"
Những Mẩu Chuyện Lịch Sử Thế Giới Tập 2 PDF EPUB
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Những Mẩu Chuyện Lịch Sử Thế Giới Tập 2 PDF EPUB
Ebooks
Nhóm Zalo
;fW : ếL V.-: %
ầ
**■*'ĩ ‘.i i* ?>? »r
ĐẶNG ĐÚC AN (chủ biẽn) - LẠI BÍCH NGỌC ĐẶNG THANH TỊNH - ĐẶNG THANH TOÁN (Sưu tầm và totíTn chon)
NHỮNG MẨU CHUYỆN LỊCH SỬ THẾ GIỚI
TẬP HAI
(Tái bản lần thứ nhất)
NHÀ XUẤT BẢN GIÁO Dực
9T_. ___ _ _ — 1536/872 . 00 Ma : 8XÍ56T
CÁCH MẠNG T ư SẢN ANH
ề
1 - CUỘC NỘI CHẾN GIỮA VUA ANH SÁCLƠ I
VÀ NGHỊ VĨỆN ANH
Cuộc Cách mạng tư sản Anh (1640 - 1660) diẽn ra dưới hình thúc một cuộc nội chiến giữa vua Anh Sáclơ I với Nghị viện Anh. #uân đội của nhà vua được gội là quân "ki sr', vì gồm phần lớn là các kị sĩ phong kiếd, là các kị binh tíũện chiến đã tham gia
• ưận mạc nhiêu, mặc ào giáp sang trọng, đeo tóc giả, đội ma cắm chùm lông, đuợc trang bị lốt. Quân đội của Nghị viện, gọi là quân ”đâu tròn", xuất thân từ tầng lớp bình dân, cắt lóc ligắn, ăn mặc giản di, mới đuực tập hợp iạd, huấn luyện chua được bao lâu, kỉ luật còn lỏng lẻo, trang bị thiếu thốn. Sĩ quan chỉ huy quân "đầu ưòn" đa số thuộc ứiành phần quý tộc mới, là nghị viên của Nghị viện, vẫn có tư tưởiig thỏa hiệp với nhà vua, cho nên chỉ huy chỉến đấu không cuơng quyết. Vì thế ưong suốt hai nấm đầu của cuộc nội chiến (1642 - 1643), quân "đầu ttòn" của Nghị viện liên tiếp bị quân "kj s ĩ’ của nhà vua đánh bại. Quân đội của nhà vua nấm tíiế chủ động tấn công, chiến thắng liên tiếp và chiếm đuọc đến 3 phần 4 đất đai. Thủ đô Luân Đôn ưong tay Nghj viện cũng bị uy hiếp nghiêm trọng.
Đầu nàm 1643, ttước tình thế khẩn truơng của chiến ưanh, Nghị viện phải chấp nhận yêu cầu của Crômoen cải tổ lại toàn bộ quâii đội. Quân đội cách mạng, sau khi đuợc cải tổ, gọi ià "quân đội
kiểu mới", đề cao kỉ luật, tăng cường huấn luyện, bổ sung VQ khi và trang bị, đa khắc phục đuợc những nhược điểm của một đội quân cách mạng, không chuyên nghiệp, nhất là về ý thức kỉ luật và kinh nghiệm chiến đấu. Đặc biệt đội kị binh của Crômoen đuợc mệnh danh là "suờn sắt" được tổ chức tốt, có tinh thần chiến đấu cao, là lực luợng .quyết định của các trận đánh. Quân đội cách mạng đã có thêm sức chiến đấu và nhiẻu lần đánh thắng quân đội của nhà vua.
Thấy tình hình chiến sụ ngày càng xấu đi, vua Sáclơ I quyết định tập trung lục lượng ở Nêdơbi (Naseby), định sử dụng chiến thuật đánh chớp nhoáng để đè bẹp quân đội của Nghị viện. Ngày 14-6-1645, trận quyết chiến đă diễn ra giữa quân đội nhà vua và quân đội Nghị viện, mỗi bên có khoảng gần một vạn quân, trong đó kị binh gồm vài nghìn nguờí. Crồmoen trực tiếp chỉ huy các đcm vị kị binh ở phía bẽn phải.
Mở đầu trận đánh, quân đội Nghị viện gặp khó khăn. Kị binh ' của nhà vua dưới sự chỉ huy của hoàng thân Rupéttơ đa tấn công mănh liệt, bẻ gẫy cánh trái và truy kích những đại đội kị binh của Nghị viện đang bỏ chạy. Bộ binh của Nghị viện thấy quần thù đang bao vây tứ phía, hoang mang dao động, tuởng như sắp lan vỡ. Nhưng, Crômoen cầm đầu kị binh ở cánh phải vẫn bình tĩnh chờ thời cơ tấn công. Say sưa truy kích kị binh của Nghị viện, hoàng thân Rupéttơ đã bỏ xa lục lượng chính của nhà vua. rhừa co hội đó, Crômoen cùng đội kị binh "sườn sắt" tấn cCng phá tan lực luợng kị binh và bộ binh đang bảo vệ nhà vua. Khi kị binh của Rupéttơ chấm dứt cuộc truy kích quân đội Nghị viện, quay trở iại, thì thế trận của quân đội "kị sĩ" đa bị phá tan. Rupéttơ chỉ còn kịp bảo vệ nhà vua chạy thoát khỏi trận địă. Quân đội Nghị viện đại thắng, bắt đuợc 5.000 tù binh và toàn bộ pháo bính, kể cả nhiều vật dụng của nhà vua, trong đó có một hộp đựng những thư tín bí mật của nhà vua cầu cứu nuớc ngoài.
Sau khi thất bại, Sáclơ 1 chạy lên miền Bắc nước Anh. ở đây, nlhà vua bị người Xcốtlen bắt giữ (tháng 2-1647) và nộp cho Nghị viiện Anh lấy thuởng 40 vạn bảng Anh (livre sterling). Cuộc nội clhiến lần thứ nhắt chấm dứt. Nhưng chỉ một năm sau, lợi dụng
nlhững mâu thuẫn xung đột trong Nghị viện và quân đội, Sáclơ I tnôn thoát khỏi nơi giam giữ của Nghị viện, tiến hành cuộc nội cHiiến lần thứ hai (1648 - 1649).
Quản đội của nhà vua được tập hợp lại ở miền Bắc. Quân đội ciủa phái Trưởng lăo cánh hữu ở Xcốtien cũng kéo sang Anh giúp SIỬC cho quân đội nhà vua. Phái bảo hoàng ở một sô' nơi nổi đậy, ngay cả ả Luân Đôn. Chúng còn xúi giục được mười chiến thuyền ciía Nghị viện bất mẫn vì lâu không được trả liiong, nổi loạn, cho tàu chạy sang Hà Lan. Trong khi đó, Nghị viện tuy không dám cÉông khai ủng hộ bọn bảo hoàng, nhưng tìm cách ngăn trở cuộc cHiiến đấu của quân đội, trì hoăn việc tiếp tế cho quản đội và đòi
ktíiôì phục iại việc đàm phán với Sácla I. Trước tình hình đó, Clrồmoen đâ tỏ ra cuơng quyết đánh bại nhà vua. Tháng 7-1648. quiãn đội do Crômoen cầm đầu kéo quân lên miẻn Bắc, đánh tan quiân đội của nhà vua phối hợp với quãn đội của phái Trưởng lăo cáánh hou Xcốtlen trong Crận Prextơn và bắt đuợc Sáclơ I. Cuộc n^i chiến lẩn thứ hai kết thúc.
2 * VUA ANH SÁCLƠ I LÊN MÁY CHÉM
Nam 1625, vua Giôm I mất, con lên nôl ngôi, lấy hiệu lầ Sáẳclơ I. Ông vua trẻ này có dáng điệu bề ngoài khác với cha : củi chỉ đường bệ, quý phái, đẹp trai, can đảm, cách sống khũng ại chiC trách được. Nhưng chì ít iãu sau, ông ta đã biểu lộ những tư tutởng chuyên chế không kém cha, còn ngoan cố và kiẽu căng hơn. NHià vua tỏ ra kín đáo và xảo quyệt, vừa kiêu kì, vừa nhút nhát, vừía do dự, vừa hung hăng, không mấy khi giử lời hứa của mình. Cirữmoen đa nhận xét về Sáclơ 1 ; “Nhà vua thông minh, có nhiều
năng khiếu, nhưng không ai có thể tin được : đó là con ngurời dối ttấ nhất".
Chẳng bao lâu sau khi lên ngôi, Sáclơ I đa làm mất lòng dân. ông ta lấy quận chủa Pháp theo đạo Thiên chúa, ông giơ lại bên mình tôn sủng thần của cha là bá tuức Xtraphoóc, tính tình thô bạo, kiẽu kì, có nhiều tai tiếng với một gia tài đồ sộ bị nhân dân căm ghét. Không gì có thể thay đổi được phuơng thức cai trị độc đoán của nhà vuã, năm 1629 và 1640, nhà vua đã hai lần giải tán Nghị viện vì không đáp ứng yêu cầu tài chính của ông ta. Nàm 1642, sau khi mưu đồ làm cuộc đảo chính chống Nghị viện (đội cận vệ của nhà vua đến Nghị viện định bắt năm nghị sĩ cầm đâu nhóm chống đối) bị thất bại, vua Anh Sáclo I đã phát động cuộc nội chiến chống lại Nghị viện. Cuộc nội chiến kéo dài 7 năm (1642 - 1649), quân đội nhà vua bị thất bại, vua bị bắt.
Sau nội chiến, mâu thuẫn giửa Nghị viện và quân đội trở nên gay gắt. Nghị viện âm mưu tiếp tục đàm phán với nhà vua, ứiông qua quyết nghị giải tán quân đội. Chỉ huy quân đội bèn giam Sáclơ I vào doanh trại. Ngày 6-12-1648, đạí tá Praiđơ đem quân bao vây trụ sở Nghị viện, trục xuất 96 nghị sĩ, bắt 47 nguời ngoan cố, chì còn đề ỉại 50 nghị viên thuộc phái quân đội hay ủng hộ quân đội. Sau cuộc chính biến này. phái Quân đội chiếm ưu thế ưong Nghị viện và nắm giữ chính quyền.
Đối với việc xử lí nhà vua, các sĩ quan Idp trên chù ưuơng để Sáclơ I thoái vị, đưa con trai mới 10 tuổi Lên kế vị. Nhưng nhiẻu sĩ quan khác, đứng đầu là Crômoen, chủ trương xóa bỏ chế độ quàn chủ, thiết lạp chế độ cộng hòa đưa Sáclơ I ra tòa án xét xử. Dưới áp lực của qu&n đội và nhãn dãn, ngày 19-1-1649, Hạ viện (hay Viộn dân biểu) quyết định thành lập một tòa án tối cao gồm 135 quan tòa, chủ tịch phiẽn tòa lầ Giữn Brátxiao, để xét xử vua. Sau khi đọc lời tuyên thệ, các quan tòa công bố những tội danh của Sáclơ Xtiuác (túc Sáclo ỉ) ; kẻ đầu sỏ gây ra nriọi tội
ác chống NghỊ viện và nhân dân, phát động nội chiến làm mất an ninh quốc gia, câu kết với nước ngoài để đàn áp nhân dân... Sáclơ Xtiuác vặn lại : "Với danh nghĩa của ai đưa ta đến đây ?" Brátxiao ừả lời : "Tòa án với danh nghía của nguời bảo tồn nồn tự do của nước Anh, cán cứ vào quyên lực của Nghị viện...". Sáciơ Xtiuác lớn tiếng phủ nhận tính hựp phảp của tòa án. Hàng vạn quần chúng hằng ngày tụ lập đông đảo ưuớc tòa án đòi ưị tội Sáclơ Xtiuàc. Sau nhiêu buổi họp và mấy lần hội ý bí mật, cuối cùng ngày 26-1-1649, tòa án công bô' bản phán quyết ; "Sáclơ Xtiuác ỉà bạo quân, phản bội, giết nguừi và lầ kẻ ứiù của quốc gia, phải chỊu tội chém đầu". Bản án sẽ được thi hành ngày 30-1-1649. Nhưng Sáclơ Xtiuác vãn còn tin tưởng vua chúa các nước châu Âu phong kiến, nhất là vua Pháp, se cứu thoát mình (vợ của Sáclơ Xtiuác là công chúa Mari Hăngriét, em gái vua Pháp Lui XIV). Tuy nhiên, mọi sự can thiệp của nuớc ngoài đêu vô hiệu. Sầng ngày 30-1-1649, Sàciơ Xtiuác bị điệu ra pháp ơường à quảng tniờng trước Cung điện Trắng (Luân Đôn), khi đó, y mới tin là cái chết đa kề bên, sợ hai và nga khuyu xuống. £)ông đảo quần chúng binh sĩ đa chứng kiến việc xử tử nhà vua. Đao phủ sau khỉ chặt đầu vua, còn gia cao cho mọi người xem. Quần chúng hoan hô vang dậy. Việc xử lử vua Sáclơ I là đỉnh cao của Cách mạng tư sản Anh.
3 - CRỎMOEN ■ NGƯỜI LÃNH ĐẠO
CUỘC CÁCH MẠNG Tư SẢN ANH
Oỉivơ Crổmoen (OUver Cromweil) (1599 - 1658) là một đja chủ hạng trung, ưiuộc tâng lớp quý tộc mới. Ong !à người tâm thước, vạm vơ và rắn chắc, tóc mầu hạt dẻ, mặt đỏ, đôi mắt xám mâu thép, cái nhin xuyên SUỐI và cái mQi đỏ hơi to so với các đường nét khác trôn mặt, tiếng nói vang và đanh thép. Khi muốn cho nguừi ta hiểu ro mình, ftng nói mạnh me và có súc ứiuyết phục,
nhưng không vân hoa và không mấy hùng biện, ồng ăn mặc giân dị, thường khoác chiếc áo bằng dạ ứimVng, cổ áo bằng vải thô ưắng, dầu đội chiếc mo tỏi tàn, không có viên và luôn đeo kiếm bẽn mình.
Nâm 1640, ồng được bâu làm đại biểu Hạ viện (hay Viện dân biểu) ưong Nghị viện, ông là mội tín đồ nhiệt ứiành của đậo "Trong sạch" (Thanh giáo), một tổ chức giáo hội tíieo tôn giáo cải cách Canvanh, chống đối iại quyết liệt tôn giáo của Nhà nước là Anh giáo. Trong Nghị viện, ông đa hăng hái phát biểu chống lại nhà vua và giáo hội Anh giáo, ông biết cách làm cho các đại biểu khác nghe tíieo minh.
Khi cuộc chiến ưanh chống vua Sácỉơ I nổ ra (1642), Crômoen đa gia nhập quân đội Nghị viện với chức vụ đại úy. ông đa biểu lộ khả năng tổ chức vầ chỉ huy quân sự của mình, ông tự mình xuất kinh phí để tổ chức và nuôi duứng một ưung đoàn riêng gổm I.ÍXX) binh sĩ. Đội quân của Crồmoen, tuy thành phần cOng gồm đa số là nông dân, ửiợ thủ công và các tầng lóp dân nghèo khấc nhu cấc đội quân "đầu ữòn" khác, nhimg ông đa rèn luyện cho quân đội cúa ông có khả nâng chiến đấu và tính kỉ luậi cao. Nguời lính đang gác mà ngủ gật, bị xử bắn, nguời nào bỏ rơi hoặc để mất VQ khí bị tử hình ; nghiêm cấm mọi sự phiồn nhiễu đến thường dân như ăn ưộm, phá hoại tài sản, mùa màng, cây ăn quả... ; níu ai phạm phải thỉ bị trừng phạt nặng nê. Crômoen cQng quan tam đến việc huẩn luyện, ưang bị đầy đủ cho quân sĩ. Những binh lính có tinh thân dOng cảm và khả nâng chỉ huy chiến đấu đuực thăng cấp và ưở thành si quan chỉ huy. Vì Uiế ưong số những người chỉ huy nổi tiếng cùa quân đội Crômoen bén cạnh cấc sĩ quan tíiuộc tầng lớp quý tộc mới, trung và tiểu địa chủ, có những người ứuức đây là íính thủy, lái xe, thợ giầy, tìiợ đúc.... Ngoài bộ binh, Crômoen chú trọng tổ chức kị binh cách mạng có tinh thần dOng cảm và tính chiến đíu cao để đối chọi với kị binh phong kiến và
g
bảo vệ hai bên suừn cùa quân đội bộ binh cách mạng. Đội kj binh của Crômoen Tắt nổi tiếng, được mệnỉi danh là đội kị binh "sườn sát".
Trong giai đoạn đầu của cuộc nội chiến, trong khi quân đội của Nghị viện thất bại liên tiếp, thì quân đội k.iểu mới của CrOmoen lại giành được nhiỂu thắng lựi. Đâu nàm 1643, truức tình thế ichẩn irmyng của chiến iranh, Nehị viện phải chấp nhận cải tổ lại quân đội "đầu tròn" ứieo kiổu quân đội kiổu mới của Crỏmoen. Để giảm bớt những người chỉ huy quân đội không cương quyết chiến đấu chống lại nhà vua, những người này phần nhiều lại là đại biểu Nghị viện, Crồmoen đề nghị Nghị viện ứiổng qua "Luật tự rút lui", quy định ai là đại biểu Nghị viện thì thôi chức chỉ huy quân đội.
Nhờ luật này, một số đông chỉ huy quân đội lừng chừng đa phải rời quân đội, ứiay thế vào đó là những chỉ huy quân đội theo phái Crônriocn cương quyết chiến đấu chống nhà vua. Crômoen cOng lầ đại biểu Nghị viện, nhưng được đặc cách ở lại chấn chỉnh quân đội, được phong làm Trung tướng, Phó tổng tư lệnh kiêm Tư lệnh kj binh. Quân đội cách mạng, sau khi được cải tổ, đẻ cao kỉ luật, tăng cuờng huấn luyện, bổ sung VQ khí và trang bị, đa có thêm
sức chiến đấu và nhiêu lân đánh bại quân đội của nhầ vua. Cuộc nội chến kéo dài irong bảy năm (1642 - 1649). Cuối cùng, quân đội cách mạng đa đánh bại hoàn toàn quãn đội chuyên nghiệp của nhà vua.
Sau khi xử lử nhà vua, quyền lục chính trị ứiực tế nằm ưong íay các sĩ quan thuộc phái Độc iập^'\ đứng đầu là Crômoen. Phái Độc lập, tuy thù tiêu chế độ quân chủ, thiết lập chế độ Cộng hòa.
(1) Sau khi đánh dỗ nhà vua. quyẻn lực chính Crị lUc đẩu nằm trưng tay nhửng đại biểu của Nghị vỉện thuộc thành pbẳn đại tư sản và quỹ tộc mói lớp trftn theo giáo phái Trường lâo (một giáo phái ciỉa Thanh |[iáoX. Các sĩ quan quản đội. đa sỏ' thuộc thành phần tư -sản và quý tộc mái, bậc trung, khong d ấ p tihận quyẻn lựt của giáo phái Truởng l3o. thành lập ra một giáo phái gọi là phái "Độf lạp" (cũng theo Thanh giáo).
bâi bỏ Thuợng viện (hay Viện Nguyên lăo) chỉ còn Hạ viện (hay Viện dân biểu), nhưng không chịu tổ chúc tổng tuyển cử để bầu Nghị viện mới.
Để tìm một lối thoát cho sự bất măn của binh lính, Crômoen tổ chúc một cuộc chiến tranh "nhẹ nhàng, mà có lợi", tức là xâm luực xứ Ailen (Irland) nông nghiệp và lạc hậu. Ailen là một hòn đảo lớn bẽn cạnh đảo Anh, đã bị quý tộc Anh xăm chiếm từ cuối thế kì XII, nhưng phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc vẫn liôn tục diẽn ra. Lần này (năm 1649), Crônnoen đích thân đưa quân đội sang để đàn áp phong trào cách mạng của nhân dân Ailen và sáp nhập Ailen vào nước Anh. Quân xâm lược Anh đă cưiớp bóc rất nhiều của cải và ruộng đất, nhiều sĩ quan cao cấp trở thành những đại địa chủ ở Ai len. Tiếp sau đó (năm 1650), Crômoen đem quân đánh Xcốtlen để trấn áp bọn bảo hoầng Anh vầ XcCítlen, cuớp bóc xứ này. Ruộng đất và tài sản cửa quý tộc phong kiến chống đối bị tịch thu, rồi đem chia cho các sĩ quan hoặc đem bán đấu giá, nguời thụ hưởng phần lớn là tư sản và địa chủ mới nguời Anh và Xcốtlen.
Để phát huy thanh thế ra bên ngoài, Crômoen quyết định xây dựng một hạm đội mới để giành lấy bá quyẻn mậu dịch mặt biển đang nằm trong tay Hà Lan. Nãm Ỉ649-1651, bốn muoi tàu chiến đuực trang bị hiộn đậi đa được chế tạo. Năm 1651, nghi viộn Anh ban hành "Luật hàng hải" (Navigation Act) quy định : Anh, Ailen và các đít thực dân của Anh chỉ nhập hàng hóa chở bằng tàu thuyên của Anh hoặc các nuớc có hầng hóa. Luật nầy nhằm chống lại Hà Lan, vì Hà Lan có một nguồn lợi lổn là chuyên chở hàng hổa của các nuức khác buồn bán với Anh và các thuộc địa của Anh. Chiến tranh bùng nổ giũa Anh vầ Hà Lan (16S2-16S4), Hà Lan thất bại và phải cõng nhận luật hàng hải của Crổmoen, nhường lại độc quyẻn buổn bán với các thuộc địa của Anh cho thucmg nhãn Anh.
10
Những tháng lợi liên tiếp vê mặt đổi nội, cQng như đối ngoại, đa đưa Crômoen trở thành "một thần tượng" của các sĩ (Ịuan, giai cấp tư sản và quỳ tộc mới. Giai cấp (ư sản và quý tộc mới nhận thấy muốn tiếp tục những cuộc chiến tranh xâm lược, đàn áp những phần tử bảo hoàng còn sót lại và chống lại nhân dân, ứiì phải có một chính quyền độc tài quân sự, do Crômoen cầm đầu. Ngày 20-4-1653, Crômoen đă làm một cuộc chính biến, đưa quân đội đến Nghị viện (sau nhiéu lần ihanh ưừng chỉ còn có 50 nghị viên),
giải lán Nghị viện. Bấy giờ, nhân dân đa chán ghét Nghị viện, nên hoan nghênh việc iàm của Crômoen. Đồng thời, ông giải tán iuôn cả Hội đồng quốc gia. Một hội đồng mdi g6m 7 quân nhân và 3 din sụ đirợc thành lập và một "Nghị viện nhỏ" được bầu ra, nhimg thực tế quyền hành đêu nằm ưong tay Crômoen. Ngày 12-12-1653, Hội đông sĩ quan đă bầu Crômoen làm nguời ứiủ lĩnh ba quốc gia Anh, Xcốtlen và Ailen suđt đời với danh hiệu Huân tước bảo quốc (Lordproieclor). Chế độ bảo quốc (1655 - 1658) hay chế độ độc tài quân sụ của Crômoen đa ứiay ứiế cho chế độ cộng hòa.
Crômoen cai ưị nuớc Anh, Xcốtlen và Ailen hoàn toàn dựa vào quân đội và cảnh sát. Lúc đâu, ông cũng có ưiệu tập một Nghị viện mới gồm 140 đại biểu do ông chỉ đinh và'cùng cai ừị với một Hội đồng nhà nước gồm 21 thành viên. Nhimg từ đầu năm
1655 ffở đi, ồng đâ giải tán Nghị viện và Hội đổng quốc gia này và giao cho quân đội cai quản đất nước, ông chia đất nước thành các khu vực hành chính - quân sự và giao cho 14 viên ứũếu tuứng cai ưị‘. Hội đổng sĩ quan đâ đề nghị ưao vương miện và làm lẽ lên ngồi vua cho Crômoen, nhưng để ưánh những biến động ưong quân đội, ông đa không nhận sác phong.
Chế độ bảo quốc của Crômoen đa tích cực bảo vệ quyền lợi cho giai cấp tư sản và quý tộc mới. Crômoen ứiúc đẩy mạnh hoạt động roậu dịch hàng hải và xâm chiếm thuộc địa. ông buộc các nước yếu phải kí những điêu ước ứimiíng mại nhàm mở đường phát
11
ưiển cho hoạt động ứiuưng mại của Anh như điêu uớc nảin 16.S4 kí với E)an Mạch buộc Đan Mạch phẳi cho phép tầu Anh đi qua Dun (Zun) ở vùng biển Banuch do Đan Mạch kiểm soát. Nãm 1655, Anh ki với Pháp một hiệp uức cùng đánh Tây Ban Nha. Anh liến hành nhiêu cuộc viẽn chinh cướp bóc các thuộc địa của Tây Ban Nha ở châu Mĩ. Đảo Hamaica, thuộc địa của Tây Ban Nha, bị Anh chiếm và biến thành trung tâm buồn bán nố lệ da đen quan trọng của Anh ở châu Mĩ. Nảm 1657, Crômoen ban cho công ti Đông Ấn (công ti hoạt động thuơng mại và xâm chiếm ứiuộc địa của tư bản Anh ở Ấn Độ và các nuức Đông Nam Á) một hiến chuơng mới, ưong đó xác nhận nhOng đặc quyên của công ti này ở những vùng thuộc địa mà họ chiếm đuợc. Năm 1658, Anh chiếm quân cảng Etoongkéc (Dunkerque) ở miền Bắc nước Pháp, dùng làm căn cứ cho hoạt động thuơng mại của Anh ưên lục địa châu Âu.
Nhưng chế độ độc tài của Crồmoen lại quá cương quyết và nghiẽm khắc. Crômoen là một tín đồ nhiệt ứiành của tôn giáo Trong sạch (Thanh giáo) và rất sùng ưn đối với ưn nguững của mình, cho nên không thừa nhận Anh giáo và Thiên chúa giáo, ông sống rất giản dị, khỡng chấp nhận những sinh hoạt xa' hoa và huởng lạc ưong xa hội tư bản. ông ra lệnh đóng cửa các rạp hát, nghiôm cấm những buổi tiệc tùng, ca múa, đánh bạc. Chế độ độc tài của ông vì thế không Uúch hợp với những kẻ mới giầu lỄn, đang khao khát huởng lạc. Sau khi ông mất (1658), chế độ "bảo quốc" cOng không thể tôn tại đuợc nữa.
12
CHlẾN TRANH GIÀNH ĐỘC LẬP ở bẮC m ĩ • *
4 - VỤ NÉM NHỮNG THÙNG CHÈ
CÙA ANH XUỐNG BíỂN
Từ đâu (hế kỉ XVII, những nhóm di cu ngươi Anh đầu tiên đến Bắc Mĩ. Những di dân Anh sang đây có một bộ phậ.n lầ bọn quý tộc phong kiến, nhưng đa số là dân tự do (thương nhân, th(ĩ thủ cồng, nông dàn) đa rời bỏ nước Anh vì những lí do kinh tế, chính ưị vầ tôn giáo. Năm 1607, di dân Anh thành lập ưiuộc địa đầu tiôn ở Viôcginia (Virgirúa), rôi đần dần, đến năm 1763 tíiành lập tất cả 13 thuộc địa ở Bắc Mĩ, chạy dọc theo bờ biển phía đông Đại Tầy Dương cho đến giáp day núi Alêganít ở phía tây và từ bang Maxasuxét (Massachusetts) ở phia bắc đến giáp Phlôriđa thuộc Tây Ban Nha ở phía nam. Bắc Mĩ lầ miền đẩt đai phì nhiêu, có khí hậu ôn đới và cận nhiệt đới, có tài nguyên phong phú như lứa gậo, bông, thuốc lá và nhiều loại quặng. Miền đất này ứước kìa là lãnh thổ của người da đỏ Inđian. Khi người châu Ằu mới xuất hiện ở Bắc Mĩ, họ có khoảng 2.400.000 người. Những ngưòi di dân đến da xâm chiếm những vùng đít đai màu mơ, tiêu diệt hoậc dồn đuổi thổ dẳn Inđian vê phía tây. Những nguời nô lệ da đen châu Phi được du nhập vào để lao động trôn cấc đồn điên. Đến giữa thế ki XVIII, số luợng nô lệ da đen đa có khoảng 1 uiộu nguừi. Số lượng dân di cư Anh tâng lẽn khá nhanh : những năm từ 1630 đến 1640 cỏ hơn 20.(X)0 nguừi, đến 1763 đa có tới 1 triệu mỏi người. Ngoài người Anh chiếm đa số, ở Bắc Mĩ còn có nhOng di dân nguời Ailen, Xcốtlen, Pháp, Hà Lan, Tây Ban Nha, Đúc V.V..
Tại các thuộc địa Anh ở Bắc Mĩ, nên kinh tế tu bản chủ nghĩa phát triển khá nhanh, ở miên Bắc, các công xưởng ửiủ công tư bản chỗ nghĩa mọc ỉên khắp noi, các ưại ấp ờ nông thồn cQng kinh doanh theo lối tư bản chủ nghĩa, ở miền Nam, các đổn điên
13
của chủ nô da ữáng sử dụng chủ yếu sức lao động nỏ lệ da đen. Vê mặt chính trị, 13 bang đêu là ưiuộc địa của vuơng ưiẽu Anh (vua Gioocgiơ III, theo chính tìiể quân chủ lập hiến), cai ưị Uieo luật pháp của nuức Anh. Toàn quyên và các thống đốc các bang do chính phù Anh cử đến, nấm tất cả các quyên vẻ hành chính, tư pháp, tài chính, quân sự... Mỗi bang có một Viện đại biếu do dân chúng bâu ra, nhim£ quyền bầu củ rít hạn chế, thường chỉ có đại địa chủ và đại tư sản mới đủ điêu kiện để đi bâu (số cử tri chỉ chiếm khoảng từ 2 đến 9% dân sổ). Viện đại biéu chỉ là cơ quan tu váh về những chính sách của toàn quyền và các ứiống đốc đối với địa phương, chủ yếu là chính sách tíiuế khóa.
Vì muốn bảo vệ giai cấp tư sản Anh chống lại mọi sự cạnh tranh ở cấc ữiuộc địa, Nghị viện Anh đa ban hành một loạt các đạo luật để ngấn cản sự tiến bộ của nên công nghiệp và ưiuơng nghiệp ở các thuộc địa Bấc Mĩ như đạo luật cấm xây dựng xí nghiệp luyện kim (1750), đạo luật cấm xây dựng nhà máy dệt (1754), nhằm buộc nhân dân thuộc địa phải xuất cảng nguyôn liệu thô (quặng mỏ, bông...) sang Anh, Chính phủ Anh còn ban hành nhiều tíiứ thuế mới đảnh vào những loại hàng hóa nhập khắu vào Bắc Mĩ tniớc kia không phải chịu thuế nhu thuế đường, chì, thủy ũnh, giấy, chè... Chính sách vê đất đai của Anh tại Bắc Mĩ cang gây ra phong ưào phản kháng mạnh me trong nhân dân Bác Mĩ. Năm 1763, vua Anh tuyên bố đất đai ở phía tây day núi Alôganít Uiuộc quyẻn sở hữu của vua Anh, di dân Bấc MI khỡng đuợc phép chiếm đất để khai khấn. Lộnh cấm này đụng chạm trực tìíp đến quyên lợi của nông dân tà điên, chủ trại và cả chủ nồ, là nhtmg nguời khi gặp khó iíhăn ưong làm ăn hay muốn mở rộng kinh doaiứi lại lấn sang mỉén đít phía tây íy. Nhưng đ30 luật gẫy làn sống phản kháng mậnh me nhít iầ luật thuế tem được ban hành nảm 1765. T íl cả cấc việc mua bán đều phải làm giấy tờ, rỗi đua đến cơ quan trước bạ dán tem và nộp ưiuế. Việc ban bố những ứiứ thuế mới không thông qua Viện dân biéu iầ 5ự vi phạm quyên
14
tự ui của các bang, vì íhế một Đại hội bàn về thuế tem đa đuực triệu tập ở Niu Yooc (7-10-1765) có đại biểu của 9 bang tham dự, đã ra nghi quyết đòi Nghi viện Anh băi bỏ các đạo luật vừa ban bố và phái động phong trào íẩy chay hàng Anh. Quần chúng nhân dân còn có hành động quá khích horn. Họ bắt những nhân viẽn bán tem đem nhúng vào thủng nhựa rải đường, rồi đem lãn trẽn đống lông chim và trói vào những chiếc cột gỗ đặt trên xe kéo pháo qua các phố ở Bôxtơn giữa những tiếng thùng và chảo gỗ vào nhau kêu ầm ĩ. Nhửng phòng thuế, bàn giấy và tem bị ứiiôu hủy.
Tháng 10-1773, ba chiếc tàu của cồng ti Đông Ấn Độ của Anh chở đầy chè đă đóng thuế vào cảng Bôxtơn (thủ phử bang Maxasuxét). Nhân dân thành phố này cải trang làm người da đỏ Inđian, tấn công ba chiếc tàu và ném tất cả 340 thùng chè xuống biển. Để trừng phạt cuộc phiến loạn này, chính phủ Anh rá lệnh phong tỏa hải cảng Bôxtơn, khống cho bất cớ tàu buôn nào được ra vào. Tướng Ghêgiơ đuợc cử sang làm thông đốc bang Maxasuxét, kiêm tổng tư lệnh quân đội Anh ở Bắc Mĩ để sẵn sàng đàn áp những cuộc bạo động. Chính phủ Anh còn đánh thuế ò Bắc Ml nặng thêm để bỏi thường cho nhữĩig tổn thất của thuơng nhân buôn chè Anh. Nhân dân Bôxtơn kẽu gọi các bang ủng hộ mình và cùng liôn kít với nhau đấu tranh chống chính quyền thụt; dan Anh. Vụ đổ chè xuống biển ở Bôxtơn đa mỏr đầu cuộc chiến tranh giành độc lẠp của các thuộc địa Anh ở Bắc Mỉ.
5 ■ BẢN "TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP"
CỦA NHÂN DÂN BẮC MĨ
Từ đâu nam 1776, do chính sách hiếu chiến và ngoan cố của chính quyẻn Anh, tư tuởng cách mạng giành độc lập của giai cấp tư sản Bắc Mĩ dần dần đuục xác định. Tiếp sau bang ViỄcginia, trong tháng 6, đầu tháng 7-1776, các bang lần luợt tuyên bố độc
15
lập. Một ủy ban soạn thảo bản Tuyên ngỏn độc lập được thành lập, gồm có Tômát Giepphecxorn (Thomas Jefferson), Giôn Ađam (John Adams). Bengiamin Phranklin (Benjamin Pranklin). Rôgiơ Sécmen (Roger Sherman) và Rôbớt R. Livinhxtom (Robert R. Liv
ingston). Các thành viên trong ủy ban nhắt trí chọn Gieppecxơn làm người soạn thảo chính.
Tômát Giepphexơn (1743 - 1826) là một luật sư ở tòa án bang Viêcginia, một người học rộng, có tài viết văn hùng hổn, đầy sức thuyết phục và là người có thái độ chống đối mạnh mê quyền thống trị của Anh ờ Bắc Mĩ. Là một thành viẽn trong Đại hội lục địa II (1775 - 1776), Giepphecxơn được chỉ định vào ban soạn thảo bản Tuyên ngôn độc lập và là người soạn thảo chính. Chỉ trong 17 ngày (từ 11 đến 28-6-1776), Giepphecxơn đa phác thảo xong bản Tuyên ngôn độc lập. Ngày 4-7-1776, Đại hội lục địa II đa tranh luận và sửa đổi một số điều trong bản Tuyẽn ngồn mà Giepphecxcm đa viết. Tuy nhiên, đa số những điểu sửa đổi đó chỉ là những vấn đề phụ, chỉ có hai điều quan trọng nhất là việc gạt bỏ sự lên án gay gắt đối với vua Gióocgiơ III và vấn đẻ mua bán nỡ lệ. Các chủ nõ miẻn Nam - nhất ià đại biểu của các bang Carỡlaina Nam và Gioocgia • phản đối kịch liệt điẻu khoản thủ tiêu chế độ nố lộ và việc mua bán nỡ lệ, đe dọa rút khỏi Đại hội vầ đình chỉ viộc tham gia chiến tranh chống Anh. Một số thuong nhãn và chủ tầu ở mièa Bắc có quyèn lợi trong việc buồn bán nố lệ, cũrtg chống iại điổu khoản trẽn. Sau khi sửa đổi lại một số điẻu như đa nói ò ưên. bản Tuyên ngõn độc lập đă đuợc Đại hội thông qua.
Tuyên ngôn độc lập lầ một văn kiộn có tính chất tiến bộ thời bấy giờ, là bản TuyCn ngOti nhân quyển đâu tiẾn, đuợc thảo ra theo tinh thản dẳn chủ, thấm nhuần triết học ánh sáng của Pháp cũng như triết học tiến bộ của Anh. Đdy là vãn kiện đầu tiên tuyftn bố nguyẽn tắc chủ quyẻn của nhãn dân, xác nhận những
16
quyên tự do dần chủ tư sản và cộng hòa. Bản Tuyên ngôn độc lập nèu rồ ; "Chúng tôi tin tưởng chắc chắn những chân lí sau đây bản thân nó đa lầ những sự thật hiển nhiên và rO ràng. Đó là mọi người sỉnh ra đêu có quyẻn bìhh đẳng, tạo hớa đa ban cho họ những quyền không ãi có thể chối cai được ữong đớ có quyên đuợc Sống, quyên được Tự do và Mưu cảu hạnh phúc. Để bảo vệ những quyền ấy, chính quyên phải do nhân dân lập ra, quyẻn lực của chính quyên ấy phải do nhân dẳn quyết định, nếu bất cứ khi nào, bất tó một hình ưiức chính quyền nào không đảm bảo được cấc mục đích này ứiì chính nhân dân là người se quyết định ửiay đổi hay hủy bỏ nó và ưiành lập nên một chính quyên mới hoạt động dựa ữẽn những nguyên tắc nào, tổ chức theo hình ứiức nào đảm bảo tốt nhất sự an toàn và hạnh phúc cho họ”. Bản Tuyên ngũn còn tiếp tục nêu iên hàng loạt những sự lấn át, lạm dụng lộng hành mà nguời dân phải chịu dưới bàn tay thống trị của vua chứa và sau cùng tuyên bố : "Tất cả những thuộc địa này có quyển được hưởng và phải được huởng quyền Độc lập Tự do”.
6 . ĐỘI QUÂN CÁCH MẠNG CÙA OASINHTƠN
Sau vụ ném những thùng chè của Anh xuống 5iển ở Bôxtơn {thing 10-1773), chính phủ Anh đưa ứiêm quân đội đến Bấc Mĩ để đần áp phong trào đấu tranh của nhãn dãn Bấc Mĩ. Nhãn dân Bắc Mĩ cOng đẩy mạnh việc chuán bị chiến ữanh, hăng hái tham gia vào các đội dân quân vầ thành lập các kho vũ khí ở khắp noi. Ngày 19-4-1775, Tổng tu lệnh quân đội Anh ờ Bác Mĩ, tuớng Ghôgỉợ, phái đến Bỡxtom hai đạo quân gỏm tấí cả 1.700 ngưởi để đánh chiếm một kho vO khí của dân quân ưong một phố ở ngoại ô BOxtcm. E)ơn vị quân Anh mặc quân phục màu đỏ, xuất phát từ thành phố vầo tảng sáng. Trẽn đường hầnh quAiỉ, quăn Anh đâ phải đối phó với nhiêu toán đân quân của "những nguởi mốt phút"
2-NMCL8-T2 m
(dân địa phuơng có VQ trang mỗi khi có hiệu báo động thl ữong một phút phải mang vO khí chạy đến địa điểm tập trung). Quản Anh sau khi phá hủy kho va khí của dân quân írở về, bị dân quân Mĩ nấp sau các tìiân cây và từ trong nhà bắn ra. Quân Anh phải bỏ chạy tán loạn. Tin xung đột giữa dân quân Bắc Mĩ và quân đội Anh lan đến các bang đa kích động tình thần đíu ưanh của nh&n dãn cả 13 bang ở Bắc Mĩ.
Đại hội lục địa lần ưiứ hai (1775 - 1776) đa quyết định tổ chức quân đội chính quy và cử Gióocgiơ Oasinhtơn (George Washington) làm Tổng tư lệnh. Oasinhtơn là một chủ đồn điền và chủ nô lệ giàu có bang Viêcginia (miên Nam Bắc Mĩ), đa từng phục vụ ưong lục Iượi^ dân quân Vỉêcginia từ nám 1752 đến 1758, đa đuục thẳng từ ứùếu tá lên đại tá. ông đa tìiam gia cuộc chiến tranh chống quấn đội Pháp và người da đỏ ở Ôhaiô (Ohio), nẽn có nhiêu kinh nghiệm chiến đấu và khả nẳng tổ chức quân đội. Trong Đại hội lục địa I (1774) và II (1775 - 1776). ông là thành viên của phái đoàn đại biểu Viêcgúiia ứiam dự Đại hội ; ông cOng là ttiành vtôn của nhiêu ủy ban hậu cần khác nbãu và là chủ tịch ủy ban dự ttữ vQ khí, đạn duợc chuán bị cho cuộc cách mạng sắp xáy ra. Tháng 6-1775, toàn ứiể đại biểu tại Đại hội lục địa II đa nhẩt tri bầu Oasinhtơn làm Tổng tư lệnh, vì ỗng cớ tầi lãnh đạo quân đội và nổi tíếng vì tinh thần đấu tranh cách mạng.
Quân đội cách mạng của Oasinhtom liỉc đầu chưa đuợc huấh luyện chu đáo, chưa vào khuôn phép, chủ yếu đuợc lập nên từ cầc lục lượng dân quân. Tìiầnh phần quân đội gỏm cố că những nỗng dân, thợ ưiủ cổng da rám náng, râu rìa xôm xoàm, đứng cạnh nhttng toán người di s&n .từ các thuộc địa miẻn Tây đến vầ những đơn vị Qgười da đỏ Inđìan, đâu dắt lõng chim. Họ mang theo đủ các loại vũ khí : súng cácbin, sứng sản, kiếm, dao gãm cong giắt thất lưng... Mỗi người lính phải tự lầm líy đận tùy ửieo súng của mình. Họ rít thiếu thuốc nổ và chì. Họ phải ưiáo những tím tôn
18
chì l(p mài nhà, phá tượng đông vua Anh Gioócgiơ III,.rới chia nhau một cách dè sẻn. Họ đa vượt qua rất nhiêu khó khăn gian khổ. )asinhtơn đa từng ca ngợi nỉiững người lính cùng nàm gai nếm nật với ông ở tihung lũng Phoócgiơ (Forge) như sau ; "Những ngườri lính không áo ấm che thân, không chăn nệm, không giầy, đôi bin chân rớm máu mỗi lân hàíứi quân ; lương thực tíiiếu thốn ưiền niên, nhưng họ vân đQng cảm hành quân dưới ười sirơng, tuyết. Vào dịp Giáng sinh, chúng tôi vẫn phải tìm chọn nơi dựng doanh ưại mùa đông, chịu cảnh màn ừời chiếu đát cho tới khi dựng long. Họ chịu đựng mà không một lời ca thán. Đó quả thật là biểi hiện của lòng kiên nhẫn và sự phục ưing mà theo tồi không gì so sắnh nổi”. Tất nhien cQng có những nguời đa phàn nàn và phàn íàn nhiều nữa là đằng khác : "Không tiền ! Không áo chản ! Không iương thực ! Không ruợu nim nhưng nhìn chung ít có hiện tiợng đào ngQ hay nổi loạn. Quân đội cách mạng virợt qua được những khó khàn, gian khổ là nhờ tinh thần yẽu nuớc và tin nrởng vào sự chỉ huy tài tình, sáng suốt của Oasinhtơn. Quân đội cách mạng phải đối chọi với 25.000 quân tinh nhuệ của Anh cộng với 30.000 lính đánh thuê Đúc đuợc trang bị đây đủ lại có hải quân mạnh phong tỏa bờ bién. Bẽn cạnh đó, quần Anh lại có những đông minh ờ ngay ưong các thuộc địa chấu Mĩ là bọn quan lại, địa chủ Anh cư ngụ ở Mĩ, những bọn chủ nồ và tư sản Mĩ có quan hệ kinh tế hay chính ưị khăng khít với chính quyên Anh, thuờng Um câch phá hoại hay ngản càn những hoạt động quân sự của qu&i cách mạng.
Trong hoàn cảnh đó, tướng Oasinhtơn một mặt phải ghép những nguởi quen sống tự do vầo tổ chúc chặt che và kỉ luật của quăn đội, tlm cách tiếp tế vO khí, ưên bạc, ỉuơng thực, quân áo, giầy dép cho quãn đội, mặt khác áp dụng chiến thuật đội hlnh tản binh (từng toán quân nhỏ bố trí kín đảo ưong rừng, bán tỉa, phân tán và linh hoạt).
19
Trong ứìời gian đầu của cuộc chiến ưanh. quân đội Anh có uu ứiế hom quần đội cách mạng Bác Mĩ, chúng đa chiếm được thành phố Niu Yooc và Philađenphia (tháng 9 -1776). Nhưng quân đội cách mạng cOng giành được một số thấng lợi cục bộ như điy lui quân Anh ra khỏi Bôxtơn (tìiáng 3-1776), mở các đợt phản công đánh bại kẻ địch mạnh hom mình ở Niu Giorsi (New Jersey) (tháng 12-1776). Các tâng lớp nhân dân lao động Bắc MI ưiột để ủng hộ kháng chiến. Hàng vạn cổng nhân và nhân dân Bắc Mĩ gia nhập quân đội. Hàng nghìn nỗ ỉệ da đen cững tham gia chiến đíu dũng cảm. Cả một đạo quân người da đen đa hi sinh ưong khi chiến đấu ở bang Niu Ýooc. Một phụ nữ da đen là Hanét à bang Maxasuxet đă cải ttang tìiành nam giới và chiến đáu ngoan cuờng suốt 17 tháng. Nhân dân cOng tích .cực ngàn chặn hoạt động của lục lưqmg phản động thân Anh. Chính sách khủng bố cách mạng đuợc thi hầnh.
Vào tháng 10-1777, năm nghìn quân Anh kéo đến bang Niu Yooc định bao vây quân đội của Oasinhtơn, nhứng bị quân đội cách mạng và các đội dân binh bao vây lại, tiêu diệt yà bắt làm tù binh. Đó là ưận Xaratôga, một chũến ứiắng cố ảnh hưởng lớn đến cục diện chiến tranh.
Từ đầu cuộc chiến ừanh, Đại hội lục địa đa cử Benjamin ỉ%ranklin sang làm đại sứ ở Pháp để lôi kéo Ph%) tham gia vào cuộc cUến tranh chống Anh. Đ. Phrankỉin ià một nhà ngoịd giao lỗi lạc, một nhà bác học, da tham gia dự ứiảo Tuyẽn ngồn độc lập. Chính I^ủ quân chủ Pháp cOnỄ muốn nhảy vào vòng chiến để gỡ lại Vũ&L bại nảm 1763 vầ giầnỉi lại thuộc địa Canada đa pbải nhuờng cho Anh ưong lần thít bại đó. Tuy nhlôn, tíiái độ của Phấp lầ chờ xem Iụfc lượng cách mạng ở Bác Mĩ có thể đối chọi đuợc với quân đội Aiỉh hay không ? Sau chiến tíiắng Xaratỗga, Pháp mới đrtng ý kí kết vđi Bắc Mĩ một hiệp uớc hữu nghị và
20
tựơDg trợ (6-2-1778), Pháp giúp cho Bắc Mĩ 2 ưiộu dồng bàng Anli (livre sterling) và 6.000 quân do tướng Côngtơ đờ Rôsambô (Cửmie de Rochambeau) chỉ huy. Một hạm đội của Pháp gồm 38 tầu ctóến, do đO đốc Graíxơ (Grasse) chỉ huy, vận chuyển sô' quân ưên và bảo vệ quân đội Pháp chiến đấu ở Bắc Mĩ. Pháp lôi kéo đuơc Tây Ban Nha và Hà Lan tuyên chiến với Anh. Chiến tranh mỏ rộng ra cả ngoài Bắc Mĩ, như ở các bién ở Trung MI, ở châu Âu vá ở cả Ấn Độ Duơng. Phong ưào ủng hộ cuộc chiến ưanh giành độc lập ở Bắc Mĩ sôi nổi ở khắp Àu châu. Nhiêu nguời Âu châu tình nguyện sang Bắc Mĩ tham gia chiến đấu như hầu tuớc La Ptuyél, một sĩ quan người Pháp mới 20 tuổi, đâ bỏ tiền ra ưang bị cả một chiếc lâu ; bầ tước Xanh Ximông, một ưianh niên quý tộ: nguời Pháp, sau này ưở thành nhà xa hội chủ nghĩa không tưởng lổi tiếng ; người E)ức Xteuben ; người Ba Lan Kổsiuxcõ v.v... Nhiều người Nga tiến bộ như Rađisép cOng nhiệt liệt hoan nghênh nguời Vlĩ đấu ưanh cho nên độc lập và cho chế độ cộng hồa.
Soi^, ưong những nim đâu sau trận Xaratôga, tình hình chiến sự chm có những ứiay đổi lớn. Hải quân Pháp và Tây Ban Nha ichổng đánh bại được hải quân Anỉi. Tại Bấc Mĩ, quân đội Anh chiếm luợc bang Gióocgia (tháng 12-1778) và bang Nam Carôlaina (ứiáng 5-1779). Nhưng quân đội cách mạng duới quyên chỉ huy của m) quyết định tập ữung lực lượng đánh vào Viôcginla. Đông thời, há quân Pháp đổ bộ vào đất liên. Quân đội của Conuônlit đóng ở cẳn cứ loóctao (Yorktown) bị bao vây bồn phía, tướng Conuònit phải đâu hàng với toàn bộ quân đội và vfl khí (19-10-1781). Chiến oắng này có ý nghĩa quyết định dối với cuộc chiến ưanh giải phmg dân tộc của nhân dân Bắc Mĩ.
21
Tuớng Oasinhtơn đặt ra các điều kiện quy hàng rất nghiênn ngặt, nhưng không phải để ưừng phạt. Đó là : mọi tiếp tế vê quân sự, vũ khí phải chấm dót ; mọi của cải cướp đuợc phải trả lại, song chúng được quyền giữ lại những vật dụng riẽng, cấc sĩ quan địch cOng đuợc phép giữ lại các VQ khí đeo cạnh sườn. Các bác sĩ Anh được phép chàm sóc lính bị tíiưomg và đau ốm. Conuônlit đa chấp nhận những điều kiện đó, Tuy vậy vào ngày 19-10-1781, tướng Sàclơ Conuônlit không tự nnừnh dẫn quân tới địa điểm đầu hàng mà hai bẽn đa ữiỏa thuận từ trước và ông ta tự ý cử phố tuớng Brigađiê Sáclơ ô Hara (Brigadier Charles 0 ’Hara) tới đổ. Khỉ đì trên con đuờng mà quân Mĩ - Pháp chiếm giữ, ô Hara chạm mặt với Oasinhtơn và tướng Phầp Rôsambô. ô Hara nhin ứiấy vị tướng Pháp đeo nhiều biểu tượng nhà binh, lại tưởng lâm lầ v| Tổng tư lệnh Oasinhtơn, nhưng vị tướng Pháp đa chl sang Oasinhtơn. ô Hara hcri lúng túng khi quay sang phía vị Tổng tư lệnh Mĩ. Không muốn frực tiếp giải quyết đé với người có cấp bậc diấp hcm mìah, Oasinhtơn đa yêu cầu ô Hara nộp ứianh guơm đầu hàng cho viên Phó tướng của lĩùnh là Beiýaxnin Linhcôn (Beiỹamin Lincoln).
Trong bức tíiông điệp gửi tới Đại hội đại biéu các bang để bào tin chiến tháng, Oasinhtan đa viết đây tự hào rằng : "Thưa các vị, tôi vinh dự được báo tin với toàn thể Đại hội rằng cuộc chiến đấu dhống quan Anh - một đội quân do tướng Conuônlit chỉ huy, đa ưiấng lợi tốt đẹp. Bầu nhiệt huyết luôn dâng trào và động viẽn ưmg nguời lính, tìmg sĩ quan trong quân đội liẽn minh của chUng ta. Nó chắc chắn là nhân tố chủ yếu đổ sự kiện ưọng đại này đến với chiíng ta sớm hơn so với sự ưông đợi nhiêu hi vọng của tôi".
Một phong ưầo phản khàng chính phủ Anh nổ ra mạnh mẽ ở chính nuớc Anh. Chính phủ Anh phải xúc tiến ứiưomg luợng với E)ại hội đại bỉểu cấc bang ở Bắc Mĩ tại Pari. Thàng 9-1783, một hiệp định hòa bình chính thức đa đuợc kí kết giữa chính phủ Anh
22
và đại biểu Mĩ, gọi !à Hòa ước Vecxai. Theo hòa uớc này, chính phù Anh công nhận nền độc lập của 13 ứiuộc địa ở Bấc Mĩ và giao cho Bắc Mĩ câ miên đất ử phía tây (Ôhaiô và Mitxixipi). Anh trả lại cho Tây Ban Nha xứ Phloriđa (Ploriđa) ở Bác Mĩ và trả lại cho Pháp một số thương điếm ở chầu Phi và quần đảo Ảngti. Hòa ưức Vecxai (1783) đánh dấu sự Uiắng lợi to lớn của nhân dân Bắc Mĩ vỗ quân sự cOng như về ngoại giao. Hợp chúng quốc châu Mĩ (United states of America), ban đầu có 13 bang ra đời.
23
ĐẠI CÁCH MẠNG T ư SẢN PHÁP « •
7 ■ vụ PHÁ NGỤC BAXTl MỞ đẦu
CUỘC ĐẠI CÁCH MẠNG Tư SẢN PHÁP
Vào cuối những năm 70 của Uiế kỉ XVIU, cuộc khủng hoảng của chế độ phong kiến ở Pháp da lên tới đỉnh điểm. Hội nghị ba đẳng cấp do vua Pháp Lui XVI ưiệu tập, nhằm giải quyết cuộc khủng hoảng tài chính cùa vuơng ữiêu, không những đa không đấp ứng yêu cầu của nhà vua, mà còn đòi ban hành Hiến pháp và đổi tẽn tìiành Hội nghị quốc dân, rồi Hội nghị lập hiến hay Quốc hội. Vua Lui XVI âm muu dùng vũ lực đổ giâi tán Quốc hội và phong trào quân chúng. 25.000 quân đội tin cậy của nhà vua đuợc điẻu về bao vây Pari và Vecxai. Phòng họp của Quốc hội bị bao vây. Tổng ứianh ưa tài chính Nécke, nguời của giai cÍỊt tư sàn bị cắch chúc. Tất cả những sự việc đó đa gây ra một làn sóng căm phẫn tột độ à ứiủ đô Paii.
Ngày 12-7-1789, một ưung đoàn long kị .binh của nhà vua, gồm những lính đánh ứiuẽ nguừi Đức, bắn xả vào một đoàn biểu tình lớn của quần chúng khồng cố vũ Ichí. Quần chúng hỡ to : "Hay cầm lấy vfl khí !" và đổ ra đuừng cuớp vQ khí. Một trung đoàn vệ binh Pháp chạy sang phía nhân dân. Một ủy ban ứiuờng trực được thành iập ở Tòa tíiị chính và cử người đến các khu phố vận động nhân dân nổi dậy. ủ y ban ứiuờng ưục ở Tòa thị cMnh ra lệnh rèn cấp tốc 50.000 giáo mác vằ tíiành lập đội dản quãn (tiồn thân của đội Vệ quốc). Ngày hôm sau, quần chúng kéo đến phá cửa các xưởng chế tạo vũ khí và chiếm kho vQ khí tự vữ trang cho mình.
Sáng ngày 14-7-1789, quần chúng kéo đến trại thươiỊ binh, đoạt đuợc 28.000 khẩu súng, rồi tiến đến ngục Baxtì. Ngục Baxti
24
vốn là một pháo đài ở phía lây nam ứiành phố Pari, xây dựng từ năm 1370 đến 1382, có tuừng bàng đá hinh răng cưa cao 24m, dầy 3m, với 8 tháp canh cao 30m và hào sâu rộng 25m bao bọc xung quanh, cổng pháo đài được đóng mở bằng những chiếc câu ưeo kéo ưên những xích sát. Từ ửiế id XV, pháo đài Baxti 'ưở thành nhà tù quốc gia. Bất cứ ai, từ quý tộc cao cấp cho đến thường dân. đôu có thể bị quẳng vào ngục Baxti, khi có tờ "mật chỉ" (giấy có ấn vua) của nhà vua gỏi đến, mà khổng cần một ưiủ tục pháp lí nào. Ngục Baxư là nơi giam giữ rất nhiêu tù chính ưị, trong đó có nhiêu nhà tư tưởng uến bộ. Ngục Baxti ưở ứiành tượng trưng cho chế độ quân chủ chuyên chế Pháp.
Việc đánh chiếm pháo đài Baxti đa diễn ra ác liệt trong suốt bốn tìếng đồng hỗ. Quần chúng cách mạng dùng thang bắc qua hào. Song bọn lính từ ưên ứiáp canh bán xuống xối xả. Nhiêu nguời đang ơèo ưên thang bị bắn rơi xuống hào nước, hi sinh anh dong. Vê sau, đội dân quân mang đại bác tới, bắn vào pháo đài. Một viên đạn pháo bắn trúng sợi dây sắt kéo câu treo, chiếc cầu ưeo roi xuống. Quần chúng cách mạng ào ạt vuợt qua cầu ưeo, ưàn vào pháo đài. Viên chỉ huy pháo đài Lônây (Launey) chạy dến kho UiiUốc súng, định châm tửa đốt kho thuốc súng để dỉm toàn bộ mọi người ưong pháo đài vào ưong biển lửa và máu. Binh, lính CŨI hấn hoảng sợ, vội ngăn hành động điẽn cuồng của hán 'lại. Quán chúng cách mạng chiếm đuợc ngục Baxti và viên chỉ huy Lôiây bị hành quyết. Quân chúng cách mạng di diẽu qua các phơ và các quảng ưuờng công cộng, giơ cao đầu Lônây cắm ưên đâu chiíc sào, miệng hô to : "Thắng lợi ! Thắng lợi", về sau, nhân dâs Pháp đa dỡ bỏ nhà ngục Baxti và xây dựng ở đầy một quảng trường rOng lớn, mang tên quảng tniờng Baxti. Còn ngày phá ngụ: Baxti (14-7) ưở thành ngày Quốc khánh của nước Cộng hòa Phiáp.
25
8 - BẢN "TUYÊN NGÔN NHẨN QUYỀN và dân QUYỀN" CÙA PHÁP
Giai cấp tư sản Pháp lanh đạo cách mạng thấy cần thiết nhanh chóng xây dựng nền tảng của chế độ mới bằng một bản Hiến pháp. Truớc khi thảo ra Hiến pháp, Quốc hội lập hiến đă thông qua một văn kiện có tính chất cucmg lĩnh nêu ra những nguyên tắc cơ bản của Hiến pháp mới, đó là bản Tuyên ngớn nhân quyền
và dân quyền nổi tiếng (26-8-1789).
Tuyện ngồn do Xiâyét khdi thảo, duới sự giúp đỡ cỏa Giepphecxơn (người đã khổi thảo bản "Tuyên ngôn độc lập" cùa Hoa Kì, khi đó đang làm công sứ Hoa Kì tại Pháp). Xiâyét (1748 - 1836), vốn là Viện tniởng một tu viện Thiên chúa giáo, nhưng rất tích cực tham gia hoạt động chính trị. Truớc Cách mạng Pháp, ông đâ xuất bản một cuốn sách nhỏ : Thế nào là đẳng cấp thứ ba ? đả kích chế độ phong kiến chuyên chế, biện hộ nguyên vọng giành chính quyền của giai cấp tư sản. Năm 1789, ông tham gia Hội nghị ba đẳng cắp và đuợc Quốc hội lập hiến ủy thác soạn thảo bản Tuyôn ngôn.
Dựa vào tư tưởng của triết học Ánh sáng, Tuyên ngôn đa nẽu len khẩu hiệu nổi tiếng 'Tự đo - Bình đẳng - Bác ái". Tự do và bình dẳng là cơ sở của tình bác ái. Tư tuởng "tự do, bìiih đẳng, bác ái" của Cách mạng Pháp được thể hiện ữẽn lá cờ tam tài của nuớc Cộng hòa Pháp. Tự do íưgmg trung bằng màu đỏ, vì nển tự do mà nhãn dân đạt được phải thổng qua những cuộc cách mạng bậo lực, bình đẳng tượng ưưng bằng màu trắng và bác ái tuợng trưng bằng màu xanh.
Bân Tuyẽn ngôn nhan quyền và dân quyẻn gồm 17 đièu, xác định các quyén tự do dãn chủ. quyẻn bình đẳng giữa các cổng dãn tniớc pháp luật, đồng thời cũng khẳng định quyền tii hOn tài sản là quyèn thiêng liêng bất khả x&m phạm.
26
Bản Tuyên ngôn đa xảc lập quyền tự do cá nhân của công dân. Điêu 1 cQa Tuyẽn ngôn ghi nhận : "Mọi người sinh ra đều tự do và hình đẳng vồ. quyên lợi". Những quyên tự do nhir tự do cá nhàn, tư do ngôn luận, tự do tín ngưỡng, quyên hưởng an ninh và quyên chống áp bức, đuực xem là những quyên tự nhiên và tuyệt đối của con nguừi và của mọi cõng dân. Dưới chế độ phong kiến, tất cả riiững quyồn lự do của con người đó đều bị giai cấp phong kiến tưjc đoại, nay cách mạng đa khôi phục lại những quyên tự do của con ngirời đó,
Bản Tuyên ngôn cũng xác định quyên bình đẳng giữa các công dân tiwc pháp luật. Điều 6 quy định : "... Luật pháp phải là như nhất đôl với tát cả mọi người khi bảo hộ cững như khi ưừng phạt. Mọi cữig dân đều bình đẳng trước pháp luật". Điêu 7 quy định : "Bít cú ai cQng chỉ có tíiể bị luận tội, bị bắt giam giữ ưong nhttng ưiiờng iqrp đuợc luật phấp quy định và ứieo các hình ữiức đo luật pháp Xic định. Những kẻ yêu cầu ưiúc đầy thi hành hoặc cho thi hành lúững mệnh lệnh độc đoán đều bị ưừng phạt".
Bản Tuyên ngôn xàc định quyền tối cao là của dân tộc, nghĩa là của toàn ứiể công dán. Điêu 3 ghi rõ : "Nguồn gốc của mọi quyền lực tđi cao bao giờ cQng ứiuộc về dân tộc. Không một cơ quan nèo, không một cá nhân nào có ứiể Uiực hiện quyên lực này, nếu nó không xuất phát ưực tiếp từ dân tộc".
Tuy nhiên, bản Tuyên ngôn cOng bộc lộ ro tính chất tư sản và sự hạn chế của nó, khi quy định : "Quyén tư hoxi lầ một quyén bất khả xâm phạm và ứiiêng liêng, không ai có tíiổ b| tước bỏ quyền tó" (điêu 17). Như thế lầ Tuyên ngôn đa phủ nhận quyên bình đáng xa hội thực sự giữa nguời và nguời, hợp pháp hóa sự bất bìnl đẳng vê tài sản và sự bóc lột của người có của đối với người Itiông có của.
Mặc dù có sự hạn chế đỏ, đối với thời đại ấy, việc thông qua bản Tu’ên ngôn nhân quyền và dân quyền này là một sự tiến bộ
27
to lớn. Bản Tuyên ngôn đả phá sự chuyên chế phong kiến, những đặc quyên phong kiến ; nó tuyên bố mọi người đêu bình dảng Oìrớc phấp luật, dù đó chi là sự bình đẳng ưÊn giấy tờ, vì ưong khi củng cố quyền tư hữu, thì nó đa thiết lập lên sự bất bình đảng mới về tài sản. Tuy nó tạo ra sự tự do vê một số mặt, những nó lại tạo ra sự phụ tììuộc mới của một số người này đối với một srt người khác (của quần chúng lao động đối với các nlià tư bản). Tuy nhiẽn, bản Tuyêii ngôn vẫn xứne đáng là bản khai tử của chế độ phong kiến và iầ cuơng lĩnh của chế độ tư bản chủ nghĩa. Bản Tuyên ngồn dược dùng làm chương mở đầu của Hiến pháp, mà Quốc hội đa bắt đầu thảo luận ngay sau khi ứiông qua Tuyên ngôn. Nhưng do sự phản ứng của vua Lui XVI, nên đến ngày 3-9-1791, Quốc hội mới thông qua được bản Hiến pháp đầu tiên (Hiến pháp 1791), đánh dấu giai đoạn ứiáng lọi đầu tiên của Cách mậng tư sản Pháp.
9 - VIỆC SÁNG TÁC BÀI CA CÁCH MẠNG "MÁCXÂYE"
Mùa xuân năm 1792, liỄn quân phong kiến Áo - Phổ đa tiến vào đất Phầp và áp sát thủ đô Pari. Nuớc Pháp cách mậng đứng tniớc ccm nguy nan. Để bảo vệ Tổ quốc, nhân dân toàn quốc đa thành lập ra các đạo quân tình nguyện ra chiến ừuờng chiến đíu. Lúc bấy giờ ứiành phố Xtraxbua cong tổ chức mội đội quân tình nguyện. Truớc khi đội quân xuít kích, Thị ưuởng thành phố muốn tổ chức một buổi lễ tuyôn thệ. ông nghĩ rằng trong buổi lẽ tuyen tbỆ cản phải có một bài chiến ca để phin khích tinh thần binh sĩ. ông tlm gặp một sĩ quan pháo binh ưẻ tuổi tên lầ Rugiô đư Lỉxlơ (Rouget de risle) và nói :
- Lixlơ, nghe nói anh biết sáng tác nhạc và hay làm thơ ? - Vâng, cũng có đồi lúc ! Chàng thanh niên ưả lời.
28
- Anh có thể sáng tác một bài chiến ca thé hiện Unh thần yêu nước đuợc không ?
- Để chống lại bọn xâm lược Ầo - Pfiổ, tôi se Uiử xem sao.
- Đuợc, tôi hẹn vứi anh phải hoàn thành ưong đêm nay đổ ngày mai hát ữong lúc xuất quân.
- Tôi nhất định hoàn thành.
Lixlo với tinh Uiân yêu nưức nồng nàn, với tâm hồn xúc động của ngưM nghệ sĩ - chiến sĩ, anh đa thúc suốt đêm 24-4-1792, với cây đàn trên tay, anh vừa sáng tác nhạc vừa viết lời cho bài hát ;
Hay tiến lên, hoi những người con của Tổ quốc,
Ngày viiưi quang đa đến rồi.
Chúng ta hay chống lại sự áp bức,
Ngọn cờ nhuốm máu đa giưomg lên.
Hay cầm lấy vO khí, hflri những công dân !
Hay tập hợp lại thành đội ngũ !...
Bài ca này, Rugiê đơ Lixlơ đặl tên là "Bài ca chiến ưận sõng Ranh” \ới hàm ý các chiến sĩ cách mạng Pháp sẽ giáp trận với quỉn thủ tại sõng Ranh, có nghĩa lầ đuổi chúng ra khỏi aước Pháp. Sáng hôn sau, ĩrước đoàn quân tình nguyện và toàn ứiể dân chúng thành Staxbua, với giọng ca ưầm hùng, anh cít tiếng hất ỉàm mọi người XIC động nước mắt tuôn ưào. Đoàn quân tình nguyện tìến ra chiến trường,
Vê sai. bài hát được phổ biến rất nhanh ưong toàn nước Pháp. Đoàn qứứi tình nguyện của thành phô' Mácxây kéo về bảo VỆ thử đô Paii,đa hát vang bầi ca cách mạng hủng tráng này ứẽn đường phố Paritrước tiên, vì thế nhân dần Pari gọi là "Bài ca của Mácxây" (La Maneillaise). Nâm 1795, Quốc hội Pháp thỗng qua quyết nghị chính ttúc lấy bài "Mácxâye" làm bài quốc ca của nước Cộng hòa Pháj.
29
10 . THÁI ĐỘ CHốNG ĐOI CÁCH MẠNG
CỦA VUA LUI XVI VÀ VỤ HÀNH ỌUYẾt nhà vua TRONG CÁCH MẠNG Tư SÀN PHÁP
Vua Pháp Lui XVI (1774 - 1792) cai ưị nước.Pháp ưong thời kì cuộc tổng khủng hoảng chíiih uị của chế độ phong kiến ở Pháp đa diẽrt ra, ẩứiưng vẫn muốn duy trì nhửng chính sách chuyên chế độc đoán. Lui XVI là một nguời xảo quyệt, ương ngạnh và độc ác, Nhà vua không quan tâm đến công việc chính ƯỊ, thường ngủ gật khi chủ tọa hội đồng vương quốc nhưng ỉại rất ham mê săn bắn. Hàng nghìn con ngựa và chó săn được chăn nuôi và hàng vạn hưoru nai đtrợc trông coi bảo quản ở những khu rừng rậm ở ngoại ô Pari để vua đi săn. Trong các cỏng việc chính ữị, Lui XVI chịu ảnh hưởng rất nhiêu của vợ là Mari Ảngtoanét (Marie
Antoinette), chị gầi của hoàng đế Lêôpôn II của Đế quốc La Ma thần thánh, đỏng thời lầ vua Áo, một ngưOi đàn bà đẹp, kiêu ngạo, hoang phí và khinh xuất.
Để giải quyết cuộc khủng hoảng tài chính không có cách nào thoát được, Lui XVI đành phải ưiệu tập Hội nghị ba đẳng cấp (5-5-1789). Khi đẳng cấp thứ ba trong Hội nghị không những không chỉ^ nhận những yãu câu của nhằ vua, mầ còn tự tuyẽn bỉỉ thầnh iập Quốc hội (Hội nghị quốc dân, rồi Hội nghị lập hiến), Lui XVI đa đối phó lại bằng càch đóng cửa phòng họp và cho quân đội bao vây Quốc hội, nhưng thất bại. Sau vụ phá ngục Baxti (14-7-1789), nhà vua, tuy phải nhân nhượng với nhũng người cách mạng, chấp rứiận huy hiệu ba mầu xanh, trắng, đỏ là tuợng trưng cho sự hòa hợp giữa vua và nhân dân thủ đô, nhưng vỉn chưa từ bỏ ý định dùng vữ lực đổ dập tắt phong trào cách mạng. Đâu tháng 10-1789, Lui XVI điêu động nhiều đạo quân ở các địa phuomg, tfong đó có những đội quân đánh thuê ngưừi Đức và Thụy Sĩ, vê đóng xung quanh Vécxai và Pari. Hoàng hậu Mari Ảngtoanét đa thân hành
30
đến ban cấp những mao mo mâu ưấng (mầu của huy hiộu ưiều đại vua Pháp Buốcbông) cho sĩ quan và binh lính cận vệ. Nghe tin đó, quần chúng nhân dân rất cảm phẫn. Nhân dân Pari khi đó lại đang bị đối, vì năm đó, trời rét buốt, bâng tuyết nhiêu, nên mùa màng thu hoạch kém. Ngày 5-10-1789, nhân dân Pari, trong đó số đổng lầ phụ nữ, tập họp trước Tòa thị chính để đòi bánh mì, rôi lũ lượt kéo đến Vécxai để gặp vua. Khoảng hai vạn quân vệ quốc cũng đi theo sau đoàn biểu tinh. Những người biểu tình hô lớn : "Bánh mì ! Bánh mì !". Nhà vua không đám cho quân đàn áp, phải hứa sẽ cung cấp bánh mì cho nhân đân và ứiông đạt cho Quốc hội biết là se phê chuẩn các sắc lệnh của Quốc hội. Ngày 6-10-1789, những người biểu tình đột nhập vào hoàng cung, đòi nhà vua cùng hoàng gia phải cùng đoàn biểu tình ưở về Pari. Nhân dâh đưa nhà vua và hoàng gia vê sống ở cung điện Tuylori, dưới sự giám sát của nhãn dãn.
Ngày 20-6-1791, Lui XVI làm giả một giấy ihông hành của ngưừi Nga và vay được một số tiên của các chủ ngân hàng ở Pari, đa cùng gia đình bí mật ưốn sang Bì, ncri bọn phản cách mạng ưốn khỏi nuức Pháp đang tập ming ở đó, chờ hiệu lệnh của nhà vua để khởi chiến. Dọc đuờng, khi đến gân ữiị ưấn Varen, một tíỉị trấii nhỏ gân biên giới Đõng Bấc Pháp, vì vô ý ngôi cạnh cửa xe ngựa, nhà vua bị một trạm ừưởng ưạm thay ngựa nhận được mật, nên bi bắt !ại và bị giải vẻ Pari.
Ngoầi việc bắt lại nhà vua bỏ ưốn, quần chửng nhân dãn còn bắt được một số thư từ của Lui XVI gửi cho các vua chúa nước ngoài, yẻu cầu khán trương can thiệp vào nội tình nuớc Pháp. Quần chtíng nhân dãn Pari đòi phải đem vua ra xử, nhưng Quốc bội lập hiến sợ phong trào quần chúng nhân dân se nổi dậy chống lại quý tộc và tu sản, sau khi lật đổ nhà vua, nẽn cố sức bảo vệ nhà vua. Quốc hội tuyên bố không phải rứià vua ưốn, mà lằ bị "bắt cóc". Nhưng ĩ)ên ngoài Quốc hội, sự cảm phẫn của quân chúng nhân
31
dân Pari không ngớt tăng lên với những cuộc họp sôi nổi ở các câu lạc bộ, với những kiến nghị lên án chế độ bạo quân. Tinh ừiân dân tộc tăng lên song song với tinh ưiần cách mạng. Ngày
17-7-1791, mấy nghìn người tập hợp ở quảng tnrờng Mác để kí một bản kiến nghị lên án nẻn quân chủ, đòi phế truất nhà vua và thiết lập chế độ cộng hòa. Chính quyền tư sản đa ra lệnh cho đội vệ quốc đàn áp cuộc biểu tình. Đội vệ quốc đa xả súng vào đám quân chúng tay không, làm 50 người chết và hàng ữâiĩ) nguời bị thương.
Nhận thấy có thể dựa vào Quốc hội để chống lại nhân dân, ngày 13-9-1791, Lui XVI đa phẽ chuẩn Hiến pháp 1791 và hôm sau làm lễ tuyẽn thệ trung thành với quốc dân. Nước Phầp ttở thành một nuớc tíieo chế độ quân chủ lập hiến. Theo Hiến pháp 1791, mọi quyẻn hành đều nằm ttong tay Quốc hội, nhưng nhà vua được sử dụng quyên phủ quyết trong bốn nám, nghĩa là quyên đình chỉ ưong bốn năm lứiững đạo luật đa được Quốc hội biểu quyết. Nhưng không phải là vua đa chấp nhận một biện pháp thỏa hiệp, mà ngược lại đang tiến hành một âm mưu phản cách mạng lớn hom. Lui XVI tìm cách thúc đẩy nuớc Pháp nhanh chóng tuyẽn chiến với các ửièu đình phong kiến chầu Âu, vì nhà vua tin tuởng rầng quân đội ”Ô hợp" của Cách mạng Pháp se không đủ súc chịu đựng "một nửa trận" khi đụng đâu với nhttng đạo quân phong kiến nổi tiếng thiện chiến. Hoàng đế nước Áo LÊÔpữn II và yua Phổ Phriđơrích Vinhem II cũng đang tích cực chuán bị chiến tranh chống nuớc P h ^ nhằm khôi phục lại quyẻn hành chuyẽn chế cho Lxii XVI và hoàng hậu Mari Ăngtoanét. Phái hiếu chiến ưong Quốc hội Pháp, vì quyén lợi ích kỉ cúa giai tư sản, cQttg cuông nhiệt muốn có một cuộc chiến ưanh với châu Âu phong kiến. Ngày 20-4-1792, theo đê nghị của Lui XVI, Quốc hội đa quyết định ữanh thủ chủ động và tuyẽn chiến với Áo, tiếp đó lằ với Phổ, liên minh của Áo.
32
Ngay từ đầu. cuộc chiến ưanh chống Áo • Phổ đa bất Igã cho nước Pháp. Các tướng lĩnh, phần lớn là quý tộc. do phản ứng giai cấp, không muốn thắng trận và cố tình mở đuừng cho quân ứiù tiến sâu vằo nội địa nước Pháp. Tinh hình quẳn sự của Phắp lại càng trở nên nghiêm trọng do việc hoàng hậu Mari Ảngtoanét, chị gái của hoàng đế Áo, đa giao kế hoạch tác chiến của Pháp cho Áo và thường xuyên tổ chức Hên lạc với các ưiẻu đình phong kiến. Quân Áo đa tiến đến gần biên giới Pháp. Do áp lực của quần chúng nhân dân, Quốc hội quyết định gọi thêm 20.000 quân tình nguyện ở các tỉnh và lập một phòng tuyến ở UTIỚC thành phố Pari. Vua dùng quyền phù quyết bác bỏ sác lệnh này. Viộc đó đa gây một làn sóng căm phẫn ừong cả nuức. Bất chấp sự ngăn cấm
của nhà vua, các đội quân được ưiành lập ở khấp noi và kéo vẻ bảo vệ thủ đô.
Ngày 11-7-1792, Quốc hội tuyên bố "Tổ quốc lâm nguy". 15.000 dân Pari đa tòng quân trong vài ngày, thành lập ra những tíểu đoàiỊ tình nguyện mới. T ít cả quân Vệ quốc đêu được động viên. Quàn tình nguyện ở các tỉnh lũ lượt kéo vẻ Pari. Trong klìi đó, ứieo yêu câu của hoàng hậu Mari Ảngtoanét, công tước Brunxvich (Brunswick), tổng chỉ huy quỄLn đội Áo - Phổ hợp nhất, ra một bản tuyên cấo tại Côblensơ đe dọa tiêu diệt quân Vệ quốc, đe dọa
trừng trị nghiêm khắc nhân dân Pháp, nếu họ có ý chống lại sự can thiệp của quân đội Đổng minh và đe dọa san bằng thủ đô Pari, nếu họ dám động đến gia đình nhà vua. Công tudc Brunxvích dăn đầu quân đội Áo - Phổ cùng bọn quý tộc luu vong Pháp, bắt đâu từ Côblensơ tấn công vào Pari, Những lời đe dọa của Brunxích khổng thé ỉầxn cho nhăn dãn Pan khuít phục, mầ nguợc lại, đ ĩ kích động mạnh me tinh ửiân yẽu nước, chống xâm lược của họ và đẩy nhanh sự sụp đổ của chế độ quăn chủ Pháp.
Suốc những ngày đầu tháng 8-Ì792, các phân khu ở Pari đẩy mạnh việc chuẩn bị khởi nghĩa. Đôm ngày 9, rạng ngày 10-8-1792, khi nghe uếng chuông báo động vang lẽn, nhân dân Pari vủ ữang
3-NMCLS-T2 3 3
đa kéo đến tập ưung ở trưức '1'òa thị chính. Các ủy viêĩi của các phân khu tổ chức ra Công xa khởi nghĩa và đảm nhận mọi quyền hành. Các đội nghĩa quân Pari được vũ ưang bằng súng tnrờng, súng lục và giáo mác, đa tấn công cung điện Tuylơri, nơi vua và gia đình ở. Sấng ngày 10, họ lại được them quân tiếp viện lừ các tính kéo đến. Nhà vua đa chuẩn bị đối phó với cuộc lấn công này từ trước, đa tập trung các đội quân đầnh thuẽ người Thụy Sĩ và bọn quý tộc ưung Uiành với nhà vua. Quân đội khởi nghĩa và quân đội bảo vệ cung vua đa bắn nhau trong hơn hai giờ. Đợt tấn công đầu tiên bị đánh lui. Nghĩa quân tổ chức đợt tấn công ứiứ hai và đa chiếm được cung điện, nhưng không tìm thấy vua. Lui XVI và gia đình đa ưốn sang trụ sở Quốc hội và xin Quốc hội che chở. Quốc hội, tuy tước quyền của vua, nhưng lại quyết định cho vua và gia đình ở tại một lâu đài khác ở Pari. Công xă cách mạng đòi giao vua lại cho Công xa và đa tống giam Lui XVI cùng hoàng hậu Mari Ảngtoanét vào ngục Tẳmplơ (Temple). Như vậy ià cuộc khởi nghĩa ngày 10-8-1792 đa lật đổ chế độ quân chủ ở F1iáp.
Sau khi bắt giam vua, Công xă Pari đứng ra tiến hành việc ứỉ chức quốc phòng gùi nhiẻu đội quần cách mạng ra tiẽn tuyến (ngày 20-9-1792, quân đội cách mạng đa đánh bại quân đội Phổ ưong trận Vanmi (Valmy), gần biên giới Bỉ) và đàn áp âm mưu phản loạn của bọn bảo hoàng định phá nhà tù để gi^ ứioát cho vua và bọn phản cách mạng đang bị giam giữ. Do ứiái độ bao che cho nhà vua, Quốc hội lập pháp mất tín nhiệm, phải tuyẽn bố tự giải táa Ngày 21-9-1792, một Quốc hội mới do phổ ttiông đầu phiếu bâu ra, gọi lầ Quữc ước, ưong phiên họp đầu tiẽn, đa tuyẽn bố bai bô chế độ quân chủ. Nền Cộng hồa thứ nhất của Pháp fa đời.
Từ cuối năm 1792, vín đê nổi iên hàng đầu ưong Quốc ước, gây ra một cuộc đíu ttanh gay gắt giữa phái Núi (hay GiacObanh) với phái Girỡngđanh là vín đề quyết định số phận nhà vua. Phái Girôngđanh tìm mọi cách - công khai hoặc quanh co - bảo vệ vua,
34
họ nêu tí lẽ là ứieo Hiến pháp 1791, nhà vua lầ bất khả xâm phạm. Phái Núi (hay Giacòbanh) Ihì đòi xét xử vua. Nhiêu quận trong toàn quốc cũng gửi kiến nghj đòi xử vua vẻ tội phản quốc. Thêm một bằng chửní? vê sự phản bội của Lui XVI là cuối tháng
ứieo chi’ dãn của một ngirời thợ khóa trư(tc đây phục vụ vua, ngưòi ta phát hiện ra mộ( cái tủ có cửa sắt trong cung điện Tuyl(7Ti cổ chứa đựng nhiêu thư từ liên lạc giữa vua với bọn di cư và các triêu đìrưi nước ngoài. Ngày 11-12-1792, Lui Capê (Louis Capèti (tên của Lui XVI) bị đưa ra xử trước Quốc lỉức, bị buộc tội âni mưu chổng lại tự do và an ninh quốc gia và với tội ưạng íy phii bị xử tử. 'ITiấy không ứiể bảo vệ được vua, phái Girôngđanh tìm câch trì hoan, đề nghị bân án phải đưa ra nhân dân biểu quyết. Phái Giacồbanh da kiên quyết phản đối đê nghị này. Cuối cùng với 380 phiếu thuận và 310 phiếu chống, Quốc irớc quyết định xử tử VUI và thi hành bản án ưong vòng 24 giờ. Ngày 21-1-1793, tên vua ngoan cố và phản trắc Lui XVI bị đưa lên máy chém. Sau klũ Lui Capê (tức Lui XVI) bị xử tử, Mari Ảngtoanét bị chuyển từ nhi tù Tảmplơ sang nhà tù Côngxiegiơri (Conciergerie), giam giữ ching với những tẽn quý tộc phản loạn khác. Duứi thòi chuyên chính càch mạng Giacôbanh, ngày 16-10-1793, Mari Ăngtoanét cQng bị chém đầu.
11 • RÔBEXPĨE VÀ NEN CHUYÊN CHÍNH GIACÒBANH
Mă:ximiliêng đờ Rôbexpie(Maximiliende Robespierre, 1758-1794) sinh ttrỏmg ưong một gia đình luật sư ở thành phố Arát (Aưas), mién Bấc nuức Pháp. Sau khi tốt nghiộp trường Luật, ông ưở thành luật SI. Ngay khi đang đi học, ông đa rát tôn ưọng khuynh huứng tu tưởig của Giăng Giấc Rutxô vê chủ nghĩa vô ưiần và chủ nghĩa dân cỉủ tự do. Khi ra làm ỉuật sư. ông có mối cảm thông đặc biệt díi với quần chúng nhân dân lao động. Vì thế, ông sẵn sàng
35
bào chữa cho những người nghèo, mà khõng quan tâm gì đến liốn thù lao. Có lần, ông bào chữa cho anh thợ thùng đi tfí tụng bọn cha cố trong tu viện ; đây là việc làm rất mạo hiềm, ít ai muốn dính dáng đến. ông không bao giờ đặt vấn đồ lợi lộc ưong những buổi bào chữa, vì ứiế ông được nhân dân kính ừọng và quý mến. Nhà cách mạng theo chủ nghĩa bình đẳng Babớp đa ca ngợi Rôbexpie ưong một bức thư gửi cho bạn mình : "Rôbexpie là người tiẽu biểu nhất ưong pháp viện. Tôi cảm thấy ông là con nguời chính trục và cực kì vỏ tư. Nguừi la thán phục ông vì ông khOng ứiam tiền. Cho đến nay và sau này, ông chĩ là một luật sư nghèo".
RObexpie đa tíiam gia Cách mạng tư sản Pháp, từ khi Hội nghị ba đảng cấp được triệu tập Í5-5'1789) đến khi cách mạng bị thủ tiêu (cuộc đảo chính phản cách mạng ngày 9 tháng Técmiđo (27-7-1794). Trong suốt thời gian cách mạng đó, ông là đại biểu xụất sắc của đẳng cấp ứiứ ba. Ong từng phát biéu ; "Quyén lực chỉ có thể thuộc vẻ nhân dân, bọn đại biểu của quý tộc và tăng lữ khOng ứiể đại diện cho bất cứ ai, vì chẳng ai bầu họ. Bọn họ chẳng qua chỉ là một tH,)n người âm muu, những kẻ tước đoạt vô liÊm sỉ...".
ông là con nguời lúc nào củng ăn mặc cẩn thận. luftn luôn bình ữnh, giữ thái độ thàn nhiẽn, nhưng lại quả cảm, kỉtòng bao giờ nao niíng, có tinh thân cách mạng ngoan cuờng vá đức tính chính ữvc, liẽm khiết ; vì thế nguời ta gọi ông là "Ngurt không thổ mua chuộc", ông bị kẻ ứiù của cách mạng căm ghé; nhimg đuợc quân chúng nhân dân mến phục.
Nẳm 1789, ông đuợc đẳng cấp thứ ba ở quận mình bâu vào Hội nghị ba đảng cip. Trong Hội nghị ba đảng cáp, Cl9| như ừong Quốc hội lập hiến sau nầy, ông luõn ỉuỡn đứng vê ịAìsl quần chúng nhãn dãn, đíu tranh chống lại vua, quý tộc vầ đại tư sản. Khi Quốc hội lập hiến tíiông qua Hiến pháp 1791 và nỉong đạo luật phản dâỉi chủ như đạo luật thuế tuyển cứ, dựa tíieo vộc đống
36
ihuế mà chia công dân làm hai loại ; công dân "tích cục" (những nguời cố tài sản, ruộng đất và đOng Ihuế trục thu) và công dân "tiêu cực" (những nguời không có tiên đóng ứiuế ưục thu trị giá tối thiểu bằng ba ngày cõng ở địa phương), chỉ có công dân "lích cực‘ mới có quyên bâu cử. ứng cử vài) Quốc hội và Hội đồng tíiị chính và được ứiam gia vào quân Vệ quốc, còn công dân "tiêu cực' ứù bị tước đoạt hết các quyên chính trị ưồn, Rôbexpie và những nghị sĩ phe tả dân chủ ưong Quốc hội lập hiến kiên quyết chOng lại những đạo luật ấy. Rồbexpie đa phẫn nộ nói ưong Quốc hội : "Ai cho các nguời quyền tuức đoạt quyên của nhân dán ?". Nhung vì các đại biểu phe tả dân chủ ưong Quốc hội lặp hiến chỉ là ứũểu số, nôn không ngăn cản đuọc Quốc hội ỉập hiến ứiông qua những đạo luật phản dân chủ ưên.
Macximiliêng đờ Rôbexpie còn tham gia tích cục vào nhữúg hoạt động chính trị trong xa hội như tham gia câu lạc bộ Giacôbanh (Jacobin) và phong trào quần chúng. Câu lạc bộ mang tên Giacôbanh, vì đóng trụ sở ưong thư viện của tu viện dòng Thánh Giãcốp (Jacob), tập hợp những nhà hoạt động chính ứị ùng hộ ưật tự mới (từ chế đO quân chủ lập hiến đến chế độ cộng hòa), lúc đầu bao gổm cả ba tíỉầnh phần đại, trung và tiểu tư sản. Cỉu lạc bộ nầy thảo ỉuận phân lớn các vấh đề đưa ra Quốc hội lập hiến. Vai ttò chính ữị của nó không ngừng tảng lẽn. Nhưng sau vụ chạy ưốn của Lui XVI, bị bắt lại ở Varen và bị đưa về giam giữ ở Pari (20-6-1791), cuộc ưanh luận chung quanh vấn đẽ sđ phận của nhà vua ở cãu lạc bộ GiacôbaDh đa đưa đến sự phân liệt : cánh hữu hay nỉiQng nguời đĩũ tư sản rời bỏ câu lạc bộ. lập ra một càu lạc bộ mới, đặt «v sở tại tu viện Phơiăng (Peuillants), nên gọi ỉầ phái Phơiăng, còn gọi lầ phái Lập hiển, còn cánh tả Giacỡbanh hay phái Dân chủ gồm hai nhóm : nhóm do Brítxô (Brissot) lanh đạo (sau này gọi là phái Girôngđanh) và nhóm do Rôbexpie lanh đạo, vẫn ò lại sinh hoạt trong câu lậc bộ Giacôbanh. Nhưng rồi nhốm Brítxô và
37
nhóm Rôbtíxpic lại xảy ra xung đột ngày càng quyết liệt vẻ các vấn đê Uiúc đẩy hay kìm ham tách mạng, xét xử Lui XVI và chì đạo chiến tranh..., nhớm Rôbexpie khai trừ Brítxô và các chiến hữu của ông ta ra khỏi câu lạc bộ Giacỡbanh. Từ đó, nhóm Rôbexpie gọi là phái (ỉiacôbanh, còn nhóm Brítxô gọi là phái Girôngđanh (Girondin) (vì nhiều người (rong nhóm này là nghi sĩ được bâu ở quận Girôngđơ, miên Tây nước Pháp).
Sau khi hoàn thành việc thông qua Hiến pháp 1791, Quốc hội lập hiến giải tán (30-9-1791), Quấc hội lập pháp được bâu ra, trôn cơ sở Hiến pháp 179! (tức là cừ tri bị hạn chế ưong số cône dần "tích cực"). Vì Quốc hội lập hiến đa quyết định đại biểu cO của mình khổng được Uiam gia Quốc hội lập pháp, nên trong Quốc hội lập pháp đa gạt bỏ được nhiêu đại biểu quý tộc và tăng lữ, nhưng đổng ứiời nỉiiêu đại biểu ndi liếng của đẳng cấp Uìứ ha ưong Quốc hội trước, ưong đó có cả Rôbexpie cũng không có mặt trong Quốc hội lập pháp. Tuy Rôbexpie không tham gia Quốc hội lập pháp, nhưng nhiều bạn bè của ông trong câu lạc bộ Giacôbanh có chân ưong Quốc hội lập pháp. Nhóm bạn bè của Rôbexpie ưong Quốc hội lập pháp lập thành phái cực tả trong Quốc hội, ngồi chỗ cao nhất ưong phòng họp, nên có tên là phái Núi (Montagnard). Trong Quốc hội lập pháp, phái Phcriãng hay phái L4p hiến (đại diện cho giai cấp đại tư sản tài chính) chiếm đa số và ứiống ưị Quốc hội ưong giai đoạn đầu. Phái này chủ ưương Quân chủ lập hiến và đa không giải quyết được bất cứ vấn đề gì của cách mạng. Phái Girôngđanh, dại diện cho quyên lợi của tư sản thuơng nghiệp và công nghiệp miền Tây và Nam nuức Pháp và phần nào cho tư sản ruộng đất ở các tỉnh, nghiêng vê dấu tranh cho nền Cộng hòa. Phái này kêu gọi tiến hành chiến tranh để tăng cường địa vị kinh tế của Pháp ở châu Âu, đồng thời đành lạc hướng quần chúng nhân dân khỏi những vấn đồ chính ưị - xa hội
trong nước, mà quan tâm đến cuộc chiến tranh vứi bên ngoài. Lui XVI lại càng mong muốn cucX' chiến tranh nổ ra giữa Pháp
38
và các nước phong kiến châu Áu, với hi vọng quân đội nước ngoài SÊ đò bẹp cách mạng Pháp. Lởi kèu gọi ưến hành chiến ưanh của phái Girôngđanh đuợc quần chúng nhân dân huởng ứng nhiệt liệt, vì hụ không biết việc luyẽn ưuyền chiến ữanh của phái Girôngđanh cổ lựi cho ưiéu đình. Tháng 3-1792, nhà vua Uiành lập nội các Girôngđanh và ngày 20-4-1792, nội các Girôngđanh đề nghị với Quốc hội và được Quốc hội thông qua, tuyên chiến với hoàng đ ể .
Áo. Rổbexpie là người đầu tiên nghi ngờ chính sách phiêu luũ ^ chiến tranh này. Trong những bài diẽn văn của mình, ông đa phân tích về sự phân bố hiện có của các lực lượng chính ưị ở Pháp, gây chiến ưanii là bất lợi. ông vạch ưần những lời le thách ứìức hiếu chiến của phái Girôngđanh vê "chiến tranh giải phóng”, "xuất khẩu cách mạng" ... chỉ phục vụ quyền lợi của ưiêu đình và bọn nội phản. Đúng như Rổbexpie dự đoán, cuộc chiến ưanh chống Áo. sau đó chống cả Phổ, đa đưa đến cho Pháp những thất bại ở mặt ưận. Tìiất bại không phải vì binh lính Pháp thiếu dũng cảm và chịu đựng, mà do các sĩ quan chỉ huy, phân lớn là quý tộc, đẻu chống cách mạng và lạo thuận Igri cho quân địch. Sự liên lạc có tính chất phản bội giữa ừiêu đình Pháp với bộ tham mưu quân đội địch đa làm lộ bí mật các kế hoạch hành quân của quân đội Phâp. Quân đội Phổ - Áo đa tụ tập bên bờ sông Ranh, sắp tràn vào nước Pháp, ứieo sau là một đạo quân của bọn di cư. Ngày 11-7-1792, diiới áp lực của nhân dân, Quốc hội lập pháp phải tuyên bố "TỔ quốc lâm nguy", huy động tất cả đàn ông có thể câm vQ khí gia nhập quân đội, quăn Vệ quổc phăi ở tình ưạng sẫn sầng.
Chính Rôbexpie và những nguời dân chủ - cách mạng Giacôbanh đa đứng ra tổ chức lực lượng nhân dân chiến đấu. Tuy trước đây, họ chống lại việc tuyẽn chiến, nhưng nay trước hiểm họa thất bậi và cách mạng bị đe dụa, Rôbexpie và những nguởi Giacôbanh cách mạng đa kẽu gọi quần chúng nhân dân đứng lẽn cầm vQ khí. ở
Pari, cQng như ở tất cả các quận írong toàn quốc, những đạo quân tinh nguyện điĩợc thành lập và tiến ra mặt ưận, bảo vệ Tổ quốc.
39
Sự phản bội của nhà vua và hoàng hậu đa lộ ro. Tư luửng bai bỏ nên quân chủ ngày càng tăng. Đêm 9, rạng 10-8-1792, quần chúng vQ ưang đa xông vào cung điện Tuylơri, ncri vua và gia đình ở. Sau hom hai giờ chiến đấu với quân đội bảo vệ vua, nhân dân đa chiến thắng, bắt vua và hoàng hậu vê giam tại nhà tù Tâmplơ. Cuộc khởi nghĩa ngày 10-8-1792 do Cõng xã khới nghía lanh đạo. Công xa này gồin những ủy viên của các phân khu ở Pari tổ chức ra để chuẩn bị tiến hành khởi nghĩa. Sau khi khởi nghía tháng lợi, Công xa vln duy ưì và đảm nhận vai ưò của một cơ quan quyền lục của nhân din. Nhiều người Giacôbanh cách mạng, ưong đó có Rôbexpie, đuợc chỉ định giữ các chức vụ khác nhau ưong Công xa. Duới áp lực của Công xa, nhiều biện pháp cách mạng đa đtrợc Quốc hội lập pháp ứiông qua, như tịch thu ruộng đất của bọn di cư, chia tíiành lô nhỏ để bán cho nông dân, giải quyết vấn đê thực phẩm cho nhân dân và cho quân đội, ửìiết lập tòa án đặc biệl để trừng trị những tội ác của bọn phản cách mạng... Tinh ưiần cấch mạng cùa quần chúng và của binh sĩ lên cao, quin đội cách mạng đa chặn đứng được quân Phổ ở ưậíi Vanmi (20-9-1792) và cứu nguy cho cách mạng Pháp.
Từ' ngày 21-9-1792, Hội nghị Quốc uớc đuợc bầu theo lối phổ thông đầu phiếu, tíiay ứiế cho Quốc hội lập pháp. Trong Quốc uớc, phái Girôngđanh chiếm gần 200 ghế, làm ứiành cánh hữu ; phái Núi hay Giacôbanh có độ 100 đại biểu, làm thành cánh tả ; còn phái giữa, ưên danh nghĩa không ứiuộc phái Girôngđanh cang như Giacỗbanh. chiếm đại đa số (khoảng 400 đại biểu), là phái Đông bằng. Phái này sẵn sàng ngả vê bên nào mạnh hơn. Điều đáng lưu ý là nhăn dân Pari đa bỏ phiếu cho nhiéu ứng cử viên của phái Giacôbanh cách mạng như Rôbexpie, Đangtông, Mara... Trong Quốc uức, tíiời gian đâu, phái Girôìigđanh, đuợc phái Đông bằng ủng hộ, nám quyên thống trị. Phái GirOngđíuih chủ trương tôn ưọng nhong hình thức hợp pháp, vu cáo bộ ba Rõbexpie,
40
Đangtône và Mara muu đồ ưuết lập chế độ độc tài. Bằng những lí le cách mạng sắc bén, Rôbexpie đa kiên quyết chống lại sự vu khống và luận điểm "hợp pháp" của phái Girôngđanh. Trong vụ án xét xủ nhà vua, phái Girôngđanh tìm mọi càch bảo vệ nhà vua, nhung cong không ngàn cán được quyết định của Quốc ưức xử tử vua Lui XVI (21-1-1793), nẽn càng mẩl uy tín. Sau khi Lui XVI bị xử lử, Liên minh thứ nhấí chống Pháp được hình thành, gồm phần lớn các nước châu Ảu, do Anh đứng đầu. Phái Girôngđanh là phái chủ chiến, nhưng không có khả năng chỉ đạo cuộc chiến tranh chống lại liên minh phản cách mạng rộng lớn nhu UiẾ. Một số tướng lĩnh Girôngđanh, tiêu biểu là Đuymuriỗ (Dumouriez) se phản bội ỉại Tổ quốc, đâu hàng ,quân thù. Quần chúng dân nghèo ứiành ưự bất mán, nổi lên đấu ưanh quyết liệt. Những nguời này được mệnh danh là phài "Hóa dại" do linh mục Giắc Ru (lacques Roux) lănh đạo. Cuộc đấu ưanh này cuối cùng đa giành được ưiấng lợi. Trong bước gian nguy của cách mạng, phái Núi (tức phái Giacôbanh) được phầi Đổng bằng ủng hộ, đa ứiúc đẩy Quốc ước đé xuất những biện pháp cứu quốc đặc biệt, ưong đó có việc ưiành lập ửy ban cứu quốc để kiểm soát và xúc tiến công việc của ủy ban chấp chính và lổ chức một hệ thống các đặc phái viẽn của các đạo quân, có quyên hành rất iớn, kể cả quyén bất giam các tướng lĩnh.
Phái Girôngđanh chống đối lại những biện pháp cứu quốc đặc biệt trÊn, họ không ngứt hô hoán lẽn rằng đó là chế độ độc tài. Họ lập ra một ủy ban mười hai người gổm toàn nguời của phái Girõngdanh để diêu ữa những hoạt động của Công xã cách mạng Pari (là thành ưì cùa phái Núi). Họ đưa Mara "người bạn dân" ra tòa án xét xử, nhưng bị thất bại. Họ bắt giam Êbe (Hébert), một lanh tụ của phái Giacôbanh và là ủy viẽn của Hội đổng công xa, và một số lanh tụ khác cúa quần chúng.
41
Ngày 25-5-1793, khi Còng xa cử nguừi đến Quốc mVc đòi irả lại Êbe, thì Ixna, mội lanh tụ Girôngđanh đang chủ tụa Quốc ưt5fC, đa ưả lởi một cách khiêu khích : "Nếu bầng những cuộc nổi dậy luôn nảy sinh, các anh động đến đại biểu của Quốc ước, thì nhân danh toàn nước Plìáp, tối tuyên bố với càc anh rằng Hari se bị liêu diệt và rổi đây người ta sẽ tìm trên bờ sồng Sen xem Pari đa từng tồn tại hay không ?". L(>i đe dọa tiêu diệl thủ đổ cách mạng của Ixna là một thách ứiức lớn đối với quần chiíng cách mạng.
Ngày 26-5-1793, tại câu lạc bộ Giacôbanh, Rôbexpie kêu gụi nhân dân đứng lên khởi nghĩa. Ngày 29-5, ủy ban khởi nghĩa đuợc thành lập. Ngày 31-5, các đường phố Pari đa tràn ngâp những nguời khổã nghĩa cớ VQ ưang. Ngày hôm đó, những nguời khởi nghĩa đa buộc Quốc uức phải giâi tán ủy ban mười hai người. Cuộc đấu ưanh văn tiếp tục. Ngày 2-6, hàng vạn người ưong nội thành và từ vùng ngoại ô kéo tới bao vây Quốc uớc. Mội phái đoàn cùa nhân dân khởi nghĩa do Ảngriô (Henriot), một ngm>i Giacôbanh cánh tả, cầm đầu, kéo vào Quốc uớc. đòi bất lập tức các lanh tụ Girôngđanh. Quốc ước bắt buộc phải bát giam 29 đại biểu và hai bộ trưởng Girôngđanh. Cuộc khởi nghĩa ngày 31-5 và 2-Ố-1793 đa chấm dứt giai đoạn tìiống ƯỊ của phái Girôngđanh và bắt đâu giai đoạn chuyên chính Giacôbanh dãn chủ và cách mạng.
Phái Giacôbanh, đứng đầu là Rôbexpie, nắm chính quyên, đa tiến hành nhiồu chính sách cách mạng như thông qua Hiến pháp 1793, một hiến pháp tiến bộ nhất ưong lịch sử cận đại và thực hiện chính sách khủng bố (xử tử cụu hoàng hậu Mari Ángtoanét ngày 16-10-1793, thông qua đạo luật về những nguừi tình nghi, ban hành luật giá tối đa và mức lương tối đa).
Hiến pháp 1793 không thủ tiêu chế độ tư hOu vẻ fư liệu sản xuất, coi quyén tư hQu là "tất nhiẽn và bít khả xãm phạm của con người”. Rôbexpie đa từng nói : "Hỡi những tâm hồn nhơ bán !
42
Các ngirơi chỉ thích vàng, ta không hê muốn đụng chạm đến của cải của các ngươi !”. Nhưng ưong khi xây dựng bản Hiến pháp 1793. Rỡbexpie cũng đa đồĩ hạn chế quyên lư hữu để không thé "làm tổn hại đến an ninh, đến đời sống, đến tài sản của đống bào". Ông cQng nói : "Xa hội phẳi lo cho đời sống cùa tất cả các thành viẽn củí mình". Nhưng nhà cách mạng tư sản Rôbexpie không vượt qua đưrc những lởi kêu gọi mư hổ về việc hạn chế quyền tư hữu ấy.
ủy ban cứu quốc (được Uiànlì lập từ ứiáng 4-1793) do £)ăngtông (Danloni lanh đạo, tỏ ra thiếu kiên quyết và khồng đù khả năng vưựt qui nguy cơ đe dọa đất nước. Rôbexpie đa đê xướng việc cải tổ lại ủy ban cứu quốc, loại Đăngtông và những chiến hữu của ônị ta ra khỏi ủy ban và đua vào ủy ban những người Giacồbaah có hành động kiôn quyết ưieo đường lối cách mạng. Rôbexpii, một nguời sáng suốt và có quyết tâm không gì lay chuyển lổi, đứng đầu ủy ban cứu quốc mới. Xanh Giuýt (Saint-Just), cánh taj phải của Rôbexpie, một người rấl thông minh và kiên quyết ứani gia ủy ban cứu quốc, ủy ban cứu quốc do Quốc ước bâu ra, lắm toàn bộ quyẻn lực Uiực tế. ửy ban cứu quốc có nhiệm vụ đảo ngược tình tíiế quân sự và bảo đảm thắng lợi của nước Cộng hía. Ngoài việc tiến hành chính sách khủng bố có tính chít cách mạtìg, ủy ban cứu quốc còn cữ các phái viên của mình xuống các quậi và vào quần đội để thúc đẩy các hoạt động cách mạng, xét xử ụi chỗ những tướng lĩnh phản bội hay bấl lực... Xanh Giút đuợc củ làm phái viên trong quân đội vùng sông Ranh, đa bắt những I^ười giâu phải đóng ứiuế.
Thári' 8-1793, Quốc uức ban hành sắc lệnh (ổng động viên. Tất cả công dân cừ 18 đến 25 tuổi đêu được động viên vào quân đội để bảo Tổ quốc. Trong sắc lệnh viết : "Thanh niên ra mặt trận ; những nỉuời đa có gia đình rèn vũ khí và vận chuyến lương ứiực ;
43
phụ nữ làm lêu, may quần áo và phục vụ trong các bệnh viện ; thiếu nhi lấy quân áo cQ làm bãng ; người giá đến cảc nơi cồng cộng để động viên chiến sĩ, gựi lòng cảm tìỉù đối với vua và ca ngợi sự thống nhất của nền Cộng hòa". Nhờ có những biện pháp cương quyết và cách mạng đó, quân đội cách mạng đa đàn áp được những cuộc bạo động do phái Girôngđanh và bọn phản động Vàngđê gây ra, đánh đuổi quân đội Anh ra khỏi hải cảng Tulông (tháng 12-1793) và đánh bại quân đội liên minh phong kiến trong trận PhloTuyt (Pleurus) (26-6-1794).
Rôbexpie và phái Gíacôbanh cách mạng da đưa cách mạng tư sản Pháp lên đến đỉnh cao. Nhung vì họ đại diện cho tâng lớp tu sản bậc ưung và thấp, không muốn xóa bỏ chế độ tư hữu, nfin sự phân hóa giầu nghèo tất nhiên phải diẽn ra trong xa hội, kể cả ữong những người Giacôbanh. Trong hàng ngo phái Giacôbanh đa xuít hiện sự phân hóa : phái "Cục đoan" do Êbe (Hébert) lanh đạo, đại diện cho quyên lợi của quân chúng "không quần chcn"^^^ và phái "ồn hòa" hay "Khoan dung" tập hợp quanh Đăngtông (Danton) gồm nhang nguời mới giầu lên. Rôbexpie đa đàn áp câ hai phái "hữu" và "tả". Chỗ dựa xa hội của Rôbexpie bị thu hẹp lại. Trong khi đó, giai cấp tư sản và tâng lớp nông đân tư hữu muốn ngừng cuộc cách mạng lại. Bọn phản động và thoái hóa trong Quốc ước liên kết với nhau chống lại Rôbexpie và những người Giacồbanh cách mạng.
Ngày 8 tháng Técmiđo năm Cộng hòa thú hai (26-7-1794), Rôbexpie đọc bài điỗn văn cuối cùng ờ Quốc ước, vạch ưần am mưu của bọn phản động và đổi trừng trị chúng. Ngày 9 ứiầng
( 1) Những ngưởi "không quđn chẽn” (les "Sans-culottes") chi những người binh dln nghèo khổ và cách mạng. Họ m ặc quán dài, CÒD bợn quỷ tộc tbt mặc quáa chSn để đi giđy bốt, vỉ tbế bọQ quý (ộc gọi họ tà nbững nguởi ”khững quin chen" hay "khOog quán Dgắo*.
44
Técmiđo (27-7-1794), bọn phản động da chốiig lại Rôbexpie và bál giam ông cùng các chiến hữu của ỡng. Quần chúng nhân dân Pari đa giải Uioát cho hợ. Nhưng phe cánh Rỏbexpie chần chừ, không quyết lâm phát đỏng quân chúng kiiời nghĩa chống Quốc ước do bọn phản động nắm giữ. Chúng đă đua một đơn vị vũ trang tấn công vào Cốne xa. ^àng ngày 10 tháng Técmiđo (28-7-1794), Rỗbexpie cùng 21 chiến hoxi của ông bị chém đầu không qua xét xử.
Rồbexpie không còn nữa. nhưng tên luổi của ông đa gắn lién với cuộc Cách mạng tư sản Pháp vĩ đại.
45
ĐẾ CHẾ THỨ NHẤT ở PHÁP
12 - NAPÔLÊÒNG BÒNAPÁC • NGƯỜI XÂY DỰNG VINH QUANG CỦA MÌNH TRÊN NHỮNG THÀNH QUẢ CỦA
CÁCH MẠNG Tư SẢN PHÁP
Napôlêông Bõnapác (Napoléon Bonaparte, 1769 - 1821) sinh ngày 15-8-1769 tại đảo Coócxơ (Corse), sau khi đảo này TdỊ sáp nhập vào nuớc Pháp có ba ưiáng. Cha ông là một luật sư, ứiuộc tầng lớp quý tộc nghèo, có xu hướng tíiân Pháp, nên quyết định cho ông sang học tại Pháp, ông là người nhỏ nhắn, ưầm mặc, vụng vê, nói tiếng Pháp kém, có pha giọng Coớcxơ, nên ữiuừng bị bạn bè chế giễu, nhưng học rất giỏi. Năm lẽn 10 tuổi (1779), Bônapác học tại ưuờng Quần sự ở ửiành phố nhỏ Briênnơ. Nàm 15 tuổi (1784), ông được cử vào học Học viện quân sự Pari, chuyên nghiên cứu vè pháo binh, ông đa đạt đuợc những ưiành tích xuất sác, nhất là vê lĩnh vực toàn học và sử học. Khi đó, ông đa viết một tác phẩm quần sự vê khoa học vận chuyển của đuừng đạn. Thẳng 9-1785, ông tốt nghiệp với cấp bậc Thiếu úy pháo binh.
Khi Cách mạng tư sản Pháp (1789 - 1794) bùng nổ, Bônapác tuyôn bố ủng bộ chính phủ cách mạng. Thảng 9-1793, viên đại ứy pháo binh trẻ tuổi NapôlỄông Bônapác tham gia trận đánh giải phóng hải cảng Ttilông (Toulon) ở miền Nam nuức Pháp đang bị quân Anh chiếm đóng, ồng đa bố ưí pháo binh, bắn rất chuẩn xác, giải phóng Tulông. ồng được Rôbexpie khen nggri và Hội nghị Quốc ước (tức Quốc hội) phong hàm Chuẩn tuớng, lúc đổ mới
24 tuổi.
Sau cuộc chính biến Técraiđo (27-7-1794), phái Giacôbanh bị lật đổ, Bônapác bị coi là nguừi cùng phe cánh với Rôbexpie, nôn bị bắt ngày 9-8-1794, nhưng hai tuần sau được ưiả. Ngày 5-10-1795, bọn bảo hoàng nổi loạn âm mưu cướp chính quyẽn ở Pari, Bỗnapầc
46
đuợc gian nhiệm vụ trấn áp b<)n chúng, ông được tín nhiệm và đuực phong hàm Thiếu tướng ngày 16-10-1795.
Mùa xuân năm 1796, Bônapác được giao chỉ huy mặi ưận Italia chống quân Áo. Với số quân í( hơn, lại ừang bị kém, nhưng ông đa đánh bại quãn Áo đông h(m và nổi tiếng hùng mạnh nhất châu Ảu, nhở oó khả năng tổ chức cao, tài lanh đạo quân sự xuất sắc. Truớc khi kéo quân vào Itaiia, Bônapắc đa động viên binh, sĩ : "Hỡi binh sĩ ! các nguoi đang thiếu ăn, thiếu mặc. Ta sáp đưa các ngươi đến vùng đồng bằng phì nhiêu nhất ứiế giới", ông cũng tuyên bố một cách dối ưá với nhân dân Italia lầ quân đội Pháp đến Italia là để giải phóng nhân dân Italia khỏi ách tíiống tìi của Áo. Năm 1797, chính phủ Áo buộc phải kí hòa ước Cămpô-Phoócraiô (Campo-Formio) với Pháp, làm tan ra Liện minh phong kiến chống Pháp lản ưiứ nhất của các nước châu Âu.
Năm 1798, chính phủ Đốc chính Pháp nghe theo kế hoạch của Bônapàc mở mặt trận Ai Cập - Xyri, đe dọa đuờng đi Ấn E)ộ của Anh. Bônapác đuợc cử làm Tư lệnh quân đoàn Phuơng Đông, chỉ huy 350 tâu chiến với ba vạn quân viỗn chinh sang Ai Cập và Xyri. Quân đội Pháp đa chiếm được hải cảng Alếchxanđria của Ai Cập, đáiứi thấng kị binh Ai Cập MamơlUc dưới chân Kim tự th ^
và kéo vào tìĩủ đô Cairô. Nhưng hạm đội Pháp sang cứu ượ lại bị hạm đội Anh do đô đốc Nenxơn chỉ huy tiẽu diệt mội cách thảm hịũ ở Abukia (quần đảo Xixilỉa). Quân viẽn chinh của Bônapấc bị giam chân ở Aj Cập, Ihường xuyên bị người Arập, Ai Cập và Xyri tín công, cộng thôm thời tiết nóng nực và nạn dịch nôn bị chết hại nhiều. Giữa lức đó, Bônapác nghe tin chính quyên Đốc chính ở Pari đang gặp khố khăn, ồng đâ bỏ quân đội lại Ai Cập và lẻn ừở về Pháp (tháng 10-1799).
Khi đó ở nước Pháp, chính quyền Đốc chính đang rất lúng tUng vì phải đối phó với cả phe tả (âm mưu khởi nghĩa của những người Bình đẳng do Babớp lanh đạo) và phe hũu (bọn bảo hoàng).
47
Giai cáp tư sản và nồng dần fư hữu thấy chính quyên Đốc chính không có khả nâng cai ưị được nửa, nên trồng cậy vào thanh kiếm của Bônapác để đảm bảo quyên l(7i cho họ. Bônapác từ Ai Cập trốn vê, đa dựa vào quân đội tiến hành cuộc đảo chính ngày
18 Bruyme (tháng Sương mù) nàm Cộng, hòa thứ tám (9-11-1799). Quyền hành lọt vào tay một ban Tổng tài lâm ưiời gồm ba nguởi, trong đó Bônapác là Tổng tài thứ nhất, nắm tít cả mọi quyẻn hành, còn hai Tồng tài kia chỉ có tiếng nói tư vấn. Chế độ độc tài quân sự được ứiành lập thay thế chế độ Cộng hòa.
Nâm 1800, theo kế hoạch của Bônapác, Pháp đưa hai đạo quân tấn công Áo và buộc Áo phải kí hòa ước Luynôvin (LuneviUe) (1801), tiếp đó hòa ước Phàp - Nga cQng đuực kí kết. Do Áo và Nga nít khỏi Liên minh chống Pháp, nên Anh cQng phải kí hòa ước VỚI Pháp tại Amiêng (Amiens) (1802). Lần đâu tiên sau mười năm chiến ưanh, hòa bình ưở lại toàn châu Âu.
Tuy hòa bình không được lâu dài, vì từ năm 1603. Anh lại bắt đầu chống Pháp và đến 1805, chiến ưanh lại ian rộng, nhưng Bồnapác đa lợi dụng đuợc tíiời gian hòa hoan này để tổ chức và củng cố chính quyên của mình (ngày 2-8-1802, Bônapác tự xung Tổng tài ừọn đời). Khi chiến ưanh tái diẽn, bọn bảo hoàng ngóc đầu dậý, thì chính quyên chuyèn chế của Bônapác đa củng cố xong. Ngày 18-5-1804, Napôlẽông Bôoapác lên ngôi hoàng đế, hiệu lầ Napôlôông I.
Ngay sau khi iẽn ngôi hoàng đế, Napôlêông I đa kí hiệp uớc ứiân thiện với Giáo hoàng Piô VII và đặc biệt chú ưọng đến công việc nội trị (ban hành bộ Dân luật) và khuyến khích phát triển cồng tíiương nghiệp đổ làm cơ sở hậu cần cho những cuộc chiến ưanh sáp tới. Napôlêông ỉ đánh giá rất cao giá trị của bộ Dân luật 1804, ông viết : "Vinh quang thật sự của tôi không phải lầ đa chiến thắng 40 trận..., nhưng cải se không phải mơ được, cái se sống vĩnh viẽn là bộ luật Dân sự của tôi". P.Enghen coi Bộ
48
luật Napổlêờng là "Bộ luật tư sản hiện đại nhất, mà cơ sở của nó iằ những thành quả xa hội cùa cuộc đại Cách mạng tư sản Pháp". Các Mác cũng cho là : "Napòlêông đa xây dựng đm.Tc một mổ hình Nhà nước tư sản hoàn chỉnh". Vì thế mà Bộ luậí Napôlêòng đa ảnh hưởng rất lớn đến sự hình Ihành luậ> Dân sự ở nhiổu nuức tư bẳn trên tíiế giới.
13 ■ NHỮNG CDỘC CHiẾn tranh CHỐnG anh, áo, NCA
Kẻ thù chính cùa Pháp ià Anh, Áo và Nga. Napôlẽông I dự định đổ bộ lên đảo Anh, đã tập trung 2.300 tầu chiến ở cảng Bulônhơ bên bờ biển Măngsơ. Nhimg do một hạm đội của Pháp khi vượt qua eo (ìibranta bị mội hạm đội của Anh do đô đốc Nenxơn chỉ huy, tiêu diệt (trận hải chiến Traphanga ngày 21-10-1805 ; ưong ưận này, Nenxơn hi sinh), nên Napôlẽông I phải hủy bỏ chiến dịch đổ bộ lên đảo Anh và liến hành cuộc chiến tranh trên lục địa. Napôlêông I đại thắng liên quân Nga - Áo ưong ưận Auxtéclít (2-12-1805), đành bại quân Phổ ưong trận lêna (14-10-1806) và tiến vào Béclin (thủ đô của vuomg quốc Phổ). Ngày 21-11-1806, tại Béclin, Napôlêông 1 đa ban hành sắc lệnh vê "phong tỏa lục địa” nhằm ngăn cản hàng hóa của Anh buôn bán ở lục địa châu Âu. E>ể trừng phạt Bỏ Đào Nha khống chịu đóng cửa biển đối với nguời Anh. Napôlêông I đưa quán vào xâm luực Bồ Đào Nha và chiếm đóng luôn cả Tây Ban Nha. Nhưng cuộc kháng chiến của nhân dân Tây Ban Nha đa làm cho Napồlẽông bị tiôu hao nhiêu lực luựng. Tiếp đố, Nga hoàng cũng chống lại công việc phong tỏa lục địa của Napõlẽông. Nàm 1812, Napôlêông I câm đầu một đạo cỊUân lớn gổm trSn 60 vạn ngưòi, xâm lược nước Nga. Quân đội Nga phải vừa đánh vừa rút lui. Cuộc đụng độ lứn nhất giữa quân đội Pháp và Nga là ưận Bổrôđinô (ngày 7-9-1812). Tổng tư lệnh quân đội Nga là Thống soái Cutudốp hạ lệnh bỏ ưống Màtxcơva (Uiủ đồ thứ hai của Nga hoàng), rút quân đội vê phía nam. Quân
4-nmcls-tỉ 49
đội Pháp kéo vào Mátxarva, dân cư đa bỏ đi đến 9/H) và hỏm sau, thành phố bốc lửa khắp nơi. Giữa mùa đông lạnh giá và Ihiếu lương thực, Napôlêông phải ra lệnh rút quân khỏi Mátxctrva, dự định xuơng vựa lúa phía nam Nga, nhưng bị quân dãn Nga chặn đánh kháp nơi. Napôlêông bỏ quân đội lại, ưổn vẻ Pari.
Napôlẽông tập hợp vội va được 30 vạn quân để ngàn chặn quân Nga và liên minh phong kiến châu Âu ưàn vào nmỸc Pháp. Nhimg trong "ưận các dân tộc" ở Laixích (Đúc), quân đội Pháp bị Ihất bại. Ngày 31-3-1814, liên quân phong kiến, đứng đầu là Nga hoing Alếcxan I, kéo vào Pari. Napôlêông buộc phải ứioái vị và bị đày đến đảo nhở Enba, nằm bẽn đảo Coócxơ và Italia, ở Địa Trung Hải.
Ngày 20-3-1815, Napôlêỏng trốn khỏi đảo Enba, đổ bộ lên bờ bién phía nam Pháp và ưở lại Pari, Nhưng Napôlêòng chỉ nám chính quyền đuợc 100 ngày, Trong ưận đánh cuối cùng ử Oatéclô, gần Brúcxen (Bỉ) (18-6-1815), quân đội của Napôlêông bị đắnh bại hoàn toàn bởi liên quân Anh - Phổ. Napôlêông bị đày ra đảo Xanh Êlen, ngoài ỉchơi Đại Tây Ducmg và chết ở đó nãm 1821.
Sự nghỉộp của Napôlẽông đối với dân tộc Pháp và thế giới thật là vĩ đại. Có đuợc sự nghiệp đó là do Napôlêổng đa được thừa huởng những thành quả của cuộc Cách mạng tư sản Pháp. Nhưng cũng phải ứiừa nhận lầ Napôlêõng lầ một nhầ chính ưi lỗi lạc vầ nhà quẳn sự tầi ba của nước Pháp. Napôlẽông là người đa dưa nuức Pháp và nhiều nước chịu ảnh huởng của Cách mạng Pháp pháỉ triéa ưẽn con đường tư bản chủ nghĩa.
14 - NHỮNG CHUYỆN TÌNH DUYÊN
CÙA NAPÔLÊỎNG BÔNAPÁC
Vào mùa đồng năm 1795, tướng Bônapác đa làm quen với Giồdẽphin đờ Bôhácne, một phụ nữ rất xinh đẹp và quyến ra. Mặc
50
dầu tuổi hai nj*ư(Vj rát cliênh lệch nhau, chàng trai mứi cổ 26 luổi. còn cô gái da là một Ihiếu phụ 32 tuổi, vợ góa của t)ờ Bôhácne, đa bị tòa án cách mạna xử tứ năm 1794 và đa có hai con, nhưng (uxVng Bỏnapác vẫn quyết định kết hỏn cùng (ìiốdẽphin. Mới qua tuần iràng mật chưa bao lâu, Bônapác đa phải xa nàng đổ đến chỉ huy quân dội à Ilalia, rồi ở Ai Cập. Từ những rKíi xa xổi, hâu như ngày nào, Bónapác cQng viết Ihư cho vợ, hiếu lộ tình yCu tha thiết. Nhưng Giôdêphin thỉnh Ihoảng mới có một lá thư hồi đáp, mà cang chẩng lấy gì làm mặn mà, vì nàng còn đang mẳi mê trong nhừng buổi hội hè ờ kinh thành Pari hoa lệ với biết bao chàng Irai đang cíúêm nguỡng. Tinh ưạng này két) dài đuực hai nàiĩi. Khi biếl chuyện, Bônapác đa quyếl định li hôn với Giôdêphin sau khi đánh Aj Cập vẻ.
Năm 1804, Napôlẽône Bônapác lên ngôi hoàng đế, hiệu là Napỏlêõng I. Nàm 1809, sau khi đánh bại quân Ảo trong trận Vagrain (VVagram), Napôlêông có thể tiêu diệt đm;c hoàn toàn nước Áo, nhumg ône muốn giữ Áo làm đồng minh, nên đa xin cuới công chúa nư('TC Áo là Mari Luidơ (Marie Louise). Mari Luidơ là con gái của hoàne đế Áo Phrãngxoa II (và là cháu gọi Mari Ảngtoanét, vợ vua Lui XVI đa bị Cách mạng Pháp chém đầu, bằng cô ruộl), tuy không đẹp như Giôdèphin, nhưng có duyẽn hưn. Nàng biết sáu ngoại ngữ và giỏi vê nhạc, họa, khi đó, vừa tròn 18 tuổi, còn Napôlêône 40 luổi. Sau khi được hoàng đế Phrăngxoa nhận lời xin cmỸi. Napổlẻổng rất mừng, bèn sai thống chế Bécliẽ (Berlhier) sang thủ đô Viên để cảm lạ và đại diện cho hoàng đế Phàp xin chuẩn bị iễ cưới. Đi Iheo thống chế, còn có nhiéu lẽ vật và đỏ nơ trang vô cùng quý giá gồm kim cương, ngọc ngà, t(T lụa và một số báu vật hiếm có, mà Napôlêông' đa chiếm đuợc ưong các cuộc viẽn chinh. Ngoài ra, Napôlêổng còn chọn bốn con ngựa đẹp nhất đw c tuyển lựa qua hàng ngàn con ngựa đẹp và khỏe vứi một chiếc xe ngựa đẹp lộng lẫy hom bao giờ hết để rưc5rc dâu. Trong
51
khi đó, hoàng đế Áo cũng muốn con mình đẹp rực rO hơn nữa, nên đa ra lệnh tuyén chọn các chuyên viên cắt may và nghi lễ đến cung điện để ưang điổm cho công chúa. Ngay cả đfti giây ciia Mari Luiđơ cQng đux;c gửi sang đóng ở thủ đô Pari (Pháp) cho đúng mO't, hợp thời trang.
Ngày 27-3-1810, đoàn xe ruức Mari Luidơ lên đuờng. Napổ!ẽỏnc đa ra tận tíiành phố Côngpienhơ (Compiègne) cách Pari 120km đổ đón cô dâu. Trong lỗ phong tuớc hòàng hậu cho Mari LuidtT, có năm hoàng hậu của các nuớc ở châu Âu đa nâng vạt áo cưới cho Mari. Năm 1811, Hoàng hậu Mari sinh cho Napôlêông một hoàng nam lầ Napôlẽồng Phrăngxoa Sáclơ Giôdép (được phong là quận công Rếchxtát, sau là vua của Rôma). Trong thừi gian Napôlêông viễn chinh ở Nga (1812 - 1813), bà ĩàm nhiếp chính ưong triêu đình Pháp. Khi Napôlêông thất bại, quân Liên minh phong kiến châu Âu chuẳn bị kéo vào đất Pháp. Áo hoàng đa phái công tuớc Phồn Naibớc (Von Neipberg) sang Pari, đưa bà và con ưai tÌKiát khỏi nước Pháp để vê Áo (tháng 3-1814). Khi Napổlêông bị đi đây, bà đa không dám theo chổng, mà ở lại. Viên, lấy công tước Phôn Naibớc, nguời đa cứu bà và con ưai ra khôi nước Pháp (1815). Sau đó, bà lấy một đời chồng nữa là bá tước Bổngbcn (Bombelles).
15 - VIỆC ĐƯA THI HÀI
CÙA NAPỎLÊÔNG BÔNAPÁC VỀ N ư ớ c PHÁP
Ngày 5-5-1821, Napôlêông Bônapác mất tại đảo Xanh Êlen, nhưng mâi mười bảy năm sau, ngưOi Pháp mới được người Anh cho phép đem thi hài của vị cựu Hoàng đế cùa mìrứi vế nuức. Vua Lui Philip đa cử con ưai của Hoàng tử Gioanhvinla tới đảo Xanh Ẽlen giám sát cõng việc khai quật tử ữú của Napôlẽỡng Bônapấc. Tháng 9-1840, một con tầu Pháp đa đưa ứii hài Napôlêõng
52
vồ đến hái cáng Lư Havrư, lừ đó, rấl nhiêu tàu ưìuyên Pháp đa đi theo tàu ch<3r linh cữu (hành một đoàn dài ưẽn sỗng Sen (Seine) đến tận Pari. Ngày 15-9-1840, duới ười mưa bao tuyết, hầu như nhàn dân toán ưiành phó' Pari và các u’nh làn cận tham dự tang lê của vị cựu Hoàng đế Napồlêông I. Linh cữu của Hoàng đế được đưa đi lừ lừ dọc các đuờnỀ phô' chính, qua Khải hoàn môn, xuống đại lộ Săng íỉlidè (Champs Élysées) và được đặt tại Nhà thờ Đômơ đẻ AnhvalidcT (Dòme des Invalides). Thi hài của NapôléOng Bônapác đưực bọc trong sầu lớp quan tài : litp thứ nhất bằng thiếc, lớp ưiứ hai bằng gố dái ngựa, ỉớp thứ ba, thứ tư bằng chì, lớp thứ năm bàng gỗ mun và lớp Uiứ sáu bằng gỗ sồi, sau đó được đặt vào ưong một chiếc quan tài bằng đá đỏ. Hầm mộ chứa quan tàì do kiến trúc sư nổi tiếng Visêônti thiết kế, ở đây có muời hai bức tượng chiến tháng khổng lổ, ngày đẽm canh gác cho Hoầng đế yẽn nghỉ giấc ngủ ngàn ưiu. Bẽn cạnh mộ của Napồlêông I là raộ củã con ưai ciia Hoầng đế, quận công Rếchxtát, được mệiứì danh là "chú đại bàng non" (L’Aiglon) và hai bẽn mộ của Napôlẽông I quy tập những thành viên ừong gia đình Hỡàng đế, những tướng lĩnh xuất sắc của Hoàng đế. Nhà thờ Đômơ đẻ Anhvaliđơ trở thành nơi tưởng niệm Hoầng đế N^ôlẽông I của nước Pháp.
53
ĐẾ CHẾ THỨ HAI ở PHÁP
16. NAPÔLÊỎNG IU HAY NAPÒĨ.ÊỎNG "TlỂU đẾ" . "ĐỨA CHÁU NHỎ CÙA ÒNG BÁC vĩ ĐẠI"
Hoàng đế Napôlõổno III (1852 - 1870), tên là Sácla Lui Napõlêổng Bônapác (1808 - 1873), còn gọi ià Hoàng thân Lui Bồnapảc (con thứ ba của Lui Bổnapác, vua Hà I>an, cm ruột Napôlêône Bồnapác, tức Ní^ôlêông 1) là mội con người tầm thuờng, ti tiện và xảo quyệt, đa biết lợi dụng uy tín của bác là Napôlêông I và (lùng những ưiủ đoạn gian xảo để lên nắm chính quyên. Ngm>i ta gọi ông là "đứa cháu nhỏ của ông bác vĩ đại" hay Napôlêổng "bé", Napôlêông "tiểu đế" (đối lập với Napôlêông 1 được gọi là Napôléône ”đậi đế'’).
Năm 1832, sau một thời gian sống lưu vong ở Thụy Sĩ và Iialia, ông trở về Pháp, tập hợp đitợc một bộ phận sĩ quan thời đế chế (tức thời Napôlẽông 1) và mộ( bọn côn đồ luru manh thánh lập phái Bônapác. Phái này, vào tháng 10-1836 ở Xưaxbua và tháng
4-1840 ở Bulốnhư, mưu toan đảo chính lật đổ chính quyên của Lui Philip (nên quân chủ tháng Bảy), nhung thất bại. Hoàng thân Lui NapôlêOng bị kết án tù chung Uiân, năm 1846 virọrt ngục trốn sang Anh. ông trở lại Pháp sau cuộc cách mạng 1848, đuợc bầu vào Quốc hội và ra ưanh cử chức Tổng thống nước Cộng hòa Phàp tháng 12-1848. ông đa giành dưực thắng lợi, đánh bại luớng Cavainhắc, tên đao phủ cua cuộc nội chiến tháng 6, người của phái tư sản Cộng hòa, ứng cử viên chính thức cùa chính ptiO và những ứng cử viên khác,
Trong Ihời gian nấm quyên Tổng thống, hoàng thân Lui Napổlêòng đa dựa vào giáo hội Thiẽn chúa giáo và bọn bảo hoàng, tìm cách loại trừ các đại biổu dân chủ và cộng hòa cấp tiến ưong Quốc hội, đồng thời tìm cách củng cố địa vị cá nhân, đưa những ngưừi
54
tin c ẩ n của m ình vào nắm các chức vụ chủ chổt UX)ng chírứi quyền. Năm 1852, Lui Napỏléông hết nhiệm kì làm Tổng Ihống (4 năm) và Iheo hiến pháp thì không đuực ra ứng cử lần Uiứ hai. Phe Lui Napftlõỏng c6 gắng vận động cải tổ hiến pháp ưong Quốc hội để gia hạn thời gian cầm quyên của Tổng Uiống lên 10 năm, nhưng thất bại. Sau khi cải tổ hiến pháp không thành, Lui Napôỉêông chuẩn bị làm đảo chính. I.ui NapôlẾông chọn ngày 2-12-1851 là ngày kỉ niệm Napôlêông I lẽn ngôi hoàng đế (1804) và chiến thắng Auxtéclít (1805) để tiến hành đâo chính, giải tán Quốc hội, bắt giam một sô' đại biểu Uìuộc phe chống đối ở Quốc hội và một số nhân sĩ clối lập. Tiếp sau đó, mội cuộc đàn áp dữ dội đa diễn ra.
Bàng cuộc tnmg cầu ý dân một cách gian ngoan, ngày 21-12-1851, Lui Napôlẽông được giữ lại làm l ’ổng thống và được giao quyên Ihảo ra mộí bản hiến pháp mới. Một nãm sau, ngày 2-12-1852, Lui Napôlẽông lại tổ chức mộĩ cuộc trưng câu ý dân mới để lên ngôi Hoàng đế, lấy hiệu lầ Napôlêông Chế độ Đế chế II
ra đởi.
'lìiời gian đầu của Đế chế II, nên kinh tế tư bản chủ nghĩa phát triển mạnh, phong trào đối lập của phái Cộng hòa tư sản và phong trào công nhân chua khôi phục đuợc lực luợág, nên Napôlêồng III ưiực hiộn được chế độ độc tài. Nhưng vào ứiời kì cuối cùa Đế chế, do những khó khân chổng chất ở ưong nuức (hai cuộc khủng hoảng kinh tế 1857 - 1858 và 1866) và những thít bại nghiẽm trọng về ngoại giao, chính quyên Napốlêông 111 đa phải ban hành một số cải cách "tự do" để mong cứu van Đế chế đang suy sụp. Nhưng quần chúng đa chán ghét Đế chế ỉl, Phong trào
(ỉ) Những ngưởi thuộc phái Bỡnap^c gọi quận cổng Rếchxtát Napỡl^òng Phrângxoa Sáclơ Giôdép (1811 - 1832). con của Napôlêrtng I và công chúa Ấo Mari Lukỉơ. đã từng được Napỡieỏng ĩ phong làm vua củỉi Rỡmiỉ. là NapỡỉÂŨng II. mặc dù *quận cAng Ròchxlát chưa lẽn ngAi boàng đế bao giò. Lui Napổỉôdog chỉ dúm nhận là NapdỉỂỔn^ III.
55
dáu tranh của phe Cộng hòa tư sản và của giai cấp cỏng nhân ngày càng lỏn mạnh. Cuộc chiến ưanh Pháp - Phổ (1870 - 1871) da bộc lộ sự thối nát và yếu hèn của Đế chế II. Cuộc chiến iranh chỉ k.éo dài không đầy một tháng (4-8 đến 2-9-1870), Hoàng đế Tổng tư lộnh Napôlêông III già nua, nhu nhược cùne đạo quân chủ lực của mình, đa phải đầu hàng quân đội Phổ ở Síĩđàng và bị đưa sang giam giữ ở Đức. Ngày 19-3-1871, Lui Napôlêòng được phép dởi Đức sang Anh sum họp với gia đình (vự là ưgiẻni đơ Môngtigiô, con ưai độc nhất lầ ơgien Lui Napỏlêông) và chết ở bên đó (1873).
17 . TRẬN XƠĐĂNG - kẾT t h ú c s ố PHẬN HOÀNC ĐẾ CỦA NAPÔLÊÓNG IU
Để đẩy cho Napôlêông III gây chiến ừanh inrớc với Phổ, Thủ tướng Phổ Bixmầc đa tạo ra "bức điện giả mạo Emxơ". Ngày 19-7-1870, Napôlêông III đa ưúng kế của Bixmác, vội va tuyên chiến với Phổ và cuộc chiến tranh Pháp - Phổ (1870 - 1871) bùng nổ. N^ôlẽông dự tính một cách chủ quan : Quân Pháp sẽ nhanh chống tiến vào nước Đức, khi quân Phổ chưa kịp trở tay. Quân Pháp se cát miền Nam E)ức ra khỏi Bắc Đức và như thế quân Phf se bị tíiít bại. Nhưng Napôlẽống đa tính lầm, ưong khi quân đội Phổ đâ chuẩn bị xong lục luợng thi quân Pháp chua chuắn bị gì. Ngay từ đầu chiến ưanh, quân Pháp đa ữũếu vữ khí và luơng ứiực. Một bộ phận quân đội đóng rải rác ở các thuộc địa, chưa kịp rút vê.
Chiến ưanh nổ ra đugrc 8 ngày, Pháp mới điêu động duợc 250.000 quân ra chỉến ừuờng, trong khi đó 400.000 quân Phổ đa bố ưí sẫn sàng chờ quân Pháp t(ặ. Ngày 2-8-1870, sau khi tuyên chiến hom 10 ngày, Pháp mới bất đâu tập kích qua bên kia biỄn giới nhưng bị quân Phổ đánh cho tan tành. Hai ngày sau, quân
56
Phổ thừa Uiáng phản công sang đất Pháp, phòng tuyến của quân Pháp bị vỡ.
Napôỉêông III vcti danh nghĩa là tổng chỉ huy quân đội Pháp buộc phải dẫn đại quân rút lui về cố thủ ở pháo đài Xơđẳng (Sedan) gần biên giới nước Bĩ. Napôlêông nới với nguyên soái Mác Mahông : "Xơđăng nhiêu đồi núi, công sự íại kiên cố, ở đây phòng thủ tốt, nhưng bất h.yi cho tiến công ; chúng ta nên cố thủ chờ viện binh". Mác Mahông cang hưởng ứng : "Cổ thủ ở đây là thượng sách”.
Thế là quân Pháp co cụm ở phào đài Xơđăng hiểm ưở và chật hẹp. Bixmác nghĩ bụng : "Thế càng tốt !" £>ể cất một mè luứi to, quân Pỉiổ lập túc bat) vây clẵặl quân Pliáp ở Xơđăng. Ngày 1-9-1870, quân Phổ bắt đầu khai chiến. Đầu tiên, 700 cỗ pháo của Phổ nhâ đạn như mưa vào pháo đài, mặt đất rung chuyén, cây cối công sự đổ ngổn ngang, toàn bộ pháo đài chìm ữong khói lửa. Tiếp đó, hai rauoi vạn quân Phổ tiến đánh pháo đài. Đến 5 giờ chiêu, quân Pháp đa bj thương vong tới 17.000 ngựời. Tuy quân Pháp vẵn chống trả kiên cường, nhưng Napôlêông sợ, nói với Mác Mahông : "Nguyên soái ! Ngài có thể tiếp tục cố thủ được Idỉông ? Có cân phải dùng phương pháp khác để ứng cứu không ?". Mác MahCrtig nhìn thấy hoàng đế đa thay sang bộ trang phục nhà binh, dáng điệu hốt hoảng, ông ta hiểu tấl cả, khóc và nói : "Thua hoàng thurợng, kẻ địch rất dũng mãnh, chúng tã bị cô ỉập rồi. Hạ ưiần đã bị thuững nặng khõng thể tiếp tục chỉ huy chiến đấu đuợc nữa. Hoầng thuợng ià đấng tối cao anh minh, thấy nên iàm như tíỉế nào, ưù hây iàm như thế ấy !”. Napôlẽông trầm tu một lúc, rồi than thở : "Bây giờ cố ứiủ không nổi, mà đqi viện binh đến không kịp nữa rỏi. Thế thất bại đă rO. Chứng ta không thể thí mạng 10 V9n binh sĩ. Trẫm quyết định đàm phán hòa bình với họ".
Thế là vị hoàng đế ngạo mạn, vừa mới hùng hổ tuyên chiến cách đây hơn một tháng, đa phải cầm bdt viết thư đầu hàng gửi
57
vuá Phổ ; "Nguời bạn anh em thân mến ! Vì tôi chưa cổ thể chết tfuức các binh lính của tối, nên đành phải rút kiếm trao cho bệ hạ. Tôi nguyện làm người anh em tốt của bệ hạ". NapAlêổng sai người câm thư và kiếm đưa sang cho viên Tư lệnh quân đội Phổ ; sau đó nói với Mác Mahông : "Nguyên soái ! hay hạ lệnh cho quân sĩ ưeo cờ trắng ở tháp trung tâm và ngừng mụi hoạt động quân sự".
Ngày hôm sau (2-9-1870), Pháp kí giấy đầu hàng Phổ. Hoàng đế Napôlẽông III, nguyên soái Mác Mahông và 39 tướng iĩnh cùng với 10 vạn binh sĩ Pháp ừở Uiành tù binh của Phổ. Tin Napôlêông III Uiảm bại ở Xơđãng bay về Pari. Quần chúng nhân dân Pari lập tức đứng lên tàm cuộc cách mạng ngày 4-9-1870, lật đổ Đế chế III của Napôlêông III và thành lập chế độ Cộng hòa. Đổ là nên Cộng hòa thú ba của Pháp.
18 - CUỘC SốNG GIA ĐÌNH bẤt h ạ n h
CỦA NAPÔLÊÔNG III
Napôlêông llỉ lên ngôi hoàng đế Pháp năm 44 tuổi (1852) mà vẫn chưa có vợ. ông muốn cưới mội công chúa dòng doi Vua chúa, nhưng không triêu đình nào gâ. Một lần, ông gập mộl tiổu thư Tây Ban Nha là nữ bá tuớc ơgiẽni đơ Môntigiô (tên đầy đủ của nàng lầ Eugénie Maria Ignace Augustine de Montijo) và da say mê mệt, ông coi đổ ỉà người đàn bà "đẹp nhấl ứiế gian" và nhất quyết cuới nàng. Được tin, những quan cận Uiân đa ra sức can ngăn ông, vì cô la chỉ là con gái của một bá tước Tây íâan Nha tâm Uiuờng, không "môn đăng hộ đốì". Thế nhưng, Napôlêông III đa khững nghe theo, mà còn tuyẽn bố như thách thức với cả nmức Pháp : "Trẫm đa cưới một người phụ nữ mà trẫiĩi yêu và nguOVng mộ, như vậy còn hơn là cuứi một nguời mà trẫm không hay biết gì !" Cuộc hôn nhân của Napôlẽông III với Ogien đơ Mữntỉgiồ dã
đm.íí; tổ chức ngay vào đầu nàm sau (30-1-1853). Khi đám cuới cũa hoàng đế diẽu qua các phố (V Ihủ đô, nhân dần Pari tỏ ra lạnh nhại và tho rằng vị mẫu nghi thiên hạ của họ khòng phải dòng dOi vua chúa.
Mrti linh củ;i 'loàng đế Napôlồổng III và hoàng hậu ơgien được tỏ điểm bởi tình yêu, sắc đẹp, tiên bạc, quyén lực và vinh quang. tmVng là đạí tới hạnh phúc lí tmrng. Nhưng chẳng bao lâu sau lại ưở thành nỗi bấi hạnh của Napồlôông III, chỉ vì tính ghen tuông và nghi kị quá quát của ơgien. Bà nhất định không bao giờ để ông ở mội mình, vì luôn sợ ông ngoại tình. Bà không còn coi sự uy nghi của ưiều đình ra gi nữa. Khồng ít lân. bà xông vào Văn phòng của ồng, ưong khi ông đang bê bộn việc nước hoặc đang bàn kín việc quốc gia đại sự với các đại ứiần. Thậm chí, bà phá hỏng cả những cuộc triồu kiến long ưụng nhất của triéu đình, chỉ vì nghi ngờ õng đang ở bên mội người đàn bà khác. Bà ứiường chạy sang nhà bà chị để phàn nàn vê chồng, tnít hết tâm sự, thậm chí cả khóc lóc, đe dọa. Bà làm cho đời sống của ông không còn đuực mảy may tự do. Cho nên, luy làm chủ 12 lòa cung điện lộng lăy. mà Napôlêông ill không có nổi một chốn ẩn náu để yên Ihân.
Trong cuốn sách của E.A. RaiiKThàc (E.A Rheinhardt) nhan đê Napôlêông 'Tiểu đế" và ơgiêni - tấn hi hài cúa Đế chế, có đoạn viết : "Nhiêu tối, người ta thấy Napôlẽông fll, đội chiếc mQ mồm kéo sụp xuống tận mất, cùng một người hầu cận, lén lút ra khỏi hoàng cung qua đuờng cổng phụ. COng có thể ông đến với một người đần bà nào đố cố thể lầm ồng khuây khoả và cũng có ứiể, ông chỉ đi để mầ đi, lang thang ưong Rinh thầnh như bồi còn hần vi, vơ vẩn trong những ngỡ hẻm, đuừng phố váng, mà các vị hoàng đế chl được nghe tả ưong sách..."
59
CÔNG CUỘC THỐNG NHẮt đ ứ c
19 - BIXMÁC - VỊ THÙ TƯỚNG "SẮT v à MÁU"
CỦA VƯƠNG QUốC PHỔ VÀ đẾ QUỐC đức THỐnG NHẨT
Công tước Ôttô phôn Bixmác (Otto von Bismarck) (1815 - 1898) sinh ngày 1-4-1815 ưong một gia đình thuộc lẳng lớp quý lộc ca ở vùng Sơnhaoden (Schonhausen) tììuộc tỉnh Macđiíbuôc (Magdeburg) nước Phổ, cách Béclln khoảng 100 km. Năm 17 tuổi, sau khi học xong truừng Trung học ở địa phuơng, ông học luật ở ưuờng Đại học Béclin. Tuy học luật, nhưng ông rất yêu ứiích môn Lịch sử, Thiên vân hục và ham mẽ những cuộc du Jịch nuớc ngoài để Giii hiểu tình hình ứiế giới, ông có thân hình cao lớn, tính khí bmirng bỉnh, tàn nhẫn đối với nông dần, có đầu óc thục tiễn và cmmg quyết, lắm mưu mẹo, ham mê bạo lực, không lừ một thủ đoạn nào để đạt tới mục đích. Trong ứiõi gian học tại trường ttung họr(T về n^ay Tổ quík'. Ngày 21-6-1848, ông cập bẽn Ni xơ và clm.rc đón tiếp nồng nhiệt với liếng hô "người aiứi hùng của hai lục địa".
3. Cuộc đấu tranh giành độc lập và ihống nhất ỉtaỉia
Nàm 1848, phong ưào cách mạng bùng nổ cỷ nhiều thành phố Italia ahư Palécmồ (trên đảo Sixilia), Milanồ (Ihủ đô xứ Lômbácđia), ROma (thú đổ của quổc gia (íiáo hoàng).,, ở Rôma, Giáo hoàng phải chạy trôn. Madini, lanh tụ tổ chức "Nuức Italia ưẻ", thành lập nưức Cộng hòa Rữma (Iháng 2-1849), Garibanđi nhận nhiệm vụ chỉ huy nhửng chiến sĩ bảo vộ nư(TC Cộng hòa này. Quân đội Pháp sang giúp (ìiáo hoàng, đàn áp cuộc khởi nghĩa, chiếm lại ROma và liẻu (Jiệi nuớc Cộng hòa Rôma. Garibanđi phải lưu lạc nhiéu mri và cuối cùng dừng lại ở đảo Caprêra trên biển Địa Trung Hải, inua mộl mảnh đất làm nơi ưú ngụ.
'ĩháng 4-1859, chiến tranh nổ ra giữa Áo và liôn minh Pháp - Piômổntổ. Thủ tmmg Piẽmỡntẽ là Cavua đê nghị Garibanđi tổ chức một (ỉội quân lình nguyện. Hàng đoàn người tình nguyện từ khắp mọi mi('n trôn bán đảo Italia đă ghi tCn. Cavua phong cho ông
69
làm tru n g tướng, ông được ủy n h iệm chỉ huy một binh đ o à n gồm 3.000 người, toàn là quân tình nguyện. Đoàn quân của ông mang tên "Xạ thủ núi Anpơ". Viên Bộ truởng bộ Chiến tranh gây nhiều trở ngại. Y từ chối ki quyết nghị cử những viên sĩ quan do Garibanđi lựa chọn. Đoàn quân của ông thiếu cả xe ngụa, đại bác, đạn dược. Nhưng với ý chí chiến đấu dOng cảm của quân đội và tài chỉ huy của Garibanđi, quân của ông đă giải phóng một loạt thành phố ở Lômbácđia. Hoàng đế Pháp Napôlêông III nhận thấy cuộc chiến tranh chống Áo đã mang tính chất cách mạng, nẻn lo sợ. Y bí mật gặp gỡ hoàng đế Áo, kí hòa uức riêng rẻ để chấm dứt chiến tranh (tháng 7-1859). Piẽmôntê được sáp nhập Lồmbácđia, Áo vẫn giữ Vênêxia, các quốc gia ở miền Trung và Nam Italia vẫn giơ tình trạng cũ. Garibanđi bỏ đi phiêu bạt các nơi, cuối cùng lại trở vể sống ở đảo Caprêra.
Tháng 4-1860, khởi nghĩa bùng nổ ở Palecmô và nhiều vùng khác trên đảo Xixilia. Garibanđi tập hợp một đội quân tình nguyện mặc áo đỏ, gồm 1.085 nguời, đa số là người luu vong Xixilia, đuợc mệnh danh ià "Đội quân một nghìn", tiếp viện cho quân khởi nghĩa. Garíbanđi dẫn quân rời Giênôva một cách bí mật trèn hai chiếc tàu chạy bằng hơi nuức. Ngày 11-5-1860, "đội quân một nghìn" đổ bộ lên Mácxala, một cảng nhỏ ở phía tây đảo Xixi]ia, đuợc nhân dân đón tiếp nồng nhiệt. Chỉ vài ngày sau, đoàn quân tình nguyện đa tăng lên 5.000 người. Ngày 15-5, đạo quân của Garibanđi vurợt qua một vùng núi, tiến lên phía bắc, đến thành phố Calataphimi, gặp quân của vua Napôli. Trong cuốn H6i kí của mình, Garibanđi đã viết : "Calataphimi ! Ta là người đa trải qua trăm trận ; khi ta sắp chết, vẫn nghĩ đến ngươi với mội nụ cười hanh diện, vì ta không thấy một trận chiến đấu nào oanh liệt hom. Quán đội "Một nghìn" là nhửng nguời thật sự bảo vệ nhân dãn, họ đă khinh thường cái chết, tấn cổng một cách anh dong để chiếm từng vị trí của binh lính đánh thuẽ. Chúng lấp lánh những bộ quân
70
phục sặc sOr vá nhữnc ngii vui, nhưny đa phải trốn chựy. Làm sao ta DÍ thê q u ên đm rc đátn ncm ri irc luổi. vì sợ ta bị ihmTna, nên đa t|uây quán xung quanh la, ngmVi nọ sál người kia, lập thành một bức tưirng khỗne tài nào vm.n qua đưcrc". Tiếp sau chiến thắne Calataphimi, nhân dân loàn đảo Xixilia nổi dậy, thành lập các đơn vị vũ (ranii ớ kiỉắp myi và gia nhập quàn "Một nghìn". Ngày 27-5, Garibanđi chiếm Paiécmô (thủ phủ của Xixilia) và không bao lâu, toàn đảo được giải phóng.
Ngày 20-8-1860, đạo quân của Garibanđi gồm 16.000 niĩưcVi vượt qua eo biổn Mexina. ngăn cách đảo Xixilia và bán đảo ítalia, đổ bộ lên hải Lảna Calabra ờ miổn Nam Italia. Nhân dân đỏn rước nồng nhiệt. Quân đội nhà vua hỗ gặp quân "Một nghìn" là hô to : "Garibanđi muôn nãni !" và chạy sang phía quân cách mạng. Đạo quân 150.000 ngưìri của nhà vua bị đánh tan. Ngày 7-9, Garibanđi tiến quàn vào thii đô Napốli. Triồu đình Buốcbỗng thống trị ở vmms quốc Napổli bỏ chạy. Ba Iháng sau, toàn bộ niiẻn Nam Italia đutrc eiải phóne. Chính quyổn dân chủ cách mạng do (ìarỉbanđỉ đứni! dầu, đinTc ihành lập CT miền Nam Ualia.
'rhú (inVriiĩ Pièmônlê là Cavua yêu cầu Napôli cõng Iiliận quyên tực của vua Piẽmôntê là vua của mình. Trưức giờ phút quyết định đó, Cìaribanđi da thiếu sáng suốt và kiên quyết, chấp nhận yêu sách đó và đổ cho quân đội Piêmồntê đến chiếm đóng Napổli. Khi vua Piômỏnté là Vi(tôrẽ Hmanucli II long trọng tiến vào Napồli (6-11-1860), (ìaribanđi cưữi ngựa đi bên cạnh vua và hô to : "íXrc vua muOn năm !”. Cuối nãm 1860, một cuộc "ưưng cầu ý dãn" đuực tổ chức ở Nam [lalia để h(.rp pháp hóa việc Ihổn tính này. Sau đổ, những sác lệnh do Garibanđi ban bố trong thởi ki chính quyổn dân chủ cách mạng bị bai bỏ, quân tình nguyện của Cìaribanđi bị giải tán, Cíaribanđi trở vô sống ở đảo Caprèra như người bị đi đầy.
71
ITiáng 3-1861, Quốc hội đut.yc íriệu tập ở Tôrinô (thủ đò cùa vuơng quốc Pièmồntẽ), tuyên bố (hành lập vương quốc lialia do Vittôrê Hmanuêli II làm vua. Nhưng viKxng quốc Itaỉia chưa thớng nhấl được toàn bán đảo, Vẽnêxia còn ưonsĩ lay Áo và Rôma (huộc về Giáo hoàng, đunTc quăn đội Pháp bảo vệ. Năm.. 1862, Garibanđi đâ mở cuộc hành quân vào giải phéng Rôma, nHumg bị quán dội của vuưng quốc Ilalia cản lại. Quân đội hai bên xung đột với nhau, Garibanđi bị Ihưontig nặng, phải rút lui.
Nàm 1866, chính phủ vuơng quốc Italia liên minh với Phổ đánh Áo (Phổ hứa se giao Vênêxia cho Italia, sau khi đánh bại Áo). Một lân nữa, chính phủ Italia lại câu cứu đến tài quân sự và lòng hăng hắi cách mạng cửa Garibanđi. Trong khi, quân đội của vưưng quốc Italia bị thua quân Áo cả trên bộ và ưên biển, ư»ì quân tình nguyện của Garibanđi đâ đánh thắng quân đội Áo nhiều trận ở vùng Tirôn. Tháitg 7-1866, quân Phổ thắng quân Áo trong trận quyết định Xađôva, Chính phủ Áo phải kí hiệp định đình chiến, trong đó có điều khoản từ bỏ Vênêxia. Tỉnh này được sáp nhập vào Vuơng quốc ĩtalia.
Garibanđi - con người đấu tranh không mệl mỏi cho sự thống nhát toần vẹn itaiia, tháng 10-1867, iại dẫn đâu một đội quân tình nguyện, kéo vào lanh thổ của Giáo hoàng, ông đa đánh bại quân đội của Giáo hoàng do Pháp lổ chức. Nhưng Napồlêông III cử đội quân viẽn chinh sang giúp Giáo hoàng và đánh bại quân đội ciia Garibanđi ở cạnh làng Mentana (3-11-1867). Sự thất bại tu a ông là do quân đội của vuimg quếc ỉtalia không hành động gì cả. Chính phủ vuơng quốc Italia lại bắt ồng đầy ra đảo Caprêra. Viẽn tư lộnh quân đội Pháp ở Rôma tuyên bố ; "Tliay mặt cíiính phủ Pháp, tôi luyên bố : italia không thể tiến vào Rôma đuực, khỏng bao giờ ! Nếu Italia tiến vào Ròma sẽ vấp phâi Pháp".
"Năm 1870, lợi dụng sự sụp đổ của đế chế II của Napôlêông 111 trong chiến tranh Pháp - Phổ, ngày 20-9-1870, quân đội Halia liến
72
vào Rftina. Cuộc irưng cầu ý tiăn sáp nhập Rỏma và Vỗnêxia vào vmrĩiiỉ quốc ỉtalia được (iốn hành. Thủ dỏ túa vinmg quốc Ilalia điA.TC chuyển từ Tỏrinó vc Rôma. Ọuyén lực cúa Giáo hoàn^ chỉ còn (rong khu phrt Vatican. Cổng CU(X’ ihốTiiỉ nhấí Italia đa hoàn thánh, trung đố phần đóns góp quan irọng nhấ( lầ của Garibanđi và đạo quân tình nguyện "áo đỏ" của ông.
Khi chiến (ranh Pháp - Phố nổ ra, <ìaribandi đa sang Pháp chiến dấu bên cạnh những ngưíĩi Cộng hờa Pháp chốnẹ iại quân Phổ. Ông đa tổ chức một đội quân tình nguyện nhiêu lân ngăn chặn được cuộc tiến cồns của quân Phổ. Khi chính phủ Cộng hòa Phàp đo Chie đứng ưầu, đáu hàng ninỶc Phổ, ỏna đa d(>i Pháp và trở vê sốne những ngày cuối cũng ử thái ấp Caprêra của mình và viết cuốn Hỏi ki ki? lại cuộc đíVi của ône cho thế hệ mai sau.
7Í
Nước NGA SA HOÀNG
22 - PlÓT ĐẠI đẾ • NHÀ CÀ[ CÁCH KIỆT XUẤT
CỦA NƯỚC NGA
Piốt Alếcxâyẽvit Rômanồp (1672 - 1725) là con (hứ hai cùa Nga hoàng Alếcxảy Mikhailổvit Rồinanồp và bà Ihứ phi Nutalia Kirilổpna. Khi vua cha qua điri, Piôf chưa đầy năm íuổi. Hoàne tử anh cả Phêđo III nối ngôi được sáu năm thi qua đời (1682). Một cuộc ưanh giành ngôi kế vị đâ diẽn ra quyết liệt với kếi cục Công chúa Sôphi tháng thế. Công chúa Sôphi đa đưa Hoàng tử anh là Ivan, 16 tuổi lên làm Hoàng đế thứ nhất, còn Hoàng tử em là Piốt, mới 10 tuổi lên làm Hoàng đố Uiứ hai để nắm quyén bính. Năm 1689, sau lễ thành hỏn, Piối bắt đầu trị vì nuiVc Nga. đa giam quản thúc cõng chúa Sôphi lộng hành vào tu viện Nóvỏđèviischi.
Piố( là một ngưừi lực lưữne, lầm vóc cao Jớn (cao him 2 mét), đi đứng nhanh nhẹn, hoại bát. 'ImTDC iruycn, người đi bộ cùng với ổng thì phải chạy mới theo kịp. Pirtt có thổ lực rất lốt, ông cỏ thổ dùng (ay khồng uốn chiếc đĩa bằne bạc (hành rtng (ròn. bẻ mốne sắt b(K chân ngựa (lẽ dùnc như kliồns. lầ vị hoàng đế đặc biệt có đổi bàn tay chai sựn, vì ồng ua lao động chân lay. ồng đa từng là thự đống tâu, thủy thủ. Ihự sửa chửa máy, thự dóng giầy, nhân viên mổ xẻ... ông cQng Ihư(>ng xuyôn tập luyện quân sự với hai irung đoàn Ihanh thiếu tiiôn cận vệ riẽng của mình.
Năm 1696, khi Hoàng đế thứ nhất Ivan bâng hà, Piốt trữ Ihành Hoàng đế duy nhất của nước Nga, lấy biột hiệu là Piốt I hay Piốt Đặi đế. Điổu iràn trở lứn nhấi của nhà vua tre tuổi lầ xây dựng một nưiírc Nga hùng mạnh, có đmVng Ihồng ra biển. Một năm trưiýc, năm 1695, do khống có hải quân nôn quân Nga đa khồng giành được đuừng đi ra Biổn Đen (Hắc Hải) với Thổ Nhĩ Kì. Piốt I liồn gấp rút xây dựng hải quân ở gần VổrổnegiíT. Chỉ mội nảiĩi sau,
74
nư«Tc Nga đa cỏ inộl hựni đội hăi quàn kha mạnh gồm h»Tn 13(X) láu loại nhự, 3(K) thuyên biỂn và một (àu chiốn trang bị 36 khẩu đại hác, đa dắnh bại hạm đội 'lìiổ Nhì Kì và chiếm đm.Tc đưiVng đi ru biẻn Adốp.
Từ bài học xâỳ' (íựnịỊ hải quân trOn, Piốt 1 thấy cân thiết phải incr cửa banư líiao V('TÌ các nước ngoài và cử ngưtVi đi học hỏi kĩ thuặt và khoa học tiên liến của các nmrc Tây Âu để vc xây dựng và hiio vệ đất nuitc. Năm 1697, Piốt I mở đại sứ quán ở các ninrc Tây Âu và phái nhiều nhà quý tộc irẻ sang các nưức Tây Âu học tập. Bản thân Piôì cQne ghi tên mình là binh nhất. Piốt Mỉkhailốp vùo danh sách đi sane 'iầy Âu. Piốt đă học kĩ thuật đổng tầu ở Hà l.an và đa cùng vứi một nhóm bạn bè ngày đêm lao động irong hai thárm. đóng xong một chiếc tàu (hủy. ở Đức, ông đâ
học được kĩ thuật đúc súnc đại bác. ở Anh, ổng hạc thèm nghê đi hiển. Ông còn học 'điRTC nhiều nghê thủ cOng khác nhau ở các thiiiưi thị Àu châu như nghẻ sửa đổng hồ, nghổ rèn, tiộn, mộc... Piối linh thông tới 14 nghề khác nhau và còn lìm hiổu cách tổ chức bộ máy Nhà nuớc ở các nước Tây Àu. ông thaiĩ) dự các ptiiòn họp Nghị viện ờ Anh và nghiẻn cứu nhiỗu môn khoa học xa hội như lịch sử, chính trị, kinh lế, tôn giáo, nghệ Ihuậl... Tại Anh, do tình cờ. người ta biết chàng trai Piối Mikhailốp tài năng chính iầ Piô'( đại đế ; vì ứiỂ, ông phải lìm mọi cách đổ lẩn ưánh những buổi tiệc tùng của giới quý tộc và những cuộc hẹn hò của các Ihiếu nữ... đổ dành lh(Vi gian thực hiện những hoài băo l(tn laơ của mình.
Nâm 1698, Piốt trớ VIỈ nưức, mang theo những nhà Ihồng thái (V nhiồu lĩnh vực của châu Au lúc bấy giờ về đổ tiến hành cuộc cải cách toàn diện cho đít nước Nga rộng k'm và đang rấl lạc hậu so VITÌ các nưirc Tấy Àu. Piốl đỏng fhời ìà nhà lổ chức tuyệt vời, biết lập h(ĩp xung quanh mình một lórp người liến bộ cớ nàng lực, cỏ tri thức, có lờng yêu nuiĩc Nea nỏng nàn - đó là nhữnễ lUià
7S
chính irị, nhà ngoại |2iai), nhá chỉ huy quân sự. nhà kinli lế, nhá vản hỏa, nhà giáí) dục... có lài nãníỉ Ihặt sự đa ai úp cho nliữnií cải cách của Piốl đại đế đạl đưirc kết quả.
Về mặl chính trị : Bộ máy Nhà niiitc dư(Ti Ihm Piôì I đa chuyển lừ nôn quân chủ đảng cắp sanẹ nen quân chíi chuyên chế. Piối đa giải tán Viện Đuma của tỊũti quý tộc lanh chúa và thành lập Thượng nghị viện gỏm chín ủy viên là nhữns ngưiĩi (âm phúc luyội đối irung ứìành vrtri Nga hoàne. Thưựng nghị viện trớ Ihànli cơ quan hành pháp và xét xử cao nhất, cổ quyên thay thế Nỉỉa hoàng khi Nga hoàng vắng mặl. Thay cho 50 Vàn phòng ưung ưtrng chổng chéo lên nhau, Piốl I thành lập 12 ủ y ban đưực phan nhiệm rO ràng, như Uy ban ngoại giao điêu hành chính sách đối ngoại, ủy ban quân sự điêu hành quân (lội, ủy ban hải quân điồu hinh hải quân, ủy ban công xmrng điỗu hành các ngành công nghiệp (ưừ ngành mỏ) V.V.. BCn cạnh các ửy ban có các cơ quan kiểm ưa Nhà nước, có quyén truy lố các tội phạm cấp cao nhất. Giáo hội Chính thống đuợc đặt dư(Ti quyền điều khiển của Nhà nuức. Đơn vị hành chinh đưực phân chia thành các tỉnh, lìiành phố Pêtécbua được xây dựng làm thủ đổ Iĩi(ýi của niRÝc Nga.
Về mặt quân sự : Nhầm tăng cưừng sức mạnh quân sự của nước Nga, Piốt I chủ ưirưng xây dụng tịuân ứiuờng irực V(3i số lượng quân đội khá lứn, íhuửng xuyên bổ sung quân số bằng cảch mộ -lính là những người nông dân và ihị dân. Quân đội được (rung bị vQ khí ứiống nhất, quân phục Uiổng nhất, điêu lệnh ưiống nliất. Đội nga sĩ quan được đào tạo đỏng bộ từ ahững người quý tộc. Một hạm đội khá mạnh trỏn biển Bantích được xây đựng với h(yn 50 tàu chiến và vài trầm lằu nhỏ.
Sau khi khai thông con đuờng đi ra biển Ađốp (1696), Piđt I lại nghĩ tới việc khai thồng con đirờng đi ra biển Baniích, mà vùng đấc vcn biển Bantích dang bị 'lììụỵ Điổn chiếm giữ. Năm 1700, Piốt I kí hòa uứt vcti Thổ Nhĩ Kì và tuycn chiến với Thụy Điển.
76
Vua 'lliụy Biổn Sáckr XII mới IX luÁi, nhưng là nhà chỉ huy quân sự C() tai và dQng manh, đa giữ vữns đmrc pháo đài Nácva (Narva) cua ITiuy t^)iển Irôn bừ vịnh Pliần l,an. Quân Nga bao vây, nhưng bị thài bại. Bài học xutms máu này càng củng cố Ihôm quyếl tâm của Piôl 1 phải cải cách lại quàn đội Chì hai nàm sau (1702), quán Nga đa lứn mạnh vưi.ri bậc. Piôì I ra chiếu chỉ lấy chuông đỏng cta nhà thở đúc súníì đại bác (?ÍX) khẩu), xây (lựng các nhà máy quốc phỏng sún xuất vũ khí và các xmmg may quân phục, thành lập H) trung đoàn bộ binh thuxVng trực, kỉ luật quân đội rất chặt chỉ. Nhờ đó, quân Nga đă chiến thắng liên tiếp ở vùng ven biển Bantích và chỉ (rong vòng mấy tháng, toàn bộ vùng đất trên bờ sônị Ncva (lến vịnh Phần I.an đa sạch bóng quân Thụy Điển. c<>n đư'Tng đi ra biển Bantích đưi.ĩc khai thông.
Về irặt phá! iriếrt kinh lế : Piố( I đặc biệt quan tâm đến ngầnh công nihiệp và thương nghiệp như cấp vốn cho thương nhân để xây dựrs xí nghiệp, mién thuế cho họ, điều động hàng nghìn nỏng dàn do Nhà nuức quản lí vào làm việc irone các nhà máy. Trong khoảng ha Ihặp niên đầu Ihố ki XVIU, nuitc Nga đa xây dựng đuực hcn 2ÍK) cổng xưiirng sản xuất sắt thép, vũ khí, đạn dirợc, vải bại. ien dạ, da và các sản phấm quốc phòng cần Uùết cho quân đói và hải quần. Piốt ỉ Ihi hàrứỉ chính sách irọng thương nhằm xóa bỏ sự lạc hậu của nuxlrc Nga đối v(Vi các nước Tây Âu tiôn tiếi. Piố't I cong chú (rọne đến ngành luyện kim. ngành mỏ, cho xâ> dựng các xướng đóng tàu, các bến cảng, các kênh đào...
Về nặi giáo dục : l'nrớc thế kỉ XV [11, ở nmtc Nga chỉ có các trưCrng íòng của Nhà thở. Piốt 1 ra chiếu chỉ phải thành lập các irường iểu fK)c cho con em lấl cả mọi câng lớp nhân dân (trừ nồng nO với chm m g ư ìn h C(T bản lầ h ọ c đ ọc, học viết, học làm
toán. Nlằm đào lạo sĩ quan và viên thúc ở ưong nước, Piốt I đa clio thàih lập ở Pôtecbua Viộn hàn lâm Hải quân để đào lạo các
77
sĩ quan hải quân, ở Malxctrva, Piôì mở một (rườne Cìiao Ihỏng đuờng Ihủy, tuyổn 5(K) học sinh ià con om quý tộc vứi chưcrng trình bao gồm ; số học, hình học, lưx.rnB giác, thiên văn học, giao Ihông... mở hai truờng pháo binh và cỏng binh, các (rưcVng trung cấp y tế. các trường đào lạo Ihợ lành nghê cho các nhà máy. Piốt
I rất chú ý đến trình độ học vấn của các quan chức, đòi hỏi quý tộc phải cố kiến thức cần Ihiẽt mdi dưt.Tc bổ nhiệm vào eác chức vụ íanh đạo trong bộ máy Nhà nước và quân đội. Piốt 1 rất quan tâm đến chữ viết của dần tộc, Năm 1710, Piốt 1 duyệt y Băng chữ cái tiếng Nga. Piốt I cũng rất quan tâm đến sự phát triển khoa học của đất nirớc. Tài nguyẻn thiên nhiên vùng Xibia đa đưực khảo sát, bản đồ nước Nga đa được vẽ đồ họa. Piốt I viết cuốn Lịch sứ cuộc chiến tranh phương Bắc. 'ĩheo sáng kiến của Piốt I, Viện
báo tàng lịch sử và khoa học tụ nhiên đầu tiên của nước Nga đuợc thành lập ở Pêtecbua. Piốt 1 ra một chiếu chỉ riêne kêu gọi dân chúng đem đến Viện bảo tàng những hài cốí ciía những động vật bí ẩn, những đồ vật cổ xưa tìm tliấy dưới lòng đất... Năm 1724, Piốt I ra chiếu chỉ thành lập Viện hàn lẩm khoa học nước Nga.
Về phong tục tập quán : Piốt I chủ ưương Âu hóa cách ân mặc cùa người Nga. Sau khi từ nuớc ngoài trở về, Piốt cương quyết đoạn tuyệt với những gì cổ hủ, mong muốn giới quý tộc và thuơng nhân làm quen dần với văn minh châu Âu. Khi những lanh chúa quý tộc và giới quý tộc trong íriêu đình đến chúc mừng Piốt trở về bình an, Piốt đa dùng kéo cắt phăng những bộ râu dài cùng như những vạt áo lượt Uiuợt của họ. Một Uiời gian sau, Píốt I ra chiếu Chì bẩt buộc giới quý tộc phải ăn mặc theo kiổu ctiầu Âu và phải cạo râu ; cấm thợ may may quân áo theo kiểu cỡ. Riêng đối với Uiương nhân ứii được phép để râu, song phải nộp thuế hầng nâm.
78
"""