. “Tớ cũng vậy.” Cô ấy buông những lời ấy vào gió, rồi tiếp, “Này, nói đến ngày mai, để tỏ lòng cảm kích vì cậu đã vất vả tận tụy trong đêm đáng nhớ vừa qua, tớ có món quà nhỏ tặng cậu.” Cô ấy mò dưới chân rồi giơ lên cái máy ảnh kĩ thuật số. “Cầm lấy đi,” Margo nói. “Và sử dụng sức mạnh của cái chớp mắt thần thánh thật thông thái nhé.”
Tôi bật cười và nhét máy ảnh vào túi. “Về nhà tớ sẽ tải ảnh ngay, đến trường sẽ đưa cậu nhé?” tôi hỏi, những muốn Margo trả lời, Ừ, ở trường, nơi mọi thứ sẽ khác đi, nơi mọi người sẽ thấy rằng tớ là bạn của cậu, và rằng tớ đã quyết định đá gã bạn trai cũ đi, nhưng cô ấy chỉ nói, “Ừ, lúc nào cũng được.”
Lúc ấy là 5:42 khi tôi rẽ vào khu Jefferson Park. Chúng tôi lái xe xuôi Jefferson Drive đến Jefferson Court, rẽ vào phố nhà tôi, Jefferson Way. Tôi tắt đèn pha lần cuối và rê xe vào sân nhà. Tôi không biết nói gì, và Margo cũng không định nói gì. Chúng tôi nhét hết rác vào một túi 7-Eleven, cố gắng xóa dấu vết để chiếc Chrysler trông như thể chưa từng trải qua sáu tiếng đồng hồ vừa rồi. Một túi khác, Margo đưa tôi những thứ còn lại, Vaseline, sơn xịt, và chai Mountain Dew cuối cùng. Trí não tôi chạy đua với cơn mệt mỏi rã rời.
Mỗi tay xách một túi, tôi đứng lại cạnh chiếc xe, nhìn cô ấy. “Chà, một đêm địa ngục thần thánh,” rút cục tôi nói.
“Lại đây nào,” Margo nói, và tôi tiến lên một bước. Cô ấy ôm tôi, đám túi làm tôi khó có thể ôm lại cô ấy được, nhưng nếu tôi thả túi xuống thì có thể đánh thức ai đó dậy mất. Tôi cảm thấy Margo kiễng lên và môi cô ấy ngay sát tai tôi, từng lời rành mạch, “Tớ. Sẽ. Nhớ. Những. Lúc. Chơi. Với. Cậu.”
“Việc gì phải thế,” tôi nói to, cố gắng che giấu sự thất vọng của mình. “Nếu cậu không thích chúng nó nữa thì chơi với tớ. Tụi bạn tớ thực ra cũng vui lắm.”
Bờ môi Margo ở gần đến mức tôi có thể cảm thấy cô ấy mỉm cười. “Tớ sợ chẳng được đâu,” cô ấy thì thầm. Rồi cô ấy rời ra, nhưng vẫn nhìn tôi, bước lùi từng bước. Cuối cùng cô ấy nhướn lông mày lên, mỉm cười, và tôi tin ở nụ cười ấy. Tôi nhìn Margo trèo lên cây, bám sang mái nhà phía trên cửa sổ phòng ngủ của cô ấy ở tầng hai. Cô ấy cạy mở cửa và bò vào trong.
Tôi vào nhà qua cửa chính không khóa, rón rén qua bếp vào phòng mình, lột quần jeans ném vào góc tủ gần cửa sổ, tải bức ảnh Jase, rồi vào giường, đầu như muốn nổ tung với những điều tôi định đến trường sẽ nói với Margo.
PHẦN II
8CỎ
1.
T
ôi ngủ được chừng nửa tiếng khi đồng hồ báo thức réo lúc 6:32. Nhưng chính tôi không mảy may biết báo thức đã rền rĩ suốt mười bảy phút. Mãi đến khi cảm thấy ai đó đang lay vai mình và mơ hồ nghe thấy mẹ gọi, “Dậy thôi sâu ngủ,” tôi mới hơi tinh tỉnh.
“Vầầầng,” tôi đáp, vẫn mắt nhắm mắt mở, cảm thấy còn bải hoải hơn cả lúc 5:55. Có lẽ kiếm cớ trốn học luôn cho rồi, nhưng ngặt nỗi tôi có thành tích chuyên cần hoàn hảo. Dù biết rằng thành tích chuyên cần hoàn hảo không phải điều đặc biệt ấn tượng hoặc thậm chí đáng ngưỡng mộ gì, tôi vẫn muốn giữ vững phong độ. Thêm nữa, tôi muốn biết Margo sẽ cư xử thế nào khi ở trường.
Vào bếp, tôi thấy bố đang nói gì đó với mẹ khi cả hai cùng ăn sáng. Bố ngừng lại khi thấy tôi và hỏi, “Ngủ nghê thế nào con?”
“Say sưa ngon lành ạ,” tôi đáp, vì đúng thế thật. Ngủ được chốc lát thôi nhưng rất sâu. Bố mỉm cười. “Bố vừa kể với mẹ là bố cứ mơ đi mơ lại một chuyện cũng khá căng thẳng,” bố nói. “Trong mơ bố đi học đại học và theo một lớp tiếng Hebrew, nhưng thầy giáo không biết tiếng Hebrew, và bài kiểm tra cũng không bằng tiếng Hebrew nốt–tất cả đều là một mớ rối rắm vô nghĩa. Nhưng ai cũng làm như thể thứ ngôn ngữ và bảng chữ cái chắp vá lấp liếm ấy chính là tiếng Hebrew. Bố vẫn phải làm bài kiểm tra, và phải viết bằng thứ tiếng bố hoàn toàn không biết, dùng những con chữ bố hoàn toàn mù tịt.” “Nghe hay đấy ạ,” tôi nói, dù thực ra cũng chẳng hay mấy. Chẳng có gì nhạt nhẽo nhàm chán bằng giấc mơ của người khác.
“Đó là một ẩn dụ ám chỉ tuổi thanh niên,” mẹ tôi lên tiếng. “Viết bằng một thứ tiếng–tuổi trưởng thành– ta không hiểu được, sử dụng một bảng chữ cái–tương tác xã hội theo nhận thức chín chắn–ta không nhận ra được.” Mẹ tôi làm việc với đám trẻ vị thành niên khùng khùng điên điên trong các trung tâm giáo dưỡng và trại giam dành cho thanh thiếu niên. Tôi nghĩ đó là lí do mẹ không bao giờ thực sự lo ngại gì về tôi– miễn là tôi không phanh thây chuột cảnh để cúng tế hay tự tè vào mặt mình, thì mẹ rút ra kết luận rằng đã nuôi dạy tôi thành công.
Một người mẹ bình thường chắc sẽ nói, “Này, mẹ phát hiện ra rồi nhé, trông con như vừa say chất kích thích thế kia, lại còn tanh tanh mùi bùn rêu. Có phải mấy tiếng trước con vừa nhảy với con bé Margo Roth Spiegelman bị rắn cắn không?” Nhưng không. Bố mẹ tôi thích bàn chuyện những giấc mơ hơn.
Tôi tắm rửa, mặc cái áo phông và quần jeans. Muộn mất rồi, cơ mà một lần nữa, tôi vẫn luôn đi trễ mà. “Muộn đấy con,” mẹ nói khi tôi quay lại bếp. Tôi lúc lắc đầu cho thứ sương mù lùng bùng trong não văng bớt đi, đủ để nhớ lại phải thắt dây giày như thế nào.
“Con biết rồi ạ,” tôi lào phào như hết hơi.
Mẹ chở tôi đến trường. Tôi ngồi chỗ Margo từng ngồi. Mẹ hầu như không nói gì trên đường đi, như vậy thực tốt, vì tôi lại ngủ chết giấc, đầu dựa vào cửa sổ xe.
Khi mẹ dừng trước trường, tôi thấy chỗ Margo thường đỗ xe trong bãi trống không. Thực ra không trách cô ấy đi muộn được. Đám bạn của Margo không tụ bạ sớm như mấy thằng bạn tôi. Tôi đi về phía mấy thằng loi choi trong ban nhạc thì Ben đã réo ầm lên, “Jacobsen ơi, có phải đêm qua tôi đã mơ không hay chính ông–” tôi ra hiệu cho nó bằng cái lắc đầu khẽ nhất có thể, và nó lập tức chuyển tông ngay giữa câu–“và tôi đã chu du qua quần đảo Thái Bình Dương, lênh đênh trên một du thuyền làm tuyền bằng chuối hả ông?”
“Du thuyền đó ăn ngon phải biết,” tôi đáp. Radar nhướn mắt với tôi và thủng thẳng đi vào một bóng cây. Tôi đi theo nó. “Đã nhờ Angela kiếm một mối cho Ben. Không ăn thua.” Tôi liếc nhìn Ben, thằng khỉ ấy đang liến thoắng tía lia, một cái que khuấy cà phê nhún nhảy trong miệng nó theo từng lời nói.
“Chán thế,” tôi nói. “Nhưng thế cũng tốt. Nó và tôi sẽ đàn đúm với nhau và làm một chầu ma-ra-tông chơi Hồi Sinh vậy, đại khái thế.”
Ben xẹt đến và nói huỵch luôn, “Các ông đang bày trò nho nhã đấy phỏng? Tôi biết thừa các ông đang nói đến thảm kịch dạ hội phi-thỏ-non của đời tôi.” Nó quay ngoắt và đi vào trong. Radar và tôi theo sau, vừa nói chuyện vừa đi ngang qua phòng tập nhạc, nơi tụi lớp chín, lớp mười đang ngồi buôn chuyện giữa ngổn ngang hộp đựng nhạc cụ. “Sao ông lại ham thế chứ?” tôi hỏi.
“Dạ hội tốt nghiệp năm cuối phổ thông mà ông. Cơ hội hoàn hảo cuối cùng của tôi để lưu lại kí ức thổn thức nhất đời học sinh trong tim một em thỏ non ngon ngon đó.” Tôi nghe mà hai mắt trợn tròn. Hồi chuông thứ nhất báo còn năm phút nữa đến giờ vào lớp. Lập tức như những con cún của Pavlov, mọi người theo phản xạ có điều kiện bắt đầu rảo cẳng lên, đi lại chật ních trong hành lang. Ben, Radar và tôi đứng cạnh ngăn tủ đựng đồ của Radar. “Thế quái nào lúc ba giờ sáng ông lại gọi tôi hỏi địa chỉ nhà Chuck Parson vậy?”
Tôi đang uốn ba tấc lưỡi cho ra câu trả lời thỏa đáng nhất thì chợt thấy Chuck Parson tiến lại. Tôi huých Ben và đá ánh mắt về phía Chuck. Hệ quả từ sự kiện đêm qua, Chuck đã quyết định chiến lược hữu hiệu nhất là cạo nhẵn cánh tả. “Móa ơi,” Ben rớt hàm.
Ngay tắp lự, Chuck đã lừ lừ trước mặt tôi khi tôi dựa nép vào ngăn tủ, trán nó nhẵn thin thín trông đến là ngon mắt. “Bọn của nợ chúng mày nhìn gì hả?”
“Nhìn gì đâu,” Radar đáp. “Chắc như ăn bắp là tụi này không nhìn lông mày của đằng ấy.” Chuck đẩy Radar ra, xòe bàn tay nện uỳnh vào ngăn tủ cạnh tôi, bỏ đi thẳng.
“Tác phẩm của ông hả?” Ben mắt tròn mắt dẹt.
“Cấm các ông bép xép lung tung đấy,” tôi nói với cả hai, rồi khẽ thêm vào, “của tôi và Margo Roth Spiegelman.”
Giọng Ben lập tức vút lên cùng bầu nhiệt huyết, “Đêm qua ông đã ở cùng Margo Roth Spiegelman sao? Vào lúc BA GIỜ SÁNG?” Tôi gật. “Chỉ có hai mình thôi?” Tôi gật. “Ôi trời đất ơi, nếu ông đã quặp nàng ấy, ông phải kể cho tôi tỉ mỉ từng chi tiết đã diễn ra. Ông phải viết cho tôi một bài luận về hai tòa thiên nhiên của Margo Roth Spiegelman, trông thế nào, cảm nhận ra sao, tối thiểu dài ba mươi trang!”
“Tôi muốn ông vẽ một bức than chì theo phong cách ảnh hiện thực ba chiều,” Radar nói. “Tạc tượng luôn cũng được,” Ben bồi thêm.
Radar nhấp nhỉnh giơ tay lên, tôi đành phải cho nó phát biểu ý kiến. “Ờ, tôi đang nghĩ không biết ông có viết được một bài sestina về ngực Margo không? Sáu từ để gieo vần là: hồng, tròn, chắc, mềm, mịn và êm.”
“Cá nhân tôi nghĩ,” Ben chêm vào, “ít nhất một trong sáu từ để gieo vần phải là buhbuhbuhbuh.” “Hình như tôi chưa nghe chưa đọc thấy từ đó bao giờ,” tôi nói.
“Đó là âm thanh cái miệng tôi phát ra khi tôi trao tặng Tàu Siêu Tốc Ben Sao Xẹt đã được bảo hộ bản quyền cho một nàng thỏ non.” Đến đây Ben giả bộ biểu diễn như nó sẽ làm trong tình huống hi hữu rằng nó được thưởng lãm một tòa thiên nhiên.
“Ngay lúc này,” tôi nói, “hàng ngàn cô gái trên khắp nước Mĩ đang cảm thấy cơn ớn lạnh đầy sợ hãi và ghê tởm bò dọc sống lưng, dù họ không hề hay biết lí do. Thực ra thì tôi không có gặm Margo, các ông chỉ có suy diễn biến thái là nhanh.”
“Mẫu mực đây,” Ben vênh mặt. “Theo hiểu biết của mình, tôi là chàng trai duy nhất có cặp trứng cò sẵn sàng dâng hiến cho một nàng thỏ non những gì nàng muốn, đồng thời là chàng duy nhất không có cơ hội thực hiện tâm nguyện đó.”
“Trùng hợp kì diệu thật,” tôi bình luận. Vẫn là cuộc sống như nó luôn như vậy–chỉ thêm cảm giác mệt mỏi trong người. Tôi đã hi vọng rằng đêm qua sẽ thay đổi cuộc đời tôi, nhưng cũng chẳng có gì thay đổi– chí ít là chưa.
Hồi chuông thứ hai reo. Chúng tôi vội kéo nhau vào lớp.
Tôi bắt đầu thấy mệt rã rời trong suốt giờ giải tích tiết một. Thực ra tôi đã thấy bải hoải từ lúc thức dậy, nhưng cộng cái sự mệt với môn giải tích thì hình như hơi bất công. Để tỉnh táo được, tôi ngồi ngoáy mấy dòng cho Margo– không đời nào tôi sẽ gửi cho cô ấy, chỉ là tóm tắt lại những khoảnh khắc tôi ưng nhất từ đêm hôm trước–thế mà hai mắt vẫn díp tịt. Ở một thời điểm nào đó, tôi không đưa nổi bút nữa, góc nhìn cứ hẹp dần, hẹp dần, và tôi lục trí nhớ xem không biết thị trường hình ống có phải là triệu chứng của cơn kiệt
sức hay không. Tôi cho rằng ắt đúng vậy rồi, vì tôi chỉ nhìn thấy duy nhất một người ở phía trước, chính là thầy Jiminez trước bảng đen. Có lẽ đây là thông tin duy nhất bộ não tôi còn xử lí được, nên khi thầy Jiminez nói, “Quentin?”, tôi cực kì bối rối. Điều duy nhất đang diễn ra trong vũ trụ của tôi là thầy Jiminez viết gì đó lên bảng, và tôi không tài nào hiểu được sao thầy có thể tồn tại trong cuộc đời tôi dưới dạng thức vừa hữu thanh vừa hữu hình như vậy.
“Vâng?” tôi hỏi lại.
“Em có nghe thấy câu hỏi không?”
“Vâng?” tôi lại hỏi lại.
“Em giơ tay để trả lời phải không?” Tôi ngước nhìn, đúng là tay tôi đang giơ lên, nhưng không hiểu thế quái nào nó lại giơ lên như vậy, và hình như tôi chỉ hơi hơi biết phải làm gì để đảo ngược hành động ấy. Rồi bằng nỗ lực không nhỏ, bộ não của tôi mới bảo được cánh tay hãy hạ xuống, cánh tay cũng chịu nghe lời, và cuối cùng tôi nói, “Em xin phép đi nhà vệ sinh được không ạ?”
Thầy bảo, “Cứ đi đi,” rồi đứa nào đó trong lớp giơ tay trả lời câu hỏi nào đó về dạng phương trình vi phân nào đó.
Tôi vào nhà vệ sinh, vã nước lên mặt, rồi tì lên bồn rửa, ghé sát vào gương, săm soi mặt mình. Tôi cố dụi hai con mắt đỏ ngầu mà chẳng thấy đỡ chút nào. Và rồi tôi nảy ra một ý tưởng hết xảy. Tôi vào một ngăn vệ sinh, đậy nắp bồn cầu xuống, ngồi lên, dựa vào vách, và ngủ. Giấc ngủ kéo dài khoảng mười sáu mili giây thì chuông báo tiết hai reo. Tôi đứng dậy đi vào lớp học giờ tiếng La-tinh, rồi vật lí. Rút cục cũng đến tiết bốn, tôi vớ được Ben trong căng-tin và nói, “Tôi thực sự cần chợp mắt một lúc hoặc đại loại thế.”
“Chúng ta ăn trưa cùng RHAPAW thôi,” Ben đáp.
RHAPAW là một chiếc Buick mười lăm tuổi, từng được ba ông anh bà chị của Ben hồn nhiên lái suốt năm này sang năm khác. Đến khi vào tay Ben, cấu tạo chính của RHAPAW đã là băng keo và bột bả. Tên đầy đủ của ẻm là “Rồ Hơi Ả Pắn Ả Wa”, gọi tắt là RHAPAW cho gọn. Ẻm không chạy bằng xăng mà bằng thứ nhiên liệu vĩnh cửu tên là “hi vọng của nhân loại.” Cứ việc an tọa trên nệm ghế ni-lông nóng muốn bỏng mông và hi vọng ẻm sẽ chạy, rồi Ben sẽ mở khóa, động cơ khởi động lên xuống vài lần, như chú cá trên bờ ngắc ngoải quẫy đạp những cú cuối cùng trước lúc lâm chung. Thế là càng phải hi vọng mãnh liệt, động cơ chết đi sống lại thêm vài lần nữa. Lại đặt hi vọng nữa, và rút cục ẻm cũng chịu lấy hơi.
Ben khởi động RHAPAW và bật điều hòa nhiệt độ ở công suất cao. Ba trong bốn cửa sổ thậm chí còn không mở được, nhưng điều hòa chạy mát lịm, dù mấy phút đầu chỉ có khí nóng phả ra quyện với bầu không khí nóng bức ngột ngạt trong xe. Tôi duỗi ra ở băng ghế sau, gần như nằm thẳng cẳng, và tôi kể với Ben tất cả: Margo bên cửa sổ phòng tôi, Wal-Mart, màn trả thù, tòa nhà SunTrust, đột nhập nhầm nhà, SeaWorld, và tớ-sẽ-nhớ-những-lúc-chơi-với-cậu.
Ben không chen ngang lần nào–nó là một thằng bạn tốt theo cách biết khi nào không-chen-ngang– nhưng khi tôi vừa dứt lời, lập tức nó đặt ngay câu hỏi đang hết sức bức thiết trong đầu. “Về Jase Worthington đó, ông bảo nó nhỏ đến mức nào cơ?”
“Sun lại có thể là một yếu tố tác động, vì lúc đó chú bé đang căng thẳng tột độ, cơ mà đã bao giờ ông thấy cái bút chì chưa?” tôi hỏi và Ben gật đầu. “Chà, thế ông đã bao giờ thấy cục gôm cắm ở đuôi bút chì chưa?” Ben lại gật. “Chà, thế ông đã bao giờ thấy những vân ghét xinh xinh còn trên trang giấy khi ông tẩy cái gì đó đi chưa?” Gật tiếp. “Tôi nghĩ chiều dài cỡ ba vân, chiều rộng cỡ một vân,” tôi kết luận. Ben từng phải trải qua rất nhiều trò lố của những thằng như Jase Worthington và Chuck Parson, nên tôi nghĩ nó xứng đáng được hưởng chút niềm vui nho nhỏ. Nhưng Ben thậm chí còn không cười. Nó chỉ chầm chậm lắc đầu, ra chiều bàng hoàng.
“Chèn đét ơi, Margo cao tay thật.”
“Tôi biết.”
“Margo là kiểu người sẵn sàng giã từ cuộc đời một cách oanh liệt ở tuổi hai mươi bảy, như Jimi Hendrix và Janis Joplin, hoặc trưởng thành để chinh phục, gì được nhỉ, giải Nobel đầu tiên cho Cá Nhân Kiệt Xuất chẳng hạn.”
“Ừ,” tôi đáp. Tôi hầu như không bao giờ chán nói về Margo Roth Spiegelman, nhưng tôi hầu như chưa bao giờ mệt rã như lúc này. Tôi dựa vào lưng ghế ni-lông nứt nẻ và lập tức ngủ mất. Khi tỉnh giấc, tôi thấy
một gói bánh hamburger Wendy’s trong lòng mình với lời nhắn. Tôi phải vào lớp đây, gặp ông sau buổi tập nhạc nhé.
Hết tiết cuối ngày hôm đó, tôi dịch Ovid khi ngồi dựa vào mảng tường tổ ong bên ngoài phòng tập nhạc, cố gắng bỏ ngoài tai những âm thanh hỗn tạp rền rĩ vọng ra. Tôi luôn loanh quanh nán lại trường cho hết giờ tập nhạc, vì về trước Ben và Radar đồng nghĩa với việc phải chịu sự kinh miệt khôn kham khi là thằng năm cuối duy nhất trên xe buýt.
Rời phòng tập, Ben thả Radar về nhà, ở ngay cạnh “cái rốn làng” Công viên Jefferson, gần nhà Lacey. Rồi nó đưa tôi về. Tôi nhận thấy xe của Margo cũng không đỗ ở lối đi nhà cô ấy. Tức là cô ấy không trốn học ở nhà ngủ. Margo không đến trường vì bận một cuộc phiêu lưu khác–một cuộc phiêu lưu phi-Quentin. Có thể cô ấy đã dành cả ngày trát kem tẩy lông lên gối của những kẻ thù khác, hoặc gì đó đại loại thế. Vừa đi bộ vào nhà, tôi vừa thấy mình bị ra rìa, nhưng dĩ nhiên Margo biết tôi sẽ không đời nào nhập bọn cùng cô ấy nữa–tôi quá ưu tiên một ngày ở trường. Ai mà biết được, có thể chỉ là một ngày dành cho Margo. Có thể cô ấy lại phượt thêm một chuyến ba ngày đến Mississippi, hoặc rong ruổi theo đoàn xiếc. Nhưng tất nhiên thực tế không phải là bất cứ kịch bản nào nói trên.
Mà là điều gì đó tôi không thể tưởng tượng nổi, vì tôi sao có thể là Margo được.
Tôi tự hỏi lần này cô ấy sẽ mang chuyện gì về nhà. Và tôi tự hỏi không biết cô ấy có kể với tôi không khi hai đứa ngồi đối diện nhau ăn trưa. Có thể, tôi nghĩ, đây chính là điều Margo ám chỉ khi nói tớ sẽ nhớ những lúc chơi với cậu. Cô ấy biết rằng mình đã có sẵn một nơi để đến, tạm lánh đi cái nhàn nhạt bờn bợt như giấy của Orlando. Nhưng khi nào Margo mới về? Ai mà biết được chứ. Cô ấy không muốn qua nốt những tuần cuối ở trường phổ thông cùng đám bạn lâu nay của cô ấy, vậy chưa biết chừng rút cục cô ấy sẽ muốn dành thời gian cho tôi.
Chẳng cần Margo phải biến mất lâu thì đồn thổi đã bay tứ tán. Tối hôm đó sau bữa tối Ben gọi điện cho tôi. “Nghe nói Margo không trả lời điện thoại. Có đứa trên Facebook bảo Margo đã nói rằng sẽ chuyển đến một phòng kho bí mật trong Tomorrowland ở Disney.”
“Vớ vẩn,” tôi nói.
“Tôi biết chứ, Tomorrowland là nơi bựa nhất trong các loại Xứ sở. Có đứa còn bảo Margo đã gặp một gã trên mạng.”
“Tầm bậy,” tôi gắt.
“Ừ, được rồi, nhưng thế thì sao?”
“Margo đang tự mình ở đâu đó, trải qua những trò vui mà chúng ta chỉ có thể có trong tưởng tượng,” tôi nói.
Ben khúc khích. “Ông muốn nói rằng Margo tự chơi ấy phỏng?”
Tôi rên hừ hừ. “Thôi ngay, Ben. Margo đang làm những việc theo phong cách Margo. Dệt nên những câu chuyện. Làm rung chuyển những thế giới.”
Đêm đó, tôi nằm nghiêng, dõi qua cửa sổ nhìn vào thế giới vô hình bên ngoài. Tôi ráng ngủ, nhưng rồi hai mắt lại mở trừng, chỉ để kiểm tra. Tôi không khỏi phấp phỏng hi vọng rằng Margo Roth Spiegelman sẽ quay lại bên cửa sổ và kéo lê cái mông mệt xụi lơ của tôi phiêu lưu thêm một đêm tôi sẽ không thể nào quên.
2.
T
hỉnh thoảng Margo lại biến mất nên sẽ không có những chiến dịch Đi Tìm Margo ở trường hay gì đó đại loại thế, nhưng chúng tôi đều cảm nhận được sự thiếu vắng cô ấy. Trường phổ thông không phải là chính quyền dân chủ hay chế độ độc tài–cũng không phải là một nhà nước bát nháo như nhiều người nhầm tưởng. Trường phổ thông là một nền quân chủ sùng bái thánh nữ. Nên khi nữ hoàng đi nghỉ thì lập tức có biến. Cụ thể, mọi thứ bắt đầu loạn lên và xấu đi. Chẳng hạn, trong thời gian Margo vi vu đi Mississippi hồi lớp mười, Becca đã rỉ ra câu chuyện chàng Ben Bỉ Bựa cho cả thế giới bàn tán. Lần này sẽ vẫn là kịch bản cũ. Cô bé cứu con đê bằng ngón tay mình đã đi mất rồi. Lũ lụt vỡ bờ là không tránh khỏi[6]. Sáng hôm đó, tôi đi học được đúng giờ và quá giang Ben. Tụi tôi thấy ai cũng lặng lẽ một cách bất thường bên ngoài phòng tập nhạc. “Này ông,” thằng Frank trong đám nói bằng giọng hết sức nghiêm trọng. “Chuyện gì thế?”
“Chuck Parson, Taddy Mac và Clint Bauer đã leo lên con xe Tahoe của Clint và cán qua mười hai cái xe đạp của tụi lớp chín, lớp mười.”
“Chèn đét ơi,” tôi lắc đầu thốt lên.
Ashley nói thêm, “Chưa hết đâu, hôm qua đứa nào đó đã dán số điện thoại của chúng ta lên tường nhà vệ sinh nam với... hừm... những lời rất mất vệ sinh.”
Tôi lại lắc đầu rồi hòa cùng im lặng với chúng nó. Tụi tôi không thể xì những thằng ấy ra được; hồi học trung học cơ sở chúng tôi đã nhiều lần cố gắng làm vậy và hệ quả tất yếu là hình phạt dành cho chúng tôi càng chồng chất hơn. Thường bọn tôi sẽ đợi cho đến khi ai đó như Margo nhắc nhở chúng rằng chúng rặt là một đám ngốc nghếch dại dột ra sao.
Nhưng Margo đã vén màn cho tôi thấy cách chống trả những trò ma cũ bắt nạt ma mới, ỷ mạnh hiếp yếu ấy. Tôi toan nói thì chợt lé mắt thấy một vóc người to lớn đang huỳnh huỵch chạy hết tốc lực về phía chúng tôi. Hắn đeo mặt nạ trượt tuyết màu đen và cắp theo cây súng phun nước xanh lục to đùng hầm hố. Khi vụt qua, hắn huých phải vai tôi khiến tôi mất thăng bằng, ngã nghiêng người xuống nền bê-tông thô ráp. “Mày chơi bọn ông thì mày sẽ bị được dính chưởng.” Tôi không nhận ra được là giọng đứa nào.
Ben và một đứa nữa trong đám đỡ tôi đứng dậy. Vai đau ê ẩm nhưng tôi không muốn nắn thử. “Có sao không?” Radar hỏi.
“Không sao,” tôi đáp, bắt đầu nắn nắn vai.
Radar lắc đầu. “Ai đó cần cho thằng ấy biết rằng có thể bị dính chưởng, cũng có thể được dính chưởng, nhưng không thể bị được dính chưởng.” Tôi bật cười. Có đứa hất đầu về phía bãi đỗ xe, tôi nhìn theo và thấy hai cậu lớp chín tò te đang đi lại, áo phông lùng bùng ướt trên khung người lẳng khẳng.
“Nước tiểu đó mấy anh!” một cậu nói lớn với chúng tôi. Cậu kia không nói gì, chỉ cố gắng giơ tay ra xa cái áo của mình, trông có vẻ có chút tác dụng. Tôi thấy mấy vệt chất lỏng loằng ngoằng như rắn bò từ tay áo xuống cánh tay cậu ta.
“Nước tiểu của con gì hay của người hả em?” đứa nào đó hỏi.
“Sao em biết được ạ! Chẳng lẽ em là chuyên gia nước-tiểu-học sao?”
Tôi đi lại phía cậu lớp chín, đặt tay lên đầu cậu ta, chỗ duy nhất có vẻ hoàn toàn khô ráo. “Tụi anh sẽ chấn chỉnh chuyện này,” tôi nói.
Hồi chuông thứ hai vang lên, Radar và tôi bổ vào lớp giải tích. Khi xẹt vào chỗ ngồi, tôi vô tình bị va khuỷu tay, đau thốn tới tận vai. Radar gõ gõ vào vở, trên trang giấy nó viết và khoanh tròn: Vai sao rồi? Tôi viết trả trên góc vở của mình: So với hai cậu lính mới ấy, tôi đã có một buổi sáng tung tăng cùng bầy cún con giữa những dải cầu vồng.
Radar khụt khịt cười, đủ để thầy Jiminez bắn ánh mắt nhìn nó. Tôi viết tiếp, Tôi có một kế hoạch, nhưng tôi phải biết chủ mưu là đứa nào đã.
Radar viết lại, Jasper Hanson, và khoanh tròn vài lần quanh cái tên ấy. Bất ngờ thật. Sao ông biết? Radar viết tiếp, Ông không nhận ra sao? Thằng đần ấy mặc luôn áo thi đấu của nó. Jasper Hanson học lớp mười một. Tôi cứ ngỡ nó là thằng vô hại, thậm chí còn dễ mến–theo kiểu con
nhà lành chào-bồ-hôm-nay-có-gì-vui-không? Không phải kiểu dám xịt nước tiểu tứ tóe vào người bọn lớp chín. Thành thực thì, trong cái thể chế quan liêu Phổ Thông Trung Học Winter Park này, Jasper Hanson thuộc hạng Phó Trợ Lí Thứ Trưởng về Thể Thao và Chơi Khăm. Khi một thằng như vầy được đôn lên chức Phó Tổng Thống phụ trách Súng Ống Đường Tiết Niệu, thì cần phải có động thái khẩn cấp.
Chiều hôm đó khi về đến nhà, tôi lập một tài khoản e-mail và viết cho người bạn lâu năm Jason Worthington.
Từ: mavenger@gmail.com
Tới: jworthington90@yahoo.com
Chủ đề: Cậu, Tôi, Nhà Becca Arrington, Tờ-rym của cậu, v.v...
Cậu Worthington thân mến,
1. 200 đô-la tiền mặt cần được trao cho từng người trong số 12 học sinh có xe đạp bị cậu và các bạn học của cậu nghiền nát dưới bánh xe Chevy Tahoe. Khoản này hẳn không thành vấn đề, xét trên tài sản rủng rỉnh của cậu.
2. Trò viết graffiti trong nhà vệ sinh nam phải được chấm dứt.
3. Súng phun nước ư? Phun nước tiểu ư? Thật ư? Các cậu hãy đứng đắn lên đi.
4. Cậu cần cư xử hòa nhã với các học sinh trong trường, đặc biệt những người kém may mắn về mặt xã hội hơn cậu.
5. Có thể cậu cũng cần nhắc nhở tụi đàn em cánh hẩu của cậu cư xử theo cách chín chắn đứng đắn tương tự.
Tôi nhận thấy một số nhiệm vụ trên sẽ rất khó được hoàn thành. Nhưng một lần nữa, không chia sẻ bức ảnh đính kèm đây với cả thế giới cũng là một việc rất khó thực hiện.
Thân mến,
Thần Báo Thù Thân Thiện của của cậu
Hồi âm xuất hiện mười hai phút sau đó.
Nghe đây Quentin, phải, tao biết là mày. Mày biết không phải tao tiểu phun bọn lính mới. Rất tiếc, nhưng tao không kiểm soát hành động của những đứa khác được.
Tôi trả lời:
Cậu Worthington,
Tôi hiểu rằng cậu không kiểm soát Chuck và Jasper. Nhưng cậu thấy đấy, tôi cũng trong hoàn cảnh tương tự. Tôi không quản lí con quỉ nhỏ ngồi trên vai trái mình. Tiểu quỉ ấy đang gào lên rằng, “IN ẢNH RA IN ẢNH RA DÁN LÊN KHẮP TRƯỜNG LÀM NGAY LÀM NGAY LÀM NGAY.” Và rồi trên vai phải tôi, có một thiên thần trắng bé bỏng, thì thầm rằng, “Trời ơi, ta có niềm hi vọng vững chắc như chất thải rắn rằng sáng sớm thứ Hai tụi lính mới sẽ nhận được tiền đâu ra đấy.”
Tôi cũng vậy, thiên thần nhỏ ạ. Tôi cũng hi vọng như vậy.
Những lời chúc tốt đẹp nhất,
Thần Báo Thù Thân Thiện của cậu
Hắn không trả lời, và hắn cũng không cần làm như vậy. Mọi thứ đã đặt bài ngửa rõ ràng. Sau bữa tối, Ben tạt qua và chúng tôi chơi Hồi Sinh, khoảng nửa tiếng lại dừng lại để gọi điện cho chàng Radar đang hẹn hò với nàng Angela. Tụi tôi gửi cho Radar mười một tin nhắn, cái sau lại càng gợi tình và gợi đòn hơn cái trước. Quá chín giờ tối, chuông cửa reo. “Quentin ơi!” mẹ tôi gọi. Ben và tôi đoán rằng Radar đến nên hai thằng tạm nghỉ trò chơi, cùng vào phòng khách. Chuck Parson và Jason Worthington đang đứng trên ngưỡng cửa nhà tôi. Tôi tiến đến, Jason nói, “Chào, Quentin”, tôi gật đầu. Jason liếc Chuck, và thằng này nhìn tôi, lúng búng, “Xin lỗi nha, Quentin.”
“Vì chuyện gì?” tôi hỏi.
“Vì xúi Jasper bắn súng phun vào bọn lớp chín,” nó vẫn lúng búng, ngừng lại rồi nói nốt, “Và vì mấy cái xe đạp.”
Ben dang tay như thể muốn ôm, “Người anh em, lại đây,” nó nói.
“Gì cơ?”
“Lại đây nào,” nó nói lại. Chuck tiến lên, “Gần hơn đi,” Ben nói. Chuck đã hoàn toàn đứng hẳn trong nhà tôi, cách Ben khoảng ba chục phân. Bất thình lình, Ben thoi một cú vào bụng Chuck. Chuck chẳng hề hấn gì, nhưng nó lập tức lùi lại lấy đà để nện Ben. Tuy nhiên Jase đã giữ tay nó. “Bình tĩnh đi ông,” Jase nói. “Không có vẻ đau đớn gì nhỉ.” Jase chìa tay ra để bắt, “Tôi khoái màn bất khuất của ông đấy chiến hữu,” nó nói. “Ông là đồ của nợ, nhưng tôi khoái đấy.” Tôi bắt tay Jase.
Rồi hai thằng ấy rời đi trên chiếc Lexus của Jase, lái lùi xuống đường. Tôi vừa đóng cửa trước, Ben đã tuôn ra một tràng rên rẩm, “Ahhhhhhhhggg. Ôi thưa Đức Chúa ngọt ngào, bàn tay của con.” Nó cố nắm tay lại và mặt nhăn như bị rách. “Thằng Chuck Parson hộ thân bằng một cuốn sách giáo khoa dày cui thì phải.” “Cái đó gọi là múi bụng đấy ông ạ,” tôi nói.
“Ờ, phải. Tôi cũng đã nghe qua qua.” Tôi vỗ vỗ lên lưng nó và cả hai cùng quay lại phòng tôi chơi Hồi Sinh. Chúng tôi vừa bắt đầu chơi lại thì Ben nói, “Mà này, ông có thấy thằng Jase nói ‘chiến hữu’ không? Tôi xin kiếu cái danh chiến hữu ấy. Chỉ với xung lực từ sự ảo diệu của chính tôi.”
“Ừa, tối thứ Sáu ông mần trò chơi điện tử và băng bó bàn tay tàn tạ vì đã hão huyền tưởng có thể đấm một cú thôi sơn vào bụng người ta. Chẳng trách Jase Worthington đã phải ngậm ngùi hạ mình trước ông.” “Nói đi nói lại thì tôi cũng là siêu sao Hồi Sinh mà,” Ben nói, lập tức bắn luôn vào lưng tôi dù chúng tôi đang chơi ở chế độ đồng đội.
Bọn tôi chơi thêm một lúc nữa, cho đến khi Ben nằm cuộn tròn trên sàn, giữ khư khư bộ điều khiển trò chơi trong lòng và ngủ khì khì. Tôi cũng mệt–đã qua một ngày dài. Tôi đoán chắc đến thứ Hai kiểu gì Margo cũng về, nhưng dẫu vậy, tôi cũng cảm thấy một chút hãnh diện khi là người ngăn chặn cơn sóng triều của những đều đều tẻ nhạt này.
3.
B
ây giờ cứ sáng dậy tôi đều nhìn qua cửa sổ phòng mình xem có dấu hiệu gì cho thấy có người trong phòng Margo không. Cô ấy thường hạ tấm rèm mây xuống, nhưng từ hôm Margo không ở nhà, mẹ cô ấy hoặc ai đó đã kéo rèm lên, nên tôi thấy được một mảng tường xanh dương và trần nhà màu trắng. Sáng thứ Bảy hôm ấy, Margo mới biến mất có bốn mươi tám tiếng đồng hồ, tôi đoán có lẽ cô ấy chưa về
ngay được. Dù vậy, tôi vẫn thấy cợn lên chút thất vọng khi nhìn sang tấm rèm mây được cuốn gọn. Sau khi đá Ben mấy cước mà nó vẫn không chịu dậy, tôi đánh răng, mặc quần soóc và áo phông ra khỏi phòng. Có năm người đang ngồi bên bàn ăn. Bố mẹ tôi. Bố mẹ của Margo. Và một người đàn ông gốc Phi cao lớn đậm đà, đeo đôi kính bự chảng, mặc bộ com-plê màu xám, tay cầm một cặp hồ sơ. “Ơ, con chào cả nhà ạ,” tôi nói.
“Quentin ơi,” mẹ hỏi tôi, “tối hôm thứ Tư con có gặp bạn Margo không?”
Tôi vào hẳn phòng ăn và đứng dựa vào tường, đối diện người khách lạ mặt. Tôi đã tính trước phải trả lời câu này thế nào rồi. “Có ạ,” tôi đáp. “Khoảng nửa đêm bạn ấy đứng cạnh cửa sổ phòng con, tụi con nói chuyện độ một phút thì chú Spiegelman gọi và bạn ấy về nhà ạ.”
“Có thế thôi à? Sau đó con có gặp nó nữa không?” Chú Spiegelman hỏi, trông có vẻ khá điềm tĩnh. “Không ạ. Có chuyện gì thế ạ?” tôi hỏi.
Mẹ Margo the thé trả lời. “Xem ra con bé bỏ nhà đi rồi. Thêm một lần nữa.” Cô ấy thở dài. “Đây là– mấy nhỉ anh Josh, lần thứ tư phải không?”
“Ôi nhiều quá chẳng nhớ nổi nữa,” bố Margo cau có đáp.
Khi đó người đàn ông da màu kia mới lên tiếng. “Lần thứ năm anh chị trình báo.” Bác ấy gật đầu với tôi và nói, “Bác là thám tử Otis Warren.”
“Con là Quentin Jacobsen ạ,” tôi tự giới thiệu.
Mẹ đứng dậy và đặt hai tay mình lên vai cô Spiegelman. “Chị Debbie à,” mẹ nói, “em rất lấy làm tiếc. Chuyện này vất vả mệt mỏi cho chị quá.” Tôi biết thừa trò này của mẹ. Đó là một kĩ thuật trong tâm lí học, tên là lắng nghe thông cảm và thấu hiểu. Ta nói lên cảm giác của người đang đối thoại với mình để người đó cảm thấy đã được trải lòng. Mẹ bày trò này với tôi suốt.
“Tôi không vất vả mệt mỏi gì sất,” cô Spiegelman đáp. “Tôi ngấy lắm rồi.”
“Đúng vậy,” chú Spiegelman tán thành. “Nhà tôi đã hẹn thợ khóa chiều nay đến. Chúng tôi sẽ thay tất cả các ổ khóa. Nó mười tám rồi. Bác thám tử cũng vừa bảo rằng chúng tôi không thể làm gì–” “E hèm,” thám tử Warren ngắt lời, “không hẳn tôi đã nói như vậy. Tôi nói rằng Margo không phải là trẻ vị thành niên bị mất tích, tức là con bé có quyền đi khỏi nhà.”
Chú Spiegelman tiếp tục nói với mẹ tôi. “Vợ chồng tôi sẵn sàng trả tiền để nó đi học đại học, nhưng chúng tôi không thể dung túng cho... cho trò ngớ ngẩn thế này được. Connie ạ, con bé nhà tôi mười tám tuổi rồi! Thế mà vẫn ích kỉ thích gì làm nấy! Nó cần phải nếm trải chút hệ quả.”
Mẹ tôi nhấc tay khỏi vai cô Spiegelman. “Em nghĩ con bé cần được nếm trải những hệ quả yêu thương trìu mến,” mẹ nói.
“Ơ kìa Connie, nó có phải con cô đâu. Dễ cả chục năm nay nó có thăm hỏi cô lần nào đâu. Nhà tôi còn một đứa nữa phải nuôi.”
“Và chính chúng tôi nữa,” chú Spiegelman bổ sung, rồi quay sang tôi. “Quentin à, chú xin lỗi nếu Margo đã lôi kéo con vào những trò vớ vẩn của nó. Con có hiểu... cô chú thấy muối mặt vì chuyện này đến thế nào không. Con là một cậu bé nghiêm chỉnh, còn nó... ôi.”
Tôi không dựa tường nữa mà đứng thẳng. Tôi có biết qua loa về bố mẹ Margo, nhưng chưa bao giờ thấy họ cư xử tệ bạc như vậy. Chẳng trách đêm hôm thứ Tư Margo đã cáu bố mẹ. Tôi liếc viên thanh tra, bác ấy đang lật qua các trang trong tập hồ sơ. “Từ trước đến giờ Margo vẫn để lại chút vụn bánh mì làm dấu đúng
không?”
“Những manh mối,” chú Spiegelman nói, đứng dậy. Viên thám tử đặt tập hồ sơ lên bàn, bố Margo cúi xuống cùng xem. “Manh mối ở khắp nơi. Hôm bỏ đi Mississippi, nó ăn súp chữ cái và để lại đúng bốn chữ trong bát: chữ M, I, S, và P. Nó đã thất vọng khi chúng tôi không ghép các chữ đó lại với nhau, dù khi nó rút cục chịu về nhà, tôi đã nói rằng: ‘Sao bố mẹ có thể tìm được mày khi chỉ biết có mỗi Mississippi? Margo, đó là một bang rộng mênh mông!’”
Viên thanh tra hắng giọng. “Và Margo đã để con chuột bông Minnie trên giường khi cô bé ở một đêm trong Disney World.”
“Đúng vậy,” mẹ Margo nói. “Những manh mối. Những manh mối ngu ngốc. Những manh mối chẳng đi đến đâu cả, hãy tin tôi đi.”
Thám tử ngước khỏi trang sổ tay, nhìn lên nói. “Tất nhiên chúng tôi sẽ tìm cho ra đầu ra cuối, nhưng không thể bắt ép Margo về ngay được. Trước mắt anh chị không nhất thiết phải trông đợi con bé về nhà.” “Tôi không muốn thấy mặt nó ở nhà nữa.” Cô Spiegelman nâng khăn giấy lên chấm chấm mắt, nhưng tôi không nghe thấy chút thổn thức nào trong giọng nói của cô ấy. “Tôi biết như vậy thực khủng khiếp, nhưng đúng thế đấy.”
“Chị Deb,” mẹ tôi nói bằng giọng chuyên gia trị liệu.
Cô Spiegelman chỉ lắc đầu–cái lắc đầu khẽ nhất. “Vợ chồng tôi biết làm gì được chứ? Chúng tôi đã báo thám tử. Chúng tôi đã làm tường trình. Nó lớn rồi, Connie ạ.”
“Nó là đứa con lớn của chị,” mẹ tôi nói, vẫn giữ giọng bình tĩnh.
“Ôi, thôi nào Connie. Cô xem, nếu coi chuyện Margo đi khỏi nhà là một cái phước, như vậy có tệ không? Tất nhiên là tệ. Nhưng Margo là một chứng bệnh trong nhà tôi! Sao có thể tìm được một đứa tuyên bố rằng sẽ không có ai tìm ra mình, một đứa luôn để lại những manh mối chẳng dẫn đến đâu, một đứa cứ động một tí là bỏ nhà đi? Không tìm được đâu!”
Bố mẹ tôi cùng liếc nhau, rồi viên thám tử nói với tôi. “Con trai, chúng ta nói chuyện riêng với nhau chút được không?” Tôi gật đầu. Tôi và bác ấy vào phòng bố mẹ tôi, bác ấy ngồi trên ghế gấp còn tôi ngồi ở mép giường.
“Con ạ,” bác ấy nói khi đã ngồi thoải mái trên ghế, “để bác khuyên con điều này: đừng bao giờ làm việc cho nhà nước. Vì khi là người nhà nước, con phải làm việc cho nhân dân. Và khi làm việc cho nhân dân, con phải giao tiếp với người khác, thậm chí những người như vợ chồng nhà Spiegelman.” Tôi khẽ nhe răng cười.
“Để bác nói thẳng với con nhé. Vợ chồng đó biết cách làm cha mẹ thế nào cũng giống như bác biết cách phải ăn kiêng ra sao. Bác đã từng giải quyết công việc với họ, và bác không ưa cả hai vợ chồng. Bác không quan tâm con có nói với bố mẹ của Margo rằng con bé đi đâu không, nhưng bác sẽ rất cảm kích nếu con cho bác biết.”
“Con không biết ạ,” tôi đáp. “Con không biết thật mà bác.”
“Con trai ạ, bác đã nghĩ nhiều đến cô bé Margo này. Những việc nó làm–đột nhập vào Disney World chẳng hạn, nhỉ? Nó đi Mississippi và để lại manh mối trong bát súp. Nó tổ chức một chiến dịch qui mô lớn phủ giấy vệ sinh lên các căn nhà.”
“Sao bác biết chuyện đó ạ?” Hai năm trước, Margo đã chỉ huy tác chiến phủ giấy vệ sinh lên hai trăm căn nhà trong đúng một đêm. Khỏi nói cũng biết, tất nhiên tôi không được mời tham gia cuộc vui ấy. “Bác đã theo vụ đó mà. Vậy nên con trai ạ, đây là chỗ bác cần con giúp: ai đã vạch kế hoạch tất cả? Những hiệp đồng tác chiến điên rồ này? Con bé Margo là phát ngôn viên cho tất cả, là đứa đủ điên rồ làm tất cả. Nhưng ai đã tính toán kế hoạch? Ai ngồi giữa đống sổ nhằng nhịt sơ đồ, tính xem cần bao nhiêu giấy vệ sinh để phủ lên cả tấn nhà như vậy?”
“Con đoán đều là Margo cả thôi.”
“Nhưng hẳn là con bé phải có trợ thủ, ai đó giúp nó thực thi tất cả những thứ to tát táo bạo này, và có thể cái người giấu mặt đó không phải là một người mà ai cũng biết, không phải bạn thân nhất hay bạn trai của Margo. Có thể là ai đó con không nghĩ ngay đến.” Bác ấy lấy hơi toan nói tiếp thì tôi cắt ngang. “Con không biết Margo đang ở đâu,” tôi nói. “Con thề có Chúa chứng giám.”
“Con cứ cân nhắc xem. Dù sao, con cũng biết điều gì đó, phải không? Vậy hãy bắt đầu từ đó.” Thế là tôi kể với bác ấy tất cả. Tôi tin người đàn ông này. Bác ấy ghi chép chút ít trong khi tôi nói, nhưng không có gì quá chi tiết. Và có gì đó trong việc kể lại với bác ấy, trong những ghi chú vắn tắt trên trang sổ, trong vẻ bạc nhược của bố mẹ Margo–có điều gì đó trong tất cả khiến lần đầu tiên trong tôi quặn lên cảm giác nhộn nhạo rằng có thể Margo sẽ còn mất tích trong một thời gian dài nữa. Sự lo lắng bất an như chặn lấy hơi thở của tôi khi tôi ngừng kể. Viên thám tử yên lặng một lúc. Bác ấy chỉ nhoài khỏi ghế, nhìn chăm chú qua vai tôi cho đến khi thấy điều gì đó bác ấy đã chờ để thấy, rồi bắt đầu nói.
“Nghe này, con trai. Chuyện xảy ra thế này: một người nào đó–thường là con gái–có một tâm hồn tự do, và không thực sự hòa hợp với bố mẹ. Những đứa trẻ ấy, chúng như quả bóng bay chứa đầy khí hê-li bị buộc lại. Chúng vươn lên và muốn bứt khỏi dây buộc, và rồi chuyện gì đó xảy ra, dây bị đứt lìa, thế là chúng trôi đi. Có thể con sẽ không bao giờ thấy lại quả bóng bay nữa. Nó đáp xuống Canada hay nơi nào đó, có công ăn việc làm trong một nhà hàng. Và trước khi quả bóng kịp nhận ra, nó đã phục vụ cà phê trong cái quán quèn đó, cho những thực khách nhàm chán đó suốt ba mươi năm. Hoặc cũng có thể dăm ba năm nữa, hay dăm ba ngày nữa, những luồng gió mạnh đưa quả bóng về nhà, vì nó cần tiền, hoặc vì nó thổn thức, nó nhớ thằng em trai ở nhà. Nhưng con nghe này, sợi dây nối cứ bị đứt lìa suốt thôi.”
“Vâng, như–”
“Bác chưa nói hết, con trai ạ. Vấn đề về bóng bay là ở chỗ có quá nhiều những quả bóng như vậy. Bầu trời chật ních những bóng bay, chúng cọ vào nhau khi trôi từ nơi này sang nơi khác, và từng quả trong đám bóng quái quỉ ấy bằng cách này hay cách khác sẽ đến với bàn làm việc của bác, cứ hoài như vậy thì một người đàn ông cũng có thể thấy nản. Chỗ nào cũng là bóng bay, từng quả với một bà mẹ hoặc một ông bố, hoặc trời thương cho có cả hai, và cứ hoài như vậy, đến khi không thể thấy từng quả được nữa. Con nhìn lên bóng bay trên bầu trời, con thấy tất cả những quả bóng ấy, nhưng không thể nhìn rõ từng quả.” Bác ấy dừng lại, thở vào thật sâu, như thể đang nhận ra điều gì đó. “Nhưng rồi từ đấy, bất cứ khi nào, khi nói chuyện với một cậu nhóc mắt tròn xoe, đầu tóc bù xù nào đó, con không muốn nói thật với nó vì trông nó có vẻ là một đứa trẻ ngoan. Và con chợt thương thằng bé, vì điều duy nhất tệ hơn vòm trời đầy bóng mà con thấy chính là những gì thằng bé thấy: một ngày trong xanh bị gãy bởi một quả bóng duy nhất. Nhưng con trai ạ, một khi dây nối đã đứt lìa, con không thể đảo ngược điều đó được. Con có hiểu những điều bác vừa nói không?”
Tôi gật đầu, dù không dám chắc tôi đã hiểu. Bác ấy đứng lên. “Bác nghĩ cô bé sẽ sớm về thôi, con trai. Nếu nói ra như vậy khiến con thấy khá hơn.”
Tôi thích hình dung Margo như quả bóng bay, nhưng dường như trong cơn trào dâng đầy chất thơ vừa rồi, vị thám tử đã nhìn thấu có rất nhiều lo lắng ở trong tôi, còn hơn cả những xung động tôi đang thực sự cảm nhận. Tôi biết Margo sẽ về. Cô ấy sẽ xẹp lại và trôi trở về Jefferson Park. Cô ấy luôn như vậy.
Tôi theo bác thám tử quay lại phòng ăn, rồi bác ấy nói muốn sang nhà Spiegelman và xem qua phòng Margo. Cô Spiegelman ôm tôi và nói, “Con luôn là một chàng trai nghiêm chỉnh, cô xin lỗi vì con bé Margo đã lôi con vào trò nực cười này.” Chú Spiegelman bắt tay tôi, rồi họ ra về. Cửa vừa đóng, bố tôi đã thốt lên: “Ồ!”
“Ồ!” mẹ tôi hưởng ứng.
Bố khoác vai tôi. “Vừa rồi là những xung lực rất phiền toái phải không con giai bố?” “Vợ chồng họ thúi hoăng hoắc,” tôi nói. Bố mẹ luôn lấy làm thú vị khi tôi làu bàu rủa sả trước mặt họ. Tôi thấy ngay vẻ mãn nguyện trên mặt hai đấng sinh thành ra mình. Công khai rủa sả như vậy là tín hiệu cho thấy tôi tin tưởng bố mẹ, rằng tôi bộc lộ bản thân trước mặt họ. Dù quả là như vậy, nhưng trông bố mẹ vẫn buồn buồn.
“Bố mẹ Margo hẳn là bị tổn thương lòng tự tôn nghiêm trọng khi con bé cư xử như vậy,” bố bảo tôi. “Điều đó khiến họ không làm cha làm mẹ một cách hữu hiệu được,” mẹ tôi nói thêm. “Họ thúi hoắc à,” tôi nhắc lại.
“Thành thật mà nói,” bố tiếp, “có thể họ có lí. Có thể Margo cần mọi người chú ý đến mình. Và có Chúa biết, bố cũng cần mọi người chú ý đến mình nếu hai vị đó là phụ huynh của bố.” “Khi nào Margo về,” mẹ nói, “cô bé sẽ thấy kiệt quệ lắm. Bị bỏ mặc như vậy! Bị đẩy đi trong khi cần
được yêu thương nhất.”
“Khi nào về, có khi Margo cứ ở luôn đây,” tôi nói, và khi thốt ra những lời ấy, tôi thấy đó quả là một ý tưởng vĩ đại tuyệt vời. Mẹ tôi hơi nhướn mắt, nhưng ngay lập tức mẹ đọc được gì đó trên nét mặt bố, nên mẹ trả lời tôi bằng giọng chừng mực thường ngày.
“Ừm, chắc chắn là chúng ta chào đón Margo, dù như vậy cũng có phần khó xử–chúng ta là hàng xóm với nhà Spiegelman. Nhưng khi nào Margo quay lại trường, con hãy bảo bạn ấy là chúng ta hoan nghênh Margo đến đây. Nếu Margo không muốn ở nhà mình, thì vẫn có rất nhiều nơi khác thích hợp để chúng ta thoải mái tính đến.”
Lúc đó Ben đi ra, cái đầu tổ quạ của nó như thách thức mọi hiểu biết cơ bản về tác động của trọng lực lên vật chất. “Cháu chào cô chú Jacobsen–luôn hân hạnh được gặp cô chú ạ.”
“Chào cháu, Ben. Cô chú không biết là cháu ở lại qua đêm đấy.”
“Thực ra chính cháu cũng không biết sao lại như vậy,” Ben nói. “Vừa có chuyện gì thế ạ?” Tôi kể cho Ben nghe về bác thám tử và vợ chồng Spiegelman, và rằng về lí mà nói, Margo là một người trưởng thành bị mất tích. Khi tôi kết thúc, Ben gật đầu nói, “Ta nên bàn chuyện này bên một đĩa Hồi Sinh nóng sốt.” Tôi cười và theo nó quay lại phòng tôi. Không lâu sau Radar đến, ngay khi ấy tôi bị đá khỏi đội, vì tụi tôi đang chơi đến đoạn khó, và bất chấp thực tế rằng tôi là đứa duy nhất trong cả ba sở hữu trò chơi này, trình độ chơi Hồi Sinh của tôi chỉ ở hạng làng nhàng thôi. Tôi theo dõi hai thằng uỳnh uỳnh lao qua một trạm không gian nhung nhúc những gã ăn thịt người gớm ghiếc. Ben choe chóe, “Quỉ lùn kìa, Radar, quỉ lùn.”
“Tôi thấy rồi.”
“Lại đây nào đồ thấp bé nhẹ cân,” Ben xoay bảng điều khiển trong tay. “Bố sẽ bứng mày lên thuyền cho chu du trên sông Styx.”
“Ông chỉ trích dẫn thần thoại Hi Lạp cho những trò bông phèng thế này thôi à?” tôi hỏi. Radar cười khoái chí. Ben bắt đầu cuồng đấm nút điều khiển, la lối tùm lum, “Xực nó đi, quỉ lùn! Như thần Zeus xực Metis đó!”
“Tôi nghĩ có lẽ đến thứ Hai Margo sẽ về,” tôi nói. “Có ai muốn nghỉ học vô độ đâu, dù là Margo Roth Spiegelman đi nữa. Có lẽ cậu ấy có thể ở đây cho đến lúc tốt nghiệp.”
Radar trả lời tôi một cách khá phân tâm vì vẫn đang chơi Hồi Sinh. “Tôi thậm chí không hiểu sao Margo lại bỏ đi, có phải chỉ yêu tinh ở hướng sáu giờ không dùng súng ánh sáng đi ông vì thiếu thốn tình cảm thôi không? Tôi cứ tưởng Margo đã hầm mộ ở đâu có phải bên trái không miễn dịch với những thứ đại loại thế rồi chứ?”
“Không,” tôi nói. “Không phải như vậy, tôi không nghĩ như ông. Dù gì cũng không chỉ có vậy. Hình như Margo ghét Orlando; cậu ấy gọi nơi này là một thành phố giấy. Kiểu như, ông biết đấy, cái gì cũng hàng mã, rởm đời và oặt ẹo. Tôi nghĩ cậu ấy chỉ muốn một kì nghỉ để tránh xa tất cả.”
Bất chợt tôi liếc ra cửa sổ, và lập tức tôi nhận thấy ai đó–có thể là bác thám tử–đã hạ rèm cửa sổ phòng Margo xuống. Nhưng tôi không nhìn tấm rèm. Thay vào đó, tôi đang nhìn vào một tấm áp-phích đen trắng, đính trên mặt sau tấm rèm. Trong hình, một người đàn ông đứng, vai hơi so, mắt nhìn thẳng phía trước, môi cắn hờ điếu thuốc lá.
Cây guitar khoác qua vai, và trên đàn có dòng chữ CHIẾC MÁY NÀY DIỆT PHÁT-XÍT. “Có gì trên cửa sổ phòng Margo kìa.” Nhạc trò chơi dừng lại, Radar và Ben lổm ngổm ở hai bên cạnh tôi. “Cái đó mới hả?” Radar hỏi.
“Tôi đã thấy mặt sau tấm rèm đó cả triệu lần,” tôi đáp, “nhưng chưa từng thấy tấm áp-phích đó.” “Lạ nhỉ,” Ben nói.
“Sáng nay bố mẹ Margo vừa nói rằng cậu ấy thường để lại những manh mối,” tôi nói. “Nhưng chưa bao giờ có manh mối nào đủ chắc chắn để tìm được Margo trước khi cậu ấy tự về.”
Radar rút ngay máy tính cầm tay ra, nó vào Toàn Thư Đủ Thứ tra cụm từ trên cây đàn. “Bức hình đó là Woody Guthrie,” nó nói. “Ca sĩ dòng nhạc đồng quê, sinh năm 1912, mất năm 1967. Hát về tầng lớp lao động, ‘Đất này là đất của anh.’ Hơi mang tư tưởng cộng sản chủ nghĩa. Ừm, là nguồn cảm hứng của Bob Dylan.” Radar bật trích đoạn một trong các bài hát của ông ấy–một giọng găn gắt tông cao, hát về các hội
đoàn.
“Tôi sẽ e-mail cho người viết phần lớn trang này để xem có liên quan cụ thể gì giữa Woody Guthrie và Margo không,” Radar nói.
“Không thể tưởng tượng được là Margo lại thích những bài hát của ông ấy,” tôi nói. “Nói nghiêm túc chứ,” Ben nhận định, “ông ấy hát nghe như Ếch Kermit đang chìm trong men say và bị ung thư họng.”
Radar mở cửa sổ, thò đầu ra ngoài, quay qua quay lại. “Nhưng chắc như ăn bắp là Margo để ám hiệu lại cho ông đấy Q. Thì đó, Margo có biết ai khác có thể nhìn thấy góc cửa sổ ấy không?” Tôi lắc đầu. Chốc sau, Ben nói thêm, “Cái cách ông ấy chằm chằm nhìn tụi mình–như kiểu ‘hãy chú ý đến tôi’. Và cái đầu của ông ấy như vậy, các ông thấy chứ? Không giống như ca sĩ đứng trên sân khấu, mà như ông ấy đang đứng trước ngưỡng cửa nào đó vậy.”
“Tôi nghĩ ông ấy muốn tụi mình vào trong,” tôi nói.
4.
T
ừ phòng tôi đều không nhìn được ra hướng cửa chính hoặc ga-ra, do vậy chúng tôi cần ngồi trong phòng khách. Ben vẫn tiếp tục cày Hồi Sinh, Radar và tôi ra phòng khách giả vờ xem ti-vi trong khi không ngừng phóng mắt qua cửa sổ, theo sát tình hình cửa chính nhà Spiegelman, phục thời điểm bố mẹ
Margo ra ngoài. Chiếc Crown Victoria màu đen của thám tử Warren vẫn đỗ ở lối đi. Được khoảng mười lăm phút, bác thám tử rời đi, nhưng suốt một tiếng sau cả cửa ga-ra lẫn cửa chính đều đóng im ỉm. Radar và tôi đang xem một phim hài khá vui trên kênh HBO, tôi bắt đầu khoái mạch phim thì Radar nói, “Cửa ga-ra.” Tôi bật khỏi xô-pha, đến sát cửa sổ xem ai ở trong xe. Cả cô và chú Spiegelman. Ruthie vẫn ở nhà. “Ben ơi!” tôi gọi lớn. Nó lập tức xẹt ra như một tia chớp. Khi cô chú Spiegelman rẽ khỏi Jefferson Way vào Jefferson Road, chúng tôi rời nhà, lao vào bầu không khí nóng ẩm bên ngoài.
Tụi tôi qua thảm cỏ đến cửa trước nhà Spiegelman. Tôi bấm chuông và nghe thấy tiếng móng vuốt của Myrna Mountweazel cào rột rột trên sàn gỗ, rồi nó bắt đầu sủa như điên, chằm chằm nhìn tụi tôi qua dải cửa kính. Ruthie ra mở cửa. Nó là một con bé ngoan, khoảng mười một tuổi.
“Chào em, Ruthie.”
“Em chào anh Quentin,” Ruthie nói.
“Bố mẹ có nhà không em?”
“Bố mẹ em vừa đi rồi,” nó đáp, “đến Target ạ.” Ruthie cũng có cặp mắt to như Margo, nhưng mang màu nâu ấm. Nó nhìn tôi, bặm bặm môi lo lắng. “Anh có gặp ông cảnh sát không?” “Ừ, có,” tôi đáp. “Bác ấy có vẻ dễ mến.”
“Mẹ em bảo cứ coi như chị Margo đã đi học đại học sớm rồi.”
“Ừ,” tôi đáp, thầm nghĩ cách đơn giản nhất để tháo gỡ một bí ẩn là quyết định rằng không có bí ẩn nào cần tháo gỡ cả. Nhưng có lẽ đã rõ ràng rằng Margo đã để lại những manh mối dẫn đến một bí ẩn. “Anh bảo này nhé, Ruthie, bọn anh cần xem phòng Margo một chút,” tôi nói. “Nhưng vấn đề là–giống như khi Margo ủy thác nhiệm vụ tối mật cho em ấy. Bọn anh cũng ở trong tình cảnh tương tự.” “Chị Margo không thích người khác vào phòng chị ấy,”
Ruthie nói. “Trừ em ra. Thỉnh thoảng mẹ em nữa ạ.”
“Nhưng bọn anh là bạn của Margo mà.”
“Chị ấy không thích cho bạn vào phòng,” Ruthie khăng khăng.
Tôi cúi thấp xuống gần nó. “Năn nỉ em đó.”
“Và các anh không muốn em kể lại với bố mẹ,” con bé nói.
“Chính xác.”
“Năm đô-la ạ,” Ruthie chốt. Tôi định mặc cả nhưng Radar đã rút một tờ năm đô-la ra đưa cho nó. “Nếu thấy có xe về, em sẽ báo với các anh,” Ruthie nói với một tinh thần thông đồng đầy cao cả. Tôi cúi xuống vỗ nựng con Myrna Mountweazel tuổi-cao-sung-sức, rồi cả lũ kéo nhau lên gác vào phòng Margo. Khi đặt tay lên tay nắm cửa, tôi chợt nhận ra mình chưa từng vào phòng cô ấy kể từ hồi mười tuổi.
Tôi đi vào. Ngăn nắp hơn tôi hình dung, nhưng có thể do mẹ Margo vừa dọn dẹp lại. Ở bên phải, một tủ ních đầy quần áo đến mức như sắp banh ra đến nơi. Trên mặt sau cánh cửa, một cái giá với khoảng vài chục đôi giày, từ giày búp bê Mary Janes đến giày cao gót. Trông có vẻ tủ quần áo không bị thiếu đi gì nhiều.
“Tôi mò máy tính coi,” Radar nói. Ben kéo kéo tấm rèm. “Bức áp-phích được dính lên,” nó nói. “Chỉ là băng dính bình thường. Không phải là dính không gỡ nổi.”
Bất ngờ lớn chính là mảng tường cạnh bàn máy tính: giá sách cao bằng tôi và rộng gấp đôi, xếp đầy các
đĩa than. Hàng trăm đĩa như vậy. “Tình yêu tối thượng của John Coltrane nằm trong máy quay đĩa,” Ben nói.
“Chà, đó là một album xuất sắc,” Radar nói, mắt vẫn không rời máy vi tính. “Margo cũng có gu ra phết.” Tôi không hiểu, nhìn sang Ben thì nó giải thích, “John Coltrane là nghệ sĩ thổi kèn saxophone.” Tôi gật, đã hiểu.
Vừa gõ lên bàn phím, Radar vừa nói, “Không tin được là Q chưa từng nghe Coltrane. Theo nghĩa đen, tiếng kèn của Trane là minh chứng xác tín nhất mà tôi từng biết, cho thấy Chúa trời thực sự tồn tại.” Tôi bắt đầu nhìn qua dãy đĩa. Tất cả đều được sắp xếp theo bảng chữ cái và theo tên nghệ sĩ, tôi bèn dò tìm phần chữ G. Dizzy Gillespie, Jimmie Dale Gilmore, Green Day, Guided by Voices, George Harrison. “Hình như Margo có tất cả các nhạc sĩ ca sĩ trên thế giới, trừ Woody Guthrie,” tôi nói. Rồi tôi quay lại và bắt đầu từ phần chữ A.
“Tất cả sách giáo khoa của Margo còn ở đây,” tôi nghe thấy Ben nói. “Có thêm vài cuốn ở trên bàn cạnh giường. Không có báo chí gì.”
Nhưng bộ sưu tập nhạc của Margo thu hút tôi hơn. Cô ấy thích mọi thứ. Tôi chưa từng tưởng tượng được Margo đã nghe hết tất cả những đĩa nhạc cũ kĩ kia. Tôi đã thấy cô ấy vừa nghe nhạc vừa chạy, nhưng chưa bao giờ ngờ đến niềm say mê lớn thế này. Phần lớn các ban nhạc tôi chưa từng nghe tên, và tôi lấy làm lạ là đĩa than vẫn còn được sản xuất cho những đĩa nhạc mới.
Tôi đi dọc từ A đến B–qua Beatles, Blind Boys of Alabama và Blondie–tôi bắt đầu lướt nhanh hơn, nhanh đến mức hình như tôi không xem bìa sau Đại lộ Mĩ Nhân Ngư của Billy Bragg cho đến khi nhìn sang Buzzcocks. Tôi dừng lại, quay ngược, kéo đĩa Billy Bragg ra. Mặt trước là ảnh mấy tòa nhà mặt phố đều tăm tắp. Nhưng ở mặt sau, Woody Guthrie đăm đăm nhìn tôi, điếu xì gà bập hờ trên môi, cùng cây guitar có dòng chữ CHIẾC MÁY NÀY DIỆT PHÁT-XÍT.
“Xem này,” tôi nói. Ben nhìn sang.
“Chèn đét ơi,” nó thốt lên. “Mát tay tìm kiếm đấy.” Radar xoay ghế lại và nói, “Rất ấn tượng. Có gì ở trong vậy ta?”
Nhưng rủi là chỉ có một đĩa than bên trong. Cái đĩa trông đúng là một cái đĩa than. Tôi đặt nó vào máy quay đĩa của Margo, rút cục cũng mò được cách bật và đặt kim xuống đĩa. Giọng một ca sĩ khác hát các ca khúc của Woody Guthrie, nghe hay hơn chính Woody Guthrie hát.
“Thế là thế nào, chẳng lẽ chỉ là trùng hợp dẩm dớ thôi sao?”
Ben đang cầm bìa album. “Nhìn này,” nó nói, chỉ vào danh mục bài hát. Tên bài “Cháu gái của Walt Whitman” được khoanh tròn bằng nét mực đen mảnh.
“Thú vị đấy,” tôi nói. Mẹ Margo bảo rằng những manh mối của Margo chẳng bao giờ dẫn đến đâu, nhưng giờ tôi biết cô ấy đã tạo ra cả chuỗi manh mối–và hình như cô ấy đã để lại chúng cho tôi. Lập tức tôi nhớ lại lúc ở trong tòa nhà SunTrust, Margo đã nói rằng tôi ổn hơn khi tôi thể hiện tự tin. Tôi lật mặt đĩa và bật lên. “Cháu gái của Walt Whitman” là bài đầu tiên ở mặt hai. Thực ra nghe không tệ.
Đúng lúc đó tôi thấy Ruthie trên ngưỡng cửa. Con bé nhìn tôi. “Có manh mối gì cho bọn anh hả Ruthie?” Con bé lắc đầu. “Em đã tìm rồi,” giọng nó nghe buồn buồn. Radar nhìn tôi và hất đầu về phía Ruthie để ra hiệu.
“Em trông chừng bố mẹ em hộ bọn anh được không?” tôi hỏi. Con bé gật đầu rồi đi. Tôi đóng cửa lại. “Có gì thế?” tôi hỏi Radar. Nó vẫy bọn tôi lại phía máy vi tính. “Trong tuần trước khi bỏ đi, Margo đã sục kha khá vào Toàn Thư Đủ Thứ. Tôi biết vì dựa vào số phút đăng nhập bằng tên của Margo, và cậu ấy đã lưu mật khẩu lại máy. Nhưng Margo đã xóa toàn bộ lịch sử tìm kiếm, do vậy không thể biết được cậu ấy đã tìm thông tin gì.”
“Này, Radar, tra xem Walt Whitman là ai,” Ben nói.
“Đó là một nhà thơ,” tôi đáp. “Thế kỉ mười chín.”
“Tuyệt,” Ben thốt lên, mắt đảo tròn. “Thi ca.”
“Có gì không ổn sao?” tôi hỏi.
“Thi ca chỉ tổ nát cõi lòng,” Ben đáp. “Ôi, đau đớn. Đau đớn. Rơi hoài rơn rớn. Mảnh hồn tôi.” “Ờ, tôi chắc chắn đó là thơ Shakespeare,” tôi nói, không chấp nó. “Whitman có cô cháu gái nào
không?” tôi quay sang hỏi Radar. Nó đã vào trang viết về Whitman trong Toàn Thư Đủ Thứ. Một người đàn ông vạm vỡ với hàm râu khổng lồ. Tôi chưa từng đọc Whitman, nhưng trông ông ta cũng có vẻ ra dáng nhà thơ.
“Ờ, không có ai nổi tiếng. Trong này nói ông ta có mấy người anh em trai, nhưng không nói họ có con hay không. Có thể tôi sẽ tra được thông tin này nếu ông muốn.” Tôi lắc đầu. Có vẻ không phải hướng này. Tôi lùi lại nhìn quanh căn phòng. Hàng dưới cùng của giá đĩa có mấy cuốn sách–các kiểu kỉ yếu trường phổ thông cơ sở, cuốn Những kẻ ngoài vòng đã sờn cũ–và vài ấn bản in lại các tạp chí thanh thiếu niên. Không có gì liên quan đến cháu gái của Walt Whitman, chắc chắn vậy.
Tôi nhìn lại những cuốn sách trên bàn cạnh giường. Không có gì đáng chú ý. “Chắc Margo phải có cuốn thơ nào của ông ấy chứ nhỉ,” tôi nói. “Nhưng hình như không thấy.”
“Có đấy!” Ben reo lên. Tôi đến chỗ nó đang quì bên giá sách, và thấy cuốn sách. Tôi đã bỏ qua một cuốn mỏng ở tầng dưới cùng, nằm kẹp giữa hai tập kỉ yếu. Walt Whitman. Những cánh cỏ. Tôi kéo cuốn sách ra. Có một bức ảnh Whitman trên bìa sách, đôi mắt sáng của ông ấy đăm đăm nhìn tôi. “Khá đấy,” tôi nói với Ben.
Nó gật. “Ừa, bây giờ ra khỏi đây được chưa? Cứ cho là tôi bảo thủ đi, nhưng tôi không muốn lúc bố mẹ Margo về vẫn thấy bọn mình lởn vởn ở đây đâu.”
“Liệu có sót gì không nhỉ?”
Radar đứng lên. “Có vẻ rõ ràng là Margo đã đi một đường khá mạch lạc, ắt sẽ tìm thấy gì đó trong cuốn sách. Kể ra cũng lạ–tôi nói không có ý gì đâu, nhưng nếu Margo luôn để lại manh mối cho bố mẹ, sao lần này cậu ấy lại để lại cho ông?”
Tôi nhún vai. Tôi không có câu trả lời, nhưng tất nhiên tôi nuôi hi vọng: có lẽ Margo muốn thấy sự tự tin của tôi. Có thể lần này cô ấy muốn được tìm thấy, và được tôi tìm thấy. Có thể–cũng giống như cô ấy đã chọn tôi trong cái đêm dài nhất ấy, lần này cô ấy lại chọn tôi. Và có thể kho báu bí mật đang chờ người tìm ra cô ấy.
Không lâu sau khi quay lại nhà tôi, xem một lượt qua cuốn sách và không tìm thấy manh mối rõ rệt nào, Ben và Radar cũng về. Tôi lấy suất lasagna trong tủ lạnh ra ăn trưa và mang Walt về phòng. Cuốn Những cánh cỏ đó là bản in lần đầu của nhà xuất bản Penguin Classics. Tôi đọc một ít từ lời giới thiệu rồi lật tiếp từng trang. Có một số câu được đánh dấu màu xanh da trời, tất cả đều nằm trong một bài thơ dài dằng dặc như sử thi tên là “Tự khúc.” Hai dòng trong bài thơ đó được đánh dấu màu xanh lá cây:
Tháo mở ổ khóa khỏi cánh cửa!
Tháo mở chính cánh cửa khỏi khung!
Tôi dành gần hết buổi chiều cố hiểu hàm ý câu đó, thầm nghĩ có lẽ đó là cách Margo bảo tôi hãy mạnh mẽ táo bạo hơn hay đại loại thế. Nhưng tôi cũng đọc đi đọc lại từng dòng thơ được đánh dấu xanh da trời: Ngươi sẽ không nhận từ bàn tay thứ hai hay thứ ba nữa... không nhìn qua đôi mắt của người chết nữa... không ăn những bóng ma ám ảnh trong những trang sách nữa.
Ta dấn mình vào chuyến đi miên viễn
Tất thảy đều nảy sinh lan tỏa... và không gì co tụ lại,
Và chết chẳng giống những gì người ta huyễn tưởng, và thêm phước phận.
Nếu không ai khác trên thế gian này diệu ngộ, ta ngồi an nhiên, Và nếu mỗi và mọi người diệu ngộ, ta ngồi an nhiên.
Ba khổ cuối trong bài “Tự khúc” cũng được đánh dấu.
Ta trả mình về đất, nuôi những thân cỏ ta yêu, Nếu ngươi muốn ta, hãy tìm ta dưới đế ủng. Ngươi chắc sẽ không bao giờ biết được ta là ai, ta muốn nói gì, Dẫu vậy ta sẽ luôn là sinh mạch của ngươi, Thấm lọc và mao dẫn dòng máu ngươi.
Thoạt không tìm được ta, hãy bền gan vững bước, Mất dấu ta nơi này, hãy đi tìm nơi khác, Ở đâu đó, ta dừng lại đợi ngươi.
Cả cuối tuần tôi chỉ đọc, cố gắng tìm Margo trong những mảnh thơ cô ấy để lại cho tôi. Có thể những dòng thơ sẽ chẳng dẫn tôi đến đâu cả, nhưng dù sao tôi cũng nghĩ về chúng, vì tôi không muốn làm Margo thất vọng. Cô ấy muốn tôi lần theo dây nối, tìm nơi cô ấy đã dừng lại và đợi tôi, đi theo dải vụn bánh mì
chođếnkhinókếtthúcởMargo.
5.
S
áng thứ Hai, một sự kiện dị thường xảy ra. Tôi đi học muộn, điều này bình thường; mẹ thả tôi ở trường, điều này bình thường; tôi đứng ngoài tụ bạ tán chuyện với những đứa khác, điều này bình thường; rồi Ben và tôi đi vào trong, điều này cũng bình thường nốt. Nhưng vừa đẩy mở cánh cửa kim loại, mặt Ben đã biến thành một thể hỗn mang của phấn kích và kinh hãi, như thể một ảo thuật gia vừa nhón
được nó từ đám đông để phụ biểu diễn màn cưa-đứt-đục-suốt. Theo ánh mắt Ben, tôi nhìn ra hành lang. Váy jeans ngắn. Áo phông trắng ôm sát. Cổ trần. Nước da bánh mật xinh giòn. Đôi chân khiến người ta mơ tưởng đến chân. Mái tóc nâu gợn sóng hoàn hảo. Chiếc huy hiệu bóng loáng với dòng chữ HÃY CHỌN TÔI LÀ NỮ HOÀNG ĐÊM TỐT NGHIỆP. Lacey Pemberton. Đi về phía chúng tôi. Ngay cạnh phòng tập nhạc.
“Lacey Pemberton,” Ben thì thào, dù cô ấy chỉ cách bọn tôi ba bước và hoàn toàn nghe rõ những lời ấy. Thực ra nụ cười giả nai đã thoáng qua môi Lacey khi cô ấy nghe nhắc đến tên mình. “Quentin ơi,” Lacey nói với tôi, và hơn tất thảy, việc Lacey biết tên tôi là một sự bất khả thi. Cô ấy ngoắc đầu ra hiệu, tôi đi theo Lacey qua phòng tập nhạc, đến trước dãy tủ đựng đồ cá nhân. Ben theo tôi bén gót.
“Chào Lacey,” tôi nói khi cô ấy đã dừng lại. Tôi ngửi thấy mùi nước hoa của Lacey, và tôi vẫn nhớ có mùi này trong chiếc SUV của cô ấy, nhớ cả tiếng lép bép phát ra từ con cá da trơn khi Margo và tôi đè ghế ô-tô lên nó. “Tớ nghe nói cậu đã đi cùng Margo.” Tôi chỉ nhìn Lacey.
“Đêm hôm đó, và con cá? Trong xe của tớ? Trong phòng Becca? Và qua cửa sổ nhà Jase?” Tôi vẫn nhìn. Tôi không biết nên nói gì. Người ta có thể sống một cuộc đời dài đầy phiêu lưu mạo hiểm mà không kể lại với Lacey Pemberton, nhưng khi cơ hội hiếm hoi đó chợt đến, người ta sẽ không muốn hàm hồ vạ miệng. Thế là Ben lên tiếng thay tôi, “Ừa, hai người họ đấy.” Ben nói như thể Margo và tôi gần gũi nhau lắm.
“Margo có cáu tớ lắm không?” Lát sau Lacey hỏi. Cô ấy cụp mắt nhìn xuống, tôi có thể thấy hàng mi nâu rợp.
“Gì cơ?”
Lúc ấy Lacey nói rất khẽ, rạn nứt li ti trong giọng nói, và lập tức Lacey Pemberton không phải là Lacey Pemberton nữa. Cô ấy chỉ–như, một người bình thường. “Cậu biết đấy, Margo có điên tiết với tớ vì chuyện gì không?”
Trong chốc lát tôi nghĩ xem nên trả lời thế nào cho phải. “Ừ, Margo hơi thất vọng vì cậu đã không cho cậu ấy biết về Jase và Becca, nhưng cậu biết tính Margo rồi đấy. Cậu ấy sẽ vượt qua được thôi.” Lacey bắt đầu đi xuôi hành lang. Ben và tôi để cô ấy đi, nhưng rồi Lacey đi chậm lại. Cô ấy muốn chúng tôi đi cùng. Ben khẽ huých tôi, và chúng tôi cùng đi với nhau. “Tớ có biết gì về Jase và Becca đâu. Vấn đề là ở đó. Trời ơi, tớ mong sớm giải thích với Margo được quá. Có lúc tớ thực sự lo sợ rằng chưa biết chừng Margo đã bỏ đi luôn rồi, nhưng tớ xem ngăn tủ đựng đồ vì biết mã số khóa của cậu ấy, thấy tất cả tranh ảnh, sách vở, mọi thứ vẫn còn nguyên trong đó.”
“Thế thì tốt,” tôi nói.
“Ừ, nhưng đã chừng bốn ngày rồi. Đó gần như là kỉ lục đối với Margo. Và các cậu biết không, có chuyện này thật là chán không để đâu cho hết, vì Craig biết chuyện Jase và Becca, tớ giận cậu ta sao không nói gì với tớ cả nên đã cắt đứt luôn rồi. Bây giờ tớ đã phá sản vụ dạ hội tốt nghiệp, bạn thân nhất của tớ đang vi vu ở nơi chỉ có trời mới biết, có thể là New York hoặc bất cứ đâu, trong lòng vẫn còn giận tớ vì một chuyện tớ CHƯA TỪNG làm.” Tôi lé mắt nhìn Ben. Ben cũng lé mắt nhìn tôi.
“Tớ phải vào lớp đây,” tôi nói. “Nhưng sao cậu lại nói Margo ở New York?”
“Hình như hai hôm trước khi bỏ đi, Margo đã nói với Jase rằng New York là nơi duy nhất ở Mĩ mà
người ta có thể thực sự sống một cuộc đời đáng sống nửa chừng. Có thể cậu ấy chỉ nói vu vơ thôi. Tớ không biết nữa.”
“Được rồi, tớ phải chạy đây,” tôi nói.
Tôi biết Ben khó mà mời được Lacey đi dạ hội cùng, nhưng ít ra nó cũng xứng đáng có một cơ hội. Tôi rảo bước qua hành lang về phía tủ đựng đồ của mình, quờ tay ra cào cào đầu Radar khi đi ngang chỗ nó. Nó đang nói chuyện với Angela và một cô bé lớp chín cũng chơi trong ban nhạc. “Đừng cảm ơn anh. Cảm ơn Q ấy,” tôi nghe thấy Radar nói với cô bé kia, và con bé kêu lớn, “Cảm ơn anh vì em được hai trăm đô
la!” Không ngoái lại, tôi cũng gào lên, “Đừng cảm ơn anh, hãy cảm ơn chị Margo Roth Spiegelman!” bởi tất nhiên cô ấy đã trao cho tôi công cụ mà tôi cần.
Tôi mở ngăn tủ của mình, vớ cuốn vở giải tích, nhưng tôi vẫn đứng đó, dù hồi chuông thứ hai đã kêu, đứng yên giữa hành lang trong khi mọi người xung quanh xoẹt qua tôi theo cả hai hướng, như thể tôi là dải phân cách trên con đường cao tốc của họ vậy. Một nhóc nữa cũng cảm ơn tôi vì hai trăm đô-la nó được nhận. Tôi mỉm cười với thằng bé. Tôi cảm thấy ngôi trường là của tôi hơn lúc nào hết trong suốt bốn năm qua. Chúng tôi đã tìm được giải pháp công bằng cho tầng lớp vô-xe-đạp. Lacey Pemberton đã nói chuyện với tôi. Chuck Parson đã chịu xin lỗi.
Tôi quá biết những hành lang này–và rút cục cũng bắt đầu có cảm giác rằng chúng biết tôi. Tôi vẫn đứng đó khi hồi chuông thứ ba vang lên và đám đông bắt đầu tản mát.
Chỉ khi ấy tôi mới vào lớp giải tích, ngồi xuống ngay sau khi thầy Jiminez bắt đầu một bài học lê thê vô tận khác.
Tôi mang bản Những cánh cỏ của Margo đến trường, giấu sách trong hộc bàn và bắt đầu đọc lại những câu được đánh dấu trong bài “Tự khúc” trong khi thầy Jiminez cào chữ trên bảng. Không thấy có điểm nào ám chỉ New York. Mấy phút sau tôi đưa sách cho Radar, nó xem một lúc rồi viết lên góc vở của nó, phía gần tôi nhất, Phần đánh dấu màu xanh lá cây phải có ý nghĩa gì đó. Có thể Margo muốn ông mở cánh cửa tư duy của ông ra chăng? Tôi nhún vai, viết lại, Hoặc có thể Margo chỉ đọc bài thơ vào hai ngày khác nhau, với hai cái bút đánh dấu khác nhau.
Mấy phút sau, khi liếc đồng hồ mới tới lần thứ ba mươi bảy, tôi thấy Ben Starling đứng ngoài cửa lớp, tấm thẻ thông hành[7]trong tay, nhún nhảy như điên theo điệu jig.
Khi chuông báo giờ ăn trưa, tôi lao ngay đến ngăn tủ của mình, nhưng bằng cách nào đó Ben đã cán đích trước tôi, và bằng cách nào đó nó đang nói chuyện với Lacey Pemberton. Ben đứng sát bên Lacey, hơi nghiêng đầu để nhìn được trực diện cô ấy. Nói chuyện với Ben thỉnh thoảng khiến tôi có cảm giác bị sợ không gian hẹp, mà tôi có phải là cô nàng nóng bỏng nào cho cam đâu.
“Chào mấy bồ,” tôi nói khi đến nơi.
“Chào,” Lacey nói, lùi một bước rõ ràng tránh khỏi Ben. “Ben mới nói với tớ mấy chuyện về Margo. Cậu biết không, chưa ai từng vào phòng cậu ấy đâu. Margo bảo rằng bố mẹ cậu ấy không cho mời bạn đến nhà.”
“Thật à?” Lacey gật đầu. “Thế cậu có biết Margo có khoảng, xem nào, một ngàn đĩa ghi âm không?” Lacey giơ hai tay lên. “Không hề, Ben cũng vừa hỏi như vậy! Margo không bao giờ nói chuyện về âm nhạc. Thực ra cậu ấy có nói thích nghe cái này cái kia trên radio hoặc đâu đó. Nhưng–không đả động gì đến đĩa ghi âm cả. Cậu ấy kì lạ thật đấy.”
Tôi nhún vai. Có thể Margo kì lạ, hoặc có thể những đứa còn lại là bọn tôi kì lạ. Lacey nói tiếp. “Nhưng bọn tớ vừa nói đến đoạn Walt Whitman xuất thân từ New York.”
“Và theo Toàn Thư Đủ Thứ, Woody Guthrie cũng đã sống ở đó một thời gian dài,” Ben nói thêm. Tôi gật đầu. “Tớ thấy mọi khả năng là Margo ở New York. Nhưng chắc bọn mình phải tìm ra manh mối tiếp theo. Không thể chỉ dừng ở cuốn sách được. Hẳn phải có gì đó chưa giải mã được từ những dòng thơ được đánh dấu.”
“Ừ, cho tớ xem qua cuốn sách trong giờ ăn trưa được không?”
“Được chứ,” tôi nói. “Hoặc nếu cậu muốn, để tớ sao cho cậu một bản trong thư viện.” “Không cần đâu, tớ chỉ đọc thôi mà. Thực ra tớ chả hiểu ngang biết dọc gì về thơ thẩn cả. Ô, nhưng dù
sao, tớ có bà chị họ đang học ở đó, Đại học New York ấy mà, tớ có thể gửi tờ rao vặt để chị ấy in ra. Tớ sẽ bảo chị ấy bỏ tờ rơi ở các cửa hàng đĩa nhạc. Tất nhiên có rất nhiều cửa hàng đĩa nhạc, nhưng thử vẫn hơn.”
“Ý hay đấy,” tôi nói. Ben và Lacey bắt đầu đi đến căngtin, tôi liền đi theo.
“Này,” Ben hỏi Lacey, “váy của cậu màu gì?”
“Ờ, kiểu màu xanh đá xa-phia, thì sao?”
“Thì để bộ lễ phục của tớ tiệp màu theo,” Ben đáp. Tôi chưa bao giờ thấy Ben cười kiểu ngu-ngơ-ngớ ngẩn đến vậy, và như thế hẳn nói lên điều gì đó, vì nó vốn cũng khá ngu-ngơ-ngớ-ngẩn. Lacey gật đầu. “Tốt thôi, nhưng chúng ta không nên quá đôi lứa xứng đôi. Có lẽ cậu cứ theo truyền thống đi: lễ phục màu đen nhé?”
“Không đeo dải thắt lưng to bản, cậu thấy như thế có nên không?”
“Ừ, thế cũng được. Mà đừng có diện áo xếp bèo nhún li nhiều quá đấy nhé.”
Hai đứa cứ nói mãi–rõ ràng, tỉ lệ bèo li lí tưởng là một chủ đề có thể bàn bạc nhiều giờ liền–nhưng tôi thôi không chú ý nghe nữa trong khi xếp hàng vào hiệu Pizza Hut. Ben đã tìm được cô bạn đi dự dạ hội tốt nghiệp cùng, và Lacey đã tìm được cậu bạn hào hứng bàn luận hàng giờ đồng hồ về dạ hội. Giờ ai cũng có đôi cả–trừ tôi, và tôi sẽ không đến dạ hội. Cô bạn duy nhất mà tôi muốn tháp tùng đang dấn mình vào chuyến đi miên viễn hay gì đó đại loại thế.
Khi chúng tôi ngồi xuống ăn, Lacey bắt đầu đọc “Tự khúc,” và đồng tình rằng những câu thơ chẳng nói lên điều gì, cũng chẳng giống Margo chút nào. Chúng tôi vẫn chưa luận ra được Margo muốn nói điều gì, nếu thực sự cô ấy ám chỉ gì đó. Lacey đưa cuốn sách lại cho tôi, rồi chàng và nàng lại tiếp tục ríu rít với nhau về dạ hội.
Cả buổi chiều, tôi có cảm giác rằng cứ nhìn những dòng thơ được đánh dấu ấy thì cũng chẳng ích gì. Nhưng rồi tôi lại chán, lại mò ba-lô, lấy cuốn thơ đặt lên lòng và đọc lại. Môn cuối cùng của tôi là Quốc ngữ, tiết thứ bảy, cả lớp mới bắt đầu vào bài Moby Dick nên cô Holden giảng khá nhiều về đánh cá ở thế kỉ mười chín. Tôi để Moby Dick trên mặt bàn và Whitman trong lòng, nhưng thậm chí ngồi trong giờ Quốc ngữ cũng không thêm hiệu ứng gì. Có lúc mấy phút liền tôi không nhìn đồng hồ, nên hơi bất ngờ khi chuông reo, do vậy mất nhiều thời gian cất dọn sách vở hơn những đứa khác. Khi tôi lẳng ba-lô lên vai và bắt đầu ra khỏi lớp, cô Holden cười với tôi và bảo, “Walt Whitman hả?”
Tôi xấu hổ gật đầu.
“Hay đấy,” cô nói. “Hay đến mức tôi gần như đồng ý cho em đọc trong giờ. Nhưng không quá lâu đâu nhé.” Tôi lí nhí em xin lỗi ạ rồi đi bộ ra bãi đỗ xe của học sinh năm cuối.
Trong khi Ben và Radar tập nhạc, tôi ngồi trong RHAPAW và để mở cửa xe, một làn gió chầm chậm mơn man thổi qua. Tôi đọc Những văn bản Liên bang để chuẩn bị cho bài kiểm tra ngày mai trong môn nhà nước, nhưng đầu óc tôi cứ lởn vởn liên hồi giữa Guthrie, Whitman, New York và Margo. Có phải Margo đến New York theo đuổi nhạc đồng quê không? Có phải có một Margo bí mật đam mê âm nhạc đồng quê mà tôi chưa từng biết không? Có phải cô ấy sống trong một căn hộ mà một trong số họ từng sống không? Và tại sao cô ấy muốn nói với tôi tất cả những điều đó?
Nhìn qua gương cạnh, tôi thấy Ben và Radar đang tiến lại. Radar vung vẩy hộp đựng cây kèn saxophone khi rảo bước đến RHAPAW. Hai thằng ào vào qua cửa mở sẵn, Ben tra khóa vào ổ và RHAPAW bắt đầu lục bục. Bọn tôi hi vọng, ẻm lại lục bục, bọn tôi hi vọng thêm chút nữa, và rút cục ẻm cũng khục lên tỉnh giấc. Ben đã kịp vọt qua bãi đỗ xe, rẽ ra khỏi trường trước khi gào lên với tôi, “CÁC ÔNG CÓ TIN NỔI KHÔNG?” Nó hầu như không thể hoãn nổi sung sướng.
Ben bắt đầu bấm còi, nhưng tất nhiên còi không hoạt động, thế nên mỗi lần bấm còi, Ben lại rống lên, “BÍP! BÍP! BÍP! CÒI LÊN ĐI NẾU ĐI DẠ HỘI CÙNG SIÊU THỎ LACEY PEMBERTON! CÒI LÊN, CÒI LÊN ĐI!”
Ben hầu như không tắt loa trên suốt đường về nhà. “Các ông có biết điều gì đã nên chuyện không? Ngoài cảm giác tuyệt vọng ra nhé? Tôi đoán là Lacey và Becca Arrington đang chiến nhau vì các ông cũng biết rồi đấy, Becca là một nàng lừa đảo lắm chiêu. Tôi cũng nghĩ chắc Lacey bắt đầu ăn năn về vụ dựng chuyện Ben Bỉ Bựa. Cậu ấy không nói hẳn ra, nhưng có cư xử đại loại như thế. Thế là rút cục, Ben Bỉ Bựa
sẽ giành lại cho tôi chút tò-te-tí-toét.” Tôi rất mừng cho Ben và tất cả, nhưng tôi muốn tập trung cho cuộc chơi dẫn đến Margo.
“Các ông có thêm ý tưởng gì chưa?”
Cả bọn lặng đi chốc lát, rồi Radar nhìn tôi qua gương chiếu hậu và nói, “Câu thơ về cánh cửa là chỗ duy nhất đánh dấu khác những câu còn lại, và nó cũng ngẫu nhiên nhất, tôi thực sự cho rằng câu đó găm một manh mối. Cả câu là gì ấy nhỉ?”
“Tháo mở ổ khóa khỏi cánh cửa!/ Tháo mở chính cánh cửa khỏi khung!” tôi nhắc lại. “Phải thừa nhận rằng, Jefferson Park không thực sự là nơi lí tưởng để tháo mở những cánh cửa của đầu óc-hạn-hẹp khỏi khung cửa,” Radar xác thực. “Có lẽ đó là điều Margo muốn nói. Như cậu ấy đã nói Orlando là thành phố giấy nhỉ? Có thể Margo đang giải thích tại sao cậu ấy bỏ đi.” Ben giảm tốc độ để dừng trước đèn giao thông, rồi quay sang nhìn Radar. “Này bồ tèo,” Ben nói, “tôi nghĩ các ông đang phức tạp hóa nàng thỏ Margo đấy.”
“Tức là sao?” tôi hỏi.
“Tháo mở ổ khóa khỏi cánh cửa!” Ben nói. “Tháo mở chính cánh cửa khỏi khung!” “Ừ nhỉ,” tôi thốt lên. Đèn chuyển sang xanh và Ben nhấn ga. RHAPAW rung bần bật như thể ẻm sắp long rời từng bộ phận, nhưng rồi lại tiếp tục lăn bánh.
“Đó không phải là thơ. Cũng không phải ẩn dụ. Đó là những hướng dẫn. Chúng ta sẽ phải vào phòng Margo, tháo ổ khóa khỏi cánh cửa phòng và tháo chính cánh cửa khỏi khung bao quanh.” Radar nhìn tôi qua gương chiếu hậu, và tôi nhìn lại nó. “Thỉnh thoảng,” Radar nói với tôi, “thằng bạn mình chậm tiêu đến mức trở thành siêu luôn.”
6.
S
au khi đỗ xe ở lối đi nhà tôi, tụi tôi đi bộ qua vạt cỏ ngăn nhà Margo và nhà tôi, như đã đi hôm thứ Bảy. Ruthie ra mở cửa và nói bố mẹ nó sáu giờ mới về; Myrna Mountweazel lăng xăng chạy mòng mòng quanh tụi tôi; cả đám lên gác. Ruthie mang cho bọn tôi một hộp dụng cụ từ trong ga-ra, rồi tất cả
đứng ngây ra nhìn cửa phòng Margo một lúc. Có đứa nào khéo tay biết xoay xở việc này đâu. “Bây giờ chúng ta làm thế quỉ nào được đây?” Ben hỏi.
“Đừng rủa sả trước mặt Ruthie thế,” tôi nhắc nó.
“Ruthie, em có phiền khi nghe anh nói đến quỉ không?”
“Quỉ không có thật ạ,” Ruthie nói thay cho câu trả lời.
Radar chen vào. “Nào,” nó dõng dạc, “tập trung vào nào. Cánh cửa.” Radar bới một cây tua-vít đầu có cạnh từ đám dụng cụ ra và cúi xuống, tháo tay nắm cửa. Tôi vớ một cái tua-vít to hơn và cố tháo bản lề, nhưng có vẻ không có đinh vít nào. Tôi săm soi cánh cửa thêm chút nữa. Rút cục, Ruthie chán, bỏ xuống nhà xem ti-vi.
Radar đã nới lỏng được tay nắm cửa, và chúng tôi lần lượt ghé mắt quan sát phía trong phần gỗ thô, không sơn quanh tay nắm. Không có lời nhắn nào. Không một mảnh ghi chú nào. Không gì cả. Bực mình, tôi quay lại với bản lề, loay hoay không biết phải tháo ra thế nào. Tôi mở cửa ra rồi đóng lại, cố tìm hiểu nguyên lí của thanh bản lề. “Cái bài thơ ấy dài lê thê đến gớm,” tôi nói. “Các ông có nghĩ cụ nhà thơ Walt đã viết đâu đó một hai dòng hướng dẫn tháo mở cánh cửa khỏi khung như thế nào không?”
Chỉ khi Radar lên tiếng tôi mới nhận ra nó đang ngồi trước máy tính của Margo. “Theo Toàn Thư Đủ Thứ,” nó nói, “chúng ta phải tìm bản lề lá trước. Chỉ cần dùng tua-vít để nậy chốt lên thôi. Nhân tiện, gã nỡm nào đó còn chua thêm rằng bản lề lá hoạt động trơn tru khi bị bể làn. Ôi, Toàn Thư Đủ Thứ. Liệu ngài có giỡn không đây?”
Một lần nữa Toàn Thư Đủ Thứ đã cho chúng tôi biết phải làm gì, và thực hành thì dễ không ngờ. Tôi tháo được chốt khỏi ba bản lề và Ben nhấc cánh cửa ra. Tôi xem xét kĩ lưỡng bản lề, và phần gỗ thô trên khung cửa. Không có gì.
“Cánh cửa chẳng có gì,” Ben nói. Ben và tôi cùng lắp cánh cửa lại như cũ, và Radar đóng lại đinh bằng phần tay cầm của tua-vít.
Radar và tôi sang nhà Ben, ngôi nhà có kiến trúc giống hệt nhà tôi, và chơi một trò gọi là Bắc Cực Nổi Giận. Đây là một kiểu trò-chơi-ở-trong-trò-chơi, các đấu thủ bắn nhau bằng bom sơn lên băng. Nếu bắn trúng tờ-rym của đối phương thì sẽ được điểm thưởng. Tóm lại là một trò khá tinh vi phức tạp. “Các ông ạ, nhất định Margo đang ở New York,” Ben nói. Tôi thấy nòng súng của nó thấp thoáng ở một góc, nhưng tôi chưa kịp nhúc nhích gì thì nó đã bắn trúng phóc giữa hai chân tôi. “Đồ khỉ,” tôi lầm bầm.
Radar nói, “Nhìn lại, có vẻ như các manh mối của Margo dẫn đến một nơi. Cậu ấy nói với Jase; và để lại cho chúng ta gợi ý gắn với hai người hầu như cả đời chỉ sống ở New York. Rất hợp lô-gíc.” Ben nói, “Đó là những gì Margo muốn, các bồ ạ.” Tôi vừa mon men lại gần Ben thì nó lại tạm dừng trò chơi. “Cậu ấy muốn ông đi đến New York. Giả sử Margo sắp xếp để đó là cách duy nhất tìm ra cậu ấy thì sao? Thực sự đi đến nơi ấy?”
“Sao cơ? Đó là một thành phố với mười hai triệu dân mà.”
“Biết đâu Margo có một con chuột chũi gián điệp ở đây,” Radar nói. “Kẻ đó sẽ bắn tin cho Margo nếu ông lên đường.”
“Lacey rồi!” Ben thốt lên. “Chắc chắn là Lacey. Đúng vậy! Ông sẽ lên máy bay tới New York ngay bây giờ. Và khi Lacey phát hiện ra, Margo sẽ ra sân bay đón ông. Quá chính xác. Nào, tôi sẽ đưa ông về nhà, ông sẽ chuẩn bị hành lí, rồi tôi sẽ lái xe đưa cái bàn tọa của ông ra sân bay, và ông sẽ mua vé máy bay bằng thẻ tín dụng chỉ-dùng-khi-cần-kíp của ông. Và khi Margo nhận ra ông cứng cựa đến mức nào, hạng cứng
cựa mà Jase Worthington nằm mơ cũng không nổi, cả ba chúng ta sẽ cùng đưa các cô nàng nóng bỏng tới dạ hội tốt nghiệp.”
Tôi không nghi ngờ gì rằng chẳng phải đợi lâu sẽ có chuyến bay tới New York. Từ Orlando, máy bay đi bất cứ nơi nào đều sẽ sớm cất cánh. Nhưng tôi nghi ngờ tất cả các yếu tố khác. “Nếu ông báo với Lacey...,” tôi nói.
“Lacey sẽ không thú nhận đâu!” Ben nói. “Cứ nghĩ tất cả những trò đánh lạc hướng của họ xem–có khi hai nàng chỉ giả vờ uýnh nhau để ông không nghi ngờ rằng Lacey là chuột chũi.” Radar nói, “Tôi không biết nữa, điều đó không thực sự sáng tỏ được gì.” Nó tiếp tục nói, nhưng tôi chỉ nghe nửa chừng. Nhìn trân trối vào màn hình bất động trước mặt, tôi nghĩ mãi về sự việc. Nếu Margo và Lacey chỉ giả vờ giận nhau, liệu Lacey có giả vờ chia tay bạn trai không? Có giả vờ lo lắng không? Lacey đã tự tay xử lí hàng chục e-mail–chẳng cái nào có thông tin thực sự–từ những tờ rơi chị họ cô ấy đã để lại trong các cửa hàng đĩa ghi âm ở New York. Lacey không hề là chuột chũi gián điệp, và kế hoạch của Ben ngớ ngẩn quá. Nhưng, chỉ riêng ý tưởng về một kế hoạch đã lôi cuốn tôi. Cơ mà chỉ còn hai tuần rưỡi nữa là kết thúc năm học, nếu đi New York tôi sẽ phải nghỉ ít nhất hai ngày–chưa kể bố mẹ sẽ giết tôi vì mua vé máy bay bằng thẻ tín dụng. Càng nghĩ tôi càng thấy kế hoạch này xuẩn quá. Nhưng, giá mà mai có thể nhìn thấy cô ấy... Nhưng không. “Tôi không nghỉ học được,” rút cục tôi chốt hạ, rồi tiếp tục trò chơi. “Mai tôi phải làm bài kiểm tra tiếng Pháp.”
“Ông biết không,” Ben nói. “Trào lưu lãng mạn chủ nghĩa của ông là một nguồn cảm hứng thực sự.” Tôi chơi thêm mấy phút nữa rồi đi bộ qua Công viên Jefferson về nhà.
Có lần mẹ kể với tôi về một đứa bé tâm thần mà mẹ đã chăm sóc. Thằng bé hoàn toàn bình thường cho đến năm lên chín, khi bố nó qua đời. Dù rõ ràng có rất nhiều trẻ chín tuổi bị mất cha, và trong phần lớn các trường hợp không có đứa nào phát điên cả, nhưng có lẽ thằng bé này là ngoại lệ.
Và thằng bé đã làm thế này, nó lấy cái bút chì và một trong những thứ như com-pa sắt, bắt đầu vẽ những vòng tròn lên giấy. Tất cả các vòng tròn đều có bán kính chính xác năm phân. Thằng bé cứ vẽ mãi những vòng tròn cho đến khi tờ giấy đen kịt, nó sẽ lấy một tờ khác và vẽ tiếp những vòng tròn. Ngày nào nó cũng làm thế, suốt ngày, chẳng chú ý đến học hành, vẽ cả vòng tròn lên kín các bài kiểm tra và bài vở ở trường. Mẹ tôi bảo vấn đề của thằng bé là ở chỗ nó đã tạo ra một thói quen đều đặn để đương đầu với mất mát, chỉ có điều chính thói quen ấy lại hủy hoại nó. Thế là khi mẹ tôi tìm cách khiến thằng bé bật khóc vì người cha đã mất, nó thôi không vẽ vòng tròn nữa, và được cho là từ đó sẽ sống hạnh phúc mãi mãi. Nhưng thỉnh thoảng tôi lại nghĩ đến thằng bé vẽ vòng tròn ấy, vì hình như tôi hiểu được nó. Tôi luôn thích những thói quen đều đặn. Tôi còn nghĩ chắc tôi không bao giờ thấy sự nhàm chán có gì đáng chán lắm. Có lẽ tôi không giải thích nổi điều này cho ai đó như Margo, nhưng vẽ những vòng tròn đi hết đời mình mang lại cho tôi chút cảm giác điên rồ có nghĩa lí.
Cho nên tôi cần phải thấy ổn vì quyết định không đi New York–dù sao đó cũng là một ý tưởng dở ẹc. Nhưng khi trôi theo nhịp đều đặn đêm đó và ngày tiếp theo ở trường, nó dần gặm nhấm tôi, như thể chính những lẽ thường tình ấy đang kéo doãng tôi xa khỏi lúc gặp lại cô ấy.
7.
T
ối thứ Ba, Margo đã bỏ đi được sáu ngày, tôi nói chuyện với bố mẹ. Đó không phải là một quyết định trọng đại hay gì đó tương tự; tôi chỉ kể thôi. Tôi ngồi bên quầy bếp trong khi bố thái rau và mẹ bỏ thịt bò vào áp chảo. Bố chọc tôi, hỏi tôi đã vùi bao nhiêu thời gian vào cuốn sách ngắn tủn ấy, và tôi đáp, “Thực ra không phải vì môn Quốc ngữ, mà hình như Margo đã chủ ý để lại cuốn sách cho con tìm hiểu ạ.”
Bố mẹ lặng đi, tôi bèn kể lại những gì liên quan đến Woody Guthrie và Whitman. “Con bé rõ là thích chơi trò rắc những mảnh vụn thông tin này,” bố nói.
“Em không trách Margo khi con bé muốn được quan tâm,” mẹ nói, rồi quay sang tôi nói tiếp, “nhưng như thế không có nghĩa là con phải chịu trách nhiệm về tình trạng của Margo đâu nhé.” Bố thả cà rốt và hành vào chảo. “Ừm, đúng vậy. Không phải do không gặp trực tiếp thì bố mẹ không tiên lượng, chẩn đoán được về Margo, nhưng bố nghĩ bạn con sẽ sớm về nhà thôi.” “Ta không nên tiên lượng liều,” mẹ khẽ nói với bố, như thể tôi không nghe được hay đại khái thế. Bố định nói gì đó nhưng tôi đã chen ngang.
“Con nên làm gì ạ?”
“Tốt nghiệp con ạ,” mẹ đáp. “Và tin tưởng rằng Margo có thể tự lo liệu được, con bé vẫn có tài xoay xở đấy thôi.”
“Bố đồng tình với mẹ,” bố khẳng định. Nhưng sau bữa tối, khi về phòng và chơi Hồi Sinh ở chế độ tắt tiếng, tôi nghe được bố mẹ khẽ trao đổi qua lại với nhau. Không nghe được từng lời cụ thể, nhưng tôi thấy có tiếng nói của sự lo lắng.
Khuya hôm ấy, Ben gọi vào điện thoại di động của tôi.
“Chào,” tôi nói.
“Này bồ tèo,” Ben gọi.
“Ừ, nghe đây,” tôi đáp.
“Tôi sắp đi mua giày với Lacey.”
“Đi mua giày á?”
“Ừa. Mọi thứ giảm giá ba mươi phần trăm từ mười giờ tối đến nửa đêm. Lacey muốn tôi giúp cậu ấy lựa giày diện đi dạ tiệc. Tất nhiên Lacey có giày rồi, nhưng hôm qua tôi đến nhà cậu ấy và tụi tôi nhất trí rằng mấy đôi ấy... ông biết đấy, người ta muốn đi đôi giày hoàn hảo đến dạ tiệc tốt nghiệp mà. Thế nên Lacey sẽ hoàn lại đôi đã mua, rồi tụi tôi sẽ đến tiệm Burdines và sẽ–”
“Ben này,” tôi ngắt lời nó.
“Sao cơ?”
“Tôi không muốn nhai mãi chuyện giày đi dạ tiệc của Lacey, ông tướng ạ. Và tôi sẽ nói ngay tại sao: tôi có thứ này khiến tôi thực sự không hứng thú gì với giày nhảy cả. Đó là một cái tờ-rym.” “Thật ra tôi căng thẳng và không tài nào không nghĩ rằng tôi thực sự thích Lacey, không phải chỉ theo kiểu cô-nàng-nóng-bỏng-sánh-đôi-tới-dạ-tiệc, mà quả là cậu-ấy-sao-mà-hay-thế-và-mình-khoái-dính-lấy cậu-ấy cơ. Và xem chừng, có lẽ tôi và Lacey sẽ cùng tới dạ tiệc, và hai đứa, chà, sẽ mi nhau giữa sàn nhảy, rồi tất cả chúng nó, trời đất quỉ thần ơi, ông biết mà, mọi thứ nhố nhăng chúng nó nghĩ về tôi sẽ bị quẳng qua cửa sổ hết–”
“Ben ơi,” tôi nói. “Thôi màn lảm nhảm xuẩn này đi, rồi ông sẽ ổn cả thôi.” Nó liên tu bất tận thêm một lúc nữa, nhưng rút cục tôi cũng đặt được điện thoại xuống.
Tôi nằm xuống và bắt đầu cảm thấy hơi nản vì buổi dạ tiệc. Tôi đã không dung túng bất cứ thể loại buồn rầu sầu thảm nào trước thực tế rằng tôi sẽ không đến dạ tiệc, nhưng–một cách ngốc nghếch và đáng xấu hổ–tôi đã mơ tưởng tìm được Margo, đưa cô ấy về nhà cùng tôi, vừa kịp đi dự dạ tiệc, như kiểu khuya ngày thứ Bảy chẳng hạn. Rồi hai đứa sẽ sóng bước vào sảnh khiêu vũ Hilton, mặc quần jeans và áo phông
te tua. Và chúng tôi sẽ vừa kịp điệu nhảy cuối cùng, hai đứa sẽ nhảy cùng nhau trong khi mọi người chỉ trỏ và trầm trồ vì Margo đã trở lại. Cuối cùng tôi và cô ấy sẽ uyển chuyển nhảy fox-trot ra khỏi đó, rồi đi kiếm kem ở hiệu Friendly’s. Thế nên đúng vậy, cũng giống Ben, tôi đã thầm ấp ủ những tưởng tượng kì diệu về buổi dạ tiệc khôi hài đó. Nhưng ít ra tôi không làm toáng lên như thế.
Có những lúc Ben đích thị là thằng hâm chỉ biết có mình, và tôi đã phải tự nhắc nhở bản thân tại sao tôi vẫn khoái nó. Nếu không vướng khúc mắc gì, thỉnh thoảng nó có những sáng kiến táo bạo ra trò. Suy luận về khung cửa của nó chẳng hạn. Dù không trực tiếp có hiệu quả, nhưng đó vẫn là một ý tưởng xuất sắc. Cơ mà rõ ràng là Margo đã chủ ý muốn nói gì đó khác với tôi.
Với tôi.
Manh mối là của tôi. Những cánh cửa là của tôi!
Muốn ra ga-ra, tôi phải đi qua phòng khách, nơi bố mẹ đang ngồi xem ti-vi. “Xem không con?” mẹ hỏi tôi. “Vụ này sắp bể rồi.” Đó là một trong những chương trình thể loại hình sự, kiểu đi-tìm-hung-thủ. “Không ạ,” tôi đáp, chạy ù từ phòng khách qua bếp, vào ga-ra. Tôi tìm được cái tua-vít đầu bẹt to nhất, giắt nó vào cạp quần soóc ka-ki, kéo thắt lưng cho chặt. Tôi vớ đại một cái bánh qui trong bếp rồi ngược qua phòng khách về phòng mình, bước đi hơi có chút kì kì gượng gạo. Trong khi bố mẹ chăm chú theo dõi bí mật vụ án trên ti-vi được bật mí, tôi lặng lẽ tháo ba cái đinh khỏi bản lề cửa phòng mình. Khi cái cuối cùng trật ra, cánh cửa kêu “rắc” một tiếng và lỏng ra. Tôi đẩy tới đẩy lui cánh cửa quanh gờ tường bằng một tay, và khi đẩy như vậy, tôi thấy một mẩu giấy nhỏ xíu–cỡ móng tay cái của tôi–rơi từ bản lề trên cùng xuống. Đúng kiểu Margo rồi nhé. Tại sao phải giấu thứ gì đó trong phòng cô ấy trong khi cô ấy có thể giấu ngay trong phòng tôi? Không biết cô ấy đã hành động lúc nào, làm thế nào lại vào được nhỉ. Tôi không thể nhịn được mỉm cười.
Đó là một mẩu xé từ tờ Người bảo vệ Orlando ra, nửa xén thẳng, nửa nham nhở. Tôi biết đó là tờ Người bảo vệ vì ở góc xé có mấy chữ “vệ Orlando 6 tháng Năm, 2.” Ngày Margo bỏ đi. Rõ ràng đây là thông điệp từ cô ấy. Tôi nhận ra chữ viết tay của Margo: 8328 đại Lộ bartlesville.
Tôi không thể lắp cửa mà không nện đinh trở lại chỗ cũ bằng tua-vít, như thế ắt đánh động bố mẹ. Thế nên tôi chỉ cài cánh cửa vào bản lề và cứ để ngỏ. Tôi thả mấy cái đinh vào túi, đến máy tính dò địa chỉ 8328 Đại lộ Bartlesville trên bản đồ. Tôi chưa từng nghe nhắc đến nơi này.
Chỗ đó cách đây ba mươi tư phẩy sáu dặm, ở cuối Colonial Drive và gần sang thành phố Christmas, bang Floria. Khi tôi phóng to ảnh chụp tòa nhà từ vệ tinh, nó trông như một hình chữ nhật đen, đằng trước màu bàng bạc buồn buồn, đằng sau là cỏ. Một căn nhà di động chăng? Khó có thể hình dung được tỉ lệ vì xung quanh lúp xúp cây cối.
Tôi gọi điện cho Ben và kể lại. “Thế là tôi đúng nhá!” nó đắc thắng. “Phải kể ngay với Lacey mới được, vì cậu ấy cũng tuyệt đối tin rằng đó là một suy luận xác đáng.”
Tôi phớt lờ bình luận về Lacey. “Chắc tôi sẽ đi xem sao,” tôi nói.
“Ái chà, ừa, tất nhiên sẽ đi chứ. Tôi cũng đi. Sáng Chủ nhật xuất phát nhé. Vừa tiệc tưng bừng tối hôm trước xong thì chắc cũng bơ phờ, nhưng kệ.”
“Không, ý tôi là tôi sẽ đi ngay tối nay,” tôi nói.
“Trời đã tối rồi người anh em ạ. Ông không thể đến một tòa nhà xa lạ với một địa chỉ bí hiểm trong lúc tối lửa tắt đèn được. Ông chưa xem phim kinh dị bao giờ sao?”
“Có khả năng Margo đang ở đó,” tôi nói.
“Ừa, cũng có khả năng một thứ quái vật chỉ thích chén tụy của giai trẻ đang ở đó nữa,” Ben thao thao. “Lạy Chúa, ít nhất hãy đợi đến mai, dù sau giờ tập nhạc tôi phải đặt hoa cài áo cho Lacey, và rồi tôi còn muốn ở nhà phòng trường hợp cậu ấy nhắn tin, vì dạo này bọn tôi nhắn tin nhiều vô thiên–”
Tôi ngắt lời Ben. “Không, đêm nay. Tôi muốn thấy Margo.” Tôi cảm thấy vòng tròn đang hẹp lại. Trong một tiếng đồng hồ nữa, nếu nhanh chân, có thể tôi sẽ được thấy cô ấy.
“Thôi đi bồ tèo, tôi không để ông mò đường đến một địa chỉ mơ hồ trong lúc đêm hôm khuya khoắt đâu. Lằng nhằng nữa là tôi lấy kìm chích điện cho ông một phát ngay mông đó.”
“Được rồi, sáng mai vậy,” tôi nói, gần như với chính mình. “Sáng mai sẽ đi.” Dù sao tôi cũng oải cái thành tích chuyên cần hoàn hảo rồi. Ben không nói gì. Tôi nghe thấy tiếng nó huýt gió qua răng cửa.
“Tôi thực sự cảm thấy một chứng bệnh gì đó đang chớm đến,” nó nói. “Sốt. Ho. Đau. Mỏi.” Tôi mỉm cười. Sau khi đặt máy, tôi gọi tiếp cho Radar.
“Tôi đang dở với Ben ở một đường dây khác,” Radar nói. “Để tôi gọi lại cho.”
Một phút sau Radar gọi lại. Tôi chưa kịp chào hỏi gì thì nó đã vào đề, “Q ơi, tôi bị chứng đau nửa đầu trầm kha. Ngày mai không cách gì tôi có thể đi học được.” Tôi cười ngất.
Gác điện thoại, tôi cởi bớt quần áo, chỉ còn áo phông và quần cộc. Tôi đổ rác trong thùng vào hộc bàn, và đặt thùng rác cạnh giường. Tôi đặt chuông báo thức vào thời điểm không chút thánh thiện nào, sáu giờ sáng. Mấy tiếng tiếp theo tôi cố công vô ích vì không tài nào ngủ được.
8.
S
áng hôm sau mẹ vào phòng tôi và bảo, “Hôm qua con còn chẳng buồn đóng cửa phòng nữa hả sâu ngủ?” Tôi mở mắt đáp, “Bụng con khó chịu quá mẹ,” và nhích người ra phía cái thùng rác giờ đang chứa đám ói của tôi. “Quentin! Ôi trời ơi! Con thấy khó chịu từ khi nào?”
“Từ khoảng sáu giờ ạ,” tôi đáp, đúng thế thật.
“Sao không gọi bố mẹ?”
“Con mệt quá ạ,” tôi đáp, lại đúng thế thật.
“Khó chịu quá nên con không ngủ được à?” mẹ rối rít.
“Vâng,” điều này thì không đúng. Tôi thức dậy vì đồng hồ réo sáu giờ, rồi tôi rón rén vào bếp, ăn một thanh ngũ cốc và uống ít nước cam. Mười phút sau, tôi móc hai ngón tay vào họng. Tôi không muốn làm vậy từ đêm vì sợ món ói bốc mùi khắp phòng cả đêm. Màn nôn ọe khá rùng rợn nhưng cũng qua nhanh thôi.
Mẹ mang thùng rác đi, tôi nghe thấy tiếng mẹ cọ rửa nó trong bếp. Mẹ quay lại với cái thùng sạch, môi bặm lại đầy lo lắng. “Thế này có lẽ mẹ nên nghỉ một hôm–” mẹ chưa nói hết tôi đã lập tức can luôn. “Thực sự con không sao đâu ạ. Chỉ hơi muốn ói. Chắc con ăn phải cái gì đấy.”
“Con chắc là không sao chứ?”
“Nếu thấy khó chịu hơn thì con sẽ gọi điện ạ,” tôi nói. Mẹ hôn lên trán tôi, lớp son của mẹ dinh dính trên da tôi. Thực ra tôi không ốm đau gì sất, nhưng gì thì gì, mẹ đã khiến tôi thấy khá hơn. “Con muốn mẹ đóng cửa phòng không?” mẹ hỏi, một tay đặt lên cửa. Cánh cửa vẫn chỉ đang cài hờ vào bản lề.
“Đừng, đừng, mẹ đừng đóng ạ,” tôi lắp bắp, chắc tại căng thẳng quá.
“Được rồi,” mẹ nói. “Trên đường đi làm mẹ sẽ gọi điện đến trường cho con. Cần gì thì con báo với mẹ ngay nghe chưa? Bất cứ cái gì. Hoặc nếu muốn mẹ về nhé. Mới cả gọi cho bố bất cứ lúc nào cũng được. Chiều mẹ sẽ gọi về xem tình hình thế nào nhé.”
Tôi gật đầu rồi kéo chăn kín tới tận cằm. Dù cái thùng rác đã sạch, nhưng tôi vẫn ngửi thấy mùi ói thoang thoảng lẫn trong mùi xà phòng, khiến tôi nhớ lại màn nôn ọe trước đấy, và chả hiểu sao khiến tôi muốn ói thêm. Nhưng tôi chỉ thở từ từ, thậm chí há miệng ra thở cho đến khi nghe thấy tiếng chiếc Chrysler lùi xa khỏi nhà. Đồng hồ chỉ 7:32. Ít nhất lúc này, tôi nghĩ mình sẽ đúng giờ.
Không phải đúng giờ vào lớp, phải thừa nhận là vậy. Nhưng vẫn là đúng giờ.
Tôi tắm, đánh răng, tròng vào người cái quần jeans tối màu và áo phông đen tuyền, nhét mẩu báo của Margo vào túi quần. Tôi đóng đinh lại vào bản lề, rồi chuẩn bị lên đường. Tôi không chắc nên bỏ những gì vào ba-lô, nhưng có cái tua-vít để tháo thanh dọc khung cửa, bản in tấm bản đồ chụp từ vệ tinh, những hướng dẫn, chai nước, và cuốn thơ Whitman, phòng khi Margo ở đó. Tôi muốn hỏi cô ấy về tập thơ đó.
Ben và Radar có mặt lúc tám giờ đúng, không sớm không muộn một tích tắc nào. Tôi ngồi ở ghế sau. Hai thằng đang hát ông ổng theo một bài của ban nhạc Mountain Goats.
Ben quay xuống và chìa nắm tay ra với tôi. Tôi khẽ đấm lại, dù không thích kiểu chào hỏi đó. “Q!” nó hét toáng át tiếng nhạc. “Thấy trò này bá cháy đến chừng nào?”
Tôi hiểu chính xác Ben muốn nói gì: nghe nhạc của Mountain Goats cùng các chiến hữu trong một cái xe đang bon bon vào một sáng thứ Tư, tháng Năm, trên cung đường dẫn đến Margo, và bất cứ giải thưởng tuyệt-như-Margo nào nếu tìm thấy cô ấy. “Bá cháy hơn món giải tích,” tôi đáp. Nhạc to rộn rã nên khó nói chuyện với nhau. Ra khỏi khu Jefferson Park, chúng tôi hạ một tấm kính cửa sổ còn hoạt động xuống để thiên hạ biết rằng chúng tôi nghe nhạc có gu ra sao.
Bọn tôi chạy dọc Colonial Drive, qua những rạp chiếu phim và hiệu sách mà tôi đã ghé qua ghé lại cả đời mình.
Nhưng chuyến đi này khác và khoái hơn nhiều, vì hành trình diễn ra trùng giờ môn giải tích, vì đồng hành cùng Ben và Radar, vì chúng tôi đang trên đường tới nơi tôi tin mình sẽ tìm thấy Margo. Và rút cục, sau hai chục dặm, thành phố Orlando nhường chỗ cho những trảng cam cuối cùng và những nông trang còn ban sơ–mặt đất bằng phẳng trải ra ngút ngàn, dày lên dưới lớp cây bụi, thiết lan bám trên những cành sồi, tự tại buông xuống trong cái nóng không một gợn gió. Đây là Florida mà tôi từng trải qua những đêm đuổi bắt con ta-tu, bị muỗi đốt chi chít, từ hồi còn là cậu nhóc hướng đạo sinh. Trên đường lúc này toàn xe bán tải, đi chừng một dặm lại gặp một tiểu khu nằm cách đường cao tốc–những phố nhỏ ngoằn ngoèo chẳng vì lí do gì, chạy quanh những căn nhà mọc lên giữa đồng không mông quạnh, như một ngọn núi lửa bọc chất dẻo vậy.
Đi tiếp, chúng tôi chạy xe qua một bảng hiệu gỗ cũ kĩ đề GROVEPOINT ACRES. Một dải đường đen nứt nẻ, chỉ kéo dài vài trăm mét rồi cụt vào một bãi đất xám, chớm báo hiệu rằng Grovepoint Acres là một thứ như mẹ tôi vẫn gọi là “khu đô thị ma”–một tiểu khu bị bỏ hoang trước khi hoàn thành thi công xây dựng. Trước đây mấy lần đi trên đường bố mẹ đã chỉ cho tôi thấy những khu đô thị ma kiểu này, nhưng tôi chưa từng thấy nơi nào hoang vắng tiêu điều đến thế.
Chúng tôi đi quá Grovepoint Acres khoảng năm dặm thì Radar vặn nhỏ nhạc lại và thông báo, “Tầm một dặm nữa thì đến nhé.”
Tôi hít một hơi thật sâu. Cơn hứng khởi trốn học đi chơi đã xẹp dần. Nơi này chẳng có vẻ gì là chỗ Margo sẽ trú ẩn, hoặc thậm chí ghé qua. Khác một trời một vực thành phố New York. Đây là phần Florida mà người ta chỉ bay qua, tự hỏi sao có thể tá túc ở mảnh bán đảo này. Tôi chăm chăm nhìn mặt đường nhựa trống trơn, cái nóng như kéo nhòe thị giác. Phía trước, một vệt cửa hàng trông như khu mua sắm dập dờn trong ánh nắng xa xa.
“Đằng kia phải không?” tôi hỏi, rướn lên chỉ.
“Hẳn rồi,” Radar đáp.
Ben ấn nút điều khiển dàn âm thanh, và chúng tôi chìm trong yên lặng khi Ben tấp xe vào bãi đỗ từ lâu đã bị lớp đất cát xám ngoét chiếm dụng. Đã từng có biển hiệu cho bốn cửa hàng ở mặt tiền này. Một cây cột gỉ sét, cao chừng hai mét rưỡi, được cắm bên vệ đường. Nhưng biển hiệu đã tiêu đời từ lâu, bị trận bão nào đó cuốn đi hoặc do cũ kĩ tích tụ. Dãy cửa hàng trụ được khá khẩm hơn: khu nhà một tầng, mái bằng, lác đác trơ ra những khối bê-tông thô. Những dải sơn bong tróc nhăn nhúm bám trên tường, như đám côn trùng ráng bám vào tổ. Cặn nước vẽ những bức tranh trừu tượng màu nâu lên các ô cửa sổ. Cửa sổ được ráp lại từ những tấm gỗ ép. Một ý nghĩ khủng khiếp bung lên trong đầu tôi, thứ suy nghĩ không thể nhốt lại được một khi nó đã len vào bầu khí quyển nhận thức: dường như đây không phải nơi người ta đến để sống. Đây là nơi người ta đến để chết.
Xe vừa dừng lại, mũi và miệng tôi đã ngập trong thứ mùi khăn khẳn của chết chóc. Tôi phải nuốt ngược cơn ói đang dâng lên lờm lợm và đau nhói nơi cuống họng. Chỉ đến lúc này, sau tất cả những thời gian đã mất, tôi mới nhận ra mình đã nhầm tai hại đến thế nào về trò chơi của Margo và phần thưởng cho người chiến thắng.
Tôi ra khỏi xe, Ben đứng cạnh tôi và Radar cạnh nó. Tôi lập tức hiểu rằng chuyện này không vui chút nào, rằng tất cả không phải là hãy-chứng-minh-rằng-cậu-đủ-bản-lĩnh-chơi-với-tớ. Tôi nghe được tiếng Margo đêm đó khi chúng tôi lái xe lòng vòng Orlando. Tôi nghe được cô ấy nói với tôi, “Tớ không muốn đứa trẻ con nào tìm thấy tớ trong cảnh ruồi bâu kiến đậu vào một sáng thứ Bảy ở Công viên Jefferson đâu.” Không muốn bị trẻ con tìm thấy trong Công viên Jefferson không đồng nghĩa với không muốn chết.
Chẳng có gì cho thấy lâu nay còn có người ở đây, trừ cái mùi, thứ mùi chua chua nồng nồng bệnh bệnh bốc lên để giữ người sống tránh xa người chết. Tôi tự nhủ Margo không thể nào có mùi như thế, nhưng tất nhiên là có thể rồi. Tất cả chúng ta đều có thể bốc mùi như vậy. Tôi giơ cánh tay chặn ngang mũi để ngửi mùi mồ hôi và da mình, bất kể mùi gì trừ cái chết.
“MARGO ƠI?” Radar gọi. Một con chim nhại đậu trên ống máng hoen gỉ của tòa nhà, phun ra hai âm tiết đáp trả. “MARGO!” Radar lại gọi lớn. Không có gì. Radar đá sục một cú vào cát, ngao ngán rủa, “Chết tiệt.”
Đứng trước tòa nhà này, tôi hiểu được chút gì đó về nỗi sợ hãi. Tôi hiểu rằng đó không phải là ảo giác
đờ đẫn của người có lẽ muốn chuyện gì đó trọng đại xảy ra với mình, dù điều trọng đại đó thực khủng khiếp. Đó không phải là cảm giác ghê sợ khi thấy một người xa lạ bị chết, cũng không phải khoảnh khắc nghẹt thở khi nghe thấy tiếng súng rít lên từ nhà Becca Arrington. Không thể điều hòa bình ổn nó bằng bài tập thở. Nỗi sợ hãi này không có chút nào tương đồng với những sợ hãi tôi từng biết trước đó. Nó nằm ở nơi sâu nhất của mọi cảm xúc có thể có, thứ cảm giác theo chúng ta từ trước khi chúng ta tồn tại, trước khi khối nhà này tồn tại, trước cả khi trái đất tồn tại. Đó là nỗi sợ hãi đã đẩy cá khỏi đất khô mà tiến hóa buồng phổi, nỗi sợ hãi đã dạy chúng ta phải chạy, nỗi sợ hãi khiến chúng ta chôn cất những người đã qua đời.
Cái mùi ấy thít lấy tôi trong cơn hoảng loạn tuyệt vọng– hoảng loạn không phải như trong phổi tôi đã cạn sinh khí, mà như chính sinh quyển đã cạn khí. Tôi nghĩ có thể lí do tôi lo lắng hết phần lớn thời gian đời mình là vì tôi cố gắng tự chuẩn bị cho bản thân, rèn luyện cơ thể sẵn sàng chống lại nỗi sợ hãi đích thực khi nó tràn tới. Nhưng tôi không sẵn sàng.
“Nên đi thôi mấy bồ,” Ben lên tiếng. “Nên gọi cảnh sát hay làm gì đại khái thế.” Chúng tôi vẫn chưa nhìn nhau. Cả ba thằng vẫn chăm chăm nhìn tòa nhà, cái nơi bị bỏ hoang từ bao nhiêu lâu nay không có khả năng cất giấu bất cứ thứ gì trừ những xác chết.
“Không,” Radar kêu lên. “Không không không không không. Bọn mình sẽ gọi khi có gì đó để trình báo. Margo để lại địa chỉ này cho Q. Không phải cho cảnh sát. Chúng ta phải tìm cách vào trong đó.” “Vào trong đó?” Ben ngờ vực hỏi.
Tôi vỗ vỗ lên lưng Ben, và lần đầu tiên trong suốt cả ngày, ba đứa chúng tôi không nhìn về phía trước mà quay sang nhìn nhau. Như vậy còn có thể chịu đựng được. Khi tôi nhìn hai thằng bạn, có điều gì đó như mách bảo tôi rằng Margo không chết cho đến khi nào chúng tôi tìm ra cô ấy. “Đúng vậy, vào trong đó,” tôi nói.
Tôi không còn biết Margo là ai nữa, hay từng là ai, nhưng tôi cần tìm cô ấy.
9.
C
húng tôi đi ra phía sau tòa nhà và thấy bốn cánh cửa sắt bị khóa. Không có gì ngoài đất hoang, vài đám cọ mọc lác đác trên mênh mông cỏ nửa vàng nửa xanh. Cái mùi khăn khẳn ở đây còn nồng nặc hơn, tôi chờn chợn không muốn đi tiếp. Ben và Radar ở ngay phía sau, bên phải và bên trái tôi. Ba thằng
làm thành đội hình tam giác, bước đi chầm chậm, căng mắt quan sát xung quanh. “Một con ra-cun!” Ben hét toáng lên. “Ôi, đội ơn Chúa, một con ra-cun, trời đất quỉ thần ơi!” Radar và tôi liền đi xa khỏi tòa nhà, lại chỗ Ben đang đứng bên một rãnh thoát nước nông. Một con ra-cun to đùng, lông dày bết, nằm chết trương phềnh, không có vết thương nào rõ rệt, lớp lông nó đang rã ra, lộ một dẻ xương sườn. Radar quay đi và hộc lên, nhưng không ói. Tôi cúi xuống, vòng tay giữ hai bả vai nó. Khi nhịp thở trở lại bình thường, Radar nói, “Tôi mừng kinh khủng khiếp vì đó là xác một con ra-cun kinh khủng khiếp.”
Dẫu vậy, tôi vẫn không thể hình dung Margo còn sống ở đây. Tôi chợt nhận ra rằng những câu thơ của Whitman có thể là lời nhắn tuyệt mệnh. Tôi nghĩ đến những dòng cô ấy đã đánh dấu: “Và chết chẳng giống những gì người ta huyễn tưởng, và thêm phước phận.”
“Ta trả mình về đất, nuôi những thân cỏ ta yêu, / Nếu ngươi muốn ta, hãy tìm ta dưới đế ủng.” Trong tích tắc, tôi thấy lóe lên chút hi vọng khi nghĩ đến câu cuối bài thơ: “Ở đâu đó, ta dừng lại đợi ngươi.” Nhưng rồi tôi nghĩ ta không nhất thiết phải là một con người. Ta cũng có thể là một cái xác.
Radar đã tránh xa khỏi con ra-cun, đang giật giật tay nắm của một trong bốn cánh cửa sắt bị khóa. Tôi cảm thấy muốn cầu nguyện cho những gì đã khuất–tụng một khúc Kaddish cho con ra-cun này–nhưng thậm chí tôi còn không biết phải làm thế nào. Tôi thương tiếc con vật ấy, và lấy làm tiếc vì đã thầm mừng khi thấy nó như vậy.
“Cần lực mạnh hơn,” Radar gọi. “Lại giúp tôi đi.”
Ben và tôi cùng vòng tay qua hông Radar và kéo về phía sau. Nó chống chân lên tường để có thêm điểm tựa khi kéo, rồi thì cả hai thằng ngã huỵch xuống tôi. Lưng áo đẫm mồ hôi của Radar đè lên mặt tôi. Trong thoáng chốc tôi mừng rơn, tưởng đã vào được rồi. Nhưng rồi tôi thấy Radar cầm cái tay nắm cửa. Tôi vội nhổm dậy nhìn cánh cửa. Vẫn đóng im ỉm.
“Cái thứ tay nắm cửa bốn chục năm tuổi thọ đáng nguyền rủa này!” Radar rủa. Tôi chưa từng thấy nó nói năng kiểu đó bao giờ.
“Được rồi mà,” tôi nói. “Có cách. Phải có cách chứ.”
Chúng tôi vòng lại mặt trước tòa nhà. Không cửa ra vào, không lỗ hổng, không có vẻ gì là có đường ngầm. Nhưng tôi cần vào trong. Ben và Radar cố gắng nạy những mảng gỗ ép khỏi cửa sổ, nhưng tất cả đều đã được đóng đinh cố định. Radar đá tấm gỗ mà không ăn thua. Ben quay lại nói với tôi, “Không có kính sau lớp gỗ ép,” và nó bắt đầu giật lùi, đôi giày thể thao đá vung cát lên theo mỗi bước chân.
Tôi chưa hiểu gì, nhìn Ben dò hỏi. “Tôi sẽ công phá đám gỗ ép đó,” nó giải thích. “Ông không làm được đâu.” Ben thấp bé nhất trong ba đứa. Nếu cần người công phá những cửa sổ bịt bằng gỗ ép ấy, thì đó nên là tôi.
Ben nắm tay lại thành nắm đấm rồi duỗi các ngón ra. Khi tôi tiến lại, nó bắt đầu kể. “Hồi tôi học lớp ba, mẹ tìm cách để tôi không bị bắt nạt nên cho tôi học lớp võ taekwondo. Hình như tôi chỉ đến lớp có ba buổi, và chỉ học được mỗi một chiêu, nhưng thỉnh thoảng cũng hữu hiệu ra phết: bọn nhóc tì xem sư phụ taekwondo đấm xuyên một tấm gỗ dày, đứa nào cũng trầm trồ hỏi sao thầy làm được, và thầy đã nói với cả lớp rằng nếu ta di chuyển như thể tay ta sẽ xuyên qua súc gỗ, và nếu ta tin rằng tay ta sẽ xuyên qua được, thì ắt nó xuyên được.”
Tôi toan phản bác thứ lô-gíc ăn dỗ trẻ con ấy, thì Ben đã xuất phát, lao vù qua tôi như một vệt nhòe. Càng đến gần tấm gỗ nó càng tăng tốc, và cuối cùng không chút nao núng, nó nhảy lên trong giây cuối
cùng, xoay nghiêng người–giơ vai ra hứng chịu va đập–rồi đâm sầm vào lớp gỗ. Tôi nửa mong nó sẽ phá tung tấm ván và để lại một lỗ hổng hình-Ben, như trong phim hoạt hình vậy. Nhưng nó bật khỏi lớp gỗ, ngã bệt xuống vạt cỏ sáng màu, trong một biển cát bụi tung bay. Ben lăn nghiêng người, xoa xoa bả vai. “Vỡ rồi,” nó tuyên bố.
Tôi nghĩ Ben muốn nói vai nó vỡ rồi nên chạy vội lại, nhưng rồi nó đứng lên, và tôi thấy một vết nứt cao-bằng-Ben trên tấm gỗ ép. Tôi bắt đầu đá vào đó, vết nứt toác dọc ra, rồi Radar và tôi lách được ngón tay qua vết nứt và bắt đầu giật mạnh. Tôi nhíu mày để mồ hôi không chảy xuống làm cay mắt, ra sức kéo ra đẩy vào cho vết nứt đó loang rộng ra. Radar và tôi cùng nghiến răng làm, cho đến khi Radar phải nghỉ một lát lấy sức và Ben thế chỗ. Cuối cùng, ba thằng khoét được một lỗ kha khá trên tấm gỗ ép để vào được bên trong khu mua sắm mini này. Tôi trèo vào, tù mù đặt chân lên thứ gì đó như là một đống giấy tờ.
Chút ánh sáng lọt được vào bên trong qua cái lỗ bọn tôi vừa khoét, nhưng tôi vẫn không thể hình dung được phương hướng, cũng không nhận biết được liệu phía trên có trần hay không. Không khí trong này ngột ngạt và bức bối đến mức hít vào hay thở ra cũng na ná như nhau.
Tôi quay lại và cằm tôi va phải trán Ben. Tôi thì thào, dù chẳng có lí do gì phải thì thào như vậy. “Ông có cái–”
“Không,” Ben thì thầm lại trước khi tôi nói hết câu.
“Radar ơi, ông có mang đèn pin không?”
Tôi nghe thấy tiếng Radar trèo vào. “Có một cái trên dây đeo chìa khóa của tôi, nhưng không sáng lắm đâu.”
Ánh sáng rọi đến, tôi vẫn chẳng thấy gì rõ rệt, nhưng có thể nói được rằng chúng tôi đang ở trong một căn phòng rộng, đầy một mê hồn trận những giá sắt. Đống giấy trên sàn là từ lịch xé hàng ngày, những tờ lịch rải rác rơi khắp phòng, tất cả đều đã ố vàng và bị chuột gặm. Tôi tự hỏi không biết nơi này có từng là một hiệu sách nhỏ hay không, dù hàng thập kỉ đã trôi qua và trên giá không có gì ngoài bụi.
Chúng tôi đi hàng một sau Radar. Tôi nghe thấy có tiếng cót két trên đầu, cả bọn liền dừng lại. Cố gắng nốt trôi cảm giác hoảng loạn, tôi nghe được từng nhịp thở của Radar và Ben, từng bước chân loạt soạt. Tôi muốn ra khỏi chỗ này, nhưng đó có thể là Margo ra hiệu cho tôi. Đó cũng có thể là những con nghiện đầy ranh ma.
“Chỉ là tòa nhà này tự lắng lại sau màn rung rinh vừa rồi thôi mà,” Radar thì thầm, nhưng nó có vẻ không quả quyết như thường lệ. Tôi đứng không nhúc nhích nổi. Lát sau, tôi nghe thấy tiếng Ben. “Lần cuối sợ đến mức này, tôi đã quẩn ra tiều.”
“Lần cuối sợ đến mức này,” Radar góp chuyện, “tôi thực sự đã phải đối mặt với Chúa Tể Hắc Ám vì an nguy của thế giới phù thủy.”
Tôi nỗ lực một cách yếu ớt. “Lần cuối sợ đến mức này, tôi đã phải ngủ trong phòng mẹ.” Ben khúc khích. “Q này, nếu tôi là ông, tôi sẽ muốn sợ đến mức này Mỗi. Đêm.” Tôi chẳng có tâm trạng nào cười, nhưng tiếng cười của hai thằng khiến căn phòng có cảm giác an toàn
hơn, và chúng tôi bắt đầu khám phá. Ba đứa đi qua từng dãy giá sắt, chẳng thấy gì ngoài vài số tạp chí Reader’s Digest từ những năm 1970 trên sàn. Một lúc sau, mắt bắt đầu quen với bóng tối, và trong ánh sáng mờ mờ, chúng tôi bắt đầu đi về những hướng khác nhau, nhanh chậm khác nhau.
“Không ai rời phòng này cho đến khi tất cả cùng ra nhé,” tôi thì thầm giao hẹn, và hai thằng kia thì thầm đáp đồng ý. Tôi đến trước một vách tường ngăn căn phòng và phát hiện ra bằng chứng đầu tiên cho thấy có người đã vào đây sau khi tòa nhà bị bỏ hoang. Một lỗ bán nguyệt nham nhở, cao chừng ngang hông, được đục xuyên qua tường. Hai từ LỖ QUỈ được phun bằng sơn màu da cam ở phía trên, và một mũi tên tận tình chỉ xuống cái lỗ bên dưới. “Này,” Radar gọi, to đến mức tiếng như vỡ ra trong chốc lát. Tôi đi về phía tiếng nó và thấy Radar đang đứng trước một mảng tường, đèn pin rọi lên một Lỗ Quỉ nữa. Chữ graffiti không đặc biệt giống kiểu của Margo, nhưng khó mà nói chắc được. Tôi mới thấy cô ấy phun sơn viết mỗi một chữ cái.
Radar chiếu đèn qua cái lỗ ấy trong khi tôi khom người chui qua đầu tiên. Căn phòng bên này hoàn toàn trống không, trừ tấm thảm cuộn lại trong góc. Khi đèn chiếu xuống sàn, tôi thấy những vệt keo còn trên nền bê-tông, chỗ trước ắt là có tấm thảm. Nhìn qua phòng, tôi thấy thêm một lỗ thông trên tường nữa, lần
này không có chữ viết.
Tôi chui qua Lỗ Quỉ đó vào một căn phòng có hàng dãy móc treo quần áo, các cọc thép không gỉ vẫn kiên cố giữa những mảng tường loang lổ ngấm nước dột. Phòng này sáng hơn, mất một lúc tôi mới nhận ra đó là do có vài lỗ thủng trên mái–giấy phết hắc ín rã xuống, và tôi thấy được những chỗ trần mái tì vào các rầm sắt giờ trơ ra.
“Cửa hàng lưu niệm,” Ben thì thào trước mặt tôi, và tôi lập tức nhận ra nó nhận xét đúng. Ở giữa phòng có năm tủ trưng bày được kê thành một hình ngũ giác. Lớp kính từng ngăn cách khách du lịch và những món đồ lưu niệm vô bổ đã vỡ gần hết, những mảnh thủy tinh vương vãi quanh tủ. Lớp sơn xám bong khỏi tường thành những họa tiết ngộ ngộ vui mắt, từng đa giác sơn nứt nẻ tạc thành hình một bông tuyết tàn tạ.
Nhưng kì lạ là vẫn có chút dấu tích của buôn bán: một cái điện thoại chuột Mickey, hồi bé tôi từng thấy kiểu như vậy. Mấy cái áo phông ORLANDO NGẬP NẮNG bị gián nhấm nhưng còn nếp gấp và vẫn được trưng bày, lẫn với mảnh thủy tinh vỡ. Phía dưới tủ kính, Radar thấy một hộp đầy bản đồ và sách lữ hành, quảng cáo Gator World, Crystal Gardens và những căn nhà cười giờ không còn hoạt động nữa. Ben vẫy tôi, lặng lẽ trỏ một món lưu niệm hình cá sấu bằng thủy tinh xanh, nằm đơn độc trong một tủ trưng bày, gần như đã chôn vùi trong bụi. Đây chính là giá trị của các món đồ lưu niệm, tôi trộm nghĩ: ta chẳng thể nào vứt chúng đi.
Chúng tôi đi ngược lại, qua căn phòng trống và phòng có nhiều giá sắt, chui qua Lỗ Quỉ cuối cùng. Gian này trông như một văn phòng, có điều không có máy vi tính, và dường như nó bị bỏ lại chóng vánh, như thể các nhân viên bị đột ngột bắt cóc vào vũ trụ hay đại loại thế. Hai mươi bàn làm việc kê thành bốn dãy. Đây đó còn mấy cái bút trên mặt bàn, và bàn nào cũng còn lại những tờ lịch tường to chảng. Các tờ lịch nhất nhất dừng lại ở tháng Hai năm 1986. Ben đẩy một cái ghế bọc vải, cái ghế quay tròn, nhịp nhàng kêu ken két. Hàng ngàn tập giấy ghi chú quảng cáo Công Ti Thế Chấp Martin-Gale được chất cạnh một bàn, làm thành một kim tự tháp xiêu vẹo. Những cái hộp không đậy nắp, đựng hàng tập giấy từ những máy in kim cổ lỗ sĩ, thống kê thu chi của Công Ti Thế Chấp MartinGale. Trên một bàn khác, ai đó đã xếp những cuốn quảng cáo các tiểu khu thành hình ngôi nhà một tầng. Tôi xô đổ các cuốn quảng cáo, thầm mong chúng giữ manh mối gì đó, nhưng không có.
Radar đưa ngón tay qua đống giấy tờ, khẽ nói, “Không có gì sau năm 1986 cả.” Tôi bắt đầu xem các hộc bàn. Có tăm bông ngoáy tai và ghim cài cra-vát. Bút và bút chì từng tá trong hộp bìa ọp ẹp, chữ in và kiểu dáng cũ kĩ. Khăn ăn. Một đôi găng tay chơi golf.
“Hai ông có thấy gì chứng tỏ có người đã ở đây trong khoảng, xem nào, hai chục năm đổ lại không?” tôi hỏi. “Không có gì trừ các Lỗ Quỉ,” Ben đáp. Nơi này là một hầm mộ, cái gì cũng nằm yên dưới bụi. “Vậy sao Margo lại dẫn chúng ta đến đây?” Radar hỏi. Bây giờ chúng tôi đã nói được bình thường, không còn thì thào nữa.
“Không biết,” tôi đáp. Rõ ràng là Margo không ở đây.
“Có mấy chỗ ít bụi hơn,” Radar nói. “Một hình chữ nhật không chút bụi bặm trong căn phòng trống không, như thể cái gì đó đã được chuyển đi. Nhưng tôi không biết.”
“Và có mấy chỗ sơn,” Ben góp thêm. Ben chỉ, ánh đèn của Radar theo đó rọi lên một mảng ở góc xa trên tường văn phòng này. Mảng tường được phủ sơn lót, như thể ai đó nảy ra ý tưởng thiết kế lại nơi này, nhưng rồi bỏ dở dự án sau khoảng nửa tiếng đồng hồ. Tôi tiến tới mảng tường đó, và gần lại, tôi thấy có hình graffiti màu đỏ dưới lớp sơn trắng. Nhưng chỉ thấy được lấp ló màu đỏ như rỉ ra qua mảng trắng–gần như không hiểu được đó là gì. Một thùng sơn lót ở ngay sát tường, còn mở nắp. Tôi quì xuống và nhúng ngón tay vào sơn. Mặt sơn đã cứng lại, nhưng dễ dàng rạn ra, và khi rút lên ngón tay tôi đã được hoàn toàn phủ trắng. Khi những giọt sơn nhỏ từ ngón tay tôi xuống, tôi không nói gì vì chúng tôi đều có chung kết luận: rút cục gần đây đã có ai đó đến chỗ này. Tiếng cót két lại vang lên đâu đó trong tòa nhà, Radar đánh rơi đèn pin.
“Gớm quá,” nó lầm bầm rủa.
“Xem này,” Ben thốt lên. Đèn pin vẫn ở trên sàn, tôi lùi lại để nhặt nó lên, nhưng đúng lúc đó tôi thấy Ben đang chỉ. Nó chỉ vào mảng tường. Trò chơi của ánh sáng phản chiếu đã phô bày những con chữ
graffiti, đẩy chúng nổi lên khỏi lớp sơn trắng phủ bên trên, những nét chữ rờn rợn tôi nhận ra ngay là của Margo.
SẼ ĐẾN NHỮNG THÀNH PHỐ GIẤY
VÀ SẼ KHÔNG BAO GIỜ TRỞ LẠI
Tôi nhặt đèn pin lên và chiếu thẳng vào lớp sơn, thông điệp đó lập tức biến mất. Nhưng khi chiếu đèn lên những mảnh tường khác trong phòng, tôi lại đọc được những con chữ ấy. “Quái quỉ,” Radar nói trong hơi thở.
Và giờ Ben lên tiếng, “Các bồ, chúng ta đi được chưa? Vì lần cuối sợ đến mức này... quỉ tha ma bắt, tôi sợ đứng tim gan rồi đây. Trò này chẳng vui vẻ gì sất.”
Trò này chẳng vui vẻ gì sất là cách gần nhất Ben có thể với tới nỗi kinh hoàng tôi đang cảm thấy, có lẽ vậy. Và đối với tôi như vậy là đủ gần rồi. Tôi bước nhanh về phía Lỗ Quỉ.
Có cảm giác những bức tường đang đóng lại sau chúng tôi.
B
10.
en và Radar thả tôi về nhà–hai thằng chịu cúp cua nhưng nhất định không bỏ tập nhạc. Tôi ngồi một mình rất lâu với “Tự khúc”. Dễ đến lần thứ mười tôi cố gắng đọc toàn bộ bài thơ từ đầu đến cuối, nhưng vấn đề là bài thơ dài chừng tám chục trang, vòng vo khó hiểu và lặp ý. Dù hiểu được từng từ riêng lẻ, nhưng gộp thành tổng thể thì tôi chịu không hiểu nổi. Cả khi biết có lẽ chỉ những phần được đánh dấu là quan trọng, tôi vẫn muốn tìm hiểu xem liệu đây có phải là kiểu thơ tuyệt mệnh không. Nhưng tôi vẫn không tài nào luận ra được.
Đọc được chục trang sách loạn cào cào, tôi thấy hoang mang đến mức quyết định gọi điện cho bác thám tử. Tôi moi được danh thiếp của bác ấy từ túi quần soóc đã lẳng vào giỏ quần áo bẩn. Bác ấy nhấc máy ở hồi chuông thứ hai.
“Warren nghe đây.”
“Hơ, dạ, con là Quentin Jacobsen, bạn của Margo Roth Spiegelman, bác nhớ con không ạ?” “Bác nhớ chứ con trai. Có chuyện gì thế?”
Tôi kể với bác ấy về những manh mối, khu mua sắm mini, về những thành phố giấy và Margo đã gọi Orlando là một thành phố giấy khi chúng tôi nhìn từ tòa nhà SunTrust xuống như thế nào, nhưng cô ấy đã không dùng số nhiều. Tôi kể lại chuyện Margo đã nói với tôi rằng cô ấy không muốn bị tìm thấy, cả chuyện hãy tìm cô ấy dưới những đế ủng. Bác ấy thậm chí không lên giọng với tôi rằng không được vào những khu nhà hoang, không hỏi tại sao tôi lại ở trong một tòa nhà bị bỏ hoang vào lúc 10 giờ sáng một ngày phải đến trường. Bác ấy chỉ đợi cho đến khi tôi nói xong rồi mới lên tiếng, “Chúa ơi, chàng trai, con gần như là một thám tử rồi đấy. Giờ con chỉ cần có thêm khẩu súng, linh cảm nghề nghiệp và ba bà vợ cũ nữa thôi. Vậy giả thuyết của con là gì?”
“Con lo là có thể Margo đã, ừm, con sợ có khi bạn ấy đã tự vẫn rồi.”
“Trong đầu bác luôn đinh ninh rằng cô bé chỉ bỏ đi thôi, con trai ạ. Bác hiểu suy luận của con, nhưng cũng nên nhớ rằng cô bé đã từng cư xử như vậy. Bác muốn nói đến những manh mối được để lại ấy mà. Tăng thêm kịch tính cho toàn bộ quá trình. Thật lòng mà nói, con trai ạ, nếu Margo muốn con tìm thấy nó– còn sống hay đã chết–thì rồi con sẽ tìm được thôi.”
“Nhưng bác không–”
“Con trai, điều không may là Margo đã là một người trưởng thành được pháp luật công nhận, với một ý chí tự do, con hiểu chứ? Bác khuyên con thế này nhé: hãy để con bé tự về. Bác muốn nói là rồi đến lúc nào đó, con sẽ thôi không nhìn lên trời nữa, hoặc một trong những ngày đó, con sẽ nhìn xuống và thấy rằng chính con cũng đã trôi đi.”
Tôi đặt máy xuống với một cảm giác khó chịu ở trong miệng–tôi nhận ra rằng chất thi sĩ của bác Warren sẽ không đưa tôi đến với Margo. Tôi miên man nghĩ đến những dòng cuối mà Margo đã gạch chân: “Ta trả mình về đất, nuôi những thân cỏ ta yêu, / Nếu ngươi muốn ta, hãy tìm ta dưới đế ủng.” Thứ cỏ ấy, Whitman đã viết trong những trang đầu tiên là “làn tóc mộ chí buông không buồn cắt.” Nhưng những ngôi mộ ở đâu? Những thành phố giấy ở đâu?
Tôi đăng nhập vào Toàn Thư Đủ Thứ xem trong đó có thông tin gì về “những thành phố giấy” mà tôi không biết không. Có một mục bài cực kì sâu sắc và hữu ích từ một vị tên truy cập là môngchồnhôi: “Thành Phố Giấy là một thành phố ở đó có một nhà máy giấy.” Đây là bất cập của Toàn Thư Đủ Thứ: những thứ Radar viết cực kì tỉ mỉ và tuyệt đối hữu ích; còn công trình thô sơ của môngchồnhôi chỉ khêu nhẹ vấn đề ra cho người ta thèm. Nhưng khi tìm rộng toàn bộ trên mạng, tôi thấy có khoảng bốn chục đầu mục khá thú vị, nằm tít phía dưới một diễn đàn về bất động sản ở bang Kansas.
Xem ra khu bất động sản Madison sẽ không bao giờ được hoàn thiện; vợ chồng tôi đặt mua nhà ở đó, nhưng trong tuần có người gọi điện cho chúng tôi, báo rằng tiền đặt cọc của chúng tôi sẽ được hoàn lại vì
họ không bán trước được đủ nhà để rót vốn cho dự án. Thêm một thành phố giấy cho bang Kansas!–Marge ở Cawker, KS Một khu đô thị ma! Sẽ đến những khu đô thị ma và sẽ không bao giờ trở lại. Tôi thở thật sâu và nhìn chằm chằm màn hình máy tính một lúc.
Dường như không thể tránh được kết cục ấy. Dù bên trong cô ấy mọi thứ đã tan vỡ và đã đi đến phán quyết, Margo chừng như không cho phép bản thân biến mất vĩnh viễn. Và cô ấy đã quyết định để lại thân xác mình–để lại cho tôi–trong dáng dấp khu đô thị ma của chúng tôi, nơi những sợi dây đầu tiên của cô ấy đã đứt. Margo đã nói rằng cô ấy không muốn thân xác mình bị những đứa trẻ vu vơ tìm thấy–và có thể lí giải được rằng trong số những người quen biết, Margo sẽ chọn tôi là người tìm ra cô ấy. Cô ấy sẽ không làm tổn thương tôi bằng một cách mới. Tôi đã từng làm việc đó. Tôi có kinh nghiệm trong lĩnh vực này.
Tôi thấy Radar đang trực tuyến, định gọi nó nói chuyện thì thấy tin nhắn của nó hiện lên màn hình của tôi.
CÔNGDÂNCỦATOÀNTHƯ96: Êu.
QKẺHỒISINH: Những thành phố giấy = những khu đô thị ma. Tôi nghĩ Margo muốn tôi tìm thấy xác cậu ấy. Vì cậu ấy nghĩ rằng tôi có thể xoay xở được. Vì hồi còn bé, bọn tôi đã phát hiện được một xác chết.
Tôi gửi đường dẫn cho Radar.
CÔNGDÂNCỦATOÀNTHƯ96: Hượm để tôi đọc từ đường dẫn đã.
QKẺHỒISINH: Ừ.
CÔNGDÂNCỦATOÀNTHƯ96: Được rồi, đừng nghĩ quẩn. Ông vẫn chưa có gì chắc chắn cả mà. Tôi nghĩ chắc Margo ổn cả thôi.
QKẺHỒISINH: Đừng lòe tôi.
CÔNGDÂNCỦATOÀNTHƯ96: Được rồi tôi không lòe ông. Nhưng nếu có ai đó còn sống bất luận bằng chứng này...
QKẺHỒISINH: Ừ, cho là vậy. Tôi đi nằm một lúc đây, bố mẹ tôi sắp về rồi.
Nhưng không sao bình tĩnh được, thế là tôi nằm trên giường gọi điện cho Ben, kể lại giả thuyết của mình.
“Ông nghĩ nhiều quá hóa quẩn đó. Nhưng Margo ổn mà. Tất cả đều là một phần của trò chơi nào đó mà cậu ấy đang tiêu khiển.”
“Ông bắt đầu thờ ơ về chuyện này rồi đấy.”
Ben thở dài. “Dù sao thì Margo chơi, chà, hơi không đẹp. Ông thấy đấy, không dưng cậu ấy tung đòn đánh úp ba tuần cuối ở trường phổ thông. Ông cũng thấy rồi đấy, Margo làm cả lũ lo lắng, Lacey lo loạn lên, và dạ tiệc thì chỉ còn ba ngày nữa là đến. Chúng ta không thể có một dạ tiệc tốt nghiệp vui tới bến sao?”
“Ông nói nghiêm túc không đấy? Có thể Margo đã chết đấy Ben ạ.”
“Cậu ấy không chết đâu. Margo là nữ hoàng dựng chuyện mà. Muốn được chú ý. Tôi biết phụ huynh của Margo là hai vị chẳng ra sao cả, nhưng họ hiểu Margo rõ hơn chúng ta, đúng chứ? Và họ cũng nghĩ như thế đấy.”
“Ông là đồ cùi bắp,” tôi rủa.
“Ông nói sao cũng được. Hai thằng mình đều vừa có một ngày dài. Quá nhiều kịch tính. Tôi sẽ NCSN.” Tôi định trêu nó là sao lại dùng ngôn ngữ mạng NĐ[8]thế này, nhưng chính tôi chẳng còn hơi sức nào đùa cợt nữa.
Sau khi ngắt máy với Ben, tôi lại vào mạng, tìm danh mục những khu đô thị ma ở bang Florida. Không thấy danh mục nào như vậy, nhưng sau khi tìm “những tiểu khu bị bỏ hoang” và “Grovepoint Acres”, na ná như vậy, tôi gom được danh sách năm địa điểm nằm trong khoảng ba tiếng đồng hồ chạy xe từ Jefferson Park. Tôi in bản đồ Trung Florida ra, đính lên khoảng tường phía trên máy tính, rồi lấy ghim mũ đánh dấu năm nơi đó. Quan sát bản đồ, tôi không thấy mối liên hệ nào. Những địa điểm đó nằm rải rác ở ngoại ô hẻo lánh, có lẽ phải mất ít nhất một tuần tôi mới đi được hết. Tại sao Margo không khoanh lại cho tôi một khu vực cụ thể? Tất cả những manh mối rùng-rợn-đến-phát-gớm này. Tất cả những cận kề thảm kịch này. Nhưng không một nơi chốn. Không có gì để bám víu. Như thể phải leo một đỉnh núi đầy sỏi đá vậy.
Ngày hôm sau Ben cho tôi mượn ẻm RHAPAW vì nó sẽ lái chiếc SUV của Lacey đi lòng vòng mua sắm chuẩn bị cho dạ tiệc tốt nghiệp. Thế là lần này tôi không phải ngồi chờ ngoài phòng tập nhạc–chuông báo kết thúc tiết thứ bảy là tôi phóng đến bên chiếc xe. Nhưng không có tài khởi động RHAPAW được như Ben, nên dù là một trong những đứa đầu tiên có mặt tại bãi đỗ xe của học sinh năm cuối, tôi là một trong những kẻ cuối cùng ra được. Dù gì cuối cùng động cơ cũng chịu hoạt động, và tôi thẳng tiến đến Grovepoint Acres.
Tôi lái xe dọc đường Colonial, chạy chầm chậm để quan sát xem có khu đô thị ma nào tôi lỡ bỏ sót khi tra trên mạng không. Một hàng dài ô-tô nối sau xe tôi. Tôi hơi bấn khi thấy cảnh ấy, rồi lập tức thán phục bản thân sao tôi vẫn còn sức lo đến những thứ trẻ con vụn vặt ngốc xít ấy: tự hỏi không biết gã trong chiếc SUV phía sau có đang nghĩ tôi là một tay lái quá ư thận trọng, chạy xe rù rì như rùa không. Tôi những muốn rằng sự biến mất của Margo sẽ thay đổi tôi; nhưng nó không thay đổi, không được là bao.
Khi dòng xe phía sau cứ nối dài như một đám đưa tang bất đắc dĩ, tôi nhận ra mình đang nói to lên với cô ấy. Tớ sẽ lần theo dây nối. Tớ sẽ không phản bội niềm tin của cậu. Tớ sẽ tìm được cậu. Kì lạ là nói to lên như vậy khiến tôi bình tĩnh hơn. Tôi không vẽ ra các giả thuyết nữa. Lại đi qua tấm bảng gỗ cũ kĩ đề Grovepoint Acres, tôi gần như nghe thấy tiếng thở phào nhẹ nhõm từ đám thắt cổ chai phía sau khi tôi rẽ trái vào con đường cụt trải nhựa. Trông như một lối đi không dẫn vào căn nhà nào. Tôi cứ để RHAPAW chạy hết dải đường ấy. Lại gần, Grovepoint Acres có vẻ hoàn thiện hơn là thoạt nhìn. Hai con đường đất dẫn vào một vòng cung cụt, giao cắt nhau thành những mảng trống bụi bặm. Dù đường đã bị xói lở nhiều, tôi vẫn hơi thấy được các mép đường. Đi đi lại lại trên hai con phố ấy, tôi cảm nhận được hơi nóng phả ra từ hai cánh mũi mình, theo từng nhịp thở. Mặt trời nóng như rang khiến đi lại khá mệt, nhưng tôi tự hiểu một sự thật đẹp đẽ, dù có thể hơi xuẩn ngốc: cái nóng sẽ khiến mùi chết chóc phải sộc lên, và Grovepoint Acres chỉ bốc lên mùi không khí bị hun nóng và mùi khói xe–những phát thải tích tụ, bị cái ẩm đẩy xuống gần mặt đất.
Tôi tìm kiếm bằng chứng cho thấy Margo đã ở đây: những dấu chân, điều gì đó được viết lên đất hoặc kỉ vật nào đó. Nhưng dường như sau nhiều năm trời, tôi là người đầu tiên đặt chân lên những con phố bụi bặm vô danh này. Mặt đất bằng phẳng, cây bụi còn chưa mọc nhiều, thế nên tôi có thể bao quát được mọi hướng. Không lều lán. Không dấu lửa. Không có Margo.
Tôi quay lại RHAPAW, lái sang cao tốc I-4 rồi theo hướng đông bắc thành phố, đến một nơi tên là Holly Meadows. Tôi lái qua Holly Meadows ba lần trước khi thực sự tìm thấy nó–toàn bộ khu vực chỉ có những cây sồi và đất lưu không, còn Holly Meadows–không có biển báo ở lối vào–không mấy nổi bật. Tôi lái xe đi vài mét theo con đường đất qua cụm những cây sồi và thông đầu tiên, xem ra nơi này cũng tiêu điều không kém Grovepoint Acres. Dải đường đất chính dần nhòe vào cánh đồng đất. Tôi không thấy con đường nào khác nữa, nhưng khi đi quanh, tôi có thấy vài cọc gỗ được phun sơn nằm vương trên đất; chắc từng đánh dấu địa giới. Tôi không ngửi hay phát hiện được gì khả nghi, dù vậy tôi vẫn thấy nỗi sợ hãi trồi lên trong lồng ngực. Ban đầu tôi không hiểu tại sao, nhưng rồi đã nhận ra: khi người ta giải phóng mặt bằng để xây dựng, họ đã để lại một cây sồi duy nhất ở phía cuối cánh đồng. Và thân cây xoắn vặn với lớp vỏ dày ấy trông rất giống cái cây ngày xưa ở Công viên Jefferson, nơi chúng tôi đã tìm thấy Robert Joyner, giống đến nỗi tôi gần như dám chắc Margo ở đó, phía sau thân cây.
Và lần đầu tiên, tôi phải mường tượng điều này: Margo Roth Spiegelman, gục vào thân cây, hai mắt đờ đẫn, máu đen trào từ miệng ra, tất cả đã trương lên và biến dạng vì tôi đã mất quá nhiều thời gian mới tìm được cô ấy. Margo đã tin tưởng rằng tôi sẽ tìm thấy cô ấy sớm hơn. Đêm hôm đó cô ấy đã đặt niềm tin vào
tôi. Và tôi đã phụ niềm tin ấy. Và dù không khí chỉ nghe mùi trời-sắp-mưa, tôi chắc chắn rằng sẽ thấy Margo ở đó.
Nhưng không. Chỉ có cái cây, đơn côi trên nền đất xám bạc. Tôi ngồi thụp xuống tựa vào thân cây và cố lấy lại nhịp thở. Tôi ghét phải một mình trải qua chuyện này. Tôi căm ghét. Nếu Margo nghĩ rằng vụ Robert Joyner đã đặt tôi vào thế sẵn sàng, thì cô ấy đã nhầm rồi. Tôi không quen biết Robert Joyner. Tôi không đem lòng yêu mến Robert Joyner.
Tôi dận nắm tay mình xuống mặt đất, cứ thế đấm thình thịch, cát vẩn lên cho đến khi tôi đấm phải hàng rễ trần của cây. Tôi vẫn không dừng lại, cơn đau thốn chạy khắp bàn tay và cổ tay tôi. Tôi chưa từng bật khóc vì Margo, cho đến khi đó, giờ rút cục tôi không nén nổi nữa. Tôi vẫn nện xuống mặt đất và hét lên vì chẳng có ai ở đây nghe được cả: tôi nhớ Margo, nhớ cô ấy, nhớ, nhớ, nhớ.
Tôi cứ ở đó cho đến khi cánh tay bã ra và hai mắt khô lại, cứ ngồi đó và nghĩ về cô ấy, cho đến khi ánh ngày đổ tối.
S
11.
áng hôm sau ở trường, tôi thấy Ben đứng cạnh phòng tập nhạc, đang nói chuyện với Lacey, Radar và Angela dưới một vòm cây xòa tán thấp. Tôi chẳng có lòng dạ nào nghe chúng nó bàn về dạ tiệc tốt nghiệp, và những chuyện đại loại như Lacey đã nổi cơn tá hỏa tam tinh với Becca như thế nào. Tôi chờ đến lúc có thể kể với chúng nó những gì tôi đã thấy, nhưng rồi khi thời điểm ấy đến, rút cục tôi chỉ nói vỏn vẹn, “Hôm qua tôi đã xem rất kĩ hai khu đô thị ma nhưng không có gì đáng chú ý.” Thực ra tôi cũng thấy chẳng có gì mới để nói với chúng nó.
Chẳng đứa nào có vẻ để tâm, trừ Lacey. Cậu ấy lúc lắc đầu khi tôi nhắc đến những khu đô thị ma, rồi nói, “Tối hôm qua tớ đọc trên mạng rằng những người chọn cách tự tử trước đó thường cắt đứt quan hệ với những ai từng khiến họ tức giận. Và họ đem cho đồ đạc của mình đi. Tuần trước Margo đã cho tớ năm cái quần jeans, cậu ấy bảo tớ mặc trông đẹp hơn, nhưng thực ra như vậy chỉ đãi bôi thôi, Margo có đường cong, ừm, chuẩn hơn tớ nhiều.” Tôi thấy thích Lacey, nhưng cũng nhớ lại những điều Margo đã nói về cô nàng thích “dìm hàng” bạn bè này.
Hình như kể lại chuyện đó khiến Lacey quá xúc động nên bắt đầu nước mắt ngắn nước mắt dài. Ben vòng tay qua Lacey và cô nàng dụi đầu vào vai nó, như vậy thực ra hơi khó vì khi đi giày cao gót thì Lacey cao nhỉnh hơn Ben.
“Được rồi mà Lacey, tụi mình chỉ phải tìm đúng nơi thôi. Cậu thử nói chuyện với tụi bạn xem sao. Không biết Margo đã từng nói với ai về những thành phố giấy chưa? Không biết cậu ấy có nhắc đến địa điểm cụ thể nào không? Liệu có một tiểu khu nào đó, ở đâu đó, đặc biệt có ý nghĩa với Margo không?” Lacey dụi sâu hơn vào vai Ben.
“Thôi, đừng hối Lacey quá,” Ben nói. Tôi thở dài, không nói gì nữa.
“Tôi có theo dõi trên mạng,” Radar nói, “nhưng tên truy cập của Margo không đăng nhập vào Toàn Thư Đủ Thứ kể từ khi cậu ấy bỏ đi.”
Rồi lập tức cả lũ lại trở về chủ đề dạ tiệc tốt nghiệp. Lacey ngóc đầu khỏi vai Ben, trông vẫn ỉu xìu và lơ đãng, nhưng cố gắng mỉm cười nghe Radar và Ben bàn ra tán vào chuyện đặt hoa cài áo. Ngày hôm đó trôi qua như mọi ngày–tốc độ chậm, với cả ngàn lần ủ rũ liếc nhìn đồng hồ. Nhưng giờ thậm chí tất cả còn khôn kham hơn, vì mỗi phút tôi uổng phí ở trường và từng phút thất bại chưa tìm được Margo.
Giờ học duy nhất hơi hơi hào hứng với tôi ngày hôm đó là Quốc ngữ. Cô Holden hoàn toàn phá hủy Moby Dick trong tôi khi lầm tưởng rằng chúng tôi đều đã đọc tác phẩm. Cô hồn nhiên giảng về vị thuyền trưởng Ahab với đam mê tìm và diệt con cá voi trắng nào đó. Nhưng nhìn cô ấy càng giảng càng say sưa như vậy cũng hay. “Ahab là một kẻ điên dong buồm đi ngược số phận. Trong toàn bộ cuốn tiểu thuyết, các em không thấy ông ấy theo đuổi điều gì khác, phải không? Ông chỉ có một ám ảnh duy nhất. Và vì ông là thuyền trưởng, nên không ai trên tàu ngăn được ông. Các em có thể lập luận–hẳn là các em có thể đưa ra lập luận của mình nếu chọn viết về ông ấy trong bài luận cuối năm–rằng Ahab là gã ngốc điên dại vì đam mê ấy. Nhưng các em cũng có thể lập luận rằng có điều gì đó đầy tính anh hùng ca bi tráng khi Ahab dấn thân vào cuộc đấu mà ông cầm chắc chiến bại. Hi vọng của Ahab có phải là một dạng điên rồ quẫn trí không, hay đó là hiện thân hùng hồn của nhân tính?” Tôi ngoáy vội càng nhiều càng tốt những lời cô Holden nói, thầm phát hiện ra rằng tôi có thể chỉn chu nộp bài cuối kì mà không cần thực sự đọc hết tác phẩm. Trong khi nghe giảng, tôi chợt nhận ra cô Holden có khả năng đọc hiểu siêu phàm. Cô cũng từng nói rằng cô thích Whitman. Thế là khi chuông báo hết giờ, tôi lấy cuốn Những cánh cỏ ra và lật rất từ từ trong khi những đứa khác trong lớp ra về hoặc đi làm gì đó ngoại khóa. Tôi đợi sau một đứa đang hỏi xin cô gia hạn một bài tập đã trễ, rồi nó cũng ra khỏi lớp.
“Độc giả hâm mộ Whitman của tôi đây,” cô nói với tôi.
"""