"
Những Người Săn Biệt Kích - Lê Văn Xiêm full mobi pdf epub azw3 [Chiến Tranh]
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Những Người Săn Biệt Kích - Lê Văn Xiêm full mobi pdf epub azw3 [Chiến Tranh]
Ebooks
Nhóm Zalo
NHỮNG NGƯỜI SĂN BIỆT KÍCH ---❊ ❖ ❊---
Tác giả: Lê Văn Xiêm
Nhà xuất bản: Công An Nhân Dân Nguồn text: Waka 11/2022
Đóng gói: @nguyenthanh-cuibap
I
M
ùa đông Trường Sơn thường đến sớm. Đó là lúc những đám mây ngủ yên lưng chừng, các ngọn núi cao bỗng thức dậy bởi ngọn gió đem hơi nước từ phía đông thổi đến. Mây chậm chạp bò xuống các thung lũng, bao phủ các khe sâu. Bắt đầu là những hạt nước li ti bay lẫn trong không khí, bám vào tán lá, đọng thành giọt rơi lộp độp xuống thảm mục trên mặt đất. Núi rừng bốc mùi mốc ẩm. Rêu lan choán cả đường đi. Các loại nấm hoang dại nhú lên từ mặt đất, đâm ra từ những cảnh củi mục, ẩm ướt và đầy sức sống. Bầy sóc đuôi bông chạy đi chạy lại rối rít trên các cành cây tìm lá phong lan khô đưa vào lót ổ. Lũ vượn rút vào hang đá, sớm sớm chúng rú lên những tiếng kêu não nùng, vang xa và buồn thảm.
Đồn biên phòng Cha Lo đóng trong một hang đá lớn lưng chừng một ngọn núi. Sau trận B52 ném bom rải thảm trên đèo Mụ Giạ đến lúc những máy bay "Con ma" F4 liên tục bay sục sạo mục tiêu dọc trục đường 12A, đồn không thể dựng nhà dưới tán cây nữa. Cũng như các binh trạm bộ đội, các đơn vị đường Ổng, thông tin dọc trục đường, chiến sĩ công an vũ trang tìm nơi ẩn mình trong hiểm trở của núi rừng, bám trụ chiến đấu bảo vệ con đường huyết mạch và vùng biên giới được phân công.
Đường chiến lược 12A bắt đầu từ ngầm Khe Ve rẽ từ đường 15 xuyên Trường Sơn, qua đèo Mụ Giạ đến vùng Sê Pôn - Trung Lào thì chia làm hai. Một nơi với đường 9 qua Lao Bảo. Một đường xuống Pắc Xế, Átapư Hạ Lào qua bắc Campuchia. Đây là tuyến đường quan trọng trong tuyến đường Hồ Chí Minh lịch sử, cổ họng của các mặt trận Trung Lào, Hạ Lào, chiến trường nam khu 4 Việt Nam và chiến trường bắc Campuchia. Nhiều đơn vị
vận tải của đoàn 559 hoạt động trên tuyến đường, tiếp tế cho các chiến trường ấy.
Từ năm 1965, giặc Mỹ mưu toan cắt đứt con đường. Các loại máy bay Mỹ tiến hành liên tục những đợt ném bom huỷ diệt. Cuộc chiến đấu chống giặc trời ở đây của các đơn vị phòng không nổi tiếng với anh hùng Nguyễn Viết Xuân. Cuộc chiến đấu "tất cả vì thông đường thông xe" của các đại đội thanh niên xung phong và nhất là chiến công của các chiến sĩ vận tải anh hùng, ai cũng đều biết đến. Nhưng ở đây còn một cuộc chiến đấu nữa vì sự sống con đường và vì an ninh biên giới mà mọi người ít biết, đó là cuộc chiến đấu của các chiến sĩ công an biên phòng.
*
Đồn trưởng Tạ có dáng người thấp mập, bước đi bươn bả. Ông sống với rừng núi biên giới này ngót chục năm nay. Bàn chân ông đã đặt tới những ngọn núi hiểm trở, những vùng rừng có tiếng ma thiêng nước độc. Với chiếc gậy hèo trong tay ông có thể leo dốc suốt một buổi đường không nghỉ.
Đồn trưởng Tạ lặng im suy nghĩ bên sa bàn dãy núi Giăng Màn. Dãy núi chạy dọc theo biên giới đồn ông bảo vệ, có vùng rừng Phu Ác với cao điểm 2017 hiểm trở. Lần này, bọn biệt kích đã đến cao điểm 2017. Mấy hôm nay chúng bắn rốc-két từ Phu Ác xuống kho binh trạm, và những đoàn xe vận tải vừa đến ngầm Khe Ve đã bị máy bay Mỹ lao đến chặn đánh. Bọn biệt kích từ cao điểm qua sát con đường, chỉ điểm cho máy bay. Chiến dịch vận tải đang kỳ nước rút để chuẩn bị hậu cần, súng đạn cho các mặt trận khi mùa khô đến. Cần nhanh chóng tiêu diệt toán biệt kích này.
Hôm qua, binh trạm trưởng vận tải, bạn chiến đấu cũ của đồn trưởng hồi chống Pháp, đến gặp với vẻ mặt nhăn nhó:
- Mày tính sao Tạ? Mấy ngày nữa diệt được cái lũ biệt kích cho tao nhờ?
- Ông chờ cho một tháng!
- Một tháng! - Binh trạm trưởng tròn xoe mắt - Sao chậm thế? - Ông tưởng đây lên đấy gần lắm hả?
- Thì tao nhìn lên cao điểm thấy có một đoạn thôi mà! Một đoạn mà khó đấy. Phải vòng qua Lào mới lên được ông ơi! - Không đi tắt được sao?
- Đừng đùa với núi rừng! Tôi hiểu nó hơn ông!
Binh trạm trưởng thừ ra.
- Giờ hy vọng bọn mày thôi đó cần tao chi viện cho một "bê". Chứ cứ để chúng nó khống chế con đường thế này, hễ có chiếc xe nào là bom, xe đi đêm chúng cũng thấy!
Thực ra, đồn trưởng Tạ nóng ruột không kém gì binh trạm trưởng. Hôm nay, ông tập hợp số cán bộ, chiến sĩ vào cổ "thần rừng" để bàn chuyện lên Phu Ác.
Đứng quanh ông là đồn phó Huynh, đội trưởng Thịnh và chiến sĩ trinh sát Xứng.
- Lần này, ta không thể vòng qua Trung Lào để lên Phu Ác! - Đồn trưởng Tạ nói - Như thế mất gần một tháng, chiến dịch vận tải đang vào lúc cao điểm. Để bọn biệt kích gây thiệt hại ngày nào là chiến trường chậm thắng lợi ngày ấy! Các đồng chí có cách gì lên Phu Ác nhanh hơn?
Đội trưởng Thịnh, một người cao lớn, rắn chắc như một khúc gỗ lim, nói:
- Ta cử trinh sát tìm đường tắt!
- Không được! - Một người đang đưa bàn tay vặn xoắn mớ tóc quăn trên đầu cắt ngang lời Thịnh. Đó là trung sĩ Xứng, tổ trưởng tổ trinh sát. Khác với Thịnh, Xứng có vóc người tròn lẳn, hơi thấp, chỉ cao ngang vai Thịnh. Khuôn mặt Xứng nhỏ gọn,
đôi mắt nhanh, lúc nào cũng mở to như ngạc nhiên điều gì. Xứng có thói quen hay gãi đầu và tật nói lắp, nhưng anh chỉ nói lắp những từ nhiều ý nghĩa làm cho người nghe cứ tưởng anh cần nhấn mạnh.
- Như anh Thịnh nói, trinh sát trước, nghĩa là cử một tô đi trinh sát tìm đường. Tổ trinh sát tìm đường xong, trở về mới dẫn phân đội đi. Nghĩa là ta hai lần lên Phu Ác. Chậm, chậm quá! - Xứng nói tiếp.
- Thì cũng đành vậy chứ sao? - Thịnh phân trần. Lần đầu tiên ta đi đường tắt. Đường tắt thì cần trinh sát. Không có trinh sát trước thế nào cũng lấn quấn loanh quanh, tắt hoá ra dài. Hay đồng chí ngại?
Là Thịnh có ý rằng, cử tổ trinh sát đi trước, Xứng là tổ trưởng, phải đi, phải chịu nhiều vất vả.
- Ngại? - Mắt Xứng mở to hơn. Anh định vặc Thịnh một câu, nhưng đồn phó Huynh đã kịp lên tiếng:
- Không, đồng chí Xứng không ngại đâu. Nói như đồng chí Xứng là có lý. Chúng ta không thể chậm trễ được! - Dù là đường tắt nhưng không thể đi thẳng như chim bay - Xứng rút tay khỏi đầu, tóc lúc này đã xoăn rối lên như một tổ quạ. Đôi mắt anh nhìn chòng chọc vào mô hình điểm cao 2017, như tìm kiếm một cái gì - Tôi đã nhiều lần dẫn tổ tìm đường tắt. Nhưng tôi chưa dám nói với ai, vì con đường này không thể... Xứng dừng giọng một lúc như để cân nhắc rồi tiếp - Theo tôi, ta vòng lên Phu Con Kên, băng lên Cà Chô, tiếp cận cao điểm. Đường ấy chưa mất đến mười ngày!
Đồn trưởng Tạ quay lại khi nghe Xứng nói xong. Ông bước đến bên Xứng, nhìn thẳng vào đôi mắt người tổ trưởng trinh sát.
- Đồng chí có hiểu thực địa những vùng đồng chí vừa nói
không?
- Báo cáo, tôi đã, đã một vài lần qua đó rồi!
Đồn trưởng mỉm cười. Xứng bối rối lại đưa tay lên gãi đầu. Đồn trưởng bước đến bên sa bàn. Khoảng biên giới dài trên ba mươi ki lô mét với những ngọn núi, vách lèn hiểm trở đã nằm trong tầm tay ông. Đây, điểm cao 1124, nơi một tổ trinh sát của đồn đang chốt giữ để giám sát tình hình biên giới. Cách điểm cao 1124 về phía tây hơn một sải tay là vùng Phu Ác có cao điểm 2017. Đồn trưởng Tạ dừng mắt lại vùng với những mô hình nhô cao, chồm về phía đông như thách thức với đơn vị của ông.
Cao điểm 2017. Trong đầu đồn trưởng Tạ chợt lóe hình ảnh của một bãi bằng lưng chừng trời. Cao điểm này đối diện với con đường 12A. Từ bãi bằng ấy có thế bao quát cung đường dài bốn mươi cây số từ Khe Ve qua ngầm Bãi Dinh lên dốc Ông Kẹo, qua đèo Mụ Giạ. Ai khống chế được điểm cao này sẽ khống chế được đường quan trọng ấy. Để bảo vệ an toàn cho những chiến dịch vận tải tiến hành trên tuyến đường 12A, đã nhiều lần, đồn Cha Lo tổ chức các tổ chốt trên cao điểm 2017. Nhưng chỉ bám lại khoảng chừng một tháng, khi gạo trong ba lô các chiến sĩ đủ ăn trong thời gian trở về, tổ chốt phải trở lại đồn. Từ điểm cao 1124 đến Phu Ác, những vách đá xô bồ chồng chéo, dựng đứng thành một trận đồ bát quái. Không thể tìm được con đường ngắn nhất từ đồn lên 2017. Mỗi lần tiếp tế lương thực, thực phẩm cho tổ chốt trên đó đều phải đi vòng vèo sang phía tây, mất hàng tháng trời mới đến được. Các tổ trinh sát gồm những chiến sĩ "thổ công" chiến đấu lâu ở vùng này cơm đùm gạo bói ra đi tìm đường nhưng cuối cùng đều trở về với những bộ quần áo rách mướt bởi đã dám cả gan bám lên những vách đá tai mèo dựng ngược, có người còn mang về cả vết thương. Vì vậy, vùng Phu Ác vẫn là "chỗ hở" trên phòng tuyến của đồn. Cao điểm 2017 như
một cái gai trong bụng đồn trưởng Tạ, khiến mỗi lần nghĩ đến, ông lại cảm thấy nhói đau.
Cái "chỗ hở" này trở thành địa bàn hoạt động của bọn biệt kích, phỉ Vàng Pao. Mỗi lần mùa khô đến, khi chiến dịch vận chuyển của bộ đội vận tải bắt đầu triển khai, máy bay trực thăng lại đổ các toán biệt kích xuống vùng Phu Ác. Chúng lập căn cứ hoạt động, bắn tên lửa vào các kho tàng của ta và chỉ điểm cho máy bay đánh phá vào các đoàn xe vận tải. Đồn Cha Lo lại tung những đội tuần tra bám theo dấu vết bọn biệt kích, tìm đến hang ổ của chúng. Cuộc chiến đấu dai dẳng, dây dưa như một trò chơi ú tim giữa rừng đại ngàn. Có lần, đang trên đường truy kích các chiến sĩ phải quay trở lại vì ba lô sau lưng đã lép kẹp, không còn mẩu lương khô nào nữa. "Giá có một con đường tắt" đồn trưởng Tạ thốt lên. Mỗi lần như thế "cái gai" lại bật dậy cựa quậy trong ông.
Hôm qua, tổ chốt ở điểm cao 1124 điện về: "Có tiếng trực thăng ở vùng Phu Ác". "Lại một trò chơi nữa đây!" đồn trưởng Tạ thầm nghĩ khi nhận được bức điện. Quả vậy, sáng nay một chùm tên lửa nổ ngay ở kho Z21 của binh trạm 12. Một đoàn xe vượt khẩu vừa ló mặt ở ngầm Bãi Dinh thì bọn F4 xô đến cắt bom. Chiến dịch vận chuyển mùa khô đang cấp bách, không thể để cho bọn biệt kích ngồi ung dung hút xì gà, lia ổng nhòm và bấm bệ phóng tên lửa.
"Giá có một con đường tắt!" đồn trưởng Tạ lại bứt rứt. Cuộc truy lùng lần này còn kèm theo nhiệm vụ tìm con đường tắt ấy. - Đồng chí Xứng - Đồn trưởng Tạ rời mắt khỏi sa bàn, quay lại nói với Xứng - Đồng chí làm nhiệm vụ dẫn đường cho phân đội chứ? Ánh mắt của đồn trưởng Tạ toát lên niềm hy vọng ở người chiến sĩ thấp, khỏe, đứng đối diện với ông. Con đường mà Xứng vừa đề xuất mở ra một lối thoát cho những nỗi day dứt bấy lâu
của ông. Nhưng, đồn trưởng Tạ, đã từng thấy những bàn chân ứa máu, lở loét của các chiến sĩ trong một lần ông dẫn phân đội vượt qua Phu Con Kên trước đây. Phu Con Kên là một thung lũng nước đọng quanh năm, không có lối thoát. Nước vùng này đỏ quạch như nước củ nâu, rất độc, dẫm chân một buổi là sưng tấy lên, đau buốt.
- Báo cáo, được! Nhưng phải tìm cách gì để vượt qua Phu Con Kên - Xứng lại đưa tay gãi đầu mắt nhìn lảng ra ngoài, suy nghĩ. Một lúc sau, đội trưởng Cao Xuân Thịnh giơ bàn tay ra trước mặt Xứng, xoay một vòng:
- Dùng vải nhựa bọc chân là tốt nhất!
Đồn trưởng Tạ buông tay khỏi hai sợi râu trên má. Ông gật đầu tán thành sáng kiến của Thịnh.
- Chúng ta sẽ rút ngắn được hai mươi ngày hành quân. - Đồn trưởng Tạ nhìn toàn bộ ban chỉ huy cuộc truy lùng đang đứng quanh ông. - Có ai thêm ý kiến nữa không?
Ông nhắc lại đường đi do Xứng đề xuất. Các đồng chí trong ban chỉ huy bổ sung một số điểm về trang bị chiến đấu, phân tô và quyết định đêm nay phân đội hành quân đến bản Si, phối hợp cùng trung đội dân quân để sáng mai lên đường.
Hang đá phút chốc ồn ã những tiếng cười nói. Trước sân nhà đội vũ trang, cậu anh nuôi đang huơ chiếc muỗng xúc gạo, giọng oang oang:
- Chuyến này tớ nhất định đi với tổ trinh sát.
- Cậu thì trinh sát cái đáy nồi cơm!
Cậu anh nuôi dùng cán muỗng cốc vào đầu chiến sĩ vừa khích anh, rồi tiếp tục phát gạo và thực phẩm cho mọi người. Thỉnh thoảng cậu ta lại lằm bằm, ấm ức:
- Lúc nào cũng nồi niêu xoong chảo lạch cà lạch cạch. Chán bỏ mẹ. Tuần tra thì đi cuối cùng, chờ các cậu giẫm cho mòn đường
đi đã. Rõ bực!
Ngồi trong căn nhà ban chỉ huy, nhìn không khí đơn vị rộn rạo trước cuộc tuần tra, đồn trưởng Tạ cảm thấy có một niềm vui đang khuấy động trong ông. Sống ở địa bàn này từ cái hồi xách rựa vào rừng lấy gỗ dựng đồn, nhịn đói đi tìm dân, đến nay, bước chân ông đã in dấu trên khắp hang cùng ngõ hẻm của vùng rừng biên giới, ông đã từng chứng kiến những cuộc ra đi. Có những chiến sĩ ra đi rồi không trở lại nữa, họ gửi mình vào một khu rừng hoang dại trong một trận chiến đấu. Có chuyên tuần tra lọt vào một nơi thâm u, luẩn quẩn dưới chân những ngọn núi đá, không tìm được đường về, tưởng như chỉ còn chờ chết đói cả phân đội. Ra đi có nghĩa là đói khát, rét mướt đang đợi họ, rừng đại ngàn hiểm trở mặc cả với họ. Nhưng, có một sức mạnh nào đó lôi cuốn các chiến sĩ, mỗi chuyên ra đi, ai ai cũng phấn chấn như sắp được về nhà vậy.
Binh nhì Quang, tân binh mới bổ sung về đồn và một chiến sĩ trong đội vũ trang bị sốt rét định kỳ đang nằm điều trị đến tìm gặp đồn trưởng. Binh nhì Quang, khuôn mặt tròn phình như con gái, bối rối khi đứng đôi diện với đồn trưởng. Sau một hồi ấp úng, Quang mới nói được:
- Báo cáo đồn trưởng, tôi xin đi tuần tra đợt này ạ! Chả là Quang vừa lên đồn ba bốn ngày nay, đồn trưởng Tạ không muốn Quang đi chuyên này vì ông e ngại những khó khăn sắp tới Quang khó vượt qua. Cuộc chiến đấu ở đây đòi hỏi không những có lòng dũng cảm mà còn phải có kinh nghiệm thực tế. Một cái trượt chân bên bờ vực, một cái sẩy tay bên vách đá... là có thể một người không về nữa. Mà chuyến này lại đi đường tắt qua những vùng rừng khó khăn hơn.
Đồn trưởng Tạ đưa tay sờ hai sợi râu trên má. Ông cảm thấy có một sức mạnh trong đôi mắt long lanh của Quang, đôi mắt
đen sâu đang nhìn ông, cầu khẩn, chờ đợi. Một niềm tin trỗi dậy, niềm tin khi ông nhìn các chiến sĩ trẻ. "Phải rèn luyện cho Quang ngay từ trận chiến đấu nay!". Ông bước lại đặt tay lên vai Quang và bắt gặp dưới bàn tay thô ráp của mình bắp thịt nở nang, nóng rực trong lần áo thu đông của người chiến sĩ.
- Được, nếu đồng chí mang nôi năm chục cân!
- Báo cáo, mang nổi ạ! - Nét mặt Quang lộ vẻ sung sướng, cái cười phấn khởi làm miệng cậu méo xệch đi, hai má căng tròn, ửng đỏ. Thoắt cái, Quang lao ra cửa, hát vang.
- Thế nào? - Đồn trưởng quay sang người chiến sĩ bị sốt rét, đồng chí cũng muốn đi chuyến này?
- Báo cáo - Dáng mệt mỏi của anh chiến sĩ phút chốt trở nên nhanh nhẹn - tôi không thể nằm ở nhà được. Tôi không ốm nữa. Tôi khỏe rồi thủ trưởng ạ! - Cậu ta xắn tay áo thu đông lên, để lộ cánh tay gầy xanh, vẻ mặt sốt sắng.
- Điều trị đi đã! Khỏe rồi, tha hồ. Lũ biệt kích còn đến thăm chúng mình nhiều!
Người chiến sĩ thất vọng gượng vật nài xin xỏ, nhưng cuối cùng đành ra về với vẻ mặt buồn bã. Đồn trưởng Tạ nhìn theo và ông cảm thấy thương các chiến sĩ của mình quá. Trông ốm đau thế kia mà cứ mè nheo xin đi cho được!
Ở nhà của đội vũ trang, mọi người đang tất bật chuẩn bị đồ đạc.Ba lô của hụ đầy óc ách gạo và lương khô. Mỗi người chỉ mang một tấm tăng ni-lông và một chiếc vỏ chăn. Đồn trưởng Tạ bước vào nhà, đến bên Quang. Cậu ta vứt ngổn ngang các thứ trên giường, lóng ngóng không biết xếp thế nào cho gọn. Nhìn người chiến sĩ trẻ này, đồn trưởng chợt nhớ đến đứa con gái của ông đang học ở Trường đại học Bách khoa. Nó cũng tầm tuổi Quang. Ông ngồi xuống giường và với bàn tay thành thạo của một người chiến sĩ lâu năm, ông xếp các thứ trên giường vào ba
lô của Quang một cách gọn gàng.
Ngoài trời, màn mưa bụi đục dần rồi tím thẫm. Đôi sóc đuôi bông trên cây dâu da trước cửa đồn chui vào hốc, kêu lên cồng cộc, báo hiệu một đêm đông lại về.
II
K
hi những ngôi nhà sàn bản Si nhoè đi trong màn đêm, các tiểu đội dân quân cũng tập trung đông đủ tại ngôi nhà sàn nửa chìm nửa nổi giữa bản. Đây là hội trường bản Si, kiến trúc theo kiểu hầm tránh bom là địa điểm xuất phát của cuộc tuần tra. Bên trong, ánh sáng của những ngọn cà boong bập bùng chiếu sáng những thân người rắn chắc, những khuôn mặt đen bóng của các dân quân người Khùa. Đã thành thói quen, khi nhận được lệnh hiệp đồng tuần tra với đồn công an, dân quân các bản lại vai đèo a-chói, vai vác súng cắt đường về bản Si chờ nhận nhiệm vụ.
Đồn phó phụ trách công tác dân vận Hồ Phừn, người Khùa, đi lại giữa các nhóm dân quân đang chụm đầu bàn tán chuyện bản làng. Họ ở các bản khác nhau bám cheo leo bên vách rừng Cha Lo, Mụ Giạ, lâu lâu mới gặp nhau nên chuyện nhiều. Chuyện bắn máy bay Mỹ, chuyện săn chó sói, săn voi... Cái tẩu trên miệng Hồ Phừn um khói, thỉnh thoảng anh lại bứt nó ra cầm tay để nói chuyện với một dân quân nào đó. Anh có vóc người gầy, khuôn mặt xương, rám nắng, mái tóc rễ tre, tóc của con trai Khùa bị nắng thiêu đốt trên nương, dựng ngược như bàn chải, đã lốm đốm bạc. Một vết sẹo kéo dài từ thái dương trái xuống má làm một bên mặt sọm đi. Vết sẹo bắt ánh sáng cà boong bóng nhẵn như một mảnh kim loại.
Một cô gái bận váy đỏ, áo chẽn nâu, hàng khuy bằng những đồng bạc lóng lánh, tóc bới thành nắm to giữa đỉnh đầu, dấu hiệu gái chưa chồng của người Khùa, từ trong góc nhà bước đến mỉm cười với Hồ Phừn. Vóc ngươi cô thon thả, khuôn mặt trái xoan, da ngăm, môi đỏ mọng như hai trái ớt chín, đôi mắt đen
ngơ ngác như mắt bê con. Đó là Y Lan, cô giáo người Khùa vừa học ở Trường sư phạm sơ cấp về. Y Lan năm nay tròn hai mươi mùa rẫy, như một cây lồ ô non đã đâm lá. Có những cô gái, thoáng nhìn, thấy rất bình thường, nhưng càng nhìn kỹ càng thấy có duyên và cái duyên thầm ấy cứ lan toả, cho đến một khi nào đó ta bỗng yêu say đắm. Y Lan thuộc loại những cô gái ấy. Y Lan không có vẻ đẹp lồ lộ, chói chang. Nhưng nghe Y Lan nói, giọng nói êm êm dìu dịu như tiếng suối mùa xuân, thấy Y Lan cười, đôi môi mọng đỏ chum chúm như một ngọn lửa, khiến người khác phải chú ý. vẻ đẹp của Y Lan tựa hương hoa phong lan vậy.
- Pú Phừn ơi, các công an sao chưa đến? Y Lan không giấu nổi sốt ruột hỏi Phừn, mặt đỏ bừng lên.
- A, cháu Y Lan. Bộ đội, công an sắp đến rồi đó. Cái bụng Y Lan nhớ công an Xứng lắm phải không?
Y Lan chạy biến vào góc nhà. Ôi! Pú Phừn nói như cầm được suy nghĩ trong đầu Y Lan vậy. Y Lan nhớ anh Xứng lắm. Nhớ như ngọn lá nhớ ông mặt trời, như hạt thóc giống nhố đất trên nương. Không nhớ Xứng mà Y Lan lại từ bản Sương lội suối băng rừng xuống đây à?
Tiếng khèn bè bỗng nổi lên rung rinh ánh lửa cà boong. Phừn biết Hồ Sa Nôn, một dân quân trẻ đang thổi chiếc khèn ấy. Các cô gái cười rúc rích theo, rồi hát theo nhịp khèn.
ơ... ơ con suối chảy xuống, con chim bay lên Anh như con suối để Ún uống khỏi khát Như con chim đê Ún theo mắt mờ Đã yêu nhau thì tóc bạc răng rụng củng chờ Đất không còn núi Phu Ác vẫn chờ Suối Y Leng không còn nước vẫn chờ ớ... ơ Phừn sà đến bên Hồ Sa Nôn. Mỗi khi nghe tiếng khèn bè, Phừn lại cảm thấy rạo rực như có con chim khà - lật hót trong bụng, như con suối Y Leng chảy trong bụng. Anh ra đòi vào một đêm con suối Y Leng gào rú
cuốn trôi những cây khúc, cây lim về xuôi. Lớn được ba mùa rẫy, Phừn đã biết cầm khèn bè thổi tò te. Bố anh, một ông già Khùa thổi khèn bè hay nổi tiếng khắp mấy bản. Ông đã truyền cho đứa con trai lòng yêu thích chiếc khèn dân tộc mình. Khi cao bằng thắt lưng bố, Phừn đã thổi khèn bè thành thạo.Vào rừng đặt bẫy đơm được con nai, con mang, Phừn đem khèn ra thổi.Lên nương trỉa hạt ngô, hạt lúa, Phừn đem khèn ra thổi... Chiếc khèn bè với những ống nứa lên nước óng nuột như được chuốt mật ong lúc nào cũng nhảy toòng teng sau lưng Phừn. Tiếng khèn bập bùng, lang thang theo bản Sương trong những chuyến ròi làng. Khi đôi vai anh cao hơn vai bố, cánh tay anh rút đứt sợi dây song, tiếng khèn của Phừn gọi lũ con gái thiết tha bên suối Y Leng. Con gái đến vây quanh anh hát theo tiếng khèn từ lúc ngôi sao hôm cháy trên cành mây, đến lúc lá rừng bén nắng sớm mai. Nhưng anh vẫn cảm thấy lẻ loi, buồn chán. Dân bản như con hươu, con nai bị săn đuổi từ ngon núi này đến ngọn núi khác mà tiếng súng thằng Pháp vẫn bắn theo. Và vào một đêm, khi Phừn cất tiếng khèn bên bờ suối, một người đã đến với anh. Người ấy không phải cô gái anh yêu nghe tiếng khèn anh đến tâm tình. Người ấy là một chiến sĩ cách mạng. Phừn như ngọn lá rừng được nắng, như con chim tìm được đường bay, anh mang theo cây khèn đi kháng chiến.
Phừn cầm chiếc khèn Hồ Sa Nôn trao cho, đưa lên miệng, âm thanh ngọt ngào tuôn chảy từ những ngón tay lấy nhịp của anh. Căn nhà lắng xuống, tràn ngập điệu nhạc, ngày ấy, cái ngày xưa mà anh theo cách mạng... anh đi trong đoàn quân tiến đánh đồn Quy Đạt, Tân Sum... Cái ngày giải phóng, dân tộc anh được mang họ Hồ, họ của Bác Hồ Chí Minh...
- Pú Phừn thổi hay như con chim cà liếng hót đó.
- Như tiếng suối Y Leng chảy nữa đó!
- Nghe tiếng khèn Pú Phừn, tao như bay theo ngọn gió. - Pú Phừn thổi khèn gọi được con gái đó!
Các cô quây lại khen Phừn làm anh đỏ mặt, mặc dù anh đã gần năm mươi tuổi, bằng tuổi bố của các cô. Anh như trẻ lại trong âm điệu ngàn đời ru người dân Khùa cơ cực của anh.
- Mình chỉ muốn khèn hay gọi được rừng Phu Ác cúi xuống để công an biên phòng lên! - Phừn nói
Một cụ già bước đến bên Phừn, đưa tay nắm lấy tay anh. - Thằng Phừn! Chuyến này công an biên phòng với dân quân xã ta lên đánh thằng biệt kích ở Phu Ác phải không? - Người già hỏi Phừn. Anh quay lại và nhận ra cụ Hồ Sa Đa. Cụ ở bản Sương, năm nay đã ngoài một trăm tuổi, nhưng người vẫn quắc thước, râu bạc trắng như cước, da đỏ như gỗ lim. Cụ có giọng nói trầm trầm như tiếng của những thế kỷ trước vọng về. Đứng bên cụ, Phừn thấy như đứng bên một cây cổ thụ. Mỗi lần công an biên phòng, dân quân ra đi tiễu phỉ, cụ đều băng rừng đến gặp. Cụ vừa đi cùng tiểu đội dân quân bản Sương xuống bản Si lúc chập tối.
- Pú ạ, đơn vị công an và dân quân ta lần này lên Phu Ác theo đường tắt đó.
- Đường tắt nào? - Ngọn cà boong soi rõ khuôn mặt vuông vức của cụ. Khuôn mặt trải qua bao mưa nắng và những thăng trầm của cuộc đời, giờ đây đã rắn đanh lại, tưởng như không còn một cảm xúc nào có thể hiện lên được nữa, bỗng ngạc nhiên trước câu nói của Phừn. Bàn chân tao đã lội qua trăm con suối, đạp lên trăm vách lèn, cây lim cây táu sinh sau tao đã chết, con trâu rừng, con sơn dương sinh sau tao đã chết mà tao chưa lên Phu Ác bằng đường tắt được. Ông rút cây mác đeo sau lưng hoa lên một vòng. “Công an biên phòng Pú Hồ, dân quân Pú Hồ lên được, tao khen lắm đó!”
Cụ Hồ Sa Đa bỗng nhớ đến cách đây một trăm năm về trước, khi con suối Y Leng còn xắn quần lội qua được, khi ông một mình đánh quỵ con trâu rừng mảnh sừng của nó ông còn đeo trên ngực, ông đã một lần qua Phu Ác. Một nhóm lính của Phan Đình Phùng thất, trận rút lên đó và cụ đi theo dẫn đường. Năm sáu chục người bị lạc vào giữa những dãy núi đá Phu Ác. Sau hai lần con trăng tròn, họ không tìm được đường sang Lào, mọi người đã chết đói, cuối cùng chỉ còn một mình cụ giữa bốn phía vách lèn dựng đứng. Cụ tìm một xâu củ nâu đeo vào người liều chết nhảy vào một hang đá, lần theo dòng suối chảy ngầm trong đó. Hang đá tối mù mịt phải mò mẫm dò từng bước một. Và khi xâu củ nâu đã sắp hết, sức của cụ không bước qua nổi tảng đá cao ngang đầu gối nữa thì bỗng một vòm sáng hiện lên trước mặt. Đó là một lỗ hổng của lèn đá. Cụ đã thoát khỏi vòng vây quái ác của thiên nhiên. Bẵng đi một thời gian, cụ không trở lại cái của hang đã cứu sống cụ đó nữa. Rồi dần dần, khi lên ngọn nguồn, khi về chân núi, trôi theo cuộc đời du canh du cư của dân bản, cụ cũng quên mất kỷ niệm ấy.
Mãi đến những năm gần đây, Công an biên phòng đánh nhau với bọn biệt kích ở Phu Ác, cụ mới sực nhớ đến cái hang năm xưa. Cụ nhố nó mà cứ tưởng nhớ câu chuyện cổ tích của người Khùa vậy. Cụ ném vào chói năm tip xôi, mài cây mác mòn hòn đá bên suối, xẻ rừng đi tìm hang đá, mong rút ngắn những cuộc hành quân của công an biên phòng và dân quân lên Phu Ác. Nhưng nhiều lần đi như vậy, cụ đều trở về đâm cây mác vào cột nhà, bực tức vì chẳng tìm ra.
Căn nhà bỗng vang lên tiếng kêu mừng rỡ của các dân quân. Từ bên ngoài, tiếng cười của đồn trưởng Tạ đã vọng vào. Phân đội công an biên phòng đã đến. Tiếng chào nhau đan chéo, ồn ã. Cụ Hồ Sa Đa nhảy ra cửa, cầm lấy bàn tay của đồn trưởng Tạ giơ
lên, nói lớn:
- Hỡi lũ con gái, lũ con trai, hãy đốt cà boong cháy sáng hơn nữa để ta nhìn rõ những đứa con của bản!
Đuốc cà boong được thắp nhiều thêm. Những ngọn lửa sáng trắng múa may reo cười. Các mê bản bưng ra mấy thùng nước chè xanh nấu với gừng tươi đặc quánh, thơm lừng. Cụ Hồ Sa Đa cầm bát múc nước chè phân phát cho từng chiến sĩ. Hồ Sa Nôn chút của cụ đang bá lấy vai Xứng nói cười hởi hả. Hai người kết xiều với nhau trong trận đánh thô phỉ năm ngoái. Nôn yêu cái thông thạo núi rừng của Xứng, còn Xứng phục cái gan lì của Nôn.
- Tao phải đi một tổ với anh - Nôn cầm tay Xứng lắc lắc. Xứng đưa tay gãi đầu cười thân mật.
- Nhất, nhất định rồi! - Mắt Xứng bỗng mở to hơn. Một cô gái bước tới. Nôn né sang chỗ khác cười tủm tỉm. Y Lan, hai bàn tay đan vào nhau vặn vẹo trước ngực, ơi anh Xứng, sao anh không tìm em thế hở? Anh có biết em mong gặp anh như lá mong gặp nắng, như con vượn mong gặp cây dâu da mùa quả, như con ong mong gặp hoa bông trang không? Nghe tiếng anh em như có con chim cà liếng nhảy trong bụng, thấy bóng anh em như con cá thấy đường đến vực sâu. Em vẫn nhớ lời anh, qua cái mùa rẫy năm nay ta cưới nhau. Ta cưới không có chín con trâu, chín con lợn, chín con gà làm lễ cúng thần rừng, đãi dân làng như người Khùa của em ngày cưới. Pú Sa Đa đã hứa cho ta cưới bằng một đêm một ngày thổi khèn bè, hát đổi nhau. Anh đã cầm tay em, đèo vào cổ em sợi chỉ đính hôn em đã cầm tay anh, đeo vào cổ tay anh bảy vòng chỉ vía. Cái ngày anh hứa với dân bản đính hôn em, em thương anh biết chừng nào. Anh phải lên rừng bắn cho được một con chó sói theo tục lệ người Khùa, khi người dân tộc khác muốn lấy vợ người Khùa. Anh đi ba ngày không về,
đi bảy ngày không thấy. Em khóc hết nước mắt vì tưởng anh bị chó sói cắn chết, không về nữa. Em là cô giáo nên làm sao chống lại cái tục lệ người Khùa. Em muốn theo anh, nhưng người Khùa không muốn, vì sợ hai người không giết được chó sói, trốn dân làng, đi lên dãy Giảng Màn sống với nhau. Bảy ngày em không ngủ, bảy ngày em nhịn cơm, cái bụng em đi theo anh. Ngày thứ tám anh về, không chỉ giết một con chó sói mà giết được 2 con. Rồi dân bản lại theo tục lệ, bắt anh phát một cái rẫy, mười lăm ngày sau cây khô, đứng cuối ngọn gió châm lửa. Nếu lửa cháy hết rẫy, anh mới là rể người Khùa được. Em lo quá, thế mà ngọn lửa đã cháy hết rẫy trong tiếng cười vui của pú Sa Đa...
Hai người nhìn nhau một lúc lâu, Xứng mới lên tiếng: - Em cũng ở đây à Y Lan?
- Nhớ anh thì cái chân em đến, chứ cái bụng em giận anh đấy Xứng à! - Y Lan làm hờn.
- Em giận anh thì giận cả đời. Mấy ngày nay anh bận quá! Thằng biệt kích đến Phu Ác roi!
Pú Sa Đa múc nước chè đang sôi trong thùng chia cho công an và dân quân. Cụ đưa cho Xứng một ống lồ ô nước chè. Thấy Xứng và Y Lan đang nói chuyện với nhau, cụ cười lớn:
- Hai đứa lại giận nhau phải không? Y Lan, cháu vui lên cho công an Xứng nó vui cái bụng, cho chân nó có cái cánh con đại bàng, cho mắt nó có cả mắt con linh dương. Ta không bắt công an Xứng ở rể ba năm cưới nhau ba lần như người Khùa ta đâu mà. Cháu cứ yên cái bụng đi!
Ngay trong đêm, phân đội công an vũ trang và dân quân Khùa lên đường. Có tiếng khóc và cả tiếng cười.
III
M
ột tốp sáu tên biệt kích lầm lũi bước đi trong mưa. Mưa trên cao điểm 2017 với những giọt lớn như mưa đá, bị gió xoáy lạc xuống roàn roạt. Cây cối trên điểm cao gầy gò, được bao phủ bằng lớp rêu dày ba bốn phân, Chúng bước đi lảo đảo, bị mưa gió hất ngược những chiếc mũ rằn ri. Mắt chúng đỏ quạch như những cục máu. Tên đi đầu nhăn nhở:
- Đ.m. Tao chưa thấy gió ở đâu như cái cao điểm chết tiệt này! - Hắn đâm tay vào túi quần, lối ra một điếu thuốc lá, cắm lên miệng, bật chiếc bật lửa "ga". Nhưng gió giận dữ dập tắt ngọn lửa nhỏ nhoi của hắn. Bực tức, hắn ném chiếc bật lửa xuống đất lấy gót giày nện bẹp.
Sáu con thú lại trườn đi trong gió. Cuối cùng, chúng dừng lại trước một bệ phóng tên lửa đặt ở mỏm đất nhỏ về hướng đường 12A.
- Chơi đi bay! - Tên đi đầu quắc mắt nhìn mấy tên đồng bọn. Hắn là Phảy, toán trưởng toán biệt kích vừa nhảy xuống điểm cao này theo kế hoạch "Con thoi số 8". Hắn có khuôn mặt lưỡi cày, hàm răng vẩu lúc nào cũng nhăn ra giữa đôi môi thâm sì như sắp cắn. Người hắn gầy và cong như một cành củi khô. Bàn tay hắn thô với những ngón khoằm khoằm vì thói quen nắm
báng súng và bóp cò. Bộ quần áo hắn mặc bốc lên một mùi khắm lặm như mùi của một xác chết.
Như những cái máy, sau khi nghe lệnh của Phảy, bọn biệt kích chạy đến đống đạn tên lửa để cách đó vài chục mét. Chúng tra kíp nổ vào đạn rồi mỗi tên vác một quả chạy đến lắp vào bệ phóng. Phảy cúi xuống xem lại bộ phận phát hoả của bệ phóng. Hắn không cần điều chỉnh hướng nữa. Bữa trước, khi vừa đặt bệ
phóng xuống đây, hắn đã chọn một số mục tiêu dọc theo trục đường 12A nhân lúc trời quang. Hắn quát mấy tên lính tản ra trên mặt đất rồi chập điện. Một tiếng nổ loang ra trong thiên không, tiếng đạn rít ngắn ngủi rồi tiếng nổ phía đường 12A vọng lại nghe xa xăm. Phảy đứng dậy nhăn răng ra cười và vẫy tay ra hiệu cho bọn lính trở về.
Địa điểm đóng quân của toán biệt kích nằm ở trung tâm của vạt bằng cao điểm, núp trong một lùm cây mi cắt rậm rạp, xung quanh bao bọc bởi một hệ thống mìn định hướng clây-mo. Đứng bên ngoài lùm cây, không ai có thể tưởng rằng bên trong có người. Những cành cây mi cắt đan níu nhau rậm rịt chằng thành vành đai quanh căn nhà tăng của bọn biệt kích. Với kinh nghiệm của một tên biệt kích nhà nghề, dù sống ở đâu, Phảy cũng cảm thấy bị đe doạ nên hắn rất cảnh giác. Hắn không cho tên lính nào giẫm nát một bụi cỏ, bẻ gãy một cành cây xung quanh khu vực ấy. "Mình sẽ tặng một viên cho người anh em nào vi phạm những điều nghiêm cấm đó", Phảy tuyên bô và vung khẩu súng ngắn. Bọn lính biết hắn nói là hắn làm thật.
Phảy nâng quả mìn clây-mo đặt dưới một gốc cây lên cho bọn lính vào trước, xong hắn chui qua và cài lại như cũ. Toán lính đang đốt xăng để sưởi, thấy Phảy về đều đứng dậy. Phảy chồm vào nhăn răng ra chỉ tay vào mấy thùng xăng đang cháy, khói phun lên đen kịt.
- Thằng nào? - Mắt hắn long lên, hắn nghiên răng làm quai hàm bạnh ra, giật giật. Lũ lính nhôn nháo đổ lỗi cho nhau. Phảy bước đến cầm lấy cổ áo một tên lính trẻ nhất, lao vào ngực tên lính ấy một cú đấm xoáy. Tên lính ự lên một tiếng, ôm ngực lảo đảo rồi ngã lăn xuống. Phảy còn bồi tiếp vào mạng sườn tên lính một cú đá, xong hắn đứng chống nạnh, đưa cặp mắt diều hâu nhìn bọn lính lúc này dạt ra như bầy gà con.
- Không dập tắt lửa đi à, quân khôn kiếp! Bay đốt khói báo hiệu cho bọn công an biên phòng đến cắt cổ hả?
"Bọn công an" - Hắn thầm nhắc lại mấy tiếng ấy và cảm thấy lành lạnh sau gáy. Mặc dù những lưới khói quằn quại vươn lên khỏi lớp chắn của tấm tăng Mỹ đã bị gió bứt đi, xoá tan, nhưng hắn vẫn cảm thấy có những con mắt nào đó từ trên trời đang nhìn xuống đây.
Bọn lính dập tắt lửa. Mùi ét xăng xông lên khét lẹt, làm Phảy hắt hơi một chặp. - Hắn lấy tay áo quẹt nước mũi, nhìn tên lính trẻ lúc nãy vẫn nằm co chân trên đất:
- Mày chọn cái chết đó hở, Xín!
Tên lính trẻ vẫn không nhúc nhích. Điên tiết, Phảy nhảy lại dựng tên lính dậy, rút. khẩu Braoning dí vào thái dương của Xín, ngón tay trong vành cò từ từ xiết lại. Nhưng hắn lại buông súng xuống, thở ra như tiếng kêu của con lợn độc.
Tên lính trẻ quay đi, khạc nhổ. Phảy hậm hực nheo mắt nhìn theo. Trong đám lính, Xín là đứa hắn ghét nhất. Sự căm ghét ấy không phải không có lý do. Trước lúc lên đường đến đây, vợ Xín đến thăm chồng. Cô gái Lào Lum ấy có khuôn mặt tròn, người núng nính, khiến khi nhìn thấy Phảy nuốt nước bọt. Hắn đòi Xín nhường vợ cho hắn một ngày, nhưng tên lính trẻ này đã rút con dao găm Mỹ lên trả lời. Phảy căm thù Xín từ lúc ấy. Hắn lóe ra tham vọng chiếm vợ Xín. Hắn đã lén tìm được chỗ ở của cô gái ấy. Nhưng muốn được ngửi mồ hôi của người đàn bà này, trước hết phải giết Xín. Hắn dự tính một cách độc ác: Trong chuyến biệt kích lên cao điểm 2017, hẩn sẽ cho Xín "ăn đất". Nhưng thực hiện mưu đồ ấy chưa phải lúc. Hắn cần giữ tinh thần cho lũ lính.Đợi khi rút quân, hắn sẽ bắn chết Xín.
Từ nãy tới giờ có một tên đứng chống nạnh, nhìn mọi việc diễn biến với một vẻ thản nhiên. - Hin,tên hắn, toán phó toán
biệt kích. Hin có khuôn mặt lúc nào cũng quàu quạu như bực tức điều gì. Đôi mắt hắn lờ đò mỏi mệt như mắt chó ốm. Người hắn thấp, thân bẻ cong về phía trước, cái dáng của một người sinh ra đã lội suối trèo đèo. Phảy bước lại nhìn xói vào mặt Hin, bóp mạnh huyệt cổ làm Hin đau nhói.
- Người anh em, cấp trên đưa ông đến đây không phải để nghiên cứu đất đai. Ngay hôm nay, các ông phải thực hiện nhiệm vụ, Phảy bỗng cười vang, cái cười bắn ra từ hàm răng vẩu nghe như tiếng gió rít qua mỏm đá. Và ông phải trả cái nợ của mình đi chứ!
Hin đưa tay hất mạnh tay Phảy. Trong thâm tâm, Hin căm ghét tên toán trưởng này. Hin mới biết Phảy từ bữa lên máy bay đến đây. Hin buồn rầu đưa mắt nhìn những cành mi cắt run lẩy bẩy trong gió. Hắn cảm thấy bơ vơ như con vượn lạc bầy, như ngọn gió lang thang thổi qua Phu Ác. "Phải trả cái nợ của mình nữa đi chứ!". Bụng hắn bỗng thót lên như có ai đang cạy lưỡi dao găm Mỹ ở bên trong.
Dòng Y Leng gào rú dữ dội như con hổ bị thương khi những cơn mưa giông vừa tạnh. Hin cầm chói cùng mấy thằng bạn cởi trần luồn vào rừng nhặt nấm. Nấm tai mèo to bằng bàn tay, tím thẫm vểnh lên như nghe ngóng. Nấm mỡ trắng muốt như những nắm xôi. Sau cơn mưa giông, nấm mọc nhiều, nhặt một chặp đã đầy chói Hin bươn về nhà, đổ ra đầy một sàng đầy ắp những nấm. Rồi Hin chạy nhặt thêm chói nữa... Mùa nắng hanh, khói đốt rẫy tuôn lên mù trời. Hin cầm cây gỗ vót nhọn cắm xuống mặt đất đầy tro. Mê Hin đeo cái thùng da trâu đựng ngô giống đi sau, bàn tay mê gầy guộc như một búi rễ cây sim sống trên đỉnh đồi, chọn từng hạt ngô vàng tra xuống lỗ. Đến chiều, cái bụng của Hin đã thọp vào xương sống, đang đòi ăn cơm, cái tay của Hin như sợi chạc chiu thối gốc không giơ nổi cây gỗ nữa,
mê Hin nhìn con:
- Thằng Hin, cái tay mày đã mệt, cái bụng mày đã đói, mày cắm cái lỗ cạn như dấu chân con lợn rừng. Hạt ngô nó không ưng cái lỗ cạn, nó không cho hạt nhiều được đâu. Ta về thôi.
Hin buông cây gỗ, chạy một mạch về nhà, vục đầu vào rá xôi đang bốc khói nghi ngút.
Tuổi thơ ấu của Hin cứ như thế qua đi. Cho đến khi bụng hắn đã biết nhớ một người con gái, đêm trăng về làm hắn nôn nao. Người con gái đó là Y Đăm, đang trỉa bắp trên rẫy. Nhớ Y Đăm, hắn liền bỏ chạy về đứng trước cầu thang nhà Y Đăm. Đang giương ná bắn con sơn dương, nhớ Y Đăm mũi tên bỗng bắn đi đâu. Hắn săn đón Y Đăm, lao theo bóng hình của người con gái ấy như con trâu ăn phải lá ngón, như con chim kên kên bị mũi tên độc. Một đêm trời mưa, con suối Y Leng rú lên sau bản, sét đánh xuống rừng Phu Ác, cây dâu da đầu bản bị gió bẻ quặt xuống. Y Đăm đang ngủ trong nhà bỗng bị con ma rừng bắt mất. Cả Hin đêm ấy củng không biết đi đâu. Bản Sương sợ hãi bàn tán. Sau ba tuần trăng, cày lúa trên rẫy Y Đăm trỉa đã lớn, Y Đăm lù lù trở về. Cái bụng Y Đăm dần dần to lên. Bản Sương lại xôn xao:
- Y Đăm nó thành con ma rừng rồi đó!
- Con ma cà bông nhập vào nó đưa nó về giết chết dân bản ta nữa đó!
Người ta rỉ tai nhau, rồi cả bản lánh mặt Y Đăm. Họ rút cầu thang lên khi thấy Y Đăm muốn vào nhà.Họ chui vào bụi rút cây mốc cầm tay khi thấy Y Đăm đi qua. Y Đăm trở lên lầm lì, chỉ khi lên rẫy làm cỏ lúa, vào rừng nhặt nấm, hái măng, Y Đăm mới ra khỏi nhà. Bụng Y Đăm to đến mức phải cong người ra phía sau mới đi được.
Rồi một đêm, cái bụng ấy đau như muốn nứt ra. Y Đăm quằn
quại giữa sàn nhà, người co lại như con nhím bị đòn, ôm bụng khóc nức nở trong nỗi kinh hãi của mọi người trong nhà. Giữa lúc đó, một người bước vào, đến nâng Y Đăm dậy. Người đó là Hồ Phừn. Và, đứa con gái đầu lòng của Y Đăm đã ra đời trên bàn tay anh.
Phừn ở lại nhà Y Đăm gần một tháng rồi lại ra đi. Anh là người đầu tiên không sợ con ma Y Đăm bắt chết nên cũng là người đầu tiên Y Đàm kể cho biết mọi chuyện. Và không biết Hồ Phừn nói với dân bản thế nào mà sau khi anh đi, dân bản không xa lánh Y Đăm nữa. Có người còn đem đến cho mẹ con Y Đăm nào xôi hông trộn nấm xào thịt, nào chân con hươu con mang, cho Y Đăm ăn để có sữa nhiều cho con bú.
Riêng Hin vẫn chưa trở về bản. Sau khi mạo hiểm bắt Y Đăm vào rừng, hắn hoảng sợ không dám trở về bản nữa.Hắn kéo Y Đăm đi lang thang hết núi này sang núi nọ. Một hôm, đang đi, hắn há hốc miệng run sợ. Trước mặt hắn, một con vượn lông lá loăn xoăn rũ xuống trùm kín mặt từ đâu nhảy ra chặn đường, lăm lăm con dao găm trong tay.
- Chúng mày đi đâu? - Con vượn hỏi?
Hin chưa hết hoảng hồn, vẫn đứng im như cây chuối. - Không nói à? - Con vượn lại nói, giọng rít lên - A, tao biết, tao biết. Bay đi tìm chúng tao cho công an biên phòng! Tao giết! Con vượn nhảy vào Hin, bổ cây dao găm xuống huyệt cổ Hin. Phản ứng trước cái chết, Hin né tránh, con vượn hẫng đà bổ xuống đất. Hin vồ lấy đè dí xuống, Y Đăm sợ hãi rú lên, ngất đi. Không biết con vượn nói gì với Hin, cánh tay Hin từ từ buông và hai đứa ngồi với nhau bên hòn đá rầm rì to nhỏ. Rồi Hin đứng dậy đến bảo Y Đăm trở về bản. Từ đó, Hin theo tên trùm thổ phỉ này. - Vợ của mày thằng công an Phừn cướp mất rồi! - Một hôm tên trùm phỉ đi đâu về báo cho Hin cái tin ấy. Nỗi căm tức trào
lên chụp lấy cổ Hin. Cái tay Hin muốn chém, cái chân Hin muốn đi trả thù. Hin tìm về bản Sương, ngồi rình bên một hòn đá lớn bên đường. Quả đúng như thằng trùm phỉ nói, Hin thấy Y Đăm và Hồ Phừn từ trong bản đi ra. Hin tức điên lên, chờ hai người đi đến trước mặt, Hin vùng dậy vung cây dao mác lên. Hắn chỉ nom thấy máu phun ra trên mặt Phừn rồi chạy biến vào rừng, đi miết. Cũng hôm đó, toán thổ phỉ bị công an biên phòng bao vây, tiêu diệt. Riêng Hin, hắn may mắn không đi vào vòng vây của công an biên phòng nên sống sót. Khi chỉ còn một mình bơ vơ giữa rừng sâu, Hin cảm thấy hối hận. Nếu không giết chết Hồ Phừn, hắn còn hy vọng trở lại bản, nhưng cái mác của hắn đã dính máu người cách mạng rồi, bàn tay hắn đã làm con người biến thành con ma rồi, Hin không thể sống với dân bản được nữa. Đêm nằm nghe cọp gào trong thung sâu, Hin rùng mình co lại trong hốc đá như con trút. Hắn cảm thấy nhớ mẹ, nhớ bản Sương, nhớ con suối Y Leng, nhớ Y Đăm, em gái Y Lan mới lớn được ba mùa rẫy không vịn vai bắt Hin cõng ra suối mò cá nữa. Cái rẫy cái nương, cũng thù hắn như thù con lợn độc phá ngô phá lúa.
Sau một tháng ngược theo con suối chảy rồi xuôi theo con suối chảy. Hin đến một vùng nào đó ở Trung Lào. Hắn nhập với một toán cướp. Sau hai năm sống cuộc đời du thủ du thực, hắn chán cảnh cướp phá chém giết. Hắn không nguôi nhớ bản Sương, mế già, Y Đăm và em gái Y Lan, nhưng bàn chân của hắn đã đi quá xa, không thể trở về bản Sương được nữa. Hắn trốn đến Viêng Chăn ăn xin. Cho đến một ngày cách đây nửa năm, hắn bị cảnh sát Viêng Chăn bắt vì gây chuyện đánh nhau trên phố. Sau khi khai hết cuộc đời phiêu bạt của mình, hắn ngạc nhiên khi thấy người ta đưa hắn lên xe Pho chở ra sân bay Chiếc máy bay đưa hắn đến một trại lính. Hắn học bắn súng, đánh võ,
đâm dao. Người ta nói với hắn rằng, mế hắn đã bị cách mạng giết chết, hắn phải về trả thù. Sau mấy tháng học, Hin được phong thiếu uý, hắn chẳng hiểu thiếu uý là cái gì, chỉ biết người ta cho hắn tiền rồi đưa về Viêng Chăn. Được biết sắp trở lại bản Sương, thoạt đầu Hin rất mừng. Hin sắp được gặp mế, gặp Y Đăm gặp em gái Y Lan, sắp được ngắm con suối Y Leng những buổi chiều tuôn chảy như một vòng bạc trên cổ tay Y Đăm. Nhưng hắn lại lo sợ khi nhớ đến tội lỗi của hắn đôi với bản Sương và đối với công an biên phòng.
Hin cứ mang theo tâm trạng đó bước xuống vùng đất hẻo lánh và hiểm trở này. Nhiệm vụ của hắn là dẫn một toán về bản Sương hoạt động phá rối. Mấy ngày qua, hắn chần chừ vừa muốn đi vừa muốn không. Hắn căm tức Phảy vì Phảy cứ giục hắn luôn. Trước đây, Hin không biết Phảy là ai, vậy mà bây giờ Phảy lại chỉ huy hắn, thúc hắn như thúc con lợn.
Hin đưa cặp mắt mệt mỏi nhìn Phảy thở dài não ruột: - Tao sẽ đi bây giò! - Hin nói.
Phảy vỗ tay rồi nhảy lại mấy hòm gỗ đựng làm vách chắn gió, rút dao cạy tung một hòm, xổ ra một đống đồ hộp. - Chúng ta liên hoan chúc mừng ông toán phó lên đường thắng lợi và chúc mừng sự thành công bước đầu của chúng ta. Với bàn tay thành thạo, lát sau Phảy đã khui xong đống đồ hộp.
Hắn lôi trong thùng sắt ra những chai rượu uýt-ky ném ra giữa đất. Bọn lính quây lại chen chúc nhau bên đông đồ hộp. Chúng chửi rủa, gầm gè nhau và bắt đầu ăn uống. Mỗi tên cầm trong tay một hộp thịt giữ khư khư trước bụng, dùng dao găm
xén thịt bỏ vào mồm, nhai. Mắt đứa nào cũng thao láo như mắt của những con chó giành xương. Những chai rượu phút chốc chỉ còn vỏ không từ trong tay bọn lính bay ra nổ choang choảng
trên mặt đất. Lũ lính ngấm hơi men, mắt chúng vằn lên những tia máu. Chúng đấm đá nhau, chửi bới nhau và tự do moi thịt hộp, lôi rượu từ trong các thùng ra nhậu nhẹt. Một mình Phảy uống cạn hai chai uýt - ky, hắn bước đi lảo đảo đến bên chiếc máy vô tuyến PRC 25. Hắn bật ăng ten chỉnh sóng, rồi vào máy những lời khoa trương của một kẻ say rượu báo thành tích về trung tâm.
Phảy buông máy ngã vật ra phía sau. Chốc lát tiếng ngáy bật ra lọt rọt từ cái mũi hếch của hắn. Mặt hắn méo xệch đi, hàm răng vẩu nhăn ra trong giấc ngủ trông như bị chết đột ngột. Lũ lính nằm chồng chéo lên nhau, tiếng chửi méo mó, ú ớ rồi im hẳn. Chúng ngủ, giấc ngủ nặng nề trên những khuôn mặt gầy quắt đen đúa như những miếng sắt gỉ nom thật thê thảm. Có đứa ngồi dạng chân, tựa lưng vào một gốc cây mi cắt, đầu ngoẹo về một bên. Có đứa đang ngủ bỗng nhảy dậy, cầm súng lên đạn rồi lại khuỵu xuống ngủ tiếp.
Phảy tỉnh rượu, chồm dậy đấm đá lung tung. Hắn chửi lũ lính khốn nạn, lười nhác và tham ăn. Lũ lính ngồi dậy, ngơ ngác nhìn Phảy. Khi chửi đã chán miệng, đấm đá đã chán tay, Phảy lục tìm tấm bản đồ bọc giấy nhựa trải xuống đất. Hắn nheo mắt nhô lên cúi xuống tấm bản đồ như một con khỉ bắt rận. Rồi hắn gấp tấm bản đồ lại, lên đạn khẩu súng ngắn.
- Tao dẫn bọn mày xuống cửa hang. Hắn hất hàm với Hin, rồi khom người luồn qua bụi mi cắt như một con mèo. Hin im lặng theo Phảy. Năm tên lính lầm lũi mang súng đạn và các trang bị luồn theo.
IV
K
hác với các chiến trường khác: kẻ địch nằm trên hướng xung phong hoặc trong tầm ngắm xạ kích, chiến trường của các chiến sĩ công an vũ trang không có kẻ địch như thế. Kẻ địch của họ lẩn lút vào bóng đêm, ẩn mình vào sự hiểm trở của thiên nhiên. Trong màu xanh hoang vu bao la tưởng chừng yên tĩnh của biên giới, đã hàng ngày hàng giờ xảy ra cuộc chiến đấu dai dẳng, gay go. Dép cao su dày non nửa gang tay mòn rẹt đi, đế giày xơ tướp trên lưỡi đá tai mèo, vớ chống sên rách toạc, các
chiến sĩ biên phòng quanh năm cần cù xuyên rừng tìm kẻ địch. Nếu kẻ thù bằng xương bằng thịt luôn luôn giấu mặt thì kẻ thù thứ hai lại sừng sững trước mặt, giơ nanh vuốt ra đe doạ: đó là sự hiểm trở của thiên nhiên. Kẻ thù này im lặng và hiền từ, khêu gợi hồn thơ khi đứng xa ngắm nhìn. Nhưng hãy coi chừng! Khi đụng vào nó, nó trở nên hung hãn, đè chết con người trong trận bão rừng, giam hãm con người trong một thung lũng khô cằn bằng những bức tường đá, hất con người từ trên vách lèn xuống vực sâu, nuốt chửng con người trong trận lũ. Đê đánh bại kẻ thù thứ nhất, các chiến sĩ biên phòng phải chiến thắng kẻ thù thứ hai.
Phân đội truy lùng do đồn trưởng Tạ chỉ huy đã lên đường được năm ngày nay. Sau hai ngày vượt điểm cao 1124, phân đội quặt về hướng nam, băng qua thung lũng Phu Con Kên.
Phu Con Kên, cái lòng chảo quanh năm ngập ngụa nước. Những cơn mưa giông mùa hạ xói mòn đất đá trên các sườn núi, ập xuống lòng chảo, bùn lắng đọng tạo thành đầm lầy. Mùa khô, nước rỉ ra từ các hẻm núi rồi chảy dồn về đây. Cây rì rì tốt tươi, cành lá đan quấn nhau, tạo thành tấm màn xanh quanh năm
phủ kín mặt nước. Lá cây rụng xuống, xác chết của thú vật từ trên các dãy núi theo nước cuộn về thối rữa. Nước vàng óng, lệt sệt, bốc lên mùi hăng hắc, khẳm lặm, khó thở.
Phân đội tiến sâu vào lòng chảo. Sáng kiến của đội trưởng Thịnh có hiệu quả. Ba ngày dầm chân trong bùn nước chưa có ai phải dùng đến lọ thuốc đỏ trong túi thuốc của phân đội. Nhưng lớp bùn quái ác sâu đến hơn gang tay đã nhanh chóng hút kiệt sức lực của những đôi chân. Điều đó làm đồn trưởng Tạ lo lắng. Càng đi sâu vào thung lũng lớp bùn càng sâu dần.
Mưa phùn vẫn bay xuống một cách lặng lẽ trên tán lá lì rì. Thung lũng vắng vẻ, thâm u. Ánh sáng vốn đã nhạt của mùa đông bị tầng lá chặn lại, chỉ còn lọt xuống đủ để nhìn rõ mọi vật trong tầm vài chục mét trở lại. Khó có thể phân biệt được thời gian bằng cường độ ánh sáng. Đang giữa trưa mà trời xâm xẩm như bắt đầu tối. Nước mưa đọng trên lá cây rơi lục bục trên mặt nước. Tiếng rơi nghe hoang dã, xa xưa làm cho rừng già càng im ắng, quạnh quẽ hơn.
Gần ba chục chiến sĩ ba lô vồng lên sau lưng, súng AK đeo chéo ngang hông, theo đội hình chiến đấu nhích dần lên phía trước. Trời mưa rét là thế, nhưng chẳng ai mang áo mưa. Rừng già với những lùm cây rậm rạp đầy gai nhọn và dây leo không cho phép con người chống lại thiên nhiên bằng những phương tiện thông thường. Dầm mưa, xuyên rừng đã trở thành thói quen của các chiến sĩ. Họ chỉ giữ khô cho vũ khí và lương thực. Túi đựng gạo tuần tra không phải bằng bao tải mà được khâu bằng vải nhựa. Bao đạn cũng được lót một lớp ni lông bên trong. Mỗi người còn mang sẵn thêm vài dải ni lông dành phần che mưa cho khẩu súng. Các chiến sĩ dầm trong mưa, áo quần ướt sũng, xanh sậm như mới nhuộm lại, dán chặt vào da, bốc hơi.
Đồn trưởng Tạ đi ở tổ thứ hai. Tổ trinh sát đi đầu do Xứng chỉ
huy. Mỗi khi đường đi bị nghẽn, đồn trưởng lại bươn tới tổ trinh sát, cùng lùng sục, mở hướng. Ông rất hiểu mỗi chuyến xuyên rừng, vất vả nhất là các anh trinh sát. Cứ trông cậu Xứng đó thì đủ biết. Chân tay không lúc nào ngót việc, vừa phải căng mắt tìm đường, vừa phải tập trung đầu óc để xác định đúng hướng hành quân. Lúc đường bị nghẽn, toàn phân đội dừng lại và được nghỉ ngơi, riêng tổ trinh sát phải luồn lách hết lối này đến lối khác, mệt phờ râu trê. Biết thế nên bữa ăn nào, đồn trưởng Tạ cũng cầm một hộp thịt mở sẵn, cắt làm tư, lặng lẽ đến đặt vào vung cơm của bốn cậu trinh sát. Mỗi lần như thế, các cậu trinh sát lại giãy nảy lên "thủ trưởng chiều quá, cho anh em khác với", ông phải ngồi bên cạnh, hầm hè không cho cậu nào mang thịt đi chia cho người khác. "Các đồng chí thương anh em thì gắng mà ăn đi" - Ông nói trong khi âu yếm nhìn tô trinh sát ăn cơm. Ông thương anh em lắm, có giành cho họ miếng ngon, họ cũng không nuốt nổi.
Tổ trưởng trinh sát Xứng cúi khom người chui qua một bụi lau. Nước mưa đọng trên lá cây rơi rào rào. Hồ Sa Nôn bám theo sau. Mắt Xứng mở to nhìn xung quanh rồi anh nhằm một hướng cây thưa lội ào tới. Đôi giày vải của anh dính bùn đen như bốt cao su. Đến bên một gốc cây, anh dựa ba lô lên một nhánh củi, đứng chờ Hồ Sa Nôn và hai chiến sĩ trinh sát.
- Cái ông Pi Ta Go người ở đâu hở anh Xứng? - Hồ Sa Nôn bước tới hỏi Xứng.
- Ông là người... Xứng đưa tay gãi đầu, bối rối trước câu hỏi của Nôn - Mà xiều hỏi ông ta làm gì, cứ học thuộc cái định lý ấy đi đã.
- Thuộc rồi. Này, trong một tam giác vuông, bình phương cạnh huyền... Nôn đọc một thôi, mắt long lanh, sung sướng. - ừ xiều nhớ nhanh lắm! - Xứng khen.
Hai cậu trinh sát trong tổ cũng đang đăm chiêu suy nghĩ về bài toán Xứng ra.
- Nào, hai ông đã mò ra lối chưa? "Một đoàn con gái tắm bên sông, thảo luận cùng nhau việc lấy chồng, nếu, nếu hai lấy một thì ba không vợ, một lấy bốn thì bốn không chồng... - Xứng nhắc lại bài toán rồi gợi ý - Các cậu quên mất phương trình bậc nhất có hai ẩn số rồi à? Này, ta thử, thử cho con gái là X, con trai là Y... Đến tối các cậu phải làm cho ra đó!
Hai chiến sĩ trinh sát lại lầm bầm tính toán.
Với kinh nghiệm của người lính biên phòng lâu năm, trong mỗi chuyến vượt rừng hiểm trở, Xứng thường lái suy nghĩ của các chiến sĩ và một câu chuyện nào đó, khiến họ bót căng thẳng và mỏi mệt. Hồ Sa Nôn đã học xong lớp bảy. Ba ngày nay, Xứng đem một số kiến thức lớp tám ra dạy Nôn. Chàng trai dân tộc Khùa rất háo hức học. Xứng đưa ra định lý toán nào, cậu ta cũng nghiền ngẫm và chỉ mấy giờ sau đã học thuộc. Biện pháp của Xứng quả có hiệu nghiệm. Các chiến sĩ bớt căng thẳng hơn. Điều đó làm Xứng vui, nhưng dù sao, anh vẫn thấy sức lực của tô đang sút dần. Bước chân của họ xem ra mỗi lần rút lên khỏi lớp bùn đã thấy khó khăn. Cứ nghiệm bản thân anh thì rõ. Hai ngày đầu còn kham được, chứ sang ngày thứ ba, người anh đã mỏi rã rời, đôi chân như muốn rụng. Có lúc anh cảm thấy choáng váng tương như không còn đủ sức để rút bàn chân lên nữa. Lớp bùn dày như có bàn tay giữ chật lấy chân anh. Rồi ngày mai, ngày kia, mọi người còn chịu đựng nổi nữa không? Mà cái lòng chảo quái ác này không biết đến bao giờ mới vượt qua được. Trước kia, đã một lần, Xứng cùng đội trưởng Thịnh và đồn phó Huynh mạo hiểm tìm đường vào giữa lòng chảo Phu Con Kên. Ngày ấy, cách đây đã tám năm, Xứng còn làm một cậu tân binh. Lội bùn một ngày, Xứng đã phải bắt Thịnh cõng trên lưng. Những vết
gai xước ở chân Xứng gặp chất nước màu vàng độc địa, nhanh chóng sưng lên, đau buốt như dao chích. Hai người phải quay trở lại. Vùng Phu Con Kên là nơi bí hiểm, khêu gợi tính tò mò của người trinh sát.
Nếu như đời lính biên phòng có nhiều thú vị thì cái thú vị nhất là sự khám phá thiên nhiên. Xứng thường nghĩ vậy. Bởi vì rừng hiểm trở đã hấp dẫn, cuốn hút anh. Mỗi đợt tuần tra, truy lùng, sau những ngày gian khổ lội suối băng lèn, được đặt chân lên một cao điểm hoang vu, một đỉnh lèn không tên tuổi, Xứng lại cảm thấy vui khấp khởi. Tháo ba lô xuống, người lạng đi vì hàng chục ngày trời quen mang nặng, Xứng đã nhảy đi tìm kiếm những điều mới lạ.
Sinh ra ở một làng ven biển Quảng Bình, từ khi còn ngồi trên lưng bà, Xứng chỉ quen nhìn biển xanh với những con sóng bổ cong tung bọt trắng. Khái niệm núi rừng đối với anh chỉ là những vệt dài màu sẫm chắn ngang chân trời phía tây xa xăm mỗi lần chạy lên cồn cát cao nhìn ông mặt trời lặn. Lớn lên, bàn tay anh quen vặn bánh lái những con thuyền đinh, căng buồm và thả neo, bàn chân anh quen đi những bước dài xoải ra, gót tỳ sâu vào lòng cát. Thế rồi, học xong lớp mười, vào bộ đội, anh lại lên biên phòng. Những ngày đầu sống với núi rừng, anh suýt phát khóc. Con đường đất đá gập ghềnh không chấp nhận đôi chân quen đi trên cát, chỉ chực quật anh ngã. Những tảng đá rêu trơn nhầy nhụa nghe có đôi bàn chân bước gượng đã hất anh xuống suối. Tất cả đôi với anh đều lạ lùng, doạ dẫm. Nhưng rồi, những đợt tuần tra dài ngày ào đi không hơi sức đâu để ngày một ngày hai làm quen với núi rừng, cho đến lúc, Xứng bỗng nhiên thấy mình yêu thích biên phòng. Sau cái lần bắt đội trưởng Thịnh và đồn phó Huynh cõng về trong chuyên đột nhập Phu Con Kên, Xứng chính thức được bổ sung vào tổ trinh
sát. Mặc dù Xứng chưa quen đất quen nước lắm, nhưng đồn trưởng Tạ vẫn khẳng định Xứng sẽ trở thành tay trinh sát giỏi. Xứng có trí nhớ đáng ngạc nhiên về địa hình rừng núi và đến nay đã trở thành chiếc la bàn sống. Có lần, cầm bản đồ la bàn trong tay, đồn trưởng Tạ vẫn không tìm được hướng đến một cao điểm đã định, vì ông không xác định được chỗ đang đứng thuộc tọa độ nào trong bản đồ, Xứng đã dẫn phân đội đi theo hướng mà anh cho là đúng, quả nhiên, hôm sau, phân đội đến điểm cao ấy.
"Núi rừng thật gần gũi, nhưng cũng, cũng thật kì lạ" - Xứng thường mở to mắt, vò đầu nói với mọi người như vậy. Đứng trên một mỏm lèn chênh vênh, cúi xuống nhìn mây bay lưng chừng núi, một cảm giác lâng lâng trong anh, và anh thả lòng bay theo những đám mây ấy cho đến lúc ánh nắng bừng cháy đốt tan màu mây trắng, rừng núi lóng lánh sắc xanh. Qua một dòng suối không tên, thế nào Xứng cũng đứng dẫm chân một lúc với ý nghĩ lãng mạn: Những làn nước đang chảy quanh anh trôi về xuôi, đến một nơi nào đó, và biết đâu, một cô gái nào đó cũng rửa chân bên sông đứng nhìn làn nước này. Cô gái ấy, bây giờ là Y Lan. Xứng có thói quen mỗi đợt tuần tra, truy lùng, anh đều tìm một bông hoa rừng ép vào cuốn sổ nhỏ trong túi áo để làm kỷ niệm. Những bông hoa ấy đến nay đã được một gói to, nó không nằm trong chiếc rương đồ đạc của Xứng ở đồn nữa, nó đã nằm trong túi xách đựng giáo án của cô giáo Y Lan ở bản Sương.
Vào một ngày cách đây năm năm về trước, Xứng nhặt được một đứa trẻ độ mười hai, mười ba tuổi bên bò Y Leng, trong một chuyên đánh biệt kích. Đứa trẻ là một cô bé người Khùa, đang thoi thóp, Xứng cõng về đồn và đơn vị đã cứu sống cô bé. Bọn biệt kích giết chết bố mẹ cô bé, khi họ lên làm nương và quang cô bé xuống suối. Vài ngày sau, cụ Sa Đa lên đồn đem cô bé về
làm cháu nuôi. Cô bé đó là Y Lan.
Từ đó, Xứng xem Y Lan như em và anh cũng được Y Lan giành cho tình cảm đặc biệt. Hàng tháng, Xứng giành hai ngày chủ nhật đến dạy học cho Y Lan và mỗi lần như vậy trở vế đồn, thế nào chiếc áo bạc màu Xứng mặc cũng tươm tất hơn: Một chiếc nút đứt đã được đính lại, một lỗ rách đã được vá bởi những mũi chỉ nắn nót. Mỗi lần Xứng đi xa, người ta thấy trên cổ tay cậu có buộc những vòng chỉ đỏ chúc phúc mà Xứng cứ hay ngắm nghía rồi cười thầm một mình. Cho đến ngày Y Lan được tuyển vào học trường sư phạm sơ cấp, Xứng bỗng thấy Y Lan lớn nhanh quá. Mói ngày nào cô còn gầy nhom như một cây lồ ô còi, vậy mà nay đã tươi tốt sum suê như một cây cam sành sắp ra lứa quả bói. Xứng nhận thấy điều đó và cậu sửng sốt khi bước bên Y Lan trong sắc ráng chiều cháy hừng hực trên dòng Y Leng, tưới lên má Y Lan màu hồng ửng mượt. "Ngày mai em xa anh Xứng rồi mà anh Xứng chẳng tặng cho em cái gì để nhớ nhau" Y Lan nói, dừng lại bứt một đọt sim đưa lên miệng cắn. "Tôi chỉ có chiếc ba lô và khẩu súng, biết tặng Y Lan gì bây giờ, hay tặng chiếc ba lô vậy?" Xứng trả lời sau một lúc bối rối. "Không có gì à? Hoa rừng nhiều lắm mà anh!" Y Lan ngoảnh đi, nối. Xứng chọn một bông hoa rừng đẹp nhất tặng Y Lan. Nhưng cô không nhận. Xứng tưởng bông hoa này Y Lan không thích, bèn chọn bông khác. Y Lan càng không nhận. Cuối cùng Y Lan bảo: "Ôi, anh Xứng, em chỉ muốn nhận bông hoa trong lòng anh thôi mà!" Xứng giật thót và sau đó đã mất ngủ mấy đêm liền để đi đến quyết định...
Phía sau, đồn trưởng Tạ thỉnh thoảng đưa tay sờ hai sợi râu trên má. Ông lo mọi người kiệt sức. Ba ngày qua, không nấu cơm được, phân đội chỉ ăn toàn lương khô. Mặc dù mỗi ngày đã dùng hết một hộp sữa, nhưng băng lầy thế này, đến sâm cũng chẳng
thấm tháp gì. Cao điểm 2017 vẫn còn xa, rừng lầy vẫn còn rộng. Liệu rồi mọi người còn kham nổi cho đến khi lên tận cao điểm hay không? Cậu Quang cùng đi một tổ với đồn trưởng Tạ. Mới mấy ngày băng rừng mà Quang đã gầy tọp đi. Đồn trưởng Tạ e ngại khi thấy khuôn mặt bánh đúc của Quang dài ra, hai hàm
răng va nhau như đánh mõ. Chiếc ba lô trên năm mươi cân làm người Quang cong xuống. Những giọt nước lăn vội trên mặt cậu ta khó phân biệt được mồ hôi hay nước mưa. Cứ mỗi lần nhìn Quang, ông lại chợt nhớ đến đứa con gái và trong ông thấy thương người chiến sĩ trẻ này. Hai mươi năm về trước, từ dưới hầm bí mật chui lên, ông im lặng đến hôn lên má thằng con trai đầu lòng chưa đầy sáu tháng rồi rời căn nhà lụp xụp ra đi, giọt nước mắt của vợ cứ thấm hoài trên bả vai. Tiếng sóng biển Nha Trang gào thét lùi lại phía sau. Ông lên chiến khu nhận công tác mới. Hai năm sau quay trở lại, người vợ đã thành một nữ du kích nổi tiếng ôm choàng lấy ông, nghẹn ngào báo tin đứa con trai đã bị giặc Pháp càn giết chết. Mấy năm sau, ông đi tập kết mang theo đứa con gái thứ lên ba, còn để lại cho vợ đứa con trai chưa đầy một tuổi. Gia đình bốn người, từ đó, sống ở hai phương trời, và lòng ông luôn bay đi giữa hai phương trời ấy...
Đội trưởng Cao Xuân Thịnh đi ở tổ giữa. Dáng người cao lớn của anh vẫn cứng cáp, dường như mọi gian khổ đều phải khuất phục trước dáng người ấy. Hơn mười năm sống ở biên phòng, chưa bao giờ anh bị sốt rét quật ngã. Lớn lên ở một vùng quê đất thịt bên dòng sông Gianh, bàn chân của Thịnh từ nhỏ đã bè ra, với những ngón tròn, cong xuống, thế cứng như những đốt tre mắt kiến. Bàn chân ấy từ lúc mới lên biên phòng bấm vào tảng đá rêu không trượt, leo ngược vách đá không biết run, Thịnh vào loại những người "ăn chịu" đối với biên phòng. Nước mặn sông Gianh và những bữa cơm gạo mành "bọc thép" ăn với cá
diếc kho khô, mặn quăn lưỡi đã ngấm cái khỏe khoắn vào xương thịt Thịnh. Anh vẫn thường xoay tay tuyên bố sẽ sống với biên phòng ít nhất hai chục năm nữa. Nhìn cái vẻ bên ngoài thô giáp của anh, khó có thể đoán được anh là người có cuộc sổng nội tâm phong phú. Thịnh rất yêu thơ và thích làm thơ. Quyển sổ tay bìa đỏ luôn luôn nằm ở túi áo ngực, chi chít những chữ. Nhưng dòng thơ viết vội giữa một đêm trăng rừng mở ảo sau một trận đánh, trên một điểm cao lộng gió bốn bề, cứ nối nhau dài ra theo cuộc chiến đấu. Chưa bao giờ anh có thời gian rảnh rang để chữa lại. Chỉ thỉnh thoảng anh ngồi chép lại một bài nào đó, gửi cho vợ, bên cạnh những câu dặn dò về đồng áng làm ăn: "Loại nông nghiệp tám là khó tính lắm đó, mà vùng Quai Mõ thì đất lại xấu, em phải cùng bà con lo cái anh phân chuồng cho đủ...". Làm thơ vậy chứ Thịnh cấm cho ai xem. Một lần, bắt quả tang Xứng nhìn trộm khi anh đang chép thơ, Thịnh đã nổi xung toan đánh nhau.
Sau khi căng tăng, mắc võng, mọi người lôi lương khô ra ăn thì đồn trưởng Tạ tuyên bố phải nấu cơm.
- Không có chất gạo, các cậu không nhắc nổi chân nữa đâu! Mọi người tưởng đồn trưởng nói đùa. Ai lại nấu cơm trên mặt nước? Biết nhóm lửa chỗ nào mà nấu với nướng chứ? Trời mưa, kiếm củi khô đâu ra? Nhưng khi thấy đồn trưởng Tạ mỏ ba lô cậu Quang, dốc hết gạo vào mấy chiếc nồi, mọi người mới tin ông nói thật. Cậu anh nuôi lôi trong túi cóc ra một nắm dây cao su. Đồn trưởng Tạ chặt mấy nhánh cây xỏ qua quai xoong rồi dùng dây võng treo toòng teng mấy chiếc nồi lên một cành cây đâm ngang. Thấy đã vừa ý, ông bảo cậu anh nuôi lấy nước vo gạo. Thịnh, Xứng cùng mấy cậu cầm dao găm sục củi. Đồn trưởng Tạ chặt những cành cây tươi cá nạng cắm xuống bùn, rồi dùng những cành khác gác chéo lên làm thành những giàn bếp.
Củi được chẻ nhỏ, tuy ướt nhưng được sự hỗ trợ của mồi lửa cao su chốc lát đã cháy. Lửa nổ lép bép, cháy rụt rè, xông khói mù mịt. Mọi con mắt nhìn chăm chăm vào những vệt lửa uể oải liếm trên những que củi đẫm nước. Một hồi lâu, sau mấy lần toan tắt, những bếp lửa đã cháy to hơn, ngọn lửa quấn quít dưới đáy những chiếc nồi. Cả phân đội quây quanh bếp lửa kì lạ, vẻ mặt sung sướng. Đồn trưởng Tạ nhìn ngọn lửa, hài lòng và vô tình đưa tay xoa hai sợi râu trên má. Riêng Thịnh, bếp lửa cho anh một ý thơ hay. Anh lặng lẽ rút cuốn sổ tay trên túi ngực, lui ra nấp sau một gốc cây mò mẫm ghi chép. Còn Xứng, cậu ta vừa đưa tay vò mớ tóc ướt sũng nước mưa, vừa giảng giải cho Hồ Sa Nôn về việc con người phát minh ra ngọn lửa như thế nào và đã dùng để cải tạo tự nhiên ra sao.
- Em thích nhất cái món thịt khỉ nướng chấm muối ớt! - Hồ Sa Nôn kết luận sau khi nghe Xứng nói xong.
Củi được bổ sung thêm, lưỡi, lửa reo cười, múa nhảy. Khuôn mặt các chiến sĩ sáng bừng, rạng rỡ. Tiếng cơm sôi lóc bóc trong nồi như cũng vui lây cái vui của con người. Mùi gạo thơm bốc lên ngây ngất.
Sau mấy ngày ăn lương khô liên tục, bữa cơm tôi nay làm mọi người cảm thấy khỏe hẳn ra.
Khi mọi người lên võng ngủ với bộ quần áo hong khô, đồn trưởng Tạ còn đứng bên bếp lửa với Thịnh và đồn phó Huynh. Dáng người cao to của Thịnh khom xuống mỗi khi đồn trưởng nói. Thấy trước tình hình sức khỏe của phân đội, đồn trưởng cử hai người đi trước dò đường để phân đội nghỉ một ngày.
Đồn trưởng Tạ giơ bản đồ soi bên ngọn lửa xem lại hướng đi. Theo tốc độ hành quân mấy ngày qua, đơn vị đã đi đến trung tâm Phau Con Kên.Rẽ ngoặt hướng Tây Bắc, đường bình độ có dày hơn, chứng tỏ đất hướng này cao hơn.Ngày mai, Thịnh và
Huynh đi theo hướng đó.
Bóng đêm dày đặc rơi xuống tầng lá, túa ra từ các hốc cây, chồm tới mấy bếp lửa như muốn nuốt chửng những đốm sáng mỏng manh trước mặt đồn trưởng Tạ. Những ngọn lửa lại lao lên gạt bóng tối ra xa.
Đội trưởng Thịnh lên võng cuối cùng. Anh còn nán lại giở quyển sổ nhỏ ra xem, say sưa đọc thêm những câu thơ vừa làm ban nãy.
V
B
ản Sương nằm cheo leo tận đầu nguồn của con suối Y Leng. Năm sáu chục nóc nhà sàn quây quần bên một bãi rừng thoai thoải. Cây lim, cây táu cao to hai ba người ôm lá đan kín trên đầu tưới bóng râm xuống những mái nhà cọ. Bản Sương có từ bao giờ không ai nhó. Ngay cụ Hồ Sa Đa trên một trăm tuổi cũng chỉ biết sau những chuyên phiêu bạt bỏ nhà bỏ nương ngược nguồn con suối Y Leng tìm nơi yên ổn, không còn nghe tiếng súng thằng Pháp nữa, dân bản thưa dần đi. Mà nào có được yên ổn, thằng Pháp bám theo bản Sương như con hổ bám theo mồi. Rồi con ma dịch tả, con ma sốt rét bóp chết người già lẫn những đứa trẻ vừa mới đẻ ra. Người Khùa, Mày bản Sương chưa biết vải là gì, trẻ con ở truồng, người già đóng khô bằng vỏ cây. Hạt bắp hạt lúa trên rẫy chỉ ăn đủ vài tháng, còn lại thì ăn củ nâu, đọt nhúc. Cây nhúc giống như cây dừa to hai người ôm, đẵn xuống, chặt lấy khúc ngọn, bửa la từng miếng, phơi khô, giã nhỏ, thành thứ bột ăn thay gạo. Củ nâu băm nhỏ, ngâm một tuần trong nước suối cho đỡ chát, đem phơi, nấu ăn như khoai khô. Bỗng một hôm, Hồ Phừn và các công an Pú Hồ đến. Hồ Phừn cho cụ Hồ Sa Đa một bát nước đường, nhưng cụ không dám uống. Cả đời cụ đã lần nào uống nước đường đâu. Cụ hỏi Phừn: "Nước chi mà nghe ngọt, trong đó có con ma không?" Công an khuyên bản trở lại bãi bằng định cư. Công an giúp dân khai rẫy khai nương, bày cho dân bản biết chữ, đuổi con ma bệnh tật đi xa. Dân bản lại đông ra như lúa hạn trên nương gặp mùa giông.
Nhưng, thằng phỉ, thằng biệt kích lại đến, bọn thầy mo thầy cúng hùa theo. Chúng muốn cây bắp cây lúa trên nương không
cho người cái hạt, chúng muốn dân bản chết dần chết mòn như những hạt muồng muồng rụng xuống dòng Y Leng mùa lũ. Bọn thầy mo xúi dân bản ngược suối đi theo phỉ. Nhưng dân bản không còn dại nữa. Lũ con trai con gái đã cùng công an biên phòng đánh trả lại lũ phỉ. Cái tay cụ Hồ Sa Đa cũng đã có lần giương ná bắn vào một thằng thổ phỉ. Mũi tên tẩm độc cất trong ống luồng gác trên sàn bếp dùng để bắn con hổ, con gấu cụ đã dùng tới. Dân bản vẫn còn nhớ lần ấy cụ Sa Đa dùng cây ná bắn voi bắn mũi tên độc xuyên qua bụng thằng phỉ, cắm ngập vào thân cây dâu da mà thẳng phỉ dựa lưng. Mũi tên cứ găm người thằng phỉ vào thân cây như thế, cho đến lúc phải dùng rựa chặt cái tên ấy đi, thằng phỉ mới bô xuống.
Cụ Hồ Sa Đa thức dậy, châm ngọn cà boong cháy sáng căn nhà. Cụ đến ngồi bên bếp lửa, trầm ngâm, đôi mắt nhìn chằm chằm vào một cục than sáng rực. Từ ngày bọn dân quân, bọn công an đi đánh biệt kích ở Phu Ác theo đường tắt, cụ cứ thao thức, cái bụng để theo bước chân chúng nó. Cụ lo. Như bao nhiêu lần tiễn những đứa con của dân bản lên đường tuần tra truy lùng, cụ mong cầu cho chúng đánh thắng thằng biệt kích, thằng thổ phỉ mà đứa nào cũng lành lặn mạnh khỏe. Mong cầu vậy, chứ trong thâm tâm, cụ cũng biết bắn con lợn lòi nhiều lần cũng bị nó cắn, bắn con trâu rừng nhiều lần cũng bị nó húc.
Cụ già cầm một hòn than đến vạch lên xà nhà một vạch nữa. Sáu vạch than kề nhau. Thế là công an và dân quân đã đi được sáu ngày.
- Bó lũ bây - cụ gọi đàn con cháu đang ngủ trên sàn nhà - thằng Tạ, thằng Nôn với bọn công an đã sắp đến chân núi Phu Ác rồi!
Mọi người trong nhà bật dậy nhìn cụ. Y Lan mặt đỏ bừng, tỉnh như sáo, dã chạy đến nép bên cụ Sa Đa. Mất Y Lan bắt lửa
sáng long lanh.
- Cả anh Xứng nữa Pú!
- Cả thằng Xứng nữa! - Cụ Sa Đa âu yếm nhìn Y Lan. Mấy hôm nay cụ biết Y Lan nhớ thằng Xứng lắm, cái miệng nó hay nhắc đến thằng Xứng, chứng tỏ cái đầu nó có thằng Xứng trong ấy. Cụ bỗng thấy vui vui. Từ hồi có công an về bản, người Kinh, người Khùa đã thành gần gũi, có thể lấy nhau nên vợ nên chồng, không còn ghét nhau như ngày còn thằng Pháp nữa.
- Cháu Y Lan! Ta không bắt thằng Xứng ở rể ba năm, cưới nhau ba lần như tục của người Khùa đâu! Thằng Xứng làm công an, cháu làm cán bộ, công an Pú Hồ, cán bộ Pú Hồ không được đi theo tục cũ đâu.
Cụ Sa Đa nói trúng ý nghĩ của Y Lan quá. Y Lan lấy tay bưng mặt giấu một nụ cười sung sướng.
- Cháu cũng muốn vậy Pú à !
Quấn chiếc khăn bằng vải lụa trên đầu, Pú Sa Đa đứng dậy rút cây mác dắt ở tấm phên bỏ vào chói sau lưng, bước ra ngoài. Chiếc khăn lụa của Pú Hồ gửi tặng cụ trong lần cụ tròn 125 tuổi, mỗi lần quấn lên mái đầu bạc, cụ lại cảm thấy ấm áp lạ. Những bước chân của cụ vững chãi chắc chắn làm sàn nhà kêu cọt kẹt. Cụ xuống cầu thang đi ra suối. Ngồi xuống bên một hòn đá đã mòn già nửa, cụ mài lại cây mác. Cây mác sáng dần lên. Cụ rút một sợi dây đi về phía cuối bản.
- Pú Sa Da đi đâu mà sớm như con chim đại bàng đất vậy? Một người đàn bà đứng ở hiên ngôi nhà sàn cuối bản cười hỏi cụ: - Bớ cháu Y Đăm. Tao lên cái rẫy xa nhất thăm lúa đây. Cụ Sa Đa đi thăm lúa ở cái rẫy xa nhất, nhân tiện ghé qua xem mấy cái bẫy đặt ở khu rừng đó có trúng con thú nào không? Mưa bụi đậu nhẹ trên những ngọn lá rừng, đọng thành giọt to, mờ đục. Rừng buổi sáng yên ắng, thỉnh thoảng bầy chim cà
liếng ở đâu đó hót vang một chặp rồi lại im bặt. Cụ Sa Đa cầm cây mác trong tay phạt đứt những dây leo trước mặt, cắt đường lên rẫy. Cụ có thói quen không thích đi đường mòn mà cắt đường theo ý muốn. Cây mác sắc ngọt bay loang loáng, nhẹ như chém vào khoảng không. Hơn một trăm năm rồi, cụ đã dùng nhiều cây mác, những cây mác đã cùn đi theo đôi bàn tay ngày càng nhiều vết chai, nhưng chưa cây mác nào sắc như cây mác đang dùng. Nó được rèn bằng mảnh bom tạ máy bay ném phá bản hồi năm ngoái.
Đang đi, cụ bỗng đứng phắt lại, đưa mắt nhìn quanh. Mùi thuốc lá thơm vương vất đâu đây. Cụ bước đến bên một hòn đá và thấy một mẩu thuốc lá. Có những vết giày in rõ trên mặt đất ẩm uớt. Cụ cầm mẩu thuốc lên nhìn rồi đến bên những dấu giày, ngồi xuống quan sát. "Không, thằng công an Hồ Phừn không đến đây. Thứ thuốc lá này không phải của người mình hút, dấu giày này không phải của người mình? Cụ thầm nghĩ và chợt nhố đến những lần trước kia, mỗi khi có bọn biệt kích đến Phu Ác, đều có một toán về đây phá rôi."Bọn biệt kích về bản mà ta chưa biết!" Cụ đứng dậy cầm cây mác trong tay, hăm hở lần theo những dấu giày lạ. Dấu giày khi rõ, khi mờ trên mặt đất, có lúc không thấy nữa, khiến cụ phải dò trở lại rà tìm cẩn thận rồi hối hả đi tiếp. Những dấu giày chứa đầy sự bí mật cuốn hút cụ, đưa cụ vào rừng sâu từ lúc nào không hay biết.
Cuối cùng, cụ Sa Đa đến trước một cửa hang, thoạt trông, cụ đứng lặng, không tin vào mắt mình nữa. Ký ức của một trăm năm về trước dội đến. Cái lần cụ đưa toán nghĩa quân Phan Đình Phùng bị lạc vào Phu Ác, cụ đã một mình tìm đường về và chính cái cửa hang này đã cứu sống cụ đây. Lần ấy, ra khỏi cửa hang, cụ ngất đi vì đói mệt. Chính hòn đá to trước mặt cụ đây, cụ đã nằm trên đó cho đến khi tỉnh lại. Cây dâu da mà cụ đã hái ăn cho
đỡ đói đã đổ, chỉ còn trơ lại cái gốc mục ẩm. Xung quanh, cây cối lên cao hơn, rậm rạp hơn. Cửa hang không thay đổi gì, vẫn những nhũ đá rêu phong già nua và ma quái. Nhưng tại sao mấy lần cất công đi tìm cửa hang này mà cụ chang tìm ra? Hay đang mơ đây? Cầm cây mác chích vào tay, thấy đau nhói, cụ khẳng định mình đang thức thật.
Cụ sững sờ đi lại trước cửa hang, sờ mó những hòn đá rêu phủ kín, như đang sờ vào những hình ảnh quá khứ. Rồi cụ ngồi xuống, nhìn vào trong hang. Những mau đá lờ mờ kia tay cụ đã lần mò để vượt qua bằng chút sinh lực cuối cùng cách đây một trăm năm. Sâu hút bên trong, một màu đen tôi phủ lấy mọi vật chẳng cho mắt cụ nhìn thêm được gì nữa cả. Cụ muốn đi vào trong ấy. Cụ toan bước vào thì, trên mặt đá, dấu giày lạ vừa giẫm trượt hết rêu làm một ý nghĩ thoáng qua: "Lỡ bọn biệt kích nó giết ta, ai báo cho công an Hồ Phừn biết?" Cụ vung cây mác quát lớn:
- Bớ con hổ, con gấu, đi đâu rồi mà tao tìm không ra? Nói rồi, cụ lững thững bỏ đi. Nhưng khi nhìn lại thấy miệng hang đã khuất, cụ khom người cất cẳng chạy. Dây rừng đứt phừn phựt, cành lá quất ràn rạt vào mặt, cụ cũng chẳng biết nữa.
*
Ngồi sau một hòn đá trong hang, Hin nín thở căng mắt theo dõi cái bóng di động trước cửa hang. Khẩu súng ngắn đã lên đạn trong tay hắn run run, rê theo sát mục tiêu. Hai tên biệt kích nằm bên cạnh hắn cũng đang trải qua những phút căng thẳng, hoảng sợ. Bóng người luớt qua, lướt lại, khom xuống, đứng lên trước cửa hang chúng hồn xiêu phách lạc. Đứa nào cũng đoán bộ đội, công an đang đi tìm chúng. Khi nhận ra chỉ có một người, Hin gạt súng hai tên đồng bọn xuống, ra hiệu đừng bắn.
Bắn thì sẽ lộ mất. Hin rút con dao găm cầm tay, nhẹ như một con thằn lằn bò tới miệng hang. Nhưng con dao trong tay hắn bỗng rời ra, mắt hắn mờ đi, chân tay hắn run lẩy bẩy khi nhận ra người trước cửa hang là cụ Sa Đa! Trời, ông già vẫn sống! Hắn lẩm bẩm. Từ khi Hin biết nhìn và biết nhớ, cụ Sa Đa đã đầu tóc bạc phơ. Mỗi lần nhìn cụ, Hin tưởng như nhìn lên đỉnh Phu Ác mây trắng, nghe cụ nói, Hin như nghe tiếng sấm mùa mưa. Cụ Sa Đa như cây lim rắn chắc của rừng già, như nóc nhà cao nhất của bản. Người Khùa đều kính nể cụ. Khi Hin từ trong bụng mê chui ra, chính cụ Sa Đa đã cầm Hin trong tay và cắt rốn cho Hin. Hin còn nhớ lũ con gái, con trai đêm khuya ngồi quây quanh bếp lửa nghe cụ kể chuyện cổ tích về núi Phu Ác, về đèo Mụ Giạ, Khi kể về những chuyện phiêu bạt của bản Sương, hai tròng mắt cụ rưng rưng, ướt đẫm như hai vực thẳm tối tăm những kỷ niệm làm lũ con trai con gái cũng khóc theo.
Hin thở hổn hển bò trở lại. Chưa biết xử trí thế nào, hắn bỗng nghe cụ Sa Đa quát con hổ, con gấu ngoài hang. Hắn thở phào khi thấy cụ trở về. Chắc cụ đang đi săn con thú.
Hai tên biệt kích chống súng đứng dậy, hỏi Hin:
- Ai ngoài đó vậy?
- Một lão già, hắn đi săn con thú rừng.
- Chắc lão đánh hơi thấy bọn ta rồi! Một tên phỏng đoán, vẻ mặt sợ hãi nhìn Hin. Hin quắc mắt nhìn ra cửa hang. Hắn cũng nghĩ vậy. Nếu cụ già biết, tụi hắn sống chẳng yên nữa. Cái ý định mang trong bụng từ lâu hắn không còn thực hiện được nữa chăng? Nhưng hắn lắc đầu. Hin quyết định chờ đến tôi, nếu không có động tĩnh gi, hắn sẽ vào bản.
Tổ biệt kích do Hin chỉ huy về đây đã mấy hôm nay. Hin cử hai tên trở lại 2017 lấy thêm lương thực, chỉ còn Hin và hai tên nữa ở lại.
Đặt chân đến mảnh đất chôn rau cắt rốn, Hin không khỏi xúc động. Hắn trèo lên một ngọn núi cao, ngọn núi mà hồi còn thanh niên, hắn vẫn thường mò lên đặt bẫy đơm con nai, con lợn, nhìn lại núi rừng quen thuộc. Đây hẻm đồi trước kia hắn vẫn thường cùng mê lên trỉa bắp, làm nương, kia là dòng Y Leng ngoằn ngoèo như khúc ruột của rừng. Hắn đã từng đứng trên hòn đá lớn kia câu cá, cùng lũ trẻ mò cha khó suốt ngày bên suối Y Leng. Những con cha khó màu nâu sẫm giơ càng ra đe doạ Hin, Hin chộp lấy nó, giắt vào lưng quần. Con cha khó cựa quậy, dùng càng kẹp vào bụng Hin đau nhói. Đến tối, Hin chạy về nhà, bỏ những con cha khó vào bếp lửa than đỏ hồng. Mùi thơm bốc lên làm con mèo trên xà nhà nhảy xuống chạy đến cọ đầu vào đùi Hin đòi ăn. Con cha khó cháy xém, sôi xèo xèo trên những cục than rực đỏ, Hin thò tay cầm giật ra. Phủi qua loa, Hin ngửa cô ném cha khó vào miệng, nhai rau ráu làm con mèo tức tôi giơ vuốt cào vào tay Hin, kêu gừ gừ. Kia là rừng lồ ô, rừng nứa, Hin đã từng chui rúc bẻ măng vào mùa mưa. Những búp măng tròn căng, nhú lên khỏi mặt đất chừng một gang tay, Hin cầm bẻ ngang, bóc vỏ, lộ ra màu trắng nuột nà. Măng ủ chua, nấu với cá chuối, ăn no bụng vẫn thấy thòm thèm. Hin lặng người khi nhìn thấy những ngôi nhà sàn bản Sương. Những ngôi nhà sàn sao bây giờ xa lạ với Hin đến thế. Có bóng người đi lại trên hiên nhà, những người ấy bây giờ đã xem Hin là kẻ thù rồi. Nghĩ đến Y Đăm, tim Hin thắt lại, đau nhói như bị trúng mũi tên đò ho. Hin rờn rợn nhớ đến cái đêm mưa gió năm xưa, hắn bắt cóc Y Đăm vào rừng. Lúc ấy, Y Đăm hoảng sợ ôm chặt lấy cổ hắn như một đứa trẻ. Y Đăm giờ còn sống không, và trong những ngôi nhà kia, Y Đăm đang ở ngôi nào? Rồi hắn gục xuống khi hình ảnh lưỡi dao mác trong tay hắn vung lên, máu phọt ra đầy mặt Hồ Phừn.
Điều làm Hin hoảng sợ nhất là những thay đổi của bản Sương. Hắn ngỡ ngàng khi bắt gặp những nương lúa xanh rờn khắp các ngọn đồi. Hắn ngạc nhiên khi thấy những người đàn bà mặc váy hoa, áo trắng. Còn lũ trẻ sáng nào cũng chạy đến ngôi nhà giữa bản, cổ có quàng một chiếc khăn đỏ. "Sao chúng nó lại quàng khăn đỏ nhỉ?" Hắn băn khoăn và không thể hiểu nổi những gì đã xảy ra trong mấy chục năm qua ở bản Sương này. Hắn đã như con chồn lạc lối rồi.
Mấy đêm nay, Hin đều về ngồi rình bên bản. Hắn lạ lùng khi nghe tiếng trẻ con đọc bài bằng tiếng Kinh. Hắn muốn chạy vào xem sao, nhưng nghĩ chỉ khi ăn phải lá ngón mới làm như thế. Có lúc Hin nghe tiếng chân người đi qua và tiếng trò chuyện rì rầm, hắn rụt cổ lại trong bụi cây, tay nắm báng súng. Báng súng thép lạnh như cái bụng của hắn. Ôi! Làm sao có thể bước ra nói chuyện với người Khùa được nữa! Hin mong gặp được Y Đăm. Nhưng hắn chẳng biết được Y Đăm ở đâu. Một nỗi khát vọng mãnh liệt trong Hin: gặp được Y Đăm, hắn sẽ bắt chị đi theo.
Có lúc Hin lại cảm thấy sợ khi nghĩ rằng Y Đăm đã lấy chồng khác. Ít ra thì Y Đăm cũng thù Hin vì Hin đã giết chết Hồ Phừn. Y Đăm không phải là vợ Hin nữa. Y Đăm sẽ báo cho công an đến bắt Hin, hoặc chồng Y Đăm sẽ giết chết Hin. Ý nghĩ đó làm Hin đau đớn.
Hồi sáng sớm, hắn đang ngồi rình bên bụi cây cuối bản thì cụ Sa Đa đi qua, hắn nghe cụ Sa Đa gọi người đàn bà ở ngôi nhà sàn cuối bản là Y Đăm. Bụng hắn giật thót lên. Đúng là Y Đăm ở ngôi nhà ấy rồi. Hắn đã biết được chỗ Y Đăm, nhất định hắn sẽ gặp Y Đăm, bắt chị đi theo.
Giờ đây, sau cơn hốt hoảng vì bị cụ Sa Đa truy theo dấu vết, Hin nằm ngửa trên tảng đá trong hang, nhai thịt bò khô, uổng rượu uýt-ky và lim dim mắt mơ màng. Những hình ảnh quá
khứ, những nơm nớp lo âu, những dự định táo bạo nhảy múa trong đầu hắn. Miệng hắn nhai tóp tép, uống ừng ực, nhưng hắn chẳng thấy ngon. Hắn co chân bật dậy, châm lửa hút thuốc, rồi lại nằm xuống, ném những miếng thịt bò khô vào miệng một cách cáu kỉnh. Thịt bò khô, cái món hắn ưa thích nhất giờ đây sao dai dẳng, khô khan như những miếng vỏ cây. Hắn khạc nhổ và bất chợt đưa tay nắm báng súng. Hắn mong cầu trời đất che mắt cụ Sa Đa, không cho cụ trông thấy dấu vết của hắn để đêm nay, hắn đến được nhà Y Đăm.
Cụ Sa Đa chạy về đến bản, dừng lại trước cửa nhà Y Đăm, thở gấp. Cụ hoa cây mác trong tay, nỗi khích động làm cụ rậm rật như có một đàn sơn dương đang nhảy trong bụng. Cụ định gọi Y Đăm, báo cho Y Đăm biết những dấu vết vừa bắt được. Nhưng cụ trấn tĩnh lại, nhố rằng Y Đăm và bà con đã lên rẫy làm cỏ lúa hết cả rồi.
- Còn cháu Y Lan! - Cụ lẩm bẩm rồi bước nhanh tới ngôi nhà sàn giữa bản, nơi đang vang tiếng trẻ đọc bài.
Y Lan đang đứng giảng bài cho các cháu trong lớp. Thấy cụ Sa Đa đến, cô chạy ra hiên.
- Cháu Y Lan! - Cụ Sa Đa gọi trong hơi thở.
- Thưa pú, có việc gì ...
- Bố cháu Y Lan, lại đây ta bảo!
Y Lan bước xuống cầu thang, đến bên cụ Sa Đa. Cô gái hai mươi tuổi, nước da trắng hồng, tóc dài mượt đứng trước cụ già một trăm ba mươi tuổi, tóc bạc trắng, da nhăn nheo, tựa như sự đối nhau của hai thế kỷ. Cụ Sa Đa hoa cây mác sáng loáng làm Y Lan sợ hãi. Râu cằm cụ rung rung. Cụ hạ thấp giọng, nói nhỏ với Y Lan:
- Chân cháu như chân con nai, mắt cháu như ngôi sao trên trời. Ngôi sao phải nhìn thẳng đường, chân con nai hãy chạy
nhanh đến công an Hồ Phừn gọi nó đến đây cho ta. Y Lan đăm đăm nhìn cụ Sa Đa. Cô đoán được nỗi khẩn cấp trong dáng điệu và giọng nói của cụ.
- Cháu mang theo cây súng. Đường đi có con hổ đó cháu. Bảo thằng Phừn phải đến gấp trong ngày nay cho ta!
VI
T
ừ lúc chập chững biết đi cho đến cái tuổi ba mươi bây giờ, và cho đến hết cuộc đời, Phảy không hề định nghĩa được khái niệm cha mẹ. Hắn ra đời như thế nào, lớn lên trong nách ai, hắn không biết và cũng không cần biết. Hắn chỉ biết hồi còn con nít, mỗi lần ngủ dậy, hắn khóc và liền được cắm vào miệng một hộp sữa bò tây. Hắn là con nuôi một tên quan năm Pháp ở Viêng Chăn.
Hắn được nuôi dưỡng và dạy dỗ trong nhà tên quan năm ấy. Từ nhỏ, dòng máu trong người hắn đã mang sẵn những giọt độc tố. Một hôm, hắn trốn nhà ra đi, túi nhét đầy giấy bạc. Một tháng sau, cảnh sát bắt được hắn đang hành hung một cô gái trên đường phô. Hắn được đưa đến tận nhà tên quan năm Pháp. Bô nuôi của hắn, một người tây cao lớn đến nỗi đứng trước con người ấy, hắn cứ nơm nớp như đứng dưới một ngọn núi sắp sụp đổ. Nhìn hắn qua cặp kính trắng ông ta mỉm cười, rồi ôm hắn vào lòng, trìu mến.
- Mày là chàng trai can đảm, khá lắm!
Hôm sau, hắn ngồi ăn tôm hùm ở một khách sạn Đài Loan, sau một chuyên đi đặc biệt bằng máy bay từ Viêng Chăn sang. Hắn bắt đầu vào học một trường đặc vụ. Người bố nuôi gửi tiền hàng tháng đều đặn qua ngân hàng cho hắn. Với số tiền lớn ấy, hắn lao vào cuộc ăn chơi trác táng, chìm trong những cơn say. Mỗi sáng, tỉnh dậy giữa đông rượu thịt bốc mùi tanh lợm, hắn đã nôn mửa. Cái tuổi mười tám với những suy nghĩ ô uế và đẫm máu mà cuộc sống đã sớm dạy cho hắn, với đôi cánh mũi luôn hít thở thức ăn, với bàn tay lúc nào cũng thủ ngang lưng, sẵn sàng rút dao găm, hắn lảo đảo bước vào cuộc đời, đầu óc trông
rỗng, đôi mắt lờ đờ của một kẻ choáng say. Bẵng đi một thời gian, hắn không nhận được tiền của người bố nuôi nữa. Túi quần lép kẹp lạnh lẽo, cơn thèm rượu cồn lên dày vò, hắn giắt con dao găm vào, chuẩn bị kiếm sống bằng con dao ấy. Nhưng hắn liền được gọi đến cơ quan chỉ huy. Một người mũi lõ, da đỏ như da gà chọi, mắt xanh ẩn dưới đôi lông mày rậm và dài, chìa bàn tay lông lá cho Phảy:
- Xin hân hạnh! Từ nay trở đi, anh thuộc quyền chỉ huy của chúng tôi. Bố nuôi của anh đã về nước, người Mỹ đã đến thay thế.
Phảy lại cầm trong tay những đồng đô la mới.
Thế rồi, ma dẫn lối, quỉ đưa đường, một tên Mỹ đã lao vào cuộc đời riêng tư của hắn như một mũi dao treo trước mặt hắn. Tình nhân của hắn, một cô gái gốc Nhật Bản, con một chủ tiệm rượu, có đôi mắt đen mơ màng đã trở mặt với hắn, đi theo tên lính Mỹ. Tên lính Mỹ nhiều đô la hơn hắn. Lòng ghen của một kẻ có trái tim điên rồ làm hắn không biết tỉnh táo nữa. Hắn mua hai chai uýt - ky uống cùng một lúc, tra đạn vào băng, lên cò rồi mò đi trong một đêm không trăng. Nhảy qua tường doanh trại lính Mỹ, hắn mò vào phòng tình địch, bóp cò. Sau vụ án mạng nghiêm trọng ấy, hắn liền bị đưa về Viêng Chăn. Trên thang máy bay bước xuống, một người lùn béo chìa tay ra đón hắn.
- Ông bị tử hình!
- Xì - Phảy quắc mắt, nhổ nước bọt - Tưởng tao sợ chết lắm đấy!
Người lùn tịt nhăn răng ra cười, nhìn hắn với còn mắt ti hí bị chèn tịt trong hai mí mắt béo húp hài lòng. Đó là tướng phỉ Vàng Pao, quan thầy mới của Phảy.
Phảy nhận quân hàm thiếu uý - điều hắn không thể tưởng tượng nổi, nhưng lại có sự tính toán kỹ lưỡng của quan thầy và
liền được điều đi làm một nhiệm vụ đặc biệt.
Hắn chỉ huy một đại đội thổ phỉ phá hoại biên giới Việt - Lào phía bắc trong những năm 1958 - 1959. Đại đội của hắn nhiều lần xoá phiên hiệu bởi những trận bao vây của Bộ đội và Công an biên phòng Việt Nam. Nhưng hắn may mắn chưa có lần nào bị thương. Sau những trận suýt chết ấy, hắn trở về trong tiếng hô chào đón, tâng bốc của đồng bọn và những lời khen của quan thầy. Hắn sống những ngày hạnh phúc trong những nhà thổ và trong tiệm ăn. Khi túi tiền cạn, hắn đến gặp Vàng Pao và lại được giao một đại đội khác, rồi luồn lên biên giới Việt - Lào với ước mơ trở lại Viêng Chăn đế cầm trong tay túi tiền nặng chịch, quay cuồng trong những hộp đêm. Có lần, suốt mấy tháng liền đại đội của hắn không gặp một trận phản kích nào của Công an biên phòng Việt Nam, thành ra hắn phải nằm lì ở biên giới. Hắn đâm ra căm ghét đồng bọn, vì sự sống còn của lũ lính là nguyên nhân làm hắn phải sống những ngày đói rét giữa rừng...
Hắn cứ sống như thế gần mười năm nay và đã trở thành con chồn già trên những dãy rừng biên giối. Hắn dễ dàng tìm ra nơi có nước giữa những dãy núi đá vôi hoặc một cái hang trú chân tránh tuần mưa rét. Hắn có thể nhìn sắc lá cây rừng đê đoán độ cao, nhận ra vùng núi đang ơ tương đương với tọa độ nào trên bản đồ qua loại cây mọc nhiều ở vùng núi ấy. Nhưng có điều làm như vậy để làm gì thì hắn chưa bao giờ hiểu nổi. Hắn chỉ biết thi hành một nhiệm vụ nào đó để nhận món tiền thưởng đang chờ đợi, thế thôi.
Lần này, hắn ra đi cũng với nhiệm vụ tương tự những lần khác: phá hoại. Nhưng với linh tính, hắn cảm thấy chuyên đi này có cái gì khác hơn Địa bàn hắn đến là nơi những toán gián điệp sành sỏi, những toán thô phỉ quỷ quyệt đã từng bỏ mạng. Công an biên phòng vùng này đuổi sát gót từng tên, tóm gọn
từng toán. Hắn từng nghe bọn xâm nhập vùng này sống sót kể lại sự tài tình của bọn công an biên phòng với nỗi khiếp đảm, khâm phục. Mỗi lần như thế, hắn cười khẩy, xua tay nhìn đồng bọn với vẻ khinh bỉ:
- Cứ như thằng Phảy này thì đừng hòng!
Cấp chỉ huy đã chọn hắn, giơ lên trước mặt con chó đói hai miếng thịt: năm vạn đồng đô la và cấp đại uý. Phảy choáng mắt khi nghe tên đại uý Mỹ có cái mũi dài đỏ chót như cục máu đang đông hứa hẹn, Món thưởng Phảy chưa bao giờ hình dung được! Những ngón tay quăn queo của hắn run lên trong bàn tay béo múp của tên đại uý Mỹ. Hắn lên đường với niềm say mê chưa từng có. Nhưng khi chiếc máy bay lên thẳng L19 đậu cánh xuống bãi bằng 2017, hắn bước xuống mảnh đất xa lạ với những dự cảm chẳng lành. Núi đá trập trùng, xô bồ và im lặng hăm doạ hắn, một giọt thuỷ ngân chạy lên chạy xuống trong sống lưng. Miền -biên giới Việt - Lào này hắn chưa hoạt động lần nào. Với thói quen đoán nhận sự quan trọng của nhiệm vụ qua số tiền thưởng, Phảy biết chuyên đi này không phải như những chuyến đi trước kia. Con đường 12A, con đường Hồ Chí Minh mà khi tướng Vàng Pao khi nhắc đến cái tên ấy cũng tái mặt đi. Bây giờ, Phảy phải cắt đứt nó. Hắn trấn tĩnh lại. Hắn sẽ cắt đứt được con đường ấy, ít nhất cũng trong mùa khô này, rồi trở về Viêng Chăn với chiến công mói. Hắn sẽ giẫm chân lên đầu bọn đồng cấp và làm cho các chỉ huy phải kiêng nể.
Bây giờ, trời đất không phù hộ hắn. Ngày hai bữa hắn ra bệ phóng tên lửa, bấm nút phát hoả. Nhưng cái mục tiêu hắn đã chọn trước chắc gì bây giờ còn nằm đó nữa. Số tên lửa dự trữ đã gần cạn mà trời thì vẫn không nắng lên để ống kính viễn vọng có thể giúp nó lập chiến công.
Nằm trên điểm cao gió đánh rét buốt, Phảy cảm thấy buồn
mênh mông, và hắn bỗng nhớ một cái gì đó không rõ hình thù. Hắn không có cha mẹ để nhớ, không có quê hương để nhớ, chẳng có vợ con để thương. Nhưng nỗi nhớ vẫn chồm dậy. Hắn nhớ những thân hình con gái lạ lùng trong những hộp đêm.
Có lúc, Phảy cảm thấy thiếu một cái gì. Thiếu thuốc lá ư? Hắn đốt hai ba điếu xì - gà hên tục vẫn thấy thiếu một cái gì. Rượu à? Hắn nhỏm dậy rút một chai uýt - ky ngửa cổ tu hết một nửa. Hắn vẫn cảm thấy thiếu, cảm giác ấy như một con rắn độc cắn trong bụng, xoắn lấy người làm Phảy hung dữ hơn. Hắn đánh lũ lính không tiếc tay. Cái lũ lính của hắn sao mà đáng ghét đến thế, mắt đứa nào cũng nhìn hắn như nhìn con thú, miệng đứa nào cũng tham ăn tục uống. Đối với Xín, hắn càng ghét. Xín cứ gườm gườm nhìn hắn như mắt chó săn nhìn mồi, Phảy muốn nhảy lại dùng dao găm đâm thủng nó đi.
Hai tên trong nhóm Hin trở lại lấy lương thực. Qua lời hai tên này, Phảy biết nhóm ấy đang hoạt động an toàn. Hắn cười làm hàm răng vẩu nhăn ra như răng cải mả, khi trong đầu hắn rơi ra một mưu mô.
Hôm qua, hắn điện về xin cấp trên bổ sung thêm một số lính và vũ khí để thực hiện mưu mô mới đó. Ý kiến hắn được cấp trên chấp nhận. Và bây giờ, Phảy đang ngồi trong lều tăng giữa đám mi cắt dỏng tai nghe ngóng. Lòng hắn bỗng rộn lên niềm vui độc ác: Nếu kế hoạch của hắn thắng lợi, cái lon đại uý (và biết đâu các chỉ huy chẳng vung tay rộng lượng cho hắn thiếu tá!) với năm vạn đô la đã trăm phần chắc ăn. Hắn lim dim mắt: trước mắt hắn bước ra một thằng Phảy đóng hàm thiếu tá, bộ quân phục vải dạ Hồng Kông, đi giày da bóng nhoáng, túi đầy cồm cộm những tiền...
Cũng trong bức điện hôm qua, hắn còn gợi ý với cấp trên gửi cho hắn một ít "chất tươi". Nên bên cạnh niềm vui độc ác, bụng
hắn còn rộn rạo nỗi phấn khích của kẻ thèm khát sắp được thoả mãn. Chính cái "món tươi" ấy đã làm Phảy cảm thấy thiếu và buồn. Chỉ mới nghĩ đến thôi, Phảy đã sướng run lên, hắn vo chặt chiếc chăn dạ y như đã vo vào trong lòng một ôm thịt nóng rực.
Hắn bỗng nhỏm dậy rú lên một tiếng man dại. Hắn lao ra khỏi lán chạy biến đi như một con hổ thấy hơi mồi. Chiếc trực thăng hạ cánh xuống bãi đá bằng cách địa điểm toán biệt kích chừng năm trăm mét về phía Tây. Phảy chạy đến, mắt sáng lên mừng rỡ. Hắn nhìn chòng chọc vào cửa chiếc máy bay. Cửa mở, chiếc thang bật xuống. Những tên biệt kích mắt ngơ ngác, ba lô quần áo nai nịt, dè dặt bước xuống mảnh đất hoang vu, xa lạ. Phảy không thèm nhìn chúng. Mắt Phảy sục sạo phía trong khoang máy bay. Tim hắn nhảy lên, mắt hắn mờ đi thấy những khuôn mặt tròn, bự phấn, những chiếc áo hở ngực bằng lụa tím.
Tất cả lũ người ấy xuống hết, trên cửa máy bay mọc ra một cây thịt cao lênh khênh, mũi lõ khoằm khoặm, đỏ như một cái mỏ diều hâu nhúng máu. Hắn chậm rãi bước xuống cầu thang đến bên Phảy. Phảy hốt hoảng, tay buông chiếc áo tím, chân khuy xuống. Tên đại uý Mỹ này là cố vấn của chính phủ Vàng Pao, cấp trên của Phảy.
- Trời - Phảy kêu lên - ông cũng... Thật là hân hạnh cho tôi. Tên đại uý Mỹ nhún vai, chìa bàn tay chết đuối trắng nhợt ra. Phảy vồ lấy, cúi người, lắc lắc.
- Tôi hiểu nỗi vất vả và sự hy sinh của các ông! - Tên đại uý Mỹ nói, giọng ốm ốm. Tôi có nhiệm vụ đến chia xẻ sự vất vả ấy! Phảy vâng dạ liên hồi. Giờ đây đứng trước quan thầy, Phảy mất hết cái vẻ hung hãn khi dõi xử với lính. Hắn khúm núm, sợ hãi như con chó trung thành trước mặt chủ khắt khe. Hắn luôn mỉm cười làm hàm răng vẩu nhăn ra khó coi.
Tên đại uý Mỹ này chẳng phải đến để chia sẻ sự khổ sờ với Phảy. Hắn đến theo kế hoạch của quân đội Mỹ trên toàn bộ chiến trường Đông Dương. Toán biệt kích này có thể trở thành ố vi trùng trên cái mạch máu con đường 12A, làm tê liệt chiến trường của đối phương.
Trong thâm tâm, Phảy chẳng ưa gì sự có mặt của tên Mỹ này. Nó làm cản trở nhiều cái cho Phảy. Liếc nhìn mấy chiếc áo tím, Phảy nuốt nước bọt và thầm rủa tên Mỹ. Nếu không có tên khốn kiếp này, Phảy đã tự do biết mấy. Dù là đại uý Mỹ hay là cái gì đi nữa, Phảy cũng chẳng coi ra gì. Khùng lên, hắn có thể bắn chết chẳng chừa đại uý Mỹ đâu. Nhưng cái tay lông lá nhợt nhạt kia đang cầm chiếc lon đại uý của hắn, cùng những đồng đô la, mà Phảy lại cần những thứ đó.
Trở về địa điểm trong lùm mi cắt, Phảy quát bọn lính dọn cho tên Mỹ một chỗ nằm tươm tất. Mắt hắn không rời những chiếc áo tím.Lũ gái đĩ ẻo lả, cười đùa với bọn lính làm Phảy điên máu. "Chao ôi, nếu không có thằng chó Mỹ này!" Phảy chửi thầm. Hắn đưa mắt doạ bọn lính. Nhưng bọn lính phớt lò hắn, lại còn ngang nhiên vuốt tóc, sờ má bọn gái đĩ trước mặt Phảy.
Tên đại uý Mỹ đề nghị Phảy dẫn đi quan sát cao điểm. Phảy bực bội, nhưng phải chiều theo. Hắn bước ra khỏi lán, ngoảnh lại giơ nắm đấm doạ bọn lính và hất hàm về phía những chiếc áo tím.
Tên Mỹ dáng điệu lạ lẫm trước cảnh đất trồi ở đây. Hắn đứng ngẩn ra khi bắt gặp một khóm trúc vàng úa, cong xuống, trụi lá, chân cây như những chiếc cần câu tuyệt đẹp. Hắn im lặng nhìn xuống màn trắng khoả kín núi rừng bên dưới. Mặt hắn thoáng những nét sợ hãi. Rồi hắn đi chầm chậm, nhặt những viên đá đen đúa, cổ sơ, ngắm nghía.
- Đất nước này thật khó hiểu - hắn nhận xét khi quay về lán -
Bao giờ người Mỹ thắng trận, tôi sẽ là nhà thám hiểm núi rừng nhiệt đới này! Hắn lim dim mắt mơ màng.
Hôm sau, tên đại uý Mỹ dắt lũ gái đĩ về Viêng Chăn. Chúng bước lên máy bay như một phái đoàn quân sự.
- Ông hãy thực hiện tốt kế hoạch ấy. Tháng sau, phi cơ Mỹ sẽ đến đây đón ông. Tôi hy vọng đến lúc ấy ông sẽ được gọi bằng cái tên mới. Tên Mỹ dừng một lát, trong mắt hắn phát ra màu sáng thâm hiểm pha chút châm biếm - "Thiếu tá Phảy"!
"Thiếu tá Phảy!" Phảy cảm thấy ngợp thở.
Chiếc trực thăng chở đến cho toán biệt kích những trang bị mới: Tên lửa rốc-két đủ dùng một tháng, một máy quan sát bằng tia hồng ngoại và rất nhiều lương thực thực phẩm. Phảy mồm nhai kẹo sôcôla, tay sờ dè dặt chiếc máy quan sát mới mẻ như sờ vào những đồng tiền vàng. Đúng là vàng vì nó sẽ giúp Phảy lập những chiến công mới. Mà có thành tích tất sẽ làm bàn tay cầm tiền của quan thầy nới rộng hơn. Ngay ngày hôm ấy, hắn bắt lũ lính đưa chiếc máy ra địa điểm quan sát. Phảy hét lên mừng rỡ khi con đường 12A hiện lên trong mắt hắn. Kế hoạch mà Phảy gợi ý và tên Mỹ đã thẩm tra lại cũng được triển khai ngay. Toán biệt kích vừa bổ sung do một tên thiếu uý chỉ huy nhận lệnh Phảy theo hang đá đến bản Sương.
Đ
VII
ồn phó Huynh không thể đi được nữa. Anh quỳ xuống bò trên lớp bùn ngập ngụa đến bên một gốc cây rì rì, vịn tay từ từ đứng dậy. Hai ba lần đứng lên khuy xuống, cuối cùng, Huynh đã tựa lưng được vào gốc cây, thở dốc. Mắt anh nhắm lại, tay buông thõng, mặt gục xuống, da tái nhợt.Bộ áo quần của anh ướt đẫm, bùn bám loang lổ. Tiếng mưa rơi trên lá cây như tiếng của một con nai lạc giẫm trên lá khô. Trước mặt Huynh, muôn vàn đốm hoa cà hoa cải nhảy múa. Hình ảnh của phân đội luớt qua: đồn trưởng Tạ, đội trưởng Thịnh... binh nhì Quang... Những khuôn mặt nhuốm đỏ nắng. Một tên phỉ mặt mày lông lá cầm dao găm nhảy lại, dùng miếng võ Đài Loan quật Huynh ngã dúi xuống. Nhưng anh đã kịp bật dậy, lao đầu vào ngực tên phỉ làm hắn rông lên, té từ trên đỉnh núi xuống vực. Hắn rơi, vừa bay vun vút vừa kêu rông lên. Huynh hẫng đà, cũng lao theo.Tiếng gió rít bên tai.Vực sâu thẳm, tôi om.Huynh cứ rơi, rơi mãi trong cảm giác rùng rợn...
Đội trưởng Thịnh mặt đỏ bừng, mái tóc ướt mưa rũ xuống trán, hai tay giơ lên giữ tháng bằng cho những bước đi xiêu vẹo trên mặt bùn.Thịnh bước lại đỡ đồn phó Huynh dậy. Huynh thét lên trong cơn mê. Thịnh ôm lấy đồn phó một lúc lâu rồi tung tấm ni lông lên người Huynh. Nhấc Huynh lên lưng, Thịnh nhằm hướng vừa tìm vừa bước đi.
Thịnh và Huynh được phân đi trước để dò đường. Phân dội nghỉ lại một ngày để lấy sức. Đồn trưởng Tạ bảo cậu anh nuôi gài vào thắt lưng hai người nào lương khô, nào sữa, thịt hộp và mấy thứ thuốc men. Tô trưởng trinh sát Xứng vò đầu xin cùng đi, nhưng đồn trưởng Ta kiên quyết giữ lại. Dự trữ mà.
Buổi sáng, đồn phó Huynh còn đi hăng hái, ai dè xế chiều, anh bỗng lên cơn sốt. Cho đến bây giờ vẫn không giảm được chút nào. Sự cố này làm Thịnh khó xử. Huynh cứ đòi để mình ở lại. Đe Huynh ở lại một mình giữa rừng hoang, đang lên sốt à? Thịnh sao đành bụng được. Mà cũng không thể đưa Huynh trở lại. Nhiệm vụ tìm đường chưa hoàn thành. Thế là sau khi cho Huynh uống năm viên ký ninh, đục hộp sữa đổ cho Huynh, Thịnh xốc đồn phó lên lưng quyết tìm đường băng được.
Nhưng hòn đá cũng có lúc đổ mồ hôi, anh tuy khỏe nhưng không phải có phép thần. Lúc này, Thịnh đã thấy gối mỏi nhừ, chân cứ muốn rụng ra khỏi gối.
- Thịnh ơi, cậu để mình... lại... Tiếng đồn phó Huynh ú ớ trên lưng Thịnh - Vì nhiệm vụ chung cậu để mình lại đi... Thịnh đứng lại xốc Huynh lên trên lưng rồi cắm cúi cắt hướng bước đi.
- Đố anh Huynh, giờ "mẹ thằng cu" làm gì nào? Huynh lim dim mắt rồi nở một nụ cười yếu ớt:
- Chắc đang nấu cơm!
- Không, tôi cầm chắc bà ấy đang viết thư cho anh đấy nhé. "Anh thương yêu, em biết giờ này anh đang trên đường tuần tra biên giới. Từ quê hương, em gửi tối anh muôn cái yêu cái thương..." - Thịnh nói một mạch hùng hồn đến nỗi Huynh bật cười. Nhưng câu chuyện của Thịnh vẫn không lái được suy nghĩ của đồn phó. Anh vẫn giục Thịnh để mình ở lại.
Chính Thịnh cũng đã gần kiệt sức. Anh bỗng nhớ lúc ra đi, đồn trưởng Tạ dặn thế nào tối nay cũng phải quay trở lại. Biết xử trí làm sao bây giò? Đường chưa tìm được, mà quay trở lại thì không kịp nữa. Vả lại, giữa đêm tối, anh có thể cõng Huynh trên vai lần ra phân đội được không? Rồi chắc gì anh có thể đưa Huynh về mà không bị gục giữa đường? Anh thoáng bối rối, chỉ
trong nội đêm nay, hai người kiệt sức sẽ chết rét giữa rừng hoang vu, khi phân đội tìm ra chỉ còn hai cái xác... Thịnh dừng lại bên một gốc cây. Quãng đường anh vừa tìm ra đã đi hết. Phải đặt đồn phó Huynh xuống để tìm tiếp. Nhưng khi đồn phó Huynh rời lưng Thịnh, Thịnh choáng váng, mắt hoa lên, người lâng lâng, mất trọng lượng. Anh ngã khụy xuống, hai tay thọc vào bùn, nằm im.
Đồn phó Huynh đang chuyển sang cơn rét. Cái rét ngập vào tận xương tuỷ. Một suối băng đang chảy trong sống lưng, cả người Huynh run lẩy bẩy. Giờ đây, Huynh chỉ mong một tấm chăn để quấn vào người. Kìa, một người đang đi đến. Đồn trưởng Tạ! Đồn trưởng ôm chiếc chăn bông to như trái núi đến đắp trên người Huynh. Nhưng Huynh vẫn thấy rét buốt. "Đồn trưởng Tạ ơi, cho tôi cái chăn nữa, đắp nhiều vào, nhiều vào!".
Tiếng kêu ú ớ của Huynh làm Thịnh chợt tỉnh. Anh chống gối đứng lên. Chưa bao giờ Thịnh thấy kiệt sức như lúc này. Đất trời quanh anh sụp đổ, bay vun vút. Anh bước tới, ngã vào đồn phó Huynh và ôm chặt lấy đồn phó. Trước mắt anh, dòng sông Gianh chói chang nắng hè. Cánh diều trắng run rẩy giữa trời cao xanh. Thịnh đuổi theo cánh diều trên cánh đồng gặt xong trơ đầy gốc rạ. Thịnh chạy, chạy mãi. Rồi anh dừng lại. Một tấm lụa màu hồng bay cuốn lấy anh, phút chốc tan ra thành muôn vàn sợi mảnh mai óng ánh lượn trong nắng. Đó là âm vang của một giọng hò con gái trên sông. Người con gái ấy đã đứng trước mặt anh, e lệ nghiêng nón. Hai người dắt tay nhau đi trong ánh hoàng hôn cháy đỏ sông Gianh. Ráng chiều cuộn lại thành một bông sen. Giữa bông sen đỏ như lửa nỏ ra một khuôn mặt bụ bẫm: con trai anh. Anh ôm lấy con trai, tung lên trời cao và bay theo.
Thịnh giật mình đứng phắt dậy. Nhưng hình ảnh vừa chợt
lóe trong đầu làm anh bàng hoàng chốc lát. Một nỗi nhớ cồn dậy. Vợ anh, cô gái bên dòng sông Gianh có nước da nâu non rám nắng, hàm răng hạt mướp sáng bóng làm cái cười mỉm duyên dáng đến mê hồn. Giờ này, con anh có nhắc đến bố không. Mưa phùn vẫn đều đều rắc cái rét xuống vòm lá.
Thịnh rút trong túi ra bức ảnh bọc giấy nhựa, ngắm nghía. Bức ảnh chụp vợ và con trai, anh vừa nhận được. Một đứa trẻ nghiêng mặt nhoẻn cười với anh, làm anh bất giác cười theo. Năm nay, anh đã đăng ký hoãn phép, nghĩa là năm sau mới nhìn tận mặt nó...
Thịnh đút tấm ảnh vào túi áo, cài khuy cẩn thận rồi hít mạnh một hơi, trở lại với hiện thực. Anh cởi áo ngoài mặc thêm cho đồn phó Huynh.
- Thịnh ơi, cậu để mình ở lại thôi! - Đồn phó Huynh rên rẩm. Tiếng nói ngắt quãng, lập cập.
Nhìn đồn phó Huynh, Thịnh hoang mang. Anh không thể để đồn phó ở lại chết rét một mình giữa rừng được. Nhưng Thịnh đã kiệt sức, không thể cõng Huynh đi được nữa. Rồi việc tìm đường? - Câu hỏi xoáy vào đầu Thịnh. Làm sao tìm đường cho phân đội thoát khỏi vòng vây mông lung của lòng chảo quái ác này.
Thịnh cạy hộp sữa bò, bón cho Huynh. Nhưng đồn phó không nuốt nổi. Người Huynh gầy rạc đi, khuôn mặt xương xẩu, mắt trũng sâu.
"Không thể ngồi chờ chết đây được!" Thịnh thầm nghĩ. Anh rút lương khô ngồi nhai hết một gói, mắt đăm chiêu nhìn vào khoảng rừng sâu hút trước mặt. Trời đã sắp tối rồi, biết làm sao được bây giờ?
Chưa bao giờ Thịnh chịu ăn cháo vì ốm. Nhai xong gói lương khô, anh cảm thấy đỡ run hơn. Anh đứng dậy, rút la bàn xác
định lại hướng đi. Rồi như một người say rượu, Thịnh bước lảo đảo. Anh lấy gốc cây trước mặt làm mốc cho mình. "Phải tới đó". Thịnh bươn lên ôm lấy gốc cây. "Một này" - Thịnh nhẩm tính. Đứng nghỉ một lát, anh nhằm gốc thứ hai... "hai này"... "ba này"... Bốn này"... Con số gốc cây lên đến bao nhiêu, Thịnh không nhớ nữa. Núi rừng nghiêng đổ, quay cuồng. Cho đến lúc anh chợt ngạc nhiên vì thấy chân không phải là bùn nữa. Thật hay ảo giác đây? Anh co chân đạp mạnh, đất rắn vẫn chưa tin vào cảm giác, anh cúi xuống sờ soạng trên mặt đất. Anh sung sướng lặng người đi, miệng lẩm bẩm: Đã đến vùng đất khô rồi! Ta đã thoát khỏi lòng chảo rồi! Vượt qua Phu Con Kên rồi!.
Thịnh quay trở lại đón đồn phó Huynh. Cõng Huynh đến vùng đất khô cũng vừa lúc trời sập tối. Đồn phó Huynh bò lồm cồm trên đất, hôn xuống mặt đất đầy lá mục và sung sướng kêu to:
- Ngày mai phân đội sẽ đến lèn Cà Chô, ngày kia sẽ đến chân cao điểm! Chắc ăn rồi!.
Thịnh hối hả đến một đám đất, dùng lá trải làm đệm rồi căng tăng. Anh dìu đồn phó Huynh vào nhà và đi tìm củi nhóm lửa. Lát sau, đồn phó Huynh ngồi ôm lấy bếp lửa, mắt nhìn ngọn lửa ngây ngất như trẻ con. Thỉnh thoảng Huynh lại dùng nắm tay nắm nhanh những ngọn lửa và chọc que vào bếp than cho tàn lửa bắn lên. Hai người cởi trần hong khô quần áo. Thịnh dùng bi đông làm nồi nấu nước pha sữa. Chốc chốc, Thịnh lại cho tay vào bếp than đỏ rực? "Để xem nó nóng hay không?"
Ăn tối xong, Thịnh dùng dao găm chặt về những cành cây to che kín xung quanh căn nhà tăng, chắn gió. Anh còn tìm thêm mấy cành củi to tổ bố đưa về lùi vào bếp, có đủ than cho Huynh sưởi cả đêm.
- Bây giờ không cần anh đề nghị, tôi cũng bỏ anh lại! - Thịnh
xoay tay trên bếp lửa. Nhưng anh lại cảm thấy lo. Liệu đồn phó ở lại một mình có làm sao không?
- Cậu định quay lại mò phân đội ngay hử? - Huynh mở to mắt, ngạc nhiên, - Lạc mất! - Huynh nhìn vào khoảng tối dày đặc như xắn được từng cục trước mặt, thất vọng.
Cuối cùng, Huynh chẳng giữ được Thịnh ở lại. Anh nhìn theo bóng người đội trưởng khuất nhanh trong đêm, lòng bồn chồn lo âu. Khi quay lại anh hối hả giật chiếc tất trong tay rơi xuống bếp cháy sém một góc từ lúc nào.
Tối rồi, chưa thấy hai người trở lại, đồn trưởng Tạ rất băn khoăn. Tay ông không ròi hai sợi râu trên má. Ông tưởng tượng những cảnh mà hai người gặp phải. Lúc thì ông đoán họ sắp trở lại và dỏng tai nghe. Biết đâu, họ đang đến gần đây rồi. Kìa, có tiếng gì như tiếng chân lội nước. Ông nhảy xuống võng, mắt nhìn đăm đăm về phía có tiếng động mong nhìn thấy hình ảnh thân quen của đồn phó Huynh và đội trưởng Thịnh. Nhưng ông lại thất vọng khi rừng trở lại im ắng. Tiếng nước mưa đọng trên lá cây nhỏ xuống lách tách như nhỏ vào nỗi chờ đợi của ông, làm đồn trưởng khó chịu. Có lúc, một hình ảnh rùng rợn hiện ra: hai người đã chết cóng giữa rừng. Đồn trưởng lại cáu kỉnh đập tay vào trán xoá đi hình ảnh đó. Nhưng dù sao, ông vẫn không yên tâm. Hình ảnh ấy cứ luẩn quẩn trong đầu như một con rắn, lúc thì nấp kín, lúc thì lao phóng ra làm ông giật thót.
Câu chuyện thời sự trong phân đội là việc hai người đi trước tìm đường. Mọi người càng bàn tán, càng đoán này đoán nọ xôn xao. Ai cũng lo. Tổ trưởng trinh sát Xứng đề nghị đồn trưởng cho mình đi tìm hai người. Đồn trưởng Tạ cũng không ngồi đợi được nữa. Ông cùng Xứng ra đi.
Rừng đêm rầm rì, trăn trở trong tiếng mưa. Thỉnh thoảng một làn gió ào qua làm rừng bực mình chồm dậy vặn rung
những cành lá. Củi mục phát màu lân tinh xanh lạnh như những con mắt buồn rầu chờ đợi. Đêm đem dày đặc như nắm được.
Ánh đèn pin trong tay đồn trưởng Tạ chênh chếch lóe lên cắt vào đêm một luồng sáng. Lần theo dấu vết của đồn phó Huynh và đội trưởng Thịnh, ông và Xứng di miết. Những dấu vết còn lại lò mờ, ngoặt ngoẹo phải phán đoán tìm tòi. Đồn trưởng Tạ có cảm tưởng như đang đi vào xứ sở mông lung. Nhiều lúc ông áy náy, biết đâu hai người trở lại bằng đường khác rồi. Ông nói ý nghĩ đó với Xứng liền bị Xứng bác đi.
- Không thể như vậy được! Anh Thịnh thường bảo, bảo đi rừng muốn trở lại khỏi lạc, phải tìm lại con đường mình vừa đi qua mà!
Mãi đến khuya, khi đôi chân của đồn trưởng đã mỏi như muốn rụng, ông và Xứng dừng lại nghỉ bên một gốc cây. Nỗi lo lắng như đàn châu chấu đá lách tách trong bụng của ông. Nếu hai người tìm đường không trở lại, ngày mai phân đội tiếp tục hành quân được không? Không, ông không thể để hai người bạn chiến đấu ấy phải chết đói chết rét giữa rừng được! Phân đội phải tìm được đồn phó Huynh và đội trưởng Thịnh. Nhưng như vậy, phải mất một thời gian quay đèn kéo quân giữa lòng chảo này. Chiến dịch vận tải mùa khô đang cấp bách...
Đang suy nghĩ mông lung, chợt những âm thanh lạ vọng đến làm đồn trưởng giật mình. Ông nắm lấy vai Xứng lắc lắc và nín thở nghe ngóng. Nếu không bị đêm tối che lấp, Xứng sẽ thấy đôi mắt đồn trưởng đang dồn hết tinh lực về hướng có tiếng động. Tiếng động cách quãng, nghe như tiếng chân lội nước của một người vừa đi vừa dừng lại. Đồn trưởng Tạ lên đạn khẩu súng ngắn, cùng Xứng nhẹ nhàng trườn tới phía có tiếng động.
- Ai? Đồn trưởng Tạ quát. Ông ngừng thở chờ đợi.
Tiếng động im bặt. Rồi từ trong đêm tôi hắt ra một giọng nói yếu ớt:
- Thủ trưởng Tạ đó phải không?
Ánh đèn pin trong tay đồn trưởng Tạ chiếu sáng. Mắt ông bỗng nhoà đi. Đội trưởng Thịnh đang nằm trên mặt bùn. Xứng nhào đến nâng Thịnh dậy. Đồn trưởng bổ tới ôm lấy Thịnh. -Tìm ra đường rồi - Thịnh cười khó khăn.
Trong đêm đen, giữa rừng đại ngàn mênh mông, ba khuôn mặt đang rạng lên niềm hạnh phúc, ba cặp mắt long lanh đang nhìn nhau xúc động trong quầng sáng đèn pin.
Y
VIII
Đăm tung chăn ngồi dậy. Chị quàng thêm tấm áo vào người. Đêm càng khuya càng lạnh. Y Đăm rón rén đến đốt ngọn cà boong. Ngọn lửa bén vào bấc nhỏ bằng hạt thóc rồi cháy to dần soi rõ khuôn mặt tròn đầy, ửng đỏ vì rét cóng của người đàn bà đã ngoài ba mươi nhăm tuổi. Vóc người Y Đăm đầy đặn, mái tóc dày và dài bới thành búi to trên phía trái đỉnh đầu, dấu hiệu của người đã có chồng. Hai bên má chị mái tóc vòng xuống làm khuôn mặt như đầy đặn hơn, duyên dáng hơn, cái duyên dáng còn sót lại của thời kỳ con gái đầy khô ải của chị. Y Đăm có đôi mắt tròn như mắt chim câu, đen và thoáng ướt, dịu hiền. Nhìn ai, đôi mắt ấy như thầm nói điều gì, làm người khác phải băn khoăn.
Đêm nay, Y Đăm sao khó ngủ. Vừa đi họp dân quân bản về, trong đầu Y Đăm nhảy nhót bao suy nghĩ. Công an Hồ Phừn báo cho dân quân bản Sương canh gác chuẩn bị đánh bọn biệt kích, thổ phỉ. Nghe tiếng thổ phỉ, nỗi đau trong lòng Y Đăm lại trỗi dậy, biến thành chiếc lưỡi câu móc vào ruột, thành mũi tên đò ho đâm vào hông. Hình ảnh của Hin lại hiện về như bóng ma chập chờn. Hin, người chồng bạc bẽo mà tàn ác đã bỏ chị, bỏ bản Sương đi làm thổ phỉ từ lâu lắm. Hin đã chết rồi, không chết đói thì cũng bị hổ ăn thịt, bị người ta giết chết. Đi làm thổ phỉ ai mà thương được. Riêng cái đêm Hin bắt cóc Y Đăm vào rừng, rồi những ngày lang thang theo hắn với nỗi khiếp sợ là không chết được. Nó sống như một nỗi đau vô tận, làm chị nhức nhối. Nếu Hin còn lại trong chị là đám mây đen bao phủ núi Phu Ác, thì kỷ niệm đó như một tia chớp đánh xuống, tiếng sét còn rền rĩ tới bây giờ.
Tuy đinh ninh rằng, Hin đã chết, nhưng mỗi lần nghe tin có biệt kích, thổ phỉ, Y Đăm lại nhấp nhổm lo. Biết đâu Hin còn sống và trở về trong toán biệt kích ấy giết phá bản Sương.
Những ý nghĩ vờn múa trong đầu Y Đăm. cầm khúc củi lên định chẻ, Y Đăm lại đặt xuống ngồi thừ ra. Y Đăm cúi xuống thổi phù vào bếp làm tro bay lên thành một đám bụi lớn, rơi xuống trắng cả đầu tóc chị. Không, thằng Hin hắn đã chết rồi, cái xác của hắn đã bị cây cỏ ăn mất rồi không trở lại được nữa.
Bếp lửa cháy, tỏa ấm sàn nhà.
"Nhưng nếu hắn còn sống thì sao?" Y Đăm nhìn đăm đăm vào ngọn lửa. Tuy căm ghét con người bội bạc và tàn ác ấy nhưng đôi lúc Y Đăm vẫn thấy thương Hin. Hắn là người đầu tiên đem hết lòng yêu chị và cũng do tình yêu không kiềm chê được mà hắn thành con ma rừng, thành thằng thổ phỉ. Ôi, ngày đó, Y Đăm như người ốm không muốn ăn cơm. Không yêu sao được khi nghe tiếng khèn của hắn, bụng Y Đăm như có con sơn dương nhảy ở bên trong, cái chân đòi đi đến, cái tai đòi lắng nghe. Từ ngày Hin biệt tích đến bây giờ, trong lòng Y Đăm, bên cạnh ý nghĩ Hin đã chết vẫn thoi thóp một hy vọng: có ngày nào đó Hin sẽ về! Nhưng Y Đăm muốn thằng Hin trở về với chị không phải là thằng biệt kích, thổ phỉ. Y Đăm vẫn mong chờ, nỗi mong chờ le lói và yếu ớt như một tia sáng lọt qua tầng mây đen dày. Hin trong chị vừa là nỗi căm ghét nguyền rủa, vừa là sự thương hại.
Y Đăm hít hà, xoa tay trên ngọn lửa và búi lại tóc. Sờ cái kẹp tóc trên đầu, chị bỗng nhớ Y Vui, con gái chị. Đứa con gái đã chứng kiến nỗi đau trong lòng chị từ lúc mới chỉ là giọt máu. Nó ra đời trong sự cô đơn và đau buồn của chị, trở thành chiếc lá non nảy trên thân cây khô héo làm thân cây sống lại. Nó đã ra đời trên bàn tay công an Hồ Phừn. Nếu không có bàn tay ấy chắc
nó đã chết. Cái tên Y Vui, công an Phừn đặt cho nó. Bây giờ, Y Vui đang học cấp hai ở trường dân tộc. Năm nay, Y Vui mười sáu tuổi, mỗi năm nó thêm một tuổi, niềm vui của chị lại một lần lớn lên. Tháng trước, Y Vui về nghỉ hai ngày, mua biếu mế cái cặp tóc này đây. Y Đăm rút cái cặp tóc ra, soi trên ngọn lửa, mỉm cười.
Bỗng cánh cửa kẹt mở. Một khuôn mặt đen đúa râu ria, mọc ra, và loáng cái, bóng người lao vụt vào nhà. Y Đăm sợ hãi thét lên một tiếng và ngã lăn ra chết khiếp. Bóng ma thổi tắt ngọn cà - boong, bước lại bên Y Đăm, nhìn soi mói vào khuôn mặt tái nhợt của người đàn bà. Rồi hắn đưa bàn tay gầy gò run rẩy lay gọi Y Đăm.
- Y Đăm! Y Đăm! Tao đây mà Y Đăm!
Con ma lay gọi một hồi. Y Đăm từ từ mở mắt rồi lại giật mình hoảng hốt. Bóng ma dập tắt bớt bếp lửa và rón rén đến cài cửa lại.
- Này, Y Đăm, tao đây mà mi!
- Tao là Hin, Hin mà, Y Đăm!
- Con ma,... con ma thằng Hin... ối... Tiếng Y Đăm ú ớ. Tay hắn run lẩy bẩy như tàu lá chuôi trong trận bão. Y Đăm chồm dậy, lao nhanh tới vách nhà, giật con dao. Nhưng Hin đã lao theo, ôm chặt lấy Y Đăm, thều thào:
- Y Đăm, có thương tao không? Y Đăm, tao có súng đây, tao bắn Y Đăm đấy! - Và như một con vượn, Hin giật lấy con dao trong tay Y Đăm. Y Đăm vùng ra, loạng choạng, hai tay sờ lên vách nhà. Có thật thằng Hin đã về không? Hai mắt chị mở trừng trừng, dại dột, Y Đăm bước tới nữa, khẩu súng trong tay Hin run run, mắt Hin nhìn không rời Y Đăm. Y Đăm càng đến gần, hắn càng lùi lại. Hai tay Y Đăm vẫn giơ lên sờ soạng trước mặt như người mất trí. Có thật thằng Hin đã ở đây không? Đúng rồi,
thằng Hin, chị đã nhận ra hắn. Mắt chị mờ đi, những giọt nước mắt trào ra. Tay Y Đăm chới với, chới với, chị chồm tối, ngã dúi xuống... Gió mưa đùng đùng, chớp giật sáng chói, bóng đen lao vào ôm lấy Y Đăm nhảy ra cửa chạy miết... Con vượn bổ cây dao găm xuống cổ Hin, Y Đăm rú lên sợ hãi... Y Đăm ôm bụng vật vã gào thét giữa sàn nhà... Tiếng Hồ Phừn reo lên. "A, con gái, ta đặt tên nó là Y Vui!"... Cây dao mác trong tay Hin bổ xuống, mặt Phừn đầy máu... Những hình ảnh lấp loé, quáng loà vụt hiện vụt tắt trong đầu Y Đăm.
Y Đăm ngồi dậy trấn tĩnh lại. Rõ ràng, đây không phải là giấc mơ, mặc dù nhiều lần chị đã thấy trong mơ cảnh thế này. Hin vẫn đứng đó, mắt không rời chị, tay lăm lăm khẩu súng.
Chị đứng dậy, thong thả vuốt lại tóc. Qua cơn bàng hoàng khủng khiếp vừa rồi, chị đã tỉnh táo.
- Hin ơi, mày cất cái súng đi!
Hin đút súng vào bao và quỳ xuống lạy. Hắn nói giọng thảm thiết:
- Y Đăm có thương tao nữa không! Nếu thương thì đừng đi báo với công an.
Y Đăm bước tới cầm tay Hin nâng dậy. Có ai mà ngờ được hơn mười lăm năm rồi, Hin vẫn còn sống và lại trở về trong cảnh này. Chị sờ tay lên vai, lên mặt Hin làm Hin đứng lặng kinh ngạc... Y Đăm cảm thấy có cái gì như là tình thương đối với Hin. Từ ngày Hin bỏ đi, mặc dù hắn thành thằng thổ phỉ, chị vẫn búi tóc lệch sang trái, vẫn xa lánh đàn ông. Chị đã có chồng. Nhưng tình cảm của người vợ ở chị khác với người vợ khác. Y Đăm vừa thương chồng, vừa căm giận người chồng ấy. Giờ đây, lòng thương bỗng trỗi dậy làm chị bồi hồi. Đây, khuôn mặt Hin trước kia trẻ trung như trái hồng leo sắp chín, bây giờ đã già nua đen đủi. Đôi vai của Hin ngày ấy nở nang như hạt tip xôi, bây giờ gầy
khô như bẹ ngô không mưa...
Y Đăm bỗng lùi lại kêu lên:
- Thằng Hin, mày là biệt kích, mày là con hổ về phá bản Sương. Không, không, tao ghét mày, tao đi báo công an, mày sẽ chết!
Hin bước tới cầm tay Y Đăm run rẩy:
- Y Đăm, Ún có biết tao nhớ thương Ún nhiều như lá rừng không? Tao không phải là biệt kích, tao về đưa Ún đi thôi! - Mày là thằng biệt kích! Lưng mày có súng, có dao găm! Người Khùa ghét mày, tao là người Khùa cũng ghét mày! Y Đăm giật tay ra. Trong đầu Y Đăm lóe ra một ý nghĩ mới. - Ún đi theo tao thì thôi. Tao thương Ún nhưng không ở đây với mày được. Nếu không đi tao cũng giết chết Ún thôi đây! - Hin sống ở đây với Ún được! - Y Đăm trìu mến nhìn Hin. Chị nhớ trong bản Sương cũng có người trước kia làm thô phỉ, được công an giáo dục trở về làm người tốt.
- Nhưng tao đã giết công an Phừn, tao đã đi thổ phỉ, dân bản không cho tao sống đâu!
Y Đăm nói với Hin: có thể ở lại làm người tốt, nếu Hin ra đầu thú công an. Chị còn cho biết Hồ Phừn vẫn sống.
- Trời, thằng Phừn còn sống! - sắc mặt Hin tái nhợt. Hắn hoảng sợ - Hồ Phừn không tha cái tội của hắn đâu. Hồ Phừn thù tao, sẽ giết tao mất! - Hắn đau khô nói.
- Không, Hồ Phừn rất tốt, không thù đâu! - Tiếng Y Đăm nói đầy tin tưởng. Hin nửa tin nửa ngờ, hắn bước tới ngồi xuống sàn nhà. Mắt hắn sau mười lăm năm xa cách cũng thay đổi nhiều rồi. Y Đăm già đi, vẻ đẹp cũng khác trước và cứng cáp. Hắn không thể hiểu được những gì đã xảy ra đối với bản Sương, đối với Y Đăm trong khoảng thời gian hắn phiêu bạt.
- Y Đăm, tao nghe công an độc ác lắm. Chúng giết pú mê tao
để trả thù rồi!.
Một nét kinh ngạc hiện lên trên mặt Y Đăm.
- Không phải, pú mê Hin bị biệt kích giết chết! Công an không giết, công an Xứng còn cứu Y Lan khỏi chết! Cái tai Hin nghe ai nói bậy rồi!
- Trời, biệt kích nào?
- Hôm ấy... Y Đăm bắt đầu kể lại lần bọn biệt kích phá bản Sương bảy năm trước, pú mê Hin bị giết chết như thế nào, Y Lan được Xứng cứu ra sao. Hin ngạc nhiên và đau đớn. Hắn đứng bật dậy, đi lại giữa sàn nhà. Rồi hắn đứng sững lại, lẩm bẩm:
- Tao là biệt kích, tao là biệt kích! - Hắn đập tay vào trán, giọng rên rỉ, răng nghiên chặt - tao là biệt kích!
- Em Y Lan nay là giáo viên của bản, em nay lớn và đẹp như con chim công. Pú mê chết, Y Lan được cụ Sa Đa đem về nuôi làm cháu. Y Lan yêu công an Xứng... giọng Y Đăm vẫn đều đều.
Rồi Y Đăm kể về những thay đổi của bản. Chị kể say sưa như muốn truyền tất cả cảm xúc vào Hin. Cái đầu Hin cứ theo tiếng nói Y Đăm sáng dần ra. "À, bản đã ở cố định rồi, không còn lang thang nữa... dân bản đã có đủ cơm ăn. Cửa hàng bán nhiều muối và nhiều vải đẹp... Lại có lớp học cho cả trẻ con và người lớn..."
Mặc dù chẳng biết cửa hàng, lốp học là gì, nhưng cứ nghe Y Đăm nói, Hin cảm thấy bản Sương đã sướng hơn xưa. Ôi, nếu trước đây hắn không đi theo thổ phỉ!
Y Đăm nhớ đến con gái Y Vui và cổ họng chị bỗng chát đắng như an phải quả găng. Có thể nào tên biệt kích đang ngồi trước mặt chị lại là cha của đứa con gái yêu thương của chị. Chưa bao giờ chị kể cho Y Vui nghe sự thật về người cha đáng căm giận ấy. Y Đăm đã bao nhiêu lần lòng đau thắt lại khi con gái đang chơi ngoài rừng chạy về giương cặp mắt đen ngơ ngác hỏi:
- Pú con đâu mê ơi?
Là khi nó thấy một đứa bạn của nó có pú. Sao Y Vui lại không có pú? Y Đăm bảo con rằng pú chết rồi, từ khi Y Vui còn trong bụng mê kia. Y Đăm bịa rằng pú chết vì lội suối hái nấm cho Y Vui ăn bị nước cuốn trôi. Ôi, phải chi pú Y Vui chết vì hái nấm cho Y Vui, thế đã đau đớn rồi, nhưng vẫn còn hơn chết vì làm thổ phỉ. Đến nay Y Vui vẫn tin như vậy. Nếu bây giờ, đứa trẻ vô tư ấy biết được người cha nó đang ngồi kia, nó sẽ đau khổ biết chừng nào!
Y Đăm vừa khóc vừa kể lại chuyện đứa con của Hin ra đời như thế nào, chịu đựng nỗi đau không cha ra sao. Không, lúc này chị không phải kể cho Hin nghe nữa. Chị kể cho chính chị nghe như bao lần chị đã thầm kể một mình.
Hin cúi đầu đi lui đi tới. Bước đi của hắn xiêu vẹo như người lên cơn sốt. Khuôn mặt của hắn méo xệch đi. À, hắn cũng có con! Mói đầu, nghe nói đến tiếng con, hắn giật thót như một mũi tên cắm ngập vào đầu hắn. Con a! Hắn cũng có con ư? Chính người đàn bà đứng trước mặt hắn đã sinh ra đứa con của hắn! Nhưng hắn không bằng con chó, không bằng con lợn vì con chó còn biết cắn kẻ bắt con, con lợn còn biết nhảy vào kẻ thù, che chở cho con, còn hắn thì... Trời, hoá ra thằng Phừn đã đỡ đẻ cho vợ hắn, đã nhận Y Vui, con của hắn làm con nuôi. Y Vui, con thằng Hin, toán phó toán biệt kích mà cũng được đi học ư? Hắn chẳng hiểu ra sao nữa:
- Tao muốn gặp con lắm Y Đăm ơi! - Hắn nhìn Y Đăm cầu khẩn - Tao muốn làm người tốt được không? Làm ngay được không Ún? - Mắt Hin thẫn thờ, dài dại. Tay hắn níu vạt áo đến đứt hai chiếc cúc.
Nhưng hình ảnh Phảy với hàm răng vẩu từ đâu nhảy ra ám ảnh trong đầu Hin, rút súng bắn vào hắn. Trong tâm trạng hoang mang, hắn bật cửa nhảy ra ngoài, chạy vút vào trong
rừng đêm.
Còn lại một mình, Y Đăm sững sờ bước đi trong căn nhà sàn. Những việc vừa xảy ra chị cứ tưởng như xảy ra trong cơn ác mộng. Đầu óc chị rối bời như có đàn ong vỡ tổ đang bay trong đó. Rồi chị chạy nhanh vào buồng, nằm vật xuống, miệng cắn chặt một góc chăn khóc nức nở. Nước mắt chị trào ra ướt lạnh tấm chăn.
Hin trở về đột ngột quá, chị không thể tưởng tượng nổi. Hắn nhảy vào nhà, cầm dao đâm vào nỗi đau đã thành sẹo trong lòng chị. Y Đăm nào ngờ Hin còn sống và trở về trong hoàn cảnh độc ác như thế này.
Sau ba tháng trời lang thang với Hin trong rừng sâu, Y Đăm trở về bản trong tâm trạng sợ hãi. Nhất là cái đêm đang nằm ngủ, Y Đăm chợt giật mình thức dậy, ngơ ngác và hoảng hốt khi nghe từ một nơi nào đó xa thẳm ở trong bụng một cái gì nhói lên cựa quậy. Dân bản xa lánh chị. Người ta rỉ tai nhau Y Đăm vào rừng biến thành con ma cà bông rồi, giờ trở lại giết dân bản. Cái tin đột ngột ấy lại trùng hợp với cái chết của mấy đứa trẻ trong bản vì dịch sốt rét. Người ta càng tin Y Đăm là con ma cà bông. Ngay cụ Sa Đa cũng nửa tin nửa ngờ. Theo lệ bản, Y Đăm sẽ bị trói trên đông củi khô để đốt. Nhưng cụ Sa Đa thương Y Đăm nên chưa muốn Y Đăm chết trong lửa. Đàn bà không nói chuyện, không nhìn mặt Y Đăm, đàn ông nhảy vào bụi rút mác cầm tay khi Y Đăm đi qua. Y Đăm sống trong một hốc đá xa bản, thui thủi như một con thú bị bầy ruồng bỏ. Y Đăm tìm cách tự tử. Chị ra đứng bên con suối Y Leng trông xuống một vực nước xoáy sôi sục. Chị thơ thẩn nhìn rừng núi thân yêu đang ngời lên sắc xanh trong nắng chiều và chuẩn bị lao mình xuổng suối. Nhưng có cái gì đó níu chị lại. Cái vật trong bụng quẫy đạp như tức giận. Chị nghe có một tiếng kêu: "Đừng chết mế ơi!" Y Đăm
giật mình lùi lại, rồi ngồi xuống nhặt sỏi ném vào vực nước cho đến tận khuya. Cái thai trong bụng chị ngày một lớn dần, cho đến khi chị thấy rõ đôi bàn tay, đôi bàn chân nhỏ bé đang thúc vào thành bụng của chị đòi ra đời. Đó là dấu hiệu của niềm vui. Nhưng đôi với Y Đăm, niềm vui ấy có trộn lẫn những quả ớt chỉ thiên. Ớt chỉ thiên người Khùa ăn để chống cơn sốt, nhưng những quả ớt chỉ thiên của chị lại biến thành ngọn lửa đốt trong lòng chị. Nếu không có đứa con, không biết chị có sống nổi nữa không.
Chính trong những ngày Y Đăm tủi cực, cô độc như con vượn lạc bầy, Hồ Phừn đã đến với chị. Hồ Phừn đã giang cánh tay bế đứa con chị lọt lòng và cũng chính cánh tay đó nắm cuộc đời của chị giật ra khỏi đêm đen của sự giày vò, cô quạnh, thắp sáng cho nó như một bó đuốc. Khi gặp Hồ Phừn chị đã quyết sống, quyết làm lại cuộc đời.
Ngày Hồ Phừn cùng các công an và dân bản xắn tay nhặt gỗ vác về dựng ngôi nhà này cho chị, Y Đăm cảm thấy niềm vui bắt đầu đến với mình. Hôm dựng nhà, cụ Hồ Sa Đa hoa cây mác lên trời rồi cắm xuống đất ngập mất nửa lưỡi:
- Y Đăm, tao nhận mày là con của bản. Thằng Hin đi theo thổ phỉ nhưng mày không đi theo thổ phỉ. Người Khùa được cái họ của Pú Hồ, mày cũng được cái họ của Pú Hồ!
Cũng như người Khùa, Y Đăm cũng được cái họ Pú Hồ. Hồ Y Đăm! Y Đăm cũng là con cháu của Pú Hồ. Chị vui sướng ứa nước mắt.
Sàn nhà Y Đăm được đón bước chân của dân bản qua lại. Cái nồi hong xôi của Y Đăm cũng có khi hong đầy ắp những xôi để đón Pú Sa Đa, công an Hồ Phừn đến thăm.
Bây giờ, người chồng "đã chết" của chị lù lù trở về. Chị có thương hắn không? Thương chứ! Nhưng Y Đăm cảm thấy đó là
tình thương đổi với một thằng Hin khác kia, thằng Hin của mười sáu năm về trước đã đón chị bên bờ suối Y Leng, thổi khèn cho chị nghe suốt đêm. Còn thằng Hin bây giờ là thằng biệt kích rồi. Chị khỏng thương được thằng biệt kích!
Y Đăm choàng dậy, gạt nhanh nước mắt, lao ra cửa. Chị phải đi tìm Hồ Phừn, tìm công an để báo cho họ đến bắt thằng Hin. Trời hửng sáng, giá lạnh. Nhưng Y Đăm không biết rét. Mái tóc chị sổ tung, bay cuồn cuộn phía sau. Y Đăm chạy nhanh, gió vù bên tai, cây CỐI giật lùi. Y Đăm chạy miết, cái chân đạp trên mây. Rồi chị ngã vào cánh tay của một người nào. Y Đăm nhắm mắt, ôm ngực thở trong vòng tay Y Lan. Người Y Đăm mềm nhũn như cọng rau tàu bay luộc.
- Y Đăm, chị chạy đi đâu mà lồng lên như con mang bị hổ đuổi thế này - Y Lan vuốt tóc Y Đăm. Mái tóc buông xuống trên đất. Khuôn mặt Y Đăm cau lại, tái nhợt và đau khổ. Một lúc lâu sau mới nói đứt quãng.
- Em Y Lan ơi, taọ đi tìm công an Hồ Phừn...
- Tìm làm gì?
- Thằng Hin...
- Hin nào? Y Lan ngạc nhiên khi nghe cái tên xa lạ ấy. - Đêm qua nó về!
"Đúng là thằng ấy rồi!" Y Lan nhố lại đêm qua cô cùng công an Phừn và mấy dân quân nữa tuần tra quanh bản. Gần nửa đêm thì phát hiện một người vào nhà Y Đăm. Tổ tuần tra định bắn nhưng Hồ Phừn không cho. Hồ Phừn bố trí dân quân đứng canh bên ngoài, còn anh trườn tới cạnh nhà. Mãi đến gần sáng mới bò ra. Y Lan và các dân quân xúm lại hỏi, nhưng Phừn chỉ im lặng. Lúc sau anh mới nói rằng chồng Y Đăm về, nó là biệt kích. Các dân quân hỏi tại sao không bắt nó. "Bắt nó thì dễ như bắt con lợn rừng sa lưới. Ta phải bắt hết cả bọn kia!" Anh khoát tay trả
lời.
Chồng Y Đăm về, tin ấy làm Y Lan lạ quá. Trước kia, cô chỉ biết Y Đăm đã có chồng và chồng chị ấy đã chết. Không biết từ bao giờ, Y Lan yêu mến người đàn bà goá bụa ấy. Cũng có thể vì chị hiền hậu, cũng có thể vì Y Đăm thương yêu cô. Tình thương của Y Đăm đối với cô thật đặc biệt mà Y Lan cũng chẳng hiểu vì sao. Ra suối bắt được con cá, con tôm về nấu canh chua, Y Đăm cũng gọi Y Lan đến. Múc hai bát chia cho Y Lan và Y Vui, còn chị thì ngồi im ngắm hai đứa trẻ ăn cơm. Bao giờ mua áo mối cho Y Vui, chị cũng không quên phần Y Lan. Bữa cơm nếp đầu mùa, đến nải chuối chín sau nhà, không bao giờ vắng mặt Y Lan. Cô xem Y Đăm như người mẹ, người chị ruột của mình. Y Lan thường đến nhà Y Đăm ngủ lại. Những đêm như thế, Y Đăm ngồi kể chuyện từ lúc gộc củi đun vào bếp lửa, đến lúc cháy hết mới thôi. Trong câu chuyện, thỉnh thoảng Y Đăm ngồi thừ ra, nhìn Y Lan với đôi mắt khác lạ, hình như chị muốn nói với Y Lan điều gì. Có lần, Y Lan vặn hỏi về chồng chị, Y Đăm chẳng trả lời rồi hỏi lảng "Ún thích hát bài nào nhất" hoặc " tóc Ún dài rồi sao không búi lên?" Nhưng sau đó, Y Lan hốt hoảng khi thấy trên gò má Y Đăm hai dòng nước ánh lửa lăn nhanh.
Giờ đây, bỗng nghe tin chồng chị Y Đăm trở về, lại là thằng biệt kích, Y Lan chẳng hiểu xanh chín gì cả, và cô chẳng yên tâm. Khi cô tuần tra xong trở về nhà, pú Sa Đa đã dậy đốt lửa. Thoáng thấy Y Lan, pú chạy lại hỏi:
- Đêm qua bản ta có gì không cháu? Thằng biệt kích về không?
- Thằng biệt kích về pú ạ. Thằng biệt kích chồng chị Y Đăm đó pú.
Nghe vậy, cụ Sa Đa chững lại đứng ngây ra chốc lát. - Ai bảo chồng Y Đăm?
- Công an Hồ Phừn?
- Thằng Phừn đâu rồi? - Pú hỏi dồn. Y Lan trả lời rằng công an Phừn đang đi với các dân quân bản ở ngoài rừng. Cụ Sa Đa rút cây mác cầm tay, hôi hả đi ra. Y Lan vừa ngồi xuống đã bị nồi nước sôi trong bụng bắt đứng dậy. Phải đến hỏi chị Y Đăm xem sao mói được. Vừa tới cầu thang nhà Y Đăm, Y Lan đã thấy chị đầu tóc buông xõa, chạy sấp ngửa phía trước.
Y Lan chạy theo và khó nhọc lắm mói đuôi kịp. Cái gì đã làm chị Y Đăm hoảng sợ đến thế này. Giọng Y Đăm vẫn thều thào, ngắt quãng trong hơi thở:
- Thằng Hin, nó còn sống, nó làm, biệt kích... Mặt Y Đăm đanh lại, chị nhìn Y Lan hồi lâu, nuốt nuốt nước bọt hai ba lần. - Em Y Lan... đừng sợ! Thằng Hin, chồng chị, là... - Y Đăm cầm tay Y Lan - anh của Y Lan đó!
Y Lan buông tay Y Đăm, hoảng hốt lùi lại, cặp mắt mở to kinh ngạc:
- Sao, sao? Anh của em à? Y Đăm - Y Lan kêu to - Chị không phải con sơn dương ăn nhầm lá ngón đấy chứ, chị không điên đấy chứ! Anh Hin của em đã chết từ lâu rồi mà!
- Không, chị không phải con sơn dương ăn nhầm lá ngón, chị không điên - Y Đăm bỗng ôm mặt nức nở - Từ lâu rồi, chị đã giấu...
- Không, không phải, không đời nào. Anh trai Y Lan không đời nào làm biệt kích!
Y Lan vùng chạy, vừa chạy vừa kêu to: "Không, không đời nào!" Đến lượt Y Đăm đuổi theo Y Lan. Khi ôm lấy người con gái bỗng nhiên cuồng dại ấy. Y Đăm hốt hoảng thấy môi Y Lan run lên, mắt đò đẫn, miệng lắp bắp những lời gì đó.
Nh1>IXhà cụ Hồ Sa Đa ở giữa bản, núp dưới tán một cây táu cao lớn. Trong nhà, cụ Sa Đa một tay chống nạnh, một tay vung cây mác sáng loáng. Giọng cụ ốm ốm, vang động cả căn nhà:
- Công an Phừn! Thằng Hin là con của người Khùa nhưng hắn đã làm con chó dẫn biệt kích về phá bản người Khùa. Vậy, hắn là con thú độc ác của người Khùa rồi! Ta sẽ dùng cây mác này chém hắn như chém một củ nâu, đâm hắn như đâm một cây chuối! - Mắt cụ Sa Đa long lên, miếng sừng trâu treo trước ngực cụ rung rung.
- Pú ơi, thằng Hin muốn được làm người dân bản ta đó! - Y Đăm bước tới nói với cụ Sa Đa.
- Cháu Y Đăm, cháu Y Lan. Thằng Hin là chồng cháu Y Đăm, là anh cháu Y Lan, nhưng hắn đã thành con hổ rồi. Ta thương hai cháu, nhưng thương hai cháu, ta phải giết nó!
Hồ Phừn đi lại trên sàn nhà. Cái tẩu trên miệng anh um khói. Cụ Sa Đa bước tới bên Phừn, nói:
- Cháu Phừn! Cháu là con của Pú Hồ, là con của dân bản, là cán bộ công an, cháu thấy cái lời ta nói có đúng không? Phải giết chết bọn biệt kích trong nội ngày nay - Cụ nhìn ra những dãy núi trập trùng trước cửa nhà, hoa cây mác lên - Cái hang trong núi kia ta đã biết vì sao lâu nay tìm không ra. Phải báo cho cháu Tạ và các công an trên ấy...
Cái cửa hang trong rừng kia cụ Sa Đa đã biết tại sao lâu nay cụ không tìm thấy. Các toán biệt kích, thô phỉ trước kia khi rút đi đã lấp cửa hang đó lại. Hồ Phừn nói với cụ như vậy.
Y Lan xách súng đến trước mặt Hồ Phừn. Cô chỉ vào cây súng, run run nói:
- Pú Phừn ơi! Pú cho Y Lan đi đánh biệt kích, đánh thằng Hin với nhé !
Hồ Phừn vẫn im lặng. Anh chưa biết trả lời cụ Sa Đa, trả lời Y Lan thế nào cả.
Hồ Phừn vẫn nhớ như in buổi chiều hôm ấy. Y Vui bị đau bụng, anh dẫn Y Đăm đi tìm y tá của đồn biên phòng. Hai người vừa ra khỏi bản thì một bóng đen lao đến, vung cây dao mác chém bập vào mặt anh. Hồ Phừn chỉ kịp nhận ra kẻ đó là ai, rồi anh ngất đi... Từ đó đến nay đã mười lăm năm rồi, vết thương trên mặt anh đã thành sẹo, nhưng Phừn vẫn băn khoăn. Thằng Hin chém anh chỉ vì hiểu lầm anh cướp vợ hắn. Hin đi biệt tích và đã chết (anh đinh ninh như vậy) mà vẫn chưa hiểu được sự thật. Đó là điều làm anh áy náy.
Đến bây giờ, hắn bỗng trở về trong bộ quần áo của tên biệt kích. Qua câu chuyện giữa nó với Y Đăm đêm qua, Phừn biết nó không phải như những tên biệt kích khác. Hắn bước chân vào con đường tội lỗi không phải thèm khát của cải tiền bạc, không phải khoét bụng bố lấy ra đầu đạn xử bắn của cách mạng gói vào khăn tay buộc trên cố hay muốn dân bản phải hàng năm đến dâng rượu thịt, gạo nếp, mà chỉ vì mối tình rồ dại không kiềm chê được. Hắn mang cái hiểu lầm đầu tiên đối với Phừn, sau đó, bọn chỉ huy phỉ Vàng Pao lại nhét vào trong gói ấy những hiểu lầm khác. Khi được Y Đăm cho biết sự thật thì hắn hoang mang. Phừn cũng định cho nó ăn một viên đạn, nhưng anh chợt nghĩ ra ý định khác. Có thể thuyết phục được hắn! Nếu được như vậy, số phận của toán biệt kích đã nằm trong tay anh, bên cạnh đó, nhận ra sự thật, hắn có thể hối cải trở lại làm người?
Hồ Phừn bước tới cầm bàn tay xương xẩu da đã có đồi mồi của cụ Sa Đa: “Pú Sa Đa, pú như cây đại thụ, con tin vào lời pú nói. Nhưng con thấy thằng Hin như trâu đi lạc đường, như vượn lạc bầy, có thể đưa con trâu đó đi đúng đường, đưa con vượn trở lại bầy được. Ta giết hắn cũng được, nhưng làm cho hắn sáng mắt
nhận ra lẽ phải thì tốt hơn...”
Hồ Phừn nói hồi lâu. Giọng anh mỗi lúc một kiên quyết. Cụ Sa Đa đầu tiên còn ngạc nhiên, con dao mác trong tay cụ rơi cắm xuống sàn nhà, cán mác rung rung. Nhưng lúc sau cụ gật gù. À, phải kéo hắn đi theo mình, như thế sẽ tóm cả bọn biệt kích dễ dàng. A, hắn còn thương vợ, thương con, nhớ em, nhớ bản Sương. Có thể đưa con trâu đi đúng đường, đưa con vượn về bầy được đó.
- Tao cũng muốn cháu Y Đăm lại được chồng, cháu Y Vui lại có cha, cháu Y Lan lại có anh lắm chứ! Phải rồi, công an Phừn nói đúng - Cụ Sa Đa cầm cây mác vung lên - Cháu Phừn, cái đầu mày được Pú Hồ, được cách mạng thắp ngọn đèn trong ấy nên cái miệng mày nói được điều hay, cái tay mày làm được việc tốt! Ta vui lắm đó! Phải làm ngay đi thôi.
Hin về đến hang đá lúc trời sáng hẳn. Hắn ôm ngực thở hộc lên. Áo quần gai xé rách toạc, mặt mũi da thịt hắn bị những vết xước chảy máu nhưng hắn không hề hay biết. Mắt hắn đờ đẫn, bước đi loạng choạng, người chúi về phía trước. Mấy tên lính thấy vậy sợ hãi lên đạn nằm rạp xuống nhìn chòng chọc ra cửa hang. Chúng tưởng Hin bị đuổi bắt. Hin lảo đảo bước vào, nằm vật xuống, quằn quại trên mặt đất như bị trúng phong. Bọn lính quây lại giương mắt ngơ ngác, hỏi Hin liên tiếp. Hin không trả lời, hồi sau hắn giơ chân đạp vào hông tên lính đứng gần khiến tên này ngã chúi. Rồi hắn đứng dậy, xé tung bộ quần áo đang mặc. Mồ hôi trên người hắn rơi xuống ròng ròng. Đầu óc hắn rối loạn. Hắn bỗng khóc rông lên. Tiếng khóc của hắn ốm ốm, nghe rùng rỢn làm bọn lính sợ hãi dạt ra.
Có thật hắn nhầm không? Có thật pú mê hắn bị bọn thổ phỉ giết không? Có thật con hắn đã lớn và đang được đi học không? Có thật Y Đăm vẫn thương hắn, em gái Y Lan đã làm giáo viên
"""