" Những Kỳ Án Nổi Tiếng Chưa Có Lời Giải - Hà Mạt Bì & Losedow (dịch) full mobi pdf epub azw3 [Hình Sự] 🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Những Kỳ Án Nổi Tiếng Chưa Có Lời Giải - Hà Mạt Bì & Losedow (dịch) full mobi pdf epub azw3 [Hình Sự] Ebooks Nhóm Zalo VƯỜN HOA MẠT DƯỢC KÝ SỰ Những kỳ án nổi tiếng chưa có lời giải Hà Mạt Bì TÁC PHẨM: Từ những thước phim tài liệu của Netflix, cho tới những tài liệu mật chỉ được thẩm tra nhằm phục vụ cho quá trình phá án, “Vườn Hoa Mạt Dược” đã lần lượt thu thập và đăng tải hồ sơ về mươi lăm kỳ án trên thế giới. Phần lớn trong số đó là các vụ án chưa tìm được lời giải sau nhiều năm điều tra. Mười lăm vụ án được phân tích trong bộ hồ sơ trinh thám này là mười lăm kỳ án mà thế giới không bao giờ quên. Ai đã làm điều đó? Họ đã làm điều đó như thế nào? “Tôi mong ý nghĩa tồn tại của “Vườn Hoa Mạt Dược” không hạn chế trong việc tìm ra đáp án cho các vụ án chưa có lời giải và những sự kiện thần bí. Tôi hi vọng mình có thể cung cấp một bản mẫu phân tích logic ở góc độ và phương diện lí trí để độc giả nhìn nhận các sự kiện xã hội. Còn đáp án cụ thể, thực ra mỗi người chúng ta đều có thể có những suy luận của riêng mình nên chỉ cần hợp logic là được.” – Trích lời tác giả. “Sau khi lấy thai nhi ra, hung thủ nhét chìa khóa chuột Mickey và điện thoại bàn vào tử cung thi thể. Hắn không để lại bất cứ dấu vết nào, vân tay đều được lau sạch, kệ bếp có dấu vết rửa sạch máu, có thể hắn rửa tay dính máu ở bồn rửa. Ngoài ra, thi thể không có dấu hiệu bị cưỡng bức hay chống cự kịch liệt.” LỜI TỰA: Mặc dù tôi rất ít khi nói về bản thân nhưng hôm nay tôi sẽ nói. ắ ầ ế ề Khi tôi bắt đầu viết về các vụ án trên tài khoản mạng xã hội Wechat “Vườn Hoa Mạt Dược” (ID: moyaohy) của mình, số người theo dõi chỉ có mấy trăm người. Đó đều là những người tôi quen biết ngoài đời, hoặc người biết bút danh của tôi qua những tiểu thuyết không có mấy người đọc mà tôi đã viết. Lúc đầu, tôi cũng từng đăng ảnh của mình lên đó, nhưng sau khi số lượng người chú ý đột nhiên tăng mạnh, tôi bỗng có cảm giác rằng mình không còn đứng trong một căn phòng và nói chuyện với một nhóm ít người, mà đang đứng trên quảng trường rộng lớn. Một cảm giác hơi mất kiểm soát khiến tôi xóa bức ảnh ấy đi và từ đó không đăng ảnh nữa. Tôi cũng đổi tên tác giả thành Bạn bè thường đề nghị tôi đăng ảnh và có phần giới thiệu bản thân ở cuối mỗi bài viết nhưng tôi không đồng tình. Không phải tôi ra vẻ thần bí mà chỉ là không quen trở thành tiêu điểm chú ý. Tôi chưa từng nghĩ đến chuyện xây dựng hình ảnh cá nhân bởi trong thời đại Internet, tất cả mọi hình tượng nhân vật tốt đẹp đều rất mong manh, dễ vỡ. Chỉ có hình tượng vốn đã tồi tệ, xấu xa mới có thể đứng ở thế “bất bại”. Tôi nghĩ rằng chỉ trình bày quan điểm của mình là đủ, không cần gắn với một thân phận hoặc trải nghiệm cá nhân nào. Rất nhiều người theo dõi “Vườn Hoa Mạt Dược” hoàn toàn chưa từng nghe nói tác giả là ai. Họ xem rồi thừa nhận một quan điểm, một bài viết nào đó nên mới theo dõi. Vì thế, tôi vẫn cho rằng quan điểm của tôi có được chấp nhận hay không vốn không liên quan quá nhiều đến lí lịch, diện mạo, tuổi tác, hay thậm chí là giới tính của tôi. Nhưng dần dà tôi lại phát hiện, khi mọi người không biết người đứng đằng sau những bài viết này là ai, họ sẽ đưa ra một số phỏng đoán kì lạ, ví dụ như có người cho rằng một lần, bốn chữ “Vườn Hoa Mạt Dược” nằm trong danh sách từ khóa tìm kiếm nổi bật nhất trên Weibo là kết quả của một kế hoạch truyền thông nào đó (thực ra thì không có chuyện ấy đâu, đến khi được người khác gửi ảnh chụp màn hình cho xem, tôi mới biết). Thế nên trong lời tựa này, tôi muốn ế ề ằ viết một chút về bản thân và suy nghĩ của mình, nhằm giúp mọi người có thể hiểu về tôi nhiều hơn đôi phần. 1 Mặc dù thường biện hộ cho một số quan điểm nhưng tôi vốn không có cá tính mạnh, cũng không phải tuýp người đáo để, mà chỉ là một người điềm đạm. Tuy tôi đã từng viết thơ nhưng phong cách của tôi không thiên về nghệ thuật và cũng không lãng mạn. Mặc dù trong tiểu thuyết của tôi có đủ mọi lối suy nghĩ khác thường nhưng thật ra, tôi rất thực dụng, không thích nói suông hay khoác lác. Mặc dù tôi có tư duy chặt chẽ nhưng bàn làm việc của tôi lúc nào cũng rất lộn xộn, thường xuyên quên thứ nọ lẫn thứ kia (số lần tôi mất điện thoại và ví tiền đã trở thành trò cười cho bạn bè). Tôi tự do, tùy tiện trong cuộc sống nhưng lại rất cẩn thận và tỉ mỉ trong những chuyện liên quan đến công việc. Trước kia khi còn đi học, mỗi lần tranh thủ về nước vào những kì nghĩ ngắn ngủi, luôn có người gọi tôi là “Tiến sĩ Hà”. Tôi biết đây là lời khách sáo, nhưng vẫn nghiêm túc sửa lại: “Là nghiên cứu sinh ạ”. Mấy năm trước, biên tập viên của một nhà xuất bản chưa hỏi ý kiến mà đã thay tôi viết phần giới thiệu tác giả cho một cuốn sách, viết tôi là Tiến sĩ. Sau khi nhận được sách, quả thực tôi ăn không ngon ngủ không yên, cảm thấy lỡ như bị người khác vạch trần sự thật thì tôi có khác gì một kẻ lừa đảo. Một người bạn là Tiến sĩ Sử học đã an ủi rằng: “Không sao đâu. Ở trong nước, chỉ cần bắt đầu học lên Tiến sĩ thì đều gọi là Tiến sĩ hết.” “Lỡ đâu trong khi đi học, vì một số nguyên nhân nào đấy mà tôi không lấy được học vị thì sao?” Tôi hỏi. ấ ế Cô ấy trả lời: “Vậy thì từ đó trở đi, cậu sẽ được gọi à “Tiến sĩ chưa tốt nghiệp.” May mà tôi đã tốt nghiệp rồi. 2 Nhân loại học tôi học hơn tám năm mới lấy được học vị Tiến sĩ… Có người bạn là nhà thơ đã từng viết một bài thơ chế giễu tôi rằng: Nhân loại quá khó đi Gửi Mạt Bì, Còn nhớ Khi vừa mới quen cậu Cậu bắt đầu học Tiến sĩ Nhân loại học Bây giờ đã sắp mười năm trôi qua Đã sắp không nhận ra cậu nữa rồi Vậy mà cậu vẫn còn chưa tốt nghiệp. Thời gian tốt nghiệp trung bình của chuyên ngành chúng tôi là từ tám đến mười năm cho nên tôi cũng không bị coi là chậm. Có những khi nghĩ lại, tôi không dám tưởng tượng rằng thời gian đẹp đẽ nhất của cuộc đời mình dùng để làm chuyện này. Tôi đọc rất nhiều cuốn sách buồn tẻ, khó hiểu mà có thể cả đời này tôi cũng chẳng áp dụng được gì. Nhưng có lẽ, tất cả những lý luận ấy đã thấm nhuần trong tôi và giúp tôi hiểu hơn về thế giới này. ế ầ ố Trong những năm tháng đi học Tiến sĩ, hầu như cuộc sống của tôi trôi qua rất buồn tẻ. Buổi sáng mang cơm trưa và cơm tối đến thư viện và đợi mở cửa. Vì sẽ phải ngồi ở đó cả ngày nên tốt nhất là có thể tranh được một vị trí sofa. Đến trưa, dùng lò vi sóng công cộng hâm nóng cơm rồi ăn, tối lại như vậy. Khi thư viện đóng cửa vào mười một rưỡi đêm, tôi thu dọn ra về, nhưng cũng có lúc tôi ở đó suốt đêm đến tận sáng hôm sau. Chính vì thế, đề tài nghiên cứu phải thật thú vị mới có thể giúp tôi tiếp tục kiên trì… Đề tài ban đầu của tôi là nghiên cứu về sòng bạc Tam giác vàng1 nên tôi có học một học kì tiếng Lào. Đó là một vùng đất bí ẩn nằm giữa Myanmar, Thái Lan, và Lào. Trên thực đơn ở đó có món thịt hổ rang. Thương nhân ở đó nuôi trăng khổng lồ và khỉ làm thú cưng. Du khách rất ít nhưng nơi đó lại có phố người Hoa với những kiến thức xa hoa bậc nhất… 1. Một đặc khu kinh tế nằm giữa vùng biên giới của ba nước Lào, Thái Lan và Myanmar, nổi tiếng với các sòng bạc, khu phố Tàu và du lịch sinh thái Lần cuối tới Tam giác vàng, AS đã đi cùng với tôi. Hôm đó là sinh nhật AS, dù đã tìm khắp cả đặc khu nhưng chúng tôi không tài nào tìm được một chiếc bánh sinh nhật cho cô ấy nên cuối cùng đầu bếp KTV đành cắm nến lên một quả dưa hấu để chúc mừng sinh nhật AS. Sau đó, bởi vì có sự thay đổi trong sinh hoạt cá nhân nên tôi thay đổi đề tài ngiên cứu, trở lại Thượng Hải làm ruộng. Đề tài nghiên cứu mới của tôi là “Sợ hãi và bị sợ hãi: Bảo vệ an toàn hàng hóa trong tiểu khu khép kín kiểu Trung Quốc”. Khi tôi lấy được học vị Tiến sĩ và tham dự lễ tốt nghiệp, người hướng dẫn thứ hai là giáo sư Bowie đã tới gặp cha mẹ tôi. Bà bước đến trước mặt hai người rồi nhờ tôi phiên dịch cho họ nghe: Lúc đọc luận văn tốt nghiệp của tôi, bà ấy đã khóc. Có những khi, làm người khác cảm động không cần đến kỹ xảo ngôn ngữ, mà chỉ cần sự thật là đủ. ắ ầ ế Khi tôi mới bắt đầu học Tiến sĩ Nhân loại học, một đàn chị đã nói với tôi rằng Nhân loại học chính là một môn “Đồ long thuật”. “Đồ long thuật” là cái gì? Có người mang khát vọng trở nên siêu phàm mà coi thường những môn võ khác, chỉ một lòng muốn học môn võ công khó nhất, cao siêu nhất. Vì thế, có người đã đề nghị cô ấy nên đi học Đồ long thuật. Cô ấy mất rất nhiều năm, tiêu tốn rất nhiều sức lực, phải chịu biết bao gian khổ, cuối cùng cũng nắm giữ được môn võ công tuyệt thế này. Có một ngày, cô ấy rời khỏi núi sâu, muốn tìm một con rồng để tỉ thí,thử xem võ công của mình thế nào. Cuối cùng lại phát hiện ra rằng thế giới này không biết đi đâu để tìm được rồng. Bế quan tu luyện nhiều năm, đến ngày có thể xuất quan cũng chỉ còn lại toàn những nỗi băn khoăn, do dự. Rất nhiều người hỏi tôi về dự định sau khi tốt nghiệp. Bảo vệ luận án xong, các thầy trong ban giám khảo cũng hỏi tôi câu tương tự. Tôi đã trả lời mấy chữ: Chưa có kế hoạch. Quá tập trung vào chuyện trước mắt mà không sớm suy nghĩ cho tương lai, đó có lẽ cũng là một sự trốn tránh. Sau khi viết xong hai trăm tám mươi trang luận án tốt nghiệp, tôi tự nói với mình rằng: Trước hết cứ tạm dừng ba tháng, làm xong chuyện dang dở (chỉnh sửa bản thảo, viết về các vụ án như đã hứa với mọi người), sau đó mới tính đến chuyện tìm việc. Không ngờ đã sắp nửa năm trôi qua, việc mà tôi tưởng rằng sẽ kết thúc nhanh thực ra vẫn chưa xong, mà ngược lại, càng ngày càng nhiều… 3 Vườn Hoa Mạt Dược Một lần nọ, tôi cùng bạn học thảo luận xem ai sẽ nghiện cái gì. Có người nghiện chơi game, có người nghiện đồ ngọt… Điều duy nhất khiến tôi không thể tự chủ là nghiên cứu những bí ẩn, thậm chí ễ ấ ấ có lúc còn làm chậm trễ việc quan trọng. Mấy năm nay tôi đã xem rất nhiều vụ án, đã lên ý tưởng, nhưng vì lúc nào cũng bận rộn nên chưa thể dành thời gian để viết ra. Năm 2017, tôi làm nghiên cứu về đồng ruộng ở Thượng Hải, thời gian dư dả hơn rất nhiều. Một mình tôi thuê nhà ở một khu nhà trọ (bởi vì nội dung nghiên cứu liên quan đến nhà cho thuê), buổi tối rảnh rỗi liền bắt tay vào làm chuyện mình luôn có hứng thú, đó là ghi lại quan điểm của mình đối với những vụ án chưa thể phá giải. Đến khi ấy, tôi vẫn chưa từng nghĩ rằng mình phải nghiêm túc sáng lập cái gì đó, càng chưa bao giờ nghĩ rằng chỉ hai năm sau, mình sẽ dành nhiều thời gian và tâm huyết cho một niềm hứng khới không phải là công việc chính của mình đến thế. Tôi từng xem một chương trình tivi ít được quan tâm của Mỹ, kể về một nữ kiểm sát viên về hưu cùng một điều tra viên hiện trường tội phạm đã điều tra lại các vụ án ít được chú ý tại các bang. Bọn họ sắp xếp lại tư liệu của cảnh sát năm xưa, xem lại hiện trường phạm tội hoặc xây dựng hiện trường mô phỏng, tìm gặp đương sự để nói chuyện, tìm ra manh mối, bằng chứng hoặc lời khai mới rồi cung cấp cho cảnh sát. Tính đến tháng Tư năm 2018, hai người này đã trợ giúp cảnh sát bắt ba mươi lăm người và định tội mười tám người, bao gồm nhiều vụ mưu sát. Tôi rất khâm phục một chương trình đơn giản nhỏ bé lại có thể tạo ra ảnh hưởng lớn trực tiếp tới tinh thần đi tìm lẽ phải của thế giới này. Tuy nhiên, có lúc họ cũng gặp thất bại. Mặc dù các manh mối đều chỉ về phía một người, nhưng vì không có bằng chứng trực tiếp, đối phương cũng không muốn lên tiếng… nên họ chỉ có thể xin lỗi người nhà của nạn nhân. Mặc dù tôi gần như biết mình không có khả năng thực hiện nguyện vọng tương tự vì những ràng buộc với hiện thực, nhưng vào lúc ban đầu, quả là tôi cũng có một giấc mơ anh hùng giống như thế. 4 Là lý luận, không phải phỏng đoán Ở đây, tôi cần giải thích một chút về sự khác nhau giữa phỏng đoán và suy luận. Mặc dù có người nói văn chương của tôi là phỏng đoán, nhưng tôi cho rằng việc mình đang làm là suy luận. Suy luận theo nghĩa rộng, phổ biến hơn so với tưởng tượng của chúng ta. Trong cuộc sống hàng ngày, không có lúc nào là mỗi người chúng ta không vận dụng suy luận. Buổi sáng tỉnh dậy, sắc trời ngoài rèm cửa sổ mỏng manh vẫn còn âm u, có tiếng nước nhỏ tí tách vang lên, trong đầu bạn sẽ phán đoán rằng bên ngoài trời đang mưa. Ngày Thất tịch có đồng nghiệp nam tặng bạn một bó hoa, bạn thầm nghĩ chẳng lẽ anh ấy thích mình. Sau khi kết thúc quãng đường chạy dài, một người đến vạch đích rồi uống ngay một chai nước to, những người xung quanh nhìn thấy liền nghĩ nhất định là anh ấy khát lắm rồi. Những phán đoán này không hề tương đồng với “khẳng định” mà là một kiểu suy luận căn cứ vào các bằng chứng liên quan. Đối với kiểu suy luận trong cuộc sống thường ngày, khoảng cách giữa sự thật và kết luận rất gần nhau. Mọi người có thể phản ứng một cách nhanh chóng, có lúc tốc độ suy nghĩ nhanh đến mức chính mình cũng không ý thức được quá trình ấy. Mà suy luận như Conan2, khoảng cách giữa bằng chứng và kết luận không chỉ xa hơn mà còn cần dùng đến khoa học, Tâm lý học, logic, và các kiến thức cơ bản để bổ sung. 2. Nhân vật chính trong bộ truyện tranh trinh thám Nhật Bản “Thám tử lừng danh Conan” được sáng tác và minh họa bởi tác giả Gosho Aoyama. Vậy phỏng đoán là gì? Có người nằm trong chăn trùm kín đầu, không nghe thấy tiếng nước, cũng chẳng nhìn thấy sắc trời, càng ế ẫ không xem dự báo thời tiết, nhưng người đó vẫn tự nói với mình rằng “Bây giờ ngoài trời đang mưa”. Đây là một kiểu tưởng tượng không căn cứ, là phỏng đoán nên đương nhiên rất dễ phạm sai lầm. Chỉ cần đang sống thì không có lúc nào là con người không vận dụng suy luận. Đây là sự kéo dài nhận thức đối với thế giời khách quan. Càng là động vật cao cấp thì tính ỷ lại của cuộc sống đối với suy luận lại càng lớn. Con sơn dương nhìn thấy một củ cà rốt trên nền xi măng sẽ nghĩ đến đồ ăn và lập tức chạy đến ăn. Nhưng con người nhìn thấy cà rốt sẽ nghĩ vì sao nó lại ở đây… Những điều tôi viết phần lớn đều vận dụng suy luận. Ví dụ, hai năm trước, khi viết về Lam Khả Nhi (Elisa Lam, sinh năm 1991, sinh viên người Canada gốc Hoa tại Vancouver, được phát hiện chết trong bồn chứa nước trên tầng thượng khách sạn Cecil tại Los Angeles năm 2013), tôi từng phán đoán cô ấy đã tự trèo lên sân thượng khách sạn qua cầu thang thoát hiểm. Đây không phải tưởng tượng vô căn cứ mà là phát hiện của tôi sau khi xem rất nhiều tư liệu, video, ảnh của khách sạn Cecil và đọc một số miêu tả của các du khách trước kia: Chỉ có hai lối đi lên sân thượng khách sạn và đây là đường duy nhất mà Lam Khả Nhi đi được vì cô ấy không có chìa khóa của nhân viên khách sạn. Cuối tháng Mười một năm 2019, truyền thông Mỹ đưa tin nhận được từ phía cảnh sát Los Angeles rằng sau khi xảy ra vụ án, chó nghiệp vụ đã từng phát hiện ra mùi của Lam Khả Nhi bên cạnh cửa sổ mở hướng về phía cầu thang thoát hiểm, chứng minh cô ấy từng đến chỗ đó. Nếu căn cứ vào bằng chứng chính xác để suy luận chặt chẽ thì xác suất kết luận được chứng thực sẽ rất cao. Có một số người nhầm lẫn giữa giới hạn của phỏng đoán và suy đoán, áp “cái mác” phỏng đoán để bôi nhọ quá trình luận chứng. Như vậy là họ không cần phải tham gia thảo luận, phân tích sâu mà đã có thể phủ định luôn một số kết luận. Ngoài ra, tôi muốn nói thêm một chút về cái gọi là khách quan. Có người tung ra một số khả năng với xác suất cực kì nhỏ và nói ằ ế ể rằng nếu tác giả không thể xác định được 100% thì đó chính là không khách quan. Khách quan có hai hàm nghĩa: Một là chỉ sự thật tồn tại ngoài hoạt động tư duy, ví dụ như một củ cà rốt trên nền xi măng là tồn tại khách quan. Nhưng trong hoạt động tư duy cao cấp của loài người, khách quan có nghĩa là tôn trọng sự thật, không chịu ảnh hưởng của tình cảm và lập trường cá nhân chứ không phải để chỉ việc loại trừ tất cả những khả năng khác. Trên thế giới có bao nhiêu chuyện đã được xác định một cách chắc chắn? Trong một bộ phim tài liệu, nhà khoa học Mỹ - Tiến sĩ Peter H.Raven từng nói: “Science never says anything is certain.” (Khoa học không bao giờ nói bất cứ chuyện gì là chắc chắn) bởi vì “ngôn ngữ biểu đạt của khoa học chính là như thế”. Ví dụ kết quả giám định AND đưa ra vĩnh viễn không phải 100%. Trên thực tế, những tiến bộ khoa học cũng thường bắt đầu từ những điều “không xác định” và xuất phát từ các giả thiết. Khoa học đã vậy, huống chi là cuộc sống thường ngày và hành vi phạm tội bí ẩn? Ngoài cửa sổ, sắc trời u ám cùng tiếng nước vang lên tí tách nhất định phải là mưa sao? Không hẳn. Có thể khi ra ngoài rồi ngẩng đầu lên nhìn, bạn phát hiện ra một chiếc UFO to lớn đang che mất ánh nắng và phun nước xuống mặt đất thì sao? Không ai có thể đảm bảo rằng trong vũ trụ này không có UFO. Khi một người khác giới tặng hoa cho bạn vào ngày Thất tịch thì chắc chắn người đó thích bạn sao? Không nhất định là vậy. Có thể anh ta vừa mới tặng hoa cho đối tượng mà anh ta đơn phương nhưng bị từ chối, đang định vứt bó hoa đi thì đúng lúc nhìn thấy bạn. Một người uống rất nhiều nước chắc chắn là vì đang khát sao? Chưa chắc. Có thể anh ta đã đánh cược với người khác, chạy về đích sau nên phải uống hết cả một chai nước. Nhận diện tội phạm (offender profiling) là căn cứ vào các đặc điểm của hiện trường phạm tội và bản thân hành vi phạm tội để suy đoán thân phận, tâm lý, đặc điểm và hình thể của hung thủ. Đây không phải khẳng định 100% mà là một dạng thứ suy luận. Phân tích ể tâm lý học tội phạm cũng căn cứ vào hành vi phạm tội để suy đoán. Có rất nhiều thứ không có cách nào khẳng định bởi vì thông thường, bản thân tội phạm không muốn thừa nhận hoặc không thể ý thức được về vấn đề của mình. Thực ra, mỗi một chuyện trên thế giới này đều tồn tại những khả năng khác nhau. Nhưng sự tồn tại của những sự kiện sẽ xảy ra với xác suất nhỏ ấy không thể ngăn cản chúng ta tiến hành suy luận một cách khách quan, giống như khả năng tồn tại UFO sẽ không ngăn cản mọi người mang theo một chiếc ô khi thấy sắc trời âm u. 5 Tương lai Chuyên ngành đại học của tôi là báo chí nên tôi cũng từng viết một số bài báo có chiều sâu về các vụ án. Đưa tin trên báo là trần thuật sự thật, còn văn chương tôi viết trong “Vườn Hoa Mạc Dược” là phân tích tâm lý học tội phạm và thảo luận về tình tiết vụ án, giống như chuyên mục của chuyên gia tâm lý nhận diện tội phạm người Mỹ Pat Brown. Đó đều là các hình thức sáng tác chứ không phải hai cách hư cấu khác nhau. Tôi biết rất rõ giới hạn của cả hai. Khi viết báo, tôi sẽ không đưa quan điểm cá nhân vào. Nếu có lời muốn nói, tôi sẽ viết riêng một bài rồi đăng trên “Vườn Hoa Mạc Dược”. Tôi hi vọng ý nghĩa tồn tại của “Vườn Hoa Mạc Dược” không hạn chế trong việc tìm ra đáp án cho các vụ án chưa có lời giải và những sự kiện thần bí. Tôi mong mình có thể làm hai việc: Một, cung cấp một bản mẫu phân tích logic cho độc giả ở góc độ và phương thức lí trí để nhìn nhận các sự kiện xã hội. Còn đáp án cụ thể, thực ra mỗi người đều có thể có những suy luận của riêng mình, chỉ cần hợp logic là được. Ngoài ra, qua các phân tích trung lập nhưng ly lỳ này, tôi hi vọng có ể ỗ ồ thể tìm được thêm nhân tâm ở đời, làm cho mỗi độc giả (bao gồm chính tôi) có thể tham khảo và ngẫm lại về cuộc sống của mình. NGHI ÁN CẦU THANG Nữ Phó Chủ tịch công ty đa quốc gia chết trong biệt thự. Hung thủ là cú mèo, là cầu thang hay người chồng mà bà yêu nhất? Gần đây, tôi mới xem xong bộ phim tài liệu dài mười ba tập do Netflix sản xuất: “The Stair case” (Nghi án cầu thang). Bộ phim theo sát tiến triển của vụ án từ năm 2002 đến năm 2017, kéo dài mười sáu năm, kể lại một vụ án rắc rối, phức tạp, và là chủ đề của rất nhiều cuộc tranh luận. Sự việc xảy ra trong một ngôi biệt thự tại thành phố Durham, bang North Carolina năm 2001. Khu biệt thự nằm trên mảnh đất 3,5 mẫu Anh3 , diện tích sử dụng lên đến 1000m2, có năm phòng, đã từng là nơi được chọn để quay một số phim. 3. 3,5 mẫu Anh tương đương 14164 m2 Chủ nhân của biệt thự là một đôi vợ chồng, nhà văn Michael và Phó Chủ tịch một công ty viễn thông đa quốc gia lớn - Kathleen. Michael và Kathleen có công việc danh giá và chăm sóc năm đứa con. Trong đó, hai cậu con trai là con của Michael với người vợ trước Sue, hai cô con gái là con của Michael nhận nuôi. Nghĩa là trong năm đứa con thì có đến bốn đứa là của Michael. Cô con gái cuối cùng là Caitlin, là con của Kathleen và chồng cũ. So với khối tài sản kếch sù thì mọi người xung quanh chú ý đến tình yêu của hai người hơn. Rất nhiều bạn bè của Michael và Kathleen khẳng định rằng họ chưa từng thấy đôi vợ chồng nào hợp ể ẫ nhau hơn hai người, tình yêu của họ là kiểu mẫu mà ai cũng mơ ước. Michael và Kathleen không bao giờ cãi vã, cả hai đều dí dỏm, hài hước, có vô số chuyện cười kể không bao giờ hết. Gia đình họ luôn ngập tràn tiếng cười hòa cùng tiếng chuyện trò vui vẻ. Vụ án Thời điểm xảy ra vụ án là ngày 9 tháng 12 năm 2001, cả năm người con đều đang học đại học và sống bên ngoài, không hề ở nhà. Lúc 2h 40 phút sáng, nhân viên trực tổng đài 911 đột nhiên nhận được cuộc gọi của Michale với một giọng điệu kinh hoàng và hoảng loạn: “Vợ tôi bị tai nạn rồi, bà ấy vẫn còn thở…Bà ấy ngã từ trên cầu thang xuống…” Khi nhân viên tổng đài hỏi Michael rằng bà vợ ngã từ cầu thang cao thế nào, ông ta phát ra âm thanh “Ơ ơ”, và có vẻ như ông ta đi ra phía cầu thang để đếm. Khoảng mười giây sau, ông ta trả lời: “Mười lăm, hoặc hai mươi bậc.” Một phút sau khi gác điện thoại, ông ta gọi lại lần nữa. Ngoài việc gọi xe cứu thương, ông ta còn nói vợ mình hiện giờ đã không còn thở. Nội dung điện thoại tràn ngập những tiếng khóc nức nở vì kinh hoàng. Bảy phút sau khi nhận được điện thoại, cảnh sát và nhân viên y tế tới hiện trường. Đến cùng lúc với họ là Todd - con lớn nhất của Michael, khi ấy đang đi cùng bốn người bạn. Todd nói mình vừa mới đi dự tiệc, nhận được điện thoại của bố liền vội vã trở về (khi đó cậu ta sống ở một nơi khác). Suy nghĩ đầu tiên của cảnh sát khi vừa mới tới là: Theo kinh nghiệm của họ, hiện trường có vẻ không phù hợp với cảnh nạn nhân ngã từ trên cầu thang xuống. Thi thể nằm ngửa mặt lên trên, gáy gác lên bậc cầu thang đầu tiên. Trên tường, sàn nhà, và cả trên thi thể, khắp nơi đều có rất nhiều máu. Một số vết máu đã khô nên gần như không dính vào người cảnh sát. ể ầ Giày thể thao của Michael đã bị cởi ra và đặt bên cạnh, gần đó còn có nhiều khăn mặt dính máu. Trong bồn rửa bát có mùi rượu nồng nặc, trên bàn đặt một vỏ chai và hai l y rượu. Michael mặc quần short và áo singlet, đang khóc nức nở không ngừng. Michael khai với cảnh sát rằng khoảng 12h đêm, ông ta và vợ Kathleen quyết định ra bể bơi ngồi tán gẫu, sau đó hai người đã uống không ít rượu. Ngồi một lát, họ đi vào nhà trong. Nhưng Michael phát hiện đèn bên cạnh bể bơi chưa tắt, vậy là ông ta quay ra tắt đèn. Bể bơi rất rộng, ở giữa có đài phun nước, từ nhà tới bể bơi phải đi qua một lối đi nhỏ. Kết quả thử nghiệm đã chứng thực, nếu từ trong nhà phát ra âm thanh của người gặp chuyện bắt trắc, người ở bể bơi quả thực không thể nghe thấy được. Sau khi tắt đèn và đi vào nhà, Michael phát hiện Kathleen đã nằm giữa vũng máu dưới chân cầu thang. Ông ta cho rằng vợ mình say rượu, chưa kể trước đó đã uống một viên thuốc ngủ, nên bà ấy đã ngã lộn cầu thang. Khi mở phiên tòa và ở phần đầu của phim tài liệu, Michael đã thay đổi lời khai: Đêm ấy, Kathleen và Michael ngồi bên bể bơi uống rượu, trò chuyện với nhau suốt mấy tiếng. Sau đó, Kathleen nói sáng sớm hôm sau có cuộc họp nên đã vào nhà trước. Còn Micahel tiếp tục ở lại ngoài bể bơi hút xì gà, khoảng 45 phút sau, đến 2h30 sáng mới đi vào. Ông ta vừa vào nhà thì phát hiện ra cảnh tượng đáng sợ này. Cảnh sát cho rằng đây không giống một vụ tai nạn nên đá tiến hành khám nghiệm tử thi. Pháp ý phát hiện hàm lượng cồn trong cơ thể của Kathleen không cao, chỉ tương đương với một ly bia nhỏ. Toàn bộ thi thể có 38 vết thương, da đầu có 7 chỗ bị rách, xương sụn giáp trạng ở cổ bị gãy, viền mắt và huyệt Thái dương bầm tím, cổ tay và cánh tay cũng có vết thương. Kathleen tử vong vì mất máu quá nhiều. Trên tay bà ấy còn cầm một nắm tóc của chính mình, một vài sợi tóc bị nhổ tận gốc. Pháp y cho rằng vết thương trí mạng trên đầu Kathleen là do hung thủ dùng vật cứng đập vào liên ổ ổ ế tục, xương sụn ở cổ bị gãy là do bị bóp cổ, những vết thương khác là do phòng ngự. Bởi vì Michael là người duy nhất ở trong nhà khi ấy, nên ông ta nghiễm nhiên trở thành đối tượng bị tình nghi số một. Người bị hại thứ hai? Trong thời gian cảnh sát điều tra, có người báo với họ một vụ việc rất trùng hợp: Mười sáu năm trước, mẹ đẻ của hai đứa con gái mà Michael nhận nuôi cũng gặp tai nạn chết dưới cầu thang. Chuyện này phải bắt đầu từ bản thân Michael. Michael sinh năm 1943, tốt nghiệp khoa Chính trị học của Đại học Duke. Khi còn đi học, ông ta là một người phong độ, dịu dàng, là kiện tướng thể dục thể thao, chủ tịch Hội Nam sinh của trường, đồng thời là biên tập viên của báo trường, rất được các nữ sinh ái mộ. Sau khi tốt nghiệp, ông ta làm việc tại Bộ Quốc phòng Mỹ. Cùng trong năm ấy, ông ta kết hôn với người vợ đầu tiên Sue. Họ sinh được hai người con trai. Năm 1968, ông ta đi lính trong lực lượng Hải quân Mỹ, đến năm 1971 thì xuất ngũ. Về sau, Michael và Sue sống ở Đức một thời gian. Ở đó, họ quen một đôi vợ chồng là Elizabeth và George. Hai đôi vợ chồng có rất nhiều điểm giống nhau: Vợ đều là giáo viên tiểu học, chồng đều là sĩ quan xuất ngũ. Sau đó, George qua đời trong một hoạt động quân sự. Trong khoảng thời gian về sau, mối quan hệ giữa Elizabeth và vợ chồng Michael càng thêm gắn bó. Vào một buổi sáng trong năm 1985, khi người giúp việc của Elizabeth đến nhà làm việc thì phát hiện bà chủ đã chết dưới chân cầu thang, sàn nhà và tường tại hiện trường có rất nhiều máu. Ngay buổi tối trước đó, gia đình Michael đã cùng Elizabeth ăn tối. Michael đưa Elizabeth về nhà, cho hai con gái của bà đi ngủ rồi ố ấ ấ mới rời khỏi đó. Vì vậy, người cuối cùng nhìn thấy Elizabeth khi bà ấy còn sống có lẽ cũng là Michael. Sau khi nhận được tin báo của người giúp việc, bác sĩ và cảnh sát đi tới hiện trường rồi cắm một ống tiêm vào cột sống của Elizabeth, phát hiện chất lỏng vẩn đục. Được biết trước đó, Elizabeth từng than thở với người nhà là mình bị đau đầu, bản thân bà mắc bệnh rối loạn đông máu di truyền, vì vậy cảnh sát nhận định đêm ấy, bà bị xuất huyết não, dẫn đến ngã từ cầu thang xuống và tử vong. Khi mất, Elizabeth để lại hai cô con gái mới hai tuổi và một tuổi. Michael nhận nuôi hai bé gái này, đồng thời thừa kế 35000 USD tài sản thừa kế của Elizabeth (có thông tin nói là 60000). Nhưng tôi đoán vợ ông ta là Sue có lẽ không thực sự đồng tình với việc nhận nuôi hai cô bé. Năm 1987, vợ chồng Michael ly thân, hai con trai sống cùng Sue, Michael thì dẫn hai con gái nuôi trở về Mỹ. Sau khi liên kết hai vụ án lại với nhau, cơ quan kiểm sát đưa ra quyết định: Khám nghiệm lại tử thi của Elizabeth sau mười tám năm. Việc này đã nhận được sự ủng hộ của người nhà Elizabeth. Người khám nghiệm tử thi cho Elizabeth và khám nghiệm tử thi cho Kathleen là cùng một nữ pháp y, kết luận mà bà đưa ra đã khiến cho mọi người phải kinh ngạc: Xương sọ của Elizabeth cũng có nhiều vết nứt. Rốt cuộc, những vết nứt này là vì ngã từ trên cầu thang xuống hay do vật cùn gây ra? Kết hợp với miêu tả của nhân chứng về rất nhiều vết máu ở hiện trường, pháp y cho rằng Elizabeth chết vì bị mưu sát. Người nhà Elizabeth và người nhà Kathleen đều tin rằng Michael chính là hung thủ. Nhưng hai người con gái của Elizabeth lại không thể nào chấp nhận được kết luận này. Họ cực kỳ kiên định đứng về phía bố nuôi. Sau này, khi trả lời phỏng vấn, đạo diễn người Pháp của bộ phim tài liệu “The Stair case” - Jean Xavier de Lestrade cho rằng cái ế Ô chết của Elizabeth không có liên quan gì với Michael. Ông nói năm ấy cảnh sát Đức và quân đội đều tham gia điều tra. Thậm chí, họ còn cắt nửa đầu của Elizabeth đưa về phòng thí nghiệm rồi cho ra kết luận đúng là bà bị bệnh. Cơ quan kiểm sát đã mời người giúp việc và bạn thân của Elizabeth từ Đức đến phiên tòa. Các nhân chứng đều miêu tả hiện trường đầy máu. Có những vết máu ở vị trí cực kì cao, đến người cao cũng phải giơ tay lên mới có thể chạm đến, rất không phù hợp với tình huống nạn nhân ngã cầu thang. Nhưng bên công tố viên không hề khởi tố Michael về tội sát hại Elizabeth. Họ chỉ ra rằng rất có thể qua vụ tai nạn này, Michael đã tìm được gợi ý và làm giả tai nạn của Kathleen. Cuộc hôn nhân thứ hai Michael từng lấy cuộc sống quân đội của chính mình làm đề tài viết ba cuốn tiểu thuyết, một trong số đó đã lọt vào top sách bán chạy nhất. Nghe nói nhờ vậy mà ông ta nhận được mấy trăm nghìn USD tiền nhuận bút. Ông ta viết chuyên mục cho báo địa phương, phê bình quan chức chính phủ, thậm chí phê bình cả kiểm sát viên đã khởi tố ông ta. Vì vậy, một số người cho rằng kiểm sát viên ấy đã lợi dụng thời cơ để trả thù. Khu trường học Bắc Carolina - nơi Michael vừa chuyển về ở cũng là nơi Kathleen và con gái đang sống. Ba cô bé của hai nhà chơi với nhau, trở thành tiền đề để cha mẹ chúng gặp gỡ, quen biết rồi yêu nhau. Lý lịch của Kathleen chói mắt hơn của Michael nhiều. Khi đi học, bà chính là học sinh xuất sắc nhất của trường cấp ba, là sinh viên nữ đầu tiên trong lịch sử của Học viện Công trình thuộc Đại học Duke. Năng lực làm việc của bà rất cao, mới hơn 30 tuổi đã đảm nhiệm vị trí quản lý cấp cap của Nortel, Công ty Trách nhiệm Hữu hạn Lưới điện miền Bắc. Kathleen là một người phụ nữ mạnh mẽ, chú trọng sự nghiệp, nhưng chuyện tình cảm lại không thuận lợi. Cuộc hôn nhân trước đó của bà đổ vỡ vì chồng cũ ngoại tình, điều này đã khiến bà gặp phải cú sốc rất lớn. Khoảng một đến hai năm sau khi Kathleen ly hôn, đêm nào cô con gái Caitlin cũng có thể nghe thấy tiếng mẹ khóc một mình trên giường. Điều khiến cô bé rất vui là từ sau khi qua lại với bố của bạn mình - ông Michael, càng ngày mẹ càng trở nên vui vẻ hơn nhiều. Vì vậy, sau khi mẹ qua đời, đã có lúc Caitlin đứng ra bênh vực bố dượng, nói ông ta tuyệt đối không thể là hung thủ được. Năm 1989, Kathleen và Michael chuyển đến sống cùng nhau. Kathleen rất hào phóng, mời cả hai người con trai của Michael có vấn đề. Khi đang học đại học ở Duke, cậu ta đã phải đi tù bốn năm vì chế tạo vật liệu nổ. Năm 1997, Michael và Kathleen kết hôn. Để chiều theo sở thích của Kathleen, ông ta đã tổ chức một buổi hôn lễ rất long trọng. Sau khi cưới, sự nghiệp của Kathleen không những thăng tiến, được lên chức Phó Chủ tịch, mà tinh thần và sức khỏe bà cũng trở nên dồi dào, tự mình chăm sóc bọn trẻ và làm nội trợ. Hai cô con gái nuôi cũng tâm sự rằng Kathleen là người đầu tiên chải tóc cho chúng và hai người thật lòng coi Kathleen như mẹ ruột của mình. Nghe nói hai đứa con trai của Michael không thích Kathleen. Bởi vì trước đó cha rất lạnh nhạt với mẹ đẻ của họ, chưa bao giờ đối xử tốt với bà ấy như với Kathleen, ít nhất thì ngoài mặt là vậy. Hai vợ chồng thường xuyên tổ chức những buổi tiệc lớn sang trọng, mời rất đông khách quý. Đến năm 2001, trước khi xảy ra vụ án, hai người đã sống chung được mười hai năm. Trong khoảng thời gian dài như thế, tình cảm của hai người vẫn ngọt ngào như lúc ban đầu khiến cho mọi người xung quanh ai cũng hâm mộ, không ngừng dùng những từ ngữ như “hoàn mỹ” và “lý tưởng” để miêu tả tình cảm của hai vợ chồng. Nếu tất cả đều giống như mọi người đã nói, vậy động cơ nào đã khiến Michael sát hại Kathleen? Động cơ Cơ quan công tố cho rằng có hai động cơ: Tiền bạc và tình dục. Người xưa đã nói: Từ tiết kiệm chuyển sang xa hoa thì dễ, từ xa hoa quay về tiết kiệm lại rất khó. Theo điều tra của cơ quan công tố, tuy cuộc sống của Michael và Kathleen rất xa xỉ, nhưng thực ra khi đó, thu không bù được chi. Sau khi cưới, thu nhập của Michael vẫn không quá cao, tranh cử chức Thị trưởng và Nghị sĩ thành phố đều không trúng cử. Về cơ bản hai năm gần nhất, Michael hoàn toàn không có thu nhập, toàn bộ đều dựa vào Kathleen nuôi cả gia đình. Khi đó, lương một năm của Kathleen là 145000USD, đây là mức lương cực kì cao vào năm 2001. Cơ quan công tố phát hiện, tính đến lúc xảy ra vụ án, chỉ riêng thẻ tín dụng của hai vợ chồng đã ghi nợ 140000USD, gần như là dựa vào thẻ tín dụng để duy trì cuộc sống của gia đình. Thử nghĩ xem, nuôi một gia đình lớn như vậy, cái gì cũng cần tiền. Ba cô con gái đều đại học, mà học phí ở Mỹ rất đắt. Một căn biệt thự rộng lớn, thỉnh thoảng cần tu sửa,mỗi lần, hóa đơn đều từ mấy nghìn tới mấy chục nghìn USD. Năm 2001, kinh tế thế giới bất ổn. Khi đó, công ty Nortel đã sa thải hai phần ba số nhân viên. Kathleen bất đắc dĩ phải cho cấp dưới của mình nghỉ việc nhưng đồng thời cũng lo lắng không biết ngày nào sẽ đến lượt mình. Cùng lúc ấy, giá cổ phiếu Mỹ cũng giảm mạnh. Số cổ phiếu trị giá mấy triệu USD mà Kathleen vốn trông chờ khi về hưu lúc này bỗng nhiên mất giá, chỉ còn mấy trăm nghìn. Sau khi xảy ra vụ án, cảnh sát đã khôi phục lại thư điện tử gửi buổi chiều ngày 9 tháng 12 đã bị Michael xóa mất. Qua đó, được biết Michael viết thư bảo vợ cũ Sue thế chấp nhà vay tiền, dùng 30000USD để trả tiền thẻ tín dụng cho hai con trai. Ông ta còn cố ý dặn dò không được để Kathleen biết việc này. Không những thế, một trong hai cô con gái nuôi cũng hỏi cậu mình có thể hỗ trợ nộp ề ể ấ ố 5000USD tiền học phí cho cô hay không. Có thể thấy khi đó, bố mẹ nuôi của cô đã không còn khả năng thanh toán nữa. Cái chết của Kathleen có thể mang đến cái gì cho Michael? Công ty Nortel đã mua bảo hiểm nhân thọ trị giá hơn một triệu bốn trăm nghìn USD cho Kathleen. Sau khi cưới, Kathleen đã đổi người được hưởng tiền bảo hiểm từ chồng cũ thành Michael. Ngoài ra, Kathleen còn có 350000USD tiền lương trả chậm và một số khoản tài chính khác. Nếu bị sa thải khi còn sống, e rằng bà ấy sẽ không lấy được những phúc lợi này từ công ty. Nhưng nếu bà ấy bất ngờ ngã cầu thang rồi chết, số tiền ấy sẽ thuộc về Michael. Như vậy, ông ta không cần làm việc cũng có thể tiếp tục hưởng thụ cuộc sống xa hoa. Tuy nhiên, luật sư bào chữa của Michael cho rằng chuyện này không có căn cứ. Kathleen là quản lý cấp cao, khả năng bị sa thải rất nhỏ. Trên đời này làm gì có chuyện một người chồng tin vào lời đồn mà giết chết vợ mình? Hơn nữa, dù sao cũng là Kathleen đang nuôi gia đình, giết bà ấy thì chẳng phải cả nhà sẽ không còn nguồn thu nhập nào nữa hay sao? Sau đó, công ty bảo hiểm nhân thọ đã thanh toán tiền bảo hiểm cho con gái Caitlin của Kathleen và bố đẻ của bà, nhưng tôi cho rằng nếu không phải vì Michael trở thành bị cáo thì có thể ông ta sẽ nhận được khoản tiền này. Cuối cùng, công ty Nortel thanh toán cho cái chết của Phó Chủ tịch 385000USD tiền lương trả chậm và mai táng phí. Sau khi nhận được số tiền này, Michael đã dùng để thanh toán một phần phí thuê luật sư. Theo phim tài liệu, khoản phí này lên đến 7 đến 800000USD chưa bao gồm quá trình kháng án kéo dài suốt nhiều năm sau đó. Năm 2003, ngôi biệt thự của hai vợ chồng được rao bán. Bởi vì từng xảy ra án mạng, cùng với tình hình suy thoái nên biệt thự phải hạ giá từ hơn 1 triệu USD xuống còn 600000USD, đến năm 2004 mới bán được. Động cơ gây án thứ hai mà cơ quan công tố đưa ra có lẽ có sức thuyết phục hơn, nói rõ cuộc hôn nhân của đôi vợ chồng này vốn ề không hề lý tưởng như những gì mà Kathleen nghĩ hay người ngoài nhìn thấy. Sau khi xảy ra vụ án, cảnh sát niêm phong một chiếc máy tính đặt ở tần hai, phát hiện hàng trăm bộ phim người lớn, hơn 2000 bức ảnh khiêu gợi trong ổ cứng đã bị xóa và lịch sử truy cập hơn hai trăm website phim người lớn khác nhau. Điều khiến người ta kinh ngạc nhất là trong số những phim ảnh người lớn này có rất nhiều bộ chứa nội dung đồng tính nam. Cảnh sát phát hiện Michael từng gửi thư điện tử bàn chuyện giao dịch với một người đàn ông hành nghề mại dâm tên là Brad, tranh thủ lúc Kathleen đi vắng hẹn đến nhà ông ta “làm việc”. Nhưng hôm ấy, trùng hợp là Brad phải tới một nơi khác nên không đến được. Cảnh Brad ra tòa là điểm nhấn gây cười nhất trong bộ phim tài liệu. Anh ta đứng giữa tòa, đọc bức thư điện tử cực kỳ gợi tình giữa hai người. Khi bên công tố hỏi hắn rằng hai bên chuẩn bị làm gì sau khi gặp mặt, Brad đã trả lời: “Bất cứ chuyện gì”. Khi Brad được hỏi tiếp rằng anh ta có những khách hàng nào đã kết hôn rồi, anh ta nói “Thưa quý tòa”, sau đó lại vội vàng bổ sung thêm một câu “Nhưng không phải người đang chủ trì phiên tòa này”. Cả phiên tòa đều cười ầm lên. Michael đang ngồi ở ghế bị cáo, vẻ mặt ngán ngẫm. Luật sư bào chữa biện hộ rằng Michael là một người song tính (Bisexual), còn Kathleen là một người phụ nữ tiến bộ, sớm đã biết và chấp nhận chuyện này. Không những thế, bà còn thường xuyên lấy chuyện ấy để trêu đùa, nói các đồng đội trong quân ngũ của chồng đều là người đồng tính. Cũng trong phim tài liệu, Michael thừa nhận trong cuộc hôn nhân thứ hai này, ông đã nhiều lần ngoại tình và đối tượng đều là nam giới. Nhưng Michael cũng khẳng định rằng mình vẫn yêu vợ, Kathleen là người bạn đời về mặt tâm hồn của ông ta, còn những người khác chỉ là sự sa ngã về mặt thể xác. Về vấn đề song tính, tôi sẽ phân tích ở phần sau. Ngoài ra, nhân phẩm của Michael cũng bị nghi ngờ bởi ông ta đã từng nói dối khi tranh cử chức thị trưởng. Ông ta nói mình xuất ế ầ ngũ vì bị thương trong chiến tranh nhưng bị phóng viên vạch trần, thực ra là vì ông ta bị tai nạn gia thông khi đang ở Nhật Bản. Còn về một số huân chương ông ta mang ra, phóng viên không tìm được các thông tin liên quan. Nghi vấn về kết quả khám nghiệm tử thi Khoản phí thuê luật sư khổng lồ mà Michael chi ra không phải là vô ích. Ông ta mời hai vị chuyên gia đầu ngành trong giới pháp y là Tiến sĩ Lý Xương Ngọc (Henry Chang - Yu Lee, một nhà khoa học Pháp y người Mỹ gốc Hoa) và Tiến sĩ Werner Spitz đến biện hộ cho mình. Tiến sĩ Lý Xương Ngọc ra tòa làm chứng. Ông ta cho rằng vết thương của Kathleen phù hợp với nguyên nhân ngã cầu thang tạo thành chứ không phải bị đánh đập. Ông ta suy đoán khi ấy Kathleen bước lên cầu thang không vững nên trượt chân ngã ngửa về phía sau, lúc ngã xuống đụng vào trụ cửa đối diện nhô ra. Khi đứng lên, bà ấy giẫm phải máu của chính mình rồi bị trượt chân và ngã xuống bậc thang, cổ tay cũng đập vào đây. Cổ bị gãy xương cũng là do va đập tạo thành. Luật sư bào chữa bám chặt lấy một điểm rằng: Mặc dù da đầu của Kathleen có vết rách nhưng xương sọ không bị vỡ, não cũng không bị xuất huyết hay chấn thương sọ. Đây là điều rất hiếm xảy ra với các vết thương do va đập tạo thành. Thông thường, nếu thật sự có mục đích giết người thì chắc chắn hung thủ phải dùng hết sức đề cập, dẫn đến nạn nhân bị vỡ xương sọ hoặc chấn thương sọ não, hoặc cả hai. Cơ quan công tố cho rằng Michael đã dùng ống thổi lửa (dùng để thổi bếp lò) hoặc vật cùn vừa nhẹ vừa cứng tương tự để đập vào đầu Kathleen. Em gái của Kathleen từng mua bốn chiếc ống thổi lửa tặng người thân. Bà nói trước đó, mỗi lần đến nhà Kathleen đều nhìn thấy chiếc ống ấy để bên bếp lò nhưng sau khi vụ việc xảy ra, nó đã biến mất. ề ấ ấ ằ Điều đáng nói là khi ấy, sau khi nhìn thấy bằng chứng cơ quan công tố cung cấp, hai em gái và con gái ruột Caitlin của Kathleen đều đứng về phe phản đối Michael. Caitlinh cũng rạn nứt quan hệ với bốn anh chị em khác khi họ kiên quyết ủng hộ Michael. Một chi tiết đầy kịch tính là mấy ngày trước khi bồi thẩm đoàn đưa ra quyết định, chiếc ống thổi lửa đó được con trai của Michael tìm thấy trong nhà để xe. Nó được để dựa vào tường, bên trên có bụi và mạng nhện, chứng minh đã lâu không được sử dụng. Luật sư bào chữa cho rằng cảnh sát đã sớm tìm ra chiếc ống thổi lửa nhưng cố ý không nhắc tới việc này để coi đó là hung khí. Còn cơ quan công tố thì cho rằng họ đã cử mấy chục người tìm kiếm nhưng không tìm được. Nó không thể ở đó từ trước mà đã được người nhà Michael cố ý giấu đi, đến lúc này mới đưa ra để phản bác lại cơ quan công tố. Mặc dù có những người như Tiến sĩ Lý Xương Ngọc ủng hộ thuyết ngã cầu thang nhưng khi ấy, cơ quan công tố có một nhà phân tích vết máu là Duane Deaver đã làm một thí nghiệm, dựng lại hiện trường hung thủ dùng vật cùn giết người. Ông ta lấy một chiếc ống thổi lửa đập vào đầu giả bằng nhựa, tạo ra mô phỏng vết máu bắn trên quần short của Michael. Ông ta kết luận rằng vết máu trên tường, dưới đất, và trên người chỉ có thể hình thành trong tình huống này chứ không phải do ngã cầu thang. Điều đó là hoàn toàn trái ngược với kết luận của Lý Xương Ngọc. Thí nghiệm nảy sinh tranh chấp bởi lúc đập ống thổi, Duane Deaver đứng ở một vị trí hoàn toàn không thể tồn tại trong hiện thực: Phía ngoài lan can cầu thang. Nhưng Duane Deaver đã chỉ ra một điểm then chốt, đó là bên trong quần short của Michael có vết máu bắn từ dưới lên. Việc này chỉ có thể xảy ra trong tình huống Michael đứng ở phía trên Kathleen, còn vết máu di động. Tiến sĩ LýXương Ngọc lại cho rằng đây là khi Michael di chuyển thân thể Kathleen lúc bà ấy vẫn còn thở nên máu trên tóc Kathleen đã dính vào trong ống quần của Michael. Kết quả xét xử Cảm tưởng đầu tiên của tôi sau khi xem xong phim tài liệu là: Luật sư rất giỏi, yêu nghề, đầu óc mạch lạc, tư duy linh hoạt, diễn đạt chính xác. Trong phim, ngay cả Michael cũng phải cảm than rằng ở Mỹ, người giàu mời được luật sư giỏi là có thể tìm mọi cách thoát tội, còn người nghèo thì làm thế nào? Mặc dù luật sư và Michael cực kì tự tin nhưng sau khi thảo luận, bồi thẩm đoàn quyết định thành lập tội danh giết người cấp độ 14. Sau khi mất hết danh dự, Michael bị tuyên án chung thân và không được bảo lãnh. 4, Theo luật pháp Liên bang Mỹ, tội danh giết người cấp độ 1 có mức độ nghiêm trọng nhất với ba dấu hiệu cấu thành tội phạm: Người phạm tội cố ý, có cân nhắc và suy tính trước khi thực hiện hành vi giết người. Hai cô con gái nuôi khóc không thành tiếng giữa tòa án. Michael quay lại an ủi rằng: “Không sao đâu các con.” Năm 2003, Michael ngồi tù tám năm. Trong tám năm này, tất cả những lần kháng án đều bị bác bỏ khiến ông ta mất hết hi vọng. Năm 2011, cơ hội thay đổi cục diện của Michael đã tới. Nhà phân tích vết máu trước đó Duane Deaver bị người khác tố cáo cố ý che giấu kết quả thí nghiệm có lợi cho bị cáo để chứng minh kết luận của mình. Một vụ án trước đây cũng bị lật lại bản án và Duane Deaver bị sa thải. Kết quả điều tra phát hiện, có thể Duane Deaver đã từng làm giả bằng chứng trong 34 vụ án. Cũng nói thêm, năm 2014, thông qua Ủy ban Tài nguyên nhân lực của bang, Duane Deaver đã khiếu nại việc sa thải mình là không hợp lý. Sau đó, công ty của Duane Deaver buộc phải thuê lại và bồi thường cho ông ta 30 tháng tiền lương. ố ầ Năm 2011, luật sư mới tóm được cái thóp này và một số sai lầm về quy trình khác của Duane Deaver, chẳng hạn như một số túi vật chứng bị xé và lưu giữ lẫn lộn hay năm 2001, cảnh sát quên xét nghiệm AND trên thi thể người chết nên yêu cầu quan tòa hủy bỏ tội danh của Michael và trực tiếp phóng thích. Yêu cầu này bị quan tòa từ chối nhưng Michael đã giành được cơ hội xét xử lần hai. Năm 2017, Michael và cơ quan công tố đạt được thỏa thuận nhận tội. Ông ta thừa nhận đã giết người, còn cơ quan công tố giảm tội danh xuống thành ngộ sát. Bởi vì thời gian đi tù của Michael đã vượt qua khung hình phạt của tội danh này, nên ông ta lập tức được trả tự do. Lúc ấy, Michael đã hơn bảy mươi tuổi, sức khỏe rất kém. Sauk hi ra tòa, ông ta vẫn không nhận tội mà chỉ nói rằng mình thật sự không chịu nổi nữa, tài sản đã cạn vì chi trả cho quá trình kiện tụng. Em gái của Kathlên đã giận dữ lên án Michael và đoạn này cũng đã được đưa vào phim tài liệu “The Stair case”. Bà cho rằng mặc dù phim kể về vụ án này nhưng gần như không hề giới thiệu và chú ý đến nạn nhân Kathleen mà thay vào đó, thời lượng phim dùng để mô tả và phân tích bị cáo, cực kì phiến diện. Mặc dù tôi rất kính nể nhân viên quay phim đã bám theo để ghi hình bị cáo Michael và đội ngũ luật sư của ông ta trong suốt mười sáu năm; cũng cho rằng từ góc độ nghệ thuật, bộ phim đã thể hiện hình tượng nhân vật Michael rất phong phú nhưng đối với góc nhìn mà bộ phim đưa ra, tôi không thể nào chấp nhận. Làm phim tài liệu cũng giống như viết báo. Khi nhà làm phim cố ý đưa thông tin phiến diện thực ra là đã rời xa khách quan rồi. Tiếp theo, mặc dù thời lượng phim dài nhưng lượng thông tin quá ít, cố ý bỏ qua những thông tin mấu chốt của vụ án, ví dụ ngay cả tuyến thời gian hoàn chỉnh trong ngày xảy ra vụ án cũng không được đề cập tới. Ngoài hướng công kích của các luật sư bào chữa về các khía cạnh như xu hướng tình dục song tính, hung khí, và vết máu, thì các bằng chứng quan trọng có lợi cho cơ quan công tố gần như không ắ nhắc tới một từ nào. Có những tập phim dành toàn bộ thời lượng cho khán giả xem cảnh luật sư của bị cáo nói chuyện rồi trêu đùa, bàn bạc sách lược biện hộ, hoặc xem Michael lẩm bẩm tự nói và cảm thán cuọc đời. Bộ phim này rất được công chúng chú ý, “tẩy trắng” cho Michael ở mức độ rất lớn. Đại đa số mọi người sau khi xem xong đều không lên Google tra các thông tin khác mà cứ thế cho rằng đây là một vụ án oan. Cuối cùng, Michael thổ lộ rằng từ đầu đến cuối, ông ta vẫn luôn đeo nhẫn cưới để tưởng nhớ về người vợ Kathleen mà ông ta yêu nhất. Nhưng trên thực tế, năm 2002, ông ta đã cùng nữ biên tập của bộ phim “The Stair case” yêu nhau và qua lại suốt nhiều năm. Sau khi ông ta được tha bổng, hai người từng đến Pháp một thời gian rồi mới chia tay. Giả thiết cú mèo Năm 2009, một người hàng xóm của Michael và Kathleen cũng là một luật sư từng đưa ra giả thiết rằng hung thủ là cú mèo. Giả thiết này nghe cũng có lý lẽ nhất định. Tiểu bang Bắc Carolina là khu vực có rất nhiều cú mèo vằn, một loài cú mèo cỡ lớn. Thỉnh thoảng, dân bản địa vẫn thấy một số vụ cú mèo tấn công con người. Nghe nói cảm giác bị chúng tấn công vào gáy giống hệt như khi bị trúng đòn mạnh. Cuối tháng 12 chính là thời kì cú mèo giao phối. Con cái ấp trứng khá dễ nảy sinh phản ứng tấn công người (mặc dù sự kiện này xảy ra vào đầu tháng Mười hai). Tiếp theo, trong báo cáo của pháp y, tay Kathleen nắm một lọn tóc của chính mình, trên tóc phát hiện một chiếc lá thông và một sợi lông tơ rất nhỏ, mà chân cú mèo vằn lại phủ loại lông tơ này. Hơn nữa, trong số các vết thương của Kathleen có ba chỗ hình chẽ ba, phù hợp với hình dạng móng vuốt cú mèo. ế ằ ể ấ Giả thiết này cho rằng có thể khi ấy Kathleen đang đi vào nhà thì bị cú mèo tấn công. Móng vuốt cú mèo cào rách da đầu và quắp vào tóc bà. Kathleen đưa hai tay lên bảo vệ đầu mình nên trên bàn tay và cổ tay cũng bị cào rách tạo thành vết thương. Trong lúc gỡ chân con vật, Kathleen giật một nắm tóc trong tay, còn cú mèo thì tha một mảng da đầu của bà đi. Kathleen giãy giụa chạy vào nhà, để lại một vết máu trên khung cửa, mặt đất bên ngoài có hai giọt máu. Bà định chạy về phòng cầm máu nhưng vì chảy máu nhiều, lại thêm tinh thần hoảng sợ nên đã ngã từ trên cầu thang xuống, va đập chấn thương lần nữa dẫn đến mất máu quá nhiều mà chết. Giả thiết này thế nào? Luật sư bào chữa không hề dùng nó để biện hộ mà kiên định cho rằng Kathleen đã ngã cầu thang. Có lẽ vì chính họ cũng không thể nào tưởng tượng nổi nên không dám mạo hiểm. Phần lớn các chuyên gia nghiên cứu về chim nhiều năm có phản ứng như sau: Từ trước đến nay chưa từng nghe nói cú mèo tấn công con người nghiêm trọng vậy, nhưng… cũng không phải là hoàn toàn không thể xảy ra… Tôi đã sưu tầm một số kiến thức về cú mèo vằn và tổng kết lại như sau: Cú mèo vằn sẽ không vô duyên vô cớ tấn công con người và cũng sẽ không coi người như thỏ hoang. Bình thường, chúng tấn công con người đều xuất phát từ nhu cầu tự vệ, chẳng hạn như có người xông vào lãnh địa của nó đúng lúc nó đang ấp trứng. Mặc dù đoạn đường từ bể bơi vào trong nhà là đường mòn nhưng rõ ràng đây là khu vực sinh sống của con người, khó có khả năng bị cú mèo cho rằng đây là lãnh địa của nó. Đã là tự vệ, cú mèo vằn tấn công người chủ yếu là để đuổi người đi chỗ khác, khiến họ phải rời khỏi lãnh địa của nó. Vì vậy, phương thức tấn công mà cú mèo thường sử dụng là “fly and attack”, nghĩa là trong quá trình bay hạ thấp độ cao, tấn công bằng một đòn thật mạnh rồi lập tức bay đi. Nó sẽ không dây dưa hoặc quay lại tấn công lần nữa. ế ầ ằ ấ Tôi đã tìm kiếm ảnh những lần cú mèo vằn tấn công người trước đây, phần lớn vết thương có dạng điểm, nốt chứ không phải dạng vệt dài. Nếu giả thiết cú mèo tấn công từ sau gáy, bàn tay và cổ tay bị thương khi Kathleen đưa tay lên đỉnh đầu, vậy vết thương ở viền mắt phía trước và huyệt Thái dương xuất hiện bằng cách nào? Tóc Kathleen không dài nên khả năng bị quấn quanh đầu không cao. Nếu bị tấn công ở bên ngoài, tất nhiên bà ấy sẽ hét lên. Về lý thuyết, Michael ngồi ở cạnh bể bơi nên có thể nghe thấy được. Tạm cho rằng bà ấy bị cú mèo tấn công chảy máu, sau khi vào nhà, lên cầu thang thì chẳng may bị ngã, nhưng chẳng lẽ vết thương nghiêm trọng đến vậy? (Trong hình ảnh khám nghiệm tử thi, trên da đầu của Kathleen có một số vết rách lớn). Sợi lông tơ nhỏ bé trên tóc Kathleen chưa hề được xét nghiệm nên không rõ có phải thuộc về cú mèo vằn hay không. Nhưng nếu đêm ấy, Kathleen ngồi bên cạnh bể bơi thì việc có lông vũ, lá cây, hoặc lông ngỗng trong gối bám vào tóc đều có thể xảy ra. Đối với tôi, nếu vụ án này thực sự là vụ tai nạn do cú mèo vằn gây ra thì một số lời nói dối của Michael sẽ không thể nào giải thích được. Vườn Hoa Mạt Dược: Vào thời điểm nào đso trong buổi chiều ngày 8 tháng 12 năm 2001, Michael đã bật máy tính của ông ta trên tầng hai và xóa 216 file khỏi ổ cứng. Sau đó, ông ta đến phòng tập gym, còn Kathleen ở nhà. (Theo lời Michael, sau đó ông ta trở về, hai người còn ân ái với nhau. Sau đó, Kathleen tắm rồi xuống lầu nấu cơm và hai người ăn tối với nhau). Cảnh sát suy đoán: 19h: Hai người cùng xem phim “Người tình kiểu Mỹ” (America’s sweethearts) 21h 45: Lúc bạn của Todd tới đón cậu ta đi dự tiệc, người này nhìn thấy cha mẹ Todd là Michael và Kathleen đang uống rượu với nhau. 22h 45: Lịch sử trong máy tính chứng minh Kathleen đã sử dụng máy tính của Michael. 23h 8: Kathleen gọi điện thoại cho một đồng nghiệp, bảo người này gửi thư điện tử cho mình (vào hộp thư của Michael) để chuẩn bị cho hội nghị ngày mai. Trong điện thoại, giọng nói của bà ấy vẫn bình thường, không hề có biểu hiện giận dữ và cũng không giống như đã uống nhiều rượu. Được biết, Kathleen rất ít khi sử dụng máy tính của Michael. Hôm đó đột nhiên dùng máy tính và hộp thư của chồng để nhận thư, có thể là vì bà đã để quên máy tính xách tay của mình ở văn phòng. Vườn Hoa Mạt Dược: Ngay từ phần mở đầu của phim tài liệu, Michael đã nói ông ta và Kathleen xem xong bộ phim “Người tình kiểu Mỹ” vào khoảng 23h, sau khi dọn dĩa ăn tối, hai người mang ly rượu đến phòng bếp để tiếp tục nói chuyện và uống rượu, cuối cùng ra bể bơi ngồi tâm sự tới lúc Kathleen phải vào nhà trước. Đến gần 0h, đồng nghiệp của Kathleen gửi tài liệu hội nghị đến hộp thư của Michael nhưng thư này vẫn chưa có người đọc. 2h 40 ngày 9 tháng 12 năm 2001, Michael gọi cuộc điện thoại đầu tiên báo cảnh sát, nói vợ mình vẫn còn thở. 2h 46, ông ta gọi cuộc điện thoại thứ hai, nói vợ đã ngừng thở. Từ 2h 47 đến 2h 53, cảnh sát và nhân viên cứu hộ tới hiện trường. Sơ hở về thời gian Ban đầu, Michael nói với cảnh sát rằng ông ta và Kathleen cùng nhau vào nhà, giữa đường ông ta quay lại bể bơi để tắt đèn rồi đi vào thì phát hiện sự việc và lập tức báo cảnh sát. Hiển nhiên, ông ta cho rằng nếu Kathleen ngã từ trên cầu thang xuống thì hai người chỉ cần tách ra khoảng vài phút là đủ. ằ ế ấ Nhưng ông ta không nghĩ rằng Kathleen chết vì mất máu quá nhiều nên vài phút rõ ràng là không đủ. Điều đó có nghĩa ít nhất bà ấy phải mất 40% máu trong cơ thể. Ngã cầu thang tạo thành vết thương rách da đầu, 40% máu trong chảy ra qua những vết thương này không phải việc có thể kết thúc trong vòng vài phút. Thế nên, Michael thay đổi lời khai của mình. Ông ta nói hai người đã ngồi ở bên bể bơi, uống rượu và tâm sự rất lâu. Sau đó, Kathleen nói sáng sớm ngày mai có một hội nghị qua điện thoại nên đứng dậy đi vào nhà trước. Còn Michael tiếp tục ở lại bên ngoài hút xì gà khoảng bốn mươi lăm phút, đến tận 2h 30 mới vào nhà, vừa vào đã phát hiện ra vụ việc. Theo tôi, 45 phút thêm ra ấy chính là để Kathleen có thời gian chảy máu đến chết. Michael không thể nhớ lầm một điểm khác biệt lớn như thế được. Ông ta nói dối hiển nhiên là để che giấu điều gì đó. Vậy chúng ta cùng lần ngược lại tuyến thời gian một chút: 2h 30 trừ đi 45 phút là 1h 45, theo cách nói của ông ta, Kathleen đi vào nhà lúc khoảng 1h 45 và bị ngã cầu thang. Thời gian cảnh sát tới trong khoảng từ 2h 47 đến 2h 53, cách thời gian xảy ra cái gọi là tai nạn đại khái đã hơn một tiếng đồng hồ. Nhưng sau khi nhận được tin báo của Michael và tới hiện trường, cảnh sát phát hiện một số vết máu đã sắp khô, điều này có nghĩa chúng đã tồn tại ít nhất 90 phút. Bên cạnh đó, pháp y đã phát hiện một số noron thần kinh màu đỏ trong não của Kathleen chứng tỏ trước khi thực sự chết, cơ thể bà ấy đã trải qua trạng thái thiếu oxygen (oxygen không thể đi vào não) ít nhất hai tiếng đồng hồ. Điều này mâu thuẫn với thời gian chết 45 phút mà Michael đã chừa ra. Gọi điện thoại báo cảnh sát Rạng sáng ngày 9 tháng 12 năm 2001, sau khi nhân viên trực tổng đài 911 nghe máy, câu đầu tiên của Michael là: “Vợ tôi xảy ra tai nạn rồi, bà ấy vẫn còn thở”. Nhân viên 911 hỏi: “Bà ấy bị tai nạn như thế nào?” “Bà ấy ngã từ trên cầu thang xuống.” Điểm nà y không phù hợp với kiến thức căn bản về hiện trường. Đầu tiên, một người ngã cầu thang gỗ và bị thương ở đầu rất ít khi chảy một lượng máu lớn như vậy. Vì thế khi báo cảnh sát, bình thường người trình báo sẽ miêu tả hiện trường khác thường nhất, dễ thấy nhất của hiện trường và người bị thương là: “Bà ấy chảy rất nhiều máu.” Nhưng trong toàn bộ cuộc nói chuyện điện thoại báo cảnh sát, Michael không hề nhắc tới một chữ “máu” nào. Đây cũng là một loại tâm lý tránh né khi chột dạ. Trong cuộc gọi đầu tiên, Michael chỉ nói: “Bà ấy vẫn còn thở”. Trong cuộc gọi thứ hai cách vài phút sau đó, ông ta nhấn mạnh: “Bà ấy không còn thở nữa”. Vì vậy, rất rõ ràng ông ta muốn tạo một ấn tượng rằng Kathleen chết sau 2h 30 bởi nếu thời gian chết sớm hơn, chẳng hạn như lúc 23h thì ông ta không thể nào giải thích được vì sao đến 2h 40 mình mới gọi điện thoại báo cảnh sát. Ngoài ra, thông thường, khi nhìn thấy cảnh tượng khác thường như thế, người trình báo sẽ rất ít khi tự mình đưa ra kết luận: “Bà ấy ngã từ trên cầu thang xuống”, vì họ không chứng kiến vụ việc xảy ra thế nào, biết đâu là người từ bên ngoài vào tấn công thì sao? Bể bơi lúc nửa đêm? Michael nói ông ta và Kathleen ngồi bên bể bơi, vừa uống rượu vừa tâm sự rất lâu, thậm chí ông ta còn ở lại một mình tới bốn mươi lăm phút, đến tận 2h 30. Nhưng phải biết khi đó là tháng Mười hai, theo thông tin của cơ quan khí tượng, nhiệt độ khu vực nhà ông ta sau 0h đêm chỉ có 100C. Hôm ấy không phải cuối tuần và sáng hôm sau Kathleen còn có hội nghị. Nửa đêm rét lạnh, có ai ngồi ở bên ngoài suốt mấy tiếng đồng hồ đến tận 2h 30 sáng? Lúc cảnh sát nhìn thấy Michael, ông ta đang ầ ề mặc quần short và áo singlet, hơn nữa ông ta còn nói mình chưa hề thay quần áo. Một nam thanh niên người da trắng nếu chỉ mặc phong phanh như vậy và ngồi ngoài trời trong nhiệt độ 100C, chắc chắn anh ta sẽ rét run lên và vô cùng khó chịu. Lúc này, theo bản năng, con người sẽ tìm kiếm nơi ấm áp để làm ấm cơ thể. Rất khó để tưởng tượng được rằng sau khi Kathleen vào nhà, Michael còn có thể ngồi một mình ở bên ngoài trời rét và hút xì gà suốt 45 phút như vậy. Say rượu? Khi cảnh sát tới, trên bàn có một vỏ chai rượu và hai chiếc ly rỗng. Trong bồn rửa bát có mùi cồn nồng nặc. Không những thế, trong hai chiếc ly trên bàn chỉ có một chiếc có dấu vân tay, chiếc còn lại rất sạch sẽ, không có gì hết. Có lẽ, đêm ấy Michael và Kathleen đã uống rượu nhưng chỉ uống một chút. Để chứng tỏ vợ mình uống say nên ngã cầu thang, ông ta đã đổ nguyên một chai rượu vào bồn rửa và giả vờ như hai người đã uống hết. Kathleen là một người phụ nữ chững chạc và lý trí, bà ấy đi lại trên cầu thang đã rất quen thuộc trong ngôi nhà của mình nên xác suất xảy ra chuyện ngoài ý muốn rất nhỏ. Nếu theo giả thiết đầu tiên là do không cẩn thận nên bị ngã, vậy sau đó tại sao bà ấy giẫm phải máu của chính mình rồi nhiều lần trượt chân, đụng đầu? Đây là biểu hiện của người say rượu. Nhưng trên thực tế, nồng độ cồn trong máu của Kathleen là 70mg/100ml, hoàn toàn không thể kết luận bà ấy đã say rượu. Vết máu ngoài cửa Bên trong cửa có một vết máu, mặt đất bên ngoài có hai vết. Điều này phù hợp với giả thiết “cú mèo”, nhưng không hề phù hợp ố ầ với tình huống nạn nhân ngã cầu thang. Cho dù Kathleen ngã cầu thang nhiều lần và giãy giụa thế nào cũng không thể có vết máu bắn ra tới tận cửa. Cơ quan công tố cho rằng đây là Michael vô tình lưu lại khi ra ngoài vứt hung khí. Kiểm tra thư điện tử? Trong thời gian từ 22h hơn đến 23h, Kathleen dùng máy tính của Michael để kiểm tra thư, nhưng trong phim tài liệu Michael nói khoảng thời gian ấy hai vợ chồng đang cùng xem phim “Người tình kiểu Mỹ” Có lẽ ông ta nhớ nhầm thời gian, có thể phim đã hết lúc 22h hơn, sau đó Kathleen mới đi kiểm tra thư điện tử. Nhưng trong lời khai của ông ta gần như không hề đề cập đến chuyển kiểm tra thư này. Từ góc độ tâm lý học tội phạm, nếu một sự việc hoặc một đồ vật nào đó liên quan đến tình tiết cốt lõi của vụ án thì xuất phát từ cảm giác chột dạ, tội phạm sẽ cố ý né tránh không nhắc tới. Vết máu và dấu chân Trên ống quần thể thao của Kathleen có một dấu chân máu giẫm lên, hơn nữa còn hướng xuống sàn nhà. Điều này cho thấy sau khi bị ngã, hoặc là Kathleen tự mình di chuyển chân, hoặc là sau đó bà bị người khác chỉnh lại tư thế. Dấu chân máu được chứng thực khớp với dấu giày Michael đi đêm hôm đó. Lúc cảnh sát tới nơi, đôi giày dính đầy máu ấy đã bị cởi ra và đặt ở bên cạnh. Nếu Michael vào cửa, phát hiện Kathleen ngã cầu thang, đang nằm dưới đất và vẫn còn hơi thở, ông ta phải cực kỳ cẩn thận khi động đến thân thể bà. ấ ấ Dấu chân này cho thấy hoặc ông ta không có chút thương cảm nào với thi thể; hoặc khi ấy, ông ta ở trong trạng thái vô cùng hoảng loạn. Sau đó, ông ta cởi giày ra, có thể là để đi lại trong nhà xóa hết các dấu vết, không để lại dấu chân. Song tính? Khi biết ông ta là người song tính, cùng với tình cảm hết sức “hoàn mỹ” giữa ông ta và Kathleen như trong mô tả của mọi người, tôi liền tin tưởng Michael. Nếu Michael ngoại tình với phụ nữ, có lẽ nhiều người sẽ hiểu rằng Michael chỉ thỉnh thoảng chơi bời và yêu Kathleen thật lòng. Nhưng trong cuộc hôn nhân thứ hai, Michael chỉ ngoại tình với nam giới. Điều này không khỏi làm người ta nghi ngờ rốt cuộc ông ta là người đồng tính chưa công khai, cố tình lừa gạt phụ nữ, hay là một người song tính có hứng thú với cả nam và nữ? Tôi vẫn biểu thị nghi ngờ đối với nhóm song tính luyến ái. Về điều này, để tôi phân tích các dữ liệu thực tế một chút. Năm 2005, tại Mỹ có khoảng 1,8% đàn ông tự nhận là người đồng tính và 0,4% tự nhận là người song tính. Tuy nhiên, một thí nghiệm của Đại học Tây Bắc Mỹ đăng trên “Thời báo New York” (xem “Straight, Gay or Lying? Bisexuality Ravisited”) chứng minh rằng một số đàn ông nói mình là song tính nhưng thực tế lại là đồng tính. Thí nghiệm này cho những người song tính xem hình ảnh gợi cảm của người thuộc các giới tính khác nhau, sau đó quan sát và ghi chép phản ứng sinh lý của họ. Các nhà Tâm lý học tham gia thí nghiệm đã phát hiện ra rằng: toàn bộ đàn ông song tính trong thí nghiệm chỉ có phản ứng sinh lý đối với hình ảnh khiêu gợi của một giới tính nhất định, chứ không phải với tất cả các giới tính, trong đó tuyệt đại đa số chỉ có phản ứng sinh lý với nam giới, trong đó tuyệt đại đa số chỉ có phản ứng sinh lý với nam giới. Nói cách khác, những người đàn ông tự nhận là song tính này rất có thể vì không chấp nhận nổi việc mình là người đồng tính nên mới nói dối mình là song tính. ắ Năm 2011, Đại học Tây Bắc của Mỹ lặp lại thí nghiệm như vậy. Lần này, họ phát hiện một số người tham gia thí nghiệm tự nhận mình song tính quả thực có phản ứng sinh lý với cả hai giới tính. Không có gì phải nghi ngờ, trên thế giới này thật sự có người song tính. Vấn đề chỉ là tỷ lệ thực tế. Cùng với xã hội đang dần trở nên thoáng hơn với các xu hướng tình dục, tôi tin rằng sẽ nhà càng có nhiều người thẳng thắn nhìn nhận tính hướng của mình mà không cần phải nói dối để che giấu. Nếu người song tính, đồng tính, và dị tính tập trung trong cùng một không gian và trong điều kiện hoàn toàn tự do, xu hướng tình dục của mỗi cá nhân sẽ bị một giới tính hoặc đặc tính của một giới tính nào đso hấp dẫn về mặt sinh lý, vậy tỷ lệ người song tính nam thực sự rất có thể còn thấp hơn tỷ lệ những người tự nhận. Như vậy, rốt cuộc Michael nằm trong số rất ít những người thật sự song tính hay đồng tính nhưng tự nhận mình là song tính? Trong phần cuối của phim tài liệu, Michael đưa ra một số giải thích đối với xu hướng tình dục của mình. Ông ta đề cập tới việc mình sinh ra vào những năm 40 của thế kỷ trước và trưởng thành trong thời đại hết sức bảo thủ tại Mỹ. Mặc dù xã hội Mỹ bây giờ rất thoáng đối với các xu hướng giới tính, nhưng trong thập niên 80, một cậu bé thoạt nhìn như người đồng tính sẽ bị bắt nạt ở trường. Hiện nay khi tuyển quân, quân đội Mỹ thực hiện nguyên tắc “Chúng tôi không hỏi, anh có thể không nói”, nhưng trong thời kỹ Michael nhập ngũ, thái độ của chính quyền đối với người đồng tính chính là “không thể”. Hồi đại học, Michael là một thanh niên da trắng rất được hoan nghênh, Chủ tịch Hội Nam sinh, và kiện tướng thể dục thể thao, nên nếu để người khác biết được xu hướng tính dục của mình, tất cả sẽ sụp đổ. Mà việc ông ta kết hôn và có con sớm chính là đang cố gắng bảo vệ hình tượng trai thẳng da trắng ưu tú được xã hội tôn sùng khi ấy. Cả đời che giấu bí mật lớn nhất về thân phận của mình, khi trưởng thành sẽ thế nào? ể ố ố Một mặt, Michael đã tự luyện tập cách để nói dối và sống với chiếc mặt nạ của mình, làm sao để thể hiện cho người khác thấy điều mà mình hi vọng họ thấy. Có thể nói ông ta là một cao thủ diễn kịch. Trong phim tài liệu, mỗi lần mở phiên tòa, khi các nhân chứng nhắc tới cái chết của Kathleen, ông ta có thể ngay lập tức chảy nước mắt ào ào. Cho nên, dù đã bị vạch trần ngoại tình, nhưng ông ra vẫn có thể khóc lóc, nói Kathleen là tình yêu thật sự của ông ta. Mặt khác, nếu Michael là người đồng tính chứ không phải song tính, vậy e rằng trong quá trình trưởng thành, ông ta cũng đã sớm học được cách ngụy trang và tự thôi miên mình, đánh lừa bản thân để quan hệ và sống chung với phụ nữ, thậm chí tự kỷ ám thị rằng đó là tình yêu. Hiện nay, nhiều người đồng tính thường xuyên lên mạng thảo luận về việc làm thế nào để đối phó với vợ mình, chẳng hạn như nhắm mắt tắt đèn, tưởng tượng vợ mình là một người đàn ông, dùng tư thế của nam - nam… Hầu hết các câu trả lời đều là “Cứ cố gắng chịu đựng rồi cũng sẽ qua”. Có thể chấp nhận ân ái với nữ giới là coi như song tính sao? Hiển nhiên không phải. Nếu Michael là người đồng tính thì tình cảm của ông ta đối với Kathleen nhiều nhất là tình thân, tình bạn, và lòng biết ơn trước những hi sinh của bà ấy. Michael tuyên bố rằng Kathleen đã sớm biết và chấp nhận ông ta là người song tính, hơn nữa còn đồng ý cho ông ta phản bội bà về mặt thể xác. Đây là lời nói dối. Trong cuộc hôn nhân trước, Kathleen đã bị sự phản bội của người chồng cũ làm thương tổn rất nhiều, chẳng lẽ bà ấy thật sự có thể chấp nhận và tận hưởng một cuộc hôn nhân như vậy sao? Vì vậy, cơ quan công tố cho rằng thông qua màn biểu diễn được chuẩn bị cực kỳ kỹ càng và rèn luyện trong thời gian dài, Michael đã thành công đóng vai một người chồng tốt yêu vợ, làm cho Kathleen tin là thật và đắm chin trong ảo giác hạnh phúc đến tận đêm xảy ra vụ án, khi Kathleen sử dụng máy tính mới phát hiện ra bí mật của ông ta. Michael đã quen với việc những người phụ nữ xung quanh có thiện cảm với ông ta và lợi dụng điều này để đạt được mục đích của mình. Từ khi bắt đầu làm phim năm 2002, nữ biên tập viên phim tài liệu đã rơi vào lưới tình với ông ta. Thậm chí, trong tình huống đã biết về cái gọi là song tính của Michael, cô ta vẫn tiếp tục mối quan hệ tình cảm suốt nhiều năm. Nếu Michael là người đồng tính thì ông ta không cần thiết phải làm tất cả những chuyện này. Năm 2003, ông ta ngồi tù và không phải thực hiện trách nhiệm ân ái với nữ biên tập viên ấy, chỉ cần dùng lời ngon tiếng ngọt trong thư từ là có thể lợi dụng được tình cảm của cô ta để sản xuất một bộ phim tài liệu hoàn toàn có lợi cho mình. Người xung quanh ai cũng hâm mộ Michael và Kathleen có một tình yêu lý tưởng nhưng chỉ nhìn từ việc ông ta gọi trai đến nhà thôi cũng đã thấy đây là một chuyện cực kỳ mỉa mai. Có lẽ chuyện này cũng nhắc nhỏ chúng ta rằng nhu cầu sinh lý, tâm lý cùng phương thức tư duy của nam và nữ vốn đã tồn tại khác biệt to lớn. Chung sống trong thời gian dài, việc xuất hiện những khác biệt, xung đột,khuyết điểm, và những thất vọng nhỏ là điều khó tránh khỏi. Khi mối quan hệ của bạn với người kia quá hoàn mỹ hay bạn gặp được một người mà quả thực không thể chỉ ra được một khuyết điểm nào, rất có thể bạn đã gặp phải một diễn viên hoặc một kẻ lừa đảo. Những kịch bản lừa tiền, lừa tình không phải đều viết như vậy sao? Đêm xảy ra vụ án Năm 1987, sau khi trở lại Mỹ, để bước chân vào tầng lớp thương lưu, để bảo vệ hình tượng thẳng da trắng của mình và để chăm sóc hai đứa con gái nuôi, Michael cần một người vợ. Lúc này, Kathleen xuất hiện và trở thành sự lựa chọn tốt nhất. Bà là một người phụ nữ mạnh mẽ, biết chăm lo cho sự nghiệp, ố ế không giống những cô gái nhạy cảm, nhõng nhẽo, yếu ớt, và hay đòi hỏi. Bà có chỉ số thông minh cao, năng lực làm việc tốt, nhưng chỉ số tình cảm lại thấp. Michael chỉ cần dùng lời ngon tiếng ngọt đã làm bà mê mẩn tới mức đầu óc choáng váng. Kathleen có thể mang đến cho ông ta cả địa vị xã hội lẫn cuộc sống xa hoa. Từ phương diện tâm lý, ông ta tự thuyết phục mình rằng chỉ cần cố gắng duy trì một vỏ bọc tình yêu hoàn mỹ lã có thế có được cuộc sống như vậy. Có lẽ cái chết của Elizabeth năm 1985 không liên quan gì tới Michael nhưng vụ tai nạn ngã cầu thang của bà ấy đã trở thành một gợi ý để ông ta biết việc này là khả thi. Chắc ông ta từng tưởng tượng nếu một ngày nào đó, Kathleen cũng ngã vầu thang và chết một cách đột ngột thì tốt, ông ta có thể được tự do cả về tài chính và tinh thần. Nhưng Michael chưa từng nghĩ rằng thời điểm này là năm 2001 chứ không phải năm 1985 khi kỹ thuật điều tra hình sự còn lạc hậu. Hơn nữa, Elizabeth mắc bệnh máu chậm đông, máu chảy không ngừng và đã chảy rất nhiều, còn Kathleen thì không. Tôi không cho rằng vụ giết người đêm khuya ngày 8 tháng 12 ấy có dự mưu từ trước. Nếu đó là ngày được chọn sau khi đã lên kế hoạch trong suốt một thời gian dài thì Michael có thể làm tốt hơn, chẳng hạn như thuyết phục Kathleen uống nhiều rượu hơn, làm cho vợ mình say thật; có bằng chứng ngoại phạm tốt hơn hoặc gọi điện thoại báo cảnh sát sớm hơn… Đối với ông ta, chuyện xảy ra đêm ấy là việc ngoài ý muốn. Thời gian đó, hai vợ chồng gặp phải khủng hoảng tài chính. Kathleen mang tâm sự nặng nề, hai người nói chuyện không được hòa hợp như trước. Michael thì buông thả bản thân hơn, có ý định tìm trai bao để giải tỏa áp lực. 23h hơn ngày 8 tháng 12 năm 2001, sau khi nghe điện thoại của đồng nghiệp, Kathleen tiện tay xem tài liệu trong máy tính của Michael và phát hiện ra bí mật đen tối nhất của chồng mình. Đối với người từng phải chịu một lần phản bội và vẫn cho rằng được chồng ắ ấ yêu thương như Kathleen, thời khắc ấy có lẽ không khác nào ngày tận thế. Bà đã thực sự sụp đổ. Sau khi bí mật mà mình đã cất công che giấu gần sáu mươi năm bị lộ, Michael rất hoảng hốt. Ông ta sợ Kathleen sẽ nói cho bạn bè và con cái biết, sợ sẽ mất hết tất cả sau khi ly hôn. Thế nên, ông ta đã giết chết vợ, dùng hai tiếng đồng hồ để ngụy trang thành một vụ tai nạn ngã cầu thang. Sau khi thu dọn hiện trường và khẳng định vợ đã chết, ông ta mới báo cảnh sát. Trên đây là một trong những suy đoán tôi đưa ra sau khi đã căn cứ vào các tư liệu được công khai trên phương tiện truyền thông, không phải kết luận trong hiện thực. Tác giả luôn muốn mọi chuyện được sáng to. Tôi hi vọng trước khi qua đời, Michael có thể viết lại chân tướng, nói thật với người đời rốt cuộc đêm hôm ấy đã xảy ra chuyện gì. NGHI CAN MANG GƯƠNG MẶT THIÊN SỨ Khuôn mặt thiên sứ, trái tim rắn rết? Vụ án mạng Meredith Kercher Vụ án này có thể được xếp vào top 5 vụ án mà tôi đã từng tốn nhiều thời gian để nghiên cứu nhất. Hai bị cáo trong vụ án này là một cặp tình nhân, trong vòng 7 năm, họ đã trải qua 4 lần xét xử, 2 lần bị tuyên án có tội và 2 lần vô tội. Trong lần xét xử thứ hai, bên ngoài tòa án tụ tập hàng ngàn người và phóng viên truyền thông từ khắp nơi trên thế giới đổ về. Khi thẩm phán tuyên bố hai bị cáo vô tội, tiếng khóc và tiếng kháng nghị không ngừng vang lên trong đám đông người đang tụ tập ở ngoài. Thậm chí, có người cao giọng diễn giảng và an ủi mọi ằ ố ấ người, nói rằng còn có Tòa án tối cao nữa mà, nhất định chúng ta sẽ định tội được cô ta! “Cô ta” ở đây chính là nhân vật nữ chính của vụ án này, Amanda Knox. Một cô gái đến từ Mỹ, xinh đẹp, thông minh, khi xảy ra vụ án mới chỉ 20 tuổi và đang là sinh viên đại học năm thứ hai. Quá trình xảy ra vụ án Bị cáo và cảnh sát Italia trình bày về quá trình xảy ra vụ án có sự khác biệt rất lớn cho nên trước hết, tôi sẽ nói về một phiên bản tương đối trung lập. Vụ án này xảy ra năm 2007 tại một thành phố nhỏ nằm trên đỉnh một ngọn núi tên là Perugia thuộc Italia. Mặc dù dân số Perugia chỉ có 150000 người nhưng không hề vắng vẻ vì nơi này có nhiều trường đại học, sinh viên chiếm hơn một phần tư dân số. Hơn nữa, có không ít người là du học sinh nước ngoài. Trong thành phố toàn là các quán bar san sát, nối tiếp nhau, vừa đến đêm đã hoạt động tấp nập. Các thanh niên nam nữ uống rượu mua vui suốt đêm. Mặc dù rất xa hoa, trụy lạc, nhưng trước khi xảy ra vụ án này, đã hai mươi năm nơi đây không có vụ án mạng nào. Hiện trường vụ án nằm trong một ngôi nhà nhỏ ở số 7 đường Via della Pergola. Tầng trệt của ngôi nhà là một khu tập thể bốn phòng, cóbốn người sống chung là hai nữ du học sinh Meredith Kercher 22 tuổi đến từ London và Amanda hơn 20 tuổi đến từ Mỹ, nữ luật sư Filomena Romanelli và Laura Mezzetti. Ở dưới tầng hầm là bốn chàng trai người Italia, họ có quan hệ rất tốt với Meredith và Amanda, thường xuyên chơi cùng nhau. Hiện trường vụ án: Ngôi nhà nhỏ ở số 7 đường Via della Pergola ễ Ngày 1 tháng 11 năm 2007 là một ngày nghỉ lễ ở Italia nên các bạn cùng phòng người Italia ở số 7 đường Via della Pergola đều rời khỏi thành phố, bao gồm cả bốn nam sinh dưới hầm, chỉ có Amanda và Meredith ở lại. Đêm đó, Meredith và ba cô bạn người Anh cùng ăn tối ở nhà người khác. Khoảng 20h 45, cô cùng các bạn tạm biệt nhau ở chỗ cách nhà số 7 đường Via della Pergola khoảng hơn 400 mét rồi một mình về nhà. Sau đó xảy ra chuyện gì, tạm thời tôi không thể kết luận. Khoảng 23h, một khách thuê phòng đối diện bên hoa phố nói rằng nghe thế một tiếng hét chói tai vọng ra từ nhà số 7 đường Via della Pergola. Sau đó, khách trọ nghe thấy tiếng bước chân của không chỉ một người vội vàng chạy ra từ trong ngôi nhà đó, men theo phố chạy trốn đi theo các phương hướng khác nhau. Hôm sau Trưa ngày 2 tháng 11, có người nhặt được một chiếc điện thoại di động trong công viên cách nhà số 7 đường Via della Pergola không xa và nộp cho cảnh sát. Cảnh sát tra được chiếc điện thoại di động này thuộc về Filomena (bạn cùng khu trọ người Italia đã nhắc tới ở trên) nên đã phái hai cảnh sát khu vực đến địa chỉ nơi cô ở là số 7 đường Via della Pergola để xem xét tình hình. Khi tới nơi (thời gian cụ thể còn gây tranh cãi), họ nhìn thấy Amanda và bạn trai của cô là Sollecito đứng ở cửa nhà, biểu cảm có vẻ hơi kì lạ. Cặp tình nhân trẻ này nói mình vừa gọi điện thoại báo cảnh sát và khôn g ngờ cảnh sát đã đến nhanh như vậy. Vì sao họ lại báo cảnh sát? Dưới đây là phiên bản lời khai đầu tiên mà họ nói: Đêm hôm trước (tức ngày 1 tháng 11), Amanda ở qua đêm tại nhà bạn trai Sollecito. Hơn 10h sáng hôm sau, Amanda trở lại số 7 ể ắ ầ đường Via della Pergola để tắm và thay quần áo. Sau đó, khi trả lời phỏng vấn, cô nói rằng bởi vì chê phòng tắm nhà Sollecito quá nhỏ nên mới về nhà. Lúc vừa vào cửa, Amanda đã phát hiện có gì đó không bình thường. Cửa nhà đang mở rộng, cô gọi vài tiếng nhưng không thấy ai trả lời. Khi vào phòng tắm, cô phát hiện bồn rửa tay và trên vòi nước trong phòng tắm dùng chung với Meredith có vài giọt máu. Cô cho rằng đó có thể là do Meredith dây vào nên không quá để ý. Sau khi đánh răng và tắm rửa xong, Amanda ra khỏi phòng tắm mới phát hiện trên thảm trải sàn có một mảng máu lớn (sau đó được chứng thực là một dấu chân máu của người đi chân đất). Nhưng cô lại cho rằng có thể ai đó bị đứt tay nên vẫn chưa thực sự để ý. Tiếp đến, cô đi tới phòng tắm mà Filomena và Laura dùng chung (diện tích khá lớn) để sấy tóc thì phát hiện trong bồn cầu lại có phân chưa được xả. Lúc này Amanda mới thấy nổi da gà. Sau đó, cô sang nhà Sollecito, nói với bạn trai những chuyện kì lạ này rồi cùng cậu ta trở về nhà số 7 đường Via della Pergola. Khi Solleccito khai báo với cảnh sát, cậu ta nói lúc đi vào phòng ngủ của Filomena (cửa phòng đang mở) thì phát hiện phòng hết sức bừa bãi, có một cánh cửa sổ lắp kính bị người ta đập vỡ. Khi được báo những chuyện này, cảnh sát lập tức đến căn nhà trọ để khám xét. Không bao lâu sau khi nhận được điện thoại của Amanda, Filomena và bạn trai cô cũng lần lượt về ngôi nhà này. Filomena vừa nghe nói đến chuyện mất điện thoại đã có một cảm giác chẳng lành, bởi chiếc điện thoại di động tìm được ở công viên khi mặc dù đăng ký tên cô nhưng thực ra Meredith đang dùng. Meredith luôn phải duy trì liên lạc với mẹ mình ở Anh nên điện thoại di động không bao giờ rời người. Khi Filomena nghe nói rằng cửa phòng Meredith bị khóa, cô lập tức tỏ ra lo lắng, hi vọng cảnh sát có thể phá cửa. Nhưng cảnh sát ố không muốn phá cửa. Lúc này, bạn bè của bạntrai Filomena rat ay, đạp tung cửa phòng. Mọi người chứng kiến một cảnh tượng đáng sợ. Trong phòng khắp nơi toàn là máu, trên tường có một dấu tay máu, dưới đất có nhiều dấu chân máu và một chiếc chăn dày. Lật chăn lên, thi thể không mặc quần áo của Meredith nằm ở giữa vũng máu trên sàn nhà. Theo kết quả khám nghiệm của pháp y, trên thi thể Meredith có 16 chỗ bầm tím và 7 vết dao. Một bên cổ có vết bầm tím, một bên khác có vết dao rất sâu cắt đứt động mạch. Có thể nói, cô gái đã chết từ từ trong khổ sở vì mất máu. Vết bầm tím ở mũi, miệng và hàm dưới của nạn nhân chứng minh từng có một bàn tay đè chặt vùng miệng và mũi cô. Bên dưới cằm, có rất nhiều vết thương rất nhỏ, có thể đã bị ai đó tóm hai cánh tay và khống chế, sau đó cố ý dùng mũi dao trêu chọc, và hành hạ. Ba nhân viên pháp y ở Sở Nghiên cứu khoa học pháp y Perugia cho rằng các vết thương trên người Meredith, bao gồm cả vết thương ở bộ phận sinh dục, cho thấy có người đã từng thực hiện bạo hành tình dục đối với cô. Một phóng viên người Anh - người đầu tiên nhận được thông tin này từ bác sĩ pháp y, đã liên hệ vụ án này với trò chơi tình dục và viết một bài đăng trên trang nhất của một tờ báo, sau đó giả thiết này đã được truyền bá rộng rãi. Trở thành đối tượng tình nghi Cảnh sát nhanh chóng nảy sinh nghi ngờ với Amanda và bạn trai Sollecito 23 tuổi của cô, nhưng mới chỉ dừng lại ở đó. Nghi ngờ này chủ yếu dựa vào một số điểm sau: Thứ nhất, làm giả hiện trường có người bên ngoài đột nhập. Cảnh sát khám nghiệm hiện trường cho biết ông ta vừa đến hiện trường đã cảm thấy mảnh vỡ cửa sổ kính trong phòng Filomena là do ai đó cố ý làm giả. Vì sao? ầ ấ ầ Đầu tiên, căn phòng bị lục lọi rất lộn xộn, quần áo của Filomena bị người khác lôi từ trong tủ ra rồi vứt khắp sàn nhà. Một số mảnh kính được phát hiện vương vãi trên quần áo. Điều này cho thấy trước đó đã có người đã làm cho căn phòng trở nên lộn xộn, sau đó mới đập vỡ kính cửa sổ. Tiếp theo, mặc dù căn phòng bị lục tung nhưng tài sản trong phòng như máy tính xách tay, ví tiền không bị lấy đi. Tiếp nữa, cửa sổ cách mặt đất rất cao, tận hơn 2 mét và quay ra đường chính. Ai lại chọn cửa sổ như vậy để đột nhập vào nhà ăn trộm đấy? Lúc trèo lên chẳng phải sẽ rất dễ bị người đi đường chú ý tới hay sao? Huống hồ trên tường không có bất cứ dấu chân hoặc dấu vết nào có thể chứng minh có người trèo tường. Nhưng có ai phải cố ý làm giả dấu vết như vậy? Một nhân vật quan trọng khác vủa vụ án này là Kiểm sát viên Migenini cho rằng hung thủ làm như vậy chỉ có một mục đích: Thể hiện mình không có liên quan gì tới ngôi nhà này. Nếu là người trong nhà gây án thì rất có thể đây là hành động để đánh lạc hướng điều tra, cố ý tạo hiện trường giả có trộm cướp từ bên ngoài vào. Ngoài trường hợp ấy, ông không nghĩ ra còn có mục đích nào khác nữa. Thứ hai, bằng chứng ngoại phạm Căn cứ theo lời khai của Amanda, cả buổi tối ngày 1 tháng 11, cô đều ở cùng bạn trai Sollecito, không hề ra ngoài. Sollecito là người Italia, 23 tuổi, sinh viên Khoa Tin học thuộc Đại học Perugia, mặt mũi sáng sủa, gia cảnh rất tốt, lái một chiếc xe Audi. Theo như những gì mà phóng viên nhớ lại trong phim tài liệu sau đó, tính cách Sollecito tương đối ngại ngùng, ít quan hệ với người khác giới. Amanda có thể là người phụ nữ thứ hai của cậu ta. Ngày 1 tháng 11, cậu ta và Amanda mới biết nhau được đúng 5 ngày. Ngày 25 tháng 10, Amanda và Meredith tham gia một buổi hòa nhạc cổ điển đã gặp Sollecito ngồi ở hàng trước. Sau đó, khi trả lời phỏng vấn của kênh CNN, Amanda nói vừa nhìn cô đã cảm thấy ấ ố Sollecito rất giống Harry Potter. Còn Sollecito bày tỏ khi cậu ta quay lại, không dám tưởng tượng rằng cô gái xinh đẹp này đang mỉm cười với mình. Đêm ấy, hai người làm quen và cùng nhau ra ngoài đi chơi… Trong năm ngày sau đó, hai người luôn dính lấy nhau. Amanda làm tiếp viên ở một quán bar tên Le Chic. Vào đêm xảy ra vụ án, cô có ca làm, nhưng đến gần tối, cô đã nhận được tin nhắn của ông chủ quán bar là Patrick (người Congo) gửi đến, nói hôm ấy cô không cần đi làm. Cô rất vui vẻ và tiếp tục ở lại nhà của Sollecito. Giống như vài ngày trước, hai người xem phim, nấu cơm, hút cần sa, uống rượu, và ân ái. Nhưng bằng chứng ngoại phạm của hai người họ chỉ có thể làm chứng cho nhau mà không có minh chứng của bên thứ ba. Hơn nữa, nhà của Sollecito ở rất gần số 7 đường Via della Pergola, chỉ mất 5 phút đi bộ. Thứ ba, biểu hiện khi phát hiện thi thể Ở đây, một số người đã chỉ ra điểm khả nghi của Amanda. Khi bạn của Filomena chuẩn bị phá cửa, những người khác đều đứng bên cạnh sốt ruột theo dõi, còn Amanda và Sollecito lại ở phòng khách chứ không tới xem. Sau đó, cảnh sát phát hiện, mười mấy phút trước khi phát hiện thi thể, Amanda từng gọi điện thoại cho mẹ ở Mỹ. Thời điểm ấy ở Mỹ đang là nửa đêm về sáng. Vì sao cô ta phải đánh thức mẹ mình vào giờ này? Anmanda không khai rõ với cảnh sát về cú điện thoại. Khi cảnh sát tìm được thông tin về cuộc gọi và tra hỏi, cô nói mình đã quên mất. Sau đó, cảnh sát phát hiện trước khi họ tới, Amanda từng gọi đến điện thoại di động của Meredith mấy lần, còn Sollecito đã cố gắng phá cửa hai lần để vào nhưng không được. Amanda nói rằng làm như vậy là vì lo lắng cho Meredith. Tuy nhiên, sau khi cảnh sát tới và hỏi về căn phòng khóa cửa này, những người khác lại nghe thấy Amanda nói: “Đừng lo, ngày nào cô ấy cũng khóa cửa, ngay cả ắ ố ề lúc đi tắm ở nhà vệ sinh đối diện cũng phải khóa”. Sau khi trở về, Filomena nói ngược lại rằng từ trước đến nay, Meredith không bao giờ khóa cửa. Vì vậy mới có chuyện phá cửa sau đó. Vậy tại sao Amanda phải nói Meredith luôn khóa cửa? Là vì lo sợ chuyện bị lộ, muốn trì hoãn thời gian cảnh sát phát hiện ra thi thể sao? Sau đó, Amanda đã giải thích rằng là do tiếng Ý của mình quá kém nên dẫn tới hiểu lầm. Luật sư của Amanda biện hộ rằng nếu Amanda biết Meredith đã chết thì nhất định không gọi điện thoại cho cô ấy, hơn nữa còn cố gắng phá cửa để vào. Nhưng cảnh sát ại cho rằng Amanda gọi điện thoại là vì muốn xác nhận xem điện thoại của Meredith có thật sự bị mất không, phá cửa là vì có vật chứng để quên trong phòng, muốn lấy nhưng không có cách nào mở cửa. Tóm lại, những chi tiết này đều nằm trong chủ để của các cuộc tranh luận. Thứ tư, biểu hiện của hai người Một phóng viên đã tình cờ quay được cảnh khi chờ đợi cảnh sát điều tra hiện trường vụ án, Amanda và Sollecito đứng ở bên ngoài tòa nhà, liên tục hôn nhau ba lần, và an ủi đối phương với vẻ mặt nặng nề. Hình ảnh này đã được phát lại nhiều lần trên các phương tiện truyền thông phương Tây. Đối với biểu hiện ấy, đương nhiên có thể giải thích hoàn toàn trái ngược. Một cảnh sát nói rằng có lần người này nhìn thấy hai người họ tránh ở ngoài ngôi nhà, cười hả hả và còn làm mặt quỷ. Ngày thứ hai sau khi xảy ravụ án, một chủ cửa hàng nói phát hiện hai người này cùng chọn mua đồ lót cho Amanda, họ liên tục hôn nhau trong cửa hàng, còn nói buổi tối phải ân ái thật nóng bỏng. Ngày thứ bas au khi xảy ra vụ án, cảnh sát gọi Amanda về, bảo cô vào phòng bếp xem dao trong ngăn kéo có thiếu cái nào không vì không có cái nào trong số ấy phù hợp với đặc điểm của hung khí. Khi đó, đột nhiên Amanda trở nên quá khích, không ngừng dùng tay tự tát mình. ể ằ ể Kiểm sát viên Migenini cho rằng Amanda phản ứng như thể là vì nhìn thấy dao, cô ta liên tưởng đến tiếng hét của người bị hại khi xảy ra vụ án nên mới bịt tai lại. Còn Amanda thì nói cô nhìn dao lại nhớ đến người bạn thân bị hại nên tinh thần hơi bị mất kiểm soát. Ngoài ra còn có một số lý do chủ quan của kiểm sát viên, chẳng hạn như ông ta cho rằng chỉ có nữ hung thủ mới nghĩ đến chuyện dùng một chiếc chăn dày đắp lên cho nạn nhân nữ khỏa thân, một hung thủ là nam giới sẽ không nghĩ tới chuyện này. Lý lịch của hai cô gái Nạn nhân Meredith sinh ngày 28 tháng 12 năm 1985 tại vùng Southwark ở miền Nam London nước Anh. Khi xảy ra vụ án, cô mới 21 tuổi. Cô có hai anh trai và một chị gái. Cha cô là nhà văn tự do, còn mẹ ở nhà làm nội trợ. Meredith vốn đang học Chính trị châu Âu và tiếng Ý ở Đại học Leeds. Đồng thời, cô còn làm thêm rất nhiều công việc như tiếp viên quán bar, hướng dẫn viên và tiếp thị. Năm 2004, cô từng xuất hiện trong MV ca khúc “Some say” của Kristian Leontiou5. Mục tiêu của cô sau khi tốt nghiệp là sẽ làm việc tại Liên minh châu Âu hoặc trở thành phóng viên. 5. Kristian Leontiou là ca sĩ người Anh gốc Hy Lạp Cypriot và là thành viên của ban nhạc Rock indie One eskimO. Tháng 10 năm 2007, cô đến Đại học Perugia, bắt đầu chương trình học Lịch sử hiện đại, Lý luận chính trị và Lịch sử điện ảnh. Các sinh viên khen ngợi Meredith là người giàu lòng nhân hậu, thông minh, cơ trí, và giao tiếp tốt. Amanda sinh ngày 9 tháng 7 năm 1987 tại Seattle, Mỹ. Cô có ba em gái. Mẹ cô, bà Edda Mellas là một giáo viên Toán học, đã li hôn với cha cô, ông Curt Knox - Phó Chủ tịch tài chính của một siêu thị ở địa phương từ khi Amanda mới được vài tuổi. Cha dượng của cô, Chris Mellas là cố vấn công nghệ. ổ ầ ầ ế Năm 15 tuổi, lần đầu tiên Amanda cùng người nhà đến Italia nghỉ dưỡng. Họ đi du lịch Rome, Pisa, bờ biển Amalfi và di chỉ thành Pompeii. Mẹ của Amanda từng tặng cô cuốn sách “Dưới Mặt Trời ở Tuscan”, nội dung kể về một người phụ nữ hơn 30 tuổi đến Italia tìm lại tự do và cái tôi sau khi li hôn. Quyển sách này đã làm tăng thêm hứng thú cho Amanda với đất nước Italia. Năm 2005, Amanda vào Đại học Washington, ngành Ngôn ngữ học. Lúc đó, cô muốn đến Italia học tập một năm nhưng cha mẹ không thể chi trả cho chi phí này. Để có tiền đi học, Amanda đã làm thêm cùng lúc nhiều công việc, sinh hoạt cực kì tiết kiệm. Cuối cùng, cô tích cóp được hơn 7000USD. Trong mắt họ hàng, Amanda 19 tuổi với tính cách hướng ngoại không hề có chút cảnh giác nào. Chadượng từng không ủng hộ việc cô đến Italia du học một năm theo diện trao đổi. Ông cho rằng cô còn ít tuổi và quá ngây thơ. Ngày 10 tháng 9 năm 2007, Meredith từ London chuyển đến nhà số 7 đường Via della Pergola. 10 ngày sau, Amanda chuyển đến đây. Đó là lần đầu tiên hai cô gái gặp nhau. Hai cô gái thường xuyên chơi cùng nhau. Mặc dù từ thời điểm lần đầu gặp gỡ đến khi xảy ra vụ án chỉ mới hơn một tháng nhưng hai người đã trở thành bạn thân. Tuy nhiên, các bạn gái người Anh của Meredith rất hiếm khi nhìn thấy Amanda vì phần lớn thời gian Amanda vẫn thích chơi với người Italia. Các bạn người Anh của Meredith nói nếu có một cô gái hoàn toàn trái ngược với Amanda, người đó nhất định là Meredith. Họ còn nhắc tới chuyện Amanda có thể dẫn bạn trai về nhà qua đêm, nhưng Meredith thì không. Thẩm vấn và cung khai Sự chú ý của truyền thông khiến cảnh sát gặp nhiều áp lực nên rất hi vọng có thể nhanh chóng phá được vụ án. ấ ể Ngày 5 tháng 11, họ lấy lí do hỏi thăm nhân chứng để tìm gặp Sollecito lần nữa. Amanda tự nguyện cùng đi với cậu ta và chờ ở ngoài hành lang. Có cảnh sát nhìn thấy cô tập thể dục, làm động tác lộn nhào và đá chẻ. Họ chứng kiến hết và cho rằng cô bị bệnh thần kinh. Còn Amanda thì nói mình chỉ muốn giãn gân giãn cốt. Sau đó, trong phim tài liệu, Sollecito nhớ lại khi ấy cảnh sát cực kì thô bạo đối với cậu ta, nói Amanda là một cô gái phóng đãng và chơi bời, chỉ lừa gạt cậu ta và đã cung khai ra cậu ta rồi. Sollecito nói với cảnh sát: “Tính đến thời điểm này tôi đã nói dối rất nhiều, đều là do cô ấy dặn tôi nói như vậy. Đêm đó quả thật tôi có ở nhà nhưng Amanda không ở cùng tôi, đến tận 1h sáng cô ấy mới về”. Cậu ta đã đổi lời khai đến ba lần. Lúc thì nói mình hút quá nhiều cần sa Ấn Độ nên không nhớ rốt cuộc Amanda có ở cùng hay không, lúc thì nói đêm ấy Amanda ra ngoài làm thuê. Bốn năm sau, cậu ta được phóng thích và đã viết một quyển hồi ký, nói đêm ấy mình ở nhà cùng Amanda nhưng không xác định được cô ấy có từng ra ngoài hay không. Sau khi thu được lời khai ấy, cảnh sát lập tức tìm Amanda đang chờ ở ngoài hành lang và tiến hành thẩm vấn cô. Cuộc thẩm vấn kéo dài đến buổi sáng ngày 6 tháng 11. Họ mang điện thoại di động của Amanda đến, phát hiện đêm đó cô ta đã từng nhắn tin với Patrick - ông chủ quán bar nơi cô làm thuê. Amanda đã trả lời một tin nhắn Patrick rằng: “Gặp lại sau”. Nhưng tin nhắn Patrick gửi đến đã bị xóa mất. Amanda tỏ ra ngơ ngác, nói đêm ấy Patrick bảo mình không cần đến quán bar làm nhưng chính cô cũng không nhớ đã xóa tin nhắn của Patrick. Trong tiếng Ý, “Gặp lại sau” nghĩa là hẹn Patrick đêm đó sẽ gặp vào thời điểm muộn hơn một chút. Nhưng Amanda lại giải thích rằng ý của câu trả lời theo nghĩa tiếng Anh là “Hôm khác gặp lại”. Vì tiếng Ý của cô không tốt và cô ta cũng không nhận thức được sự khác biệt rất nhỏ ấy nên dẫn đến sự hiểu lầm của cảnh sát. Trong lần thẩm vấn đó, lần đầu tiên Amanda thừa nhận thực ra mình đang ở trong nhà trọ khi Meredith chết, còn người giết chết ấ ế Meredith lại là Patrick. Amanda nói đêm ấy cô gọi Patrick đến nhà trọ rồi mở cửa cho ông ta, sau đó cô nhìn thấy Patrick đi vào phòng của Meredith và nghe thấy một tiếng hét chói tai vang lên. Cô đã “tưởng tượng” ra cảnh Patrick đang giết chết Meredith sau cánh cửa phòng đóng kín. Khi ấy, phía cảnh sát chia thành hai quan điểm: một bên đề nghị lập tức phê chuẩn bắt ba người Amanda, Sollecito và Patrick; một bên khác đề nghị bí mật theo dõi họ để tìm kiếm nhiều bằng chứng hơn. Cuối cùng, bên thứ nhất thắng. Vì không thể chờ đợi được nữa nên trưa ngày 6 tháng 11, cảnh sát đã chính thức bắt nhóm Amanda và khởi tố ba người này với tội danh mưu sát, sau đó tổ chức họp báo và tuyên bố đã phá được án. Căn cứ vào thông tin cảnh sát đưa ra trong buổi họp báo, đêm ấy, ba người Amanda “chơi thuốc” rồi uống rượu. Họ muốn kéo Meredith cùng tham gia trò chơi tình ái bốn người điên cuồng nhưng Meredith không muốn. Cô phản kháng quyết liệt, cuối cùng bị ba người sát hại. Khi tin tức giật gân này vừa được đưa ra, truyền thông Mỹ, Anh, Italia và các nước châu Âu đều lập tức đưa tin về vụ án này tới mức rợp trời ngập đất. Họ đã dùng các tiêu đề như “Người bị hại biết hung thủ”, “Một người phụ nữ đã thừa nhận tội ác của mình”, “Trò chơi tình dục đi quá đà”… Bởi vì Amanda là một người đẹp nước Mỹ, lại bị xem là chủ mưu nên cô đương nhiên đã thu hút tất cả sự chú ý của giới truyền thông. Phóng viên Italia đã tìm đến quê nhà Seattle của Amanda để khai thác thông tin cá nhân của cô, thậm chí còn lục tung cả không gian mạng của cô lên. Họ phát hiện một bức ảnh Amanda ngồi ở bên cạnh một khẩu súng máy cỡ lớn, điên cuồng cười to và đăng kèm dòng trạng thái: “Trong lòng chứa một Nazi6. Phóng viên cũng phát hiện trong một bức ảnh khác, chàng trai Sollecito nho nhã quấn người như xác ướp, trên tay cầm một con dao chặt xương. ố ố ế 6. Chủ nghĩa Quốc xã, tên chính thức là Chủ nghĩa Quốc gia xã hội (tiếng Đức: Natinonalsozialismus, viết tắt là Nazismus), chỉ hệ tư tưởng và những hành động của Đảng Công nhân Đức Quốc gia Xã hội chủ nghĩa dưới quyền Adolf Hitler cùng những chính sách được chọn bởi Đức Quốc xã từ năm 1933 đến năm 1945. Giới truyền thông liền rêu rao: “Hãy nhìn cặp tình nhân điên cuồng này xem!”. Họ phát hiện Amanda còn lấy biệt danh cho mình trên mạng là Foxy Knox (Amanda xảo quyệt). Nhưng sau đó, khi nhận phỏng vấn của kênh CNN, mẹ Amanda nói đây chỉ là biệt danh của đám trẻ con đặt cho nhau khi Amanda chơi trong đội bóng đá nữ hồi bé, không hề có gì đặc biệt. Đây quả là một cuộc “cuồng hoang tập thể” của giới truyền thông. Họ cùng mô tả về hình tượng của Amanda như sau: Một thiếu nữ rắn rết, phóngđãng,điên cuồng, mê muội trong tình dục, lạnh lùng với bạn bè, thích bạo lực và theo đuổi chủ nghĩa vô chính phủ. Chứng minh là giả Điều ngu dốt của cảnh sát Italia là sau khi nghe lời khai của Amanda, họ chưa hề xác minh lại đã vội vã mở họp báo. Ba tuần sau, họ buộc phải phóng thích Patrick vì ông ta có bằng chứng ngoại phạm không thể phản bác vào đêm ngày1 tháng 11. Thì ra, quán bar của Patrick mở từ đêm ngày 1 tháng 11 tới rạng sáng. Vì không cần tiếp viên đi làm nên ông ta đã tự mình chiêu đãi khách. Đêm ấy, các vị khách đều có thể làm chứng. Vậy đêm đó, Amanda có biết Patrick đến quán bar không? Vì sao cô ta phải vu cáo người này? 1. Patrick nói Amanda vu cáo mình chỉ vì mình là một người da đen. Ông ta còn chỉ trích Amanda nói dối. Trước đó, Amanda từng nói vưới các bạn cùng phòng rằng Patrick không trả tiền lương cho mình, nhưng ông ta nói không hề có chuyện như vậy và vẫn trả tiền lương cho cô bình thường. 2. Sau đó, trong một lần mở phiên tòa, Amanda đột nhiên lên án cảnh sát bức cung và mớm cung mình trước mặt quan tòa và giới truyền thông. ầ Cô nói một nữ cảnh sát đã đánh vào đầu cô ta từ phía sau, không cho cô ăn uống, vệ sinh và ngủ. Người phiên dịch tiếng Anh không ngừng mớm cung cô, ví dụ như: “Nhất định là cô đã nhìn thấy gì đó nhưng do sang chấn tâm lý quá mức nên không nhớ được. Cô có thể nhớ ra mà”. Cảnh sát đã quát và hét rằng: “Rốt cuộc cô đang bảo vệ ai?” Amanda cho biết mình bị ép nên bất đắc dĩ phải dựng nên một câu chuyện, như vậy mới có thể thoát thân. Nhưng cô ta vẫn giữ nguyên lời khai của mình suốt ba tuần không thay đổi khiến cho Patrick bị tạm giam ba tuần và phải chịu oan ức, danh dự bị hủy hoại, quán bar cũng buộc phải đóng cửa. Sau đó, Patrick kiện Amanda xâm phạm quyền danh dự của mình. Tội danh được thành lập và Amanda bị tuyên án ba năm. 3. Cảnh sát Italia nói rằng họ không hề đánh Amanda. Cô ta có thể vào nhà vệ sinh, thậm chí họ còn cung cấp đồ uống nóng cho cô ta. Họ không cho cô ăn vì khi ấy là nửa đêm, hai người này đã ăn tối ở nhà bạn rồi mới đến, vậy họ còn phải cung cấp đồ ăn gì nữa? Nếu thật sự có người đánh thì vì sao hôm sau, lúc gặp nhân viên Đại sứ quán Mxy, cô ta không nói? Vì sao khi viết mail cho luật sư của mình, cô ta cũng không nhắc tới dù chỉ một chữ? Họ cho biết hai tiếng sau lần thẩm vấn cuối cùng, Amanda đã chủ động khai ra Patrick chứ không phải bốn mươi tiếng. Migenini cho rằng việc Amanda khai ra Patrick thuần túy là để chuyển sự chú ý của cảnh sát đối với mình. Rốt cuộc là nghi phạm xảo quyệt hay đã bị cảnh sát chơi xấu? Chắc chắn phải có một bên đang nói dối. Nhưng không thể không thừa nhận Amanda có một chút thiên phú nói dối. Ít nhất cô ta đã làm cho cảnh sát tin tưởng phiên bản cô ta khai ra và cho đó là “lời nói thật của một cô gái hai mươi tuổi bị suy sụp và buộc phải khai ra sự thật vào phút chót” mà không hề nghi ngờ. Amanda đã diễn quá thật, vì vậy cảnh sát mới quá tự tin, không mảy may nghi ngờ, và lập tức tổ chức cuộc họp báo. Và sự thật là như thế nào? Tiếp theo đây là nhiều bằng chứng được phát hiện.. Bằng chứng mới Một tháng sau, vụ án có thêm manh mối mới. 1. Một người vô gia cư tên là Antonio đột nhiên đứng ra làm chứng: Vào đêm xảy ra vụ án, ông ta đã nhìn thấy đôi tình nhân Amanda và Sollecito trên quảng trường nhỏ gần ngôi nhà hiện trường án mạng, một lần trong khoảng 21h30 đến 22h, một lần khác trong khoảng 23h đến 23h30. Ông ta còn nhìn thấy Sollecito đứng trên lan can nhìn xuống phía dưới. Sauk hi Sollecito đi, người này cũng đứng lên đó nhìn một lát và thấy phía dưới không có gì là ngoài ngôi nhà ấy (ngôi nhà nơi xảy ra vụ án). Nếu lời của người vô gia cư này là thật thì lời khai đầu tirn của Amanda về việc hai người ở trong nhà cả đêm chính là nói dối. 2. Vài tuần sau, cảnh sát tìm được một con dao bếp tại nhà của Sollecito, kiểu dáng phù hợp với hung khí giết Meredith. Quan trọng hơn là trên chuôi dao xét nghiệm có ADN của Amanda, trên lưỡi dao có ADN của nạn nhân Meredith. Đây là bằng chứng then chốt của vụ án. 3. Trong phòng tắm có 5 vết máu của Meredith trộn lẫn AND của Amanda, lần lượt ở trên hộp bông băng, trên cửa, và trong bồn rửa… Căn cứ theo phân tích số liệu về AND, đây là máu của hai người hòa lẫn vào nhau chứ không phải AND do Amanda chạm vào máu của Meredith và để lại. Nhưng giọt máu trên vòi nước hoàn toàn là máu của Amanda. 4. Trong căn phòng khóa cửa (hiện trường vụ án) cũng tìm được AND của người khác, chỉ có điều không có AND của Amanda. Trong móc cài áo lót của Meredith, cảnh sát phát hiện AND của Sollecito. Đây cũng là bằng chứng rất quan trọng. Khi đó, áo lót của Meredith bị người khác xé nát, dây áo bị đứt, đoạn dây áo gắn móc cài rơi trên thảm trải sàn trong khu vực hiện trường bị phong tỏa, nhiều ngày sau mới được cảnh sát phát hiện. ấ Luật sư của Sollecito đưa ra nghi vấn: Dây áo lót đã bị giật đứt nhưng vì sao AND của Sollecito chỉ xuất hiện trên móc kim loại mà hoàn toàn không có trên vải áo? Nếu cậu ta không chạm vào cái dây ấy thì làm sao tháo được móc cài? Quả thực, cảnh sát đã phát hiện AND của đàn ông trên vải áo lót, chỉ có điều nó thuộc về một người có tiền án tiền sự khác: Rudy Guede. AND của Rudy bị phát hiện ở khắp nơi, trên túi xách của Meredith, trên áo lót của cô, dấu tay máu trên tường, trong âm đạo của cô, thậm chí cả trên giấy vệ sinh đã dùng để lai chùi… Ngày 3 tháng 11, Rudy trống đến Đức, cuối cùng bị cảnh sát Đức bắt được ở vùng nông thôn và dẫn độ về Italia. Vậy rốt cuộc Rudy là ai? Đối tượng tình nghi mới Rudy là một kẻ du thủ du thực ở địa phương, không có gì phải nghi ngờ về điều đó. Hắn sinh năm 1986, khi xảy ra vụ án mới 20 tuổi. Từ hồi 5 tuổi, hắn đã bắt đầu sinh sống ở Perugia. Cha mẹ hắn bỏ mặc hắn từ nhỏ, người nuôi lớn hắn là những người như mục sư. Từ năm 2004 đến năm 2005, hắn từng tham gia đội bóng rổ thanh thiếu niên của địa phương. Năm 2003, khi đó Rudy 17 tuổi đã được một gia đình giàu có ở địa phương nhận nuôi nhưng đến năm 2007, gia đình ấy đuổi hắn ra khỏi nhà. Rudy từng bị bắt nhiều lần vì đột nhập vào nhà trộm cắp và có tiền án tiền sự. Đây cũng là lí do cảnh sát có thể tìm ra hắn thông qua AND. Mặc dù đã bắt được Rudy nhưng Migenini vẫn không sửa phiên bản điều tra của ông ta. Chỉ có điều, lần này ông ta đổi vai diễn của ông chủ quán bar thành Rudy. Ông ta cho rằng sau khi ba người này hút cần sa và uống say, họ đã rơi vào trạng thái điên cuồng và muốn chơi trò chơi tinh dục, cuối cùng lỡ tay giết chết Meredith. Phiên bản lần này ông ta nói tỉ mỉ hơn: Đêm ấy, ba người Amanda, Rudy và Sollecito ở trong nhà mua vui, Meredith không ế ề thích nên đã đến than phiền vài câu làm cho Amanda ghi hận và mọi chuyện trở nên mất kiểm soát… Sau đó, Rudy chạy trốn, còn Amanda và Sollecito trở lại hiện trường để dọn dẹp. Họ cố ý không dọn dấu vết của Rudy và làm giả hiện trường có kẻ đột nhập vào nhà trộm cắp. Vậy trước đó, Rudy, Amanda, Meredith và Sollecito có quan hệ gì với nhau không? Đúng là Rudy có quen biết với ba người Amanda, Meredith và Sollecito. Tầng dưới ngôi nhà nơi Amanda và Meredith thuê có bốn nam sinh ở, một trong số đó là Giacomo. Bởi vì Giacomo cũng yêu thích âm nhạc giống Amanda và Meredith nên thường xuyên lên phòng trọ của các cô chơi. Một buổi tối giữa tháng Mười, Amanda, Meredith, Giacomo, và một khách trọ khác ở tầng hầm đi chơi đến 2h sáng. Trên đường về nhà, họ gặp phải Rudy. Lúc chơi bóng rổ trên sân, Rudy đã quen mấy chàng trai thuê nhà ở tầng hầm đó nên đêm ấy được mời chơi cùng. Rudy nhanh chóng thân với họ và bắt đầu hỏi thăm về Amanda, có thể hắn thích Amanda. Hai nam sinh Italia kia mời Rudy về nhà chơi, sau đó Amanda và Meredith cũng xuống nhập hội. Cả nhóm chơi đến 4h30 sáng, Meredith nói buồn ngủ rồi về trước. Amanda cũng ra ngoài cùng cô, còn Rudy vẫn ở dưới tầng hầm đến sáng hôm sau. Cũng vào thời gian đó, Meredith và Amanda cùng nhau tham gia lễ hội Euro Chocolate7. 7. Một lễ hội chocolate diễn ra hàng năm tại Perugia, thủ đô của vùng Umbria ở miền trung nước Ý. Lễ hội được tổ chức từ năm 1993 và là một trong số những lễ hội chocolate lớn nhất châu Âu. Euro Chocolate thu hút gần một triệu khách du lịch và người bản địa mỗi năm. Ngày 20 tháng 10, khi nhóm người này đến quán bar, Meredith và Giacomo bắt đầu có cảm tình với nhau. Hai người đã có một mối quan hệ lãng mạn. Có lần, Rudy đã đến tầng hầm chơi vào tối muộn. Nhưng Amanda nói rằng các cô gái chưa bao giờ mời Rudy lên phòng trọ của họ. Ngoài ra, cô ta nói mình và Rudy còn gặp nhau vài ầ ầ ắ ấ ở lần nữa. Một lần khi hắn xuất hiện ở quán bar nơi cô làm việc. Một lần khác, cô nhìn thấy hắn và các nam sinh dưới tầng hầm cùng chơi bóng rổ… Nhưng ngay cả tên hắn là gì Amanda cũng không biết. Ngày 25 tháng 10, Meredith và Amanda tham gian một buổi hòa nhạc cổ điển. Amanda gặp chàng sinh viên Italia - Sollecito 23 tuổi. Chỉ năm ngày sau khi hai người quen biết, vụ án giết người đã xảy ra. Nhưng Rud lại kể một câu chuyện khác. Phiên bản của Rudy Ba ngày trước khi xảy ra vụ án, ngày 27 tháng 10, Rudy bị bắt vì xông vào một trường mầm non ở Milan. Khi ấy, cảnh sát đã tìm thấy trên người hắn một con dao dài 28cm lấy trộm từ trong bếp nhà trường. Con dao này chắc chắn đã bị cảnh sát tịch thu và không phải hung khí gây án. Có thể vì lần đó hắn không lấy trộm thứ gì đáng giá nên cảnh sát đã không bắt giam. Ngày 1 tháng 11, hắn trở lại Perugia. Hôm ấy, hành tung của hắn thế nào không rõ, nhưng vào lúc 23h30, hắn xuất hiện tại nhà của một người bạn, tiếp theo đến một quán bar rồi ở đó đến 4h30. Buổi sáng hôm sau, hắn lại đến quán cùng ba nữ sinh vừa quen tại đó rồi bỏ chạy sang Đức. Không còn gì phải nghi ngờ, hắn có quan hệ trực tiếp với vụ án này. Một chàng trai ở tầng hầm đã làm chứng rằng có một lần, trong lúc đến chơi nhà trọ, đột nhiên Rudy ngủ trên bồn cầu nhà vệ sinh mà phân trong đó vẫn chưa bị xả đi, toàn là mùi thối. Trong khi đó, ở hiện trường phạm tội cũng có phân chưa bị xả đi. Rốt cuộc vào đêm xảy ra vụ án đã có chuyện gì? Trước khi bắt được Rudy, cảnh sát từng yêu cầu bạn của hắn gọi điện để hỏi dò hắn qua Skype và bí mật ghi âm lại… Trong tình huống không biết rõ, Rudy đã kể một câu chuyện như sau: ắ ế Ngày 31 tháng 10, hắn đến một quán bar và gặp Meredith đã quen biết trước đó. Hai người hẹn nhau hôm sau sẽ hẹn hò ở nhà nên buổi tối ngày 1 tháng 11, hắn đã đến nhà trọ theo như lời hẹn (thực ra, buổi tối ngày 31 tháng 10 Rudy vẫn đang chơi cùng hai cô gái người nước ngoài trong quán bar. Họ nói với cảnh sát rằng cô gái duy nhất nói chuyện với Rudy mà họ nhìn thấy có mái tóc dài màu vàng, không phải Meredith). Rudy nói khoảng 21h ngày 1 tháng 11 hắn tới nhà trọ, Meredith mở cửa cho hắn rồi để hắn đi vào. Rudy nói hắn cùng Meredith đã hôn và vuốt ve lẫn nhau nhưng không quan hệ vì khi ấy bọn họ không có bao cao su. Sau đó, hắn đau bụng nên đi qua hành lang tới nhà vệ sinh bên kia (của hai người bạn cùng phòng khác) để đi vệ sinh. Rudy nói lúc hắn ngồi bồn cầu thì nghe thấy tiếng hét của Meredith. Đến khi hắn mặc quần rồi chạy qua thì chỉ kịp nhìn thấy một bóng người rời đi. Vì quá tối nên hắn không thấy rõ mặt đối phương. Còn Meredith đang nằm chảy máu ở trong lòng hắn. Cuối cùng, hắn trốn khỏi hiện trường trong hoang mang lo sợ. Hắn còn cố gắng bổ sung một câu: “À đúng rồi, Amanda không hề có quan hệ gì với vụ án này. Cô ấy không có mặt ở đó.” Hiển nhiên, Rudy không nói thật với bạn mình. Hắn hoàn toàn không thừa nhận mình đã giết người mà chỉ kết luận hung thủ là một người lạ nào đó. Khi bị bắt, trong lúc thẩm vấn, Rudy bổ sung thêm một số chi tiết vào phiên bản này như hắn nói nghe thấy gã đàn ông giết người dùng tiếng Ý chính hiệu nói một câu: “Phát hiện một tên da đen làm con dê tế thần. Chúng ta đi thôi!” Phiên bản hắn nói rõ ràng không phù hợp với bằng chứng bên pháp y cung cấp. Ví dụ như hắn nói lúc hắn đi, thi thể Meredith vẫn mặc quần áo đầy đủ, vậy ai đã cởi quần áo của nạn nhân? Hay khám nghiệm tử thi phát hiện trong âm đạo của nạn nhân có ADN của hắn nhưng hắn lại nói đêm ấy hai người không hề quan hệ. Rudy cũng không giải thích được vì sao trên một cái gối phía dưới thi thể Meredith lại có một dấu bàn tay của hắn dính máu của Meredith. Ban đầu, Rudy nói Amanda không hề có mặt ở nhà trọ nhưng sau đó hắn ế sửa câu chuyện của mình, nói khi Meredith chết Amanda cũng đang ở nhà. Hắn nói hắn từng nghe Amanda và Meredith tranh cãi. Khi nhìn từ cửa sổ hắn đã thấy bóng lưng của Amanda, ý là một mình Amanda giết Meredith. Phiên bản này đương nhiên hoàn toàn không thể tin được, bởi hắn nhất quyết nói mình không giết người nên dù cho thêm vai diễn của Amanda thế nào cũng không thể là phiên bản chân thật. Tháng 10 năm 2008, tội danh mưu sát và xâm hại tình dục của Rudy được thành lập, hắn bị tuyên án 30 năm tù giam. Nhưng tội danh “trộm cắp” mà thẩm phán Michel tuyên án khi ấy đã không thể đứng vững. Thực ra, điều này đại diện cho thái độ của quan tòa. Họ vẫn tin rằng việc kính cửa sổ vỡ do cưỡng chế đột nhập vào nhà trộm cắp là do làm giả, cũng có nghĩa họ tin Rudy có đồng bọn khác. Sau đó, khi trả lời phỏng vấn của phim tài liệu, một nhân viên pháp y bày tỏ ông ta cho rằng hung thủ không chỉ có một người. Vì sao? Bởi vì trên thi thể gần như không có vết thương tự vệ. Mọi người đều biết rằng nếu dùng dao giết người, theo bản năng đối phương sẽ dùng cánh tay và bàn tay ngăn cản nên sẽ để lại vết thương. Người này nói mình không thể tưởng tượng nổi việc một người đang sống như Meredith sẽ để mặc cho người khác dùng dao đâm chơi mà không hề phản kháng chút nào. Vậy nên chỉ có thể là hai người vừa đến đã khống chế cô và một người khác thực hiện hành vi gây thương tích. Lần xét xử đầu tiên Trong lần xét xử đầu tiên, bằng chứng AND quả thật có rất nhiều sơ hở. Nhưng cơ quan công tố cũng tìm được thêm rất nhiều nhân chứng. Ngoài kẻ lang thang trước đây, có một chủ cửa hàng tạp hóa nói lúc hơn 7h sáng ngày 2 tháng 11, một cô gái có gương mặt giống Amanda đã đứng ở trước cửa hàng đợi ông ta mở cửa. Sau đó, cô ấ ế ấ ẩ gái ấy đến kệ hóa chất, mua dung dịch tẩy rửa nhà vệ sinh (nhưng lần đầu tiên ông ta tiết lộ thông tin này với người khác là vào năm 2008, một năm sau khi xảy ra vụ án, không những thế, còn là nói với phóng viên nên độ tin cậy của thông tin không cao) Một người giúp việc quét dọn vệ sinh cho Sollecito nói nhà cậu ta đột nhiên có thêm mấy chai dung dịch khử khuẩn và nước lau nhà mà trước đó bà chưa từng thấy. Mặc dù Sollecito nói đêm ấy hai người luôn ở nhà, hơn nữa cậu ta vẫn dùng máy tính nhưng máy tính hiển thị từ lúc 18h hơn bắt đầu mở bộ phim “Thiên sứ yêu cái đẹp”, sau đó không còn hoạt động nào của người sử dụng. Phim kết thúc lúc 21h10, không rõ khi đó họ có thực sự xem phim hay không. Sollecito và Amanda nói họ ngủ đến 10h30 phút ngày hôm sau nhưng máy tính hiển thị lúc 5h30 có người cố gắng mở nhạc trên máy tính và iTunes đã phát nhạc khoảng nửa tiếng. Hơn 6h sáng ngày 2 tháng 11, Sollecito mở điện thoại di động của mình (đương nhiên không ngủ được, tỉnh giấc một lát rồi lại ngủ tiếp cũng rất bình thường, không có nghĩa là đã ngủ dậy). Dù sao những điều này không đủ để chứng minh hai người đã giết người, nhưng có thể chứng min h họ đang nói dối… Trong lần xét xử đầu tiên năm 2009, Migenini đóng vai trò công tố viên, dựng lại hiện trường vụ án như sau: Amanda tấn công Meredith trong phòng ngủ của Meredith, đập đầu cô vào tường nhiều lần, cào cấu vào mặt, và cố gắng bóp cổ để giết chết cô. Rudy, Amanda và Sollecito giữ tay lẫn đầu gối Meredith để Rudy thực hiện hành vi xâm hại tình dục và ngược đãi tình dục với nạn nhân. Amanda dùng dao cắt một số chỗ trên người Meredith, sau đó đâm một vết trí mạng vào cổ cô. Tiếp đến, bọn chúng làm giả hiện trường có kẻ từ bên ngoài đột nhập vào nhà trộm cắp. Bởi vì khi ấy, hai chiếc thẻ tín dụng, 300 Euro tiền mặt, và hai chiếc điện thoại di động của Meredith trong túi xách đều không được tìm thấy nên cơ quan công tố cũng cáo buộc thêm tội trộm cắp đối với Amanda và Sollecito (mà không phải Rudy). ế ằ Mặc dù luật sư của Amanda và Sollecito kiên quyết cho rằng vụ án này là việc làm của một mình Rudy và đưa ra một loạt nghi vấn mạnh mẽ, nhưng cuối cùng, quan tòa tuyên án bị cáo thành lập nhiều tội danh: Làm giả hiện trường, bạo lực tình dục và mưu sát. Amanda bị tuyên án 26 năm tù giam và Sollecito 25 năm. Trong cơn kinh hoàng, Amanda bật khóc nức nở ngay giữa tòa. Năm 2010, cảnh sát Italia còn khởi tố các hành vi của Amanda gồm xúc phạm danh dự của cảnh sát, vu khống cảnh sát đánh đập cô… Bên ngoài tòa án, người nhà của Amanda vô cùng giận dữ và bày tỏ rằng nhất định sẽ kháng án. Phần lớn người Italia cho rằng bằng chứng đã quá rõ ràng, ngành tư pháp đã bảo vệ được chính nghĩa. Trong khi đó, không ít người Mỹ nhận thấy vụ án này đã khiến người ta nhìn rõ hệ thống tư pháp của Italia rốt cuộc đen tối đến mức nào. Tiếp tục kháng án Tháng 11 năm 2010, tòa án mở phiên xét xử kháng án vụ Amanda và Sollecito. Quan tòa lần này cho rằng bằng chứng không đầy đủ, không thể chứng minh họ đã phạm tội và cũng thiếu bằng chứng có thể chứng minh giữa ba người này có quan hệ, vì thế tuyên án Amanda cùng Sollecito vô tội và được phóng thích. Amanda khóc, kiệt sức ngã vào lòng luật sư. Sau đó, cô cùng người nhà trở về Seattle. Cũng phải nói thêm người nhà của Amanda thật sự đã ủng hộ cô hết sức. Bởi vì cha dượng cô làm trong ngành IT, địa điểm làm việc tương đối tự do nên khi ấy, ông đã rất tôn trọng nguyện vọng của người nhà là chuyển đến Italia vì không muốn để một mình Amanda ở Italia trong cảnh tù tội. Lần này, bên ngoài Tòa án, rất nhiều người Italia khóc nức nở và mắng ngành tư pháp bất công. Họ an ủi với nhau rằng không phải còn có tòa án tối cao đó sao? ố ầ Tháng 3 năm 2013, tòa án tối cao yêu cầu xét xử lại vụ án này, cho rằng phán quyết trước đó thiếu bằng chứng mang tính hệ thống. Amanda đã không bị cảnh sát đánh đập. Vì sao cô ta phải vu khống Patrick? Vì sao trên tờ giấy tự tay viết ở cơ quan cảnh sát, Amanda lại thừa nhận khi xảy ra vụ án cô và Sollecito đang ở trong nhà trọ? Là ai đã làm giả hiện trường đột nhập vào nhà trộm cắp (chắc chắn Rudy không có động cơ vì không phải người sống trong ngôi nhà này?) Sau khi xảy ra vụ án, là ai đã tiến hành quét dọn (về cơ bản, không ai cho rằng Rudy sẽ là người làm việc này?) Căn cứ vào những điều trên, tháng 1 năm 2014, tòa án tối cao Italia tuyên án tội danh mưu sát của Amanda và Sollecito thành lập. Lúc này, Amanda đang ở Mỹ, đương nhiên sẽ không quay lại Italia. Cô nói nếu cảnh sát Italia tới bắt thì cô sẽ hét lên, khóc lóc và kiên quyết không đi. Tháng 3 năm 2015, Amanda và Sollecito tiếp tục kháng án lên tòa án tối cao. Lần này, tòa án cho rằng nền tảng bằng chứng tuyên án hai người có tội không tồn tại. Một lần nữa, hai người họ được tuyên án vô tội. Tòa án tối cao cũng cho biết đây là là xét xử cuối cùng. Khi đó, Amanda và người thân đang ở nhà tại Seattle và xem truyền hình trực tiếp vụ xét xử. Sauk hi nhìn thấy phán quyết, cả gia đình cô đã vô cùng xúc động. Cô đã gọi điện cho Sollecito đang ở tận Italia. Trong điện thoại, cô hưng phấn hét to “Chúng ta tự do rồi!” và “Em yêu anh…” Tình hình gần đây Sau khi trải qua bốn năm gặp tai ương tù tội, cuộc sống bình thường hoàn toàn bị đứt đoạn, rốt cuộc Amanda và Sollecito cũng giành lại được tự do. Năm 2014, cuối cùng Amanda, lúc này đã 27 tuổi, cũng tốt nghiệp chương trình đại học của mình. Sau đó, cô trở thành phóng viên của một tòa soạn báo địa phương. Hiện nay, cô cũng bắt tay vào hoạt động lên tiếng cho các vụ án oan sai. ằ ố ể Nhưng Amanda cho rằng cuộc sống của mình đã không thể trở lại như trước được nữa. Cô trở nên hơi hướng nội và cô độc. Trong thời gian ở tù, cảnh sát Italia đã lừa Amanda rằng cô mắc HIV. Khi viết nhật ký trong tù, trong tâm trạng tuyệt vọng, cô lần lượt nhớ lại những người đàn ông đã từng phát sinh quan hệ với mình, người nào dùng bao cao su, người nào không dùng. Nhưng bản nhật ký này lại bị lưu truyền ra ngoài và bị truyền thông đưa tin. Thế là cả thế giới đều biết năm 20 tuổi, Amanda đã quan hệ với bảy người đàn ông và danh tính của những người đó. Khi đi trên đường, thường xuyên có người nhận ra cô và nói “Tôi biết cô” nhưng cô nói họ không hề hiểu gì về mình. Vì theo đuổi kiện tụng, người nhà của Amanda đã nợ nần chồng chất. Amanda xuất bản một cuốn sách kể lại những gì mình từng trải qua và cuốn sách đã bán rất chạy. Khoản nhuận bút cuối cùng cũng giúp cô trả được khoản phí thuê luật sư cao ngất mà gia đình đang nợ. Sau đó, Sollecito tự mình lập nghiệp. Hiện tại, cậu ta đã trở thành ông chủ của một công ty IT. Khi ở trong tù, cậu ta từng viết thư cho Amanda, nói mình vẫn còn thích cô nhưng Amanda hồi âm từ chối, nói mình đã không còn cảm giác với cậu ta nữa… Còn Rudy, sau khi Amanda và Sollecito được tuyên án vô tội, án tù của hắn cũng giảm xuống còn 16 năm. Người nhà của Meredith ở Anh từng kháng nghị về việc giảm án phạt nhưng không có hiệu quả. Lời cuối Mặc dù về pháp luật đã cái quan định luận8 nhưng những tranh luận về vụ án này chưa bao giờ kết thúc. Đến nay, mọi người vẫn có hai luồng ý kiến hoàn toàn trái ngược đối với , một phe coi cô như thiên sứ gặp nạn, phe còn lại xem cô như ác ma thích nói dối. Trên mạng còn thành lập hai website độc lập đối chọi gay gắt với nhau, một bên đưa ra chứng cứ biện hộ cho Amanda, một bên tìm các bằng chứng buộc tội cô. Dưới video phỏng vấn được đăng trên ế ằ Youtube, ý kiến bình luận cũng chia làm hai phe. Có người cho rằng Amanda là “Simpson9 phiên bản nữ”, tất cả mọi người đều biết cô làm, chỉ có pháp luật là không. Có người phân tích về biểu cảm của Amanda lúc trả lời phỏng vấn rằng rõ ràng cô đang nói dối. Có người nói mắt cô màu xám, nhìn giống người điên. 8. Có thể hiểu là đậy nắp quan tài rồi mới bàn luận về công và tội. 9. Orenthal James Simpson là cựu cầu thủ bóng bầu dục NFL Mỹ. Ông từng bị cáo buộc trong vụ án giết người O.J.Simpson. Đây là vụ án hình sự xét xử dài nhất lịch sử Hoa Kỳ. Kết thúc vụ án, O.J. được tòa tuyên án vô tội. Nhưng cũng có rất nhiều người thông cảm với những gì mà Amanda đã gặp phải, tin tưởng cô vô tội và bị nền tư pháp Italia hãm hại. Một nhân vật then chốt trong vụ án là kiểm sát viên Migenini bởi ông ta phụ trách vụ án này. Ông này cũng từng trả lời phỏng vấn nhiều hãng truyền thông như CNN và ABC Từ đầu đến cuối, ông ta luôn tin chắc rằng Amanda có tội. Khi phóng viên đài CNN hỏi Amanda có nói dối không. Ông ta đã khẳng định một cách chắc chắn: “Tuyệt đối là cô ta đang nói dối!” Ông ta còn nói một phần nghi ngờ đến từ “trực giác” sau nhiều năm trong ngành điều tra. Điều này cũng bị người ta lên án. Migenini là một kiểu người rất giống với nhân vật trong phim ảnh, thích Sherlock Holmes, thích đọc tiểu thuyết trinh thám, căm ghét cái ác như kẻ thù và có sự nhiệt tình bẩm sinh đối với công việc phá án. Ông ta giống một con chó săn, khi đã tin chắc ai là tội phạm liền cắn chặt không buông và theo sát không rời, không đạt được mục đích nhất quyết sẽ không dừng lại. Trong phim, vai diễn như vậy luôn nhân từ. Nhưng với trường hợp này, dù sao cũng là hiện thực… Ngoài ra, điều khiến người ta phải suy nghĩ lại chính là cánh phóng viên. Họ đã biến một vở bi kịch thành cuộc cuồng hoan, các từ khóa thu hút lượt xem như “Theo đuổi người đẹp”, “Bạo lực tình dục” và ể “Quan hệ tập thể” được sử dụng liên tục… Khi tòa án chưa xét xử thì có vẻ giới truyền thông đã quy chụp, coi Amanda là hung thủ . Họ nắm lấy những chi tiết nhỏ hoàn toàn vô nghĩa, miêu tả về hình tượng điên cuồng và phóng đãng của Amanda trong mắt công chúng. Tôi đã dành rất nhiều thời gian để nghiên cứu hai website đưa ra bằng chứng then chốt ấy. Trong bài phân tích tình tiết vụ án tiếp theo, tôi sẽ nói với các bạn về quan điểm của tôi. Bài phân tích vụ án: Bằng chứng giao phong mới là chỗ đặc sắc của vụ án này. Tôi đọc vụ án này vào khoảng năm 2010, nội dung mà bách khoa Wikipedia đăng năm đó rất không giống với bây giờ, chủ yếu là nghiêng về phía cho rằng Amanda là hung thủ. Thế nên khi đó, ấn tượng trong tôi chính là Amanda là hung thủ. Và biệt danh “Amanda xảo quyệt” kia cung in sâu và trong trí nhớ của tôi. Đến năm 2017, đột nhiên tôi nhìn thấy một tin tức rằng Amanda trở thành phóng viên và người dẫn chương trình. Khi đó tôi hơi hoang mang, nhanh vậy mà đã ra tù rồi sao? Sau khi tra lại thông tin, tôi mới biết, thì ra sau đó vụ án này được xét xử ba lần, cuối cùng cô được tuyên bố vô tội. Tiếp đó, tôi xem bộ phim tài liệu mới nhất “Amanda Knox” (sản xuất năm 2016). Phim dài một tiếng nhưng thực ra không cung cấp nội dung gì mới về tình tiết vụ án, chỉ có các cảnh quay tạo ấn tượng khá tốt và nghiên cứu khá nhiều về nội tâm nhân vật. Lượng thông tin về vụ án còn không bằng một chương trình mà CNN làm năm đó (khi ấy, chương trình của CNN đã chỉ ra rằng kiểm sát viên cũng từng phạm sai lầm, “Lạm dụng chức quyền” trong các vụ án khác). Xem xong phim tài liệu và một số chương trình do Mỹ sản xuất, tôi tin rằng đa số mọi người sẽ nghiêng về ý kiến Amanda bị oan. Đây là vụ ể ố ấ ố án oan do một kiểm sát viên cố chấp và một hệ thống tư pháp lạc hậu tạo nên. Nhưng đơn giản hóa vụ án như thế lại khiến tôi thấy hoang mang. Chẳng lẽ hệ thống tư pháo của Italia thật sự tối tăm đến vậy? Chẳng lẽ một kiểm sát viên chỉ dựa vào nghi ngờ theo trực giác đã có thể nhận được sự ủng hộ từ nhiều bằng chứng của cảnh sát như thế, khiến một nửa thành viên bồi thẩm đoàn đều tuyên án đôi tình nhân này có tội? Tôi tin rằng chắc chắn họ có lí do mạnh mẽ để nghi ngờ Amanda. Sau đó, tôi tìm được hai trang web đối chọi gay gắt dưới đây, thông tin từ hai trang web này thật sự rất quý báu: Trang web “The Munder Of Meredith Kercher” (tạm dịch “Vụ án sát hại Meredith Kercher”) với đường link http://themunderofmeredithkercher.com là trang có xu hướng cho rằng Amanda là hung thủ. Trang web “The Amanda Knox & Raffaele Sollecito Case” (tạm dịch “Nghi án của Amanda Knox và Raffaele Sollecito”) với đường link http://www.amandaknoxcase.com là trang rửa sạch tội danh cho Amanda. Mặc dù tôi không biết ai đã xây dựng nên hai trang web này nhưng hiển nhiên, người tạo ra chúng là những người chú ý đến sự kiện này bởi cả hai trang web đều có được các thông tin cực kì chính xác và tỉ mỉ về vụ án, bao gồm ảnh, bản ghi âm, thu hình, biên bản của tòa án, lời khai, thời gian chính xác, lời chứng chuyên gia… Tôi đã tốn rất nhiều thời gian để so sánh thông tin của hai trang web này, bây giờ xin được chia sẻ với mọi người. Hai hướng quan điểm Quan điểm của bên nguyên (với đại diện là kiểm sát viên Migenini): ế Vụ án xảy ra trong khoảng 22h đến 23h ngày 1 tháng 11, hung thủ là Amanda, bạn trai cô - Sollecito, và Rudy. Đêm ấy, Amanda mở cửa cho Sollecito và Rudy để bọn họ đi vào. Ba người đang mây mưa thì nạn nhân đi qua và phản đối khiến Amanda trở nên giận dữ. Amanda và Sollecito khống chế nạn nhân, còn Rudy lột quần áo của cô ấy rồi thực hiện hành vi xâm hại tình dục. Tiếp theo, Amanda dùng dao sát hại nạn nhân. Rudy đi giày dính máu bước thẳng ra cửa trước, sau đó vứt hai chiếc điện thoại di động trong một vườn hoa cách đó 900 mét. Còn Amanda và Sollecito, đêm ấy hoặc buổi sáng hôm sau, họ dọn dẹp hiện trường. Hai người chỉ dọn dẹp dấu chân, dấu vân tay và ADN của mình và giữ nguyên dấu chân, dấu vân tay, AND và chất thải của Rudy. Họ còn làm giả hiện trường có kẻ đột nhập vào nhà. Từ đầu đến cuối, Rudy không thừa nhận mình gây án. Ban đầu, để không làm cảnh sát nghi ngờ đồng bọn của mình, hắn cố ý nhấn mạnh rằng Amanda cũng không phải hung thủ và nói đó là một người đàn ông Italia nào đấy mà hắn không nhìn rõ mặt. Có thể khi biết hiện trường vụ án chỉ để lại dấu vết của mình (đồng bọn không giúp hắn dọn dẹp) nên hắn đã thay đổi lời khai, nói Amanda và nạn nhân xảy ra xung đột vì tiền bạc nên Amanda sát hại cô ấy (hắn thay đổi lời khai mấy lần, lần cuối cùng vào năm 2011 nói rằng do Amanda và Sollecito làm, lúc đó hắn đang đi đại tiện trong nhà vệ sinh.) Quan điểm của luật sư bào chữa: Vụ án xảy ra vào khoảng 21h ngày 1 tháng 11, hung thủ làmột mình Rudy. Trước khi nạn nhân về nhà, Rudy đã đập vỡ cửa sổ, xông vào trong nhà, uống đồ uống và đại tiện trong nhà. Khi về nhà, nạn nhân không phát hiện ra hắn. Sau đó, hắn bất ngờ tấn công nạn nhân. Khi thấy cô hấp hối liền xâm hại tình dục. Tiếp theo, hắn vào phòng tắm của Amanda rửa chân, thậm chí còn xuống phòng trọ của các nam sinh ở dưới tầng hầm để thay quần áo dính máu rồi mang điện thoại ăn cắp, thẻ tín dụng cùng chìa khóa rời khỏi nhà và ném điện thoại ở một vườn hoa. ầ ế Ban đầu, khi đọc tin tức và biết Amanda bị liên đới vào vụ án này, xuất phát từ lương tâm nên Rudy tiện thể thanh minh giúp cô một chút. Nhưng sau đó hắn phát hiện, nếu đẩy tội danh sang cho Amanda và Sollecito thì không biết chừng mình có thể thoát tội, cho nên hắn lại thay đổi lời khai. Dưới đây, chúng ta hãy xem rốt cuộc bằng chứng phù hợp với hướng suy luận nào. Bằng chứng ADN 1 Bên nguyên: Trong một vết lõm nhỏ trên lưỡi dao có ADN của Meredith, trên chuôi dao có ADN của Amanda. Trên dao không tìm thấy vết máu bởi nó đã được lau chùi sạch sẽ. Khi cảnh sát nói với về việc phát hiện ADN của nạn nhân trên dao làm bếp trong nhà cậu ta, Sollecito không hề đưa ra nghi vấn đối với kết quả kiểm nghiệm mà lập tức giải thích rằng cô ấy từng đến nhà mình và cùng nấu cơm. Trong lúc nấu, cậu ta không cẩn thận làm đứt tay cô. Tuy nhiên, kết quả điều tra sau đó đã chứng minh rằng Meredith chưa bao giờ đến nhà cậu ta. Vì sao Sollecito nói dối? Luật sư bào chữa: Kết quả khám nghiệm lần thứ hai cho thấy không phát hiện ADN trên vật nghi là hung khí, vì vậy bằng chứng này không còn giá trị. Hơn nữa, hung thủ đã lau sạch vết máu đến mức không đủ để tạo thành phản ứng luminol10 nhưng vẫn khám nghiệm ra được ADN là điều rất hiếm thấy. (Tại hiện trường vụ án, chỉ cần có máu bắn ra và dính vào vật thể thì bất kể sau đó sử dụng phương thức tẩy rửa nào hoặc đã qua một thời gian rất dài, chỉ cần dùng thuốc thử luminol phun lên và quan sát trong bóng tối, chỗ đã từng có vết máu sẽ xuất hiện huỳnh quang màu xanh tím do xảy ra phản ứng huỳnh quang. Kể cả khi vết máu tại hiện trường đã bị lau hoặc tẩy rửa, điều tra viên ẫ ể vẫncó thể sử dụng luminol đã tìm được vị trí của chúng). Vậy nên, kết quả ADN là do sai sót của phòng thí nghiệm. 10. Luminol là một chất hóa học linh hoạt có thể phát quanh với ánh sáng xanh nổi bật khi trộn với tác nhân oxy hóa thích hợp. Đây là tinh thể rắn, có màu trắng hơi vàng, có thể hòa tan trong dung môi hữu cơ nhưng không tan trong nước. Luminol được các nhà điều tra pháp y sử dụng để phát hiện dấu vết của máu tại hiện trường phạm tội vì nó phản ứng với sắt trong huyết sắc tố hemoglobin. 2 Bên nguyên: Mặc dù trong phòng không có ADN của Amanda nhưng ADN của bạn trai Sollecito lại được tìm thấy trên móc cài áo ngực của nạn nhân. Luật sư bào chữa: Vì sao ADN của Rudy được tìm thấy ở khắp nơi trong nhà, còn ADN của Amanda và bạn trai cô lại hoàn toàn không thấy? Sau cuộc hỗn chiến, muốn lựa chọn xóa sạch ADN của hai người nhưng để lại AND của một người là điều gần như là mong muốn hão huyền. Hơn nữa, trên dây áo lót chỉ có ADN của Rudy, trong khi Sollecito rất khó để có thể tiếp xúc trực tiếp với cái móc nhỏ ấy mà không chạm vào cả chiếc áo lót. Cho nên ADN của Sollecito có thể cũng là do sơ suất của phòng thí nghiệm. Trong ảnh hiện trường được dùng làm bằng chứng, găng tay của nhân viên giám định bị bẩn. Nếu trước khi cầm móc cài, người đó vừa mới chạm vào tay nắm cửa mà trước đó Sollecito cũng từng chạm vào, đó chẳng phải là mang ADN của cậu ta sang móc cài sao? 3 Bên nguyên: Trong phòng vệ sinh nhỏ có 3 vết máu hỗn hợp ADN của Amanda và ADN của Meredith, lần lượt nằm trên bồn rửa, trên hộp ồ ắ ế nhựa đựng bông băng và trên bồn tắm. Một vết máu trên vòi nước chỉ có ADN của Amanda. Luật sư bào chữa: Căn cứ vào số liệu cụ thể của ADN có thể thấy máu của hai người lẫn vào nhau chứ không phải Amanda chạm vào máu của Meredith. Nhưng cảnh sát không hề phát hiện trên người Amanda có vết thương. Vết thương duy nhất của cô là chỗ mới bấm lỗ tai bị viêm chảy máu nên có thể máu đã nhỏ xuống vòi nước. Trong quá trình thu thập mẫu máu, nhân viên điều tra không thay găng tay, có thể ngón tay người đó đã chạm vào máu từ lỗ tai Amanda rồi chạm vào những vết máu khác. Nếu không tại sao có thể trùng hợp đến mức máu của hai người lẫn vào nhau ở cả ba chỗ? Vườn Hoa Mạt Dược: Tôi cho rằng khả năng sai sót của phòng thí nghiệm rất cao. Đầu tiên, theo phiên bản của bên nguyên miêu tả đêm hôm ấy, khó mà giải thích được vì sao có một giọt máu chỉ có ADN của Amanda và giọt máu này có quan hệ gì với các mẫu ADN hỗn hợp khác. Nhưng nếu theo phiên bản của luật sư bào chữa sẽ giải thích được: bởi lỗ tai của Amanda từng chảy máu. Nếu tồn tại khả năng xảy ra sơ suất thì bằng chứng ADN sẽ khó mà thuyết phục được. Cũng căn cứ vào nguyên nhân này mà Amanda và Sollecito được tuyên vô tội hai lần. Các bằng chứng khác trong phòng 1. Trong phòng có người lấy đi ví tiền, thẻ tín dụng, chìa khóa phòng, và chìa khóa cửa túi xách của Meredith. 2. Đèn bàn của Meredith và đèn bàn của Amanda đều nằm trên sàn nhà trong phòng Meredith, gần chân giường. Trong khi đó, đèn bàn của Amanda là nguồn sáng duy nhất trong phòng của cô ấy. Vườn Hoa Mạt Dược: ằ ế Thực ra, bằng chứng này có lợi cho bên nguyên vì nếu Rudy tấn công bất ngờ, hắn khó có thể đi sang phòng bên cạnh mà mình không quen thuộc để lấy một chiếc đèn bàn. Cho nên, bên nguyên cho rằng là Amanda mang từ phòng của mình tới. 3. Bên nguyên: Dấu giày máu của Rudy (căn cứ vào phản ứng luminol) cho thấy hắn rời khỏi phòng, đi qua hành lang và khu vực phòng ăn để ra ngoài nhưng không có dấu chân hiển thị hắn từng xoay người để khóa cửa phòng (khi cảnh sát tới, cửa phòng đang khóa). Muốn cầm chìa khóa và khóa cửa từ bên ngoài thì tất nhiên phải xoay người lại, thế nên mũi giày không thể hướng ra ngoài. Luật sư bào chữa: Chuyên gia cho rằng hình ảnh luminol hiển thị không phải dấu giày hoặc hình ảnh có khả năng bị làm giả. 4. Trên sàn nhà trong phòng nạn nhân có 5 tờ giấy và bưu thiếp, bên trên có ít nhất 2 dấu giày khác nhau nhưng đều không phù hợp với tất cả những đôi giày của nạn nhân. 5. Trong phòng của Amanda và trên hành lang có 5 dấu chân trần dính máu nhưng đã bị lau đi. Những dấu chân máu này không phù hợp với chân của Rudy. 6. Bên nguyên: Trên tấm lót trong phòng tắm có một dấu chân máu (chân đất) phù hợp với chân của Sollecito. Luật sư bào chữa: Không hề phù hợp, ngắn hơn 3cm (bởi dấu chân máu không hoàn chỉnh nên rốt cuộc phương pháp đo đạc cũng không thể quyết định nó có phù hợp hay không). 7. Bên nguyên: Chỉ phát hiện dấu vân tay của Amanda trên một chiếc ly thủy tinh trong phòng ăn, nhưng phòng của cô và những nơi khác trong nhà đều hoàn toàn không có dấu vân tay của cô. Amanda sống ở đây nên điều này không phù hợp với lẽ thường, hiển nhiên có người đã lau chùi. Bên nguyên cho rằng dấu chân máu của Rudy (dấu giày) chứng tỏ hắn không dọn dẹp mà trực tiếp đi ra ngoài, như vậy chính đồng bọn là người làm việc đó. Tuy nhiên, đồng bọn chỉ ý để lại dấu vết của Rudy, hiển nhiên chỉ có Amanda và Sollecito mới làm như thế. Luật sư bào chữa cho rằng dấu chân máu là không đúng vì Rudy không hề đi ngay. Vườn Hoa Mạt Dược: Một mặt, quả thực tôi cảm thấy người dọn dẹp hiện trường khó có thể là Rudy. Cho dù đúng là hắn làm nhưng tại sao hắn lại giữ nguyên dấu vân tay và dấu chân máu của chính mình tại hiện trường và xóa dấu vân tay khó phát hiện hơn trong phòng của Amanda? Mặt khác, tôi cho rằng trong hiện trường hỗn loạn, muốn chọn dấu vết của đúng hai người để xóa cũng là việc rất khó thực hiện. Nếu chỉ dọn dẹp dấu chân của hai người trong ấy thì tương đối dễ. Còn việc lau sạch dấu vân tay của hai trong số ba người, có lẽ cũng có thể thực hiện được với sự trợ giúp của may mắn. Nhưng muốn dọn sạch đến mức hoàn toàn không tìm được ADN của hai người này tại hiện trường vụ án hỗn loạn, chắc hẳn là chuyện không thể. Dù vậy cũng phải nói, không biết chừng họ may mắn làm được điều này hoặc còn sót một số ADN nhưng chưa được tìm thấy thì sao? Chỉ dựa vào những chi tiết ấy, tôi không có cách nào kết luận được. Ngoài ra, một điểm khả nghi là vì sao nguồn sáng duy nhất trong phòng Amanda (đèn bàn) lại ở trong phòng của Meredith? Nếu không có nó thì phòng của Amanda lúc nào cũng tối đen như mực. ấ 1. Dựa theo cách lý giải của bên nguyên là Amanda đã lấy đèn từ phòng của mình sang để chiếu sáng cho việc dọn dẹp, cuối cùng lại quên đèn ở trong phòng. Sau đó, Sollecito cố gắng đạp cửa xông vào cũng là vì muốn lấy lại chiếc đèn này. 2. Amanda nói trước tòa rằng cô không hề biết tại sao chiếc đèn này lại chạy sang phòng của bạn mình. 3. Trên mạng có một cách giải thích mà tôi cho rằng tương đối hợp lý: Có khả năng cảnh sát khu vực vừa đến hiện trường đã mang chiếc đèn ấy sang để xem xét tình hình trong phòng. Họ không dám chạm vào công tắc điện hay đèn có sẵn trong phòng vì sợ để lại dấu vân tay của mình, gây ảnh hưởng đến việc điều tra nhưng vì muốn chiếu sáng nên đã lấy đèn từ phòng bên cạnh sang, cắm vào ổ điện, sau đó bỏ quên ở hiện trường. Khi cảnh sát điều tra tới, chiếc đèn còn ở nơi này liền được chụp vào ảnh hiện trường. Chính vì là lỗi của phía cảnh sát nên họ không giữ chiếc đèn làm vật chứng, cũng không khám nghiệm dấu vân tay trên ấy. Nếu Amanda thật sự muốn tự bảo vệ mình để lật đổ lý luận của bên nguyên, cô hoàn toàn có thể nói với tòa rằng đêm hôm trước mình cho Meredith mượn đèn. Nhưng cô không nói vậy. Đột nhập vào nhà trộm cướp là ngụy tạo hay sự thật 1 Bên nguyên: Căn phòng bị lục lọi rất lộn xộn, quần áo của bạn cùng nhà trọ của Filomena bị lôi từ trong tủ ra rồi vứt vương vãi khắp sàn nhà. Hơn nữa, mảnh kính cửa sổ lại ở trên quần áo và máy tính chứ không phải được phát hiện ở bên dưới. Điều này chứng minh có người đã làm lộn xộn trong nhà trước, sau đó mới dùng đá đập vỡ kính cửa sổ. Luật sư bào chữa: ầ Không đúng, có mảnh kính ở phỉa dưới quần áo, trong ảnh cũng không nhìn thấy mảnh kính ở phía trên. Huống hồ, khi đó Filomena và những người khác từng lục lọi khắp nơi xem có mất đồ hay không nên đã phá hoại hiện trường ban đầu. 2 Bên nguyên: Rudy là kẻ có tiền án đột nhập vào nhà trộm cắp, hơn nữa hắn biết rõ rằng ở tầng một có 2 cô gái người nước ngoài, tầng hầm có 4 chàng trai người Italia. Hôm đó là kì nghỉ, người Italia thường về quê đoàn tụ với gia đình, còn mấy cô gái nước ngoài sẽ ở lại. Nếu động cơ ban đầu của Rudy là trộm cắp thì hắn nên chọn tầng hầm chắc chắn không có người chứ không phải tầng một có thể có hai người đang ở nhà. Luật sư bào chữa: Chúng ta có đánh giá chỉ số thông minh của Rudy cao quá không? 3 Bên nguyên: Đặt giả thiết những lý luận mà luật sư bào chữa đưa ra là thật thì âm thanh đập cửa sổ lớn như vậy mà Meredith không phát hiển ra, đồng nghĩa với việc có thể Rudy đã đột nhập từ trước khi cô ấy về. Hắn ở trong nhà uống nước trái cây, đeo tai nghe nghe nhạc rồi đi đại tiện, đến tận lúc Meredith về… cô ấy về đến nhà vào khoảng 21h, như vậy hắn đã đột nhập vào nhà từ trước đó. Nhưng trước 21h , xe cộ trên đường vẫn tấp nập, vì sao không có người nào nhìn thấy? Vì sao Rudy không vào từ cửa trước (cửa đóng không chặt) hoặc cửa sổ khác kín hơn mà lại chọn cửa sổ ở ắ trên cao, không chỉ hướng ra đường mà còn được lắp thêm cửa chớp? Luật sư bào chữa: Nếu thật sự không thể có người đột nhập vào từ cửa sổ này, vì sao chủ nhà lại lắp cửa chống trộm? Hắn xông vào trước 21h vẫn có thể vừa vặn không có người nào nhìn thấy. 4 Bên nguyên: Rudy cao 178cm, cửa sổ này cách mặt đất hơn 2m nên hắn không thể trèo lên được. Cho dù có thể thì trước đó cũng phải mở cửa chớp bằng gỗ, nhảy xuống lần nữa để nhặt đá, sau đó đập vỡ kính rồi lại trèo lên mở cửa sổ để chui vào. Khi chui còn phải tránh để không bị những mảnh kính bám trên khung cửa sổ đâm vào, đúng là quá phiền phức… Luật sư bào chữa: Một chương trình của Anh đã tìm một người chuyên leo núi làm thí nghiệm, giẫm lên song sắt của tầng hầm là có thể trèo lên được. Vườn Hoa Mạt Dược: Tôi đã xem chương trình đó, thực ra người leo núi ấy trèo lên cũng rất vất vả, chỉ có thể bám vào rìa cửa sổ và hoàn toàn dựa vào lực cánh tay để kéo thân lên. Tôi cảm thấy người bình thường không thể trèo lên được. Tôi rất tò mò, vì sao những người làm chương trình không tìm người bình thường để thực hiện thí nghiệm mà lại tìm một chuyên gia leo trèo? Nhưng cũng phải nói thêm rằng Rudy là một vận động viên bóng rổ nên không thể coi là người bình thường. 5 Bên nguyên: Trên tường không để lại dấu vết leo lên. Luật sư bào chữa: Cảnh sát không khám nghiệm dấu chân. 6 Bên nguyên: Rudy ném một tảng đá lớn nặng 8kg, dài 20cm để phá một tấm kính cửa sổ nhỏ. Ai lại chọn hòn đá to như thế? Luật sư bào chữa: Trong những phi vụ trộm cắp trước kia hắn cũng từng chọn hòn đá to như thế. Vườn Hoa Mạt Dược: Rudy là vận động viên bóng rổ nên ắt hẳn là giỏi ném rổ. 7 Bên nguyên: Sau khi vào nhà, Rudy không lập tức lấy máy tính, máy ảnh và túi xách hàng hiệu ở vị trí dễ nhìn, mà bắt đầu lôi hết quần áo trong tủ ra rồi ném xuống đất… Vườn Hoa Mạt Dược: Có thể Rudy cho rằng đêm ấy sẽ không ai trở về nhà trọ nên mới thong thả lục tìm đồ đạc đáng giá trong tủ quần áo. Đột nhiên hắn buồn đi đại tiện nên đi vào nhà vệ sinh. Và trong lúc hắn đang trong đó thì Meredith về nhà… Sauk hi giết người, hắn vội vàng chạy trốn, quên lấy máy tính và túi xách hàng hiệu ở một căn phòng khác. 8 Thời gian báo cảnh sát là trước khi cảnh sát khu vực đến hay sau khi cảnh sát khu vực đến? Bên nguyên: Cảnh sát khu vực tới lúc hơn 12h40 phút. Khi thẩm vấn, hai bị cáo có vẻ hơi bối rối, nói mình đã gọi điện thoại báo cảnh sát về sự việc và đang đợi họ đến. Thực ra khi ấy, hai người chưa hề báo cảnh sát, sau đó để lấp liếm mới gọi điện thoại lúc 12h 51 phút và 12h54 phút. Luật sư bào chữa: Sau 13h, cảnh sát khu vực mới tới. Sollecito là người đầu tiên gọi điện thoại báo cảnh sát, chứng minh họ không hề muốn trì hoãn thời gian phát hiện thi thể. Không phải họ bối rối mà là bất ngờ bởi vì vừa gọi điện thoại đã có hai cảnh sát tới nơi. Vườn Hoa Mạt Dược: Hai bên đã tranh luận rất nhiều về việc cảnh sát khu vực tới lúc mấy giờ. Bên nguyên cho rằng hơn 12h40 phút, chủ yếu là thông qua lời chứng của chính cảnh sát khu vực và thời gian tới của nhiều sau đấy để suy đoán, chẳng hạn như A nói B đại khái đến sớm hơn mình 10 phút, B nói C đến sớm hơn mình khoảng 3 phút. Luật sư bào chữa cho rằng hơn 13h cảnh sát mới tới bởi gần đó có một camera ghi hình chân của hai người đi qua khung hình nhưng hình ảnh rất mờ, luật sư bào chữa cho rằng đó chính là hai cảnh sát khu vực. Khi gọi điện thoại, Amanda còn nói dối nhiều lần. Những lời nói dối này có lẽ rất quan trọng chăng? Chẳng hạn như khi nghe cuộc điện thoại thứ hai của bạn cùng nhà trọ Filomena, Amanda nói cô đã cùng Sollecito quay về nhà để kiểm tra cửa phòng và làm những việc mà Filomena dặn dò… Nhưng sự thật chứng minh lúc nghe điện thoại, điện thoại của cô đang kết nối với trạm thu sóng ở nhà Sollecito. Nói cách khác, Amanda khoe khoang mình đã làm một số việc mà thực ra cô không hề làm. Bên nguyên cho rằng Amanda nói dối bởi vì cô biết hiện trường do chính mình làm giả, biết người đã chết nên đương nhiên không cần phải đi kiểm tra và chỉ nói qua loa với Filomena qua điện thoại. Nhưng cũng có khả năng cô đang mải ân ái với Sollecito nên không ố ố ể ế ỗ muốn làm nhưng lại muốn thể hiện mình cũng quan tâm đến chỗ ở của bạn cùng nhà trọ nên đã bịa đặt bang quơ như vậy. 9 Vì sao phải nói dối? Bên nguyên: Trước khi Filomena về, Amanda từng nói với bạn trai của Filomena và cảnh sát khu vực rằng Meredith thường xuyên khóa cửa phòng, ngay cả lúc đi tắm cũng khóa nên không cần lo lắng. Vì vậy cảnh sát khu vực đã không phá cửa. Nhưng sau khi Filomena trở về, cô lại nói hầu như Meredith không khóa cửa bao giờ, điều này rất khác thường nên nhất quyết yêu cầu mở cửa. Hơn nữa, lúc trước, Amanda và Sollecito từng cố gắng đạp cửa (trên cửa có một vết nứt do Sollecito đạp tạo thành), nói rõ họ cũng quan tâm đến việc này. Nhưng vì sao lúc ấy, hai người không cho mở cửa? Luật sư bào chữa” Amanda nói tiếng Ý của cô không tốt nên đã gây hiểu lầm. 10 Giờ gây án? A Bên nguyên: Nhân chứng có giá trị nhất của bên nguyên là một người vô gia cư ở quảng trường gần nhà trọ, nơi xảy ra vụ án. Khi cảnh sát tìm người này để hỏi thăm, ông ta đã nói từng nhìn thấy đôi tình nhân này xuất hiện khoảng 3,4 lần từ 21h30 phút đến 23h. Ông ta nói thấy có lúc họ nói chuyện với vẻ kích động, có lúc đứng ở bên lan can nhìn xuống chỗ xe chết máy (xem phần C). Hai chủ cửa hàng nhỏ ở gần quảng trường cũng chứng minh đêm ấy và lúc bình thường, người lang thang này đều có mặt tại nơi đó. ằ ề Bên nguyên cho rằng điều này chứng minh Amanda và Sollecito nói đêm ấy mình luôn ở nhà Sollecito là nói dối. Luật sư bào chữa: Người này hít heroin rất thường xuyên, mà lời làm chứng của ông ta tự mâu thuẫn lẫn nhau. Vườn Hoa Mạt Dược: Trong lời làm chứng của người này, một mặt ông ta nói lúc nhìn thấy Amanda, những người xung quanh mặc quần áo Halloween và có xe bus, chứng minh hôm đó là ngày 31 tháng 10; một mặt lại nói lúc nhìn thấy Amanda là vào đêm không mưa, hôm sau gặp cảnh sát, chứng minh đó là ngày 1 tháng 11. Mà buổi tối ngày 31 tháng 10, Amanda làm thuê ở quán bar, chắc chắn không xuất hiện ở quảng trường. Như vậy chỉ có thể là ngày 1 tháng 11? Tóm lại, vì lời chứng tự mâu thuẫn nên cuối cùng, lời khai của ông ta trong phiên tòa không được chấp nhận. Tuy nhiên, không lâu sau lần làm chứng cuối cùng, người lang thang này đã qua đời vì bị bệnh. B Bên nguyên: Có một nhân chứng nói từng nhìn thấy Amanda, Rudy và Sollecito cầm dao ở cửa nhà trọ. Rudy muốn bỏ tiền thuê xe của anh ta. Luật sư bào chữa: Người này từng có tiền án, không đủ tư cách, hơn nữa lời khai quá khác thường, rất có thể là đang nói dối. Vườn Hoa Mạt Dược: Lời chứng này không thể tin. Sau đó, bên nguyên cũng không sử dụng lời chứng của người này nữa. C ấ ế ế Lúc 22h20 phút đêm ấy, một chiếc xe con chết máy khi đang đi trên đường và phải dừng lại trước nhà trọ, đến 23h15 phút mới đi. Trên xe tổng cộng có 4 người, họ đứng ngoài xe của mình và đợi xe cứu hộ. Trong khoảng thời gian này, họ và người tài xế xe cứu hộ tới sau đều không nghe thấy tiếng hét hay âm thanh khả nghi hoặc nhìn thấy có người trèo tường. Vườn Hoa Mạt Dược: Bởi vì nhiều người làm chứng và đều là dân thường nên lời chứng này có thể tin nhất. Họ cũng xác định rất rõ thời gian. Điều đó chứng tỏ việc giết người hoặc là xảy ra trước 22h20 phút, hoặc là xảy ra sau 23h15 phút. Bên nguyên và luật sư bào chữa đều điều chỉnh suy đoán của mình để có thể phù hợ với lời chứng này. D Bên nguyên: Từ 22h đến 22h30 phút, có một đôi tình nhân đi qua đoạn đường này và nhìn thấy chiếc xe hơi chết máy đã nói ở trên, đồng thời có một người da sẫm màu vội vã đi qua, suýt nữa va vào chàng trai trong đôi tình nhân. Vườn Hoa Mạt Dược: Nếu người này là Rudy và phù hợp với phần C thì đồng nghĩa với việc gây án đã hoàn thành trước 22h20 phút. Nhưng như vậy lại mâu thuẫn với lời làm chứng trong phần E,F và G bên dưới. E Người phụ nữ ở đối diện với nhà trọ lên giường đi ngủ lúc 22h, bị tiếng kêu to của một nam một nữ đánh thức, tiếp đó nghe thấy tiếng của một phụ nữ. Bà ước tính thời gian là khoảng 23h. Vườn Hoa Mạt Dược: Nếu vụ án xảy ra trước 23h sẽ mâu thuẫn với phần C ở trên. Trước 23h, bà ấy có thể nghe thấy những âm thanh này, vậy 4 người ố ấ ầ """