"Những Người Nuôi Giữ Bồ Câu - Alice Hoffman & Lê Đình Chi (dịch) full mobi pdf epub azw3 [Tiểu Thuyết] 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Những Người Nuôi Giữ Bồ Câu - Alice Hoffman & Lê Đình Chi (dịch) full mobi pdf epub azw3 [Tiểu Thuyết] Ebooks Nhóm Zalo Những người nuôi giữ bồ câu —★— Tác giả: Alice Hoffman Người dịch: Lê Đình Chi Phát hành: NXB Phụ Nữ 2014ebook©vctvegroup B ạn đọc thân mến, Cùng độc giả Một lần trong đời, tác phẩm có thể đến với người viết như một món quà bất ngờ. Những người nuôi giữ bồ câu, đối với tôi, là một tác phẩm như thế. Đó là món quà từ các cố bà của tôi, những người phụ nữ có dòng gốc Israel xa xưa, lần đầu tiên trò chuyện cùng tôi khi tôi đặt chân tới pháo đài Masada. Khi kể lại câu chuyện về những mất mát và yêu thương của họ, tôi cũng kể lại câu chuyện của chính mình. Sau ba mươi lăm năm cầm bút, sau hơn ba mươi tác phẩm được xuất bản, tôi có được câu chuyện mà tôi cần phải kể lại. Những người nuôi giữ bồ câu là cuốn tiểu thuyết dựng trên bối cảnh trong và sau khi Jerusalem thất thủ (năm 70), trải ra bốn năm khi người Roma tiến hành tấn công pháo đài Do Thái ở Masada, nơi có một nhóm chín trăm người nổi dậy và gia đình họ cố thủ. Câu chuyện được lấy cảm hứng từ sử gia Josephus, người đã ghi lại bản tường thuật duy nhất về cuộc vây hãm, trong đó ông cho biết có hai phụ nữ và năm đứa trẻ sống sót sau cuộc tàn sát xảy ra vào đêm những người Do Thái chấp nhận tự sát hàng loạt thay vì khuất phục chiến đoàn Roma. Chính những người sống sót này đã thuật lại câu chuyện với người Roma, và qua đó, với cả thế giới. Tôi được truyền cảm hứng từ chuyến thăm Masada đầu tiên của mình, một trải nghiệm tâm linh thật sâu sắc và cảm động, đến mức tôi cảm thấy như thể những cuộc đời từng tìm đến nơi này hai nghìn năm trước vẫn còn tươi mới, sống động. Những sự kiện bi thảm của quá khứ và sự hy sinh kỳ lạ diễn ra tại pháo đài này dường như vẫn hiển hiện trong không khí trong trẻo. Dường như những người từng sống ở đó, và chết tại đó, mới chỉ ra đi vài giờ trước. Trong bảo tàng Yigal Yadin tại Masada có thể tìm thấy rất nhiều di vật được nhắc đến trong tiểu thuyết này: một mảnh vải thổ cẩm thuộc về một người lính của chiến đoàn bị bắt sung quân từ xứ Wales; đôi xăng đan và tóc của một phụ nữ trẻ có hài cốt được tìm thấy cạnh một đài phun nước, cạnh hài cốt của một chiến binh trẻ và một cậu bé, xung quanh họ là những mảnh áo giáp vảy cá bằng bạc. Một tấm bùa được trưng bày trong một bảo tàng tại Wales chính là tấm bùa được trao cho người nô lệ phương Bắc, còn những chiếc bát phù chú, những tấm bùa và sách phù chú trong tiểu thuyết có thể tìm thấy trong các bảo tàng ở châu Âu, Israel và Ai Cập. Những cái tên tìm thấy trên mảnh gốm vỡ, cũng có thể là những lá thăm mà các chiến binh cuối cùng rút được, ở Masada - trong đó có Yoav, Người Từ Thung Lũng, và Ben Ya’ir, thủ lĩnh của cuộc nổi dậy - cũng đang được trưng bày tại Masada. Một số hài cốt đã được tìm thấy trong hang núi phía dưới pháo đài, và mặc dù không ai có thể biết liệu những người Essene có mặt ở Masada hay không, nhiều bản thảo của họ đã được khai quật tại đó. Phép màu là một nỗ lực bí mật, nhưng thường xuyên nhất có thể, tôi đã đan cài các phát kiến khảo cổ vào câu chuyện của Những người nuôi giữ bồ câu. Tôi mang ơn không chỉ câu chuyện kể của Josephus, mà cả Yigal Yadin, nhà khảo cổ học phụ trách dự án Masada, tác giả của Masada, một câu chuyện đầy cuốn hút về quá trình khai quật pháo đài. Cho dù vẫn có những tranh luận liên quan tới lịch sử và kết quả khảo cổ, tôi luôn dựa vào những khám phá ban đầu và những suy đoán tại thực địa. Tôi đã tìm kiếm tư liệu cho Những người nuôi giữ bồ câu trong nhiều năm, nhưng tôi không phải là nhà sử học hay học giả về tôn giáo. Là một tiểu thuyết gia, tôi làm tốt nhất có thể trong khuôn khổ của thực tế. Cho dù một số nhân vật dựa trên các nhân vật lịch sử, những câu chuyện về phụ nữ thường trôi qua mà không được ghi chép lại, vàNhững người nuôi giữ bồ câu là nỗ lực của tôi để hình dung ra những câu chuyện đó. Hy vọng của tôi là khi làm vậy, tôi có thể đem lại tiếng nói cho những người đã phải giữ im lặng quá lâu. Tôi muốn cảm ơn những độc giả đầu tiên của mình, Maggie Stern Terris, Daniel Terris, Pamela Painter và Sue Standing vì những nhận xét sâu sắc và vô giá của họ, vì tình bạn và sự ủng hộ của họ trong quá trình viết cuốn sách này. Tôi cũng muốn cảm ơn tới hai bác tôi, Ashley và Harriet Hoffman, cũng là những độc giả ban đầu, vì lòng tốt họ dành cho tôi trong cả công việc viết văn và ngoài đời thực. Xin cảm ơn Mindy Givon, em dâu tôi, vì đã là một độc giả luôn cổ vũ nhiệt thành từ lúc ban đầu, vì đã cùng đi khắp Israel với tôi, vì đã là một người bạn tuyệt vời. Tôi xin bày tỏ sự biết ơn tới Trung tâm Nghiên cứu về Phụ nữ ở Brandeis vì đã chỉ định tôi làm học giả khách mời, kèm theo lời cảm ơn đặc biệt tới Shulamit Rheinharz, và tới người sinh viên nghiên cứu tuyệt diệu của tôi, Deborah Thompson. Xin cảm ơn Susan Brown vì quá trình sao chép vừa chu đáo vừa rộng lượng. Xin cảm ơn Gary Johnson và Julia Kenny tại đại diện Markson Thoma vì sự ủng hộ liên tục của họ, cũng như tới Paul Whitlatch tại Scribner vì sự giúp đỡ trong quá trình xuất bản cuốn sách này. Lời cảm ơn của tôi xin dành gửi tới Camille McDuffie vì tình bạn và lòng tốt của cô trong quá trình thực hiện nhiều cuốn sách. Xin gửi lời biết ơn chân thành tới Joyce Tenneson, bức ảnh lộng lẫy của ông đã đem đến cảm hứng cho tôi như một biểu tượng về lòng can đảm và sự duyên dáng của những người phụ nữ trong thế giới cổ đại. Tôi mang ơn anh rể tôi, Menachem Givon, người đã làm hướng dẫn viên cho tôi ở Israel, những hiểu biết của anh là vô giá với tôi trong quá trình đọc thử bản thảo kỹ lưỡng anh đã thực hiện. Tôi đã không thể nào tìm ra được tất cả những gì anh biết thuộc lòng và vui lòng chia sẻ với tôi. Tôi cũng mang nợ rất nhiều từ Richard Elliott Friedman, một nhà văn và học giả xuất chúng, quá trình đọc thử sáng suốt và cẩn thận ông dành cho cuốn sách là vô cùng hữu ích, những nhận định sâu sắc về thế giới của Kinh Thánh vừa đáng kinh ngạc vừa vô giá. Cảm ơn cả hai người vì đã là những người thầy thật rộng lượng, kiên nhẫn. Tôi đặc biệt muốn cảm ơn Elaine Markson, người đại diện và người bạn tuyệt vời của tôi; cô đã đặt niềm tin vào cuốn sách này ngay từ đầu, và đã luôn tin vào tôi. Xin cảm ơn rất nhiều tới người đại diện lâu năm, người bạn thân thiết Ron Bernstein của tôi vì những lời khuyên sáng suốt của ông trong những năm qua. Tôi không biết dùng từ nào để diễn tả lòng biết ơn của mình khi được làm việc với Nan Graham, biên tập viên, và Susan Moldow, người phụ trách xuất bản của tôi. Cả họ cũng đã tin vào tôi và cuốn sách này, đã đón nhận nó từ khi nó chưa được định hình. Khi làm thế, họ đã thay đổi số phận của tôi. Tôi cũng xin cảm ơn Carolyn Reidy vì lòng tốt và sự ủng hộ của bà. Tôi mang ơn chồng tôi, Thomas Martin, người đã cùng đi vào sa mạc với tôi, bất chấp những nỗi buồn chúng tôi gặp phải. Cuối cùng, món nợ lớn nhất của tôi là với mẹ tôi, Sherry Hofflan, người tôi vẫn nhớ mỗi ngày. Con hy vọng mẹ đã tha thứ cho con, cũng như con đã từ lâu tha thứ cho mẹ. Trân trọng, ALICE HOFFMAN Hãy ghé vai gánh cùng tôi, và tôi cũng chìa vai mình đỡ gánh nặng cho người. Phần 1 Mùa hè năm 70 Con gái người sát thủ Chúng tôi tới, như bầy bồ câu vượt qua sa mạc. Vào một thời kỳ chẳng có gì ngoài cái chết, chúng tôi biết ơn vì bất cứ điều gì, và cảm thấy biết ơn hơn hết khi chúng tôi thức dậy để bước sang một ngày nữa. C húng tôi đã lang thang quá lâu, tới mức tôi đã quên hẳn cảm giác sống hay ngủ qua một đêm giữa những bức tường. Trong thời gian đó tôi đã mất hết những gì đáng lẽ đã thuộc về tôi nếu Jerusalem không thất thủ: một người chồng, một gia đình, một tương lai của chính tôi. Thời con gái của tôi đã biến mất trên sa mạc. Con người trước đây của tôi đã biến mất khi tôi quấn mình kín trong lớp vải trắng, trong lúc bụi cát bốc lên thành những đám mây. Chúng tôi là những kẻ du mục, để lại sau lưng giường ngủ và đồ đạc tùy thân, thảm và nồi nấu bằng đồng thau. Giờ đây nhà của chúng tôi chính là sa mạc, tối đen vào ban đêm, trắng lóa đến tàn khốc vào lúc giữa trưa. Người ta nói vẻ đẹp chân thực nhất nằm ở những vùng đất cằn cỗi nhất, và nếu mở to đôi mắt, ta có thể tìm thấy Chúa ở đó. Nhưng đôi mắt tôi phải nhắm lại trước những cơn gió cát dữ dội có thể làm người ta mù lòa trong khoảnh khắc. Hít thở cũng đã là một kỳ tích khi những cơn bão tới vần vũ gào thét trên mặt đất. Giọng nói vang lên từ im lặng là một điều không ai có thể tưởng tượng ra cho tới khi nghe thấy nó. Nó rống lên trong khi nói, nó lừa dối bạn và thuyết phục bạn, đánh cắp của bạn rồi để lại cho bạn lời an ủi duy nhất. Sự an ủi không thể tồn tại ở một nơi như thế. Những gì tàn bạo sống sót. Những gì khôn ngoan sống được cho tới sáng. Da tôi đã bị ánh mặt trời thiêu đốt, hai bàn tay khô ráp. Tôi cam chịu trước sa mạc, cúi mình trước tiếng nói hùng mạnh của nó. Bất cứ nơi nào tôi đặt chân tới, số phận của tôi bước đi cùng tôi, buộc chặt vào bàn chân tôi bằng chỉ đỏ. Mọi điều sắp đến đều đã được định đoạt trước từ lâu trước khi chúng thực sự xảy ra. Chúng ta chẳng thể làm gì để ngăn chặn. Tôi không thể chạy theo hướng khác. Những con đường từ Jerusalem chỉ dẫn tới ba nơi: tới Roma, ra biển, hoặc vào sa mạc. Dân tộc của tôi đã trở thành những kẻ lang thang, đúng như họ đã từng trôi dạt từ thuở khai thiên lập địa, thêm một lần nữa lại bị xua đuổi, ruồng bỏ. Tôi theo bố rời khỏi thành phố vì không còn lựa chọn nào khác. Không ai trong chúng tôi có quyền lựa chọn, nếu muốn nói về sự thật. Tôi không biết nó đã bắt đầu như thế nào, nhưng tôi biết nó đã kết thúc ra sao. Chuyện đó xảy ra vào tháng Av, biểu tượng của nó là Arieh, con sư tử. Đó là một tháng mang nghĩa của sự hủy diệt với dân tộc tôi, một quãng thời gian khi những tảng đá trong sa mạc nóng tới mức hễ chạm vào chúng là bàn tay bị bỏng rát, khi quả héo quắt trên cành trước khi kịp chín, còn hạt bên trong chúng kêu lọc cọc như xúc xắc khi lắc lên, khi bầu trời trắng lóa, còn mưa sẽ không rơi xuống. Ngôi Đền thứ nhất[1] đã bị phá hủy vào tháng đó. Các công cụ đồng nghĩa với vũ khí và không thể được sử dụng để xây dựng chốn thiêng liêng nhất của những chốn thiêng liêng; thế nên vị vua chiến binh vĩ đại David đã bị cấm xây Đền vì ông đã nếm trải các tội lỗi xấu xa của chiến tranh. Thay vào đó, vinh dự được dành cho con trai ông, Vua Solomon, người đã viện tới shamir, loài giun có thể cắt xuyên qua đá, nhờ đó tạo nên niềm vinh quang cho Chúa mà không cần dùng tới công cụ kim loại. Ngôi Đền được xây đúng như Chúa đã an bài, không có đổ máu và chiến tranh. Chín cánh cổng được dát bạc và vàng. Tại đó, tại chốn thiêng liêng nhất, có đặt chiếc Rương chứa đựng cam kết của dân tộc chúng tôi với Chúa, một chiếc rương làm từ thứ gỗ keo tốt nhất, được trang trí với hai thiên thần làm bằng vàng. Nhưng bất chấp sự huy hoàng của nó, ngôi Đền thứ nhất đã bị phá hủy, dân tộc chúng tôi bị đày tới Babylon. Họ đã trở lại sau bảy mươi năm để xây dựng lại trên chốn cũ, nơi Abraham đã sẵn sàng dâng con trai Isaac của ông làm vật hy sinh lên Đấng Toàn Năng, nơi thế giới đã được tạo ra trước tiên. Ngôi Đền thứ hai đã đứng vững hàng trăm năm, như nơi tọa lạc cho lời của Chúa, trung tâm của sự sáng tạo ở trung tâm Jerusalem, cho dù bản thân chiếc Rương đã biến mất, có lẽ ở Babylon. Nhưng giờ đây, thời của đổ máu một lần nữa lại ập xuống đầu chúng tôi. Người Roma muốn tất cả những gì chúng tôi có. Họ tới chỗ chúng tôi như họ đã ào tới biết bao miền đất khác với những chiến đoàn đông đảo, muốn không chỉ chinh phục mà cả khuất phục, chiếm đoạt không chỉ đất đai vàng bạc, mà cả nhân tính của chúng tôi. Về phần mình, tôi đã chờ đợi thảm họa, không gì khác hơn. Tôi đã biết đến vòng tay của nó từ trước khi tôi biết thở hay biết nhìn. Tôi là con thứ hai trong nhà, nhỏ hơn một tuổi so với Amram, anh trai tôi, nhưng hoàn toàn khác anh, tôi bị nguyền rủa dưới gánh nặng từ hơi thở đầu tiên của chính mình. Mẹ tôi chết trước khi tôi chào đời. Vào khoảnh khắc đó, bản đồ của cuộc đời tôi đã hiện lên trên làn da tôi dưới dạng một loạt những chấm đỏ, những vết đốm mà khi tôi lần theo, từ vết này qua vết khác, đã dẫn tôi tới định mệnh của bản thân. Tôi có thể nhớ rõ khoảnh khắc tôi xuất hiện trên thế gian này, sự bình yên tuyệt đối đột nhiên bị phá vỡ, sức nóng của mạch đập dưới làn da tôi. Tôi được lấy ra khỏi bụng mẹ, được cắt rốn bằng một con dao sắc. Tôi tin chắc đã nghe thấy tiếng gào thét vì đau khổ của bố tôi, âm thanh duy nhất phá vỡ sự im lặng khủng khiếp của một đứa trẻ được sinh ra từ cái chết. Bản thân tôi không hề kêu la hay khóc. Người ta đã để ý thấy điều đó. Các bà đỡ thì thầm với nhau, tin rằng tôi là một đứa trẻ hoặc được ban phước, hoặc bị nguyền rủa. Sự im lặng đó không phải là nét bất thường duy nhất của tôi, cũng như không phải những đốm đỏ xuất hiện trên da tôi sau khi chào đời cũng không. Đó là mái tóc của tôi, màu đỏ thẫm như máu, một mái tóc vốn đã mọc dày, như thể tôi đã biết thế giới này và đã từng ở đó từ trước. Họ nói đôi mắt tôi mở to, dấu hiệu của một kẻ khác biệt. Điều được chờ đợi ở đứa trẻ sinh ra từ một phụ nữ đã chết, vì tôi đã bị Mal’ach ha Mavet,thiên thần của Cái Chết, chạm vào trước khi tôi chào đời vào tháng Av, ngày Tisha B’Av, ngày thứ chín, dưới dấu hiệu của sư tử. Tôi luôn biết một con sư tử rồi đây sẽ chờ sẵn tôi. Tôi đã mơ về những tạo vật như thế từ khi có những ký ức đầu tiên. Trong những giấc mơ của mình, tận tay tôi cho sư tử ăn. Đổi lại, nó ngoạm lấy cả bàn tay tôi vào miệng và ăn sống tôi. Cho đến hết thời thơ ấu, tôi luôn đảm bảo chắc chắn rằng mái tóc mình được che kín; tôi làm thế thậm chí cả khi ở trong sân nhà của bố tôi. Vào những dịp hiếm hoi được đi cùng người nấu bếp của chúng tôi ra chợ, tôi nhìn những cô gái trẻ khác vui đùa và cảm thấy ghen tỵ, thậm chí cả với những cô nhan sắc tầm thường nhất trong bọn họ. Cuộc sống của họ thật trọn vẹn, trong khi tôi chỉ có thể nghĩ về tất cả những gì tôi không có. Họ bàn tán vui vẻ về tương lai như những cô dâu trong lúc nấn ná bên giếng nước hay xúm lại trên Phố Hàng Bánh, vây quanh là những người mẹ, bà cô của bọn họ. Tôi chỉ muốn cắn xé họ nhưng rồi lại im lặng. Làm sao tôi có thế nói về sự ghen tỵ của mình trong khi có những thứ tôi muốn thậm chí còn hơn cả một người chồng, một đứa con hay một mái nhà của chính mình? Tôi ước ao một đêm không mộng mị, một thế giới không có sư tử, một năm không có tháng Av, cái tháng cay đắng, đỏ quạch đó. Chúng tôi rời thành phố khi ngôi Đền thứ hai bị phá trụi, mạo hiểm đi thẳng vào Thung lũng Gai Góc. Suốt nhiều tháng, người Roma đã làm ô uế ngôi Đền, đóng đinh câu rút người dân tộc tôi bên trong những bức tường thiêng liêng của ngôi Đền, lột hết vàng dát trên các lối vào và vòm cổng. Chính tại đây những người Do Thái từ khắp nơi hành hương về để dâng lễ vật hiến tế trước chốn linh thiêng nhất, với hàng nghìn người tập hợp vào dịp Lễ Vượt Qua, tất cả cùng nóng lòng được nhìn thấy những bức tường dát vàng của nơi thờ phụng lời Chúa dạy. Khi người Roma tấn công bức tường thứ ba, dân tộc tôi buộc phải bỏ chạy khỏi khu vực đó của Đền. Lính Roma sau đó phá đổ bức tường thứ hai. Nhưng như thế vẫn là chưa đủ. Titus hùng mạnh, tư lệnh quân đội của cả vùng Judea, tiếp tục cho xây dựng bốn ngọn tháp công thành. Chúng tôi phá hủy chúng bằng lửa và đá, song cuộc tấn công của người Roma hướng vào những bức tường Đền đã làm suy yếu sức phòng thủ của chúng tôi. Không bao lâu sau, bức tường nứt vỡ, hở ra một khe. Đám lính tràn vào trong mê cung của những bức tường bao quanh chốn thiêng liêng nhất của chúng tôi, chạy như một đàn chuột, khiên giơ cao, áo trắng vấy máu. Ngôi Đền thiêng liêng đã bị phá hủy trong tay chúng. Sau khi việc này xảy ra, đến lượt thành phố thất thủ, nó không khỏi bị sụp đổ theo, phải khuỵu gối như một tù binh tầm thường, vì không có Đền, sẽ không còn lev ha-olam, không còn trái tim của thế giới, và chẳng còn lý do gì để chiến đấu nữa. Khao khát dành cho Jerusalem là một ngọn lửa không gì dập tắt nổi. Có một tia sáng bên trong nơi thiêng liêng nhất của những chốn thiêng liêng đó, khiến người ta muốn chiếm hữu nó, và những gì con người ta thèm khát, họ thường lại hủy hoại mất. Tới đêm, những bức tường được kỳ vọng tồn tại vĩnh cửu rên rỉ, lung lay. Người Roma càng bắt chúng tôi nhiều hơn vì những tội trạng gây ra chống lại luật lệ của họ, chúng tôi lại càng xung đột với nhau quyết liệt hơn, không thể đi đến quyết định một cách hành động duy nhất. Có lẽ bởi chúng tôi biết mình không thể chiến thắng sức mạnh của họ nên chúng tôi quay sang chống lại nhau, bị xâu xé bởi những ghen tỵ nhỏ nhen, bị chia rẽ bởi sự phản bội, cuộc sống của chúng tôi là một mớ bòng bong đen tối đầy sợ hãi. Các nạn nhân thường hay tấn công lẫn nhau, họ trở thành những con gà trong một cái lồng, điên cuồng ẩu đả với nhau. Chúng tôi cũng tương tự. Dân tộc chúng tôi không chỉ bị người Roma vây hãm, họ còn gây chiến với nhau. Các tu sĩ được trọng vọng, đứng cả về phía Roma, và những ai chống lại họ bị gọi là những kẻ trộm cướp và du đãng, trong đó có bố tôi và những người bạn của ông. Thuế má cao đến mức những người nghèo không còn gì để nuôi sống con cái nữa, trong khi những kẻ a dua với Roma lại phát tài và trở nên giàu có. Người ta đứng ra làm chứng chống lại chính xóm giềng của mình; người ta trộm cắp của nhau, khóa trái cửa lại trước những người trong cơn quẫn bách. Chúng tôi càng trở nên nghi kỵ lẫn nhau, càng dễ bị đánh bại, bị chia rẽ thành những kẻ mang đầy lòng thù hận, trong khi trên thực tế chúng tôi là một, là những người con trai và con gái của vương quốc Israel, là những tín đồ của Adonai[2]. •§• Trong những tháng trước khi ngôi Đền sụp đổ, cảnh hỗn loạn đã ngự trị trong khi chúng tôi ra sức chống lại kẻ thù. Chúng tôi nỗ lực hết sức để thắng trong cuộc chiến này, nhưng khi Chúa sáng tạo nên cuộc sống, Người cũng tạo ra sự hủy diệt. Lúc này đây, vào tháng Av điên cuồng đỏ rực, những thi thể trương phềnh chất đầy kidron, hẻm núi sâu ngăn cách thành phố khỏi núi Olives lập lòe ánh sáng. Máu của người và súc vật đã đọng lại thành từng vũng lớn đen sẫm tại những nơi thiêng liêng nhất của chúng tôi. Hơi nóng thật bí hiểm và dai dẳng một cách tàn khốc, như thể sự độc ác của mặt đất đã hắt ngược trở lại chúng tôi, như một tấm gương phản chiếu tội lỗi của chúng tôi. Bên trong những căn phòng bí mật nhất của Đền, vàng bị nấu chảy ra và đúc thành thỏi; chúng biến mất, bị đánh cắp khỏi nơi thiêng liêng nhất, và không bao giờ còn được thấy lại. Không có lấy một cơn gió nhẹ. Nhiệt độ tăng lên cùng với sự hỗn loạn, từ dưới đất hun lên, và những viên gạch lát các con đường do người Roma xây dựng nóng tới mức nó làm bỏng chân người đi đường trong lúc kẻ tuyệt vọng tìm kiếm một chốn an toàn - một chuồng ngựa, một căn phòng bỏ hoang, thậm chí cả một góc phiến đá mát mẻ trong lò của một người thợ nướng bánh. Binh lính của Chiến đoàn Mười, ra trận với biểu tượng con lợn rừng, cắm những lá cờ của chúng lên đống đổ nát của Đền, hoàn toàn ý thức được hành động đó là một sự nhục mạ với chúng tôi, vì nó ném vào mặt chúng tôi một con vật chúng tôi coi là không sạch sẽ. Đám lính cũng giống như lũ lợn rừng, khinh suất, hung hãn. Chúng lần mò tới khắp vùng đồng quê, giết gà trống choai trắng bên ngoài các nhà thờ, các bet kenesset và bet tefilliah - nơi diễn ra cả những cuộc họp cộng đồng và cầu nguyện, như một hành động sỉ nhục và một lời nguyền rủa. Máu gà trống khiến những nơi thờ tự của chúng tôi trở nên không trong sạch. Các phụ nữ dùng xà phòng cọ rửa các bậc thềm, vừa làm vừa than khóc. Chúng tôi đã bị ô uế, cho dù họ có cọ rửa bao lâu hay dội nhiều nước đến thế nào lên những viên đá. Với mỗi sự sỉ nhục, chúng tôi hiểu lời cảnh báo của chiến đoàn: Điều ta đã làm với con gà trống, ta có thể làm với các người. Vào một buổi tối, một ngôi sao trông giống như thanh kiếm lóe sáng trên bầu trời thành phố. Có thể nhìn thấy nó từ đêm này qua đêm khác, sáng lấp lánh sừng sững ở phía đông. Người ta run rẩy, tin chắc đó là một điềm báo, và chờ đợi những gì sắp đến. Không lâu sau, cổng phía đông Đền mở toang như thể tự nó mở ra. Từng đám đông xúm lại, kinh hoàng, quả quyết biến cố này sẽ cho phép tai họa tiến vào trong. Những cánh cổng sẽ không mở ra nếu không có lý do nào. Những thanh gươm không vung lên bầu trời nếu hòa bình sắp tới. Những người láng giềng của chúng tôi bắt đầu bán đi bất cứ món tài sản nhỏ nào họ có, chen chúc xô đẩy nhau trên các con phố, quyết tâm thoát đi cùng chút ít ỏi còn giữ lại được. Họ tập hợp con cái lại và bắt đầu rời bỏ Jerusalem, hy vọng tới được Babylon hay Alexandria, không nguôi nhung nhớ Zion[3] thậm chí ngay cả khi cất bước ra đi. Trong những con mương vẫn ngập tràn nước mưa vào những đợt lụt bất ngờ, không lâu sau có một dòng sông máu chảy xuống từ Đền. Dòng máu than vãn, khóc lóc và nguyền rủa, vì những nạn nhân của nó đã không dễ dàng từ bỏ mạng sống của mình. Bọn lính tàn sát những người nổi loạn trước tiên, sau đó giết chóc bừa bãi. Bất cứ ai kém may mắn tình cờ lỡ bước ngang qua đều rơi vào lưới của chúng. Nhiều người bị chia tách khỏi gia đình, bị giải đi trên đường phố. Rồi đến buổi tối được biết tới như Tai họa trút xuống Sự Vô Tội. Bất cứ ảo tưởng nào cho rằng những lời cầu nguyện của chúng tôi rồi sẽ được đáp lại đều tan biến, có bao nhiêu người trong chúng tôi đã đánh mất đức tin của mình vào buổi tối này? Có bao nhiêu người đã quay lưng lại với những gì dân tộc tôi đã luôn hằng tin? Một cậu bé mười tuổi đã bị xiềng bằng xiềng sắt, sau đó bị đóng đinh lên cây thập tự vì cậu đã không chịu cúi đầu trước bọn lính. Cậu bé bị điếc và thậm chí còn không nghe thấy lời ra lệnh, nhưng giờ chẳng còn ai bận tâm tới những chuyện như thế nữa. Một thế giới của hận thù đã bao phủ lên chúng tôi. Tội lỗi gây ra cái chết của cậu bé hiện lên như một đám mây, hiển nhiên với tất cả chúng tôi. Sau đó, hai mươi nghìn người hoảng loạn trên các con phố, giẫm đạp lên nhau trong một cơn lốc kinh hoàng, vứt bỏ sự tự tôn của bản thân trong lúc chen nhau đổ dồn ra đường. Cho đến khi trời hửng sáng, gần như tất cả đã rời bỏ Jerusalem. •§• Về phần tôi, thế giới của tôi đã chấm dứt từ trước khi ngôi Đền bắt đầu bốc cháy, từ trước khi bụi đá rơi xuống phủ đầy các con hẻm. Từ rất lâu trước khi Đền sụp đổ, tôi đã đánh mất niềm tin của mình. Tôi chẳng là gì cả với bố tôi, bị ông bỏ rơi từ khoảnh khắc chào đời. Đáng ra có thể tôi đã bị bỏ bẵng hoàn toàn, nhưng gia đình mẹ tôi đã khăng khăng yêu cầu thuê một vú em. Một cô hầu gái trẻ từ Alexandria tới để chăm sóc tôi, nhưng khi cô hát ru, bố tôi, Yosef Bar Elhanan đáng sợ, buộc cô phải im lặng. Khi cô cho tôi ăn, ông khăng khăng là tôi đã ăn đủ no. Tôi mới chỉ chập chững biết đi khi bố kéo tôi ra một bên, nói cho tôi biết sự thật về ngày tôi ra đời. Tôi khóc lóc khám phá ra những hoàn cảnh đó và đón nhận lấy gánh nặng về khoảnh khắc chào đời của mình. Tên tôi là Yael, và đó là thứ đầu tiên về bản thân tôi học cách căm ghét. Đó cũng chính là tên mẹ tôi. Mỗi lần được nhắc đến, nó chỉ làm bố tôi nhớ lại rằng việc tôi có mặt trên thế gian này đã cướp đi của ông người vợ. - Cái gì đã tạo ra mày vậy? - Ông cay nghiệt hỏi. Tôi không có câu trả lời, nhưng tôi nhìn thấy chính mình được phản chiếu trong mắt ông. Tôi là một kẻ sát nhân, đáng phải nhận sự khinh bỉ và cơn giận dữ của ông. Cô gái được thuê chăm sóc tôi chẳng bao lâu sau cũng bị đuổi đi, mang theo cùng cô mọi niềm an ủi, mọi sự khuây khỏa. Tôi biết điều gì chờ đợi mình sau khi cô ra đi, cuộc sống cằn cỗi của một đứa trẻ không có mẹ. Tôi khóc nức nở, bám lấy váy cô vào ngày cô rời khỏi chúng tôi, tuyệt vọng muốn níu kéo vòng tay ấm áp của cô. Anh trai tôi, Amram, bảo tôi không được khóc; chúng tôi đã có nhau. Cô hầu gái cho tôi một quả lựu lấy may trước khi nhẹ nhàng gỡ váy mình khỏi bàn tay tôi đang níu chặt. Với tôi, cô ở tầm tuổi của một người chị gái, nhưng cô đã giống như một người mẹ và đã dành cho tôi sự âu yếm duy nhất tôi từng biết đến. Tôi đưa lại quả lựu được tặng cho anh trai, vì từ trước tôi đã quyết định luôn đặt anh lên đầu tiên. Nhưng đó không phải là lý do duy nhất. Bụng tôi đã ứ đầy buồn bã muộn phiền rồi. •§• Khi lớn lên, tôi ít nói và luôn cư xử ngoan ngoãn. Tôi không đòi hỏi gì, và đó chính xác là những gì tôi nhận được. Nếu tôi thông minh, tôi cố không để lộ điều đó ra. Nếu tôi bị thương, chỉ mình tôi biết về vết thương đó. Tôi luôn quay đi bất cứ khi nào nhìn thấy những đứa bé gái khác cùng bố chúng, vì bố tôi không muốn ai nhìn thấy ông ở cạnh tôi. Ông không nói với tôi, không ôm tôi vào lòng, ông chỉ quan tâm tới anh trai tôi, tình yêu ông dành cho Amram luôn hiện hữu mọi lúc mọi nơi. Vào bữa tối, họ ngồi cùng nhau trong khi tôi bị bỏ mặc ngoài sảnh, nơi tôi ngủ. Có những con bọ cạp ẩn náu trong các ngóc ngách, chẳng bao lâu chúng đã trở nên quen thuộc với tôi. Tôi quan sát chúng, sợ chúng nhưng cũng ngưỡng mộ cách chúng nằm đợi con mồi trên những tảng đá mát mẻ mà không bao giờ để lộ mình. Tôi giữ kín cảm giác tủi hổ sâu bên trong mình, cũng giống như cách bọ cạp giấu kín sự thèm muốn của chúng, về mặt này, chúng tôi thật giống nhau. Nói gì thì nói, tôi vẫn là con người. Tôi thèm muốn có một lọn tóc của mẹ để có thể biết màu sắc của nó. Ở trong gian sảnh đó tôi vẫn thường khóc vì thèm được an ủi trong vòng tay bà. - Mày nghĩ rằng tao cảm thấy thương xót mày chắc? Bố tôi hỏi một ngày nọ, khi ông đã chịu đựng quá đủ tiếng khóc lóc của tôi. - Có lẽ mày đã giết chết bà ấy vì cái trò nức nở đó. Mày đã gây ra một cơn lũ và nhận chìm bà ấy từ bên trong. Trước đó tôi chưa bao giờ bật lại, nhưng lúc ấy tôi đã vùng dậy. Ý nghĩ có thể tôi đã nhận chìm mẹ bằng chính nước mắt mình thật quá sức chịu đựng. Lồng ngực và cổ họng tôi cháy bỏng. Vào khoảnh khắc đó, tôi không còn bận tâm tới chuyện người đàn ông trước mặt tôi là Yosef Bar Elhanan, còn tôi chẳng là gì cả. - Con không phải là người có lỗi, - tôi tuyên bố. Tôi nhìn thấy một biểu hiện lạ lùng thoáng hiện trên khuôn mặt bố. Ông lùi lại một bước. - Có phải mày đang nói chính tao là nguyên nhân không? Ông hỏi, giơ hai bàn tay lên như thể để bảo vệ bản thân khỏi một lời nguyền rủa. Tôi không trả lời, nhưng sau khi ông đùng đùng bỏ đi, tôi nhận ra quả thực chúng tôi có gì đó tương đồng, nhiều hơn so với giữa bọ cạp và tôi, cho dù bố chưa bao giờ nói với tôi hay gọi tôi bằng tên. Chúng tôi đã cùng nhau giết chết mẹ tôi. Ấy vậy nhưng ông lại muốn tôi gánh lấy tội lỗi một mình. Nếu đó là điều ông muốn, vậy thì tôi sẽ đón lấy tấm áo choàng tội lỗi, vì tôi là một đứa con gái ngoan ngoãn. Nhưng tôi sẽ không khóc nữa. Không gì có thể khiến tôi phá vỡ lời thề này. Khi một con ong bắp cày đốt tôi và một vết sưng đỏ tấy lên trên cánh tay, tôi ra lệnh cho bản thân im lặng và không được cảm nhận sự đau đớn nó gây ra. Anh trai tôi chạy tới để chắc chắn tôi không bị tổn hại gì. Anh gọi tôi bằng cái tên bí mật anh đã đặt cho tôi khi cả hai anh em còn nhỏ xíu, Yaya. Tôi rất thích nghe anh gọi tôi như thế, vì cái tên âu yếm này nhắc tôi nhớ lại những lời hát ru của người vú em và một thời đã qua, trước khi tôi biết mình đã đem tới sự hủy diệt trong gia đình. Tôi đau buốt như phải bỏng vì vết đốt của con ong bắp cày nhưng vẫn quả quyết mình không sao cả. Khi nhìn lên, tôi thấy nước mắt lấp lánh trong đôi mắt Amram. Bất cứ ai hẳn cũng sẽ nghĩ anh tôi mới là người bị thương. Anh cảm nhận được đau đớn dễ dàng hơn tôi, và nhạy cảm hơn tôi rất nhiều. Đôi khi tôi hát cho anh nghe khi anh không ngủ được, hát lại những bài hát ru tới từ Alexandria mà tôi còn nhớ, như thể trước đây tôi từng có một cuộc sống khác. •§• Suốt quãng thời gian lớn lên, tôi luôn tự hỏi sẽ thế nào nếu có một người cha không quay mặt đi khi nhìn thấy tôi, một người cha nói rằng tôi xinh đẹp, cho dù mái tóc của tôi có rực cháy một màu đỏ lạ lùng và làn da tôi lấm tấm những vết đốm màu nâu đất như thể bùn đã vấy lên tấm thân tôi. Tôi nghe thấy bố nói với một người đàn ông khác rằng những đốm lấm tấm ấy là vết máu của mẹ tôi. Sau đó, tôi đã cố cậy chúng ra bằng ngón tay của mình, cào đến bật máu từ chính da thịt mình, nhưng Amram đã ngăn tôi lại khi anh phát hiện ra những vết sẹo đỏ tấy trên cánh tay và chân tôi. Anh cam đoan với tôi rằng những vết lấm tấm đó là những nhúm tro từ các ngôi sao trên bầu trời rơi xuống. Vì thế tôi sẽ luôn tỏa sáng trong bóng tối. Anh sẽ luôn có thể tìm thấy tôi, cho dù có phải đi bao xa. Khi trở thành thiếu nữ, tôi đã không có mẹ để bảo ban tôi cần làm gì với thứ máu luôn xuất hiện cùng mặt trăng hay để đưa tôi tới mikvah, một nghi lễ tắm rửa đáng ra đã thanh tẩy tôi qua việc nhúng mình chìm ngập hoàn toàn vào sự tinh khiết. Lần đầu tiên ra máu tôi đã nghĩ mình sắp chết, cho tới khi một bà lão hàng xóm thấy tội nghiệp và cho tôi biết sự thật về chu kỳ hàng tháng của những người phụ nữ. Tôi cúi mắt xuống trong lúc bà nói, ngượng ngùng khi phải nghe một người xa lạ hé lộ cho mình những chi tiết riêng tư như thế, đồng thời không hoàn toàn tin bà, thầm tự hỏi tại sao Chúa của chúng tôi lại bắt tôi phải trở nên không trong sạch. Ngay cả bây giờ, tôi vẫn nghĩ có lẽ tôi đã đúng khi run rẩy sợ hãi vào ngày đầu tiên có kinh nguyệt, có lẽ trở thành thiếu nữ là điểm kết thúc với tôi, vì tôi đã được sinh ra trong máu và xứng đáng bị mang đi khỏi cuộc sống theo cách tương tự. Tôi không mấy bận tâm tới chuyện dùng phấn đen kẻ viền quanh mắt hay xoa dầu hạt lựu lên hai cổ tay. Đong đưa làm dáng không phải là việc tôi hay làm, và tôi cũng không nghĩ mình hấp dẫn. Tôi không ướp thơm cho mái tóc, mà búi gọn lại sau gáy, rồi trùm kín đầu bằng một chiếc khăn san làm từ thứ chất liệu xoàng xĩnh nhất tôi có thể tìm thấy. Bố chỉ nói với tôi khi ông gọi tôi mang đồ ăn đến cho ông, hay mang quần áo của ông đi giặt. Tới lúc ấy, tôi đã bắt đầu hiểu ra những gì ông làm khi lẻn ra khỏi nhà đi gặp người của mình vào ban đêm. Ông thường quàng quanh vai một chiếc áo choàng màu xám nhạt, chiếc áo người ta nói được dệt từ tơ nhện. Tôi đã từng có lần chạm tay vào diềm tấm áo ấy. Nó vừa tàn ác vừa đẹp đẽ, cho phép người mặc ẩn mình. Khi bố tôi ra khỏi nhà, ông biến mất, vì ông có khả năng biến mất ngay cả khi vẫn còn đứng trước mặt bạn. Tôi từng nghe xóm giềng gọi ông là một tay sát thủ. Tôi cau mày và không tin, nhưng càng để ý nhiều hơn tới chuyện đi về của ông, tôi càng hiểu đó là sự thật, ông là thành viên của một nhóm bí mật, những người mang bên mình lưỡi dao cong của các Sicarius[4], các Zealot[5] giấu những lưỡi dao sắc bén dưới áo choàng để trừng phạt những ai không chịu chiến đấu chống lại Roma, nhất là các tu sĩ chấp nhận đồ hiến tế từ binh lính chiến đoàn cũng như ân huệ của bọn chúng tại Đền. Các sát thủ là những người không biết thương xót, ngay cả tôi cũng biết điều đó. Không ai được an toàn trước cơn thịnh nộ của họ; những Zealot khác chối bỏ họ, phản đối những biện pháp tàn nhẫn của họ. Người ta kể rằng các Sicarius đã đẩy cuộc chiến chống lại những người Do Thái chịu cúi đầu trước Roma đi quá xa, và Adonai, vị Chúa vĩ đại của chúng tôi, sẽ không bao giờ tha thứ cho tội giết người, nhất là tàn sát chính những người anh em của mình. Nhưng dân tộc Do Thái là những huynh đệ bị chia rẽ, vốn đã xung đột với nhau trên thực tế, nếu không phải trong những lời cầu nguyện. Những người thuộc về nhóm các Sicarius cười nhạo trước ý tưởng Chúa mong muốn bất cứ điều gì ngoài tự do cho tất cả mọi người, cái giá phải trả không quan trọng. Mục đích của họ là một người cai trị duy nhất, không hoàng đế, không vua, chỉ có vị Vua của Sáng Thế. Chỉ mình Người được cai trị khi họ đã hoàn tất sứ mệnh của mình trên thế gian này. Bố tôi đã làm sát thủ lâu đến mức số người ông giết cũng giống như lá trên cây liễu, nhiều không đếm xuể. Bởi vì ông sở hữu một tuyệt kỹ hiếm người có được, và tuyên bố mình có khả năng tàng hình, ông có thể lẻn vào phòng như một cái bóng, kết liễu kẻ thù thậm chí trước khi nạn nhân kịp nhận ra một cửa sổ đã bị mở hay một cánh cửa chính đã khép lại. Trong nỗi đau khổ của tôi, anh trai tôi đã theo bước bố chúng tôi ngay khi anh đủ lớn để trở thành một môn đệ của báo thù. Amram dễ bị cuốn theo con đường bạo lực của họ đến mức nguy hiểm, vì với sự trong sáng của mình, anh nhìn thế giới chỉ gồm tốt hoặc xấu, không hề có khoảng không gian tranh tối tranh sáng nào ở giữa. Tôi thường lén theo dõi họ túm tụm lại cùng nhau, bố thì thầm vào tai Amram, dạy anh những nguyên tắc của nghề sát thủ. Một ngày nọ, trong lúc thu nhặt áo tunic[6] và áo choàng của Amram để mang ra giếng giặt, tôi tìm thấy một con dao găm, lưỡi dao dính một vệt đỏ sẫm. Hẳn tôi đã òa khóc nếu có thể, nhưng tôi đã thề từ bỏ những giọt nước mắt. Tôi sẽ không nhấn chìm thêm một người khác như tôi đã nhấn chìm chính mẹ mình, từ bên trong. Dẫu vậy, tôi vẫn đi tìm Amram, và tìm thấy anh ở ngoài chợ cùng đám bạn của anh. Thường hiếm khi có thể thấy phụ nữ đi một mình giữa những người đàn ông tìm tới các con hẻm chật hẹp này; những người không còn lựa chọn nào, phải ra đường một mình, thường hối hả tìm đến Phố Hàng Bánh hay tới những sạp hàng bày bán đồ gốm và bình làm từ đất sét của Jerusalem, rồi sau đó nhanh chóng quay về nhà cũng hối hả như thế. Tôi đeo mạng che mặt và khoác áo choàng quấn sát quanh người. Ở chợ có các zonnoth, những người phụ nữ bán thân mua vui cho đàn ông và không che kín cánh tay hay mái tóc của mình. Một ả giễu cợt tôi khi tôi chạy ngang qua, khuôn mặt sưng sỉa vỡ ra thành một nụ cười toe toét trong lúc ả săm soi nhìn tôi vội vã lao vụt qua con hẻm. - Mày nghĩ mày khác chúng tao chắc? - Ả gọi với theo. - Mày cũng chỉ là một con đàn bà, như chúng tao cả thôi. Tôi kéo Amram rời khỏi đám bạn, hai anh em đứng với nhau dưới một cây phượng vĩ. Những bông hoa đỏ chói tỏa ra mùi của lửa, và tôi nghĩ đây là một điềm báo rằng anh trai tôi rồi sẽ nếm trải ngọn lửa. Tôi lo lắng về những gì sẽ xảy đến với anh khi đêm xuống và các Sicarius tập hợp lại dưới những cây tuyết tùng, nơi họ bàn tính kế hoạch. Tôi cầu xin anh hãy từ bỏ con đường bạo lực anh đã dấn bước vào, nhưng anh trai tôi, một chàng trai trẻ tuổi, đang sôi sục nhiệt huyết cho báo thù và cho một trật tự mới, nơi tất cả mọi người đều bình đẳng. - Anh không thể nhìn nhận lại niềm tin của mình, Yaya. - Vậy hãy nghĩ tới cuộc đời anh, - tôi trả lời. Để bỡn cợt tôi, Amram kêu cục cục như một con gà mái, khệnh khạng bước đi, thân hình mảnh dẻ, mạnh mẽ của anh cúi về trước trong lúc anh vẫy vẫy đôi cánh tưởng tượng. - Không lẽ em muốn anh ngồi yên ở nhà như trong chuồng gà, để em nhốt anh lại và yên tâm rằng anh an toàn sao? Tôi bật cười bất chấp những nỗi sợ hãi của mình. Anh trai tôi thật can đảm và đẹp đẽ. Bố tôi yêu quý anh thì cũng chẳng có gì lạ. Anh có mái tóc ánh vàng, đôi mắt sẫm màu nhưng lấp lánh ánh sáng. Giờ đây tôi nhận ra đứa trẻ tôi từng chăm chút như một bà mẹ đã trở thành một người đàn ông, một người hoàn toàn trong sáng trong những ý định của mình. Tôi chẳng thể làm gì nhiều hơn ngoài phản đối con đường anh đã chọn. Dẫu vậy, tôi đã quyết sẽ hành động vì anh. Khi Amram quay trở lại với đám bạn, tôi tiếp tục băng qua chợ, đi sâu vào giữa những con phố ngoằn ngoèo khuất khúc, và cuối cùng rẽ vào một hẻm được lát bằng những viên gạch màu nâu xám bụi bặm. Tôi nghe nói có thể mua được vận may ở gần nơi này. Có một cửa hiệu bí hiểm mà những người phụ nữ sống quanh nhà tôi thường thì thầm nhắc đến. Họ thường ngừng bàn tán khi tôi đến gần, song tôi đã tò mò và nghe lén được rằng nếu một người đi theo hình vẽ nguệch ngoạc một con mắt bên trong vòng tròn, cô ta sẽ được dẫn tới một nơi của các phương thuốc và những loại bùa chú. Tôi đi theo lối của con mắt cho đến khi tới ngôi nhà của keshaphim, một dòng ma thuật do phụ nữ thực hiện, luôn thu nhận những tín đồ bí mật. Khi tôi gõ cửa, một bà lão bước ra quan sát tôi. Khó chịu trước sự hiện diện của tôi, bà lão hỏi tôi tới vì lý do gì. Vừa thấy tôi do dự, bà lão toan đóng cửa lại trước mặt tôi, vừa đóng vừa lẩm bẩm cằn nhằn. ẳ - Ta không có thời gian cho một người chẳng biết mình muốn cái gì, - bà lão thì thầm. - Bảo vệ anh trai tôi. Tôi cố gắng nói ra đến đó, trong lúc quá mất bình tĩnh để dám hé lộ nhiều hơn. Tại Đền có pháp thuật của các tu sĩ, những vị thánh nhân được xức dầu thánh trong lễ cầu nguyện, được lựa chọn để tiến hành các lễ hiến sinh và thực hiện các phép màu, làm lễ trừ tà, xua đuổi cái ác vẫn hay ám vào con người. Trên các con phố có phép thuật của minim, những người bị các tu sĩ coi thường, bị một số người gọi là những kẻ bịp bợm và mạo danh, song vẫn được rất nhiều người khác tôn trọng. Tuy nhiên, những ngôi nhà của keshaphim bị coi là nơi thực hiện thứ phép thuật xấu xa nhất, là thứ việc làm của đàn bà, ma quỷ, đầy cừu hận, được thực hành bởi những kẻ bị tố cáo là phù thủy. Nhưng vị min ếm những lời nguyền và làm bùa chú sẽ chẳng bao giờ nói chuyện với một cô gái như tôi nếu tôi không có bạc trong tay để trả công và không có bố hay anh trai để tiến dẫn tôi. Và nếu tôi tìm tới các tu sĩ xin một tấm bùa hộ mệnh, hẳn họ cũng sẽ từ chối, vì tôi là con gái của một kẻ chống lại họ. Thậm chí tôi cũng biết mình không xứng được hưởng ân huệ từ họ. Căn phòng sau lưng bà lão không được thắp sáng, nhưng tôi lờ mờ nhìn thấy những bó cây cỏ được treo từ trên trần xuống bằng dây thừng. Tôi nhận ra cửu lý hương, sim và những quả khô của cây táo quỷ, và thứ được gọi là yavrucha, một loại cỏ có cả công dụng kích dục và trừ tà, rất độc và mạnh mẽ. Tôi nghĩ mình đã nghe thấy tiếng kêu của một con dê, loài vật mà người ta vẫn kể các phù thủy hay nuôi, vọng ra từ trong căn phòng tối mờ mờ. - Trước khi làm mất thời gian của ta, cô có đủ shekel[7] để mua sự bảo vệ không? - Bà lão hỏi. Tôi lắc đầu. Tôi không có tiền, nhưng có mang theo mình một cái gương soi cầm tay quý giá. Nó là của mẹ tôi, được chế tác đẹp đẽ bằng đồng thau khảm bạc và vàng, cẩn một viền đá xanh sẫm. Đó là thứ duy nhất có giá trị tôi sở hữu. Bà lão ngắm nghía chiếc gương, rồi sau khi đã hài lòng, cầm lấy món lễ vật của tôi và đi vào trong nhà. Sau khi bà ta đóng cửa lại, tôi nghe thấy tiếng lạch cạch của một cái khóa. Trong giây lát, tôi thầm tự hỏi liệu có phải bà ta đã biến mất vĩnh viễn, và có lẽ tôi sẽ không bao giờ thấy bà ta hay cái gương của tôi nữa, nhưng bà lão lại quay trở ra và bảo tôi xòe bàn tay ra. - Cô chắc chắn không muốn tấm bùa này cho bản thân mình chứ? Bà ta cẩn thận gặng hỏi, nhắc đi nhắc lại chỉ có duy nhất một thứ như nó trên đời. - Có thể cô sẽ cần được bảo vệ trong cuộc đời này. Tôi lắc đầu, và khi làm vậy, tấm mạng che bằng vải trơn của tôi rơi xuống. Nhìn thấy màu đỏ rực trên mái tóc tôi, bà lão bật lùi ra xa như thể vừa trông thấy ác quỷ hiện hình trước cửa nhà mình. - Cô không muốn nó cũng phải, - bà ta nói. - Nó sẽ không công hiệu với cô. Cô cần một tấm bùa mạnh hơn nhiều. Tôi chộp lấy tấm bùa, hối hả muốn rời đi. Tôi chợt sững lại khi bà lão bảo tôi hãy đợi đã. - Cô không hỏi tại sao ư? - Bà lão ra hiệu cho tôi, muốn tôi quay lại, nhưng tôi từ chối. - Cô không muốn biết tôi nhìn thấy gì cho cô sao, em gái? Tôi có thể cho cô hay tương lai của cô ra sao. - Tôi biết tôi là cái gì. Tôi là đứa trẻ sinh ra từ một người đàn bà đã chết, kẻ không thể chịu đựng nổi khi phải nhìn vào chính khuôn mặt mình. Tôi mừng vô hạn khi có thể tống khứ được cái gương đó đi. Tôi không cần bà nói gì với tôi. Tôi đáp lại bà phù thủy trong con hẻm. Tôi trở về nhà, đưa món quà cho anh trai tôi; đó là một cái bùa mỏng mảnh bằng bạc để đeo quanh cổ, một mề đay khắc hình Solomon chiến đấu với con quỷ đang quỳ phục dưới đất trước mặt ông. Ở mặt sau tấm bùa, dòng chữ Dấu ấn của Chúa được viết bằng chữ Hy Lạp cùng biểu tượng chiếc chìa khóa, ngụ ý tới chìa khóa Moses[8] sở hữu cho phép mở khóa sự bảo vệ của Chúa. Cũng như thế, tấm bùa này sẽ bảo vệ anh trai tôi trong tương lai đẫm máu anh dấn thân vào. Amram rất thích thú với món quà. Anh nói tôi có khả năng hiểu được suy nghĩ trong đầu anh, vì anh đã cầu nguyện xin sự chỉ dẫn và thông thái, một phần nhỏ nhất của những gì Chúa từng ban cho Solomon. Tôi giữ kín không cho anh hay chính bà phù thủy là người biết khao khát của anh, chứ không phải tôi. Những con ác quỷ, anh tôi cam kết, sẽ không bao giờ được chiến thắng. Đó là sứ mệnh của các Sicarius, và họ sẽ không thất bại. Anh trai tôi mở rộng trái tim mình, và khi anh nói, tôi tin vào anh. Amram luôn có cách thuyết phục người nghe chấp nhận thế giới quan của anh, làm cho nó trở nên hiện hữu qua mắt anh. Khi tôi ngước mắt nhìn anh, tất cả những gì hiện ra trước mắt tôi là vương quốc Zion và dân tộc tôi, cuối cùng cũng được tự do. Trong một thời gian rất ngắn, anh trai tôi đã vượt trên cả bố trong sứ mệnh tối tăm của họ. Anh là người cừ nhất, không phải vì may mắn mà vì khổ luyện. Anh tôi học các kỹ năng sát thủ từ bố và một người có tên là Jachim Ben Simon, người đã trở thành sư phụ của anh. Người ta kể Ben Simon biết đến cái chết rõ hơn phần lớn người khác và được vị nể vì cách ông ta sử dụng một con dao hai lưỡi làm bằng bạc. Dưới sự chỉ dạy của ông ta, Amram quyết tâm hoàn thiện kỹ năng của mình, để vươn lên trên tất cả những người khác. Anh trai tôi rất tận tụy, luyện tập với sự chuyên cần của một bậc thầy lành nghề. Nhưng cùng với quá trình đó, thái độ và tính khí anh cũng thay đổi trước mắt tôi. Tôi quan sát cậu thiếu niên tôi từng biết dần biến mất, thay vào đó là một sát thủ lạnh lùng, không biết sợ. Từ bố chúng tôi, anh học được cách lướt đi trong màn đêm không bị phát hiện, leo lên những tòa tháp chỉ với một cuộn thừng quấn quanh hông. Anh tập giữ im lặng, không nói gì suốt nhiều ngày liền, đứng im lìm bất động tới mức lũ chuột trong vườn nhà chúng tôi cũng không phát hiện ra anh. Anh đi chân đất để đảm bảo không phát ra tiếng động khi lại gần ai, chỉ có sự bất thần của lưỡi dao, được Ben Simon dạy dỗ, và thậm chí còn được bản chất khéo léo của chính Amram nâng cao lên một bậc. Chẳng bao lâu sau, anh tôi được lựa chọn cho những nhiệm vụ nguy hiểm nhất, tất cả đều mang theo hơi thở lạnh buốt của cái chết. Cho dù không có chiếc áo choàng tàng hình, năng khiếu xuất chúng của anh tôi là khả năng ngụy trang bản thân. Anh ăn mặc như một tu sĩ hay một kẻ nghèo khó, giấu mình dưới những bộ trang phục đi mượn, tìm được cách tiếp cận bất cứ ai bị coi là kẻ phản bội. Anh có thể dùng than củi làm cho mình trở nên già nua, khuôn mặt biến đổi hoàn toàn dưới những nếp nhăn, hay trông chỉ như một cậu thiếu niên, đôi mắt sáng long lanh. Người ta thì thầm với nhau anh là kẻ bất khả chiến bại, và không bao lâu đã có những lời đồn về tấm bùa của Solomon trên cổ anh tôi, giúp bảo vệ anh khỏi bất trắc. Bạn bè ngưỡng mộ, gọi anh là Hol, tên của phượng hoàng. Họ thề rằng anh tôi giống hệt loài chim thần thoại tái sinh từ lửa và tro tàn[9]; anh đã thoát khỏi mọi mưu toan của nhà cầm quyền nhằm bắt và giết anh. Vì bố và anh trai tôi nên những người khác sợ nói chuyện với tôi. Hành động của các Sicarius luôn bí ẩn, song có những bí mật ai cũng biết, nhất là tại Jerusalem. Ngoài đường, người ta chỉ trỏ về phía những người đàn ông của gia đình tôi, thì thào về họ, vừa e dè vừa khinh miệt. Chẳng lạ khi không ai muốn lấy tôi làm vợ, kể cả gã thô bỉ vẫn dắt lừa ra chợ. Tôi là thiếu nữ, nhưng bị đối xử như một kẻ hành khất, bị miệt thị, danh tiếng bị hoen ố. Chỉ khi đám đàn ông nhìn thấy màu sắc lạ thường của mái tóc tôi, tôi mới nhận thấy vẻ tò mò, và nhiều khi cả sự thèm muốn của bọn họ. Cái nhìn của họ dâm đãng đến mức khiến tôi bối rối, chúng quá lộ liễu ngay cả với một người chưa có kinh nghiệm gì như tôi. Tôi biết tôi sẽ len lỏi vào giấc mơ của họ khi họ không thể kiểm soát được thứ mình thèm muốn. Nhưng một giấc mơ hoàn toàn vô giá trị trên đời này. Sự thèm muốn của họ có thể đem đến điều gì tốt đẹp cho tôi? Dưới ánh sáng ban ngàỵ, họ dửng dưng đi ngang qua. Tôi muốn hét lớn lên với tất cả những người đàn ông đi ngang qua. Hãy mang tôi đi! Hãy cứu tôi khỏi những gì đã xảy ra, khỏi cột đá muối đắng ngắt tôi đã biến thành, khỏi tội ác tôi gây ra trước lúc chào đời, khỏi những người đàn ông trong nhà tôi, những người ẩn nấp ngoài Đền chỉ để tìm kiếm báo thù. Hãy mang tôi lên giường của các người, tới nhà, tới thành phố của các người. Tôi bỏ mạng che mặt ra ở những chỗ đông người. Tôi không còn bận tâm búi tóc lại mà mặc cho nó tỏa sáng chói chang để được giải thoát khỏi cảnh cô đơn của mình. Song họ vẫn ngoảnh mặt đi, không thể nhìn tôi, vì tôi chỉ như một luồng không khí đỏ chói lướt qua bên cạnh họ, vô hình trong mắt họ. Không bao lâu sau, những tờ cáo thị mang hình vẽ giống anh trai tôi xuất hiện trên các bức tường. Người Roma treo thưởng cho người cung cấp thông tin, thưởng nhiều hơn nữa nếu anh tôi bị bắt, và thậm chí còn nhiều hơn thế nếu anh tôi bị kết tội và đóng đinh trên thập tự vì những tội ác của mình. Amram không về nhà nữa, thay vào đó, anh đành chấp nhận lẩn lút quanh thành phố trong đêm; anh thuộc về những giấc mơ nhiều hơn đời sống thường nhật của chúng tôi. Chỉ còn lại bố và tôi ở nhà. Dù không nói chuyện với nhau, cả hai chúng tôi cùng nhìn ra màn đêm khi nó bắt đầu buông xuống. Chúng tôi biết Amram ở ngoài đó. Một lần nữa, chúng tôi lại cùng chia sẻ một thứ. Chúng tôi không thể nghe nói tới một vụ bắt bớ mà không cau mày. Chúng tôi trao đổi với nhau những tia cảm xúc chân thành mỗi lần có tiếng lạch cạch ngoài cửa. Nhưng chẳng bao giờ là anh trai tôi, chỉ là gió thổi. Vào một buổi tối khủng khiếp, ngoài cửa không phải là gió nữa mà là tiếng động của một toán lính. Bố tôi nhún vai khi tên Amram được nhắc đến; ông một mực khăng khăng mình không có con trai, số phận không may đã chỉ cho ông duy nhất một đứa con, một đứa con gái vô dụng. Khi ngay cả bạn bè Amram, những người từng ca ngợi anh là phượng hoàng bất khuất, cũng không dám giúp đỡ, Amram biết anh không còn đất sống ở Jerusalem. Anh trai tôi không còn lựa chọn nào ngoài bỏ trốn, có những pháo đài ngoài sa mạc do dân tộc chúng tôi kiểm soát. Nếu anh tôi có thể tới được một nơi như thế, có lẽ anh sẽ được an toàn. Trước khi đi, anh mạo hiểm quay về nhà để chào tạm biệt. Anh và bố tôi ôm chầm lấy nhau, rồi Amram vẫy tôi ra bên. Anh mang theo món quà chia tay. Một chiếc khăn quàng màu xanh. Nó quá đẹp với tôi, hơn quá nhiều những gì tôi xứng đáng, song anh vẫn khăng khăng ép tôi phải nhận. - Có những con sâu sống trọn đời chỉ để tạo ra những sợi tơ như thế, vậy mà giờ em từ chối trân trọng sứ mệnh của chúng sao? - Không có con sâu nào làm ra vật này cả. Tôi bật cười khi nghĩ thứ vải thần tiên này lại do những con sâu tạo ra. Nó đối lập hoàn toàn với chiếc áo choàng tơ nhện của bố tôi, được làm từ loại vải nhạt màu tới mức gần như hòa lẫn vào không khí. Thứ lụa xanh này tự nói lên sự hiện diện của nó bằng một màu lấp lánh đẹp đến ngỡ ngàng. Amram thề đó là sự thật, đồng thời quả quyết khi lũ sâu tạo ra chất lụa của chúng trên những cây dâu, chúng đã làm tất cả vì tôi, cũng như anh vậy. Tới lúc hoàn thành nhiệm vụ, mỗi con sâu đều biến thành một cánh bướm màu xanh, bay lên thiên đường khi đã kết thúc sứ mệnh dưới trần gian. Tôi trùm chiếc khăn lên mái tóc mình. Tôi luôn nghĩ tới thiên đường mỗi khi quàng nó, và tới cả anh trai tôi, một người thật kiên định với niềm tin của mình. Tôi đứng bên cửa nhà, nhớ lại anh từng nói những chấm lốm đốm trên da tôi giống những vì sao. Cũng như các vì sao, chúng sẽ dẫn đường để anh tìm lại tôi. Chỉ còn lại rất ít người trong thành phố. Chúng tôi thận trọng luồn lách qua những đống đổ nát, lo sợ cho tính mạng của mình. Đêm đến, chúng tôi nghe thấy tiếng kêu gào của những người bị lôi tới Đền, bị rơi vào tay đám lính luôn rình mò trong các con hẻm, lùng sục bất cứ ai thuộc về đức tin của chúng tôi. Đám lính chiến đoàn uống rượu ngải đắng, một thứ đồ uống nguy hiểm, gần như chết người, làm chúng say mèm và trở nên tàn bạo. Không phụ nữ nào được an toàn. Không ai đảm bảo được tính mạng của chính mình. Những ai có thể đều đã chạy trốn tới Alexandria hay Cyprus, nhưng bố vẫn khăng khăng muốn chúng tôi ở lại. Ông có nhiều việc cần làm hơn, và công việc đó chính là con dao ông mang theo người. Đến đúng lúc, Jerusalem sẽ bừng tỉnh, và giống như một con sư tử, nó sẽ giải phóng bản thân khỏi ách nô lệ. Răng nanh và móng vuốt, tôi nghe ông nói, đó là những gì tương lai của chúng ta sẽ mang tới. Nhưng tôi biết ý ông thực sự muốn nói tới thịt và xương. Từ những giấc mơ của mình, tôi biết đối diện với một con sư tử có nghĩa là gì. •§• Khói bốc lên từ các đám cháy khắp nơi trong thành phố, và màn khói tối tăm trở thành tấm màn che cho phép chúng tôi thoát khỏi những tên lính đi cướp bóc. Tôi có thể ngửi thấy mùi gỗ ô liu, mùi liễu cháy. Những đống tro tàn cháy xém bắt lửa sang các mái nhà lợp lá cọ và những đống cỏ khô. Nằm trên tấm ván nơi tôi ngủ trong ngôi nhà bé nhỏ của mình, tôi trùm kín đầu, ước gì được sống ở một không gian khác, vào một thời gian khác. Tôi ước gì mình không bao giờ có mặt trên đời. Một buổi chiều, khi tôi đang ở ngoài chợ lục tìm trong sọt hàng gần như trống rỗng của những người bán đậu, cố mua gì đó cho bữa ăn đạm bạc của hai bố con, lính Roma đã xông vào nhà chúng tôi. Tôi đứng quan sát, nấp trong khoảnh sân bỏ hoang bên hàng xóm, vì nhà họ đã bị đốt trụi mấy tháng trước. Bọn lính lục lọi cướp phá trước khi đốt trụi nó đến tận nền, mọi đồ đạc của chúng tôi vương vãi tung tóe giữa đống tro tàn. Đốm tàn lửa bắn lên như những con sâu trắng, nhưng khi rơi xuống đất, chúng âm ỉ cháy đỏ sáng lên, như những cánh hoa phượng vĩ. Nếu trước đó vốn đã chẳng có gì nhiều, giờ tôi gần như hoàn toàn trắng tay. Tôi bước qua đống đổ nát, chỉ nhặt lấy những gì có thể cầm được bằng hai bàn tay, cái vỉ nhỏ để làm bánh mì dẹt, cây đèn bằng đất sét trắng Jerusalem dùng để đốt dầu vào lễ Sabbath, chiếc khăn choàng cầu nguyện của bố tôi, bị cháy xém bốn góc, túi da đựng nước của ông, một gói muối chắc sẽ khét lẹt mùi khói khi dùng để nấu ăn. Tôi nấp sau một bức tường đợi bố. Da tôi dính đầy bụi, tro vương đầy trên tóc. Nếu bố không quay về, nếu ông đã bị sát hại hay bỏ trốn mà không nói gì với tôi, tôi nghĩ chắc mình sẽ ở lại sau bức tường, mọc rễ ở đó như một cây phượng vĩ. Cuối cùng bố tôi xuất hiện, lén lút quay về trong bóng tối nhập nhoạng, khoác chiếc áo choàng cho phép ông đi lại mà không bị bắt giữ. Khi thấy chiếc khăn cầu nguyện trong tay tôi, ông biết đã tới lúc phải trốn chạy. Tôi tự hỏi liệu ông có bỏ mặc tôi ở đó, buộc tôi phải trở thành một ả ăn mày như tôi vẫn sợ mình sẽ trở thành, đi moi móc trong rác rưởi. Nhưng ông ra hiệu bảo tôi đi theo giống như một người khác ra hiệu cho con chó. Tôi quyết định làm theo và chậm chạp lê bước theo sau ông. Có lẽ nói cho cùng quan hệ huyết thống giữa chúng tôi vẫn có ý nghĩa ít nhiều với ông, hoặc có thể ông mang theo vì sợ mẹ tôi ở Thế Giới Bên Kia có thể đáp trả thế nào nếu ông bỏ tôi lại ngoài đường. Hoặc có thể chỉ đơn giản bố tôi nhớ chính ông đã làm mẹ tôi có thai, và tôi đã đúng khi coi ông là tòng phạm trong tội lỗi của mình. Nếu nước mắt của tôi đã nhận chìm mẹ từ bên trong, thì ông chính là người đã đưa sự sống của tôi vào trong bà. Tối đến, chúng tôi đi từ nhà này sang nhà khác, nài xin được cho vào. Ngày càng có ít người thuộc dân tộc chúng tôi trong thành phố hơn - họ đã bỏ chạy hoặc ẩn nấp - và khó có thể tìm được ai đó sẵn lòng giúp đỡ. Tôi là một con chó, không hơn, không hỏi gì, không thể nghĩ cho bản thân. Tôi co ro trong bóng tối khi người ta đuổi chúng tôi đi. Thậm chí cả những người tin vào con đường của bố tôi cũng e ngại, không muốn để bản thân gặp bất trắc. Chỉ vài người để cửa mở, nhưng cả họ cũng cẩn thận nhìn đi chỗ khác và không ôm hôn đón chào chúng tôi. Thường chúng tôi phải ngủ trên ổ rơm, lấy làm may mắn vì có được một chỗ qua đêm vốn dành cho lũ dê. Chúng tôi ngủ cùng chuồng với chúng, chập chờn trong tiếng lũ súc vật thở bên tai. Tôi mơ đi mơ lại cùng một giấc mơ. Trong giấc mơ của tôi, có một con sư tử đang ngủ dưới ánh mặt trời mà tôi không dám đánh thức. Một buổi tối, tôi mơ thấy sư tử bị một con rắn nuốt chửng, con rắn ấy ngốn ngấu nuốt hết mọi thứ trên đường đi của nó. Tôi đứng chân trần trong mơ, trên một dải đất lởm chởm đá trắng lóa chói chang tới mức tôi không mở mắt ra được. Tôi thấy đồng cảm với con thú hoang đó, ông vua sa mạc, vì trong giấc mơ của tôi nó đã buông xuôi trước con rắn mà không hề kháng cự. Nó đã nhìn vào tôi, van nài tôi, nhìn chằm chằm vào mắt tôi. Tối hôm ấy bố lay tôi tỉnh dậy. Trong giấc mơ khi đó, bàn chân tôi đang rỉ máu lên các phiến đá. Phía trước tôi, con rắn viper đen của sa mạc đang cuộn tròn, siết chặt thân hình nó quanh con mồi và không chịu buông tha. Nó đã nuốt chửng sư tử, và giờ nó tìm tới tôi. Trong giấc mơ của mình tôi đưa cho con quái vật hạnh nhân và nho, nhưng nó chỉ thích thịt người. Tôi cầu xin nó thả tôi ra khi tôi khóc thương sư tử. Tôi thương cảm con vật này như một người thương cảm cho chính số mệnh của cô ta. Những gì xảy ra đã được tiền định, và sư tử đã được tiền định bên cạnh tên tôi. - Chúng ta cần phải đi và không nhìn lại sau, - bố nói khi đánh thức tôi dậy. Nếu tôi không đủ nhanh nhẹn, hẳn bố sẽ bỏ tôi lại. Tôi không tranh cãi, cho dù tôi cảm thấy gai lạnh trong căn buồng tối tăm đó. Có máu trên áo dài của người sát thủ, và đôi mắt ông đang sáng lên. Có chuyện gì đó đã xảy ra, nhưng tôi không dám hỏi là gì. Tôi đứng lên khỏi ổ rơm, sẵn sàng trong nháy mắt. Tôi nhặt nhạnh những món đồ đã mang theo mình từ nhà này sang nhà khác. Chiếc khăn xanh anh trai tặng tôi, cái vỉ cùng cây đèn tôi nhặt được từ đống tro tàn ngôi nhà của chúng tôi. Bố con tôi rời đi cùng một gia đình khác, gia đình sát thủ Jachim Ben Simon, người đã truyền nghệ cho anh trai tôi, dạy anh cách giết người bằng một con dao cong hai lưỡi. Tay sát thủ này được biết đến như một kẻ khủng khiếp khi tấn công kẻ thù, một cơn cuồng phong chỉ tìm kiếm báo thù. Ông ta đã từng là tu sĩ, con trai cả của một gia đình tu sĩ, trải qua tuổi trẻ trong học hành và cầu nguyện. Nhưng ông ta đã thấy vàng chỉ chui vào túi một số ít người, đã thấy những người nghèo khổ bị chà đạp, bóc lột và đày đọa ra sao. Ông đã thấy chính bố mình đồng ý dâng lễ vật và thực hiện hiến tế nhân danh đám người Roma tại Đền của chúng tôi vào Ngày Chuộc Tội, khăng khăng cho rằng tội lỗi của người Roma có thể được đặt lên ban thờ của chúng tôi và được Chúa của chúng tôi tha thứ. Ông đã cầm lấy lưỡi dao của một Sicarius và trở nên xuất sắc trong công việc của mình, ông thực sự là kẻ nguy hiểm, toàn thân cơ bắp gân guốc. Tôi nhìn cái đầu to, kiêu hãnh của ông và cúi mặt xuống, không muốn liếc nhìn một người đàn ông có thể khiến người khác e sợ đến thế. Vợ ông ta tên là Sia, còn hai con trai nhỏ là Nehimiah và Oren. Tôi nghe thấy tiếng người vợ khóc trong lúc ôm chặt lấy hai đứa con. Gia đình họ cũng chỉ có nhiều hơn chúng tôi một chút, song họ có một con lừa, được dùng để chở vợ Ben Simon và các con ông ta. Tôi đi bộ sau họ, như một đứa con gái bị ruồng bỏ. Kỳ thực, tôi đã quen với việc là kẻ ngoài rìa, và cảm thấy thoải mái hơn khi có một mình. Jachim Ben Simon ngoái đầu lại nhìn một lần và dường như sững sờ, như thể ông ta đã quên khuấy tôi và lúc này bỗng thấy một hồn ma. Trong khi rời khỏi Jerusalem, tôi đã thử tìm cách đoán xem trong chúng tôi ai sẽ phải chết và ai sẽ sống, vì chắc chắn chúng tôi không thể sống sót toàn bộ. Không có sức mạnh, ngay cả hành trình đào thoát của chúng tôi cũng sẽ khó khăn. Đường phố rất hỗn loạn. Tất cả người Do Thái đã bị trục xuất khỏi thành phố, và bất kỳ ai nếu bị bắt sẽ bị hành quyết ngay lập tức. Đó là sắc lệnh mới, và vì vậy cũng chính là luật pháp. Nhiều tu sĩ đã nhảy xuống cống nước thải, hy vọng thoát được khỏi thành phố không bị ai phát hiện. Nhưng bọn họ không thể cầu may dựa vào những mối quan hệ cá nhân được nữa; bọn họ rơi vào vương quốc của chuột cống, và cũng phải vật lộn vì mạng sống của bản thân như chúng tôi. Chúng tôi có thể nghe thấy âm thanh như tiếng gầm rống khi Đền bị phá sập. Hôm đó là Tisha B’Av, ngày thứ chín của tháng, ngày tôi chào đời. Trong những năm sau đó, người ta sẽ thề rằng sáu thiên thần đã từ thiên đường giáng xuống bảo vệ các bức tường của Đền, giúp chúng không bị phá hủy hoàn toàn; người ta thề rằng các thiên thần đã ngồi đó khóc và vẫn còn đang khóc. Người Roma dùng những thanh phá thành nặng hơn một trăm tấn, và phải cần đến hơn một nghìn người kéo chúng ra sau, để rồi có thể thúc chúng lao về phía trước, sau đó giỡ xuống những tảng đá lớn có chạm dấu ấn của Vua Herod[10]. Những sợi dây từng được hàng trăm người kéo lên, một số là người của chính chúng tôi bị bắt làm nô lệ, không ngừng nguyền rủa bản thân về số phận của họ, về tội lỗi tệ hại họ đang gây ra. Đá sẽ trường tồn, nhưng vào tối hôm đó tôi hiểu ra một tảng đá cũng chỉ là một dạng cát bụi. Từng đám mây của chất bụi thiêng liêng vần vũ trong không khí, mỗi hơi thở đều mang theo một chút tàn dư của Đền, vậy là chúng tôi đang hít vào chính thứ vốn được mong chờ trường tồn vĩnh viễn. Thêm lần nữa, những đám lửa được đốt lên, tạo ra một bức màn khói giúp chúng tôi dễ dàng đào tẩu hơn. Chúng tôi biết ơn chúng, bất chấp cái nóng ngột thở. Không khí đặc quánh, xám xịt. Tôi dùng khăn choàng bịt miệng, cố tránh không hít phải tàn tro. Tôi đoán đêm đó bố tôi đã giết một người, và vì thế áo của ông dính máu. Tôi đang nghĩ về chuyện đó khi Sia, vợ Ben Simon, bước tới đi cạnh tôi. Chị ái ngại vì tôi phải theo sau giữa những đám bụi mù mịt. Chị có lẽ hơn tôi mười tuổi, với mái tóc đen dài được tết thành bím. Đôi mắt chị sẫm màu, với những tia sáng vàng. Hẳn chị sẽ rất xinh đẹp nếu không phải là người vợ chung thủy của một sát thủ, bị nỗi sợ hãi làm cho mòn mỏi. Sát thủ không nên kết hôn, khi đó tôi đi tới kết luận ấy, hoặc có con gái, hoặc cho phép ai đó yêu mình. - Em có muốn cưỡi lừa với các con chị một lát không? - Vợ Ben Simon đề nghị. Tôi có thể thấy chị đã mệt nhoài, còn tôi vốn quen đi bộ. Tôi cảm ơn chị và trả lời là không, tôi sẵn sàng theo sau. Tôi hy vọng chị sẽ để tôi một mình. - Chị rất vui có em ở đây, - chị buột miệng. - Phải ra đi như thế này hẳn sẽ khổ sở hơn nhiều nếu không có người phụ nữ nào bên cạnh chị. Tôi liếc mắt nhìn chị, tự hỏi chị muốn gì ở tôi. Chị mỉm cười, nắm lấy tay tôi, và tôi hiểu ra. Chị muốn có một người bạn. Tôi hối thúc chị quay lại với các con trai. Chị nên để tôi đi sau cùng, vì tôi vốn vô hình với phần lớn người khác, thậm chí cả khi không có chiếc áo choàng như của bố tôi. Có lẽ tôi đã thừa hưởng được khả năng đó, hoặc học được bí mật về nó khi quan sát bố. Dù thế nào đi nữa, đám lính Roma lùng tìm chúng tôi cũng sẽ nhìn thấy một quầng bụi ở bất cứ chỗ nào tôi đang bước đi. Sia không chịu. - Em sai rồi, - chị nhận xét. - Chúng sẽ thấy em đầu tiên. Mái tóc em thật đẹp, làm chị nghĩ ngay tới những cây phượng vĩ. Tôi tự hỏi liệu điều chị nói có phải là một lời nguyền không, vì tôi đã đứng bên một cây phượng vĩ khi anh trai thừa nhận với tôi anh là sát thủ. Chị không thể biết chuyện đó, nhưng vào những dịp hiếm hoi khi tôi mơ về mẹ, bà cũng đến với tôi dưới dạng một cây phượng vĩ, và trong mơ, tôi cúi đầu trước bà rồi khóc. Khi quan sát Sia, tôi có thể thấy ý định của chị là tỏ ra thân tình trong một đêm đầy ắp hiểm nguy bất trắc. Chúng tôi bước đi cạnh nhau, mối hiểm nguy xung quanh khiến chúng tôi trở nên gần gũi. Chúng tôi đang đi qua Thung lũng Gai Góc, dưới một bầu trời đầy ắp những vì sao, tới mức chúng làm tôi nghĩ tới những tảng đá ngoài sa mạc, không đếm xuể, trắng chói lòa tới mức không thể nhìn vào. Người ta nói khuôn mặt Đấng Sáng Tạo của chúng ta cũng giống như thế, quá sáng chói, tới mức chỉ một cái liếc nhìn cũng đủ làm mù mắt. Tôi giữ đôi mắt mình cúi gằm xuống. Tôi những muốn bước đi một mình, song Sia vẫn đi cạnh tôi, cánh tay lồng vào cánh tay tôi. Chị cho biết bố tôi và chồng chị đã giết một viên tướng Roma quan trọng, và đó là lý do chúng tôi cần nhanh chóng bỏ trốn. Chính chị đã lau sạch lưỡi dao của họ, rửa sạch chất kim loại trong nước tinh khiết, vừa làm vừa cầu nguyện. Chị có bổn phận không được hỏi gì, và làm như chồng yêu cầu, song chị cảm thấy bị thôi thúc phải thú nhận đã cầm trên tay một con dao dính máu người, một lời xưng tội được nói ra với tôi trong lúc chúng tôi bước đi phía sau những người đàn ông. Giọng chị đứt quãng khi nói. - Chúa sẽ trừng phạt chị thế nào đây? - Chị thì thầm. Tôi suỵt chị - phụ nữ không được nói tới những việc như thế - song đã quá muộn. Ben Simon đã nghe thấy, và đưa mắt nhìn chúng tôi. Ông ta là người cao lớn, lực lưỡng, làn da màu ô liu sẫm, đáng sợ, một vết sẹo sâu chạy ngang qua một bên mặt. Một lần nữa, tôi cúi gằm xuống đất để cố tránh ông ta. Ông ta gằn giọng ra lệnh buộc Sia im lặng. - Không nên nói về chuyện này nữa, - sau đó chị nói. - Đôi khi tốt hơn không nên biết những gì đàn ông cần phải làm. Khi không thể bước đi xa hơn nữa, chúng tôi dừng chân tại một chỗ nghỉ, một ốc đảo mà bạn bè các sát thủ đã nói tới một cách thật sống động. Bất cứ Zealot nào cũng có một kế hoạch phòng khi tai họa đến, một hướng đào tẩu nếu cần thiết. Đây là điểm dừng chân đầu tiên, một không gian xanh nhỏ nơi những con lạc đà sổng mất trong lúc hỗn loạn đã tập trung lại. Những con vật đó bỏ chạy khi chúng tôi tới gần, làm tung bụi cát lên, chúng sợ chúng tôi tròng thòng lọng quanh cổ chúng, cũng không sẵn lòng chịu kiếp nô lệ chẳng kém gì chúng tôi. Tại ốc đảo này có một cây chanh. Quả của loài cây được gọi là pri etzhadar, một thứ quả có vị chua được nghiền thành mứt sệt. Chúng bị dầm nát, chua loét khi không có mật ong, song chúng tôi chẳng bận tâm. Chúng tôi đều gần chết đói và khát. Chúng tôi im lặng ăn, ngấu nghiến bữa tối đơn bạc. Phía xa, có thể thấy Jerusalem đang bốc cháy. Khói bốc lên cao thành cuộn, rồi tan biến. Tôi đếm những vì sao sáng lấp lánh trên đầu. Sia ngồi cạnh tôi, thì thầm. Chị quả quyết rằng tìm thấy cây chanh vào đêm đầu tiên của cuộc hành trình là một điềm lành, và mặc dù không tranh cãi với chị, tôi biết sự thật khác hẳn. Cái cây còi cọc này chẳng qua chỉ là chìa khóa của một cánh cửa, còn cánh cửa đó mở thẳng ra sa mạc. Tôi đã nghe lén bố nói chuyện với Ben Simon. Không phải chúng tôi đang hướng tới Alexandria hay Cyprus. Thay vào đó, chúng tôi đang lần theo con đường cổ xưa dẫn tới Biển Muối, con đường của chết chóc. Vào tháng Av, lũ chim không thể bay tới chỗ chúng tôi đang hướng đến, kể cả vào ban đêm. Thời tiết quá nóng, không khí hừng hực như một cái lò. Người ta có thể nướng bánh mì trên một tảng đá. Chúng tôi sẽ đi sâu vào trong sa mạc hết mức có thể, vì tại đó bố tin chúng tôi có thể tìm thấy các Zealot và những pháo đài của họ, và cả anh trai tôi. Vào buổi tối chúng tôi bỏ trốn, trong lúc Đền bốc cháy và bầu trời rực lên ánh lửa, có một làn gió nhẹ hây hẩy. Đây hẳn sẽ là thời điểm mát mẻ nhất trước khi chúng tôi bước chân vào chốn hoang vu. Nhưng còn một thứ khác đẩy tôi vào một thế giới cháy rực vào đêm chúng tôi rời khỏi Jerusalem. Tôi đi bộ xuống một cái giếng bị bỏ hoang từ lâu. Dưới đó không còn nước nữa. Cũng không thực sự là điều gì đáng ngạc nhiên. Người ta vẫn hay nói dối về nước, hứa hẹn về những hồ nước ở nơi chẳng hề có, mơ về nước giữa một thế giới chỉ toàn cát bụi. Dẫu vậy, nếu ai đó nằm bò xuống trên hai tay và đầu gối để đào, vẫn có thể tìm ra bùn. Vắt cát lại giữa những ngón tay nắm chặt, nước sẽ ứa ra, dành cho bất cứ ai sẵn lòng quỳ gối xuống. Tôi không quá tự kiêu để không chấp nhận làm thế. Quyết tâm có bằng được thứ mình muốn, tôi loay hoay gom được nửa bình nước bùn, đầu tiên được vắt qua các ngón tay, sau đó qua lần vải chiếc khăn quàng màu xanh của tôi. Khi đã xong, tôi đứng dậy, khát cồn cào. Tôi từ giếng quay về, rồi giật mình ngước mắt lên. Tôi không nhìn thấy bầu trời đầy sao, hay những ngọn lửa từ Jerusalem, mà chỉ thấy người sát thủ đó, Ben Simon, người đang theo dõi tôi. Hai cánh tay tôi bê bết bùn, vạt áo mở tung. Tôi cảm thấy mình đỏ bừng vì nóng. Tôi không hiểu vì sao ông ta lại xuất hiện từ trong bóng tối hay tại sao đứng lại đó. Ông ta thậm chí còn không biết tên tôi. Tôi nghĩ chắc Ben Simon sẽ quay đi, song ông ta vẫn chằm chặp nhìn tôi hồi lâu, giống như người ta nhìn một con hươu để cân nhắc xem liệu nó có ở quá xa để bắn, hay ở đủ gần để bắt lấy. Ông ta gật đầu, và khi đó tôi hiểu. Nói cho cùng, tôi không phải là người vô hình. •§• Tôi đếm từng ngày trôi qua trên sa mạc bằng cách dùng một hòn đá sắc cạnh vạch lên chân mình. Dân tộc chúng tôi không được phép làm bị thương bản thân; đó là phong tục của những người ngoại đạo và dân du mục vào thời gian để tang của họ. Không được cắt cơ thể ngươi để than khóc người đã chết, cũng không được xăm bất cứ dấu hiệu nào lên ngươi, Thượng Đế đã ra lệnh cho chúng tôi trong Điều Răn Thứ Tư của Moses. Nhưng tôi chỉ nghe thấy giọng nói của sa mạc, chứ không phải lời của Đấng Toàn Năng. Tôi giấu những nhát cắt dưới tấm khăn san. Trong cuộc sống mà chúng tôi đang dấn thân, đau đớn là một thứ cần chấp nhận, cần tự làm quen với nó. Tôi thà làm đau bản thân còn hơn bị ai đó làm đau, vậy là tôi thực hiện thói quen này với mục đích rõ ràng và không hề hối tiếc. Đó là lần đầu tiên tôi phá vỡ luật lệ của chúng tôi. Sau đó, phần còn lại đến với tôi thật dễ dàng. Tôi phải ở cạnh Sia và các con chị, trong khi tôi thích được một mình hơn. Dẫu vậy, chị rất tốt với tôi và tôi dần quen với chị. Vì chị lớn tuổi hơn và đã lập gia đình, tôi nghĩ chị sẽ trông đợi tôi vì nể mình, song thay vào đó, chị coi tôi như cô em gái, và tôi ngày càng thích được ở bên chị hơn. Có những ngày chúng tôi cùng phá lên cười, biến cuộc sống khắc khổ của mình thành trò chơi, cho dù hai người đàn ông ném về phía chúng tôi những cái nhìn khó chịu. Chúng tôi rất hợp nhau khi cùng làm việc, thu hái chút rau xanh ít ỏi có thể tìm thấy, nấu ăn từ thực phẩm dự trữ ngày càng cạn dần, gồm dầu và quả ô liu, cá khô và đậu lăng. Chúng tôi nướng bánh mì trên những tảng đá được nung nóng giữa đống lửa, dùng tro phủ lên các ổ bánh để chúng có thể chín được. Đôi lúc hai người đàn ông đi săn, mang về một con gà gô cho chúng tôi thêm vào bữa ăn. Tôi cảm động sâu sắc trước người mẹ tận tụy trong Sia với các con chị, luôn không chút ca thán khi chúng cần đến sự quan tâm của chị. Hai con trai chị chỉ mới lớn hơn những đứa trẻ một chút, và chị hát ru chúng ngủ hàng đêm, quyết không làm mất đi tất cả sự chăm sóc yêu thương chúng từng biết trong thế giới chúng tôi bỏ lại sau lưng. Mỗi lần chị hát, tôi lại nhớ đến cô gái từ Alexandria ngày xưa đã chăm sóc tôi khi tôi không có mẹ. Tôi thường ngủ thiếp đi bên hai đứa trẻ, tưởng tượng rằng bài hát ru của Sia là dành cho tôi. Người bạn mới của tôi tỉ mẩn chải hết tro vương lên tóc tôi khi Jerusalem bị đốt. Khi tìm thấy một vũng nông, chúng tôi ùa tới nó ngay khi phát hiện ra mặt nước lấp lánh, cho phép chúng tôi quên đi, dẫu chỉ trong khoảnh khắc ngắn ngủi, hoàn cảnh của mình, trong lúc té nước lên người nhau như thể chúng tôi thực sự là hai chị em. Tôi tiếp tục bí mật ghi lại thời gian trong sa mạc bằng cách rạch lên da mình mỗi ngày. Tôi giữ kín cho riêng mình, nhưng không thể không đề phòng Ben Simon, vì tôi vẫn nhớ vết sẹo trên mặt ông ta. Bất cứ lúc nào thấy ông ta quan sát mình, tôi lập tức che chân lại. Tôi không muốn ông ta biết tôi thực sự là ai, một đứa con gái xấu xí bị lãng quên với đôi bàn tay chai sạn. Dẫu vậy, vẫn có một mối liên hệ nào đó giữa hai chúng tôi, có lẽ vì cả hai đều mang sẹo trên người. Rõ ràng cách ông ta nhìn tôi không giống bất cứ ai trước đó. Tôi có thể thấy khuôn mặt ông ta biến đổi khi nhìn tôi. Bản thân sự hiện diện của ông ta cũng giống như những nhát ong chích, hút lấy toàn bộ sự chú ý của tôi. Tôi bắt đầu nghĩ về ông ta, tự hỏi ông ta đã bị sẹo trong hoàn cảnh nào, đã can dự vào những chuyện ám muội nào ở Jerusalem. Những suy nghĩ dai dẳng, âm ỉ về ông ta quay cuồng trong đầu tôi, những suy nghĩ làm tôi bối rối, khiến tôi có cảm giác mình là kẻ phản bội dù tôi chẳng hề làm gì sai. Một lần, khi trên bầu trời có vầng trăng mờ mờ, tôi tìm đến vũng nước nơi Sia và tôi đã tắm. Trong những ngày có kinh nguyệt, tôi đã cách ly mình ra như phong tục của chúng tôi yêu cầu. Bây giờ nó đã kết thúc, tôi cần làm sạch bản thân. Ở Jerusalem, chúng tôi thường tới mikvah để tắm. Ở đây, chỉ có vũng nước ở nachal, khe núi nơi lũ chim tìm tới uống nước vào ban đêm, từng bầy quạ, chiền chiện, và những con kền kền khổng lồ, những tạo vật mạnh mẽ không biết sợ, chúng tôi gọi là nesher, thường làm tổ trên vách núi. Tôi nhận thấy vũng nước nhanh chóng cạn dần dưới cái nóng ngày càng gay gắt của tháng Av. Dẫu vậy, tôi vẫn cởi áo ra, tắm rửa và cảm thấy nhẹ nhõm đi một chút. Chợt nghe thấy tiếng sột soạt sau bụi cây thánh liễu, một loại cây chỉ mọc ở những nơi cằn cỗi nhất, tôi hối hả khoác áo choàng lên, sợ rằng đó là một con báo có lãnh địa bị chúng tôi xâm nhập đang rình mò, đủ đói để biến tôi thành con mồi của nó. Có tiếng bước chân vọng lại, và tôi lạnh cóng người cho tới lúc những âm thanh ấy im bặt. Tôi quay về khu trại, sạch sẽ nhưng căng thẳng tột độ. Tất cả mọi người đều đang ngủ trong căn lều nhỏ lợp da dê, được cắm xuống đất nhờ những cái chốt làm bằng gai. Chỉ mình Ben Simon đang thức. Dường như ông ta đang bồn chồn. Tôi đỏ mặt thầm nghĩ có lẽ ông ta đã nhìn thấy tôi ở chỗ vũng nước, ông ta gọi tôi lại, và tôi bước tới, mắt cúi gằm xuống. - Như thế rất nguy hiểm, - ông ta cảnh báo. Trước đó Ben Simon chưa bao giờ nói chuyện với tôi. Tôi không hiểu ý ông ta, điều rất nguy hiểm là lang thang một mình trong sa mạc hay là ngước lên nhìn vào mắt ông ta? Tôi thấy bực trước việc ông ta nghĩ có thể lên lớp tôi nên làm gì, cư xử với tôi như với một đứa trẻ ranh, hay tệ hơn, như nô lệ của ông ta, song dù thế tôi vẫn cảm thấy một thoáng thích thú khi nhận ra những chiếc lá xanh nhọn còn vương lại trên tóc ông ta. Đó là lá cây thánh liễu mọc gần vũng nước, loài cây chĩa cành hướng lên thiên đường, mọc từ một nơi cằn cỗi không sinh vật nào khác có thể sống sót. Hai mươi mốt vết cắt, và rồi đến buổi tối chuyện đó xảy ra. Sau này, tôi tự hỏi liệu có phải tôi đã đánh dấu thời gian cho tới khi nó đến không. Liệu đó có phải thứ tôi chờ đợi? Có phải là nơi khao khát của tôi dẫn tôi tới? Có lẽ tôi đã nhìn chăm chú vào Cuốn Sách Cuộc Sống, nơi ghi chép số phận chúng ta, và trong lúc chìm sâu vào giấc ngủ, tôi đã thấy tên ông ta ghi trên đó. Hay có lẽ chỉ vì tôi là một đứa con gái đầy thèm muốn vốn chẳng có gì, vì thế sẵn sàng đoạt lấy thứ thuộc về một phụ nữ khác, đồng thời cũng là nguời bạn duy nhất của tôi. Tôi đang nhóm lửa để nướng bánh đậu lăng làm bữa ăn cho chúng tôi trên cái vỉ mang theo từ Jerusalem, ông ta nằm phục xuống bên cạnh tôi. Bầu trời bạc màu đi vì nóng. Những con chiền chiện đang bay lượn trong ánh sáng lờ mờ, và từng đàn chim trảu đông đúc đang gọi nhau, bộ lông xanh lấp lánh của chúng lướt đi như xé toang bầu không khí đặc quánh. Jachim Ben Simon mạnh mẽ hơn phần lớn đàn ông và tôi có thể cảm nhận thấy sức nóng từ sự hiện diện của ông ta bên cạnh tôi. Lần này ông ta không nhìn tôi. Thay vì thế, ông ta đưa tay xuống, lướt bàn tay theo chân tôi, nấn ná dừng lại ở những vết cắt tôi đã rạch cho tới khi làn da tôi như đang bốc cháy. - Em không sợ những thứ các phụ nữ khác sợ, - ông ta nói. Tôi nhận ra đúng là vậy. Ông ta vẫn không nhìn tôi, nhưng dường như ông ta biết tôi, cho dù tôi được che giấu sau tấm mạng. Phần lớn phụ nữ sợ cho tính mạng chồng con họ. Những mối lo của họ là chết đói, bệnh tật, ma quỷ, bị bắt làm nô lệ. Tôi sợ những con sư tử trong các giấc mơ của mình, mơ hồ tin rằng sinh vật nào đó lẩn lút trong những cơn mộng mị sẽ ngấu nghiến tôi. Tôi sợ một thiên thần sẽ đợi tôi trong sa mạc, được cử tới đó để báo với tôi rằng cuộc đời tôi là những nấc thang sai lầm, rằng tôi chào đời như một kẻ sát nhân, phải chịu trách nhiệm về cái chết của chính mẹ mình trước khi thở hơi đầu tiên, và tội ác của tôi còn xấu xa hơn của bất cứ sát thủ nào, vì tôi không chỉ có tội trong mắt bố tôi mà cả trong mắt Chúa. Ben Simon thu bàn tay về, nhưng tôi vẫn cảm thấy sức nóng từ sự tiếp xúc của ông ta. Tôi cảm thấy nó suốt nhiều ngày. Liệu như thế có nghĩa ông ta là một thiên thần, ẩn nấp giữa chúng tôi, có mặt tại đây để phán xét tôi không? Hay chỉ là một người đàn ông muốn thỏa mãn bản thân? •§• Chúng tôi gần như bị mù dưới thứ ánh sáng trắng chiếu xuyên qua lều vào những giờ gay gắt nhất. Không thể di chuyển dưới cái nóng ban ngày, vì những cơn gió thổi không thương tiếc có thể cắt một người ra từng mảnh. Chúng tôi là những người thành phố lạc bước vào chốn hoang vu, những kẻ lang thang vô định, mắc kẹt lại lãnh địa của những tên trộm cướp và các thánh nhân. Trống rỗng là tên của miền đất hoang vu chúng tôi đi qua. Chúng tôi không nhìn thấy ai. Khi vũng nước biến mất vào trong cát, ngay cả lớp bùn còn lại cũng trở nên rắn như đá và khô khốc, không còn lý do nào để chúng tôi lưu lại đó nữa. Chúng tôi gói ghém những món đồ đạc ít ỏi - căn lều bằng da dê, những con suốt cầm tay dùng để xe sợi len, mấy con dao và cái vỉ, một bình đất vẫn còn lại ít dầu, cây đèn chúng tôi đốt lên vào dịp Sabbath, cho dù chẳng còn mấy dầu để mà đốt. Chúng tôi đi tiếp, tìm kiếm nước. Chúng tôi bước tới dưới bầu trời đen như mực vào các buổi sáng sớm, trong những giờ ít khắc nghiệt, trước khi mặt trời xuất hiện. Con đường chúng tôi lần theo dẫn tới một cái giếng, nhưng nó đã khô. Cái giếng dẫn tới một khu vườn, nhưng nơi này cũng hoàn toàn trơ trụi. Những cây ô liu ở đây héo quắt, thân cây trắng bạc khô trơ những ống trống rỗng. Người ta vẫn kể những người du mục đi qua chốn hoang vu này thường buộc phải giết lạc đà của họ, uống máu chúng khi cơn khát trở nên không chịu đựng nổi nữa. Không có cỏ, thậm chí cả những bầy dê hoang vốn không hề e dè khi phải vượt qua những vách đá cheo leo nhất cũng không mấy khi đặt chân tới vùng đất cằn cỗi này. Chỉ có lũ báo tìm đến đây. Cho dù chúng thật bí hiểm và hiếm gặp, thỉnh thoảng chúng tôi vẫn thấy dấu chân của chúng. Đây là những con vật nhanh nhất trong tất cả các sinh vật, với vẻ đẹp siêu nhiên, nhưng chúng thường đi một mình. Chỉ có những kẻ sống tách biệt khỏi tất cả đồng loại mới tìm tới đây. Chúng tôi tiến bước, những kẻ thành tín chẳng biết đặt niềm tin vào đâu. Môi chúng tôi khô đến nứt nẻ và trở nên trắng bệch. Sia xoa chút dầu ô liu cuối cùng còn lại lên miệng hai con trai chị, để môi chúng không bị chảy máu. Ngày lại ngày chất chồng lên nhau như những cành khô, cong queo và vô dụng. Cuối cùng, chúng tôi tìm thấy một cái hang có thể giúp mình tránh khỏi cái nóng và gió. Trong đó có một vũng nước đầy bùn, váng đóng như một lớp ren phủ trên bề mặt, không sạch, dẫu vậy chúng tôi vẫn úp mặt xuống nó như những con chó. Gió đông, Ruach Kadim, thổi từ Edom tới, nóng rực hơi lửa. Chúng tôi quấn mình trong những tấm khăn lanh, thứ vải mỏng làm từ cây lanh, mát mẻ hơn len, có lẽ vì những rễ cây dùng làm thứ vải này mọc ở các đầm lầy và mang theo nước vào trong sợi vải. Chúng tôi che kín mặt, đảm bảo luôn bịt kín tai bằng hai bàn tay. Ngay cả khi đó cũng không thể che đi hết được âm thanh của sa mạc; tiếng gầm rít gào rú quanh chúng tôi như một sinh thể sống. Chúng tôi lưu lại trong hang nhiều ngày liền, quá mệt mỏi và khô kiệt để có thể đi tiếp, đồng thời lo sợ gặp phải đội quân Roma tuần tra trong sa mạc. Chúng tôi đốt những ôm cây bụi gai tìm thấy để xua đuổi lũ chó rừng. Một cuộn khói trắng bốc lên từ cửa hang, tro bay xộc vào mắt, vào họng chúng tôi. Hai người sát thủ đi săn, song không tìm thấy con mồi nào. Họ cầu nguyện, nhưng không có chút cải thiện nào. Tôi vẫn dùng một miếng đá sắc vạch lên chân mình. Nếu tôi không đánh dấu lại cuộc đời mình, sẽ chẳng có ai khác làm việc đó. Thời gian trôi qua, chúng tôi bắt đầu đói lả. Một lần nữa, tôi lại tự hỏi ai trong số chúng tôi sẽ trụ lại được lâu hơn những người khác, cái đói làm chúng tôi mê sảng, kiệt sức. Chúng tôi ngủ lâu đến mức tôi không thể phân biệt được sự khác biệt giữa cuộc sống lúc tỉnh táo và những giấc mơ. Tôi mơ về Jerusalem, về mẹ tôi và cây phượng vĩ ngoài chợ. Những hình ảnh đó với tôi còn thực hơn mùi xú uế trong hang. Tôi bắt đầu bí mật nhai đất ở những nơi hơi ẩm tụ lại gần các tảng đá. Da tôi dính đầy bụi, và có vẻ sa mạc như đang trào ra khỏi tôi, giống như người ta vẫn nói cát sẽ tuôn ra khi ta đâm một con quỷ bằng lưỡi dao đã được ban phước và thanh tẩy trong nước tinh khiết. Một buổi tối, bố tôi và Ben Simon cắt cổ con lừa. Có người nói súc vật không có linh hồn, nhưng tôi nghe thấy con lừa kêu. Nó có tiếng nói như bất kỳ người đàn ông hay phụ nữ nào, một giọng nói đang cầu khẩn hơi thở và sự sống. Chạy ra ngoài các vách đá, tôi vẫn nghe thấy tiếng vọng của âm thanh đó. Hai người đàn ông cầu nguyện tạ ơn Chúa vì cái mà họ tự thuyết phục bản thân là một cái chết dễ dàng cho con vật khốn khổ, vì họ đã dùng một con dao hành lễ; sau đó, họ dùng cành khô nhóm lửa nướng thịt. Tôi có thể thấy những vũng máu đen sẫm của con lừa trên sườn đồi bên dưới cái hang của chúng tôi. Những vì sao lấp lánh trên bầu trời trên đầu chúng tôi. Một số hiện lên khá rõ, số khác bị che khuất sau màn đêm. Chúng tôi đợi ngôi sao báo hiệu buổi sáng, ngôi sao chúng tôi gọi là Cochav hashachar, và những người khác gọi là sao Kim, đón chờ nó lóe lên trên bầu trời với những tia sáng lấp lánh, đem đến cho chúng tôi một ngày mới. Sau khi ăn thịt lừa, tôi cảm thấy mình trở nên ô uế. Xương của con lừa được đun sôi trong nồi, như thế chúng tôi sẽ có thức ăn tới tận lễ Sabbath tiếp theo nếu dùng dần từng khúc xương đã gặm hết thịt. Chúng tôi giống như những kẻ đi giật lùi, trở lại thành những kẻ man rợ trong sa mạc. Có những người du mục sống theo cách này; thỉnh thoảng chúng tôi vẫn gặp dấu vết của họ. Họ là những kẻ hoang dã, ngoại đạo, với khuôn mặt bôi màu, cầm những cây giáo hai lưỡi, tiếng bọn họ gọi nhau là những tiếng tru của dã thú. Cuộc sống của họ phụ thuộc vào đàn lạc đà họ nuôi, chúng cho họ thịt, sữa, và cả nơi trú ẩn khi những tấm da đã thuộc của chúng được căng ra thành lều. Phụ nữ của họ sinh con trên cát, làm ô uế nó với những vệt máu trơn nhớp, đen bầm; người chết của họ bị bỏ lại trên những tảng đá, mặc kệ cho thối rữa; đàn ông của họ cực kỳ nguy hiểm, vì bọn họ có những luật lệ riêng. Không ai được tha mạng nếu chẳng may bắt gặp bọn họ. Một số trong những người đàn ông này có tới sáu vợ, và những người phụ nữ bị coi như những con lừa, bị đối xử tàn tệ, bị mang ra mua bán đổi chác. Ben Simon đã bắt gặp thi thể của hai người vợ như thế. Hai người phụ nữ chỉ lớn hơn hai đứa trẻ một chút, có lẽ còn chưa đủ tuổi để bắt đầu có kinh nguyệt. Họ đã tìm cách chạy trốn khỏi số phận của mình và đã chạy xa hết mức sa mạc cho phép. Ben Simon phát hiện ra họ khi ông ta ra ngoài đi săn; họ bị vùi lấp dưới những lớp cát và đá, tay nắm tay, mắt mở to, nhìn thẳng vào Thế Giới Bên Kia. Cả hai đều có những bím tóc đen dài, quàng những chiếc khăn nhuộm chàm của dân tộc họ. Hai người con gái đã nằm xuống chờ đợi cái chết như những cô dâu chờ đợi vị hôn phu, lòng bàn tay và gan bàn chân được tô điểm những họa tiết phức tạp bằng mực từ cây lá móng. Những họa tiết này là của nghi lễ thania mang may mắn tới cho người đàn ông thành hôn với họ. Có lẽ hai cô gái đã bị chồng hành hạ, không biết bấu víu vào đâu, hoặc có thể người chồng đã ruồng bỏ họ. Có thể họ đã cùng nhau bỏ trốn trước khi hôn lễ được cử hành và bị lạc đường. Tôi đang rửa nồi nấu khi Ben Simon ra hiệu cho tôi. Tôi đi theo ông ta dù chúng tôi đã không nói gì với nhau kể từ khi ông ta cảnh báo tôi về nguy hiểm, ông ta dẫn tôi tới nhìn hai người vợ. Chúng tôi không nói gì, thậm chí cũng không nhìn nhau. Tôi tự hỏi tại sao ông ta lại chọn tôi để chia sẻ chuyện này, tại sao ông ta lại hé lộ cho tôi biết điều mà khi bụi cát cuộn lên, người sát thủ kiêu hãnh này, kẻ đã giết nhiều người đến thế, người vẫn rửa máu khỏi hai bàn tay mình hàng đêm, người có khuôn mặt bị một vết sẹo tàn khốc xẻ làm đôi, đã làm đôi mắt ông ướt nhòe. Chúng tôi đứng dưới bầu trời đang tối dần, vào thời khắc mặt đất chuyển sang màu xanh sẫm. Đó là lúc những người lữ hành thường nhìn thấy ảo ảnh, quả quyết thề rằng những tảng đá họ đang bước lên đã biến thành biển cả. Có lẽ hai người vợ trẻ con đã nghĩ bản thân họ được cứu thoát trong biển cả của cái chết, ưa thích nó hơn cuộc sống họ đang phải trải qua, nơi họ bị giam cầm như súc vật, bị mua đi bán lại như những món đồ bạc. Tôi đột nhiên hiểu ra Ben Simon đang nói với tôi ông sẽ không bao giờ đẩy tôi tới một kết cục như thế. Ông sẽ bảo vệ, chăm sóc tôi. Số phận của tôi đã hé lộ khi ông cẩn thận chôn cất hai chị em - hai người vợ kia, rõ ràng như thể Cuốn Sách Cuộc Sống đã mở ra trước mặt tôi. Sau đó tôi không bao giờ muốn chạy xa khỏi ông nữa. Hàng đêm, tôi cuộn mình lại trong hang, thao thức rất lâu sau khi những người khác đã ngủ. Tôi không phải là người duy nhất giữ đôi mắt mở to. Jachim Ben Simon tìm tới tôi vào một đêm khuya, ông nằm xuống bên cạnh, hai cánh tay ông ôm lấy tôi. Tôi đã chờ đợi ông, nhưng lúc này tôi quá ngỡ ngàng để có thể tránh đi hay kêu lên. Ông nhìn tôi thậm chí còn chăm chú hơn lúc ở bên giếng cạn hay cạnh ngôi mộ của hai người vợ. Tôi biết ông thực sự nhìn thấy tôi. Ông thấy tôi đã quen làm bất cứ điều gì một người đàn ông bảo tôi làm, rằng tôi đã theo bố rời Jerusalem mà không đưa ra câu hỏi nào. Nhưng vẫn còn hơn thế trong tôi, và cả những điều đó ông cũng thấy. Ông thấy tôi đang bị thiêu đốt, thấy tôi cô độc, thấy tôi bị mắc kẹt trong móng vuốt con sư tử tôi luôn mơ thấy, cũng như vị thiên thần tôi đang chờ đợi, và cả gánh nặng tôi mang từ lúc chào đời. Có lẽ chẳng bao lâu nữa chúng tôi sẽ chết. Xương cốt chúng tôi sẽ trắng ra trên những tảng đá trắng. Chúng tôi sẽ bị đại bàng vồ lấy, bị chó hoang tha đi. Chúng tôi sẽ bị lôi bổng lên theo cơn gió và tan thành tro bụi. Nhưng không phải bây giờ. Chưa phải. Chúng tôi vẫn đang còn sống. Ben Simon luồn bàn tay ông vào trong áo tôi. Có những mạch máu xanh nổi lên trên hai cánh tay ông mà tôi có thể nhìn thấy cả trong bóng tối. Tôi có thể cảm thấy vật đàn ông của ông ép vào tôi, căng dần. Tôi phát hoảng, sợ ông sẽ xé toang tôi làm đôi. Dù thế, tôi vẫn không cố ngăn ông lại. Tôi đang bị thiêu đốt, giống như những chiếc lá lựu bị thiêu đốt vào tháng Av. Chỉ một khoảnh khắc trước chúng còn xanh, khoảnh khắc sau đã thành lửa đỏ. Sia đã đúng. Tôi giống như cây phượng vĩ kia: càng bùng cháy, tôi càng tràn trề sức sống hơn. Nếu Sia tựa sát hơn vào người tôi, hẳn chị đã nhận ra mùi của lửa và trở nên cảnh giác, thay vì kết bạn với tôi. Ben Simon di chuyển bàn tay giữa hai chân tôi. Tôi nghe thấy mình thở dốc. Ông nhanh chóng dùng bàn tay còn lại che miệng tôi. Những người khác đang ở phía bên kia hang; họ không được nghe thấy gì. Ông thì thầm rằng im lặng là điều duy nhất ông sẽ yêu cầu ở tôi. Tôi gật đầu, và ông nhấc bàn tay khỏi miệng tôi. Đôi môi tôi nóng rực do tiếp xúc với ông. Tôi muốn biết một điều trước khi thề giữ bí mật, trước khi những lời nói của tôi bị nuốt chửng và lời hứa của tôi được giữ trọn. Tôi có thể cảm thấy câu thần chú của sự im lặng đang réo gọi tôi, song trước khi nó hoàn tất, tôi chỉ có một câu hỏi. Tôi muốn biết vì sao ông lại có vết sẹo trên mặt. Dường như với tôi đó là một bí mật, và nếu biết được bí mật của ông, có thể tôi sẽ hiểu ông, và khi đó có lẽ ông sẽ thuộc về tôi, cho dù ông là chồng Sia. Ông nói đó là dấu vết do một con sư tử gây ra. Ông do dự khi kể lại hồi ức đó. Người Roma đã bắt được ông bên ngoài Đền khi ông còn trẻ và chưa kết hôn. Ông cao lớn, vạm vỡ, hai cánh tay khỏe mạnh, đúng loại người bọn họ cần. Bọn họ đang tìm kiếm võ sĩ giác đấu[11], vì thế họ đã đưa ra một bài thử thách. Họ nhốt mười người đàn ông vào cùng một phòng với sư tử. Bất cứ ai sống sót sẽ được gửi tới Roma. Chín người đầu tiên bị giết, nhưng sau đó đến lượt người đàn ông đang nằm cạnh tôi, con sư tử đã tát một cú lên mặt ông, sau đó ngã gục dưới chân ông. Con vật bị đột tử, gục xuống ngay lập tức, nằm sóng xoài trên sàn nhà lát gạch, có lẽ nó đã bị thương trong những cuộc giao tranh trước, nhưng Ben Simon đã nói với bọn lính ông đã giết chết đối thủ của mình bằng một cái nhìn. Đó là một cảnh tượng kỳ quái đến mức đám người Roma, vừa ngỡ ngàng vừa bối rối, đã quay sang bàn tán về những nguyên nhân có thể dẫn tới tình huống lạ lùng này. Chính lúc đó Ben Simon đã tìm cách trốn thoát được, dù vết thương của ông vẫn còn chảy máu. Ông thấy kinh sợ vì đã giết một con vật đẹp đẽ đến thế, trong khi ông những muốn giết bọn lính, vì một trong chín người rất có thể đã trở thành võ sĩ giác đấu và bị chết trước ông chính là anh trai ông. - Sự thật là ta quá đắng, - ông thú nhận, thì thầm vào tai tôi, để giải thích cho tôi hay tại sao con sư tử lại quỵ xuống dưới chân ông. - Con sư tử không thích vị đắng của ta. Tôi đưa bàn tay lần theo các đường nét khuôn mặt ông trong bóng tối, tự hỏi cảm giác phải đối diện với một con sư tử sẽ như thế nào. Có lẽ con vật đó đã cảm nhận được một điều trong ông, một con sư tử ẩn trong hình hài con người. Hẳn tôi đã khóc cho nỗi tủi nhục và đau khổ Ben Simon từng phải chịu dưới tay đám người Roma, song sa mạc đã hút cạn hết nước mắt tôi. Có lẽ cả tôi nữa cũng đắng ngắt. Ông rất từ tốn với tôi vào đêm đầu tiên đó. Ông làm với tôi những điều thậm chí tôi còn không biết chúng tồn tại. Ông hôn lên khắp người tôi, thúc giục tôi làm điều tương tự với ông. Sau một hồi, khoái lạc của tôi là được nghe ông nói, làm ông ôm tôi chặt hơn, muốn tôi nhiều hơn. Khi ông tiến vào tôi, đôi mắt tôi mở to. Tôi nhìn thấy vết sẹo con sư tử để lại và biết những giấc mơ đã kể cho tôi câu chuyện của chính cuộc đời tôi, cả những gì đã tới và những gì sắp tới. Ông là chồng một người khác, nhưng tối hôm đó ông là của tôi, con sư tử tôi luôn biết sẽ tìm đến tôi. Tôi từng có ý định giữ mình cho người chồng của chính tôi, song tôi cũng đã hiểu sẽ chẳng bao giờ có gia đình và vị hôn phu trẻ tuổi nào muốn nhìn thấy máu trinh của tôi sau hôn lễ với anh ta. Thay vào đó, chỉ có người đàn ông này, người nói với tôi rằng tôi đẹp. Ông nói với tôi một cách chân thành tới mức tôi tin ông. •§• Chúng tôi trở thành những cư dân của sa mạc khi tháng Elul trôi qua, quấn mình trong áo choàng để tránh khỏi mặt trời, tìm kiếm thức ăn suốt cả ngày. Chúng tôi đã quên những ngày lễ. Thậm chí ngày Sabbath cũng thành một ngày như mọi ngày, cho dù nó thật đẹp đẽ, linh thiêng và nên được tưởng nhớ tới trong niềm vui và những lời cầu nguyện. Từng giờ trôi qua đều trắng lóa, đều chói chang. Không bao lâu sau, bố tôi là người duy nhất còn cầu nguyện ba lần mỗi ngày, và cũng không lâu sau đó, ông cũng theo gót Ben Simon, chỉ còn cầu nguyện hàng ngày lúc rạng sáng, ngoảnh mặt về phía Jerusalem. Vào một buổi chiều may mắn, Ben Simon bắt được một con dê cái non. Vì con vật bước thẳng tới chỗ tôi khi ông mang nó về nơi chúng tôi cắm trại, ông đã tặng nó cho tôi như một món quà. Con dê dường như trung thành với tôi ngay từ lúc đầu, cầu xin được vuốt ve, lẽo đẽo bám theo gót tôi. Tôi lấy làm hãnh diện, và không thể ép mình nhường lại nó cho người đáng ra nó thuộc về. Sia là vợ Ben Simon, người lớn tuổi hơn trong hai chúng tôi, song khi chị gọi con dê lại chỗ mình, vừa vẫy tay vừa nài nỉ, con dê cái vẫn nhất quyết từ chối không chịu đến, ngược lại còn rụt rè lánh đi. Tôi buộc con thú cưng của mình bằng một sợi thừng, như thế chúng tôi có thể uống sữa của nó và làm thứ sữa chua chúng tôi gọi là lebben và những người khác gọi là homes, dùng cái khăn của tôi để lọc lấy sữa đông, hớt ra một phần thứ chem ‘ah đặc quánh như bơ mà chúng tôi thường ăn ngay trước khi nó kịp chuyển thành pho mát, vì trong hoàn cảnh hiện tại, chúng tôi thấy món ăn đơn giản này không khác gì một bữa tiệc. Tôi đào xuống dưới bóng mát ở nơi có cây ô liu cổ thụ duy nhất, trơ trụi vì gió tạt. Ở đó tôi tìm thấy bùn ẩm và gạn ra được chút nước sẫm màu mằn mặn. Sau đó tôi có thể làm pho mát, haris halab, bằng cách bó hỗn hợp đó lại trong vải cho tới khi nó đông cứng và có thể ăn được. Chúng tôi càng có nhiều món cho bữa ăn của mình nhờ sữa dê, Sia dường như càng có vẻ khổ sở, bị sự ghen tỵ thiêu đốt giày vò. Một ngày nọ, tôi thấy chị cúi xuống nói chuyện với con dê, cố hết sức để thuyết phục con vật hoang dã thay đổi lòng trung thành, nhưng con dê chỉ vội vàng chạy tới bên cạnh tôi. Sau đó, tôi tự hỏi liệu đó có phải là khoảnh khắc khi Sia hiểu ra. Dù chị che giấu ánh mắt mình, sau này tôi có thể nghe thấy chị nức nở. Vì lý do nào đó, trong sa mạc này, nơi không còn đủ hơi ẩm để tạo ra nước mắt, chị vẫn có thể khóc được. Tới lúc này tôi đã có quá nhiều vết rạch, chẳng thể đếm xuể, chúng cắt ngang cắt dọc nhau, như những con sâu bò trên làn da tôi. Giờ đây, chúng tôi nhìn thấy vài người lữ hành đi lạc trên đường đi của mình, và thực hiện đổi chác mỗi khi có thể. Tất cả những gì chúng tôi sở hữu có thể coi là có giá trị - túi đựng nước bằng thứ da tốt của bố tôi, đôi vòng xuyến từ hồi cưới của Sia - đều được mang ra đổi lấy muối và thì là. Có lần chúng tôi đổi được mấy con gà gầy giơ xương và hân hoan ăn uống như những vị vua, nhưng khi xong bữa, chúng tôi chỉ còn lại chân gà và xương. Chỗ đồ ăn còm cõi đó sẽ phải phục vụ chúng tôi thêm một thời gian dài nữa. Chúng tôi đói cồn cào, và trong cơn đói trở nên bất cẩn, như hoàn cảnh những người bị lạc đường thường rơi vào. Chúng tôi còn lại quá ít đến mức dường như không còn liên hệ gì với thế giới này, nếu chúng tôi không gắn kết với nhau. Khi tới kỳ kinh nguyệt và tôi chảy máu, tôi dùng một mảnh vạt áo rách áp vào giữa hai chân. Ngoài ra chẳng còn thứ gì khác. Chúng tôi trở thành những kẻ man rợ, chẳng khác gì những bộ lạc dã man sống ngoài sa mạc và tuân thủ những luật lệ tàn nhẫn của riêng họ. Hãy cố sống nếu bạn có thể, hay bị bỏ lại sau cùng những người già và tàn tật, trở thành vật hiến tế cho thú hoang vào ban đêm. Tôi quàng chiếc khăn xanh anh trai tôi đã tặng quanh đầu, cho dù màu xanh cũng là màu hai người vợ - hai chị em kia mang trên người khi chúng tôi tìm thấy họ bị vùi lấp giữa chốn hoang vu. Tất cả những gì chúng tôi có đều được mang trên lưng. Toàn bộ con người chúng tôi đều sáng chói dưới ánh sáng lóa mắt của Đấng Toàn Năng. Chúng tôi sống vì Người cho phép chúng tôi được sống. Mỗi hơi thở của chúng tôi đều thuộc về Chúa, người ban cho chúng tôi thêm một ngày nữa trên thế gian này. Giờ đây, bất cứ khi nào tôi tới đi bên cạnh Sia, chị lại rảo bước dấn lên. Mối thân tình giữa hai chúng tôi đã tan vỡ hoàn toàn. Khi chúng tôi cùng nhau nấu ăn, chị không nói lời nào. Đôi lúc, chị ngập ngừng khi tôi ở bên cạnh, có lần chị luống cuống và bị bỏng bàn tay vì chạm vào cái vỉ đặt trên ngọn lửa. Khi tìm thấy một vũng nước nông gần chỗ dừng chân tiếp theo, tôi rủ chị cùng đi tắm. Chị từ chối, kiên quyết nói chị sẽ tắm một mình, song chị chẳng bao giờ đi tắm cả. Thay vào đó, chị nhìn tôi đầy trách móc từ sau những tảng đá, cơ thể trẻ trung của tôi như một sự thách thức xúc phạm với chị. Tôi có thể nghe thấy tiếng chị khóc, có lẽ hẳn chính tôi cũng đã khóc nếu tôi không mất đi khả năng đó, nhưng tôi đã quyết định từ lâu, tại nhà bố tôi ở Jerusalem, là tôi sẽ không bao giờ khóc nữa. Chẳng bao lâu sau, con dê cái trở thành người bạn duy nhất của tôi. Tôi chợt nhận ra mình trò chuyện với nó, cho tới khi tôi nhớ người ta vẫn kể đó là điều các phù thủy hay làm. Từ lúc ấy, tôi chỉ thì thầm khe khẽ, để không ai có thể nghe thấy được. Khi cuối cùng cũng tìm được một nơi có thể lưu lại được ít lâu, với một khóm bạc hà và vài cây hành vàng mọc trong hẻm núi gần đó, tôi tìm được một cái hang nằm cao hơn trên vách núi để tự cách ly khi tới kỳ kinh nguyệt. Một phụ nữ đang có kinh nguyệt là người không sạch sẽ, được gọi là niddah, và phải cách ly khỏi những người khác bảy ngày. Thậm chí chỉ một giọt máu rơi xuống cũng buộc người phụ nữ phải rút lui khỏi thế giới của đàn ông, cho tới khi cô ta đã thanh tẩy bản thân trong mikvah, thứ nước thanh khiết, chảy ra trực tiếp từ nơi Chúa. Tôi tự mình tách ra vì đó là luật của chúng tôi, song ngoài ra còn có một lý do khác. Tôi không thể ngủ cùng một chỗ với Sia nữa. Tôi bắt đầu mường tượng ra chị nằm thao thức trong đêm khi chồng chị tìm tới chỗ tôi, một chuyện giờ đây diễn ra thường xuyên, như thể để khẳng định quyền sở hữu của ông. Tôi tự hỏi liệu chị có bịt tai, hay tồi tệ hơn thế, có nghe thấy hai chúng tôi không. Tôi tách riêng ra để lẩn tránh đôi mắt dò hỏi của chị. Kỳ thực, tôi thấy thoải mái hơn trong sự cô độc. Tôi đắp bùn lên da để giữ cho cơ thể mát mẻ. Tôi tháo tung các bím tóc ra. Các vì sao sáng hơn trên sườn núi nơi tôi ở riêng, lấp lánh trên nền trời tối đen để soi sáng màn đêm. Tôi đã nhìn thấy các phụ nữ theo sau những người du mục, những người vợ thứ hai và thứ ba bị buộc chỉ được đi cùng các phụ nữ khác. Cả họ cũng đắp bùn lên người. Cho dù hẳn họ đang bước đi trong tủi hổ, trông họ thậm chí còn đẹp đẽ hơn những người vợ cả, vì làn da họ đã ngả trắng, vàng hay đỏ với bùn, và mái tóc họ để xõa, buông xuống sau lưng như dòng nước. Trông họ có một vẻ tự hào thật kỳ lạ, vì nếu chẳng có thứ gì khác để làm dịu cơn khát của đám đàn ông, khi đó ít nhất vẫn còn cơ thể họ, linh hồn họ, luôn sẵn sàng. Chúng tôi chào đón Rosh Chodesh, tuần trăng mới đánh dấu điểm khởi đầu tháng Tishri. Ơn phúc thay Người cất tiếng và tạo nên thế giới. Mỗi tháng bắt đầu như sự phản ảnh những lời đầu tiên của Torah[12], với sự sống mới, được đánh dấu bằng sự trở lại của mặt trăng. Tới lúc đó, chúng tôi đã lang bạt gần năm mươi ngày, tránh xa bất cứ dấu hiệu nào của lính Roma. Vào Ngày Chuộc Tội, tôi thấy bản thân nặng trĩu tội lỗi, kinh hoàng với ý nghĩ Chúa biết những gì tôi làm ban đêm, ý thức được rằng tôi đã đánh cắp một thứ không thuộc về mình, như thể tôi là một ả trộm cắp hạ đẳng, và còn là một con sát nhân như bố tôi từng nói. Bố và tôi hầu như chẳng liên quan gì đến nhau, dù chúng tôi thường ở chung một nơi chật chội và cùng nhau dùng bữa. Chúng tôi quay lưng lại với nhau, ông không còn lựa chọn nào ngoài ăn những thứ tôi xoay xở được để bày ra trước mặt ông, cho dù tôi dám chắc ông coi chúng là không sạch sẽ. Tôi từng nghe thấy ông cầu nguyện một bài trước bát ăn của ông, như người ta vẫn làm để xua đuổi ác quỷ. - Bố có nghĩ con có thể giết chết bố từ trong ra không? - Tôi khinh suất hỏi vào một buổi trưa trong khi ông lẩm bẩm cầu nguyện trên món rau tôi vừa nấu. Ông ném về phía tôi một cái nhìn hằn học. Ông còng người xuống, mong manh, đột nhiên trở thành một ông già. Lần đầu tiên tôi nhìn thấy con người thật của ông, bất chấp chiếc áo khoác tàng hình. Tôi biết ông đã suy sụp. Khi đó tôi nhận ra ông đang lẩm nhẩm lời cầu nguyện cho người chết, những lời người ta cầu khấn khi có ai qua đời: Ân phước thay Người, Chúa của chúng con, Vua của vũ trụ. Ông đã để tang từ lúc tôi ra đời và đến giờ vẫn còn thương khóc mẹ tôi. Đột nhiên tôi cảm thấy xấu hổ. Ông là bố tôi, cho dù có tàn nhẫn đến đâu đi nữa, và tôi đã không trân trọng ông. Chúng tôi chào mừng vinh quang của Chúa vào Lễ Rương Thánh. Những người đàn ông cầu nguyện, nhưng chúng tôi không có trái nho nào, không có quả lựu đỏ nào để bẻ mở ra cho nước quả chảy xuống miệng và cánh tay chúng tôi, và ngày này cũng chẳng khác gì nhiều những ngày khác. Không bao lâu sau, thời tiết bắt đầu thay đổi. Cuối cùng lũ chim cũng lại xuất hiện. Tôi đã không hề nhận ra thế giới xung quanh lặng lẽ đến thế nào trong những tháng nắng gắt cho tới khi những bầy chim quay trở lại, bay lượn trên đầu chúng tôi. Đây là con đường chúng lựa chọn để có thể trải qua mùa đông ở miền nam, nơi những buổi tối không tối tăm lạnh lẽo như ở đây. Cả bầu trời đông nghịt những bầy chiền chiện và chim sẻ lông đỏ. Có cả những bầy sẻ đất, cu gáy, sẻ rừng, cò quăm. Có cả những đàn lớn chim trảu lông vàng chói và xanh ngọc, không ngớt ríu rít gọi nhau, kể cả thâu đêm. Cả một mảng rộng đủ màu sắc chao liệng trên đầu chúng tôi, tất cả cùng bay về phía nam, tìm kiếm các vùng đồng cỏ. Đôi lúc trông chúng như những đám mây nhấp nhô phía chân trời, lúc khác chúng bao phủ hết cả bầu trời. Quả là một phép màu khi được chứng kiến từng đợt sóng rập rình những bầy chim tạo thành các mảng đỏ và xanh trên sa mạc trắng lóa. Tôi không còn đếm từng ngày trôi qua trong hối tiếc nữa mà với niềm vui. Ngay cả khi tôi không sạch sẽ, khi tôi đã tách mình ra khỏi những người khác, bất chấp người vợ có thể thức giấc giữa đêm khuya và phát hiện ra ông đã đi, Ben Simon vẫn không rời khỏi tôi. Đáng ra đàn ông phải tránh xa phụ nữ trong thời gian kinh nguyệt hàng tháng của họ, điều đó đã được ghi trong Điều Răn Thứ Tư của Moses, và vì thế cũng là luật. Nhưng chúng tôi đã phá vỡ mọi điều luật có thể phá vỡ trong sa mạc, đó là hệ quả từ việc tôi rạch lên chân mình, vì đó là điều luật đầu tiên bị tôi lờ đi. Tôi không có người mẹ nào để nhắc nhở những điều cần thận trọng, nhưng thực ra, hẳn tôi cũng sẽ bất tuân nếu mẹ còn sống và ở đó cảnh báo tôi. Một điều luật bị phá vỡ sẽ dẫn tới một điều khác. Ben Simon trở thành không trong sạch, dính đầy máu của tôi như ông từng dính máu người Roma khi ông đâm kẻ thù của mình trong sân Đền. Ông đã quen với việc phạm tội. Ông vừa dịu dàng vừa thô ráp đầy mạnh mẽ. Khi ông nằm xuống, bàn tay áp lên đường cong trên hông tôi, vật đàn ông cứng rắn ép vào tôi, tôi không hề thấy tội lỗi trong mắt ông. Ông nói Chúa có thể phân biệt giữa một kẻ tội lỗi và một tội lỗi, và những gì chúng tôi đã làm đều nằm ngoài sự phán xử. Bất cứ khi nào từ trên hang đi xuống, tôi có thể đoan chắc Sia biết chồng chị đã đi đâu mỗi khi ông biến mất không ở bên chị. Tôi biết qua thái độ không chút phàn nàn của chị khi làm việc, qua cách chị cau mày. Tôi không thể gặp được đôi mắt bạn mình. Mọi thứ đáng ra tôi có thể có đều biến mất. Cô gái từng dấn bước tới ốc đảo vào đêm Đền bốc cháy không còn lưu lại dấu chân nào nữa. Cô gái ấy, người có mái tóc dài đỏ rực vương đầy bụi tro, người đã khóc than vì mất đi thành phố và mái nhà của mình, đã bị bỏ lại ở nơi có cây chanh mọc. Chìa khóa mở ra cánh cửa dẫn vào chốn hoang vu đã mở đường cho Sia thấy sự phản bội của tôi. Giữa các kẽ răng tôi két đầy sạn cát. Giờ tôi đã là một phụ nữ của sa mạc, không còn là kẻ ngoài rìa đầy e dè, một cô gái thành phố phát khiếp trước những con bọ cạp. Tôi đã trở nên dữ dội, sẵn sàng làm bất cứ điều gì để có được thứ tôi muốn. Đó là cách những kẻ săn mồi được sinh ra. Tôi cảm nhận thấy sự hung dữ hoang dại đó bên trong mình, một ý chí đen tối kiên định kiên quyết hướng tới sống sót. Nếu tôi muốn thứ gì, nó sẽ là của tôi. Tôi lén rình những con chim di trú và bắt chúng bằng cái khăn quàng của mình, đôi khi bằng cả hai bàn tay trần. Tôi rất khôn ngoan, như một con sư tử cái. Tôi đã quan sát cách rắn viper đen sa mạc có thể thôi miên một con chim, từ từ cuộn mình siết quanh con mồi trước khi tung ra nhát cắn tối hậu khiến con mồi tê liệt. Dân tộc chúng tôi tin mỗi tạo vật đều có một linh hồn -nitzotz - thiêng liêng, và chúng tôi cần thể hiện lòng tốt và sự cảm thông với mọi sinh linh, điều chúng tôi gọi là baal chayyim. Mọi loài động vật ca ngợi Chúa, giống như chúng tôi, bằng những bài ca và giọng nói của chúng. Vào giữa mùa đông, chúng tôi dành một dịp Sabbath cho những con chim, bày tỏ lòng biết ơn và sự thừa nhận của chúng tôi rằng chính tiếng hót của chúng đã dạy loài người biết cách hát và tụng ca vinh quang của Đấng Sáng Tạo. Thậm chí chúng tôi còn buộc phải xua những con gà mái đi trước khi thu trứng của chúng để chúng không nhìn thấy những gì xảy đến với những sinh vật chưa ra đời, đáng ra đã có thể trở thành con của chúng. Khi cần thịt, chúng tôi phải chắc chắn cắt cổ con vật bằng một nhát cắt hoàn hảo duy nhất để cho phép linh hồn nó được bay lên thành một dòng ánh sáng đều đặn. Chúng tôi không ăn máu theo bất cứ cách nào, mà để máu chảy xuống từ cổ con mồi, trở về với đất nơi đã sinh ra nó. Nhưng tôi đã chứng kiến cách cái chết xảy ra trong sa mạc mỗi khi con rắn viper chờ đợi trong vạt bóng lốm đốm vệt nắng dưới các tảng đá, vồ lấy bữa ăn của nó. Tôi đã học được bài học của mình. Tôi bẻ gãy cổ những con chim, nhưng làm thế thật nhanh, và luôn đọc một bài cầu nguyện. Tôi đặt thân thể những sinh vật không còn bay được nữa này vắt qua đầu gối mình, vặt lông chúng, tảng lờ thực tế tôi đã cướp đi mạng sống của những sinh vật tuyệt diệu đến thế. Còn gì tôi không thể đây? Còn điều đắng cay, tàn nhẫn nào tôi không sẵn sàng làm đây? Trong cái hang đó tôi đã trổ nanh mọc vuốt, đúng những gì bố tôi đã nói sẽ tới với chúng tôi trong sa mạc. Bất cần, tôi không còn e ngại ai đó có thể nghe thấy chúng tôi ban đêm nữa. Chẳng có gì quan trọng nếu đôi mắt Sia sưng phồng hay bố tôi nhổ nước bọt xuống đất khi ông nhìn thấy tôi để bảo vệ bản thân ông, rõ ràng ông đã tin chắc tôi có thể nảy ra ác tâm và mang tới những lời nguyền. Hãy cứ để bọn họ tin họ nghe thấy tiếng lũ sư tử từ hang ổ trên núi của chúng tìm xuống gây ra những thanh âm hoang dại như thế lúc tối muộn. Sia ẳ chẳng là gì với tôi cả. Các con của chị không phải con tôi. Kẻ nào sống sót phải phụ thuộc vào sức mạnh cơ thể và một thứ ý chí thô ráp. Tôi có tất cả những cái đó. Tôi thôi không quay về lều ngủ nữa mà ở lại trong hang. Lúc này đã là Cheshvan, một số người gọi là tháng đắng, thời gian của Noah, thời điểm mưa nhấn chìm thế giới trong khi đam mê của tôi nhấn chìm đầu óc tôi. Tôi cho phép Ben Simon ngắm nghía tấm thân tôi trần trụi khi tôi ngồi trên các tảng đá phía trên hang. Tôi cho phép ông chiếm hữu mình ngay tại đó để những con chim ưng bay phía trên nhìn thấy, để Chúa của vạn vật chứng kiến, để vợ ông quan sát nếu chị có gan nhìn lên những vách đá tôi ưa thích. Người đàn ông tôi yêu sẽ chỉ đi xa đến thế, thể hiện ra rõ ràng rằng tôi sẽ phải là người phạm tội. Tất cả đàn ông đều bị những thôi thúc tội lỗi cám dỗ; ông sẽ không phải là đàn ông nếu một cơn khao khát thèm muốn không dâng trào lên căng phồng trong ông. Nhưng một người phụ nữ cho phép mình bị sa ngã trước sự sỉ nhục đó sẽ bị phán xét thật khắc nghiệt, vì cô ta lại lặp lại tội lỗi đầu tiên từng xảy ra trên thiên đường như một người con gái của Eva, phản bội các giới luật của Chúa để thỏa mãn bản thân. Tôi chấp nhận điều đó. Tôi vốn đã là một kẻ tội lỗi, kẻ sát hại chính mẹ đẻ mình; ham muốn chẳng là gì khi so sánh với một tội lỗi như thế. Khi Ben Simon ra lệnh cho tôi lại bên ông, tôi sẽ chạy tới như một con chó, nhưng ít nhất giờ đây tôi cũng là con chó được chọn chủ nhân của nó. Tôi để ông chiếm hữu tôi theo cách lũ chó vẫn làm với nhau, rồi sau đó theo cách của những con sư tử, mặt đối mặt, quấn chặt lấy nhau. Khi ông một mực nói ông buộc phải đi, tôi không cho ông rời đi. Tôi thỏa mãn mọi ham muốn của ông, sẵn sàng dâng cho ông tất cả để thuyết phục ông ở lại. Tôi bùng cháy với ông, nóng bỏng, tan chảy trong vòng tay ông, thân thể chúng tôi hợp lại thành một khối tối tăm quay cuồng, vì chúng tôi đã trở thành những con thú với thứ ngôn ngữ duy nhất đó. Những giọt lệ mặn chát làm mắt tôi cay xót, nhưng chúng không rơi xuống. Đam mê của chúng tôi là một thứ tình yêu hủy diệt. Khi cảm thấy hổ thẹn vì nhu cầu của chính mình, Ben Simon sẽ trút sỉ nhục xuống tôi, rồi ông lại khóc và ôm tôi trong vòng tay. Tôi khao khát ông như không biết đủ vì tôi biết ông sẽ sớm rời khỏi tôi để trở về với gia đình mình, ông thuộc về họ. Ông không bao giờ dối trá về điều đó. Tôi sẽ dõi theo từng dấu chân ông khi ông đi, và than khóc ông trước khi ông rời khỏi. Đó là thời gian khi chúng tôi nhớ tới lễ khôi phục lại sự linh thiêng của Đền sau khi người Syria bị đánh đuổi, khi Adonai cho phép lượng dầu dành cho một ngày cháy liền tám đêm để đánh dấu đức tin và sự khải hoàn của chúng tôi. Nhưng giờ với chúng tôi, ngôi Đền đã mất đi, và dầu của chúng tôi cháy với những cuộn khói đen ngòm. Những tảng đá trở thành bếp lò trong lúc ngọn lửa bập bùng trên vài cành cây cong queo chúng tôi tìm được. Một cơn mưa lất phất rơi xuống, làm ngọn lửa cháy chập chờn, vậy là thậm chí cả nấu nướng cũng trở nên khó khăn. Bữa ăn của chúng tôi là một con bồ câu tôi đã bẫy được bằng cái khăn của mình. Con vật không ngừng kêu tirr tirr, một bài ca đáng yêu nghe giống như tor, tên chúng tôi gọi những con cu gáy. Tôi nhìn lên một bụi sim và thấy bạn đời của con bồ câu đang đợi trên đó. Muộn hơn trong mùa, khi những con cu gáy di trú về phương nam, tôi tự hỏi liệu con chim đậu trên cành cây đó sẽ một mình bay đi, hay nó sẽ ở lại và than khóc. Tôi nhớ tới những lời Solomon dành cho người yêu dấu của nhà vua, Hãy nhìn xem, ôi em thật đẹp; em có đôi mắt của bồ câu. Tôi thấy phiền muộn nhuốm đầy đôi mắt đen của con chim đậu trên bụi cây, và một vẻ dịu dàng tôi chưa bao giờ thấy ở con người. Tôi bước tới chỗ con bồ câu lẻ bóng, tự hỏi liệu tôi có thể xua tan nỗi cô đơn của nó, song nó vụt bay lên đậu trên một cành cao hơn, những cái lông sáng màu óng ánh trong nắng, làm sao tôi có thể hủy diệt một tạo vật quá đẹp đẽ như vậy. Một khẩu phần nước được dùng thay rượu vang tối hôm đó, vì chúng tôi không có nho, cũng chẳng hề có thời gian để thử lên men những quả vả vẫn thỉnh thoảng tìm thấy trên cây mọc hoang. Tôi đã quen với cách sống hiện tại và tìm kiếm sự an ủi trong im lặng. Dần dà tôi thấy yêu mùi hương của sa mạc ban đêm, vừa nồng nàn vừa khắc nghiệt. Chúng tôi lang thang từ nơi này qua nơi khác, lần bước theo khả năng tìm ra nước, đuổi theo những dấu vết thú hoang để lại. Tôi tiếp tục sống tách biệt khỏi những người còn lại để Ben Simon có thể dễ dàng đến với tôi trong lúc vợ con ông ngủ. Có một lần, khi Ben Simon ra ngoài đi săn, bố tới bên tôi và hỏi liệu có phải tôi mong muốn trở thành một zonah. Tôi có cảm giác ông đã tát tôi. Ông so sánh tôi với những ả điếm sống ngoài rìa Jerusalem và sẵn sàng cởi áo ra cho bất kỳ ai trả tiền bọn họ, kể cả đám lính Roma. - Nếu con là người như thế, thì chính bố đã tạo nên con, - tôi nói vậy với bố, người đã giết chết không biết bao nhiêu người bằng con dao lưỡi cong của ông, người đã bỏ mặc tôi, cư xử với tôi như với một con chó, không hề ngần ngại lôi tôi vào sa mạc, nơi tôi sẽ chẳng có tương lai nào ngoài một số phận tiền định. •§• Tôi đã thôi không đếm ngày nữa. Tôi không mong ước được ở nơi nào khác, cho dù vẫn chưa thấy tung tích của anh trai tôi hay pháo đài của những người Do Thái nổi dậy. Cái nóng đã trôi qua, và mưa bắt đầu thực sự rơi xuống. Chẳng bao lâu nữa các vũng nước sẽ hình thành; trong các khe sâu nằm giữa vách núi sẽ ào ào tuôn chảy những dòng thác long lanh đầy màu sắc. Tôi giống con báo lang thang trên sa mạc, chỉ nghĩ tới sinh tồn và những gì có thể cần đến nhằm sống qua mỗi ngày. Tôi nhìn thấy dấu chân trên cát, luôn chỉ là một con báo đơn độc, không bao giờ là hai con đi cùng nhau. Chúng là những sinh vật cô độc tới mức khi gặp bạn tình, chúng cũng bắt đầu gầm gừ, vì chúng bị hút về phía nhau, song vẫn là kẻ thù. Chúng không hề giống lũ sư tử, luôn gắn bó với nhau cả đời và luôn kề vai bên nhau. Một lần, tôi đã bắt gặp một con báo, dù những dịp như thế rất hiếm hoi. Tôi đang im lặng nấp sau vài tảng đá nơi lũ chim làm tổ, đợi một con lại gần hơn để có thể vồ lấy. Tôi ngước mắt lên, và con báo đứng đó, bộ lông màu vàng cát với những chấm đen, to lớn, chắc chắn đủ dũng mãnh để giết tôi. Tim tôi đập thình thịch. Khao khát được sống siết chặt lấy tôi. Tôi đứng trên một tảng đá, bỏ khăn choàng ra và làm cho mình có vẻ dữ tợn, mái tóc đỏ rực bay tung sau lưng, khuôn mặt đầy dọa nạt, tôi gầm lên tiếng gầm của một con báo. Con vật kia liếc nhìn tôi, giật mình, rồi lao vụt đi. Nó biến mất giữa những tảng đá, rồi lao xuống vùng đất bằng phẳng, trượt đi trên mặt đất. Tôi rùng mình, sững sờ trước sự hung dữ của chính mình. Đó là con người hiện tại của tôi. Một sinh vật không quan tâm đến những gì người khác mong ước, một kẻ chỉ nghĩ cho chính mình. Tôi hẳn sẽ hạnh phúc được tiếp tục cuộc sống đó mãi mãi. Tiếp tục chờ đợi màn đêm và có Ben Simon khi tôi có thể, song số phận đã không định sẵn như thế. Đến cuối tháng Kislev, khi những đám mây tụ lại và buổi tối trở nên lạnh hơn, các con trai Sia bị ốm. Vận rủi đã luôn lẩn khuất mỗi khi chúng tôi ăn thức ăn không được ban phước hay uống từ những vũng nước tù. Chúng tôi đã rời khỏi một nơi có ma quỷ trú ngụ, và có lẽ một số trong chúng đã theo sau chúng tôi qua các cánh cổng của Zion. Hai đứa trẻ là những cậu bé dễ thương, luôn sẵn sàng lang thang đi tìm vả dại ở những dải đất màu mỡ dưới các khe núi, ít nhất cho tới khi mẹ chúng phản đối và không cho phép chúng đi cùng tôi nữa. Khi tôi hỏi liệu tôi có thể giúp chăm sóc chúng trong lúc ốm đau không, Sia nói không có việc gì tôi có thể giúp. Chúng không phải là con tôi, chị nói với tôi như thế. Tôi nhìn thấy nỗi khổ đau hằn sâu trên con người chị, nhưng tôi không đề nghị được chia sẻ sự đau khổ ấy vì chính tôi đã góp phần gây ra nỗi tuyệt vọng của chị. Tất nhiên, chị không muốn tôi lại gần. Hết ngày này qua ngày khác, hai đứa trẻ vẫn nóng như lửa, dù không khí trở nên mát mẻ hơn. Không bao lâu sau, lũ trẻ phát ra những âm thanh khò khè nặng nhọc khi chúng cố gắng thở. Những chấm đỏ mờ xuất hiện rải rác trên da chúng. Tôi có thể nghe thấy Sia khóc khi chúng không chịu ăn thứ súp đậu tằm chị nấu. Chị khóc lóc cầu khẩnAdonai để Người mang chị đi thay vì những đứa con của chị. Trong sâu thẳm trái tim mình tôi cũng ước điều tương tự. Thật khủng khiếp, nhưng đúng thế. Tôi cảm thấy sự đê tiện của mình, nhưng tôi vẫn muốn chị biến mất khỏi chúng tôi. Đó là con người tôi đã trở thành, là kết quả sự thèm muốn đã gây ra cho tôi. Lúc này, khi nghĩ tới người đầu tiên sẽ chết, tôi đoán đó là chị. Nếu bạn không thể tàn nhẫn trong sa mạc, bạn sẽ không bao giờ sống sót nổi. Đó là điều tôi tự nhủ với bản thân, là điều tôi tin. Tôi không phải là một con lừa hay một cô gái ngây thơ, cũng không phải một bà mẹ đang lo lắng hay một cậu bé lên cơn sốt cao. Tôi là một phụ nữ tóc đỏ đã nhìn trừng trừng vào một con báo. Tôi nói chuyện với một con dê bên sườn núi. Tôi thấy Ben Simon ngồi nhìn các con ông, những đường nét khắc khổ trên khuôn mặt bị nỗi lo âu làm biến dạng. Tôi tới bên ông, cúi đầu trước mặt ông, cầu khẩn được chăm sóc con ông. Một nụ cười khẽ nở trên khuôn miệng ông, và ông vuốt tóc tôi, nhưng lại nói tính mạng của chúng nằm trong tay Chúa, chứ không phải hai bàn tay tôi. Sia đang quan sát, khuôn mặt chị xám ngoét. - Hãy để em cho ông thấy em có thể làm gì, - tôi khẩn khoản. Chỉ trong một ngày, tôi bắt ba con gà hoang và nấu chúng trên bếp lửa. Tôi tìm thấy nước trong một nguồn nước ngầm nuôi dưỡng một cây sung dâu Ai Cập và hái xuống những quả chín màu da cam. Tôi nấu một thứ súp ngon lành cho hai cậu bé, sau đó cắt quả sung dâu thành từng lát mỏng mát rượi, áp lên đôi môi nóng bỏng của chúng. Sia không thể xua đuổi tôi. Chị không còn lựa chọn nào ngoài thẫn thờ gật đầu và chấp nhận sự giúp đỡ của tôi. Tôi lao vào cuộc chiến giành giật sự sống. Tôi biến nó thành lẽ sống và kỹ năng của mình, không giống như bố tôi, người cả ngày hờ hững ngước mắt nhìn về hướng Jerusalem khi bầu trời chuyển từ trắng sang xanh, ông, người từng giết cả tá lính Roma, một kẻ nổi dậy và phản bội, đã bị Judea hạ gục, những trận gió và cái đói đã giày vò và biến ông thành một kẻ bất lực. Lúc này, khi những đứa trẻ đổ bệnh, ông trở nên kinh hoàng, suốt ngày lẩm bẩm cầu khẩn Đấng Toàn Năng. Không phải ông quan tâm gì đến hai cậu bé, mà ông đang sợ cho phần xác của mình. Ông khăng khăng cho rằng quỷ dữ có thể di chuyển từ người này sang người khác chỉ bằng một cử chỉ tiếp xúc hay một hơi thở. Tôi dành cho ông sự khinh bỉ và quay đi. Khi bố tôi hỏi nước để rửa tay, tôi bảo ông hãy tự đi tìm lấy, hãy dùng tay bới qua lớp cát như tôi đã làm. Tôi chỉ quan tâm tới một người đàn ông, người từng đối mặt với sư tử. Nhưng tôi sợ rằng ông quá mềm yếu và đã bị vợ con cuốn lấy. Ông thôi không còn tìm đến bên tôi hàng đêm nữa. Trong cái hang của mình, tôi rùng mình co người lại, cô đơn. Tôi đau khổ, lén quan sát từ sau những tảng đá. Ông ngồi với lũ trẻ bên cạnh đống lửa được nhóm lên bằng những cành khô tôi đã nhặt về, ăn món súp tôi nấu, uống nước tôi đào được dưới cây sung dâu. Tôi đang chữa lành cho họ để họ trở lại với nhau, có lần, tôi nhìn thấy ông cầm lấy bàn tay Sia trong bàn tay to lớn của ông, nâng lòng bàn tay chị lên áp vào môi ông. Ông có quyền làm như thế, chị là vợ ông, nhưng tôi như bùng cháy trong ngọn lửa ghen tuông. Tôi không thể ăn món súp tôi đã nấu. Tôi không hề uống thứ nước tôi tìm thấy dưới bộ rễ cây sung dâu. Tôi biết từ những câu trò chuyện của các phụ nữ bên giếng tại Jerusalem cho rằng có thể khiến một người đàn ông gắn bó với bạn và giữ không cho anh ta bỏ đi. Đó là một nghi thức bằng máu, họ đã nói thế, với giọng đầy sợ sệt trước những việc như vậy, song máu không hề làm tôi sợ. Tôi một mình tìm đến nơi tôi đã thấy những con rắn đen, nơi có một lùm cây táo vàng Sodom, những hạt dài nhiều sợi của chúng được dùng làm bấc đèn khi chúng tôi có đủ mỡ kiếm được từ một con gà gô để thắp sáng vào lễ Sabbath. Tôi quỳ xuống, dùng một cái que vẽ khuôn mặt một con sư tử trên đất, rồi xếp vòng quanh nó những viên đá đã thấm máu tháng của tôi. Tôi muốn giữ con sư tử của mình trong lồng, và bằng cách này tôi hình dung ra mình có thể làm thế. Tôi không có bà mẹ nào dạy tôi những cách chữa bệnh đơn giản nhất, nhưng thực tế chứng minh câu phù phép của tôi đã thành công. Ben Simon tìm đến với tôi đêm hôm đó. Ông vẫn muốn tôi. Tôi che mái tóc mình bằng chiếc khăn quàng màu xanh. Tôi thận trọng và lặng lẽ, cảm thấy biết ơn quá mọi mức độ hình dung. Mọi thứ giờ đây dường như đều có thể bị phá vỡ. Thứ diễn ra giữa chúng tôi đã lớn dần cho tới khi biến thành một bông hoa, bông hoa đỏ chói của cây phượng vĩ, nhuộm đỏ thắm các ngón tay ta khi ta hái nó, vò nát nó thành một thứ dịch lỏng dính lên da. - Ta không nên có mặt ở đây, - ông nói. Điều tương tự cũng đúng với tôi, và đáng ra tôi cũng nên nói như thế. Thay vì vậy, tôi tới bên ông, và chúng tôi không từ chối bản thân bất cứ điều gì. Không ai trong chúng tôi được sinh ra để tìm tới chốn hoang vu này, nhưng vì số mệnh đã tiên định chúng tôi phải cất bước tới đây, nó cũng đã tiên định ông sẽ tìm đến tôi. Tất cả những gì tôi muốn là bàn tay ông ở trên cơ thể tôi, miệng ông áp lên miệng tôi, cơ thể ông và tôi hòa làm một. Đó là lúc tôi được sống. Tôi tự hỏi liệu có phải tôi đã gieo một lời phù phép lên chính mình, liệu đó có phải là một lời nguyền buộc tôi phải trả giá mãi mãi hay không. Đáng ra tôi phải để Ben Simon chăm sóc vợ con ông, nhưng tôi lại không cho ông đi. Một con báo biết nó là ai; nó không bao giờ đếm xỉa đến cơn hấp hối và nỗi sợ hãi của con mồi, nó lao tới vì nó đã được tạo ra để làm thế, nó đoạt lấy những gì cần phải đoạt. Có lẽ mọi thứ đã tốt hơn nhiều khi tôi còn vô hình, khi những người đàn ông bước qua bên cạnh tôi và ngoảnh mặt đi, khi tôi ru rú ở nhà như một con chó. Giờ đây hầu như tôi không nhận ra chính mình nữa. Nhưng tôi biết mình muốn gì. Khi bước đi giữa những tảng đá, chân trần, tôi để lại một dấu vết. Ông luôn theo sau để tìm tôi. Thậm chí cả khi đó, ông cũng không phải mang trên mình tội lỗi, vì mỗi khi ông tìm đến, tôi chưa từng một lần từ chối. •§• Đêm trở nên mát mẻ hơn, bầu không khí đượm hơi ẩm thổi từ ngoài Biển Lớn vào, mang theo mưa dưới những tầng mây dày. Nhưng cơn sốt của hai đứa trẻ vẫn chưa dứt. Chúng đã bị ốm một thời gian quá dài. Môi chúng sưng phồng, trắng bệch, mắt đảo tròng, và hai đứa trẻ lảm nhảm nói mê sảng. Chúng tôi quan sát chúng, lo lắng, e sợ điều xấu nhất. Đã đến mức chúng không còn ăn uống được nữa. Và sau đó, đến một ngày khi những cành cây thánh liễu bừng nở đầy những đóa hoa màu hồng, khi từng đám cây ngải đắng mọc lên giữa các tảng đá trên vách núi, đến lượt Sia đổ bệnh. Chị quả quyết không làm sao, nhưng lại run lẩy bẩy và không chịu ăn gì. Tối đó, chị nằm xuống bên cạnh các con, và đến sáng hôm sau, chị không còn gượng nổi khỏi nền đất nữa. Khi tôi mang nước đến, chị chấp nhận, nhưng cách chị nhìn tôi thật khủng khiếp. Có lần, chị tóm chặt lấy bàn tay tôi, và tôi nghĩ chị sắp sửa nguyền rủa tôi. Nhưng chị nhìn chằm chằm vào mắt tôi với sự chăm chú dữ dội. Tôi không rõ chị có tìm thấy thứ chị tìm hay không, nhưng có lẽ là có, vì sau đó chị hỏi liệu tôi có thể chăm sóc cho ông ấy nếu chẳng may chị chết đi không. Tôi hiểu ý chị là gì. Tôi cúi đầu xuống và hứa tôi sẽ làm. - Phải, tất nhiên cô sẽ làm rồi, - chị thì thầm. Giọng nói của chị không có vẻ tức giận, mà có âm hưởng của một phụ nữ đã chấp nhận buông xuôi và không còn phải bận tâm tới những chuyện nhỏ nhặt của những người sẽ còn phải lưu lại trên trần thế, ngoại trừ đoan chắc người chồng chị yêu quý sẽ được yêu lại. Sau đó, tôi không thể nhìn chị, người bạn duy nhất từng tử tế với tôi đến thế. Tôi cố giúp đỡ hết mức có thể, quỳ xuống bên chị, dùng một mảnh vải ẩm làm dịu đi làn da nóng bỏng của chị. Tôi đun một thứ trà bằng lá tầm ma và bạc hà, nhưng chị không thể uống được. Tôi nấu nước hầm từ xương và thịt gà gô, nhưng chị lắc đầu và xua tôi đi. Tôi chưa bao giờ chăm sóc ai, cũng chưa từng ở bên người đang ốm hay sắp chết. Chị nằm đó không chút phàn nàn, cũng giống như những đứa trẻ, vốn chỉ rên khe khẽ. Ở Jerusalem, có thể trả tiền cho các minim để họ tới đọc những bài chú bí mật. Họ sẽ cầu nguyện để cứu chữa người ốm khỏi Đấng Duy Nhất, và với tư cách là các bậc thầy về pharmaka, họ biết các phương thuốc cho phép chữa khỏi mù lòa, đau đầu, sốt nóng. Rễ cây hoa mẫu đơn có thể được nghiền ra cho những người bị lên cơn tai biến uống; sáp nóng có thể cầm máu. Các minim viết tên Đấng Toàn Năng một nghìn lần, tờ bản thảo sau đó được nhét vào trong một tấm da cuộn tròn, những lời cầu nguyện chứa đựng các bí mật sâu kín đến mức chỉ có thể được thầm gửi tới riêng một mình Chúa. Nếu có thể, hẳn tôi đã tìm tới một trong những người phụ nữ sống tại các con hẻm như bà lão tôi đã tìm đến để mua tấm bùa cho Amram, vì họ thường có những câu phù chú tối tăm hơn, cho phép mang trở lại một mạng sống dường như đã bị Thần Chết cướp đi. Nhưng chúng tôi chẳng có ai để có thể cầu xin cứu giúp. Chúng tôi chẳng có gì ngoài cát bụi. Thời gian trôi qua, nhưng những cơn sốt thì không. Thậm chí cả tôi cũng biết một cơ thể không thể chứa đựng được những ác quỷ đó quá lâu. Một buổi tối, Ben Simon không tìm đến với tôi. Tôi tới nơi cây thánh liễu mọc. Những viên đá tôi đã cẩn thận xếp đặt đều bị bới tung lên, có lẽ bởi lạc đà hay chó hoang khi chúng bới cát làm ổ qua đêm. Dù thế nào đi nữa, bùa phép đã mất đi hiệu nghiệm. Tôi quay trở lại khu trại và thấy ông đang ôm các con mình, khóc nấc. Giờ tôi biết mình đã lầm. Người ta thực sự có thể khóc trong sa mạc, cho dù đó là người bị đánh dấu bởi cái tát của một con sư tử. Vào lúc đó, tôi hiểu ra mình là ai với ông. Tôi không phải là thứ nhất, thứ hai, hay thậm chí thứ ba. Điều đó không hề làm ảnh hưởng đến cảm xúc của tôi hay vị trí của ông trong tim tôi. Nhưng tôi biết. Chỉ duy nhất một điều tôi có thể làm để ông vui. Khi tôi nói với Ben Simon tôi sẽ đi tìm cách chữa trị, ông đã ôm lấy tôi. Tôi đón lấy sự biết ơn của ông như thể đó là một dòng nước ngọt. Tôi muốn đi một mình, nhưng ông không chấp nhận. Một phụ nữ cô độc trong sa mạc cũng giống như con chim trong bẫy, sẽ là mồi cho bất cứ kẻ nào muốn vồ lấy. Ông một mực quyết định bố tôi sẽ đi cùng tôi, và cho dù bố tôi chẳng mấy bận tâm đến con gái mình, ông cũng đồng ý làm người đồng hành với tôi, có lẽ chỉ để chạy trốn khỏi những người đang ốm nặng. Ben Simon đưa cho tôi con dao của ông, con dao ông đã dùng để giết bao người, có những vết ố trên đó, nhưng lưỡi dao bằng bạc sắc đến mức khi tôi áp bàn tay vào nó, máu từ ngón tay cái ứa ra. Tôi giữ con dao trong vạt áo, gói trong một mảnh len, rồi dùng một sợi dây làm từ lông con dê của tôi buộc lại. Ben Simon quyết định tôi cần mang con vật cưng của mình theo, như thế sữa của nó sẽ giúp chúng tôi sống sót nếu chúng tôi không tìm được gì khác. Ông đưa cho tôi chiếc bình ông dùng đựng nước và cái bánh lúa mạch cuối cùng. Tôi cầm lấy, cho dù trong thâm tâm tôi những muốn trả lại tất cả. Tương tự như việc một món quà đánh dấu sự khởi đầu, nó cũng có thể đồng nghĩa với hồi kết. Có điều gì đó xảy ra khi chúng tôi nói lời tạm biệt. Ông đưa cho tôi tất cả những gì ông có, dẫu vậy một tấm màn che đã bị kéo xuống giữa chúng tôi. Tôi có thể cảm thấy cổ họng mình se thắt, tim đập thình thịch vào lồng ngực. Tôi ngước nhìn lên khuôn mặt người tôi yêu, nhưng ông không còn nhìn sâu vào nội tâm tôi nữa. Tôi đã trở nên trong suốt, không khác gì không khí với ông. Mọi thứ trở lại giống như ngày chúng tôi rời bỏ Jerusalem, trước khi ông nhìn trộm tôi gạn bùn lấy nước, trước khi ông biết tên tôi. Tôi nghĩ có lẽ đây là cách một sát thủ nói lời từ biệt, dữ dội và đầy kiêu hãnh. Tôi không thể ngờ ông đã đọc được những điều tiền định trong số mệnh. Chúng tôi lên đường khi buổi sáng còn tinh mơ, trên bầu trời có những con chim ưng quần lượn bay vòng. Bố và tôi bước đi, không biết mất bao lâu sẽ tìm được một phương thuốc hay thực ra liệu có gì để chúng tôi tìm kiếm hay không. Sự ngờ vực hiện diện khắp nơi, và vì lý do xác đáng. Nhiều khả năng chúng tôi sẽ bị giết trước khi tới được một nơi nào đó có dân cư. Những băng trộm cướp chiếm cứ các hang động ở khắp vùng Judea. Có những nô lệ bỏ trốn, những tên du đãng, những kẻ nổi loạn không còn gì để mất. Sa mạc hoang vu rộng mênh mông. Mỗi vách đá vôi trông đều giống những vách núi chúng tôi đã đi qua. Chúng tôi đi vòng quanh, lạc đường trong nhiều ngày để lẩn tránh binh lính của Chiến đoàn Roma, con dê tôi mang theo kêu lên be be để cảnh báo cho chúng tôi biết sai lầm của mình. Có những kẻ đã lang thang ở chốn này vĩnh viễn, không bao giờ được những người văn minh trông thấy mặt nữa. Tôi từng nghe chuyện từ những người phụ nữ ở bên giếng tại Jerusalem kể về một cô gái trẻ lạc trong sa mạc đã sống cùng bầy linh cẩu, di chuyển cùng chúng, ăn xác thối, và ngủ cùng chúng, và khi được tìm thấy, răng cô gái đó đã trở nên nhọn hoắt, vì cô ta không còn là người nữa. Khi chúng tôi đi qua cùng những vách đá cũ đến lần thứ ba, tôi không còn lựa chọn nào khác, đành lấy cái khăn anh trai tôi tặng ra, xé lấy những dải lụa. Tôi buộc những mảnh lụa xanh đó lên các cây gai để có thể nhận ra đường khi quay lại. Vài ngày sau khi lên đường, bố khiến tôi kinh ngạc khi nói chuyện với tôi. Đáng ra tôi chẳng nên ao ước chuyện này làm gì, vì bố chẳng có điều gì tốt lành để nói. Ông đay nghiến, buộc tội tôi đã lừa Ben Simon vào bẫy, như thể ông tin chắc tôi chính là con sư tử đã ngấu nghiến người đàn ông này, cướp đoạt ông khỏi người vợ. Tôi nhìn bố đầy thách thức, tự hỏi ông sẽ nghĩ gì nếu tôi bỏ đi, để mặc ông tự xoay xở lo thân, ông tiếp tục nói nếu hai con trai Ben Simon sống sót, chúng sẽ nợ tôi mạng sống và sẽ là con trai của tôi cũng giống như là con của Sia. Đôi mắt ông long lên giận dữ. - Có thể khi đó Chúa sẽ tha thứ cho mày. Tôi không biện hộ cho mình. Tôi thường lướt bàn tay lên những vết cắt vào da thịt đánh dấu thời gian chúng tôi trải qua trong sa mạc, rồi dừng lại ở ngày Ben Simon lần đầu tiên tìm đến tôi. Trên thực tế, tôi đã dấn bước vào chốn hoang vu tìm kiếm một phương thuốc vì nghĩ đó là cách đưa Ben Simon quay lại với tôi. Tôi đã không hề nghĩ tới hai đứa trẻ hay Sia cho tới tận lúc này. Chúa sẽ không tha thứ cho tôi vì điều đó. Bố và tôi dừng lại tìm chỗ nghỉ khi màn đêm buông xuống. Vào mùa này, ban đêm rất lạnh, và tôi đã nhặt nhạnh cành khô trên suốt dọc đường đi để nhóm lửa vào buổi tối. Khi không còn thứ gì khác để nhóm lửa, chúng tôi đốt phân của chính mình và của con dê, và khói bốc lên nồng nặc mùi xú uế. Bị bao phủ trong làn khói kinh khủng đó, tôi sợ rằng chúng tôi đã rời khỏi tầm mắt của Chúa. Ban đêm chúng tôi ngủ ngồi, tựa lưng vào nhau, áo choàng khoác quanh người, những nếp gấp trên trang phục nặng trĩu bụi bẩn. Chúng tôi nghe thấy âm thanh của những sinh vật trong bóng tối, chó hoang và linh cẩu, và có lần cả một con gấu đang nặng nề tìm về hang của nó. Đây là con đường không mấy người từng qua lại, vì chúng tôi không hề tìm thấy dấu vết của nước. Chúng tôi đã nghe nói tới số phận của Sodom, một nơi bị sấm sét đốt trụi. Người ta kể có những cái cây mọc đầy quả đẹp tuyệt vời, nhưng khi hái xuống quả lập tức tan biến thành khói và tro bụi trong bàn tay bạn. Vào những giờ ban ngày, mỗi hơi thở của chúng tôi đều như có lửa. Chúng tôi không dám tìm đến ốc đảo nào vì sợ bị người Roma bắt gặp. Con dê đã không có nước từ nhiều ngày qua, nó không thể cho sữa được nữa. Nó co ro đi nép sát vào tôi. Có những viên đá găm vào móng nó mà tôi cố hết sức để lấy ra. Dù thế, khi tôi khăng khăng buộc chúng tôi phải đi tiếp, tôi nghĩ đã nghe thấy nó khóc. Chúng tôi đã đi xa đến mức chiếc khăn của tôi chỉ còn lại một mảnh nhỏ. Sau lưng chúng tôi, một tuyến đường đánh dấu bằng những mảnh vải xanh vạch ra con đường quay về với Ben Simon qua sa mạc hoang vu. Chuyến đi của chúng tôi dường như vô vọng, vì không nhìn thấy gì ngoài những vách núi trắng lóa phía trước. Bố tôi lầm bầm, thề rằng ông ta đã tiên đoán trước những điều này, vì tôi chỉ mang đến vận rủi. Nhưng sau đó, chúng tôi lên tới đỉnh một vách núi và nhìn thấy phía xa một cảnh tượng làm trái tim chúng tôi nhẹ nhõm sống dậy. Đó là Biển Muối, một đường chân trời xanh ngắt. Nước có thể đổi màu; vào lúc này nó màu xanh, sau đó chuyển sang lục, rồi thành màu đen sẫm. Khi những đám mây lại gần, mặt nước chuyển màu đen, vì thế người Roma gọi nó là Hồ Hắc Ín, bởi nó tạo ra những đám đen nhánh như hắc ín. Nhưng với chúng tôi, trông nó giống như thiên đường, xanh ngắt tới mức chúng tôi phải kìm nước mắt lại. Mặt biển có vẻ ở gần đến mức dường như với tay ra là chạm được vào nó, song bố tôi nói nó còn cách chúng tôi vài ngày đi bộ nữa. Ông cảnh báo khoảng cách là một ảo giác đã đánh lừa rất nhiều người, thậm chí cả những nhà thông thái vĩ đại, đến chỗ tìm tới cái chết của chính họ. Họ tin chắc chỉ còn cách biển không xa nữa và hối hả lên đường dưới cái nắng khắc nghiệt, dấn thân vào một chuyến đi sẽ đưa họ thẳng tới gặp Mal’ach ha-Mavet, vị Thần Chết được kể có một nghìn con mắt, không bao giờ bỏ sót bất cứ nạn nhân nào của mình. Ngày trôi qua dưới mặt trời thiêu đốt trong khi chúng tôi bám theo tuyến đường cổ xưa dẫn tới biển. Chúng tôi đi ngang qua đống đổ nát của một khu dân cư, tại đó có thể nhìn thấy mặt trăng nhân đôi khi nó được phản chiếu trên Biển Muối. Khu dân cư đã bị quân Roma phá hủy. Nó đáng ra sẽ là thiên đường được xây dựng bởi Yahad, một nhóm tín đồ của giáo phái Essene, những người Do Thái thực hành những giới luật nghiêm khắc với giờ cầu nguyện cố định. Người ta kể rằng dân tộc chúng tôi đã bị chia tách làm bốn nhóm, mỗi nhóm với triết lý riêng của mình, sau đó lại bị chia cắt thêm bốn lần nữa nếu tính đầy đủ. Thực sự ngay thẳng, những người Essene trên thực tế đã tách rời mình khỏi tất cả những nhóm khác. Yahad đặt tên cho ốc đảo của họ là Sechacha, từ chúng tôi dùng để gọi mái che, vì nhà của họ được lợp bằng những tàu lá chà là rộng. Họ đã tìm đến sa mạc như những tín đồ chân chính, từ bỏ cuộc sống tiện nghi ở Jerusalem. Họ đã thấy trước sự sụp đổ của Đền và chạy trốn tới nơi đây chờ đợi Ngày Tận Thế, như thế họ có thể dành những giờ cuối cùng của đời mình cầu nguyện. Các thư lại của họ bận bịu với những cuộn bản thảo để đảm bảo chân lý của họ sẽ không mất đi khi thế giới này chấm dứt. Những người Essene nghiêm cấm các tượng thần, cũng giống như chúng tôi, song họ nghiêm khắc hơn rất nhiều trong thực hành tôn giáo của mình và thậm chí không chịu chạm tay vào một đồng tiền xu có hình khắc trên đó. Họ tin không ai được làm vua. Dẫu vậy, họ sẽ không bao giờ viện đến vũ lực hay chiến đấu chống lại những kẻ áp bức họ. Chúng ta nằm trong tay Adonai, họ khăng khăng quả quyết, vì vậy những mũi tên hay ngọn giáo đều vô nghĩa, có những đứa con của bóng tối và những đứa con của ánh sáng, và cuộc chiến thực sự trên thế gian là giữ mình trong ánh sáng và ca ngợi người biết tất cả, Elohim. Chúng tôi thấy những tàn tích đổ nát còn lại từ đường ống dẫn nước của họ, và con đập ở dưới một thác nước, tại đó chúng tôi uống lấy uống để, bất chấp vũng nước ngập đầy những dấu tích của khu dân cư đã bị quân Roma phá hủy: những cái đèn dầu và bình thủy tinh vỡ, lọ mực bằng đất nung, những chồng ostraca - những mảnh sành vỡ được dùng để viết lên. Vẫn còn lại một cây sồi cao và mấy cây nguyệt quế, bóng râm thưa thớt, nhưng tất cả những gì do bàn tay con người tạo ra đều đã bị hủy hoại hết. Những kèo gỗ chặt từ cây cọ đã rơi xuống đất và những tàu lá dùng lợp mái nhà đều biến thành từng đống nâu úa nát bươm. Tôi đi qua scriptorium, một thư viện nơi những giá sách và cây cột nằm rải rác trên mặt đất. Những mảnh bản thảo bằng da dê hay giấy cỏ chỉ bị xé rách nằm rải rác trên đất bụi, mục nát, rời rã. Tôi đi qua bên những hòn đá tảng, nhìn ngắm những bể tắm dùng cho nghi lễ nằm thành hàng với những bậc lên xuống rộng bằng vữa. Bây giờ trong những bể tắm đó đầy rắn, chúng nằm sát bên những vũng nước tù đọng hôi hám. Cuối cùng tôi bắt gặp một đống xương, những gì còn lại của sự trung tín. Cho dù không xứng đáng, tôi cũng xé những mảnh áo rách tả tơi của mình làm nghi lễ keriah, như một cách bày tỏ sự tôn trọng và thương tiếc, và khe khẽ đọc một bài cầu nguyện cho người đã chết. Mong danh xưng vĩ đại của Người được tôn thờ. Ân phước cho Người, mãi mãi và mãi mãi. Tôi quay về bên đống lửa bố tôi đã nhóm. Chúng tôi nghỉ qua đêm tại ốc đảo đó, biết rằng người Roma sẽ tránh xa nơi này cùng hồn ma những người đã bị chúng sát hại, nhưng những con chó rừng đói cồn cào sẽ tìm đến chúng tôi qua nỗi sợ hãi trong mùi chúng tôi tỏa ra. Chắc chắn chúng đã từng tới đây, vì xương của những người chết bị vương vãi rải rác rộng đến nỗi chúng tôi không thể thu nhặt được để xếp vào một hõm đá như họ đáng được đối xử. Chúng tôi nhìn nhau, bố và tôi, và có lẽ chúng tôi đã nhìn nhau trong một thứ ánh sáng khác hẳn khi các vì sao lơ lửng trên đầu và những khúc xương trắng lờ mờ trước mắt. Bố không nhiếc móc tôi đêm hôm ấy. Thay vì thế, ông bảo tôi nên đi ngủ trước, ông đã quyết định sẽ thức để canh chừng dã thú có thể mò đến tấn công chúng tôi. Đó là cử chỉ tử tế đầu tiên ông từng dành cho tôi. Ngày hôm sau, chúng tôi lên đường sớm. Có lẽ một thiên thần đã dẫn đường cho chúng tôi. Bố con tôi tìm thấy con đường hướng xuống phía nam, hướng của nguồn nước. Chính ở đây, những người Essene từ Sechacha đã tới lấy nước mang về khu định cư của họ. Chúng tôi rẽ vào một con đường chạy len giữa những bụi cây mâm xôi. Con dê cái, lúc này đã đói lả, ngốn ngấu nhai những cái lá màu nâu đầy gai. Nhưng khi chúng tôi đi xa hơn, có những chồi cây xanh nhú ra giữa các tảng đá. Gió bắt đầu thổi, mang theo mùi hương của cây balsam[13] cùng thứ mùi nhẹ nhàng, gần như không thể phát hiện được của nước. Gần như ngay lập tức, tôi nhận ra âm thanh vo ve của bầy ong. Đã lâu lắm tôi mới được nghe giai điệu gắn liền với vị mật ngọt này, đến mức thiếu chút nữa tôi đã xỉu đi. Chúng tôi vừa tới một ốc đảo, nơi có một nguồn nước từ dưới đất trào lên và những cây chà là lớn cao sừng sững. Không khí mát dịu, ngọt ngào tới mức dường như chúng tôi đã bước vào một đám mây ướp đầy hương thơm, thấm đẫm mùi của nhựa thơm và mùi ngò. Chúng tôi đã tìm thấy một nhóm người Yahad sống sót định cư ở đây chờ Ngày Tận Thế. Ngoài khoảng đất trống trải, những ruộng nho và vườn cây của họ sáng long lanh dưới bầu trời chói chang trắng lóa. Vẻ đẹp của thế giới bừng lên từ mọi sinh vật đang sinh trưởng. Có một cánh đồng lúa mì và lanh, rực lên màu vàng nhạt và vàng óng, như bốc cháy dưới ánh mặt trời. Chúng tôi nghe thấy âm thanh của những chiếc chuông được treo trên cây bằng những cuộn dây màu đen vặn xoắn, kêu leng keng trong lúc đu đưa theo gió. Có hàng tá cây dâu tằm và ô liu được trồng vòng quanh một giếng nước xây bằng đá, cạnh một vạt cây hồ trăn đã chuyển sang màu lục nhạt. Một bầy bốn mươi con dê đang tụm lại dưới bóng cây, và thêm bốn mươi con cừu gà gật ngủ ngoài nắng. Rất nhiều người trong số các Essene từng là tu sĩ, một số sống cô độc xa lánh phụ nữ trên các vách đá vôi, hang của họ được đánh dấu bằng mezuzoth, những chiếc hộp chứa các cuộn bản thảo ghi lời cầu nguyện Chúa. Những người này quá thanh khiết với những vướng bận trần tục của thế gian, song cũng có những người tới đây cùng vợ và con gái, những người phụ nữ của họ mặc vải lanh trắng, đầu lúc nào cũng trùm kín. Họ sống trong những căn lều lớn cùng gia đình, một số những người này đã chạy tới đây từ Sechacha, một số khác chỉ mới từ Jerusalem tới sau khi Đền sụp đổ. Người ta chăm chú theo dõi chúng tôi khi chúng tôi đi qua khu định cư. Có những ngôi nhà cộng đồng xây bằng đá, bể tắm dành cho nghi lễ, và thư viện, nơi các học sĩ chuyên tâm hoàn tất các văn bản, họ tự chia ra thành từng nhóm ba người, như vậy có thể liên tục cả ngày lẫn đêm làm việc với các cuộn bản thảo ghi trên da động vật hay giấy cỏ chỉ. Có lẽ bố con tôi trông giống như những con quỷ, làm bằng cát hơn là bằng xương thịt. Mắt chúng tôi nhìn ra từ giữa khuôn mặt nhem nhuốc bẩn thỉu. Mái tóc tôi trông giống như một vệt máu xoắn bết xuống sau lưng, dài đến mức thõng qua cả dưới eo. Một vài người phụ nữ chớp mắt khi nhìn thấy tôi, nhưng không ai giễu cợt. Những người theo giáo phái Yahad thể hiện sự tử tế trong những ngày họ tin là quãng thời gian cuối cùng của tất cả chúng tôi trên thế gian này cái gì thuộc về người này thì cũng thuộc về láng giềng của anh ta. Những người phụ nữ bước tới chào đón chúng tôi. Thứ vải họ mặc trên người nhẹ nhàng đến mức trang phục của họ tung bay xung quanh thân mình. Tôi khao khát muốn có được những tấm vải lanh quấn quanh người để không ai có thể nhìn thấy tôi. Có lẽ khi đó tôi có thể chịu đựng được sự dữ dội từ ánh sáng chói lòa của Chúa khi Người không thể tha thứ cho tôi về tất cả những gì tôi đã làm. Mặc dù những con người thánh thiện này đã mất đi rất nhiều thành viên của họ dưới tay lính Roma, vì họ đã cho đi hay khu dân cư ở Sechacha đã bị đánh chiếm và phá hủy thậm chí trước cả khi Đền sụp đổ, những người Essene vẫn không chấp nhận mang dao bên mình, một hành động họ coi là báng bổ tới sự vĩ đại của Chúa. Ngay lập tức, bố tôi quyết định không cho họ biết ông là một trong các Sicarius. Những con người này coi các Sicarius thuộc về phía bóng tối, là những con rắn dám thách thức Adonai. Chúng tôi chỉ nói mình là những người bị xua đuổi khỏi Jerusalem, một ông bố nghèo khổ cùng người con gái đã trở thành những kẻ lang thang. Khi chúng tôi nói tới một người mẹ và những đứa trẻ đi cùng chúng tôi bị lên cơn sốt, những người phụ nữ Essene đã rất thương cảm và lập tức quyết định giúp chúng tôi. Một người trong họ, tự xưng tên là Tamar Bat Aaron, đưa bố tôi tới gặp một nhà thông thái, một vị tu sĩ được các tín đồ gọi là Abba - người cha - một người rao giảng những điều hay lẽ phải được mọi người làm theo một cách hào hứng vui vẻ thay vì như một bổn phận. Abba đã già đến mức luôn cần phải có chiếc ghế, được bốn người đàn ông khỏe mạnh khiêng; và Tamar thánh thiện thì thầm bảo chúng tôi cần ngồi xuống cách xa sáu mươi sải tay, khoảng cách mọi phụ nữ luôn giữ, trong khi đầu họ che kín, đôi mắt cúi xuống đất nhưng sáng ngời, vì cho dù phụ nữ không tham gia vào các giới luật nghiêm khắc của Essene, họ vẫn đầy hào hứng khi lắng nghe nhà thông thái vĩ đại nói. Một tu sĩ khác ở đẳng cấp như Abba hẳn đã đuổi chúng tôi đi, quá bận bịu với những lời cầu nguyện và chẳng bận tâm tới thỉnh cầu của chúng tôi. Hoặc có lẽ một con người quyền thế như vậy chắc hẳn đã đồng ý lắng nghe nếu chúng tôi mang theo bạc để đổi lấy ân huệ của ông ta. Nhưng Abba tin tất cả mọi người đều là những người anh em của ông. Ông là đệ tử của một thầy đến từ Galilee, người thuyết giảng rằng hòa bình là hy vọng duy nhất cho loài người. Không có hòa bình, chúng ta sẽ chỉ như những con chó hoang trong sa mạc, không hơn không kém. Bên cạnh tôi, Tamar thì thầm kể Abba từng có mười người vợ và đã sống lâu hơn tất cả họ; giờ đây ông dành đời mình ngợi ca vinh quang của Chúa và dạy dỗ về con đường hòa bình. Những người sống ở đây cầu nguyện ba lần mỗi ngày; vào buổi sáng khi họ quay mặt về hướng Jerusalem, sau đó vào lúc hoàng hôn, và thêm một lần nữa sau khi màn đêm buông xuống. Họ mang theo những gì thiêng liêng bên trong con người mình, vì mỗi con người đều là một ngôi đền, và mỗi lời cầu nguyện được nói ra đều vọng tới tai Cha của chúng ta, ở cao phía trên chúng ta. Khi được nghe kể về cảnh ngộ khó khăn của chúng tôi, Abba tặng cho bố tôi với thái độ niềm nở vồn vã một bài cầu nguyện được nhét trong ống kim loại để buộc lên cánh tay người mắc bệnh. Ông cho chúng tôi một đoạn dài dây đã được ban phước, để buộc vào áo của lũ trẻ, qua đó gắn kết chúng với sức khỏe tốt, cũng như một củ tỏi quý màu tím sẫm để xua đuổi tà ma. Chúng tôi cần đọc tên Adonai một trăm lần trước một cốc nước và tỏi đã được đun sôi ba lần trên bếp lửa, sau đó cho những người ốm uống trong lúc họ cầu nguyện để xin ân phước của Chúa. Chúng tôi được cho chà là khô, bánh lúa mạch và được phép nghỉ lại qua đêm. Một cơn mưa nhẹ đang rơi xuống, và mặt đất nhanh chóng ngập đầy những vũng nước nhỏ. Bố tôi được dẫn tới một ngôi nhà cộng đồng để ở lại cùng những người đàn ông. Tôi buộc con dê cái vào một cây thánh liễu và đi theo những cô gái chưa chồng, họ nhìn tôi với vẻ tò mò lạ lẫm. Hẳn với họ trông tôi chẳng khác gì một con thú hoang. Khi tôi để lộ mái tóc ra trước mặt họ, họ sững sờ trước những nút tóc đã rối bết lại vào nhau và cùng chải gỡ chúng ra bằng lược gỗ. Họ đưa tôi tới tắm ở khu bể tắm dùng cho nghi lễ của họ, và nước quanh người tôi đều chuyển thành màu đen kịt. Thậm chí cả tôi cũng thấy đó là một điềm xấu, nhưng các cô gái Essene cười phá lên và nói nước thiêng tẩy rửa đi mọi tội lỗi. Họ tin rằng đầm mình trong nước sẽ giúp họ lại gần Chúa hơn, và họ tắm vài lần mỗi ngày, có một cầu thang đôi dẫn lên bể tắm; một với những bậc thang đá vôi để bước vào, cầu thang còn lại dành cho những người trong sạch đã thanh tẩy mình để họ có thể ra khỏi nước mà không đụng chạm tới những người vẫn còn chưa sạch sẽ. Quả thực, khi bước ra khỏi bể nước, tôi cảm thấy thực sự được tẩy rửa sạch sẽ lần đầu tiên kể từ khi rời khỏi Jerusalem. Mái tóc tôi đỏ đến mức lũ ong bay tới gần, lượn lờ vòng quanh. Những người phụ nữ Essene bật cười, cho rằng với chúng hẳn mái tóc của tôi trông giống như một cánh đồng tràn ngập hoa hồng. Tôi đã phải chạy trốn khỏi bầy ong và la lên tôi là một người phụ nữ chứ không phải một bông hoa. Tamar đưa cho tôi một chiếc áo dài. Đó là tấm áo trắng đơn giản, với sợi đai bằng lông dê để thắt ngang hông. Tôi nói đó là một món quà quá quý giá, nhưng Tamar vẫn nhất định ép tôi phải nhận. - Tài sản chẳng là gì hết, vì chúng vô dụng ở Thế Giới Bên Kia, - chị nói với tôi. - Cô không thể mang chúng vào ngôi nhà của Chúa. Quá khứ dường như là một giấc mơ xa xăm. Chúng tôi đã cách thật xa cảnh tàn sát từng chứng kiến ở Jerusalem, cách chiếc hang nơi chúng tôi tìm được chỗ trú thân vài ngày đi bộ. Nhưng những gì tôi đã làm, con người tôi đã trở thành, thực sự nhiều hơn một giấc mơ. Khi nheo mắt lại, tôi có thể thấy sau những vườn cây các vách núi đá vôi lởm chởm và con đường tôi đã đánh dấu bằng những mảnh vải xanh. Tôi có thể cảm thấy sự thôi thúc giục giã dưới họng mình, một cảm giác hoảng hốt vì đã để Jachim Ben Simon lại sau. Tôi sợ những gì đã gắn kết chúng tôi với nhau có thể sẽ biến mất nếu tôi không còn hiện diện trong mắt ông. Có lẽ rồi ông sẽ tin cả tôi cũng là một giấc mơ trước khi ông bừng tỉnh. Tôi tự hỏi các vị chủ nhà của chúng tôi sẽ nghĩ thế nào nếu họ biết sự thật về chúng tôi. Bố tiếp tục kiên nhẫn chờ đợi và giữ kín bí mật của chúng tôi. Ông tin những con người thành tín này là những kẻ điên, cho rằng bất cứ ai ngồi yên chờ Ngày Tận Thế đều đang tự tạo ra nó cho chính họ. Nhưng tất nhiên việc ông nghĩ thế là không thể tránh khỏi. Bất cứ ai tham gia vào chiến tranh đều tự nhủ với bản thân anh ta có thể thay đổi những gì đã được tiền định, và chính anh ta, chứ không phải Chúa, mới là người tạo ra số mệnh, là người có thể tự do thay đổi những gì được coi là đã được định đoạt. Vào buổi sáng chúng tôi rời đi, Tamar đưa tôi tới nhà chị và cho tôi một phần pho mát, thứ pho mát trắng haris halab có vị mặn, có thể để dành ăn dần trong nhiều ngày và sẽ giúp chúng tôi được ăn đầy đủ, cùng một ít quả chà là khô ngọt lịm. Chị có bốn đứa con trai nhỏ, không quen nhìn thấy người lạ mặt, miệng chúng há tròn khi nhìn thấy tôi cho tới khi Tamar xua chúng đi. Khi chúng tôi chỉ còn lại hai người với nhau, chị cảnh báo rằng bố con tôi cần cẩn thận khi đi đường. Gần đây đã xảy ra một cuộc tấn công vào một khu định cư khác có tên Ein Gedi, một ốc đảo nơi bốn con suối gặp nhau để tạo nên những thác nước lớn, một trong chúng tạo nên hồ nước nơi người ta kể Vua David từng ẩn náu trốn tránh kẻ thù. Cũng tại đó có những bông Moringa Pergrina nở, loài hoa với sức mạnh ma thuật từng cho phép David viết những bài ca của nhà vua thánh thiện đến thế. Ở đó cũng có những cây keo mọc bên bờ nước, và những cây táo dại, thứ quả màu cam của chúng thu hút những con chim tới từ Hy Lạp và Ai Cập, và có cả một vạt cây balsam, thứ nhựa dính của chúng là một loại hương liệu còn giá trị hơn cả vàng. Ein Gedi là một nơi sung túc giữa thời buổi đói kém. Chính vì thế, nó giống như con cừu béo trong mắt những kẻ đang đói lả. Những kẻ tấn công xuất hiện vào ban đêm. Bảy trăm người đã bị giết, hay bị các Sicarius tấn công vào những nhà kho của khu định cư bắt đi. Những người Essene biết Sicarius là thủ phạm vì loại dao lưỡi cong, thứ vũ khí luôn tìm tới đích của nó, rồi sau đó lôi linh hồn khỏi thể xác nạn nhân, đã được sử dụng. Những kẻ đến cướp đã cuỗm sạch mọi thứ, ngũ cốc, rượu vang và nước, bên cạnh mạng sống của những người vô tội. Tim tôi nặng trĩu khi nhắc đến các Sicarius. - Những tên sát nhân sẽ không tìm ra em nếu em thận trọng, - Tamar nói với tôi. - Nếu ai đó xuất hiện gần em ngoài sa mạc, hãy trốn kỹ nhất có thể. Giờ có lẽ em hiểu tại sao ở đây chúng ta tin chắc hồi kết đã cận kề. Với sự phản trắc như thế hiện diện trên thế gian, các thiên thần chắc chắn sẽ tới với chúng ta và dẫn chúng ta sang Thế Giới Bên Kia. Tôi gật đầu, cho dù biết bố tôi tin những lưỡi dao chứ không phải các thiên thần mới là câu trả lời cho sự phản bội. Tôi kìm lại không buột miệng nói rất có thể anh trai tôi cũng có mặt trong số những kẻ đã tấn công Ein Gedi. Chúng tôi vội vã chuẩn bị để lên đường, và khi đã sẵn sàng, một người đàn ông tìm tới chuyển lại lời nhắn cuối cùng từ Abba. Mắt bố tôi nhắm hờ, trái tim khép kín, nhưng ông vẫn lắng nghe, vì ông là khách của nơi này, và ít nhất cần làm ra vẻ biết cách xử sự. Tôi nghe thấy những gì được nói và nhanh chóng cúi mặt xuống. Khi người đưa tin đã nói xong, bố tôi cúi đầu chào từ biệt, nhưng không hề bày tỏ sự biết ơn. Đó là tính cách của bố tôi, lặng lẽ và vô tâm; đúng những gì tôi lường trước từ ông. Ông vẫy tay ra hiệu cho tôi, và như một con chó, tôi ra đi cùng ông, theo sau một quãng, mặt cúi gằm xuống. Khi chúng tôi lên đường, vài người phụ nữ theo tiễn, vẫy tay chào, chúc tôi những lời tốt lành, nói cho tôi biết tôi đẹp đến thế nào trong bộ trang phục mới của mình. Họ không biết gì về tôi, chỉ một góc nhỏ tôi đã hé lộ, thậm chí một phần chúng có vẻ như giả dối. Bố tôi và tôi cũng là hai người xa lạ với nhau. Chúng tôi biết về nhau cũng ít như những người Essene biết về chúng tôi. Chúng tôi còn nhiều ngày đường phải đi, và mặc dù bố không còn nhục mạ chửi mắng tôi nữa, chúng tôi vẫn chẳng có gì để nói với nhau. Tôi không biết gì về quãng đời của bố trước khi ông cầm dao, dù từng nghe qua những lời đồn kể rằng ông có một người em trai đã bị bán làm nô lệ. Nếu một người đàn ông phải chứng kiến em trai mình bị trói lại, lôi đi trên con đường lát đá, liệu có lúc nào anh ta có thể nhìn thấy điều gì khác được không? Nếu mười người đàn ông bị nhốt trong cùng căn phòng với một con sư tử và chỉ một người sống sót, người đàn ông đó sẽ trở thành thế nào? Nếu một phụ nữ có mái tóc đỏ luôn giữ im lặng, liệu cô ta còn có thể nói ra sự thật được nữa không? Trong lúc đi đường, chúng tôi ngoái lại đằng sau để nhìn thấy mặt Biển Muối luôn không ngừng thay đổi màu sắc. Chúng tôi có thể nhìn thấy buồm của những chiếc thuyền đáy bằng lướt trên mặt biển tới xứ Moab[14], lúc này đang nằm trong tay một tộc người hung dữ có tên là Nabatean. Người ta kể Moses đã được chôn cất tại vùng đất phì nhiêu này, song chưa ai từng khám phá ra chốn thiêng liêng đó, dù đã có không biết bao người tìm kiếm. Có thể như vậy là hay nhất, vì Moses giữ trong tay lời giải cho những bí mật quá vĩ đại để con người có thể hiểu, một món quà và cũng là gánh nặng quá lớn để dân tộc chúng tôi có thể chịu đựng. Một ngày, sau khi chúng tôi đã leo qua được những vách núi cao nhất, biển biến mất khỏi tầm nhìn, chìm lấp xuống mặt đất như thể nó đã bị nuốt chửng. Từng luồng hơi nóng bốc lên từ nơi đã từng là chỗ của nó, vì nước biển luôn nóng hơn không khí. Không lâu sau, thậm chí cả những luồng hơi cũng biến mất. Chúng tôi tiếp tục dấn bước. Tôi không nghĩ về thực tế tôi là một cô gái trẻ đang lang thang trong sa mạc, một mình và nóng hừng hực. Tôi từ chối để những ý nghĩ của mình bị ám ảnh bởi những con thú hoang hoặc đám trộm cướp. Hơn cả, tôi không cho phép mình hình dung ra những gì có thể đã xảy ra tại khu trại của chúng tôi khi hai bố con tôi vắng mặt, về một cơn sốt có thể thiêu đốt người ta như một ngọn lửa, cho tới khi chẳng còn lại gì ngoài tro tàn, về cơn sốt có thể lan nhanh như lửa, truyền từ một nạn nhân này sang người khác. Chúng tôi có lời chúc phúc của Abba cùng phương thuốc của ông. Chúng tôi chỉ còn phải tìm đường. Tôi hối hả thúc giục bố, thu nhặt những mảnh vải xanh trong lúc lần theo con đường chúng đánh dấu, thầm biết ơn anh trai tôi về món quà của anh. Những mảnh lụa đã tả tơi. Một số đã bị linh cẩu tha đi hay bị gió cuốn mất, và tất cả những gì còn lại chỉ là những sợi vải được những con sâu đã biến thành bướm tạo ra. Một ngày, trời đổ mưa lớn. Bố tôi muốn đợi tới khi mưa tạnh, tìm chỗ trú ẩn trong một hang đá vôi, nhưng tôi nhất quyết cần tiếp tục đi, dù cho da chúng tôi đẫm nước và trang phục trên người ướt sũng. Bố tôi không còn lựa chọn nào khác. Ông sẽ lạc đường nếu không có tôi, vì chỉ mình tôi biết hướng chúng tôi cần đi. Vừa đi, bố tôi vừa bực tức càu nhàu và than vãn, nhưng rồi mưa cũng hết, ngớt dần từng chút, vậy là chúng tôi bước đi, đầu tiên dưới những giọt nước lác đác, sau đó là trong không khí tươi mới, mát dịu. Khu trại cũ trống trơn khi chúng tôi về đến nơi. Vẫn còn đó vết tích đống lửa và cái giỏ tôi vẫn dùng để hái bạc hà và rau dại. Cả những cái bát chúng tôi dùng mỗi bữa ăn, và cây rìu đã phạt gai góc trên đường chúng tôi đi. Một lớp bụi mỏng phủ lên mọi thứ, và tôi nghĩ tới hai cô bé con - hai cô dâu Ben Simon đã chỉ cho tôi, rồi ông đã khóc ra sao, và tôi đã gục ngã trước sự mê hoặc của ông thế nào. Chúng tôi đã đánh cắp quãng thời gian ở bên nhau, quãng thời gian dường như vô tận trong bóng tối. Tôi cảm thấy có thứ gì đó sắc lẻm cứa vào cổ họng mình. Tôi không biết đó là điểm khởi đầu cho cơn đau khổ của tôi, cho tới lúc bố quát tôi im lặng. Tôi đã khóc òa lên, hệt như cách một con báo tru, đột ngột, không hề đoái hoài tới bất cứ sinh vật nào khác. Chúng tôi tìm thấy họ bên trong hang đá ẩm ướt, họ đã chui vào trong đó tìm kiếm cảm giác dễ chịu hơn và chỗ trú thân trong những giờ phút cuối cùng. Họ ở bên nhau, như họ xứng đáng được như thế. Tất cả đều mang những chấm đỏ của bệnh tật trên người, tất cả đều đã kiệt quệ tới mức xương lộ rõ bên dưới làn da. Ben Simon đã đặt vợ và các con ông lên một rìa đá trước khi nằm xuống bên họ. Những đường mạch máu trên cánh tay ông vẫn còn xanh, nhưng chúng đã tái nhợt, và làn da ông đã lạnh ngắt. Tôi quỳ phục xuống hai đầu gối và ôm chặt lấy ông, tuyệt vọng tìm kiếm chút hơi ấm còn sót lại. Tôi áp miệng lên miệng ông, nhưng ở đó không còn hơi ấm, không còn sự sống. Tôi có thể cảm nhận thấy mùi vị của Thế Giới Bên Kia. Tôi không chịu rời đi khi bố quát tháo tôi, hay khi ông vung tay lên với tôi. Cuối cùng bố tôi buộc phải chôn cất họ. Khâm liệm xác chết sẵn sàng cho Thần Chết và hát những bài than khóc là phần của phụ nữ, sau đó họ phải lánh riêng ra cho tới khi hồn ma của cái chết không còn ám vào họ nữa, nhưng tôi không chịu. Những vết lằn thâm tím vắt ngang dọc qua lưng và vai tôi khi bố đánh tôi, nhưng ngày hôm đó tôi nhất quyết không chịu là con chó của ông. Bố gào lên rằng tôi là kẻ nhát gan, sợ phải chăm lo những điều cần làm cho người chết, nhưng ông đã lầm. Tôi không hề sợ bị nhiễm ẳ bẩn, cũng chẳng hề sợ cái chết. Tôi chỉ sợ nếu ôm lấy Ben Simon quá lâu, tôi sẽ không thể để ông ra đi được. Bố tôi mang các thi thể lên vách đá cao nhất, xếp đá lên trên để chim ưng, kền kền và chó hoang không thể bới ra được, ông đọc những bài cầu nguyện than khóc, sau khi đã quấn chiếc khăn cầu nguyện của Ben Simon quanh vai mình để tưởng nhớ người đã khuất. Trong bảy ngày tiếp theo nghi thức an táng, bố tôi phải ngồi dưới ánh mặt trời để thanh tẩy bản thân, vì ông đã ở cận kề bên cái chết và bị coi là tamé, không thanh khiết. Ông hát những lời than khóc đáng ra phải là việc của một phụ nữ, vì tôi không thể ép những lời ấy đi ra khỏi miệng mình. Tôi không thể chấp nhận cái chết của Ben Simon hay nhìn ông bước sang Thế Giới Bên Kia. Khi nhắm mắt lại, tôi có thể hình dung ra vẻ đẹp tự nhiên trên thân thể mạnh mẽ của ông, những đường nét sắc sảo của khuôn mặt, cái nhìn đánh giá sâu sắc như xuyên thấu qua tôi. Tôi không muốn để ông đi, dẫu vậy tôi có thể nghe thấy những lời than khóc, cầu nguyện của bố tôi ngay cả khi tôi đưa hai bàn tay lên bịt tai lại. Tiếng than khóc của ông nghe như tiếng gió, và cũng như tiếng gió, nó bao bọc lấy tôi cho tới khi tôi không còn nghe thấy gì ngoài một bài ca duy nhất. Tôi tự hỏi trong cơn bệnh của mình Ben Simon có giống như con sư tử đã nỗ lực quá nhiều chống lại chín chiến binh, chỉ để rồi gục ngã xuống và chết trước người thứ mười. Tôi không rõ liệu có phải ông đã cầm cự được cho tới tận ngày cuối cùng khi trời mưa, khi chúng tôi đã ở rất gần, chỉ cách vài bước chân nữa, và có phải cơn mưa ấy do nước mắt ông tạo ra không, vì ông không hề thấy xấu hổ khi phải khóc. Tôi nhớ những lời tôi đã nghe được trước lúc chúng tôi rời chỗ những người Essene, khi Abba cho người mang lời nhắn của ông đến bố tôi. Thậm chí cả về sự chính trực, chỉ Adonai có quyền trừng phạt. Có thể con người thánh thiện đó đã biết tất cả chúng tôi là ai. Giờ thì sự trừng phạt dành cho những sát thủ đã rơi xuống đầu chúng tôi. Nếu một Sicarius mang trên vai tất cả những người anh ta đã sát hại khi anh ta đi bất cứ đâu, lẽ nào những người chết lại không ước muốn cuối cùng được báo thù? Có thể linh hồn họ đã bám theo Ben Simon, và khi ông suy yếu vì đau khổ, khi ông khuỵu xuống, đôi mắt ướt nhòe trước thân hình bất động của các con mình, họ đã thiêu đốt thân thể ông, khuất phục ông. Tôi chôn phương thuốc của những người Essene đi, vì giờ nó đã trở nên vô dụng, như người ta vẫn nói những thứ tồn tại trên thế giới này luôn thế. Khi đào xuống thứ đất rắn màu trắng, tôi tự hỏi liệu có phải chính tôi là kẻ bị trừng phạt, liệu có phải giờ đây tôi sẽ phải chịu đựng nỗi đau khổ như những gì tôi gây ra cho bạn tôi khi cướp mất thứ thuộc về chị. Trong suốt bảy ngày bố tôi tách mình để thanh tẩy bản thân sau khi tiếp xúc với người chết, tôi không hề ăn uống. Tôi buộc con dê vào một bụi cây thấp và không buồn lắng nghe khi nó lên tiếng gọi tôi. Vào lúc rạng đông mỗi ngày, tôi lại cắt một dấu vết của nỗi đau khổ lên chân mình, nhát sau sâu hơn nhát trước, vì giờ đây tôi dùng con dao sắc bén của Ben Simon. Mỗi vết thương với tôi giống như một cái hôn, một dấu tích tối sẫm của đam mê. Mùi máu tỏa ra từ trên làn da tôi, như một lớp màn bao phủ lấy tôi. Một buổi tối, có một con báo tìm đến ngồi xuống bên kia đống lửa, ngắm nhìn tôi. Tôi không vùng dậy xua đuổi nó. Hãy tới đây xé xác tôi. Thử xem tôi có bận tâm không. Đôi mắt tôi bắt gặp mắt nó, và tôi thấy tia sáng hung dữ màu vàng lóe lên trong cái nhìn của con báo. Nhưng cuối cùng hẳn nó đã coi tôi là vô giá trị, vì nó bỏ đi. Khi bố tôi quay lại sau những ngày thanh tẩy, ông choáng váng thấy tình trạng của tôi. Tôi hầu như không đứng dậy nổi nữa, xám ngoét như thứ tro bụi một ngày kia tôi sẽ biến thành. Tôi không có gì trong cuộc đời mình ngoài chờ đợi đến lượt mình tới Thế Giới Bên Kia. Thế gian giờ còn là gì nữa với tôi? Một buồng giam, một sợi dây trói. Bố vẫn luôn nói với tôi rằng tôi chẳng là gì cả, và tôi đã trở thành như thế. Sau này ông thú nhận mỗi khi thấy tôi, ông luôn nghĩ tới mẹ tôi vào thời khắc tôi ra đời, đã từ giã thế giới này. Vào ngày ông nhìn thấy tôi đang xỉu dần, ông nghĩ tới những gì mẹ tôi hẳn sẽ làm nếu bà có mặt bên đứa con gái duy nhất. Hẳn bà sẽ muốn cứu tôi. Và đó là lý do vì sao ông thuyết phục để tôi cuối cùng cũng chịu uống một ngụm nước. Vào ngày thứ tám sau khi Jachim Ben Simon đã được chôn lấp dưới những tảng đá, tôi bắt đầu ăn và uống từ chiếc túi da dê vốn thuộc về ông. Tôi làm thế không phải vì tôi mà vì người tôi yêu, vì ông vẫn chưa từ giã tôi. Cho dù Thần Chết đã cướp ông đi, vẫn còn một mảnh linh hồn của ông lưu lại. Tới lúc đó, tôi biết tôi sẽ không chảy máu nữa. •§• Không lâu sau, bố tôi có một giấc mơ dữ dội. Ông tỉnh dậy với khuôn mặt nước mắt ròng ròng và đức tin quay trở lại. Ông đã mơ thấy anh trai tôi đợi chúng tôi trên một ngọn tháp. Giấc mơ thực đến nỗi ông có thể nghe thấy anh nói với ông. Hãy nhìn, và con sẽ tới với bố, Amram đã nói vậy. Bố tôi thề rằng khi những đám mây rẽ ra, ông có thể thấy được con trai mình. Tin như thế, người sát thủ tìm lấy một cây gậy để ông có thể leo lên vách đá lởm chởm cao nhất, nơi ông tin có thể thấy được vùng đất ông đã thấy trong mơ. Tôi không tranh cãi với ông, nhưng tôi thấy hoài nghi. Bố tôi có thể có niềm tin, song tôi thì không. Tôi nhìn nhận chúng tôi đúng như những gì chúng tôi đã trở thành: người đàn ông quá già nua, yếu ớt để có thể là một sát thủ đúng nghĩa, cô con gái đã bị hủy hoại của ông ta, người không còn có thể khóc hay có kinh nguyệt nữa. Tôi nghĩ có lẽ ai đó đã trút một lời nguyền đầy căm hận lên tôi, có thể là Sia trước lúc chị qua đời, có thể chỉ đơn giản đó là tất cả những gì tôi đáng được hưởng trên thế gian này. Mưa giờ đây trở nên dữ dội hơn. Bầu trời xanh lét, ướt sũng những luồng nước trút xuống xối xả. Bố và tôi ngồi hàng ngày trời trong hang để tránh những cơn lũ ào ạt, con dê là người bạn đồng hành duy nhất. Cái hang hôi hám này là nơi cuối cùng Ben Simon đã lưu lại trên cõi đời; ông đã hít thở trong bầu không khí ẩm thấp, ngột ngạt của đá vôi và thở hắt linh hồn mình ra bên trong hang đá tù hãm này. Tôi từng nghĩ có lẽ tại đây tôi sẽ cảm thấy gần gũi ông hơn, nhưng ám ảnh bên tôi lại là hồn ma của Sia. Tôi có thể cảm thấy chị véo tôi để cố thu hút sự chú ý của tôi. Chị truy đuổi tôi trong những giấc mơ. Cô cho rằng sự thể có thể diễn ra theo cách nào khác ư? Cô cho rằng cô có thể có được thứ cô muốn chăng? Khi bừng tỉnh, hổn hển thở dốc, đôi lúc tôi tin có thể nghe thấy tiếng chị cười, như thể chúng tôi vừa trải qua một trận chiến và chị là người chiến thắng, và giờ đang khoan khoái với kết quả. Những tháng mùa đông đã cận kề. Tôi muốn bỏ chạy, nhưng những cơn mưa trút xuống xối xả tạo thành một thế giới tôi không thể chạy trốn khỏi. Gần như ngay lập tức sa mạc trở thành biển cả. Nơi lúc trước chỉ có tiếng gió rít, giờ đây tất cả những gì chúng tôi nghe thấy là tiếng nước ào ào. Thứ chúng tôi từng mong đợi, giờ đây đã có thừa mứa. Những vũng nước lớn xuất hiện khắp nơi; ở dưới mọi khe núi, nước lũ chảy nhanh tới mức bất cứ con dê hay hươu nào bước hụt chân đều có thể dễ dàng bị cuốn đi. Những loại côn trùng biết bay xuất hiện từng đàn lớn, bay lên mặt nước như những đám mây. Những con sơn dương tìm tới uống nước và trở nên hoạt bát hơn hẳn. Con dê nhỏ của tôi vùng vẫy ở đầu dây buộc; nó đã luôn trung thành lần theo gót chân tôi, nhưng giờ dường như mùi của mưa đã làm nó phát cuồng. Con dê vung chân đá và chạy vòng quanh, sữa của nó thật tươi và có vị cỏ ngọt mát. Tôi khóc khi nghĩ tới cuộc sống vẫn tiếp tục ngay cả khi nhiều thứ đến thế đã mất đi, và mưa vẫn rơi, sim vẫn mọc giữa các kẽ đá. Tôi tìm thấy một vũng nước trong tụ lại ở một khe nước chảy. Nhận ra mình vẫn chưa tắm rửa kể từ lần tới bể tắm nghi lễ dành cho các phụ nữ Essene, tôi cởi trang phục ra, và thấy mình đã bị bầm tím nhiều chỗ và gầy rộc đi. Tôi hầu như không còn nhận ra da thịt của mình nữa. Dẫu vậy, bụng tôi dường như có vẻ đầy lên, lồi ra, làm tôi giống một phụ nữ đã thỏa mãn bản thân bằng cách uống quá nhiều nước. Tôi nhận ra mình đã rạch vào chân sâu đến mức tạo thành các vết sẹo không bao giờ hoàn toàn liền lại được. Tôi đã phải kìm mình không cắt da thịt bản thân thành từng mảnh, vì lưỡi dao cắt vào cơ thể tôi làm tôi cảm thấy như Ben Simon đã chiếm hữu tôi, và tôi khao khát được có lại mối liên hệ được đánh dấu bằng máu đó. Màn đêm buông dần trong lúc tôi tắm trong vũng nước. Không mấy chốc nữa, những ngôi sao sẽ xuất hiện trên bầu trời. Khi nghe thấy tiếng nức nở, tôi cầu xin linh hồn người vợ của người tôi yêu hãy để tôi yên, vì tôi tin chắc chị đang ở bên tôi, bị nỗi phiền muộn giằng xé tan nát. Sia là một phụ nữ dịu dàng, luôn dễ rơi nước mắt. Tôi tin chắc tôi đã khóc những giọt nước mắt của chị, chứ không phải của mình. Đến cuối tháng Shevat, những bông hoa dại bừng nở đủ màu sắc sống động; liễu phủ đầy những sợi lá dài mảnh mai xanh mướt. Bố và tôi vẫn tồn tại. Chúng tôi không phàn nàn về hoàn cảnh của mình, cũng chẳng nói về quá khứ. Nhưng mỗi tối, tôi lại leo lên vách đá nơi những nắm xương tàn an nghỉ. Tôi quỳ xuống trong lúc ánh sáng tắt dần và ngày kết thúc. Tôi cầu nguyện cho một thứ không bao giờ được ban phát; một cuộc sống khác, cuộc sống tôi đã sống qua và đánh mất. Một ngày, tôi nán lại muộn trên đó, đang mải mê ngắm nhìn ánh sáng nhạt dần thành từng dải màu hồng và xám, thì phát hiện thấy hai người đàn ông đang băng qua sa mạc tới gần. Họ là những chiến binh trẻ. Tôi gọi bố, và ông hối hả trèo lên đứng cạnh tôi, dùng một cành thánh liễu được ông chuốt làm gậy chống để trợ sức trên đường. Hai bố con tôi đứng trên cao quan sát những người lạ tới gần, bụi tung lên phía trước họ như những đám mây. - Đây là giấc mơ của ta, - bố tôi nói, thái độ đượm vẻ mừng rỡ. - Kia là những đám mây chỉ ra nơi chúng ta cần đi. Những người này sẽ dẫn chúng ta tới tòa tháp nơi Amram ẩn náu. Chúng tôi đã cô độc trong sa mạc một thời gian dài, bạn đồng hành duy nhất chỉ là những nắm xương tàn dưới đống đá. Nhưng những nắm xương nói chuyện với tôi. Họ cho tôi biết những lời cầu nguyện của tôi sẽ không được trả lời. Tôi sẽ không bao giờ được tha thứ. Tôi sẽ phải trả giá cho những tội lỗi của mình. Tôi muốn thoát khỏi giọng nói nghe hệt như giọng của Sia. Nếu tôi đi chỗ khác, có lẽ nó sẽ câm lặng. Tôi muốn tin vào giấc mơ của bố. Tôi thận trọng hơn ông, song cả tôi cũng cảm thấy Amram đang ở gần chúng tôi. - Nhưng chúng ta chưa thể tin được, - tôi nói, và lần này bố tôi không phản đối. - Những giấc mơ đến với người ta vì nhiều lý do, vừa như những lời tiên tri, vừa là sự cảnh báo. Tôi tò mò quan sát những người lạ mặt tới gần, chiếc khăn san được tôi quấn kín quanh người. Bố tôi chuẩn bị đề phòng trường hợp những người đang tới là kẻ thù giả bộ đóng vai người giải cứu chúng tôi, sẵn sàng chiến đấu nếu bọn họ chống lại chúng tôi và chứng tỏ giấc mơ của ông là một lời tiên tri giả hiệu. Ông nắm chặt lấy con dao của mình, rồi lầm rầm cầu nguyện xin Chúa hãy ở bên ông. Hai người nọ dừng chân ở khe núi bên dưới. Họ cất tiếng gọi bố tôi, thề rằng họ là các chiến binh Zealot. Bố tôi trả lời họ. Ông vẫn nắm chắc con dao giấu trong áo choàng. Dù đã yếu và không còn trẻ trung nữa, bố tôi vẫn có thể phóng dao từ khoảng cách xa và giết chết một người. Tôi từng chứng kiến ông làm vậy khi một gã lính định chặn ông ở một con hẻm gần nhà chúng tôi. Sau đó, ông bước đi không ngoái lại, như thể không phải vừa lấy đi một mạng người. Hai chiến binh trẻ lớn tiếng nói Hol đã cử họ tới. Họ biết tới chim phượng hoàng, người chiến binh luôn đứng dậy được mỗi khi ở vào hoàn cảnh khiến người khác gục ngã. Khi nghe thấy nhắc tới biệt danh mà chỉ những người bạn thân thiết nhất của anh trai tôi biết, bố tôi buông rơi vũ khí. Nước mắt rưng rưng trong đôi mắt ông, và khuôn mặt khắc khổ của bố tôi, đã già đi rất nhiều kể từ khi chúng tôi rời bỏ Jerusalem, bừng nở một nụ cười. - Mang tôi tới gặp nó, - ông yêu cầu. Tôi nhận thấy bố đã không hề nói “mang chúng tôi tới gặp nó”. Tôi chẳng là gì cả, như luôn là thế. Chỉ khi ông cần đến tôi dẫn đường, kiếm ăn cho ông, trở thành chỗ dựa duy nhất của ông giữa chốn hoang vu, chỉ khi đó ông mới nhớ cả tôi nữa cũng là con ông. Những người tới tìm chúng tôi cũng không hơn tuổi anh trai tôi, còn trẻ nhưng đã dạn dày vì những gì họ đã thấy, đã làm. Tôi nhận ra một người, Jonathan, tôi từng gặp ở Jerusalem. Anh ta từng nghiêm túc theo học cầu nguyện. Người ta nghĩ anh ta hẳn sẽ trở thành thầy cả hay học giả, nhưng sau đó anh ta gia nhập cùng anh trai tôi và cầm lấy dao. Người còn lại có tên Uri, nghĩa là ánh sáng. Anh ta là một thanh niên béo tốt, xởi lởi, tính cách sôi nổi của anh ta luôn nổi bật trong mọi cuộc trao đổi. Tôi lánh mặt đi, cảm thấy miễn cưỡng khi phải để lộ sự có mặt của mình, nhưng những người bạn của anh tôi lại rất vui mừng khi tìm được tôi và gọi tôi đến với họ. Amram đã kể cho họ nghe về tôi, người em gái anh vẫn gọi là Yaya, người đã chăm sóc anh như một người mẹ, người đã nấu ăn, may áo cho anh, lắng nghe những kế hoạch bí mật tới mức anh không dám hé lộ cho ai khác biết. Người chiến binh trẻ có tên Jonathan lấy ra một mảnh lụa xanh bị gió cuốn đi đã tình cờ tìm tới đúng con đường của anh trai tôi. Chính nhờ nó mà họ tìm thấy tôi. Chúng tôi sẽ đi theo một con đường dẫn qua phần cực nam của Biển Muối. Tôi biết nếu ra đi, tôi không thể trở lại được nữa. Tôi sẽ phải từ bỏ Ben Simon, người đàn ông duy nhất từng biết tôi là ai. Xương cốt ông sẽ không được thu nhặt vào dịp kỷ niệm ngày mất của ông như phong tục của chúng tôi, để được đặt vào một chiếc tiểu bằng đá. Nhưng nếu tôi ở lại, sa mạc sẽ nuốt chửng tôi. Lúc này tôi không thể mềm lòng hay buông xuôi theo khao khát muốn được nằm xuống cạnh người yêu dấu của tôi. Chúng tôi sẽ phải đi qua phần khắc nghiệt nhất của hoang mạc, một nơi chỉ có muối và phiền muộn, một vùng đất thậm chí còn khó vượt qua hơn cả thung lũng nơi chúng tôi tìm thấy những người Essene. Người ta đồn rằng lính từ các đồn binh Roma xuất hiện rải rác khắp nơi, và chúng tôi cần cẩn thận tránh các doanh trại của chúng, lui trở lại khi cần thiết. Tôi nghĩ tới con dê tội nghiệp của tôi, sữa của nó là thứ duy nhất tôi có thể uống được. Người ta kể có một con ma đội lốt dê trong sa mạc có tên Sa ‘ir, nhưng về phần mình tôi chỉ thấy con dê thực sự là một thiên thần. Nó đã cứu mạng chúng tôi khi chúng tôi không còn gì trong tay; nó từng sống hoang dã, tôi đã bắt giữ nó, còn nó đã tha thứ cho tôi; con dê chính là người bạn duy nhất khi tôi cô độc. Trước khi chúng tôi lên đường, tôi thả nó tự do. Tôi buộc một sợi dây màu đỏ quanh cổ nó và dẫn nó lên vách đá cao nhất. - Đi đi, - tôi nói trong lúc cắt dứt sợi dây buộc nó. Con dê đã quá quen đi theo tôi, nó không chạy trốn trở lại với thiên nhiên hoang dã. Con vật cưng của tôi chỉ đứng đó, nhìn tôi. Tôi vỗ lên mông nó để thúc nó chạy đi. Tôi nhớ tới đôi mắt đen của Ben Simon, nước da màu ô liu của ông, nụ cười của ông mỗi khi nhìn thấy con dê ngoan ngoãn theo sau tôi. - Tránh xa tao ra, - tôi vừa nài nỉ, vừa xua đuổi nó. Tôi biết, cho dù tôi quát tháo con dê, thực ra tôi đang nói với hồn ma của Sia. Ở đoạn đầu cuộc hành trình của chúng tôi, các vách đá cao đến mức hai người thanh niên phải buộc dây thừng quanh eo tôi và bố, rồi kéo chúng tôi lên những vách đá vôi dựng đứng. Vào mùa này, có các loại rau và măng tây dại mọc giữa các vách núi. Không khí đượm mùi bạc hà và hành thơm hăng. Mỗi mảnh màu xanh đều thật dịu mắt. Còn có cả những chùm hoa cải nở vàng, giống như những chòm sao sa xuống đất. Quả sung dâu đã ngả sang màu cam sáng, và những con ong bắp cày đã theo mùi quả chín mọng tìm đến. Chúng tôi khoan khoái trước âm thanh của một cuộc sống sôi động như thế, nhưng không lâu sau, chúng tôi tiếp tục đi lên cao hơn, tới nơi bầu trời nhợt nhạt, mờ ảo. Chúng tôi lê bước qua những đồng đá sắc nhọn tới mức cả lũ sơn dương cũng không thể chạy nổi ở đó. Chỉ đến ngày thứ hai, bàn chân chúng tôi đã tứa máu. Mỗi lúc chạng vạng, cho dù đang ở đâu, tôi luôn lặng lẽ ngồi xuống một mình. Bằng cách này, tôi có thể kiếm bữa tối cho chúng tôi. Mỗi tối, tôi đều tìm kiếm lũ chim. Một khi phát hiện ra những đám cành cây nơi chúng làm tổ, tôi im lặng ngồi xuống gần bên. Chúng tới cạnh tôi, nghĩ rằng tôi được tạc bằng đá, coi tôi như một phần của sa mạc, không hơn. Tôi bịt mắt chúng lại khi bẻ cổ chúng. Đáng ra tôi nên để hơi thở của chúng được trút ra và dành cho chúng cái chết gọn ghẽ bằng một nhát dao duy nhất. Tôi luôn mang con dao của Ben Simon trong áo, áp sát vào da thịt tôi, nhưng không dùng đến, trừ khi lấy nó ra để vạch dấu lên chân mình. Tôi ghì sát những con chim vào mình, lắng nghe tiếng tim chúng đập, rồi làm những gì sa mạc đã dạy tôi. Chúng tôi nướng chim trên đống lửa hai chiến binh trẻ đã nhóm. Họ tán thưởng tôi trong lúc ăn món ăn tôi chuẩn bị. Họ nói tôi thực sự có tài năng. Tôi đúng là một nữ thợ săn, hai người đùa. Bố tôi trừng mắt nhìn khi họ hát ca ngợi tôi. - Việc này chẳng là gì cả, - tôi một mực nói. - Lũ chim tự tìm tới tôi. Những người chiến binh có vẻ giống như hai cậu trai khi họ trêu đùa tôi về kỹ năng đi săn của tôi; dẫu vậy, tôi vẫn cố giữ cho mình luôn vô hình, như tôi từng làm ở Jerusalem. Những cậu trai trở thành đàn ông vào ban đêm, khi tim họ đập mạnh và điều cấm đoán dường như trở nên có thể. Cho dù không có áo choàng màu xám, tôi biết cần biến mất như thế nào. Tôi có thể làm cho mình biến mất, dường như trở thành không là gì cả khi tôi cặm cụi ngồi dùng cát đánh sạch nồi nấu, đôi mắt lảng tránh mọi tiếp xúc. Nhưng dưới ánh lửa, chiếc khăn trùm của tôi tuột khỏi đầu, và các bạn anh tôi nhận thấy mái tóc tôi màu đỏ. Họ có thể nói tôi không còn con gái nữa. Họ quay mặt nhìn đi nơi khác, bối rối, ngượng ngùng vì những ý nghĩ của chính họ. Họ thậm chí không nên ngồi bên đống lửa cùng một người phụ nữ không phải là mẹ, chị em gái hay vợ của họ, chứ chưa nói đến nhận đồ ăn từ tay tôi. Tôi bị coi là một niddah, không thanh khiết và không trong sạch, vì ở đó không hề có mikvah thậm chí cả một vũng nước đục ngầu bùn cũng không. Nhưng chúng tôi đang ở giữa sa mạc, và họ không còn nhiều lựa chọn. Họ ăn những con chim tôi bắt được, giúp tôi leo lên các vách núi, dẫn tôi tới gặp anh trai tôi. Trong lúc đi đường, hai người chiến binh trẻ kể lại những câu chuyện về pháo đài họ đang chiếm lĩnh, những câu chuyện tôi thấy thật ngớ ngẩn lố bịch. Họ kể pháo đài đó là bất khả xâm phạm, vùng đất xung quanh khắc nghiệt đến mức không cuộc tấn công nào nhắm vào họ có thể thành công. Nơi ấy từng là một cung điện do Vua Herod xây dựng, một nơi có vẻ đẹp phi phàm được ẩn kín sau những đám mây. Tôi biết về vị vua đó, với sự tàn ác đã trở thành huyền thoại, như người ta kể có lần ông ta đã mổ bụng một con nhím, sau đó lộn ngược con vật khốn khổ từ trong ra ngoài để úp lên khuôn mặt kẻ thù của mình, khiến kẻ kia mù mắt. Ông ta đã phản bội những người xung quanh mình, là thủ phạm sát hại Mariamme, vợ ông ta, người bị ông ta buộc tội can dự vào việc chế philtron và pharmaka - các phương thuốc, bùa yêu và phù chú. Bà ta đẹp đến mức viên tướng Roma Marcus Antonius[15] mê mẩn đến phát cuồng khi nhìn thấy bà và khao khát muốn có được bà. Chính vì thế Herod đã khép vợ vào tội chết. Không lâu sau, con trai ông ta bị buộc tội tàng trữ một thứ chất độc chế từ nọc rắn mào, do một phụ nữ ở Edom hành nghề keshaphim[16] cung cấp. Cuộc hành hình người con trai lập tức nối tiếp theo cuộc hành hình người mẹ. Bất cứ kẻ phản phúc nào đều biết số phận của hắn là bị nỗi thống khổ hắn từng gây ra cho người khác quay lại trút xuống đầu chính mình, song Herod đã mơ chạy trốn khỏi số phận được tiền định. Ông ta xây dựng pháo đài của mình trên sườn dốc phía tây của ngọn núi mang tên Masada, nơi này được hoàn tất một trăm năm trước thời của chúng tôi. Nữ hoàng Ai Cập muốn có xứ Judea, cầu xin với Anthonius và Roma dành cho bà ta vùng sa mạc này như một món quà, vì nữ hoàng thèm muốn những kho báu nó sở hữu: con đường ra biển, những đồng muối, rừng balsam ở vùng Moab, nhựa thơm và trầm hương, những nguồn tài nguyên giàu có ngoài sức tưởng tượng. Những người đang chờ đợi chúng tôi tại Masada được kể bao gồm hơn chín trăm người, trong đó có ba trăm chiến binh. Năm mùa đông trước, họ đã chiếm lại pháo đài lớn của Herod từ tay một nhóm nhỏ lính Roma đồn trú tại đây. Họ đã hành sự một cách dễ dàng, dưới sự che chở của bóng đêm, bằng cách vòng qua đằng sau ngọn núi, một kỳ công người Roma từng nghĩ là bất khả thi. Không gì là không thể, họ đã khám phá ra điều đó. Họ đã thành công trong việc leo lên trời, tới gần hơn với Chúa. Tôi nghĩ đó là một giấc mơ khi những người bạn của anh tôi thề rằng tòa Cung Điện Bắc của ông vua già còn đẹp hơn khu vườn treo Babylon, một trong những kỳ quan của nhân loại. Những cây cột màu đen và trắng đã được chuyển tới từ Hy Lạp, đưa xuống thuyền qua biển, sau đó được các nô lệ kéo qua vùng Judea nhờ dây chão và con lăn. Những bức tranh ghép long lanh màu sắc đã được mang từ Italia tới sa mạc, để rồi được những người thợ nề khéo tay nhất cẩn thận lắp ghép lại từng mảnh một. Các nhà tắm, được sưởi ấm nhờ những ống gốm đặt dưới sàn, được làm bằng thạch anh có chất lượng tốt đến mức những viên đá sáng long lanh với ánh sáng đỏ khi mặt trời lên cao. Sàn nhà được trang trí hoa văn mang các màu hồng, xanh lục và đen, những bức bích họa đã được hàng trăm nghệ sĩ đến từ Italia vẽ bằng những chất màu tốt nhất của Roma, xanh nước biển, xanh ngọc bích, đỏ nâu, giống hệt như màu các loại đá quý, long lanh như những món đồ trang sức. Những thứ màu duy nhất tôi biết lúc này là màu trắng của sa mạc, màu đen của màn đêm, màu đỏ từ máu của chính tôi ứa ra từ những vết rách dưới bàn chân tôi khi chúng tôi leo qua đá nhọn. Trong lúc họ kể về những kỳ quan như thế, chúng tôi chen chúc nhau trong các hang hốc ẩm ướt đầy bọ cạp, tìm chỗ trú ẩn để tránh những cơn bão tố đang gầm rít. Tôi nghĩ tới những con bọ cạp từng sống ở nhà tôi khi tôi còn là một đứa trẻ. Chúng im lìm tới mức có thể nhầm tưởng chúng là một ảo giác cho tới khi chúng bất thần lao vụt tới tấn công con mồi và chứng tỏ điều ngược lại. Tội lỗi cũng giống như vậy, tôi đã khám phá ra sự tương đồng đó. Thật xa xôi, cho tới khi nó xảy đến. Tôi vẫn nghe thấy chị, người bạn tôi từng có, người phụ nữ tôi từng phản bội. Khi ngủ, tôi có thể cảm thấy đường cong của hông chị chạm vào hông tôi. Tôi từng nghe nói ma quỷ có thể gắn liền chúng vào một con người. Một khi việc này hoàn tất, sẽ không thể bỏ chúng lại đằng sau hay xua đuổi chúng đi được nữa. Tối đến, chúng đưa tay nắm chặt lấy tay bạn với quyền sở hữu của kẻ săn mồi. Chúng thì thầm hai từ ngắn ngủi vào tai bạn: của ta. Ân hận đày ải tôi vào vùng đất hoang vu này, cũng như sự im lặng của tôi. Nó vùn vụt chồi lên quanh tôi như những cây gai đang lớn dậy, hoang dại, cành chi chít những gai nhọt đầy phản trắc. Tại nơi chúng tôi nghỉ chân có cả linh cẩu; chúng tôi nghe thấy tiếng chúng tru lên gọi nhau. Đêm đến, chúng tôi thấy chúng đứng thành vòng giữa những thân cây tối sẫm cứng đờ. Chúng tôi nhặt đá lên, sẵn sàng chống trả nếu cái đói khiến chúng tấn công. Bàn tay tôi lấm lem bẩn thỉu, khăn choàng rách bươm như bị dao xẻ. Tôi vẫn giữ lấy vuông lụa xanh duy nhất còn lại. Đó là tất cả những gì tôi còn từ món quà của anh trai tôi và cuộc sống tôi từng trải qua trước khi tới nơi này. Tôi thấy không thể tưởng tượng nổi nếu đi sâu hơn nữa vào chốn hoang vu, chúng tôi sẽ bắt gặp những bức bích họa có thể sánh ngang với bất cứ nơi nào khác của Đế quốc và cung điện của một ông vua. Dẫu vậy các bạn của anh tôi đã thề trước tên của Yehuda xứ Galilee, người đã khởi đầu phong trào Zealot và cuộc nổi dậy chống lại các tu sĩ cúi đầu trước Roma, rằng phía trước chúng tôi có cả nghìn cây đèn dầu soi sáng ban đêm, tất cả đều cháy sáng tới mức sánh ngang những ngôi sao trên bầu trời. Khi tôi hỏi phải mất bao lâu nữa để tới được chốn diệu kỳ ấy, họ bật cười và nói sẽ mất thời gian, vì chỉ có thể tìm thấy pháo đài ở nơi tận cùng thế giới, và chúng tôi phải rất cẩn thận để không lạc đường. Chỉ một bước sai lầm là chúng tôi có thể biến mất mãi mãi. Không khí dịu mát mơn man quanh chúng tôi. Thật may lúc này là mùa đông, chúng tôi không còn bị cái nắng thiêu sống. Từ phía tây, luồng gió biển lạnh giá, được gọi là Ruach Hayam, tìm đến cùng những đám mây, làm chúng tôi rùng mình trong vòng tay giá buốt của nó. Gió luồn vào trong áo tunic của tôi, nhắc lại với tôi những điều tốt nhất nên quên đi. Cảm giác khi Ben Simon chạm vào tôi, cảm giác khi chúng tôi là một, cách ông có thể nhìn thấy tôi khi tôi nằm im trong bóng tối. Mặc dù lắng nghe những câu chuyện về cung điện của Herod, tôi không bị mê hoặc bởi các ý nghĩ về tương lai và những điều kỳ diệu. Tôi tiếc nhớ con người trước đây của mình, tất cả những gì tôi đã mất chỉ trong có một ngày duy nhất, thời khắc ông bị cướp đi khỏi tôi. Cuộc sống của tôi trong sa mạc hoang vu đã biến thành tro bụi. Tôi đã nhận được hình phạt xứng đáng. Hệt như tôi không chịu buông tha chồng chị, Sia cũng không buông tha tôi, cho dù chúng tôi có đi xa đến đâu. Tôi từng nghĩ có thể bỏ chị lại đằng sau, nhưng khoảng cách chỉ làm cho bóng ma của chị trở nên mạnh mẽ hơn. Linh hồn chị lẩn khuất quanh tôi mỗi khi tôi định ăn, nhổ vào tôi. Tôi không thể nuốt được nhiều hơn một miếng thức ăn. Nếu có nuốt một miếng, tôi sẽ phải chạy vội đi và tống nó ra """