"Những Nhà Tư Tưởng Lớn: Hegel Trong 60 Phút PDF EPUB 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Những Nhà Tư Tưởng Lớn: Hegel Trong 60 Phút PDF EPUB Ebooks Nhóm Zalo HEGEL IN 60 MINUTEN —★— Nguyên tác: HEGEL in 60 Minuten Tác giả: Walther Ziegler Dịch giả: Lưu Hồng Khanh và Bùi Văn Nam Sơn Thể loại: Triết Bản quyền: VanLangBook NSX: Hồng Đức Năm xuất bản: 2015/Vn2021 —★★★— # huydat 03-11-2021 LỜI GIỚI THIỆU Hegel 27.8.1770 - 14.11.1831 "Cái gì hợp lý tính, thì hiện thực; và cái gì hiện thực, thì hợp lý tính. Vào cuối năm 2017/đầu năm 2018, chúng tôi gặp thấy trên thị trường sách ở Đức một bộ sách mang tên “Những nhà tư tưởng lớn trong 60 phút” (Grobe Denker in 60 Minuten) do Dr. Walther Ziegler biên soạn. Đây là bộ sách về các triết gia lớn trên thế giới, được trình bày ngắn gọn, cơ bản, súc tích, đầy đủ, nhưng dễ hiểu và ứng dụng cho các câu hỏi của con người thời đại, có thể chỉ cần 60 phút để đọc hết tập sách dài khoảng trên dưới 100 trang, với cỡ chữ to và nhiều hình ảnh về nhà tư tưởng đang được bàn đến cùng với những lời trích dẫn của nhà tư tưởng đó. Quả thật, chỉ riêng về một triết gia với hàng chục hay hàng trăm tác phẩm và tư liệu rất phức tạp trong tư tưởng cũng đã là một khó khăn cực lớn cho người đọc, làm sao ta có thể quán xuyến thấu triệt toàn bộ tư tưởng của một triết gia như thế, nói gì đến hàng chục triết gia quan trọng khác trong tổng thể lịch sử triết học thế giới? Soạn giả Walther Ziegler rất khiêm tốn và đầy thịnh tình trong giao tiếp đã chứng tỏ sự thành công của ông trong công việc tổng hợp này. Ông đã đúc kết cống hiến cho bạn đọc những tư tưởng nòng cốt của từng triết gia, hơn nữa trên cơ sở toàn bộ các lời trích dẫn đã để cho các triết gia trực tiếp nói chuyện với bạn đọc thay vì soạn giả nói về các triết gia. Vào thời điểm cuối tháng 10 năm 2019, có 20 triết gia đã được in, 2 triết gia được thông báo sắp xuất bản, và 2 nhà tư tưởng lớn châu Á “như một thách thức lớn” dự kiến cũng sẽ đưa vào bộ sách này [Email của tác giả ngày 05 tháng 03 năm 2019 cho người viết lời giới thiệu này.] Các triết gia đã in (xếp theo vần abc): Adorno, Arendt, Camus, Foucault, Preud, Habermas, Hegel, Heidegger, Hobbes, Kant, Marx, Nietzsche, Platon, Popper Rawls, Rousseau, Sartre, Schopenhauer, Smith, Wittgenstein. Các triết gia sắp xuất bản (cũng xếp theo vần abc): Bacon, Descartes,... Hai nhà tư tưởng lớn châu Á là Đức Phậtvà Khổng Tử. Bố cục mỗi tập sách gồm 3 phần: Khám phá lớn của triết gia Tư tưởng cốt lõi của triết gia Phát kiến của triết gia có ích gì cho chúng ta ngày nay? Như bạn đọc có thể nhận thấy, cấu trúc ba bước đi suy tư này của soạn giả Dr. Ziegler xem thật đơn giản, nhưng lại mang một tầm mức sư phạm rất cao: đánh dấu một tư duy sáng tạo tìm cách phát minh những điều mới lạ, từ đó khai triển những suy tư cốt lõi cơ bản, nhưng không dừng lại ở đây để ghi nhận, chiêm ngắm hay liệt kê trích dẫn như trong một số chương trình giáo dục và đào tạo truyền thống, nhưng tìm cách ứng dụng một cách sáng tạo cho độc giả, cho chúng ta, cho con người ngày hôm nay. Bộ sách “Những nhà tư tưởng lớn trong 60 phút” này đã được đón nhận với rất nhiều thiện cảm tại nước Đức nơi bản gốc được xuất bản, cũng đã được dịch ra tiếng Anh và tiếng Pháp, nhờ vậy mà hàng nghìn người trên thế giới nay có cơ hội tiếp cận được những tập sách quý này. Bởi, theo phản ánh của công luận, điều mà thế giới đang cần: đó là nhiều triết học hơn nữa! Và đó cũng là động lực thúc đẩy chúng tôi sớm chuyển tải bộ sách này đến quý bạn đọc ở Việt Nam. Thêm đôi dòng về soạn giả Dr. Walther Ziegler: Ông tốt nghiệp các khoa Triết học, Lịch sử, Chính trị. Làm nghề nhà báo trong nước ngoài nước, giảng viên huấn luyện các nhà báo trẻ, đồng thời cũng là tác giả nhiều tác phẩm triết học. Là một nhà báo thâm niên, ông đã thành công trong việc trình bày những kiến thức phức tạp của các triết gia lớn một cách hấp dẫn và dễ hiểu. Chúc quý bạn đọc nhiều niềm vui và nhiều hưng phấn trong suy tư và sáng tạo! Chủ trương biên dịch Ts. Lưu Hồng Khanh KHÁM PHÁ LỚN CỦA HEGEL Hegel (1770-1831) là một trong những triết gia quan trọng nhất trên thế giới. Ngay đối với những người đương thời, ông đã từng ảnh hưởng với một sức hấp dẫn vô cùng mãnh liệt. Các trí thức khắp cả châu Âu đã từng đến Berlin để nhìn tận mắt vị giáo sư lỗi lạc này. Các bài giảng đại học của ông đã làm say mê cử tọa như những huyền thoại, mặc dầu bề ngoài và trên ngôn ngữ Hegel lại tác động một cách đáng sợ. Ông có một khuôn mặt sắc cạnh, khóe miệng trì kéo xuống và một ánh nhìn nghiêm khắc sắc bén xuyên thấu. Ngôn từ của ông không kém phần hầm hừ. Không một nhà tư tưởng nào từng bao giờ lại viết lách một cách tối tăm, trừu tượng mà lại hùng hồn như thế. Điều này đã gây ra nơi các môn sinh của ông sự ngưỡng mộ, nhưng nơi các đối thủ thì lại là sự căm tức, giận dữ. Schopenhauer, một nhân vật đương thời của Hegel, đã từng phẫn nộ về cái mốt của các triết gia hàn lâm thời bấy giờ thường ưa thích diễn đạt một cách trừu tượng. Ông mắng mỏ họ là những kẻ xảo ngôn và Hegel là người đầu sỏ: “Tuy nhiên cái trơ tráo nhất trong cái vô nghĩa nhất, trong cái kết cấu những lời nói rỗng ruột, mà người ta cho đến bấy giờ chỉ có thể thấy được trong các nhà thương điện, thì nay cuối cùng lại đến nơi Hegel.” Cả triết gia văn hóa Durant người Mỹ quen biết cũng đã viết về các sách của Hegel: “Chúng là những kiệt tác của sự không thể hiểu được.” Như thế, Hegel không chỉ không có bạn bè mà sau khi qua đời, chỉ vì ngôn ngữ trừu tượng và đa nghĩa mà ông đã được đánh giá nhiều cách rất khác nhau. Có kẻ xem ông như một triết gia quốc doanh nhà nước Phổ và là một kẻ phản động, kẻ khác lại nhìn ông như một nhà cải cách xã hội đầy viễn kiến, kẻ khác nữa lại còn xem ông như một nhà huyền bí. Cho đến tận hôm nay, tác phẩm của ông vẫn được tranh luận một cách đầy mâu thuẫn. Nhưng có một điều chắc chắn: bên cạnh tất cả những trừu tượng trong mọi thứ ngôn từ của mình, Hegel đã thực hiện một khám phá tuyệt vời. Ông là người đầu tiên đã nhìn ra chiều kích sự “trở thành” trong toàn bộ kích thước của nó. Người ta có thể gọi ông là Charles Darwin của triết học. Bởi tất cả, theo Hegel, luôn ở trong trạng thái thường xuyên chuyển động. Sự sống của con người cũng có tính tiến trình như tự nhiên và lịch sử. Một con người vào đời như một trẻ sơ sinh, trở thành một em bé, một thanh thiếu niên, và cuối cùng là một con người trưởng thành. Cả lịch sử của nhân loại cũng sải bước từ những khởi đầu đơn giản luôn mãi tiến tới nơi xa. Một thời kỳ tiếp nối một thời kỳ khác. Các quốc gia mới được dựng lên, và cả những quy luật cũng luôn được thích ứng với những thời kỳ mới. Ngay cả công lý cũng không phải là một tiêu chuẩn phi thời gian, mà luôn được biến hình thay đổi. Điều mà xưa kia được cho là công bằng, thì ngày nay thường đã trở thành bất công. Và cả cho đến chân lý, nghĩa là điều mà người ta xem là đúng, là khách quan, cũng đều thay đổi theo thời gian. Thí dụ, triết gia Aristoteles thời cổ đại Hi Lạp vốn từng xem chế độ nô lệ là một điều hoàn toàn tự nhiên và chính đáng. Ông gọi người nô lệ thuộc loại “Ta Onta”, nghĩa là thuộc loại các vật dụng trong nhà. Ngày nay, chế độ nô lệ bị cấm đoán và bị trừng phạt với tội danh tước đoạt tự do của người khác. Từ đó, Hegel đã rút ra kết luận xem cả đến sự thật cũng không phải là một lý tưởng phi thời gian, mà là một tiến trình sống động, luôn thay đổi. Tất cả - phải, tất cả - đều ở trong sự thường xuyên biến chuyển: những xác tín của con người, luân lý, công lý, pháp luật, lề luật, và cả nghệ thuật, âm nhạc, kiến trúc. Khi đi tìm chân lý, theo Hegel, ta không được phép xem một giai đoạn phát triển nào là sự thật tuyệt đối, nhưng phải hiểu được toàn bộ tiến trình của nó. Hegel diễn đạt điều này với một câu nói nổi tiếng: Sự thật là cái toàn bộ. Nhưng cái toàn bộ chỉ là điều tự hoàn thành mình thông qua sự phát triển chính mình. Khi ngày nay ta bỗ bã nói về “Tinh thần thời đại” (“Zeitgeist”), điều đó bắt nguồn từ khám phá lớn của Hegel rằng, mỗi thời đại đều hàm chứa một tinh thần hoàn toàn riêng biệt và xuyên suốt tất cả. Cái Tinh thần thời đại này thay đổi chính mình trong dòng chảy của lịch sử và luôn mang những hình thức mới. Nó ghi dấu ấn một khoảng thời gian nhất định cho tư tưởng của một thời kỳ. Thí dụ như chính thể quân chủ chuyên chế với một ông vua toàn quyền đứng đầu một quốc gia là một hình thức của tinh thần đó. Châu Âu ngày nay mang hình thức một chính thể đa nguyên dân chủ. Trong mỗi tư tưởng dẫn đạo của một thời kỳ, hoặc nguyên lý dẫn đạo theo như Hegel nói, phản ánh sự tự hiểu và tự ý thức chính mình của con người. Qua đó, Tinh thần thời đại tác động đến nguyên lý của từng thời kỳ lịch sử trong nhiều hình trạng của các khuynh hướng và biểu hiện. Thí dụ, những người quý tộc trong chính thể quân chủ chuyên chế trên toàn châu Âu trước đây, nam thường mang đầu tóc giả, nữ thì áo lót màu, đi xem nghe ca kịch của những Vivaldi, Händel, Mozart, xây cất những cung điện Baroque với các phòng gắn kính, với vườn cảnh kiểu Pháp có giếng hồ với thác nước chảy. Bởi vậy, Hegel đã có thể nói: Tinh thần phát huy và khai triển cái nguyên lý của từng thời kỳ tự ý thức chính mình, mỗi lần trong toàn bộ sự giàu có muôn hình vạn trạng của mình. Nó là một Tinh thần giàu có, là Tinh thần của một dân tộc, là một tổ chức – một đại thánh đường, bao gồm những kiến trúc vòm, những hành lang, những dãy cột trụ, những đại sảnh, những phân phòng Tinh thần thời đại như thế, theo Hegel, là một tinh thần rất giàu có, bởi nó không chỉ bao gồm một lối y phục hiện hành hay những đồ nội thất được xem là trang nhã hay sang trọng, mà còn cả âm nhạc, hội họa, kiến trúc, hiến pháp nhà nước và cả triết học của từng thời kỳ. Bởi vậy, Hegel nói đến những nét đặc sắc khác nhau của những hình thái tinh thần cá biệt mà nhân loại đã đưa ra trong dọc suốt lịch sử của mình: [...] bởi từng mỗi khoảnh khắc là chính một toàn bộ hình dạng cá biệt [...]. Thí dụ, hình thái tinh thần của thời kỳ Lãng mạn thì khác với hình thái tinh thần của thời kỳ Gothic hay thời kỳ Baroque. Và hình thái tinh thần của chính thể quân chủ chuyên chế thì khác với hình thái tinh thần của thời kỳ Khai minh. Khi nhìn xem các đền đài, bức tượng hay hình ảnh của những thời kỳ trước đây, ta có thể mau chóng sắp xếp chúng vào một thời kỳ nhất định nào đó. Cả khi không phải là những nhà lịch sử nghệ thuật, ta cũng có thể, chẳng hạn, sắp xếp vệ thành Acropolis với những dãy cột cẩm thạch của nó vào hình thái tinh thần của thời cổ đại Hi Lạp, hay một thành trì thập tự chinh vào hình thái tinh thần của thời phong kiến trung đại Kitô giáo. Cho đến đây, sự khám phá ra chiều kích “trở thành” của Hegel - xem ra thật đơn giản và có thể dễ dàng được chấp nhận. Bởi có ai lại phản bác việc luôn có một cái gì đó như một tinh thần thời đại hay những hình thái tinh thần hoặc những thời kỳ khác nhau trong lịch sử? Nhưng, chừng ấy chưa làm cho Hegel thỏa mãn. Hegel còn thực hiện một khám phá thứ hai đầy nghiêm trọng. Những hình thái tinh thần khác nhau, theo ông, không phải được sắp xếp với nhau một cách tùy tiện hay ngẫu nhiên, nhưng tiếp nối nhau theo một nguyên lý vận động logic, được gọi là biện chứng. Hegel so sánh cái chuỗi liên tiếp logic các hình thái tinh thần trong lịch sử trước hết như sự sinh trưởng của một cái cây. Bởi những giai đoạn sinh trưởng của một cây thực vật không phải là những thay đổi mù quáng và vô nghĩa, mà tuân theo một nguyên lý bên trong và bao hàm một mục đích nhất định, dẫu rằng người ta không tức khắc nhìn ra điều đó. Cây thực vật không đánh mất mình đi qua sự thay đổi [xem ra] thuần túy vô định. [...]. Điều ấy không thấy được trong hạt mầm [của cây]. Hạt mầm có kích lực tự phát triển; [...] Nhiều thứ được xuất hiện, nhưng tất cả chúng được tích chứa trong cái mầm, dĩ nhiên không phải phát sinh, nhưng được che giấu và bằng ý tưởng. Sự hoàn thành việc xuất hiện này được thể hiện, nó nhằm một chủ đích. Sự xuất hiện lớn nhất, cái kết thúc đã được ấn định là trái cây [...] Giống như cái cây trước hết là hạt và mầm, rồi trổ lá và hoa, cuối cùng sinh ra trái, thì lịch sử loài người cũng đi theo một logic bên trong như thế. Một hình thái xuất hiện sau những biến chuyển trước đó. Cái biến chuyển này được Hegel gọi là biện chứng. Tuy nhiên, cái biện chứng này không chỉ là một sự tăng trưởng đơn thuần và một sự phát triển điều hòa các năng lực, mà nó được tiếp diễn trong khủng hoảng và mâu thuẫn. Sự chuyển tiếp từ một giai đoạn Sống này sang một giai đoạn sống khác thì, theo Hegel, thường là bi đát. Giống như một em bé vào tuổi dậy thì đột nhiên không còn muốn là một trẻ bé bị bảo hộ nữa, và do đó trước tiên là từ chối và đặt vấn đề về những gì người lớn nêu ra cho em, thì cũng xảy ra trong lịch sử thế giới qua những thay đổi mang tính thời đại với những khủng hoảng, xung đột và mâu thuẫn. Mâu thuẫn, điều được cá nhân hay mọi người cảm nhận như một sự không thể tương hợp, thì đối với Hegel không có gì xấu, trái lại là một điều rất ích lợi: [...] chỉ điều gì mang chính trong mình một mâu thuẫn, nó mới tự cử động, có kích lực và hoạt động. Thí dụ như khi một thời đại lịch sử mang trong mình các mâu thuẫn và nhiều người bất mãn với xã hội và hiện trạng của nó, thì điều đó đưa đến sự phản đối về tinh thần và vật chất. Trật tự cũ bị chao đảo và được thay thế bằng một trật tự mới. Ta hãy lấy thí dụ cuộc Cách mạng Pháp (1789) và sự thay đổi từ chính thể quân chủ chuyên chế sang Thời đại khai minh. Phát xuất từ sự phản kháng đối với giới quý tộc, ý hệ ân sủng của Thượng đế, chế độ phong kiến và kiếp nông nô, nay dần dà được phát triển thành một hình thái tinh thần mới, hình thái tinh thần của Khai minh và thuyết duy lý. Thay vì tư tưởng tôn giáo thần bí về quyền thống trị của một ông vua do thiên mệnh và do “dòng máu xanh” của giới quý tộc, thì nay hiển thị tư tưởng thuần lý về chủ quyền của nhân dân và về sự bình đẳng của con người. Hegel rất kích động trước những tư tưởng triệt để của cuộc Cách mạng Pháp, nhất là trong thời kỳ niên thiếu, và cảm nhận được rằng, toàn thể lịch sử châu Âu đã được chuyển động bởi sự phản kháng của các nhà khai minh và cách mạng Pháp: Tình trạng tổng thể nước Pháp hồi bấy giờ là một tập hợp hoang dã các đặc quyền phản lại tất cả mọi ý nghĩ và lý trí, [...] một vương quốc của phi pháp [...]. [Nay] một tinh thần mới đã trở nên năng động, [...]. Sự thay đổi cần thiết phải mãnh liệt, bởi sự chuyển biến không do chính quyền chủ động [...]. Tư tưởng, khái niệm về pháp quyền biểu hiện một lần cho tất cả là có hiệu lực và để chống lại nó thì guồng máy của sự phi pháp ông thể chống lại. [...] Và như thế, đã hiển thị một buổi bình minh huy hoàng. Hegel tán dương sự đảo lộn biện chứng như hiện tượng mặt trời mọc huy hoàng. Nhưng không phải chỉ những cuộc cách mạng lớn, cả những mâu thuẫn và những thay đổi nhỏ cũng đem lại cho con người mỗi lần một bước đi tới. Và như vậy, theo Hegel, một hình thái tinh thần mới thay thế hình thái tinh thần cũ, bằng cách tuân theo lý tính biện chứng vượt ra khỏi hình thái tinh thần trước đó. Nhìn về lịch sử nhân loại, Hegel, một cách đầy nhiệt tình gọi đó là một tổng thể vương quốc các tinh thần: Vương quốc các tinh thần [...] làm thành một chuỗi [tinh thần] tiếp nối lẫn nhau, cái tinh thần sau thay thế cái [tinh thần trước, và mỗi cái [tinh thần đón nhận cái vương quốc của thế giới từ một vương quốc [thế giới] trước đó. Với những mâu thuẫn của mình, tinh thần thúc đẩy chính mình đi tới. Lúc đầu luôn có một tiền đề, nghĩa là một tư tưởng dẫn đạo, tiếp đến là một mâu thuẫn hay một phản đề như Hegel nói, và cuối cùng là một hợp đề, tức một hình thái tinh thần mới vượt bỏ cái mâu thuẫn của hai đề nói trên. Sau một thời gian, chính cái hợp đề này lại trở nên tiền đề [mới] và tất cả lại bắt đầu lại như từ đầu. Cả khoa học, theo Hegel, cũng sống bằng tiền đề, phản đề và hợp đề. Qua nhiều thế kỷ, người ta tin rằng trái đất là một cái đĩa, phía trên nó có các vì sao gắn vào bầu trời. Thủy thủ viễn dương vẫn thường lo sợ bị rơi ngã ở biên bìa trái đất. Thế rồi, một số học giả phủ nhận điều đó và khẳng định trái đất là tròn. Sau đó lại đến tổng hợp, nói rằng trái đất là trung tâm của vũ trụ, và quanh nó xoay vần mọi tinh tú. Hợp đề này là luận để có hiệu lực trong nhiều thế kỷ, cho đến khi Copernicus lại phủ nhận và khẳng định trái đất thực sự chỉ nằm ngoài biên của vũ trụ và chính nó lại xoay xung quanh một thiên thể khác: xung quanh mặt trời. Và như thế, chúng ta có được cái tự ý thức vũ trụ luận ngày nay, cái tính hợp lý của chúng ta cũng như toàn bộ sở hữu tinh thần thuộc về ta và thế giới của chúng ta, chỉ là nhờ vào công trình tiền đề, phản để và hợp đề của các tiền bối của chúng ta: Việc sở hữu cái tính hợp lý tự ý thức của chúng ta, điều đối với chúng ta, kẻ thuộc về thế giới hiện tại, là [...] một di sản và gần hơn là một thành quả [...] từ công việc của tất cả các thế hệ trước đây của loài người [...]. Nhưng Hegel không chỉ táo bạo, với biện chứng tiền đề, phản đề và hợp đề đã diễn đạt quy luật chuyển động của khoa học, tự nhiên và lịch sử thế giới, ông còn đi thêm một bước quyết định. Ông còn ứng dụng cái khám phá lớn là sự “trở thành” của ông vào cho cả Thượng đế. Cả Thượng đế, theo Hegel, cũng không hề từng luôn đã có mặt và một lúc nào đó đã tạo dựng thế giới, như được thuật lại trong Thánh Kinh, trái lại, Ngài cũng đã phải qua công sức lâu dài của lịch sử thế giới mới xuất hiện. Như vậy, Thượng đế cũng giống con người chúng ta là phải được hiểu trong sự hình thành, và như thế là trong sự chuyển động thường xuyên. Bởi vậy, Hegel, thay vì gọi Thượng đế, đã gọi là “Tinh thần thế giới”, để biểu đạt tốt hơn chiều kích sự trở thành. Qua đó, Tinh thần của thế giới đối với Hegel không gì khác hơn là tổng số các hình thái tinh thần hay các thời đại khác nhau mà nhân loại đã và đang trải qua trong lịch sử thế giới: Bởi lịch sử thế giới là sự trưng diễn tiến trình thần linh, tuyệt đối của Tinh thần trong những hình thái cao nhất, của cái bậc thang này, qua đó Ngài đạt đến sự thật của Ngài, đến cái tự ý thức về chính mình. Như vậy, nơi Hegel, không có Thượng đế vĩnh cửu phi thời gian, bay lượn trên tất cả. Đúng hơn, Ngài ở giữa trong đó và luôn mãi trong chuyển động. Tinh thần thế giới của Hegel triển khai mình từ những khởi đầu giản đơn sơ đằng trước hết ở trong và thông qua từng cá nhân con người trong lịch sử thế giới, và từ đó mới đạt được sự tự ý thức chính mình: [...] Tinh thần phổ quát không đứng yên [...]. Sự sống của Ngài là tác hành. Tư tưởng cốt lõi hào hùng và chói lọi của triết học Hegel như thế cuối cùng căn cứ vào việc cho rằng, tinh thần thần linh của thế giới, con người suy tư và lịch sử thế giới là ba viên Ảnh khác nhau của cùng một chuyển động, hoặc nói cách khác, đó là những góc nhìn khác biệt của cùng một tiến trình của sự khai triển lý tính biện chứng. Tất cả chúng ta, theo Hegel, đều được gắn kết vào một động lực phát triển vĩ đại lôi cuốn tất cả vào trong quỹ đạo của mình. Cái Tinh thần của thế giới trên đường trở về chính mình được phát triển trong và do con người từ thế hệ này qua thế hệ khác, trong chừng mực chúng ta thúc đẩy nó nhờ suy tư và hành động của chúng ta trong lịch sử thế giới. Con người tự thần linh hóa chính mình, bằng cách luôn mãi tiếp tục tinh luyện ý thức và tri thức của mình. Cái thế giới quan tân kỳ và triệt để này của Hegel, theo đó sự tự chuyển động biện chứng của lý tính được biểu hiện đồng thời trong Thượng đế, con người và lịch sử, nay dĩ nhiên đặt ra một loạt câu hỏi: trước tiên, nguyên lý chuyển động biện chứng này - điều nắm giữ tất cả trong chuyển động - đích thực là gì và trong cụ thể nó hoạt động ra sao? Tiếp đến: Tinh thần thần linh của thế giới hoặc chính con người sẽ xác định dòng chảy của lịch sử? Chúng ta chỉ là những con rối của Tinh thần thế giới hoặc quả thật đích thực là những tác nhân? Và thứ ba: Nơi đâu chấm dứt lịch sử? Cuối cùng có thật chúng ta sẽ trở thành Thượng đế? TƯ TƯỞNG CỐT LÕI CỦA HEGEL BIỆN CHỨNG – ĐỘNG LỰC CỦA TƯ DUY Biện chứng nơi Hegel đích thực là động lực của sự phát triển toàn bộ trên trái đất. Như một con suối tuôn trào xối xả lôi cuốn tất cả với mình - ý thức cá nhân của con người, các biến cố thời đại của toàn thể các xã hội và cả toàn bộ tự nhiên. Tất cả đi theo cái động lực tiền đề, phản đề và hợp đề. Nơi từng cá nhân con người, dòng chảy được biểu hiện như sau: Trước tiên người ta có một ý kiến, tiếp đến là ý kiến ngược lại, cho đến khi từ đó xuất hiện ý kiến thứ ba được thấy là không mâu thuẫn. Nhưng rồi cái hợp đề trước đó phi mâu thuẫn trên bình diện thứ ba nay lại trở nên tiền đề mới, và cái tiến trình tư duy được bắt đầu lại như từ đầu. Từng cá nhân mỗi người, theo Hegel, không thể gì khác hơn là tư duy một cách biện chứng. Bởi từ thời đồ đá, y, với bao sai lầm và mâu thuẫn, học hỏi được về điều đó và nhờ vậy có được những kinh nghiệm cần thiết cho việc sống còn. Thí dụ, khi một người thượng cổ ăn nấm bay [hay nấm lá, một loại nấm độc hình nón có nhiều chấm trắng chấm đỏ] và bị đau bụng quằn quại, y và những người khác bên cạnh quan sát được điều đó, đã từ kinh nghiệm này, phải rút ra hệ quả là từ nay sẽ không còn ăn nấm nữa, hoặc trước hết sẽ ăn thử từng phần nhỏ cho đến khi dần dần biết phân biệt được nấm lành và nấm độc. Như thế, luận điểm tiền đề của người thượng cổ sẽ là: nấm thì ăn ngon và làm no bụng. Phản đề sẽ là: nấm là độc và không nên ăn. Hợp đề sẽ là: ta có thể phân biệt giữa nấm độc và nấm lành và với lựa chọn kỹ càng, một số loại nấm có thể ăn rất ngon. Cả trong mọi điều khác của cuộc sống, theo Hegel, chúng ta phải luôn mãi cập nhật sự hiểu biết của chúng ta. Cuộc sống của chúng ta như thế là một tiến trình vượt bỏ biện chứng lâu dài. Qua đó, lý tính của chúng ta luôn luôn làm việc với biện chứng ba bước. Bất kể là những biến cố hằng ngày ít hay nhiều đau thương, là những tiến bộ khoa học lớn hay những sinh nghiệm bản thân, biện chứng luôn luôn có mặt. Hiệu quả của một tiến trình tư duy biện chứng như thế không hề chỉ là một điều gì trừu tượng, nhưng là một điều mà ta thường gọi là “kinh nghiệm”, bởi Hegel nói: Cái chuyển động biện chứng này, cái chuyển động tác động cái ý thức trên chính nó, vừa trên cái hiểu biết của nó cũng như trên cái đối tượng của nó, bằng cách từ đấy làm dấy lên trong nó một đối tượng thật sự mới, đó chính thực là điều được gọi là kinh nghiệm. Dựa trên thí dụ người ăn nấm, ta có thể hiểu rõ câu nói này. Hegel đặt tên cho cái chuyển động biện chứng này là kinh nghiệm. Cuối cùng, cái hợp để từ tiến trình nhận thức, dẫu cho cái việc ăn nấm độc có đau đớn chừng nào đi nữa, cũng là một kinh nghiệm quý báu, kinh nghiệm bổ ích cho sự hành xử việc ăn uống trong tương lai. Và người ta cũng có thể hiểu Hegel muốn ngụ ý gì, khi trong câu trích dẫn trên đây ông nói, rằng “cái chuyển động biện chứng tác động cái ý thức trên chính nó, vừa trên cái hiểu biết của nó cũng như trên cái đối tượng của nó”, dài lâu cho đến khi cuối cùng một đối tượng thật sự mới từ đó được dấy lên”. Trong thí dụ của chúng ta, nấm là đối tượng. Người ăn nấm đang đói, xem nấm bay là thực vật làm dịu cơn đói và chính bản thân là kẻ đang đi tìm thức ăn. Sau cái kinh nghiệm quằn quại đau bụng, bởi đối tượng, ở đây tức cây nấm, là thực vật độc, người ăn nấm bèn thay đổi sự hiểu biết của mình về đối tượng cũng như về chính bản thân mình. Gã thẩm định chính mình không còn như là một sinh vật có khả năng tiêu hóa tất cả mọi thứ nấm, và gã cũng thận trọng thẩm định trước tiên một cách khái quát rằng nấm là thực phẩm nguy hại. Nhưng cái phản đề này, cái sự thật mới về mình và về đối tượng sự vật, lại một lần nữa chuyển động, khi chính bản thân hay một ai khác, sau khi thận trọng thử nghiệm từng phần nhỏ, xác định rằng không phải tất cả mọi thứ nấm đều gây buồn nôn hay đau bụng, nhưng chỉ một số ít trong chúng thôi. Qua đó, cuối cùng dấy lên trong ý thức một sự thật thứ ba về chính mình và về nấm, rằng không phải toàn thể giống nấm nhưng chỉ một số loại trong chúng là độc và không thích hợp để ăn. SỰ VƯỢT BỎ BIỆN CHỨNG BA TẦNG Từ “vượt bỏ” được Hegel sử dụng theo ba nghĩa. Chỉ khi bắt nắm được cái đa nghĩa của khái niệm sáng chói này, ta mới thấu hiểu được cái tính ma thuật độc đáo của phép biện chứng. “Vượt bỏ nơi Hegel bao hàm những ý nghĩa sau Trước nhất là nghĩa cất đi hay loại ra. Cái mâu thuẫn biện chứng được cất đi, điều ấy đối với Hegel không gì khác hơn là loại đi cái mâu thuẫn giữa tiền đề và phản đề trong cái hợp đề. Thí dụ, cái mâu thuẫn giữa cái tiền đề “tôi có thể ăn nấm” và cái phản để “tôi không thể ăn một thứ nấm nào” được loại bỏ đi trong cái hợp để “tôi có thể ăn một ít thứ nấm chứ không phải ăn tất cả mọi thứ [nấm] khác”. Ta cũng có thể nói, cái mâu thuẫn giữa cái biết được nhìn nhận về sự có thể thưởng thức và cái biết tiếp theo đó về sự không thể thưởng thức được biến mất trong cái biết về sự có thể thưởng thức phần nào. Thứ đến, vượt bỏ cũng có nghĩa là bảo lưu và gìn giữ, như khi ta cất giữ những tấm ảnh gia đình cũ, món ăn dư thừa còn lại hay những kỷ niệm của những chuyến du lịch. Hegel nói: Vượt bỏ có hai nghĩa trong ngôn ngữ, có nghĩa bảo lưu, gìn giữ và đồng thời cũng có nghĩa bỏ đi, chấm dứt. Cái ý nghĩa “cất giữ”/“bảo lưu” trong phép biện chứng được thể hiện, như khi cái biết từ tiền đề và phản đề ở trong cái hợp đề không phải đơn giản bị biến mất đi, trái lại, tiếp tục được thận trọng cất giữ và bảo lưu, hoặc như Hegel nói: Như cái được vượt bỏ đồng thời cũng là cái được cất giữ/ bảo lưu, nó mất đi cái tính tức thời, nhưng không vì thế mà bị tiêu hủy. Cả khi kinh nghiệm về đau bụng và buồn nôn sau một ít năm không còn chút ý nghĩa trực tiếp nào nữa, bởi ta đã có thể phân biệt được giữa nấm lành và nấm độc, thì kinh nghiệm đó vẫn không hoàn toàn bị quên đi. Bởi người ăn nấm, cả khi nay biết loại nấm nào ăn được, thì trong cái biết này gã cũng còn cất giữ cái kinh nghiệm đau đớn về cái không tiêu hóa được và đi tìm trong rừng một cách thật chính xác loại nấm nào thì lấy loại nấm nào thì không. Như thế kinh nghiệm về sự nguy hại vẫn còn trong sự cẩn thận tìm kiếm, cũng như kinh nghiệm về hương vị ngon lành của nấm ăn được. Thứ ba, vượt bỏ nơi Hegel còn có nghĩa vượt lên, nâng lên hay đưa một vật gì lên một tầng cấp cao hơn. Bởi trong cái hợp đề thì cái biết đối với tiền đề và phản đề được nâng lên một tầng ý thức cao hơn. Một cách nào đó, nó mang một sự thật cao hơn, bởi cái biết có phân biệt về sự khác biệt các loại nấm đối với sự tiêu hóa nay mang một tầm quan trọng cao hơn rất nhiều so với cái biết ngờ nghệch lúc ban đầu về cái hoàn toàn ăn được hoặc hoàn toàn không ăn được. Nhờ sự vượt bỏ thường xuyên của cái biết, nhận thức của lý tính trong tiến trình biện chứng được liên tục phát triển. Bởi cá nhân cũng như xã hội có được những kinh nghiệm ở những cấp độ ngày càng cao hơn. Phép biện chứng tác động trong cá nhân, trong lịch sử thế giới cũng như trong tự nhiên. Bởi vậy, triết học hệ thống của Hegel có thể được hiểu như là một nỗ lực đầy tham vọng để thấu hiểu toàn thể thực tại như một tiến trình tự phát triển của lý tính biện chứng. Qua đó, lý tính liên tục đi theo những kinh nghiệm của chính mình và tự thúc đẩy mình đi tới, thông qua các mâu thuẫn của chính mình: [...] mâu thuẫn [...] là cái gốc của mọi biến chuyển và năng động; chỉ chừng nào sự vật mang trong mình một mâu thuẫn, nó mới chuyển mình, có xung lực và hoạt động. Theo Hegel, quả là một sai lầm lớn của logic học truyền thống khi đánh giá quá thấp sức mạnh của sự mâu thuẫn. LÔGIC HỌC CỦA SỰ TRỞ THÀNH Trong khoa logic học của triết học cổ điển, mệnh đề đồng nhất A = A có giá trị. Nhưng mệnh đề này theo Hegel dẫn đến một tư duy chết cứng và sáo mòn, bởi người ta chỉ còn nghĩ đến việc liệu một đối tượng có trùng hợp hay không với phạm trù được quy định cho nó. Nếu A = A, điều ấy một cách logic có nghĩa rằng, không thể đồng thời A + A. Ở đây dĩ nhiên Hegel cũng đồng ý, nhưng ông đòi hỏi một sửa đổi mang tính quyết định về ý tưởng này. Nếu A=A, theo Hegel, thì không thể đồng thời A$A, nhưng nó rất có thể trở thành như thế và đối với Hegel sự trở thành này là điều quan trọng. Thí dụ nước là chất lỏng, nhưng nó rất có thể một lúc nào đó trở thành chất rắn hoặc chất hơi, khi phụ thuộc vào những sự thay đổi nhiệt độ. Cái biết A = A, trong trường hợp nước = lỏng, cũng có thể với một kinh nghiệm sống động, trở thành A+ A và xuất phát từ mâu thuẫn mà trở thành một sự biết mới. Bởi vậy Hegel trong tác phẩm “Khoa học Logic” (“Wissenschaft der Logik”) của ông, khẩn thiết đòi hỏi chúng ta phải kiên quyết tự giải thoát mình khỏi tư duy tĩnh tại của logic học thời cổ đại và mệnh đề đồng nhất và biết nhìn nhận sự mâu thuẫn như yếu tố có ý nghĩa hơn: Nhưng hẳn là một trong những định kiến cơ bản của khoa logic học từ xưa đến nay và của sự hình dung quen thuộc, xem sự mâu thuẫn không phải là một quy định cũng thiết yếu và cố hữu như sự đồng nhất. Một khi ta muốn mở rộng một trật tự thứ bậc giả tạo như thế, theo Hegel, thì ta phải xem mẫu thuẫn như là quy định sâu hơn và thiết yếu hơn là sự đồng nhất, bởi chính cái mâu thuẫn chuyển động cho tư duy của con người: [...] Vâng, nếu bàn về chuyện thứ bậc và về hai sự quy định tách biệt nhau, thì mâu thuẫn sẽ phải được xem là cái sâu hơn và thiết yếu hơn. Bởi sự đồng nhất [...] chỉ là quy định của cái tức thời, của cái tồn tại chết; nhưng mâu thuẫn thì là cái gốc của mọi chuyển động và sống động, [...] Sự xác định một đối tượng bằng nguyên lý đồng nhất, nghĩa là A = A như thế sẽ giẫm chân tại chỗ trong sự xác quyết trừu tượng và vô hồn hay trong sự không xác quyết về một sự đồng nhất. Hegel trái lại luôn luôn nhấn mạnh, rằng sự phủ định, nghĩa là một sự không ngang bằng nhau hay một mâu thuẫn, phải được tiếp tục khai triển, trong chừng mực sự mâu thuẫn không chỉ có nghĩa là một sự không-đồng nhất trừu tượng, mà là một sự sai lệch cụ thể, nghĩa là một mâu thuẫn chất chứa các đặc tính. Và sự mâu thuẫn cụ thể và nhất định này không dẫn đến chỗ cho rằng tiền đề, trong toàn bộ của nó, là trống không và vô nghĩa, mà chỉ cho rằng một bộ phận của tiền đề được nhìn nhận là sai, và trong đó hàm chứa điểm xuất phát cho bước tiến xa hơn của khoa học: Điều độc nhất để có được bước tiến khoa học [...] là sự nhận thức định lý logic, [...rằng, điều tự mâu thuẫn với mình không phải tan biến trong cái không, trong cái hư vô trừu tượng, nhưng thiết yếu chỉ trong sự phủ định cái nội dung đặc thù của nó mà thôi [...]. Thí dụ khi tôi có mâu thuẫn, rằng tôi đã ăn một thứ nấm nào đó, nó ngon lành, mặc dầu trước đó tôi cũng đã có ăn nhiều loại nấm, chúng là nấm độc, thì cái kinh nghiệm về nấm ăn ngon lành không phải là một phủ định trừu tượng về cái kinh nghiệm ban đầu, rằng nấm là độc hại, nhưng chỉ là một phủ định nhất định, rằng chính riêng cái loại nấm này là nấm ăn được. Kết quả của sự phủ định nhất định này cũng đưa lại một cái biết nhất định và cao hơn về nấm, hoặc như Hegel nói: Khi cái kết quả, cái phủ định, là một phủ định nhất định, thì nó có một nội dung. Nó là một khái niệm mới, nhưng là khái niệm cao và súc tích hơn khái niệm trước đó; [...] Vậy, chính sự phủ định nhất định, tức cái mâu thuẫn cụ thể sẽ chăm lo cho chiều kích sự trở thành. Chuyển động trong tư duy của tinh thần con người và qua đó sự phát triển của lý tính theo Hegel quan niệm là một bước lảo đảo ngây ngất từ phía này qua phía kia, từ một quan điểm này qua một quan điểm đối ngược, từ tiền đề qua phản đề, qua đó trong tiến trình suy tư không một vế nào trong hai vế có thể vuột ra khỏi dòng chảy ngây ngất của bước tiến: Sự thật như thế là đám rước cuồng nhiệt ngây ngất của [tửu thần] Bacchus, mà không một thành viên nào là không say khướt; [...]. Mặc cho sự say khướt của các mệnh đề hay các vế, thì vẫn không có gì phải e sợ, rằng cái tiến trình tư duy sẽ bị chao đảo hay vấp ngã. Bởi sự căng thẳng giữa các mệnh đề lảo đảo ngây ngất của tiền đề và phản đề xem ra như không được kiềm chế và đang tách rẽ đến nhiều hướng khác nhau, thì nhờ cái hợp để nó lại kiên trì liên tục trong từng bước mà tức khắc được vượt bỏ, làm cho cả hai mệnh đề hay hai vế như hai đối cực của sự thật có thể tận cùng phát triển và phải tận cùng phát triển, nhưng trong sự vượt bỏ chúng thì đồng thời cũng hỗ trợ bước tiến đơn thuần và yên tĩnh của tư duy: Sự thật như thế là đám rước lảo đảo ngây ngất của [tửu thần] Bacchus, mà không một thành viên [mệnh đề] nào là không say khướt [...], và bởi mỗi thành viên [mệnh đề], khi tự tách ra, thì cũng tức khắc tự giải thể mình, nên nó cũng là sự yên tĩnh đơn thuần và trong suốt. Quả là một bức tranh tuyệt diệu, mà qua đó Hegel đã diễn giải cho chúng ta về sự chuyển động biện chứng của suy tư. Quả thực ông đã so sánh sự thật với Bacchus, vị thần rượu Cổ đại, kẻ lảo đảo ngây ngất, nhưng vẫn thư thái yên tĩnh, tiến bước trên đường đi của mình. Nhân đây cũng ghi thêm rằng, Hegel khi còn là sinh viên vẫn thường bị cảnh cáo bởi quá vui thích với rượu chè và bài bạc! Ý thức của con người như thế mở rộng sự hiểu biết của mình nhờ cái lảo đảo ngây ngất của [tửu thần] Bacchus luôn mãi đến những tiền đề, phản đề và hợp đề mới. Nhưng không chỉ ý thức cá nhân thúc đẩy mình đi tới như thế với các mâu thuẫn của mình. Cả lịch sử cũng đi theo con đường biện chứng này, như khi Hegel trình bày cho ta điều đó thông qua câu chuyện nổi tiếng “Chủ và Nô”. BIỆN CHỨNG LÀM CHỦ VÀ LÀM NÔ Trong tác phẩm được biết đến nhiều nhất và có ý nghĩa nhất trên quan điểm tác động lịch sử của mình, tác phẩm “Hiện tượng học Tinh thần” (“Phanomenologie des Geistes”), Hegel đã miêu tả sự phát triển của ý thức từ những ngọn nguồn sơ thủy đến hiện tại. Trong đó, Hegel thúc bách người đọc của ông với sáu trăm trang sách một lần nữa phải từng bước thấu hiểu sự phát triển của suy tư từ những bước đầu rất đơn giản của nó đến sự hiểu biết tuyệt đối; ông đã trình bày tuần tự nhiều thời kỳ và hình thái và chỉ ra chúng đã phát xuất nối tiếp nhau như thế nào. Bởi vậy, ông đòi hỏi ở độc giả của ông ngay từ trong Lời nói đầu phải có được sự kiện nhẫn và bền chí tương ứng: [...] Bởi đến như cả Tinh thần thế giới cũng có kiên nhẫn, đi xuyên suốt các hình thức này trong sự giãn rộng lâu dài của thời gian và đón nhận [...] cái công việc lớn lao khủng khiếp của lịch sử thế giới, và bởi nó [Tinh thần thế giới] không phải qua công việc nào nhỏ bé hơn để có thể đạt được cái ý thức về mình, cũng vậy [...] chiếu theo sự thể thì mỗi cá nhân cũng không thể nắm bắt thấu hiểu được bản thể của mình với ít [khó nhọc] hơn; Trong chương đầu tác phẩm “Hiện tượng học Tinh thần” Hegel miêu tả bước chuyển từ tri giác của thú vật đến nhận thức của con người, bởi thoạt đầu chưa có một sự tự ý thức nào, nhưng chỉ có sự xác tín cảm tính [của cảm năng]. Sự sống, theo Hegel, thiết yếu là ham muốn, dục vọng. Nhưng dục vọng của giác thức trước tiên chỉ nhằm đến các đối tượng, như các đối tượng ăn uống. Thú vật với giác thức của nó được dừng lại ở cấp độ này. Quả thật với dục vọng trong việc ăn và tiêu hóa của nó, thú vật có được một cảm nhận về mình, nhưng đó chưa phải là tự ý thức chính mình. Ý thức chính mình chỉ có khi dục vọng của một sinh vật không còn chỉ nhắm đến các đối tượng, nhưng đến dục vọng của một sinh vật khác. Thí dụ như trong tình yêu, bản chất dục vọng của nó không chỉ còn nhắm đến đối tượng thể xác của kẻ mình yêu, nhưng là đến dục vọng của kẻ đối tác. Một người đàn ông yêu thích một người đàn bà, y nhận được sự thỏa mãn không phải chỉ vì cái thân xác đẹp của người nữ, nhưng chính yếu là cô ta cũng yêu thích mình. Điều ấy có nghĩa: điều mà người yêu thích tìm kiếm là sự cũng được kẻ đối tác yêu thích mình. Cái cảm xúc nâng cao của tình yêu xuất phát từ chỗ cả hai tự ý thức yêu nhau, nhìn nhau với con mắt của những kẻ yêu nhau, và như thế họ cảm thấy được xác nhận một cách vô hạn trong sự tự ý thức của chính mình. Hegel đi tới kết luận: Cái tự ý thức đạt được sự thỏa mãn của mình chỉ trong một cái tự ý thức khác. Cái hiện tượng thỏa mãn của sự tự ý thức trong và bởi một sự tự ý thức khác được thể hiện dĩ nhiên không chỉ trong tình yêu thương, nhưng cũng cả trong mọi trường hợp của sự thừa nhận. Chỉ trong hình ảnh và những phản ứng của người khác về hành động của chúng ta, chúng ta mới nhận ra mình thật sự là ai. Với câu nói này, Hegel muốn diễn tả không chỉ hiệu ứng của lời khen hay tiếng chê đối với trẻ em, nghĩa là một em bé cảm nhận được mình tốt hay xấu tùy theo cháu được nhìn nhận hay bị khiển trách. Hơn thế nữa, Hegel cũng còn ngụ ý nói về những sự xác nhận và thừa nhận lẫn nhau trong cuộc sống của những người trưởng thành. Khác với thú vật, ý thức của con người nhìn ra được sự tự ý thức mình chỉ thông qua con đường vòng do sự thừa nhận của người khác. Như khi hai người gặp nhau, điều họ là ai, là gì thì chỉ được phản ánh bởi sự cảm nhận của ý thức người đối tác và được chuyển tải thông qua sự đánh giá của người này. Mỗi [ý thức] đối với một ý thức khác là một trung điểm, qua đó mỗi ý thức chuyển đạt mình với chính mình và cũng liên kết với nhau [...]. Nhưng cả sau khi cái tự ý thức của con người được thức tỉnh như thế, thì phép biện chứng cũng không dừng nghỉ. Bởi cái tự ý thức ngay khi xuất hiện thì đã ở trong một mâu thuẫn. Một đàng nó muốn có được sự thừa nhận bởi một cái tự ý thức khác, nhưng lại chưa hề được ở trên một mặt bằng xã hội cần thiết nào cho một sự thừa nhận như thế. Bởi lúc ban đầu đã có một sự bất cân đối lớn giữa con người với nhau cần phải được khắc phục nhờ ý thức trước đã. Hegel diễn giải điều này qua phép biện chứng trứ danh Chủ và Nô. Cái tự ý thức của ông chủ, thí dụ như của một công dân La Mã hay của một người quý tộc thời Trung đại, thì lớn hơn cái tự ý thức của một người đầy tớ. Ông chủ cảm nhận mình đối với người đầy tớ, như Hegel nói, là như cái “ý thức độc lập và thiết yếu”. Còn người đầy tớ cảm nhận mình đối với ông chủ chỉ như là cái ý thức tùy thuộc và không cần thiết. Quả thật người đầy tớ thừa nhận ông chủ hoàn toàn và đầy đủ như là cái ý thức độc lập, bởi gã kinh sợ cơn giận của ông ta, nhưng cái sự thừa nhận này không đáng giá gì đối với ông chủ, vì đó là một sự thừa nhận bởi bức bách, hoặc như Hegel nói: Bởi thế phát sinh ra một cái thừa nhận đơn phương và không cân đối. Nhưng bởi cả hai có nhu cầu được thừa nhận, nên họ cảm nghiệm cái bất cân đối của họ như mâu thuẫn. Tại điểm này, Hegel nay đã miêu tả cho ta một cách xuất sắc, bằng cách nào cái mâu thuẫn của sự thừa nhận không cân xứng này đối với ý thức được giải quyết một cách biện chứng. Vào điểm xuất phát của tiến trình, người đầy tớ cảm nhận cái hiện thể (Dasein) của mình hãy còn là tùy thuộc và không cần thiết so với cái hiện hữu độc lập và thiết yếu của ông chủ, kẻ đưa ra những mệnh lệnh mà y phải thi hành. Trước tiên đối với việc làm nô, ông chủ là kẻ thiết yếu, hay là cái bản chất, nghĩa là cái ý thức hiện hữu độc lập cho mình [...]. Người đầy tớ xác định mình chỉ với vai trò phục vụ ông chủ, sống để hầu hạ ông ta. Gã chăm sóc ông, lao động, cày bừa ruộng đồng vườn tược, chế tạo các dụng cụ làm việc, sử dụng chúng, tu sửa và cải thiện chúng. Gã hái gặt mùa màng, nấu nướng và cuối cùng cả việc hầu bàn cơm nước cho ông chủ. Nhưng cái ý thức của người đầy tớ nhờ sự ngày ngày càng khéo tay hơn mà luôn mãi được trở nên tự lập hơn, hoặc như Hegel nói: Bởi nhờ lao động mà nó ý thức của người làm nô đến được với chính mình. Điều ấy xảy ra được là do người làm nô trong lao động ngày qua ngày phải sản xuất ra cái gì đó và luôn mãi có trước mắt công trình thành tựu của mình. Trong việc thiết kế, sửa đổi hay trang sức các đối tượng vật dụng, thì ý thức, theo Hegel, từ trong mình sản xuất ra một hình ảnh suy tưởng và đưa nó vào trong các đối tượng vật dụng, nhờ vậy mà ý thức sau đó có thể nhìn ra mình trong các vật dụng đó như chính mình. Nơi Hegel, điều ấy được diễn tả như sau: Hình ảnh được thành tựu, bằng cách nó thể xuất ra trong nó [cái ý thức không phải một cái gì khác hơn là chính nó; bởi chính nó [hình ảnh] là cái thuần túy cho chính mình (Fürsichsein), cái qua đó trở nên sự thật cho nó [cái ý thức]. Như thế, nhờ sự nhìn ra lại chính mình này do bởi chính mình mà nó cái ý thức] là ý nghĩa riêng biệt của mình (eigener Sinn), chính trong lao động, trong đó nó [trước đây xem như chỉ là ý nghĩa xa lạ (fremder Sinn). Chính trong sự lao động do người khác xác định mà người làm nô như thế được trở nên tự ý thức. Mặc dầu lao động khởi đầu do ông chủ áp đặt cho gã như là ý nghĩa xa lạ của sự sống, nhưng cuối cùng gã lại đã tìm thấy chính trong đó ý nghĩa của chính mình. Thí dụ như khi gã khai phá một thửa đất mới, chặt đốn cây cối, lượm bỏ sỏi đá, đào xới đất màu và lần đầu tiên nhìn ngắm thửa vườn trổ bông, thì gã biết mình đã làm những gì. Gã sung sướng về công việc của mình và nhìn ra mình trong đó, giống như người làm yên ngựa [sung sướng và nhận ra mình] trong cái yên ngựa mà mình đã khéo tay làm ra, như người thợ xe trong chiếc xe thồ mà mình đã lắp ráp kỹ lưỡng hay như người thợ rèn trong thanh kiếm mà mình đã tâm đắc đúc rèn ra. Hegel rút kết luận: [...] ý thức lao động do đó đi đến được cái trực quan về sự tồn tại tự lập như là của chính mình. Người làm nô lao động càng nhìn đến các công trình do chính mình đã làm và nhận ra mình có khả năng làm được tất cả những điều đó, thì gã càng ý thức được về tài khéo và năng lực của chính mình. Cùng lúc đồng thời, ông chủ lại càng dần mất đi sự tự lập của mình và càng thêm tùy thuộc vào lao công và tài khéo của người làm nô. Sau một thời gian, ông chủ nhìn ra được mình đang tùy thuộc vào người làm nô, kẻ với lao động của mình đang nuôi sống ông chủ cũng như chính mình với lao động của mình. Và như thế, cái ý thức làm chủ tự nó được hoại diệt đi, bởi nó, như Hegel nói, không còn có thể tìm thấy trong cái ham thích ăn uống một sự tự xác định chính mình nào nữa. Bởi nay ông chủ nhận được trong cái ăn và trong đồ dùng, thí dụ như cái tủ cái bàn, đã thiết kế làm xong, hoặc như Hegel nói, “ông ta chỉ hưởng ròng” (“er genieft sie rein”). Và như vậy sẽ xảy ra một sự lật ngược biện chứng đưa đến sự hoán chuyển mối tương quan giữa ông chủ và người đầy tớ và cuối cùng là sự cất bỏ sự nhìn nhận một chiều đưa đến sự nhìn nhận lẫn nhau. Họ thừa nhận mình như những kẻ thừa nhận lẫn nhau. Chương sách “Làm Chủ và Làm Nô” hẳn là một trong những chương quan trọng nhất, đã từng được một triết gia viết ra. Quả thật nó đã khích động Marx và Engels khai triển thuyết Biện chứng duy vật về tranh đấu giai cấp, theo đó từng giai cấp thống trị trong lịch sử, nghĩa là các ông chủ, đã tạo ra giai cấp tôi tớ như sự phủ định của chính mình và cuối cùng lại bị giai cấp này thay thế. Theo Marx và Engels, các xã hội nô lệ, phong kiến, tư sản, xã hội chủ nghĩa và cộng sản tất cả đều là những hình thức thống trị. Căn cứ trên từng các mâu thuẫn vật chất và với sự tất yếu biện chứng trong tiến trình lịch sử, chúng đã lần lượt bị thải. Thí dụ, giai cấp quý tộc thống trị, chiếu theo truyền thống danh dự của nó, đã không tự tay đảm đương các hoạt động thương mại, công nghiệp, nhà máy, xưởng thợ nào, nhưng dành cho mình mọi quyền bính chính trị. Nó để nông dân, thương gia, doanh nhân, chủ hãng, thợ thuyền lao động cho mình và đánh thuế họ. Nhưng với những biện pháp như thế, giới quý tộc đã tạo ra một giai cấp mới có ý thức về mình, được Marx và Engels gọi là “giai cấp tư sản” (“Bourgeoisie”), giai cấp trong kinh tế luôn có tài khéo hơn, khá giả hơn và thành công hơn và cuối cùng đã truất phế giới quý tộc xét như giai cấp chính trị thống lĩnh. Nhưng rồi giai cấp tư sản như sự phủ định của giai cấp quý tộc lại đã sản sinh ra một giai cấp bị áp bức mới, được gọi là giai cấp vô sản, giai cấp này như “phủ định của sự phủ định” cuối cùng đã phế truất giai cấp tư sản. Chỉ với cuộc cách mạng cộng sản mới đi đến được một sự vượt bỏ của mọi mâu thuẫn trong một xã hội vô sản và như thế đưa đến điểm kết thúc lịch sử mà ta biết. Sự thông giải độc đáo của phép biện chứng theo Hegel này quả đã là đầy hậu quả, khi một trăm năm sau một phần ba nhân loại quả thực đã sống trong những xã hội cộng sản. Marx đã đảo ngược sự “cho đầu xuống đất” của Hegel, như chính ông đã nói. Ông đã làm cho triết học tinh thần của Hegel thành một triết học của thực tại vật chất. Trong khi Marx và Engels giải thích sự đảo ngược cái ý thức nô lệ thành một ý thức tự khẳng định mình như là sự tranh đấu giai cấp, thì sự đảo ngược biện chứng nơi Hegel trước tiên phải được hiểu một cách logic, nghĩa là như một sự vượt bỏ tinh thần. Chương sách của Hegel về Chủ và Nô và sự khai triển tương ứng của cái tự ý thức thường được thông giải như bước khởi đầu đi vào cái ý thức khai minh hiện đại, trong đó cái ý thức của người này được đồng nhất với cái ý thức của người khác. Bởi cái tự ý thức của con người, theo Hegel, vào cuối tiến trình phát triển của mình sẽ có được kinh nghiệm, rằng chỉ trong sự hợp nhất với một cái tự ý thức khác mới có thể sống trong tự do và tự lập hoàn toàn, như Tôi là cái Chúng ta và như Chúng ta là cái Tôi: Cái ý thức rồi sẽ ra sao, đó là kinh nghiệm về tinh thần là gì, cái bản thể tuyệt đối này, nó là sự hợp nhất của cũng cùng những cái ấy những cái tự ý thức khác nhau]; Tôi, [là] cái Chúng ta, và Chúng ta, là cái Tôi [Ich, das Wir, und Wir, das Ich ist]. Câu viết khó hiểu, nhưng đầy ấn tượng vào cuối chương Chủ và Nô trên đây, theo đó ý thức của con người một lúc nào đó có được kinh nghiệm, tinh thần là gì, nghĩa là cái bản chất tuyệt đối, cái bản chất này được kết thành từ sự đối lập giữa các tự ý thức cá nhân khác nhau, nhưng đồng thời thể hiện tính hợp nhất của chúng: câu viết khó hiểu và đây ấn tượng đó có thể hiểu được rất đơn giản như là kinh nghiệm của cá nhân về điều cuối cùng làm cho một xã hội vận hành được. Nghĩa là cái kinh nghiệm, rằng tinh thần của một xã hội hay của một quốc gia là sự hợp nhất bao quát tất cả mọi cá thể trong đó sự thừa nhận lẫn nhau được đảm bảo. Cái tự ý thức cùng với cái kinh nghiệm thừa nhận lẫn nhau trong tri thức tuyệt đối, bước vào, như Hegel sảng khoái nói, “trong cái Ban Ngày đầy tính tinh thần của hiện tại”. Nó vươn lên đến tột đỉnh trong sự bình đẳng pháp lý của tất cả mọi người. Sau khi nhân loại xuyên suốt nhiều thiên kỷ đã phê phán trên bình diện pháp lý theo hai cách đo lường, cách kẻ mạnh hơn là quan tòa trên những người nô lệ và cách kẻ này là tôi tớ của người kia, thì nay tiếp nối trào lưu biện chứng của cái tự ý thức đã trở nên quen thuộc, rằng mỗi một công dân thừa nhận một công dân khác như là bình đẳng, đồng nhất mình với họ, nhìn nhận nơi họ cũng cùng một nhân phẩm cũng như cũng cùng một yêu sách pháp lý như cho chính mình. Việc vượt bỏ biện chứng của sự thống trị ông chủ và sự nô lệ tôi tớ thông qua sự thừa nhận lẫn nhau như thế có thể được hiểu như là bước đầu đưa đến hình thái tinh thần của sự bình đẳng pháp lý hiện đại. CHUYỂN ĐỘNG BIỆN CHỨNG CỦA LỊCH SỬ THẾ GIỚI Giống như cái ý thức cá nhân được thúc đẩy đi tới với các mâu thuẫn của mình, thì lịch sử thế giới cũng được thúc đẩy đi tới như vậy. Sự phát triển của ý thức cá nhân, lịch sử thế giới và Tinh thần thế giới thần linh trên cơ bản chỉ là những bức ảnh tức thời khác nhau của cùng một sự phát triển biện chứng của lý tính. Và sự phát triển của lý tính này không có điểm ngưng nghỉ. Tinh thần thế giới không mỏi mệt quay bánh xe lịch sử, cả khi có những nền văn hóa như nền văn hóa Trung Hoa có vẻ như một thời gian dài không hề bị đụng chạm đến: [...] Cái tinh thần phổ biến không đứng yên một chỗ [...]. Trong trường hợp một quốc gia riêng lẻ, có thể rằng giáo dục, nghệ thuật, khoa học, quan năng tinh thần nói chung có bước chậm chân, thí dụ như trường hợp người dân Trung Hoa, những người cách đây hai nghìn năm trong mọi vấn đề đã từng muốn đi xa như ngày hôm nay. Nhưng cái Tinh thần thế giới [đã] không trầm mình trong cái lặng lẽ vô tư này. [...] Sự sống của nó là hành động. Và cả Trung Hoa, như ta nay biết được, khoảng một trăm năm sau cái chết của Hegel, đã được bắt nắm bởi cái động lực và những biến động lớn lao của Tinh thần thế giới và đã trở thành một nước với công nghệ hiện đại. [...] Lịch sử, là cái trở thành có hiểu biết và tự chuyển giao – cái tinh thần xuất thân vào trong thời gian [.... Sự trở thành này biểu hiện một chuyển động và trình tự chậm chạp của các tinh thần, một hành lang trưng bày các bức ảnh, mà mỗi bức đều được trang bị với sự giàu có đầy đủ của tinh thần, nó chuyển động chậm rãi như thế, bởi cái tự ngã phải thấm suốt và tiêu hóa hoàn toàn sự giàu có của bản thể của nó. Cái trình tự các thời đại được Hegel miêu tả như là chậm chạp, bởi nó cần có một nỗ lực khủng khiếp của Tinh thần thế giới để sản sinh ra được sự giàu có đầy đủ của cái bản thể của nó, nghĩa là sản sinh ra mọi dân tộc, quốc gia, công trình nghệ thuật, xây cất, âm nhạc của từng thời đại với tất cả mọi sản phẩm của chúng, rồi định hình và sau đó được tiếp tục phát triển trong những thời đại mới. Nhưng cái nỗ lực của Tinh thần thế giới này đối với Hegel không phải là hành vi tác động năng lực của một Thượng đế, Đấng ngự trên ngai ở đâu đó và chuyển động lịch sử từ bên ngoài. Nhưng đúng hơn đó chính là sự tự chuyển động của lý tính biện chứng: lý tính này tự chuyển mình đi tới trong ý thức của mỗi con người thông qua những mâu thuẫn của họ. Sở dĩ Hegel thường nói đến một Tinh thần thế giới, là vì lịch sử trong cái chuyển động muôn hình vạn trạng của nó phải thực hiện một ý nghĩa tối cao và phục vụ một chủ đích tối hậu: Cái chủ đích tối hậu này là cái phải được hình thành trong lịch sử thế giới, cái mà mọi tế vật trên bàn thờ trái đất và trong tiến trình dài lâu của thời gian phải được cung hiến. Ở đây, Hegel nêu lên câu hỏi kích động về mục đích tối hậu của lịch sử thế giới. Lời giải của ông thì đơn giản đến kinh ngạc. Mục đích tối hậu, mà thời đại này đến thời đại khác phải ra tay thực hiện, đó là sự tự do: Lịch sử thế giới là sự tiến bộ trong ý thức về tự do – một sự tiến bộ mà chúng ta phải nhìn nhận trong sự tất yếu của nó. Như thế, vấn đề trong sự phát triển toàn bộ lịch sử nhân loại, khởi đầu với bầy đàn hoang dã và các bộ lạc đến sự hình thành các dân tộc, văn hóa, phố thị và quốc gia tựu trung lại là ý niệm về sự tự do. Và sự phát triển ý niệm sự tự do này trong ý thức của con người được kéo dài, như Hegel nói, như một sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ lịch sử thế giới. Điểm xuất phát cổ thời của nó là trong những nền văn hóa lớn phương Đông: Người phương Đông chưa biết, rằng tinh thần hay con người xét như là con người tự mình là tự do; bởi họ không biết điều đó, nên họ không là điều đó, họ chỉ biết rằng, Một [người] là tự do [...]. Như thế đối với người phương Đông [xưa kia] chỉ có một người] là tự do, tức kẻ thống trị, và kẻ này thường là một bạo chúa. Tư tưởng về sự tự do xét như là tự do chưa được khai triển và chưa là đối tượng của ý thức. Chỉ với người Hi Lạp mới chớm nở ước mong sự tự do đích thực: Chỉ với người Hi Lạp, ý thức về sự tự do mới bừng phát lên, và do đó họ mới là tự do; nhưng họ, cũng như người La Mã, chỉ biết rằng, có một ít người tự do, chứ không phải con người như là con người. Điều ấy ngay chính Platon và Aristoteles cũng không biết. Như vậy trong các thành bang Hi Lạp, người công dân có tự do và được phép bầu cử chính quyền, nhưng đồng thời có một số lớn những người nô lệ không có tự do cũng như không có quyền hành gì. Bởi vậy, như Hegel nói, chỉ “một ít người” có tự do. Sau đó, đến các quốc gia châu Âu hiện đại và cuối cùng đã xuất hiện trong Kitô giáo – sau chiến tranh và tranh đấu hằng trăm năm – ý thức tiến bộ rằng con người với tư cách con người, là tự do, hay như Hegel phấn khởi biểu đạt: [...] sự tự do của tinh thần tạo nên bản tính riêng biệt nhất của nó. Như vậy, Hegel thấy ý nghĩa của lịch sử trong sự phát triển tăng dần lên của sự tự do. Không phải chỉ sự tự giải phóng của người nô trong thời kỳ biện chứng Chủ và Nô, mà toàn thể lịch sử tiến hành từng bước đến mục đích tối hậu này. Dẫu vậy, Hegel hiểu tự do không phải là sự thỏa mãn vô giới hạn các ước mong, ham muốn và nhu cầu của từng công dân hay cá nhân, mà là sự thể hiện có giới hạn trong và bởi một quốc gia. Bởi theo Hegel, chỉ có quốc gia với luật pháp, thẩm phán và một nền tư pháp đúng đắn mới bảo đảm được cho các công dân của mình một cuộc sống tự do và tự quyết cũng như bảo vệ cho họ khỏi mọi biện pháp tùy tiện. Trong tác phẩm “Triết học pháp quyền” (“Philosophie des Rechts”) của mình, Hegel miêu tả tại sao Nhà nước lại quan trọng như thế: nếu không có Nhà nước thì nhận thức, rằng con người, trên nguyên tắc, là không được bị bắt làm nô lệ, sẽ chỉ là một yêu sách lý tưởng, nghĩa là chỉ thuần túy như một giới răn “phải là” (ein blokes “Sollen”) mà thôi: [...] Để cho điều này, rằng con người tự mình và cho mình không phải bị quy định để làm nô lệ, sẽ không lại bị quan niệm chỉ thuần túy như một giới răn phải là, điều ấy chỉ thực hiện được trong nhận thức rằng ý niệm về sự tự do thực thụ chỉ như là Nhà nước. Ý niệm về sự tự do như thế sẽ chỉ được hiện thực hóa thực thụ trong Nhà nước. Lấy thí dụ cho sự tình 1 trạng vô chính phủ, Hegel dẫn chứng tình trạng rối loạn liền sau cuộc Cách mạng Pháp. Nước Pháp chìm ngập trong hỗn loạn. Đã xảy ra những sự tùy tiện, khủng bố và đột kích của các băng đảng cướp bóc. Chỉ khi Napoleon thiết lập lại được trật tự Nhà nước và tạo ra được sự an toàn pháp lý phổ thông với bộ luật dân sự, thì người dân mới lại có thể tự do đi lại và phát triển. Bởi vậy, Hegel mới nhiệt tình cổ vũ cho Nhà nước như hiện thân cho sự tự do: Nhà nước là hiện thực của sự tự do cụ thể; [...] Nhưng bởi Nhà nước chăm lo cho sự thực thi luân lý và phong hóa, nên người ta có thể quan niệm nó, theo Hegel, như một chủ thể riêng biệt, như một loại cơ chế đạo đức sống động: Nhà nước là hiện thực của ý niệm đạo đức [...]. Nhà nước là [...] cái lẽ phải hay cái hợp lý tính tự mình và cho mình [das an und für sich Vernünftige). Và như thẩm quyền đạo đức và lẽ phải, Nhà nước có quyền hạn chế sự tự do của công dân, phán quyết người dân về những sai phạm pháp luật, cả đến việc bắt giữ họ vào ngục tù, để nhờ thế đảm bảo phong hóa và tự do cho mọi công dân khác. Việc Hegel phẩm định Nhà nước như hiện thân của lý tính/lẽ phải và đạo đức nghe ra có thể chấp nhận được trong hoàn cảnh thực tế để chống tội ác, nhưng lại có một nhược điểm trầm trọng. Dẫu khi nào và ở đâu có một xung khắc giữa một công dân và Nhà nước, thì với Hegel Nhà nước trên nguyên tắc đều có lý, bất kể về việc gì, bởi Nhà nước trước nhất đã tạo ra đạo đức và trên cơ sở đó người dân mới có thể có được định hướng luân lý của mình. Một quyền phản kháng đối với Nhà nước, như triết gia Anh John Locke đã biểu đạt, là điều không có nơi Hegel. Hegel cũng không chú tâm nhiều về tính dân chủ, như Rousseau năm mươi năm trước Hegel đã đòi hỏi. Hegel quan niệm, dân chúng chưa đủ năng lực để nhận thức được những chủ đích vượt trên cái quan tâm riêng biệt của mình và để bầu chọn những người đại diện cho những điều đó. Bởi vậy ông xem hiến pháp nước Phổ thời bấy giờ với hai đại diện đẳng cấp của nó và chế độ quân chủ thừa kế là hình thức Nhà nước tối hảo. Trong hình thức Nhà nước đó, lịch sử thế giới có thể đạt được hình thái tinh thần cao nhất. Bởi tiến bộ trong ý thức về sự tự do, theo Hegel, đã đạt tột đỉnh trong hiến pháp khai minh của Nhà nước Phổ. Cũng vì vậy người ta thường phê phán, ông đã phản bội những mối thiện cảm thời xuân trẻ của ông đối với những tư tưởng cao xa của các nhà khai minh Pháp, bởi thái độ của ông như một triết gia nước Phổ. Triết gia Popper cũng một quan điểm như thế. Trong tác phẩm “Xã hội mở và những kẻ thù của nó” (“Die offene Gesellschaft und ihre Feinde”), ông cáo buộc Hegel khi đặt ưu tiên đạo đức của Nhà nước trên cá nhân thì Hegel đã nói lên tiếng nói ủng hộ cho chế độ toàn trị sau này. Nhưng lời phê phán này hẳn đã đi quá xa, bởi Hegel đã định nghĩa rất chính xác về nghĩa vụ đạo đức của Nhà nước – nghĩa là trong một nghĩa phóng khoáng (liberal). Hiến pháp Phổ cuối cùng cũng công nhận cho công dân, điều trong công việc xuyên suốt hằng trăm năm trong lịch sử thế giới được tinh kết lại trong sự vượt bỏ (Authebung) các mâu thuẫn. Sự thừa nhận lẫn nhau và sự đánh giá con người như sự tự ý thức tự do với yêu sách pháp quyền như nhau: Con người có giá trị như thế, bởi y là người, không vì у là Do Thái, Công giáo, Tin Lành, người Đức, người Ý, vv... THƯỢNG ĐẾ NHƯ TINH THẦN THẾ GIỚI TỰ KHAI TRIỂN Thực tại tuyệt đối, nghĩa là Thượng đế, đối với Hegel không như trong Kitô giáo đã luôn mãi là một Thượng đế hằng hữu và toàn năng, Đấng phán xét con người sau khi chết về những việc họ đã làm, mà chỉ trong và bởi con người mà Ngài lớn lên đến vóc dạng mà cuối cùng Ngài có. Bởi vậy, việc tôn thờ đối với Ngài là không ý nghĩa gì. Giữa Ngài và chúng ta, theo Hegel, không có khoảng cách nào như giữa trời với đất. Thực tại tuyệt đối đang và muốn luôn mãi ở bên ta. Và bởi Thực tại tuyệt đối trong cái chuyển động biện chứng của ý thức và của lịch sử thế giới trong từng giây phút luôn ở bên ta, thì đối với Hegel những lễ nghi của Giáo hội Công giáo là phi lý trí và thật lố lăng. Và như vậy, theo tính cách một người thợ phản [tên gọi thời bấy giờ của người Tin lành: Protestant] ông đã chế giễu nghi lễ rước nhận bánh thánh [Abendmahl/Holy Communion] của người Công giáo. Tinh thần thế giới có nhiều | khả năng tốt hơn là chỉ lệ thuộc vào việc ăn mấy tấm | bánh lễ [Hostie/Host] để đi vào được trong tinh thần của con người. Điều này chỉ là một sự vô nghĩa, như Hegel nói, [..] rằng bánh lễ, cái vật này, được sùng kính như Thượng đế. Bởi vậy, Hegel, trong bài giảng đại học của ông, đã chế nhạo, nói rằng việc hình dung Đấng cứu thế ngự trị trong tấm bánh lễ hàm ẩn một hậu quả trầm trọng cho người Công giáo. Bởi khi một chú chuột gặm nhấm được một tấm bánh lễ trong nhà tạm [khung tủ nhỏ dự trữ bánh lễ đặt trên bàn thờ: Tabernakel/tabernacle], thì các tín đồ, theo lý luận cũng phải thờ kính đống phân của chú chuột như Đấng cứu thế của mình vậy! Câu chuyện này đã lọt ra ngoài công luận và Giáo hội đã phản ứng đầy phẫn nộ. Mặc dầu các sinh viên của ông đã bảo vệ p g y p ộ ặ g ệ ông, nhưng Hegel cũng đã phải công khai xin lỗi và rút lại lời phát biểu của mình. Giáo hội Công giáo nói chung phủ nhận khái niệm về Thượng đế của Hegel. Một Tinh thần thế giới, thực tại tự phát triển mình trong tự nhiên, trong con người và trong lịch sử, là chủ thuyết phiếm thần vô đạo. Phiếm thần có nghĩa Thượng để phân thân mình ra trong mọi hiện thể, nghĩa là thí dụ như tác động trong từng ngọn cỏ. Sự từ bỏ của Giáo hội Công giáo đối với ông là điều Hegel đành phải chấp nhận. Sự thừa nhận của Giáo hội thể phản [Tin Lành] trái lại là điều Hegel nhiều năm mưu tìm, nhưng cuối cùng không thành công. Sự tranh cãi về câu chuyện bánh lễ cho thấy, hình dung của Hegel về Thực tại tuyệt đối thật đã rất xa cách với khái niệm cổ điển Kitô giáo về Thượng đế. Thượng đế, con người và lịch sử đối với ông không phải là ba sự vật khác nhau, mà cũng là một lực, lực của sự tự chuyển động biện chứng của Tinh thần. Bởi vậy, Hegel, trong Triết học tôn giáo của ông, đã đi đến mệnh đề cơ bản, rằng con người chỉ có thể biết được Thượng đế nếu Thượng đế hiện diện trong suy tư và hành động của con người và qua đó kinh nghiệm được chút nào về chính mình, nghĩa là sự tự ý thức của Thượng đế cuối cùng cũng chính là sự tự ý thức của con người và ngược lại: [...] con người chỉ biết được Thượng đế, theo cách Thượng đế trong con người biết được chính mình; cái biết này là cái tự ý thức của Thượng đế, nhưng cũng [...] chính là cái biết của con người về Thượng đế, [...] Chỉ với sự tiến bộ trong lịch sử và sự nỗ lực hàng nghìn năm của nhân loại, Thượng đế mới đến được với chính mình và có thể vượt bỏ sự tha hóa nguyên thủy: Cái đúng thật là cái toàn bộ. Nhưng cái toàn bộ chỉ là cái thực hữu tự hoàn thiện mình thông qua sự phát triển của mình. Về Thực tại tuyệt đối phải nói rằng, nó thiết yếu là kết quả, chỉ lúc cuối cùng, nó mới là nó ở trong sự thật; […] Tinh thần thế giới, nghĩa là Thượng đế, tự thể hiện mình trong những hình thái tinh thần của lịch sử thế giới. Cả những vận hành trong tự nhiên cũng là biểu đạt của Tinh thần thế giới đang trở thành. Vậy thì đâu là vai trò của từng cá nhân con người? Con người, với ý chí tự do của mình, có thể chống lại Tinh thần thế giới? Con người có thể chăng, với hành động của mình, thay đổi lịch sử? Lời đáp của Hegel ban đầu là khiêm tốn: Cái thức nhận bây giờ, mà [...] triết học phải đưa đến là, rằng thế giới đích thực là như nó phải là, rằng cái sự thiện đích thực, cái lý tính thần linh phổ quát cũng là cái năng lực tự hoàn thành chính mình. [...] Thượng đế cai quản thế giới; nội hàm của sự Ngài quản trị, việc hoàn thành kế đồ của Ngài chính là lịch sử thế giới. Nếu Thượng đế cai quản thế giới và lịch sử thế giới chỉ là sự thành toàn cái kế hoạch của Ngài, thì từng con người còn có gì nữa để mà quyết định? Làm sao hợp nhất cái lý tính biện chứng cá nhân với sự quan phòng của Tinh thần thế giới? Và làm sao có thể có được một kế hoạch của Tinh thần thế giới, khi mà từ xa xưa các chính trị gia đã từng đưa ra các quyết định và những kẻ xâm thực như Caesar hay Napoleon hiển nhiên đã thay đổi bước đi của thế giới? MẸO LỪA CỦA LÝ TÍNH Hegel dĩ nhiên biết cái ảnh hưởng của các nhân vật lớn trong lịch sử và không muốn phủ nhận cái ảnh hưởng này. Ông còn nói về cái gọi là “những cá nhân tầm vóc lịch sử thế giới”. Và những người này quả thật hành động một cách thực tiễn và theo tính thời cuộc, mặc dầu không biết cái tư tưởng lớn của Tinh thần thế giới. Dẫu vậy, họ cũng phục vụ một cách gián tiếp vào cái toàn thể lớn: Những cá nhân con người như thế trong những mục đích của mình đã không có cái ý thức về cái ý đồ một cách chung, nhưng họ đã là những con người thực nghiệm và mang tính chính trị. [...] họ hoàn thành quan tâm của họ, nhưng điều đó cũng đưa lại một điều xa hơn nữa [...] điều này không nằm trong ý thức và chủ đích của họ. Những cá nhân con người như thế, thí dụ như Alexander Đại đế, Caesar hay Napoleon thường theo đuổi những quan tâm riêng biệt của họ và không có ý thức về ý niệm nói chung, cũng không có cái nhìn tổng quan về tiến trình của lịch sử. Dẫu vậy, họ cũng đã đem lại dấu ấn cho thời đại của họ và đưa lịch sử đi tới, bằng cách họ thức nhận được điều trong khoảnh khắc chính là điều phải làm: Nhưng đồng thời họ là những người suy tư, những kẻ có một thức nhận về điều [...] thuộc thời đại. Thí dụ như Napoleon thật sự đã hoàn thành trong lịch sử điều thuộc thời đại và được Tinh thần thế giới mong muốn. Đó là, theo Hegel, sự đột phá, khi cuối cùng ở nước Pháp, triều đình cùng quốc vương đồi bại phải được truất phế. Cũng là điều thuộc thời đại, khi sau nhiều thế kỷ phong kiến và pháp quyền lãnh chúa phiến diện, Napoleon, với sự ban hành một hiến pháp và bộ luật dân sự, cuối cùng đã thực hiện ý niệm về sự bình đẳng pháp quyền trong toàn thể châu Âu. Ngoài ra, chính Hegel từ thư phòng của mình ở Jena cũng đã thấy Napoleon quất ngựa đi qua, , khi ông đang viết những trang cuối cùng tác phẩm “Hiện tượng học Tinh thần”. Phấn khởi, ông ghi vào nhật ký: Hoàng đế - cái hồn thiêng thế giới này – tôi thấy ông phi ngựa thị sát khắp cả thành phố. Đối với Hegel, Napoleon như thế là một hồn thiêng thế giới, một kẻ thực hiện hoàn tất Tinh thần thế giới. Vâng, chính Napoleon trước tiên muốn khuếch trương quyền lực của riêng mình, bội tăng vinh quang của ông và củng cố đế chế của mình. Nhưng cái còn lại sau vụ ông bị đi lưu đày tại đảo St.Helena là sự canh tân biện chứng đột phá của châu Âu liên quan đến sự bình đẳng pháp quyền cho các công dân của ông. Napoleon như thế, theo Hegel, là một “người tổng quản trị” hay một “công cụ của Tinh thần thế giới” . Dẫu rằng chính ông có lẽ chỉ theo đuổi tham vọng và đam mê của riêng mình, nhưng qua đó ông lại đã phục vụ sự phát triển của lý tính và Tinh thần thế giới: Điều đó được gọi là cái mẹo lừa của lý tính, rằng nó để cho các đam mê làm việc và tác động cho nó [...] Cái Tinh thần thế giới như thế sử dụng một mưu đồ. Nó để cho con người tự do định đoạt, nhưng lại dùng các đam mê và các hành động của con người cho sự phát triển của lý tính trong từng thời đại. Trong đó, mỗi cấp bậc phát triển đều có lý do và sự thật của nó. Cả thời Trung Cổ đen tối với mê tín và các vụ đốt phù thủy thì theo nghĩa này cũng là một hình thái xuất hiện cần thiết của Tinh thần và mang ý nghĩa sự thật trong một thời gian dài. Về điều đó thì ngay từ đầu tôi đã có giải thích [...] rằng lý tính cai quản thế giới và như thế cũng cai quản lịch sử thế giới. Bởi Tinh thần thế giới với sự tự chuyển động biện chứng của nó thúc đẩy sự phát triển của lý tính từ thời đại này qua thời đại khác, thì mỗi thời đại nhìn trong bản thân nó cũng phải là hợp lý tính. Hegel trong bối cảnh này đã đưa ra một nhận định mang tính khiêu khích: Cái gì hợp lý tính, thì hiện thực; và cái gì hiện thực, thì hợp lý tính. Với nhận định này, ông đã bị một số người đương thời cũng như các triết gia sau này chỉ trích nặng nề, bởi với câu nói này mỗi sự bất công trên thế giới đều có thể được biện minh. Vì rằng, nếu tất cả những gì xảy ra, mặc cho nó xấu bao nhiêu đi nữa, phải được xem là hợp lý, thì người ta đánh mất đi mọi chuẩn mực cho sự phê phán. Mà quả thật, Hegel nhìn xem cả những nước đang còn bị dẫn dắt một cách độc tài là những chặng đường cần thiết của lý tính trên con đường dài đến sự tự phát triển của chúng: Mỗi dân tộc có [...] hiến pháp, hiến pháp tương ứng với họ và thuộc về họ. Tuy nhiên điều ấy, theo cách hiểu của Hegel, không có nghĩa các chế độ độc tài trên nguyên tắc phải được chấp nhận như là những bản hiến pháp tồi tệ và lạc hậu. Chính cái chuyển động biện chứng của ý thức có thể, một khi thời điểm của nó tới, phủ nhận cái bất chính kia và vượt bỏ nó đi. Tuy nhiên với sự loại bỏ trong lịch sử một hình thái tinh thần bởi một hình thái mới thì cũng có những xung đột. Qua đó, lịch sử thế giới trong hành trình đi tới của nó không thể quan tâm đến hạnh phúc riêng tư của từng người: Lịch sử thế giới không phải là đất màu của hạnh phúc. Những thời đại của hạnh phúc là những trang giấy trống không trong nó; bởi chúng là những thời đại của sự tương hợp, của sự thiếu tương phản. Bởi lịch sử thế giới tiến triển thông qua những tương phản hay những cái đối lập của nó, nên các giai đoạn tương phản và xung đột [thường] lâu dài hơn những giai đoạn hòa hợp và cường thịnh. Mỗi cá nhân riêng lẻ có nhiệm vụ nhìn ra các dấu chỉ của thời đại và công tác động cho sự tiến bộ cần thiết của ý thức về sự tự do. Cả khi từng cá nhân có lẽ không luôn luôn thấu triệt được cái mục đích tối hậu của lịch sử và qua đó [là sự tác động của Tinh thần thế giới, nhưng gã cũng biết được điều gì phải làm. Gã biết điều đó, bởi vì gã không quyết định trong không khí trống rỗng, nhưng như là đứa con của thời đại, gã có thể và phải đặt mình trong tương quan với thời đại mình. MỤC ĐÍCH CUỐI CÙNG CỦA LỊCH SỬ Lịch sử chấm dứt ở đâu? Có một mục đích nào mà ta nhắm tới? Lời đáp của Hegel thì ngắn và rõ ràng. Có một mục đích và mục đích này ta không thể đánh mất, bởi nó hiển lộ một cách tất yếu: Nhưng cái mục đích thì cần thiết cho tri thức cũng giống như loạt tiến trình bị che giấu của nó; nó ở đó, nơi mà nó không cần thiết phải vượt lên trên chính nó nữa, nơi mà nó tìm thấy chính nó [...]. Tri thức của chúng ta, cái tri thức lớn lên từ thời đại này qua thời đại khác, khi hoàn toàn vào cuối bước chuyển động biện chứng lâu dài của nó từ sự xác tín cảm năng nguyên thủy đến cái tự ý thức hiện đại, thì nó có được một kinh nghiệm quan trọng cuối cùng. Nó nhận thức mình cuối cùng như chuyển động biện chứng của Tinh thần tuyệt đối, cái chuyển động đã có từ khởi đầu. Cái tri thức, như Hegel nói, nay không còn cần thiết phải vượt lên trên chính mình nữa. Nó đã đạt tới mục đích của nó. Nó không thể nâng mình lên trên chính nó nữa và tiếp tục đi xa hơn, bởi không còn mâu thuẫn nào nữa. Nó nay là Tinh thần tự biết mình, Tinh thần thỏa lòng với chính mình: [...] cái tri thức tuyệt đối, hay cái Tinh thần biết mình là Tinh Thần [...]. Các hình thái tinh thần cứ luôn mãi tiếp tục thay thế nhau, cho đến khi cuối cùng đạt được sự khai nở hoàn toàn cái Tinh thần thế giới và đồng thời sự khai nở tư duy cá vị - và quả thật trong một vượt bỏ rạng rỡ cuối cùng và hòa giải mọi mâu thuẫn trong cái tri thức tuyệt đối hay, như Hegel nói, trong cái khái niệm tuyệt đối: Cái vương quốc tinh thần, vương quốc bằng cách này tự tạo mình trong hiện thể (Dasein), diễn đạt mình thành một chuỗi dài liên tiếp, trong đó cái này thay thế cái kia và mỗi cái tiếp nhận vương quốc thế giới từ cái đi trước. Mục đích của nó là sự khỏi thị cái chiều sâu, và cái chiều sâu này là khái niệm tuyệt đối, [...]. Nhưng điều ấy có nghĩa gì trong cụ thể đối với một cá nhân con người? Trong khái niệm tuyệt đối hay trong tri thức tuyệt đối nơi Hegel đưa đến một sự hòa giải với ba chiều kích trước hết là sự hòa giải giữa cá nhân với xã hội. Nếu trong thời đồ đá con người đón nhận những người đồng chung của mình còn như kẻ xa lạ và như vật gì hiện hữu ngoài mình, thì nay gã đồng nhất mình với họ. Gã biết rằng, gã chỉ có thể nhận biết mình bởi những người khác và sự tự do của họ có nghĩa là sự tự do của mình. Ý thức trong lịch sử thế giới quả đã có được kinh nghiệm, rằng ý thức có được sự tự lập và tự do, nhưng điều đó chỉ có thể lâu dài, khi nó được thừa nhận là như thế bởi một ý thức tự do và tự lập khác. Nó nhìn nhận mình như: Tôi, cái chúng ta, và chúng ta, đó là tôi. Trong thời đầu của lịch sử hãy còn kẻ này tranh đấu với kẻ khác, con người với con người là một con sói, hay một bộ tộc man rợ chiến đấu với một bộ tộc khác, vào cuối thời lịch sử chúng ta được giải hòa với mọi người khác. Từng mỗi cá nhân biết được chính mình như thành phần của tổng thể, như chủng loại. Cái khái niệm thuần túy của sự thừa nhận được thể hiện. Những con người thừa nhận mình như thừa nhận lẫn nhau. Thứ hai, vào cuối thời lịch sử, con người cá nhân hòa giải mình với bản thể (Substanz). Từ bản thể, tuy nhiên, được Hegel hiểu không phải chỉ là tự nhiên hay vật chất, nhưng như cả các dân tộc, các quốc gia và các cơ chế, chẳng hạn. Bởi vậy ông có thể nói, tất cả những gì vào thời đầu lịch sử đối với chúng ta là nhà cực kỳ chống đối, hoang dã và xa lạ, thì vào cuối thời lịch sử lại được ý thức như thành phần của sự tự chuyển động biện chứng của chính chúng ta. Tinh thần của con người biết mình là chủ thể và đồng thời là bản thể, bởi nó nhìn biết mình như là sự dãn nở được thu nhận vào trong bản thể. Hegel biểu đạt điều đó như sau: Sự trở thành cuối cùng này của nó [tinh thần của con người], chính là tự nhiên, là sự trở thành trực tiếp sống động của nó, nó [tự nhiên, cái tinh thần hiển lộ mình trong hiện thể (Dasein) của nó không gì khác hơn là [...] sự chuyển động hay vận động tạo tác ra chủ thể. Sự hiển lộ của tinh thần ở trong tự nhiên cũng như nhận thức cuối cùng trong tri thức tuyệt đối rằng sự chuyển động của suy tư biện chứng với tư cách là chủ thể cũng chuyển động cả giới tự nhiên như đã luôn chuyển động nó, có thể được hiểu đại lược như sau: chẳng hạn, chúng ta ngày nay không chỉ nhận ra lại chính mình trong Người khôn ngoan (Homo sapiens), mà còn cả trong toàn thể tiến trình của tự nhiên, đã tạo ra ta. Chúng ta nhìn nhận mình như chủ thể và bản thể của sự tự chuyển động của tiến hóa kéo dài đã hằng triệu năm từ đơn bào đến đa bào qua Người đứng thẳng (Homo Erectus) cho đến hình dạng của chúng ta hôm nay. Mỗi em học sinh ngày nay đều biết, tinh thần của con người là sản phẩm của tự nhiên. Tuy nhiên, Hegel còn đi xa hơn nữa. Vì rằng, một khi ta đạt được cấp cuối cùng và cao nhất của tri thức tuyệt đối, và nhìn biết chính chúng ta trong suy tư biện chứng của mình như động cơ của lịch sử thế giới và của tiến trình của tự nhiên, thì bỗng bừng sáng cho chúng ta, rằng ngoài suy tư của chúng ta, không còn có thể có gì khác nữa và thậm chí từ khởi thủy không có gì khác ngoài tư duy của chúng ta: ở đây ta đã hiểu, rằng tồn tại chính là tư duy; Hegel có thể nói câu nói triệt để này, bởi theo quan niệm của ông, tồn tại, nghĩa là toàn thể thực tại, dẫu sao cũng chỉ có thể đạt được thông qua tư duy biện chứng trong đầu chúng ta. Tất cả chỉ là hiện thực trong tư duy của chúng ta. Bởi lẽ những gì chúng ta không thể bắt nắm được bằng tư duy, tức bằng ý thức của ta, thì cũng không hiện hữu, ít ra là chúng ta không biết gì về nó. Bởi vậy, trên cấp độ tri thức tuyệt đối, ta có thể nhận biết rằng mọi thực tại, cả khi chúng lúc đầu tỏ ra xa lạ với chúng ta, cuối cùng chỉ là một sản phẩm của tư duy của chúng ta và chúng ta, như thế, là bản thể và đồng thời là chủ thể. Thứ ba và sau cùng, cá nhân hòa giải mình với Tinh thần thế giới. Thượng đế tỏ ra cho chúng ta trong thời tiền sử như một thực tại toàn năng và đáng kinh sợ, thực tại ở ngoài chúng ta, nên chúng ta tôn thờ và dâng tiến các tế vật. Nay chúng ta biết, rằng cả Thượng đế cũng chỉ là sự chuyển động đi đến với chính mình của lịch sử thế giới như sự tiến bộ trong ý thức về tự do và điều ấy đã từng luôn như thế. Ý thức [...] nhìn biết Thượng đế trong mình. Thượng đế không còn bay lượn trên chúng ta, để trừng phạt hay giải thoát chúng ta sau khi chết, nhưng đã tác tạo chính Ngài trong và bởi ý thức của con người chúng ta. Ngài đã cùng chúng ta đi chung con đường này và cùng lớn lên. Bởi Ngài cũng là bản thể và đồng thời là chủ thể, nên vào cuối lịch sử Ngài thể hiện mình trong những định chế công bình và hợp lý, như trong nhà nước pháp quyền hiện đại, bên cạnh muôn vàn những thể hiện khác. Bởi vậy, Hegel có thể phấn khởi và nói về nhà nước như sự thể hiện của Tinh thần thế giới, rằng ý niệm về nhà nước là linh thánh. Cho dù một số quốc gia cá biệt nào đó chưa tỏ ra là như thế: Về ý niệm nhà nước ta không cần có trước mắt một số nhà nước nhất định nào đó, [..] đúng hơn ta phải nghiệm xét bản thân ý niệm, tức Thượng đế đích thực này. Như vậy nhà nước là điểm cuối cùng của biện chứng, là Thượng đế đích thực hay như Hegel cũng nói: [...] sự thể hiện đầy đủ của Tinh thần trong hiện thể (Dasein). Nhưng không phải chỉ sự phát triển lịch sử và chính trị, theo Hegel, đạt đến điểm cùng tận chói sáng trong thời đại của riêng nó, đó là thời đại của chế độ “quân chủ chuyên chế sáng suốt” hay “được khai minh” [của nước Phổ thời Hegel. ND], mà cả triết học với tư thế riêng biệt của mình cũng đạt đến hình thái tinh thần khả dĩ cuối cùng của mình. Trong đó, như Hegel khiêm tốn ngỏ lời, sẽ không phải chỉ công sức của riêng ông đã đặt dấu chấm cuối cùng. Chính sự phát triển biện chứng đã đưa ông lên ngai vàng, bởi triết học tinh thần của ông là sự vượt bỏ tất yếu của mâu thuẫn cuối cùng và lớn nhất trong lịch sử lâu dài của triết học, mâu thuẫn giữa những người duy lý và những người duy nghiệm. Đằng đãng nhiều thế kỷ, những người duy lý và các nhà thần học đã thông giải tất cả những gì có mặt trên trái đất chỉ như là những món quà của Thượng đế. Kể cả con người với hình dạng thân xác của mình cũng được hiểu chỉ như là hình ảnh của nguyên mẫu Thượng đế. Các triết gia luôn chỉ tìm cách nhận thức về Thượng đế, tức về thực tại tuyệt đối hay thực tại thiên thượng: Từ sự đòi hỏi này phát xuất [...] sự nỗ lực lôi kéo con người ra khỏi sự đảm chìm trong cảm năng, tầm thường và đơn độc và nâng cái nhìn của họ lên những vì sao [...]. Từ tất cả những gì hiện hữu, ý nghĩa của chúng là trong đường dây ánh sáng, nhờ đó chúng được nối kết với thiên giới, với nó [thiên giới, thay vì dừng lại trong hiện tại này, thì cái nhìn siêu vượt lên trên nó [cái hiện tại] nhắm đến thực tại thần linh, đến một hiện tại ở phía bên kia, nếu có thể nói như thế. Sau khi khoa học và nhân loại cuối cùng nhận ra rằng ta không thể làm gì hơn nữa với chân lý, nếu ta đẩy nó vào thế giới bên kia, thì đã xảy ra một trào lưu chống đối triệt để. Chủ nghĩa duy nghiệm hiện đại, theo Hegel, là sự phủ nhận đối với tất cả những gì thiên thượng. Các nhà duy nghiệm phủ nhận quan điểm cho rằng, với ý tưởng về một sự hợp nhất cuối cùng trong thần linh, thì người ta có thể giải thích được hết mọi sự kiện trên trái đất này. Thay vì thế giới bên kia, thì họ đặt ra thế giới bên này. Độc nhất và một mình sự thực nghiệm, nghĩa là cái kinh nghiệm cụ thể mà người ta có thể lặp lại bằng thí nghiệm, mới có thể là cơ sở chắc chắn cho việc thu hoạch tri thức. Mỗi sự nhận thức, như Bacon và Hume từng đòi hỏi, phải đến từ cảm thức trần gian này và luôn mãi gắn bó với nó. Nhưng góc nhìn thuần túy duy vật và cố định vào cái trần gian này, theo Hegel, cũng lại là một sự nghèo nàn cho khoa học, bởi nó lưu giữ con người hoàn toàn đói khát trong sự tìm kiếm ý nghĩa của cuộc đời: Nay xem ra lại là một sự cùng khổ ngược lại, cái ý nghĩa gắn chặt mình lại vào những gì là trái đất [...]. Cái tinh thần tỏ ra nghèo nàn đến đỗi, như người lữ hành trong sa mạc khát khao một ngụm nước lã, thì nay con người [...] xem ra lại khát khao có được một cảm xúc về thần linh. Cái mâu thuẫn giữa hai lập trường triết học lớn trên đây, theo đó sự thật một đàng chỉ được tìm kiếm trong suy tư thuần túy về cái tuyệt đối, đàng khác chỉ trong những đối tượng và thí nghiệm khả kiến, thì Hegel nghĩ đã được vượt bỏ trong triết học của chính ông. Bởi những nhận thức duy nghiệm từ những thí nghiệm của khoa học cuối cùng cũng không gì khác hơn là những kinh nghiệm được phát xuất từ sự tự chuyển động biện chứng của Tinh thần thế giới, và như thế là cái tri thức tuyệt đối đang trên đường trở thành. Cái tuyệt đối và cái thường nghiệm như thế được giải hòa với nhau. Ngay từ lúc khởi đầu công trình triết học của mình, Hegel thời trẻ đã đặt ra cho mình những mục đích lớn: Góp phần vào việc làm cho triết học đến gần với hình thức khoa học - mục đích làm cho nó có thể trút bỏ được danh xưng là sự “yêu thích tri thức" [philosophia: philein sophia] và được là tri thức đích thực -, là điều mà tôi đặt ra cho mình. Như thế, Hegel muốn làm cho triết học thành một khoa học và từ “yêu thích chân lý” thành “tri thức về chân lý”. Quả thật trong Triết học tinh thần của mình, Hegel đã tìm cách dứt khoát giải đáp tất cả mọi câu hỏi triết học một cách chung quyết. Vào cuối thời của lịch sử, theo Hegel, chúng ta quả thật có thể chấm dứt suy luận và đặt thêm các câu hỏi, bởi nay chúng ta biết, Thượng đế, con người, tự nhiên và lịch sử chỉ là biểu hiện của cùng một chuyển động tư duy, trong đó chúng ta đã hiện diện từ xa xưa và nay tinh thần của chúng ta nhìn nhận nó như bản chất riêng biệt và thâm viễn nhất của chính mình: [...] từ trong chiếc cốc của vương quốc các tinh thần này sủi dâng lên cho ngài sự vô tận của mình. PHÁT KIẾN CỦA HEGEL CÓ ÍCH GÌ CHO CHÚNG TA NGÀY NAY ? CÓ CHĂNG LÝ TÍNH TRONG LỊCH SỬ HAY TRÒ DIỄN CỦA TINH THẦN THẾ GIỚI? Nghe ra trước tiên có phần xa lạ, khi nói rằng vào cuối thời lịch sử, chúng ta sẽ hợp nhất trong một lễ hội pháo hoa hòa giải – với tự nhiên, với Thượng đến với người đồng loại và với toàn thế giới. Có quá nhiều vấn đề và xung đột đang đè nặng thời kỳ đương đại của chúng ta, để ta có thể chia sẻ chủ nghĩa lạc quan của Hegel. Quả thật ý tưởng của Hegel về một sự hoàn thiện và phát triển liên tục cái lý tính của con người đã được Schopenhauer đặt thành vấn đề. Cụ thể là các kinh nghiệm của thế chiến thứ hai đã làm rúng động sự tin tưởng của người châu Âu vào lý tính. Triết gia Theodor W. Adorno đã nêu lên câu hỏi thách thức: sau Auschwitz [tên một trại tập trung thời Đức quốc xã của Hitler] liệu ta còn có thể nói về một sự tiến bộ trong lịch sử: Cuối cùng chúng ta đứng trước sự thật thực tế, rằng mặc cho tư duy công dân thế giới của Hegel, Kant, Rousseau và Locke, mặc cho truyền thống trên hai trăm năm về tư trào khai minh châu Âu, lại một lần nữa vẫn có thể xảy ra một hành động man rợ như thế. Chủ nghĩa dân tộc và chủ nghĩa kỳ thị chủng tộc đã đưa đến hai cuộc thế chiến, trong đó người Anh, người Pháp, người Đức, người Ý và công dân của hầu hết các nước trên thế giới đã bắn giết lẫn nhau. Làm sao một điều như thế lại có thể xảy ra? Và – trước những bước lùi kinh khủng trong lịch sử văn minh của chúng ta, như vấn đề khí hậu nóng lên toàn cầu, ô nhiễm hạt nhân và khủng hoảng của chủ nghĩa tư bản, liệu ta còn có thể nói về một lý tính trong lịch sử? Adorno năm 1965 đã đưa ra một lời đáp rõ ràng: Không, người ta không thể làm điều đó. Cái Tinh thần thế giới hợp lý tạo hình, nếu nó có thật, thì đã tự mình chia tay trễ nhất là vào thời hiện đại này. Cái lý tính như động cơ của lịch sử, trong tiếp bước của thời Khai minh, đã chuyển đổi thành phi lý tính. Hegel đơn giản đã sai lầm, khi nói lý tính luôn ngày càng phát triển mạnh hơn và sẽ thẩm thấu xuyên suốt tất cả. “Cái đúng thật là cái toàn bộ”, câu nói còn thấy nơi Hegel. “Cái toàn bộ là cái sai lầm”, Adorno phản ứng, trước cái thế giới bị thuộc địa hóa và bị lũng đoạn bởi các chủ nghĩa dân tộc và tư bản. Hegel mất năm 1831 và như thế đã không chứng kiến thảm họa diệt chủng Do Thái, chủ nghĩa quốc gia và chủ nghĩa phát xít. Nhưng ông ắt hẳn vẫn sẽ kiên trì nghĩ rằng, kể cả những bước lùi như thế, dẫu cho chúng có kinh hoàng bao nhiêu đi nữa, thì cuối cùng vẫn là những mâu thuẫn tất yếu trên con đường phát triển lý tính. Bởi rằng, kể cả chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa kỳ thị chủng tộc và chủ nghĩa phát-xít, như người ta có thể lý luận cùng Hegel, đã cùng với những người đề xướng chúng như Franco, Mussolini và Hitler, chỉ là những hình thái tinh thần nhất thời mà sự vượt bỏ biện chứng đã đưa đến hình thái tinh thần của một châu Âu hiệp nhất. Kỳ thị chủng tộc và chủ nghĩa dân tộc, theo cái logic về lý tính của Hegel, đã phải thất bại, bởi chúng sản sinh ra cái mâu thuẫn riêng biệt của chúng, nghĩa là cái phản đề của chúng, cái phản đề nhất thiết đưa đến sự tự vượt bỏ của chính chúng. Hegel có lẽ sẽ nói, các dân tộc hay các quốc gia, khi cái tự ý thức của mình chối bỏ và gièm pha cái tự ý thức của các dân tộc khác, sẽ phải thất bại dựa trên nguyên tắc của sự mâu thuẫn, vì rằng cái loại ý thức này không bao giờ có thể kết thúc một cách hỗ tương. Bởi khi một dân tộc đi tìm sự thật của mình trong sự trục xuất, áp bức hay cả sự diệt chủng các dân tộc khác, thì do đó cũng thách thức một cuộc chiến Sống chết của tất cả và g ộ ộ g chính vì vậy cũng phủ nhận quyền sống cơ bản của các nước, và cũng phủ nhận quyền đó của chính mình. Và như thế, nó tự vượt bỏ chính mình. Cái sự thật của chủ nghĩa dân tộc và kỳ thị chủng tộc như thế thiết yếu đưa đến sự xung đột giữa các nước, tỏ ra trong sự xung đột đó là mình bất minh và tự vượt bỏ mình trong hình thái tinh thần của 1 sự thừa nhận lẫn nhau giữa các nước. Sự vượt bỏ cái hình thái tinh thần dân tộc và vị chủng này trong sự tự nhận thức của châu Âu thì nay đã trở thành một hình thái tinh thần mang tính lịch sử, khi mà ngày nay không thể tưởng tượng rằng, các bạn trẻ Pháp, Anh hay Đức lại còn có thể lần nữa nã súng bắn vào nhau. Với sự tự hiểu biết đương nhiên cực độ, các bạn trẻ thực hiện những chuyến du lịch ngôn ngữ, những chương trình trao đổi học đường, đi học hay lao động tại các nước láng giềng, mặc dầu trong thế hệ ông bà của họ đã từng có cái gọi là thù địch truyền kiếp Đức-Pháp. Điều mà, một lần cho tất cả, đã được khắc phục, rằng người châu Âu hôm nay thừa nhận cho nhau sự tự do và không làm tổn hại nhau, đó là một dấu chỉ, rằng Hegel có lẽ thật đã có lý khi ông, ngược lại với nhận định của Adorno, đã nhìn xem lịch sử là hợp lý tính – như “sự tiến bộ trong ý thức về tự do”. Hegel có lẽ đến hôm nay vẫn cũng giữ vững tư tưởng cốt lõi của ông: Những tư tưởng độc nhất mà triết học đưa lại, là tư tưởng đơn giản nhất về lý tính, rằng lý tính làm chủ thế giới, rằng trong lịch sử thế giới nó cũng xảy ra một cách hợp lý tính. Xác tín và thức nhận này là điều kiện tiên quyết đối với lịch sử xét như bản thân nó; Như vậy, theo Hegel, thì xác tín rằng trong lịch sử thế giới các việc xảy ra một cách hợp lý tính, đó là điều kiện tiên quyết để ta có thể hiểu được lịch sử như nó vốn là thế. Nhưng ngược lại nếu ta cho rằng dòng chảy của lịch sử là bất hợp lý và vô nghĩa, thì tất cả mọi biến cố lịch sử chỉ là những khoảnh khắc ngẫu nhiên, phi lý và tự phát của một cuộc xổ số. Nhưng sự thật là chúng ta có thể nói về một tinh thần thời đại, về những thời kỳ và những truyền thống, như thế là đã có một dấu chỉ cho cho sự chấp nhận một logic trong lịch sử của Hegel. Quả thật ngày nay không một ai quả quyết một cách nghiêm túc rằng, các biến cố lịch sử là thuần túy tự phát và không liên kết với nhau. Luận điểm của Hegel trong chừng mực có thể khả tín, rằng trong lịch sử, mặc cho tất cả mọi bước lùi, vẫn có một tiến bộ nhìn nhận được, nghĩa là có một sự khai triển của lý tính. Nay hỏi rằng sự liên kết này mỗi lần có phải là một nhịp đi biện chứng ba bước tiền đề, phản đề và hợp đề hay không, điều ấy có thể hãy còn bỏ ngỏ, nhưng sự khám phá của ông, rằng các thời đại xây cất trên nhau là điều trước sau vẫn đúng. Nhưng sự khám phá này ích gì cho chúng ta? Những hiệu quả thực tế nào nó có thể đem lại cho ta? Ta có thể thư giãn ngả lưng ghế ra sau và bàng quang ngắm nhìn lý tính phát triển ra sao trong xã hội? TƯ DUY BIỆN CHỨNG CÓ NGHĨA LÀ TƯ DUY PHÊ PHÁN Triết học của Hegel kỳ cùng chỉ cho phép có một lời giải đáp duy nhất! Chúng ta với tư cách cá nhân cũng có thể và phải chính mình xúc tiến lý tính trong lịch sử. Ấn tượng nhất là ta có thể trình bày điều đó bằng một thí dụ cụ thể. Chủ tịch Xô-Viết Mikhail Gorbachev trước đây đã có một câu nói ngắn và câu nói này đã được chuyển đi khắp thế giới: “Kẻ nào tới trễ, kẻ ấy sẽ phải bị cuộc sống trừng phạt”. Lời cảnh báo này của Gorbachev đã được ngôi sao thông dịch viên lúc bấy giờ phiên dịch như sau: “Tôi thấy quan trọng là đừng đánh mất đi thời điểm và đừng lãng phí bất cứ một cơ may nào [...]. Nếu ta dừng chân lùi bước thì tức khắc cuộc sống sẽ trừng phạt chúng ta”. Trong câu nói này, sự liên kết theo Hegel giữa ý thức cá nhân và Tinh thần thế giới đã được biểu hiện một cách rất ấn tượng. Câu nói đó chỉ có thể tác động trên cơ sở suy tư của Hegel. Bởi một đàng con người cá nhân có thể định đoạt g ộ g g ị ạ một cách hoàn toàn tự do điều gì mình muốn làm hay bỏ qua, nhưng đang khác nếu y không làm đúng thời điểm điều lý tính đòi hỏi, thì y sẽ bị qua mặt và bị trừng phạt bởi những biến đổi của cuộc sống và, vì thế, bởi Tinh thần thế giới trong lịch sử. Câu nói trên cũng có thể được diễn tả rằng: “Ai đến quá trễ, kẻ ấy sẽ bị lịch sử trừng phạt”. Gorbachev đã nói câu nói trên đây với Erich Honecker, chủ tịch nước cuối cùng của Cộng hòa Dân chủ Đức đang trên đường tiêu vong, vốn là nền Cộng hòa xã hội chủ nghĩa xưa kia trên mảnh đất một nước Đức chia đôi. Vào thời điểm này, đã có một sự bất mãn lớn của người dân đối với các quan chức và Đảng xã hội chủ nghĩa thống nhất đang cai trị. Gorbachev nhận thấy nền kinh tế kế hoạch hóa của Cộng hòa Dân chủ Đức cũng như của Nga và của các nước Cộng hòa Xô-Viết khác phải được cải cách. Với chương trình “Perestroika” có nghĩa là thay đổi, ông đã mở màn thời đại dân chủ hóa và mở rộng thị trường, đồng thời chấm dứt sự xung đột Đông-Tây kéo dài đã từ nhiều thập kỷ nay. Nhưng Honecker đã không nghe lời ông và đã bướng bỉnh giữ chặt nền kinh tế kế hoạch hóa, cho đến khi cuối cùng ông đã bị truất phế bởi chính nhân dân của ông và đã bị đào thải bởi các biến cố lịch sử. Nay ta có thể trả lời câu hỏi, liệu ta như những con người đơn lẻ có thể chăng góp phần tác động vào sự phát triển lý tính trong lịch sử và cùng tác thành bước đi của lịch sử. Chúng ta có thể và phải làm điều đó! Mikhail Gobachev đã nhìn ra hoàn cảnh lịch sử và đã hành động một cách hợp lý. Đặc biệt ông đã chấm dứt cuộc chạy đua vũ trang và hơn nữa có lẽ đã cứu vãn thế giới khỏi một cuộc chiến tranh hạt nhân. Theo tư tưởng của Hegel, hẳn ông đã là một nhân cách tầm vóc lịch sử thế giới, kẻ chống lại sự phản kháng của các thành viên và của các quan chức trong chính đảng phái của mình để làm điều ông cho là đúng và điều, như Hegel có lẽ sẽ nói, “cần thiết và đúng thời điểm”. Như thế, dòng chảy của lịch sử phụ thuộc rất nhiều vào sự dấn thân hợp lý của chúng ta. Cả số đông những người dân của Cộng hòa xã hội Đức, những kẻ đã xuống đường cho sự tự do của họ, cũng đã cùng với việc làm can đảm của họ góp phần vào việc thay đổi này. Nhưng cuối cùng nếu chính con người là những kẻ làm ra lịch sử, thì phải chăng tác động của Tinh thần thế giới là điều dư thừa? Triết gia Ludwig Feuerbach quả đã diễn giải Hegel như thế. Feuerbach cũng vẫn còn sử dụng khái niệm Thượng đế, nhưng đồng thời cũng cho đó là điều dư thừa khi ông nói, tri thức về Thượng ý cuối cùng không gì khác hơn là tri thức của con người về chính mình và về chính bản chất của mình. Như thế câu hỏi được đặt ra là, liệu ta có thể thật sự đơn giản tháo gỡ cái Tinh thần thế giới như một bóng ma thừa thải ra khỏi triết học của Hegel? Không, ta không thể làm điều đó, như ta có thể thấy trong thí dụ của Honnecker. Ảnh hưởng của ý thức của con người có thể có giới hạn, nhưng lý tính trong lịch sử thì không. Như Honecker, cho dù với Công an, quân đội và tình báo vẫn không có mảy may cơ hội cầm giữ lại bánh xe lịch sử. Ông không còn có thể đè nén sự thật mới, khi sự thật đã xâm nhập vào. Sự khao khát tự do của người dân đã quá lớn và thời gian đã chín muồi cho một thay đổi. Lý tính quả thật chiến thắng trong lịch sử, mặc dầu những người uy quyền không hoặc chưa nhìn ra điều đó. Hoặc như Hegel nói: Chúng ta phải xác tín rằng, bản tính của lẽ thật là thẩm thấu xuyên suốt, khi thời điểm của nó đã đến, [...] Như vậy, lịch sử trong tương quan với từng cá nhân con người và những quyết định của y hoàn toàn có một cuộc sống riêng và một động lực riêng. Bởi vậy, Hegel nói về tác động của Tinh thần thế giới hợp lý tính; tinh thần này như là yêu sách cương cường của lý tính, thì lớn hơn cả tổng số những hành động và tư tưởng cá nhân trên trái đất này. Thí dụ như Hitler đã từng có rất nhiều người sùng mộ tin theo ý đồ của ông. Nhưng cái bản tính của lẽ thật là thẩm thấu xuyên suốt, và ý đồ của Hitler không phải là sự tiến bộ trong ý thức về tự do, nên ông đã phải thất bại. Tinh thần thế giới như sự khai triển của lý tính sẽ không để mình bị ảnh hưởng bởi số đông. Ta có thể nói như Hegel rằng cái mưu đồ về “vương quốc nghìn năm” của chủng tộc Aryan đã bị lịch sử bác bỏ và do đó cũng bị bác bỏ bởi Tinh thần thế giới trong chỉ vỏn vẹn sáu năm, qua đó thảm họa và sự tồi tệ của sự điên rồ này trong ý thức của các dân tộc đã bị vượt bỏ vĩnh viễn. Tinh thần thế giới như thế cuối cùng không gì khác hơn là yêu sách cương cường của lý tính phải thẩm thấu xuyên suốt khi thời điểm của nó đã đến. Nhưng bởi con người do những đam mê của mình đã không luôn nhìn biết thời điểm này, nên Hegel đã phân biệt Tinh thần thế giới với tinh thần của từng cá nhân riêng lẻ, mặc dầu cả hai cùng tuân theo một phép biện chứng như nhau, và cá nhân, vào lúc kết thúc lịch sử, sẽ nhận ra lại chính mình trong chuyển động của Tinh thần thế giới. Chính bởi luôn mãi có những bước lùi trong lịch sử, nên ta có trách nhiệm phải cùng tác động cho sự phát triển của lý tính, nhận biết sự thật hay như Hegel nói, làm điều cần thiết, để một hình thái tinh thần mới, cao hơn thay thế cho cái hình thái cũ đã lỗi thời. Điều này do đó thật quan trọng cho con người, như Hegel nói: [..] biết được cái cấp độ kế tiếp và tất yếu, lấy nó làm chủ đích cho mình và đặt để năng lực của mình vào đó. Như vậy, trách nhiệm cho con người cá nhân là nhìn ra dấu chỉ của thời điểm, không thỏa mãn với điều đã đạt được trong lịch sử, bởi theo Hegel, điều trước đây được nghĩ là thật thì chỉ ít năm sau có thể hạ thấp xuống thành hư bóng đơn thuần của sự thật. Thí dụ như bước tiến vào thời đại hạt nhân đã được chào mừng như khởi đầu của một thời đại phồn vinh mới. Nhưng cái hiểu biết này-do những thảm họa của các nhà máy điện hạt nhân và các vấn đề quản lý chất thải với các phóng xạ cao - đã sớm sụp đổ thành một bóng ma đơn thuần. Do sự phản đối của người dân mà hình thành nên cái phản đề, theo đó năng lượng hạt nhân gây hại cho nền tảng cuộc sống của xã hội hơn là làm cho nó an toàn hơn. Như là hợp đề của tiến trình biện chứng này, nay một số nước đầu tiên ở châu Âu và châu Á bắt đầu thay thế năng lượng hạt nhân bằng năng lượng tái tạo. Nhưng cả cái hợp đề này trong sự chuyển động biện chứng cũng sẽ trở nên một tiền đề mới. Thí dụ như hình thức cung cấp năng lượng mới với việc bắt đầu trồng trọt đại trà hạt cải dầu cho nhiên liệu sinh học lại gây nên nạn khan hiếm thực phẩm. Cái mâu thuẫn này nay lại đòi hỏi những giải pháp mới. Như vậy, ý thức, theo quan điểm của Hegel, lại phải luôn mãi thúc đẩy tiếp tục đi tới các mâu thuẫn của nó. Điều ấy cụ thể có nghĩa gì? Suy tư biện chứng có nghĩa suy tư phê phán. Chúng ta luôn phải đi đến sự phủ định và tra vấn cái hiện tại. SỐNG CÓ NGHĨA LÀ THAY ĐỔI Không phải chỉ trong những thời đại xoay trục lớn lao của xã hội mới đòi hỏi sự mâu thuẫn quyết liệt của chúng ta, Hegel, với phép biện chứng, còn cung cấp cho ta một dụng cụ quan trọng, đó là: cả trong lĩnh vực rất riêng tư, việc nhận thức về sự “trở thành” cũng có thể đóng một vai trò quan trọng. Cuộc sống có nghĩa là thường xuyên thay đổi. Chính trong bản chất của bản tính con người mà ta phải già đi và tiếp nhận những thách thức mới. Một em bé có những vấn đề khác với cậu thiếu niên dậy thì hay một người trưởng thành. Và không chỉ chúng ta mà thôi, ngay cả thế giới chung quanh ta cũng thay đổi một cách chóng mặt. Nhưng cũng tự bản chất của quan năng suy tư biện chứng của chúng ta mà ta có thể đón nhận những thách thức này và tạo nên những sự thật mới. Bởi chúng ta, trong một giai đoạn của cuộc đời, xem một điều gì đó là tuyệt đối, thì có thể chính chúng ta một ít năm sau lại nhìn nhận đó là điều phi lý và thay đổi nó bằng một chân lý khác, hoặc như Hegel nói: Chân lý là sự chuyển động của nó đến chính nó; Thực tế việc trong cuộc sống, đối với điều mà ta cho là thật, ta vẫn phải luôn mãi suy nghĩ lại, không có nghĩa chúng ta không cần phải tranh đấu cho điều đã đạt được. Dĩ nhiên, không ai muốn mất đi người bạn đời, bị thất nghiệp hay từ bỏ điều yêu quý đã nhận được. Và dĩ nhiên không ai muốn con cái mình làm những điều lầm lỗi có thể tránh được. Nhưng khi một điều như thế xảy ra, thì ta phải xử sự với những thay đổi này. Và chính trong điểm này mà triết học của Hegel có thể giúp chúng ta. Ông dạy chúng ta biết thấu hiểu cuộc sống như một tiến trình và xem mỗi chân lý của chúng ta, trong khoảnh khắc là đúng, là một dạng tinh thần giúp ta hiểu được thế giới và đối phó với thế giới, nhưng đang khác nó chắc chắn cũng có thể thay thế bằng một điều mới và đôi khi phải được thay thế. Tư tưởng này ta phải chấp nhận, và không phải như một ý tưởng trừu tượng, mà như một thái độ sống cụ thể mà ta phải lấy làm cơ sở cho nhận thức của chúng ta về thế giới và về đồng loại của mình. Sống cũng có nghĩa chấp nhận những thay đổi về tuổi tác. Sẽ là điều vô nghĩa, nếu ta khư khư nghĩ mình vẫn trẻ muôn đời vạn kiếp. Nếu ta thừa nhận các sự vật có thời gian của chúng, thì ta cũng có thể xử sự một cách tốt hơn khi những nét tuổi già xuất hiện, với đau yếu và bệnh tật càng ngày càng thêm lên và chuyển giao các trách nhiệm cho thế hệ trẻ tiếp nối một cách nhẹ nhàng hơn. Nhưng cả trong những năm còn sung sức khỏe mạnh, thì nhờ vào lý tính biện chứng, các cơn khủng hoảng cũng có thể được đối phó một cách tốt đẹp hơn, nếu ta cùng với Hegel, nói không với tình trạng không hài lòng của mình, thay đổi tình trạng này lẫn thay đổi cả chính mình và nâng nó lên một tầng cao mới. Goethe có lần trong một câu chuyện đã yêu cầu Hegel giải thích cho ông bằng một ngôn ngữ rất đơn giản biện chứng đích thực có nghĩa gì. Hegel trả lời, nó là một tinh thần đối lập được điều chỉnh đúng phương pháp vốn Có sẵn trong mỗi con người. Cái tinh thần đối lập này, vốn đã được đặt để trong mỗi con người, nay phải được nghiệm sinh, bởi nó khai mở cho ta cơ hội phát triển sâu rộng thêm ra. Hegel nhắc nhở ta thêm rằng, với mỗi sự thay đổi, trong đời sống tự riêng hay trong nghề nghiệp, không phải tất cả những gì ta đã đạt được trước đó hay nghiệm sinh đều bị mất mát, bởi cái sự thật trước đây vẫn tồn tại, theo cách nhìn của Hegel, nhưng được vượt bỏ trong sự thật mới. Và cả cái chết, hay như Hegel nói, cả cái phi hiện thực kinh hoàng nhất, vẫn có thể được lý tính vượt bỏ một cách biện chứng, cho dù thật khó nhọc khi nghĩ đến nó: Chết, nếu ta muốn gọi cái phi hiện thực đó như thế, là cái kinh hoàng nhất, và giữ chặt lại cái đã chết, là điều đòi hỏi sức mạnh to lớn nhất. Chúng ta trong cuộc sống hằng ngày thường có xu hướng xua đuổi cái chết, bởi nó biểu hiện một thách thức vượt quá sức suy tưởng của chúng ta. Nó không hề thích hợp với khao khát sống và hành động của chúng ta. Nhưng Hegel khuyến nghị ta, chính nơi đây đừng ngoảnh mặt bỏ đi: Nhưng không phải sự sống e ngại trước cái chết [...], nhưng chính việc chịu đựng nó và bảo tồn mình trong nó, mới là sự sống của tinh thần. Bởi tinh thần của con người sở hữu cái sức mạnh chuyển hoá cái tiêu cực, phủ định của cái chết thành cái tồn tại sống động: [...] Nó chỉ là sức mạnh này, khi nó nhìn thẳng vào cái tiêu cực, phủ định và lưu lại trong đó. Sự lưu lại này là cái huyền lực hoán chuyển nó thành tồn tại. Như vậy, khi chúng ta nhìn thẳng vào cái chết và thừa nhận thực tế của việc Phải-Chết, chúng ta, từ nhận thức về cái chết như sự giới hạn những khả thể sinh tồn của cá nhân ta, lại có thể nhận được cảm hứng cho một cuộc sống quyết liệt hơn và sử dụng một cách ích lợi thời gian của chúng ta. Ngoài ra, ý thức của chúng ta - và đây là điều an ủi của Hegel - sau cái chết thể xác của mình, cũng được vượt bỏ vào trong sự phát triển của tinh thần phổ quát. Thực tình thì Hegel không đoan hứa cho chúng ta một cuộc sống tiếp nối trong một thiên đường bên kia thế giới, nhưng thay vào đó là một tiếp nối 1 ngày bên này cuộc đời trong Tinh thần thế giới. Bởi sự hiện thể (Dasein) cá nhân của chúng ta không gì khác hơn là sự tự phát triển biện chứng của lý tính, chúng ta, cả sau khi chết, cũng tham dự vào sự phát triển của lý tính của Tinh thần thế giới. Sự dấn thân của chúng ta cho sự sống, sự năng nổ và tri thức của chúng ta không đơn giản bị đánh mất đi, nhưng được vượt bỏ để tiếp tục tồn tại như di sản sống động trong những hình thái tinh thần của các thế hệ tương lai. Và cả khi bản thân ta không phải là một cá nhân mang tầm vóc lịch sử thế giới được lưu giữ trong các sử sách nào đi nữa, thì với sự dấn thân của mình, ta cũng làm cho mình trở nên bất tử, hoặc trong việc giáo dục con cái, trong việc trao truyền thi thức, hay đơn giản trong việc chu toàn các công việc cần thiết trong xã hội. HEGEL DÀNH CHO NHÀ QUẢN TRỊ Trái tim của chủ nghĩa tư bản toàn cầu là sàn giao dịch chứng khoán. Trên mọi địa bàn buôn bán lớn trên thế giới này, mỗi nơi đều thấy có hai bức tượng bằng đồng: con bò và con gấu. Trong khi con bò tượng trưng cho bước tiến giẫm chân đầy dũng lực của tỷ giá hối đoái, thì con gấu là phản đề cho sự kiên trì vững mạnh và sự thoái lùi về hang động. Không khó khăn để nhận ra rằng, không chỉ tỷ lệ hối đoái, mà toàn bộ đời sống kinh tế đều bị ảnh hưởng bởi cái biện chứng riêng biệt của các chu kỳ bùng nổ và phát triển kinh tế cũng như các giai đoạn trì trệ và suy thoái sau đó. Mỗi sự sản xuất quá mức đều đưa đến một sự suy trầm. Và như thế nền kinh tế thế giới đưa đẩy mình thông qua các mâu thuẫn của nó. Mọi cố gắng kinh tế và chính trị nhằm giảm nhẹ cái biện chứng này với các chương trình ổn định và thích ứng hoàn cảnh chỉ có được cơ may thành công, nếu biết diễn giải đúng từng thời kỳ của nó. Ngoài ra, điều có ý nghĩa cực lớn cho người quản trị và nhà chính trị là biết phản ứng, hay - tốt hơn nữa – đón đầu trước sự thường xuyên thay đổi của thị trường bằng cách thay đổi danh mục sản phẩm. Các xí nghiệp lớn vì vậy thường tuyển dụng những bộ óc sáng tạo với trách nhiệm duy nhất là phân tích những nét tiêu cực trong triết lý xí nghiệp của mình để rồi đề xuất ra những chiến lược và những sản phẩm đối lập lại. Và vì thế, chẳng hạn như hãng Mercedes, với bản chất thương hiệu như thường biết là loại : Limousine sang trọng màu xám đen nhiều mã lực, một lúc nào đó đã đưa ra thị trường một loại xe nhỏ khiêm tốn đa sắc hai chỗ ngồi với tên gọi thích ứng “Smart” và như thế đã khai thác được một nhóm đối tượng mục tiêu hoàn toàn mới. Cả người Mỹ sáng lập đội tàu hải dương du lịch Funship xem ra cũng đã tái tạo lại khái niệm kinh doanh của ông, chỉ với một bút chì cầm tay và suy tư đặc thù của Hegel đã đi đến sự “phủ định cụ thể”! Trên một mẩu giấy ông trước tiên ghi ở một mặt những gì các chuyến hải hành du lịch truyền thống thường làm: độc quyền, khách giàu, tuổi cao, áo dạ hội đen-trắng nghiêm chỉnh, thực đơn 7 món tại casino, phục vụ độc quyền, sâm ự ạ p ụ ụ ộ q y banh, biểu diễn âm nhạc cổ điển, dùng bữa với thuyền trưởng, vv. Tiếp đến ông ghi lại ở trang sau những điều ngược lại: mở rộng cho mọi người, giới thu nhập trung bình và dưới trung bình, giới trẻ, quần Jeans, áo màu, căn tin với tự phục vụ, đồ uống Cola hỗn hợp, disco và hồ tắm. Và với ý tưởng này ông đã tìm được các nhà đầu tư. Ngày nay, đã có trên 30 tàu vui đùa du lịch rong đi trên khắp các đại dương, hàng vài chục tàu trong đó là câu lạc bộ tàu AIDA thuộc Đức quốc với 700 triệu Euro doanh thu hàng năm. Cùng với Hegel, ta có thể nói, ông ấy hắn đã nhìn ra điều gì đã đến thời của nó! Nói riêng trong ngành quảng cáo và tiếp thị, phép biện chứng của Hegel từ lâu đã trở nên cái một nhân một [Einmaleins: phép nhân từ một đến mười, ý nói điều cơ bản ai nấy đều biết, ND]. Nơi đây chính là nhiệm vụ, không được làm cho khách hàng phải chán ngán và luôn phải phủ định đối với những luận điểm văn hóa, những chuẩn mực và những hình thức quảng cáo hiện hành. Như nhà sản xuất nước uống Red Bull không quảng cáo thí dụ như nước uống của họ giúp giải khát, ngon lành, bổ béo hay “chắc ăn” mà hoàn toàn đối nghịch lại: thức uống ở đây là phiêu lưu, nguy hiểm và còn chắp cánh bay xa! Sức tưởng tượng biện chứng ở đây không còn biên giới. VỚI HEGEL VƯỢT TRÊN CẢ HEGEL Khám phá của Hegel về sự biến đổi thường xuyên và về chiều kích sự “trở thành” là tuyệt vời. Phân tích của ông về lịch sử như là sự khai triển lý tính theo nghĩa thể hiện sự tự do cũng là thiên tài. Nhưng Hegel đã hiểu và ca tụng cái nhà nước hiến pháp và pháp quyền Phổ như là sự khai triển tột độ của cái lý tính lịch sử này. Ngoài ra, ông cũng đánh giá triết học tinh thần của chính ông như là hình thức tư tưởng cuối cùng và do đó không thể vượt qua được nữa. Ngày nay, ta biết rằng ngay cả nhà nước hiến pháp Phổ xưa kia, cho dầu nó có khoan dung và thiết thực trong thời đại của nó bao nhiêu đi nữa, thì cũng chỉ là một bước đi khiêm tốn trên con đường đưa đến nền dân chủ hiện đại. Chúng ta cũng biết, triết học tinh thần của Hegel không hề có nghĩa đơn giản là điểm kết thúc của triết học. Trong cả hai điều trên đây Hegel đã sai lầm cơ bản và, với tất cả sự kính trọng dành cho ông, quả thật ông đã đánh giá mình quá mức. Nhưng như thế có phải tư tưởng của ông về sự biến đổi thường xuyên là đã chết? Chúng ta có thể quên quách Hegel đi? Điều chắc chắn là Hegel đã rơi lại đàng sau nhận thức của chính ông về sự biến đổi thường xuyên. Nhưng cũng chắc chắn rằng, tư tưởng triết học cốt lõi của ông tuy nhiên vẫn có cơ sở. Sự khám phá cái chiều kích sự “trở thành” vẫn tồn tại như một đóng góp vô cùng phong phú. Nếu có gì là điều lợi ích mà Hegel để lại cho ta, thì đó là sự quan tâm và thận trọng đối với sự biến đổi thường xuyên và sự tiếp tục phát triển lịch sử và cuộc sống của chính mình. Còn lại là trách nhiệm của chúng ta, không được thỏa hiệp với thế giới hiện hành, nhưng luôn phải đi đến sự phủ định và mang sự phát triển lên một cấp độ cao hơn. Mỗi sự biến đổi cũng đều luôn mang theo cơ hội cho sự cải tiến. Điều đó đúng cho lĩnh vực riêng tư cũng như xã hội. Như thế, để sử dụng khám phá về sự “trở thành” của Hegel một cách có ích lợi, ta phải cùng với Hegel vượt trên cả Hegel. Vượt trên cả Hegel, ta phải nhìn nhận rằng lịch sử tiếp tục đi tới, cùng với Hegel, ta nắm chắc rằng mỗi thời đại là một viên đá khảm trong đại tiến trình phát triển của lý tính: Lịch sử thế giới là sự tiến bộ trong ý thức về . sự tự do - một sự tiến bộ mà chúng ta nhận thức được trong sự tất yếu của nó. (77) Cho sự tiến bộ này, chúng ta phải và có thể liên tục phát triển óc tưởng tượng biện chứng. Tư duy biện chứng có nghĩa tư duy phê phán. Văn hào Đức Bertolt Brecht đã nhận thức được sức bùng nổ phi thường của sự chuyển động tư tưởng biện chứng. Trong bài thơ lừng danh của mình “Tán dương biện chứng” (“Lob der Dialektik”), ông đã khích lệ chúng ta, chính trong những thời điểm tai họa và áp bức, phải tin vào sức mạnh của sự biến đổi biện chứng: “Ai đang còn sống, hãy đừng nói: không bao giờ Điều an toàn thì không chắc ăn. Như điều đang là, sẽ không mãi là thế. Khi người cai trị đã ra lời, Người bị trị sẽ lên tiếng [...] Ai đã nhìn ra cái tình trạng của mình, Làm sao y có thể chấp nhận chịu đựng? Bởi người chiến bại hôm nay Là kẻ chiến thắng ngày mai, Và từ cái “không bao giờ" sẽ là: Chính hôm nay! Bertolt Brecht 10.2.1898 - 14.8.1956 Dẫu cho Hegel có rơi vào ảo tưởng rằng thời đại của chính ông đã là vương miện và kết thúc sự phát triển của lý tính, thì ông cũng đã để lại cho ta một di sản vững bền, đó là khám phá lớn của ông về sự “trở thành” và lời mời gọi hãy tích cực cùng tác động vào sự khai triển lý tính, hãy tiếp cận chân lý hiện hành với sự phủ định, và không mệt mỏi biết phân biệt với năng lực lý tính cái đúng thật từ cái mâu thuẫn: Hành vi biện biệt là năng lực và lao động của lý trí, của cái sức mạnh kỳ diệu nhất và lớn lao nhất hay đúng hơn, của cái sức mạnh tuyệt đối. ---HẾT--- """