"
Những Người Sống Và Những Người Chết - Konstantin Simonov full mobi pdf epub azw3 [Tiểu Thuyết]
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Những Người Sống Và Những Người Chết - Konstantin Simonov full mobi pdf epub azw3 [Tiểu Thuyết]
Ebooks
Nhóm Zalo
Những Người Sống Và Những Người Chết
Tác giả: Konxtantin Ximonop
NXB: Cầu Vồng
Maxcơva 1987
'Tôi có cảm giác chung với tiểu thuyết Liên xô thời kỳ chống phát xít, đó là mỗi khi đọc xong một cuốn sách, bỗng chợt thấy tất cả nhân vật trong đó, những anh dép, lép, nhép, nốp, lốp, xốp… như trở thành đồng đội của mình, hoặc đúng hơn, thấy mình trở thành một người trong số họ.
Tôi đã theo anh phóng viên quân đội Xintxốp suốt những trận chiến đấu, phá vây, chia tay và gặp lại, tôi đã gặp Xerpilin, Tanhia, Dôlôtarép… Tôi cũng gặp những kẻ còn sống mà như đã chết, hèn nhát mạt hạng như gã Thượng úy Kruchikốp, sống bấu víu bằng cách tự lừa mình rằng còn có kẻ còn hèn nhát hơn mình, hoặc dối trá hơn mình, và mình sẽ vạch mặt kẻ đó. Lúc ấy mình sẽ là người hùng. Lúc ấy mình sẽ yên tâm tin rằng mình không hèn nhát.
Cỗ máy chiến tranh xay nghiền những thanh niên, trung niên, phụ nữ và trẻ em trong ánh chớp số phận. Thật trớ trêu, những ánh chớp số phận ở đây, hóa ra lại là ánh lửa lóe lên khi mỗi viên đạn bay ra khỏi nòng súng. Sau đó là những người sống và những người chết. Dù kẻ bị nhắm bắn có trúng đạn hay không, anh ta cũng đã bị chiến tranh quẳng ngoéo đi xa khỏi con đường anh vẫn đi trước đó. Nếu anh trúng đạn, chết ngay, hoặc tử thương, đã đành đi một nhẽ, thế là chấm hết một đời. Nhưng nếu viên đạn chỉ làm anh bị thương đâu đó, cho anh một vết sẹo, hoặc biến anh trở thành tàn phế, anh có thể tiếp tục chiến đấu, hoặc dưỡng thương một thời gian rồi tiếp tục chiến đấu, hoặc thậm chí không bao giờ chiến đấu được nữa. Anh phải sống và đối mặt với một cuộc đời khác hẳn. Thậm chí ngay cả khi viên đạn đó tránh khỏi anh, biết đâu đấy, anh lại trở thành một Valentin Hauder, anh chàng trong Ba người bạn của Erich Maria Remarque, ngày ngày say khướt uống mừng mình thoát chết.
Không chỉ là chiến tranh, vấn đề đặt ra còn là giữa một con người và một tờ giấy, người ta coi trọng cái nào hơn cái nào. Đến bao giờ người ta mới biết cách tin vào con người ?
Tôi không muốn dành nhiều lời xưng tụng cho một tác phẩm để dụ dỗ người khác đến với nó.
Chỉ biết rằng Simonov đã viết một cách đầy tiết chế, sự tiết chế của một người đã thực sự trải qua chiến tranh với tất cả sự khốc liệt của nó. Mỗi nhân vật thoáng qua dù chỉ một lần cũng khiến người đọc thấy được dù anh ta sẽ sống hoặc sẽ chết thế nào, anh ta cục cằn, thô lỗ, nóng nảy hay mơ mộng thế nào, và anh ta cũng là một mắt xích không thể thiếu trong cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại. Chừng nào một đất nước còn những con người như Malinin, Xintxốp, Xerpilin, Masa…, đất nước đó sẽ không bao giờ chấp nhận quỳ gối trước quân xâm lược' .
CHƯƠNG MỘT
Ngày đầu tiên của cuộc chiến tranh ập đến với gia đình Xintxốp cũng bất ngờ
như hàng triệu gia đình khác. Hình như ai nấy từ lâu vẫn nơm nớp chờ đợi cuộc chiến tranh, nhưng cuối cùng nó vẫn giội xuống đầu như một thùng nước lạnh. Rõ ràng với một tai họa lớn như vậy, nói chung không ai có thể
chuấn bị hết được.
Xintxốp và Masa biết tin chiến tranh bùng nổ khi hai vợ chồng đang ở
Ximphêrôpôn, trên khoảng đất hẹp nóng bức gần nhà ga. Họ vừa xuống tàu và đang đứng gần một chiếc «Lanhcôn» mui trần cũ kỹ, chờ những người đi cùng đường đế góp tiền thuê xe đến nhà an dưỡng của quân đội ở Guốcdúp.
Họ đang hỏi thăm người lái xe xem ở chợ cỏ trái cây và cà chua không, loa phóng thanh bỗng cắt đứt câu chuyện của họ, lè nhè vang lên khắp quảng trường, báo tin chiến tranh đã bùng nố, và cuộc sống lập tức bị chia ra làm hai phần tách rời, không sao gắn lại
được với nhau: phần trước chiến tranh cách đây một phút và phần hiện tại.
Xintxốp và Masa xách vali tới chiếc ghế dài gần nhất. Masa ngồi xuống, gục
đầu vào hai bàn tay và cứ ngồi nguyên không động đậy, y như kẻ mất hổn, còn Xintxốp thì cùng chẳng hổi han gì vợ, đi thắng đến quân vụ trưởng đế
xin chỗ trên chuyến tàu khởi hành đầu tiên. Bây giờ, thì từ Ximphêrôpôn họ
lại phải quay trở lại Grốtnô vì đã một năm rưỡi Xintxốp vấn làm thư ký tòa soạn cho tờ báo của tập đoàn quân.
Thêm vào mối tai họa chiến tranh nói chung, trong gia đình họ còn có điều bất hạnh riêng: chính trị viên Xintxốp đang cùng với vợ ở thành phố
Ximphêrôpôn này, cách xa chiến tranh hàng ngàn dặm đường, còn đứa con gái một tuổi của họ thi lại ở Grốtnô sát ngay cạnh nách chiến tranh. Nó ở đó, họ ở đây và ít nhất là phải bốn ngày đường nữa họ mới có thể đi tới chỗ nó được.
Trong lúc đứng xếp hàng vào gặp quân vụ trưởng, Xintxốp thử hình dung ra tình hình hiện nay ở Grôtnô: «Gần quá, gần biên giới quá, và không quân, chủ yếu nhất là không quân... Thực ra. người ta có thể cho trẻ con đi ngay khỏi những nơi đó...». Anh đã bám chặt lấy ý nghĩ nảy vi cho rằng nó có thể
làm cho Masa yên tâm.
Anh quay lại chỗ Masa để báo với chị rằng tất cả đều ổn: mười hai giờ đêm, họ sẽ đáp xe lửa trở lại. Chị ngẩng đầu lên và nhìn anh như nhìn một người xa lạ.
— Cái gì ổn kia chứ?
— Anh bảo rằng việc lấy vé tàu đều ổn cả. - Xintxốp nhắc lại. — Tốt. — Masa nói, rồi lại gục đầu vào hai bàn tay.
Chị không thể tha thứ cho mình về việc đã bỏ con đấy mà đi. Chị đã làm việc đó vi những lời khuyên nhủ dài dòng của bà mẹ. Bà cụ đã đến nhà họ ở
Grốtnô cốt để cho Masa và Xintxốp có thể cùng nhau đi an dưỡng. Xintxốp cũng khuyên Masa đi, và hôm lên đường, khi chị ngước nhìn anh và hỏi:
«Hay là thôi đừng đi nữa vậy?», thi anh lại còn bực mình nữa chứ. Lúc ấy giá chị đừng nghe lời cả hai người thi giờ nảy chị đã ở Grôtnô. Chị không thấy sợ
khi nghĩ rằng minh đang ở đó trong lúc này, cái đáng sợ chính là chị đã không ở đấy. Chị cám thấy minh có lỗi đối với đứa bé bị bỏ lại Grốtnô, cám giác đó đã làm cho chị hẩu như không nghĩ đến chồng.
Vốn tính thẳng thắn, nên chị đã đột nhiên nói ra với chồng điều đó.
— Nhưng việc gi phải nghĩ đến anh nhi? Xintxốp nói.— Và nói chung tất cả
sẽ ổn kia mà.
Masa không thể chịu nổi khi anh nói như vậy: bỗng dưng lại an ủi chị một cách ngớ ngẩn, không đâu vào đâu về những việc không thể nào an ủi được.
— Thôi đừng nói nhảm nữa! — chị nói. Cái gi ổn? Anh biết gì nào? — Đôi môi chị thậm chí run lên vì tức giận. —Em không có quyền đi nghỉ mát! Anh nên hiểu là em không có quyền ! — chị nhắc lại, tay nắm chặt đấm mạnh xuống đầu gối mình.
Khi hai người đã lên tàu, chị lặng thinh và thôi không tự trách mình nữa, nhưng đáp lại tất cả những điều Xintxốp hói chị chỉ ừ hữ. Nói chung, suốt dọc đường cho tới khi đến Maxcơva. Masa đã hành động gần như một cái máy. Chị uống trà. lặng lẽ nhìn qua cửa sổ. rồi trèo lên tầng giường trên nằm úp mặt vào vách hàng tiếng đồng hổ liền.
Suốt dọc đường, xung quanh người ta chỉ bàn tán về chiến tranh, nhưng Masa thi tựa hồ như không nghe thây gì cả. Tâm trí chị đang bận nhiều điều suy nghĩ nặng nề mà chị không thế cho ai biết, kế cả Xintxốp.
Mãi khi đến Xerpukhốp, gần Maxcơva, tàu vừa đỗ lại, chị mới nói với Xintxốp câu đầu tiên trong suốt thời gian đi đường:
— Ta xuống dạo một lát đi...
Họ ra khỏi toa tàu và chị khoác lấy tay anh
— Anh biết không, bây giờ em đã hiểu là tại sao ngay từ đầu em hầu như
không nghĩ đến anh. Chúng ta sẽ tìm ra Tanhia, sẽ cho nó đi với bà ngoại, còn em sẽ ở lại công tác với anh trong quản đội.
— Em đã quyết định rồi sao?
— Vâng.
— Nhưng nếu quyết định như thế cũng không xong thì sao ? Chị im lặng lắc đầu.
Anh cố giữ binh tĩnh nói với chị rằng việc tim Tanhia và việc chị có vào bộ
đội hay không là hai vấn đề cần tách biệt...
— Em sẽ không tách hai việc đó ra đâu ! — Masa ngắt lời anh.
Nhưng anh vẫn kiên nhẫn giải thích cho chị rằng tốt hơn cả là anh đến Grôtnô, nơi làm việc của anh, còn chị cứ ở lại Maxcơva. Nếu các gia đinh đã tản cư khỏi Grôtnô (và chắc người ta đã làm việc đó) thì mẹ Masa tất nhiên là cùng Tanhia sẽ cố lần về tới Maxcơva, về căn nhà riêng. Đế tránh tình trạng không gặp nhau trên dọc đường thì hợp lý hơn cả là cứ chờ hai bà cháu ở Maxcơva.
— Chưa biết chừng trong lúc chúng ta rời Ximphêrôpôn, thì hai bà cháu bây giờ cũng rời Grốtnô về tới Matxcơva rồi cũng nên!
Masa nhìn Xintxốp tỏ vẻ không tin, rồi lại lặng thinh cho tới khi về tới Maxcơva.
Họ về căn nhà cũ của Artêmiép ở phố Uxatsépka, nơi mà mới đây thôi, trên đường đi Ximphêrôpôn, lúc đầu óc còn thanh thản, họ đã ghé lại đó hai ngày.
Không có ai ở Grốtnô về cả. Xintxốp lại hy vọng vào một bức điện, nhưng điện cũng không có nốt.
— Bây giờ anh ra ga, — Xintxốp nói. — May ra lấy được vé. anh sẽ đi chuyến tàu tối. Còn em cứ thử gọi dây nói xem, chưa biết chừng gọi được cũng nên.
Anh rút quyển sổ tay trong túi áo quân phục mùa hè, xé một tờ và ghi cho Masa mấy số dây nói tòa soạn ở Grốtnô.
— Khoan đã, anh hãy ngồi xuống đây một lát đã nào,— chị ngăn chồng lại.
— Em biết rằng anh phản đối việc em đi với anh. Nhưng làm thế nào để em đi được?
Xintxốp nói rằng làm thế không được đâu. Ngoài nhưng điều anh đã nói còn thêm một lý do mới nữa: nếu lúc này người ta có thể cho chị tới Grốtnô đi nữa thi vị tất ở đây người ta đã tiếp nhận chị vào bộ đội, điểu này anh không tin, và chả nhẽ chị không hiểu rằng như vậy chl làm cho anh nặng gánh gấp đôi lên hay sao?
Masa nghe anh nói, sắc mặt mỗi lúc một tái nhợt thêm.
— Nhưng làm sao mà anh không hiểu, —chị bỗng tru tréo lên. — Sao anh không hiểu rằng em cũng là một con người?! Em muốn anh ở đâu thi em cùng ở đây chứ?! Tại sao anh chl nghĩ đến anh thôi?
— Sao lại «chỉ nghĩ đến anh thôi»?— Xintxốp sửng sốt hỏi.
Nhưng chị không nói gì, mà chỉ khóc, khóc thảm thiết. Khi nước mắt đã làm cho lòng dịu đi đôi chút, chị lại lấy giọng đảm đang quán xuyến bảo chổng ra ga lấy vé kéo muộn.
— Lấy cho cả em nữa. Anh hứa đi.
Phát cáu vì cái tính ương ngạnh của vợ, cuối cùng anh chẳng thương hại gì chị và dứt khoát báo rằng lúc này người ta không xếp chỗ đi Grốtnô cho thường dân đâu, chứ đừng nói là phụ nữ ngay từ hỏm qua bản thông cáo chiến sự có nói đến hướng Grốtnô, và cuối cùng cũng phải tỉnh táo mà nhìn xem sự thể ra sao chứ.
Được. Masa nói. —Xếp hay không thi mặc họ, nhưng anh cứ cố nài xem! Em tin anh. Phải thế không?
— Phải. — anh cau có đồng ý.
Tiếng «phải» lúc này biết bao dụng ý. Anh chưa bao giờ nói dối vợ. Nếu quả
là người ta cho chị vé đi Grốtnô thi anh đành sẽ đưa chị đi theo thôi.
Một giờ sau, anh thở phào nhẹ nhõm gọi dây nói từ nhà ga về báo cho chị
biết anh đã lấy được vé trên chuyến tàu đi Minxk vào hồi mười một giờ đêm
— không có tàu chạy thẳng Grốtnô và quân vụ trưởng đã bảo rằng ngoài quân nhân ra không được phép xếp chỗ cho bất kỳ ai đi về hướng đó.
Masa chẳng nói chẳng rằng.
— Sao em lại im lặng thế?—anh quát vào ống nói.
— Không sao cả. Em đã thử gọi dây nói đến Grốtnô, người ta bảo rằng hiện nay chưa liên lạc được.
— Vậy em hãy xếp tất cả đổ đạc của anh sang một chiếc vali đi nhé. — Được rồi, em sẽ xếp.
— Để anh thử vào Cục chính trị хеш sao. Có thể tòa soạn đã dời đi đâu rồi cũng nên, anh thứ hỏi хеш sao. Chừng hai giờ nữa anh sẽ về. Đừng buồn!
— Nhưng em có buồn đâu kia chứ, —Masa trả lời, giọng vẫn hững hờ và treo ống nghe lên trước.
Masa đã thu xếp xong đồ đạc cho Xintxốp và cứ băn khoăn mãi về một điều: làm sao mà chị lại có thể rời Grốtnô và bỏ con lại đó nhỉ? Chị đã không nói dối Xintxốp, quả thực chị không thể tách biệt những ý nghĩ về con và những ý nghĩ về bản thân mình: phải tìm nó, gửi nó về đây, còn bản thân minh thì sẽ ở lại chiến trường với chồng.
Đi bằng cách nào? Làm sao đế đi được? Đến phút cuối cùng khi đã đóng vali của Xintxốp lại, Masa mới sực nhớ ra là có lần chị đã ghi vào một mẩu giấy số dây nói cơ quan của đại tá Pôlưnin, một người bạn của anh trai Masa, đã cùng công tác với anh ấy ở Khankhingôn. Dọc đường di Ximphêrôpôn, đúng vào hôm họ dừng chân lại đây, thì ông Põlưnin này bỗng gọi dây nói đến báo rằng ông vừa từ Tsita đáp máy bay về ông đã gặp anh Paven của Masa ở đó và đã hứa với anh là sẽ đích thân báo cáo lại với mẹ anh.
Lúc ấy, Masa đã báo ông ta là bà Tachiana Xtêpanôpna ở Grốtnô và đã ghi lại số dây nói của cơ quan ông để khi mẹ về mẹ sẽ gọi dây nói cho ông ở
Tổng nha thanh tra háng không Nhưng số dây nói đó ở đâu bây giờ? Chị
cuống cuồng lục tìm mãi, rồi cũng đã tìm thấy và gọi dây nói.
— Đại tá Pôlưmin đây! — một giọng gắt gỏng vang lên trong ống nghe.
— Chào anh! Tôi lá em gái của anh Artêmiép đây. Tôi cần gặp anh. — Masa nói.
Nhưng hình như Pôlưmin thậm chí cũng chưa hiểu ngay chị là ai, và chị cần gì đến óng. Rối cuôi cùng ông đã hiểu ra, và sau một hồi lâu im lặng, không lấy gì làm niềm nở, ông báo nếu gặp trong một thời gian ngắn thi được, sau một giờ nữa chị cứ đến. Ông sẽ ra ngoài cửa để gặp chị.
Quả thực Masa cũng không biết rõ là ông Pôlưnin này có thể giúp chị được việc gì. Nhưng đúng một giờ sau, chị đã có mặt trước cửa một tòa nhà lớn của quân đội. Chị có cảm tưởng rằng minh vẫn nhớ hình dáng của Pôlưmin, thế nhưng lại không thấy ông ta trong đám người qua lại xung quanh. Bỗng cửa bật mở và một trung sĩ trẻ măng đến gặp chị.
— Chị cần gặp đồng chí đại tá Pôlưrnin phải không?—Anh hỏi Masa và lúng túng giải thích rằng đồng chí đại tá vừa được gọi lên bộ quốc phòng. Đồng chí ấy vừa ra đi cách đây mười phút và dặn chị đợi. Tốt hơn hết là chị cứ
ngồi chờ trong vườn hoa nhó đàng kia, bên kia đường tàu điện. Khi nào đại tá về sẽ có người đến tìm chị.
— Thế bao giờ đồng chí ấy về? — Masa hỏi khi sực nhớ ra rằng Xintxốp sắp quay về nhà.
Người trung sĩ chỉ nhún vai.
Masa chờ đợi suốt hai giờ và đúng vào lúc chị định thôi không đợi nữa và đã chạy qua đường sắt đế nhảy lên tàu điện thi từ trên một chiếc xe «Emka»
vừa chạy tới, Pôlưrnín bước xuống. Mặc dầu khuôn mặt đẹp của ông đã thay đổi nhiều, hình như già di và lộ vẻ đăm chiêu, nhưng Masa vẫn nhận ra được.
Ngươi ta cảm thấy là ông đang tính từng giây.
— Đừng giận nhé. — ông nói. — ta tạm đứng nói chuyện ngay tại đây thôi kéo trong phòng tôi khách đã kéo đến rồi... Chị gặp chuyện gi không lành sao?
Masa cố trình bày hết sức vắn tắt về sư việc đã xảy ra với chị và điều chị
mong muốn. Họ đứng canh nhau trên bến tàu điện, ngươi qua đường xô đẩy nhau, huých cả vai vào họ. Nghe chị kể xong, Pôlưnin báo:
— Biết làm sao được. Tôi cho lả anh ấy nói có lý đấy: người ta đang cố gắng cho các gia đình rời khói những nơi đó. Trong số này có cả các gia đình bộ
đội không quân chúng tôi. Nếu biết tin gi mới qua các gia đình đó, tôi sẽ gọi dây nói cho chi. Còn việc chị đến đó bây giờ thi không phải lúc rồi.
— Dù sao tôi vẫn cứ rất mong anh giúp đỡ!— Masa vẫn một mực nói.
Pôlưnin bực bội khoanh tay lại trước ngực.
— Này, chị yêu cầu cái gi vậy, nói vô phép chứ chị định đâm đầu vào đâu thế! Tình hình ở Grốmô lúc náy rất hỗn loạn, chị có thể hiểu được điều đó chứ?
— Không.
— Nếu không hiểu thi hãy nghe những người hiểu biết chứ!
Ông sực nhớ rằng vì muốn khuyên chị ta đừng làm những điều dại dột mà mình lại buột miệng hớ ra tình hình hỗn loạn ở Grốtnô trong lúc này: chị ta còn con thơ và mẹ già ở đó kia mà.
— Cố nhiên tình hình ở đó nói chung rồi sẽ sáng sủa hơn, — ông liền chữa lại một cách vụng về. — Và nếu mặt trận đến gần thì tất nhiên việc tản cư eác gia đình sẽ được thu xếp chu đáo. Nếu biết được một chút tin lức gi tôi cũng sẽ gọi dây nói cho chị ngay! Được
chứ?
Ông rất vội và hoàn toàn không thế giấu nổi điều đó.
… Khi về nhà không thấy Masa. Xintxốp không còn biết nghĩ sao nữa. Ít ra thi cùng để lại một mảnh giấy chứ! Anh cảm thấy giọng nói
của Masa qua máy điện thoại có vẻ kỳ lạ, nhưng chị không thể cãi nhau với anh hôm nay khi anh sắp ra đi.
Ở Cục chính trị, người ta không nói gì với anh ngoài những điều mà chính anh cũng đã biết: ở khu vực Grốtnô hiện đang diền ra những trận chiến đấu, còn tòa soạn tờ báo tập đoàn quân của anh có di chuyển địa điểm hay không
thi ngày mai đến Minxk mới có thể biết được.
Trước đây, mối lo âu canh cánh bên lòng về đứa con gái, và tâm trạng hoàn toàn rối bời của Masa đã buộc Xintxốp phải quên bẵng mình đi. Nhưng bây giờ anh lại thấy khiếp sợ nghĩ đến chính bản thân minh, khi nghĩ rằng đó là chiến tranh, rằng chính anh chứ không phải ai khác hôm nay sẽ đi tới nơi mả
cái chết đang chờ đợi.
Anh vừa nghĩ tới đây thì tiếng chuông điện thoại đường đài đã đổ hồi. Anh chạy qua phòng giật lấy ống nghe ra khỏi giá, nhưng điện thoại không phải từ Grốtnô mà là từ Tsita gọi tới.
— Ai đấy? Mẹ phải không?—giọng nói xa lắc xa lơ của Artêmiép vẳng lại qua tiếng lao xao của trăm ngàn giọng nói khác.
— Không, em đây, Xintxốp đây!
— Thế mà tôi cứ tưởng là chú đang chiến đấu rồi cơ đấy. — Hôm nay em đi đây.
— Còn vợ con chú đâu? Mẹ đâu?
Xintxốp kể hết sự tình.
— Ờ, ờ, tình cảnh chỗ chú chẳng vui vẻ gì! — Artêmiép nói giọng khản khàn rất khó nghe ở tít tận đằng kia đường dây dài sáu nghìn dặm. — Dù sao chăng nữa cũng đừng để cho Masa tói đó. Còn tôi
thi ma dắt lối quỷ đưa đường đến tận cái vùng xứ Zabaican này! Thật là như cụt tay.
—Tôi cắt đây ! Tôi cắt đây ! Thì giờ của các anh hết rồi ! — người nữ điện thoại viên gõ vào ống nghe tới tấp như con chim gõ kiến và trong ống nghe tất cả đều im bặt: cả tiếng nói lẫn tiếng lao xao, chi còn là tĩnh lặng.
Masa lặng lẽ bước vào, đầu củi gầm. Xintxốp không hỏi ngay xem chị đi đâu.
anh chờ cho chị tự nói ra, và anh nhìn lên chiếc đồng hồ treo trên tường: chỉ
còn một giờ nữa đã phải lên đường rồi.
Chị bắt gặp đôi mắt của anh, cảm thấy vẻ trách móc, liền nhìn thẳng vào mặt anh và nói:
— Anh đừng giận! Vừa rồi em đi hỏi xem có thể tim cách nào để đi với anh.
— Thế người ta khuyên em như thế nào?
— Họ trả lời rằng lúc này chưa thể được.
— Chao ôi, Masa, Masa! — Xintxốp chỉ nói được với vợ bấy nhiêu lời.
Chị không đáp lại, cố tự chú và cô nén để giọng nói khỏi run. Rút cục chị
cũng đã làm được và trong giờ phút cuối cùng trước khi chia tay, chị có vẻ
gần như bình tĩnh.
Nhưng lúc ra đến ga, dưới ánh đèn ngụy trang xanh lét như trong bệnh viện, chị thấy nét mặt chồng có vẻ ốm yếu và buồn; chị nhớ lại Ở
lời Pôlưmin: «Ở
Grôtnô lúc này rất hỗn loạn...» — chị rùng minh và lật bật nép mình vào áo capốt của anh.
— Em làm sao thế? Em khóc đấy à? — Xintxốp hỏi.
Nhưng chị không khóc. Chỉ vì chị thấy mủi lòng thế thôi, và chị đã nép mình vào chồng như thường tình mỗi khi người ta khóc.
Vì chưa ai quen với chiến tranh, với tình trạng phải che bớt ánh sáng, nên ban đêm ở ga đã diễn ra cảnh xô đẩy và hỗn độn, Xintxốp hỏi thăm mãi mà vẫn chưa biết chuyến tàu Minxk khi nào thì chạy.
Thoạt tiên người ta báo rằng nó đã chạy rồi, đến khi có người nói gần sáng mới chạy, thỉ lập tức lại có tiếng kêu lên rằng năm phút nữa tàu Minxk sẽ
chuyển bánh.
Không hiểu sao những người đi tiễn không được vào ke, thành thử trước cửa liền xảy ra một cuộc chen lấn, và trong cảnh hỗn độn, bị bốn phía xô đẩy, cả
Masa lẫn Xintxốp đểu không kịp ôm hôn nhau lần chót. Một tay kéo Masa lại (vì tay kia đang bận xách vali), tới phút cuối cùng Xintxốp vừa mới ghì chặt mặt vợ vào hai cái móc khóa dây da bát chéo trên ngực đến phát đau, thì đã vội vàng bứt ra và biến vào cửa ga.
Masa chạy vòng qua nhà ga tới một hàng rào chắn song cao gấp hai đầu người ngăn sân ga với ke. Chị không còn hy vọng trông thấy Xintxốp nữa, chỉ mong nhìn xem đoàn tàu của anh rời khỏi ga ra sao. Chị đứng nửa tiếng bên hàng rào mà đoàn tàu vẫn chưa chuyển bánh. Bỗng trong bóng tối, chị
nhận ra Xintxốp từ một toa nọ chui ra để đi sang toa khác.
— Vanhia! Masa gọi nhưng anh không nghe thấy và không ngoảnh lại.
— Vanhia! chị hét to hơn, níu chắt lấy song sắt.
Anh đã nghe thấy tiếng gọi, ngạc nhiên quay lại, ngơ ngác nhìn bốn phía mất mấy giây, và mãi khi chị gọi lần thử ba. anh mới nhận ra và chạy lại chỗ
hàng rào.
— Anh chưa đi à? Khi nào tàu chạy? Có lẽ chưa chạy ngay phải không?
— Anh không rõ, anh nói. — Lúc nào người ta cũng báo là làu sắp chạy.
Anh đặt vali xuống, chia tay ra, và Masa cùng chìa tay cho anh qua hàng rào. Anh hôn hai bàn tay ấy rồi nắm lấy chúng và cứ thế giữ mãi trong suốt thời gian họ đứng bên hàng rào, không buông ra được nữa.
Nửa giờ nữa trôi qua mà đoàn tàu vẫn chưa chuyển bánh.
— Hay là anh cứ đi kiếm chỗ ngồi đi, để đồ đạc lại đấy rồi ra đây? Masa chợt nhớ ra, bảo vậy.
— Ồ, ồ! Xintxốp lắc đầu tỏ vẻ không cần thiết và vẫn không buông tay vợ.
Anh sẽ ngồi trên bậc toa!
Hai ngươi đang bận tâm với phút chia ly đang xích lại gần. chẳng để ý đến những người xung quanh, và họ muốn làm dịu bớt đi nỗi buồn ly biệt bằng những lời lẽ quen thuộc của cái thời bình đã chấm dứt từ ba hỏm nay.
— Anh chắc rằng gia đình ta đều bình yên cả.
— Nhờ trời được như thế!
— Chưa biết chừng anh lại gặp hai bà cháu ở một ga nào đó nữa kia: hai bên đi ngược chiều nhau mà.
— Chao, được thế thì còn nói gì nữa!,,,
— Hễ đến nơi là anh sẽ viết thư cho em ngay.
— Anh sẽ không còn bụng dạ nào mà nghĩ đến em nữa đâu, chỉ cần gửi một bức điện là đủ.
— Không, thế nào anh cũng sẽ viết. Em hãy đợi thư anh. — Nhất định rồi!
— Nhưng cả em cũng phải viết cho anh đấy, được chứ? — Tất nhiên!
Cả hai người đều chưa hiểu rõ ngọn ngành cuộc chiến tranh đã bước sang ngày thứ tư khiến cho Xintxốp phải ra đi là như thế nào. Họ vẫn chưa thể
hình dung được rằng trong một thời gian dài và có thể là mãi mãi không một việc nào trong số những việc họ bàn tính với nhau sẽ còn xảy ra trong đời họ
nữa: dù là thư từ, điên tín, hay hẹn hò.
— Tàu chạy đấy! Ai đi thì lên cho! — có tiếng người nào kêu lên phía sau Xintxốp.
Xintxốp siết chặt đôi tay Masa lần cuối cùng, vớ lấy vali, xoắn chiếc quai xà cột vào tay, chạy theo đoàn tàu vì đoàn tàu đã từ từ chuyển bánh bò đi bên cạnh anh, và nhảy lên bậc toa.
Ngay lập tức có người theo sau Xintxốp nhảy tiếp lên bậc toa, che lấp anh khiến Masa không còn nhìn thấy anh nữa. Đứng ở xa, khi thì Masa tưởng đó là tay anh nắm chiếc mũ kêpi vẫy chị, khi thì chị lại cho đó là tay một người khác, và sau đấy chẳng còn thấy gi nữa.
những toa khác lướt qua; những người khác gào thét điều gì với ai đó. còn chị thi đứng đó một mình, mặt áp
vào chấn song sắt. rồi vội vã cài cúc áo mưa. Vì chị bỗng thấy ngực mình lạnh buốt.
Không hiểu sao đoàn tàu gồm toàn những toa xe chuyên chạy quanh vùng ngoại ô, qua vùng phụ cận Махсơvа và Xmôlenxk, đến ga nào cùng đỗ lại lâu đến bã người. Trong toa Xintxốp ngồi, cũng như trong các toa khác, phần lớn hành khách là các cán bộ chỉ huy và cán bộ chinh trị của Quân khu đặc biệt miền tây đang nghỉ phép nay phải cấp tốc trở về đơn vị. Mãi tới giờ, khi tất cả cùng ngồi trên những toa chuyên chạy quanh vùng ngoại ô này để đi Minxk, họ mới ngạc nhiên nhìn thấy nhau.
Vì đi phép lẻ tẻ nên từng người không hình dung ra là tất cả bọn họ, khi tập hợp lại, thì trông sẽ ra sao. Nhưng, lúc này, đó là cả một thác người lẽ ra phải chỉ huy các đại đội, tiểu đoàn, trung đoàn chiến đấu, vậy mà ngay từ
ngày đầu của cuộc chiến tranh, họ đã bị cắt khỏi các đơn vị chắc là đã bắt đầu tham chiến của mình.
Xintxốp cũng như những người đi phép khách đều không hiểu nổi tại sao lại có thể xảy ra tình trạng này, khi mà hồi tháng tư ai nấy đều đã linh cảm thấy không khí của một cuộc chiến tranh đang nhích lại gần. Trong toa tàu, những cuộc bàn luận về vấn đề đóc chốc chốc lại nổ ra, lặng đi rồi lại ùng lên sôi nổi. Những con người không phạm lỗi gì hết lại cảm thấy minh có tội và phát cáu mỗi khi tàu đỗ lại lâu.
Tàu chạy không có thời gian biểu, mặc dầu suốt ngày đầu tiên trên đường không xáy ra một lần báo động phòng không nào. Chỉ tới đêm hôm đó, khi tàu đỗ ở Orsa, mới thấy các đầu máy xung quanh bắt đầu rống lên và những tấm kính rung chuyến: bọn Đức ném bom nhà ga chuyển hàng Orsa.
Nhưng ngay cả lúc này, khi nghe tiếng bom nổ lần đầu tiên, Xíntxốp vẫn chưa hiểu là đoàn tàu chuyên chạy quanh vùng ngoại ô của họ đang tiến sát sạt tới gần chiến tranh như thế nào. Anh nghĩ thầm: «Hừ, đêm nào mà bọn Đức chả ném bom các đoàn tàu ra mặt trận, cái đó có gi là lạ». Anh cùng với một đại úy pháo binh ngồi đối diện và cũng đang trên đường di về đơn vị
minh đóng ở biên giới, tại Đômatsevô, đều cho là bọn Đức đã cất cánh từ
Varsava hoặc từ Kenhixbe. Nếu người ta bảo họ rằng đây đã là đêm thứ hai bọn Đức cất cánh đến Orsa ngay lừ sân bay quân sự của ta ở Grốtnô, ở ngay cái thành phố Grốtnô mà Xintxốp phải đến để trở về tòa soạn tờ báo của anh, thi hẳn là họ sẽ không sao tin được điều đó!
Nhưng đến hỏm ấy qua đi, và họ buộc phải tin vàọ những sự việc còn tệ hại hơn nhiều. Sáng hôm sau, đoàn tàu lết được đến Bôrixôp, và quân vụ trưởng nhà ga nhăn nhó như bị đau răng, tuyên bố rằng đoàn tàu không thể đi tiếp được nữa: con đường giữa Bôrixốp và Minxk đã bị giội bom và đã bị xe tăng Đức cắt đứt.
Ở Bôrixốp, bụi mù và ngột ngạt: máy bay Đức nhào lộn phía trên thành phố, trên đường bộ đội và xe cộ đi nườm nượp, kẻ xuôi người ngược; người chết nằm trên những chiếc cáng đặt ngay trên đường rải đá gần quân y viện.
Một thượng úy đứng trước trụ sở quân vụ quát tháo một người nào đó, giọng oang oang: «Chôn đại bác đi!» Đó là viên tư lệnh thành phố. Vì không mang theo vũ khí khi đi phép nên Ximtxốp đề nghị phát cho anh một khẩu súng lục. Nhưng tư lệnh trưởng không còn súng: một giờ trước đây, anh ta đã phân phát hết sạch cả kho vũ khí rồi.
Xintxốp cùng viên đại úy pháo binh chiếc xe tải đầu tiên gặp trên đường.
Người lái xe đang rong ruổi khắp thành phố cố tìm ông phụ trách kho của mình đã biến mất đâu không biết. Xintxốp cùng với đại úy lên xe tìm chỉ huy trưởng đơn vị đồn trú. Đại úy không hy vọng trở về trung đoàn mình đóng ở
biên giới nữa, anh muốn được phiên chế vào một đơn vị pháo binh nào đó ngay tại đây. Xintxốp thì hy vọng tìm được Cục chính trị mặt trận, nếu không thể đến được Grốtnô nữa thì người ta cứ việc điều anh tới một tờ báo nào khác của tập đoàn quân hay sư đoàn. Cả hai
đều sẵn sàng đi bất cứ đâu và làm gì cũng được, nghĩa là sớm chấm dứt cái cảnh lang thang màn trời chiếu đất trong chuyến nghỉ phép chết tiệt này. Người ta bảo rằng thủ trưởng đơn vị đồn trú đang ở đầu bên kia thành phố Bôrixốp, trong khu bộ đội.
Ra đến ngoại thành, một máy bay tiêm kích Đức lướt qua trên đầu họ, xả
súng máy xuống. Họ không việc gì, nhưng những mảnh gỗ thùng xe bay tung tóe. Xintxốp hoảng hốt ngã chúi mặt xuống sàn xe sặc mùi xăng. Sau khi định thần lại, anh ngạc nhiên rút ra một cái dằm dài bốn phân đã xuyên qua áo quân phục, cắm phập vào cánh tay anh.
Rồi thấy chiếc xe vận tải gần hết xăng, họ liền cho xe chạy theo đường cái về phía Minxk, đến kho xăng, trước khi đi tìm chỉ huy trưởng đơn vị đồn trú.
Ở đó, họ đã bắt gặp một cảnh tưởng kỳ lạ: trung úy trưởng kho xăng và một chuẩn úy đang chĩa súng lục vào một thiếu tá mặc quân phục công binh.
Trung úy quát ầm lên rằng anh sẽ cho thiếu tá một viên đạn trước khi để
cho ông ta dùng mìn phá kho nhiên liệu. Ông thiếu tá đứng tuổi với tấm huân chương trên ngực hai tay giơ lên trời và người run bắn lên vì tức giận, giải thích rằng ông đến đây không phải để nổ mìn phá kho xăng mà chỉ tìm hiểu là có thể phá nó hay không. Cuối cùng hai khẩu súng đã hạ xuống, thiếu tá giận ứa nước mắt, bắt đầu quát ầm
lên rằng chĩa súng vào một cán bộ chỉ huy cấp trên là một điều sỉ nhục. Xintxốp cũng không kịp biết là cảnh tượng này kết thúc ra sao nữa. Sau khi cau có đứng nghe lời khiển trách thiếu tá, viên trung úy càu nhàu bảo rằng chỉ huy trưởng đơn vị đồn trú đang ở doanh trại trường huấn luyện xe tăng, trong khu rừng cách đây không xa, và thế là Xintxốp đi đến đó.
Ở trường xe tăng, cửa rả toang hoang, vắng tanh vắng ngắt. Trên thao trường chỉ thấy hai chiếc xe tăng loại nhỏ cùng với hai tổ trực chiến. Họ phải ở lại đây cho đến khi có lệnh mới. Nhưng đã hai mươi bốn giờ qua mà chẳng thấy lệnh nào cả. Không ai biết được điều gì rõ ràng. Người thì bảo trường đã di chuyển, kẻ thì nói là trường đã ra trận. Theo tin đồn thì chỉ huy trưởng đơn vị đồn trú của thành phố Bôrixốp đang ở một nơi nào đó trên đường đi Minxk, nhưng không phải ở phía bên này, mà ở phía bên kia Bôrixốp.
Xintxốp và đại úy lại quay về Bôrixốp. Ban quân quản đã chất đồ đạc lên xe.
Tư lệnh trưởng thì thầm, giọn khàn khản bảo rằng đã có lệnh của nguyên soái Timôsenkô cho bỏ Bôrixốp để rút về bên kia sông Bêrêdina, và sẽ chống cự đến giọt máu cuối cùng ở đó, không để cho bọn Đức tiến xa hơn nữa.
Đại úy pháo binh nghi hoặc cho là tư lệnh trưởng tự ý nói bịa. Tuy nhiên, Ban quân quản đang dọn dẹp lên xe, chá nhẽ người ta lại làm việc đó mà không có lệnh của ai cả sao? Họ lại lên chiếc xe tải của mình để đi ra ngoại thành. Người và xe cộ đi lại trên đường làm cho bụi bốc lên mù mịt. Nhưng bây giờ cảnh tượng lại không còn nhớn nhác đi về khắp ngả nữa, mà đều theo một hướng, rời Bôrixốp về phía đông.
Một người tầm vóc cao lớn, đầu không mũ, tay cầm súng lục đứng giữa đám người chen chúc ở lối lên cầu. Anh ta đã nổi khùng lên, vừa chặn người và xe cộ lại vừa gân cổ lên khoác lác rằng anh là chính trị viên Dôtốp, có nhiệm vụ
giữ bộ đội lại đây và sẽ giữ bằng được, anh sẽ bắn chết bất cứ kẻ nào định rút lui.
Nhưng người ta vẫn đi và đi qua ngay trước mặt chính trị viên, người cuốc bộ
kẻ đi xe, và anh đã bỏ mặc số người này nhằm chặn những người sau, anh giắt khẩu súng lục vào thắt lưng, túm lấy ngực một người rồi lại buông ra, sau đó anh lại rút súng ra, quay lại giận dữ túm lấy áo một người khác nhưng đều vô hiệu...
Xintxốp và đại úy dừng xe trong một khoảng rừng thưa ở ven sông Trong rừng lố nhố những người. Người ta báo Xintxốp rằng gần đâu đây có các cán bộ chỉ huy gì đó đang thành lập đơn vị. Quả thực ở cửa rừng, có mấy viên đại tá đang điều hành công việc. Trên ba chục xe tải hạ thành đằng sau, người ta đang lập danh sách để phiên chế thành các đại đội và các đại đội này lập tức xuất phát về hai phía: bên phải và bên trái dọc theo sông Bêrẻdina dưới quyền chỉ huy của các cán bộ được chỉ định ngay tại chỗ.
Những khẩu súng trường chất đống trên các xe vận tải khác đều được đưa ra phân phát cho tất cả những ai xin ghi tên mà không có vũ khi. Xintxốp cũng xin ghi tên: anh nhận được một khẩu súng trường có cắm sẵn lưỡi lê nhưng lại không có quai đeo, nên cứ phải giữ suốt trong tay.
Trong số các đại tá chỉ huy ở đây có một đại tá xe tăng hói trán, đeo huân chương Lênin, là người đã đi cùng toa vởi Xintxốp từ Maxcơva tới đây. Sau khi xem giấy phép và giấy chứng minh của anh. ông khoát tay vé độc đoán như muốn nói rằng vào lúc này mà báo với chí quái gì, nhưng ngay sau đó ông lại hạ lệnh cho Xintxốp không được đi đâu xa, vì với người trí thức như
anh thì sẽ có lúc cần đến. «Một người tri thức như anh», quả là đại tá đã nói năng kỳ lạ như vậy đấy. Mãi hôm sau, Xintxốp mới rõ ý nghĩa câu nói này của ông. Sau khi đứng quanh quẩn tại đó một lát, anh lánh đi, và ngồi cách đại tá một trăm bước, cạnh chiếc xe tải ba tấn của mình.
Một giờ sau, người đại úy pháo binh chạy đến xe, lôi ba tô ra khỏi buồng lái và chạy biến mất sau khi đã sung sướng kêu lên với Xintxốp rằng anh đã gặp may là tạm được giao nhiệm vụ chỉ huy hai khẩu pháo. Xintxốp chẳng bao giờ gặp lại anh ta nữa.
Trong rừng, người vẫn đông nghìn nghịt, và dù họ đã được lệnh triển khai về
các ngả bao nhiêu đi nữa, thì ở đây dường như cũng sẽ chẳng bao giờ vợi bớt người.
Một giờ nữa trôi qua và những chiếc máy bay tiêm kích Đức đã bắt đầu xuất hiện trên khoảng rừng thông thưa thớt này. Cứ nửa giờ, Xintxốp lại phải bổ
nhào xuống đất nép đầu vào thân một cây thông mảnh khảnh có chòm lá lơ
thơ đu đưa cao tít trên trời. Hễ máy bay đến oanh kích là tất cả khu rừng lại bắt đầu bắn lên trời. Người đứng bắn. kẻ quỳ bắn, nằm bắn, thôi thi đủ, súng trường, súng máy, súng lục.
Nhung máy bay vẫn cứ bay qua bay lại mãi. và đó toàn 1à máy bay Đức.
«Thế máy bay ta đâu cả rồi nhỉ?» — Xintxốp chua chát tự hòi mình, như tất cả mọi người xung quanh anh: người thì nói ra miệng, kẻ thì tự nhủ thầm.
Mãi gần tối. một tốp ba máy bay tiêm kích của ta với những ngôi sao đỏ trên cánh mới bay qua khu rừng. Hàng trăm người nháy chồm lên reo hò, vẫy tay vui sướng. Nhưng chỉ một phút sau ba con «diều hâu» đã quay lại xả súng máy xuống.
Một cán bộ hậu cần có tuổi đứng bên cạnh Xintxốp bỏ mũ kêpi ra che nắng đế ngấm máy bay của ta cho rõ hơn đã ngã gục chết tươi. Cạnh đó, một chiến sĩ vừa bị thương, ngồi bệt trên mặt đất, cứ cúi gập người xuống rồi lại ưỡn người lên, hai tay ôm bụng. Nhưng đến
lúc này, người ta vẫn cho đó là một sự tinh cờ, một sự nhầm lẫn, và mãi khi chính những chiếc máy bay ấy bay sát trên ngọn cây lần thứ ba, người ta mới xả súng vào chúng. Chúng bay thấp đến nỗi một chiếc đã bị sủng máy bắn rơi. Nó đâm sẩm vào cây, vỡ
tan ra từng mảnh, rơi cách Xintxốp chi có một trăm thước. Xác tên phi công mặc quân phục Đức mắc giữa những mảnh vụn của buồng lái. Và tuy thoạt tiên toàn thể khu rừng ai nấy đều hân hoan trước chiến thắng: «Rút cục, chúng ta đã hạ được chúng!», nhưng rồi khi nghĩ rằng bọn Đức đã cướp được máy bay của ta ở đâu đó, thì mọi người lại thấy hoảng sợ.
Cuối cùng bóng tối mà mọi người đang mong ngóng cũng đã đến. Người lái xe tái thân ái chia sẻ với Xintxốp những miếng bíchcốt và lôi từ dưới ghế
ngồi ra một chai nước ngọt dịu mua ở Bôrixốp. Tuy con sông cách đây không quá năm trăm thước, nhưng sau một ngày đầy lo âu xúc động, cả Xintxốp cũng như người lái xe không ai còn đủ sức mò tới đó nữa. Cùng nhau uống nước ngọt xong, người lái xe nằm trong buồng lái thò chân ra ngoài, còn Xintxốp thi nằm kềnh trên mặt đất ghếch chiếc túi dết vào bánh xe để gối đầu; mặc dù trong lòng sợ hãi và hoang mang, anh vẫn một mực nghĩ rằng:
không, không thể thế được. Những gì anh đã trông thấy ở đây không thế xáy ra ở khắp mọi nơi được!
Anh ngủ thiếp đi với ý nghĩ đó, nhưng rồi một tiếng súng nổ sát bên tai làm anh tỉnh giấc. Một người náo đó đang ngồi trên mặt đất cách anh hai thước, giơ súng lục bắn lên trời. Trong rừng bom nổ và đằng xa thấy có ánh lửa bom đỏ rực; khắp rừng xe cộ gầm rủ và chuyển động trong bóng tối, húc cả
vào nhau và húc cả vào cây.
Người lái xe cũng vùng dậy cho xe chạy, nhưng Xintxốp lập tức ra lệnh hãy đợi cho hết cơn hoảng loạn đã, và đây cũng mới lả lần đầu tiên trong suốt ngày qua, anh hành động theo tác phong quân sự.
Mất một giờ sau, khi tất cả đã lặng im, cả người lẫn xe cộ đều biến mất, anh mới trèo lên ngồí cạnh người lái xe và bắt đầu tim đường ra khỏi khu rừng.
Ra tới cửa rừng, Xintxốp nhận thấy ở phía trước có một tốp người in hình trên nền ánh lửa thành những bóng đen. Anh báo dừng xe lại và cầm súng tiến về phía họ. Hai quân nhân đứng bên vệ đường đang giữ một người mặc thường phục lại, để đòi xét giấy tờ.
— Tôi không có giấy! Không có đâu!
— Sao lại không? — một quân nhân khăng khăng đòi.— Hãy xuất trình giấy tờ ra đây!
— Xuất trình giấy tờ cho các anh hả? — người mặc thường phục la lên, giọng run run, dữ dội. — Nhưng các anh cần giấy tờ làm cái thá gì chứ? Các anh cho tôi là hạng người thế nào? Là Hítle hả? Lúc nào cũng đòi bắt Hítie! Bắt thế quái nào được nó kia chứ!
Người lính vừa đòi xuất trình giấy liền đưa tay rút súng.
— Này, có đủ can đảm thì cứ việc bắn đi!—người mặc thường phục hét lên một câu thách đố vô vọng.
Chắc gì người đó đã phải là một tên biệt kích, có chăng anh ta chỉ là một người được động viên, đã phát khùng lên, vì đi tim mãi trạm tuyển binh của mình mà chẳng thấy. Tuy vậy, đối với những người cũng đã phát điên lên. vì phải chịu đựng nhiều nỗi khổ sở thì anh ta không nên quát tháo, cùng chẳng
nên nói tới Hitle làm gì...
Nhưng tất cả điều đó sau này Xintxốp mới nghĩ tới, còn lúc ấy anh có kịp nghĩ gì đâu: một chiếc pháo sáng trắng lóa cháy trên đầu họ. Xintxốp bổ
nhào xuống, và khi đã nằm xuống rồi, anh mới nghe thấy tiếng bom nổ. Anh chờ một phút rồi đứng dậy thi đã thấy ba cái xác méo mó
nằm cách anh có hai chục bước; chiếc pháo sáng còn cháy thêm vài giây nữa như muốn bắt anh nhớ mãi cánh tượng này, rồi sau khi vạch thành một vệt sáng ngắn trên nền trời, nó mới rơi mất tăm xuống một nơi nào đó.
Khi quay lại xe, Xintxốp thấy người lái đã rúc đầu dưới gầm máy, hai chân thò ra ngoài gầm xe. Cả hai người lại chui vào buồng lái và đi thêm vài cây số nữa về phía đông, lúc đầu đi trên đường cái, sau đó thì đi theo đường rừng, Xintxốp mới biết rằng hồi đêm đã có lệnh cho rút khỏi khu rừng mà họ
đã trú hôm qua, rời về một phòng tuyến mới, ở phía sau, cách đó bảy cây số.
Để cho chiếc xe chạy không đèn khỏi đâm vào cây, Xintxốp ra khòi buồng lải và đi bộ ở phía trước. Giá có ai hổi anh cần chiếc xe đó làm gì và tại sao anh lại cứ đeo đẳng nó thì anh cũng chả biết trả lời thế nào cho rõ ràng, câu chuyện chẳng qua chỉ là thế này thôi: người lái xe bị lạc mất đơn vị và đã quen với Xintxốp nên không muốn rời anh ra, còn Xintxốp không về được tới đơn vị thi cũng mừng vì nhờ chiếc xe đó mà ít ra là có một người luôn luôn gắn bỏ với mình.
Mãi đến lúc rạng đông, sau khi dừng xe lại trong một khu rùng khác — ở đây hầu như dưới gốc cây nào cũng có xe tải đỗ, còn người thì đào giao thông hào và đắp công sự— cuối cùng Xintxốp đã tìm được cấp chỉ huy. Đó là một buổi sáng u ám và mát mè. Trước mặt Xintxốp là một người tương đối trẻ
đứng trên con đường mòn, râu ông ta có lẽ đã ba ngày chưa cạo, đầu đội chiếc mũ calô kéo sụp xuống đến tận mắt, mặc áo quân phục đính phù hiệu hình quả trám, trên vai khoác chiếc capốt Hồng quân và không hiểu sao tay lại cẩm xẻng. Ngurời ta bảo Xintxốp rằng hình như đó là chi huy trưởng đơn vị đồn trú của thành phố Bôrixốp.
Xintxốp đến gần ông ta, đưa lay lên chào theo đúng điều lệnh và đề nghị
đồng chí chinh úy lữ đoàn cho biết anh, chính tri viên Xintxốp, có thể được bổ nhiệm theo chức vụ phóng viên quân đội hay không, và nếu không thì
chính ủy sẽ ra lệnh thế nào. Chính ủy đưa cặp mắt thẫn thờ thoạt tiên nhìn vào giấy tờ của anh. Rồi nhìn anh và nói buồn bã, hững hờ:
— Dễ thường đồng chí không thấy tình hình công việc ra sao à? Đồng chí nói đến tờ báo nào vậy ? Lúc này mà báo với chí gì ở đây?!
Ông ta nói với một giọng mà Xintxốp cảm thấy như mình có lỗi.
— Đồng chí phải đến bộ tham mưu, hay đúng hơn là đến Cục chính trị mặt trận, ở đó người ta sẽ cho đồng chí biết nên đến trinh diện ở đâu, — chính ủy lữ đoàn nói sau một lát im lặng.
— Nhưng bộ tham mưu và Cục chính trị ở đâu ạ?— Xintxốp hỏi, lòng đầy hy vọng.
Nhưng chính ủy lữ đoàn chỉ nhún vai, rồi quay sang nói chuyện với những người khác.
Xintxốp bỏ đi và chưa kịp suy nghĩ xem sau đó nên lảm gì, thi lại đụng phải ông đại tá xe tăng quen biết.
—Tôi tim anh mãi! Anh đi lang thang tận đâu thế?—đại tá nghiêm giọng kêu lên. — Anh có trông thấy gi đằng kia không? —ông trỏ một đám người ngồi trên hai cây thông đã bị đổ. —Chúng tôi đã thành lập một tòa án bộ ba lâm thời. Anh đã từng làm thư ký tỏa soạn, vậy anh hãy đến giúp họ ghi biên bán đi!
Ngồi trên những cây thông đổ là một luật gia quân pháp bậc hai tóc đen, một chính trị viên tóc vàng hoe mang phù hiệu không quân, một thiếu tá bộ
đội thuộc Bộ dân ủy nội vụ mang phù hiệu đỏ sẫm và bốn chiến sĩ Hồng quân thuộc quyền chỉ huy của họ, cả bảy người đều đang ngồi nghỉ, mấy chiếc xẻng vứt lăn lóc dưới chân và cạnh đó là hai đường hào tránh máy bay đang đào dở. Xintxốp tự giới thiệu.
— Có sổ tay chứ?—Viên luật gia quân pháp hỏi.
— Có.
— Được. Bây giờ chúng ta sẽ đào nốt hào tránh bom và sau đó sẽ bắt tay
làm việc, — viên luật gia nói.
Một giờ sau. họ đã đào xong hào. Xintxốp ngồi trên mặt đất, hai chân bỏ
thõng xuống hào. Vì mệt mỏi và đói, nên anh thây buồn ngủ, và chính anh cũng không biết là mình đã ngủ gật từ lúc nào.
Thoạt tiên anh mơ thấy khu vườn, thấy Masa mặc quân phục, mang phù hiệu luật gia quân pháp đang đi trong vườn rồi anh mơ thấy căn nhà ở phố
Uxatsépka, thấy một người, với bộ mặt của Hítle và với giọng nói của người mặc thường phục bị chết bom hôm qua bước vảo nhà, hắn hỏi có gì ăn không. Xintxốp liền sờ vào sườn tìm khẩu súng lục đế bắn hắn nhưng không thấy...
Anh tỉnh dậy vì có người nào đẩy anh xuống hào và ngã đè lên trên. Hào đào thật kịp thời, máy bay lượn cao tít trên ngọn thông và trút bom xuống khu rừng.
Vì mệt, vì đói, và vì hầu như đã ba ngày đêm không ngủ nên suốt ngày hôm đó, Xintxốp đã mê muội như lạc giữa đám sương mù. Khi thi anh bò xuống hào chờ cho ngớt trận bom và đói lúc ngủ thiếp đi luôn dưới đó, khi thì anh trèo lên ngồi buông thõng chân xuống hào để sưởi nắng, và cũng lại ngủ
thiếp đi luôn, khi thì anh đặt cuốn sổ tay lên đùi. lập biên bán, khó nhọc ghi từng chữ một trong lúc viên luật gia quân pháp, chính trị viên trưởng cùng thiếu tá hỏi cung những người bị giải tới.
— Viết ngăn ngắn thôi, ngắn gọn, chi viết điểm chính!— lần nào viên luật gia quản pháp cũng báo thế.
Nhưng cái điểm chinh là hầu hết những người bị giữ nào có phải lả biệt kích, gián điệp hay đào ngũ gi đâu, chẳng qua họ cũng là những người đi lại lung tung, tìm kiếm một người hoặc một vật gi đó, mà không tìm thấy vì tất cả
đã bị xê dịch và xáo trộn lẻn hết cả rồi. Sa vào lưới đạn với mưa bom, tai nghe rặt những chuyện khủng khiếp về quân nháy dù và xe tăng Đức, một số người trong bọn họ, vì sợ bị bắt làm tù binh, nên đã chôn vùi và đôi khi đã xé sạch cả giấy tờ.
Lấy khẩu cung xong, thường thường người ta cũng thả họ ra, rồi chi đường đại khái cho một số người, số còn lại thì tự tim lấy đường mà đi, vì chính
những người này cũng chẳng biết gi mà nói cả. Nhiều người trong số được thả không muôn đi tiếp nữa, họ sợ rằng đến chỗ khác lại bị giữ và lại bị tinh nghi là đào ngũ nữa cũng nên.
Có hai tên đặc biệt khả nghi, chúng mặc quân phục nhưng không cỏ một thứ
giấy tờ nào cả, và lời khai của chúng cũng chẳng làm ai tin được chúng là ai, đi đâu và từ đâu tới, nên đã bị coi là biệt kích và bị tuyên án tử hình. Những người áp giải đã đem chúng ra bắn ở cửa rừng, về sau có người kể lại rằng một tên khóc lóc và xin đợi cho một lát, cam đoan sẽ trinh bày hết, còn tên thứ hai lúc đầu cũng xin hoãn lại, nhưng đến phút cuối cùng, khi đã đứng trước họng súng, lại mở miệng hô: «Hailơ Hítle!»
Trong số những người bị bắt giữ hôm đó còn có một người điên, một chiến sĩ
Hồng quân trẻ, chân tay như hộ pháp, nhưng cái đầu húi cua lại bé như đầu trẻ con gắn vào một cái cố trẻ con dài ngoẵng. Không chịu đựng nổi những trận bom, anh ta cứ tưởng mình bị bọn phát xít đội lốt Hông quân bắt làm tù binh, bèn nhảy ra giữa đường vẫy tay kêu gọi lũ máy bay Đức đang lướt qua trên đầu:
— Bắn đi! Bắn đi!
Trong khối óc điên dại của anh, tất cả đều bị đảo lộn cả rồi: những người xung quanh anh hóa ra bọn Đức, còn máy bay Đức lại thành máy bay ta.
Chật vật lắm mới bẻ quặt được tay anh ta lại.
Anh đứng đó, mặt tái nhợt, run lẩy bẩy, hết nhìn trừng trừng vào luật gia quân pháp lại nhìn Xintxốp, rồi quát:
— Lũ phát xít, chúng mày cải trang hả? Dù sao tao cũng cứ nhận ra chúng mày! Chúng mày cải trang đế làm gi?!
Mọi cố gắng khuyên giải đế anh hiểu rằng anh đang đứng giữa quân ta, đều vô ích, càng thuyết phục, ngọn lửa điên khủng càng rực chảy trong đôi mắt anh.
Bỗng anh đảo mắt nhìn quanh, rồi vùng ra được, đâm bổ sang bên cạnh vớ
lấy khẩu sủng trường của Xintxốp dựng ở gốc cây, nhảy ba bước rõ dài vọt ra giữa đường.
— Chạy đi ! — anh thét lên bằng cái giọng lanh lảnh thất thanh của kẻ mất trí, thét to đến nỗi mọi người quanh đấy đều nghe thấy tiếng rủ man rợ ấy.—
Trốn đi! Bọn phát xít bao vây chúng ta rồi! Trốn di! — khi thì cúi lom khom, khi thì vươn thẳng mình, anh vừa nhảy choi choi trên đường vừa khoa khẩu súng trường lên.
Thấy có kẻ nhảy cẫng trên đường và kêu lên những lời khủng khiếp hoang mang như vậy, một người nào đó không cẩn suy nghĩ lôi thôi đã liên tiếp bắn mấy phát súng lục vào anh chàng điên này nhưng không trúng. Rồi một người nổ súng cùng lại trượt nốt.
Xintxốp hiểu rằng nhất định người ta sẽ giết chết anh lính đó ngay tức khắc, anh ta không thể không bị giết khi đã kêu lên những lời hoang mang kinh khủng như vậy. Quyết cứu anh ta và không nghĩ ngợi gỉ khác trong giây phút ấy Xintxốp bèn nhảy xổ tới người chiến sĩ điên dại này. Nhưng nhác thấy Xintxốp chạy tới, người đó quay ngay lại. nắm chắc khẩu súng trường và xông về phía anh. Xintxốp thấy cặp mắt điên dại long lên vì căm hờn của anh ta đã ở ngay sát trước mặt, liền nhảy tạt sang một bên làm cho nhát lưỡi lẽ đâm trượt, rồi đưa cả hai tay ra nắm lấy khẩu súng: tay phải nắm báng, tay trái nắm nòng. Lúc này không ai dám bắn nữa vì sợ trúng phải Xintxốp và anh với người chiến sĩ mất trí cứ lồng lộn giằng giật khẩu súng trong suốt mấy giây. Trong cuộc giằng co đó, dần dần Xintxốp nắm chắc được báng súng bằng cả hai tay, còn người kia lúc ấy chỉ còn níu được cái nòng. Xintxốp gắng hết sức bình sinh, giằng lấy khẩu súng về phía mình và chưa hiểu ngay được việc gì đã xảy ra: anh chỉ thấy người chiến sĩ nọ buông tay ra, quờ quạng trong không khí tựa hồ như muốn ôm lấy đầu, nhưng chưa sờ tay được tới mặt thì đã ngã sấp xuống lòng đường.
Mãi khi anh ta ngã xuống, Xintxốp mới hiểu rằng tiếng súng mà anh đã nghe thấy một giây trước đấy, chính là của anh chứ không phải của ai khác. Khi giật khẩu súng, anh đã chạm vào cò và bây giờ người bị anh bắn chết đang nằm dưới chân anh, trên mặt đường.
«Đúng là chết rồi, chứ không phải chỉ bị thương», — anh đã nghĩ như vậy trước khi quẳng khẩu súng đi và ngồi thụp xuồng bên xác chết. Người chiến sĩ này nằm sấp, cái đầu trẻ con húi cua ngoẹo đi nom vụng về và thảm hại.
Máu chảy qua cổ xuông mặt đất đẩy bụi. Viên đạn trúng ngay vào yết hầu ở
cổ họng.
- Suýt nữa thi hắn làm loạn hết, đồ khốn kiếp! - một đại úy cao lớn có bộ
râu xồm không cạo, vừa nói vừa dừng lại bên xác chết. Tay anh ta cầm một
khẩu súng lục, chính anh ta đã bắn trước tiên - Một thằng gieo hoang mang, một thằng khốn kiếp! — đại ủy nhắc lại. — Chó thì lại chết như chó!
Nhưng dù anh ta có nói cục cần và quả quyết thế nào thi chính cặp mắt anh ta mói là cặp mắt chó má và đầy tội lỗi. Hình như anh ta muốn dùng cái giọng cục cằn để thuyết phục mình và những ngươi xung quanh rằng việc anh ta bắn vào người chiến sĩ kia là đúng.
Xintxốp thì như kẻ mất hổn. Cái việc đầu tiên anh làm trong chiến tranh là đã giết một người minh. Muốn cứu anh ta mà hóa ra giết anh ta!... Còn gì vô tích sự và khủng khiếp hơn thế nữa kia chứ?!
Thế là suốt ngày hôm đó anh không biết được tường tận những gì đã xáy ra xung quanh. Khi thì người ta báo rằng Minxk vẫn còn trong tay quân ta, khi thì ngược lại, người ta báo rằng cả Bôrixốp cũng bị bọn Đức chiếm mất rồi; đến gần tối, người ta bắt đầu khảo nhau rằng đã chặn đứng được chiến xa Đức ở một nơi nào đó cách đây bảy cây số. Quả thực phía trước đã vang lên tiếng dại bác dổn dập không gần hơn mà cũng chẳng lùi xa hơn... Tất cả
những tin tức rời rạc đó đến với Xintxốp tựa như qua lớp sương mù, xen kẽ
giữa những trận bom, những ý nghĩ nặng nề về vụ giết người vừa phạm phải và những cuộc hỏi cung mới.
Khi mặt trời sắp lặn, một chiến sĩ đến báo với Xintxốp rằng đại tá cho gọi anh.
Đại tá xe tăng đã điều khiển tất cả mọi người chỉ bởi lẽ ông là một người cương nghị nhất trong số những người có mặt ở đây. Ông
đang đứng ở cửa rừng, cạnh một chiếc lều vải ngụy trang bằng cành cây. Chính lúc ấy, hai chiến sĩ thông tin đang mắc dây máy điện thoại dã chiến đến chìếc lều này.
Bên cạnh đại tá là một chính ủy tiểu đoàn mặc quân phục bộ đội biên phòng.
— Anh có hỏi về Cục chinh trị mặt trận, — Xintxốp vừa dừng lại trước mặt hai người thi đại tá đã nói luôn với anh. không cần mào đầu gì cá. Đây, đồng chí này biết Cục chính trị mặt trận đấy— ông chi vào người sĩ quan biên phòng. — Đâu như ở gần Môghilép đấy. Đồng chí ấy sẽ lên đó và có thể đưa đồng chí đi theo đến đấy.
Người sĩ quan biên phòng lặng lẽ gật đầu.
— Ngay bây giờ, tôi chỉ đi lấy ít đồ là xong! Đồng chí chờ cho ba phút có được không?
Người sĩ quan biên phòng lại gật đầu và nhìn đồng hồ tay.
— Tôi sẽ lấy rất nhanh! — Xintxốp chạy vội tới chiếc xe tải để lấy chiếc vali trong thùng xe.
Nhưng chiếc xe tải không còn ở chỗ cũ nữa. Sau một hồi lùng xục làm như
chiếc xe đã biến mất ấy lại có thể từ dưới đất mọc lên, Xintxốp sực nhớ ra rằng người ta đang đợi anh, liền khoát tay và chạy trở lại.
Người sĩ quan biên phòng vẫn đứng cạnh lều, chân cứ nhấp nhổm, vẻ sốt ruột.
— Thế đồ đạc của anh đâu? — ông ta hỏi.
— Để trong xe, nhưng xe đã chạy đừng nào chẳng biết nữa… — Xintxốp nói.
— Đành cứ vậy mà đi thôi.
Anh còn lấy làm mừng được một điều là một giờ trước đây, khi trời đổ tối, đã lấy được ở tấm áo capốt ở xe ra mà khoác lên vai.
— Phải, — người sĩ quan biên phòng nói là lấy tay vỗ vào chiếc túi dết lép kẹp của mình. — Tất cả đồ đạc của tôi cũng chỉ có thể này thôi, đến capốt cũng cháy ở trong xe mất rồi.
Lẽ ra anh có thể nói với Xintxốp rằng anh đã trắng tay: ngôi nhà anh ở đã bị
thiêu hủy, gia đình anh đã chết hết, nhưng anh chỉ vẻn vẹn nhắc đến chiếc áo capốt đã cháy, rồi bảo:
— Ta đi tôi.
Qua hai cây số đường rừng, họ gặp con đường cái đi Minxk. Xintxốp vẫn hy vọng là hai người sẽ dừng chận cạnh một trong những chiếc xe đang ẩn náu dưới gốc cây để rồi lên xe đi; anh đã bỏ ngoài tai câu chuyện của chính ủy tiểu đoàn về tấm áo capốt bị cháy trong xe. Mãi tới khi họ đang trên con đường đi Minxk, chốc chốc lại có những chiếc xe tải phóng vút qua, và khi người sĩ quan biên phòng nói: «Bây giờ chúng ta sẽ xin đi nhờ xe tới Orsa», Xintxốp mới hiểu rằng chính ủy chẳng có xe cộ gì, và họ sẽ lần mò tới đích
bằng cách ngồi nhờ xe gặp trên đường mà thôi.
— Anh hãy đi vượt lên phía trước hai trăm bước, còn tôi sẽ đứng lại đây, —
người sĩ quan biên phòng nói. — Nếu tôi không vẫy xe lại được thì đến lượt anh vẫy nó nhé!
Cách xa hai trăm bước, Xintxốp trông thấy rõ là chính ủy đã nhiều lần định vẫy xe lại. Cả Xintxốp cũng giơ tay lên, nhưng các xe cứ phóng như bay.
Cuối cùng anh thấy người sĩ quan biên phòng vẫy được một chiếc xe tải và mở cửa buồn lái, nói gì với những người ngồi trong xe.
Xintxốp vội rời khỏi chỗ, chạy tới chiếc xe. Ngay luc đó vang lên tiếng rú của một chiếc máy bay đang bổ nhào. Theo thói quen, Xintxốp lao mình xuống đất, vừa kịp ngửi thấy mùi nhựa đường cháy khét lẹt. Nằm trong mấy giây, ngoái đầu lại thì đã thấy trên đường không còn chiếc xe tải mà cũng chẳng còn người sĩ quan biên phòng đứng bên xe nữa. Quả bom đã rơi trúng vào chiếc xe, cái hố bom đang bốc khói nghi ngút trên mặt đường nhựa, xung quanh chỏng chơ những mảnh sắt cong queo và một chiếc bánh xe văng ra vẫn lăn trên đường về phía Xintxốp. Nó lăn thêm vài vòng nữa tựa hồ như
muốn chạy đến tận chỗ chân anh rồi lảo đảo đổ xuống, tiếng sắt va vào mặt đường nhựa kêu loảng xoảng.
Xintxốp đứng một mình trên con đường đi Minxk, trước mặt anh xe cộ cứ
vùn vụt phóng qua, anh thấy buồn, nhưng không sao gào thét hoặc òa khóc lên được, chỉ vì anh đã mệt mỏi quá mức chịu đựng của con người.
Lợi dụng lúc trời còn sáng đi thêm vài cây số nữa, rồi đêm đó Xintxốp đã đặt chiếc calô dưới đầu làm gối, kéo cổ áo capốt lên che mặt và ngủ trong cái rãnh bên đường như hàng ngàn người khác. Anh ngủ như chết mấy giờ liền không ghe thấy cả tiếng gầm rú của xe cộ phóng trên đường, cũng như tiếng ầm ầm của trận bom đêm và chỉ bừng tỉnh dậy vì có người đến lật cổ áo capốt, đưa tay sờ lên mặt anh.
— Không, chú này còn sống, — có tiếng người nói.
Xintxốp mở mắt ra và ngồi dậy. Đức trước mặt anh là hai chú bé tuổi chừng mười sáu, mặc những tấm áo capốt sạch sẽ của trường pháo binh với những khẩu pháo màu vàng nho nhỏ bắt chép nhau trên những chiếc phù hiệu nơi cổ áo. Chắc là cũng như Xintxốp, đã lâu rồi các chú chưa được ăn uống gì:
những khuôn mặt trẻ con của các chú gầy xọp đi, đôi mắt thì đầy vẻ mệt mỏi. Ca hai đều giống những con chim non đã bị hất thẳng từ trên tổ ấm xuống mặt đường.
— Gì thế, các em? — Xintxốp vừa hỏi vừa đứng dậy. — Các em đi đâu thế?
Hai chú bé bảo rằng các chú đi Xmôlenxk để chuẩn bị cho đại hội thể thao mùa hè và bây giờ trở về trường của các chú ở Bôrixốp.
— Thế trường ở đâu? — Xintxốp hỏi. — Ngay tại Bôrixốp à?
Các chú bảo rằng không phải, còn xa hơn nữa kia, quá mười sáu cây số về
phía Minxk.
— Theo anh thì bây giờ ở đó có bọn Đức. Hôm qua anh đã ở đó.
Hai chú bé ngờ vực nhìn anh, rồi một chú quay nhìn đi chỗ khác. Xintxốp ngó theo mắt nó và thấy ngay mấy xác chết nằm lăn lóc bên vệ đường cách đó hai trăm thước. Giữa đường là một hố bom, một chiếc xe đi về phía đông lúc ấy đang lượn vòng để tránh. Hôm qua, khi anh bắt đầu ngủ thiếp đi, không thấy ai nằm ở đấy cả, thế nghĩa là hồi đêm một quả bom đã rơi xuống sát bên anh, giết chết mất mấy người mà anh vẫn không hề tỉnh giấc.
— Chúng em tưởng rằng anh cũng chết rồi, — một chú bé nói, — Chúng ta đi đâu bây giờ?
— Dù sao thì chúng mình cũng trở về trường, — cậu kia nói. — Lẽ nào bọn Đức đã đến đấy được.
Thế là Xintxốp không sao can nổi hai đứa bé. Chúng không tin anh, nhưng chúng lại thấy rất hớn hở khi Xintxốp lần tìm trong túi capốt lấy ra một hộp thức ăn mà người luật gia quân pháp mới cho chiều qua và mời hai chú bé cùng ăn trước khi lên đường. Đó là hộp cá mòi, và cả ba cùng nhau ăn vã không bánh mì và không nước uống.
Các chú lên đường. Xintxốp còn đứng hồi lâu, lo lắng nhìn theo hai đứa trẻ.
Rồi anh rũ áo capốt, phủi mũ calô và theo đường Minxk đi về hướng đông,
tiến tới Orsa.
Vào những ngày ấy, đã mấy ai đi trên con đường này mà không phải rẽ vào rừng, lăn mình dưới những hố rãnh bên đường để tránh bom, để rồi lại đứng dậy và lại lê đôi chân mệt mỏi đo bước trên đường dài! Đông nhất là những người Do Thái từ Xtônbtsư, từ Baranôvitsi, từ Môlôđênô, từ các thành phố
nhỏ và các thị trấn khác thuộc miền tây Bêlôruxia chạy loạn ùn ùn kéo qua đây. Bây giờ mới là ngày thứ tám có chiến tranh mà họ đã vượt khỏi Bôrixốp rồi, và như vậy là họ đã lên đường từ lâu, ngay từ ngày đầu tiên… Hàng ngàn con người ngồi trên những chiếc xe bò, xe ngựa, xe thổ mộ đủ kiểu kỳ
quái; đó là những cụ già râu rậm với những mái tóc mai dài lòa xòa, đầu đội những chiếc mũ quả dưa của thế kỷ trước; đó là những người đàn bà Do Thái hốc hác, già trước tuổi; đó là những trẻ em — mỗi xe chở sáu — tám — mười đứa trẻ, da ngăm đen, nhem nhuốc, với những cặp mắt nhớn nhác sợ sệt.
Nhưng số người cuốc bộ bên các cỗ xe lại còn đông hơn.
Đặc biệt kỳ dị là giữa đám bà già, ông già và trẻ con rách rưới này, đôi khi trên đường người ta còn thấy những phụ nữ trẻ khoác những chiếc áo măng tô hợp thời trang đã trở nên tang thương và lấm láp sau mấy ngày đi đường, với những bộ tóc tân thời xệch xoạc và bụi bặm, trên tay họ xách những bọc lớn, bọc nhỏ đủ loại; những ngón tay họ co quắp, run rẩy vì mệt và đói.
Tất cả dòng người đó đổ về phía đông, còn đi hai bên vệ đường, ngược chiều từ hướng đông đến là những chàng trai mặc thường
phục với những chiếc nhòm nhỏ bằng gỗ dán, những chiếc vali bằng vải giả da, những chiếc balô.
Đó là những người mới được động viên đang vội vàng đến các trạm tuyển binh đã quy định, không muốn người ta coi mình là những kẻ đào ngũ, đang đi vào chỗ chết, tiến về phía bọn Đức. Lòng tin và nghĩa vụ thúc đẩy họ tiến lên: họ không cho biết đích xác là bọn Đức đang ở đâu và không tin rằng bọn Đức lại có thể đã đến sát nách, trước khi họ kịp khoác bộ quân phục và cầm lấy vũ khí… Đó là một trong những thảm kịch bi đát nhất của những ngày này — tấn thảm kịch của những người chưa kịp tới các trạm tuyển binh đã chết gục dưới bom đạn trên các ngả đường và đã bị bắt làm tù binh.
Nhưng những dải rừng và những lùm cây thanh bình vẫn trải dài hai bên đường. Ngày hôm đó, một cánh tượng đơn sơ đã khắc sâu vào trí nhớ
Xintxốp. Lúc gần tối, anh trông thấy một thôn nhỏ, hiện ra trên một quả đồi thấp; những khu vườn xanh sẫm nhuộm ánh hoàng hôn đỏ ối, khóí tỏa trên mái nhà gianh và những đứa trẻ men theo đỉnh đồi lùa ngựa đi ăn đêm, in
hình trên ráng chiều tà. Nghĩa trang của thôn chạy xuống tận sát đường cái.
Thôn thì nhỏ mà nghĩa trang thi rộng. Cả một quả đồi phủ kín những cây thập tự gẫy nát, xiêu vẹo. cũ kỹ, dãi dầu mưa tuyết, cả cái thôn bé nhỏ ấy, cả cái nghĩa trang lớn ấy, cả tình trạng không tương xứng giữa cái nọ với cái kia, tất cả gộp lại đã làm cho Xintxốp thấy nao nao trong lòng. Cái cảm giác xót xa đau đớn thấy mảnh đất quê hương đã bị gót giày quân Đức giày xéo ở
nơi nào đằng sau lưng và ngày mai cả nơi này cũng có thể bị mất nốt, cảm giác ấy khiến lòng anh rối như tơ vò. Những điều mà Xintxốp trông thấy hai ngày vừa qua đã mách bảo anh: đúng, bọn Đức có thể tới cả đây, mặc dầu anh vẫn không sao tưởng tượng được rằng đất đai này lại là của bọn Đức.
Bao nhiêu vị tổ tiên vô danh: các bậc cha ông, cụ kỵ — người trước kẻ sau đã nằm xuống dưới những cây thập tự kia qua bao nhiêu thế kỷ. khiến cho mảnh đất nảy sâu xuống đến tận ngàn thước, vẫn là của mình, không thể
nào và không bao giờ có thể là của kẻ khác.
Sau này, Xintxốp không bao giờ còn thấy một nỗi kinh hoàng như vậy nữa: rồi sẽ ra sao đây?! Nếu tất cả đã bất đầu như thế này thi tất cả những gi anh yêu mến, cái đã ấp ủ anh khôn lớn, cái lẽ sống của anh, đất nước, nhân dân, quân đội mà anh đã quen coi là vô địch, chủ nghĩa cộng sán mà bọn phát xit này đã thề tiêu diệt, cái bọn phát xit mà mới gây chiến được bảy ngày đã tiến đến tận giữa Minxk và Bôrixốp, tất cả những cái đó rồi sẽ ra sao?
Anh không phải là kẻ hèn nhát, nhưng cũng như hàng triệu người khác, anh không được chuẩn bị sẵn sàng để đối phó với sự việc đã xáy ra. Phần lớn cuộc đời anh cũng như cuộc đời của nhiều người kia đã trôi qua trong cánh thiếu thốn, trong thử thách, đấu tranh, và do đó, sau này mới rõ gánh nặng khủng khiếp của những ngày đầu chiến tranh đã không thể đè bẹp được tâm hồn họ. Nhưng trong những ngày đầu tiên, nhiều người đã tưởng chừng như
gánh nặng đó là không sao chịu đựng nổi, mặc dầu về sau chính họ vẫn cứ
chịu đựng được.
Trước đây một năm rưỡi, khi người ta đề nghị Xintxốp đừng phục viên, ở lại làm sĩ quan chuyên nghiệp, anh đã chẳng thấy phấn khởi gì nhưng anh đã nhận lời: sư đoàn của anh lúc ấy đóng bên sông Bugơ, bên kia là bọn phát xít, không khí thì đã ặc mùi chiến tranh, và anh cho rằng trong những trường hợp như vậy người cộng sản không được từ chối việc phục vụ trong quân đội.
Và giờ đây, khi xảy ra cái việc đã khiến anh ở lại quán đội, khi cuộc chiến tranh với bọn phát xít đã bùng nổ, bỗng dưng anh lại không có mặt ở đơn vị
minh, ngay từ phút ban đầu, không có mặt ở vị tri của mình, hóa thành một ké phiêu bạt, ngớ ngẩn chìa giấy tờ ra cho người ta xem, đế đi tìm tòa soạn của mình không biết đang ở đâu, và lúc này thì vừa tìm kiếm vừa lang thang lùi khói mặt trận như một tên đào ngũ nữa là khác.
Mặc dù người sĩ quan biên phòng đã chết, anh vẫn nhất quyết đi tới Môghilép, đúng như lời người ta đã bảo là Cục chính trị mặt trận đang ở đó.
Nhưng nếu đây là một tin vịt thì anh cũng nhất quyết không tìm kiếm gi nữa và xin làm chính trị viên ở bất cứ đơn vị bộ binh đầu tiên nào anh gặp.
Cũng như chiều qua, ngay từ sáng sớm, nhiều lần anh đã giơ tay vẫy xe nhưng vẫn không một xe nào đỗ lại. Anh đâm ra phớt tỉnh và không thiết nhìn ngó gi đến xe cộ nữa, cứ cuốc bộ tràn trên đường cho đến hết ngày hôm đó, khi thì đắm minh trong những ý nghĩ nặng nề, khi thì chẳng nghĩ gì hết, uể oải lê đôi chân nặng như chì mà đi.
Chắc là anh sẽ cứ thế kéo bộ tới tận Orsa, nếu một chiếc xe vận tải không đỗ lại bên anh khi trời đã xế chiều.
— Đồng chí đi đâu thề, đồng chí chính trị viên? —một đại tá ngồi trong buồng lái hỏi.
— Đi Orsa! Xintxốp cau có đáp.
— Sao lại đi bộ thế?
— Tôi đã vẫy xe phát chán rồi. — Xintxốp trả lới vẫn với cái vẻ cau có. —
Bọn khốn nạn chúng không cho đi!
— Đúng, bợn khốn nạn không phải là ít, — đại tá nói — tuy nhiên vẫn còn ít hơn là người ta có thể tưởng trong hoàn cánh này. Đồng chí cho xem giấy nào!
Xintxốp thản nhiên chìa giấy cho đại tá. Ông liếc nhìn qua và đưa trả lại anh ngay.
— Trèo lên đằng sau.
Sau một giờ phóng như điên, họ đã có mặt tại Orsa. Chiếc xe đại tá đi là mượn của người khác kèm theo lời hứa danh dự lả chỉ dùng tới Orsa thôi.
Ông cũng đang lần mò tới Môghilép như Xintxốp, và dự định từ Orsa đến Môghilép sẽ đi bằng xe lửa. Xintxốp cùng đại tá ghé vào cơ quan tư lệnh thành phố ở dưới tầng hầm của một trường học. Trên bàn có đặt mấy chiếc máy điện thoại. Ngồi sau bàn là thiếu tá tư lệnh trưởng thành phố với hai thiếu tá đường sắt nữa, cả ba đều đã mụ người đi vì hò hét.
— Có tàu đi Môghilép không? — đại tá hói.
Tư lệnh trưởng mà ông hỏi lúc đó vừa quẳng ống nghe này xuống và đâm bổ
tới một ống nghe khác, nhưng đại tá đã đưa bàn tay chắc nịch túm lấy vai ông ta, kéo giật lại và vận người ông ta bắt quay mặt về phía mình.
— Trả lời đi: có tàu đi Môghilép không và bao giờ có?
— Báo cáo đại tá, tôi xin trả lời ngay bây giờ ạ! — thiếu tá nói, giọng khản đặc. — Chắc phải có... — rồi xông tới chiếc máy nói đang réo chuông. Ông càng nghe thì bộ mặt càng lộ ra vé giận dữ. Cuối cùng, mặt hầm hầm, ông chửi rủa và ném ống nghe xuống. Thưa đại tá, không có tàu đâu ạ! Xin đồng chí thấy vui lòng chưa, người ta vừa báo tin là trên chặng đường đi Mỏghilép, một đoàn tàu chở đồ quân dụng đã bị ném bom. Cả hai đường tàu đều đã bị
phá hủy. Không có tàu nào đi Môghilép nữa.
— Thôi được, kệ xác anh ta, — đại tá bình tĩnh nói với Xintxốp. Dù sao bản thân bọn họ cũng chằng biết quái gì đâu. Cứ theo họ thì tất cả đều lung lung xòe hết rồi, nhưng chắc chắn là có thể đi một cách hết sức yên ổn. Chúng mình ra ga đi, ở đó ta sẽ hỏi cho ra nhẽ.
Nhưng cả ở ga cùng không dễ gì mà hỏi cho ra nhẽ được: đèn không đỏ, quân vụ trưởng và trưởng ga thì thầm có vẻ bí mật. rằng hiện nay họ không biết gì cả. Cuối cùng, đại tá tóm được một viên chức đường sắt, người này cũng thì thầm ra vẻ hết sức bí mật rằng một đoàn tàu chở hàng đi Môghilép đang được tổ chức trèn đường sắt phia sau tháp nước.
— Ta đi đi! — đại tá bảo.
Rõ ràng là không những chỉ minh Xintxốp mả cả con người đứng tuổi, từng trải và dày dạn nắng mưa ấy cũng thấy đơn độc và muốn có sự thông cám của một người khác. Ông kế với Xintxốp rằng ông đã đáp máy bay từ quân khu Privôngiê về Maxcơva, được bổ nhiệm làm tham mưu trưởng một quân đoàn, lồng đến tận Bôrixốp tìm quân đoàn của mình, suýt nữa thì rơi vào tay bọn Đức, và hôm qua đã chi huy một đại đội bị rớt lại không người chỉ huy chiến đấu suốt ngày, đến hôm nay được biết quân đoàn không còn ở vùng này mà đã hành quân sang vùng Ôxipôvilsi — Bôbruixk, vì vậy ông phải qua Môghilép để đi tới đó.
— Tất nhiên tôi có thể tiếp tục chỉ huy đại đội, — ông nói giọng giận dữ, —
nhưng dù sao cũng phải có trật tự chứ! Lạy Chúa, chúng ta đã chiến đấu được tám ngày rồi, đã đến lúc phải trở lại trật tự chứ. Một khi tôi đã được bổ
nhiệm làm tham mưu trưởng quân đoàn thi tôi phải đi tới địa điếm công tác, chứ không phải chỉ nằm bẹp trong một tuyến tân binh với khẩu súng trường.
Thế mà lúc tôi trao quyền chỉ huy đại đội cho một trung úy, một thằng ngớ
ngẩn còn dám trách tôi là hèn nhát!
— Thế đồng chí đã làm thế nào? — Xintxốp hỏi.
— Làm thế nào à? Tôi đã tặng cho hắn một quả vào mõm vì cái từ hèn nhát ấy để cho hắn sáng mắt ra, rồi tôi đi.
Chỉ nhớ đến chuyện ấy thôi mà đại tá cũng đỏ mặt tía tai lên, khiến cho bộ
mặt râu ria xổm xoàm của ông bình thường vốn đã càu cạu, nom càng dữ
tợn.
Họ lang thang hổi lâu giữa các đường ray để tìm đoàn tàu, và trò đời vẫn thế, hễ vớ được một người tự tin vào sức minh và biết minh muốn gì thì y như rằng dần dần có cả chục người nữa muốn đi theo đến Môghilép vì những lý do khác nhau.
Trong khi họ tìm đoàn tàu thì những máy bay ném bom Đức lao tới nhà ga.
Những đầu máu kế tiếp nhau rú lên trên các đường ray đã bị tắc nghẽn của nhà ga.
Trên đầu mối đường sắt Orsa có đến mấy chục chiếc đầu máy. Chúng rống lên, hòa giọng với nhau, phun ra những đám hơi nước trắng xóa; tiếng rống
của chúng nghe hãi hùng và thảm thiết đến rợn người, nghe còn khủng khiếp hơn là tiếng bom nổ ầm ầm mà Xintxốp đã quen tại trong những ngày này; hình như các đoàn tàu đang ráng hết sức
gào thét với ai đó không rõ; với trời, với người, chúng than thở và cầu cứu, nhưng trời vẫn cừ từ trên cao trút mãi, trút mãi xuống đất đen những quả bom nổ tung ra giữa những nhà cửa, những đường ray và giữa những con người nằm trên đường sắt đang váng đầu
nhức óc, đang trở nên dữ tợn, khổ sở và căm giận đến bầm gan tím ruột đối với tất cả những việc đang xảy ra.
Sau lần báo động, khi đã mò được đến tháp nước và không tìm thấy ở đây một đoàn tàu nào, cả đoàn liền ngồi xuống nghỉ trên những đống than xỉ
chất bên đường tàu. Không ai muốn nói nữa, nhưng lặng thinh thì cũng không thể được, bởi vì ai cũng thấy có nhiều điều chứa chất trong lòng.
— Thật là chẳng ngờ, không sao nghĩ tới được, — một người nào đó buồn rầu nói từ trong bóng tối, Xintxốp không sao trông rõ mặt anh ta trong cái đêm hôm ấy.
— Nếu không nghĩ tới, không đoán ra thì còn khá, — ông đại tá lên tiếng sau một hồi yên lặng. — Đằng này đã nghĩ tới và đoán được, thế mà đến lúc xảy ra thì lại lộn tùng phèo hết.
— Mất trật tự đến khiếp lên được! — một người khác, cũng ngồi khuất trong bóng tối, phụ họa với một giọng cao lanh lảnh đượm vẻ ngạc nhiên. — Lạ
thật!
— Còn tiểu đoàn công binh của tôi thì đóng ở Bêlôxtốk, — một giọng trầm ồ
ồ nói. — Bây giờ không biết là rút đi đâu…
— Đáy bể bò kim thôi! — miệng lưỡi ác khẩu của người nào đó lạnh lùng và gay gắt đáp lại.
Mọi người đều im lặng mấy phút.
—Trong các học viện quân sự, chúng ta đã nghiên cứu vụ tai biến Tháng tám năm mươi bốn, chúng ta đã chế nhạo Xamxônốp. Thế mà chính chúng ta lại...—cái giọng lạnh lùng chua chát ban nãy đã trả lời người công binh thì lúc này lại nói cạnh khóe một cách thô lỗ.
— Nói chung là mình cứ chủ quan khinh địch, cứ nói nào là «tiến sang lành thổ nước khác», nào là «ít đổ
máu»... Rồi lại «được hoan hô», vân vân, — gã nói tiếp.
— Chúng ta vẫn sẽ còn tiến sang lãnh thổ nước khác, đồng chí nào đỏ trong bóng tối mà tôi không trông thấy cấp bậc là gì, hãy khắc lời nói ấy lên trán nhé, — đại tá tức giận lên tiếng. — Nhưng cái gì đúng thì vẫn đúng: thật là rối như canh hẹ, như canh hẹ. Và điều chủ yếu là bản thân chúng ta phải xực món canh hẹ này đây!
Lời nói ấy khiến nhiều người nhao nhao đáp lại. Có người phát biểu rằng người Nga chúng ta thắng ngựa vào xe chậm thật đấy, tuy vậy sau đó lại phóng nhanh. Nhưng ý kiến đó không được tán thưởng.
— Bây giờ có phải là năm tám trăm mười hai nữa đâu, chính lúc này vừa phải thắng ngựa vào xe vừa quay ngoắt lại! Nếu không chúng ta sẽ cứ thắng xe mãi cho đến tận Xmôlenxk đây!
Đại tá cho rằng luận điệu đó là do bọn Đức bịa đặt ra. Thề là mọi người tranh cãi nhau, giọng người nào người nấy đều run lên vì giận dữ và tủi nhục. Họ uất ức không những vì tình trạng lộn xộn đã quá rõ ràng, mà lại càng uất ức hơn khi thấy ở đâu đó những trận chiến đấu đang diễn ra, đon vị
của họ đang giao chiến, còn họ thì đến bây giờ vẫn chưa tìm được tới nơi và không biết làm sao mà tới được!
— Còn tôi thì hôm qua tí nữa bị xử bắn như một tên biệt kích!—một người nói.—Chúng nó đã gí súng lục vào mồm tôi như gí vào mõm ngựa. Tôi đã từng đánh chiếm Pêrêcốp, thế mà bọn nhãi ranh khốn nạn đó lại dám gí súng lục vào mồm tôi đấy!
— Này anh, con người của vụ tai biến Tháng tám! — tựa hồ như chợt nhớ ra điều gì, đại tá gọi người có cái giọng lạnh như tiền khiến ông không ưa. Anh cùng đi với chúng tôi tới tận Môghilép đấy chứ? Anh đi tìm đơn vị của anh hả?
Nhưng không có ai trả lời câu hỏi đó. Người mà ông ta hỏi, hoặc là không muốn trả lời, hoặc là đã đi mất rồi... Trong bóng tối nghe có tiếng người ngoái đi ngoái lại để hỏi nhau.
— Hình như chuồn rồi thì phải, — cuối cùng người sĩ quan công binh đã cất
lên cái giọng ồ ồ. — Cậu ta vừa ngồi đây, cạnh tôi.
Cố nhiên là cũng có những ké hoang mang đây, — đại tá nói sau giây phút trầm ngâm như đáp lại lời nói của người sĩ quan công binh, hoặc như trả lời cho những ý nghĩ của chính mình. Kẻ gí sủng lục vào mồm người ta thì có.
Có điều là có khi kẻ không đáng gí thì lại bị gí... Đứng dậy thôi! — Ông đứng lên trước tiên. — Biết đâu đấy, có khi còn có một tháp nước nào ở đây nữa cũng nên. Ta đi tim thử xem!
Họ tìm không ra tháp nước nào khác nữa cả. Nhưng một giờ sau, họ đã lẩn mò được tới chỗ người bẻ ghi. Người này chỉ cho họ những toa đen lù lù không có đầu máy đang đỗ ở đằng xa và nới chắc với họ rằng thế nào người ta cũng mắc những ton này vào đoàn tàu di Mỏghilép.
Mệt nhoài vi cuộc đi lang thang vô tích sự, mọi người kéo nhau đến các toa tàu. Họ thấy có hai chiếc xe buýt mới tinh của cơ quan tham mưu đặt trên hai chiếc toa trẩn xen giữa các toa hàng hỏa.
— Ta cứ lên xe di, đại tá vừa nói vừa trèo lên toa trước và thử mở cửa xe.
Cửa bật mở. — Nếu họ kéo theo thi ta di, còn họ không kéo theo thì ít ra ta cũng đánh được một giấc tới sáng
Xintxốp cũng trèo lên xe, ngồi vào chiếc đệm vải sơn mới tinh, đưa tay sờ
mó, hình như sau những ngày vừa qua đã bắt đầu nghi ngờ vị tất còn có thể
có một cái gi mới tinh và sạch bóng được như thế. Anh tựa đầu vào tấm cửa kính giá lạnh và ngủ thiếp đi.
Sáng hôm sau. trong những phút đầu tiên hãy còn ngái ngủ. anh không tài nào hiểu được mình đang ở đâu. Anh thấy minh đang ngồi trên xe buýt, ở
những hàng ghế bên cạnh thấy có những quân nhân không quen biết đang ngủ, còn ở ngoài cửa sổ thi thấy cả hai hên đều có rừng xanh ấm áp chan hỏa ánh nắng bay vùn vụt. Anh tưởng là mình đang đi xe trên đường cái, mãi sau khi ôn lại tất cả những sự việc đêm qua, anh mói hiểu ra rằng chiếc xe buýt đặt trên toa trần và tàu đang chạy. Quả là người bẻ ghi đã không nói dối, đoàn tàu đang tiến lại gần Môghilép.
Quân vụ trưởng thành phố Môghilép cầm giấy tờ của Xintxốp, đưa cặp mất sưng mọng đỏ ngầu đọc đi đọc lại mấy lần liên tiếp. Chắc là vi quá mệt mỏi,
nên khi đọc lần đầu ông trông vào tờ giấy một cách ngây dại, lần thứ hai ông chỉ thấy được những chữ nổi bật lên trước mắt, mãi đến lần thứ ba ông mới bắt đầu hiểu những điều vết trên giấy. Ông báo Xintxốp rằng Cục chinh trị mặt trận ở cách Môghilép mười ba cây số.
— Đi qua cái cầu kia kia, cái cầu mà đồng chí trông thấy trong khung cửa sổ
ấy, rồi rẽ sang trái theo con đường cái di Orsa. Đến cây số mười ba. ngay trong rừng, đồng chí sẽ tìm được...
Xintxốp đã gặp may. Trên cầu, anh vẫy được một chiếc xe tải nhỏ. Một trung úy thông tin ngồi với người lái xe trong buồng lái, còn hòm xe thì chất đầy lựu đạn. Xintxốp ngồi ghé lên đống lựu đạn, người sĩ quan thông tin chở anh tới một khu rừng rậm. cho anh xuống cửa
rừng. Có mấy con đường mòn mòn mới mở chạy sâu vào trong khu rừng.
Xintxốp đi sâu vào rừng. Thời tiết bỗng xấu di, trời mưa lất phất. Trên những sườn đồi rậm rạp, giữa các gốc cây chỗ nào cũng thấy đang đào hầm trú ẩn và giao thông hào. lác đái thấy có đặt những khẩu sủng máy phòng không bốn nòng. Hình như Bộ tham mưu và Cục chính trị mặt trận mới bắt đầu đến đóng ở đây. Ở ngay cạnh đường, Xintxốp bắt gặp một chính ủy sư đoản, dáng người dong dỏng, mặc chiếc măng tô da màu vàng đã sẫm lại vì ướt nước mưa, ông ta có khuôn mặt dẹp, hiền hậu và bộ ria nhỏ màu rơm. Trông ông ta giống Tsapaép.
Xintxốp đến bảo cáo với chính ủy. Ông ta giữ tờ giấy phép của anh mấy giây dưới trời mưa. Một hạt mưa rơi xuống tờ giấy làm cho nét bút gạch dưới chữ
ký nhận thực của Cơ quan hành chinh Maxcơva nhòa đi thành một vệt tím nhạt.
— Rất tiếc lả tôi không biết tòa soạn của đồng chí bây giờ ở đâu,— chinh ủy vừa nói vừa gấp đôi tờ giấy lại. —Thú thực rằng hiện nay tôi cũng chưa biết cả phòng chinh trị của tập đoàn quân thứ ba của đồng chí ở đâu nữa. Và nỏị
chung... — Chắc là ông muôn nói rằng nói chung ông không biết cả tập đoàn quân thứ ba ở đâu nữa kia, nhưng ông đã không nói hẳn ra, mà chỉ mỉm cười với vẻ không vui. — Đồng chí đành phải tạm công tác ở đây, ở chỗ chúng tôi vậy... — Nói đoạn, ông không trao lại giấy tờ cho Xintxốp mà lại đưa cho một chính ủy tiểu đoàn dáng người to béo, hổng hảo đứng bên cạnh, có nét mặt mà Xintxốp, thấy quen quen.— Đồng chí nhận chinh trị viên về đơn vị
mình đi, — chính ủy nói. — Ở chỗ đồng chí, cậu Turmatsép còn phải vắng
mặt lâu chứ?
Chính ủy tiếu đoàn xác nhận rằng Turmatsép còn phải vắng mặt lâu. Anh xin phép được nghỉ, rồi dẫn Xintxốp đi.
— Thế là từ nay đồng chí sẽ làm việc với chúng tôi, — nửa giờ sau anh mới nói như vậy với Xintxốp đang ngồi bên cạnh anh trong một chiếc xe hơi
«Emka» giấu dưới rặng thông.
Trên sàn xe có sẵn một phích nước trà, còn trên đùi chính ủy đã thấy trải một tờ báo với một đống bánh bíchcốt có tẩm vani. Hai người thay phiên nhau uống trà.
— Nhà tôi gói cho, lúc còn ở Maxcơva đấy, — chính ủy nói. —Tôi đã gắt lên với cô ấy: «Sao lại nhét đú thứ như thế cho anh làm gì? Anh đã có khẩu phẩn quân đội rồi!» — nhưng bây giờ mới thấy khoái.
Bánh bíchcốt này là bánh Maxcơva. Chính ủy tiểu đoàn là tổng biên tập tờ
báo mặt trận, cũng là người Maxcơva. Hổi năm ngoái, khi Xintxốp về
Maxơova theo lớp huấn luyện báo chí ngắn hạn thì chính ủy có đến giảng môn sinh hoạt Đáng. Đây chính là người đầu tiên có đôi chút quen biết mà Xintxốp đã gặp trong suốt năm ngày gần đây; nhưng điểu chủ yếu là rút cục anh đã khỏi phải lang thang, khỏi phải xuất trình giấy tờ và khỏi phải nghe những câu trả lời «không biết» với «không có» nữa. Cuối cùng anh đã đến được một đơn vị, cỏ lẽ không cẩn tim kiếm gì khác nữa mà có thể ở lại dây, nhận mệnh lệnh và thực hiện mục đích ra đi chiến đấu của minh.
Những tinh cảm ấy dồn dập dâng lên củng một lúc khiến Xintxốp buông ra một tiếng thớ dài.
— Đồng chí làm sao thế?
— Đi lang thang mãi mệt bã cả người ra rồi.
— Vất vả thật, — chính ủy tiểu đoàn nói. — Hôm qua bọn biệt kích đã làm Turmatsép bị thương. Đồng chí có biết anh ấy không?
— Không biết.
— Một dạo, anh ấy đã công tác ở tờ «Ngọn cờ chiến đấu» của các đồng chỉ
đấy. Hồi đêm, anh ấy di chiếc xe vận tải của tòa soạn để lên đây, vào Cục chinh trị, có kẻ cầm đèn pin giữ anh lại để kiểm tra giấy tờ, vừa đưa giấy tờ
ra thi đã bị một phát súng lục vào sườn! Rồi chúng trốn mất. Chẳng còn rõ kẻ nào, chuyện gì và tại sao nữa. Hôm nay, chúng ta đã ra được báo, nhưng cũng chẳng biết chở báo đi đâu được. — Nghe qua thi có vẻ chinh ủy nói lan man từ vấn đề này sang vấn đề khác, nhưng thực ra ông ta vẫn tiếp tục nói về tình hình gian khổ ra sao. — Quân bưu chưa hoạt động, hiện nay chúng ta chưa biết đơn vị nào đóng ở đâu. Sáng nay, tôi đã phái tất cả cán bộ đáp xe tòa đi nhiều ngả đường, cứ vớ được đon vị nào là phát cho đơn vị ấy một tập báo. Rất là gay go, — anh kết luận, rồi lệnh cho Xintxốp đến nhả in ở
Môghilép để giúp đỡ việc ra số báo mới. — Ở đó, bây giờ chỉ có ba người: một thư ký, một chị đánh máy và một người biên tập đưa in.
— Nhưng có tài liệu đấy chứ? — Xintxốp hỏi.
— Có cái gì thì dùng cái ấy đã. Tôi sẽ đến giúp sau. À, mà anh có tài liệu gì thế nhỉ? — chính ủy nhún vai. — Có lẽ đến tối anh em sẽ mang về. Anh em đi phân phối bảo xong rồi đưa tài liệu về. Thế đồng chí có tài liệu gì không?
— anh ngước mắt nhìn Xintxốp hỏi.
Nhưng Xintxốp chỉ lặng thinh nhìn anh ta và nghĩ: «Mình còn có tài liệu gì được nữa kia chứ! ừ, phải, mình cũng có tài liệu đấy ! Phải
rồi. những ngày vừa qua mình đã thấy được bao nhiêu việc mà từ thuở bé đến giờ chưa thấy.
Nhưng có lẽ nào lại đăng được tất cả những cái đó song song với bản thông cáo chiến sự vừa mới ghi được qua máy thu thành mà người tổng biên tập đang đặt trên đùi cùng với những chiếc bánh bíchcốt kia? Bản thông cáo thì nói là có những trận đánh nhau to ở
biên giới, thế mà ba hôm trước dây mình không sao lần mò nổi từ Bôrixốp đến Minxk. Vậy phải tin vào cái gì đây: vào bản thông cáo đó hay vào điều chính mắt mình đã trông thấy? Hay có lẽ cả hai đều đúng, có thể là ở phía trước mặt, ở sát biên giới quả thực đang diễn ra những trận chiến đấu phòng ngự gian khổ nhưng thắng lợi, còn mình chỉ là nằm trong một khu vực phòng tuyến bị bọn Đức chọc thủng, rồi mụ người đi vì khiếp sợ và không thể hình dung được việc đang xảy ra ở
những nơi khác chăng?
Nhưng dù cho cả hai cái đều đúng đi chăng nữa thi điều đó cũng chẳng thay đổi gì tình hình trong tờ báo cả. Trên các trang báo, bản thông cáo nhận
được qua máy thu thanh lại tự cho nó là sự thực duy nhất kia ! Chính là như
thế đấy. Và không thể nào khác được.
— Không, tôi không có tài liệu nào cá, — sau một hổi lâu im lặng, Xintxốp nhìn thẳng vào mắt tống biên tập mà nói vậy, và hai bên đã hiểu ý nhau.
Xintxốp trở về Môghilép khi trời đã tối, cũng trên chiếc xe vận tải tấn rưỡi của tòa soạn trên đó có Turmatsép, một người anh không quen biết, đã bị
bắn bị thương đêm hôm trước. Cũng vẫn người lái xe ấy. Dọc đường, anh này luôn mồm nói đến chuyện đã xảy ra hôm qua, và
mỗi lần bị những trạm kiếm soát chặn lại đế xét giấy tờ thì Xintxốp, trong lúc tay trái chìa giấy tờ
ra, tay phải cứ siết chặt lấy báng khấu súng lục mà người tổng biên tập chu đáo đã xoay cho anh ở Cục chính trị.
Suốt đêm trong cái nhà in cũ kỹ của thành phố Môghilép, người ta đã lên khuôn và xuất bản một cách chật vật số báo thường kỳ của mặt trận. Choán mất nửa tờ báo là hai bản thông cáo cuối cùng của Cục thông tin đã được in bằng cờ chữ to để chiếm nhiều chỗ hơn. Phần còn lại là số tài liệu đã được lượm lặt tới nửa đêm theo lời các phóng viên đi phân phát số báo hôm qua về. Đó toàn là những đoạn tường thuật vắn tắt về những câu chuyện anh dũng của các chiến sĩ ta qua lời kể lại của những người hoặc đã vừa rút lui vừa chiến đấu từ một tuần lễ nay, hoặc mới đột phá ra khỏi vòng vây của quân Đức. Thoạt tiên, những bài đó do ngòi bút của các phóng viên viết ra, sau đó cây bút chì đỏ của Xintxốp đã làm cho chúng ăn khớp với các bản thông cáo, thế là dần dần những bài tường thuật đã mất hết tất cả những gi có thể khiến người ta hình dung được là hiện nay các trận chiến đấu đang diễn ra ở những địa điếm nào. Được đăng bên cạnh các bản thông cảo nói về
những trận giao chiến ở biên giới thi những bài tường thuật đỏ có lẽ còn có thêm tính chất trấn an nữa là khác. Các chiến sĩ đã chiến đấu, đã tỏ ra dũng cảm, đã tiêu diệt bọn phát xít. Ở đâu vậy? Ở những địa điểm đã được nói tới trong các bản thông cáo.
Chỉ qua những câu chuyện thật nghèo nàn do các phóng viên trở về tòa soạn trong đêm đó kể lại, Xintxốp cũng đã biết: những điều mà anh trông thấy trên đường đi Minxk không phải chi xáy ra ở đó mà thôi. Quân Đức đã chọc thủng phòng tuyến ở nhiều chỗ. Tình hình khắp nơi trên mặt trận miền tây đều nghiêm trọng và rối ren, nhưng việc làm sáng tỏ tình hình đó lại không phải là thẩm quyền của một tờ báo thuộc mặt trận này! Vì hiểu được như
vậy nên anh đã không ngần ngại gì khi điều khiển cây bút chì đỏ của minh.
Anh chí không hiểu một điều là tại sao tất cả những việc đó lại có thể xảy ra được? Anh không hiểu nổi và day dứt với câu hỏi: chẳng lẽ chúng ta lại không xoay chuyển được tình thế trong những ngày sắp tới hay sao? Tất cả
những điều mắt anh trông thấy dường như trả lời rằng không, chúng ta sẽ
không xoay chuyển được! Nhưng trong lòng, anh không cam chịu điểu đó, anh cỏ một niềm tin khác. Mặc dù anh có quyền tin vào mắt mình, niềm tin của lòng anh vẫn mạnh hơn tất cả mọi điều trông thấy hiển nhiên. Không có niềm tin đó, anh đã không sao chịu đựng nổi những ngày vừa qua, và cũng nhờ niềm tin đó mà vô hình trung anh đã quen với cuộc chiến tranh ròng rã bốn năm, như hàng triệu quân nhân và thường dân khác vậy.
Lúc trời gần sáng, trước khi đưa số báo lên bàn in, Xintxốp còn thờ thẫn đọc lại tất cả một lần nữa, từng dòng, từng dòng một, và chỉ sau đó mới trải áo capốt ra nằm ngủ trên nền nhá in lát đá lành lạnh. Những chiếc máy in cũ kỹ
ra sức rú ầm ầm, nền nhà rung lên nhè nhẹ dưới đầu anh.
Trong lúc ngủ thíếp đi, Xintxốp mơ màng nghĩ đến con gái và với một tâm tư
phẫn uất mà bất lực, anh hình dung được rằng giờ đây, khi anh đã phiêu bạt tới một tòa báo khác, tới một khu vực khác của mặt trận, anh sẽ không còn cách nào biết được tí gi về nó nữa cả. Dù sao chăng nữa, cũng phải đợi cho đến khi toàn bộ tình hình thay đối một cách hết sức cơ bản...
CHƯƠNG HAI
Trời vừa sáng, bốn chiếc xe tải của tòa soạn đã phóng ra khỏi cổng nhà in.
Trên mỗi xe có hai phóng viên và một chục tập báo mới in xong. Phương pháp phát hành vẫn như hôm qua: chở báo tỏa đi khắp các ngả đường, gặp người của đơn vị nào thì phân phát cho đơn vị ấy, đồng thời dọc đường thu lượm tài liệu cho số báo sau.
Xintxốp chỉ ngủ cả thảy được có ba giờ trên nền nhà in, mà lại ngủ làm hai giấc, vì lúc gần sáng đã bị tổng biên tập đến đánh thức dậy mất một lần.
Hoàn toàn đờ đẫn, anh cất mình đứng dậy, ra vòi té nước vào mặt, rồi siết chặt thắt lưng, bước ra sân, ngồi vào buồng lái chiếc xe tải. Mãi khi xe sắp chạy sang con đường ô tô Bôbruixk, anh mới thật tỉnh hẳn. Trên trời, có tiếng máy bay gầm rú, ở phía sau, một cuộc không chiến đã diễn ra trên không phận Môghilép: những chiếc máy bay ném bom Đức đang bổ nhào xuống đánh chiếc cầu bắc qua sông Đniép, còn những chiếc tiêm kích yểm
hộ cho chúng—có tới bảy hoặc tám chiếc—thì đang giao chiến ở tít trên cao với một bộ ba chim kền kền ngắn mũi của ta cất cánh từ sân bay Môghilép.
Xintxốp đã từng nghe nói là ở Tây Ban Nha và Mông Cổ, những con chim kền kền nhỏ đó đã trị được những máy bay tiêm kích Đức, Ý và Nhật. Ở đây cũng vậy, lúc đầu một chiếc «Métxersmít» đã bốc cháy và rơi xuống. Nhưng sau đó, hai chiếc tiêm kích của ta lộn nhào và rơi xuống liền một lúc. Trên không chỉ còn lại mỗi một chiếc.
Xintxốp cho đỗ xe lại, bước xuống và theo dõi thêm gần một phút nữa, xem chiếc tiêm kích của ta nhào lộn giữa đám máy bay Đức. Rồi tất cả những chiếc tiêm kích cùng biến trong mây còn những
chiếc máy bay ném bom thì vẫn gầm rú, bổ nhào xuống chiếc cầu mà dường như chúng không tài nào đánh trúng được.
— Thế nào, ta đi chứ?—Xintxốp hỏi người cùng đi với mình đang ngồi trên những tập báo ở trong thùng xe. Đó là một chính trị viên phó có cái tên như
tên con gái: Liuxin.
Cậu Liuxin này là một anh chàng đẹp trai, hồng hào, cao lớn, lanh lẹ, có mớ
tóc hoe hoe lòi ra khỏi vành chiếc mũ kêpi mới toanh và đỏm dáng. Cậu ta mặc bộ quân phục có nếp phẳng phiu, chẽn mình trong những chiếc đai da mới toanh, lại luôn đeo khẩu cácbin cũng mới toanh trên vai, nên trông có vẻ
quân nhân hơn hết thảy mọi quân nhân mà Xintxốp đã gặp trong những ngày vừa qua, và Xintxốp lấy làm sung sướng thấy mình may mắn có một người bạn đường như vậy.
— Báo cáo chính trị viên, xin tuân lệnh, — Liuxin hơi nhổm dậy đáp và đưa tay lên vành mũ.
Ngay từ đêm qua, khi họ cùng nhau lên khuôn và phát hành tờ báo, Xintxốp đã để ý tới sự cố gắng giữ đúng điều lệnh của Liuxin, một sự cố gắng hiếm có trong đám cán bộ tòa báo quân đội.
— Có lẽ tôi cũng sẽ lên ngồi trong thùng xe đấy,—Xintxốp báo. Nhưng Liuxin đã phản đối một cách có lễ độ:
— Báo cáo chính trị viên, tôi không dám khuyên đồng chí làm như thế đâu ạ!
Cán bộ chí huy cấp trên phái ngồi trong buồng lái kia ạ, nếu không cũng có điểu bất tiện cơ đấy. Người ta sẽ có thể chặn xe lại. — Rồi anh ta lại đặt tay
lên vành chiếc mũ kêpi.
Xintxốp ngồi vào buồng lái và xe chuyển bánh. Cũng vẫn chỉếc xe vận tải tấn rưỡi và vẫn người lái xe hôm qua đã đưa anh từ bộ tham mưu mặt trận trở
về Môghilép. Thú thực anh cùng muốn chuyển ngồi lên hòm xe, vì sợ người lái xe lại gợi những câu chuyện về bọn phá hoại hôm trước ra để tán cho đỡ
buồn. Nhưng người lái xe ngồi sau tay lái, mặt cau có không nói một lời nào.
Hoặc là anh ta đã không ngủ được đẫy giấc, hoặc anh ta không khoái cái chuyện đi về phía Bôbruixk này.
Xintxốp thì trái lại, tinh thần rất phấn chấn. Hồi đêm đồng chí tổng biên tập có kể với anh rằng hôm qua, bên kia sông Bêrêdina, ở cửa ngõ Bôbruixk, các đơn vị của ta đã đánh cho quân Đức tơi bời, và anh hy vọng hôm nay được đến đó.
Cũng như nhiều người khác vốn bản tính không nhút nhát, đã từng trải qua và chịu đựng những ngày chiến tranh đầu tiên trong cảnh hoang mang bỏ
chạy tán loạn trên các con đường gần mặt trận, lúc này anh đã bị một sức mạnh đặc biệt lôi cuốn về phía trước, nơi hai bên đang giáp chiến.
Quả thực người tổng biên tập cũng không sao cho biết đích xác được là những đơn vị nào đã đánh cho bọn Đức tơi bời và việc đó đã xảy ra cụ thể ở
chỗ nào. Nhưng do thiếu kinh nghiệm, nên Xintxốp cũng chẳng lo ngại gì lắm về điều này. Anh đã mang theo tấm bản đồ mà người tổng biên tập đã đưa ngón tay vạch xung quanh Bôbruixk một cách mơ hồ, và bây giờ anh vừa đi vừa nhìn bản đồ, tính áng chừng xem đi ba chục cây số một giờ như
thế này thì sẽ mất bao lâu. Té ra mất tới khoảng ba tiếng đồng hồ.
Ngay sau khi ra khỏi Môghilép, lúc đầu anh thấy có những cánh đồng với những khu rừng nhỏ xen kẽ. Một dải cỏ cây xanh um bị những vạt đất hung đỏ—cái rộng, cái hẹp—cắt đứt quãng ở nhiều nơi: người ta đang đào những công sự và hố chống xe tăng ở hai bên đường. Hầu hết những người làm việc đểu mặc thường phục. Chỉ thỉnh thoáng mới thấy những chiếc áo quân phục mùa hè của
những người công binh điều khiển công việc thấp thoáng giữa những chiếc áo cánh và những tầm khăn quàng.
Sau đó, xe chạy vào một khu rừng rậm rạp. Bốn bề xung quanh liền trở nên vắng vẻ và im lìm. Chiếc xe vận tải tấn rưỡi chạy mãi, chạy hoài trong rừng mà chẳng gặp một ai: không người, không xe cộ. Thoạt đầu Xintxốp không lo ngại gì lắm cả. nhưng về sau anh bắt đầu cảm thấy có vẻ kỳ lạ. Bộ tham mưu mặt trận đóng ở Môghilốp, nhưng trận chiến đấu với quân Đức đang
diễn ra ở bên kia Bôbruixk, anh cho rằng giữa hai điểm đó tất phải có cảc ban tham mưu và có bộ đội đóng, và như vậy nhất định phải có xe cộ chạy đi chạy lại.
Nhưng họ đã đi được nửa đường, lại thêm được mười cây số rồi lại mười cây số nữa, mà trên đường cái vẫn vắng tanh như trước. Cuối cùng, ở một ngã tư, chiếc xe tải của Xintxốp suýt nữa thì đâm phải một chiếc «Emka» từ
đường rừng xông ra. Xintxốp mở cửa xe, giơ tay vẫy. Chiếc «Emka» đỗ lại.
Trong xe có một đại ủy bộ hình tự giới thiệu là sĩ quan tùy tùng cho một chỉ
huy trưởng quân đoàn bộ binh. Thấy hiện giờ tất cả những tập bảo vần còn nằm nguyên trong xe, Xintxốp định đi theo anh ta để phân phát báo cho các đơn vị của quân đoàn. Nhưng người sĩ quan tùy
tùng vội trả lời rằng anh vừa đi vắng một thời gian về, quân đoàn đã di chuyển đi đâu chẳng rõ. Bây giờ
chính anh cũng đang đi tìm đơn vị, cho nên đi theo anh là việc vô ích, tốt hơn hết là hãy bỏ cho anh vài tập báo vào chiếc «Emka», khi nào tìm thấy quân đoàn anh sẽ phân phát hộ. Liuxin bèn lấy ra hai tập trong hòm xe đưa cho đại úy, ông ta ném những gói đó lên ghế sau, rồi chiếc «Emka» rú ga, biến vào sau lùm cây, còn chiếc xe tải thì tiếp tục chạy theo hướng Bôbruixk.
Những chiếc «Métxersmít« bay qua đầu mấy lần. Rừng lan ra sát tận đường cái, máy bay thường lao ra từ sau ngọn cây một cách bất ngờ, do đó chí có một lần Xintxốp kịp nhảy phắt ra khỏi xe. Nhưng bọn Đức không bắn vào chiếc xe tải này, chắc là chúng đang bận những việc quan trọng hơn.
Theo bản đồ thì chí còn có mười cây số nữa là đến bờ sông Bêrêdina. Nếu những cuộc chiến đấu đang diễn ra phía sau Bôbruixk, ở bờ sông bên kia, thì những bộ phận hậu cần hoặc những đoàn xe vận tải thứ hai tất phải đóng ở
bờ sông bên này. Xintxốp hết quay đầu sang phủi lại quay sang trái, căng mắt nhìn sâu vào trong rừng rậm
Tình trạng vắng lặng một cách khó hiểu trên đường cái mỗi lúc một làm cho anh thêm bồn chồn.
Bỗng người lải xe hãm sịch xe lại.
Nơi ngã tư ăn thông vào một con đường hẻm chạy tít về phía chân trời, một người lính hồng quân không có súng, đeo hai quả lựu đạn ở thắt lưng, đang đứng bên vệ đường.
Xintxốp bèn hỏi xem anh ta thuộc đơn vị nào và có người chỉ huy nào ở gần đây không.
Người lính hồng quân bảo rằng anh ta thuộc một đội quân gồm hai chục người do một trung úy chí huy. Mới chiều hôm qua, đội anh được xe tải chở
từ Môghilép tới đây, đặt vọng gác để giữ những cá nhân lẻ tẻ đi từ phía tây lại rồi dẫn họ về bên trái theo đường hẻm tới khu kiểm lâm là nơi trung úy đang thành lập đơn vị.
Căn vặn thêm thì được biết rằng anh đã đứng ở đây từ chiểu hôm qua, rằng ở Môghilép người ta đã phát cho họ hai người một khẩu súng trường, theo hiệu lệnh: «Người thứ hai lấy người thứ nhất làm chuẩn!», rằng lúc đầu có hai người đứng gác, nhưng gần sáng
người bạn cùng gác với anh đã chuồn mất, rằng trong thời gian đó, anh đã dẫn được chừng sáu chục cá nhân đi lẻ
tới giao ở khu kiểm lâm, nhưng còn bản thân anh thì chắc người ta đã quên mất: không ai đến đổi gác cho anh mà từ hôm qua tới nay anh chẳng được miếng gì vào bụng cả.
Xintxốp liền cho anh một nửa số bánh bíchcốt nhét đầy trong túi dết và ra lệnh cho người lái xe cho xe chạy tiếp.
Đi được một cây số nữa thì có hai người cảnh sát mặc áo mưa bằng vải nhựa màu xám từ trong rừng nhảy vọt ra chặn xe lại.
— Báo cáo đồng chí chỉ huy, — một người trong bọn họ nói, — đồng chí có mệnh lệnh gì không ạ?
— Mệnh lệnh nào?—Xintxốp ngạc nhiên hói lại.—Các đồng chí có thủ trưởng của các đồng chí chứ?
— Chúng tôi không có thủ trưởng ạ, —người cảnh sát nói, — hôm kia chúng tôi được phái đến khu rừng này để bắt bọn nhảy dù do quân Đức thả xuống, nhưng bây giờ bọn chúng đã vượt qua sông Bêrêdina rồi thì chúng còn thả
dù làm gì nữa chứ!
— Ai nói với đồng chí thế?
— Người ta bảo thế. Đấy, đã có tiếng trọng pháo... Đồng chí không nghe thấy sao?
— Không có lẽ! —tuy nói vậy nhưng khi lắng tai nghe, chính Xintxốp cũng thấy hình như ở phía trước có tiếng gầm của trọng pháo thật, —Láo toét! —
để tự trấn an mình anh ngắt lời với một giọng biểu lộ sự bướng bỉnh nhiều hơn là lòng tin tưởng.
— Báo cáo thủ trưởng, — người cánh sát nói, mặt anh ta tái nhợt nhưng đầy vẻ kiên quyết,—chắc là đồng chí đang trên đường về đơn vị. Xin đồng chí cho chúng tôi được đi theo, phiên chế cho chúng tôi vào đơn vị! Chẳng lẽ chúng tôi cứ chờ ở đây cho tới khi bọn phát xít treo cổ chúng tôi lên cành cây sao? Hay chúng tôi cởi bỏ quân phục đi chăng?
Xintxốp đáp rằng quả thực anh đang đi tìm một đơn vị nào đó và nếu anh em cảnh sát muốn đi với anh thì họ cứ việc trèo lên xe.
— Nhưng đồng chí sẽ đi đâu ạ? — người cảnh sát hỏi. —Đến đằng kia,—
Xintxốp chỉ tay một cách mơ hồ về phía trước. Thực ra lúc này chính anh cũng không biết mình đi đâu và đi tới bao giờ nữa.
Người cảnh sát nói chuyện với Xintxốp liền đặt chân lên bánh xe. Người kia lại níu lấy áo mưa kéo anh ta lại thì thầm cải gì đó, rõ ràng không muốn đi về hướng Bôbruixk.
— À, thế thì cậu đi đi!..—người cảnh sát thứ nhất vặn lại, khinh bỉ giằng ra và thúc giày vào ngực bạn, băng mình qua thành xe.
Xe chuyển bánh. Người cảnh sát thứ hai bồi rồi đứng nhìn xe lướt qua trước mặt, rồi thất vọng khoát tay, chạy theo bám lấy thành xe và cất mình qua thành xe, lăn vào bên trong. Dù sao ở lại một mình cũng vẫn đáng sợ hơn là tiến lên phía trước.
Sáu máy bay ném bom ban đêm to lớn kiểu «TB — 3» bốn động cơ lừ lừ
bay trên khu rừng với tiếng rống ì ì chậm chạp tưởng chừng như chúng không bay mà đang bò trên trời. Bên cạnh chúng, không thấy một máy bay tiêm kích nào của ta. Xintxốp lo lắng nghĩ đến những chiếc «Métxersmít»
vừa mới sục sạo trên đường xong và anh cảm thấy trong người bổn chồn.
Nhưng những chiếc máy bay ném bom biến khỏi tầm mất một cách yên ổn và mấy phút sau đã nghe có tiếng những quả bom hạng nặng nổ ở phía trước.
Theo những cột mốc thấp thoáng hiện ra bên đường thì chỉ còn bốn cây số
nữa là đến bờ sông Bêrêdina. Bây giờ Xintxốp đinh ninh rằng mình sắp sửa gặp những đơn vị quân ta, vì dù sao cùng không thế nào lại không có ai ở
bờ bên này sông được. Bỗng lại có mấy người từ trong rừng nhảy vọt ra, vẫy tay cuống cuồng. Người lái xe nhìn Xintxốp có ý hỏi, nhưng Xintxốp không nói gì và xe vẫn tiếp tục chạy. Những người đã nhảy ra đường bèn chụm tay lên miệng làm loa gọi với theo í ới:
—Đỗ lại!—Xintxốp bảo người lái xe.
Một trung sĩ công binh thở hổn hến chạy đến bên xe và hỏi Xintxốp xem xe đi đâu.
— Đi Bôbruixk.
Người trung sĩ lau mồ hôi nhễ nhại trên mặt và sau khi nuốt nước bọt đánh ực một cái khiến cục hầu đưa lên đưa xuống trên cổ, anh cho biết là bọn Đức đã vượt sang bờ bên này Bêrêdina rồi.
— Đức gì vậy?
— Xe tăng...
— Ở chỗ nào?
—Cách đây bảy trăm mét. Chúng tôi vừa choảng nhau với chúng xong! —
trung sĩ chí tay về phía trước. — Toàn đội chúng tôi đang tiến theo hành trình đã định để tới khu vực gài min thì bị một xe tăng của chúng nã súng ra, chỉ một quả đại bác đã giết mất của chúng tôi
mười người. Đây, chúng tôi còn có...—anh lúng túng nhìn những người lính hồng quân đứng bên,—
còn lại có bảy người cả thảy... ít ra cũng có lấy một quá bộc phá hay một ít lựu đạn, chứ còn cái ngữ này thì làm gì được xe tăng?! — Trung sĩ bực tức nện báng súng xuống đất.
Xintxốp vẫn phân vân chưa chịu tin rằng đích thực bọn Đức đã tiến gần đến thế, nhưng động cơ chiếc xe tải đã tắt và lập tức nghe rõ tiếng súng máy nổ ròn phía bên trái đường sắt ngay cạnh đó, chắc hẳn là ở bên này sông Bêrêdina.
— Báo cáo đồng chí chính trị viên! —lần đầu tiên trong
suốt chặng đường, Liuxin từ trong hòm xe cất tiếng nói ra. — Đồng chí cho phép nói ạ? Có lẽ chúng ta hãy quay trở lại chờ cho đến lúc điều tra rõ tinh hình.
Nỗi sợ hãi lộ rõ trên sắc mặt thường vốn hồng hào của anh ta, lúc đó đã tái nhợt đi, tuy vậy anh ta vẫn nói với Xintxốp theo đúng điều lệnh.
— Quay lại thôi. — Xintxốp nói và mặt cũng tái đi nốt.
Cho tới giờ anh không hề nghĩ rằng chỉ đi nửa cây số hay một cây số nữa là họ sẽ sa vào tay bọn Đức! Sau khi nhả
côn, rú ga ẩm ì. người lái xe cho xe quay trở lại và trước mặt Xintxốp thoáng hiện ra những bộ mặt bối rối của các chiến sĩ bị anh bỏ lại trên đường.
— Đỗ lại!—xấu hổ với thái độ yếu đuối của mình, anh quát lên và bóp vào vai người lái xe mạnh đến nỗi anh này bị đau kêu ai ái.— Trèo lên xe đi! — Xintxốp thò đầu ra khói buồng lái gọi những người lính hồng quân.—Đi theo tôi.
Mặc dầu đã phục vụ một năm rưỡi trong tòa báo quân đội, đây là lẩn đầu tiên trong đời anh thực sự ra lệnh cho những người khác theo
quyền hạn của người có nhiều sao trên phù hiệu hơn họ. Những người lính hồng quân lần lượt nhảy lên thùng xe, chỉ có người cuối cùng là lề
mề ì ạch. Các bạn đểu đưa tay dìu kéo anh lên và mãi bây giờ Xintxốp mới nhận ra là anh ta bị thương: một chân anh ta đi ủng, còn chân kia đã phải tháo ủng ra, bê bết máu.
Xintxốp liền nhảy ra khói buồng lái, ra lệnh xếp cho người bị thương ngồi vào chỗ của mình. Thấy mệnh lệnh của mình được tuân theo, anh tiếp tục ra lệnh, và mọi người lại nghe theo anh. Người lính hồng quân đã được chuyển lên ngồi ở buồng lái, còn Xintxốp thì trèo sang thùng xe. Bị thôi thúc trước tiếng súng máy bây giờ
nghe mỗi lúc một rõ thêm, người lái xe phóng xe quay trở lại Môghilép.
— Máy bay! — một chiến sĩ hốt hoảng kêu lên.
— Máy bay ta đấy! — một người khác nói.
Xintxốp ngửng đầu nhìn lên. Ba chiếc «TB-3» bay không cao lắm, đang quay trở về ngay phía bên trên đường.
Những tiếng bom nổ mà Xintxốp vừa nghe thấy chắc hẳn là kết quả công việc chúng đã làm. Bây giờ chúng quay về một cách bình yên vô sự, thong thả lấy lại độ cao tối da. Nhưng cũng như ban nãy, khi
những chiếc máy bay này bay đi ném bom, bây giờ linh tính nhạy bén vẫn báo cho Xintxốp biết là sẽ có chuyện không hay xảy ra khi chúng trở về.
Quả thế, từ một noi nào ở phía trên cao, một chiếc
«Métxersmit» bé nhỏ, nhẹ nhàng như một con ong bò vẽ, đột nhiên lao ra khỏi những đám mây thưa thớt và bắt đầu đuổi theo mấy chiếc máy bay ném bom vói một tốc độ đáng sợ.
Mọi người ngồi trên xe tải im lặng bám chặt lấy thành xe, quên cả bản thân và cả nỗi kinh hoàng vừa choán lấy tâm trí họ, quên tất cả mọi sự trên đời, nơm nớp nhìn
lên trời. Chiếc «Métxersmít» bay xiên qua phía dưới đuôi chiếc máy bay ném bom cuối cùng đã bay tụt lại sau hai chiếc kia và chiếc máy bay ném bom này lập tức bốc cháy một cách đột ngột, tựa hồ như khi người ta châm lửa vào tờ giấy đặt trong lò vậy. Nó còn tiếp tục bay, vừa bay vừa chúi thấp xuống và mỗi lúc một bốc khói nhiều hơn, sau đó lơ lửng tại chỗ trong chốc lát rồi rơi xuống rừng, để lại một vệt khói đen trên không.
Chiếc «Métxersmít» lấp lánh dưới ánh nắng thành một mảnh thép mỏng manh, vút lên cao, lộn trở lại và rít lên, lao vào đuôi chiếc máy bay ném bom thứ hai. Tiếng súng máy vang lên ùng ục một loạt ngắn. Chiếc
«Métxersmít» lại vọt lên cao, còn chiếc máy bay ném bom thứ hai thì kéo lê trên khu rừng chừng nửa phút, mỗi lúc một nghiêng về một bên cánh rối lộn ngửa ra, đâm sầm xuống khu rừng theo chiếc thứ nhất.
Chiếc «Métxersmít» rít lên, nhào lộn một vòng rồi theo đường chếch từ phía trên lại sà xuống đuôi chiếc máy bay ném bom thứ ba, chiếc cuối cùng đang bay phía trước nó.
Và cánh tượng ban nãy lại diễn ra lần nữa: tiếng súng máy ùng ục từ xa khẽ vọng đến, tiếng rít lanh lánh của chiếc «Métxersmít» đang vút lên sau khi bổ nhào, một làn khói đen dài lặng lẽ trái ra trên khu rừng và tiếng nổ
ẩm ầm đằng xa.
— Máy bay ta lại còn đến nữa kìa! — một trung sĩ đã hốt hoảng kêu lên, khi mọi người chưa kịp hoàn hồn sau cánh tượng vừa trông thấy.
Anh ta dừng trong thùng xe đưa cả hai tay lên vẫy, nom kỳ dị tựa hồ như muốn ngăn lại và cứu thoát một tốp ba chiếc máy bay nữa vừa đi ném bom về, từ phía sau hiện ra trên khu rừng.
Xintxốp hết sức sửng sốt nhìn lên không, hai tay nắm chặt lấy chiếc quai đeo súng lục; người cảnh sát ngồi bên anh thì chắp tay lại như cầu nguyện các phi công hãy trông thấy, nhanh nhanh trông thấy con ong bò vẽ bằng thép đáng sợ đang quay cuồng ở trên trời kia!
Tất cả mọi người ngồi trên xe cũng đều cầu khấn như vậy, nhưng các phi công hoặc là không nhận thấy gì hoặc là đã trông thấy nhưng không thể làm gì được. Chiếc «Metxersmít»
lao vút lên những đám mây và bỗng biến mất. Xintxốp thoáng nảy ra tia hy vọng là tên phi công Đức đó không còn đạn nữa.
—Trông kìa, chiếc thứ hai! — người cảnh sát nói.— Trông kìa, chiếc thứ hai!
Và Xintxốp đã trông thấy không phải một chiếc mà là hai chiếc «Métxersmít» nữa đã từ
trong dám mây lao ra. Và gần như sát cánh nhau, với một tốc độ ngoài sức tưởng tượng, chúng đã đuối kịp ba chiếc máy bay đang bay lừ đừ, lướt ngang qua chiếc bay cuối cùng.
Chiếc máy bay ném bom này bắt đầu bốc khói, còn chúng thì hí hứng vọt lên cao như vui mừng được gặp gỡ nhau và tránh nhau ở trên không, chúng đối chỗ cho nhau rồi lại lướt trên đầu chiếc máy bay ném bom, xả súng máy ròn rã. Nó lập tức bùng cháy và rơi xuống, rã ra từng mánh ngay khi còn ở trên không.
Thế rồi hai chiếc tiêm kích ấy lại đuổi theo những chiếc ném bom kia. Hai chiếc máy bay nặng nể vẫn cố ngóc lên cao. bướng bỉnh kéo lê, kéo lê mãi trên khu rừng, rời xa chiếc xe tải đang đuổi theo chúng trên đường với những con người lặng lẽ quây quần lại với nhau trong một nỗi đau khổ chung.
Lúc này, những phi công trên hai chiếc máy bay đêm âm thẩm ì ạch ấy đang nghĩ gì, hy vọng vào cái gì? Họ có thể làm gì được ngoài việc kéo lê mãi trên khu rừng với một tốc dộ
chậm chạp đến tuyệt vọng và chỉ còn mỗi một hy vọng là địch sẽ chủ quan, thiếu tính toán và bất ngờ tự lao đầu vào mũi súng máy đặt ở dằng đuôi những máy bay của họ.
«Tại sao không nhảy dù nhỉ? —Xintxốp nghĩ thầm — Hay là họ chẳng có dù nữa cũng nên?»
Lần này thì tiếng súng máy nổ trước khi những chiếc «Mctxersmít» đến gần được chiếc máy bay ném bom: nó đã tìm cách bắn trả lại. Rồi chiếc «Metxersmít» đã bổ nhào đến gần sát chiếc máy bay ném bom ấy bỗng không ngóc lên được nữa, và biến mất sau rừng. Tất cả
những sự việc đó đã diễn ra nhanh như chớp đến nỗi những người ngồi trên xe tải cùng không kịp hiểu ngay là chiếc máy bay Đức đã bị hạ nữa; đến khi hiểu ra, họ đã reo hò vui sướng, nhưng tiếng hò reo lập tức ngừng bặt lại: chiếc «Métxersmít» thứ hai đã lại một lần nữa lướt qua trên chiếc máy bay ném bom và bắn cháy nó. Lần này, hình như để trả lời những ý nghĩ của Xintxốp mấy hòn nhỏ kế tiếp nhau văng ra từ chiếc máy bay này, một hòn lao vút xuống như một hòn đá, còn phía trên bốn hòn kia thì đã xòe ra những chiếc dù.
Tên phi công Đức đã bị mất đồng bọn liền xoay ra lượn tròn trên đầu những người nhảy dù, xả súng máy để trả thù. Nó bắn chết những phi công đang lơ lửng trên khoảng rừng—
những người ngồi trên xe tải đều nghe thấy những loạt đạn ngắn gọn của nó. Tên Đức tiết kiệm đạn, nhưng những chiếc dù hạ xuống rừng quá chậm khiến cho tất cả những người đi trên xe lúc này, nếu có thể nhìn được nhau thì đểu sẽ thấy tay họ đang cùng làm một động tác giống nhau, như muốn nói lên : xuống đi, xuống đi, xuống đất đi !
Chiếc «Métxersmít» lượn vòng trên đầu các phi công nhảy dù, theo họ xuống tới tận rừng, sà xuống sát trên ngọn cây tựa hồ như còn tìm kiếm cái gì ở dưới đất, rồi biến mất.
Chiếc máy bay ném bom thứ sáu, chiếc cuối cùng đã nhòa đi ở phía chân trời. Trên bầu trời chẳng còn gì nữa, tưởng như trên đời này không hể và chưa bao giờ có những chiếc máy bay to lớn, chậm chạp và bất lực ấy; chẳng có cả máy bay, cả những người ngồi trên đỏ, cả
tiếng súng máy ùng ục, cả những chiếc «Métxersmít»,—chẳng có gì cả, chỉ có bần trời hoàn toàn trống không với mấy cột khói đen đã bắt đầu tỏa lan trên khu rừng.
Xintxốp vẫn đứng trên chiếc xe tải đang phóng trên đường, anh khóc nấc lên vì uất hận.
Vừa khóc anh vừa đưa lưỡi liếm những giọt nước mắt mằn mặn chảy xuống môi và không nhận thấy là tất cả mọi người cũng đang cùng khóc với anh.
— Đỗ lại! Đỗ lại! — anh sực tỉnh trước tiên và nắm tay đấm thình thình lên nóc buồng lái.
— Gì thế?—người lái xe ló đầu ra hỏi.
— Phải đi tìm mới được! —Xintxốp nói. — Phải đi tìm, biết đâu có thể họ vẫn còn sống, những anh em nhảy dù xuống ấy mà...
—Nếu muốn tìm họ thì phải đi thêm một quãng nữa, đồng chí thủ trưởng ạ. Họ bị gió đẩy đi đấy, — người cảnh sát nói, mặt anh sưng mọng nước mắt như mặt một đứa trẻ con.
Họ đi thêm một cây số nữa rồi dừng lại và xuống xe. Ai nấy đều nhớ là quân Đức đã vượt qua sông Bêrêdina, nhưng đồng thời cũng quên khuấy cả điều đó. Khi Xintxốp ra lệnh chia nhau đi men theo hai bên vệ đường để tìm các phi công thì không ai bàn cãi gì nữa cả.
Xintxốp, hai người cảnh sát và người trung sĩ sục sạo hồi lâu trong khu rừng bên phải đường, hú gọi ầm ĩ nhưng cũng chẳng tìm thấy ai : không thấy anh em phi công mà cũng chẳng thấy có chiếc dù nào. Thế nhưng những anh em đó đã rơi xuống đâu đây, trong khu rừng này, nhất định phải tìm bằng được, nếu không thì bọn Đức sẽ tóm
được họ. Sau một giờ tim kiếm kiên trì và vô hiệu, cuối cùng Xintxốp đành chịu trở ra mặt đường.
Liuxin và những anh em khác đều đã đứng bên xe. Mặt mũi Liuxin sây sát, chiếc áo sơ mi bộ đội rách toạc, còn hai túi áo thì nhét đầy ắp đấn nỗi một bên đứt bật cả cúc.
Tay anh ta vẫn cẩm một khẩu súng lục.
— Báo cáo đồng chí chính trị viên, chúng nó đã bắn chết cả hai người,—Liuxin nói với vẻ đau khổ và đưa tay chùi bộ mặt sây sát.
— Đồng chí làm sao vậy?
— Tôi vừa trèo lên một cây thông. Tội nghiệp một đồng chí bị mắc tít trên ngọn cây, treo ngược chân lên trời.
Đồng chí ấy đã tắt thở, chúng nó đã bắn chết đồng chí ấy từ lúc còn ở trên không.
— Còn người thử hai?
— Cũng bị giết nốt.
— Tên phát xít coi người như rác! — một chiến sĩ hồng quân căm thù nói.
— Tôi đã thu lượm lại giấy tờ, —Liuxin nói và sờ tay vào chiếc tủi đã bị đứt khuy. — Trao lại cho đồng chí chứ ạ?
— Đồng chí cứ giữ lấy.
— Vậy xin đồng chí cầm lấy khẩu súng lục, —Liuxin trao cho Xintxốp khẩu «Braoninh» xinh xắn.
Xintxốp xem qua khẩu «Braoninh» rồi nhét vào túi.
— Còn đồng chí không tỉm thấy gì sao, đồng chí chính trị viên?—Liuxin hỏi.
— Không.
— Nhưng tôi cho rằng những người nhảy dù xuống bên phải đường đã bị gió tạt đi xa hơn,— Liuxin nói.—Phải đi thêm khoảng bốn trăm mét nữa, tất cả xuống xe dàn hàng ngang ra mà càn khu rừng.
Nhưng họ chẳng phải càn khu rừng. Khi xe chạy được thêm bốn trăm thước nữa và đồ lại thì đã thấy một phi công thấp lùn, to ngang, mặc sơ mi bộ đội mùa hè và đội chiếc mũ bay sụp xuống tận mắt đang từ trong rừng đi về phía họ, vừa đi vừa cúi gập người vì vác nặng. Anh cõng một phi công thử hai mặc bộ áo liền quần. Anh này bị thương, tay quàng qua cổ bạn, còn chân thì kéo lê dưới đất.
— Đỡ lấy!—người phi công nọ nói gọn lỏn.
Liuxin và những người linh hồng quân chạy lại đỡ lấy
người bị thương ở trên vai anh ta, đặt xuống vệ cỏ bên đường. Cả hai chân người phi công này đều đã bị bắn nát, anh nằm trên cỏ, thở nặng nhọc, đôi mắt khi thì mở
ra khi thì nheo lại. Trong lúc Liuxin nhanh nhẹn dùng dao dip rạch ủng, rạch quần áo, rồi lấy băng cá nhân băng bó cho người bị thương thì người phi công thấp lùn, bỏ mũ
ra lau mồ hôi nhễ nhại trên mặt và làm mấy động tác thư duỗi đôi vai ê ẩm vì vác nặng.
Sau khi đã lau mồ hôi xong, đội mũ vào rồi ấn sụp nó xuống tựa hồ như chính anh không muốn nhìn ai mà cùng không muốn cho ai trông thấy mặt mình, cuối cùng anh buồn bã hỏi: — Các đồng chí trông thấy rồi chứ?
— Ngay trên đầu chúng tôi... — Xinlxốp nói.
— Các đồng chí thấy đấy, chúng nó đã tiêu diệt những con chim ưng của Xtalin như lũ mèo mù, — người phi công mở đầu câu chuyện. Giọng anh run run chua chát, nhưng rồi anh đã lấy lại được nghị lực, không nói gì thêm nữa, kéo sụp thêm chiếc mũ xuống mặt.
Xintxốp nín lặng. Anh không biết trả lời ra sao.
— Tóm lại, chúng tôi đã đánh trúng được nơi địch vượt sông, đã nhận chìm được cái cầu cùng lũ xe tăng của chúng xuống nước, đã hoàn thành được nhiệm vụ, —
người phi công nói. — Giá mà có ít ra cũng là một chiếc tiêm kích đi yểm hộ cho cả bọn chúng tôi!
—Chúng tôi cũng đã tim thấy hai đồng chí khác, nhưng họ hy sinh cả rồi,—Xintxốp nói.
— Chúng tôi cũng chết dở, — người phi công nói. — Các đồng chí đã thu lượm lại giấy tờ và vũ khí cả rồi chứ?— Anh nói tiếp với một giọng khác hẳn, giọng của một người quyết tâm lấy lại bình tĩnh và đã hoàn toàn trấn tĩnh.
— Đã thu lượm cả rồi, — Xintxốp nói.
— Một đồng chí hoa tiêu cừ nhất trung đoàn về bay mò và bay đêm đấy, —
quay sang phía người bị thương đang được Liuxin băng bó, người phi công nói. — Hoa tiêu của tôi đây! Một tố bay cừ nhất trung đoàn, thế mà đã bị
nướng rẻ như bèo!—Anh ta lại nghẹn ngào kêu lên rồi vụt lấy lại bình tĩnh như hồi nãy, anh hỏi một cách thiết thực: —Ta đi chứ?
Người ta đặt anh hoa tiêu bị thương lên thùng xe sát vào buồng lái cho đỡ
xóc và lót vài chồng báo dưới chân anh. Người phi công ngồi cạnh người hoa tiêu của mình, ở đằng sau, đoạn tất cả anh em khác cũng lên xe. Xe chuyển bánh nhưng rồi đỗ sịch lại gần như ngay sau đó.
Đây chính là cái ngã tư mà hồi nãy Xintxốp đã chia bánh bíchcốt cho người lính gác. Người chiến sĩ hồng quân vẫn đứng ở đó như trước, khi trông thấy chiếc xe tải trở lại liền nhảy ra giữa đường vung quả lựu đạn lên tựa hồ như
sắp sửa ném nó vào gầm xe.
— Báo cáo chính trị viên, — anh ta nói với một giọng làm cho Xintxốp thấy lạnh toát cả người. — Báo cáo chính trị viên, thế là thế nào ạ? Hai ngày đêm mà không đổi gác... Báo cáo chính trị viên, chả lẽ không có một lệnh nào khác hay sao?
Xintxốp cũng biết nếu trả lời dứt khoát rằng sẽ không có lệnh nào khác, rằng sẽ có người đến đổi gác thì nhất định anh ta vẫn cứ sẽ đứng mãi ở đó thôi.
Nhưng ai bảo đảm đích thực là sẽ có người đến đổi gác cho anh ta?
—Tôi cho phép đồng chí rời trạm gác, — Xintxốp nói, cố nhớ lại công thức ra lệnh mà cấp trên phải dùng để đối gác, nó hình như đã cố tình nhảy ra khỏi đầu óc anh đúng vào giây phút này. — Tôi cho phép đồng chí rời khỏi trạm gác, đồng chí sẽ báo cáo sau! — Anh nhắc lại vì không nhớ ra được điều gì khác và sợ người chiến sĩ thấy mệnh lệnh phát ra không được chính xác sẽ
không tuân theo, sẽ cứ ở lại trạm gác và sẽ bị giết. — Lên xe đi với tôi!
Người lính thở dài nhẹ nhõm, cài lựu đạn vào thắt lưng rồi trèo lên đằng sau xe.
Xe vừa chuyển bánh thì trên trời lại hiện ra ba chiếc «TB-3» nữa đang bay về phía Bôbruixk. Lần này chúng được một máy bay tiêm kích hộ tống. Chiếc tiêm kích bay vút lên trời cao rồi lại lao vùn vụt xuống phía trên đoàn máy bay ném bom để điều hòa sự vận động chậm chạp của bạn với tốc độ nhanh gấp đôi của mình.
— Ít ra phi đội này cũng được hộ tống, — anh phi công của chiếc máy bay ném bom đã bị hạ nói với Xintxốp ; giọng nói của anh lộ rõ một tâm tình nhẹ
nhõm, khác hẳn với tai họa mà chính anh vừa gặp phải.
Nhưng Xintxốp chưa kịp trả lời thì hai chiếc «Métxersmít» đã từ trong mây bất thình lình vọt ra. Chúng lao tới những chiếc máy bay ném bom; chiếc tiêm kích của ta liền lộn trớ lại đón đánh chúng, trên đường bay đón đầu đã vút thẳng lên cao, lật cánh, lướt qua một chiếc «Métxersmít» và bắn cháy nó.
— Cháy rồi, cháy rồi! — người phi công reo lên.—Trông kìa, cháy rồi!
Thù được trả, niềm vui sướng tràn ngập trong lòng những người ngồi trên xe. cả người lái xe cũng buông một tay, vươn cả người ra khỏi buồng lái.
Chiếc «Métxersmít» bốc cháy rơi xuống; tên phi công từ trong máy bay bung ra, mở dù cao tít trên không.
— Bây giờ cả chiếc thứ hai cũng sẽ bị hạ cho mà xem — người phi công reo lên. —Đấy, trông kia! —Anh ta cứ lắc tay Xintxốp hoài mà không để ý.
«Con chim kền kền nhỏ» đang vọt thẳng lên cao, nhưng không hiểu sao chiếc máy bay Đức thứ hai đã bay ở phía trên nó rồi; tiếng súng máy lại âm vang, chiếc «Métxersmít» bay vút ngược lên, còn chiếc
tiêm kích của ta thì bốc khói đâm nhào xuống. Từ trong máy bay văng ra một hòn nhỏ đen đen và, với một tốc độ nhanh đến nỗi hầu như mắt thường không thấy kịp, nó rơi xuống mỗi lúc một thấp và mãi khi tới sát ngọn thông, vào lúc tưởng chừng như không còn hy vọng gì nữa thì cuối cùng chiếc dù mới xòe ra. Chiếc
«Métxersmít» ung dung đảo một vòng rộng rồi bay về hướng Bôbruixk đuổi theo những chiếc máy bay ném bom.
Người phi công đứng phắt dậy trong thùng xe, chửi rủa kinh khủng và vung cả hai tay lên, nước mắt chảy ròng ròng trên mặt. Còn Xintxốp đã trông thấy tất cả cái cảnh đó tới lần thứ năm rồi, giờ đây đành ngảnh mặt đi để khỏi phải thấy thêm một lẩn nữa. Anh chỉ nghe tiếng súng máy lại ùng ục từ đằng xa vẳng tới, nghe thấy người phi công nghiến răng kèn kẹt, thất vọng kêu lên : «Thế là xong», rồi thấy anh ta đưa tay lên che mặt, ngồi phịch xuống sàn xe.
Xintxốp ra lệnh dừng xe lại. Chiếc dù của tên Đức vẫn lơ lửng cao tít trên đầu, còn người phi công của ta đã xuống tới đất và cứ theo mắt nhìn thì cách đây không xa lắm, chỉ chừng hai cây số về phía Bôbruixk.
—Đồng chí vào rừng tóm cố tên phát xít ấy lại!—Xintxốp bảo Liuxin. —Mang chiến sĩ đi theo!
— Bắt sống chứ ạ?—Liuxin hỏi một cách năng nổ.
—Tùy tình hình!
Đối với Xintxốp thì việc bắt sống hay giết chết tên Đức đó cũng đều được cả, anh chỉ muốn sao cho khi những tên Đức khác đến đây thì thằng này không gặp được bọn chúng nữa, thế thôi!
Hai người bị thương là người hoa tiêu và người chiến sĩ đang ngồi trong buồng lái đều được đưa xuống và đặt dưới gốc cây. Người được cắt lại để
canh phòng cho họ là anh đội viên có lựu đạn mà Xintxốp đã cho thôi gác.
Xintxốp nghĩ thầm: «Dù có xảy ra chuyện gì chăng nữa thì anh ta cũng không thể bỏ rơi những người bị thương».
Liuxin, trung sĩ và các chiến sĩ khác vào rừng bắt tên Đức, còn Xintxốp thì mang theo người phi công và hai người cánh sát đảnh xe quay trở lại.
Họ lại chạy về hướng Bôbruixk, hết sức chú ý quan sát hai bên đường, hy vọng rằng đứng trên xe cũng có thể trông thấy chiếc dù, tưởng là nó đã hạ
xuống ngay sát đường.
Chính trong lúc đó thì quả là người phi công mà họ đi tìm đang nằm cách đường một trăm bước trong một khu rừng thưa nhỏ. Không chịu để cho bọn Đức bắn mình ở trên không, anh đã bình tĩnh mở dù thật chậm, nhưng không tính toán được đến nơi đến chốn, anh giật nút dù chậm mất mấy giây.
Chiếc dù gần như xuống sát mặt đất mới mở, người phi công bị gẫy cả hai
chân, cột sống gẫy nát do đập vào một gốc cây cụt. Lúc này anh nằm bên gốc cây đó, biết rằng thế là hết: cơ thể từ thắt lưng trở xuống không sao điều khiển được nữa, đã liệt mất rồi, dù có muốn bò trên mặt đất cũng không thể được. Anh nằm nghiêng, vừa khạc ra máu vừa nhìn lên trời. Chiếc
«Métxersmít» đã hạ anh đang đuổi theo những chiếc máy bay ném bom lúc này không được bảo vệ gì nữa, trên bầu trời đã thấy một chiếc tỏa khói ở
đằng đuôi.
Cái người đang nằm trên mặt đất ấy chưa bao giờ sự chết cả. Trong quãng đời ngắn ngủi của mình, đã nhiều lần anh bình thản nghĩ rằng một lúc nào đó anh có thế bị bắn rơi hay bị bắn cháy, cũng như anh đã nhiều lần bắn rơi và bắn cháy những kẻ khác vậy. Mặc dầu bản chất can đảm của anh đã làm bạn bè phải thèm muốn, vậy mà lúc này anh thấy khiếp sợ đến tuyệt vọng.
Anh bay đi hộ tống tốp máy bay ném bom, nhưng một chiếc đã bốc cháy ngay trước mắt anh, hai chiếc khác thì biến về phía chân trời và anh không còn giúp gì cho chúng được nữa. Anh cho là mình đã nằm trong khu vực bị
bọn Đức chiếm và căm giận nghĩ tới lúc bọn phát xít sẽ đứng bên cạnh anh, vui mừng thấy kẻ chết lăn lóc dưới chân chúng là một người mà kể từ năm một nghìn chín trăm ba mươi bảy, từ cuộc chiến tranh Tây Ban Nha, đã được báo chí nói đến hàng chục lần! Cho tới nay anh vẫn lấy làm tự hảo và đôi khi còn kiêu hãnh vể điều đó. Nhưng lúc này anh sẽ sung sướng, nếu chưa bao giờ báo chí viết gì về anh hết, nếu bọn phát xít khi tới đây chỉ thấy xác của một thượng úy vô danh bốn năm trước đây đã hạ chiếc «Phốcke» đầu tiên trên bầu trời Mađrít, chứ không phải xác của trung tướng Côdưrép. Anh căm giận và thất vọng nghĩ rằng dù cho anh có đủ sức để xé nát giấy tờ đi nữa thì bọn Đức vẫn nhận ra anh và sẽ khoe khoang là đã hạ được Côdưrép, một trong những phi công thiện chiến đầu tiên của Liên Xô, bằng một giá rẻ mạt.
Lẩn đầu tiên trong đời anh nguyền rủa cả cái ngày giờ mà trước đây anh vẫn lấy làm tự hào, khi chính Xtalin đã gọi anh về, sau những trận chiến đấu ở
Khankhingôn và đề bạt thẳng từ đại tá lên trung tướng, bổ nhiệm anh chỉ
huy lực lượng tiêm kích của cả một quân khu.
Bây giờ giáp mặt cái chết, anh không cần phải dối trá ai nữa cả: anh chẳng chỉ huy được ai ngoài bản thân mình, và tuy đã là cấp tướng nhưng thực ra anh vẫn chỉ là một thượng úy. Điều đó đã được
chứng thực ngay từ ngày đầu chiến tranh một cách vô cùng khủng khiếp, và chẳng phải chỉ đối với riêng mình anh. Lý do của những sự để bạt kiểu chớp nhoáng như vậy là lòng dũng cảm tuyệt vời và những tấm huân chương kiếm được bằng xương máu.
Nhưng những ngôi sao cấp tướng không đem lại cho anh năng lực chỉ huy
hàng ngàn con người và hàng trăm máy bay.
Trong suốt những năm gần đây, những năm tháng đã khiến anh say sưa ngây ngất, thì lúc này dở sống dở chết, thịt nát xương tan, nằm ì trên mặt đất mà không đủ sức để nhích khỏi chỗ, lần đầu tiên anh cảm thấy thấm thía tất cả tính chất bi thảm của biến cố đã xảy ra với mình và toàn bộ mức độ
nghiêm trọng trong sự lầm lỗi vô tình của mình, lầm lỗi của một người đã vọt tháng một mạch lên đến tột đỉnh vinh quang, vượt qua những bậc thang dài dằng dặc trong võ nghiệp. Anh nhớ lại là mình đã tỏ ra chẳng lo lắng gì đối với cuộc chiến tranh sắp bùng nổ và khi chiến tranh xáy ra thì mình đã chỉ huy tồi. Anh nhớ lại những sân bay của mình với nửa số máy bay không trong tình trạng sẵn sàng chiến đấu, nhớ lại những chiếc máy bay của mình đã bốc cháy ngay trên mặt đất, nhớ lại những phi công của mình đã liều lĩnh cất cánh dưới bom đạn và đã hy sinh mà chẳng kịp bay lên cao. Anh nhớ lại những mệnh lệnh mâu thuẫn mà chính mình đã phát ra giữa cơn hoang mang và choáng váng trong những ngày đầu, trong khi lồng lộn lái chiếc tiêm kích, liều cả mạng mình từng giờ từng phút mà rốt cuộc vẫn hầu như
không kịp cứu vãn được gì.
Anh nhớ lại bức điện trối trăng ngày hôm nay của một trong những chiếc «TB-3» nọ đã đi ném bom nơi địch vượt sông và đã bị bắn cháy. Việc phái những máy bay đó đi ban ngày thiếu sự yểm hộ của máy bay tiêm kích là điều không thể được, là một tội lỗi, nhưng họ vẫn tình nguyện ra đi và đã cất cánh, vì dù sao chăng nữa cũng phải
phá bằng được nơi địch vượt sông, mà máy bay tiêm kích để yểm hộ thì không còn nữa.
Sau khi hạ được một chiếc «Métxersmít» gặp dọc đường, lúc đỗ xuống sân bay Môghilép, anh thấy trong ống nghe tiếng nói rất quen thuộc của thiếu tá Isencô, một người bạn cũ của anh từ hồi ở trường không quân Elét: «Nhiệm vụ đã hoàn thành. Chúng tôi đang trở về. Bốn chiếc đã bị
bắn cháy, bây giờ đến lượt tôi. Chúng tôi xin hy sinh cho Tổ quốc. Vĩnh biệt! Gửi lời cảm ơn Côdưrép đã yểm hộ
chu đáo cho chúng tôi!»—nghe xong anh đưa hai tay lên ôm lầy đầu, ngồi thừ ra đến một phút, cố xua đuổi ý định muốn rút súng lục ra tự sát ngay trong căn phòng sĩ quan trực chiến này. Rồi anh hỏi xem những chiếc «TB-3» có còn phải đi ném bom nữa không, nhưng người ta báo anh rằng chiếc cầu đã bị phá hủy, nên có lệnh phải phá hủy cả bến sông cùng với những phương tiện vượt sông của địch nữa; cũng như trước, người ta vẫn không có một phi đội ném bom ban ngày nào trong tay, cho nên lại một tốp ba chiếc «TB 3» nữa đã cất cánh.
Nháy ra khói phòng thường trực, chẳng nói với ai một lời nào, anh ngồi vào chiếc tiêm kích và bay lên. Khi ra khói đám mây và trông thấy những chiếc máy bay ném bom còn nguyên vẹn và không bị sứt mẻ đang bay ở phía dưới thì đó là một trong những phút hạnh phúc ít ỏi của anh trong suốt những ngày gần đây. Nhưng một phút sau, anh đã giáp chiến với những chiếc «Métxersmít» và kết quá của trận chiến đấu đó là rốt cuộc anh vẫn bị chúng bắn rơi.
Ngay từ ngày đầu chiến tranh, khi hầu hết những chiếc tiêm kích «MIG» mới mà quân khu vừa nhận được ít lâu đã bị thiêu cháy trên các sân bay, anh đã chuyến sang lái một chiếc «I-16» cũ kỹ để lấy tấm gương của bản thân mình mà chứng minh rằng với những chiếc máy bay đó vẫn có thể giao chiến với những chiếc «Métxersmít»
được. Dĩ nhiên là có thể chiến đấu được thật, nhưng khó
khăn đấy, bởi vì tốc độ không đú.
Nhất định không đế bị bắt làm tù binh, điều đó thì rõ rồi, nhưng anh chỉ phân vân không biết nên tự sát vào lúc nào, nghĩa là nếu bọn Đức lại gần thì thoạt tiên hãy cố
giết được một thằng đã, hay là nên tự sát trước đế khỏi bị ngất xíu và bị bắt làm tù binh trong khi chưa kịp tự kết liễu đời mình.
Trước khi chết, anh chẳng cảm thấy khiếp sợ gì, mà chỉ
lấy làm buồn rằng mình sẽ chẳng bao giờ biết được mọi việc rồi đây sẽ ra sao. Phải, chiến tranh đã ập đến thật bất ngờ; phải, chúng ta đã không kịp trang bị lại bằng vũ
khí mới; phải, cả anh và nhiều người khác lúc đầu đã chí huy một cách kém cỏi, đã lúng túng. Nhưng toàn bộ bản chất quân nhân của anh, lòng tin của anh vào quân đội mình, vào đồng chí mình và cuối cùng là lòng tin vào chính mình, — vì dù sao hôm nay anh cũng đã bổ sung thêm được hai tên phát xít nữa vào số hai mươi chín tên đã bị hạ ở Tây Ban Nha và Mông Cố, — tất cả những cái đó đã chống lại ý nghĩ khủng khiếp cho rằng cả sau này nữa bọn Đức cùng sẽ tiếp tục đánh lui chúng ta như trong những ngày đầu. Giá hôm nay anh chưa bị chúng hạ thì anh sẽ còn cho chúng biết tay. Và nhất định chúng ta sẽ
còn cho chúng biết tay! Niềm tin say sưa ấy đang rạo rực trong tấm thân gãy nát của anh, song một ý nghĩ tối tăm vẫn ám ánh như một cái bóng đen : «Nhưng ta sẽ
không bao giờ được trông thấy điều đó nữa».
Như những người có tâm hồn chật hẹp, vợ anh thường hay phóng đại địa vị của mình trong cuộc sống của chồng và sẽ không bao giờ tin rằng trong giờ hấp hối của anh, anh đã không nghĩ đến chị ta. Nhưng sự thực đúng là như
thế, và không phải vì anh không yêu — anh vẫn yêu vợ
— mà chẳng qua là vì anh đã nghĩ đến một điều khác hẳn. Điều anh đang nghĩ đó là một điều bất hạnh lớn lao đến nỗi bên cạnh nó không sao dung chứa được một nỗi đau khổ nhỏ mọn, một nỗi đau khổ không có gì đáng sợ
trong giây phút này, nỗi đau khổ vì không bao giờ còn được trông thấy bộ mặt mỹ miều mà giả dối nữa.
Người ta bảo rằng trước khi chết, con người thường ôn lại tất cả cuộc đời mình. Cũng có thể như vậy, nhưng anh thì trước khi nhắm mắt anh chỉ nhớ có chiến tranh ! Người ta bảo rằng trước khi chết con người thường nghĩ đến nhiều việc cùng một lúc. Cũng có thể như vậy, nhưng trước khi nhắm mắt anh chỉ rặt nghĩ đến chiến tranh. Rồi trong com chập chờn nửa tỉnh nửa mê, khi chợt nghe thấy tiếng người và khi cặp mắt đẫm máu trông thấy có ba bóng người tiến lại gần thì lập tức anh không nhớ đến cái gì khác ngoài chiến tranh, không nghĩ đến điều gì khác ngoài ý nghĩ rằng bọn phát xít đang tiến lại gần anh và anh phải bắn chúng trước rồi sẽ tự sát sau. Khẩu súng lục đang nằm trên cỏ dưới tầm tay anh, anh đưa bốn ngón tay sờ soạng cái báng xù xì của nó, còn ngón thứ năm thì đặt vào cò. Anh nhắc tay khói mặt đất một cách khó khăn rồi liên tiếp bóp cò bắn vào những bóng người xam xám nhòe nhoẹt trong màn sương mù đỏ máu. Khi đã
đếm được năm phát và vẫn còn sợ đếm nhầm, anh lần đưa khẩu súng lục lên mặt và bắn vào mang tai mình.
Hai người cảnh sát cùng Xintxốp đừng lại bên cạnh xác của người phi công đã tự sát. Trước mặt họ là một người máu me đầm đìa, đội mũ phi công, đôi phù hiệu màu xanh da trời trên cổ áo sơ mi quân phục có đính những ngôi sao cấp tướng.
Mọi việc đã diễn ra chớp nhoáng đến nỗi họ không kịp định thần. Họ vừa từ
trong bụi rậm đi ra khoảng rừng thưa, thấy người phi công nằm trên cỏ liền kêu ầm lên và chạy tới, thế nhưng mặc cho họ kêu: «Quân ta
đây!», anh ta cứ nổ súng bắn liên tiếp vào họ. Sau đó, khi họ chạy được gần tới nơi thì anh đưa tay lên thái dương, giãy giụa rồi đờ ra.
Người cảnh sát nhiều tuổi hơn quỳ xuống cởi khuy trên túi áo quân phục rồi hãi hùng móc ra giấy tờ của người đã hy sinh, còn Xintxốp thì bàng hoàng đứng lặng thinh bên cạnh, một tay giữ rịt lấy mạng sườn bị trúng đạn, chưa cảm thấy đau đớn mà mới chỉ thấy ê ẩm và thấy máu thầm ra qua áo sơ mi.
Ba ngày trước đây anh đã bắn chết một người mà anh muốn cứu sống, còn bây giờ thì một người khác mà anh cũng muốn cứu sống suýt nữa lại giết chết anh, nhưng sau đó đã tự sát và lúc này đang nằm dưới chân anh như
người chiến sĩ đã mất trí và đã chết trên đường hôm nọ.
Có lẽ người phi công này tưởng các anh là bọn Đức do những chiếc áo mưa bằng vải cao su màu xám của anh em cảnh sát chăng? Nhưng chả lẽ anh ta lại không nghe thấy những tiếng kêu: «Quân ta! Quân ta!» của các anh sao?
Một tay giữ rịt bên sườn sẫm máu, Xintxốp quỳ xuống và đón ở tay người cảnh sát tất cả những gì đã lấy ra được từ túi áo ngực của người chết. Trước hết, đó là tấm ảnh của một thiếu phụ xinh đẹp, mặt tròn, miệng mỉm cười với đôi môi nở và mọng. Xintxốp biết chắc chắn là mình đã có thấy người đàn bà này ở đâu rồi, nhưng không nhớ rõ được là bao giờ và ở chỗ nào.
Dưới tấm ảnh là các thứ giấy tờ như thẻ đảng viên, giấy chứng nhận huân chương và giấy chứng minh mang tên trung tướng Côdưrép.
«Côdưrép, Côdưrép...» — Xintxốp lẩm bẩm nhắc lại như vậy trong lúc còn chưa chắp nối được đầu đuôi sự việc, nhưng rồi anh bừng nhớ ra toàn bộ câu chuyện. Không phải chỉ có bộ mặt người đàn bà này rất quen thuộc đối với anh, quen thuộc từ những năm cắp sách tới trường—đó là Nađia hay như ở
"""