" Những Quả Bóng Lửa - Ray Bradbury full prc pdf epub azw3 [Tuyển Tập] 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Những Quả Bóng Lửa - Ray Bradbury full prc pdf epub azw3 [Tuyển Tập] Ebooks Nhóm Zalo NHỮNG QUẢ BÓNG LỬA (Tập Truyện Ngắn) Tác giả: Ray Bradbury Dịch giả: Trần Đức Tài Nguồn: Vn.thuquan Biên tập: Derby, VC Tạo bìa & Ebook: inno14 Những Quả Bóng Lửa (Nguyên tác: The Fire Balloons) Chương 1 Lửa bùng vỡ trên những bãi cỏ đêm mùa hạ. Người ta nhìn thấy lập lòe khuôn mặt của những người cậu, người cô. Những chiếc pháo thăng thiên rơi xuống trước những đôi mắt nâu long lanh của các anh em bà con đứng trên hàng hiên, và những que pháo cháy sém tàn lụi rơi cắm đầu xuống mấy mảnh ruộng khô xa tắp. Đức Cha Joseph Daniel Peregrine mở mắt. Ôi giấc mơ: chính ngài cùng các anh em thân quyến chơi pháo hoa ở quê nhà Ohio cổ kính của ông nội những năm xưa! Ngài nằm nghe ngóng những tiếng động âm âm trong lòng giáo đường, trong các phòng tĩnh tâm khác nơi các linh mục đang nghỉ ngơi. Vào tối hôm nay, trước ngày khởi hành của chiếc hỏa tiễn Thập Tự Giá, không biết họ có nằm mơ thấy lại những ngày hội ấu thơ? Chắc là có. Tối hôm nay đâu khác gì những bình minh náo nức đợi chờ ngày Quốc Khánh thuở nào, khi các chú bé ngóng trông tiếng pháo nổ đầu tiên báo hiệu để chạy ùa ra lối đi còn đẫm sương đêm, hai bàn tay ôm đầy những điều kỳ diệu âm vang: pháo! Thế là họ đã đến đây, các linh mục của dòng Tân Giáo, trong buổi bình minh gió thoảng này trước khi họ bay vút lên Hỏa Tinh, lưu lại hương trầm thơm suốt nẻo đường băng qua ngôi đền nhung huyền của không gian. — Thật sự thì chúng ta có cần thiết phải ra đi hay không? – Đức Cha Peregrine thầm thì một mình. Chúng ta không cần phải cứu rỗi tội lỗi của chính chúng ta trên Trái Đất này sao? Không phải chúng ta đang chạy trốn khỏi kiếp sống của chúng ta ở đây đấy chứ? Ngài đứng dậy rời giường; thân hình Cha Peregrine hồng hào, đẫy đà, xoay trở khá nặng nhọc. Ngài tự hỏi mình: — Hay là chúng ta đang chạy trốn sự biếng lười của chính mình? Ta có sợ hãi chuyến đi này hay không? Đức Cha bước vào buồng tắm, đứng dưới vòi hương sen. Những tia nước li ti đâm vào da thịt ran rát như những mũi kim. — Nhưng ta sẽ đem mi theo đến Hỏa Tinh, hỡi xác phàm này. Bỏ lại đây những tội lỗi cũ xưa. Và lên Hỏa Tinh kiếm tìm những tội lỗi mới? Đúng là một ý tưởng thú vị. Những tội lỗi chưa hề có kẻ nào nghĩ ra. À, chính bản thân ngài cũng đã từng viết một cuốn sách nhỏ mang tựa đề "Bàn Về Tội Lỗi Trên Các Hành Tinh Khác", một cuốn sách bị các đồng đạo của ngài kết tội là không nghiêm trang. Chỉ mới đêm qua đấy thôi, lúc hút điếu xì gà cuối cùng, ngài và linh mục Stone đã bàn đến điều ấy. — Trên Hỏa Tinh có thể tội lỗi sẽ đội lốt đạo đức. Khi lên đó chúng ta phải đề phòng các hành động đức hạnh đấy nhé, kẻo sau này chúng lại hóa ra tội lỗi thì khốn! – Đức Cha Peregrine vừa nói vừa cười rạng rỡ. – Hấp dẫn quá! Biết bao thế kỷ đã trôi qua, biết bao chuyến thám hiểm đã thực hiện để giờ đây chúng ta có được một chuyến bay truyền giáo đến các hành tinh. — Gì chứ tội lỗi thì chỉ nhìn một cái là tôi biết liền, – Linh mục Stone nói không mấy nhiệt tình, – cho dù là ở trên Hỏa Tinh đi nữa. — Ồ, giới giáo sĩ chúng ta cứ tự mãn về sự nhạy bén của mình, cứ đụng vào tội lỗi là đổi màu ngay chẳng khác nào giấy quỳ gặp ba-zờ là hóa xanh, gặp a-xít là hóa đỏ, – Đức Cha Peregrine trả đũa, – nhưng thử hỏi nếu các hóa chất trên Hỏa Tinh lạ thường đến mức chúng ta không thể đổi màu gì hết thì sao nào?! Nếu như trên Hỏa Tinh tồn tại những giác quan mới thì sư huynh phải nhìn nhận rằng có khả năng tồn tại những tội lỗi mới lạ không thể nhận ra. — Nếu như không có hiềm thù từ trước thì không hề có tội lỗi nào hay hình phạt nào; Đức Chúa đã xác nhận với chúng ta như thế rồi. — Trên Trái Đất này thì diều đó đúng đấy. Chỉ có mỗi Adam không thôi thì không hề có tội lỗi gì cả. Cho thêm Eva ra đời là anh có thêm sự cám dỗ. Cho xuất hiện thêm người đàn ông thứ hai tức là anh đã tạo điều kiện cho tội ngoại tình xảy ra. Cứ cho ra đời thêm giới tính mới hay chủng loài mới là anh khai sinh tội lỗi mới. Cho con người thêm hai bàn tay là anh ươm mầm cho bạo lực mới sinh sôi; con người có thể dùng bàn tay bóp cổ người khác chẳng hạn, thế là có thêm tội lỗi nhé. Trên Hỏa Tinh, nếu như sinh vật trên đó có năm giác quan khác hẳn chúng ta, hay những bộ phận, những tứ chi vô hình ta không thể nào cảm nhận được thì sao? Như thế không có khả năng xuất hiện ít nhất năm tội lỗi mới hay sao? Linh mục Stone sửng sốt: — Coi bộ Đức Cha thích thú với chuyện tội lỗi này lắm nhỉ? — Tôi phải giữ cho đầu óc mình hoạt động chứ, sư huynh; cho nó nhạy bén thôi mà. — Đầu óc Đức Cha cứ như người làm xiếc, lúc nào cũng tung hứng, ném bắt một ý tưởng nào đó. — Đúng thế. Bởi vì Giáo Hội của chúng ta đôi lúc cũng giống hệt một gánh xiếc nơi tấm màn nhung kéo lên phơi bày những con người, những pho tượng cứng đơ để biểu thị cho cái Chân Thiện Mỹ trừu tượng. Thật tuyệt vời. Nhưng tôi mong là gánh xiếc này sẽ còn chỗ trống cho tôi chạy lăng xăng giữa các bức tượng, Cha không thích thế sao, Cha Stone? Không buồn lắng nghe, Cha Stone vừa bỏ đi vừa nói vọng lại: — Tôi thấy tốt hơn hết là chúng ta đi ngủ đi. Trong vài giờ nữa thôi, chúng ta sẽ bay tít lên trời để xem những tội lỗi mới của Đức Cha đấy, Đức Cha Peregrine ạ. Chương 2 Chiếc hỏa tiễn đứng sẵn sàng chờ xuất phát. Từ các nhà nguyện, đoàn linh mục kéo nhau về trong buổi sớm se lạnh, nhiều linh mục tài giỏi từ New York, từ Chicago, từ Los Angeles – Giáo Hội đã tiến cử những con chiên ưu tú nhất – đang đi qua thành phố tiến vè cánh đồng băng giá. Vừa bước đi, Đức Cha Peregrine vừa nhớ lại lời nhắn nhủ của Đức Hồng Y: — Đức Cha Peregrine này, ngài sẽ chỉ huy đoàn truyền giáo với sự phụ tá của Cha Stone. Khi đã lựa chọn ngài đảm đương nhiệm vụ quan trọng này rồi thì tôi lại thấy rằng lý do của tôi mơ hồ đến mức đáng buồn, Đức Cha ạ, nhưng cuốn sách nhỏ của ngài về tội lỗi trên các hành tinh tôi đâu thể bỏ qua được. Ngài là một người mềm mỏng. Và Hỏa Tinh thì chẳng khác chi một chiếc tủ mà chúng ta đã bỏ quên suốt nhiều thiên niên kỷ không lau chùi. Tội lỗi đã chất đống đầy dẫy trên đó. Hỏa Tinh lâu đời gấp hai lần Trái Đất cho nên nó có gấp hai lần số đêm thứ Bảy, số quán rượu, số phòng tắm hơi, và gấp đôi số lần trố mắt nhìn trộm đàn bà trần truồng như nhộng. Khi chúng ta mở toang cánh cửa tủ đó, mọi thứ sẽ đổ ập lên đầu chúng ta. Chúng ta cần một người nhanh trí, giỏi ứng biến. Tôi cảm thấy rằng ngài chính là một người như thế. Đức Cha ạ, công việc này hoàn toàn thuộc về ngài đấy. Đức Hồng Y cùng các linh mục quỳ xuống. Lễ ban phúc đã xong và chiếc hỏa tiễn đã được rảy nước thánh. Đức Hồng Y đứng dậy nói với mọi người: — Tôi biết các bạn sẽ ra đi cùng Chúa để chuẩn bị cho cư dân Hỏa Tinh tiếp rước chân lý của Người. Tôi chúc tất cả các bạn một cuộc hành trình đầy thận trọng. Họ xếp hàng một đi ngang qua Đức Hồng Y, hai mươi người, áo chùng sột soạt, đưa tay nắm lấy hai bàn tay nhân từ của ngài trước khi bước vào khoang phi thuyền đã được cho dầu mỡ trơn tru. — Mình chẳng hiểu Hỏa Tinh có phải là địa ngục không nhỉ? – Đức Cha Peregrine lên tiếng vào phút cuối cùng.- Một địa ngục chỉ chờ cho chúng ta đến nơi là nổ tung thành diêm sinh, lửa bỏng? — Chúa ở cùng chúng ta, – Linh mục Stone đáp. Chiếc hỏa tiễn bay lên. Chương 3 Bước ra khỏi không gian cũng giống như là bước ra khỏi một ngôi thánh đường lộng lẫy chưa từng thấy. Còn chạm vào mặt Hỏa Tinh lại giống như chạm chân xuống một vỉa hè bình thường bên ngoài thánh đường năm phút sau khi đã thực sự biết được tình yêu của mình dành cho Chúa. Từ chiếc hỏa tiễn vẫn còn bốc khói, các linh mục rón rén bước xuống và quỳ gối trên lớp cát Hỏa Tinh trong khi Đức Cha Peregrine làm lễ tạ ơn. — Lạy Cha, chúng con cám ơn Người đã đưa chúng con bình yên đi qua các gian phòng của Người. Chúng con đã đến miền đất mới, xin Cha cho chúng con những đôi mắt mới. Chúng con sẽ nghe thấy những âm thanh mới, xin Cha cho chúng con những đôi tai mới. Và sẽ có những tội lỗi mới, xin Cha cho chúng con những trái tim tốt đẹp hơn, cứng rắn hơn và thanh khiết hơn. Amen. Tất cả đứng lên. Và đây, Hỏa Tinh, nơi họ đang nhọc nhằn lê bước. Đây, giang sơn của những tội lỗi tiềm tàng. Ôi, trên mảnh đất này họ phải cân nhắc, thận trọng xiết bao; e rằng ngay cả việc bước đi như thế này, hay việc hít thở, hoặc cả việc chay tịnh nữa, cũng có thể là tội lỗi! Và đây là viên thị trưởng của thành phố First Town ra đón họ với bàn tay xòe rộng: — Con có thể giúp được gì cho Cha đây, thưa Đức Cha Peregrine? — Chúng tôi muốn biết về các sinh vật của Hỏa Tinh này. Vì nếu chúng tôi hiểu biết họ thì chúng tôi sẽ xây dựng nhà thờ một cách thích hợp. Họ cao ba thước phải không? Chúng tôi sẽ làm các cánh cửa lớn hơn. Da họ màu lam, màu đỏ hay màu lục? Chúng tôi cần phải biết để tô màu các tượng thánh cho đúng với màu da của họ. Họ có nặng cân không? Chúng tôi sẽ làm các ghế nguyện kiên cố cho họ ngồi. — Thưa Đức Cha, – Viên thị trưởng đáp, – con không ngờ rằng Cha lại quá lo lắng cho dân Hỏa Tinh đến thế. Ở đây chỉ có hai giống loài mà thôi. Một giống thì gần như chết hết cả rồi. Một số ít đang lẩn trốn. Còn giống thứ hai thì…chà, chúng chẳng phải là người như ta đâu. — Ủa? – Trái tim Đức Cha Peregrine đập dồn. — Chúng là những quả cầu ánh sáng, thưa Cha, chúng sống trong dãy đồi đằng kia. Người hay thú, ai mà biết được? Nhưng chúng hoạt động thông minh lắm đó, con nghe đồn thế. – Viên thị trưởng nhún vai. – Tất nhiên, chúng đâu phải là con người, cho nên con thấy là các đức cha không cần phải… — Trái lại kia, – Cha Peregrine vội vàng ngắt lời. – Anh nói là chúng thông minh, phải không nào? — Chỉ là tin đồn thôi. Có một nhân viên trắc địa bị gãy chân trong khu đồi đó và lẽ ra đã chết luôn ở đấy. Nhưng có nhiều quả cầu màu xanh tỏa sáng tiến đến chỗ anh ta nằm. Lúc thức dậy, anh ta lại thấy mình nằm ngay trên xa lộ tít dưới chân đồi và chẳng biết làm sao mà mình lần mò ra đến đấy được. — Lại một gã say rượu chứ gì, – Cha Stone nhận xét. — Người ta cứ kháo nhau mãi về chuyện này, – Viên thị trưởng nói. – Thưa Cha Peregrine, sinh vật trên Hỏa Tinh này chỉ còn lại mấy quả cầu xanh ấy thôi, nên con thành thật nghĩ rằng các Cha nên vào thành phố thì hơn. Hỏa Tinh đang mở rộng, loài người đang đổ xô lên đây. Trong thành phố First Town có đến hai nghìn thợ mỏ và thợ máy với lại lao công cần được cứu rỗi linh hồn, bởi vì có quá nhiều mụ đàn bà hung tợn đi theo họ, và cũng có quá nhiều rượu vang Hỏa Tinh lâu đời hàng mấy thế kỷ… Đức Cha Peregrine nhìn chăm chăm về hướng dãy đồi xanh. Linh mục Stone đằng hắng: — Thế nào, Đức Cha? — Những quả cầu lửa xanh ấy à? — Vâng, thưa Đức Cha. — Aaa…, – Đức Cha Peregrine thở dài. Những quả cầu xanh. Những quả bóng bay của tuổi thơ. Cha Peregrine cảm thấy các mạch máu nơi cườm tay giật giật. Đức Cha chỉ về hướng những ngọn đồi: – Đó là nơi chúng ta phải đến. Mọi người xầm xì lo âu. Đức Cha Peregrine giải thích: — Đi vào thành phố thì đơn giản quá. Tôi muốn nghĩ rằng nếu Đấng Cứu Thế mà bước đến đây và dân chúng nói với Người "Đây là con đường đã dọn quang," Ắt hẳn Người sẽ trả lời "Hãy chỉ cho ta con đường cỏ dại, gai góc. Chính ta phải tự mở lối mà đi." — Nhưng… — Sư huynh Stone ơi, hãy thử nghĩ xem lương tâm sẽ cắn rứt chúng ta đến mức nào nếu như chúng ta đi qua mặt những kẻ tội lỗi mà không chìa tay ra cứu vớt. — Nhưng đó chỉ là những quả cầu lửa! — Tôi cho rằng khi con người xuất hiện lần đầu tiên thì đối với các thú vật khác con người ắt phải nực cười, quái gở lắm. Tuy vậy con người vẫn có một linh hồn, cho dù hắn có quê mùa đến đâu đi nữa. Chừng nào ta chưa chứng minh được điều gì cụ thể thì ta cứ cho là những quả cầu lửa này có linh hồn đi. — Cũng được thôi, – Viên thị trưởng đồng ý, – nhưng các Cha phải quay về thành phố đấy nhé. — Để xem sao đã. Trước hết cần phải điểm tâm. Sau đó Cha Stone và tôi sẽ đi vào dãy đồi. Tôi không muốn làm cho các sinh vật phát ra lửa ấy kinh hoàng vì máy móc hay đám đông. Chúng ta dùng điểm tâm đi thôi. — Các linh mục dùng bữa trong sự lặng lẽ nặng nề. Chương 4 Khi trời sập tối, Đức Cha Peregrine và Stone đã lên đến lưng đồi. Họ ngừng lại, ngồi trên một tảng đá để tận hưởng đôi phút thư giãn và chờ đợi. Các sinh vật Hỏa Tinh vẫn chưa xuất hiện, điều đó khiến cả hai vị linh mục cảm thấy thất vọng vu vơ. Đức Cha Peregrine vừa lau mặt vừa nói: — Theo ý sư huynh thì nếu chúng ta gọi "Hello!" thật to thì chúng có đáp lời không? — Ôi, thưa Đức Cha, chẳng bao giờ ngài nói chuyện nghiêm chỉnh được sao? — Tôi vẫn cứ tiếp tục chừng nào Thượng Đế tốt lành vẫn còn đùa cợt. Này, đừng có vội sửng sốt hoảng kinh lên như thế. Thực đấy, Thượng Đế có nghiêm chỉnh đâu nào,thật khó mà hiểu rõ được Người ngoại trừ tình yêu bao la Người dành cho chúng ta. Và tình yêu thì thường gắn bó với óc khôi hài, phải không nào? Bởi vì chúng ta không thể yêu thương kẻ khác nếu không chịu đựng kẻ ấy, phải không? Và ta đâu thể chịu đựng kẻ khác mãi nếu như ta không thể trêu ghẹo kẻ ấy. Đúng chưa nào? — Tôi chưa bao giờ cho rằng Thượng Đế có óc khôi hài cả. — Ô hô, Đấng Sáng Thế đã tạo ra những con vật kỳ khôi như con kăn gu-ru, con lạc đà, con đà điểu, con người, vậy mà lại bảo Người là không hài hước ư? Thôi đi! – Cha Peregrine cười phá lên. Nhưng ngay lúc ấy, từ giữa vùng đồi núi chập choạng hoàng hôn xuất hiện các sinh vật Hỏa Tinh giống như một chuỗi lồng đèn xanh lam được ai đó thắp sáng soi đường. Linh mục Stone nhìn thấy chúng trước tiên: — Nhìn kìa! Đức Cha Peregrine quay lại, và tiếng cười tắt nghẹn trong cổ họng ngài. Nhiều quả cầu lửa màu xanh tròn trịa lượn lờ giữa các vì sao lung linh, run rẩy xa xa. — Quái vật! – Cha Stone nhảy phắt dậy. Nhưng Đức Cha Peregrine đã kéo ông lại. — Khoan đã! — Lẽ ra ta phải vào thành phố mới đúng! — Không đâu, hãy nghe tôi này! – Đức Cha Peregrine khẩn nài. — Tôi sợ. — Đừng sợ. Đó là tác phẩm của Chúa. — Của quỷ thì có! — Đừng, bình tĩnh nào! – Đức Cha Peregrine nhẹ nhàng thuyết phục và họ ngồi bệt xuống đất. Một quầng sáng màu xanh dịu hắt lên hai khuôn mặt đang ngước cao khi những quả cầu lửa tụ lại gần. Và một lần nữa, đêm Lễ Quốc Khánh của tuổi thơ hiện về, Đức Cha Peregrine run rẩy nghĩ thầm. Ngài cảm thấy mình lại là thằng bé ngày nào chờ mong đêm hội, bầu trời như chừng nổ tung, vỡ tan tành thành muôn bụi sao li ti và muôn âm thanh vang động, những tiếng pháo dòn dã làm rung chuyển kiếng cửa sổ mọi nhà thành tiếng lanh canh tựa như tiếng băng nứt rạn trên hàng nghìn mặt hồ mùa đông. Những người cô, những người cậu, những anh em họ hàng hò reo "Ô kìa!" mỗi lần bầu trời nở hoa ngời sáng. Bầu trời mùa hạ muôn màu. Và những quả bóng bay, những chiếc bong bóng lửa được một người ông hiền hòa thắp sáng lên trong đôi bàn tay ông rất to lớn nhưng cũng rất dịu dàng. Ôi, kỷ niệm về những quả bóng lửa đáng yêu, rời khỏi tay ông vút bay lên, bay lên, tỏa sáng mãi đến tương lai. Đức Cha Peregrine nhìn thấy lờ mờ nét mặt của những người thân yêu đã chết từ lâu. Những quả bóng lửa bay cao đánh dấu thêm một năm nữa đi qua cuộc đời, thêm một Lễ Quốc Khánh nữa cho tuổi thơ, thêm một Vẻ Đẹp nữa tan biến. Những quả bóng lửa vẫn bay cao, bay cao giữa các vì sao trong đêm mùa hạ ấm và dạt trôi theo gió trong khi những đôi mắt trắng, đỏ, xanh, long lanh, dõi nhìn theo, câm nín. Những quả bóng lửa rời xa hàng hiên nhà ai, bay qua những dòng sông còn ngủ vùi trong sương, nhỏ dần, xa tít, ra đi mãi mãi… Nước mắt dâng đầy trên mi Đức Cha Peregrine. Trên đầu Ngài là các sinh vật Hỏa Tinh đang lượn vòng lơ lửng, không chỉ một mà là hàng nghìn những quả bóng lửa đang thầm thì. Ngài ngỡ như bất cứ lúc nào ngài cũng có thể tìm thấy ông nội mình, người ông đã mất từ lâu, đang đứng ngay cạnh Ngài, cùng ngước mắt lên chiêm ngưỡng điều Tuyệt Mỹ. Nhưng không, đấy là linh mục Stone. — Ta chạy đi thôi, xin Đức Cha! — Ta phải nói chuyện với chúng, – Đức Cha Peregrine lao tới trước, không biết phải nói gì, vì mọi lời nói đều không tròn vẹn. Ngươi đẹp tuyệt vời! Ngươi đẹp tuyệt vời!… Không, không đủ ngôn từ để nói. Đức Cha chỉ có thể đưa hai cánh tay nặng trĩu lên cao và gọi với theo: Xin chào!!!… Nhưng các quả cầu lửa chỉ bừng sáng lên như những ảo ảnh trên tấm gương đen huyền. Chúng dường như cố định, mờ ảo, diệu kỳ, vĩnh cửu. Đức Cha Peregrine nói với bầu trời: — Chúng tôi đến cùng Thượng Đế. — Thật là ngớ ngẩn, ngớ ngẩn! – Linh mục Stone kêu lên. – Nhân danh Chúa, xin Đức Cha thôi đi! Nhưng lúc này, những quả cầu tỏa sáng ấy đã bay xa dần về những ngọn đồi. Trong một thoáng, chúng biến mất. Đức Cha Peregrine lại gọi theo; tiếng gọi của ngài dội vào lòng đồi vang vọng ngân rền làm rung chuyển cả ngọn đồi sau lưng. Quay lui, ngài nhìn thấy một dòng đá lở tung bụi lao xuống, khựng lại một chốc rồi kéo theo một cơn lũ đá sỏi ầm ầm phóng vèo xuống chỗ ngài và Cha Stone đang đứng. — Đức Cha đã thấy sai lầm của mình chưa nào! Linh mục Stone thét lên. Gần như bị mê hoặc, Đức Cha Peregrine đứng sững nhìn và choàng tỉnh, ngài khiếp đảm quay người chạy, lòng đinh ninh cái chết chắc chắn đã gần kề sau lưng. Ngài còn đủ thời gian để thốt lên hai tiếng "Lạy Chúa!" và dòng lũ đá tràn tới! — Đức Cha! Một ánh biếc xanh lập lòe của những khối cầu. Một suối sao buốt lạnh xoay tít. Một tiếng gầm thét. Và rồi cả hai vị linh mục thấy mình đang ở trên một triền núi bằng phẳng cách vùng núi lở gần trăm thước, đứng nhìn nơi lẽ ra đã chôn vùi thi thể họ dưới hàng tấn đất đá. Cái ánh sáng màu xanh ấy bốc thành hơi tan biến. — Có chuyện gì thế? – Hai vị linh mục ôm chầm lấy nhau. — Những ánh lửa kia đã nhấc bổng chúng ta lên! — Đâu phải, chúng ta bỏ chạy kịp thời đấy! — Không, chính những quả cầu ấy đã cứu chúng ta. — Sao lại thế được! — Được chứ sao không. Bầu trời trống rỗng. Không gian lắng đọng lại như dường một hồi chuông vừa dứt tiếng ngân nga. Âm ba như còn vương vấn trong xương tủy hai người. — Rời khỏi nơi này mau, Đức Cha sẽ làm chúng tôi chết mất thôi. — Từ rất nhiều năm qua, tôi không còn sợ hãi trước cái chết nữa, Cha Stone ạ. — Chúng ta không chứng tỏ được gì. Ngay khi nghe ngài lên tiếng chào là những đốm lửa xanh ấy bỏ chạy hết cả. Thật là vô ích! — Không đâu, – Đức Cha Peregrine vẫn bướng bỉnh. – Bằng cách nào đó, chúng đã cứu mạng chúng ta. Điều đó chứng tỏ chúng có linh hồn. — Ta chỉ chứng tỏ được mỗi một điều là chúng nó có thể đã cứu mạng ta. Mọi chuyện rối tinh rối mù lên cả. Cũng có thể chính chúng ta đã tự trốn thoát được lắm chứ. —Chúng không phải loài thú đâu, chắc chắn như thế đấy, Cha Stone ạ. Thú vật đâu có cứu mạng kẻ lạ mặt. Điều đó chừng tỏ ở đây thật sự hiện hữu lòng nhân từ và cảm thông. Có lẽ ngày mai chúng ta sẽ chứng tỏ thêm nhiều điều khác. — Chứng tỏ cái gì? Bằng cách nào? – Linh mục Stone đã kiệt sức quá rồi; sự mệt mỏi của tâm trí và cơ thể biểu lộ rõ trên nét mặt đờ đẫn của ông, – Vừa ngồi trực thăng đuổi theo chúng vừa đọc Thánh Kinh chăng? Chúng chẳng phải người ta. Chúng chẳng có mắt mũi tay chân như chúng ta. — Nhưng ở chúng, tôi cảm nhận được một cái gì đó khó xác định, – Đức Cha Peregrine đáp. – Tôi tin chắc một mặc khải vĩ đại sắp xảy ra. Chúng đã cứu ta. Vậy chúng có suy nghĩ. Chúng biết chọn lựa: mặc cho bọn ta chết quách đi hay là để bọn ta sống! Điều đó chứng tỏ một ý chí tự do! Sư huynh không thể nhận ra tính người dưới lốt không-phải-người sao? — Tôi thà nhận dạng được cái không-phải-người dưới lốt con người còn hơn. Đêm lạnh đi rất nhanh. Linh mục Stone bắt tay vào việc nhóm lửa, mắt nhìn đăm đăm vào những que củi trên tay, chốc chốc lại sặc sụa ho trên làn khói xám. Đức Cha Peregrine vẫn tiếp tục đề tài ưa thích của mình trong bữa ăn tối bất kể Cha Stone có buồn nghe hay không. — Thật đáng tiếc thay, con người vẫn là con người, dù có mang hình hài nào đi nữa thì con người vẫn có khuynh hướng phạm tội… Nhưng Cha Stone đã giả vờ ngáy để khỏi phải tranh luận. Chương 5 Đức Cha Peregrine nằm mãi không chợp mắt được. Tất nhiên là họ có thể bỏ mặc cho cư dân Hỏa Tinh sa xuống địa ngục được chứ? Một khi đã thỏa hiệp với lương tâm của mình, họ có thể quay lại những thành phố con người đang xây dựng trên hành tinh này, những thành phố đầy những cốc rượu tội lỗi và những người đàn bà tội lỗi có đôi mắt tống tình và tấm thân trắng muốt đang đùa vui trên chiếc giường của những gã lao công cô đơn? Chẳng lẽ đó không phải là nơi cần đến cha cố sao? Chẳng lẽ con đường dẫn đến dãy đồi kia không phải là một ý tưởng ngông cuồng hoàn toàn của cá nhân ngài sao? Có thật là ngài vẫn luôn nghĩ đến Giáo Hội của Chúa, hay ngài chỉ muốn thỏa mãn lòng hiếu kỳ của mình? Ôi, những quả cầu xanh dịu dàng ấy; chúng cứ bừng sáng mãi trong tâm trí Đức Cha! Điều cuối cùng ngài nhìn thấy trước khi thiếp ngủ đi chính là những đốm lửa xanh, những quả cầu ấy đã quay lại như một đoàn thiên thần ngời sáng lặng lẽ hát ru ngài vào giấc điệp băn khoăn. Chương 6 Những giấc mơ lửa xanh ấy vẫn còn lờ lững trên trời khi Đức Cha Peregrine tỉnh giấc lúc tinh sương. Linh mục Stone vẫn ngủ say như chết. Đức Cha Peregrine dõi nhìn theo những sinh vật Hỏa Tinh đang bềnh bồng trên cao quan sát ngài. Chúng là người – ngài biết mà. Nhưng Đức Cha phải chứng minh được điều đó, bằng không ngài phải đối đầu với một Đức Hồng Y khô khan gỗ đá; người sẽ hết sức từ tâm mời Đức Cha Peregrine tránh ra một bên. Nhưng chứng minh bằng cách nào đây? Đức Cha Peregrine đứng dậy, len lỏi giữa những tảng đá, và bắt đầu trèo lên ngọn đồi gần nhất cho đến lúc ngài đặt chân tới một vách đá đâm thẳng đứng xuống một miệng vực hai trăm thước bên dưới. Cha Peregrine muốn ngạt thở sau đoạn đường nhọc nhằn dưới bầu không khí buốt giá, ngài cứ đứng thở dốc mãi. — Nếu mình mà rơi xuống chỗ này thì chết là cái chắc. Ngài buông một hòn sỏi xuống vực và nghe tiếng va chạm lanh canh ở vực đá sâu dưới kia. — Chúa sẽ không bao giờ tha tội cho ta. Ngài thảy một hòn sỏi nữa. — Có lẽ không thể gọi việc đó là tự tử, nếu như… nếu như ta làm điều ấy chỉ vì lòng yêu thương…?- Vị giám mục ngước mắt nhìn những quả cầu xanh. _ nhưng trước hết ta cần phải gọi chúng thử lần nữa xem. XIn chào! Xin chào! Những tiếng vọng của núi đồi va đập vào nhau nhưng những quả cầu lửa vẫn im lìm không động đậy. Đức Cha Peregrine gọi chúng suốt năm phút liền. Lúc im tiếng, ngài ngoái nhìn xuống chân đồi và nhìn thấy Cha Stone vẫn còn ngủ thản nhiên trong căn lều nhỏ. Đức Cha Peregrine bước ra bờ vách đá. — Ta phải chứng minh tất cả. Ta là một lão già. Ta không sợ chết. Chắc là Chúa sẽ hiểu rằng việc ta toan làm chính là vì Chúa? Đức Cha hít một hơi thật sâu. Cả cuộc đời ngài hiện về trong đôi mắt và ngài nghĩ thầm: Chỉ một phút nữa là ta sẽ chết chăng? Ta e rằng ta yêu quý cuộc sống quá mức đó. Nhưng còn nhiều điều khác ta còn yêu quý hơn cả cuộc đời này. Ngài bước chân ra khỏi bờ đá. Rơi vào khoảng không! — Đồ xuẩn ngốc! Vị linh mục già kêu lên trong lúc ngã lộn nhào. – Mi nhầm lẫn rồi! – Vực đá lởm chởm dưới xa đang vun vút lao vọt lên thật gần. Đức Cha tin chắc mình sẽ đâm sầm vào chúng, gửi hồn về Chúa. – Sao ta lại làm như thế? Ngay sau đó, ngài biết được câu trả lời. Một suối sao cuộn xoáy. Một ánh sáng lung linh dịu xanh. Và ngài thấy thân hình ngài được nâng đỡ, lơ lửng giữa màu xanh ấy. Một phút sau đó, Đức Cha được hạ xuống mặt đất nhẹ nhàng, sống sót. Ngài ngồi lặng người đi, sờ nắn cơ thể mình và ngẩng nhìn những đốm sáng màu xanh đang rút lui thật nhanh. — Các bạn đã cứu tôi! – Đức Cha thì thào. – Các bạn không muốn cho tôi chết. Các bạn biết đó là điều sai lầm. Ngài chạy ào về phía Cha Stone vẫn còn ngủ say. — Dậy đi, sư huynh, dậy mau! – Cha Peregrine vừa gọi, vừa lay Cha Stone. – Sư huynh ơi, họ đã cứu tôi! — Ai cứu ngài? – Cha Stone ngồi dậy, mắt nhấp nháy chưa tỉnh ngủ hẳn. Đức Cha Stone kể lại cuộc phiêu lưu vừa qua. — Giấc mơ đó thôi, một cơn ác mộng, ngủ tiếp đi nào, – Cha Stone cáu kỉnh bảo. – Ngài lúc nào cũng bị ám ảnh vì mấy quả bong bóng xanh biếc của ngài. — Nhưng lúc đó tôi có ngủ đâu. Thực chứ không phải mơ! — Bình tĩnh lại đi, thưa Đức Cha, xin bình tĩnh lại. — Anh không tin tôi à? Anh có mang súng theo đó không? Tốt, đưa súng cho tôi. — Ngài định làm gì thế? – Linh mục Stone trao cho Đức Cha Peregrine khẩu súng lục nhỏ họ đã mang theo để đề phòng rắn rết hay các con thú nguy hại bất ngờ. — Tôi sẽ chứng minh ngay! Cha Peregrine siết chặt khẩu súng, nhắm vào lòng bàn tay mình và bấm cò. — Đừng! Một quầng sáng lung linh xuất hiện và ngay trước mắt hai vị giáo sĩ, viên đạn đứng sững giữa không trung chỉ cách lòng bàn tay xòe rộng của Cha Peregrine có mấy phân. Bị bao bọc bởi một quầng sáng xanh lam, viên đạn lơ lửng một lúc rồi rơi vèo xuống mặt đất cát bụi. Đức Cha Peregrine bắn ba phát đạn – một vào bàn tay, một vào cẳng chân, một vào ngay bụng mình. Cả ba viên đạn đều lơ lửng giữa khoảng không, lấp lánh sáng, và rơi xuống chân họ như những con côn trùng chết cứng. — Thấy chưa? – Đức Cha Peregrine buông thõng tay xuống, khẩu súng lục rơi xuống đất. – Họ biết. Họ hiểu. Họ không phải thú vật đâu. Họ biết suy nghĩ, biết phán xét, và biết sống trong bầu không khí đức độ. Có con thú nào có thể cứu được tôi khỏi bị sát hại bởi chính tôi không? Không con thú nào làm được điều đó. Chỉ có con người. Một con người trong hình vóc khác. Sư huynh ơi, anh đã tin tôi chưa? Im lặng, Cha Stone quỳ một chân xuống, nhặt mấy viên đạn còn nóng ấm lên và siết chặt chúng trong lòng bàn tay. Bình minh dâng lên sau lưng họ. — Tôi nghĩ rằng chúng ta nên trở về với các bạn của chúng ta để nói cho họ biết điều này và đưa họ lên đây, – Đức Cha Peregrine lên tiếng. Lúc mặt trời lên cao, hai vị linh mục đã về gần đến nơi chiếc hỏa tiễn Thập Giá đổ bộ. Chương 7 Đức Cha Peregrine vẽ một vòng tròn ngay giữa bảng đen và nói: — Đây là Jesus, con của Đức Chúa Trời. Ngài vờ như không nghe thấy tiếng hít hơi thật dài đầy thảng thốt của các vị linh mục đồng hành. — Đây là Đấng Ki-Tô với tất cả Vinh Quang, – Cha Peregrine tiếp tục. — Trông giống như một bài toán hình học, – Cha Stone nhận xét. — Một so sánh rất đúng, bởi vì ở đây ta phải sử dụng các biểu tượng. Các bạn phải nhìn nhận rằng Đấng Ki-Tô vẫn là Đấng Ki-Tô, cho dù Người được biểu thị bằng một hình tròn hay một hình vuông cũng chẳng làm mất đi sự thiêng liêng của Người. Suốt bao thế kỷ, chiếc thập giá đã là biểu tượng của yêu thương và đau khổ của Người. Cho nên, vòng tròn này sẽ là Đấng Ki-Tô của Hỏa Tinh. Chúng ta sẽ gieo rắc Chân Lý của Người trên Hỏa Tinh dưới biểu tượng này. Các linh mục nhìn nhau, xầm xì to nhỏ đầy vẻ bực tức. — Này sư huynh Mathias, anh sẽ làm một bình thủy tinh, thắp lửa bên trong Chúng ta sẽ đặt nó trên bàn thờ. — Một xảo thuật rẻ tiền, – Cha Stone thốt lên. — Trái lại là khác, – Cha Peregrine kiên nhẫn thuyết phục. – Chúng ta đang đem Chúa đến với họ trong một hình ảnh dễ hiểu. Nếu xưa kia dưới Trái Đất, Đấng Cứu Thế đến với ta dưới hình dáng một con bạch tuộc thì chúng ta có sẵn lòng chấp nhận Người hay không? – Cha Peregrine giang rộng hai cánh tay. – Như vậy việc Đức Chúa Trời đã cho Jesus đến với chúng ta trong hình vóc con người có phải là một xảo thuật rẻ tiền không? Sau khi đã ban phúc cho ngôi nhà thờ ta xây ở đây và lâm phép thánh hóa cho bàn thờ và biểu tượng này thì các bạn có cho rằng Đấng Ki-Tô sẽ từ chối không ngự vào cái hình thể trước mặt chúng ta đây sao? Trong thâm tâm các bạn đều biết rằng Người sẽ không từ chối. — Nhưng đây là thân xác của một loài thú không linh hồn cơ mà? – Sư huynh Mathias phản đối. — Từ sáng đến giờ chúng tôi đã chứng minh điều đó biết bao nhiêu lần rồi, sư huynh Mathias. Các sinh vật đó đã cứu chúng tôi thoát khỏi trận núi lở. Họ biết được việc tự hủy mình là tội lỗi nên đã ngăn cản tôi đến mấy lần. Vì vậy ta phải xây dựng một giáo đường trong dãy đồi kia, phải sống với họ để tìm hiểu những cách phạm tội đặc biệt của họ; những cách phạm tội rất xa lạ với chúng ta, và giúp họ tìm đến Chúa. Cái viễn cảnh ấy dường như không làm cho các linh mục hài lòng. — Hình thù thì có ý nghĩa gì nào? – Đức Cha Peregrine tiếp tục. – Chỉ là một chiếc bình chứa đựng linh hồn cháy bỏng mà Thượng Đế đã ban cho tất cả chúng ta. Nhưng sao ngài lại đặt trên bàn thờ cái bình cầu thủy tinh ấy? Cha Stone phản đối. — Ồ, anh bạn thử nhớ lại xem, người Trung Hoa Công Giáo họ thờ phụng Đấng Ki—Tô nào? Một Đấng Ki-Tô Đông Phương, tất nhiên. Anh đã từng thấy các ảnh thánh của người Trung Hoa rồi đấy. Họ vẽ Chúa Jesus mặc áo gì? Áo bào Đông Phương. Họ vẽ Người ở đâu? Trong bối cảnh Trung Hoa với núi mờ sương với rừng trúc với cội tùng vặn vẹo. Họ vẽ Chúa Jesus mắt xếch, gò má cao. Mỗi chủng tộc. mỗi đất nước đều thêm thắt một cái gì đó cho Thượng Đề của chúng ta. Tôi nhớ tới Đức mẹ Đồng Trinh Guadelupe mà dân Mehico ai cũng đều sùng bái. Da Đức Mẹ màu gì? Anh có thấy những ảnh thánh vẽ Đức Bà bao giờ chưa? Đức Mẹ da đen như màu da của những người thờ phụng Bà. Hình thù không thành vấn đề. Nội dung mới đáng kể. Chúng ta không thể chờ đợi các sinh vật Hỏa Tinh chấp nhận một hình thù xa lạ với họ. Chúng ta phải mang đến cho họ một Đấng Ki-Tô trong hình dáng của chính họ. — Có một lầm lẫn trong lý luận của ngài, thưa Đức Cha, – Linh mục Stone bắt bẻ. – Chẳng lẽ các sinh vật Hỏa Tinh không hồ nghi rằng chúng ta là những kẻ đạo đức giả sao? Chúng sẽ nhận ra là chúng ta không hề thờ phụng một Đấng Ki-Tô hình cầu tròn trịa mà là thờ phụng một con người với đầu mình tứ chi. Ngài giải thích sự khác biệt này như thế nào? — Bằng cách chứng tỏ không có gì khác biệt. Mọi thân xác đều là những bình cầu có ngài hiện hữu, và mỗi thân xác sẽ cùng thờ phụng chung một Thướng Đế dưới nhiều hình dạng khác nhau. Hơn nữa, chính chúng ta phải tin vào chiếc bình cầu ta sẽ mang đến cho sinh vật Hỏa Tinh. Chúng ta phải tin rằng mọi vóc dáng, hình hài đều vô nghĩa đối chúng ta. Quả cầu này sẽ là Đấng Ki-Tô. Và cần phải nhớ rằng, chính chúng ta đây trong hình dáng con người và một Đấng Ki-Tô Địa Cầu cũng có thể là vô nghĩa, dị hợm, buồn cười đối với các sinh vật Hỏa Tinh. Đức Cha Peregrine đặt viên phấn sang một bên. — Bây giờ chúng ta hãy đi lên đồi mà xây dựng nhà thờ. Các linh mục bắt đầu thu xếp trang bị. Chương 8 Nhà thờ ấy không phải nhà thờ mà chỉ là một vùng đá núi được dọn quang, một bình nguyên trên một triền núi thấp được cào sạch bụi đất, và một bàn thờ đã được dựng lên, bên trên đặt một quả cầu thủy tinh tỏa sáng do sư huynh Mathias thiết kế. Đến cuối ngày làm việc thứ sáu thì "giáo đường" đã sẵn sàng hoạt động. — Chúng ta sẽ làm gì với cái này? Cha Stone búng tay vào một quả chuông sắt mà họ đã mang theo từ Trái Đất. – Cái chuông này có ý nghĩa gì với chúng? — Tôi nghĩ rằng tôi mang quả chuông theo vì sự thoải mái của chúng ta, – Đức Cha Peregrine thú nhận. – Chúng ta cần một vài vật dụng quen thuộc. Ngôi giáo đường này thật sự không giống giáo đường mấy cho nên ở đây chúng ta cảm thấy hơi dị hợm… ngay cả tôi cũng vậy; bởi vì công việc này mới mẻ quá, truyền đạo cho các sinh vật của thế giới khác… Nhiều linh mục trong Đoàn đang bất mãn đấy. Một số còn chế giễu tất cả ý định của ngài nữa kia, Đức Cha Peregrine. — Tôi biết. Dù sao thì ta cũng treo quả chuông này lên một tháp nhỏ đi, vì sự thoải mái của họ… — Còn chiếc đàn phong cầm… — Chúng ta sẽ chơi đàn vào buổi lễ đầu tiên, sáng ngày mai. — Nhưng các sinh vật Hỏa Tinh… — Tôi biết rồi, khỏi nói. Tôi cũng nghĩ rằng âm nhạc cần thiết cho sự thoải mái của chúng ta. Sau này biết đâu ta lại chẳng tìm ra âm nhạc của Hỏa Tinh. Chương 9 Họ thức dậy rất sớm sáng Chúa Nhật hôm ấy và xếp hàng đi trong sương giá âm thầm như những bóng ma. Các linh mục đi đến khu vực bằng phẳng, rộng rãi của "giáo đường". Họ quỳ xuống, môi xanh tái. Đức Cha Peregrine đọc một bài kinh ngắn và đặt những ngón tay lạnh lên phím đàn phong cầm. Âm nhạc vút bay lên như một đàn chim. Đôi bàn tay Đức Cha thoăn thoắt trên hàng phím trắng đen, gom nhặt những mỹ miều tung bổng lên cho núi đồi. Tiếng nhạc thơm mùi sáng tinh sương, dạt trôi vào núi, lay động những vụn vỡ của khoáng chất và đổ xuống trần một cơn mưa bụi. Các linh mục đợi chờ. Cha Stone quan sát khoảng trời trống trải nơi vầng dương đang ló dạng, đỏ ngầu. — Vẫn chưa thấy những người bạn của chúng ta đến. — Để tôi thử lại lần nữa xem, – Cha Peregrine toát mồ hôi. Ông bắt đầu đan kết những kiến trúc hòa âm của Bach, từng viên đá giai điệu chồng lắp vào nhau, vươn cao thành một thánh đường âm nhạc mênh mông vút tận đỉnh trời. Khi âm ba đã lắng, giai điệu trùng trùng kia không đổ sụp thành đống điêu tàn mà hòa nhập vào những tầng mây trắng, lướt đi, bay về những miền đất khác. Bầu trời vẫn trống rỗng. — Họ sẽ đến mà! – Cha Peregrine cảm thấy trong ngực mình niềm hốt hoảng nhỏ nhoi đang vụt lớn. – Ta hãy cầu nguyện đi. Ta hãy yêu cầu họ đến. Họ đọc được ý nghĩ mà; họ sẽ hiểu. Các linh mục lại quỳ xuống. Họ cầu nguyện. Và từ phương Đông, những quả cầu lửa sáng dịu dàng hiện ra sau những đỉnh núi giá băng. Chúng lơ lửng, lượn vòng rồi hạ xuống đầy khoảng đất trống bao quanh đoàn linh mục. — Ôi, tạ ơn Chúa! – Cha Peregrine nhắm chặt đôi mắt và những ngón tay lại nhấn xuống phím đàn. Một tiếng nói vang vọng trong tâm trí Đức Cha Peregrine: — Chúng tôi chỉ đến đây một lát rồi đi. — Các bạn có thể ở lại, – Cha Peregrine kêu lên. — Chỉ một lát thôi, – tiếng nói ấy âm vang lặng lẽ. – Chúng tôi đến để nói với các người đôi điều. Chúng tôi là những Cổ Nhân. những sinh vật xa xưa của Hỏa Tinh, chúng tôi đã rời bỏ những thành phố cẩm thạch của mình để vào đồi núi sống, tử bỏ luôn cuộc đời vật dục. Ngày xưa chúng tôi cũng là người như các bạn. Huyền thoại kể lại rằng có một người thánh thiện đã khám phá được cách thức giải thoát linh hồn và trí tuệ ra khỏi thân xác, giải thoát khỏi những bệnh tật, phiền não, sầu bi, khỏi cái chết và biến thái; thế là chúng tôi từ đó mang hình dáng những đốm lửa xanh, sống bình yên trong gió ngàn, trời lộng và những núi đồi kia, không kiêu hãnh hay ngang tàng, không giàu không nghèo, và cũng không đam mê hay nguội lạnh. Nhưng chúng tôi sẽ không bao giờ chết mà cũng không làm hại ai. Chúng tôi đã giũ bỏ tội lỗi của xác thân và sống trong hồng ân Thượng Đế. Chúng tôi không chiếm đoạt tài sản vì chúng tôi không hề có tài sản. Chúng tôi không ăn cắp, không giết người, không dục vọng, không ghen ghét… Đức Cha Peregrine từ từ đứng thẳng người lên, vì tiếng nói ấy lồng lộng bên trong ngài ở một tần số cao đến mức muốn làm tê liệt mọi giác quan. Luồn lỏi trong cơ thể Đức Cha là một ngọn lửa bỏng cháy niềm hạnh phúc hân hoan. — Chúng tôi rất cảm ơn các người đã xây dựng nơi này cho chúng tôi, nhưng chúng tôi không cần đến nó, bởi vì mỗi chúng tôi là một đền thờ của chính mình và chúng tôi không cần nơi nào khác để gột rửa bản thân cho trong sạch. Cho nên chúng tôi đề nghị các người hãy dời những thiết bị này vào thành phố mới mà làm trong sạch cho nhưng con người đang ở đó. Và hãy an lòng rằng chúng tôi mãi mãi yên vui. Các vị linh mục quỳ gối trong vầng hào quang xanh lam vĩ đại ấy. Cha Peregrine cũng khụy chân quỳ xuống và tất cả khóc òa. Những quả cầu xanh thầm thì, chao động rồi bắt đầu nương theo một luồng gió mạnh bay bổng lên. — Cho phép tôi… – Đức Cha Peregrine bật kêu to, đôi mắt nhắm nghiền, ngần ngại không dám yêu cầu. – Cho phép tôi trở lại đây một ngày nào đó, để có thể học hỏi các bạn…? Những ngọn lửa xanh lòe sáng. Bầu trời rùng mình xao xuyến. Vâng. Một ngày nào đó ông có thể trở lại. Một ngày nào đó. Và rồi những quả bóng lửa bay đi khuất dạng. Như một đứa bé mắt đẫm lệ, Cha Peregrine vẫn quỳ, đôi tay vươn lên trời, gọi thầm: "Trở lại! TRỞ LẠI!"; ngài tưởng chừng bên cạnh ngài, người ông thân yêu sẽ bế ngài lên lầu, đặt vào chiếc giường ấu thơ của quê nhà Ohio xa vời tự bao giờ… Chương 10 Họ xếp hàng một đi xuống đồi lúc hoàng hôn. Ngoái nhìn lại, Đức Cha Peregrine trông thấy những ngọn lửa xanh lập lòe. Không, ông nghĩ thầm, chúng tôi không thể nào xây dựng giáo đường cho những người thánh thiện như các bạn. Các bạn chính là điều Tuyệt Mỹ. Có ngôi giáo đường nào dám sánh với những hoa pháo huy hoàng của linh hồn thanh khiết? Linh mục Stone lặng lẽ đi sau lưng ngài. Cuối cùng ông lên tiếng: — Thưa Đức Cha, tôi đã hiểu ra; trên mỗi hành tinh đều tồn tại một chân lý. Tất cả đều là thành phần của cái Chân Lý Vĩnh Cửu. Một ngày nào đó, tất cả các phần sẽ gắn khít lại với nhau thành Toàn Vẹn. Tôi sẽ không bao giờ hoài nghi nữa, thưa Đức Cha… — Ồ… — Xét về mặt nào đó, bây giờ tôi đâm tiếc là phải quay về thành phố để cứu rỗi linh hồn cho đồng loại chúng ta. Những ánh sáng xanh lam ấy… khi những đốm lửa dịu dàng ấy tụ quanh chúng ta. Và tiếng nói ấy… Cha Stone run rẩy bỏ dở câu nói. Đức Cha Peregrine vươn tay nắm lấy cánh tay người bạn đồng hành. Họ cùng đi bên nhau. — Và Đức Cha biết đấy, – Cha Stone lại lên tiếng, mắt nhìn sững về phía sư huynh Mathias đang đi đằng trước với quả cầu thủy tinh ôm trên tay. Quả cầu mang trong lòng một ánh sáng xanh lam dịu dàng vĩnh hằng tỏa chiếu, – Thưa Cha Peregrine, quả cầu kia… — Sao? — Chính là Người. Chính là Đấng Cứu Thế! Nơi Không Kẻ Vãng Lai Dù ngày hay đêm, chạy băng lục địa nước Mỹ bằng tàu hoả là anh lao vút qua hết thị trấn hoang vu này đến tỉnh lỵ đìu hiu khác nơi không kẻ vãng lai. Hay nói đúng hơn, anh lướt ngang những nơi mà ai chẳng có liên quan, ai chẳng còn cội rễ lưu giữ trong nấm mộ làng quê, thì chẳng ai mất công thăm viếng những ga xép lẻ loi hay lui tới những bối cảnh quạnh quẽ chốn ấy. Tôi nói điều đó với một bạn đồng hành, một người chào hàng cũng giống như tôi, trên chuyến tàu Chicago-Los Angeles khi chúng tôi băng qua tiểu bang Iowa. Anh ta đồng ý: - Đúng vậy, người ta thường ghé đến Chicago, ghé New York, ghé Boston, ghé Los Angeles. Ai không sống ở các vùng đó thì ghé chơi để về kể lại. Chớ có du khách nào lại xuống tàu ở Fox Hill, ở Nebraska để xem thử nó ra làm sao bao giờ? Anh hả? Tôi hả? Không đời nào! Tôi chẳng quen biết ai, chẳng có công việc gì ở đó, nó cũng chẳng phải khu nghỉ dưỡng, việc gì phải mất công mò tới? - Nhưng một năm nào đó thử làm một chuyến nghỉ mát thật sự khác biệt cũng là một thay đổi hấp dẫn đấy chứ? – Tôi nói. – Chọn một làng quê hẻo lánh nào đấy ở đồng bằng nơi anh chẳng quen biết một mống nào cả và tới đó thử chơi? - Anh sẽ chán ngấy cho xem. - Tôi vẫn khoái thử một lần đấy chứ! – Tôi ghé mắt nhìn qua cửa sổ. – Tuyến đường này sắp dẫn tới thị trấn nào vậy? - Rampart Junction. Tôi mỉm cười. - Coi bộ hay đấy. Chắc tôi xuống tàu ở đấy. - Anh vừa xạo vừa ngốc. Anh cần cái gì chứ? Phiêu lưu ư? Lãng mạn ư? Cứ việc nhảy xuống tàu đi. Chỉ mười giây sau thôi là anh sẽ tự chửi mình đồ ngu, vồ lấy tắc-xi và rượt theo chúng tôi đến nhà ga kế tiếp. - Có thể. Tôi nhìn những cột điện vút ngang, vút ngang, vút ngang. Xa xa trước mặt, tôi lờ mờ nhận ra những đường nét đầu tiên của một thị trấn. - Nhưng tôi không nghĩ thế đâu, – tôi nghe chính mình đang nói. Người chào hàng đối diện nhìn tôi có vẻ ngạc nhiên. Bởi vì, chậm rãi, rất chậm rãi, tôi đang dợm đứng lên. Tôi với tay lấy nón. Tôi thấy bàn tay mình mò mẫm tới chiếc va-li. Chính tôi cũng ngạc nhiên. - Khoan đã! – Người chào hàng kêu lên. – Anh định làm gì thế? Đoàn tàu đột ngột vòng qua một khúc quanh. Tôi lảo đảo. Tôi nhìn thấy ở đàng xa một tháp chuông nhà thờ, một cánh rừng trải rộng, một đồng lúa mùa hè. - Chắc là tôi sắp xuống tàu đấy, – tôi đáp. - Ngồi xuống đi. - Không. Thị trấn đằng kia có cái gì đó khiến tôi muốn ghé xem. Tôi còn nhiều thời gian. Thật sự là đến thứ Hai tới tôi mới cần có mặt ở Los Angeles. Nếu tôi không xuống tàu bây giờ thì tôi sẽ mãi thắc mắc không biết mình đã bỏ qua điều gì, một cơ hội nào đó tôi đã để vuột mất trong khi mình đã có dịp chứng kiến. - Thì bọn ta vừa mới nói chuyện rồi. Có gì ở đó đâu mà xem. - Anh đã lầm. Có chứ. Tôi đặt nón lên đầu và tay nhấc va-li lên. Người chào hàng sửng sốt: - Trời đất. Giờ thì tôi tin rằng anh dám làm thật. Tim tôi đập dồn. Mặt tôi bừng đỏ. Đoàn tàu kéo còi. Đoàn tàu lao nhanh trên đường ray. Thị trấn ấy đã gần kề! - Hãy chúc tôi gặp may mắn đi nào, – tôi bảo. - Chúc may mắn! – Anh bạn đồng hành kêu to. Tôi vừa hò hét vừa chạy đi tìm nhân viên trực toa. Một chiếc ghế tróc sơn cũ kỹ ngả lưng tựa vào bức tường sân ga. Trên ghế là một ông già khoảng bảy mươi ngồi thõng thượt, cả thân hình chìm lún trong mớ áo quần, dáng điệu bất động như dường tứ chi đã bị đóng đinh vào đó từ khi nhà ga này được dựng lên. Mặt trời hun sạm gương mặt ông và cày sâu trên má những luống hằn như da rắn mối cùng những nếp nhăn ghìm giữ đôi mi trong một cái nheo mắt bất tận. Mái tóc trắng màu tro như bốc khói trong gió hè. Chiếc áo sơ-mi mở banh khoe cần cổ xoắn vặn xương xẩu, chiếc áo vốn màu xanh giờ bạc thếch màu trời chiều nắng loá. Đôi giày phồng rộp cứ như ông đã tàn nhẫn dí chặt chúng vĩnh viễn ngay miệng bếp lò. Và dưới chiếc ghế là cái bóng tô đậm một vũng đen triền miên. Khi tôi bước xuống ga, ánh mắt ông già lia nhanh qua mọi cánh cửa của đoàn tàu và dừng sững, ngỡ ngàng, ở hướng tôi. Tôi nghĩ chắc ông sẽ vẫy tay chào. Nhưng chỉ có một thoáng biến sắc bất ngờ trong đôi mắt bí mật của ông ta, một phản ứng thay cho sự nhìn nhận. Thế nhưng ông già vẫn không hề máy động một khoé mép, một mi mắt, một ngón tay. Một khối tảng vô hình nào đó vừa chuyển dịch trong con người ấy. Đoàn tàu đang rời ga cho tôi cái cớ để đưa mắt nhìn theo. Không còn ai khác nữa trên sân ga này. Không chiếc ô-tô nào chực chờ bên văn phòng nhện giăng cửa khoá. Chỉ mình tôi rời khỏi con quái vật kim khí gầm vang kia để đặt chân xuống những đợt sóng nứt rạn của sân ga lát gỗ. Tiếng còi tàu rú vọng qua đồi. Đồ ngu! Tôi nghĩ thầm. Anh bạn đồng hành đã nói đúng. Chắc tôi sẽ phát hoảng lên trước nỗi buồn chán mà giờ tôi đã cảm nhận được ở chốn này. Được rồi, tôi ngu, nhưng bỏ chạy ư? Không! Tôi xách va-li băng qua sân ga, phớt lờ ông cụ. Lúc đi ngang, tôi nghe rõ tiếng thân hình gầy còm của ông ta xê dịch lần nữa, lần này cố tình cho tôi nhận biết. Hai bàn chân ông đang hạ xuống, sờ soạng rồi đập khẽ xuống lớp ván sàn nhớp nháp. Tôi cứ đi. - Xin chào, – một tiếng nói loáng thoáng. Tôi biết ông ta đâu có nhìn tôi mà chỉ nhìn lên mảng trống lớn không mây trên bầu trời lung linh. - Xin chào, – tôi đáp lại. Tôi bắt đầu đi lên con đường bụi bặm dẫn vào thị trấn. Đi được trăm thước, tôi liếc nhìn phía sau. Ông già vẫn ngồi đó, trân trối nhìn mặt trời như dường đang đặt một câu hỏi. Tôi vội vàng đi tiếp. Tôi đi xuyên thị trấn mơ màng buổi chiều, hoàn toàn vô danh và cô độc, một con cá lội ngược dòng không với được tới bờ nước trong lành của nguồn đời trôi chảy chung quanh. Những ngờ vực của tôi đã được xác định. Đây là một thị trấn chẳng có gì xảy ra, nơi mà những biến cố tôi bắt gặp chỉ là những chuyện này: Đúng bốn giờ, cánh cửa của tiệm buôn Honneger Hardware đóng sầm khi một con chó đi ra ngoài xù lông giũ bụi trên đường lộ. Bốn giờ rưỡi, một chiếc ống hút nút cạn tới đáy một ly sô-đa, bật ra một tiếng nấc mênh mông trong tiệm tạp hoá im lìm. Năm giờ, lũ nhóc con cùng những viên đá cuội lao mình xuống con sông thị trấn. Năm giờ mười lăm, đàn kiến diễu hành trong ánh nắng đổ nghiêng dưới mấy tàng cây. Tuy nhiên – tôi chầm chậm quay một vòng – đâu đó quanh đây nhất định phải có cái gì đó đáng quan tâm. Tôi biết chắc là có. Tôi biết tôi phải tiếp tục đi và nhìn ngắm. Tôi biết tôi sẽ tìm ra. Tôi đi. Tôi nhìn. Trọn buổi chiều này, chỉ có độc nhất một yếu tố là bất biến và thường trực: ông già trong bộ đồ xanh bạc màu luôn luôn theo tôi. Lúc tôi ngồi trong tiệm tạp hoá thì ông ta đứng trước hiên phun vèo những búng thuốc lá lăn tròn như con bọ hung trên đường bụi. Lúc tôi ra đứng bên sông thì ông ta ngồi thụp phía dưới dòng nước rửa tay với vẻ trịnh trọng cố tình. Cho đến khoảng bảy giờ rưỡi tối, tôi đã đi qua đi lại đến bảy tám lần trong những con phố trầm lặng của thị trấn này thì tôi nghe tiếng bước chân bên cạnh mình. Tôi ngoái nhìn, và chính ông già ấy đang sánh bước cùng tôi, mắt nhìn thẳng phía trước, một phiến cỏ héo cắn giữa hai hàm răng vàng ố. - Đã lâu lắm rồi, – ông ta lên tiếng rất khẽ. Chúng tôi đi cạnh nhau trong ánh trời chập choạng. - Lâu lắm rồi, – ông ta lại nói, – đợi chờ ở sân ga đó. - Ông hả? – Tôi hỏi. - Chính tôi, – ông già gật đầu trong bóng tối rặng cây. - Thế ông chờ ai ở nhà ga à? - Ừ. Chờ cậu đấy. - Chờ tôi? – Nỗi sửng sốt chắc đã lộ rõ trong giọng nói tôi. – Nhưng tại sao…? Ông chưa bao giờ gặp tôi trong đời cơ mà? - Tôi có nói tôi đã gặp cậu đâu? Tôi chỉ nói tôi đã đợi chờ. Bây giờ chúng tôi đã đến rìa thị trấn. Ông già quay gót và tôi cũng đã trở bước theo ông đi men theo bờ sông đang dần tối, về phía trụ cầu xe lửa nơi những chuyến tàu đêm thường băng ngang, đi đông, về tây, nhưng hiếm khi dừng lại chốn này. - Ông muốn biết gì về tôi nào? – Tôi đột nhiên hỏi. – Ông là cảnh sát trưởng ở đây? - Không, không phải cảnh sát trưởng. Mà tôi cũng chẳng muốn biết gì về cậu cả. – Ông già cho hai tay vào túi. Mặt trời đã lặn khuất. Trời mát lạnh bất ngờ. – Tôi chỉ ngạc nhiên là rốt cuộc cậu đã tới đây, thế thôi. - Ngạc nhiên? - Ngạc nhiên, và… hài lòng. Tôi đứng phắt lại, nhìn thẳng vào mặt ông ta. - Ông đã ngồi đợi ở sân ga ấy bao lâu rồi? - Hai mươi năm, hay khoảng chừng đó. Tôi biết ông già nói thật; tiếng ông lặng lẽ và trôi chảy như dòng sông. - Để chờ tôi? – tôi hỏi. - Hay kẻ nào đó giống như cậu, – ông già đáp. Chúng tôi tiếp tục đi trong bóng tối loang dần. - Cậu thấy thị trấn này sao? - Trầm lặng, hiền hoà. - Trầm lặng, hiền hoà, – ông cụ gật đầu. – Còn dân chúng thì sao? - Dân miền này trông cũng trầm lặng, hiền hoà. - Đúng thế. Trầm lặng, hiền hoà. Tôi đã định quay lại nhưng ông ta vẫn tiếp tục nói. Để lắng nghe và tỏ ra lịch sự, tôi phải đi theo ông vào vùng bóng tối rộng lớn hơn, bước vào những đợt sóng rập rờn của đồng lúa bên ngoài thị trấn. Ông già vẫn nói: - À, cái ngày tôi về hưu hai mươi năm trước, tôi đã ngồi ở sân ga đó và cứ ngồi đấy, không làm gì hết, cứ đợi chờ một chuyện gì đó xảy ra, tôi không hề biết mình chờ mong cái gì nữa. Nhưng khi cuối cùng nó xảy ra thì tôi biết, tôi nhìn nó và bảo, à, đúng là cái mình đợi chờ bấy lâu. Tàu lửa lật chăng? Không phải. Một bà bạn già trở về thị trấn sau năm mươi năm chăng? Không phải. Thật khó nói. Một kẻ nào đó. Một chuyện gì đó. Ước gì tôi có thể nói được… - Sao ông không cố bày tỏ xem? – tôi bảo. Những vì sao đã hiện ra. Chúng tôi tiếp tục đi. - Chà, – ông già nói chậm rãi, – cậu có hiểu rõ những gì bên trong cậu không? - Ý ông muốn nói cái bao tử của tôi hay là về tâm lý? - Đó đó! Ý tôi muốn nói đến đầu óc của cậu đấy, cậu có hiểu rõ nó không? Lá cỏ thì thầm dưới chân tôi. - Đôi chút. - Trong đời cậu có căm ghét nhiều người không? - Vài người. - Chúng ta ai cũng thế. Căm ghét ai đó cũng là chuyện thường tình, phải không, và không chỉ căm ghét mà những khi không bộc lộ ra, chúng ta thậm chí còn có lúc muốn đánh những kẻ đã làm ta đau khổ, hay hơn thế nữa, ta muốn giết chết chúng? - Cái cảm giác ấy chúng ta gặp như cơm bữa đấy thôi, – tôi nói, – và ta luôn gạt bỏ những ý tưởng đó đi. - Chúng ta gạt bỏ những ý tưởng ấy suốt cuộc đời mình. Xóm làng bảo thế này, thế nọ. Bố mẹ khuyên răn điều này, điều kia. Luật pháp nghiêm cấm đủ thứ. Thế là cậu cứ gạt bỏ hết chuyện giết người này đến chuyện giết người khác. Đến khi cậu già như tôi thì hai lỗ tai cậu đã đầy ứ không biết bao nhiêu điều tương tự. Và trừ phi cậu lao ra chiến trường thì không có gì tống khứ được cái ý tưởng giết người đó ra khỏi đầu. - Một số người chơi môn bắn súng, hay đi săn vịt, – tôi nói. – Số khác thì chơi quyền Anh hay đấu vật. - Nhưng có một số khác thì không làm thế. Tôi muốn nói với cậu về những kẻ như thế. Tôi nè. Cả đời tôi đã xát muối vào những xác chết đó để ướp trong ngăn lạnh của cái đầu này nè. Nhiều khi cậu nổi khùng với cả thành phố và tất cả những con người chung quanh vì chúng đã buộc cậu phải gạt bỏ cái mong muốn giết người sang một bên. Cậu thấy mình như một người tiền sử già man rợ cứ muốn gào rú lên và vung gậy đập nát đầu ai đó. - Kết luận là…? - Kết luận là ai ai cũng muốn giết người một lần trong đời để giải toả phần nào cái gánh nặng đó; những ý tưởng khát máu đè trĩu tâm trí mà hắn ta không có gan thi hành. Và đôi khi ta có được một cơ hội. Một kẻ nào đó chạy ngang trước mũi xe hơi của chúng ta và ta quên đạp thắng và cứ phóng tới. Không ai chứng minh được gì trong những chuyện như thế. Ngay cả kẻ giết người cũng không thừa nhận với bản thân. Hắn ta chỉ không kịp đạp thắng thôi mà. Nhưng cậu biết và tôi biết chuyện gì đã thực sự xảy ra, phải không? - Đúng, – tôi đáp. Thị trấn giờ đã xa khuất. Chúng tôi đi lên một chiếc cầu gỗ bắt ngang một dòng suối nhỏ, gần ngay dốc đường ray. - Đấy, – ông già vừa nói vừa cúi nhìn xuống mặt nước, – chỉ có một lối giết người duy nhất đáng ra tay là giết ở một nơi không ai có thể đoán ra ai giết hay tại sao giết hay ai bị giết, đúng không? Chà chà, tôi có ý tưởng đó có lẽ đã hai mươi năm rồi. Tôi không thường xuyên nghĩ tới nhưng nó vẫn còn nguyên vẹn. Này nhé; chỉ có một chuyến tàu độc nhất ghé lại đây mỗi ngày, nhiều khi tàu cũng chẳng buồn dừng nữa kia. Đấy, nếu cậu muốn giết một người nào đó thì cậu phải chờ đợi, phải không, hết năm này qua năm khác, cho đến lúc một kẻ hoàn toàn xa lạ mò đến thị trấn này, một kẻ xa lạ xuống tàu ở đây không vì lý do nào cả, một người không quen biết ai và không ai ở đây quen biết hắn. Lúc đó, và chỉ lúc đó thôi, tôi cứ ngồi ở cái ghế ngoài ga mà nghĩ mãi như thế, lúc đó cậu chỉ cần đi tới và khi chung quanh vắng vẻ, giết ngay hắn ta rồi ném xác xuống dòng sông. Người ta chỉ tìm thấy xác hắn hàng mấy dặm dưới hạ lưu. Có thể là người ta chẳng bao giờ tìm thấy. Sẽ không ai nghĩ đến chuyện mò tới thị trấn Rampart này mà kiếm hắn ta. Hắn đâu có đi đến đây. Hắn lên đường đến nơi nào khác kia. Đó, toàn bộ ý tưởng của tôi là thế. Và tôi nhận ra ngay nạn nhân của mình ngay giây phút hắn bước xuống tàu. Nhận ra hắn rõ ràng như thể… Tôi ngừng bước. Trời tối sẫm rồi. Phải một giờ nữa trăng mới lên. - Thế à? – tôi lên tiếng. - Phải, – ông già đáp, Đầu ông ngước lên nhìn sao trời. – Nói thế đủ lắm rồi. – Ông già bước tới rụt rè bước tới nắm lấy cánh tay tôi. Bàn tay ông nóng hực chẳng khác chi đã hong trên bếp lò trước khi chạm vào tôi. Còn bàn tay kia, bàn tay phải, vẫn dấu khuất, nắm chặt, trong túi quần. – Nói thế đủ lắm rồi. Một tiếng gào rú. Tôi ngẩng phắt lên. Trên cao, một đoàn tàu đêm tốc hành đâm toạc không gian theo những đường ray không nhìn thấy được, ánh đèn pha vãi vung trên rú rừng, nông trang, thị trấn, ruộng đồng, hào rãnh và mặt nước; rồi, gầm thét, vút đi xa, kêu rít, mất dạng. Những thanh tà-vẹt bần bật rung rền. Rồi, im lặng. Ông già và tôi đứng nhìn nhau trong bóng tối. Bàn tay trái ông ta vẫn còn nắm khuỷ tay tôi. Bàn tay kia vẫn dấu kín. - Tôi nói đôi điều được không? – Sau cùng, tôi lên tiếng. Ông già gật đầu. - Nói về bản thân, – tôi ngập ngừng. Tôi bổng thấy khó thở. Tôi buộc mình phải tiếp tục. – Lạ thật, Tôi cũng hay nghĩ giống như ông. Đặc biệt là hôm nay, ngồi trên tàu tôi đã nghĩ: Hoàn hảo quá, hoàn hảo quá, thật không còn gì hơn được nữa. Chuyện làm ăn dạo này chẳng ra chi. Vợ thì bịnh hoạn. Thằng bạn tốt chết mất tuần qua. Thế giới chiến tranh khắp nơi. Thử hỏi sao không giận sôi gan! Tôi sẽ thấy dễ chịu biết bao nếu như… - Nếu sao? – ông già hỏi, bàn tay vẫn nắm cánh tay tôi. - Nếu như tôi xuống tàu ở một thị trấn nhỏ nào đó, khẩu súng mang dưới nách, nơi không một ai quen biết tôi, rồi tìm ai đó, bắn chết, chôn xác xong quay ngược lại nhà ga đón tàu đi tiếp, về nhà, và không ai hay biết gì hơn, không ai biết được gì bao giờ. Thật hoàn hảo, tôi đã nghĩ, một tội ác hoàn hảo. Và thế là tôi đã xuống tàu. Chúng tôi lại đứng trong bóng tối trừng trừng nhìn nhau một hồi. Có lẽ chúng tôi đang lắng nghe tiếng tim người kia đập dồn, rất nhanh, rất vội. Thế giới xoay chuyển dưới chân tôi. Tôi ghì chặt hai nắm đấm. Tôi muốn ngã gục. Tôi muốn gào rú lên như đoàn tàu vừa chạy qua. Bởi vì đột nhiên tôi nhận biết tất cả những gì tôi vừa nói ra không phải là những lời dối trá để cứu lấy thân. Tất cả những gì tôi nói với ông già đều là sự thật. Bây giờ tôi đã hiểu vì sao mình lại xuống tàu và đi rảo quanh cái thị trấn này. Tôi đã hiểu tôi tìm kiếm cái gì. Tôi nghe tiếng ông già thở hắt ra gấp gáp. Bàn tay ông níu cứng cánh tay tôi như dường sợ té ngã. Hai hàm răng nghiến chặt, ông chồm về phía tôi cùng lúc tôi chồm tới ông ta. Một khoảnh khắc im lặng kinh hoàng của nổi căng thẳng tột cùng trước một sự bùng nổ. Ông già gắng gượng thốt ra lời. Đó là tiếng nói của một kẻ bị nghiền nát dưới một gánh nặng ghê gớm. - Làm sao tao tin được là mày dấu súng dưới nách? - Làm sao ông biết chứ? – Giọng tôi lạc hẳn đi. – Làm sao ông biết được! Ông già chờ đợi. Tôi tưởng chừng ông ta sắp ngất đi. - Có thật thế không? – ông ta hỏi. - Thật thế đấy! – tôi đáp. Ông già nhắm nghiền đôi mắt. Ông mím chặt đôi môi. Thêm một lúc im lặng kéo dài nữa rồi rất chậm, rất nặng nhọc, ông gắng sức nhấc bàn tay khỏi cánh tay trĩu nặng của chính tôi. Ông nhìn xuống bàn tay phải của mình và rút ra khỏi túi quần, trống rỗng. Chậm chạp, nặng nề, chúng tôi mỗi người quay về một hướng và dợm chân đi từng bước mù loà trong bóng tối. Bảng đèn báo hiệu đón khách lập loè trên đường tàu nửa đêm. Mãi đến lúc đoàn tàu rời ga tôi mới chồm người qua khung cửa mở của toa tàu hạng nhất nhìn lại phía sau. Ông già ấy đã ngồi xuống chỗ cũ, chiếc ghế ngả lưng tựa vào tường nhà ga, vẫn bộ đồ xanh bạc thếch, vẫn gương mặt khô nẻ, vẫn đôi mắt nhạt nhoà. Ông già không liếc nhìn tôi khi đoàn tàu lướt ngang. Ông đang chăm chăm nhìn về hướng đông dọc theo đường ray trống vắng nơi ngày mai, ngày kia hay một ngày nào đó, một đoàn tàu, bất kỳ đoàn tàu nào, có thể vút qua, có thể chậm lại, có thể ngừng bánh. Gương mặt bất động, đôi mắt trừng trừng mù quáng dõi theo hướng đông. Trông ông như già đã trăm năm. Còi tàu rền rĩ. Bỗng dưng thấy mình cũng già cỗi, tôi toài người ra cố nheo mắt nhìn. Giờ đây cái bóng tối đem chúng tôi lại gần nhau đã đứng chắn ở giữa. Ông già, nhà ga, thị trấn, cánh rừng lọt thỏm trong đêm. Suốt một giờ liền, tôi cứ đứng đó trong tiếng gào rú của đoàn tàu trân trối nhìn vào cõi tăm tối ấy. Thời Không Huyền Thoại (Nguyên tác: The Dragon) Đêm lặng lờ không chút xôn xao ngoại trừ bước gió lùa qua những phiến cỏ cụt trên đồng hoang. Đã nhiều năm rồi kể từ ngày một cánh chim côi lẻ lướt ngang vòm trời mù mịt bao la này. Đã xa xưa từ khi vài viên đá cuội vỡ nát thành cát bụi nuôi đời sinh sôi. Bây giờ chỉ có màn đêm xao động trong lòng hai người đang nghiêng mình bên ngọn lửa trơ vơ giữa hoang vu; hai bóng tối âm thầm len lỏi vào mạch máu và lặng lẽ phập phồng hai bên thái dương họ, trên hai cườm tay họ. Ánh lửa nhấp nhô hắt bóng trên hai gương mặt hoang dã và nhuộm đỏ ánh mắt của hai người. Họ lắng nghe hơi thở khẽ khàng của nhau, nghe tiếng thạch sùng nháy mắt chong đêm. Cuối cùng, một người đàn ông đưa mũi kiếm khêu cao ngọn lửa. - Đừng! Đồ ngốc; anh làm lộ tông tích chúng ta mất. - Không hề gì đâu, – người kia đáp. – Đằng nào thì con rồng ấy cũng có thể đánh hơi được chúng ta từ xa nhiều dặm kia. Lạy Chúa, lạnh quá. Ước gì tôi đã ở lại lâu đài. - Chúng ta đâu có theo đuổi giấc ngủ, mà chính là cái chết… - Tại sao? Tại sao? Con rồng ấy không hề đặt chân vào thành phố kia mà! - Im đi, đồ ngốc! Nó ăn thịt những kẻ nào đi lại một mình giữa thành phố ta và thành phố lân cận đó! - Cứ để mặc cho họ bị ăn thịt đi, còn chúng ta về nhà! - Chờ đã, nghe kìa! Hai người đàn ông đứng lặng. Họ chờ đợi một lúc lâu nhưng chỉ nghe thấy tiếng hai con ngựa của họ bồn chồn cựa quậy tấm thân nhung đen làm cho các bàn đinh thúc ngựa va lanh canh vào nhau, rất khẽ, rất khẽ. - Aaa…, – người thứ hai thở hắt ra. – Đúng là một xứ sở ác mộng! Chuyện gì cũng xảy ra ở đây cả. Ái chà chà! Người ta đồn con rồng này có đôi mắt là lửa đỏ, hơi thở nó là khói trắng mù mịt; anh có thể nhìn thấy nhiều dải đất đã bị nó thiêu cháy đen kịt. Nó phóng đi cùng với diêm sinh, sấm chớp và châm lửa khắp đồng cỏ. Những con cừu khiếp đảm và chết vì phát rồ. Phụ nữ sinh ra toàn những con quái vật. Sự thịnh nộ của con rồng ấy ghê gớm đến mức các bức tường lâu đài phải vỡ nát như cám. Mỗi bình minh là lại thấy xác các nạn nhân của nó vương vãi đến tận dãy núi kia. Anh thử nói xem, có bao nhiêu hiệp sĩ đã tấn công con quái vật ấy và đã thất bại, kể cả chúng ta luôn nữa. - Thôi, đủ rồi! - Chưa đâu! Ở giữa cái nơi cô quạnh này tôi không làm sao biết được cả thời gian, cả năm tháng nữa! - Bây giờ là năm chín trăm kể từ ngày Giáng Trần. - Không đâu, – người kia thì thào, đôi mắt nhắm nghiền. – Trên đồng hoang này làm gì có Thời Gian, chỉ có Vĩnh Cửu mà thôi. Tôi tưởng chừng như nếu tôi chạy ngược lại con đường này để trở về thì cả thành phố sẽ biến mất, con người vẫn chưa ra đời, mọi vật đã đổi thay, các lâu đài vẫn còn nằm sâu trong lòng đá tảng chưa xây, các xúc gỗ vẫn còn nằm nguyên trong rừng chưa đốn; anh đừng có hỏi tôi tại sao; chính cánh đồng hoang này đã khiến tôi có linh cảm như thế đấy. Và chúng ta thì lại ngồi ở đây, ngay trong giang sơn của con rồng lửa, xin Chúa cứu giúp chúng con! - Nếu anh sợ, hãy vận giáp phục vào đi! - Có ích gì? Con rồng có thể xuất hiện từ bất cứ hướng nào, chúng ta không thể đoán được xuất xứ của nó đâu. Nó tan biến trong sương mù; chẳng biết nó đi về đâu. Chà, cứ mặc giáp phục vào vậy, ít ra thì chúng ta cũng được chết khỏi lõa lồ. Chưa mặc xong chiếc áo chẽn màu bạc, người thứ hai đã ngưng lại, ngoái đầu nhìn. Bên kia dải đất lờ mờ tràn ngập bóng đêm và hư không, một cơn gió bốc lên từ giữa lòng đồng hoang mịt mù những lớp cát bụi mà những chiếc đồng hồ cổ xưa đã dùng để đếm thời gian. Những mặt trời đen ngòm bừng cháy trong tim cơn gió mới và hàng triệu chiếc lá cháy thiêu giũ mình rời xa một thân cây mùa thu nào đó cuối chân trời. Cơn gió làm tan loãng cảnh vật, kéo dài những cốt xương như kéo dài một thỏi sáp trắng, làm cho bầu máu sôi sục đặc quánh thành một quặng bùn lầy trong bộ óc. Cơn gió ấy chính là cả nghìn linh hồn hấp hối và tất cả thời gian hỗn độn đang băng qua. Đó là mù sương trong bóng tối và đây không phải là nơi chốn của con người. Không còn tồn tại tháng năm lẫn giờ phút mà chỉ còn hai kẻ lẻ loi ấy giữa sự trống rỗng vô danh của cơn buốt giá bất ngờ, của bão tố và sấm chớp đang di động phía sau một bức tường xanh lè trong suốt đang sụp đổ: Chớp lòe! Một cơn mưa dông ướt đầm mặt đất; tất cả nhạt nhòa đi, lịm tắt dần cho đến lúc chỉ còn một sự tĩnh mịch nghẹt thở, và hai người đàn ông chờ đợi cô độc. - Kia kìa, người thứ nhất thì thầm. – Ô, kia… Từ xa nhiều dặm, con rồng đang lao tới trong tiếng gầm rống chen lẫn tiếng kinh cầu vang dội. Im lặng, hai người cài giáp sắt rồi lên ngựa. Sự hoang vu của đêm khuya bị chẻ toạc bởi một tràng âm thanh ghê rợn lúc con rồng gầm thét tiến gần hơn, gần hơn; ánh mắt vàng hực của nó phóng lửa tràn qua một ngọn đồi và rồi, từng khúc cuộn của thân hình con quái vật lờ mờ hiện ra, trườn qua đồi, nhào xuống thung lũng mất dạng. - Mau lên! Bàn tay bọc giáp sắt siết chặt thanh trường thương, hai người hất những mảnh sắt chắn cho buông sụp xuống mắt hai con ngựa. - Chúa ơi! - Vâng, hãy nhân danh Chúa mà liều mạng thôi. Trong chớp nhoáng, con rồng đã vòng qua trái đồi. Con mắt vàng rực của nó nhìn trừng trừng vào họ, khạc những tia lửa đỏ vào giáp sắt của hai hiệp sĩ. Với một tiếng gào rền rĩ kinh rợn, con quái vật lao bắn tới trước. - Xin chúa xót thương! Mũi trường thương đâm vào dưới con mắt màu vàng không mi ấy, cong oằn, hất tung chàng hiệp sĩ lên không. Con rồng trờ tới hích anh ta lộn nhào xuống đất và nghiền nát kẻ đáng thương dưới thân hình khổng lồ. Băng vèo qua, một bờ vai đen đúa của nó giáng vào vào con ngựa còn lại và người kỵ mã bị hất tung đi cả trăm thước, va sầm vào một khối đá núi, rên siết. Con rồng rít lên, lửa bắn tứ tung khắp nơi, ngọn lửa mặt trời hồng, vàng, đỏ rực với những cuộn khói khổng lồ uốn lượn, che phủ đất trời. - Anh có thấy nó không? – Một tiếng nói thốt lên. – Đúng y như tôi nói với anh mà! - Đúng thật! Đúng thật! Một hiệp sĩ vận giáp phục! Lạy Chúa! Chúng ta đã cán phải hắn! - Anh có ngừng lại không? - Trước kia tôi có thử ngừng lại rồi; chả thấy gì hết. Tôi không muốn ngừng trên dải đồng hoang này đâu. Tôi ngán lắm. Có cảm giác gì đó rờn rợn… - Nhưng chúng ta đã cán phải một cái gì đó! - Cứ gióng còi cho đã đời đi, nó không nhúc nhích đâu! Một hồi còi inh ỏi vút lên trời xua sương mù tản mạn. - Chúng ta sẽ đến Stokley đúng giờ. Ê, cho thêm than vào lò đi, Fred ơi! Một hồi còi nữa giũ sạch sương đêm khỏi bầu trời trống rỗng. Chuyến tàu hỏa đêm, lửa hừng hực trong lò, giận dữ chạy băng băng qua một khe núi, vọt lên một gò cao, rồi khuất bóng dần về hướng bắc, để lại đằng sau những luồng hơi nước và khói đen lảng đảng tan biến trong bầu không khí tê buốt saukhiđoàntàuđãvượtquavàrađimãimãi. Biển Lặng Một Mùa Nào Đó (Nguyên tác: In A Season Of Calm Weather) Vợ chồng George và Alice Smith xuống tàu ở Biarritz một trưa hè và trong vòng một giờ đã chạy băng từ khách sạn ra bãi biển nhào xuống sóng nước rồi quay lại phơi mình trên cát. Nhìn George Smith nằm dài, người đỏ hồng, hẳn bạn sẽ cho rằng anh ta chỉ là một du khách mới đến châu Âu lần đầu và chẳng bao lâu sẽ quay về chốn cũ. Nhưng đây là một con người yêu hội hoạ còn hơn cả cuộc đời này. - Thế đấy… – George thở dài. Thêm một chút mồ hôi nữa chảy dài trên ngực anh. Hãy đun cho sôi cạn nguồn nước máy Ohio trong người, anh nghĩ thầm, rồi uống cho đầy loại rượu Bordeaux ngon nhất. Hãy để cho cặn rượu nồng đất Pháp ngấm trong máu để ta có thể nhìn thấy bằng đôi mắt dân bản xứ! Tại sao? Sao lại phải ăn, uống, hít, thở mọi thứ của Pháp chứ? Phải làm thế để anh có thể thật sự hiểu được thiên tài của một con người duy nhất, nếu có thời gian. Môi anh mấp máy hình thành một cái tên. - George? – Bóng vợ anh chờn vờn bên trên. – Em biết anh đang nghĩ gì rồi. Em biết anh thầm gọi ai. Anh nằm yên như tượng, đợi chờ. - Ai? - Picasso. Anh nhăn mặt. Rồi có ngày vợ anh phải học cách gọi cái tên ấy. - Thôi mà, – vợ anh nói. – Thoải mái đi anh. Em biết anh đã nghe tin đồn ấy sáng nay, nhưng giá như anh thấy được ánh mắt của chính mình… Anh lại bồn chồn rồi kìa! Được rồi, Picasso đang ở đây, xuống dưới kia mấy dặm, ông ta viếng thăm bạn bè tại một làng chài nhỏ nào đó. Nhưng anh phải quên chuyện ấy đi chứ không thì uổng phí cả kỳ nghỉ mát của chúng ta. - Ước gì anh đừng bao giờ nghe tin đồn ấy, – anh nói thật lòng. - Giá như anh yêu thích các hoạ sĩ khác. Những người khác? Đúng, còn nhiều người khác. Anh có thể dùng bữa sáng hết sức tương đắc với những bức tĩnh vật Caravaggio vẽ những trái lê mùa thu và những quả mận nửa khuya. Cho bữa trưa: mấy đoá hướng dương Van Gogh oằn oại như những con giun căng phềnh, phụt lửa, những đoá hoa mà một người mù cũng nhìn thấy được chỉ bằng cách vuốt nhanh mấy ngón tay nóng bỏng dọc theo khung vải rực cháy. Nhưng còn đại tiệc? Còn những bức tranh mà anh đã dành cho một khẩu vị riêng? Kia, tràn lấp chân trời như thuỷ thần Neptune đội sóng, tóc vướng rêu rong, cẩm thạch, san hô, mớ bút vẽ lăm lăm như những cây đinh ba trong hai nắm tay móng sừng, và với chiếc đuôi cá mênh mông đủ sức quật tung những cơn mưa rào mùa hạ trên khắp eo biển Gibranta. Còn ai nữa ngoài người sáng tạo ra Guernica và Cô Gái Trước Gương Soi? - Alice ơi, – anh nhẫn nại nói, – làm sao anh giải thích được? Bước chân xuống ga là anh đã nghĩ ngay: Trời ơi, đúng là xứ sở Picasso! Nhưng có thực vậy chăng? Anh băn khoăn. Trời này, đất này, những con người này, những viên gạch hồng màu má thắm ở đây, những ban công bằng thép lá cuộn vòng ánh biếc xanh nằm kia, cây đàn măng-đô-lin mọng tròn như trái chín hằn in cả ngàn dấu tay ai đó, những tờ thông cáo rách tơi bay tung trong gió đêm như công-fet-ti rơi – còn bao Picasso, còn bao George Smith đang nhìn thế giới với đôi mắt Picasso? Không làm sao anh trả lời được. Ông già ấy đã chưng cất trọn tinh tuý của dầu thông và nhựa lanh qua con người George Smith để hình thành nên sự sống của chính anh, trọn Thời Kỳ Xanh chạng vạng, trọn Thời Kỳ Hồng hừng đông. - Anh cứ suy tính mãi, – anh nói lớn, – nếu như ta đã dành dụm… - Chúng ta chả bao giờ có được năm nghìn đô-la. - Anh biết, – giọng anh trầm lại. – Nhưng cứ nghĩ là một ngày nào đó ta sẽ xoay xở được cũng thích chứ. Sẽ tuyệt vời biết bao nếu như ta có thể bước thẳng tới trước mặt ông ta và nói "Pablo ơi, năm nghìn đô-la đây! Hãy cho chúng tôi đại dương, bãi cát, bầu trời, hay bất cứ thứ cũ kỹ nào ông muốn, chúng tôi sẽ rất vui sướng…" Sau một lúc im lặng vợ anh nắm lấy cánh tay anh. - Em nghĩ anh nên xuống tắm biển thì hay hơn. - Ừ, thà là thế, – anh lẩm bẩm. Những tia lửa trắng tung toé lên khi anh lao mình xuống nước. Suốt buổi chiều George Smith lại đi ra biển, hoà mình trong dòng chuyển động tràn ngập, bao la của đám người hết phơi nắng lại xuống nước; những kẻ cuối cùng cũng lê bước trở về các khách sạn cao tầng lúc mặt trời xế bóng, tấm thân đỏ hồng màu tôm luộc hay nâu dòn màu gà rán. Bãi biển nằm hoang vắng hàng dặm chập chùng chỉ còn lại hai người. George Smith là một; khăn tắm choàng vai, anh sùng kính dạo quanh một lần chót. Cách đó một khoảng, một người đàn ông khác, vóc người thâm thấp, mặc quần bơi, lang thang một mình trong tiết trời yên ả. Da nhuộm thâm màu nắng, mặt trời hun đỏ mái tóc húi cao, và trên gương mặt ông là đôi mắt trong sáng như mặt nước. Thế là một kịch trường đã được dựng lên trên bãi biển, và trong một vài phút nữa hai người ấy sẽ gặp nhau. Một lần nữa, Định Mệnh đã ấn định khuôn thước cho bao sửng sốt cùng ngạc nhiên, bao lần ra đi và về đến. Trong khi đó, hai kẻ lang thang cô độc kia không một phút nào nghĩ tới sự ngẫu nhiên – cái dòng chảy vô hình đưa đẩy bước chân mỗi người trong mọi đám đông trong mọi phố phường. Họ cũng không nghĩ rằng nếu một người dám lao mình vào dòng chảy ấy, hắn sẽ vồ được trong mỗi bàn tay một sự diệu kỳ. Giống như mọi người, họ nhún vai trước những trò điên rồ như thế rồi đứng tránh thật xa trên bờ kẻo Định Mệnh sẽ xô nhào họ xuống. Người lạ mặt đứng một mình. Đảo mắt một vòng, ông nhìn sự đơn độc của mình, nhìn những con sóng trên vịnh biển yêu kiều, nhìn vầng dương đang buông trôi những sắc màu cuối cùng trong ngày, và rồi, dợm quay lưng, chợt bắt gặp một que gỗ nhỏ trên cát. Nó chẳng lớn hơn gì chiếc que mảnh dẻ cắm vào một miếng cà-rem hương chanh ngon ngọt đã tan chảy từ lâu. Mỉm cười, ông nhặt chiếc que lên. Thêm một lần nữa đảo mắt nhìn quanh để yên tâm là vẫn một mình, ông lại khom người, nhẹ nhàng cầm giữ chiếc que. Bằng những đường múa bay bổng của bàn tay, ông bắt đầu làm điều duy nhất trên đời ông biết cách làm hoàn hảo nhất. Ông bắt đầu vẽ những đường nét lạ thường dọc theo bờ cát. Ông phác hoạ một hình tượng rồi nhích người sang một bên, mắt vẫn cúi nhìn xuống, bây giờ hoàn toàn tập trung vào công việc, vẽ thêm xuống cát hình thứ hai, thứ ba, và cứ thế vẽ mê mải hình thứ tư, thứ năm, thứ sáu. George Smith bước đi, bàn chân in dấu trên bãi biển, mắt dõi nhìn đây đó và trông thấy người đàn ông ở phía trước. Tiến lại gần, anh nhận ra vóc dáng lom khom của người đàn ông da sạm nắng. Gần hơn nữa, giờ thì đã rõ ông ta đang làm gì. George Smith cười thầm. Tất nhiên, tất nhiên… dọc theo bãi cát, người đàn ông ấy – bao nhiêu tuổi nhỉ? Sáu mươi lăm? Bảy mươi? – đang hí hoáy, nguệch ngoạc vẽ. Ôi, cát biển tung bay! Ôi, những bức chân dung man dại ném mình ra phô bày trên bờ biển! Ôi… George Smith tiến thêm một bước và dừng lại, đứng lặng. Người lạ mặt kia vẫn vẽ mãi không thôi, dường như chẳng hề nhận biết có ai đó đang đứng ngay sau lưng ông và cái thế giới ông đang hoạ hình trên cát. Đến lúc này thì niềm sáng tạo cô độc đã cuốn hút ông ta miệt mài đến độ những quả bom có nổ tung trong lòng vịnh cũng không thể ngăn được bàn tay bay bổng của ông hay buộc ông phải ngoái nhìn lui. George Smith cúi nhìn xuống cát. Và sau một hồi lâu nhìn ngắm, anh bắt đầu run rẩy. Vì trên bờ biển phẳng phiu kia là hình tượng của những con sư tử Hy Lạp và đàn dê Địa Trung Hải; những trinh nữ thịt da bằng cát mịn óng vàng; những dương thần thổi chiếc tù và gọt đẽo thô sơ; bầy trẻ nhỏ đang nhảy múa, đang rải hoa dọc theo bờ cát với đàn cừu lon ton theo sau; rồi tới các nhạc công nhảy nhót theo tiếng đàn lyre, đàn harp; lũ kỳ lân đuổi theo đám thanh niên về đồng lúa, rừng rú xa xôi; những hoả diệm sơn cùng bao thành quách điêu tàn. Dọc theo bờ biển này, bàn tay, chiếc que gỗ của người đàn ông đang cúi gập trong cơn sốt và suối mồ hôi nhễ nhại, cứ không ngừng chuyển động, vẽ, vạch, ngoằn ngoèo, vút ngang, xổ dọc, vào, ra, nhấn nhá, vuốt ve, trì hoãn, rồi hối hả bay tiếp như dường cơn say sưa phiêu lãng này phải bùng vỡ đến tận cùng trước khi mặt trời chìm lún trong lòng biển. Hai mươi, ba mươi thước hay còn hơn thế, các nữ thuỷ thần và những rặng sồi và những nguồn suối mùa hè hiện ra trong những ký tự tượng hình tách bạch. Bãi cát trong ánh nắng hấp hối ánh rực lên màu đồng nung chảy, trên mình cát giờ đây đã được rạch sâu một thông điệp mà bất kỳ ai, vào bất kỳ lúc nào, cũng có thể đọc và nghiền ngẫm cả đời. Mọi vật quay cuồng, lửng lơ bằng chính luồng gió và trọng lực tự thân. Này rượu vang đang bị nghiền nát dưới những bàn chân tươm máu nho của đám con gái người buôn rượu đang nhảy múa, này biển cả mịt mù đã khai sinh ra những con quái vật phủ giáp đồng trong khi những cánh diều đầy hoa rải rắc hương thơm trên mấy tầng mây phiêu bạt… này… này… này… Người hoạ sĩ ngừng tay. George Smith thối lui và tránh xa một khoảng. Người hoạ sĩ ngước lên, ngỡ ngàng khi nhận ra có kẻ đứng kề bên. Rồi ông chỉ đứng đó, hết nhìn George Smith lại quay sang nhìn những sáng tạo của mình ngổn ngang như những dấu chân tha thẩn trên cát. Sau cùng ông nhún vai và mỉm cười như muốn nói: Hãy xem tôi đã làm trò gì kia; thật trẻ con quá phải không? Anh thứ lỗi cho tôi nhé? Đôi khi tất cả chúng ta đều cư xử như những kẻ ngốc… Cả anh có lúc cũng thế…? Vậy bỏ qua cho lão già ngốc này nhé? Tốt! Tốt! Nhưng George Smith chỉ có thể đứng nhìn người đàn ông thấp bé kia, nhìn màu da sạm nắng, nhìn đôi mắt tinh anh, và thầm gọi tên ông chỉ một lần, rất khẽ, cho riêng mình. Họ cứ đứng như thế một hồi lâu. George Smith đăm đăm nhìn xuống mặt cát và người hoạ sĩ quan sát anh với vẻ tò mò thích thú. Môi George Smith mấp máy không nên lời, bàn tay anh đưa ra rồi ngượng ngùng rụt về. Anh tiến đến gần những bức tranh rồi lại lùi xa. Sau đó anh lại đi men theo những hình tượng trải dài trên cát như một người đang chiêm ngưỡng một sưu tập quý báu toàn những pho tượng cẩm thạch bị phế bỏ trong chốn điêu tàn cổ đại nào đó trên bãi biển này. Đôi mắt anh không chớp, bàn tay khao khát được chạm vào nhưng không dám. Anh muốn bỏ chạy nhưng vẫn đứng đó. Anh đột ngột nhìn về khách sạn. Chạy mau, đúng! Chạy mau! Làm gì? Vớ lấy một cái mai, cái xẻng nào đó, đào, quật, cứu lấy một tảng cát quá đỗi mong manh này? Tìm một người thợ gốm, xua anh ta tới đây với bột thạch cao để đổ khuôn lưu lại một phần nhỏ nhoi của những hình tượng này? Không, không. Ngớ ngẩn, ngớ ngẩn. Hay là…? Mắt anh liếc nhanh về hướng cửa sổ khách sạn. Máy ảnh! Mau, chạy đi, mang nó lại đây rồi cuống cuồng men theo bờ cát, bấm máy, thay phim, bấm máy, cho đến khi… George Smith quay phắt lại đối diện với mặt trời. Nắng tà đang tàn lụi trên mặt anh, châm bừng hai ngọn lửa cỏn con trong đôi mắt. Mặt trời đã chìm nửa thân dưới sóng, và khi anh ngoái nhìn, nó vội ngụp lặn mất tăm trong khoảnh khắc. Người hoạ sĩ bước lại gần anh và bây giờ đang đăm đăm theo dõi nét mặt George Smith với vẻ thân thiện tột cùng chẳng khác nào ông đã đoán được mọi ý nghĩ trong tâm trí anh. Giờ ông gật đầu khẽ chào. Giờ chiếc que kem hững hờ rơi tuột qua mấy ngón tay ông. Giờ ông ta đang nói lời tạm biệt, tạm biệt. Giờ ông ta đã bỏ đi, quay ngược lại theo bãi biển xuôi về hướng nam. George Smith đứng lặng nhìn theo. Rồi sau đó, anh không còn biết làm gì hơn là quay lại chỗ bức tranh kỳ ảo đầu tiên vẽ các dương thần và trinh nữ tắm trong rượu nho, vẽ lũ kỳ lân nhảy nhót và đám trai trẻ thổi sáo. Và anh cứ chậm rãi men theo bờ biển. Chân cứ bước, mắt cứ nhìn xuống niềm say mê phóng túng chảy tràn dưới cát. Khi đã đi tới những con người, con thú cuối cùng, anh lại quanh lưng và bắt đầu đi ngược lại, mắt vẫn đăm đăm nhìn xuống cứ như anh vừa đánh mất vật gì mà không biết phải tìm kiếm nơi đâu. Anh cứ đi đi lại lại như thế cho đến khi không còn ánh sáng trên bầu trời hay trên bãi cát để soi rọi cho anh nhìn thấy. Anh ngồi vào bàn ăn. - Anh về muộn quá, – vợ anh nói. – Em đành phải xuống đây một mình. Em đói lắm rồi. - Không hề chi, – anh nói bâng quơ. - Đi dạo có gì thú vị không, anh? - Không. - Trông anh lạ thật đấy, George, anh không có bơi ra quá xa đấy chứ, không suýt chết đuối đấy chứ? Nhìn mặt anh là em biết ngay mà. Đúng là anh đã bơi ra quá xa, phải không? - Ừ, – anh đáp gọn. - Này, – vợ anh nhìn chăm chú. – Đừng có dại thế nữa nhé. Nào…, anh dùng món gì đây? Anh cầm tờ thực đơn lên định đọc rồi bất giác ngồi yên. - Có chuyện gì thế? – Vợ anh hỏi. Anh nghiêng đầu và nhắm mắt hồi lâu. - Nghe kìa. Vợ anh lắng nghe. - Em có thấy gì đâu nào? – Vợ anh thốt lên. - Không à? - Không. Cái gì vậy? - Thuỷ triều đấy mà, – anh trả lời sau một lúc im lặng ngồi đó, mắt vẫn nhắm nghiền. – Chỉ là một cơn thuỷ triều đang tiến vào bờ. Đây Chốn Thiên Đường (Nguyên tác: Mars Is Heaven) Từ những vì sao và những vận tốc đen ngòm, từ những chuyển động sáng ngời và những vực thẳm im lìm của không gian, con tàu hạ cánh xuống đây. Đó là một con tàu mới; thân chứa lửa và khoang bụng thép chứa người, du hành trong tĩnh mịch tinh tuyền cùng sức nóng cuồng điên. Trong con tàu là mười bảy người, kể cả phi đoàn trưởng. Đám đông trên cánh đồng Ohio đã hò hét, vẫy tay trong nắng chào con tàu nở bừng những cánh hoa khổng lồ rực nóng, đang lao vào không gian trong cuộc viễn chinh thứ ba đến Hoả Tinh. Bây giờ con tàu dần dần giảm tốc, khối sắt thép lướt êm vào những tầng khí quyển bên trên Hoả Tinh. Một biểu tượng của vẻ đẹp và sức mạnh. Như một con thuỷ quái nhợt nhạt, con tàu đã băng qua những dòng chảy đêm đen của vũ trụ, lướt ngang vầng trăng xa xưa và ném mình vào cõi hư vô nối tiếp hư vô. Những con người bên trong đã bị nhồi, lắc, kiệt sức, rồi hồi phục, tất cả không chừa một ai. Một người đã chết, mười sáu người còn lại. Họ tì mặt vào lớp thuỷ tinh dày của những cửa sổ con tàu, những đôi mắt sáng quắc ngắm nhìn Hoả Tinh dưới kia đang lao vọt lên đón tiếp. - Hoả Tinh! Hoả Tinh! Ôi bạn cũ thân yêu, chúng tôi đây! – Hoa tiêu Lustig reo lên. - Xin chào bạn xưa! – Nhà khảo cổ Samuel Hinkston hoan hỉ. - A ha! – Tiếng Phi đoàn trưởng John Black. Con tàu êm ái đáp xuống một thảm cỏ xanh tươi. Bên ngoài khung cửa, đứng trên cỏ là một con hươu bằng thép. Cuối bãi cỏ, một ngôi nhà kiểu thế kỷ 19 vươn cao, nâu bóng trong ánh nắng bình yên, chạm trổ đầy hoa văn, với mấy vuông cửa sổ bằng thuỷ tinh nhuộm sắc lam, lục, vàng, hồng. Trên hàng hiên là mấy cội phong lữ thảo xoã tóc và một chiếc xích đu cũ kỹ móc trên đà ngang đang đòng đưa, đòng đưa trong gió thoảng. Trên nóc là một vòm nhà có mấy cửa sổ hình thoi lắp kính và một mái tròn như chiếc mũ chóp! Qua khung cửa sổ mặt tiền, người ta có thể nhìn thấy một chiếc dương cầm kiểu cổ với hàng phím ố vàng và bản nhạc "Beautiful Ohio[1] nằm sẵn sàng trên giá. Bốn phía quanh con tàu là một thành phố nhỏ trải dài tươi xanh và bất động trong mùa xuân Hoả Tinh. Những ngôi nhà sơn trắng, những ngôi nhà gạch đỏ, những cây du cao đứng thở với gió, những cây phong, cây dẻ nhấp nhô. Và tháp chuông nhà thờ ôm ấp trong lòng những quả chuông vàng lặng lẽ. Cả phi hành đoàn nhìn ra ngoài, quan sát cảnh tượng ấy. Rồi họ quay sang nhìn nhau rồi lại hướng mắt ra ngoài. Họ siết chặt cánh tay nhau, dường như bỗng bất ngờ nghẹn thở. Gương mặt họ tái nhợt và đôi mắt nhấp nháy không ngừng, đảo từ khung cửa này sang khung cửa khác trên hông tàu. - Thế có chết tôi không chứ! – Lustig thì thào, mấy ngón tay tê chồn quệt ngang đôi mắt ướt lệ. – Thế này thì chết tôi mất, chao ôi! - Không thể được, phi lý quá! – Hinkston kêu lên. - Lạy Chúa tôi! – Phi đoàn trưởng John Black sửng sốt. Tiếng chuyên viên hoá học vang lên: - Thưa Phi đoàn trưởng, bầu khí quyển bên ngoài thích hợp cho việc hô hấp của chúng ta. - Anh có chắc không đấy? – John Black từ từ quay người lại hỏi. - Không còn nghi ngờ gì nữa, thưa Phi đoàn trưởng. - Thế thì chúng mình ra đi, – Lustig nói. - Vâng, ra ngay đi! – Hinkston tán thành. - Khoan đã, – Black ngăn họ lại. – Chờ một chút. Chưa có lệnh cơ mà. - Nhưng, thưa… - Không nhưng nhị gì hết. Làm sao chúng ta biết chắc được những gì ở ngoài kia? - Ta biết chứ, – nhà hoá học lên tiếng. – Đó là một thành phố nhỏ với không khí trong lành, Phi đoàn trưởng. - Và là một thành phố nhỏ y hệt như dưới Địa Cầu, – nhà khảo cổ Hinkston góp ý. – Thiệt không sao tin nổi. Phi lý quá chừng thế mà lại có thiệt. Phi đoàn trưởng nhìn Hinkston với vẻ uể oải: - Vậy anh cho là nền văn minh của cả hai hành tinh này có thể phát triển với cùng một tốc độ và tiến hoá theo cùng một kiểu sao, Hinkston? - Lẽ ra tôi không nên nghĩ thế mới phải, xin lỗi. Black đứng bên cửa sổ hồi lâu. - Các anh hãy nhìn đằng kia kìa. Nhìn mấy cây phong lữ thảo ấy. Đó là một giống phong lữ đặc biệt, chỉ mới phát triển ở Địa Cầu chừng năm mươi năm nay mà thôi. Hãy nghĩ đến thời gian hàng nghìn năm cần thiết để thực vật tiến hoá đi. Rồi nói thử xem có hợp lý không? Hoả Tinh mà lại có cửa sổ lắp kính này nhé, xích đu này nhé, một cái gì đó giống như đàn dương cầm này nhé, mà có lẽ là dương cầm thật đấy, và nếu các anh nhìn cho kỹ sẽ thấy một nhạc sĩ Hoả Tinh nào đó lại xuất bản cả bài nhạc đặt tên là "Beautiful Ohio" nữa mới lạ chứ. Như vậy chẳng khác nào trên Hoả Tinh này còn có nguyên cả dòng sông Ohio đấy! - Đúng là kỳ lạ thật. - Hoàn toàn phi lý chứ kỳ lạ cái gì! Tôi nghi ngờ toàn bộ cái màn dàn cảnh thân thiện này, và tôi sẽ không rời tàu cho đến khi nào đã xác định rõ môi trường. - Ôi, Phi đoàn trưởng! – Lustig buồn bã kêu lên. - Chà chà! – Hinkston đề nghị. – Xin cho tôi được trực tiếp điều tra. Rất có thể là trên mọi hành tinh trong thái dương hệ này đều tồn tại một số dạng thức tư duy, hay biểu đồ văn minh tương tự nhau. Có thể chúng ta đang chạm tới ngưỡng một khám phá siêu hình học và tâm lý học kỳ vĩ nhất của thời đại này! - Tôi thì muốn chờ thêm tí nữa, – John Black nói. - Có thể là chúng ta đang chứng kiến một hiện tượng mà, lần đầu tiên trong lịch sử, chắc chắn chứng minh được sự tồn tại của một Đấng Tối Cao, Phi đoàn trưởng ơi. - Có nhiều người không hề cần tới bằng chứng nào cả mà vẫn giữ vững niềm tin ấy, Hinkston à. - Có tôi trong số đó, thưa Phi đoàn trưởng, – Hinkston nói. – Nhưng một điều như thế này, ở ngoài kia, nhất định không thể xảy ra nếu không có một sự can thiệp thiêng liêng. Điều đó khiến tôi vừa kinh sợ vừa hoan hỉ đến mức không biết mình nên khóc hay nên cười đây. - Đừng khóc và cũng đừng cười khi ta chưa biết mình đang đương đầu với điều gì. - Đương đầu ư, thưa Phi đoàn trưởng? – Lustig thắc mắc. – Tôi chẳng thấy chúng ta phải đương đầu với thứ gì cả. Đây là một thành phố xanh tươi, bình yên, giống cái thành phố nơi tôi chào đời lắm, và tôi thích cái kiểu cách ấy của nó. - Thế anh sinh năm nào, Lustig? - Năm 1910, thưa Phi đoàn trưởng. - Như vậy anh bây giờ đã năm mươi tuổi rồi, phải không? - Năm nay là năm 1960 mà, đúng vậy đó. - Còn anh, Hinkston? - Tôi sinh năm 1920 ở Illinois. Và khung cảnh nay đúng là rất tuyệt đối với tôi, Phi đoàn trưởng ơi. - Đây không phải Thiên Đường đâu, – người chỉ huy nói với vẻ châm biếm. – Dù vậy tôi cũng phải công nhận rằng trông nơi này bình yên và tươi mát thật, lại rất giống vùng Green Bluff, nơi tôi ra đời năm 1915. – John Black quay sang hỏi nhà hoá học. – Không khí bên ngoài tốt đấy chứ? - Tốt, thưa Phi đoàn trưởng. - Chà, vậy thì thế này nhé, Lustig, anh với Hinkston và tôi sẽ đi khảo sát thành phố này trước. Mười ba người kia phải ở lại con tàu. Nếu có gì rủi ro cứ cho tàu cất cánh và chuồn thẳng. Anh đã nghe tôi nói gì chưa, Craner? - Rồi ạ. Chúng tôi phải chuồn thẳng. Bỏ Phi đoàn trưởng lại? - Thà mất ba người còn hơn là mất trọn con tàu. Nếu có nguy hiểm, anh cứ cho tàu bay ngược về Địa Cầu báo cho chuyến bay kế tiếp rõ mọi chuyện. Có lẽ lúc đó con tàu Lingle’s Rocket đã hoàn tất và sẵn sàng cất cánh trong khoảng mùa Giáng Sinh tới. Nếu có gì đó thù địch trên Hoả Tinh thì chúng ta chắc chắn sẽ muốn cuộc viễn chinh kế tiếp trang bị vũ khí chu đáo hơn. - Chúng ta cũng có vũ trang đấy chứ, Phi đoàn trưởng. Có cả kho súng đạn trên tàu. - Bảo tất cả sẵn sàng vũ khí khi tôi, Hinkston và Lustig đi ra ngoài. - Rõ! - Đi nào, Lustig, Hinkston. Ba người cùng bước đi, khuất dạng dưới các bậc thang của con tàu. Một ngày xuân tuyệt đẹp. Chú chim sẻ đậu trên cành táo nở hoa đang hót líu lo không ngừng. Gió đùa qua lá hất những cụm tuyết trắng nõn bay la đà và hương hoa thơm ngọt bảng lảng trong không khí. Đâu đó trong thành phố, có ai đang chơi dương cầm và tiếng nhạc mơ hồ, loáng thoáng, khe khẽ như mơ. Đó là ca khúc "Beautiful Dreamer[2]. Từ một nơi nào, chiếc máy hát đĩa cũ mèm rọt rẹt phát ra một bài tình ca đầu thế kỷ 20, bài "Roamin’ In The Gloamin’" qua giọng ca Harry Lauder[3]. Ba người đứng ngoài con tàu. Cánh cửa đã khép chặt sau lưng họ. Ở mỗi cửa sổ là một gương mặt áp sát vào ô kính nhìn ra. Những khẩu súng kim khí to lớn lăm lăm hờm sẵn. Tiếng hát từ máy đĩa bây giờ rõ từng chữ từng lời: Ôi, xin cho tôi đêm mùa hạ Với ánh trăng và em… Người Lustig bỗng run rẩy. Cả Hinkston cũng thế. Tiếng nói của Hinkston đâm ra yếu ớt và rời rạc đến mức John Black phải yêu cầu anh ta lập lại. - Thưa phi đoàn trưởng, tôi nghĩ rằng tôi đã chứng minh được tất cả những hiện tượng này. - Thế anh chứng minh thế nào, Hinkston? Một cơn gió nhẹ. Bầu trời trong vắt, lặng yên. Một nguồn nước nào đó róc rách len lỏi qua những hang hốc, khe đá rợp bóng cây. Tiếng vó câu khấp khểnh, tiếng bánh xe gập ghềnh… - Ồ, chỉ có một cách chứng minh duy nhất mà thôi! Đó là… đó là con người đã chế tạo được những con tàu bay lên Hoả Tinh từ rất nhiều năm trước Thế chiến thứ nhất, thưa phi đoàn trưởng! - Vô lý! – John Black nhìn chằm chặp vào nhà khảo cổ. - Không, có lý chứ! Hãy nhìn tất cả những cảnh tượng này xem! Nhà cửa, bãi cỏ, con hươu bằng thép, hoa trái, dương cầm, âm nhạc! Anh phải thừa nhận điều đó thôi! - Ôi, Hinkston ơi! – Người chỉ huy vừa lắc đầu vừa đưa hay tay lên che mặt, hai bàn tay ông run rẩy, đôi môi tái xanh. Hinkston nắm cánh tay John Black, cố sức thuyết phục: - Xin hãy nghe tôi, Phi đoàn trưởng. Giả sử là vào năm 1905 chẳng hạn, có một số người căm ghét chiến tranh và muốn tránh xa Địa Cầu. Thế là họ tụ họp nhau lại, một nhóm khoa học gia nào đó, rồi bí mật chế tạo một con tàu bay lên Hoả Tinh này. - Không thể nào, Hinskton ơi. - Sao lại không? Thế giới vào năm 1905 hoàn toàn khác xa về sau này, lúc đó người ta có thể dấu kín một bí mật dễ dàng hơn nhiều. - Nhưng còn việc chế tạo thì sao, Hinkston? Đâu dễ gì giấu kín việc chế tạo một thứ hết sức phức tạp và khổng lồ như một chiếc hoả tiễn, ồ, không thể được. – Người chỉ huy hết nhìn xuống chân lại nhìn hai bàn tay, hết nhìn mấy ngôi nhà lại quay sang nhìn Hinkston. Nhà khảo cổ vẫn say sưa với giả thuyết của mình: - Và họ lên đây, đương nhiên là họ phải xây những ngôi nhà tương tự như dưới Địa Cầu bởi vì họ đã mang theo nền văn hoá kiến trúc của loài người, và đây là kết quả! - Thế họ sống ở đây suốt bao nhiêu năm qua sao? – John Black hỏi. - Tất nhiên, sống bình yên và thầm lặng, thưa Phi đoàn trưởng. Có thể họ đã thực hiện vài chuyến bay nữa để mang thêm người lên đây cho đủ một thành phố nhỏ rồi ngưng, vì sợ bị phát hiện ra. Chính vì thế mà thành phố này có vẻ cổ kính. Riêng tôi, tôi chưa thấy một vật nào ở đây lâu đời hơn năm 1927. Còn anh thì sao? - Thành thật mà nói thì tôi cũng thấy như anh, Hinkston ạ. - Đây là đồng bào của ta, Phi đoàn trưởng. Đây là một thành phố Mỹ; nhất định không phải của châu Âu đâu! - Điều đó… điều đó cũng đúng đấy, Hinkston. - Biết đâu, ờ, biết đâu kỹ thuật du hành không gian đã có từ lâu mà ta không biết. Có lẽ ở nơi nào đó trên thế giới đã có tên lửa từ nhiều trăm năm trước, do một số ít người phát minh ra và giữ bí mật, và họ đã lên Hoả Tinh rồi vài thế kỷ mới về thăm Địa Cầu một lần. - Anh nói sao mà hợp lý quá? - Chứ gì nữa, Phi đoàn trưởng. Nhất định là thế. Bằng cớ đang nằm ngay trước mắt chúng ta, chỉ cần tìm gặp vài người dân ở đây để kiểm chứng là xong! - Anh có lý. Tất nhiên rồi, chúng ta không thể cứ đứng đây bàn tán mãi. Anh có mang theo súng đấy chứ? - Có, nhưng chắc là ta sẽ không cần đến thứ ấy đâu. - Để rồi xem. Đi đi, ta sẽ nhấn chuông ngôi nhà kia xem có ai không. Những đôi giày của họ bước êm ru trên thảm cỏ xanh dày. Bất giác, John Black nhận ra một sự bình an xâm chiếm tâm hồn. Đã ba mươi năm rồi ông chưa bước vào một thành phố nhỏ nào, tiếng vo ve của những chú ong mùa xuân giờ đây như ru ngủ, như vỗ về ông, và quang cảnh mát tươi như đang ướp lòng ông hương ngát. Những tiếng vọng âm âm luồn lỏi dưới ván sàn, khi họ bước qua hàng hiên, tiến đến cánh cửa lưới nhìn thấu bên trong. Họ nhìn thấy một bức mành kết bằng hạt cườm rủ xuống lối vào tiền sảnh, một chân nến bằng pha lê và một bức tranh của Maxfield Parrish[4] lồng khung treo bên trên một chiếc ghế bành êm ái. Ngôi nhà toát ra hương vị cũ kỹ của một gác xép, một hương vị dễ chịu vô cùng. Ta nghe thấy tiếng lanh canh của những viên nước đá va chạm trong bình nước chanh. Từ một nhà bếp xa khuất, ai đó đang sửa soạn một món ăn nhanh giải nhiệt buổi trưa. John Black nhấn chuông. Những bước chân khẽ khàng duyên dáng đi dọc hành lang và một người đàn bà độ tuổi bốn mươi, mặc chiếc váy dài theo kiểu thời trang của năm 1909, ghé mắt nhìn ra. - Quý ông cần gì ạ? - Xin lỗi bà, – người chỉ huy lúng túng nói. – Chúng tôi đang tìm… chà, tôi muốn nói là…, – ông im bặt. Người đàn bà nhìn ông với đôi mắt đen ngỡ ngàng. - Nếu các ông là người bán dạo thì rất tiếc, tôi đang bận, không có thời gian mua sắm gì đâu. – Bà ta dợm bước quay đi. - Khoan đã, xin bà! – John Black bối rối kêu lên. – Đây là thành phố nào vậy? Bà đưa mắt nhìn nhà phi hành từ đầu đến chân như thể ông là một kẻ điên. - Đây là thành phố nào? Thế là sao cơ chứ? Ông đang sống trong một thành phố mà không biết nó tên là gì à? Trông bộ dạng phi đoàn trưởng bồn chồn cứ như muốn chạy đi trú nắng dưới tàng cây táo râm mát. Ông ấp úng: - Xin lỗi bà. Nhưng… nhưng chúng tôi là người lạ mới đến đây. Chúng tôi từ Địa Cầu tới và chúng tôi muốn biết làm sao ở đây lại có thành phố này và… làm sao bà lên đây được. - Ông là nhân viên thống kê hả? - Không đâu. - Thế ông muốn cái gì? – Người đàn bà hỏi. - Ôi chao! – John Black thốt lên. - Ôi chao cái gì? – Người đàn bà căn vặn. - Thế thành phố này đã có ở đây lâu chưa? - Nó được xây dựng từ năm 1868, – bà nói như quát vào mặt người chỉ huy. – Ông giỡn mặt tôi đấy hả? - Không đâu, không đâu, thưa bà, – John Black nài nỉ. – Lạy Chúa! Hãy nghe này, chúng tôi từ Địa Cầu đến! - Từ đâu? - Từ Địa Cầu! - Nó ở đâu thế? - Nó ở Trái Đất. – John Black bất lực hét lên. - Ông muốn nói là từ dưới đất chui lên đấy hẳn? - Không, từ hành tinh Địa Cầu! – Ông khẩn khoản nói với bà chủ nhà. – Đây này, mời bà ra hàng hiên và tôi chỉ bà xem. - Không đi đâu cả, các ông đúng là say nắng phát khùng hết rồi. Lustig và Hinkston đứng sau lưng người chỉ huy. Hinkston giờ mới lên tiếng. - Thưa bà, chúng tôi từ một chiếc phi thuyền vượt qua không gian, bay qua các vì sao đến đây. Chúng tôi từ hành tinh thứ ba tính từ Mặt Trời, tức là Địa Cầu, bay đến hành tinh này, tức là Hoả Tinh. Bây giờ bà hiểu rồi chứ ạ? - Say nắng phát khùng rồi! – Người đàn bà lớn tiếng, tay nắm chặt cánh cửa. – Có đi ngay không tôi gọi chồng tôi xuống đấy! Ổng đang nghỉ trưa trên lầu. Ổng mà ra tay thì các người ốm đòn! - Nhưng… – Hinkston ấp úng, – … nhưng đây không phải Hoả Tinh sao? - Nghe này, – người đàn bà giảng giải cứ như đang dạy dỗ một đứa trẻ. – Đây là thành phố Green Lake, bang Wisconsin, nằm trên lục địa Mỹ Châu, được bao quanh bởi Thái Bình Dương và Đại Tây Dương, ở một nơi gọi là thế giới, hay đôi khi còn gọi là Địa Cầu! Bây giờ các ông đi đi! Tạm biệt! Bà ta đóng sầm cửa lại. Ba nhà phi hành đứng sững trước cánh cửa, tay giơ cao lên trời như thể van nài chủ nhà mở cửa ra lần nữa. Họ nhìn nhau. Lustig nói: - Ta phá cửa xông vào đi. - Không được, – phi đoàn trưởng thở dài. - Sao lại không? - Bà ta có làm gì nguy hại đâu chứ? Đây là nhà riêng của bà ta cơ mà. Chúng ta là người xa lạ. Ôi! Lạy Chúa! – John Black ngồi phịch xuống bậc thềm. – Hinkston này! - Tôi đây, Phi đoàn trưởng. - Có khi nào anh nảy ra ý tưởng là chúng ta, bằng cách nào đó, vì lý do nào đó, đã bị rối loạn không? Và do ngẫu nhiên, ta đã đi ngược đường và lại hạ cánh xuống Địa Cầu! - Ôi, không, thưa Phi đoàn trưởng! – Hinkston điếng người ngồi xuống suy nghĩ. - Lẽ nào lại thế? – Lustig vẫn đứng trong nắng. - Tôi không biết, để tôi suy nghĩ đã. – Hinkston trầm ngâm hồi lâu rồi nói tiếp. – Chúng ta đã kiểm soát kỹ từng dặm đường, mọi đồng hồ đo đều chỉ đúng phương hướng. Chúng ta đã nhìn thấy Hoả Tinh, đã bay ngang mặt trăng, tiến sâu vào không gian và đáp xuống đây, trên Hoả Tinh này. Tôi tin chắc đây là Hoả Tinh, thưa phi đoàn trưởng. Lustig góp ý: - Nhưng giả sử là do ngẫu nhiên, trong thời gian hay trong không gian, hay cái gì đó, chúng ta đã đến một hành tinh vào một thời điểm nghịch đảo. Biết đâu đây lại là Địa Cầu của ba mươi năm hay năm mươi năm trước? Biết đâu chúng ta đã đi lạc trong chiều thứ tư, chiều của thời gian? - Đi hỏi thử xem, – Phi đoàn trưởng ra lệnh cho Lustig rồi quay sang Hinkston. – Những người trên tàu vẫn quan sát chúng ta đấy chứ? - Họ vẫn sẵn sàng vũ khí. Lustig đi tới cửa nhấn chuông. Cánh cửa mở ra, người đàn bà lúc nãy lại xuất hiện. - Thưa bà, năm này là năm nào ạ? - Năm 1926 chứ còn hỏi gì nữa! – Bà ta giận dữ quát ầm lên và đóng sầm cửa lại lần nữa. - Các anh đã nghe rõ chưa nào? – Lustig hối hả quay ra. – Bà ta bảo năm 1926! Chúng ta đã đi ngược thời gian. Đây chính là Địa Cầu! Lustig ngồi xuống và cả ba người phó mặc tâm trí cho những ý tưởng kinh hoàng lẫn ngạc nhiên xâm chiếm. Những bàn tay run rẩy ôm vòng lấy đầu gối. Gió thổi qua, lắt lay những lọn tóc mềm trên trán. Người chỉ huy đứng phắt dậy, tay phủi bụi bám trên quần. - Tôi thật không ngờ cơ sự lại thế này. Làm sao lại xảy ra chuyện ngược đời đến thế? Tôi sợ muốn hết vía đây này! - Không biết cả thành phố này có ai tin lời chúng ta chăng? – Hinkston thắc mắc. – Có phải chúng ta đang đùa bỡn một trò chơi nguy hiểm với Thời Gian? Hay là chúng ta cất cánh bay về ngay đi? - Không. Hãy thử gõ cửa một ngôi nhà khác. Họ tiến đến một ngôi nhà gỗ nhỏ sơn trắng dưới bóng cây sồi cách đó ba căn. Vừa đi, John Black vừa nói: - Tôi muốn càng hợp lý càng tốt. – Người chỉ huy ra dấu về phía thành phố. – Anh thấy cái thành phố này ra sao, Hinkston? Như anh nói lúc nãy, giả sử kỹ thuật du hành không gian đã ra đời từ nhiều thế kỷ trước. Và khi những con người Địa Cầu lên đây sống nhiều năm rồi, họ bắt đầu nhớ quê hương. Thoạt tiên là một cơn loạn thần kinh chức năng nhẹ vì nhớ nhà, rồi đến cả tinh thần hoàn toàn rối loạn và có nguy cơ mất trí nữa. Nếu anh là chuyên gia tâm thần, anh sẽ làm gì khi đương đầu với vấn đề này? - Chà, chà – Hinkston ngẫm nghĩ, – nếu thế tôi sẽ tái thiết trên Hoả Tinh này một nền văn minh sao cho mỗi ngày càng thêm giống Địa Cầu. Tôi sẽ tìm cách nào đó tái tạo mọi giống cây cỏ, mọi con đường, mọi ao hồ, thậm chí cả đại dương nữa. Sau đó, bằng cách tự kỷ ám thị tập thể, mọi người trong một thành phố như thế này đều tin rằng đây chính là Địa Cầu chứ chẳng phải Hoả Tinh nào cả. Đó là một giả thuyết. - Lý luận khá đấy, Hinkston. Tôi nghĩ rằng chúng ta đã dò đúng hướng. Người đàn bà trong ngôi nhà đằng kia chỉ tưởng tượng là mình đang sống ở Địa Cầu. Điều đó giúp bà ta khỏi phát điên. Bà ấy cùng tất cả dân số ở thành phố này đều là những bệnh nhân của một thí nghiệm về phương thức di dân và thôi miên vĩ đại nhất mà ta chưa từng thấy xưa nay. - Hợp lý quá! – Lustig tán đồng. - A! – Nhà phi hành thở hắt ra – Ít nhất thì chúng ta cũng đi đến được một kết luận nào đó. Tôi bây giờ cảm thấy bình tĩnh hơn. Giả thuyết này nghe có vẻ hợp lý hơn. Chứ còn chuyện du hành ngược thời gian làm tôi phát rét lên vì sợ đấy… – Cả tháng qua, đây là lần đầu tiên John Black nở nụ cười. – Chà chà, coi bộ nơi này sẽ đón tiếp chúng ta khá nồng hậu đấy. - Thật thế ư, phi đoàn trưởng? – Lustig hỏi – Nói cho cùng thì dân chúng ở đây là những kẻ muốn trốn khỏi Địa Cầu. Có lẽ gặp chúng ta họ chẳng vui mừng gì mấy. Biết đâu họ lại cố tình xua đuổi hay giết chúng ta? - Nếu xảy ra chuyện đó thì chúng ta đã có những vũ khí siêu việt. Dù sao chúng ta cũng phải tìm hiểu thêm. Thử nhấn chuông ngôi nhà kế tiếp xem. Tới đó đi. Nhưng họ chưa băng qua bãi cỏ thì Lustig đã dừng sững lại, hướng mắt về bên kia thành phố, dọc theo con đường buổi trưa ngái ngủ, im lìm. Lustig thốt lên: - Phi đoàn trưởng! - Có chuyện gì thế, Lustig? – John Black ngạc nhiên. - Ôi, thưa Phi đoàn trưởng, tôi nhận ra… nhận ra, ôi, ôi… – Lustig bật khóc. Mấy ngón tay anh ta cứ duỗi ra rồi lại xoắn vào nhau, run lẩy bẩy và nét mặt lộ rõ sự kinh ngạc lẫn mừng vui cùng vẻ hồ nghi. Trông anh ta cứ như sẽ phát điên lên vì sung sướng bất cứ lúc nào. Lustig nhìn dọc theo con đường rồi bắt đầu chạy, loạng choạng, vấp ngã, luống cuống chồm dậy chạy tiếp. – Ôi, lạy Chúa, xin cám ơn Ngài! Lạy Chúa tôi! - Ngăn anh ta lại mau! – Phi đoàn trưởng chạy đuổi theo. Lustig cứ hò hét, chân chạy băng băng vào một mảnh sân ở lưng chừng một ngả rẽ rợp bóng cây rồi nhảy phắt qua hàng hiên của một ngôi nhà sơn xanh có con gà trống bằng sắt trên mái. Anh ta đập liên hồi vào cửa, vừa khóc vừa kêu la lúc Hinkston và người chỉ huy chạy tới và đứng ngoài sân nhìn. Cánh cửa xịch mở. Lustig đẩy bật ra và thét một tiếng lanh lảnh, một phát hiện sung sướng: - Ông nội ơi! Bà nội ơi! Hai cụ già đứng trên ngưỡng cửa, mặt rạng rỡ: - Ôi, cháu Albert! – Hai người đồng thanh kêu lên và lao ra ôm ghì lấy Lustig, hết vỗ vào lưng lại xoay vòng vòng quanh nhà phi hành. – Albert, ôi, Albert, mấy năm rồi mới gặp lại cháu! Lâu lắm rồi! Cháu của tôi, ôi, sao mà lớn quá chừng! Ôi, Albert! Cháu mạnh giỏi không? - Ông nội, bà nội! – Albert Lustig nói trong tiếng nấc. – Gặp ông bà con mừng quá! Trông ông bà vẫn khoẻ mạnh như xưa! – Lustig siết chặt từng người, hôn họ, ôm ghì họ, gọi rối rít, rồi lại lùi ra xa, nháy mắt cười với hai cụ già thấp bé. Mặt trời trên cao, gió thoảng, cỏ xanh, cánh cửa mở rộng. - Vào nhà đi, cháu, vào đi, có sẵn nước chanh cho cháu đây, nước chanh tươi rói, ê hề! - Nội ơi! Có hai người bạn đi với con! Họ đây này! – Lustig quay lại, vẫy tay loạn xạ với John Black và Hinkston; hai nhà phi hành ấy nãy giờ đứng nắm chặt tay nhau dưới một tàng cây, sững sờ theo dõi cuộc hội ngộ quá sức bất ngờ ở hành tinh xa lạ này. – Phi đoàn trưởng ơi, đến đây đi, đến đây đi! Tôi xin giới thiệu đây là ông bà nội của tôi! - Xin chào hai cậu. – Hai cụ già nói. – Ai là bạn cháu Albert đều là bạn của chúng tôi luôn! Thôi, đừng có đứng há hốc mồm ở đó nữa! Xin mời vào nhà! Phòng khách của ngôi nhà cổ kính thật thoáng mát. Một chiếc đồng hồ xưa có quả lắc bằng đồng đang đều đều tích tắc, kính coong ở một góc phòng. Trên chiếc tràng kỷ cỡ lớn là mấy chiếc gối mềm, sách báo chất đầy các bức tường, dưới sàn là một tấm thảm dệt đầy hình hoa hồng, và những tấm vải bọc phủ lên các lưng ghế. Cốc nước chanh lạnh ướt trên bàn tay, mát rượi những cuống họng khát. - Xin uống mừng sức khoẻ mọi người. – Bà cụ nâng chiếc cốc lên đôi môi móm mém. - Nội ơi, nội sống ở đây bao lâu rồi hở nội? – Lustig hỏi. - Lâu lắm rồi. – Bà cụ đáp thản nhiên. – Ngay từ khi ông bà chết. - Ngay từ khi ông bà ra làm sao? – Phi đoàn trưởng John Black giật mình đặt cốc nước xuống bàn. - À, tôi quên chưa cho anh hay. – Lustig nhìn người chỉ huy. – Ông bà nội tôi chết đã ba mươi năm rồi. - Vậy mà anh ngồi đó tỉnh bơ! – John Black kêu lên. Bà cụ chắc lưỡi, con mắt liến láu nháy với John Black: - Ai mà thắc mắc những gì đã an bài làm chi? Chúng tôi ở đây. Mà cuộc sống là cái gì kia chứ? Là ai làm chuyện gì vì lý do gì ở đâu đó à? Chúng tôi chỉ biết là mình đang ở đây, đang sống như xưa, và không ai hỏi han gì hết. Một cơ hội thứ hai, thế thôi. – Bà cụ nghiêng người trên bàn chìa cườm tay gầy gò của cụ về phía John Black. – Cậu sờ thử xem. – Ông làm theo. – Vẫn rắn chắc, phải không? – John Black gật đầu. – Anh nghe rõ lời tôi nói phải không? Đúng thế thật. - A ha, – bà cụ đắc thắng nói, – thế thì cậu thắc mắc lung tung chi nữa? - Ồ, ồ…, cháu thật không ngờ là lên Hoả Tinh lại khám phá ra điều này. – John Black bàng hoàng thốt lên. - Giờ cậu thấy rồi đó. Tôi dám nói là trên hành tinh nào cũng có nhiều điều minh chứng cho vô vàn cách biểu hiện của Chúa. - Đây là Thiên Đường chăng? – Hinkston hỏi. - Tầm phào, Thiên Đường nào! Đây là một thế giới và chúng tôi có cơ hội sống lần thứ hai. Không ai cho chúng tôi biết tại sao lại thế, mà cũng chẳng có ai nói cho hay tại sao chúng tôi đã từng sống ở Địa Cầu. Tôi muốn nói Địa Cầu của các cậu đấy. Biết đâu lại không có thêm một Địa Cầu khác từng tồn tại trước cả Địa Cầu của các cậu? - Một câu hỏi hay! – John Black tỏ vẻ thán phục rồi vỗ đùi, đứng dậy. – Thưa hai cụ, chúng cháu phải đi đây. Được gặp các cụ quả là quý hoá vô cùng. Xin cám ơn các cụ đã đãi nước chanh… Anh bỗng im bặt, giật mình quay ra cửa. Ngoài kia, dưới nắng trưa là tiếng người lao xao, là đám đông đang hò hét chào mừng chuyện gì đó. - Cái gì thế? – Hinkston kinh ngạc. - Rồi ta sẽ biết ngay thôi! – John Black lao mình ra cửa, chạy ào qua bãi cỏ xanh trước hiên, phóng mình xuống đường phố thị trấn Hoả Tinh này. Ông đứng nhìn con tàu vũ trụ. Các cánh cửa trên tàu đã mở toang và phi hành đoàn đang ùa ra, vẫy tay rối rít. Một đám đông dân chúng bu quanh, chen chúc; các thành viên trong phi hành đoàn của ông vừa chạy lẫn trong đám người vừa cười vừa bắt tay. Dân chúng kéo tới đông đúc thêm và bắt đầu nhảy múa. Chiếc hoả tiễn từ Địa Cầu bị bỏ mặc trơ vơ, hoang vắng. Một ban nhạc kèn đồng lanh lảnh thét lên trong nắng, tung vào không trung một giai điệu vui tươi của kèn tuba và trômpét. Tiếng trống thì thùm dậm nhịp, tiếng sáo vút cao phụ hoạ. Những cô bé tóc vàng nhún chân theo điệu nhảy. Những cậu bé hét lên reo mừng. Mấy người đàn ông mập béo phân phát cho mọi người những điều xì gà rẻ tiền. Ông thị trưởng của thành phố đọc một bài diễn từ. Rồi sau đó, mỗi nhà phi hành trong đội bay một tay ôm một bà mẹ, một tay ôm một ông bố hay một bà chị, cô em, hớn hở nhào xuống đường phố, tản mạn về những ngôi nhà và các cánh cửa ầm ầm khép lại. Một cánh gió rít ngang bầu trời xuân trong veo rồi tắt cả lại im lìm. Ban nhạc đã xập xình đi xa dần và khuất dạng sau một góc phố để lại lẻ loi con tàu vũ trụ sáng ngời lấp loá dưới nắng. - Họ bỏ tàu! – Người chỉ huy kêu lên. – Họ bỏ tàu! Chúa ơi, họ bất tuân mệnh lệnh! Tôi sẽ cho họ biết tay! - Phi đoàn trưởng, – Lustig nói, – xin đừng quá khắt khe. Họ gặp toàn thân quyến và bạn bè xưa mà. - Đó đâu phải cái cớ để bỏ nhiệm vụ! - Thử nghĩ xem các anh sẽ mừng vui đến thế nào khi nhìn ra những khuôn mặt thân quen bên ngoài con tàu! - Nếu là tôi thì tôi vẫn chấp hành mệnh lệnh! Tôi vẫn… – Tiếng nói vụt tan biết trên đôi môi há hốc của người chỉ huy. Dưới ánh nắng Hoả Tinh, đang sải bước về phía họ là một thanh niên chừng hai mươi sáu tuổi, cao lớn, mắt xanh, da rám nắng, miệng tươi cười hân hoan. - John! – Chàng thanh niên thét to và chạy ào đến. - Trời ơi! – John Black ôm mặt, lảo đảo. - Kìa, John, thằng khỉ con, mày đó ư! Chàng trai chạy đến, vung tay đấm mạnh một cái thân thiện vào lưng phi đoàn trưởng. - Anh đấy sao! – John Black ngỡ ngàng. - Thế mày tưởng tao là ai mới được chứ? - Ôi, anh Edward! – Phi đoàn trưởng nắm chặt tay người lạ mặt, quay sang nói với Lustig và Hinkston. – Đây là anh ruột tôi. Anh Ed, đây là bạn em, Lustig, Hinkston! Anh tôi! Hai anh em giật tay, kéo áo nhau rồi cuối cùng ôm choàng. - Trời ơi, anh Ed! - Ui cha, thằng khỉ. - Trông anh khoẻ quá, Ed, nhưng sao lại có chuyện này? Suốt bao nhiêu năm rồi mà anh chẳng đổi thay gì cả. Em nhớ là anh đã chết rồi cơ mà, lúc anh hai mươi sáu tuổi còn em mới mười chín? Ôi, lạy Chúa! Chuyện gì đã xảy ra? Edward Black véo vào cằm người em trai. - Mẹ đang chờ đấy, chú mày. - Mẹ ư? - Cả Bố nữa đấy. - Cả Bố nữa? – Nhà phi hành thiếu điều muốn ngã quỵ xuống đất như thể bị trúng đạn ngay tim. Ông loạng choạng dấn bước, cơ hồ không giữ nổi thăng bằng, chốc chốc lại thì thầm, lẩm bẩm, nhắc đi nhắc lại mỗi một câu hỏi: - Mẹ vẫn còn sống? Cả Bố nữa? Ở đâu? - Ở ngôi nhà cũ của chúng ta trên Đại lộ Oak Knoll. - Ngôi nhà cũ? – John Black trợn tròn mắt trong niềm kinh ngạc hân hoan. – Lustig, Hinkston, các bạn ơi, có nghe thấy không? - Tôi biết điều này thật khó tin vô cùng đối với anh. - Nhưng họ vẫn còn sống. Thật sự. - Thật sờ sờ ra đấy chứ còn gì nữa. – Cánh tay Edward lực lưỡng, nắm tay mạnh mẽ, nụ cười nhe hết cả hai hàm răng, mái tóc xoăn màu sáng… Hinkston đã đi mất. Anh ta vừa tìm ra ngôi nhà ấu thơ của chính mình ở cuối con đường này và đang chạy tới. Lustig cười toe toét bảo John Black: - Bây giờ thì phi đoàn trưởng đã hiểu chưa? Các bạn bỏ mặc con tàu là điều tất nhiên thôi. Làm sao họ kiềm chế được chứ. - Tôi đã hiểu, tôi đã hiểu. – Mắt nhắm nghiền, người chỉ huy run run nói – Khi tôi mở mắt ra thì chắc là anh sẽ biến mất phải không, Edward? – John Black mở mắt. – Ôi, anh vẫn còn đó. Lạy Chúa, trong anh tươi trẻ quá, Edward ơi! - Đi thôi, bữa ăn đang chờ đợi ta. Tao đã báo cho mẹ hay rồi. Lustig nói với John Black: - Phi đoàn trưởng ơi, tôi về với ông bà nội tôi đây. Báo cho anh biết luôn. - Sao? À, à, hay đấy! Gặp lại sau nhé. - Chắc tao phải đỡ mày đi quá, – Edward nắm cánh tay em trai và dìu từng bước. - Chắc vậy. Hai đầu gối em cứ bủn rủn ra, kỳ ghê. Còn bụng thì cồn cào nữa chứ. Úi chà! - Nhà mình kia kìa. Còn nhớ không? - Sao lại không? Em cá là em sẽ chạy đến hàng hiên trước anh cho mà coi! Đua nào! Chạy. Gió rú trong tai John Black. Đất rú dưới chân John Black. Trong giấc mơ lạ thường của hiện thực, ông nhìn thấy vóc dáng Edward rực vàng trong nắng vượt qua mặt chạy lên trước. Ông thấy ngôi nhà thân yêu vụt tiến gần, cánh cửa xịch mở. - Tao thắng rồi! – Edward hét to, nhảy phắt lên thềm nhà. - Em bây giờ là một lão già rồi, – nhà phi hành hổn hển nói, – còn anh vẫn còn trai trẻ. Nhưng anh lúc nào mà chẳng thắng em, em nhớ mà! Trên ngưỡng cửa, Mẹ hồng hào, mập mạnh, rạng rỡ cười. Sau lưng bà, Bố đứng tóc hoa râm, trên tay là tẩu thuốc. - Mẹ! Bố! John Black lao lên mấy bậc thềm như một đứa trẻ, nhào vào vòng tay chờ đón. Buổi trưa trôi chầm chậm tuyệt vời. Xong bữa ăn, họ ngồi trong phòng khách và John Black kể cho tất cả nghe về chuyến bay, về nhiệm vụ phi đoàn trưởng của ông, và mọi người gật gù lắng nghe vui thú. Mẹ vẫn như ngày nào, Bố vẫn cắn đót xì-gà và châm lửa theo thói quen trước kia. Đến xế trưa, Mẹ mang vào ít nước trà đá lạnh. Rồi một con gà tây to lớn cho bữa ăn tối và thời gian cứ êm đềm trôi. Khi cái đùi gà đã được gặm sạch trơ xương trên đĩa, nhà phi hành ngả người ra lưng ghế, thở hắt một tiếng đầy thoả mãn. Bố rót cho John Black một cốc rượu đào. Đã bảy giờ rưỡi tối. Bóng đêm giăng mắc trên những ngọn cây và những ngọn đèn hắt hào quang dìu dịu khắp ngôi nhà êm ấm. Từ những ngôi nhà khác dọc các con đường, loáng thoáng vọng đến tai ông tiếng nhạc, tiếng dương cầm, và tiếng cười vui. Mẹ đặt một đĩa nhạc lên máy hát rồi bà cùng John Black khiêu vũ. Mẹ vẫn dùng thứ nước hoa ngày xưa, nhà phi hành còn nhớ bà đã mua lọ nước hoa ấy vào mùa hè khi cả Bố lẫn Mẹ đều chết trong một tai nạn xe lửa. Trong cánh tay John Black, Mẹ thật sự hiện hữu, những bước chân nhẹ nhàng đưa đẩy theo tiếng nhạc. Nhà phi hành nói: - Sáng mai ngủ dậy là con lại phải về hoả tiễn, phải quay lại Địa Cầu và tất cả khung cảnh hạnh phúc này sẽ tan biến. - Đừng nghĩ như thế, con ơi, – Mẹ khe khẽ kêu lên như nài nỉ, – Chúng ta đang ở đây. Đừng nên băn khoăn gì cả. Chúa đã ban phúc thì cứ tận hưởng đi. Vung tẩu thuốc, Bố lên tiếng khi đĩa nhạc chấm dứt: - Con mệt nhoài rồi đấy, John. Con đi với Ed lên lầu ngủ nhé. Cái phòng ngủ ngày xưa vẫn chờ con đấy. - Phòng ngày xưa? - Vẫn còn nguyên cái giường bằng đồng và mọi thứ, – Edward cười to. - Nhưng em cần phải tập họp phi hành đoàn lại. - Để làm gì cơ chứ? – Mẹ thắc mắc. - Làm gì ư? Chà, con cũng chẳng biết nữa. Có lẽ đâu có lý do nào để tập họp? Không, hoàn toàn không… – John Black lắc đầu. – Dạo này sao đầu óc chẳng minh mẫn gì cả. - Thôi, con ngủ ngon nhé. – Bà hôn lên má nhà phi hành. - Ngủ ngon nhé, Mẹ. Bố cũng đưa tay ra bắt. - Thật mừng có con về nhà. - Con cũng mừng là được về nhà. John Black rời khỏi thế giới của khói xì-gà, nước hoa, sách cũ cùng ánh đèn mờ dịu để đi lên lầu, vừa đi vừa trò chuyện với Edward. Người anh đẩy một cánh cửa rộng mở và kìa, vẫn chiếc giường bằng đồng màu vàng, vẫn những lá cờ đánh tín hiệu của thời sinh viên, vẫn chiếc áo khoác lông gấu mèo hôi mốc. John Black vuốt ve chiếc áo cũ ấy với cảm xúc trìu mến thầm lặng thật lạ lùng, miệng cứ lẩm bẩm: - Không thể tả. Cứ như mắc phải cơn mưa giông mà không mang ô dù. Cảm xúc thấm đẫm từng thớ thịt khiến mình tê tái… và mệt lả… - Chăn ấm nệm êm đây cứ chui vào mà ngủ cho đã đi, thằng khỉ, – Edward kéo xoạc tấm khăn trải giường trắng phau và vung vẫy mấy chiếc gối. Rồi anh ta mở cửa sổ và hương hoa nhài theo đêm tràn vào phòng. Ngoài kia là ánh trăng và tiếng người thầm thì, tiếng múa hát xa vắng. - Hoả Tinh là thế này đây, – nhà phi hành vừa thay áo quần vừa lẩm bẩm. - Hoả Tinh là thế đấy, – Edward vừa đáp vừa kéo chiếc áo qua khỏi đầu; những động tác chậm rãi, thư thái phô bày bờ vai vàng màu trăng và chiếc cổ đầy cơ bắp. Đèn tắt, hai anh em vào giường nằm bên nhau, như ngày xưa, bao nhiêu năm đã qua đi? John Black buông lỏng người và đắm mình trong làn gió đêm đang vén mấy tấm màn đăng-ten ùa vào căn phòng âm u. Giữa những hàng cây ngoài kia, trên bãi cỏ nào đó, có ai vặn máy hát đĩa và một tiếng hát vang lên khe khẽ. Anh sẽ yêu em, mãi mãi Một tình yêu chân thành, mãi mãi… John Black chợt nghĩ đến Anna. - Anna có sống ở đây không nhỉ? Người anh nằm duỗi thẳng trong ánh trăng hắt qua cửa sổ, chờ đợi và lên tiếng: - Có, cô ấy đi khỏi thành phố rồi. Nhưng sáng mai là có ở đây rồi. Nhà phi hành nhắm chặt đôi mắt. - Mình muốn gặp Anna quá! Căn phòng vuông vức lặng thinh, chỉ có tiếng hai anh em thở. - Ngủ ngon, Ed. Một khoảng lặng. - Ngủ ngon, John. John Black nằm yên, để mặc bao ý nghĩ diễu qua tâm trí. Suốt cả ngày căng thẳng, bây giờ mọi phấn khích mới lắng dịu và ông mới được bình tâm. Lúc này ông có thể suy nghĩ sáng suốt thật sự. Tất cả những gì vừa xảy ra chỉ toàn là cảm xúc. Ban nhạc kèn đồng, những gương mặt thân quen, nhịp tim đập vội. Nhưng còn bây giờ thì… Thế nào? Làm sao lại xảy ra những điều này? Vì lý do gì, mục đích gì cơ chứ? Vì lòng nhân từ của một Đấng Tối Cao nào đó luôn chăm sóc, quan tâm đến người phàm chăng? Nhưng tại sao và để làm gì? Ông nghĩ đến đủ thứ giả thuyết mà Hinkston và Lustig đã đưa ra trong cơn nóng đầu tiên của buổi trưa. Ông để cho đủ thứ giả thuyết mới cứ lần lượt nảy sinh trong đầu như những hòn sỏi lười biếng rơi xuyên qua dòng nước tăm tối, và rồi xoay tròn, toé ra những tia sáng trắng đục, lờ nhờ. Hoả Tinh. Địa Cầu. Bố. Mẹ. Edward. Hoả Tinh. Sinh vật Hoả Tinh… Ai đã sống trên Hoả Tinh này từ cả nghìn năm trước? Những sinh vật Hoả Tinh? Hay lúc nào cũng giống như thế này? Sinh vật Hoả Tinh. Ông thầm nhắc lại mấy từ đó trong lòng. Suýt nữa ông đã bật cười thành tiếng. Ông bỗng dưng có một ý tưởng kỳ cục. Cái ý tưởng khiến ông lạnh mình nhưng chắc là chẳng có gì đáng bận tâm. Hết sức vô lý. Ngốc nghếch. Quên đi. Nực cười quá. Nhưng ông cứ suy nghĩ mãi. Giả sử… chỉ giả sử thôi, có những sinh vật trên Hoả Tinh này đã phát hiện ra con tàu đang đến, đã nhìn thấy chúng ta trong con tàu và căm ghét chúng ta, những kẻ xâm lấn, những kẻ không ai mong muốn. Giả sử, vì lòng căm ghét đó, họ muốn tiêu diệt chúng ta và họ muốn thực hiện ý đồ một cách khéo léo để cho không một ai trong đoàn đề phòng, cảnh giác được. Hừ, nếu thế thì họ, những sinh vật Hỏa Tinh, có thể sử dụng vũ khí nào hữu hiệu nhất để đương đầu với vũ khí nguyên tử của những người Địa Cầu? Một câu trả lời thú vị. Thần giao cách cảm, thôi miên, ký ức và tưởng tượng. Giả sử tất cả nhà cửa này đều không có thật, cái giường này cũng không có thật, mà chỉ là sản phẩm từ chính trí tưởng tượng của ta, đã được biến thành vật chất do những phương thức thần giao cách cảm và thôi miên của sinh vật Hoả Tinh? Giả sử những căn nhà này thực tế mang hình dạng khác, những hình dạng của Hoả Tinh… nhưng để đùa cợt với khát khao, với mong muốn của ta, các sinh vật ở đây đã biến chúng thành quê xưa của ta, nhà xưa của ta, để khiến ta quên hết ngờ vực? Cách hay nhất để đánh lừa một người là lợi dụng chính cảm xúc của hắn. Và giả sử hai con người đang ngủ ở phòng bên cạnh hoàn toàn chẳng phải là bố mẹ mình. Mà đó là hai sinh vật Hoả Tinh, cực kỳ thông minh, có khả năng mê hoặc mình mãi mãi trong tình trạng mộng mị này? Và cái ban nhạc kèn hôm nay? Một mưu đồ tài tình làm sao! Lúc đầu là mê hoặc Lustig, rồi đến Hinkston, rồi tụ tập một đám đông bao quanh con tàu vẫy chào. Rồi… toàn bộ phi hành đoàn ai cũng gặp lại những người mẹ, ông chú, bà cô, người yêu, đã chết từ hàng chục năm trước, thì đương nhiên họ sẽ bất tuân mệnh lệnh, sẽ chạy ùa ra, sẽ bỏ con tàu. Còn gì tự nhiên hơn? Còn gì đơn giản hơn? Còn gì dễ xua tan mọi hồ nghi hơn? Người ta đâu có thắc mắc, băn khoăn chi nhiều khi thấy bà mẹ thân yêu của mình bất ngờ sống lại; người ấy sẽ mừng vui quá đi thôi. Rồi… ban nhạc cứ chơi và từng người một được đưa về những gia đình riêng. Và đêm nay, chúng ta mỗi người ở một nhà, mỗi người ngủ một giường, không còn vũ khí tự vệ, bỏ mặc con tàu trống rỗng dưới ánh trăng… …Sẽ thật khủng khiếp lắm nếu phát hiện ra tất cả những điều này chỉ là một kế hoạch chia để trị hết sức tài tình của sinh vật Hoả Tinh nhằm giết chết chúng ta. Biết đâu trong đêm, người anh đang nằm ngủ bên cạnh mình sẽ thay hình đổi dạng, sẽ tan chảy, sẽ biến thành con quái vật một mắt mặt xanh nanh vàng? Chuyện trở mình đâm một lưỡi dao thấu tim ta sẽ là chuyện dễ dàng vô cùng? Và trong những ngôi nhà khác, cả chục người anh, người cha cũng đột ngột tan biến và rút dao giết chết những người em, người con từ Địa Cầu đến đang ngủ say không chút hồ nghi? Bàn tay ông run lẩy bẩy dưới mấy lớp chăn. Ông lạnh toát khắp người. Đột nhiên, ý nghĩ của ông không còn là giả thuyết nữa. Và ông bỗng sợ hãi. Ông nhấc mình ngồi dậy, nghe ngóng. Đêm tĩnh lặng. Tiếng nhạc đã tắt. Gió đã ngừng. Người anh trai (?) đang nằm ngủ bên cạnh. Hết sức thận trọng, ông giỡ chăn, cuộn lại. Len lén bước xuống giường, ông nhón gót vừa dợm chân đi mấy bước thì đã nghe tiếng người anh: - Mày đi đâu đấy? - Sao ạ? - Tao hỏi mày tính đi đâu đấy? – Giọng nói lạnh như băng. - Đi uống nước. - Mày đâu có khát - Có, khát nước thật mà. - Không, mày không khát. Phi đoàn trưởng John Black vùng chạy băng qua phòng. Ông rú lên. Một tiếng. Hai tiếng. Không bao giờ ông với tới cửa. Buổi sáng, ban nhạc kèn tấu một bi khúc ai oán. Từ những ngôi nhà trên đường phố, từng nhóm người buồn bã tiến ra con đường ngập nắng, khênh theo mười sáu chiếc quan tài; những người ông, người bà, những bà mẹ, những người chị, người anh, vừa khóc nức nở vừa bước đến nghĩa trang. Ở đó là mười sáu huyệt đất mới đào và mười sáu mộ bia mới dựng. Ba mộ bia trong số đó mang tên: JOHN BLACK, ALBERT LUSTIG và SAMUEL HINKSTON. Ông thị trưởng đọc một bài ai điếu, gương mặt lúc thì giống ông thị trưởng, lúc thì biến đổi thành cái gì khác hẳn. Bố mẹ của John Black có mặt ở đó cùng với Edward, họ khóc oà, những đường nét trên mặt họ lúc này đang chảy nhão ra, từ quen thuộc trở thành xa lạ. Ông bà nội của Lustig cũng đứng trước huyệt anh khóc nức nở; gương mặt họ biến dạng như sáp nến, rung rinh như một thứ gì đang tan chảy dưới sức nóng ngày hè. Những chiếc quan tài được hạ xuống. Có ai đó thầm thì về "cái chết đột ngột không mong đợi của mười sáu con người cường tráng trong đêm qua…". Đất lộp độp rơi trên nắp áo quan. Sau tang lễ, ban nhạc gióng kèn khua trống đi vào thành phố. Đám đông đứng quanh hò hét, vẫy tay khi chiếc hoả tiễn nổ tan tành thành muôn mảnh vụn tung toé. Hồ Thu (Nguyên tác: The Lake) Sóng ngăn cách tôi với thế giới, với lũ chim trên trời, bầy trẻ trên bãi cát, với mẹ tôi trên bờ. Một thoáng im lặng màu lục. Rồi sóng trả lại tôi bầu trời, bãi cát, bầy trẻ la ó. Tôi rời khỏi hồ và thế giới vẫn đang chờ đón, không xê dịch mảy may từ khi tôi bỏ đi. Tôi chạy lên bãi cát. Mẹ lấy khăn lông lau cho tôi. Bà nói: - Đứng đó cho khô người. Tôi đứng ngắm nghía ánh nắng lấy đi những hạt nước trên cánh tay. Tôi điền vào chỗ trống bằng những đốm gai ốc nổi sần trên da. - Ồ, trời trở gió kìa, – Mẹ nói. – Mặc áo vào đi con. - Chờ chút, con muốn xem con nổi da gà, – tôi nói. - Harold, – Mẹ nhắc nhở. Tôi mặc áo vào và nhìn những con sóng hết tiến vào lại lùi xa trên bãi cát. Rất đều đặn. Có chủ đích, một nhịp đều đều xanh xanh điệu đàng. Ngay cả một người say cũng không thể nào ngã quỵ xuống điệu đàng như những con sóng ấy. Lúc đó là tháng Chín. Vào những ngày cuối cùng khi mọi thứ đâm ra buồn buồn chẳng có nguyên do. Bãi cát hun hút và hiu quạnh chỉ có sáu bóng người. Mấy đứa nhỏ đã thôi nhồi bóng vì không hiểu sao làn gió cũng khiến chúng buồn, khi gió cứ rít vi vu như thế, và đám trẻ con ngồi xuống cảm nhận mùa thu đang đến trên bờ hồ vô tận này. Mọi quầy sạp bán xúc xích đã đóng kín bằng những tấm ván sơn sọc vàng, khoá chặt bên trong bao mùi vị thịt thà, hành tây, mù tạt của mùa hè vui thú dài lâu. Cứ như mùa hè đã bị đóng đinh nhốt trong một dãy quan tài. Từng cái một, các quầy sạp đóng sầm mái che, móc khoá vào cửa, và gió tới vuốt ve mặt cát, thổi tan đi cả hàng triệu dấu chân của tháng Bảy và tháng Tám. Cứ như thế tới giờ, đến tháng Chín, chẳng còn gì ngoài dấu giày thể thao cao su của tôi và dấu chân của Donald và Delaus Arnold mon men xuống gần gợn nước. Cát bay tung lớp lớp trên các vỉa hè, và vòng đu quay đã trùm kín trong vải bạt, tất cả những con ngựa gỗ đứng sững giữa trời trên những cột đồng, nhe răng, trong nước kiệu bất động. Luồn qua tấm vải bạt chỉ có gió làm tiếng nhạc. Tôi đứng đó. Mọi người khác đã đến trường. Tôi thì không. Ngày mai tôi sẽ lên đường xuyên nước Mỹ về miền tây bằng tàu lửa. Mẹ và tôi đến bờ hồ này chỉ một lần ngắn ngủi cuối cùng. Cảnh cô tịch này có cái gì đó khiến tôi cứ muốn được tránh xa một mình. - Mẹ, con muốn chạy ngược theo bờ hồ này ra đằng xa, – tôi nói. - Được, nhưng quay về cho mau, và tránh xa bờ nước. Tôi chạy. Cát xoay tít dưới chân tôi và gió nâng tôi lên. Bạn biết cảm giác đó mà, chạy nhanh, hai cánh tay giang ra để ta nhận thấy gió như đang giăng mành giữa các ngón tay mình. Như chim tung cánh. Mẹ ngồi đó, thu nhỏ dần theo khoảng cách. Chẳng mấy chốc bà chỉ còn là một đốm nâu và chỉ mình tôi đơn độc. Được một mình là cái cảm giác mới mẻ đối với một đứa trẻ mười hai. Nó đã quá quen có nhiều người chung quanh. Cách duy nhất để nó được một mình là tưởng tượng. Có quá nhiều con người thực ở khắp nơi, bảo ban lũ trẻ phải làm gì và làm sao, tới mức một thằng bé phải chạy thật xa ngoài bờ hồ, cho dù chỉ chạy trong đầu, thì mới được ở một mình trong thế giới của riêng nó. Vậy là bây giờ tôi thật sự một mình. Tôi đi xuống nước và để cho nước mát ngập tới bụng. Mọi lần trước đây, khi có đám đông, tôi không dám nhìn, không dám tới chỗ này để tìm quanh mặt nước và gọi một cái tên ai đó. Nhưng bây giờ… Nước giống như nhà ảo thuật. Cưa đôi người ta ra. Ta có cảm tưởng như bị cắt làm hai nửa, một phần của ta, phần bên dưới, là đường, tan chảy, biến mất. Nước mát, và đôi khi một gợn sóng xô rất điệu đàng rủ xuống một màn lụa nước rập rờn. Tôi gọi tên cô bé. Hơn chục lần, tôi gọi mãi. - Tally! Tally! Tally ơi! Khi ta còn nhỏ thì ta thật sự mong mỏi tiếng gọi của mình được đáp lời. Ta tưởng như bất cứ thứ gì ta nghĩ ra cũng đều có thể có thật. Và có khi điều đó hẳn cũng không sai. Tôi nhớ Tally đã bơi ra ở khoảng hồ này tháng Năm vừa rồi, hai bím tóc lướt thướt đằng sau, tóc vàng. Cô bé vừa đi vừa cười vang, và nắng rọi trên hai bờ vai mười hai nhỏ nhắn. Tôi nhớ mặt nước này khép lại im lìm, nhớ người cứu hộ đã lao xuống hồ, nhớ tiếng gào của mẹ Tally, và nhớ Tally đã trốn biệt tăm ra sao… Người cứu hộ đã cố sức thuyết phục cô bé đi ra, nhưng cô vẫn trốn. Ông ta quay lại, trong mấy ngón tay đầy khớp đốt to lớn chỉ có mấy nhánh rong, còn Tally biến mất. Cô bé không còn ngồi ngay trước mặt tôi ở trường, mà cũng không còn chạy đuổi theo những quả bóng con trên hè phố lát gạch những đêm hè nữa. Cô bé đã đi ra quá xa, và hồ nước đã không cho cô trở về. Và bây giờ trong mùa thu đìu hiu này khi bầu trời mênh mông và mặt nước mênh mông và bờ cát lê thê, tôi đã đi xuống chỗ đó lần cuối cùng, một mình. Tôi gọi tên cô bé mãi. Tally ơi, Tally! Gió thổi rất khẽ bên tai tôi, giống như cách gió thổi qua miệng các vỏ sò để làm cho chúng rung ngân thì thầm. Nước dâng lên, ôm choàng lấy ngực tôi, rồi hai đầu gối, lên rồi xuống, hết dâng lại rút, hút lấy hai gót chân tôi. - Tally! Về đi, Tally! Tôi chỉ mới mười hai. Nhưng tôi biết tôi yêu cô bé biết bao. Đó là thứ tình yêu nảy sinh trước mọi ý nghĩa của thân thể và đạo lý. Đó là thứ tình yêu chẳng khác gì gió và biển và cát mãi mãi nằm bên nhau. Tình yêu ấy hình thành từ những ngày dài ấm áp cùng chơi trên bờ hồ này, và những ngày ầm ừ lặng lẽ của những bài học ê a ở trường. Từ suốt những ngày thu dằng dặc mấy năm qua khi tôi mang cặp sách cho cô bé từ nhà đến trường. Tally! Tôi gọi tên cô bé lần cuối cùng. Tôi rùng mình. Tôi cảm thấy nước ướt mặt mình và không hiểu sao nước lại bám ở đó. Sóng hồ đâu vỗ cao đến vậy. Quay lại, tôi rút lui lên bãi cát và đứng đó cả nửa giờ, mong mỏi một thoáng hiện, một dấu hiệu, một chút gì của Tally để nhớ. Rồi, tôi quỳ xuống và đắp một lâu đài cát, tạo hình thật đẹp, vun đắp nó như Tally và tôi đã từng xây biết bao lâu đài. Nhưng lần này, tôi chỉ đắp một nửa. Rồi tôi đứng lên. - Tally, nếu bạn nghe mình thì hãy vào đây đắp phần còn lại. Tôi đi về phía cái đốm nhỏ xa tít là Mẹ ngồi kia. Sóng tràn vào, hoà tan lâu đài cát với từng vòng nước cuốn xoay tròn, từng chút một nghiền nát lâu đài trở thành mặt cát phẳng phiu như cũ. Lặng lẽ tôi đi ven bờ hồ. Xa xa, vòng đu quay kêu lanh canh, nhưng đó chỉ là tiếng gió khua. Ngày hôm sau, tôi lên tàu ra đi. Đoàn tàu không nhớ được lâu; nó nhanh chóng bỏ hết tất cả đằng sau. Nó quên mất những cánh đồng ngô Illinois, những dòng sông tuổi thơ, quên những chiếc cầu, hồ ao, thung lũng, mái tranh, quên bao nỗi đau và niềm vui. Nó vung vãi chúng sau lưng và chúng rơi rụng dưới chân trời. Tôi giãn xương giãn cốt, thêm thịt thêm da, đầu óc trẻ thơ trở thành già giặn, vứt bỏ bao quần áo không còn mặc vừa, chuyển từ trường cơ sở lên trung học, rồi đại học. Và rồi xuất hiện một cô gái ở Sacramento. Tôi quen nàng """