"
Những Lá Thư Ngày Thứ Tư PDF EPUB
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Những Lá Thư Ngày Thứ Tư PDF EPUB
Ebooks
Nhóm Zalo
NHỮNG LÁ THƯ NGÀY THỨ TƯ ---❊ ❖ ❊---
Tác giả: Jason F. Wright
Nhà xuất bản Trẻ
Phát hành: FIRST NEWS
Nguồn text: Waka
Đóng gói: @nguyenthanh-cuibap
Lời cảm ơn
X
in được gửi lời cảm ơn đến những
người luôn toàn tâm vì công việc:
Kodi, Beverly, Sandi Lou, Sterling, Ann, Jeff, Terilynne, John, Adrienne, Lauren, Jon, Wilma, Stephanie, Amanda, Marshall, Katy, Emma, Ethan và Bailey.
Cũng xin cảm ơn Monica, Kerri, Caren, Kalley, Nancy, Taylor, Ramona, Jeanette, Laurel, Matt, Christa, Laura, Janeal, Randa, Nicole, Cammy, Amanda, Cindy và Kathi. Thêm một lời cảm ơn đặc biệt đến Allyson Condie vì đã kiên nhẫn xem những trang bản thảo chưa hoàn chỉnh của tôi.
Xin được chân thành cảm ơn sự giúp đỡ hết lòng của các anh chị em tại Nhà xuất bản Shadow Mountain, điển hình là Chris Schoebinger vì đã có một tầm nhìn chiến lược; Lisa Mangum vì phần biên tập tinh tế; Sheryl Dickert Smith vì kiểu thiết kế trang bìa đầy sáng tạo; Gail Halladay vì một khả năng tiếp thị đáng kinh ngạc; Tonya Facemyer vì tài năng đánh máy lão luyện; Angie Godfrey vì đã giữ cho tâm trí tôi luôn gắn bó với công việc và cuối cùng là Sheri Dew vì đã chấp nhận rủi ro đề xuất việc xuất bản.
Cảm ơn người quản lý của tôi, Laurie Liss, vì những điều cô đã chia sẻ và tình bạn đáng quý mà cô dành cho tôi.
Xin được dành lòng biết ơn vô hạn đến gia đình Schwartz và Faulkner vì đã cho tôi mượn nhà trong những ngày cuối tuần khi tôi cần sự yên tĩnh để sáng tác.
Cảm ơn những con người tuyệt vời của Woodstock, bang Virginia, vì đã nhiệt tình hỗ trợ tôi trong công tác nghiên cứu và vì đã nồng nhiệt chào đón gia đình tôi gia nhập vào cộng đồng của họ.
Xin gửi lời cảm ơn đầy yêu thương đến những đứa con của cha là Oakli, Jadi, Kason và Koleson vì đã chịu hy sinh “những ngày vui vẻ của cha và con” khi cha đang vật lộn để hoàn thành quyển tiểu thuyết này. Hẹn gặp các con ở Công viên W.O. Riley.
Cảm ơn người vợ yêu dấu và tận tụy của anh, Kodi, vì đã luôn ở bên anh, kiên nhẫn đọc những bản thảo chưa hoàn chỉnh của anh, thay anh nhận phần lớn trách nhiệm nuôi dạy con cái, và vì hình ảnh em luôn nhắc nhớ trong anh để xây dựng nên nhân vật Laurel Cooper một cách chân thực nhất.
H
CHƯƠNG 1
13 tháng Tư, 1988
ơn 11 giờ đêm, Laurel rúc mình vào chiếc chăn lông màu nâu sẫm bên cạnh chồng mình, Jack. Bà vòng đôi cánh tay chắc khỏe của mình qua người chồng và thấy xót xa khi cảm nhận được những chiếc xương sườn của ông. Bà nhớ lại nhiều năm trước đây, ông nặng ký hơn bà nhiều.
Nghĩ rằng Jack đã ngủ, bà bắt đầu thói quen hằng đêm của mình. Laurel hít một hơi thật sâu cho không khí căng tràn lồng ngực rồi khép chặt môi và thở ra chầm chậm bằng mũi. Nó làm bà cảm thấy dễ chịu.
Bà nhắm mắt lại, cầu nguyện cho các con của mình là Matthew, Malcolm, Samantha, cho đứa cháu gái duy nhất Angela, và cho người chị duy nhất của mình Allyson. Bà cầu trời cho mình có thêm thời gian và trách bản thân sao không thể khỏe mạnh hơn. Bà kết thúc lời cầu nguyện thầm kín của mình bằng những giọt nước mắt đầu tiên và cũng là cuối cùng trong ngày.
- Này bà. - Giọng Jack vang lên làm bà giật mình.
- Gì thế ông, tôi tưởng ông đã ngủ. - Laurel kéo cái áo gối màu xanh dương lên chấm nước mắt.
- Vẫn chưa. Bà thấy đỡ hơn không?
- Đỡ hơn rồi. Nhưng chứng ợ nóng của tôi vẫn chưa khỏi. Chắc là tôi đã quá già để ăn món bánh kẹp quesadillas(*), ông nhỉ? - Tay phải bà vuốt nhẹ lên mái tóc bạch kim của ông và tay trái xoa xoa ngực mình. - Còn ông? Có bị chóng mặt không?
(*) Quesadillas: Bánh kẹp với vỏ được làm từ bột mì hoặc bột ngô, nhân là pho- mát và thịt bò, thịt gà, heo trộn với rau thơm.
- Không, rất tươi tỉnh.
- Ông thật khéo nói dối, Jack Cooper. - Tay bà nhẹ nhàng vuốt trán ông. - Bà nói đúng. Tôi nguyền rủa cái khối u chết tiệt trong đầu. - Suốt
mười tám tháng qua, người chồng bảy mươi mốt tuổi của Laurel đã phải chống chọi với khối u não đang không ngừng to lên và cũng không phẫu thuật được, mà lúc mới phát hiện, nó chỉ cỡ viên bi, giờ đã gần bằng quả bóng bàn. Những cơn đau đầu lại rất vô chừng; có khi hai ba ngày ông chẳng bị gì, nhưng khi cơn đau ập đến nó khiến ông đau đớn, buồn nôn, chóng mặt... và thực tế là ông mệt đến liệt giường. Ông chẳng còn bao nhiêu thời gian...
Mặc dù bác sĩ khẳng định các loại thuốc và phác đồ điều trị mới đã được thông qua và sắp tung ra thị trường, nhưng Jack biết ngay cả Chúa cũng không thể cứu được ông. Mà ông nghĩ, Chúa còn nhiều việc phải làm hơn là cứu chữa cho chủ một quán trọ tỉnh lẻ như mình.
“Chẳng hạn như đem hòa bình cho khu vực Trung Đông hoặc đưa đội bóng Chicago Cubs của tôi trở lại với ngôi vị dẫn đầu thế giới.” - Ông hay bảo thế với Laurel. Bà phải nghe ít nhất là năm mươi lần những câu bông đùa đại loại thế này của ông mỗi khi ông đi khám về, kể từ ngày ông phát hiện ra căn bệnh quái ác.
Cái quán trọ của hai ông bà trước đây có tên là Domus Jefferson – Ngôi nhà của Jefferson – tọa lạc tại trung tâm của thung lũng Shenandoah, lọt thỏm giữa hai ngọn núi Allegheny và Blue Ridge. Jack thường nói rằng nếu ông sống sót qua cái ngày định mệnh và nếu Đấng Tạo Hóa cho ông được lựa chọn giữa thiên đường và vùng sườn đồi xinh đẹp này thì chẳng cần mất nhiều thời gian để suy nghĩ.
Tối nay, một tối thứ Tư mùa Xuân, quán trọ B;B yêu quý của hai ông bà gần như vắng khách. Chỉ có một khách trọ duy nhất, Anna Belle Prestwich, người thừa kế gia sản kếch sù là một công ty sản xuất thức ăn cho thú cưng. Giờ này chắc bà ta vẫn chưa ngủ và đang ngấu nghiến một quyển tiểu thuyết trong căn phòng có giá 190 đô nhưng đã được bà hào phóng nâng lên tới 300 đô một đêm. Căn phòng được trang hoàng nội thất bằng đồ gỗ thủ công đắt tiền mô phỏng theo nhà của Thomas Jefferson tại Monticello, nhìn ra cánh đồng cỏ rộng 1,6 hecta trải dài từ sau lưng quán
trọ 7 phòng ngủ đến tận con rạch nhỏ ở bìa rừng. Mỗi khi đọc xong khoảng ba hay bốn chương, bà lại cầm chiếc đèn pin của chồng ra ngoài đi dạo với chú mèo Castro. Bà biết đa số người ta không dắt mèo đi dạo, nhưng đa số ấy không phải Anna Belle và đa số những con mèo cũng không gặp vấn đề về cân nặng.
Anna Belle đã trở thành khách hàng thân thiết của quán trọ B;B nhiều năm qua. Thường thì bà chỉ đến ở một hoặc hai lần mỗi tháng, nhưng mỗi lần như vậy bà ở tới khoảng hơn mười ngày. Mái ấm thực thụ của bà, một thái ấp tuyệt đẹp theo phong cách phương Nam với bốn nhà khách – dân trong thị trấn vẫn đồn rằng nó đáng giá từ năm trăm ngàn đến một trăm mười triệu đô la – cách quán trọ này chưa đến một dặm. Vào những buổi sáng mùa đông trong trẻo, khi những hàng cây đã trút lá từ lâu, người ta có thể nhìn thấy tháp xilô cao vút từ một trong những kho thóc mà bà không dùng đến và mái của căn nhà chính màu trắng, xuyên qua những hàng cây đến tận phía đông.
Người phụ nữ trung niên Florida thấp bé, tròn trịa này đã gặp chồng bà là ông Alan Prestwich tại bãi biển Miami khi cả hai đang đi dạo dọc bãi biển vào một sớm mùa thu. Lúc ấy ông đang nhặt vỏ sò cho con gái của người trợ lý, còn Anna Belle đang tập cho Castro không sợ nước.
Cuộc gặp gỡ sáng hôm ấy đã dẫn đến một cuộc hôn nhân không ai ngờ, và đấy là cuộc hôn nhân đầu tiên của cả hai. Người chồng mới cưới này của bà nói rằng ông yêu Anna Belle bởi sự chân thành nơi bà, vì vòng ba nẩy nở trông rất riêng và vì làn da trắng như sữa, mịn như bơ. Nhưng ông yêu nhất vẫn là mái tóc màu đỏ sậm, gần như là nâu sẫm và hiện đang là xám yêu kiều của bà. Khi sánh đôi bên nhau dọc theo bãi biển trong buổi sáng hẹn hò đầu tiên, ông đã nói với bà: “Những người phụ nữ mà anh từng hẹn hò trước đây không ai dám ra khỏi nhà nếu chưa kịp nhuộm lại tóc. Nhưng Anna Belle – em là con cá duy nhất khác biệt giữa thế giới biển khơi toàn những thứ na ná nhau”.
- Nếu em tuyệt vời đến thế, thì tại sao tất cả những người đàn ông tốt
đều lảng tránh em? – Bà hỏi lại khi buổi hẹn hò đầu tiên kết thúc. - Không phải họ lảng tránh em, mà vì họ chưa đủ tốt để xứng đáng với em.
Sáu tuần sau đó, họ tổ chức lễ cưới.
Vào năm thứ ba của cuộc hôn nhân hạnh phúc, một ngày kia, chồng bà, Alan - một doanh nhân người Mỹ cổ điển cao một mét chín, một phi công tay mơ ưa thích mạo hiểm, đã đâm chiếc máy bay Gulfstream III đời 1984 mới cáu cạnh của ông vào đầm lầy Everglades trong chuyến bay một mình đầu tiên. Tất cả những gì người ta tìm thấy được sau đó là cái đèn pin Maglite dài 45 cm đang rọi những tia sáng yếu ớt từ dưới làn nước tối tăm sâu gần 1 mét, cách cái hố nơi chiếc máy bay phản lực rơi hơn một trăm tám mươi mét. Từ đó, Anna Belle đi đâu cũng mang theo cái đèn pin của chồng mà theo bà, nó là điềm báo một ngày nào đó bà sẽ cần đến nó để kiếm con mèo Castro đi lạc vô rừng sau khi ăn vụng bánh rán, hay để chống lại một con gấu đen, hay một việc nào khác.
Anna Belle luôn có xu hướng bị thừa cân. Cái thời bà còn làm cho tiệm tạp phẩm A;P trong vùng, một gã xấu mồm trong đám bạn học phổ thông thô lỗ bắt đầu gọi bà bằng cái tên A;P cụt lủn. Để chọc tức bọn chúng, bà vui vẻ chấp nhận biệt danh đó. Bà không cho phép cái biệt danh đáng ghét làm bản thân bực mình. Phải thế nào đó mới có biệt danh, bà nhủ thầm. Giờ đây A;P tự hỏi lũ bạn sẽ gọi bà là gì nếu chúng biết bà thừa hưởng hầu hết tài sản của chồng mình. Bà đã trở thành triệu phú.
Không lâu sau vụ tai nạn máy bay của chồng, Anna Belle đã chọn Woodstock ở Virginia làm quê hương thứ hai của mình, sau khi phát hiện cái tên của thị trấn được khoanh tròn bằng viết bi trong tờ rơi quảng cáo của Hội đồng tổ chức các hoạt động kỷ niệm cuộc nội chiến(*) mà bà tìm thấy từ ngăn lưu trữ hồ sơ của chồng. Chưa đầy một tháng sau, bà trở thành người của thị trấn. Jack và Laurel nhanh chóng kết thân với người hàng xóm mới. Hai ông bà rỉ tai nhau rằng mục đích sống của người hàng xóm là tiêu hết mớ gia tài của bà ấy vào quán trọ B;B của họ.
(*) Hội đồng tổ chức các hoạt động kỷ niệm cuộc nội chiến: Những người yêu lịch sử và đặc biệt thích các đề tài chiến tranh thường sinh hoạt thành nhóm/câu lạc bộ, và họ tự bỏ tiền ra mua các bộ quân phục thời nội chiến, và tham gia hành quân, tập trận, cắm trại... để trải nghiệm hoặc hồi tưởng thời kỳ chiến tranh.
- Ông đoán thử xem A;P đã boa cho tôi bao nhiêu khi tôi mang sữa đêm cho bà ấy? - Laurel thì thầm.
- Một trăm.
- Hơn.
- Hai trăm rưỡi?
- Hơn. - Laurel lặp lại.
- Năm trăm? - Jack lên giọng.
- Năm trăm mười chín đô năm mươi hai xu. Là tất cả số tiền bà ấy có trong ví.
- Quá nhiều tiền cho việc lấy sữa từ trong tủ lạnh và rót ra ly. - Ông xuýt xoa và vò vò cái gối của mình. - Bà ta hết thuốc chữa rồi. - Bà ấy vô hại mà.
Jack nằm quay mặt lại đối diện với vợ, nhìn thẳng vào đôi mắt nâu từng trải của bà. Đôi mắt linh hoạt một thời của ông càng trở nên sâu hoắm với hai thớ thịt nặng nề dưới quầng mắt. Laurel thường trêu là ông thừa hưởng cặp mắt gấu trúc từ cha của ông, nhưng từ năm ngoái, những quầng thâm càng đậm hơn nữa và gần như tách biệt với hai gò má. “Một ngày nào đó ta nên nói cho bà ấy hiểu, bà biết là phải như vậy mà”, Jack nói khi mũi ông gần chạm vào mũi vợ.
Từ lần đầu tiên A;P đến quán trọ Domus Jefferson, bà đã không tiếc tiền boa cho những dịch vụ bình thường nhất, và cũng chẳng có lý do rõ ràng nào cho sự hào phóng ấy của bà. Hễ Jack mang túi lên phòng giúp bà, bà rút tờ một trăm đô trong bóp ra. Hễ Laurel đặt một vài lá bạc hà lên gối của bà sau khi thay tấm trải giường, A;P liền dúi cả xấp tờ hai chục vào tay bà vào bữa sáng. Một lần, khi bác sĩ của Laurel phát hiện nhịp tim của
bà có triệu chứng bất thường, A;P cương quyết đòi trả tiền cho hóa đơn khám chữa bệnh, mặc dù bảo hiểm đã thanh toán chín mươi phần trăm chi phí.
Một lần khác, người em sinh đôi của Jack, Joseph, bị bắt giam vì bị phạt lần thứ ba cho tội sử dụng chất gây nghiện ở mức độ nhẹ, A;P khăng khăng lái xe ra tận bờ biển Virginia, trả tiền bảo lãnh và cho ông ta ở tạm nhà mình vì lúc bấy giờ quán trọ B;B đã kín phòng. Ông ta đã ở đó cho đến khi tìm được công việc và chỗ ở riêng. Jack rất lấy làm cảm kích A;P về việc đó và nghĩ chắc chuyến đi từ bờ biển Virginia đến Woodstock là đoạn đường dài nhất trong cuộc đời Joe.
Gia đình Cooper sớm nhận ra rằng để giữ mối quan hệ với A;P, tốt nhất họ không nên từ chối tiền của bà ta. Người khách quý ương ngạnh này chẳng bao giờ nhận mình sai và sẵn sàng chi thêm tiền cho tới khi người khác phải nhượng bộ. Tất nhiên bà không hề hay biết rằng nhà Cooper tặng lại số tiền đó cho một mái ấm tình thương dành cho trẻ em cơ nhỡ ở miền tây nam thủ đô Washington. Anna Belle Prestwich nhân hậu cũng không biết rằng từng đó năm qua, bà đã tài trợ nhằm cải thiện bữa ăn cho nhà tình thương, sửa lại một phần mái nhà xác xơ, và đóng góp một phần lớn vào việc xây dựng một sân bóng rổ cùng một sân chơi có hàng rào cao và an toàn. Thậm chí người ta còn nói đến chuyện lập ra một thư viện nhỏ mang tên bà.
- Chắc chắn rồi, chúng ta sẽ nói cho bà ấy hiểu... một ngày nào đó... - Laurel trả lời, nhưng trước khi Jack kịp đáp lại, bà trợn to mắt, ngửa vật ra, hai tay ôm lấy ngực.
- Em ơi! - Jack ngẩng đầu lên. – Sao thế? Laurel? Ngồi dậy nào. Bà cố ngồi dậy nhưng chỉ ráng được phân nửa thì lại ngã đập vào đầu giường. - Em... không... thở được... ngực em... gọi... - Bà thều thào. Jack cố rướn về phía cửa sổ đang mở và gọi A;P.
- Bà Prestwich, lại đây! Lại đây nhanh! Làm ơn!
Nhưng A;P đã ra ngoài đi dạo, bà tản bộ dọc theo bờ rạch, đếm những
ngôi sao phản chiếu xuống con nước chầm chậm chảy, vừa nói chuyện tiên tri với con mèo Castro vừa giật mạnh sợi dây buộc cổ nó. - Ôi Chúa ơi, hãy giúp chúng con! - Jack khóc nức nở khi thấy hơi thở của Laurel trở nên nặng nhọc và mắt thì trợn tròng. Ông nhìn về chỗ để cái điện thoại không dây trên chiếc bàn đầu giường của Laurel. Nó trống trơn.
- Tay của em, Jack... - Dường như cặp mắt của Laurel đang nhìn theo cơn đau đang di chuyển từ lồng ngực xuống cánh tay trái, qua hông và xuống tận bàn chân bà.
- Jack. - Bà gọi tên ông mà nghe như một lời xin lỗi.
- Ôi Chúa ơi! - Ông lại kêu lên.
Jack gắng gượng dậy. Ông thét vào mặt bà, - Laurel! - Nhưng cả đôi môi lẫn cặp mắt bà đều không còn phản ứng. Ông lê đôi chân khỏi giường và đặt xuống sàn, nhưng chỉ bước được hai bước thì mất thăng bằng, ngã dúi dụi. Cả căn phòng xoay mòng mòng, ông té nghiêng vào cái đèn đứng bằng đồng. Ông chụp lấy nó để giữ thăng bằng, nhưng dưới sức nặng của ông chiếc đèn gẫy đôi, ông đổ sầm lên nó làm vỡ toang cái chụp đèn bằng thủy tinh.
- Ôi, Chúa ơi! Cứu lấy chúng con! - Jack nằm ngửa, hai tay chống xuống sàn và nhìn lên trần nhà. Đầu ông đau nhói. Những giọt nước mắt nặng nề lăn dài. Ông quay đầu sang một bên, bất giác ông nhìn thấy cái biển số xe vùng Tennessee cũ kỹ của Laurel treo trên tường đằng xa.
Căn phòng dần trở lại bình thường, Jack cố lê về chiếc giường gỗ cao của hai người. Laurel vẫn nằm đó nhưng hai mắt đã nhắm nghiền. Hai tay bà duỗi thẳng.
- Laurel? - Ông đặt tay lên má vợ. - Em ơi? - Ông đưa bàn tay còn lại lên lồng ngực bất động của bà. - Ôi vợ tôi... - Jack vòng tay ôm lấy người bà và kéo về phía mình. - Ôi vợ tôi! - Ông lại kêu lên lần nữa. Ông khẽ lay cơ thể bất động của bà.
Một lúc sau, Jack dịu dàng đặt đầu vợ mình lên gối.
Ông mở ngăn kéo của chiếc bàn nhỏ đặt cạnh đầu giường lấy ra một cây viết, một phong bì bên trong đã có sẵn rất nhiều lá thư và một tờ giấy có in tên quán trọ Domus Jefferson. Kê tờ giấy lên cuốn Kinh thánh King James, ông viết:
13 tháng Tư năm 1988
Laurel yêu dấu của anh,
Mười phút sau Jack viết xong lá thư, bỏ nó vào phong bì chung với những lá thư khác và dán lại, rồi cẩn thận ghi chú bên ngoài, sau đó nhét cái phong bì vào giữa cuốn Kinh Tân ước. Ông để quyển kinh trở về cái tủ nhỏ cạnh đầu giường, và trườn mình về phía vợ. Một lần nữa ông đỡ bà nằm lên tay mình và kéo sát bà vào lòng. Ông dịu dàng vén những sợi tóc nâu mềm mại trên cổ vợ và thì thầm vào đôi tai còn ấm của bà. Ông hôn lên trán vợ.
Ông nghĩ về đứa con trai Malcolm và cầu nguyện cho nó được bình an trong những tháng ngày sắp tới.
Rốt cuộc, cơn đau đầu cuối cùng trong đời cũng chiến thắng ông. Và ông thiếp đi.
9 giờ 4 phút sáng hôm sau, A;P linh tính điều gì đó không hay nên cùng chú mèo Castro mở cửa phòng ngủ vợ chồng nhà Cooper. Họ tìm thấy Jack và Laurel đang an nghỉ trong vòng tay đã giá lạnh của nhau.
S
CHƯƠNG 2
Sáng thứ năm
au khi phát hiện thi thể của Laurel và Jack, A;P gọi ngay cho xe cấp cứu. Trong khi chờ xe tới mất khoảng mười phút, bà gọi Samantha, nhưng không ai bắt máy, và sau đó bà gọi cho một lô các số điện thoại khác ghi trong tờ giấy bà tìm được trên bàn làm việc của Laurel, trong phòng đọc sách nhỏ gần lối vào phòng khách.
Một trong số những người biết tin đầu tiên là cô thợ làm tóc của Laurel, Nancy Nightbell.
- Ai đó? Bà bảo ai mất? Ai chết?
- A;P đây.
- Chẳng có tiệm tạp hóa A;P nào gần đây hết.
- Không phải cửa hiệu. Tôi là hàng xóm của nhà Cooper, Anna Belle. - Ô! - Nancy thốt lên ngạc nhiên - Đúng rồi, là quý bà giàu có đây mà. - Vâng, vâng. - A;P ngắt lời. - Tôi có một tin xấu.
- Tôi đang tính hỏi... - Nancy vồn vã cướp lời. - Ai làm tóc cho bà thế? - Gì cơ?
- Tóc của bà, - Nancy lặp lại. - Ai làm thế? Màu nhuộm đó chưa được hoàn hảo, thưa quý bà.
- Tôi...
- Ô, nhưng không sao. - Nancy lại ngắt lời. - Khi cần bà nhớ gọi cho tôi nhé!
- Vâng, thưa cô. - Sắp sửa hết chịu nổi nhưng A;P cố giữ vẻ điềm tĩnh. - Tôi sẽ gọi.
- Nào, lúc nãy bà bảo ai mất? - Nancy hỏi lại lần nữa.
- Nhà Cooper.
- Jack Cooper? Ông ấy mất rồi à? Cầu cho linh hồn ông ấy yên nghỉ trong an lành. Ông Jack Cooper quả thực là người tốt bụng! Làm ơn chuyển máy cho tôi nói chuyện với Laurel, thưa bà.
- Nancy. Nghe tôi này. Laurel cũng đã qua đời. Cả hai vợ chồng đã ra đi. - Cả hai?
- Vâng.
- Jack và Laurel? Cả hai đều đã mất?
- Vâng, thưa cô, cả hai đã mất tối qua. Tôi đã phát hiện ra họ. - Trời ơi, trời ơi! - Nancy hít một hơi thật sâu. - Tôi sẽ đến ngay, thưa bà. - Trước khi Nancy cúp máy, A;P nghe tiếng quát của cô nàng vang lên bên kia đầu dây “Randall! Chở tôi đi đây một chút! Tắt ngay cái trò đấu võ đài ngu xuẩn đó đi, đừng có mà xơi mấy thứ vớ vẩn ấy nữa và mặc quần vô!”.
Nếu là lúc khác, chắc A;P đã phải bật cười.
Trong số những người biết tin từ Anna Belle có cô gái trẻ mười lăm tuổi làm ca sáng tại một trạm xăng kiêm cửa hàng gần đó, nơi gia đình Cooper hay đến mua hàng; chủ một cửa hàng bán sữa trong vùng; một phụ nữ ở Philadelphia; một người mà bà gọi nhầm số, tuy không quen biết gì nhà Cooper nhưng vì quá xúc động đã hứa sẽ mang đến biếu một dây ớt chuông nhồi rơm; một ông chủ nhà băng ở Winchester, Virginia và cha xứ Aaron Braithwaite của một nhà thờ Cơ Đốc giáo mà gia đình Cooper thường đi lễ ở Núi Jackson.
Cuộc gọi cuối cùng và khó khăn nhất là cho Rain Jesperson, người bạn chí cốt của nhà Cooper và là người quản lý quán trọ Domus Jefferson. Rain ba mươi tuổi, là dân Shenandoah chánh gốc và cha mẹ cô là những người hip-pi duy nhất ở vùng này.
Rain có chất giọng địa phương nhẹ nhàng, cuốn hút, mái tóc ngang vai không hẳn vàng nhưng sáng và tươi hơn màu nâu. Đáng lẽ với chiều cao chỉ hơn một mét rưỡi, cô dễ dàng bị lẫn giữa đám đông, nhưng thật khó mà lẫn Rain Jesperson với bất kỳ ai bởi cặp mắt xanh biếc khả ái của cô.
Rain lớn lên ở Strasburg, phía bắc Đường 11, với dăm ba khu làng. Sau khi tốt nghiệp phổ thông, cô học ngành quảng cáo ở trường Đại học James Madison cách Harrisonburg khoảng một tiếng. Trong khi bạn bè cùng lứa
với cô theo tuyến đường I-95 chuyển đến sống ở những nơi trung tâm như Richmond, Baltimore và thành phố New York thì Rain tạm bằng lòng với thực tại của mình. Cô chẳng bao giờ có ý định sẽ rời khỏi mảnh đất mà cô gọi là quê hương. Theo cô thì việc biến ước mơ của mình thành hiện thực, dù ở vùng thung lũng đồi núi chập chùng hay ở một thành phố lớn đều dễ dàng như nhau cả, bởi viễn cảnh tương lai vẽ lên trong đầu cô đã không hề thay đổi từ những đêm xa xưa nằm đọc truyện Cô bé lọ lem: một người chồng và những đứa con, cả cái hàng rào cô sẽ sơn nó màu hồng, thay vì màu trắng. Cô mong ước một cuộc sống ổn định. Rain Jesperson tin rằng những giấc mơ lấp lánh đó rồi sẽ đến với cô, chẳng thể khác đi được.
Tiếng chuông điện thoại vang lên bốn hồi trong căn nhà gạch đỏ của Rain.
- Rain phải không? - A;P thấp giọng.
- Ai đấy ạ?
- A;P đây, Rain, tôi gọi từ quán trọ.
- Chào bà A;P, mọi thứ ổn chứ ạ? Bà đã thấy hộp sữa không béo cháu mua như bà yêu cầu chưa? Bà đã dùng chưa?
- Vâng, cháu yêu, tôi dùng rồi. Nhưng... tôi...
- Cháu biết chúng ta hết bánh mì rồi. Hôm nay cháu sẽ tới trễ một chút. Cô Laurel bảo cháu tranh thủ hoàn tất một số việc, vì đến hết thứ Sáu chắc bà vẫn là người khách duy nhất của chúng tôi.
- Rain, cháu yêu, cháu nên đến đây ngay. Có chuyện chẳng lành xảy ra. - Là ông Jack? - Rain hỏi mà không cần đợi có câu trả lời. - Ông Jack. Vâng, cháu sẽ tới trong vòng năm phút. Trời ạ, tối qua trước khi về, trong bụng cháu đã linh cảm có điều gì đó không hay sẽ xảy ra. - Rain cảm thấy mắt mình mòng mọng nước. - Nhờ bà báo với cô Laurel là cháu sẽ đến ngay. Cầu Chúa phù hộ cho bà, Anna Belle, làm phiền bà phải gọi điện. - Rain? - A;P xúc động dữ dội.
- Dạ vâng?
- Thôi, không có gì cháu ạ. Chút gặp lại.
Mười phút sau, Rain tấp xe vào quán trọ Domus Jefferson. Đã có rất nhiều xe cảnh sát và xe cứu thương đậu sẵn trong khuôn viên bãi xe rải sỏi, tất cả đều hướng về cổng chính của quán trọ. A;P òa khóc khi nhác thấy bóng Rain, lòng dạ bời bời vì tin dữ đang như hòn đá đè nặng trong lòng bà. Đón Rain trước cổng, A;P ôm chầm lấy cô gái bé nhỏ bằng đôi tay mập mạp của mình.
- Ôi, Anna Belle, mọi việc sẽ ổn thôi. Jack đã được thanh thản, xuỵt... - Mắt Rain lại rưng rưng.
A;P đẩy nhẹ Rain ra, bà tìm ánh mắt cô. - Cả Laurel. Bà ấy cũng đã ra đi.
Đôi tay Rain bất giác tuột khỏi vai A;P. - Ý bà nói “ra đi” là sao? - Qua đời, - A;P nghẹn ngào. - Laurel cũng đã qua đời.
Rain đẩy toang cánh cổng gỗ, chạy ào trên con đường lát đá cuội về phía mấy bậc tam cấp và hành lang trước cánh cửa chính to lớn của quán trọ. Cô chẳng kịp để ý tới đám người đứng vòng trong vòng ngoài ôm nhau, khóc lóc ở ngoài sân và trên hành lang.
- Laurel! - Rain hét lên khi vừa đặt chân vào đại sảnh. Hai cảnh sát và một người đàn ông mặc vét đứng tựa lưng vào tường đang xì xầm bàn tán. - Laurel? - Rain phóng thẳng lên cầu thang, chạy qua mặt một viên cảnh sát khác đang đứng trên đó.
- Cô Jesperson, làm ơn, vui lòng trở xuống giùm. - Ông ta với tay chộp được một góc tay áo của cô toan ngăn cô lại nhưng rồi tuột tay khi Rain cố giằng ra, cô lao tới mở cửa phòng ngủ chính. Bên trong, một người phụ nữ đang chụp hình cái đèn bị vỡ và những mảnh vụn rơi vãi trên sàn. Tấm vải trắng dầy cui phủ giữa giường, gồ lên một khối.
- Rain. - A;P xuất hiện ngay cửa, giọng nhẹ nhàng và bình tĩnh. - Tối qua, cả hai đã qua đời, cháu ạ!
- Laurel? Sao lại như thế? Tai nạn ư? - Hai đầu gối Rain run lẩy bẩy, cô nhấc người ngồi xuống chiếc ghế sau cánh cửa, nhưng gã chuyên viên chụp hình hiện trường vẫn chụp dính cô hai lần; hắn xin lỗi và hỏi liệu hai
người có thể trở xuống nhà dưới được không.
Bên chiếc bàn ăn trong nhà bếp, A;P kể lại toàn bộ câu chuyện vì sao bà phát hiện ra thi thể của hai vợ chồng Cooper lúc hơn chín giờ sáng hôm đó. - Thật không thể tin được! - Rain nói, nhưng trong thâm tâm, cô biết đó là sự thật.
- Họ vẫn chưa khẳng định nhưng có lẽ Laurel bị đột quỵ hoặc nhồi máu cơ tim khi đang nằm trên giường. Tôi đoán là Jack cố tìm người giúp đỡ nhưng đã quá muộn. Mà cô cũng hiểu những gì ông ấy đang phải chịu đựng, thậm chí tối qua ông ấy phải lên giường từ rất sớm. Tôi nghĩ đã đến lúc ông ấy ra đi, phải không?
Rain gật đầu và hớp một ngụm nước.
- Họ nằm trên giường cùng nhau, thanh thản, vẫn quấn quýt hạnh phúc như mọi khi - A;P kéo ghế xích lại gần Rain. - Họ đẹp như một tấm thiệp chúc mừng. Cháu đã bao giờ thấy mấy tấm thiệp Hallmark có hình giống vậy chưa? Những tấm thiệp in đen trắng hình những cặp tình nhân đang yêu, bên trong để trống để cháu tha hồ viết lời chúc theo ý mình. Cháu biết họ trông thế nào không? Như thể trên đời này không có gì sai. Như thể họ muốn thế giới dừng lại. Khi tôi tìm thấy họ, Jack và Laurel trông vậy đó. Jack trông vẫn điển trai như ngày nào. Rất thanh thản. Rất bình an. - Bà ngừng lại và nhìn ra cửa sổ. - Ước gì Alan của tôi cũng được ra đi như thế.
Cả hai người phụ nữ đã bớt xúc động, họ nhìn ra ngoài cửa sổ nhà bếp, đám đông đang tụ tập ngoài sân. Trong khi đôi mắt Rain nhìn những người đang khóc lóc ngoài kia thì tâm trí cô lại nghĩ về Malcolm Cooper.
CHƯƠNG 3
Bố và mẹ mất rồi.
- Em nói sao? Sammie? -
Malcolm hét vào chiếc điện thoại vệ tinh.
- Bố mẹ đã ra đi, Mal. - Samantha, em gái Malcolm, lặp lại lần nữa và với tay lấy khẩu súng lục ổ quay .357 trên quầy bếp. Cô vừa xoay xoay ổ đạn bằng bàn tay chai sạn, khỏe khoắn của mình vừa nói vào chiếc điện thoại treo tường bảy-mươi-sáu-tuổi làm bằng gỗ và đồng thau bóng loáng hiệu Western Electric. Cô nói rõ ràng, súc tích nhưng mệt lử bởi việc phải chứng kiến thi thể cha mẹ mình bị gói vào mấy cái túi đen, chuyển từ Domus Jefferson đến nhà xác của Hạt trong buổi sáng hôm đó đã vắt kiệt sức cô. Cô nhìn chằm chằm cái ghế đẩu bọc nệm ở xa xa, bị một cái quầy khác trong nhà bếp rộng lớn che hết nửa.
- Sao thế, Sammie? Sao mà bố mẹ mất?
- Mẹ bị nhồi máu cơ tim, Mal, và bố đã đi theo bà. Tối qua. Malcolm dõi theo con khỉ sapajou(*) đang uống nước bên bờ sông. Một con rắn hơn ba mét rưỡi đang trườn trên mặt nước cách con khỉ chỉ vài thước.
(*) Khỉ sapajou: Một giống khỉ ở Nam Mỹ còn gọi là khỉ mũ. - Mẹ bị nhồi máu cơ tim?
- Vâng.
- Thế còn bố?
- Ông bị ung thư, Malcolm.
- Anh có hay biết gì đâu. - Anh nói khẽ. Anh chuyển chiếc điện thoại nặng cùi cụi sang tai bên kia và nhìn về đường chân trời phía Tây. Những rặng cây và đám dây leo xanh thẫm vươn cao tít tắp, che phủ cả khu rừng nhiệt đới và con sông Amazon ở Manaus, Brazil. Anh nhúng mái chèo dẹp và nặng xuống mặt nước đầy rong rêu, xoay xoay cái cán gỗ dọc xuống đáy sông, đủ để đẩy con thuyền đáy bằng, màu bạc dài bốn mét hai của
mình ra giữa dòng con sông dài thứ hai thế giới. Nước mắt anh ràn rụa thương cho mẹ mình.
- Anh sẽ về. - Anh nói.
- Thật chứ? - Samantha hỏi.
- Mất khoảng một hoặc hai ngày.
- Anh chắc không Malcolm?
- Nhất định. Anh sẽ về. - Anh quả quyết. - Hãy đợi anh.
- Vâng.
- Anh rất lấy làm tiếc, Sam.
- Em cũng vậy. - Cô thì thầm.
- Anh xin lỗi đã không có mặt ở đó lúc này. - Anh lạc giọng. - Không sao đâu, Mal, anh đã làm tất cả những gì có thể. Không sao mà. Malcolm hít ba hơi dài.
- Anh yêu em. Biết không, cô em nhỏ?
- Em biết. Em cũng vậy.
- “Cũng vậy” tức là em yêu chính mình hở?
- Ôi, thôi đi. - Samantha cười tủm tỉm, nụ cười đầu tiên kể từ khi nghe được từ bộ đàm trong xe cảnh sát của mình báo có hai người chết tại Domus Jefferson.
***
Samantha nhấn vào cái lẫy điện thoại để kết thúc cuộc gọi và quay số cho người anh cả, Matthew:
- Anh ấy đang về.
- Từ đâu?
- Chẳng biết. - Samantha hờn dỗi. – Từ thiên nhiên, em đoán thế. - Mất bao lâu?
- Anh ấy nói hai ngày.
- Anh cá là nó vẫn đang ở Brazil. - Matthew ngập ngừng một chút rồi lại hỏi - Nó đón nhận tin đó như thế nào?
- Bình thản.
- Biết mà.
Cả cha mẹ lẫn các anh em trong nhà không ai có dịp nói chuyện với Malcolm cả năm nay. Thi thoảng mới có một tấm bưu thiếp gửi từ một nơi xa xăm nào đó tận Nam Mỹ, đó là tất cả những gì họ nhận được kể từ khi anh bất ngờ rời Woodstock hai năm trước. Lần gần nhất anh gọi điện là sau vài ngày nhận một bưu kiện được gửi đến căn hộ của anh ở Sete Lagoas, Brazil. Trong đó có mấy cái bánh quy chưa nướng của Laurel, một bức thư ngắn từ Rain, Malcolm đã cất đi nhưng chưa hề đọc, và một ít tiền bà A;P cho được giấu trong mấy đôi vớ. Malcolm dùng số tiền đó mua lõi lọc nước bằng đất sét, mua giày cho bọn trẻ, và thậm chí khéo xoay xở cũng dư ra một mớ để mua vài cuốn truyện tranh.
Bưu kiện còn có cả một chiếc điện thoại vệ tinh đắt tiền. Trong quyển sách hướng dẫn sử dụng có dán một mẩu giấy nhỏ với nét chữ ngay ngắn của mẹ anh - “Chúc con bình an. Được thì gọi cho mẹ.” - Anh đã gọi, nhưng cuộc nói chuyện đầu tiên ấy nhanh chóng kết thúc khi bà cố nài nỉ anh trở về nhà. Bà tiếc vì chưa kịp báo tin bố anh bệnh nặng sắp qua đời. Malcolm luôn mang điện thoại theo nhưng hiếm khi mở máy.
- Danh sách những người quen của bố anh gọi đến đâu rồi? - Samantha hỏi Matthew.
- Anh gọi hết rồi. Có ba hay bốn cái tên anh không biết, nhưng A;P đã giúp anh tìm số điện thoại. Hy vọng là mọi người đều đến dự lễ tang. - Mong là thế.
- À. - Matthew sực nhớ. - Dì Allyson đã gọi lại cho anh. Từ giờ đến trưa thứ Bảy không còn chuyến bay nào từ Vegas.
- Mình không thể đợi dì ấy được. Chúa ơi, đã nhiều năm rồi nhỉ. - Vài năm. Dì có đến dự kỷ niệm ba mươi lăm năm ngày cưới của bố mẹ, em nhớ không? - Matthew ngập ngừng. - Anh vẫn chưa nhận được hồi âm từ ông em của bố.
- Anh phải gọi là “chú”. - Samantha đáp, không giấu vẻ khó chịu. - Mà không, em chưa gặp được chú. Em đã để lại lời nhắn cho người giám sát
của chú ở St. Louis.
- Đừng sửa lưng anh, em gái, nhưng ổng mà tới nữa chắc anh mất ngủ. Malcolm thôi là đủ phiền lắm rồi.
- Có thể. - Samantha nói. - Nhưng dù gì chú cũng phải biết tin. - Ừ, ráng đi em.
Samantha biết ngay câu hỏi kế tiếp là gì.
- Em gọi Nathan chưa? - Matthew hỏi.
- Anh biết mà, đâu có dễ vậy.
- Anh biết, Sam, nhưng hắn là đại diện của ngân hàng Commonwealth. Hắn phải biết việc Malcolm trở về. Em có muốn nhờ Rain gọi cho hắn không?
- Em nghĩ em tự làm được. - Cuối cùng Samantha tra khẩu súng vào bao. - Cô ấy chịu đựng đủ rồi, Matt. Đau khổ thật sự.
- Chắc chắn rồi. - Anh trả lời. - Cô ấy đang ở đó chứ hả? - Mới ở đây. Nhưng vừa ra ngoài với Anna Belle và vài người hàng xóm.
- Tội nghiệp Rain. Cô ấy như một thành viên của gia đình mình. - Đúng thế.
- Gửi lời cảm ơn của anh đến cô ấy vì đã nhiệt tình giúp đỡ, nhé! Anh sẽ đón chuyến bay đến Dulles. Sau đó thuê xe và lái thẳng về nhà. Khoảng năm hay sáu giờ anh về tới quán trọ.
- Monica có đi cùng anh không?
- Không, chị em đi không được. Công việc của cô ấy đang bù đầu bù cổ, không thể bỏ đi đâu được.
- Không đi đâu được cơ à?
- Không.
- Em rất lấy làm tiếc, Matt. Hai anh chị vẫn ổn chứ?
- Ừ, phải, vẫn ổn. Em biết Monica mà, lúc nào cũng coi khách hàng là trên hết. Cô ấy xem trọng việc ấy lắm, dịch vụ hai mươi bốn giờ trong ngày, em cũng biết thủ tục mà. Và mọi thứ quá mới mẻ, tự một mình giao
dịch với khách hàng cũng căng thẳng lắm, cô ấy rất vất vả. - Matt này, có phải chị ấy là tư vấn viên...
- Chuyên viên hoạch định và tư vấn những vấn đề trong cuộc sống. - Sao cũng được. Chị ấy cũng nên đi đâu đó chứ. Anh biết mà. Mình cần chị ấy có mặt ngay bây giờ.
- Ổn mà Sam, thật đó. Với lại, bọn anh đang chuẩn bị cho một cuộc hội thảo lớn với tổ chức chuyên về nhận con nuôi và một cuộc hẹn khác với một bà mẹ ở Newark cuối tuần này. Bọn anh đang cố giành mối làm ăn này. Cô ấy không muốn bỏ lỡ cơ hội. Chỉ tại không đúng thời điểm.
- Anh đi mà nói với bố mẹ như vậy. Họ nên lùi ngày chết lại vài tuần chắc. - Giọng Samantha lạc đi. - Em xin lỗi... mong sớm gặp anh. - Anh cũng mong sớm gặp em, Sam. Xin lỗi vì anh chưa có mặt bên cạnh em lúc này.
- Em biết. - Cô gật đầu, nước mắt tuôn lã chã.
- Sam?
- Dạ?
- Chúng ta sẽ vượt qua mà.
- Mong là vậy.
- Sam?
- Gì anh Matt?
- Hãy nói chuyện với Rain.
- Vâng. - Cô thở dài.
B
CHƯƠNG 4
Tối thứ Năm
oa tarde. - Malcolm nói với cô gái trẻ ngồi ở quầy bán vé hãng hàng không Brazil TAM.
- Boa tarde, senhor.
- Eu preciso passagem para Washington, D.C.
- Fala inglês? - Cô gái trẻ có làn da bánh mật hỏi.
- Phải. Trông tôi giống người Mỹ chứ? - Anh mân mê bộ râu quai nón lởm chởm của mình. Làn da của Malcolm trở nên rám nắng và phong trần sau hàng tháng trời sống ở Amazon, đôi mắt thì sưng húp và đỏ hoe, còn tóc thì dài quá vai.
- Dạ vâng. - Cô cười, khoe hàm răng trắng tuyệt đẹp nổi bật trên làn da nâu tự nhiên. - Anh muốn đi Mỹ. Ngày nào?
- Càng sớm càng tốt. Ngay hôm nay nếu có thể.
- Chuyến bay cuối cùng sẽ cất cánh trong vòng hai mươi lăm phút... nhưng chắc anh không kịp làm thủ tục.
- Thế còn các chuyến đi Los Angeles?
- Trong tối nay à? Không có. - Cô lắc đầu. - Vui lòng đợi một chút. - Cô dịu dàng vén mái tóc đen dài ra sau vành tai.
Malcolm để ý thấy hai cái bớt nhỏ lộ ra trên cổ cô gái, ngay bên dưới xương hàm, phía tai phải.
Cô luống cuống gõ lên bàn phím màu be cũ kỹ. - Tôi đặt cho anh chuyến bay đến Rio, anh quá cảnh ở đó, rồi đón chuyến bay đến Miami. Từ Miami anh lại bay đến Washington Dulles. Đó có phải là nơi anh muốn đến?
- Cũng gần rồi, được đó.
- Đó là bang Virginia, correto?- Cô hỏi. - Virginia có đẹp không anh? - Sao cơ? - Malcolm hỏi, anh còn đang ngơ ngác.
- Tôi xin lỗi. - Cô bối rối. - Vậy tôi xuất vé cho anh nhé? Như thế anh
sẽ đến Washington sớm hơn hai tiếng so với việc phải chờ chuyến bay vào sáng mai.
- Tất cả chỉ được có hai tiếng thôi ư?
- Sim. Hai tiếng.
Malcolm ngưỡng mộ vẻ trẻ trung và hồn nhiên trên gương mặt cô gái. Ánh sáng của đèn huỳnh quang có thể khiến người ta trông xấu đi, nhưng với cô gái Brazil xinh như thiên thần này, ánh đèn càng tôn lên làn da bánh mật quyến rũ. Anh đoán cô chỉ khoảng hai mươi mốt, hai mươi hai tuổi. Trong suốt thời gian sống tại Brazil, anh đã thẩn thờ trước bao nhiêu người phụ nữ, nhưng giọng nói từ tốn của mẹ và hình ảnh về Rain đã giúp anh cưỡng lại.
Một chút tiếc nuối dấy lên trong anh, thêm chút tính khí phong lưu bất cần đời. Cô gái trẻ này và nhiều phụ nữ khác anh đã gặp ở Brazil, họ thật lộng lẫy. Anh tựa mình vào quầy.
- Thế còn kế hoạch B thì sao?
- Kế hoạch B? Kế hoạch B nào cơ?
- Kế hoạch B. Anh sẽ ở đây và ngắm em cho đến hết ca. Sau đó anh mời em ăn tối, chúng ta sẽ đi dạo bên bờ sông, và em nói lời chào tạm biệt anh vào lúc... - Malcolm chồm người qua khỏi quầy vé, anh nghiêng đầu nhìn vào màn hình vi tính - lúc 7 giờ 32 phút sáng, vừa kịp chuyến bay 2122 đi Miami của anh.
Cô gái nhoẻn miệng cười, khẽ liếc nhìn quanh. – Vâng, thưa ngài. Tôi cũng ủng hộ kế hoạch B.
- Vậy đặt cho anh đi. - Malcolm cười và trao cho cô một mớ tiền reais Brazil lôi ra từ trong ba-lô.
Cô gái xác nhận hộ chiếu và trao cho Malcolm một bộ các giấy tờ gồm vé máy bay, tiền thối, hóa đơn và mẫu kê khai hải quan.
- Tên em là Ana Paula. - Cô thì thầm và chìa tay qua khỏi quầy vé. - Anh là Malcolm. Prazer em conhecê-la. - Anh bắt tay cô gái bằng cả hai bàn tay của mình.
- Em cũng rất vui làm quen với anh. - Cô ngoảnh đầu nhìn về phía người giám sát ca đang quan sát cô cách đó ba quầy vé, gã để ý điệu bộ ve vãn của anh chàng người Mỹ dành cho cô nhân viên mới toanh của gã.
- Em sẽ tan ca đúng mười giờ tối. Gặp anh ở chỗ đón taxi nhé. - Đúng mười giờ tối. - Anh lặp lại giọng cô một cách thích thú. - Xin mời quý khách tiếp theo. - Ana Paula gọi người phụ nữ Ý mập
mạp đang xếp hàng. Sau lưng cô, Malcolm đã biến mất và đếm từng giờ để được hẹn hò với người đẹp Brazil.
***
Mười giờ hơn, Ana Paula đến bãi đón taxi bên ngoài sân bay như đã hẹn.
Malcolm ngồi trên chiếc ghế băng gần đó, tay mân mê cái điện thoại vệ tinh và ngó mấy gã tài xế taxi đang tranh cãi với vài người hành khách da trắng. Bụng anh cồn cào.
Ana Paula mặc một cái quần soóc màu hồng mỏng manh và một cái áo phông trắng cùng chiếc thắt lưng màu vàng. Mái tóc đen buông dài trên đôi vai tròn mịn màng của cô.
Malcolm ngắm cô say đắm. Có thể mình sẽ không có dịp trở lại đây, anh nghĩ.
- Ôi.
- Chào anh. - Cô trả lời.
- Thế Ana Paula xinh đẹp thích tiếng nào hơn, Tiếng Anh hay Bồ Đào Nha?
- Nói thực lòng á? Em thích tiếng Anh hơn. Anh biết đó, em không có điều kiện thực hành nhiều. Em theo học một lớp ban đêm nhưng bạn bè em ở sân bay lại không thường sử dụng tiếng Anh. Họ nghĩ cứ nói Mac Donald’s và Pizza Hoot tức là nói tiếng Anh rồi đó. Nhưng mấy cái đó đâu có tính.
- Ha! - Malcolm đứng dậy nhìn vào mắt cô. - Em nói đúng. - Anh cúi xuống, tóm lấy cái túi vải len kiểu nhà binh và cái ba-lô. - Chúng ta đi ăn
thôi.
- Ăn Mac Donald’s hả? - Cô cười khúc khích.
- Feijoada.
- Sério?
- Sério. Có thể đây sẽ là bữa ăn cuối cùng ở Brazil của anh trong một thời gian.
- Thế ư?
- Nhưng anh vẫn ở đây tối nay.
Cô cười đáp lại. - Vậy thì bắt taxi nào. Chúng ta đến nhà hàng tại khách sạn Tropica gần bờ sông. Anh đến đó chưa?
- Chưa, nhưng ở đó có món feijoada không?
Cô lại cười khúc khích. - Vâng, chắc chắn có. Đó là một trong những nhà hàng sang trọng bậc nhất Manaus.
Malcolm nắm tay cô và lôi về phía chiếc taxi đang đậu sẵn. Vượt qua mặt một cặp đôi người Mỹ đứng tuổi hơn, anh chui tọt vào băng sau của chiếc taxi cùng với hành lý, rồi nhanh nhảu kéo Ana Paula ngồi lên lòng.
– Đến khách sạn Tropica. - Anh nói khi gã tài xế cho xe lăn bánh. 11 giờ 15, món feijoada được bưng ra, một món hầm truyền thống của Brazil bao gồm các loại đậu, rau củ, móng heo, lỗ tai heo và mũi heo. Đó là phần thực phẩm nhà hàng còn lại sau bữa trưa thịnh soạn và chỉ nấu theo yêu cầu của Malcolm khi có kèm theo lời hứa về món tiền boa hậu hĩnh. Hằng giờ sau, cả hai trò chuyện về ước mơ được học đại học ở Mỹ của Ana Paula và cả bữa tiệc sinh nhật bất ngờ lần thứ mười tám của cô. Khoảng 1 giờ rưỡi sáng, Malcolm kể cho cô nghe lý do vì sao anh phải gấp gáp trở về Virginia và cả những khó khăn đang chờ đợi anh trước mắt. Anh cũng kể về cuốn tiểu thuyết anh bắt đầu viết từ rất lâu, đã bao nhiêu năm chính anh cũng chẳng nhớ. Malcolm còn dự định trước sẽ ăn mừng như thế nào ngay trong đêm cuốn sách của anh được thời báo New York bình chọn là sách bán chạy nhất. Tất nhiên là sau khi nó được viết xong cái đã.
Có một điều anh không hé môi, đó là Ana Paula đã giúp gột rửa hình ảnh của Rain trong đầu Malcolm trước khi anh gặp lại cô lần nữa. Trong khi đó, ngón tay trỏ, ngón giữa và ngón đeo nhẫn của Ana vẽ những con số tám bên dưới cánh tay của Malcolm lúc này đang gấp chiếc khăn trải bàn màu kem. Từng giây từng phút, Malcolm gắng xua đi nỗi đau mất cha mẹ ra khỏi tâm trí mình để tận hưởng cảm giác dễ chịu này thêm một chút.
Khoảng 2 giờ rưỡi sáng, trong một quán bar đã vắng khách bên cạnh nhà hàng bốn sao đó, đôi trai gái đã uống cạn chai rượu vang thứ hai trong khi người dọn dẹp tỉ mẩn lau chùi sàn nhà quanh chỗ họ ngồi.
Ana Paula chồm người tới trước và thì thầm, môi cô dừng lại bên tai anh thêm một khoảnh khắc. Mùi cơ thể cô khiến anh say lòng – và cả cảm giác thân quen. Nhưng khi Malcolm nhìn vào đôi mắt nâu tuyệt đẹp của cô, anh thấy hình ảnh của một người con gái khác.
- Anh không thể. - Câu trả lời khiến cả hai đều bất ngờ.
Và đúng 7 giờ sáng, dù đã từ chối lời mời gọi của người đẹp Brazil, Malcolm đáp chuyến bay 2122 với giọng nói của mẹ văng vẳng trong đầu và cảm giác tội lỗi tràn ngập lòng anh.
T
CHƯƠNG 5
Sáng thứ Sáu
rên chuyến bay tới Miami, Malcolm không nhìn ra ngoài cửa sổ mà chỉ nhìn chằm chằm vào lớp cửa kính. Qua hình ảnh phản chiếu ấy, anh thấy mẹ, Laurel, đang khiêu vũ một mình trong căn phòng khách rộng lớn vào cái ngày bố mẹ anh gần như đã có được Domus Jefferson. Căn nhà với lớp sơn mới trắng tinh, phủ lên từng ngóc ngách, điều mà Jack đã thỏa thuận thêm trong hợp đồng mua bán. Lúc đó là mùa hè 1968, Malcolm được mười ba tuổi.
Trong nhà, Matthew, anh trai của Malcolm cứ lẵng nhẵng theo chất vấn cha mình về lợi nhuận có được từ việc mở quán trọ so với thu nhập ổn định ông có được từ vị trí trưởng phòng bảo trì của trường Đại học Virginia. Matthew thừa nhận đó chẳng phải là một vị trí có tiếng tăm gì, nhưng bù lại ông cũng là một người trong giới “cổ cồn xanh” thoải mái, thu nhập ổn định chưa kể những phúc lợi dành cho hai mươi năm phục vụ trong trường đại học. Đồng nghiệp của Jack thường gọi ông là Jack Barry, bởi ông vừa trông giống người dẫn chương trình truyền hình “Thế kỷ 21” vừa bởi ông khoái mấy cái tầm phào.
- Anh chắc phải là người trưởng phòng bảo trì giỏi nhất trong hệ thống trường đại học công lập. - Các bạn của Jack bảo thế. - Anh phải điều hành được cả bộ máy Đại học Yale ấy chứ. Anh là nhà nghiên cứu toilet cừ khôi nhất Hoa Kỳ. - Họ trêu, ông cười, họ càng chọc tợn, mà ông vẫn cười, biết rằng mình sẽ chẳng cười như thế được bao lâu. Mà thật vậy.
Jack và Laurel đã âm thầm nuôi dưỡng ước mơ sở hữu một quán trọ suốt mười năm, nhưng họ chỉ dám mong giấc mơ đó sẽ thành hiện thực khi các con trưởng thành và tự lập. Nhưng bỗng nhiên một món quà với sáu con số từ trên trời rơi xuống, khoản tiền thừa kế từ người bác đã qua đời của Jack ở Pittsburgh đã rút ngắn kế hoạch của họ.
Jack và Laurel đã thu xếp chỗ ở cho người em sinh đôi của Jack, là Joe,
trả trước sáu tháng tiền nhà và thêm vài ngàn đô-la để ông này trang trải cuộc sống trong thời gian chưa kiếm được việc làm, mặc dù đó chẳng phải nghĩa vụ của vợ chồng họ. Trước khi nhà Cooper mua được cái quán trọ vài tuần, Joe bị sa thải khỏi vị trí chăm sóc cây cảnh của Hạt Albemarle. Có vẻ như họ không đồng ý việc ông ta lái chiếc xe cắt cỏ đi bốn dặm đường xuống trung tâm thành phố để uống rượu trong giờ nghỉ trưa.
***
- Anh uống gì không? - Giọng nói nhẹ nhàng của cô tiếp viên hàng không khiến anh giật mình. Malcolm lắc đầu và kéo tấm che nắng cửa sổ máy bay xuống. Anh vốn không phải là người dễ ngủ. Anh với tay tắt đèn trên đầu mình, tựa đầu vào cửa sổ và nhắm mắt lại.
Anh nhớ tới Samantha, cô em gái luôn âu sầu. Cô bé đang đọc truyện Shakespeare trước hiên nhà và tự hỏi không biết chừng nào bố mẹ mới cho phép mình gọi cuộc điện thoại đường dài tiếp theo. Cô bé mười tuổi vẫn còn rất buồn vì phải xa bạn bè ở Charlottesville để dời về tận phía bắc, thung lũng Shenandoah vùng Virginia. - Ít ra thì Charlottesville chỉ hơi yên tĩnh một chút. - Cô phàn nàn với bố mẹ mình. - Còn ở đây thì đi mỏi hết cả đầu gối.
Mặc dầu Samantha nhanh chóng hòa nhập với cuộc sống ở Woodstock và có một mớ bạn mới, cô vẫn luôn nhớ về cuộc sống thị thành cô bỏ lại sau lưng, nơi thành phố do Thomas Jefferson gầy dựng. Cô tìm được sự cân bằng nơi căn nhà kiểu thôn quê hai phòng ngủ cách tòa nhà chính hơn bốn mươi mét, nơi cô và anh trai Malcolm sống đến khi cả hai học hết phổ thông trung học.
Thay vì tận hưởng sự riêng tư của căn nhà mà cô được thừa hưởng, điều khiến không ít người thầm đố kỵ, Samantha cứ nhớ về Charlottesville. Cụ thể là cô nhớ những sân khấu kịch nói và cả những cơ hội được thử vai trong các vở diễn. Từ khi lên sáu tuổi, Samantha đã có nhiều cơ hội lên sân khấu, tuy chỉ là các vai phụ nhưng với kinh nghiệm diễn xuất như thế cũng đủ để cô bé có thể đánh giá cái nhà hát kịch của thung lũng Shenandoah là
thiếu tính chuyên nghiệp, chẳng có tương lai và cũng chả hấp dẫn bởi toàn những tài năng không được mài giũa. Cô bé nhiều lần dọa sẽ bỏ hết tất cả lại Virginia để xin quá giang đi hàng trăm dặm về Washington, D.C, bắt chuyến xe lửa Amtrak(*) đến thành phố New York, và chụp một tấm ảnh lưu niệm tại nhà hát Broadway(**). Vào sinh nhật lần thứ mười bảy, cô đã thực hiện điều đó.
(*) Amtrak: Chuyến xe lửa phục vụ Thành phố New York tại Ga Pennsylvania, nối đến các thành phố Boston, Philadelphia và Washington, D.C. dọc theo tuyến hành lang Đông Bắc cũng như phục vụ tuyến đường dài đến các thành phố như Chicago, New Orleans, Miami, Toronto và Montreal.
(**) Broadway: Hệ thống bao gồm 39 nhà hát chuyên nghiệp (500 ghế trở lên) ở Manhattan, New York. Broadway là địa điểm du lịch hấp dẫn của thành phố New York.
Vào năm gia đình Cooper chuyển đến Woodstock, Matthew, cậu con trai lớn nhất nhà lúc bấy giờ được mười bảy tuổi, và nhờ hai mùa hè học tại trường dạy hè ở Charlottesville, anh đã sắp xếp thời khóa biểu để tốt nghiệp phổ thông sớm hơn bình thường cả năm. Bỏ mặc lời khuyên của cha là hãy đăng ký học năm cuối cấp ở trường để vừa hưởng thụ tuổi trẻ vừa tham gia đội bóng Falcons của câu lạc bộ Woodstock Central High, Matthew gần như không màng gì đến thể thao. Anh nóng lòng thi vào Đại học Virginia Tech tại Blacksburg và bắt đầu học ngành kinh doanh. Sợ làm cha anh thất vọng, đội thể thao ba môn phối hợp với toàn các ngôi sao đã viện lý do Matthew bị đau đầu gối và đề nghị anh nên ngừng chơi thể thao. Matthew tin rằng cha anh hy vọng con trai mình sẽ kiếm được bạc triệu. Mà đúng vậy, Matthew cũng ước mơ về một cuộc sống giàu có, nhưng anh muốn tạo dựng ra nó ở sàn chứng khoán Phố Wall chứ không phải trên sân cỏ.
Giờ đây Malcolm có thể hình dung lại cái đêm mùa hè ấy rõ ràng hơn cả thời điểm anh trải qua nó. Mẹ mặc chiếc váy màu vàng nhạt và xoay
vòng theo đĩa nhạc của Elvis phát ra từ chiếc máy hát cũ có sẵn của quán trọ. Anh ngồi ở cái bàn ăn to tướng và nhìn bà.
- Mẹ, đó không phải là khiêu vũ.
- Ô, không phải ư, Malcolm Cooper?
- Sammie nhảy còn khá hơn.
- Thôi đi, đồ ngốc. - Samantha quát vọng qua cửa sổ ngoài hiên. - Samantha!
- Xin lỗi mẹ... Ngốc. Được chưa?
Laurel cố nén cười.
- Con có muốn mang giày khiêu vũ vào không. Ngài Cooper trẻ tuổi? - Mẹ anh khiêu khích.
- Được chứ, nhưng một bản thôi nhé. - Anh vừa nói vừa bước qua cửa tiến vào phòng khách. - Coi nè, Sammie. - Anh cao giọng. – Ít ra em cũng học được vài chiêu.
- Thí dụ như chuyện anh ọe vào giầy em hử?
- Lo mà đọc truyện đi, Samantha. Và dẹp kiểu xấc láo đó đi, ông nhỏ. - Laurel nheo mắt một cách khôi hài và chìa tay ra. - Chúng ta nhảy chứ? Liên tiếp ba bài hát, Malcolm và mẹ anh nhảy từ phòng khách qua phòng ăn, lả lướt xoay tròn quanh chiếc bàn như thể nó là một cặp bạn nhảy khác trên sàn, và thậm chí hai mẹ con vào tới nhà bếp. - Con nhảy khá đấy chứ! - Laurel kêu lên í ới khi bà cúi thấp người để chui qua cánh tay cậu con trai. - Hay hơn cả lời đồn nhiều! Trừ khi lời nói được phát ra từ Chúa, nếu không bất cứ điều gì nghe được cũng không nên tin.
***
- Xin hành khách chú ý. - Giọng nói của một cô tiếp viên vang lên bằng một thứ tiếng Anh ít bị ảnh hưởng bởi chất giọng Brazil như đa số người Malcolm từng gặp suốt thời gian sống ở đây. – Chúng ta đang chuẩn bị hạ độ cao lần cuối cùng để đáp xuống Miami. Đề nghị quý khách tắt tất cả các thiết bị điện tử cầm tay, nâng lưng tựa ghế ngồi về vị trí thẳng đứng và
ổn định chỗ ngồi. Giờ địa phương là 3 giờ 30 phút chiều. Malcolm đưa cho cô tiếp viên ba vỏ bịch bánh quy và một lon nước Sprite, rồi lôi cái túi ói từ trong khoang ghế trước mặt ra cầm sẵn trên tay, phòng khi cần thiết.
Ngang qua dãy ghế bên kia là hai cậu bé Brazil, Malcolm đoán chúng là anh em song sinh, và một người đàn ông, chắc là ông bố, ngồi cái ghế giữa hai đứa nhỏ và xem tạp chí bóng đá. Hai cậu bé châu đầu vào nhìn và chỉ trỏ hình các cầu thủ. Chúng cãi nhau xem cầu thủ nào chơi giỏi hơn. - Suỵt. - Ông bố nói. - Fecham suas bocas. - Ông nhìn qua Malcolm và cười.
Mắt Malcolm lại muốn díp lại, rồi anh nhìn thấy một cái sân cỏ đá bóng nhếch nhác gần một nhà thờ nhỏ chẳng mấy khi được chăm chút tại Sete Lagoas. Anh đang cuốc bộ về nhà sau bữa trưa, ngang qua khu quảng trường của thị trấn, nơi có những nhà hàng, quán bar và tiệm bánh, bên cạnh một trong bảy cái hồ mà tên của nó được đặt cho thị trấn này. Bao tử anh ních đầy đậu đen, gạo và thịt bò thái sợi. Anh vẫn còn cảm nhận được mùi vị ngọt ngào của ly sô-đa vị dâu rừng sủi bọt hiệu Guaraná trên đầu lưỡi.
- Oi, amigo! - Một thằng nhóc kêu lên. - Americano! Ameriacano! Malcolm quay lại.
- Quer jogar?
Malcolm cười toe toét và chỉ vào đôi dép xỏ ngón của anh. - Não tenho sapatos. - Anh nói. - Não tenho sapatos.
Thằng nhỏ cười và nửa tá những cầu thủ nhí khác vây quanh, nhìn chàng trai Mỹ cao to, da trắng.
- Olha! - Một trong số đó hét lên và tất cả những đứa còn lại đều chỉ vào chân mình.
Malcolm đã không để ý: một nửa đám con nít mang dép, nửa kia đi chân đất. Malcolm lại cười, bước vào sân cỏ và hất đôi dép xỏ sang một bên. Một đứa trong số chúng ra hiệu cho anh cởi áo sơ mi để gia nhập phe không mặc áo. Anh làm theo, chỉ ít lâu sau, trời trút một cơn mưa tầm tã.
Trận đấu bắt đầu.
Malcolm chạy khắp sân cỏ đến nỗi hai chân phồng rộp để đuổi theo quả bóng và mấy chú nhóc như thể anh mới mười hai tuổi. Cả bọn tung hứng và chuyền bóng qua lại trước mặt anh như đang di chuyển theo điệu nhạc. Cuối cùng, Malcolm cũng có một cơ hội để thoát xuống làm bàn, thằng nhóc thủ môn nhào ra cản bóng nhưng bị trượt nước mưa và Malcolm ghi bàn. Anh đoan chắc thằng nhóc thủ môn té có chủ ý.
Malcolm nháy mắt với nó.
Nó nháy lại với anh.
Mặc kệ người ngợm sũng sĩnh nước mưa và lấm lem bùn đất, Malcolm thộp lấy cái áo sơ mi và buông người nằm ngửa ra giữa sân. Cả bọn lao tới nằm đè lên anh và hỏi dồn dập về nước Mỹ.
Anh có giàu không? Bầu trời nước Mỹ màu gì? Anh có từng chơi một trận 7-11? Anh có vợ chưa? Chó Mỹ có sủa tiếng Anh không? Anh có thể dẫn cả bọn về nhà cùng không? Hay chỉ một đứa thôi?
Malcolm vui vẻ trả lời từng đứa một và trước khi rời sân cỏ anh móc ra từ túi quần một mớ giấy bạc ướt mèm. Anh đưa cho một đứa trong số chúng và chỉ tay về tiệm bánh bên kia đường. Cả bọn reo lên vui sướng. Một số bắt tay anh, những đứa còn lại nói “Chạm tay cái nào! Chạm tay cái nào!”.
Một đứa khác chỉ nói Obrigado - và trao anh một cái ôm thật lâu. Khi anh đang mường tượng về gương mặt lấm lem và đầy biết ơn của cậu bé nọ thì hai chú nhóc ngồi gần anh trong chuyến bay đến Miami cười toáng lên và bố chúng lại phải răn đe. Malcolm quay đầu ra phía cửa sổ và nhìn xuống đại dương.
Bố mẹ mất rồi, anh nhủ thầm.
Chỉ còn vài tiếng và một chuyến bay nữa là anh sẽ được gặp Matthew và Samantha với cảm giác khó xử, một đám tang cho hai người, và những ký ức về sự xung đột với bố. Đầu óc anh quay cuồng.
Một cảm giác run sợ xuất hiện trong tâm trí anh, hơn cả việc nghĩ đến
cuộc hội ngộ khó khăn với các anh em, đó là cái quyền lực anh đã cố trốn chạy và người đàn ông đã cướp đi tình yêu thời trai trẻ của anh. Bố và mẹ đã mất.
Và mặc dù đã cố gắng xua đi, nhưng anh như cảm nhận được mùi nước hoa của Rain phảng phất đâu đây.
H
CHƯƠNG 6
Tối thứ Sáu
ắn về chưa? - Nathan Crescimanno vừa lớn tiếng vừa leo ra khỏi chiếc BMW và đi về phía cổng chính quán trọ Domus Jefferson. - Chưa. - Samantha trả lời. Cô đứng một mình trên hành lang. Với chiều cao khoảng một mét năm mươi lăm, trong bộ đồ vét thùng thình quá khổ, Samantha thấy Nathan như một cậu nhóc chạy ké xe của bố mình. Hắn đeo cặp mắt kiếng gọng vàng theo phong cách John Lennon.
- Rain đâu?
- Bên trong. Nhưng anh nhỏ tiếng chút được không? Đang lúc tang gia bối rối.
- Matthew đâu?
- Bên trong. Gì đây Nathan? Thẩm vấn đương sự hả?
- Xin lỗi. Tôi cảm thấy bất an. - Theo thói quen Nathan đưa tay gãi gãi sống mũi. - Cô làm ơn gọi Matt giùm tôi được không? Tôi đứng ngoài này. Samantha gật đầu, mắt cô thoáng nét cười và bước vào bên trong quán trọ đang chật kín người. Một lát sau, cô kéo Matthew ra hành lang. - Chào Nathan. - Matthew nói và bắt tay Nathan thật chặt. - Matt, Matt, Matt, anh đã làm được điều đó. Mọi chuyện sao rồi? Cuộc sống ở Boston thế nào?
- Boston rất tuyệt, nhưng thật ra thì tôi sống ở New Yo...
- Và người phụ nữ tuyệt vời của cậu đâu? Mon không về à? - Không, Monica không về được. Công việc đang bù đầu. - Thế thì còn gì bằng. Này Matt, xin chia buồn về chuyện của bố mẹ anh. Tôi biết là rất đau lòng.
Bên kia hành lang, Samantha quay đầu lại và đảo mắt.
- Cảm ơn anh... Thế còn tin mới nhất? Anh đã nói chuyện với thẩm phán Romenesko chưa?
- Tôi nói rồi, và như đã hứa với anh qua điện thoại, tôi đã làm được
điều đó. Tôi sẽ thử cách khác khi đám tang kết thúc. Dù sao đi nữa tôi cũng đã thuyết phục ông ta rằng dẫu sao Malcolm cũng không dám liều lĩnh bỏ trốn... trong vài ngày.
- Cảm ơn anh. - Matthew nói. - Chúng tôi rất cảm kích. - Matthew vừa nói vừa nhìn em gái mình.
Cô gượng gật đầu tỏ vẻ biết ơn những gì Nathan đã làm.
Cánh cửa bật mở và Rain xuất hiện.
- Chào em! - Nathan nói. - Em khỏe không? Hôm nay, anh đã cố gọi tới đây ít nhất là năm mươi lần. Sao em không trả lời?
- Em xin lỗi, Nathan, chúng em không thể trả lời hết tất cả các cuộc gọi, điện thoại cứ reng suốt.
Nathan tiến tới và kéo cô lại gần. - Không sao, - hắn nói với một giọng thật dịu dàng chỉ dành riêng cho cô. - Anh chỉ lo cho em.
- Em biết. - Cô nói, lùi ra một chút và siết chặt vai hắn. - Em xin lỗi. - Rồi sẽ ổn thôi, em yêu. - Hắn cố tình nói lớn để người đứng bên kia hành lang cũng nghe được. - Mọi việc rồi sẽ qua nhanh thôi. - Em đi vào đây. - Samantha nói, rồi ho một tiếng thật lớn như để che giấu một cái gì.
Matthew nhìn xuống giầy và mỉm cười.
- Rain, em yêu, sao cưng không theo cô ấy vào trong nhà. Anh cần bàn bạc riêng với Matthew một vài điều. - Hắn sà đến gần và hôn lên má cô. - Yêu em. - Hắn thầm thì.
Rain mỉm cười nồng nhiệt, ôm hắn thêm một cái, bước vào trong nhà và theo Samantha lên lầu.
- Giờ thì nghe này, Matt, tôi phải ở quanh đây vài ngày đến khi giải quyết xong mọi việc. Tôi chắc sẽ cần sự giúp đỡ của Sammie, anh biết đấy, để ý Malcolm. Không nên để hắn một mình.
- Hiểu rồi, Nathan. Và rất biết ơn anh đã để chúng tôi giải quyết việc này một cách êm thắm. Mất đi cả hai người thân trong một đêm là quá đủ đau buồn rồi. Chúng tôi không muốn có thêm sự đổ vỡ nào nữa trừ những
việc nhất thiết phải làm. Chúng ta phải cố gắng vài ngày. - Lẽ thường thôi. Nhưng nghe này, Rain và tôi tốt nhất là nên tránh xa việc này, càng xa càng tốt. - Nathan cố nói cho có vẻ uy quyền. - Và tôi tin là anh sẽ luôn có mặt khi Malcolm lộ diện?
- Nên thế.
- Vậy anh sẽ ở đâu?
Matthew khẽ hất đầu và cặp chân mày rậm của anh châu lại - Tôi sẽ ở đây, Nathan, đây là một quán trọ mà.
- Đúng. - Hắn bẽn lẽn ngó nghiêng ngôi nhà như thể lần đầu tiên trông thấy nó. - Tốt, tôi nên vào trong.
- Nathan à! - Matthew gọi khi Nathan vừa mới chạm tay vào cánh cửa. - Sao?
- Đám cưới vẫn diễn ra chứ?
- Anh biết tin rồi à?
- Tất nhiên.
- Sao lại hỏi thế? Anh biết điều gì mà tôi không biết à? - Nathan cười một cách căng thẳng; Matthew nghe như tiếng khọt khẹt hơn là tiếng cười. - Có gì đâu, chỉ là tôi không rõ. Sống ở New York nên tôi không biết nhiều chuyện ở khu Woodstock này. Sam có nói là khách sạn đã nhận tổ chức tiệc của anh và tôi kết hợp hai chuyện lại. Tiệc. Đám cưới. - Thông minh. Vâng, mọi việc cứ như vậy. Trừ phi có chuyện khác xảy ra, đúng không?
- Đúng. - Matthew gật đầu.
- Hãy để ý thằng em của anh.
***
Trong phòng ngủ chính, gọn gàng như thể chưa từng chứng kiến cái chết của hai ông bà, Samantha và Rain nằm trên chiếc giường đôi rộng lớn nhìn lên chiếc quạt trần đang quay đều đều.
- Tớ vẫn không thể tin được điều này. - Rain nói.
- Tớ biết.
- Bố và mẹ của cậu đã qua đời. Thế đấy.
- Tớ biết. Như một giấc chiêm bao. Tớ cứ ngỡ như bố đang đi dạo ngoài sân hay đọc sách trong phòng làm việc. Nhưng tớ kiếm khắp nơi rồi. Ông đã ra đi.
- Tớ cũng rất đau lòng, mặc dù tớ chỉ là một người bạn, một nhân viên... - Rain, - Samantha ngắt lời, - cậu biết cậu hơn thế nhiều mà, chúng tôi luôn xem cậu là người nhà. Bố và mẹ yêu cậu.
- Tớ cũng mong vậy. - Rain đưa ngón tay cái quệt nước mắt đang bắt đầu tuôn ra từ khóe mắt. - Tớ ốm vì khóc mất, mới chỉ có hai mươi bốn tiếng. Chúng ta còn phải vượt qua vài ngày nữa.
- Tớ biết. - Samantha thở dài thành tiếng. - Cậu đã nghĩ về những gì phải làm trong mấy ngày sắp tới chưa? - Cô quay qua nhìn Rain. - Về việc gì?
- Cậu biết là tớ đang nói gì mà.
- Về công việc của tớ ở đây ư? Hay tiệc chiêu đãi của Vanatter vào cuối tuần tới? Hay mấy chuyện linh tinh tớ đang làm? Cây thông Nô-en tớ trồng sắp lớn rồi...
- Cậu biết tớ nói về cái gì mà.
- À.
- Ở đó mà à...
- Ý cậu là tớ sẽ đối xử với anh chàng đó như thế nào chứ gì? Tên anh ta là gì nhỉ... anh chàng lang thang phải không?
- Chính hắn.
Rain cười khổ sở. - Tớ chẳng nghĩ xa đến thế. Thiệt tình là tớ chẳng còn đầu óc nữa Sam à. Để tớ nhớ xem việc gì đã xảy ra.
- Cậu định đánh lừa một nhân viên cảnh sát sao? - Samantha phát vào mông của Rain.
- Tớ không biết nữa. Thiệt mà, mọi chuyện thoáng qua tâm trí tớ một lần, hai lần hoặc thậm chí là hàng trăm lần đi nữa... thì cũng chẳng đi tới đâu, nó chỉ khiến tớ phát ốm thôi.
- Anh ấy sẽ về đến đây vào tối nay, cậu biết mà. Anh ấy đã gọi cho tớ từ Miami.
- Anh ấy đến đây bằng gì?
- Xe thuê tự lái. Anh ấy không lừa được tớ đâu. Tớ có thể đi bộ đến tận đó và rinh ổng về đây, nếu chỉ mất vài giờ.
- Ôi, không, có nhiều người ở dưới lầu không? Có muốn tớ mời mọi người đi về không?
- Không, không, vẫn ổn mà. - Samantha nói. - Nhưng thông tin sẽ bị rò rỉ. Tớ sẽ bám sát vụ này. - Hai người nằm yên không nói gì trong giây lát. - Cậu biết cậu không thể tránh mặt anh ấy suốt ba ngày.
- Tớ biết. - Rain thừa nhận. Thêm một phút nữa trôi qua.
Cuối cùng rồi Samantha cũng thốt ra câu hỏi mà Rain ái ngại nhất. - Cậu vẫn còn yêu anh ấy - cô ngừng một lúc - phải không? Rain xoay xoay chiếc nhẫn đính hôn trên ngón tay mình. - Tớ sắp kết hôn, Sam.
- Đó không phải là điều tớ muốn hỏi.
- Tớ yêu Nathan. Thực sự anh ấy rất tốt với tớ, lúc nào cũng nâng niu tớ như một công chúa. Tớ biết anh ấy cư xử không đúng với một số người, tớ thấy được điều đó mà. Nhưng đối với tớ anh ấy là một quý ông lịch thiệp. Anh ấy luôn một lòng một dạ và kiên trì đeo đuổi tớ. Anh ấy yêu tớ. Và anh ấy có những giấc mơ.
- Mơ được điều khiển cả thế giới.
- Không phải cả thế giới, Sam, chỉ là bang Virginia thôi. Và, tớ xin được bổ sung thêm, anh ấy sống ở nơi có cùng mã vùng với tớ. Cũng dễ cho tòa án nữa.
- Nghe này, có vẻ như cậu không cho kẻ lang thang ấy một lý do để ở lại. - Samantha quay đầu lại nhìn Rain, ánh mắt như có lỗi. Họ lặng thinh nằm bên nhau, lắng nghe tiếng xì xầm dưới nhà và tiếng cửa cái đóng rồi mở mỗi một hoặc hai phút gì đó.
- Sam?
- Gì cơ?
- Nói về những ước mơ...
- À, ừ - Samantha lầm bầm.
- Những ước mơ của cậu ấy? Giờ là gì?
- Tớ từng có nhiều ước mơ, cả những ước mơ lớn lao nhưng tớ cất chúng vào ngăn tủ lâu rồi. - Cô ngập ngừng. - Cậu biết thế nào mà. - Samantha lại nhìn lên trần nhà.
- Tại sao cậu lại từ bỏ?
- Biểu diễn ư?
- Ừ.
- Ôi, tớ không biết nữa. Will ghét cuộc sống đó. Ghét những diễn viên khác. Anh ta cho rằng họ sẽ thay thế vị trí của anh ấy trong cuộc đời tớ, cho rằng mọi diễn viên đều nông cạn và ích kỷ.
- Nhưng cậu đâu có vậy.
- Hy vọng là không.
- Nhưng lão ấy thì có, đúng không?
- Còn hơn cả thế. - Samantha trả lời một cách dứt khoát.
Rain phát vào chân của Samantha. - Vậy sao giờ cậu không thực hiện ước mơ ấy đi?
- À, tớ nghĩ là một ngày nào đó. Giờ thì tớ chẳng có thời gian để nghĩ tới.
Rain trầm ngâm những điều bạn nói. - Nhưng cậu có thể, một lúc nào đó, hãy dành nhiều thời gian hơn. Và tớ cá là mọi người đều muốn cậu trở về với đoàn kịch ở Harrisonburg.
- Có thể.
- Bao lâu rồi nhỉ? - Rain hỏi. - Năm? Hay bảy năm?
- Cỡ đó.
Rain dụi mắt và vươn hai cánh tay qua đầu. - Cậu biết không, tớ sẽ xếp hàng đầu tiên. Vé đầu tiên. Dãy đầu tiên. Buổi diễn đầu tiên. - Tớ biết. - Samantha nói. - Nhưng hãy lo cho cậu trước đi.
- Ôi, người anh em. Làm sao mà cậu còn có thời gian để lo lắng cho chuyện tình cảm của tớ giữa bao nhiêu là thứ thế này?
- Đó là liệu pháp. Nhìn xem, tớ thấy mình chín mươi chín phần trăm là người vụng về. Tớ sẽ chẳng thể giúp được gì nếu nhỡ bố và mẹ cậu cũng cùng qua đời trong một đêm như thế này. Vì vậy mà quan tâm đến những rắc rối của cậu giúp tớ cảm thấy mình dễ chịu hơn một chút. - Cô quay lại nhìn Rain và cười.
- Samantha Cooper! - Rain tóm lấy cái gối còn thừa ở giữa họ và nện vào đầu Samantha.
- Suỵt, mọi người đang khóc dưới nhà. - Hai cô gái cố kiềm chế nụ cười mệt mỏi.
- Sam, tớ phải làm sao đây?
- Tớ không biết nữa. Thiệt tình là không.
Họ lặng thinh nghĩ ngợi cho đến khi tiếng ồn ào dưới nhà di chuyển ra bên ngoài sân, ra đến bãi đậu xe và cuối cùng là chia ra, chui vào hàng tá chiếc xe hơi.
Quán trọ lại trở nên yên ắng.
CHƯƠNG 7
M
alcolm nhìn xuống chồng bản đồ
địa phương.
- Tôi mới bay từ Nam Mỹ về để dự đám tang. - Anh nói với Salima, cô gái làm việc theo ca tại quầy cho thuê xe của công ty Avis. Cô gái dễ thương và tốt bụng đã nâng cấp cho anh từ xe hạng thường lên hạng trung. Khi anh kể thêm rằng đám tang không phải của một mà là cả cha lẫn mẹ kính yêu của anh, cô đã nâng anh lên hẳn hạng xe cao cấp. Rồi khi anh tiết lộ cho cô nghe chuyện người con gái duy nhất anh từng yêu đã rời xa anh hai năm trước và anh rất ái ngại khi sắp gặp lại thì anh được lái chiếc Mustang mui trần màu xanh đen ra khỏi bãi xe thuê.
Đó là một ngày ấm áp trái mùa ở Virginia, dù đã là giữa tháng Tư; nhiệt kế chỉ 21,7 độ. Anh chuyển sang làn đường khẩn cấp trên xa lộ và điều khiển cho cái mui của chiếc Mustang đóng lại.
Malcolm phóng thẳng về hướng Tây băng qua ngoại ô phía bắc Virginia, đến khi các siêu thị và cửa hàng thức ăn nhanh nhỏ dần rồi khuất hẳn sau cánh đồng lúa và những ngọn đồi nằm liên tiếp nhau trên Đường 66, anh rẽ hướng nam đi theo Đường 81. Chưa đến ba giờ đồng hồ sau khi đáp máy bay xuống Dulles, anh dừng lại tại trạm đổ xăng ở ngoại vi khu Woodstock mua một lon cô- ca và hai gói thuốc hiệu Tic Tacs. Anh nhìn người bán hàng đang ngồi sau quầy tính tiền và cảm thấy hơi ngạc nhiên vì đó là gương mặt anh chưa từng gặp.
Anh điều khiển dựng cái mui xe lên trước khi phóng khỏi trạm xăng chạy thẳng về thị trấn. Có một chút đổi thay sau hai năm anh đi xa. Một chi nhánh mới của chuỗi nhà hàng bán thức ăn nhanh Arby mọc ngay cuối đường cao tốc và trạm xăng của Shell vừa mới tân trang thật đẹp, nhưng trung tâm thị trấn Woodstock thì không có gì thay đổi so với hai năm trước khi anh ra đi với một giỏ quần áo và một vé máy bay miễn phí trong túi.
Cửa hàng thuốc tây Walton ; Smoot’s đã đóng cửa. Tương tự, cửa hàng
bán quà lưu niệm và văn phòng công ty Thế kỷ 21 phía góc đường cũng thế. Xa hơn một chút, dãy nhà nằm trên đường Main và rạp chiếu phim gia đình của nhà Devin Rovnyak vẫn còn sáng đèn, Malcolm đoán chắc giờ này hai thằng con sinh đôi tuổi chừng mười mấy của nhà Devin đang tụ tập cùng với đám bạn để xem trước những bộ phim sẽ được công chiếu vào tuần sau. Anh tự hỏi không biết bọn chúng có quên đóng cửa sau hay không. Nhớ hồi trước, anh hay lẻn vào từ phía sau với cái thùng bắp rang to tướng trên đầu, tay cầm hai cái đồ gắp bánh hotdog và dọa chúng sợ phát khiếp. Anh chắc chắn một trong hai đứa sẽ tè ra quần dù đứng trước mặt nó lúc đó có là người nó đang thầm thương trộm nhớ; Malcolm đã từng chứng kiến. Thích thật, anh nghĩ. Sẽ lại có một đêm như thế.
Malcolm chạy thẳng về hướng cuối thị trấn, tấp vào bãi đậu xe của cửa hàng bách hóa Ben Franklin và chợt nhớ lại tại sao anh yêu Woodstock đến thế. Không giống những thị trấn khác ở Virginia, Woodstock không hẳn là thị trấn của thế kỷ trước, mà cũng chẳng phải là một thị trấn tân tiến hiện đại. Tại bãi đậu xe của Ben Franklin – một trong số những cửa hàng bách hóa xưa cũ cuối cùng còn sót lại – mọc lên một chi nhánh mới toanh của hệ thống ngân hàng nhà nước. Những di tích lịch sử nằm xen kẽ với vô số nhà hàng và khách sạn mới xây dọc theo con đường chính. Đối với Malcolm thì đây là sự kết hợp tuyệt vời giữa cái cũ và cái mới. Người dân địa phương nơi đây sẽ không bao giờ quên những di sản quý giá hay chấp nhận để mất đi sự bình yên và tinh thần của thị trấn nhỏ này. Mà cho dù họ không muốn đi chăng nữa thì mọi thứ vẫn diễn ra chẳng theo quy tắc nào, vẫn sẽ tồn tại một phần hamburger Wendy lớn với phô mai và một ly to sô cô-la Frosty bên cạnh những điều xưa cũ.
Malcolm lái chiếc mui trần đi trên Đường 11 và theo một con đường khác trở về thị trấn. Anh quẹo trái, men theo đường đèo dẫn lên tháp Woodstock nhiều dặm nữa, trèo lên một ngọn núi quanh co vào rừng quốc gia George Washington. Chỉ vài phút sau, từ trên đỉnh núi nhìn xuống Woodstock và bảy nhánh của con sông Shenandoah, Malcolm đi bộ hơn
chín mươi mét nữa theo con đường mòn lởm chởm đá tới cái tháp bằng kim loại nổi tiếng. Anh leo lên cầu thang và bước lên tầng trên cùng rộng rãi của tháp.
Malcolm thường ôm cái ba-lô từ hồi còn đi học của mình leo lên thơ thẩn trên đỉnh tháp Woodstock hàng giờ. Từ đó anh nhìn bao quát một khung cảnh tuyệt đẹp, độc nhất vô nhị của miền bắc Virginia. Tòa tháp này trước đây là trạm quan sát cháy rừng, đứng trên này nhìn về hướng tây, khách tham quan có thể thấy Woodstock và bảy nhánh sông nhỏ hợp thành ngả sông lớn phía Bắc của dòng Shenandoah. Nhìn về hướng đông, nếu trời khô lạnh và ít mây, người ta có thể thấy thung lũng Fort và núi Massanutten. Những ngày đẹp nhất trong năm có thể nhìn trọn dãy núi Blue Ridge. Anh tự nhủ sẽ quay về tòa tháp một buổi sáng nào đó để ngắm nhìn cảnh đẹp ban ngày của nơi đây.
Anh rọi cái đèn pin lên mái kim loại của tòa tháp và bật cười khi nhìn thấy những hình vẽ nguệch ngoạc trên đó. Một số cái mới vẽ, một số cái có lâu rồi. Anh nhìn thấy nét chữ của chính mình trên một cái cột bằng viết lông dầu màu đỏ hiệu Sharpie: TÔI YÊU RJ.
Malcolm lái xe theo con đường hẹp rải đầy sỏi xuống chân núi ra Đường 11. Anh rẽ lại về hướng nam và bắt gặp ánh đèn trên lầu cao nhà bảo tàng của thị trấn. Anh tự hỏi bà Maria Lewia rốt cuộc đã về hưu chưa. Bà từng là giáo viên dạy môn tiếng Anh của anh thời còn trung học và cũng là người gieo vào lòng anh ước mơ trở thành một tiểu thuyết gia. Bà đã có vài quyển tiểu thuyết được xuất bản; trong số đó có một cuốn tiểu thuyết diễm tình được viết dưới một bút danh khác. Cô giáo Lewia cuối cùng đã nộp đơn thôi dạy tại trường khi nhận ra mình không còn đủ sức để hò hét đám trẻ mười bảy tuổi. Chưa đến một tuần sau bà được toại nguyện. Bethany Brickhouse, một phụ nữ tám mươi hai tuổi rất vừa người và đẹp lão, đã làm giám đốc bảo tàng từ rất lâu và dĩ nhiên bà cũng là người có đóng góp phần lớn cho nó. Một năm nọ, bà Brickhouse bị đột quỵ do không chịu nổi sức nóng và sự ẩm thấp của thời tiết ngay trong lễ tốt nghiệp do
trường Central High tổ chức và bà chẳng bao giờ có thể tỉnh táo lại được như xưa. Được sự khích lệ của thị trưởng, các thành viên trong hội đồng nhân dân thị trấn, những người hàng xóm và cả chính Malcolm nữa, cô Lewia đã thay bà Brickhouse giữ vị trí giám đốc bảo tàng.
Mặc dù đã quá trễ, Malcolm vẫn muốn ghé vào thăm cô giáo dạy văn của mình, nhưng rồi anh suy nghĩ lại và thấy tốt hơn là không nên. Cô Lewia có thể sẽ hỏi thăm anh đã viết xong quyển tiểu thuyết nào chưa. Mà anh thì vẫn chưa hoàn thành. Thêm vào đó, điều cuối cùng mà cô quan tâm, như bất cứ bậc trưởng lão nào trong thị trấn, cũng sẽ là chuyện về tai nạn xảy ra cho cặp song sinh nhà Rovnyak.
Anh nhấn ga chạy thẳng và dừng lại phía trước quán bar Woody. Quán hơi vắng đối với một bữa tối thứ Sáu. Mùa bóng đá của trường đã qua lâu rồi; chả có trận cầu nào để xem.
Malcolm đã không loanh quanh quán bar này kể từ lần cuối cùng gặp Rain. Nhìn ra vỉa hè, anh nhớ đến buổi tối hôm đó, trong ký ức của anh là hình ảnh chiếc răng dính đầy máu lăn xuống nắp cống làm anh cảm thấy cái dạ dày yếu đuối của mình muốn lộn vòng.
Anh nhớ lại cảnh chạy đến nhà Rain vào sáng sớm hôm sau cuộc ẩu đả. Anh đứng ngay cửa nhà cô và bảo với cô rằng người đàn ông mà anh đã dần cho một trận tơi bời tối đó là con của một nhà lập pháp nổi tiếng của bang Virginia, và Malcolm tin chắc anh sẽ bị xét xử một cách không công bằng vì cuộc ẩu đả đó. Theo Malcolm, cú đánh đó là vết nhơ cuối cùng trong hồ sơ cá nhân vốn đã nhiều vết tích của anh. Anh nói Nathan đã khoe khoang với anh về việc đính ước giữa hắn và cô là chính thức. Có thật vậy không? Anh tha thiết muốn biết. Anh nói với Rain rằng cô cần thêm thời gian và nên giữ khoảng cách giữa cô với người đàn ông mà Malcolm biết chắc là không đáng tin. Anh nài nỉ cô cùng anh rời khỏi Woodstock.
Rain òa khóc, xòe ngón tay trống trơn của mình và trách Malcolm một lần nữa để cho cố tật ghen tuông chi phối.
Malcolm khẩn cầu.
Rain khóc.
Hai mươi bốn tiếng sau, cô vẫn còn ở Woodstock còn Malcolm đã ở phía bên kia bán cầu.
Malcolm lắc đầu xua đi những ký ức và nhấn ga, tăng tốc vượt qua quán bar Woody, băng qua những ngọn đèn cuối cùng trước khi rời thị trấn, hướng thẳng về vùng bóng tối nuốt chửng con đường số 11. Không còn nơi nào khác để đi. Anh chỉ còn cách người anh trai, cô em gái và cuộc hội ngộ với quá khứ hai dặm nữa.
Một lần nữa, mùi nước hoa của Rain lại phảng phất qua anh.
CHƯƠNG 8
M
alcolm rẽ trái vào con đường quen
thuộc dẫn tới Domus Jefferson
trên đỉnh ngọn đồi lớn. Chiếc xe dừng lại, hai ánh đèn pha phá tan sự tĩnh lặng vốn dĩ của quán trọ. Việc có bao nhiêu khách trọ hay họ có làm ồn ào gì chăng nữa, căn nhà lúc nào cũng trông giống hình vẽ trong quyển truyện tranh màu nước. Ngay cả khi mọi thứ hỗn loạn bởi ánh đèn xe cứu thương và xe cảnh sát, cùng bao nhiêu là người khóc than hôm Jack và Laurel qua đời, cũng chẳng thể phá vỡ sự tĩnh lặng muôn đời nơi ngọn đồi này. Jack gọi sự thanh bình của quán trọ là Tinh thần Jefferson. Malcolm thì gọi đó là ma quái.
Malcolm đếm được bốn chiếc xe: một chiếc Chevy El Camino đời 1979, một chiếc xe cảnh sát Woodstock, chiếc Volvo của mẹ và chiếc xe tải nhỏ không mui Chevy màu xanh lá cây của bố.
Malcolm tắt đèn xe và ngồi lặng thinh. Trên hành lang tối đen, anh nhớ lại hình ảnh mẹ mình đang ôm ấp một cậu nhóc gầy nhom trong bộ vét lễ phục màu xanh lơ. Bên cạnh cậu chàng là cô bạn mười bảy tuổi ngây thơ cùng đi dự buổi khiêu vũ của trường. Anh lách người ra khỏi vòng tay mẹ, cầm tay cô bạn nhảy dắt đi vờ như không trông thấy đôi tay đang dang rộng của bố. - Cẩn thận nha con, - anh nghe tiếng mẹ gọi với theo đằng sau khi dìu cô bạn gái của mình vào trong chiếc Limousine sang trọng màu trắng. Malcolm không nhớ nổi là anh có trả lời mẹ hay không. Anh chỉ có thể nhớ mùi nước hoa nơi cổ của Rain Jesperson khi cùng cô say sưa theo những điệu nhạc dưới cái đèn chùm lộng lẫy của khách sạn Marriott gần Harrisonburg.
Anh mở cửa chiếc xe thuê và bước ra ngoài, hòa vào buổi tối thanh bình của Woodstock. Anh mở cốp xe, lấy cái túi vải len và tiến vào quán trọ, chỉ có tiếng dép của anh lạo xạo nghiến lên lớp sỏi rải trên con đường dẫn vào nhà. Anh bước lên sáu bậc thang dẫn vào cái hành lang rộng lớn nổi tiếng,
hình ảnh quen thuộc đặc trưng của Domus Jefferson vẫn thường được in trong các tờ rơi quảng cáo.
- Chào, Malcolm. - Một giọng nói vang lên từ trong bóng đêm. Malcolm giật mình.
– Ai đó? - Anh bỏ giỏ xách xuống và xoay qua nhìn hai người đàn ông – mục sư – đang ngồi trên hai trong sáu chiếc ghế đá ở hành lang, gương mặt họ chìm trong bóng tối.
- Xin lỗi, ta tưởng con nhìn thấy bọn ta. - Một trong hai người đàn ông đứng lên nói.
- Ôi trời, sao cha nghĩ vậy? Sợ chết m...
- Malcolm! - Mục sư nạt, giọng phật ý hết sức.
- Con xin lỗi, cha B.
- Rất mừng được gặp lại con. Và con còn nhớ mục sư Doug White chứ. - Tất nhiên. Chào cha.
Mục sư Doug đứng dậy và bắt tay Malcolm.
Mục sư Doug và mục sư Braithwaite cao ngang nhau và cũng xấp xỉ tuổi nhau. Tóc của mục sư Braithwaite vẫn được chải láng coóng và không có vẻ gì là mọc dày hơn hay thưa bớt đi so với cái ngày Malcolm gặp ông lần đầu tiên khi đi dự lễ hồi còn nhỏ xíu, và anh vẫn thường làm trái lại với những lời răn của ông. Phần tóc trên mang tai của mục sư vẫn được cắt tỉa hoàn hảo còn phần mái ôm sát vầng trán bóng lưỡng. Ông mặc thường phục với chiếc áo sơ mi trắng, cà vạt xanh dương và cái áo khoác thể thao màu xanh đồng bộ.
Trái lại, mục sư Doug lúc nào cũng xuề xòa và tối nay cũng không khác gì mấy. Những sợi tóc thưa thớt mọc từ trên đỉnh đầu và mớ tóc mai dài, lởm chởm. Ông mặc áo gió đen bên ngoài cái sơ mi trắng, cái cà vạt đen bằng len nới lỏng gút trên cổ. Cái quần tây bằng vải polyester có vẻ như quá chật chội, thêm đôi vớ màu nâu nhạt lộ ra khỏi đôi giày quần vợt cột dây màu đen.
Khi Malcolm bắt tay mục sư Doug, các ngón tay của anh chạm phải vết
sẹo nơi cổ tay ông. Malcolm thắc mắc lâu rồi, nhưng chưa dám hỏi. Hai mục sư lúc nào cũng như hình với bóng, ít nhất là trong mắt Malcolm, cả chục năm nay. Mục sư Doug phục vụ tại một nhà thờ nhỏ ở Đường 7, Winchester và ngày ngày ông vẫn thường đi qua thung lũng Valley, bên cạnh ông là mục sư Braithwaite, một con người đầy ý thức trách nhiệm.
- A;P đã báo tin cho cha. - Mục sư Braithwaite nói. - Chúng tôi rất tiếc, Malcolm. Chúng tôi đến đây để giúp đỡ gia đình.
Malcolm gật đầu đáp lại và chợt bắt gặp cô em gái của mình đang chạ̣y ra mở cửa.
- Con đoán, con nghĩ, con thấy hình như có ai đó đang rất nóng lòng được gặp con. - Anh đáp và cố tình nói lớn tiếng. - Mà con mong đó là một trong mấy con heo đang tung tăng ngoài phố.
- Malcolm! - Giọng nói cất lên từ bên trong cửa kính. - Đừng nói về em gái mình cái kiểu đó chứ! – Samantha tông cửa chạy về phía anh trai, cầm theo cái ná thun và nã mấy phát vào giữa ngực anh, mạnh đến nỗi làm anh bật ngửa suýt ngã xuống cầu thang.
- Thôôôi mà, em gái! - Anh nói. - Anh biết là em đang nấp đâu đó quanh đây mà. - Anh gồng mình để giữ thăng bằng cho cả hai khỏi phải ngã. - Đâu có giống hai anh em mình không gặp nhau suốt hai năm nhỉ!
Samantha buông anh mình ra và đấm vào ngực anh một cái. – Bộ không đúng vậy sao anh Móc Câu?
- Lâu vậy sao? Thật không? Tưởng đâu mới ngày hôm qua anh còn được nghe em gọi anh kiểu đó.
- Anh sẽ được nghe nhiều nữa cho đến hết ngày hôm nay. - Vậy ha! Nhân tiện, cháu gái của anh đâu?
- Ở nhà Godfrey. – Em gửi con bé ở đó từ khi em cho nó hay tin. Em không muốn Angela ở nhà một mình.
- Nói với Angie là ông cậu yêu dấu của nó đã về. Con bé sẽ vui lên ngay.
- Con bé biết, ông cậu ấy đã dẫn nó đi ăn kem từ hồi chiều rồi. - Samantha cười lớn ngay cả khi chưa kịp nói dứt câu mỉa mai của mình. - Tốt, chúng ta nên để bọn con lại với nhau. - Mục sư Braithwaite ngắt lời, ông cúi xuống cầm lấy cái cặp da màu nâu. - Chúng tôi về trước đây. Mục sư Doug sẽ ở lại với gia đình cha vài ngày.
- Cha thật là tốt. - Samantha đáp.
Mục sư Braithwaite bước xuống cầu thang, mục sư Doug theo sau, ngang qua Malcolm, ông dừng lại một chút. - Rất vui được gặp lại, con trai. Ta rất buồn về việc của bố và mẹ con. - Ông đặt tay lên vai Malcolm và nhìn vào mắt anh.
- Cảm ơn, cha.
- Nếu các con cần xưng tội, bất kỳ đứa nào trong hai con, hãy gọi cha Braithwaite.
- Tốt quá. Cảm ơn hai cha. - Samantha nói lớn để cha Braithwaite có thể nghe được.
Mục sư Doug bước những bước dài, chậm rãi và thận trọng xuống cầu thang. Ông dừng lại ở bậc thang cuối cùng và vẫy cánh tay dài, gầy còm một cách vụng về trước khi chui vào xe của mục sư Braithwaite. Vài giây sau, chiếc xe từ từ lăn bánh xuống đồi và mất hút vào màn đêm.
- Những chú vịt ngộ nghĩnh hử? - Malcolm nói, quay lại nhìn Samantha. - Thôi mà, nào, ôm em tiếp đi. - Samantha kéo anh lại gần, ôm anh thật chặt và cảm nhận được mùi nước sông phảng phất trong bộ râu ngổ ngáo của anh. - Không biết cái nào đáng sợ hơn, Mal, việc bố mẹ đã qua đời hay cái mùi kinh tởm phát ra từ anh. Lần cuối cùng anh tắm là khi nào vậy? - Vài ngày trước, hơn cả tắm nữa, trong vũng bùn không có nhiều nước lắm.
- Ở Brazil hở?
- Ừ, Brazil.
- Mặc kệ, em không quan tâm cái mùi của anh, em mừng vì anh đã trở về. - Cô siết chặt vòng tay. - Em nhớ anh lắm, Mal.
- Anh là người đáng nhớ lắm, Sammie à.
Cô ngẩng đầu lên khỏi vai anh. - Em nghiêm túc đó. Anh chắc không chuẩn bị tinh thần cho điều này. Em đã biết trước không sớm thì muộn bố cũng ra đi. Nhưng còn mẹ? - Cô vùi đầu mình vào ngực anh và bắt đầu khóc.
- Thôi mà, mình đi vào trong nào. - Anh cầm cái túi và theo cô em gái vào nhà. Anh dừng ở sảnh chính vài giây nhìn quanh căn nhà yên tĩnh. - Matt có ở đây không?
- Anh ấy đi thăm Rosie và Rick Schwartz ở núi Jackson, nhưng anh ấy sẽ quay về. Anh ấy cũng ở đây. - Sam sụt sịt.
- Nhà Schwartz vẫn còn sống à? - Malcolm hỏi.
- Thôi mà Mal, anh đi chưa lâu lắm đâu. Rick vẫn còn làm ở phòng khám và Rosie vẫn là thị trưởng, cả chục năm nay rồi.
- Anh đoán là mọi thứ quanh đây không hề thay đổi, đúng không? - Một câu hỏi không cần trả lời.
- Không có gì thay đổi cả. - Nhưng Samantha vẫn trả lời. - Woodstock luôn là Woodstock và nhà Cooper vẫn luôn là nhà Cooper. Chẳng phải bố vẫn thường nói thế là gì.
Malcolm quẳng cái túi của mình dưới chân cầu thang và đi dọc hành lang vào bếp. Anh dừng lại một chút để chỉnh lại cái khung hình hơi bị méo, trong đó lộng một đồng xu cổ.
- Quán trọ nghe mùi hơi khác.
- Đó là vì không có ai nấu nướng. - Samantha ngồi xuống bên cái bàn ăn dài. Malcolm ngồi đối diện. Tranh của các anh hùng thời chiến và những vị tổng thống treo dọc theo vách tường có màu sơn hột gà. Những món đồ sành sứ đắt tiền trưng đằng sau cánh cửa kiếng của cái kệ cổ hàng thủ công mà Jack đã mua trong một cuộc bán đấu giá tại Waynesboro vào năm ông chuyển về Woodstock. Một bản vẽ kiến trúc phác họa lại ngôi biệt thự Monticello treo trên bức tường đối diện, giữa hai bức tranh của Jefferson và Washington. Sau lưng Malcolm là bức tranh Washington đang
cầu nguyện giữa trời đầy tuyết tại thung lũng Forge. Đó là tác phẩm nghệ thuật yêu thích nhất của Jack.
- Anh còn nhớ mùi thơm của những món điểm tâm mẹ nấu không? - Samantha chống hai tay trên bàn. - Món bánh mì nướng của mẹ̣ đó! Bà đã ngâm mấy lát bánh mì nướng kiểu Texas vào bột làm bánh cả đêm. Và jambon Virginia nữa. Bữa sáng ngon đến nỗi khi ăn tối cũng còn thèm.
- Mẹ nấu được đấy chứ, nhỉ? - Malcolm gác hai tay ra sau đầu, các ngón tay đan vào nhau, và nhìn đăm đăm lên trần nhà.
- Đó là điều tuyệt vời nhất của mẹ. - Samantha đáp. - Giá như thời gian gần đây em ăn cơm nhà nhiều hơn.
Cả hai ngồi lặng thinh, ngắm nhìn những bức hình chụp cả gia đình và mấy tác phẩm mỹ thuật cổ treo dọc các vách tường. Và rồi Samantha gác đầu lên hai cánh tay đang khoanh trên bàn. Cô nhìn anh trai và thầm ngưỡng mộ dáng vẻ vạm vỡ khỏe mạnh của Malcolm. Mặc dầu mệt lả vì đường xa và với bộ râu dài lởm chởm, trông anh vẫn rất đẹp trai.
- Đám tang diễn ra khi nào? - Malcolm hỏi.
- Tối Chủ nhật tại nhà thờ. Lễ viếng vào thứ Bảy.
- Tang lễ vào Chủ nhật?
- Bố muốn thế. Ông đã xin nhà thờ thực hiện điều đó theo lời hứa. Em nghĩ thậm chí bố còn ghi giấy trắng mực đen khi ông thanh toán trước chi phí nữa.
- Ông đã thanh toán trước? Thế thì quá ... là...
- Quá là bố?
- Ừm.
- Và lễ viếng cũng ở nhà thờ luôn?
- Không, tại nhà tang lễ Guthrie ở Edinburg.
- Ariek Guthrie vẫn còn sống hả?
- Malcolm à.
- Xin lỗi nhỏ, cái tật hay đùa khó bỏ.
Samantha cười khúc khích và rồi cả hai lại ngồi lặng thinh.
- Cô ấy hiện đang ở nhà Guthrie, nếu anh định hỏi... - Sau vài phút im lặng Samantha nói.
- Ở đâu?
- Nhà Guthrie.
- Ai?
- Nancy Reagan, chứ anh nghĩ ai?
- Tốt. Nàng Nanster đó làm gì ở đây?
- Anh ngớ ngẩn vừa thôi. Anh biết ai mà.
Malcolm lại ngả người ra sau ghế nhìn lên trần nhà.
- Rain.
- Cô ấy hỏi thăm anh, anh biết mà.
- Cô ấy cũng còn sống luôn à?
- Thôi đi, Malcolm.
- Thôi cái gì? Anh chẳng hiểu em nói gì, Sam.
- Anh không muốn biết cô ấy giờ này ra sao ư?
- Có lẽ không.
- Nói dối.
- Được, cô ấy sao rồi?
- Thật đáng thương.
- Thế à.
Samantha nháy mắt.
- Và vẫn còn độc thân. - Malcolm ngồi ngay ngắn lại.
- Đám cưới đã bị hoãn ba lần. Nhưng lần đầu là một lý do chính đáng. Dì ruột của Rain ở tận Gaithersburg phải phẫu thuật và cần một người bên cạnh để chăm sóc trong vài tháng, do đó Rain đã lên ở với bà dì. Nathan nói điều đó là không thành vấn đề với hắn, tuy nhiên em biết là hắn rất điên tiết.
- Coi bộ em khoái chuyện đó lắm. - Malcolm cười.
Samantha nhoẻn miệng cười, nhưng không nói gì.
- Anh thật không tin được. Anh tưởng họ cưới nhau rồi.
- Thế đấy, thật khó mà liên lạc được với anh. Em đã cố gọi vào cái điện thoại ngu ngốc mà mẹ mua cho anh ít nhất là năm mươi lần. - Tại anh ít khi mở máy. May là hôm thứ Năm em gọi được cho anh. - Vậy anh đã ở đâu?
- Bơi thuyền trên sông Amazon, phía bắc Manaus, chụp hình và viết. - Viết?
- Cuốn truyện của anh đó, nhớ không?
- Anh viết từ hai năm trước cơ mà, Mal. Em tưởng anh hoàn tất rồi. - Anh cũng tưởng mình làm được. Anh là một ca “thiếu ý tưởng” trầm trọng.
- Chứ không phải đầu anh toàn sâu bọ trong ấy à? - Samantha cười. - Cả hai. - Malcolm đáp.
Samantha giả vờ đập đầu mình xuống bàn. Cả hai phá lên cười như thời còn đôi mươi.
- Vậy bao giờ thì chúng ta có thể bàn về chuyện đó? - Samantha hỏi, sau một tràng cười hả hê.
- Lại nữa rồi đây.
- Không thể lẩn tránh mãi được.
- Thiệt tình. Anh ngạc nhiên sao mà em nhớ dai thế.
- Đâu có đơn giản vậy, Malcolm.
- Không đùa nữa. Anh đã nghĩ rằng Nathan hay đám đồng bọn của hắn đang đón lỏng anh.
- Hắn và anh Matt đang tìm cách. Anh có vài ngày thoải mái, nhưng sau khi đám tang bố mẹ hoàn tất, chúng ta sẽ phải đối mặt với nó. - Matt thỏa thuận với Nathan để hắn tránh mặt anh? Đâu có dễ vậy. - Đúng là không dễ vậy nhưng mọi thứ đã sắp đặt hết rồi. Anh Matt đang cố gắng vì anh đấy.
- Không đời nào! Em định sẽ giữ chặt lấy tay anh suốt ba ngày? - Không hẳn, nhưng em cần chìa khóa của anh.
- Cái gì cơ?
- Chìa khóa xe của anh, Mal.
- Chắc em nói chơi hả!
- Em không đùa. Không được lái xe. Bằng lái của anh đã bị treo. - Sao?
- Đó là quy định chung mà. Họ thu hồi bằng lái khi một người có vi phạm như anh muốn tìm cách rời khỏi thị trấn sau khi được bảo lãnh, anh nghĩ mà coi.
- Thôi mà nhỏ, anh sẽ ngoan ngoãn mà.
- Xin lỗi Mal, đây là nhiệm vụ của em – nhiệm vụ – là bất khả kháng. Malcolm móc chùm chìa khóa ra khỏi túi quần soóc rộng lùng phùng và đẩy nó trượt qua bên kia bàn.
- Xin lỗi. - Samantha chộp lấy chùm chìa khóa.
- Anh biết. Và xin lỗi phải để em làm bảo mẫu cho anh.
- Không phải xin lỗi. Ít nhất là về vụ đó. - Samantha chồm người qua bên kia bàn cầm lấy tay Malcolm. - Anh đã hành động đúng đắn. - Anh á?
- Đúng. Anh không cần trở về.
- Bố và mẹ đã mất. Sao mà anh không về được?
- Dù anh không về, em vẫn tự hào về anh. Bố và mẹ cũng thế. - Để rồi xem em còn cảm thấy như thế vào tối Chủ nhật không nhé. - Đừng gây rắc rối nữa Mal. Làm ơn?
- Thề có Chúa. - Malcolm làm dấu trên ngực thề thốt.
- Em yêu anh, ngốc ạ.
CHƯƠNG 9
S
amantha dẫn Malcolm lên lầu và kể
lại cảnh mà A;P thấy khi đẩy cửa
phòng ngủ vào sáng thứ Năm hôm đó, phát hiện Jack và Laurel nằm chết trong vòng tay của nhau. Samantha giải thích mẹ đã đau khổ thế nào khi Malcolm không hay biết gì về việc bố đang đối mặt với cái chết bởi căn bệnh ung thư.
- Điều đó giày vò mẹ, Mal.
- Anh rất tiếc, nhưng bố và anh đã không nói chuyện với nhau cả hai ba năm trời trước cả khi anh rời khỏi thị trấn này. Nếu biết tin chưa chắc anh đã chạy về được.
- Đó là bố của tụi mình, Mal, bố của anh. Máu mủ của anh. - Cô nhấn mạnh từng từ để anh có thể cảm nhận được từng lời lẽ của mình. - Anh phải về.
- Chắc là vậy. - Anh gật đầu, dù trong bụng vẫn còn nghi ngờ. Samantha kể anh nghe những phán đoán của giám định viên về cái chết của bố mẹ hai hôm trước. Cô nhắc lại cho Malcolm nhớ là gia đình có tiền sử bệnh nhồi máu cơ tim, và mặc dù Laurel chưa từng có bất kỳ một triệu chứng nào nghiêm trọng trước đây nhưng bây giờ rõ ràng chứng ợ nóng mà bà hay gặp báo hiệu có điều gì đó bất ổn.
- Anh biết mẹ mà, - Samantha vừa nói, vừa ngồi xuống cạnh giường. - Mẹ lúc nào cũng vậy. Anh còn nhớ mùa hè mẹ bị vỡ mắt cá chân ở hồ Caroline, nhưng cứ khăng khăng mình chỉ bị bong gân không? Mẹ cứ đi tới đi lui như vậy cả hai tuần trước khi bố bắt mẹ phải vào...
- Ừ, đúng, lúc đó bố giận lắm. - Malcolm xen vào. - Úi chà, bố giận thật sự. Lúc bác sĩ giơ cái phim chụp X quang lên, “Thấy chưa, Laurel” - Malcolm nhái cái giọng ồ ồ, quả quyết của bố mình. - “Nứt xương, bà nó ạ! Đó là – nứt – xương! Anh đã nói với em là em bị nứt xương mà.”
- Đàng hoàng chút đi. - Samantha nói, tuy nhiên, không nhịn được cười
trước giọng điệu của anh mình. - Mẹ có thể chịu đựng được mọi thứ. - Trừ chứng đau tim. - Malcolm nói.
- Trừ chứng đau tim.
Họ đi từ phòng này sang phòng khác. Malcolm nhận ra có vài bức tranh mới và một cái giường có mái che trong một phòng trọ trên lầu. - Một trò cải lương trong tuần trăng mật của khách. Đừng hỏi gì nhé. - Samantha toe toét.
Họ dừng lại trong thư viện nhỏ và Samantha bắt đầu kể lại chuyện riêng của cô suốt hai năm qua. Cô đã được lên lương khi hạt cố lôi kéo cô rời sở cảnh sát thị trấn để về làm việc cho họ. Một công việc lương cao hơn, Samantha thừa nhận, nhưng công tác trên toàn hạt đồng nghĩa với việc cô có ít thời gian hơn dành cho con gái và càng ở xa quán trọ này. Cô sẽ không thể ở bên cha mẹ khi họ cần.
Malcolm hỏi thăm về Will Armistead, mối tình thời trung học và là chồng cũ của Samantha sau sáu năm chung sống. Cô kể hiện anh ta đã chuyển nhà từ Arlington về gần Atlanta để làm việc cho một công ty truyền thông.
- Em có nhớ hắn chút nào không? - Malcolm hỏi.
- Anh biết cái cảm giác ngứa ngáy khi bị nhựa độc của cây thường xuân dính vào hai ngón tay chứ gì? Anh gãi và gãi, nhưng càng gãi thì càng thấy ngứa. Rồi khi anh không thèm gãi nữa thì nó sẽ dịu dần đi sau một đến hai tuần. Đến tuần thứ ba, khi anh sực nhớ đến vết ngứa thì nhận ra nó đã bớt nhiều rồi, anh hiểu không?
- Anh vẫn chưa hiểu.
- Ôi, thôi đi, anh cũng đã từng vậy mà. Mới đó đã sáu năm, nhưng cảm giác cũng như sau ba tuần. Dù sao thì vết thương cũng lành rồi. - Vậy là em thực sự nhớ anh ta?
- Em biết bé Ang nhớ anh ấy. - Samantha tiếp tục. - Nhưng bé biết Atlanta không phải là quá xa. Chắc em sẽ đưa bé bay qua đó thăm bố nó trong năm nay. - Samantha nhún vai. - Em đã dần nguôi ngoai cảm giác đau
khổ. Nếu anh ấy có về thăm, em sẽ mời anh ấy một chầu ở quán Woody. - Thế còn sự nghiệp diễn xuất của em? Em đã quay lạ̣i chưa? - Chưa.
- Tại vì...?
- Một ngày nào đó, Mal.
- Khi nào?
- Một ngày nào đó. Em không biết. - Cô ngả đầu sang tay phải. - Trước đó là ở cùng bố mẹ để chăm sóc họ... còn giờ thì là những chuyện này... Không có thời gian để nghĩ tới. - Cô kéo dài giọng. - Và Will đã vùi chôn những giấc mơ.
- Nhưng không làm mất đi tài năng.
- Ai mà biết được?
- Thực hiện đi, em gái, anh thấy đến lúc rồi đó. Chắc chắn mọi thứ vẫn đang tiếp diễn tại Harrisonburg. Bao giờ cũng có tiết mục biểu diễn nào đó ở JMU.
- Có thể.
Malcolm đá lông nheo với em gái.
- Cảm ơn anh. - Cô nói.
Lúc họ đang trò chuyện, có tiếng mở cửa dưới nhà. - Ai đó? - Samantha lên tiếng.
- Là anh. - Matthew đáp.
- Tụi em ở trên này. - Samantha trả lời. - Cư xử lịch thiệp nhé. - Cô bỏ nhỏ với Malcolm.
Vài giây sau, Matthew xuất hiện. Mặc dầu chiếc cà vạt đỏ nơi cổ áo đã nới lỏng, anh vẫn chỉnh tề trong chiếc áo khoác thể thao vốn đã mặc suốt ngày.
- Malcolm, em về rồi à. - Vừa nói, anh vừa đưa tay phải ra. Thay vì bắt tay, Malcolm đứng lên, đỡ lấy bàn tay anh trai một cách nhẹ nhàng, và liếm vội hai môi, hôn lên đó một cái.
- Em làm sao thế? - Matthew lắc đầu và quẹt tay mình lên áo cậu em.
- Sammie dặn em là phải cư xử lịch thiệp.
Cô trợn mắt.
- Ừm, gặp lại em là tốt rồi. - Matthew nói. - Mặc dầu trông chú mày cứ như một đống giẻ rách.
- Nhờ anh đó. Thật ra thì em đã mặc bộ đồng phục nữ hướng đạo sinh cũ của anh trên máy bay nhưng đã thay ra trước khi về tới đây... - Thôi, đủ lắm rồi, các ông anh của em. Chúng ta nghiêm túc được chưa?
- Em gái nói đúng. - Matthew đáp.
- Vâng, đúng. - Nói rồi Malcolm nghiêm chỉnh đưa tay mình ra. Nhưng khi Matthew bắt lấy thì Malcolm liền nhanh nhẩu chộp tay anh mình và đưa lên môi, hôn thêm một cái nữa.
- Lớn hết rồi nhé. - Matthew quát um, chùi tay mình vào ngực cậu em, nhưng lần này mạnh tay hơn.
- Được lắm rồi, xuống nhà nào, các ông. - Samantha lên giọng, như bao lần trước, lùa hai người đàn ông ra khỏi cửa và xuống cầu thang. - Và đừng quên một điều, - cô nói với theo, - em có vũ trang đấy.
Ba anh em tập trung trong phòng khách rộng lớn. Malcolm ngả người lên một trong hai cái ghế xô pha dài bọc da, Matthew cuối cùng cũng chịu cởi áo khoác và an vị trên chiếc xô pha đơn, còn Samantha thì ngồi trên bệ đá lò sưởi. Ngọn lửa đốt lò ban chiều đang tàn dần, chỉ còn lại những tia lửa tí tách nhảy nhót trên hai khúc củi chưa cháy hết.
- Chú Joe có tới không? - Malcolm hỏi.
- Chẳng biết ông ấy đã nhận được tin báo chưa.
- Mọi người biết không, chú ấy đã từng gửi cho em một lá thư lúc em còn ở Sete Lagoas, cách nay khoảng một năm, bảo rằng chú đã cai rượu, chuyển tới St. Louis để làm việc và gặp gỡ phụ nữ.
- Đúng thế. - Samantha đáp. - Chú ấy khá hơn rồi. Bố nói Joe đã cai rượu được ba năm, có lẽ hơn.
- Chuyện đó bố nói nhé. - Matthew mỉa mai.
- Nhân viên giám sát mới của chú ấy đã nói thế. - Samantha quả quyết. Matthew gật đầu miễn cưỡng để xin lỗi. - Cũng mong là ổng được vậy. Gặp được ổng thì hay quá. Có thể ổng sẽ cho em biết đôi chút về cảnh sống trong tù. - Malcolm nhăn răng cười.
- Cứ chuyển vào đó ở là biết ngay chứ gì... - Samantha châm chọc. - À này anh Matt, Sammie nói là em sẽ bị cấm túc ở đây vài ngày. - Malcolm nói, phớt lờ Samantha, hai tay ôm lấy cái gối dựa trên ghế xô pha.
- Chú mày nên như thế. - Matthew trả lời.
- Và sau đó thì sao? Chuyện gì sẽ xảy ra vào sáng thứ Hai? - Chúng ta sẽ ngồi xuống với Nathan và một vài gã nữa của hạt, họ sẽ bắt giữ chú trong êm thấm.
- Và sau đó?
- Sau đó thì tùy thuộc vào thẩm phán Houston.
- Thôi nào, Matthew, anh biết họ đang nghĩ gì không?
- Họ đang nghĩ em đã bị kết án tù treo cho gì nào... ba vụ ẩu đả trong một năm? Và phá nát chiếc xe mô-tô của người ta.
- Đó là ý của anh à?
- Chú mày đã hành hung gã đó ở quán Woody và chạy trốn, xa thiệt là xa. Chú mày suýt giết chết hắn.
- Suýt thôi. - Malcolm nói.
- Sao cũng được, chú đã suýt giết chết hắn. Và hạ đo ván Nathan Crescimanno.
- Những hai lần. - Malcolm nói và cười sảng khoái.
- Chính xác.
- Đáng đời hắn!
- Ồ̀, phải rồi. Nhưng đừng quên rằng chú đã trốn đi sau khi nộp tiền bảo lãnh. À, khoan, không phải, chú mày đã thoát ra sau khi bố nộp tiền bảo lãnh. Bố đã nộp tiền bảo lãnh để cứu chú ra khỏi tù vì mấy cái trò... ngu xuẩn đó. - Matthew cong môi và lắc đầu.
- Chỉ hai từ thôi, Matthew: Tự vệ.
- Tự vệ hả? Thôi đi. Nếu chú mày tin điều đó, sao còn chạy? Sao phải trốn?
Bởi vì Brazil có nhiều phong cảnh hơn trong tù, Malcolm nghĩ. Và nhiều thứ khác nữa trừ Rain. Malcolm cười mỉa mai và quay mặt đi chỗ khác.
- Tự vệ. - Matthew giễu cợt, hai tay đưa lên làm bộ hai dấu ngoặc kép. - Chú mày sợ gã đó cắn trúng mắt cá của mình khi đá vào be sườn người ta liên tục trong hai phút? Rồi đánh bể mũi Nathan vì cái gì? Vì đã cướp bạn gái của chú mày hả?
- Các anh, thôi đi. - Samantha nói.
Malcolm chẳng đoái hoài gì đến em gái mình. - Nếu thằng đó có súng thì sao.
- Hắn không có...
- Điều gì sẽ xảy ra nếu đó là Monica, hả Matt? Chắc anh bắt tay hắn và bỏ đi coi như không có chuyện gì xảy ra?
- Monica là vợ của anh, ngốc ạ. Hoàn toàn khác! - Matthew không thể nhớ nổi lần cuối cùng anh lớn tiếng và phải đấu tranh để kiềm chế cơn giận là khi nào nhưng anh ghét cái kiểu Malcolm cố tình chọc tức mình.
Samantha ngồi bên kia góc phòng với gương mặt úp vào hai lòng bàn tay. Trong khi cuộc cãi cọ đang dần lắng xuống chung quanh cô, Samantha ước gì bố mẹ có mặt ở đây lần cuối để giảng hòa cho hai anh. Phải mà những ngày cuối tuần qua nhanh như một cái chớp mắt. Cô cầu xin cho mình có thêm sức mạnh. Cô trách sao Rain lại có mặt ở quán bar vào tối hôm ấy và tiếc rằng Malcolm lại thừa hưởng tính khí của bố.
***
Những buổi tối thứ Sáu mùa thu tại Woodstock là thời điểm lý tưởng diễn ra những trận bóng đá của trường trung học. Niềm đam mê môn túc cầu ở đây không cuồng nhiệt như thành phố Texas, nhưng cũng lớn lao và rất có phong cách. Thắng hay bại thì cái chính vẫn là: thị trấn yêu quý đội
bóng Falcons của họ. Chỉ có thể đếm trên đầu ngón tay một số ít người không quan tâm đến trường học hay đội bóng.
Trận đấu tối thứ Sáu hôm đó kết thúc với chiến thắng thuộc về đội Falcons: đội khách Strasburg Rams đã bỏ lỡ cơ hội làm bàn trong bốn giây cuối cùng. Đội bóng Falcons và rất nhiều bạn học của họ ăn mừng chiến thắng bằng bữa tiệc pizza tại căng tin của trường. Nhóm các ông bố thì ăn mừng bằng những ly bia 1 đô-la tại quán Woody trên đường Main.
Malcolm lúc đó đang ở thị trấn thăm bố mẹ nhân dịp cuối tuần. Mặc dù anh có một căn hộ ở Front Royal cách đó gần năm mươi cây số, nơi anh làm bán thời gian cho Công ty Dịch vụ Công viên Virginia, nhưng Malcolm vẫn dành phần lớn thời gian về ăn ở Domus Jefferson như trong bếp nhà mình. Anh yêu những món ăn mẹ nấu, nhưng cái chính là anh yêu phong cảnh ở đây. Rain đang làm quản lý tại quán trọ đã nhiều năm. Mặc dù Rain đã làm tan vỡ trái tim anh không lâu sau khi anh bỏ học ở trường Đại học James Madison, nhưng tình bạn giữa họ vẫn tồn tại một cách kỳ diệu.
Lúc rảnh rỗi, anh thường theo đuổi công việc làm cộng tác viên cho các tạp chí như Rolling Stone, National Geographic, Time; và cả tạp chí lá cải dành cho phụ nữ Redbook. Anh tự phong cho mình là nhà văn, mặc dầu gia tài của anh có mỗi ba bài viết được đăng trên báo.
Malcolm đậu chiếc Volkswagen Rabbit của mình vào giữa chiếc xe tải nhỏ mui trần và một chiếc Honda Accord. Anh cách quán Woody ba dãy nhà, gần khu giáp ranh của nhóm di tích lịch sử với khu thị thành mới xây dựng. Anh bước vào quán, lúc đó là 10 giờ 35 và ngay lập tức anh nhìn thấy Rain đang ngồi tán gẫu với hai cô bạn gái ở đằng xa, trong góc cuối quán bar. Mắt anh rất tốt.
Mặc dù Rain không biết uống rượu – thiệt tình là Malcolm chưa từng bắt gặp cô uống rượu bao giờ – nhưng chẳng cuộc vui nào thiếu cô. Cô luôn nói cô chỉ thích những buổi tiệc lành mạnh cùng những người bạn tốt, nhưng Malcolm biết không phải thế. Cha của cô đã lái xe đâm sầm vào một gốc cây sau khi nốc gần cạn chai vodka, ấy là năm 1975, lúc đó ông vừa
tham dự buổi hội thảo ở Charleston và đang trên đường về nhà. Malcolm bắt gặp ánh mắt của Rain và cười. Anh ngoạc miệng ra gấp mười lần bình thường để chào cô từ tuốt góc bên này quán, to trên mức cần thiết. Cô cũng đáp lại lời chào theo cái cách khác thường của anh. Đoạn, anh khen kiểu tóc mới của cô bằng cách đưa hai ngón tay làm cây kéo ra bộ như muốn cắt phần tóc mái của mình. Anh phụ họa bằng một cái nháy mắt tỏ vẻ ưng ý. Cô cười lớn và ra hiệu cảm ơn: cạ cạ bàn tay dưới cằm của mình, khoe lòng bàn tay mềm mại. Anh chưa kịp đáp lại thì một nhóm khách quen ồn ào kéo tới xen ngang tầm mắt.
Malcolm gia nhập đám đông, bắt tay và ôm mấy cô bạn cũ thời trung học một cách suồng sã và chạm tay ăn mừng với đám đông cổ động bóng đá đang càng lúc càng say men chiến thắng. Anh nghe hàng chục lời tường thuật khác nhau về trận chung kết và đội Falcons đã bảo vệ thành công vị trí của mình. Một người hâm mộ nói chiến thuật tấn công diễn ra trên sân bóng rộng ba mươi hai mét tập trung nhiều ở cánh phải. Người khác phản đối rằng quả bóng đã bị dội vào góc phải xà ngang của khung thành từ bên trái. - Ai mà quan tâm? Sút hụt thì thôi chứ! Cái chính là CHÚNG TA THẮNG! - Một người khác chen vào, bộ ba nâng ly lên cao và hòa vào nhóm người khác.
Malcolm hòa vào đám đông với đủ thứ âm thanh và các loại mùi, anh nảy ra ý định sẽ viết một bài thật ấn tượng cho tạp chí thể thao Sports Illustrated với tựa đề “Những Người Hâm Mộ Lớn Của Đội Bóng Thị Trấn Nhỏ”. Anh thích ý tưởng đó. Anh viết nguệch ngoạc lên cái khăn giấy và nhét vào túi quần.
Gần nửa đêm, Malcolm bắt đầu để tâm đến khoảng cách ngày càng bị rút ngắn giữa Rain và một người đàn ông lạ mặt diện áo khoác thể thao vải tuýt với cái đầu hói mất một khoảnh. – Tweed phải không? Nè, ông bạn! - Malcolm hét lớn đủ để người khác có thể nghe thấy.
Anh nhìn quanh quán bar và tự hỏi Nathan Crescimanno đang nấp ở xó xỉnh nào. Nathan đã làm bạn trai của Rain từ năm ngoái hay cỡ đó. Mặc
dầu Rain và Malcom chưa từng đề cập đến điều này, nhưng nhiều khả năng cô sẽ đính hôn với Nathan. Suy nghĩ đó làm anh điên tiết. Về phần Nathan, cả năm qua tất thảy những ai có đôi tai hoạt động bình thường đều phải nghe hắn ra rả mãi một chuyện: làm đám cưới và sinh con với Rain chỉ là bước đầu tiên. Nathan đã lên hẳn một kế hoạch: Đám cưới, sinh lần lượt một trai một gái, chạy đua vào Hạ viện, có thêm một thằng con trai nữa, phục vụ hai nhiệm kỳ, có thêm một đứa con gái nữa, ứng cử vào ghế Viên Chưởng lý, và bốn năm nữa là lúc thực hiện ước mơ của đời mình: ứng cử vị trí Thống đốc bang Virginia. Hắn thích cái ý nghĩ rằng mình sinh ra để làm điều đó.
Không ai có thể đeo bám lý tưởng đó một cách dai dẳng như Nathan. Nathan là người đàn ông duy nhất Rain hẹn hò ngoài Malcolm. Khi Malcolm và Rain còn quen nhau, anh không muốn cầu hôn cô khi chưa có đủ tiền mua một chiếc nhẫn, một chuyến đi hưởng tuần trăng mật, một căn nhà, hay lo cho những đứa con và cả tiền học phí cho chúng ở trường học danh tiếng Ivy League. Rain mỏi mòn chờ đợi một điều còn anh thì mệt mỏi chờ đợi những điều khác. Mặc dầu đó là lý do chính khiến mối tình của họ tan vỡ, Malcolm cuối cùng cũng hiểu và cảm kích, thậm chí là ngưỡng mộ ý thức giữ gìn sự trong trắng của Rain. Nhưng giờ suy nghĩ ấy đang dằn vặt Malcolm khi biết Nathan sắp là người sở hữu sự tinh khiết ấy.
Nathan là người đàn ông tốt, Malcolm nhắc nhở bản thân, mặc dầu những tham vọng vĩ cuồng của hắn đã làm gia đình Cooper lo lắng cho tương lai của bang Virginia và nhân dân thành phố.
Malcolm lắc đầu để xua đi những suy nghĩ đó – làm gì có chuyện Nathan để Rain đi chơi lâu thế mà không có hắn bên cạnh. - Nè, thằng bạn tù! - Tên bợm rượu Lonnie Smallwood hét lên, vỗ lên lưng anh một cú mạnh đến muốn tắt thở. - Chú em giờ sống ở đâu? Dạo này không gặp chú mày.
- Tôi vẫn ở đây, anh lúc nào cũng say bí tỉ.
- Ấy, đừng nói thế nhé. - Lonnie lè nhè. - Có thứ Hai là ngày anh mày không uống rượu.
- À, hèn gì, tôi mắc làm việc vào thứ Hai.
- Đuúung. - Lonnie nói cà lăm. - Chú em vẫn được phép tới đây hả? Chẳng phải chú em đang bị tù treo hay đại loại thế?
Malcolm không tập trung nghe hắn nói. Mắt anh lia về hướng cái ghế Rain ngồi ở quầy bar, nhưng thay vào đó là một gã mặc áo đen, đội nón cao bồi. Mấy cô bạn gái của Rain vẫn ở quanh đó, nhưng đang xúm xít quanh một gã đứng tuổi mặc bộ đồ thể thao màu cỏ non cổ động cho đội bóng Washington Redskins.
- Cái thằng Tweed. - Malcolm lẩm bẩm. Gã đàn ông mặc áo khoác thể thao và Rain đã biến mất. - Tôi phải đi đây, Lonnie. - Anh vừa nói vừa lao ra cửa.
- Mai mốt gặp lại, thằng bạn tù, hôm nào cùng đi săn nhé! Malcolm bước ra cửa trước và nhìn hai hướng của con đường Main. Anh bước vài bước về hướng bắc và nghe giọng nói của Tweed vang lên từ một con hẻm nhỏ.
- Lại đây nào cô bé, anh nghe nói em trong trắng như tuyết. - Tweed giằng cái áo khoác của Rain ra.
- Buông ra, buông ra! - Cô vừa gào lên vừa đấm hắn túi bụi. Malcolm chạy hết tốc lực lao tới, dùng một bên vai phải húc vào ngực gã Tweed, hất hắn bay khỏi mặt đất như cái hình nộm. Malcolm nhỏm dậy, đè lên người gã và thoi vào quai hàm gã một cú trời giáng, tiếng của cú đấm vang vọng giữa mấy bức tường căn nhà gạch thời kỳ nội chiến. - Đứng dậy .
- Tao chịu thua. - Tweed đáp, phun máu miệng lên đôi giày tennis của Malcolm.
Malcolm quay sang Rain. - Em có sao không? - Trước khi cô kịp trả lời, Malcolm quay phắt lại và đá vào bụng Tweed bằng tất cả sức lực của đôi chân.
Tweed rú lên và lăn người qua bên kia, quay lưng về phía Malcolm. Malcolm lại vật ngửa hắn ra, dí một bàn chân lên chấn thủy của hắn. - Rain! - Một giọng nói vang lên từ góc đường. Là Nathan. - Nate! - Rain chạy tới và hắn ôm chầm lấy cô.
- Chuyện gì vậy? - Hắn hỏi, vuốt tóc và ôm chặt lấy cô.
- Gã này... lén theo em... Hắn tóm... tóm lấy em... ôm em... toan cởi áo em...
- Ổn rồi, em an toàn rồi. Vào trong xe đi, nó ở ngay bên kia đường, em thấy nó không? Cửa đang mở. - Cô chần chừ không muốn đi, bấu chặt lấy tay anh mạnh đến nỗi để lại những vết hằn. - Không sao đâu em, đi đi.
- Có nên... anh có nên gọi cảnh sát không? - Rain thở hổn hển. - Em đi vào xe ngay đi. - Anh nhẹ giọng. - Rain, không sao đâu em. Anh sẽ giải quyết vụ này.
Cô quay đi và chạy.
Malcolm quay lại Tweed và đá hắn một cú thực mạnh ngay be sườn. Anh làm gãy hai cái xương sườn của hắn ngay từ cú đầu tiên. - Ôi thôi! Đủ rồi, Malcolm. - Nathan chụp lấy tay anh.
- Đủ ư? À, hay anh muốn đấm vài cú? Xin mời. - Malcolm bước sang một bên và chỉ vào bụng gã. - Nhường cho anh đấy.
- Không, ý tôi là thế đủ rồi. Hắn đáng tội rồi.
- Vâng, tôi biết tội rồi. - Gã đó quằn quại. - Mà con bé đó chẳng đáng vậy đâu.
Malcolm lầm bầm và đá hắn thêm một cú, mạnh hơn lần trước. Khi gã đó theo bản năng rút người lại, Malcolm bồi thêm bốn cú nảy lửa vào mặt hắn, cuối cùng là một cú móc thô bạo khiến hắn bất tỉnh, phun ra một cái răng vốn đã lung lay bởi những cú đánh trước.
- Malcolm! - Nathan hét toáng. - Đủ rồi! Hắn nói đúng.
- Cái gì? - Malcolm quay sang Nathan.
- Cô ấy không đáng như vậy.
Malcolm trừng mắt nhìn hắn điên tiết.
- Chúng ta đều biết. Bên ngoài trông Rain vậy thôi chứ bên trong thì khác.
- Mày nói cái gì hả? Mày say hả? Mày bị làm sao vậy?
- Tao chẳng làm sao cả. Chỉ là mày có dịp hay không thôi. Và cuối cùng thì Rain đã cho tao nhiều thứ, mày hiểu tao muốn nói gì.
- Cái gì?
- Có cần tao phải viết ra giấy không? Tụi tao đã đính hôn tối qua. Không một giây nghĩ ngợi, Malcolm thoi cho ông Ủy viên Hội đồng nhân dân hạt Shenandoah một cú ngay mũi. Máu đỏ sẫm trào ra từ hai lỗ mũi chảy dài xuống môi hắn. Cái mũi của hắn bắt đầu sưng tấy lên. Nathan Crescimanno cười trong đau đớn.
Malcolm bồi thêm một cái nữa.
- Mày là của tao. - Nathan vừa nói vừa cười. Hắn nhổ máu lên vỉa hè. ***
Không biết từ lúc nào, Samantha rời bệ lò sưởi đến nằm trên tấm thảm da gấu mềm mại ở giữa phòng khách và thiếp đi. Quá nửa đêm, cô tỉnh dậy giữa căn phòng vắng lặng bởi tiếng máy xe rít lên và nghiến lạo xạo trên con đường lát sỏi và băng ra Đường 11. Cô dụi mắt và bước ra hành lang. Matthew đang ngồi trên một chiếc ghế đá.
- Ai mới đánh xe đi vậy anh? - Cô hỏi, giọng ngái ngủ.
- Anh trai em.
- Hả? - Cô nói, và giờ thì tỉnh ngủ thật sự.
- Anh trai em. Hắn đi giải nhiệt.
- Bằng xe của ai?
Matthew không phải trả lời. Samantha há hốc mồm.
Chiếc xe cảnh sát của cô đã biến mất.
CHƯƠNG 10
R
ain ở nhà cả buổi chiều. Cô đã
gọi những cuộc điện thoại đầy
nước mắt cho bạn bè và gia đình nhà Cooper. Cô lên lịch cho những công việc đột xuất mới phát sinh vào cuối tuần.
Trưa thứ Bảy những đứa con nhà Cooper mời bạn bè và những khách hàng thân thiết của quán trọ Domus Jefferson dùng bữa trưa thân mật. A;P đang lên chương trình.
Tối thứ Bảy, lễ viếng Jack và Laurel tại nhà tang lễ Guthrie sẽ diễn ra từ sáu đến tám giờ.
Sáng Chủ nhật, A;P phúng điếu bằng một dàn đồng ca đặc biệt biểu diễn ở nhà thờ Núi Jackson. Đây là một hoạt động thể hiện thiện ý của nhà thờ, đáp lại lời hứa quyên góp từ một nhà từ thiện giấu tên. Khi mọi việc xong xuôi, A;P sẽ gửi một tờ chi phiếu trị giá năm ngàn đô-la cho nhà thờ. Bà đồng thời tài trợ một bữa tiệc trưa Chủ nhật cho khách phương xa về dự tang lễ. Nhà Cooper dự kiến có khoảng một trăm khách, hoặc hơn. Cuối buổi chiều hôm đó, lễ tang sẽ được tổ chức cũng tại nhà thờ này, do cha Braithwaite chủ trì và an táng tại nghĩa trang Massanutten.
Rain thấy chương trình giống một tuần lễ hội đặc sắc hơn là một đám tang.
***
Nathan gọi vài cuộc điện thoại từ văn phòng của mình tại khu phố Luật sư, đây là một dãy gồm nhiều văn phòng nhỏ gần tòa án. Hắn đi tới đi lui. Hắn đọc đi đọc lại hồ sơ của Malcolm và báo cáo của cảnh sát. Hắn gọi cho một người bạn học chung trường luật. Hắn lại đi tới đi lui. Hắn ngắm nhìn tấm ảnh chân dung 30 x 45 của Rain treo trên bức tường đối diện, dưới những bằng cấp và giấy khen của hắn. Hắn gọi tới nhà tang lễ, đánh thức ông Ariek Guthrie, hỏi xem lễ viếng và chôn cất vào Chủ nhật đã được chuẩn bị ổn thỏa chưa.
- Mọi thứ đã đâu vào đấy, thưa ông Crescimanno. Làm ơn đừng gọi nữa nhé, khuya rồi. - Ông thở dài. - Nghe này, tôi rất tiếc. Sao ông không đợi đến trưa Chủ nhật hẵng gọi lại? Thế có phải hay hơn không?
- Hay. - Nathan trả lời, bực dọc, và cúp máy không một lời tạm biệt. Rain mặc một cái quần len dài và cái áo lạnh ngắn tay của đội bóng rổ Washington Bullets mà cô yêu thích. Cô lên danh sách, kiểm tra lại, thêm vài tên, và gạch bỏ một số khác. Cô dùng tay rửa lại mớ chén dĩa đã được rửa qua bằng cái máy rửa chén hiệu Sears mới toanh do Nathan mua tặng và trả luôn chi phí lắp đặt.
Điện thoại reng. Lại là Nathan. - Em ổn. - Cô lại trả lời. - Đừng lo lắng nữa, Nate. Em sẽ gặp anh sáng mai.
Cô lôi cuốn kỷ yếu năm 1974 của trường Central High từ dưới chồng áo len trên kệ tủ quần áo ra. Cô lật từng trang và bỗng thấy ngạc nhiên khi nhận ra rất nhiều bạn bè của mình đã rời khỏi thung lũng. Quyển sách mở đến trang quen thuộc, có nếp quăn ở góc. Malcolm và Rain đang đứng, tay trong tay, bên dưới một con pinata(*) hình chim ưng khổng lồ. Anh mặc bộ lễ phục màu xanh lơ của bố. Cô ngượng nghịu trong chiếc đầm hồng.
(*) Pinata: Được làm bằng giấy cứng, dưới nhiều hình thù khác nhau, bên ngoài dán đủ màu sặc sỡ, bên trong rỗng ruột để có thể bỏ kẹo hoặc đồ chơi vào. Trong các buổi tiệc tùng, sinh nhật người ta treo pinata lên cao, cho trẻ em đập ra để lấy quà.
***
Nathan gọi điện thoại đến ngân hàng qua số điện thoại miễn cước 24/24, kiểm tra tài khoản tiết kiệm và số dư tài khoản chứng khoán. Hắn gọi cho em trai mình ở Sacramento nhưng cuộc gọi bị chuyển sang hộp thư thoại. Hắn không để lại lời nhắn nào. Hắn điều chỉnh lại bảng tên của các tập hồ sơ và xem lại sổ ghi án cho những tuần kế tiếp. Hắn lại ngắm nghía chân dung của Rain ở trên tường. Hắn quỳ xuống bên chiếc ghế làm việc bọc da màu đỏ boóc đô giá 400 đô-la và cầu nguyện, lần đầu tiên trong hơn chục năm qua. Hắn cầu nguyện cho giấc mơ của mình không bị tan biến. Hắn
cầu Chúa hãy sớm làm cho người cha ghẻ lạnh của hắn phải tự hào về hắn. Hắn van xin cho người phụ nữ chưa bao giờ hiểu và yêu hắn sẽ không bị vướng vào cuộc sống ngoại lai của Malcolm Cooper.
Rain cũng cầu nguyện lần thứ tư trong ngày và lên giường ngủ một mình.
CHƯƠNG 11
1
giờ 30 sáng thứ Bảy, trong lúc
Matthew, Samantha và A;P ngồi
quanh chiếc bàn ăn, soạn lại từng thùng giấy tờ thì bỗng ngoài cửa rộn lên tiếng máy xe tiếp theo là hai ánh đèn pha lia sáng cả tiền sảnh. Samantha nhảy bổ ra cửa.
- Bà nên ở lại trong này. - Mathew nói với A;P khi anh đứng dậy đi ra theo. - Sẽ tệ hại lắm đây.
- Đừng bận tâm. Castro và tôi sẽ lo cái đống này. - Matthew vừa đi khuất xuống đại sảnh, A;P bế con mèo đang đứng dưới đất đặt lên bàn cạnh chồng giấy tờ vừa lôi từ trong thùng ra. – Mày chưa nghễnh ngãng phải không?
Castro chớp mắt hai cái.
Samantha lao xuống mấy bậc tam cấp ngoài hành lang cùng lúc viên cảnh sát mở cửa sau chiếc xe cảnh sát của Samantha.
Malcolm bước ra, tay bị còng và cáu bẳn. - Em tin nổi không, Sammie? Họ còng tay anh này!
- Xin lỗi Malcolm. - Keith nói. - Tôi chỉ làm theo lệnh của em gái anh. - Anh không phải xin lỗi, Keith. - Samantha nói. - Malcolm, giờ anh chỉ quan tâm mỗi chuyện bị còng tay thôi ư? Anh nghĩ gì mà hành động như vậy?
Cô chỉ tay về phía cái còng và Keith mau mắn mở khóa.
- Anh là nạn nhân mà, Sammie. Cảnh sát làm như thế này là quá đáng! Ai chả biết người anh dễ bị bầm tím.
- Thôi đi! - Samantha quát lớn đến nỗi từ tít phía sau quán trọ, A;P nhướn cặp chân mày lên còn Castro thì nhảy khỏi bàn, chui xuống trốn dưới ghế của A;P.
Samantha quay sang hai nhân viên cảnh sát. - Mọi thứ có tệ lắm không? Hai anh tìm được anh ấy ở đâu?
- Anh ta ngồi bên ngoài rạp chiếu phim trên đường Main. - Chỉ thế thôi à?
- Phải. - Malcolm đáp thay cho họ. - Anh chỉ muốn là người mua vé đầu tiên để xem phim Đám cưới công chúa thôi. Anh còn rất nhiều phim chưa xem. Vậy có tội gì?
- Tội ăn cắp xe.
- Luật nói vậy thôi.
Cô trừng mắt nhìn Malcolm. Cô quay sang nói với hai nhân viên cảnh sát nhưng mắt vẫn dán chặt vào anh trai mình. - Xin lỗi hai anh. Chuyện này sẽ không xảy ra lần nữa.
- Đừng lo. - Keith cười và ném chìa khóa cho Samantha.
- Tôi rất biết ơn vì điều đó. Và cảm ơn đã mang xe về giùm. - Chắc chắn rồi, ngủ ngon nhé Sam. Ngủ ngon nhé Malcolm. - Barry nói, và chợt trông thấy Matthew đang đứng ở hành lang. - Ô, chào Matt. - Chào hai anh.
- Xin chia buồn với gia đình.
- Cảm ơn. - Matthew trả lời. - Và cảm ơn đã đem chú em nhà tôi về. Hai nhân viên cảnh sát leo lên chiếc xe cảnh sát và lái đi. Khi rẽ sang Đường 11, họ tha hồ cười. Mà họ cười thật.
- Cảm ơn, em gái. Anh chỉ lo là em nổi điên lên.
- Ồ, em đang điên tiết lắm đây. Còn hơn thế nữa. Em chỉ muốn đá đít anh một phát về Brazil cho rồi.
- Em biết không, cái gã Keith đó trông đáng yêu đó chứ. Anh nghĩ là hắn kết em rồi. - Malcolm chuyển sang giọng bỡn cợt. - Anh nghe được vài chuyện trong xe.
Tiếng Matthew cười vọng ra từ hành lang trước nhà.
- Có gì vui đâu, anh Matt? - Cô khẽ ngoái đầu nhưng mắt thì vẫn nhìn Malcolm chằm chằm.
- Mấy đứa. - A;P gọi vọng ra từ cửa kính. - Vô đây xem cô tìm được gì này.
- Sẽ tính sổ anh sau. - Samantha nói khi Malcolm leo lên mấy bậc thang theo Matthew vào nhà. Cô giữ cửa và khi Malcolm đi qua, cô dùng tay đang cầm chìa khóa của mình bộp một phát vào sau ót anh.
***
Mọi người quây quần quanh bàn. Malcolm ôm A;P một cái, hôn vào má và thì thầm vào tai bà. - Cảm ơn cô, vì tất cả. - Bà hôn anh lại một cái. - Thế cô tìm thấy gì vậy, Anna Belle? - Samantha hỏi, vẫn còn rất cáu kỉnh.
- À, cô soạn xong cái thùng cuối cùng trên này rồi, nên cô quay xuống tầng hầm để tìm mấy cái thùng chứa hồ sơ thuế mà cháu cần, Matthew, và cô đã tìm thấy cái này. - Bà lôi ra một cái thùng dưới sàn nhà có dán nhãn “LC’48 – ’55” - Những lá thư. Của bố các cháu gửi cho mẹ. Đó là tất cả những gì cô thấy trong đó.
- Cháu cứ nghĩ những cái thùng này là hồ sơ xin hoàn thuế hay đại loại vậy. - Samantha nói.
Matthew tỏ vẻ bối rối. - Cháu chưa thấy chúng bao giờ. Còn cái nào nữa không cô?
- Không biết nữa. Cô mở cái thùng này dưới hầm và vội mang lên đây. Nhìn đằng sau nè, mấy đứa. Vì mặt có viết chữ quay vô trong nên trông nó không khác gì mấy cái thùng bình thường, chả có gì đặc biệt.
Mười lăm phút kế tiếp đó, trong khi Samantha và A;P chăm chú đọc những lá thư thì hai cậu anh trai của cô sục sạo dưới tầng hầm, khiêng thêm mấy cái thùng nữa lên chất xung quanh bàn ăn.
Một lát sau, A;P gom cái túi xách và con mèo của mình, hôn tạm biệt từng đứa con nhà Cooper và mở cửa sau ra về.
- Xem kỹ mấy thứ trên bàn nhé, các cháu. - Bà nói, quay lại sập cánh cửa phía sau lưng. Bà muốn nói thêm gì đó, nhưng lại thôi. Thay vào đó bà trò chuyện với Castro suốt đoạn đường về.
Có những lá thư họ đọc một mình và trịnh trọng cất chúng vào lại phong bì như chôn cất kỷ niệm. Có những lá thư họ chuyền tay nhau đọc. Nhiều
lá thư chẳng hay ho gì kể về những tuần lễ họ sum vầy bên nhau rồi lại chia xa. Nhiều lá có tem với dấu bưu điện từ Richmond, Charlottesville, Norfolk, New York và Memphis. Có những lá chưa bao giờ gửi và ba người con hình dung ra cảnh chúng được nhét dưới gối của Laurel hay kẹp trong những quyển sách bà đang đọc dở. Một số khác có vẻ như quá riêng tư nên họ không đọc mà lặng lẽ nhét chúng trở lại chồng thư cao nghệu.
Thư của Jack viết trên giấy photocopy, giấy tập, giấy được xé ra từ sổ tay và giấy có in tên của khách sạn. Thậm chí có vài bức chỉ là những dòng nguệch ngoạc trên giấy ăn. Matthew tìm thấy một lá thư được bấm vào một tờ giấy bạc một đô-la, và một tờ khác viết ở mặt sau tờ rơi quảng cáo buổi lễ ra mắt bộ phim mới Star Trek diễn ra ở Washington D.C.
14 tháng Mười Một, 1979
Laurel,
Hôm nay là thứ Tư, cũng là ngày anh viết thư cho em! Anh đang ngồi ở bãi đậu xe của rạp chiếu phim và chỉ có mỗi tờ rơi quảng cáo chương trình tối nay để viết. Anh thấy Joe đang mải mê tán tỉnh mấy cô gái bên kia đường.
Em hãy ngồi xuống và nghe anh kể chuyện tối nay. ANH ĐÃ GẶP WILLIAM SHATNER!
Em có tin được không? ANH ĐÃ GẶP ĐƯỢC WILLIAM SHATNER! Anh biết chắc cậu ấy sẽ đến khi họ nói sẽ có các diễn viên tham gia bộ phim này xuất hiện tại rạp chiếu bóng tối nay, người ta muốn nói đến George Takei và một vài diễn viên khác chắc em không biết đâu. Nhưng khi Joe và anh đang đứng ở đại sảnh, thì cậu ấy bước vào. Thật choáng ngợp! Ngoài đời cậu ấy thật lịch lãm đúng như anh từng nghĩ. Một số người cho rằng cậu ấy chỉ làm bộ làm tịch, có thể họ đúng. Anh nghĩ cậu ấy lúc nào cũng phải diễn trước đám đông. Nhưng công bằng mà nói, diễn viên nào chẳng thế?
Ước gì anh xin được chữ ký của cậu ấy. Anh đã quá hồi hộp khi cậu ấy bắt tay anh, anh chỉ có thể nói mỗi câu “Chúc anh sống lâu và thành đạt”.
Cậu ấy nhìn anh và cười mà không hề nói rằng anh là ông lão sáu mươi hai tuổi đáng thương nhất cậu ấy từng gặp, cũng phải thôi, anh là vậy mà. Nhưng cũng có thể cậu ấy chẳng biết nói gì với anh. Ai thèm quan tâm chứ? ANH ĐÃ GẶP ĐƯỢC WILLIAM SHATNER!
Em biết không, bộ phim rất tuyệt! Anh nôn nóng được dắt bọn nhỏ đi dự buổi tối ra mắt bộ phim mới này. Em đi cùng bố con anh, nhé? Em biết không, Joe rất biết ơn em về buổi đi chơi tối nay đấy Laurel. Cậu ta muốn gửi lời cảm ơn em. Và cả anh nữa vì điều tuyệt vời này. Cậu ta cần những lúc như thế này.
Trước khi em đọc được lá thư này thì chắc là anh cũng đã kể cho em nghe tất cả rồi, chắc không dưới một lần, em biết anh quá mà. Ai thèm quan tâm chứ? Anh yêu em.
Và em vẫn còn ngồi đó chứ? Anh mê em hơn cả Star Trek. Jack (Kirk)
3 tháng Mười Một, 1948
Laurel,
Anh không có nhiều thời gian. Lúc này đang là giờ ăn trưa và cả đám con trai đều đang bàn tán về cuộc bầu cử. Có người kể rằng một tờ báo còn giật tít “Dewey đánh bại Truman!”. Phải mà anh sưu tầm được bài viết đó.
Anh tự hỏi chuyện gì sẽ xảy ra nếu đảng Cộng hòa đưa MacArthur ra tranh cử. Anh sẽ hăng hái hơn trong việc bầu cử, chắc chắn là thế. Nhưng, anh đoán Dewey đã thắng. Chiến dịch vận động hay chiến dịch kêu gọi hay bất cứ hoạt động lố bịch nào Tổng thống Truman đã đặt tên cho nó đã thành công.
Còn bây giờ, xin chúc mừng. EM ĐÃ ĐÚNG! Chúng ta đành phải chịu đựng thêm bốn năm nữa dưới chế độ Dân chủ. Hy vọng em vui, Laurel Cooper. Em đã thắng!
Chẳng sao. Anh vẫn yêu em. Dù em là công dân của đảng Dân chủ, đảng Cộng hòa hay đảng Bảo thủ. (À nhân tiện, Joe mới tiết lộ rằng cậu ta
đã bầu cho Strom Thurmond, dẫu biết rằng mình là người duy nhất. Nếu lỡ cậu ta ủng hộ Dewey thì chắc là anh sẽ không mặc đồ đen hôm nay.) Yêu em,
Jack
Tái bút: Anh là người dám nói dám làm. Đây là tờ 1 đô-la của em. Chắc anh bấm nó vào đây luôn.
22 tháng Tư, 1970
“Cô dâu duyên dáng” của anh,
Thực là một chuyến đi tuyệt vời! Không như bất kỳ lá thư nào anh đã từng viết trước đây, anh viết lá thư này để nhiều năm sau, khi anh không còn trên cõi đời này, em sẽ lục ra đọc và hồi tưởng lại tuần lễ tuyệt vời ấy. Và vì em cũng sẽ già và mệt mỏi và sẵn sàng gặp anh trên thiên đàng, những lá thư này sẽ lấp đầy những tháng ngày trống vắng không anh. Cũng có thể việc anh ra đi trước sẽ khiến em quẫn trí? Khủng hoảng tinh thần? Không chấp nhận sự thật? Anh đoán vậy.
Anh có thể đếm trên đầu ngón tay những kỷ niệm khắc cốt ghi tâm theo anh đến hết cuộc đời này. Và nếu may mắn, anh sẽ chọn mang theo kỷ niệm này.
Tối qua, sau khi vượt qua nhiều khó khăn, chúng ta đã đến Graceland! À mà không, chúng ta không chỉ đơn giản “đến” Graceland, đúng không em yêu? Tối qua là lần thứ hai chúng ta tới Memphis. Em đã nài nỉ anh dắt đi từ lâu và cuối cùng, chúng ta đã có một bữa tối trên đường Beale. Đó là một chuyến đi mà anh không dám mơ tới, kể cả mấy tháng gần đây. Đến khi các ngôi sao xuất hiện, em đã không thể thốt nên lời.
Nói anh nghe nào, Laurel Cooper, bằng cách nào và từ bao giờ em trở thành một diễn viên tuyệt vời đến thế? Em đã làm cho ông vua nhạc pop tin và nghe theo em răm rắp. Ai mà đoán được mọi chuyện lại diễn ra tốt đẹp đến thế? Hơn cả chúng ta dự tính phải không?
Anh phải thừa nhận là anh vẫn còn rất tiếc vì đã không thể chụp hình lưu niệm, nhưng anh hiểu lý do của họ. Em có thể hình dung chuyện gì sẽ
xảy ra nếu chúng ta không giữ lời hứa và rêu rao với mọi người rằng mình đã được mời vào Graceland không? Rằng chúng ta đã gặp vợ chồng Elvis Presley và Priscilla Presley? Em thật là không chê vào đâu được. Và, tiện thể, Elvis Presley đã hứa với chúng ta một điều ngoài sức tưởng tượng. Anh cá là chuyện này chẳng phải lúc nào cũng xảy ra.
Hôm đó tại cổng bảo vệ, em thật xuất sắc. Nếu anh không biết trước rằng em đang bịa chuyện, chắc anh đã khóc nức nở! Em nhìn gã bảo vệ với một ánh mắt tha thiết và nói chỉ còn cách thiên đàng ba mươi sáu giờ nữa. - Cách cái gì? - Hắn cười.
Làm cách nào mà em có thể giữ được nét mặt tỉnh rụi ấy khi em nói với hắn em là nạn nhân của cơn đại dịch lao châu Á? Và tiếng ho của em, thật không thể tin được! Nó nghe như thể em nghẹn cả một viên bi trong ngực mình. Anh chẳng cần biết em học cái đó từ lúc nào.
Và hắn gọi điện vào trong nhà, Priscilla đã bắt máy. Thật là ky diệu, em nhỉ? Ngay cái lúc cô ta bảo hắn hãy đưa chúng ta vào theo lối cửa đông, anh tưởng anh đã vãi ra quần. Em chụp lấy cánh tay và cảm ơn hắn ta rối rít, trong khi hắn đang còn há hốc mồm thì em hôn lên tay hắn như thể đó là điều cuối cùng em cần làm trên cõi đời này.
Anh cá với em 1 đô-la là sau khi quay lại bàn làm việc, hắn sẽ rửa tay bằng dung dịch sát trùng cả tiếng đồng hồ.
Priscilla thật dễ mến. Thật lộng lẫy. Cô ấy lịch thiệp hơn cả những gì anh nghĩ. Thực là một quý bà đáng mến.
Chuyến tham quan thật ấn tượng. Anh không bao giờ có thể tưởng tượng được chúng ta lại được ngắm nhiều thứ đến thế trong căn nhà ấy. Anh còn muốn xem cả trên lầu nữa, nhưng anh không chắc tim mình có thể chịu đựng được niềm vui tột độ đó.
Sau mười lăm phút, có thể hơn, khi chúng ta đang đứng trước cửa đợi người bảo vệ tới dẫn ra ngoài thì có ba chiếc xe hơi dừng lại. Nếu lúc đó trên mui xe có treo cả một tấm biển khổng lồ cũng không thể thu hút nhiều sự chú ý bằng người đang ngồi trong xe.
Khi ông vua bước ra và ngang qua mặt chúng ta để hôn vợ mình, em như muốn tan chảy, anh cá là thế. Cô ta giới thiệu chúng ta với ông vua, giải thích tại sao chúng ta có mặt ở đó và tình trạng của em nguy ngập thế nào. Giọng nói của anh ta đang vang lên – à không, đang cất lên – trong đầu anh.
- Anh chị đã đi cả một chặng đường xa xôi xuống tận Memphis chỉ để gặp chúng tôi khi đang cận kề ngày về với Chúa?
Lúc đó, em thật sự xứng đáng được trao giải thưởng hàn lâm. - Đó là mơ ước của tôi, thưa anh, được gặp anh và - ... ho sù sụ... - cô dâu duyên dáng của anh.
Thế mà Samantha dám tự cho mình là diễn viên giỏi nhất nhà? - Cầu Chúa phù hộ bà. Cầu Chúa che chở linh hồn bà. - Anh ta ôm chầm và hôn lên má em, một lần nữa em lại run lên. Anh tự hỏi anh ta sẽ ra sao nếu anh thoi cho anh ta một cái vào cằm.
Trong khi người bảo vệ quay lại dẫn chúng ta ra khỏi trang viên, Elvis kêu cận vệ tháo cái bảng số từ một trong những chiếc xe của anh ta ra. Gã đó làm theo và đưa cho vợ chồng mình. Theo lệnh của ông vua, gã đó lôi trong túi áo khoác ra một cây viết và rồi cả ông vua và Priscilla đã ký lên mặt sau của tấm bảng số xe.
Thực là một chuyến đi tuyệt vời!
Anh không thể nhớ nổi điều gì khác xảy ra vài ngày sau đó ở Tennessee. Còn có thể nhớ được gì ngoài mười lăm phút được tiếp xúc với ông vua nhạc Rock and Roll và “cô dâu duyên dáng”của ông?
Anh thật sự nóng lòng muốn kể cho các con nghe câu chuyện này. Anh muốn một ngày nào đó khi chúng ta đã ra đi, các con sẽ tìm thấy lá thư này và chợt hiểu ra tại sao có một biển số xe vùng Tennessee treo trên tường phòng ngủ của chúng ta.
Anh yêu em,
Jack Cooper
Chồng của người duy nhất sống sót sau đại dịch lao châu Á.
Tái bút: Anh nghĩ khi chúng ta về tới nhà và chắc chắn là cái biển số xe đã được cất ở nơi an toàn, chúng ta sẽ gửi thư xin lỗi họ. Em thấy sao? ***
Trước khi Samantha đọc xong đoạn tái bút, Malcolm và Matthew xô ghế đua nhau chạy lên lầu, chen lấn nhau, người này ép người kia vào tường. Khi họ đến gần cửa phòng ngủ chính, Matthew giảm tốc độ để Malcolm len vào. Rồi từ phía sau, Matthew xô mạnh làm cậu em té nhào lên giường, rồi nhanh chóng chộp lấy cái bảng số xe Tennessee treo trên tường.
- Thật không thể tin được!
- Nó viết gì thế? - Malcolm hỏi, lăn sang một bên, nhỏm dậy và giật tấm bảng số từ tay anh mình.
- Tặng Laurel và Jack. - Malcolm đọc. - Hãy vui vẻ tận hưởng những ngày cuối cùng. Elvis và Priscilla, 1970.
- Bố và mẹ nói đây là quà lưu niệm từ chuyến đi, không hề đề cập đến chữ ký. Không thể tin là chúng ta không hề hay biết!
- Một chuyến đi kỳ diệu. - Malcolm xuýt xoa. - Đúng là một chuyến đi kỳ diệu.
Hai chàng trai trở về phòng ăn bắt gặp Samantha đang khóc. - Chuyện gì vậy? Em tìm thấy gì thế? - Matthew hỏi.
Cô giơ một lá thư lên. - Bố hỏi mẹ là bà nghĩ chuyện gì sẽ xảy ra cho quán trọ này sau khi ông qua đời. - Matthew và Malcolm ngồi xuống. - Nó được viết hồi nào? - Matthew hỏi.
Cô nhìn vào dòng ngày tháng. - Tháng Sáu năm ngoái.
- Chẳng lẽ bố biết điều gì à? - Malcolm hỏi.
Samantha không trả lời.
- Bố và anh đã nói chuyện với nhau về điều này trong những dịp nghỉ lễ. - Matthew nói. - Ông nói với anh về Alex Palmer...
- Ai? - Malcolm cắt ngang.
- Luật sư của bố. Ở̉Front Royal. Bố nói Alex giúp ông điều chỉnh bản di chúc năm ngoái, khi ông đoán được tình trạng ngày càng xấu đi của mình.
Bố và mẹ có dành dụm tiền riêng ở một số tài khoản. Không nhiều. Hầu hết tiền bạc đều đổ vào nơi này. Bố đã mua bảo hiể̉m để mẹ không phải lo lắng sau khi ông qua đời. - Matthew ngập ngừng. - Dẫu sao đi nữa, cũng còn vài việc cần giải quyết. Anh sẽ làm việc với luật sư.
- Bố không thể ngờ rằng cả hai bỏ các con đi cùng một lúc. - Samantha xót xa.
Không ai nói lời nào.
- Còn quán trọ này thì sao? - Malcolm cuối cùng cũng hỏi. - Mọi thứ cứ chia làm ba, kể cả căn nhà. Sẽ mất một thời gian để rao bán, mọi người vẫn thường làm thế. Trừ khi... - Matthew nhìn em gái mình đang ngồi đối diện. - Trừ khi một trong chúng ta muốn tiếp tục kinh doanh. Bố đã ghi rõ đó là lựa chọn hàng đầu của ông.
Samantha và Malcolm cùng nhìn anh trai mình.
- Hai em biết là anh không thể. - Matthew trả lời cái nhìn của họ. - Anh không thể rời New York. Anh có khách hàng, thu nhập. Và các em biết Monica sẽ không sống ở Woodstock.
Samantha và Malcolm cùng gật đầu.
- Em đoán là em có thể̉. - Samantha gượng cười.
- Em là cớm mà. - Malcolm nói. - Em chẳng có tâm hồn đâu mà kinh doanh quán trọ.
Samantha biết anh mình nói đúng.
- Nếu mình cứ giữ nguyên vậy thì sao? - Malcolm hỏi. - Rain có thể quản lý nó.
- Một thời gian ngắn thì được, Mal, nhưng rồi cô ấy cũng sẽ đi thôi. Nathan còn lâu mới chịu sống mãi ở Woodstock. - Samantha thấy hối hận đã lỡ lời đề cập đến vấn đề mà ai cũng hiểu. - Xin lỗi. - Cô xoa xoa cánh tay Malcolm.
Anh cười. - Thôi quên đi. - Anh nắm chặt tay cô. - Chúng ta đọc tiếp nào.
"""