"
Những Khẩu Pháo Ở Navarone - Alistair MacLean full mobi pdf epub azw3 [Kinh Điển]
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Những Khẩu Pháo Ở Navarone - Alistair MacLean full mobi pdf epub azw3 [Kinh Điển]
Ebooks
Nhóm Zalo
Les Canons De Navarone
Năm 1944, trong quần đảo Hy Lạp, một cuộc chiến đấu không khoan nhượng diễn ra giữa toán biệt động Anh và đội quân trú phòng tiền phương của Phát xít Đức .
Ở Navarone, quân đội Đức đã thiết lập một pháo đài thép vô cùng kiên cố để kiểm soát sự lưu thông trên eo biển trọng yếu.
Một toán biệt động Anh đã được thành lập với sứ mạng : đổ bộ lên một điểm của hòn đảo nổi tiếng bất khả xâm nhập và vô hiệu hóa hai khẩu đại bác ở Navarone. Nhóm ít người này dấn thân vào một cuộc chiến ác liệt. Họ chiến đấu đến tận cùng sức lực ...
CHƯƠNG MỘT
CHỦ NHẬT
1g – 9g
Que diêm được quẹt mạnh vào vách rỉ sét của căn nhà có mái tôn lượn sóng, kêu soẹt và bật cháy, ánh sáng lập lòe trong im lặng và bóng tối của màn đêm. Mallory đưa mắt nhìn theo ánh lửa đang được châm vào điếu thuốc nhô ra dưới hàm râu tua tủa như bàn chải đánh răng của viên thiếu tướng, rọi sáng luôn khuôn mặt bất động của một người đàn ông đứng cách đó vài phân, với tia nhìn đăm đăm, cuốn hút vào câu chuyện. Ánh lửa tắt ngúm, que diêm bị chà đạp trên cát của sân bay.
- Tôi nghe thấy họ, thiếu tướng khẽ nói. Tôi nghe họ đang tới. Trong năm phút nữa, không lâu hơn. Tối nay, trời im gió, họ sẽ hạ cánh trên đường bay số 2. Chúng ta hãy tới chờ họ trong phòng họp báo.
Ông ngưng nói, ném về phía Mallory một cái nhìn hóm hỉnh và có vẻ mỉm cười. Nhưng giọng ông không được chút gì vui:
- Này chàng trai, hãy chế ngự nóng nảy. Chỉ thời gian ngắn nữa thôi, anh sẽ nhận tất cả những câu trả lời đang mong đợi, và tôi e rằng còn hơi sớm đấy.
Bất ngờ, viên thiếu tướng bước ra, về hướng dãy nhà to lớn lù lù ở đường chân trời đen nhạt.
Mallory nhún vai, đi theo ông nhưng không bước chậm hơn, cùng với người thứ ba của nhóm, một nhân vật béo lùn đi núng nính nhưng rất gọn. Mallory nghĩ thầm Jensen hẳn phải khổ luyện mới có được dáng đi kiểu thủy quân như thế. Ông ta ở ba mươi năm trong nghề mà, nhưng đó chưa phải là vấn đề. Với chức vụ trưởng phòng 3 đặc trách những "Điệp vụ phá hoại" (S.O.E) 1 ở Caire 2, hải quân đại tá James Jensen đã xuất sắc thành công và được tưởng thưởng Huân chương Công vụ Đặc biệt của Hải quân Hoàng gia. Đa mưu, giỏi nghi binh, tài bắt chước, hóa trang như thật, đều là "nghề" của chàng. Đã từng "quậy" ở các xứ phương Đông, từ Alexandrette 3 đến Alexandrie 4, chinh phục sự nể nang của những người thợ ở các xưởng đóng tàu, cỡi lạc đà còn thành thạo hơn bọn cướp biển sa mạc, thân thể chằng chịt những vết thẹo không ai sánh kịp kể cả bọn ăn mày ghẻ lở ở các chợ trời phương Đông. Vậy mà tối nay, Jensen chỉ là một sĩ quan hải quân giản dị với vẻ mặt không vui. Bộ quân phục hoàn toàn trắng toát từ chóp mũ xuống tới đôi giày. Chỉ có lon đại tá óng ánh trên hai cầu vai và trên vành nón.
Bước chân họ nhịp đều trên cát và sau đó nện vang rền trên xi măng của đường ra phi đạo. Hai người đi sau hầu như mất hút bóng thiếu tướng. Mallory chợt quay sang Jensen.
- Thưa Đại tá, như vậy có nghĩa gì? Tại sao mọi việc lại bí mật? Tại sao tôi phải có mặt ở đây? Lạy Chúa tốt lành! Mới hôm nào đây người ta "bốc" tôi ra khỏi đảo Crète 5 và chỉ báo trước có tám tiếng. Họ nói tôi được đi phép một tháng, và bây giờ thì… có mặt ở đây!
- Rồi sao nữa? Jensen hỏi.
- Còn sao nữa! Chẳng có nghỉ phép gì ráo trọi! Mallory nói bằng vẻ cay đắng. Không có lấy một đêm được ngủ. Chỉ có những giờ và những giờ trong văn phòng sở chỉ huy để trả lời hàng đống câu hỏi ngu xuẩn về leo núi Alpes 6 phía nam. Kế đó, họ lôi tôi ra khỏi giường ngủ với lệnh đi gặp Đại tá. Sau đó là những giờ xuyên qua sa mạc quỉ quái trong chiếc xe do một người Xcốt-len điên khùng vừa lái vừa hát những bài nồng nặc mùi rượu và đã hỏi tôi hàng trăm câu hỏi còn ngu xuẩn hơn nữa!
- Hắn là một trong những nhân viên ưu tú nhất của tôi cải trang đấy. Theo tôi, đó là cuộc hành trình thú vị!
- Một trong những…
Mallory ấp úng không nói hết câu, lo lắng khi nghĩ tới những điều đã nói với viên đại úy già người Xcốt-len có râu mép lái xe.
- Tôi… tôi xin Đại tá tha lỗi. Tôi thật không ngờ…
- Dĩ nhiên, anh không được biết gì cả, Jensen ngắt lời. Tôi chỉ muốn trắc nghiệm xem anh có xứng đáng là người được chỉ định công tác này hay không. Trước khi "bốc" anh ra khỏi đảo Crète, tôi đã chắc rằng anh đủ khả năng, và qua thử thách vừa rồi, tôi lại càng thấy mình có lý. Nhưng tôi không hiểu anh nghĩ sao mà lại tin rằng được đi phép. Người ta thường hiểu sai ý tốt của cơ quan "Điệp vụ phá hoại" (S.O.E) nhưng dù sao cơ quan chúng tôi cũng không điên khùng đến nỗi trưng dụng nguyên một chiếc phi cơ cho các sĩ quan thuộc cấp nghỉ phép một tháng ở thủ đô của Ai Cập.
- Tôi cũng chưa hiểu ý Đại tá…
- Hãy kiên nhẫn, chàng trai, kiên nhẫn theo lời khuyên vừa rồi của ngài Thiếu tướng đáng kính của chúng ta. Thời gian bất tận. Chờ đợi và mãi mãi chờ đợi, đó là cuộc sống ở phương Đông.
- Tổng cộng chỉ ngủ được có bốn giờ trong ba ngày như vậy còn chưa đủ sao? Mallory lầm bầm rủa thầm… A! Họ tới rồi!
Cả hai chớp mắt liên hồi trước ánh sáng chói lóa của những đèn chiếu sáng phi đạo cho máy bay hạ cánh. Không đầy một phút,
chiếc phóng pháo cơ dừng lại nặng nhọc, vụng về ngay gần họ. Thân máy bay màu xám và cánh bom lỗ chỗ những vết đạn kể cả đạn đại bác, một đầu cánh bị rách rời và động cơ ngoài bên trái ngưng hoạt động, dầu rỉ ra. Tấm kính của phòng lái thủng bể khoảng mười hai lỗ.
Jensen chăm chú nhìn khá lâu những lỗ thủng và những vết thương chi chít của chiếc máy bay oanh tạc bị hư hại nặng, kế đó ông lắc đầu và quay mặt đi.
- Đại úy Mallory, ông dịu dàng nói, anh than phiền chỉ được ngủ bốn tiếng, bây giờ tôi bắt đầu thấy anh là kẻ may mắn đã được ngủ trong thời buổi này.
° ° °
Gian phòng họp báo ít tiện nghi và thiếu thoáng khí được chiếu sáng bởi hai bóng đèn cực mạnh, Đồ đạc chỉ gồm vài tấm bản đồ sờn rách treo tường, khoảng gần hai chục cái ghế cũ mòn và một cái bàn bằng gỗ trắng. Viên thiếu tướng ngồi ở giữa đại tá Jensen và đại úy Mallory. Cửa phòng mở và những phi công đầu tiên bước vào, chớp mắt dưới ánh sáng cao độ. Dẫn đầu đoàn là một viên phi công tóc đen, vóc người to lớn, tay trái ôm nón và bộ đồ bay. Hàng chữ "Australie" 7 màu trắng nổi bật phía trên phù hiệu bên vai bộ kaki và trên hai nắp túi ở ngực. Anh chàng nhíu lông mày, im lặng ngồi xuống không cần xin phép, trước mặt ba vị sĩ quan, móc ra bao thuốc lá và quẹt diêm. Mallory lén nhìn thiếu tướng, nhưng ông có vẻ chịu đựng, giọng nói cũng thế.
- Giới thiệu với các ông: đây là Thiếu tá không quân Bill Torrance.
Và thiếu tướng nói thêm tuy hơi thừa:
- Torrance là người Úc.
Mallory có cảm tưởng ông hy vọng giải thích đôi điều về thái độ của thiếu tá Torrance…
- Torrance đã chỉ huy một phi đội tấn công Navarone. Này Bill, các ông đây là hải quân đại tá Jensen, thuộc Hải quân Hoàng gia, và đại úy Mallory thuộc Viễn đoàn Xung kích Sa mạc 8] đều đặc biệt chú tâm đến Navarone. Thế nào Bill? Tối nay "làm ăn " ra sao?
Mallory thầm nghĩ:
"Navaron! Thì ra vì mày mà ta hiện diện ở đây" Anh chàng khá rõ về Navarone hay đúng hơn đã nghe nói đến như tất cả những ai từng phục vụ miền đông Địa Trung Hải. Nó là một pháo đài thép bất khả xâm phạm, ở ngoài khơi bờ biển Thổ Nhĩ Kỳ, được bảo vệ kiên cố, theo ước lượng, bởi một đơn vị quân trú phòng hỗn hợp Đức và Ý, được xây dựng trên một hòn đảo của biển Egée 8 nơi đó quân Đồng minh hoàn toàn không tấn công nổi.
Torrance trả lời bằng giọng chán chường, cố chế ngự cơn phẫn nộ.
- Thưa Thiếu tướng, "làm ăn rất xấu". Thật là một mưu toan tự sát điên rồ…
Chàng chợt ngừng nói, môi mím lại, mắt nhìn những làn khói thuốc cuộn tròn vừa phà ra, rồi tiếp:
- Nhưng chúng tôi muốn trở lại đó, các bạn tôi và tôi. Chỉ một lần nữa thôi. Chúng tôi đã bàn với nhau khi trở về đây.
Phía sau chàng, tiếng xì xào tán thành của các viên phi công khác vang lên.
- Chúng tôi muốn trở lại để mang cái kẻ đùa dai nào đã vạch ra kế hoạch tấn công tự sát này, để tống hắn ra khỏi máy bay từ độ cao ba nghìn mét trên Navarone, không có dù.
- Anh giận đến thế sao Bill?
- Phải, thưa Thiếu tướng. Chúng tôi không có chút cơ hội nào để thành công. Trước hết, thời tiết cũng chống lại chúng tôi. Bọn ăn hại ở Đài Khí tượng lại nhầm lẫn hầu như là thói quen.
- Họ đã báo cho các anh là trời đẹp?
- Vâng. Trời đẹp! Giá mà bọn họ có mặt ở đấy! Torrance hằn học nói. Chúng tôi đã phải xuống thấp ở độ cao bốn trăm năm mươi mét, vậy mà cũng không làm được tích sự gì. Chắc có lẽ chúng tôi phải đâm đầu sâu dưới mặt biển khoảng chín trăm mét, rồi ngóc đầu bay lên: vách đứng của núi đá vẫn che kín mục tiêu. Tôi có cảm tưởng họ đã đóng bít lỗ nòng của hai khẩu đại bác ma quỷ đó. Và rồi, chúng đã tập trung hết phân nửa lực lượng phòng không của miền nam châu Âu để bố trí dọc theo góc hẹp 50 độ này… Russ và Conroy bay chưa tới nửa đường hải cảng thì đã bị…
- Tôi biết. Tôi biết, thiếu tướng buồn bã gật đầu nói. Chúng tôi đã nhận được tin. Liên lạc vô tuyến với máy bay khá tốt… Còn Macveen thì bị bắn rơi ở phía bắc Alexandrie phải không?
- Phải. Nhưng anh ta sẽ xoay sở được. Chiến hạm "bà già" đang hoạt động ở vùng biển đó khi chúng tôi bay qua. Họ sẽ thả xuồng máy xuống nước đi vớt anh ta. Mặt biển êm như hồ.
Jensen quay qua thiếu tướng.
- Xin Thiếu tướng cho phép tôi nói vài lời với thiếu tá phi công. - Được chứ, Đại tá cứ việc hỏi.
- Chỉ một câu hỏi ngắn thôi, Jensen nói vừa mỉm cười nhìn viên phi công người Úc. Anh không muốn trở lại Navarone sao?
- Đại tá còn hỏi tôi làm gì! Torrance làu bàu.
- Tại sao vậy?
- Tại vì tôi không phải là người thích tự sát. Tại vì tôi không tin rằng chúng ta phải phung phí tính mạng các phi công một cách điên rồ. Tại vì tôi không phải là Thượng đế và tôi không thể làm phép lạ được.
Torrance nói bằng những lý lẽ có sức thuyết phục và không sao chỉ trích được.
- Vậy theo ý anh là không thể được phải không? Jensen nhấn mạnh. Vấn đề cực kỳ nan giải đấy.
- Tôi và các bạn tôi, Torrance đưa ngón tay cái chỉ những người đứng sau, chúng tôi đều nghĩ là không thể được. Có thể người ta sẽ sáng chế ra chiếc phi cơ được trang bị bằng những quả bom bay điều khiển từ xa bằng vô tuyến để giải quyết vấn đề. Điều đó tôi không biết. Nhưng tôi biết rằng với tất cả những gì chúng ta hiện có chắc chắn không tấn công nổi Navarone. Trừ phi ngài nhét đầy thuốc nổ TNT vào chiếc phi cơ và hạ lệnh cho một người trong chúng tôi húc đầu với tốc độ bốn trăm cây số giờ vào mõm của họng đại bác. Bằng cách đó, vẫn còn một cơ hội…
- Cám ơn Thiếu tá… và cám ơn tất cả, Jensen vừa nói vừa đứng dậy. Tôi biết các anh đã làm hết sức mình. Không ai khác có thể làm hay hơn các anh. Và tôi tiếc rằng… Thưa thiếu tướng?
- Tôi sẵn sàng chiều theo ý các ông. Thiếu tướng nói xong gật đầu ra hiệu cho viên sĩ quan thuộc Cục Tình Báo ngồi phía sau hướng dẫn Jensen và Mallory vào một phòng bên cạnh.
- Này Đại tá, Thiếu tướng nói, tôi nghĩ rằng anh phải thay đổi kế hoạch thôi.
Ông khui chai rượu vang và rót vào ba ly.
- Phi đội của Thiếu tá Bill Torrance là kỳ cựu nhất, kinh nghiệm nhất trong những phi đội của chúng ta còn lại ngày nay ở châu Phi. Họ oanh tạc các giếng dầu và coi đó như một trò đùa. Họ là phi đội duy nhất đủ khả năng thực hiện cuộc tấn công ở Navarone hồi chiều tối nay và nếu Bill nói rằng không thể được thì, hãy tin tôi đi, Đại tá Jensen, tức không thể được.
- Phải, Jensen nói, dán đôi mắt ủ rũ vào ly rượu óng ánh cầm trên tay. Phải, thưa Thiếu tướng, tôi hiểu điều đó. Tôi hầu như biết trước điều đó, nhưng tôi vẫn chưa tin lắm. Thật đáng tiếc phải mang sinh mạng mười hai phi công ra thử thách để kiểm chứng điều ấy…
Bây giờ, chỉ còn duy nhất một phương án.
- Phải, chỉ còn duy nhất phương án đó, thiếu tướng nói. Ông nâng cao ly lên, nói lớn:
- Chúc chiến dịch Khéros thành công!
- Chúc chiến dịch Khéros thành công! Đến phiên Jensen nói với vẻ u sầu.
Mallory khẩn khoản yêu cầu:
- Tôi xin các ngài, tôi hoàn toàn không hiểu gì hết… Giá mà các vị có lòng tốt cho tôi biết nhỉ?...
- Khéros, Jensen ngắt lời chàng, đó là khẩu hiệu của anh đấy, chàng trai. Thế giới là một hí trường và bây giờ thì anh bước lên sân khấu. Đừng tiếc rẻ vì anh không có mặt ở hai hồi đầu. Vai của anh không phải tầm thường. Dù anh muốn hay không muốn, anh sẽ là diễn viên chính. Khéros, hồi ba, màn tứ nhất: Đại úy Keith Mallory bước ra sân khấu.
° ° °
Suốt mười phút qua, cả hai không ai nói với ai một lời. Jensen lái chiếc Humber với vẻ tự tin hàng ngày. Mallory chúi mũi trên chiếc bản đồ trải dài trên đùi, một tấm bản đồ lớn của vùng biển Egée phía nam được soi sáng bởi ánh đèn trên bảng công tắc xe hơi. Chàng chú ý đến quần đảo Sporades và Dodécanèse 9 ở phía bắc được khoanh tròn bằng viết chì đỏ. Cuối cùng chàng ngẩng đầu lên, rùng mình. Ngay cả ở Ai Cập, những đêm cuối tháng mười một này rất lạnh. Chàng nói:
- Thưa Đại tá tôi đã nắm vững.
- Tốt!
Jensen nhìn thẳng phía trước con đường xám như dải lụa uống khúc và ánh đèn xe hơi chói lòa đang xuyên thủng màn đêm sa mạc. Chiếc xe chồm lên đoạn đường nhấp nhô khiến hai luồng đèn pha quét lên quét xuống liên hồi.
- Tốt! Jensen lập lại. Anh hãy nhìn lại bản đồ một lần nữa và cứ tưởng tượng anh đang ở Navarone. Thành phố này ở trên một cái
vịnh hầu như hình tròn phía bắc hòn đảo. Hãy cho tôi biết anh thấy gì khi đứng ở đó.
Mallory mỉm cười.
- Tôi chẳng cần nhìn lại bản đồ cũng biết. Cách khoảng sáu cây số về phía đông, là bờ biển Thổ Nhĩ Kỳ uốn cong về hướng bắc và hướng tây tới một điểm ở ngay phía bắc của Navarone nơi đó là một mũi nhọn trải dài khoảng mười tám cây số, ngay đầu mũi là vịnh Demirei, có phải thế không? Và thẳng theo chiều dọc là đảo Khéros. Rồi cách Navarone bốn cây số rưỡi về phía tây bắc, là đảo Maidos, hòn đầu tiên thuộc nhóm quần đảo Lérades. Chúng trải dài cũng theo hướng tây bắc, có lẽ đến bảy mươi lăm cây số.
- Chín mươi, Jensen sửa lại cho đúng. Anh có cái nhìn nhạy bén đấy, chàng trai. Anh có kinh nghiệm và dũng cảm. Không ai có thể tồn tại mười tháng ở đảo Crète nếu thiếu một trong hai đức tính này. Ngoài ra, anh còn có vài phẩm chất đặc biệt khác tôi sẽ nói sau.
Đại tá ngừng nói một lúc, thong thả lắc đầu.
- Tôi chỉ hy vọng một điều là anh gặp may mắn… Lạy chúa! Anh cần gặp may…
Mallory chờ đợi câu nói khác nhưng Jensen đang chìm đắm trong những ý nghĩ. Ba phút trôi qua, có thể là năm phút rồi, và chỉ có tiếng rú mạnh của động cơ xe, tiếng bánh cọ sát trên mặt đường. Mắt vẫn không rời khỏi mặt đường, Jensen chợt hạ thấp giọng:
- Hôm nay là thứ bảy hay sáng chủ nhật gì đó. Từ bây giờ cho đến thứ bảy tới sẽ có một ngàn hai trăm người trên đảo Khéros sẽ chết, bị thương hoặc bị bắt.
Lần đầu tiên Jensen nhìn Mallory với nụ cười mỉm thoáng trên môi, nụ cười héo hắt.
- Đại úy Mallory, anh có cảm tưởng gì khi nắm trong tay sinh mạng của một ngàn hai trăm người?
Trong nhiều giây, Mallory nhìn vẻ mặt điềm nhiên của người bạn đồng hành, rồi chàng quay mặt đi, chăm chú nhìn trên bản đồ. Một
ngàn hai trăm người ở Khéros, một ngàn hai trăm người chờ chết. Khéros và Navarone. Khéros và Navarone. Chàng chợt nhớ lại bài thơ ngắn đã nghe trước đây ở một ngôi làng của những người chăn cừu gần Queenstown: "Chimborazo và Cotapaixi 10, các người đã cướp mất trái tim ta…" Khéros và Navarone cũng được xướng lên như thế như một ma lực lãng mạn xâm chiếm tâm hồn chàng trai.
- Cách đây mười tám tháng, Jensen cắt ngang im lặng, sau khi Hy Lạp thất thủ, phát xít Đức đã chiếm phần hết quần đảo Sporades, phát xít Ý làm chủ phần lớn quần đảo Dodècanèse. Sau đó, dần dần, chúng ta bắt đầu tổ chức những điệp vụ trên các lãnh thổ đó và thường được chỉ huy bởi Viễn đoàn Xung kích Sa mạc của anh hoặc bởi Cục Công tác Đặc biệt của Bộ Hải quân. Tháng chín qua, chúng ta đã chiếm lại hầu hết những đảo lớn chỉ trừ Navarone. – Đây là một vấn đề khó giải quyết vô cùng và chúng ta đành phải tránh né – Chúng ta đã nâng quân số trú phòng lên đến cấp tiểu đoàn hoặc hơn thế nữa. Vào thời điểm đó, anh còn đang "ẩn mình" trong hang động của anh trên Núi Tuyết, nhưng chắc anh cũng nhớ quân Đức đã phản ứng như thế nào.
- Rất dữ dội?
- Phải, rất dữ dội. Sự quan trọng của Thổ Nhĩ Kỳ ở khu vực này không thể được đánh giá quá cao và họ luôn luôn sẵn sàng tạm đứng về phe Trục 11 hoặc phe Đồng minh. Phần lớn các đảo này chỉ cách bờ biển Thổ vài cây số. Đối với quân Đức cần gấp rút lấy lại lòng tin ở trong nước đó là vấn đề uy tín. Do đó, họ đã dốc hết toàn lực vào đây: quân nhảy dù, quân không vận, lữ đoàn chuyên hoạt động vùng núi, số lượng rất lớn phóng pháo cơ Stuka 12, hình như họ đã trưng dụng hết số oanh tạc cơ ở mặt trận Ý. Trong vài tuần chúng ta đã thiệt hại hơn một vạn người và mất hết những đảo đã chiếm lại, trừ Khéros.
- Và bây giờ, đến phiên Khéros?
- Phải, Jensen trả lời.
Ông rút hai điếu thuốc ra khỏi bao, giữ im lặng trong khi Mallory châm lửa xong, vất que diêm qua cửa xe, về hướng Địa Trung Hải mờ nhạt đang trải dài ra ở phía bắc, bên dưới con đường ven bãi.
- Phải, Jensen lập lại. Đối với chúng ta. Khéros coi như sẽ mất. Không còn cách nào cứu vãn nó được. Trong vùng biển Egée, quân Đức có ưu thế tuyệt đối về không quân.
- Nhưng làm thế nào Đại tá có thể chắc chắn rằng Khéros sẽ mất nội trong tuần này?
- Này chàng trai, Jensen thở dài, ở Hy Lạp điệp viên của Đồng minh đông như tổ kiến. Chỉ ở khu vực Athènes 13- Le Pirée 14, chúng ta có đến hơn hai trăm nhân viên.
- Hai trăm! Mallory thốt lên bằng giọng hoài nghi.
- Phải, đó là chưa đáng kể so với số lượng khổng lồ gián điệp đang hoạt động ở Caire và Alexandrie. Dù sao mọi thông tin của ta rất chính xác. Một đoàn tàu đổ bộ của Đức sẽ xuất phát từ Pirée rạng sáng thứ năm, len lỏi qua nhóm đảo Cyclades 15 và dừng lại đó ban đêm. Một tình thế lạ lùng, phải không? Đại tá vừa nói vừa mỉm cười. Ban ngày phe ta không dám chường mặt ra ngoài biển Egée vì sợ máy bay oanh tạc của địch. Quân Đức ban đêm không dám nhúc nhích. Các khu trục hạm và các trinh sát hạm cực nhanh của chúng ta nhổ neo ra khơi lúc hoàng hôn. Trước khi bình minh tới, các tàu khu trục của ta co cụm về phía nam, còn các tàu trinh sát thường lẩn trốn trong các vịnh nhỏ. Nhưng chúng ta cũng không thể ngăn cản được đoàn tàu đổ bộ của Đức trên đường đi tới Khéros. Chúng sẽ đến ngày thứ bảy hoặc chủ nhật mà tiến hành đổ bộ lên đảo đồng thời với những toán không vận. Khéros sẽ không đứng nổi trong hai ngày.
Nghe giọng nói của Jensen, không ai mà không tin. Mallory tin lời ông ta. Suốt gần một phút, chàng nhìn các ánh sao phản chiếu trên mặt biển tăm tối và phẳng lặng, đoạn bất ngờ quay sang Jensen:
- Nhưng thưa Đại tá, còn Hải quân! Di tản sao?
- Hải quân, Jensen nói, họ đã mệt mỏi và chán chường vùng đông Địa Trung Hải và biển Egée. Họ đã tiêu hao lực lượng một cách gần như phi lý. Hai thiết giáp hạm bị bắn chìm, tám tuần dương hạm hư hại nặng, trong đó bốn chiếc bị đắm, và hơn mười hai tàu khu trục bị phá hủy. Đó là tôi chưa kể đến những cái thuyền chiến nhỏ hơn mà chúng ta đã mất. Và tất cả những cái đó chỉ để cho Bộ Tư lệnh Tối cao của chúng ta chơi trò "Ai sẽ làm vua" với Berlin 16. Thật là trò chơi thú vị đối với quý vị ngồi trên cao, nhưng hoàn toàn không, đối với hàng ngàn thủy thủ đắm chìm ngoài biển khơi, đối với hàng vạn lính Anh, liên quân Úc và Tân Tây Lan bị thương và chết trên những hòn đảo mà không biết tại sao.
Bàn tay Jensen xiết chặt tay lái, đôi môi mím lại trong nỗi đắng cay. Mallory ngạc nhiên, gần như hơi khó chịu trước sự xúc động mãnh liệt có vẻ bất thường của viên đại tá và chàng nghĩ chắc Jensen còn biết nhiều điều khác nhưng phải che dấu công chúng.
- Một ngàn hai trăm người? Mallory hỏi lại. Có đúng là Đại tá đã nói một ngàn hai trăm người ở Khéros.
- Phải, Jensen trả lời.
Rồi ông thở dài nói tiếp:
- Anh có lý, chàng trai. Tôi nói hơi viển vông. Lẽ dĩ nhiên chúng ta không để bọn Đức đi qua. Hải quân phải làm hết sức mình. Nếu cần phải hy sinh thêm hai hay ba khu trục hạm nữa… Xin lỗi, chàng trai, tôi lại mê sảng rồi… Bây giờ, hãy lắng tai nghe. Phải thực hiện di tản vào ban đêm. Chúng ta không có một chút may mắn nào để thành công vào ban ngày bởi từ hai đến ba trăm phi cơ phóng pháo Stukas của Đức đang sốt ruột chờ đợi một khu trục hạm của Hải quân Hoàng gia ló đầu ra. Phải sử dụng những tàu khu trục để di tản, bởi vì các tàu vận tải quá chậm. Và chưa chắc họ đến kịp quần đảo Lérades trước bình minh.
- Nhưng Lérades là một dãy quần đảo rất dài, các khu trục hạm sẽ không thể đi qua…
- Đi qua giữa hai trong các hòn đảo? Không thể được. Tất cả eo biển đều bị gài mìn, ngay cả tàu nhỏ nhất cũng không qua được.
- Còn eo biển giữa Maidos và Navarone cũng đầy dẫy mìn phải không, thưa Đại tá?
- À không! Ở đó nước quá sâu, quân Đức không thả thủy lôi.
- Vậy chúng ta sẽ đi đường đó chứ gì? Tôi nghĩ rằng phía bên kia là vùng biển Thổ Nhĩ Kỳ và chúng ta…
- Chúng ta sẵn sàng đi xuyên qua vùng biển Thổ Nhĩ Kỳ ngày mai giữa ban ngày, nếu xét thấy có lợi. Người Thổ và cả người Đức đều biết thế. Nhưng với điều kiện là vô hiệu hóa pháo đài thép. Vả lại, chúng ta không đi ngả eo biển Thổ Nhĩ Kỳ nhưng đi qua eo biển phía tây. Ở đó không có mìn, đoạn đường ngắn hơn và không gây rắc rối quốc tế một cách vô ích giữa chúng ta và người Thổ.
- Vô hiệu hóa pháo đài thép?
- Phải, hai khẩu đại bác ở Navarone, Jensen nói.
Ông giữ im lặng khá lâu rồi thong thả lập lại "Hai khẩu đại bác ở Navarone", như nhắc đến một kẻ thù xưa đáng sợ.
- Hai khẩu đại bác ở Navarone khiến mọi chọn lựa của chúng ta giữa hai eo biển đều vô ích, bởi vùng hoạt động của hai khẩu lợi hại này bao quát từ eo biển Thổ qua đến eo biển phía tây. Chúng ta chỉ có thể di tản một ngàn hai trăm người ra khỏi Khéros khi đã làm câm họng hai khẩu này.
Mallory không nói gì hết. Chàng nghĩ thầm "Đây là trọng tâm của vấn đề".
Jensen tiếp tục nói, vẻ bình thản.
- Đó không phải là những khẩu đại bác bình thường. Các chuyên gia của chúng ta đánh giá rằng chúng là những khẩu đại bác xoáy nòng khoảng 228 ly. Các chiến sĩ của ta căm ghét và sợ chúng hơn mọi thứ trên đời, bởi chúng rất khủng khiếp: quả đạn có đạn đạo rất căng và xa, bắn trúng mục tiêu với sự chính xác thần sầu. Chính hai
khẩu này đã bắn chìm chiếc Sybaris của ta chỉ đúng năm phút. Sybaris là một tuần dương hạm với trọng tải mười ngàn tấn, mà chúng ta phái đến, cách đây khoảng bốn tháng, để thử lửa với bọn Đức. Tàu Sybaris bị nổ tung, chỉ có mười bảy người sống sót.
- Lạy Chúa! Tôi không biết điều ấy. Mallory ấp úng nói.
- Cách đây hai tháng, chúng tôi đã tung ra một cuộc tấn công quy mô vào Navarone, với lực lượng thủy bộ gồm toán biệt động của Hải quân Hoàng gia và Cục Công vụ đặt biệt. Chúng tôi thừa biết trước rằng khó có hy vọng vì Navarone thực tế là một núi đá vững chắc trên toàn chu vi. Nhưng biết đâu lực lượng của ta có thể làm nên chuyện.
Jensen ngừng nói khoảng một phút trước khi tiếp:
- Cuối cùng toán biệt kích của ta đã bị nghiền nát như mảnh vụn bánh mì. Hầu hết bị hạ sát. Rồi mới đây, trong vòng mười ngày qua, vì dự đoán Khéros sẽ bị tấn công, đã hai lần chúng tôi thả dù xuống Navarone những toán “chuyên phá hoại” của Cục Công vụ đặc biệt, nhưng họ đều mất tích. Và, chiều tối nay, là ván bài chót của người thua cuộc tuyệt vọng, và anh đã thấy kết quả thế nào trong phòng họp báo. Trong khi các phi công phẫn nộ, tôi đã ngồi lặng thinh. Chính tôi là “kẻ đùa dai” mà Torrance và các phi công khác muốn tống ra khỏi máy bay trên vùng trời Navarone. Tôi không trách cứ họ. Tôi biết không hy vọng, nhưng đành phải thử. Tôi rất ân hận.
Chiếc Humber to lớn bắt đầu giảm tốc độ, lặng lẽ lăn bánh giữa những ngôi nhà đổ nát dọc hai bên đường dẫn tới phía tây Alexandrie. Trên trời những đường sọc màu xám báo hiệu sắp hừng đông.
- Tôi không tin rằng với một cái dù, tôi có thể làm được điều gì hay, Mallory nói. Thú thật với Đại úy, tôi cũng chưa được nhìn tận mắt một cái dù nào.
- Đừng lo lắng chuyện đó, Jensen nói, anh sẽ không có cơ hội dùng dù đâu. Anh sẽ vào Navarone bằng con đường khó khăn nhất.
Một khoảng im lặng dài trôi qua, Mallory hỏi:
- Tại sao lại là tôi, thưa Đại tá?
Nụ cười mỉm của Jensen được nhìn thấy lờ mờ trong bóng tối màu xám tro. Ông quặt tay lái tránh một ổ gà lớn, đoạn cho xe chạy ngay lại.
- Sợ à? Ông hỏi.
- Chắc chắn là tôi sợ. Xin lỗi Đại tá, cách nói chuyện của Đại tá làm khiếp đảm bất cứ ai… Nhưng tôi không muốn nói thế.
- Tôi hiểu. Tôi hơi méo mó… Tại sao lại là anh? Vì anh có những đức tính đặc biệt như tôi đã nói khi nãy. Anh lại nói tiếng Hy Lạp như người Hy Lạp, nói tiếng Đức như người Đức. Anh là một chuyên gia “phá hoại” cừ khôi, một tay tổ chức hàng đầu, và mười tám tháng nguyên vẹn trên Núi Tuyết Trắng của đảo Crète chứng tỏ khả năng sinh tồn của anh trong lãnh thổ bị chiếm đóng. Chắc anh ngạc nhiên vì sao tôi nắm rõ lý lịch của anh.
- Không, tôi không ngạc nhiên, Mallory hậm hực nói. Nhưng tôi biết có ba vị sĩ quan cũng chuyên nghiệp như tôi.
- Có, Jensen không phản đối. Nhưng không có Keith Mallory thứ hai. Ai mà không nghe nói đến Keith Mallory hồi thời trước thế chiến? Một vận động viên leo núi người Tân Tây Lan giỏi nhất thế giới, nơi nào khó leo nhất hiểm trở nhất đều có dấu chân của anh, những vách đá dựng đứng, những vực thẳm sâu hoắm. Anh nên nhớ toàn bờ biển phía nam của Navarone là một vực thẳm khổng lồ, trơn nhẵn, không có một chỗ để tựa chân.
- Tôi hiểu, Mallory nói khẽ, đi vào Navarone bằng con đường khó nhất như Đại tá vừa nói.
- Thật thế. Anh chỉ huy một nhóm bốn người mà thôi. Họ đã được sàng lọc kỹ càng như sàng bắp. Mỗi người chuyên một việc. Anh sẽ gặp họ ngày mai… hay đúng hơn, trưa nay.
Cả hai ngồi im lặng bên nhau trong mười phút sau đó. Jensen quẹo sang bên phải khu các xưởng đóng tàu. Chiếc xe nhồi xốc trên
con đường lát đá, băng qua quảng trường Mohammed Ali, chạy qua trước Sở Giao dịch Chứng khoán… và đi vào đường Shérif Pacha.
Mallory nhìn khuôn mặt của người đồng hành bây giờ rõ nét vì ngày đã lên.
- Chúng ta đi đâu đây, thưa Đại tá?
- Đi gặp một người duy nhất ở Trung đông này có thể giúp được anh: ông Eugène Vlachos trước đây ở Navarone.
° ° °
- Đại úy Mallory, anh là một con người can đảm, Eugène Vlachos vừa đưa ngón tay nóng nảy xoắn tít những sợi râu dài. Anh là một người can đảm và điên khùng, nhưng tôi nghĩ rằng không nên gọi một người là điên khi anh ta chỉ làm cái công việc tuân lệnh cấp trên.
Đôi mắt của Vlachos thôi nhìn tấm hình vẽ đặt trên bàn và quay sang nét mặt điềm nhiên của Jensen.
- Không còn cách nào khác sao, thưa Đại tá? Ông khẩn cầu. Jensen chậm chạp lắc đầu.
- Chúng tôi đã thử nhiều giải pháp, nhưng tất cả đều thất bại. Chỉ còn giải pháp này là cuối cùng.
- Vậy thì anh ta phải đi đến đó?
- Thưa ngài nên nhớ có hơn một ngàn người ở Khéros.
Vlachos cúi đầu tỏ vẻ thầm lặng chấp nhận, kế đó ông khẽ mỉm cười với Mallory.
- Đại tá gọi tôi là “ngài” tôi, một người Hy Lạp đáng thương. Thật là vinh hạnh cho lão già này biết chừng nào.
Đôi mắt mở và khuôn mặt nhăn nheo của ông dịu hẳn lại khi gợi nhớ một kỷ niệm xưa.
- Đại úy Mallory, bây giờ tôi già rồi. Tôi hiện là một người nghèo và buồn, nhưng cách đây không lâu, với thể lực và tuổi tác, tôi đã
sống một cuộc đời giàu có và hạnh phúc. Tôi đã làm sở hữu chủ một trăm mẫu đất ở cái thành phố do Chúa cố ý dựng nên để ưu đãi tạo vật của Ngài, và các vị biết đấy, tôi yêu nó biết chừng nào.
Ông cười, đưa tay vuốt mái tóc hoa râm.
- Chắc các vị nói rằng: “A! Điều ấy còn tùy vào nhãn quan của mỗi người”. Đối với tôi nó là một thành phố tuyệt vời, nhưng hình như khi không có tôi, Đại tá Jensen đã gọi nó là “Khối núi đá quỷ quái!”
Ông già mỉm cười trước sự chưng hửng của Jensen và kết thúc: - Nhưng cả hai chúng tôi đều gọi nó cùng một tên là Navarone. Ngạc nhiên, Mallory quay nhìn Jensen. Đại tá gãi đầu nói:
- Gia đình của Vlachos đã sinh sống ở Navarone từ nhiều thế hệ. Cách đây mười tám tháng, chúng tôi bó buộc phải vội vã di tản ông Vlachos bởi vì quân Đức không ưa những người hợp tác với chúng tôi.
Ông già thêm vào:
- Quân Đức đã đào sẵn ba cái huyệt ở Navarone dành cho tôi và hai đứa con trai… Nhưng hãy bỏ qua chuyện của tôi. Tôi chỉ muốn cho anh biết, đại úy Mallory, rằng tôi đã sống bốn năm ở Navarone và đã trải qua bốn ngày ròng rã để vẽ tấm bản đồ này. Anh có thể tuyệt đối tin vào những tin tức và tấm bản đồ do tôi cung cấp. Lẽ dĩ nhiên từ lúc tôi rời khỏi Navarone đã có một số điều thay đổi, nhưng cũng có cái không bao giờ thay. Những núi đồi, các vịnh, đường đèo, hang động, đường xá và nhất là núi đá nơi đặt pháo đài, đã không hề biến đổi từ bao thế kỷ.
- Thưa ngài, tôi hiểu. Mallory nói.
Chàng cẩn thận gấp tấm bản đồ và cất vào túi áo trong.
- Với cái này, chúng tôi vẫn còn có dịp mà. Cám ơn ngài Vlachos rất nhiều.
- Nó chẳng đáng bao nhiêu. Cầu Chúa giúp anh.
Ông già gõ nhịp trên bàn, đoạn ngước nhìn Mallory:
- Đại tá Jensen đã cho tôi biết rằng các anh nói thông thạo tiếng Hy Lạp, các anh sẽ cải trang thành những nông dân Hy Lạp và sử dụng giấy tờ giả. Rất tốt. Các anh sẽ hành động độc lập. Tôi chỉ yêu cầu các anh đừng làm liên lụy những người dân ở Navarone. Các anh phải tránh họ bằng mọi giá. Bọn Đức không biết thương xót. Nếu một người nào đó giúp các anh và bị khám phá, bọn Đức sẽ không chỉ tiêu diệt người đó mà cả làng, đàn ông, phụ nữ và trẻ em. Điều đó đã xảy ra rồi, và còn xảy ra nữa.
- Ở đảo Crète cũng đã xảy ra một vụ tương tự. Mallory nói. Chính tôi là người chứng nhân.
Vlachos tiếp:
- Và người dân ở Navarone không có kinh nghiệm cần thiết để tiến hành tốt những hoạt động du kích. Họ không có dịp để luyện tập kháng chiến bởi vì quân Đức đặc biệt kiểm soát nghiêm nhặt ở hòn đảo này.
- Tôi xin hứa với ngài, Mallory nói.
Chàng định kết thúc câu chuyện nhưng Vlachos ngắt lời.
- Hãy đợi một chút. Nếu thật sự các anh lâm vào một tình thế tuyệt vọng hoàn toàn, tôi biết hai người có thể giúp các anh. Cách phía nam pháo đài khoảng bốn cây số, ngay lối vào thung lũng, dưới bóng cây tiêu huyền thứ nhất trên quảng trường làng Margaritha, là nơi ở của một người tên Louki. Anh ta đã từng làm quản gia trong gia đình tôi từ nhiều năm. Anh ta đã giúp quân Anh, đại tá Jensen sẽ xác nhận với anh điều đó. Các anh có thể giao phó tính mạng cho anh ta và một người bạn thân tên là Panayis.
- Cám ơn ngài, tôi sẽ ghi nhớ. Louki và Panayis, và Margaritha, cây tiêu huyền thứ nhất đầu quảng trường làng.
- Và ngoài ra Đại úy từ chối mọi sự giúp đỡ khác sao? Ông già lo lắng hỏi. Chỉ có Louki và Panayis thôi sao?
- Ngài hãy tin lời tôi. Dù sao chúng tôi càng ít người, nguy cơ càng ít cho chúng tôi và cho cả đồng bào của Ngài.
Niềm xúc động mãnh liệt của người Hy Lạp làm Mallory ngạc nhiên.
Ông đứng dậy, bắt tay chàng.
- Ngài đừng lo lắng. Họ sẽ không gặp chúng tôi. Không ai gặp chúng tôi và chúng tôi không gặp ai. Chúng tôi chỉ cần gặp mỗi một thứ đó là: hai khẩu đại bác.
- Phải, hai khẩu đại bác, những khẩu đại bác khủng khiếp, Vlachos nói. Nhưng giả sử…
- Tôi xin ngài đừng lo. Chúng tôi sẽ không làm thiệt hại gì đến ai, đến những người dân ở đảo.
- Cầu Chúa luôn ở bên anh, ông già thì thầm. Tôi cũng ước ao có đủ sức khỏe để tháp tùng các anh.
--------------------------------
1S.O.E. (Opérations subversives): chuyên tiến hành những hoạt động phá hoại.
2 Caire: thủ đô Ai Cập.
3 Alexandrette: thành phố cảng của Thổ Nhĩ Kỳ.
4 Alexandrie: thành phố cảng của Ai Cập.
5 Crète: tên hòn đảo của Hy Lạp ở Địa Trung Hải.
6Alpes: Dãy núi hùng vĩ nhất châu Âu, trải dài từ Địa Trung Hải lên đến tận Trung Âu.
7 Australie: nước Úc
8Groupe d' Action lointaine du désert: Đội quân đặc biệt hoạt động xa ở vùng sa mạc.
9 Egée: thuộc Địa Trung Hải, giữa Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ.
10 Sporades và Dodécanèse: tên các quần đảo của Ai Cập vùng biển Egée. 11 Chimbarazo và Catapaxi: Tên hai núi lửa trên dãy núi Andes ở Nam Mỹ. 12 Axe: phe Trục gồm phát xít Đức, Nhật, Ý.
13 Stuka: loại phóng pháo cơ của Đức chuyên bổ nhào từ trên không xuống mục tiêu.
14 Athènes: Thủ đô của Hy Lạp
15 Pirée: Hải cảng của Athènes.
16 Cyclades: Quần đảo của Hy Lạp trong vùng biển Egèe.
CHƯƠNG HAI
TỐI CHỦ NHẬT
19g – 2g
- Đại úy dùng cà phê nhé?
Malory cựa mình, làu bàu và cố ra khỏi giấc ngủ say vì kiệt sức. Chàng khó nhọc ngồi nhổm dậy, thôi dựa lưng vào thành ghế bằng kim loại, tự hỏi khi nào Không lực Hoàng gia (Royal Air Force) 1 mới quyết định làm nệm cho những ghế đáng ghét này. Bây giờ chàng đã hoàn toàn bừng tỉnh nhưng mệt mỏi, đôi mắt như thường lệ liếc mặt kính đồng hồ đeo tay. Đúng bảy giờ tối. Chàng ngủ gần hai tiếng. Tại sao họ cản mình ngủ tiếp nhỉ?
- Đại úy dùng cà phê nhé? Viên xạ thủ đại liên trẻ tuổi lập lại, kiên nhẫn đứng bên chàng, tay bưng cái nắp thùng đạn dùng làm khay, trên đó để mấy tách.
- Ồ xin lỗi cậu, xin lỗi, Mallory nói.
Chàng cầm một cái tách đang bốc khói, đưa lên mũi hít hà với vẻ khoan khoái.
Viên xạ thủ trẻ mỉm cười hãnh diện:
- Thế đấy! Chúng tôi có bình lọc cà phê trong bếp mà.
- Một bình lọc cà phê! Lạy các đấng thần linh cao cả! Ôi chiến tranh tuy khắc nghiệt nhưng Không lực Hoàng gia vẫn cố khắc phục!
Chàng bắt đầu nhấm nháp cà phê với vẻ hài lòng. Chợt chàng bật dậy không màng đến những giọt nước nóng hổi bắn trên đùi, nhìn qua cửa sổ và quay lại viên xạ thủ vừa đưa ngón tay ngạc nhiên chỉ vùng đồi núi trải dài bên dưới máy bay.
- Điều gì đã xảy ra? Chàng la lên. Lẽ ra hai giờ sau khi màn đêm buông xuống chúng ta mới đến… thế nhưng bây giờ mặt trời vừa lặn! Viên phi công có…
- Thưa Đại úy, chúng ta đang ở Chypre 2, viên xạ thủ nói. Đại úy có thấy xa kia là ngọn núi Olymp 3 ở đường chân trời. Để tới đảo Castelrosso 4 chúng ta hầu như luôn luôn bay trên Chypre. Chẳng qua là để tránh bị quan sát.
- Lạy Chúa tốt lành! Cậu ta nói là để tránh bị quan sát! Ai đó nói bằng giọng Mỹ lè nhè và nặng. Người ta đã đưa chúng ta xuống một chiếc tàu nhỏ ở Alexandrie chạy hơn hai mươi dặm để che mắt không cho ai thấy chúng ta lên chiếc thủy phi cơ 5 già nua sơn màu trắng bệch này, bảo đảm một người mù đứng cách một trăm cây số còn thấy nó, nhất là khi trời sắp tối.
- Màu trắng để chống nhiệt mà, người xạ thủ nói.
- Tôi chẳng quan tâm gì đến hơi nhiệt, này cu cậu. Tôi còn khoái nóng nữa. Cái mà tôi không ưa là những quả trái phá và những viên đạn bẩn thỉu này có thể làm nổ tung chúng ta bất cứ lúc nào.
Anh chàng người Mỹ nói xong, ngã ngửa người xuống chiếc ghế thiếu tiện nghi, nhắm mắt và thiêm thiếp một lúc.
Người xạ thủ vừa mỉm cười với Mallory vừa nói:
- Anh ta không ưa những đồ quỷ này, có phải thế không Đại úy?
Mallory bật cười nhìn theo người xạ thủ đến khi anh ta khuất bóng trong buồng lái phía trước. Chàng thong thả nhâm nhi cà phê và ném một cái nhìn về phía anh chàng đang lim dim ngủ ở dãy ghế bên. Anh ta có vẻ bình thản tuyệt diệu. Đó là hạ sĩ Dusty Miller, người Mỹ, mới gia nhập binh đoàn Sa mạc. Có anh ta đi theo thật là tốt! Mallory quay nhìn những người khác gật gù hài lòng. Những người đó cũng vậy, có họ đi theo thật là quý! Mười tám tháng trải qua ở đảo Crète đã dạy cho chàng biết đo lường chính xác khả năng sống còn của từng người trong loại chiến tranh mà chàng đang phải theo đuổi này. Đại tá Jensen đã thành lập một ê-kíp tuyệt vời. Thật tình chàng cũng chưa biết rõ cá tính từng người một, nhưng chàng đã nghiên cứu hồ sơ cá nhân đầy đủ mà đại tá đã cung cấp và xác nhận họ đều là những người xứng đáng.
Tuy nhiên trường hợp của Stevens không phải là không có chút vấn đề sao? Mallory tự hỏi. Chàng nhìn dáng trẻ trung, mái tóc hoe vàng của Hải quân trung úy Andy Stevens thuộc lực lượng trừ bị của Hải quân Hoàng gia. Anh ta đã được tuyển chọn vì ba lý do. Anh sẽ lái tàu đưa cả nhóm đến Navarone. Anh là một vận động viên leo núi thuộc hàng đầu, đã từng chinh phục những đỉnh cao nổi tiếng. Ngoài ra, còn nói thông thạo tiếng Hy Lạp cổ và nay. Hai mùa hè qua, anh đã từng làm hướng dẫn viên cho các du khách đến tham quan Athènes, thủ đô của Hy Lạp. Nhưng có điều anh ta quá trẻ, trẻ một cách phi lý và tuổi trẻ có thể nguy hiểm đấy. Nhất là trong loại chiến tranh gián điệp vô cùng tàn bạo này. Nguồn hứng khởi, sự hăng hái, lòng nhiệt thành của tuổi trẻ không những chưa đủ, mà còn chắc chắn tạo nên một sự bất lợi. Trong chiến tranh thầm lặng này phải có kiên nhẫn, bền bỉ, vững vàng, tinh khôn và khéo léo, đó là tất cả những đức tính mà người trẻ tuổi ít có được… Nhưng dù sao anh ta có thể có khả năng học hỏi nhanh.
Mallory lại nhìn Dusty Miller. Anh chàng này có vẻ chiến đấu lâu năm và không còn nuôi ảo tưởng. Bốn mươi tuổi đời, hạ sĩ Miller sinh trưởng ở Californie (Mỹ), mang dòng máu Ai-len ba phần và giòng máu Trung Âu một phần. Trong hai mươi lăm năm qua anh đã chiến đấu và phiêu lưu mạo hiểm nhiều gấp mười hai lần cuộc đời một người. Trước làm thợ mỏ trong một mỏ bạc ở Nevada, rồi làm thợ khoan đường hầm Canada, thợ khoan dầu ở nhiều nơi trên thế giới. Khi Hitler tấn công Ba Lan, anh ta đang ở Ả Rập Sê-út. Sau đó qua Anh Quốc, gia nhập vào Không lực Hoàng gia. Chuyến bay chiến thuật đầu tiên cũng là chuyến cuối cùng. Mười phút sau khi cất cánh khỏi sân bay Menidi gần thủ đô Ai Cập vào một đêm tháng giêng 1941, động cơ bị hỏng và máy bay đành nhục nhã đáp xuống một cánh đồng ruộng cách thủ đô vài cây số về phía bắc. Miller đã trải qua phần còn lại của mùa đông ở một nhà bếp của phi trường Menidi, trong cơn phẫn nộ sôi sục. Đầu tháng tư, anh ta tự động rút lui khỏi ngành hàng không mà không cho ai biết gì cả, và lang thang lên tận biên giới An-ba-ni, thì đụng đầu quân Đức. Sau này anh ta kể khi sư đoàn thiết giáp của Đức tiến sát anh chỉ còn cách hai dãy nhà thì anh đã kịp di tản lên chiếc tàu vận tải Slamat. Nhưng chiếc
Slamat bị đắm và được khu trục hạm Wryneck vớt, nhưng lại đến phiên tàu khu trục bị chìm, cuối cùng anh cũng tới được Alexandrie (thành phố cảng của Ai Cập) trên một chiếc thuyền nhẹ và dài nhưng cũ kỹ với quyết tâm duy nhất là không bao giờ mạo hiểm đi trên không cũng như đi trên biển. Vài tháng sau, anh ta lại tham gia một phân đội chuyên đánh khuấy phá hậu phương của quân Đức ở Lybie.
Mallory thầm nghĩ, anh ta là mẫu người tương phản tuyệt đối với Hải quân trung úy Stevens trẻ trung, tươm tất, phấn khởi, luôn ăn mặc chỉnh tề đúng quân cách. Còn Miller thì khô cằn, gầy ốm, chịu đựng rất giỏi, và mối hận thù hầu như là bệnh hoạn với sự trang điểm. Ngoài ra, trái ngược với Stevens, anh ta chưa bao giờ leo núi trong cuộc đời và những tiếng Hy Lạp mà anh biết thì không bao giờ có trong tự điển, hay nói đúng hơn anh ta mù tịt ngôn ngữ này. Nhưng hai sự việc này không chút quan trọng, bởi vì Miller được chọn vì lý do duy nhất: anh ta là chuyên gia số một về chất nổ, phải nói là một vị thần thật sự về phương diện này. Bình tĩnh, chính xác, đáng sợ khi hành động, anh ta được Cơ quan Tình báo Trung đông ở Ai Cập đánh giá là kẻ phá hoại cự phách nhất miền nam Châu Âu.
Ngồi đằng sau Miller là Casey Brown. Dáng người béo lùn, da màu nâu sậm và rắn chắc. Trung sĩ điện báo viên Brown sinh trưởng ở ven bờ sông Clyde. Trong thời bình, anh ta là kỹ sư kiêm kiểm soát viên trong một xưởng đóng tàu nổi tiếng. Brown sẽ là thợ máy của chiếc tàu đưa nhóm đến Navarone và anh có nhiệm vụ luôn giữ liên lạc bằng vô tuyến với căn cứ. Thêm vào đó, anh ta còn có điểm lợi là đã từng làm chiến sĩ du kích xuất sắc thuộc Cục Công vụ Đặc biệt, được tưởng thưởng Huân chương chiến công và nhiều huân chương khác sau hàng loạt thành tích của anh ở vùng biển Egée và ngoài khơi vùng biển Lybie.
Người thứ năm và là cuối cùng của nhóm ngồi ngay sau lưng Mallory. Chàng chẳng cần quay lại để nhìn anh ta. Chàng biết rõ anh ta còn hơn biết rõ mẹ ruột mình. Andrea đã là trung úy dưới quyền chàng trong mười tám tháng ở đảo Crète. Anh chàng Andrea to lớn này với nụ cười liên tục nhưng quá khứ thì bi thảm, đã từng lẩn trốn
trong các hang động, ngủ trong các chòi bỏ hoang của những người chăn cừu, bị quân tuần tiễu và phi cơ Đức săn đuổi thường xuyên. Andrea đã trở thành một thứ "alier-ego" của chàng, có nghĩa là: "nhìn Andrea, đối với Mallory chẳng khác gì tự soi mình trong gương". Sở dĩ Andrea có mặt trong nhóm không phải tại vì anh ta là người Hy Lạp, am tường sâu sắc ngôn ngữ, phong tục và ý nghĩa của người dân ở đảo, cũng không phải vì anh ta và Mallory là đôi bạn thân hoàn toàn hiểu và hợp ý nhau. Anh ta có mặt trong nhóm độc nhất chỉ vì sự hiện diện của anh ta bao hàm ý nghĩa che chở và an toàn tuyệt đối. Với đức tính nhẫn nại vô bờ bến, ít nói, không gì lay chuyển nổi, tuy thân hình to lớn vạm vỡ nhưng lại nhanh nhẹn, mọi động tác như mèo của anh đều dẫn đến một hành động bạo lực ghê gớm. Phải nói anh ta là một cỗ máy chiến đấu hoàn hảo, một giấy bảo hiểm chống thất bại.
Đại tá Jensen có thể không thành lập nổi một nhóm nào khác khá hơn cho dù ông ta có lục lọi hết hí trường chiến tranh Địa Trung Hải, Mallory thỏa mãn nghĩ thế. Miller và Brown được gọi đến Alexandrie gần một tháng trước, Stevens được bốc đi trong lúc công tác trên chiếc tuần dương hạm và cũng khá lâu rồi. Và nếu trong vùng Núi Tuyết, bức điện do đài thu gần nhất chuyển đi không mất một tuần để vượt qua bảy mươi lăm cây số đường núi phủ đầy tuyết trắng và quấy phá liên tục bởi quân Đức, chưa kể thêm năm ngày để đi tìm Mallory và Andrea, thì chắc cả hai đã có mặt ở Alexandrea sớm hơn gần hai tuần. Mallory càng thêm kính phục đại tá Jensen. Ông thật là người biết tiên liệu sự việc và minh mẫn. Ông đã chuẩn bị chu đáo cho chiến dịch này ngay cả trước khi thực hiện hai vụ nhảy dù vô ích trên Mavanore.
Bây giờ là tám giờ và bên trong máy bay hầu như hoàn toàn tối đen. Mallory đứng dậy, tiến về phía buồng lái. Viên phi công trưởng, khuôn mặt bị vây quanh bởi một đám mây khói thuốc đang uống cà phê. Người hoa tiêu phụ khẽ vẫy tay chào chàng và tiếp tục quan sát cảnh nhàm chán bên ngoài máy bay.
- Chào các vị, Mallory mỉm cười nói. Cho phép tôi vào nhé?
- Anh là khách quý có thể vào buồng chúng tôi bất cứ lúc nào, viên phi công nói.
- Tôi chỉ sợ làm phiền các vị.
Viên phi công tay cầm tách cà phê hướng về cái hộp đen to và thấp trong bóng tối lờ mờ:
- "Phi công tự động" của tôi lái đấy. Một bộ máy tinh xảo và ít nhầm lẫn hơn kẻ lười biếng như tôi… Chắc Đại úy muốn hỏi điều gì?
- Vâng, tôi xin được biết những huấn thị mà ông được nhận đêm nay.
- Khi trời tối, chúng tôi sẽ thả các anh xuống đảo Castelrosso. Thú thật tôi chẳng hiểu gì hết. Cả một chiếc thủy phi cơ to lớn này chỉ để chở năm người và một ít vật dụng mang theo mà thôi. Nhất là đáp xuống Castelrosso. Nhất là trong đêm tối. Vừa qua, có một chiếc cũng đáp xuống đó, nhưng bị tai nạn. Tôi không biết tại sao có thể là gặp một chướng ngại ngầm dưới biển. Chỉ có hai người sống sót.
- Người ta đã cho tôi biết điều đó. Tôi rất tiếc, nhưng cũng chỉ biết tuân theo lệnh. Xin ông vui lòng nói với các nhân viên thuộc quyền giữ bí mật tuyệt đối về chuyến đi này.
- Tất cả chúng tôi đều bị đe dọa đưa ra tòa án binh nếu không kín miệng. Chà! Y như là một vụ kinh doanh đặc biệt.
- Phải đấy… Chúng tôi sẽ để lại trên máy bay một vài rương nhỏ. Sẽ có người đến lấy khi ông bay trở về căn cứ. Chúng tôi sẽ thay quần áo khác để đổ bộ.
- Chúc Đại úy may mắn. Dù là bí mật quốc phòng hay không bí mật, tôi nghĩ rằng Đại úy cũng cần được chúc gặp may.
Mallory tươi cười:
- Nhờ các vị mà bước đầu khởi hành của chúng tôi tốt đẹp. Mong sao việc hạ cánh được thực hiện gọn gàng, êm thắm.
- Hãy yên tâm, người anh em. Đại úy quên rằng tôi cũng có mặt trong phi cơ này sao?
° ° °
Những động cơ của chiếc thủy phi cơ Sunderland nổ vang rền bên tai họ trong khi một chiếc xuồng nhỏ nhẹ nhàng ló ra khỏi bóng tối và đến cập sát vỏ máy bay sáng loáng. Không một chút thì giờ nào được mất, không một lời nói nào được phát ra, chưa đầy một phút nhóm năm người và vật liệu mang theo đã ở trong xuồng. Trong vòng một phút sau, chiếc xuồng dừng lại, cọ sát vào mũi đập đá của hòn đảo Castelrosso. Hai sợi dây thừng tung xoắn tít trong màn đêm, được nắm bắt và cột nhanh nhẹn bởi những bàn tay thành thạo. Một cái thanh bằng sắt hoen rỉ ăn sâu vào vách đá nhô lên bầu trời đen chi chít sao. Khi Mallory leo tới đầu thang, một bóng đen tiến ra hỏi:
- Đại úy Mallory?
- Phải, tôi đây.
- Tôi là Đại úy Briggs thuộc lục quân. Yêu cầu Đại úy cho nhóm chờ ở đây. Đại tá muốn nhìn qua các vị.
Mallory không có cảm tình ngay với con người có cái giọng mũi và cái vẻ hách dịch đó. Chàng cảm thấy cơn giận bốc lên nhưng chàng không nói gì hết. Briggs có lẽ là loại người chỉ thích có rượu gin 6 và cái giường nằm. Sự hiện diện của nhóm chàng về khuya làm ông ta phải xa một trong hai thứ hoặc xa cả hai thứ. Ôi! Chiến tranh thật đáng ghét!
Họ trở lại trong vòng mười phút, theo sau là một bóng đen thứ ba Mallory nhìn ba người đàn ông đứng trên bờ đập đang chăm chú quan sát từng người trong nhóm. Chàng quay lại hỏi:
- Miller đâu?
- Tôi đây, xếp, Miller lầm bầm đứng lên khỏi cái bục đá dùng để cột neo. Tôi đang nghỉ xả hơi một chút sau cuộc hành trình quá vất vả.
Briggs xen vào bằng giọng hơi gay gắt:
- Khi nào các ông hoàn toàn sẵn sàng, Matthews đây sẽ dẫn các ông đến chỗ ngủ. Matthews anh phải làm theo lời Đại úy Mallory. Đó là lệnh của Đại tá.
Giọng nói của Briggs ra vẻ không cho phép ai có quyền nghi ngờ và làm trái lệnh của đại tá. Ông nói thêm:
- Và Đại úy đừng quên nhé, Đại tá đã dặn, chỉ hai giờ thôi.
- Tôi biết, tôi biết, Mallory chán nản nói. Thế nào, các chàng trai, các anh sẵn sàng chưa?
- Còn hành lý của chúng ta, thưa Đại úy? Stevens băn khoăn hỏi.
- Cứ để đây, Matthews, anh hãy chỉ đường cho chúng tôi.
Matthews tiến bước dọc theo bờ đập, kế đó bắt đầu leo những bậc thang bất tận bằng đá mòn, mọi người đi thành hành dọc theo anh ta không một tiếng động vì đế giầy đều làm bằng cao su. Lên đỉnh dốc, anh ta quẹo sang phải, theo con đường hẹp và quanh co, đi vào một hành lang, bước lên một cái thang bằng gỗ kêu ken két và mở cửa một căn phòng.
- Đại úy và các vị hãy nghỉ ở đây. Tôi sẽ chờ ở ngoài hành lang.
- Tốt hơn anh nên đợi bên dưới cầu thang, Mallory nói. Đừng khó chịu nhé, Matthews, nhưng công việc của chúng tôi đòi hỏi thế.
Mallory theo các bạn bước vào phòng và đóng cửa lại. Đó là một căn phòng nhỏ u ám bít kín bằng những tấm màn to nặng nề. Một cái bàn và nửa lô ghế choán gần hết chỗ. Trong góc xa nhất là một cái giường lò xo độc nhất kêu cót két khi hạ sĩ Miller khoái trá nằm lên, gối đầu trên hai tay.
- Lạ nhỉ! Anh ta trầm trồ, một căn phòng khách sạn. Thật y như ở nhà. Tuy nhiên hơi ít đồ đạc.
Chợt như nghĩ ra điều gì, anh hỏi:
- Thế còn các anh sẽ nằm ở đâu?
- Chúng tôi sẽ không ngủ, Mallory trả lời khô khan. Anh cũng vậy. Chúng ta sẽ lên đường trong vòng hai tiếng. Nào, đứng dậy đi, chàng trai!
Miller rên rỉ, ngồi dậy và tò mò nhìn Andrea.
Anh chàng khổng lồ người Hy Lạp đang dò xét một cách có phương pháp căn phòng, mở các nắp tủ, lật các bức tranh, nhìn ra sau những tấm màn và dưới gầm giường.
- Anh đang làm gì thế! Miller hỏi.
- Andrea đang kiểm tra phòng có bị đặt máy nghe lén không, Mallory nói. Đó là một trong những lý do khiến tôi và Andrea còn sống sót.
Chàng thọc tay vào túi trong của chiếc áo vét lính thủy màu sậm, không lon, không phù hiệu, lấy ra một tấm sơ đồ và tấm bản đồ mà Vlachos đã vẽ cho chàng, mở ra và trải chúng trên bàn. Chàng nói:
- Tất cả các anh hãy đến đây. Tôi biết các anh muốn nổi điên vì tờ mờ hai tuần nay và đặt ra hàng trăm câu hỏi. Vậy thì, đây là tất cả những câu trả lời. Tôi hy vọng các anh hài lòng… Hãy để tôi giới thiệu các anh hòn đảo Navarone.
° ° °
Đồng hồ của Mallory chỉ đúng mười một giờ đêm khi cuối cùng chàng gấp bản đồ và tấm sơ đồ lại. Chàng đưa cái nhìn hóm hỉnh lần lượt dạo trên bốn khuôn mặt đăm chiêu nghĩ ngợi ngồi quanh bàn.
- Thế đấy, "quý ông" đã hiểu rồi chứ? Một vở kịch tuyệt hay phải không? Nếu là một phim, có lẽ tôi đã hỏi các anh: Ai có ý kiến gì không? Nhưng ở đây miễn cái thủ tục đó bởi vì tôi không thể cung cấp cho các anh một lời giải đáp nào hết. Tất cả các anh đều biết như tôi.
- Bốn trăm mét vách núi thẳng đứng, đó là điểm hở duy nhất để lọt vào, Miller vừa nói vừa khéo léo quấn một điếu thuốc dài và mỏng. Thật là điên khùng thưa xếp. Riêng tôi, tôi không có khả năng leo lên một cái thang mà không té. Thật là tự tử. Tôi dám đánh cá một ăn ngàn rằng chúng ta sẽ không tới gần hai khẩu quái ác đó bảy cây số.
- Một ăn một ngàn? Hãy cho tôi biết, Miller anh đặt bao nhiều tiền trên số phận những người ở Khéros? Mallory hỏi.
- Những người Khéros? Tôi quên họ mất. Tôi chỉ nghĩ đến tôi và khối núi đáng nguyền rủa.
Miller nói xong, ngước nhìn thân hình to lớn của Andrea.
- Hay là Andrea sẽ cõng tôi nhé. Dù sao anh ta cũng thừa sức mà.
Andrea không trả lời. Đôi mắt chàng lim dim, tư tưởng có thể bay xa hàng ngàn cây số.
Stevens xen vào:
- Chúng tôi sẽ cột dây vào hai tay, hai chân anh và kéo lên, nhưng phải kiếm được một sợi dây thừng khá chắc.
Tuy nói bông đùa, những vẻ mặt của Stevens đang thể hiện nét lo lắng. Ngoài Mallory ra, chỉ còn Stevens là có khả năng đo lường những khó khăn về kỹ thuật của vách núi đá xa lạ hầu như không thể leo lên được trong bóng tối. Chàng nhìn Mallory như ngầm hỏi: "Leo lên một mình sao, thưa Đại úy, hay là…"
- Xin lỗi quý vị, Andrea chợt thốt lên bằng giọng nghiêm nghị.
Anh ta cúi xuống viết nguệch ngoạc nhanh chóng trên một mảnh giấy.
- Tôi có kế hoạch này để leo núi. Đây là sơ đồ Đại úy thử xem có được không?
Anh ta trao tờ giấy cho Mallory. Chàng chăm chú nhìn, suy nghĩ. Không có hình vẽ nào cả mà chỉ có vỏn vẹn hàng chữ: "Cứ tiếp tục
nói chuyện bình thường".
- Tôi hiểu, Mallory cất tiếng nói. Hay lắm. Tôi thấy có khả năng đấy.
Chàng chìa tờ giấy sao cho mọi người có thể đọc được hàng chữ viết bằng nét to của Andrea. Đang khi đó thì Andrea rón rén bước tới cánh cửa.
- Hạ sĩ Miller, anh thấy kế hoạch tài tình không? Mallory giả bộ điềm nhiên chuyện trò.
- Vâng, Miller trả lời cũng bằng giọng nói tự nhiên, điếu thuốc gắn trên môi, mắt nhắm một nửa để tránh khói thuốc. Tôi tin rằng phương thức này có thể giải quyết được vấn đề và cho phép tôi lên tận đỉnh một cách ngon lành.
Chàng ta nói xong bật cười không chút lo lắng, nhưng, như có phép lạ, trong lòng bàn tay trái của chàng một vật đen ngòm, hình trụ chợt xuất hiện một cách kỳ ảo không biết từ lúc nào: một khẩu súng lục và chàng đang giương nòng lên vừa tầm cánh cửa.
Mọi việc xảy ra hoàn toàn đúng hai giây: Andrea một tay mở cửa, tay kia chộp nhanh một người vùng vẫy dữ dội. Chàng kéo hắn vào, đóng cửa lại không một tiếng động và nhanh như mèo. Trong một giây, kẻ nghe lén không kín đáo có nước da ngăm ngăm này trở nên bất động, mắt chớp chớp vì chưa quen với anh sáng, đoạn bàn tay hắn đút vào túi áo trắng.
- Coi chừng, Miller thốt lên vừa chĩa mũi súng vào người lạ. - Đừng nóng! Mallory nhẹ nhàng gạt tay Miller.
Những người ngồi ở bàn chỉ kịp nhận thấy một ánh thép xanh lóe lên chụp xuống Andrea như tia chớp điên dại. Nhưng, không thể tin nổi, cả bàn tay và mảnh thép chợt khựng lại trong khoảng không, mũi dao nhọn và sắc chỉ cách ngực Andrea hai phân. Một tiếng kêu đau đớn vang lên cùng một lúc với tiếng răng rắc của xương cổ tay gẫy dưới sức bóp của bàn tay anh chàng Hy Lạp khổng lồ. Sau đó người ta thấy Andrea nhẹ nhàng dùng ngón cái và ngón trỏ kẹp lưỡi
dao, cẩn thận kéo ra với vẻ âu yếm nhưng chê bai của một người cha ngăn cản đứa con yêu quý chơi trò dại dột. Rồi mũi dao trở lại dí ngay cổ họng của người lạ mặt miền Cận đông trong khi Andrea mỉm cười nhìn đôi mắt đen đầy sợ hãi.
- Chà, Miller nói khẽ, tôi nghĩ rằng Andrea có vẻ thành thạo những trò này.
- Có lẽ, Mallory nói. Hãy cho chúng tôi nhìn rõ tù binh của anh, Andrea.
Andrea kéo tù nhân đến gần bàn, giữa ánh sáng. Người đàn ông, dáng gầy gò, vẻ tọc mạch, đang ôm cổ tay gẫy.
Mallory nói:
- Andrea, theo anh thì tên này nghe trộm ngoài cửa từ bao lâu?
- Tôi không thể nói chắc chắn, thưa Đại úy, nhưng tôi tin đã nghe một tiếng động nhỏ cách đây khoảng mười phút.
- Mười phút? Mallory lập lại.
Đoạn, chàng quay qua tù nhân:
- Anh tên gì? Anh làm gì ở đây?
Không một tiếng trả lời. Sự im lặng khó chịu bị cắt đứt bởi tiếng kêu đau đớn của tù nhân khi Andrea tát hắn.
- Đại úy hỏi mày, trả lời đi.
Người đàn ông bắt đầu nói nhanh, hai tay chỉ chỏ. Không ai hiểu hắn nói gì. Andrea chận đứng những lời nói ào ào như thác nước của hắn bằng bàn tay trái bóp vào cổ tù nhân:
- Tôi chẳng hiểu hắn dùng ngôn ngữ gì để nói chuyện với chúng ta, Andrea nói.
- Này anh kia, anh biết tiếng Anh không? Mallory hỏi.
Đôi mắt đen của người đàn ông tràn ngập oán hận nhưng hắn không trả lời. Andrea lại bạt tai hắn.
- Anh biết tiếng Anh không? Mallory lập lại.
- Tiếng Anh? Tiếng Anh? Người đàn ông nhại lại, nhún vai, bàn tay xòe ra ngụ ý không hiểu gì hết.
- Hắn nói không biết tiếng Anh, Miller kết luận.
- Có thể là không và cũng có thể là có, Mallory bình thản nói. Có điều là hắn đã nghe lén ngoài cửa và chúng ta không thể để xảy ra nguy cơ. Biết bao nhiêu sinh mạng đang trên bàn mổ trong ván cờ này.
Sau đó giọng chàng đột nhiên đanh lại:
- Andrea! Anh đang cầm dao. Hãy thanh toán nó thật nhanh và thật sạch sẽ. Đâm ngay giữa hai bả vai đây.
- Lạy Chúa! Đại úy! Đại úy không thể… Stevens hoảng hốt thốt lên vừa nhổm người dậy…
Nhưng anh ta chợt đứng lại và sững sờ nhìn tên tù nhân đang chạy trối chết ngang qua phòng và đến ngồi bẹp dí ở một góc, mặt co giật vì khiếp đảm. Stevens ngoảnh lại, nhìn nụ cười đắc thắng của Andrea vẻ hiểu ý trên nét mặt của Brown và Miller, và chàng tự thấy xấu hổ vì quá đần độn.
Miller mở miệng đầu tiên:
- Thế đấy, thế đấy. Cuối cùng thì hắn ta cũng hiểu tiếng Anh.
- Có lẽ, Mallory nói. Một người không thể đứng mười phút, tai dán vào lỗ khóa nếu không hiểu một tiếng nào… Brown, anh hãy gọi Matthews.
Người lính canh tới ngay vài giây sau.
- Matthews, anh hãy mời Đại úy Briggs tới đây ngay cho tôi. Người lính lưỡng lự.
- Đại úy Briggs đã đi nằm. Ông ta đã ra lệnh rõ ràng là cấm không ai được quấy rầy giấc ngủ của ông.
Mallory chua xót kêu lên:
- Ôi trái tim tôi cũng muốn rướm máu khi nghĩ đến giấc ngủ quý báu của ngài đại úy Briggs bị phá rầy. Tổng cộng giờ ngủ của tôi một tuần lễ qua không bằng một ngày ngủ của ngài.
Chàng ném một cái nhìn trên đồng hồ đeo tay, giọng quyết liệt.
- Chúng tôi không được phép mất thì giờ. Hãy mời ngài tới đây ngay lập tức. Hiểu chưa?
Từ nào đến giờ Miller vẫn cho là sứ mạng của nhóm, tuy có tầm quan trọng sinh tử, nhưng không thể thành công được và đồng nghĩa với tự sát, bây giờ anh ta mới hiểu tại sao anh chàng đại úy người Tân Tây Lan này được chọn làm trưởng nhóm.
Tất cả đều im lặng trong năm phút sau đó và ngẩng đầu lên khi cánh cửa bật mở. Đại úy Briggs, đầu trần, khăn choàng cổ màu trắng quấn ngang mũi và miệng cho khỏi lạnh. Màu trắng càng làm nổi bật khuôn mặt đỏ như gấc của ông mà Mallory thầm đánh giá là bởi huyết áp cao hoặc do lạm dụng rượu. Sự giận dữ làm đôi mắt xanh của ông như rực lửa và ông ta la lên:
- Đại úy Mallory! Ông hơi thái quá đấy! Tôi không phải là người trực ban của ông. Cả một ngày của tôi quá mệt mỏi tôi cần phải…
- Hãy dành mà mô tả trong bản lý lịch của Đại úy để được thăng cấp, Mallory cắt ngang bằng giọng khô khan. Ông hãy nhìn cái tên đứng trong góc kia.
- Lạy Chúa! Briggs kêu lên, Nicolai!
- Đại úy biết hắn?
- Dĩ nhiên là tôi biết anh ta. Ở đây mọi người đều biết Nicolai, người thợ giặt ủi của chúng tôi mà.
- Chúng tôi bắt quả tang hắn đang nghe lén ngoài cửa.
- Nicolai nghe lén! Vô lý! Tôi không tin. Hắn ta không biết một tiếng Anh nào cả.
- Có lẽ, nhưng hắn hiểu tiếng Anh vừa đủ tốt. Tôi chẳng muốn phí thì giờ bàn cãi vấn đề này suốt đêm. Bây giờ tôi chỉ yêu cầu ông bắt giữ ngay tên này và nhốt nó trong xà lim. Không được tiếp xúc với ai ít nhất là hết tuần tới. Đây là một việc hệ trọng, vô cùng hệ trọng. Dẫu hắn là một gián điệp hay chỉ đơn giản là một người tò mò, hắn cũng đã biết hơi quá nhiều. Sau đó, Đại úy muốn làm gì hắn thì làm. Nhưng tôi khuyên Đại úy nên trục xuất hắn khỏi đảo Castelrosso này.
- Ông khuyên tôi à! Quỷ thần! ông là ai mà dám cho tôi lời khuyên hay chỉ thị, hở Đại úy Mallory?
- Vậy thì tôi khẩn khoản xin Đại úy làm việc đó như một ân huệ, Mallory nói bằng giọng mệt mỏi. Tôi không thể giải thích được, nhưng sự việc hết sức quan trọng, quan trọng khủng khiếp. Hàng trăm sinh mạng…
- Hàng trăm sinh mạng! Briggs mỉa mai lập lại. Ôi những thiên tiểu thuyết không đầu không đuôi. Tôi đề nghị với ông hãy dành mà kê khai vào bản lý lịch "hiệp sĩ" của ông.
- Tôi nghĩ rằng có thể đi gặp Đại tá chỉ huy của ông, nhưng tôi chán mất thời giờ để tường trình. Ông hãy thi hành đúng như lời tôi nói, nếu không, tối sẽ đi ra P.C 7(Sở chỉ huy) của Hải Quân và liên lạc bằng điện đàm với Bộ Tư lệnh ở Caire. Nếu tôi làm, tôi bảo đảm ông Đại úy sẽ xuống chiếc tàu đầu tiên để về nước Anh trên boong dành cho binh nhì.
Nét mặt của Đại úy Briggs đột ngột nổi xung như thế nào thì bây giờ lại đột ngột bớt hăng và dịu hẳn xuống. Biết mình thua, ông năn nỉ:
- Thôi được, thôi được. Đại úy, khỏi cần đe dọa tôi làm chi… Nếu Đại úy cho đó là việc hệ trọng… Tôi sẽ bắt giữ hắn… Matthews, kêu lính gác vào đây!
° ° °
Chiếc tàu phóng ngư lôi chúi mũi xuống nước rồi lại cất đầu lên với nhịp đều đặn và đơn điệu, đang băng băng lướt sóng. Đây là lần thứ một trăm trong đêm. Mallorry lại nhìn đồng hồ.
- Chúng ta bị trễ sao, thưa Đại úy? Stevens hỏi.
Mallory gật đầu.
- Lẽ ra chúng ta đã phải lên chiếc tàu này ngay sau khi bước ra khỏi thủy phi cơ Sunderland… Tại vì một trục trặc.
- Lại trục trặc máy móc, tôi cá với Đại úy như thế, Brown làu bàu nói.
- Phải, rất đúng, Mallory trả lời. Tại sao anh biết?
- Ôi những loại động cơ quái ác của các tàu phóng ngư lôi nào cũng thế. Chúng cứ õng ẹo như một ngôi sao màn bạc.
Bầu không khí im lặng ngự trị một lúc trong ca-bin bé nhỏ và tăm tối, một sự im lặng thỉnh thoảng bị cắt ngang bởi tiếng ly lách cách. Hải quân lúc nào cũng trung thành với truyền thống hiếu khách: luôn có rượu đãi khách.
Miller thắc mắc:
- Nếu chúng ta bị trễ, tại sao thuyền trưởng không cho tăng tốc độ? Người ta nói với tôi rằng loại tàu này có thể chạy từ bốn mươi đến năm mươi hải lý một giờ mà.
Stevens nói ngay, không giữ ý.
- Sao anh ngây thơ quá vậy. Chắc chưa bao giờ anh đi loại tàu cà rịch này lúc trời xấu.
Im lặng một lúc, Miller lại nói:
- Tôi biết việc này không quan hệ gì đến tôi, nhưng tôi muốn hỏi riêng Đại úy có thực hành lời đe dọa với Đại úy Briggs không?
Mallory cười.
- Đúng đấy hạ sĩ. Việc này không quan hệ gì đến anh. Nếu anh muốn biết, câu trả lời của tôi là không. Tôi không thực hành lời đe dọa bởi vì tôi không thể làm được. Tôi không được trao đầy đủ thẩm quyền, vả lại tôi cũng chẳng biết ở đảo Castelrosso này liệu có đài điện đàm không.
- Tôi cũng tin Đại úy sẽ làm vậy. Lần đầu tiên, tôi bắt đầu nghĩ rằng chúng ta có cơ hội thành công. Nhưng tôi tiếc rằng Đại úy không "dứt điểm" cái tên nghe lén khốn kiếp ấy và cả cái tên đại úy Briggs. Tôi không ưa loại người như hắn. Hắn thù ghét Đại úy lắm đấy. Lời lẽ của Đại úy đã làm tự ái và lòng kiêu hãnh của hắn bị tổn thương.
Mallory không trả lời. Chàng ngủ thiếp, cái ly uống cạn rơi khỏi ngón tay. Tiếng gầm rú ghê hồn của các động cơ lớn đang tăng công suất khi tiến vào vùng nước thanh tịnh của eo biển Rhodes 8 cũng không kéo chàng ra nổi vực thẳm của giấc ngủ.
--------------------------------
1 Berlin: thủ đô của Đức Quốc xã.
2 Royal Air Force: Hãng Hàng không quân lực Hoàng gia Anh. 3 Chypre: Đảo Síp ở Địa Trung Hải.
4 Olympe: tên một ngọn núi ở Hy Lạp.
5 Castelrosso: tên một hòn đảo nhỏ của Hy Lạp.
6 Hydravion (thủy phi cơ): loại máy bay có thể đậu trên mặt nước và bay lên. 7 Gin: tên loại rượu chế tạp tại Anh và Hà Lan.
8 P.C: Poste de Commendement: Sở chỉ huy.
CHƯƠNG BA
THỨ HAI
7g – 17g
- Anh làm tôi áy náy vô cùng, anh bạn thân mến…
Điệu bộ buồn rầu, viên sĩ quan cầm cây phất trần xua muỗi có cán bằng ngà voi, phẩy phẩy trên bộ quân phục thẳng tắp không chút nếp nhăn và khinh bỉ hướng mũi giày bóng loáng về phía chiếc thuyền cũ kỹ hai cột buồm đang được neo chặt vào những cọc gỗ chắn bờ đập mà họ đang đứng ở trên.
- Tôi hết sức xấu hổ. Bảo đảm với anh rằng những khách hàng của thiếu tá Rutledge và công ty này thường quen xài loại sang hơn nhiều.
Mallory cố nhịn cười. Thiếu tá Rutledge thuộc trung đoàn East Kent, với giọng nói đặc biệt của miền Eton và Sandhurst 1, bộ râu mép tỉa đều từng ly, bộ quân phục bằng vải kaki với những đường cắt tuyệt hảo, sản phẩm của bàn tay thợ may âu phục khéo nhất xứ, không chê vào đâu được. Con người quý phái thế lại di chuyển đến những khung cảnh hoang dại của cái vịnh bé nhỏ lởm chởm đá này. Nhìn vẻ uy nghi bệ vệ của ông, người ta có cảm tưởng chính cảnh vật này đã di chuyển đến chỗ ông.
- Tôi không hiểu. Thật sự, tôi không thể hiểu nổi. Trong vòng tám, chín tháng qua tôi đã cung cấp hàng cho nhiều người: thuyền chèo, xuồng máy, du thuyền, tàu đánh cá, nhưng chưa bao giờ có ai hỏi tôi chiếc tàu cũ nhất, rách nát nhất như chiếc này. Vả lại kiếm được nó đâu phải dễ. Bọn họ đều biết rằng tôi không quen giao loại hàng "dỏm" này.
- Bọn họ nào? Thưa Thiếu tá, Mallory tò mò hỏi.
- Ồ! Những người trên các hòn đảo kia kìa. Rutledge chỉ mơ hồ về phía bắc và phía tây.
- Nhưng các đảo đó đều bị quân Đức chiếm đóng.
- Đảo này rồi cũng thế. Đành phải di chuyển P.C (Sở chỉ huy) đến nơi nào đó…
Chợt vẻ mặt của Rutledge sáng lên.
- Này, anh bạn. Tôi biết rõ anh cần thứ gì. Bộ Tự lệnh ở Caire đã chỉ thị cho tôi tìm cho các anh một chiếc tàu nào khả dĩ tránh bị chú ý và bị soi mói. Anh nghĩ thế nào về loại tàu trinh sát nhỏ cực nhanh của Đức, tình trạng máy móc hoàn hảo. Nếu ở Anh quốc, tôi có thể bán nó với giá mười ngàn liu. Nếu anh đồng ý, tôi sẽ mang tới đây trong vòng ba mươi sáu giờ. Một trong các bạn tôi ở Bodrum sẽ…
- Bodrum? Mallory nói, tận Thổ Nhĩ Kỳ à?
- Đúng đấy. Chúng tôi phải chạy nguồn hàng ở khắp nơi.
- Dù sao cũng cám ơn Thiếu tá. Mallory nói, nhưng chúng tôi lại cần chiếc tàu xấu xí này, và bằng mọi cách chúng tôi cũng không thể đợi lâu hơn nữa.
Rutledge đành chào thua.
- Vậy thì tùy ý anh, nhưng tôi không trách nhiệm đâu nhé. Để tôi cho hai người mang hành lý các anh xuống thuyền.
- Thiếu tá cứ để chúng tôi tự lo lấy, vì đây là loại hàng rất đặc biệt.
- Anh có lý. Người ta đặt biệt hiệu cho tôi là "Rutledge không tò mò" mà. Anh sắp khởi hành chứ?
- Trong nửa giờ nữa, Mallory trả lời sau khi liếc nhìn đồng hồ. - Mười phút nữa, điểm tâm trứng chiên và uống cà phê đã nhé? Mallory nở nụ cười toe toét.
- Ồ cám ơn Thiếu tá rất nhiều. Chúng tôi vô cùng sung sướng nhận lời mời này.
Chàng bước chậm chạp đến tận đầu bến cầu, khoan khoái hít thở không khí thơm tho của bình minh trên biển Egée. Vị mặn của biển, hương thơm dịu dàng của cây hoa kim ngân, mùi thơm nồng
của cây bạc hà, tất cả thành một hợp chất làm ngây ngất, không sao định nghĩa và không sao quên được. Ở hai bên vịnh là những dốc núi thẳng phủ màu xanh tươi của các loại cây thông, cây hồ đào và cây ô rô lên đến tận các cánh đồng cỏ nơi có cơn gió hiu hiu thổi vẳng lại tiếng chuông lục lạc xa xa, du dương của đàn dê, thứ âm nhạc gợi nhớ quê hương, biểu tượng của hòa bình mà vùng biển Egée không còn được hưởng nữa.
Mallory buồn bã lắc đầu và bước vội tới đầu đập ở đó có các bạn đồng hành của chàng. Như thường lệ, Miller đang nằm dài ra, mũ kéo sụp xuống mi mắt để tránh ánh nắng mặt trời đang lên.
- Rất tiếc phải quấy rầy các anh, nhưng trong nửa giờ nữa chúng ta sẽ đi, trong mười phút nữa, điểm tâm. Nào tất cả đứng dậy chuẩn bị mang đồ đạc xuống thuyền. Còn anh, Trung sĩ Brown! Anh nên ghé mắt xem qua máy móc một chút.
Brown đứng dậy và nhìn với vẻ không hứng thú chiếc thuyền bị tróc sơn như con cá bị cạo vảy.
- Đại úy nói đúng, những lỡ ra mà máy móc cũng bầy nhầy như cái cái xác này thì…
Anh ta bi quan cúi đầu và nhanh nhẹn nhảy từ đập xuống tàu.
Mallory và Andrea cũng bước theo và họ đưa tay đón lấy đồ đạc do hai người khác trao xuống. Trước hết họ chất lên thuyền môt cái bao đầy quần áo cũ, rồi thực phẩm, một cái nồi "nấu hỏa tốc", chất đốt, những đôi giầy ủng nặng, những cuốc chim, búa, rìu và những cuộn dây thừng lõi bằng sợi kim loại để leo núi. Kế đó, họ cẩn thận đưa xuống máy vô tuyến vừa thu vừa phát, máy phát điện loại cổ điển có tay quay. Rồi đến vũ khí tự động: hai khẩu Schmeisser, hai khẩu Bren, một khẩu Mauser và một súng Colt 2. Tiếp theo là một cái két chứa đủ thứ kỳ lạ nhưng đã được chọn lọc kỹ càng, đó là nhưng cây đèn bấm, gương soi mặt, hai loại giấy chứng minh và điều khó tin là có cả những chai rượu vang Moselle 3 .
Cuối cùng, bằng những biện pháp hết sức thận trọng, họ sắp xếp ở phía mũi thuyền hai rương gỗ, một màu xanh lá, kích thước
trung bình, bao quanh bằng sợi dây đồng, một nhỏ hơn màu đen. Hòm thứ nhất đựng thuốc nổ T.N.T 4, những que nhỏ làm cốt mìn, với những quả lựu đạn, đồ mồi lửa bằng bông nhồi thuốc súng, những ống vải. Trong góc rương còn có một bao bột sa thạch, một bao thủy tinh tán nhỏ và một lọ đựng potasse. Cả ba loại này được bồi thêm vào trong trường hợp Miller có dịp trổ tài gây nổ của mình. Cái hòm đen chỉ đựng những bộ phận nổ bằng điện và fulminate mỏng manh đến nỗi chỉ cần bật ra ngoài không khí và một vật nhẹ như lông gà đụng lên nó là bùng nổ ngay.
Mọi thứ được sắp đặt xong, ngay lúc đó cái đầu của Casey Brown xuất hiện ngay cửa hầm máy. Anh ta thong thả quan sát cột buồm chính ở phía trên đỉnh đầu rồi quay về phía trước nhìn cột buồm đằng mũi. Nét mặt hoàn toàn không lộ vẻ gì, anh hỏi Mallory:
- Thưa Đại úy, chúng ta có buồm cho cái cột này không? - Tôi nghĩ là có. Tại sao thế?
- Bởi vì Thượng đế biết chúng ta sẽ cần dùng đến. Đại úy bảo tôi nhìn qua phòng máy. Không phải là một phòng máy. Đó chỉ là một kho sắt vụn hôi hám. Một mảnh sắt hoen rỉ nhất được gắn vào trục mô tơ. Và Đại úy có biết mô tơ thế nào không? Đó là loại động cơ hiệu Kelvin chế tạo cách đây khoảng ba mươi năm.
Brown lắc đầu tuyệt vọng nói tiếp:
- Động cơ đã bị rớt thành mảnh vụn cách đây nhiều năm. Tôi thấy sàn đầy dẫy những mảnh kim loại và những bộ phận rời. Tôi đã thấy ở gần Gallowgate những kho sắt vụn khác nhưng không có nơi nào cân tệ như ở đây.
Mallory dịu dàng nói:
- Thiếu tá Rutledge đã xác nhận mới hôm qua đây ông còn chạy chiếc này được mà. Thôi bây giờ hãy đi ăn điểm tâm. Nhớ nhắc tôi rằng chúng ta còn phải lượm vài viên đá nặng khi trở lại.
- Những viên đá! Miller kinh hãi thốt lên. Để mang lên thuyền à?
Mallory mỉm cười gật đầu.
- Những chiếc thuyền chết bầm này đang có nguy cơ bị đắm. Miller phản đối. Tại sao lại mang đá theo để làm gì?
- Cứ đợi và các anh sẽ thấy.
° ° °
Ba tiếng đồng hồ sau, Miller thấy điều đó. Chiếc thuyền vẫn đều đều tiến về phía bắc trên mặt biển êm gió, xa khỏi bờ biển Thổ Nhĩ Kỳ gần một dặm trong khi Miller buồn bã cuốn chặt bộ quân phục màu xanh thành cái bùi nhùi và tiếc rẻ ném nó qua khỏi mạn thuyền. Được kéo nặng bởi hòn đá lớn, nó biến mất khỏi mặt nước trong một giây. Miller nhìn ngắm mình trong tấm gương treo trên vách buồng lái. Ngoài cái thắt lưng tím và cái áo lót ngắn màu khá nhu mì, anh chàng hoàn toàn mặc màu đen. Đôi giầy bốt cột dây đen, cái quần đen rộng thùng thình, một cái áo sơ mi và áo vét đen, mái tóc hoe vàng cũng nhuộm đen. Anh ta rùng mình ngoảnh mặt khỏi gương vừa nói:
- Nhờ ơn Chúa, gia đình tôi không thấy tôi như thế này!
Và khi nhìn những người bạn đồng hành cùng ăn mặc giống mình bằng những mảnh vải biến chế. Miller nhún vai:
- Dù sao trông tôi còn bảnh trai hơn họ. Nhưng tại sao chúng ta lại thay đổi trang phục thế này, thưa Đại úy?
- Người ta đã cho tôi biết rằng trước đây anh ta từng khuấy phá hậu phương quân Đức, khi thì giả dạng là nông dân, khi thì cải trang thành người thợ. Bây giờ anh được biết người dân thành phố Navarone ăn mặc như thế nào.
- Nhưng tôi thắc mắc tại sao lại thay đồ hai lần: một lần trên máy bay và một lần ở đây?
- Người ta đã thấy chúng ta ở Alexandrie trong bộ quân phục kaki của Lục quân và màu trắng của Hải quân. Ở Castelrosso, chúng ta lại mặc đồng phục màu xanh. Chắc chắn thế nào cũng có gián điệp ở Alexandrie, ở Castelrosso hay ở hòn đảo mà thiếu tá
Rutledge. Chúng ta phải tránh một nguy cơ bằng cách đánh lạc hướng bọn tò mò.
Miller cúi đầu và nhìn cái bao đặt trên sàn với vẻ băn khoăn. Chàng ta rút ra một trong những bộ đồ dài màu trắng và hỏi bóng gió:
- Thế còn loại quần áo này chắc để chúng ta cải trang thành những bóng ma để đi qua nghĩa địa thành phố?
- Cũng để ngụy trang đây, Mallory trả lời cộc lốc, ở Navarone, có những núi khá cao phủ đầy tuyết, nếu mặc đồ trắng khi đi qua thì khó bị nhìn thấy hơn.
Kinh ngạc, Miller không nói gì nữa và đi ra nằm dài trên boong, mắt nhắm lại.
Mallory nói với Andrea:
- Đó là người biết tận dụng ánh nắng mặt trời trước khi đối đầu với vùng núi tuyết hoang vu. Ý kiến hay đấy. Có lẽ các anh cũng nên ngủ. Để tôi trực gác trong trong hai tiếng.
Chiếc thuyền tiếp tục di chuyển suốt năm giờ song song với bờ biển Thổ Nhĩ Kỳ, hơi lạng qua hướng tây bắc và ít khi ra khỏi bờ hai dặm. Dưới ánh nắng dìu dịu của mặt trời tháng mười một, Mallory cảm thấy bớt căng thẳng và ấm áp. Chàng ngồi ở góc mũi thuyền và không ngừng dò xét bầu trời và đường chân trời. Ở giữa thuyền, Andrea và Miller đang ngủ. Casey Brown thì chẳng bao giờ chịu rời khỏi phòng máy. Rất hiếm khi thấy anh ta leo lên boong để thở một chút không khí trong lành, nhưng càng lúc anh ta càng bị thu hút bởi cái mô-tơ hiệu Kelvin già nua, khi thì vô dầu nhớt, luôn chỉnh nút gió. Tuy là thợ cơ khí siêu hạng nhưng cái mô-tơ này làm anh ta khốn khổ, và rồi anh ta lại bị nhức đầu vì phòng máy quá hẹp không chút thoáng khí.
Chỉ có buồng lái là vị trí khá tốt trong chiếc thuyền nhỏ này, nơi đó hải quân trung úy Stevens quan sát bờ biển Thổ đang chậm chạp trôi qua trước mắt chàng. Cũng giống như đôi mắt của Mallory, tia nhìn của chàng luôn chuyển động nhưng không có hệ thống như
cách nhìn của xếp. Chàng nhìn bờ biển rồi lại nhìn bản đồ rồi lại đối chiếu với những hòn đảo hiện ra ra phía trước mạn thuyền, bàn tay không rời khỏi cái compas. Có lúc chàng liếc nhìn trời hoặc liếc nhanh mắt về hướng chân trời. Nhưng có một cái mà mắt chàng luôn tránh, đó là tấm kiếng mẻ, lấm tấm phân ruồi, được treo trong buồng lái.
Hai tay của chàng mỏi nhừ. Đã hai lần chàng đu lên xà ngang, nhưng vẫn thấy đau. Miệng vẫn khô đắng dù chàng đã nuốt nước miếng và thỉnh thoảng tu bình nước ấm đặt bên cạnh. Thêm vào đó chứng đau dạ dày cứ quặn thắt từng cơn hoặc thỉnh thoảng ống chân phải cứ tê giật liên hồi.
Hải quân trung úy Stevens sợ hãi. Chàng chưa bao giờ tham dự một điệp vụ loại này. Nhưng đó chưa phải lý do. Chàng đã biết sợ suốt cuộc đời. Ngay từ lúc mới chập choạng vào lớp một, cha của chàng, ngài hầu tước Cedric Stevens, nhà thám hiểm và leo núi nổi tiếng nhất thời đại ấy, đã ném cậu bé Stevens xuống một hồ tắm, và tuyên bố rằng đó là cách tốt nhất để học bơi lội. Chàng còn nhớ lúc ấy trong nỗi kinh hoàng tột độ, chàng cố ngoi ngóp vào bờ, mũi và miệng sặc nước, bao tử thóp lại đau đớn trong khi cha chàng và hai người anh trai lớn, vạm vỡ và cao lớn vừa cười chảy nước mắt vừa đẩy chàng xuống nước trở lại.
Trong suốt thời kỳ là học sinh trung học, biết bao lần chàng phải khốn đốn với cách giáo dục ngông cuồng của cha anh. Họ là những người khỏe mạnh, tràn đầy sức sống, sùng bái môn điền kinh, nhưng họ không chịu hiểu rằng đã chắc gì thích thú khi phóng từ trên cao năm mét xuống nước, phóng ngựa qua khỏi cái rào cao, leo lên những vách núi thẳng đứng hoặc bơi một chiếc thuyền buồm giữa cơn bão tố. Tất cả những điều đó, chàng bị bó buộc phải thực hiện và rốt cuộc chỉ làm chàng căm thù những môn thể thao bạo tàn này. Cha và các anh chàng không phải là người độc ác hay ghét bỏ gì chàng, nhưng họ chỉ đơn giản là người không có học. Ngoài sự sợ hãi của thể xác, lại thêm vào sự sợ hãi không hoàn thành những bài tập điền kinh trên và trở thành trò cười cho mọi người. Chính vì muốn thắng hai cái sợ đó mà vào những năm mười bảy và hai mươi
tuổi, chàng đã quyết chí miệt mài học leo núi. Cuối cùng chàng trở nên vận động viên leo núi nổi tiếng, thu phục được sự nể nang của cha anh và họ không dám chê cười chàng nữa. Tuy nhiên cái tiềm thức sợ hãi vẫn tồn tại nơi chàng và thỉnh thoảng lại tái phát mạnh mẽ dù chàng đã cố che giấu.
Màu xanh ký diệu của biển Egée, bóng lờ mờ của những trái núi miền Anatolie 5 ở đường chân trời, sự hỗn hợp màu sắc xanh, tím và màu chàm của những hòn đảo chan hòa ánh nắng, tất cả đang uể oải diễu hành trước mắt chàng. Cơn gió nhẹ đông nam thơm tho bắt đầu làm mặt nước màu ngũ sắc gợn sóng, vẻ hiền hòa của boong tàu, tiếng phình phịch của động cơ Kelvin…, tất cả hợp thành cái gì đó bình an, nồng ấm, mãn nguyện, lững lờ và hình như người ta có cảm giác không có gì phải sợ hãi khi mà chiến tranh có vẻ xa vời trong buổi chiều hôm nay.
Tuy nhiên, có lẽ chiến tranh không xa thế đâu… Nó khiến ký ức họ phải luôn nhớ đến. Đã hai lần, một chiếc thủy phi cơ của Đức tò mò lượn qua lượn lại trên đầu họ, và một chiếc Savola với chiếc Fiat trong đoàn bay cũng đã xuống sát ném cái nhìn trên chiếc thuyền cũ kỹ, sau đó chúng lại bay lên với vẻ hài lòng. Đó là những kiểu phi cơ của Ý xuất phát từ căn cứ của Rhodes và chắc chắn là do các phi công Đức lái.
Buổi sáng nay, họ đã đi ngang cách nửa dặm, một chiếc tàu lớn mang lá cờ Đức, súng đại liên tua tủa, có cả một khẩu đại bác đằng mũi. Rồi đầu trưa nay, một chiếc trinh sát hạm cực nhanh của Đức gầm rú vang trời khi chạy sát qua, tạo nên những làn sóng lớn làm chiếc thuyền nhỏ lắc lư. Tuy nhiên không ai có hành động ngăn cản họ. Lẽ dĩ nhiên, cả người Anh lẫn người Đức không ngần ngại gì mà không xâm phạm chủ quyền lãnh hải của Thổ Nhĩ Kỳ, nhưng giữa hai bên hình như có một thỏa thuận "tử tế ngầm" khi lưu thông trên vùng biển của một nước trung lập. Cả hai đều ra vẻ ta là con người lịch sự hoàn hảo, lạnh lùng không thèm đếm xỉa gì đế nhau.
Nhưng những hội ngộ tuy vô hại với tàu chiến và máy bay Đức vừa qua vẫn nhắc nhở một điều là không hề có hòa bình. Kim đồng
hồ của Mallory càng lúc càng quay, họ càng nhích dần tới gần bức tường đá khổng lồ mà họ sẽ phải leo lên không đầy tám giờ nữa. Bây giờ, thẳng trước mắt họ và cách chừng năm mươi dặm, người ta có thể thấy khối núi lởm chởm của thành Navarone nổi bật trên chân trời phản chiếu như gương, đang giương những đỉnh nhọn âm u và đe dọa lên bầu trời nhuộm màu lam ngọc.
Lúc hai giờ rưỡi trưa máy thuyền chợt tắt không báo trước, không húng hắng ho, không khạc nhổ. Bầu không khí im lặng bao trùm nặng trĩu, không mong đợi.
Mallory là người đầu tiên chạy tới cửa buồng máy.
- Gì thế, Brown? Chàng hỏi bằng giọng lo sợ. Chết máy à?
- Không hoàn toàn đúng vậy, Brown trả lời, đang loay hoay cúi xuống mô-tơ. Tôi vừa tắt nó đấy.
Anh ta rời máy, nhô mình lên khỏi cửa buồng, ngồi trên boong, hai chân đu đưa, mặt xanh mét, bắt đầu hà hít luồng khí mát.
- Anh có vẻ vừa trải qua một cơn kinh hoàng nhất trong đời, Mallory nói.
- Không phải thế đâu, Brown bào chữa. Suốt từ hai đến ba tiếng, tôi bị ngấm ngầm đầu độc trong cái lỗ bẩn thỉu này. Chỉ bây giờ tôi mới nhận ra.
Anh ta đưa tay ôm trán và rên rỉ.
- Tôi có cảm tưởng sắp vỡ sọ.
- Máy bị xì hơi à?
- Phải, nhưng hơn thế nữa. Đại úy có thấy cái ống dọc đang đội cái khối sắt lớn tròn phía trên mô-tơ không. Nó mỏng manh như tờ giấy. Lẽ ra nó bị xì từ nhiều giờ qua. Mới cách đây một phút, nó mới bị thủng một lỗ kim. Thế là khói và những ngọn lửa dài đến mười hai phân thoát ra ngoài. Tôi bắt buộc phải tắt ngay cái máy khốn kiếp này.
Mallory khẽ gật đầu ngụ ý hiểu. Chàng hỏi:
- Anh có thể sửa chữa được ngay không?
- Tuyệt đối không thể được, thưa Đại úy. Phải hàn lại thôi. Tôi tìm được vật thay thế trong đống sắt vụn, nhưng rỉ sét kinh khủng và hầu như cũng tàn tạ gần bằng bộ phận cũ… Để tôi thử xem.
- Để tôi giúp anh ấy một tay, Miller đề nghị.
- Cám ơn, hạ sĩ. Này Brown, theo anh thì phải mất bao lâu?
- Chỉ có Chúa mới biết. Hai giờ hoặc có lẽ bốn giờ. Phần lớn các con ốc và bù lon đều bị bám chặt một lớp sét, cần phải cắt hoặc cưa hoặc tìm vật thay thế.
Mallory không nói gì hết. Chàng đi xa khỏi phòng máy bằng bước chân nặng nề buồn bã, đụng đầu với Stevens vừa bước ra ngoài buồng lái và đang nghiêng mình trên hòm đựng buồm. Stevens đưa cặp mắt dò hỏi nhìn Mallory.
- Phải, anh hãy lấy buồm ra và giương lên, Brown đã nói phải mất khoảng bốn tiếng. Andrea và tôi sẽ làm hết sức mình để phụ anh.
Hai giờ sau, máy vẫn không nổ. Họ đã rời khỏi vùng biển Thổ và đang hướng về một hòn đảo lớn cách khoảng tám dặm ở phía tây tây-bắc. Bây giờ một làn gió nồng thổi qua. Phía đông, bầu trời tối sầm, báo hiệu một cơn giông đang chuẩn bị nổ ra. Với một cái buồm tam giác lớn ở đằng mũi và một lá buồm hình thang, họ không thể tiến về phía đông. Vì thế, Mallory quyết định hướng về đảo, dù sao cũng có ít cơ hội bị quan sát hơn là lênh đênh giữa biển. Chàng lo lắng khi nhìn đồng hồ, khi nhìn bờ biển an toàn Thổ Nhĩ Kỳ xa dần. Bất thình lình, chàng đờ đẫn cả người và trố mắt nhìn về phía đông.
- Andrea! Anh có thấy không…?
- Tôi thấy, thưa Đại úy. Cách ba dặm một tàu tuần tiễu đang đâm thẳng về phía chúng ta.
- Phải, thẳng về phía chúng ta. Hãy cho Miller và Brown biết. Kêu họ lên đây!
Khi mọi người đã tụ tập xong. Mallory nói:
- Chúng ta sắp bị chận lại và lục soát. Nếu tôi không lầm, đó là chiếc tàu lớn đã vượt qua chúng ta sáng nay. Có lẽ chúng đã được điểm chỉ và đang hết sức nghi ngờ chúng ta. Nên nhớ rằng chúng không đút tay vào túi quần mà do xét chúng ta đâu, bọn chúng đều "vũ trang tận răng". Không thể có biện pháp lưng chừng. Một là chúng đắm hai là chúng ta. Chúng ta không thể sống sót một khi những vật liệu trên thuyền này bị phát hiện và, nói đến đây giọng chàng dịu xuống, dù sao chúng ta cũng không thể vất những thứ đó xuống nước được.
Chàng nhanh chóng đề ra kế hoạch. Nghiêng mình ra khỏi cửa sổ buồng lái, Stevens cảm thấy cơn đau dạ dày cũ tái phát và máu như dồn hết lên tim. Anh ta mừng thầm nhờ vách buồm che khuất nửa thân dưới, không ai thấy chân phải của anh bắt đầu co rút. Giọng anh ta cũng lạc hẳn.
- Nhưng, thưa Đại úy…
- Có gì thế, Stevens? Mallory hỏi, tuy đang vội vã, nhưng vẫn tinh ý nhận ra vẻ xanh mét đau đớn trên khuôn mặt chàng trai trẻ.
- Đại úy không thể làm như vậy được! Đó là tàn sát, là… giết người!
- Im đi, chú bé! Miller càu nhàu.
- Đủ rồi, hạ sĩ! Mallory khô khan ra lệnh.
Kế đó, chàng nhìn Stevens bằng con mắt lạnh lùng:
- Này Trung úy, trong chiến tranh này, muốn thắng, chúng ta phải đặt kẻ thù vào vị trí bất lợi và không nên tạo thế cân bằng giữa ta và họ. Ta giết kẻ thù, nếu không, chúng giết ta. Chúng ta đánh chìm tàu họ, hoặc chúng ta bị chìm. Và không riêng gì chúng ta, mà cả một ngàn hai trăm người ở Khéros. Chỉ đơn giản có thế, Trung úy. Đây không phải là vấn đề lương tâm.
Trong nhiều giây, Stevens im lặng nhìn Mallory. Ngay lúc ấy, anh ta căm ghét người chỉ huy đến nỗi có thể giết chết ông ta. Chợt
Stevens ý thức rằng anh ta ghét chỉ vì lý lẽ xác đáng không thể bác bỏ được của vị chỉ huy. Mallory, thần tượng của giới vận động viên trẻ leo núi người Anh thời tiền chiến, Mallory với những chiến công hiển hách đã là những tít lớn trên các tờ báo của thế giới vào những năm 1938 và 1939, Mallory nếu không gặp vận đen, đã bắt sống được Rommel 6 ngay tại Tổng hành dinh của hắn ở sa mạc, Mallory, người đã ba lần từ chối được thăng cấp tá để ở lại với đồng đội thân yêu ở đảo Crète.
Những ý kiến ấy xuyên lẫn lộn qua đầu óc Stevens. Anh ta ngước mắt nhìn khuôn mặt sạm nắng hốc hác của vị chỉ huy, lông mày rậm đen như hai vạch ngang trên cặp mắt nâu, có quầng thâm, khi lạnh lùng khi chứa chan tình cảm, và bất chợt anh cảm thấy hổ thẹn.
- Tôi xin lỗi Đại úy, Stevens nói. Tôi sẽ không làm Đại úy thất vọng.
- Tôi luôn tin tưởng nơi anh, Mallory mỉm cười trả lời. Đoạn chàng quay qua Miller và Brown:
- Hãy chuẩn bị mọi thứ cần thiết, nhưng đừng vội vã và phải kín đáo. Bọn Đức có lẽ đang quan sát chúng ta qua ống nhòm.
Chàng quay lưng đi ra đằng mũi, Andrea theo sau chàng vừa nói:
- Đại úy hơi quá cứng rắn đối với chàng trai trẻ.
- Tôi biết. Mallory trả lời. Tôi bó buộc phải làm thế.
- Đúng vậy, Andrea chậm rãi nói… Đại úy có tin rằng họ sẽ sử dụng cả đại bác để chận chúng ta lại không?
- Có lẽ, họ không quay trở lại phía chúng ta nếu không nghi ngờ chúng ta đang trù tính điều gì mờ ám. Đã đến lúc phải sẵn sàng đối phó. Nên nhớ phải chờ hiệu lệnh của tôi đã. Các anh sẽ nghe thấy dễ dàng.
Những đợt sóng biển màu đục như kem vỗ vào mũi tàu chiến của Đức trong khi tiếng rú của động cơ diesel hùng mạnh chợt tắt, chỉ còn lại tiếng gầm gừ nho nhỏ. Bọn Đức cho tàu cập dọc bên hông chiếc thuyền nhỏ cách chừng hai mét. Ngồi trên thùng dùng để chứa cá, tay cầm kim khâu nút vào chiếc áo vét cũ đặt giữa hai chân. Mallory có thể thấy rõ sáu người mặc quân phục hải quân Đức. Một người đang ngồi sau ổ đại liên Spandau trụ trên cái kiềng ba chân, ngay đuôi khẩu đại bác. Ba người khác đứng giữa khoang, tay ai cũng lăm lăm khẩu tiểu liên. Thuyền trưởng là một viên hải quân Trung úy trẻ măng, mặt cứng rắn và lạnh như tiền, trên cổ áo gắn chữ Thập sắt, đang nhìn qua cánh cửa mở của phòng lái, và cuối cùng một cái đầu tò mò ló lên khỏi hầm máy. Từ chỗ ngồi, Mallory không thể thấy đằng sau tàu địch che khuất bởi tấm buồm luôn luôn căng phồng, nhưng nếu như vùng sát hại của khẩu Spandau chỉ mới được một nửa tàu, chàng đoán rằng phải còn ít ra một khẩu liên thanh ở phía sau nữa.
Viên hải quân trung úy trẻ tuổi, một sản phẩm chính hiệu của chế độ Hitler, nghiêng mình ra khỏi phòng lái, bắc tay lên miệng làm loa, hô lớn!
- Hạ buồm xuống!
Mallory chợt rùng mình, cứng người lại đến nỗi đâm cả kim vào lòng bàn tay mà không biết. Viên sĩ quan nói bằng tiếng Anh! Stevens quá trẻ, còn non nớt, thế nào cũng bị sa bẫy, chàng nghĩ thế.
Nhưng Stevens không bị mắc lừa. Anh ta mở cửa bước ra, đặt tay lên tai, mắt ngước nhìn trời, miệng há hốc, vẻ ngốc nghếch. Anh chàng bắt chước điệu bộ của người không hiểu gì hết, bắt chước khéo đến nỗi Mallory cảm động muốn ôm hôn lấy anh. Tóc của Stevens cũng nhuộm màu đen như tóc của Miller. Trong bộ đồ màu sậm, anh ta chẳng khác gì người ngư dân ở đảo, chậm chạm và đa nghi.
- Hả? Stevens la lên.
- Hạ buồm xuống! Chúng tôi sẽ lên khám thuyền các anh! Viên chỉ huy người Đức hét lớn, vẫn bằng tiếng Anh.
Stevens nhìn hắn với vẻ đần độn, đoạn quay nhìn Andrea và Mallory, hai người này cũng trơ bộ mặt ngớ ngẩn không hiểu gì hết. Anh ta nhún vai thất vọng:
- Tôi không hiểu tiếng Đức. Các ông không biết nói tiếng của chúng tôi sao?
Tiếng Hy Lạp phát âm rất đúng của Stevens là giọng người thủ đô Athenes chứ không phải là giọng địa phương của dân ở đảo, nhưng Mallory đoán chắc rằng tên sĩ quan Đức không thể phân biệt được. Thật thế, hắn không nhận ra điều đó, lắc đầu với vẻ điên tiết và nói bằng tiếng Hy Lạp ngập ngừng:
- Hãy dừng tàu lại ngay. Chúng tao lên khám xét.
- Dừng tàu tôi lại à? Stevens la lên giọng bất mãn tự nhiên, theo sau là một tràng tiếng chửi giận dữ khiến tên Đức cũng chưng hửng trong giây lát. "Tại sao tao lại dừng tàu vì tụi bây, đồ…"
- Tụi bay chỉ có mười giây, tên sĩ quan cắt ngang sau khi đã lấy lại tự chủ. Nếu không, chúng tao bắn.
Stevens phác họa một cử chỉ ra vẻ nhường nhịn, đoạn buồn bã nói với Mallory và Andrea.
- Những người thắng trận của chúng ta ra lệnh dừng tàu lại.
Họ nhanh nhẹn tháo dây thừng quấn dưới chân cột buồm, Mallory kéo buồm hình tam giác ở mũi xuống, đưa hai cánh tay chụp lấy và ngồi chồm hổm vẻ càu nhàu gần thùng cá, nhưng thừa hiểu rằng đang bị theo dõi bởi mười hai con mắt thù nghịch. Tấm buồm phủ trên hai đầu gối, và trên hai cánh tay đang cầm chiếc áo vét cũ. Chàng cúi đầu xuống ra vẻ người bị áp bức. Lá buồm hình thang cũng nặng nề rơi xuống đột ngột. Andrea dẫm lên nó, bước loạng choạng về phía sau đoạn dừng lại, bàn tay buông thõng hai bên hông.
Động cơ Diesel lại nổ giật, chợt rú mạnh lên trong khi chiếc tàu của Đức nhích tới cập sát và cọ sát vào chiếc nhỏ. Ba người lính Đức trang bị tiểu liên Schmeisser nhanh nhẹn nhảy qua tàu nhỏ, nhưng khôn khéo tránh khỏi dường bắn của hai khẩu đại liên của đồng bọn. Bây giờ Mallory mới thấy rõ khẩu đại liên ở đuôi thuyền. Một tên trong bọn chạy ngay tới phía trước và khi ngang tầm cột buồm chính, hắn quay lại giương súng uy hiếp cả nhóm, chỉ còn trừ Mallory hắn đang tin tưởng vào khẩu đại liên ở mũi tàu Đức. Mallory thầm phục sự chính xác, sự phối hợp hành động nhịp nhàng trở thành một tập quán của toán lính tuần tra.
Chàng ngẩng đầu lên, nhìn chung quanh, với điệu bộ thờ ơ của người dân quê. Casey Brown ngồi chồm hổm trên boong ngay cửa hầm máy đang gọt giũa ống hãm thanh để lắp vào mô tơ. Cách hai bước gần mũi thuyền là Dusty Miller đang chau mày chăm chú cắt cái hộp sắt, có lẽ để phụ giúp Brown sửa máy. Anh ta cầm kềm cắt sắt ở bàn tay trái nhưng Mallory biết rõ anh thuận tay phải. Cả Stevens lẫn Andrea đều không nhúc nhích. Luôn đứng bên cạnh cột buồm chính, tên lính Đức không hề chớp mắt, hai tên kia từ từ tiến về đuôi thuyền, đi ngang qua Andrea. Thái độ của chúng bớt căng thẳng, tỏ ra người làm chủ hoàn toàn tình thế, không tin rằng có bất trắc nào xảy ra.
Một cách tỉ mỉ, lạnh lùng, chính xác, khẩu Bren của Mallory dấu dưới áo vét và đống vải buồm, khạc ngay một viên vào đúng tim của tên xạ thủ đại liên bên kia. Chàng quay khẩu trung liên đang nổ quét vào ngực tên lính đứng gần cột buồm, khiến hắn gục chết ngay. Nhưng trước khi người hắn ngã xuống boong, bốn sự việc xảy ra một lúc. Casey Brown chụp khẩu súng dấu bên cạnh bắn hạ tên xạ thủ đại liên ở đuôi thuyền khiến hắn gục ngay trên kiềng ba chân của ổ súng ngón tay còn chạm trên chân cò. Miller thảy cái hộp sắt qua hầm máy của tàu địch, Stevens ném quả lựu đạn rơi trúng buồng lái đối phương, còn Andrea bằng hai cánh tay dài rắn chắc, nhanh và chính xác như rắn mổ, cụng đầu hai tên lính Đức vũ trang tiểu liên Schmeisser vào nhau bằng sức mạnh chết người.
Trong khoảnh khắc, cả năm người nằm rạp trên boong trong khi chiếc tàu Đức nổ tung, lửa, khói và mảnh vụn tung tóe.
Mallory nhổm dậy, chậm chạp khó nhọc, choáng váng bởi sức nổ kinh hồn vừa qua. Phản ứng của chàng là ngạc nhiên về sự hiệu quả không ngờ của khối chất nổ.
Chiếc tàu Đức đang chìm xuống và chìm thật nhanh. Quả bom do Miller chế chắc đã làm tung cả phòng máy, Mallory chỉ sợ những cột khói đen dâng cao thu hút sự chú ý của máy bay địch. Nhưng chỉ trong chốc lát, tất cả biến mất dưới mặt biển. Chợt chàng nghe tiếng nôn mửa phát ra từ buồng lái. Chàng hiểu rằng Stevens không chịu nổi cảnh tượng hãi hùng này.
Mallory quay về phía đồng đội. Brown và Miller đã đứng lên, hai mắt như bị nam châm hút trên mặt nước nơi chiếc tàu vừa đắm. Stevens đứng dựa cửa buồng lái. Anh ta không bị thương nhưng mặt xanh như tàu lá chuối, trước cái chết khủng khiếp của viên thuyền trưởng trẻ tuổi Đức, do chính quả lựu đạn của anh ném. Andrea bị một vết thương trên má, lặng lẽ nhìn hai tên lính Đức nằm dưới chân.
- Chết? Mallory khẽ hỏi.
- Phải, Andrea trả lời bằng giọng trầm trầm. Tôi đã quá mạnh tay.
- Có ai khác bị thương không. Mallory hỏi, giọng phấn khởi trở lại. Không ai cả? Hoan hô! Chúng ta chuẩn bị tiếp tục hành trình ngay. Phải đi xa khỏi đây càng sớm càng tốt. Gần bốn giờ chiều rồi. Đã đến giờ phải liên lạc bằng vô tuyến với Le Caire. Này Brown, hãy rời khỏi kho sắt phế thải của anh vài phút và thử xem có bắt được tín hiệu của họ không.
Chàng nhìn trời ngả sang màu tím xanh đe dọa cơn mưa lớn và nói tiếp:
- Có thể sẽ nghe được cả dự báo thời tiết.
Những đám mây đen hiện giờ phủ một nửa bầu trời khiến liên lạc với Le Caire thêm khó khăn, tuy nhiên họ cũng nắm bắt được
một số tin tức đáng băn khoăn. Người ta báo cho họ biết cuộc tấn công của quân Đức vào Khéros sẽ sớm hơn một ngày tức diễn ra lúc tờ mờ sáng thứ sáu thay vì thứ bảy. Như vậy họ chỉ còn hơn ba ngày để hành động.
Mallory chỉ thị:
- Hãy cho họ biết chúng ta đã nhận được tin "X trừ một".
Sau đó là giọng nói vô tư của xướng ngôn viên báo cáo cho biết buổi tối có nhiều cơn giông và mưa rào, nhiệt độ xuống thấp, tầm nhìn xa trung bình, gió thổi từ đông sang nam, sức gió cấp tám, nhưng yếu dần vào sáng sớm hôm sau.
Mallory thốt lên:
- Thật là rắc rối! Chỉ còn hơn ba ngày mà mô tơ thì hỏng, cơn bão dữ dội sắp ập đến.
Chàng chợt nghĩ đến cơn thịnh nộ đúng lý của viên thiếu tá không quân Bill Torrance sau phi vụ đột kích Navarone, khi thấy trên trời, ngay trên đỉnh đầu họ, những đám mây đen đáng sợ đang tụ tập lại.
- Có lẽ muốn gay go đấy, một giọng mũi vang lên sau lưng chàng.
- Phải, tôi cũng nghĩ thế, Mallory nói.
- Họ đã nói "sức gió cấp tám", có nghĩa gì vậy thưa Đại úy?
- Đó là sự đo lường sức gió, Mallory trả lời. Với một chiếc tàu cỡ này và nếu anh mệt mỏi, anh không bao giờ vượt qua nổi gió cấp tám.
- Lẽ ra tôi phải nghi ngờ trước chuyện này, Miller nói. Tôi đã thề không bao giờ mạo hiểm trên vùng biển quỷ quái này mà!
Anh ta đưa ngón tay cái chỉ về hướng một hòn đảo cách xa khoảng dưới ba dặm.
- Trông nó có vẻ không quyến rũ chút nào.
Ở đây thì tưởng thế, Mallory nói. Nhưng dựa trên bản đồ thì ở đó có một cái vịnh nhỏ để tránh gió và sóng.
- Chắc có người ở?
- Có thể.
- Bọn Đức?
- Có thể.
Miller thất vọng lắc đầu và bước xuống giúp Brown. Bốn mươi phút sau, trong bóng tối lờ mờ của buổi hoàng hôn và dưới cơn mưa ập xuống như thác lũ trên đầu, chiếc thuyền nhỏ thả neo ở cái vịnh nhỏ hai bên là rừng thẳm ướt đẫm, vẻ lạnh lùng thù nghịch.
--------------------------------
1 Rhodes: tên một hòn đảo của Hy Lạp trong vùng biên Egée. 2 Eton và Sandhurst: Tên hai thành phố của nước Anh.
3 Tên các loại súng tiểu liên và súng lục.
4 Moselle: tên một loại rượu nho của Pháp.
5 T.N.T: viết tắt của chữ Trinitrotoluene: loại chất nổ rất mạnh. 6Anatolie (tiếng Hy lạp) có nghĩa là “mặt trời mọc” tên gọi miền Tiểu Á ở phía tây châu Á và phía nam biển Đen.
CHƯƠNG BỐN
TỐI THỨ HAI
17g – 23g30
- Thật là dại dột! Mallory chua chát nói. Hết sức dại dột! Chẳng khác gì con ruồi đến thăm cái tổ nhện.
Chàng điên tiết và chán nản luôn miệng tự trách. Khẽ vén tấm vải dầu đang phủ trên cửa buồng lái, chàng nhìn qua màn mưa cái vịnh nhỏ đầy đá. Bây giờ thì quan sát không khó khăn gì lắm, bởi vì mưa chỉ còn rơi hạt nhỏ. Những đám mây xám và trắng rách rời bởi cơn gió lớn nổi lên, đang nối đuôi nhau tản mác về phía chân trời. Phía tây, mặt trời đỏ ối đang dần dần chếch xuống.
Một vài tia nắng cuối cùng ráng chiếu sáng lần cuối cái tháp canh sừng sững ở đầu núi đá, trên cao ba trăm mét, nơi đó, nòng khẩu đại liên bóng loáng ló ra qua lỗ hổng của khối tường đá và lá cờ thêu chữ vạn tung bay trên nóc. Tuy có vẻ lâu đời nhưng kiên cố, với vị trí hết sức thuận lợi, tháp canh oai vệ ngự trị và kiểm soát mọi đường ra vào vịnh.
Chậm rãi, hầu như là hối tiếc, Mallory đậy tấm vải dầu lại. Mặt nghiêm nghị quay nhìn Andrea và Stevens đã trở thành những bóng lờ mờ trong bóng hoàng hôn của cabin.
- Dại dột! Chàng lập lại. Ôi Mallory dại dột! Có thể trong hàng trăm hòn đảo gần đây chỉ có cái vịnh này bị quân Đức đặt tháp canh! Và tôi đã dại dột chọn ngay nó! Nào Stevens chúng ta thử liếc mắt trên bản đồ xem sao?
Stevens trao tấm bản đồ cho Mallory và nhìn xếp đang chăm chú điều nghiên dưới ánh sáng yếu ớt lọt qua vải dầu. Chàng ta rít một hơi thuốc lá dài và cảm thấy sự sợ hãi xưa lại xâm chiếm lấy người. Đưa mắt về phía hình thù to lớn của Andrea, tự nhiên Stevens thấy có ác cảm với anh ta một cách vô lý chỉ vì anh ta là người đầu tiên phát hiện ra hòn đảo này trước đây vài phút. Bọn chúng chắc chắn có trọng pháo trên kia, chàng nghĩ thế. Nếu không, làm sao chúng
kiểm soát được vịnh. Chàng nghiến răng đưa tay bóp chặt đùi phía trên đầu gối nhưng chân vẫn co giật. Cũng may trong bóng tối của phòng lái, không ai để ý đến chàng. Cố gắng trầm tĩnh, Stevens nói:
- Đại úy chỉ mất thời giờ với tấm bản đồ này và tự trách mình về việc thả neo ở đây. Dù muốn dù không, với sức gió này chúng ta cũng không thể cho tàu đi nơi khác nhất là đang hỏng máy.
- Đúng vậy, Mallory nói, tay xếp bản đồ lại. Ta không còn chỗ nào khác để thả neo, dù là chúng ta hay bất cứ ai cũng phải làm thế. Ở đây là chỗ lý tưởng để tránh bão và quân Đức đã nhận biết điều đó từ rất lâu rồi. Cho nên lẽ ra tôi phải biết rằng chắc chắn chúng có một trạm gác ở đây. Nhưng bây giờ, "tách sữa đã đổ không thể vớt lên được". Này Brown!
- Có tôi đây, Brown trả lời từ hầm máy.
- Thế nào? Sửa chữa tới đâu rồi?
- Không tệ lắm đâu, thưa Đại úy.
- Phải mất bao nhiêu lâu nữa? Một giờ không?
- Vâng tôi sẽ hoàn thành trong một giờ.
Mallory nhìn ra bên ngoài, đoạn quay sang Andrea và Stevens:
- Chúng ta sẽ đi trong vòng một giờ nữa. Bóng tối sẽ bảo vệ chúng ta khỏi sự quan sát của mấy "ông bạn quý" ở trên cao kia.
- Đại úy có tin rằng họ sẽ tìm cách chận chúng ta lại không? Steven trả lời bằng giọng có vẻ khác thường.
Hầu như chắc chắn Mallory nhận biết điều khác thường đó, nhưng chàng vẫn thản nhiên nói:
- Chẳng có lẽ họ xếp hàng trên bờ để tiếp đón chúng ta sao. Andrea, theo anh nghĩ họ có bao nhiêu người trên kia?
- Tôi đã thấy hai đứa. Có lẽ chúng có ba hoặc bốn. Andreas trả lời. Bọn Đức không phung phí người vào những trạm gác nhỏ này đâu.
- Anh có lý. Chúng tăng cường người hầu hết cho các đơn vị quân trù phòng đóng trong làng, cách đây khoảng mười cây số theo bản đồ, về hướng tây. Không thể…
Chàng chợt ngưng bặt, lặng người. Một tiếng gọi lớn như ra lệnh từ vọng tới. Tự rủa thầm vì đã lơ đễnh không đặt một người trinh sát trên bờ - Chính vì sự cẩu thả đó mà có lần chàng suýt mất mạng ở đảo Crète.. Mallory vén tấm vải dầu bước chậm chạp lên boong. Chàng không mang theo vũ khí nhưng bàn tay trái cầm một chai rượu vang Moselle còn phân nửa.
Giả bộ bước đi xiêu vẹo, suýt nữa thì ngã xuống nước nếu không nắm kịp sợi dây giăng cột buồm, chàng liếc mắt nhìn về phía bóng đen đứng trên bờ không tới mười thước, tự nhủ thầm "cũng chẳng cần phải đặt người trinh sát, bởi vì chỉ có một người lính đeo súng ở vai". Chàng ngửa cổ đưa chai rượu lên miệng tu một hơi, không có gì phải vội vã.
Chàng biết cơn giận làm tím mặt gầy gò, sạm đen của tên lính Đức và tảng lờ như không biết. Chậm rãi, bằng động tác ngụ ý khinh bỉ, chàng đưa tay áo vét đen đã sờn và có tua lên lau môi, liếc nhìn kỹ tên lính Đức từ đầu tới chân trước khi hỏi:
- Ê cái anh kia muốn gì?
Trong chốc lát, chàng chợt hối hận vì đã hơi quá trớn khi thấy tên lính nắm chặt báng súng. Chàng không lo cho tính mạng mình bởi vì trong hầm máy mọi tiếng động đã ngưng bặt và bàn tay của Miller không bao giờ rời khỏi khẩu súng lục có gắn ông hãm thanh, lúc nào cũng sẵn sàng bắn che cho xếp. Nhưng chàng không muốn gây rắc rối nhất là trong lúc này nhất là còn khẩu đại liên ở trên cao kia đang rình rập.
Bằng một cố gắng hầu như có thể thấy được, người lính trẻ tự chủ lại. Chẳng cần phải tưởng tượng nhiều để hiểu sự do dự và phân vân đang xâm nhập vào người hắn. Đó là phản ứng mà Mallory mong đợi. Những người Hy Lạp, kể cả đang say rượu, cũng không bao giờ dám nói với người lính bảo hộ bằng cái giọng như thế, trừ phi được che chở bởi một thế lực nào đó.
- Chiếc tàu này từ đâu đến và các ông đi đâu? Người lính Đức hỏi bằng tiếng Hy Lạp bập bẹ nhưng hiểu được.
Mallory tự thiết đãi mình bằng cách uống thêm một ngụm nữa đoạn giơ cao chai lên và nhìn ngắm nó với vẻ hài lòng tôn kính.
- Có một điều mà các anh, những người Đức, không biết chế tạo, đó là rượu ngon, chàng cất cao giọng nói. Tôi dám cá rằng các anh không bao giờ được thưởng thức loại hảo hạng này.
Người lính nhăn mặt, lạnh lùng nói:
- Tôi hỏi ông: chiếc tàu này ở đâu đến và đi đâu?
- Đây là chiếc Aigion, Mallory ngạo mạn trả lời, có nhiệm vụ đi về phía đông đến tận Samos 1 .
- Theo lệnh ai? Người lính hỏi.
- Ngài tư lệnh ở Vathy 2tướng Graebel. Chắc anh đã nghe tên?
Tướng Graebel tư lệnh quân nhảy dù Đức nổi tiếng là "kỷ luật thép", ai mà không biết đến, nhất là trong các vùng quần đảo này.
Dù trong bóng chiều tối, Mallory cũng thấy tên lính tái mặt. Nhưng hắn vẫn ương ngạnh.
- Có giấy tờ chứng minh không?
Mallory thở dài, quay đầu rống to:
- Andrea!
- Cái gì vậy mày? Andrea vờ nổi quạu.
Andrea đã nghe rõ từng lời đối thoại của hai người, xuất hiện ở cửa buồng lái, chai rượu cầm nghiêng đổ cả ra tay.
- Mày không thấy tao đang bận sao? Giọng anh ta lè nhè cằn nhằn.
Chợt dừng lại khi thấy người lính Đức, Andrea nhíu mày giận dữ.
- Cái thằng con nít kia nó muốn gì?
- Nó muốn xem giấy phép hành nghề đánh cá của chúng ta và lệnh của tướng Graebel.
Andrea làu bàu biến mất vào trong một lúc. Một sợi dây được quăng vào bờ, kéo đuôi thuyền vào gần chỗ người lính đứng. Giấy tờ được trao cho người lính. Anh ta có vẻ hoàn toàn hài lòng, gấp lại và trao trả cho nhóm, miệng lầm bầm lời cám ơn. Mallory có dịp nhìn kỹ người lính hơn. Hắn còn nhỏ quá, không quá mười chín tuổi, vẻ mặt chất phác khác hẳn những tên SS 3 cuồng tín của chiếc tàu bọc thép hồi chiều. Mallory không muốn phải giết hắn. Nhưng phải tìm cách dò hỏi tin tức càng nhiều càng tốt. Chàng ra hiệu cho Stevens mang lên một két còn sót lại vài chai rượu Moselle vừa thầm nghĩ "Đại tá Jensen thật chu đáo lo lắng cả khoản nước uống này". Đưa ngón tay chỉ bâng quơ trên đồi cao, chàng hỏi:
- Các anh có mấy người trên đó?
Ngay lập tức, người lính Đức lấy lại vẻ nghi ngờ và thù nghịch. - Tại sao ông muốn biết?
- Chúng tôi sẽ từ Samos trở lại trong hai hoặc ba ngày nữa và thế nào chẳng có một két rượu vang Moselle khác. Tướng Graebel thường rộng rãi với chúng tôi, là những… phái viên đặc biệt của ngài mà. Trên kia, chắc các anh cũng thèm có rượu uống lắm phải không? Mỗi người sẽ được biếu đồng đều một chai. Các anh có bao nhiêu người nhỉ?
Người lính Đức yên tâm khi được Mallory cho biết sẽ còn quay lại đây nữa. Hấp dẫn bởi món quà biếu ngon tuyệt và lo ngại phản ứng của đồng đội nếu hắn từ chối, người lính dẹp ngang mọi nghi ngờ và miễn cưỡng trả lời.
- Chúng tôi chỉ có ba người.
- Vậy thì đây một, hai, ba chai. Mallory vui vẻ đếm và để chứng tỏ cho anh lính bảo hộ biết mình cũng học lóm được vài chữ tiếng Đức, chàng giơ cao chai rượu đang uống lên kêu to:
- Prosit. Auf Windersehen 4 .
Người lính lưỡng lự một giây, hơi xấu hổ đoạn quay người lại và đi dọc theo vịnh tay ôm mấy chai rượu trước ngực.
- Chúng chỉ có ba đứa, Mallory nói, như thế càng dễ cho chúng ta…
- Hoan hô Đại úy! Stevens thốt lên, Đại úy đóng kịch quá khéo!
- Phải! Quá khéo! Đến phiên Miller cho ý kiến. Tôi chẳng hiểu hai bên nói gì, nhưng Đại úy xứng đáng đoạt giải Oscar 5 !
- Cám ơn, Mallory nói. Nhưng tôi e rằng lời khen ngợi của các anh hơi quá sớm… Hãy nhìn kìa!
Người lính trẻ đứng lại cách bờ vịnh khoảng hai trăm mét và sau cái giật mình kinh ngạc hắn bước qua giữa rặng cây. Một người lính khác ló đầu ra, nói với hắn điều gì đó, tay chỉ về phía chiếc tàu đậu trong vịnh. Rồi cả hai đều biến mất.
- Chúng ta lại phải làm lại từ đầu, Mallory nói. Có điều gì đó xảy ra. Nhưng phải làm sao để đánh lạc hướng nghi ngờ của bọn chúng. Đừng cho họ có cảm tưởng chúng ta đang họp bàn âm mưu gì đó.
Miller xuống trở lại trong hầm máy với Brown, Stevens bước vào buồng lái. Mallory cố không để ý đến những người lính canh nghĩ gì. Vấn đề là phải ra khơi nhưng với điều kiện… Khẩu đại liên của chúng đừng ngăn cản… Thế thôi!
- Theo Đại úy, chuyện gì đã xảy ra? Stevens hỏi.
-Thật khá rõ ràng. Chúng đã nhận được tin, bằng cách nào tôi không thể biết. Bọn chúng chắc đã được báo động về một vụ chiếc tàu tuần tra bị mất tích, khiến mọi nghi ngờ chúng ta thêm gia tăng. Anh có nhớ tên lính khi nãy mang theo trên lưng vô tuyến và ăng ten. Có lẽ chúng luôn giữ liên lạc với chỉ huy của chúng, bằng vô tuyến, bằng điện thoại, và chúng đều hoảng hốt về tin tức vừa nhận được.
- Vậy thì có lẽ chỉ huy của quân Đức sẽ điều một đội quân đi xét hỏi chúng ta, Miller nói bằng giọng bi đát.
Bộ óc của Mallory hoạt động nhanh chóng và chàng cảm thấy tự tin một cách lạ lùng.
- Không, Mallory nói. Sở chỉ huy của chúng cách đây mười cây số theo đường chim bay, hoặc có thể mười tám nếu đi xuyên qua núi rừng… và nhất là trong đêm tối. Họ không làm thế đâu.
- Vậy thì chúng ta phải chờ cho đến khi khẩu Spandau của chúng nhả đạn vào chúng ta sao? Stevens lại hỏi.
- Không, Mallory nói. Dù nghi ngờ, bọn Đức vẫn kiêng dè chúng ta vì tên lính trẻ thế nào cũng cho đồng đội biết rằng chúng ta có lệnh do tướng Grabebel ký. Chúng không dại dột gì mà liều lĩnh nổ súng. Tuy nhiên, có lẽ chúng đã đánh tín hiệu về Samos để xin xác minh và đang chờ đời điện trả lời, trễ lắm là trong vòng nửa giờ.
- Nhưng ở lại đây và viết di chúc thì được ích lợi gì, Miller mỉa mai. Phải làm điều gì chớ.
- Hãy yên tâm đi, hạ sĩ. Chúng ta sẽ đắm mình trong cuộc chè chén say sưa thật vui, thật ồn ào trên boong tàu…
Đây là bài hát thứ ba của họ ngân dài từng chuỗi trong không trung. Mallory không tin rằng tiếng hát của nhóm sẽ vang lên đến tận tháp canh vì gió ngược, nhưng lối nhảy nhót, dậm chân, cụng chai nhau chắc chắn sẽ không lọt qua cặp mắt dò xét của bọn Đức trừ phi chúng mù và điếc. Thái độ của họ chắc chắn không phải là thái độ của những gián điệp khi biết bị nghi ngờ, sẽ không để mất thì giờ. Những người đang rình rập từ tháp canh chắc chắn cũng nghĩ thế hoặc đang phân vân bối rối.
Mallory nhìn ba người ngồi gần chàng: Miller, Stevens và Brown. Còn Andrea thì núp trong buồng lái lưng đeo súng ngắn và tay cầm bao lựu đạn.
- Bây giờ đã đến lúc đóng phim cho xứng với giải Oscar anh tặng cho tôi, Mallory nói với Miller. Chúng ta giả bộ đánh nhau.
Cả hai vừa la lối, vừa lăn xả vào nhau, tay chân đấm đá túi bụi. Mallory vờ rú lên đau đớn ngã xuống. Miller chạy tới chụp lấy cây sào bổ xuống đầu chàng, nhưng những người khác kịp giữ tay anh ta lại và cố gắng can ra trong tiếng la ó huyên náo. Lợi dụng lúc lộn xộn, Andrea đã lặng lẽ biến mình dưới nước và lặn vào bờ.
Một phút sau, theo đúng luật giang hồ của bợm nhậu, cả hai lại làm hòa bắt tay nhau và cụng chai uống tiếp.
- Vai đóng đạt lắm, Mallory nói. Phải tặng một Oscar cho hạ sĩ Miller.
- Tôi chẳng khoái chút nào xếp ơi, Miller nói ủ rũ. Lẽ ra Đại úy phải để tôi đi cùng với Andrea. Một mình anh ta phải chọi với ba đứa trên kia nhất là bọn chúng lại đang tư thế sẵn sàng. Quỷ bắt tôi đi! Đại úy há không nói rằng sứ mạng của chúng ta rất quan trọng sao?
- Chính vì quan trọng mà tôi không phái anh đi theo Andrea. Không ai trong chúng ta được đi cả bởi vì chúng ta chỉ làm anh ta thêm vướng bận. Anh chưa hiểu Andrea đâu, anh Dusty.
Lần đầu tiên Đại úy Mallory thân mật gọi Miller bằng tên riêng khiến anh ta cảm động. Đại úy nói tiếp:
- Trong các anh chưa ai hiểu được Andrea con người khổng lồ nhưng luôn tươi cười và bông đùa. Nhưng tôi, tôi hiểu anh ấy. Trong lúc này, anh ta bước xuyên rừng như mèo, một con mèo lớn và nguy hiểm nhất. Chỉ trừ phi bọn lính gác chống cự lại, chứ Andrea không cần giết người nếu không cần thiết. Khi phái Andrea đi, tôi hoàn toàn tin tưởng chúng bị vô hiệu hóa chẳng khác gì chúng đang ngồi trên ghế điện và tôi ngồi đây bấm nút.
Năm phút trôi qua, có thể đã mười phút, những người trên thuyền vẫn say sưa ồn ào. Trời đã tối hẳn. Chiếc thuyền bắt đầu chòng chành do những đợt sóng lớn. Những cây thông trên vịnh trong bóng tối hợp thành một cái vòm đen cao lớn và tiếng gió than vãn như kinh cầu hồn xuyên qua các ngọn cây. Một đêm nặng nề như đe dọa, đầy linh cảm chẳng lành đánh thức sự sợ hãi.
Bất chợt, tiếng gọi vui vẻ của Andrea từ trên bãi như kéo họ ra khỏi cơn thôi miên và họ đều đứng bật dậy. Nụ cười của anh ta vang lên ròn rã khiến cho khu rừng như có vẻ lui lại vì thất bại. Không chờ cho đuôi thuyền tiến lại gần bờ, Andrea đã phóng mình xuống nước, bơi sải chừng mười hai cái đã chạm tay vào mạn thuyền và đu lên dễ dàng.
Vẫn luôn tươi cười, anh ta lắc người ướt nhẹp và đưa tay đón lấy chai rượu.
- Chắc khỏi cần phải hỏi anh đã giải quyết xong tháp canh chưa? Mallory mỉm cười hỏi.
- Hoàn toàn khỏi cần. Thật quá dễ. Toàn là mấy đứa nhắt. Chúng cũng chẳng nhìn thấy tôi.
Andrea ngửa đầu tu một hơi và tiếp tục kể, giọng đắc thắng:
- Bọn nhãi đang trố mắt nhìn chúng ta qua lỗ hổng của tháp canh. Tôi ra lệnh cho chúng giơ tay lên, trước súng của chúng và nhốt chúng trong một căn hầm. Sau đó, tôi phá hư khẩu đại liên Spandau của chúng. Đơn giản chỉ có thế.
° ° °
Bây giờ thế là hết, Mallory buồn bã nhủ thầm. Thế là chấm dứt mọi cố gắng, mọi hy vọng, mọi sợ hãi, mọi tình cảm, mọi vui mừng. Chấm dứt với tất cả năm người ở đây và một ngàn hai trăm người ở Khéros. Trong khi chàng đưa tay chùi bọt sóng mặn chát bắn trên môi, và mở to mắt nhìn vào bóng tối thăm thẳm nơi đang tung hoành cơn giông bão, nỗi tuyệt vọng không khoan nhượng cay đắng xâm chiếm tâm hồn chàng. Tất cả đã mất, tất cả sẽ biến mất, trừ những khẩu đại bác thành Navarone. Chúng trở thành bất khả tiêu diệt. Chúng mãi mãi bị nguyền rủa, nguyền rủa!
Chiếc thuyền nhỏ đang hấp hối, kêu răng rắc khắp nơi, liên tục bị tấn công cho đến chết. Đuôi thuyền chúi xuống mặt nước, mũi thuyền điên cuồng dựng đứng lên không trung, rồi lại kinh hồn đập xuống. Những cây đà và những tấm ván mệt mỏi, rạn nứt dần.
Khi nãy, lúc cho tàu nổ máy rời khỏi vịnh để đi theo hướng bắc, về phía Navarone, tình thế đã khá lo ngại. Thật là vô cùng khó khăn để giữ cho thuyền đi đúng hướng, bởi vì sóng đập vào thân bên phải thuyền, khiến nó chệch một góc 50 độ, nhưng lúc đó nó vẫn còn nguyên vẹn.
Nhưng bây giờ, gần nửa lô ván bắt đầu tách rời khỏi mũi. Nước dâng lên trong thuyền nhanh đến nỗi cái máy bơm bằng tay không kịp hút nước ra. Những đợt sóng quái ác cũng không còn đều đặn. Gió cũng bắt đầu nhân đôi sức mạnh, đổi hướng liên tục giữa tây nam và đông nam. Ngay lúc này, nó đang từ hướng nam thổi tới và đẩy con tàu bất trị trôi dạt mạnh mẽ về dãy núi đá của hòn đảo Navarone, dãy núi dựng đứng nhưng vô hình trong bóng tối dày đặc.
Mallory đứng thẳng người một chút, cố làm dịu cơn đau nhói ở vùng thận. Từ hơn hai giờ, chàng liên tục nhấc lên và đổ xuống biển hàng ngàn xô nước, do Miller liên tục múc đầy trong hầm tàu. Chỉ có thượng đế biết Miller cảm thấy thế nào. Việc làm của anh ta hết sức nặng nhọc, và từ nhiều giờ, anh lại đang bị say sóng. Diện mạo anh ta thật đáng sợ, như diện mạo người chết, và cái ý chí theo đuổi nỗ lực trong tình trạng này vượt qua giới hạn của anh.
Mallory ném một cái nhìn ra phía sau để xem các bạn khác ra sao. Lẽ dĩ nhiên chàng không thể không gặp Casey Brown, giam mình trong buồng máy hẹp, cũng đau khổ vì say sóng và ngoài ra còn chịu thêm cái ách nhức đầu gây nên bởi khói được lọc và thoát ra ngoài qua ống thoát hơi mới chế. Tuy nhiên, luôn nghiêng mình trên mô-tơ, anh ta không một lúc nào rời khỏi vị trí từ lúc họ ra khỏi vịnh, và anh ta chăm sóc cái mô-tơ hiệu Kelvin già yếu với vẻ trìu mến tận tâm cộng với khéo léo tuyệt vời của con người hãnh diện sinh ra từ dòng dõi thợ máy. Động cơ này chỉ cần ngưng nổ một giây, thế là tai họa khủng khiếp lập tức. Khả năng còn lái được và mạng sống của năm người tùy thuộc hoàn toàn vào sức đẩy không ngừng nghỉ của chân vịt và hai ống hình trụ rỉ sét đang chăm chỉ dao động. Đó là trái tim của thuyền. Nếu nó ngừng đập, thuyền sẽ chết và tan tành trong vực thẳm đang chờ đón họ.
Ở phía trước buồng máy, Andrea đang cong lưng, hai chân soạc ra, vận dụng ống bơm liên tục, không bao giờ ngẩng đầu lên, không cần biết đến độ lệch của hướng đi, không chú ý đến cơn gió rát da và bụi nước lạnh ngắt làm hai tay của anh ta sưng phồng. Không mệt mỏi, cánh tay của anh nhắc lên và hạ xuống đều như cái pít tông. Anh ta điều khiển ống bơm từ ba giờ và có vẻ đủ sức tiếp tục mãi mãi, khiến Mallory tự hỏi sự chịu đựng dẻo dai của anh ta phải chăng là vô bờ bến.
Stevens cũng làm chàng ngạc nhiên. Suốt bốn tiếng đồng hồ, anh ta không rời tay lái là một cái thanh sắt luôn chấn động và như bướng bỉnh tìm mọi cách để thoát khỏi bàn tay đuối sức của người thuyền trưởng trẻ tuổi. Anh ta đang làm một công việc hết sức khó khăn, đó là lái chiếc tàu bé nhỏ và bệnh hoạn này giữa cơn giông bão, và anh ta đang hoàn thành nó một cách vững vàng và đáng phục. Bụi nước quất vào mặt Mallory làm chàng mờ mắt, nhưng chàng cũng nhìn thấy được qua màn nước hai môi mín chặt của Stevens, đôi mắt quầng thâm vì thiếu ngủ và một giòng máu luôn rỉ ra từ vết thương trên thái dương. Một đợt sóng khổng lồ đã đập bể cửa sổ của phòng lái, dữ dội và đột ngột đến nỗi Stevens không kịp né tránh và lãnh trọn một mảnh nhọn vào thái dương phải.
Tim thắt lại, Mallory quay người đưa tay đỡ lấy xô nước đầy. Chàng không biết phải dùng từ nào để mô tả những nhân viên của chàng, vì tinh thần chàng quá mệt mỏi nhưng vả lại cũng không có đủ từ để ca ngợi họ.
Tại sao những người đang chịu trận đòn nhừ tử này phải chết một cách phi lý? Có lẽ không cần thiết phải biện minh cho cái chết dù là cái chết không vinh quang, vô ích. Người ta không thể chết cho lý tưởng hoặc cho cái gì đó trừu tượng hay sao? Những người tử đạo đã hoàn thành được gì khi bị thiêu sống trên giàn hỏa? Nếu người ta đã sống xứng đáng thì cách chết quan trọng ra sao? Mallory ghê tởm nhớ lại những lời của đại tá Jensen về Bộ Tư lệnh Tối cao chơi trò "Ai sẽ làm Vua" với quân địch. Vậy thì họ đang ở trong cuộc của ván cờ. Những con chốt này sắp mất. Điều đó không quan trọng với họ, bởi vì họ còn hàng vạn con chốt khác để chơi.
Lần đâu tiên, Mallory nghĩ đến chính mình, không phải để than trách số phận cũng không phải để nuối tiếc đã mất tất cả. Chàng chỉ nghĩ đến vai trò làm trưởng nhóm trong cuộc viễn chinh này, đến trách nhiệm của chàng trong tình thế hiện tại. "Lỗi tại tôi, chàng tự lập lại, tất cả do lỗi của tôi. Chính tôi đã dẫn họ đến đây, buộc họ đến đây".
Dù biết rằng nếu ở lại trong vịnh, bọn Đức sẽ tiêu diệt họ trước khi trời sáng, Mallory cũng tự mắng mình đã bó buộc đồng đội đương đầu với bão tố và bây giờ chàng không thể làm khác họ, nghĩa là đồng chờ chết. Tuy nhiên, chàng là xếp và phải tìm ra một giải pháp để cứu họ, nhưng chưa tìm thấy được.
Chàng đánh rơi xô nước, bám chặt vào cột buồm để khỏi bị đợt sóng to như mái nhà đập xuống boong cuốn phăng đi, bọt nước cuồn cuộn trắng xóa, sáng ngời như có lân tinh. Chiếc thuyền nhào lộn chòng chành, nghiêng ngả, chúi xuống như trong khoảng trống, bởi không ai thấy gì hết, kể cả nơi mà đợt sóng vừa qua biến mất nhường chỗ cho đợt kế tiếp. Biển tối đen như mực trở nên vô hình, xa cách lạ lùng, nhưng đáng sợ gấp bội vì ta luôn có cảm giác nó ở gần bên có thể sờ soạng được.
Mallory nhìn xuống hầm tàu và mơ hồ nhớ rằng Miller đang lặn hụp dưới đó. Có lẽ anh ta đã chết ngộp mất. Cần phải khẩn cấp tới đó ngay. Một cơn sóng lớn hơn xô tới và tan nhanh trên boong. Chàng chợt hiểu:
Gió! Gió đã bớt và đang yếu sức dần. Trong khi chàng ôm chặt cột buồm bằng hai cánh tay để chống lại đợt sóng thứ hai này, chàng nhớ lại khi xưa lúc ở trên một dãy núi cao, chàng đang đứng dưới chân một vực thẳm trong khi gió lồng lộn tìm đường ít cản trở nhất, nên đã tung hoành dọc hai bên vách đá bên ngoài, còn chỗ chàng đứng là một cái hóc nhỏ hơn tương đối yên tĩnh. Hiện tượng này, mọi vận động viên leo núi đều biết. Ý nghĩa của hai đợt sóng khủng khiếp vừa qua và sức yếu của đột ngột của gió đập mạnh vào tâm trí chàng. Núi đá! Vậy thì nhóm chàng đang ở gần vách núi đá phía nam hòn đảo Navarone.
Chàng rống lên khản cả giọng vừa lảo đảo chạy tới hầm máy xuyên qua màn nước.
- Tất cả hãy lui lại! Chàng hét lên. Lạy Chúa! Hãy lui lại! chúng ta sắp đâm đầu vào vách đá!
Bằng hai bước, chàng tới buồng lái. Bàn tay chàng run rẩy tìm một trái sáng.
- Núi đá, Stevens! Phải ném trái sáng lên xem nó ở đâu?
Chàng thấy Stevens gật đầu, Chàng nhìn bên ngoài tối đen như mực. Tuyệt vọng, Mallory cầm trái sáng dộng mạnh, chợt nó xé gió bay vút lên theo quỹ đạo hầu như ngang mặt nước. Mallory tưởng nó bị tắt, chàng giận dữ nắm chặt hai tay bất lực. Chợt nó đụng vào vách núi, rớt trên một hòn đá lồi ra và ở bên trên mặt nước khoảng bốn mét, bốc khói và cháy ngập ngừng trong cơn mưa và bọt sóng.
Ánh sáng yếu ớt nhưng vừa đỏ cho thấy dãy núi đá chỉ còn cách họ chừng bốn mươi mét. Và thẳng trước mặt họ, có lẽ cách bờ mười lăm mét, một lớp đá ngầm với những răng lởm chởm như kim nhọn đang tua tủa chờ họ.
- Anh có thể đi qua được không? Mallory hỏi Stevens. - Cầu Chúa giúp! Tôi sẽ thử!
Anh ta nói thêm về tốc độ cần thiết, nhưng lúc ấy Mallory đã bước ra ngoài. Như mọi khi, gặp hoàn cảnh gay go, đầu óc chàng lại đối ứng nhanh như tên bắn, sáng suốt và bình tĩnh lạ thường.
Chàng lấy móc sắt, búa và sợi dây, ruột bằng kim loại đoạn quay trở lại boong trong vài giây. Hông tàu va mạnh vào một tảng đá ngầm khiến Mallory té quỵ trên hai đầu gối. Hòn đá cào rách mạn thuyền nhưng bàn tay của Stevens bẻ quặt tay lái qua một bên cho tàu lướt tới vừa hét to:
- Tất cả hãy lùi ra sau!
Mallory lảo đảo trỗi dậy, nhanh chóng quấn sợi dây qua cổ và dưới vai trái, nhét móc câu và búa vào thắt lưng. Khoảng cách giữa
tàu và vách tường dựng đứng đứng của núi đá càng lúc càng gần với tốc độ khủng khiếp. Mallory không ngừng tự nhủ "Chỉ còn một cơ hội duy nhất, là làm sao lên được mỏm đá nhô ra trên kia, tuy nhiên còn hơi xa, hầu như không thể lên tới được, nhưng dù sao nó cũng là một thử thách độc ác và cuối cùng".
Sau khi cố gắng vất ra ngoài những vỏ xe tải cũ và tất cả những gì có thể che chở tạm cho con thuyền hấp hối, Andrea hiểu ý đặt lên vai Mallory bàn tay khích lệ:
- Mỏm đá lồi?
Mallory gật đầu, hai đầu gối hơi chùng xuống, hai chân sẵn sàng trong tư thế nhảy.
- Đại úy phải nhảy thật cao mới với tới nó được. Sau đó nhớ giữ hai chân thật cứng nhé.
Chiếc tàu đang lảo đảo trên đầu sóng chường hông về phía vách núi và đang được đẩy lên cao. Không chút chậm trễ, đây là giây phút thuận lợi nhất. Mallory biết thế. Hai tay chàng quặt ra sau, hai chân nhún xuống, và như một con mèo thu người lại để rồi phóng lên không trung. Mười ngón tay của chàng bấu chặt vào bìa mỏm đá ẩm ướt. Trong giây lát, chàng treo người lơ lửng, hai tay duỗi thẳng, không thể động đậy được, rùng mình khi nghe bên dưới tiếng cột buồm gãy làm đôi.
Chậm chạp, có phương pháp của một vận động viên leo núi, chàng đưa tay sờ soạng vách đá tìm một đường nứt làm bàn đạp để leo lên. Mười lăm giây sau, chàng đã đứng trên mỏm đá lồi.
Nhanh nhẹn và an toàn, vừa cố giữ thân người được thăng bằng trên hòn đá trơn và nghiêng. Mallory đóng thật chắc một cái đinh móc vào khe đá, sau đó chàng thả đầu dây kia xuống thuyền.
Không đầy một phút trôi qua chiếc tàu sau khi va vào vách đá, chỉ còn là một cái xác ngổn ngang. Cứ trong vài giây một đợt sóng lại xô đẩy nó vào vách, những vỏ xe tải cũng không che chở nó được bao nhiêu, và cứ mỗi cú sốc, sườn tàu lại thủng, ván gỗ vỡ nát.
Ba người đang đứng gần buồng lái là phần duy nhất còn sót lại. Chỉ có ba, và bất chợt Mallory nhận ra là thiếu Casey Brown, và động cơ vẫn đang nổ. Brown vẫn cố gắng duy trì máy nổ tối đa ngay trong giây phút vỏ tàu đang tan thành mảnh vụn này. Mallory lầm bầm "Trời ơi! Anh ta điên chắc?"
Lại một đợt sóng mới đập tàu vào vách, lần này hung bạo đến nỗi buồng lái sụp đổ. Stevens bị hất văng xuống nước, thân người mềm nhũn. Anh ta sẽ chết đuối hoặc sẽ bị đợt sóng kế tiếp xô xác tàu nghiền nát người anh vào vách đá, nếu Andrea không lao theo vớt anh lên kịp.
Mallory thét lên:
- Hãy đu dây leo lên mau! Lạy Chúa! Tàu sắp chìm rồi!
Chàng thấy Andrea đang đỡ Stevens đứng dậy và thầm thì vào tai anh ta. Stevens tuy nôn ọe ra nước và máu những vẫn còn tỉnh táo. Anh ta nắm lấy sợi dây, bên dưới nhờ Andrea đẩy, bên trên Mallory với tay kéo anh lên. Cuối cùng Stevens cũng leo lên được tới nơi, lưng anh tựa vào vách núi, tay níu vào móc sắt, mệt mỏi nhưng thoát nạn.
- Miller đến phiên anh đây! Mallory la to. Nhanh lên!
Miller nhìn chàng, mỉm cười, và thay vì nắm bắt sợi dây, anh lại nói:
- Một phút, thưa xếp. Tôi quên "bàn chải đánh răng".
Anh ta chạy vào ca-bin và trở lại vài giây sau, tay ôm thùng màu xanh đựng chất nổ. Trước khi Mallory hiểu điều gì xảy ra thì thùng gỗ hai mươi lăm ký lô đã được hai tay không mệt mỏi của anh chàng khổng lồ người Hy Lạp chuyển tới tay chàng. Rồi sau đó là máy vô tuyến điện được bọc trong bao chống nước.
Mallory hét to:
- Cứ để những vật quỷ quái đó qua một bên. Các anh hãy leo lên ngay!
Hai cuộn dây leo núi, thùng đựng quần áo và thực phẩm lại tiếp tục được đưa lên.
- Các anh có nghe tôi nói không? Mallory giận dữ. Các anh phải leo lên ngay. Đây là lệnh! Tàu đang chìm rồi!
Thật thế, tàu đang chìm nhanh. Nước đã tràn ngập trên mọi thứ, và Casey Brown bó buộc phải rời khỏi cái mô-tơ hiệu Kelvin đang nằm yên dưới nước.
- Tôi không nghe xếp nói gì cả, Miller chối. Vả lại tàu chưa chìm. Nói xong, anh ta lại lặn hụp vào ca-bin.
Trong vòng ba mươi giây, cả nhóm làm việc cật lực, và toàn bộ vật liệu cần thiết được câu lên mỏm đá lồi. Khi Brown leo lên thì cả đuôi tàu đã chìm dưới biển, đến phiên Miller thì mũi thuyền là là sát mặt nước, và cuối cùng khi Andrea đu lên thì hai chân chàng lơ lửng trên biển trống. Chiếc thuyền đã hoàn toàn biết mất, không để sót lại bất cứ vật gì dù là mảnh vụn, dù là một bọt khí để đánh dấu chỗ tàu vừa đắm:
Mỏm đá nhô ra không tới một mét và hai đầu thon lại. Điều tệ hại hơn là chỗ bề mặt tương đối phẳng nơi Stevens chất đồ đạc, lại nghiêng ra ngoài và trơn nhẵn. Lưng áp sát vào vách đá, Andrea và Miller phải đứng trên gót, hai bàn tay bám sát vách để giữ thăng bằng. Chưa đầy một phút, Mallory đã đóng thêm hai móc sắt khoảng năm mươi phân phía trên mỏm đá, để ràng dây làm thành đai an toàn cho cả nhóm.
Mệt mỏi, Miller ngồi xuống, áp ngực vào dây an toàn, rút trong túi ra một bao thuốc lá và mời mọi người, quên rằng mưa đã làm điếu thuốc ướt nhẹp. Chính anh ta cũng ướt như chuột lột từ đầu đến chân, hai đầu gối rướm máu vì bờ vách nhọn hoắt và cảm thấy lạnh kinh khủng, sợi dây trước ngực gây khó thở kiệt sức sau hằng giờ mệt mỏi và say sóng. Tuy nhiên anh ta cũng thành thật thốt lên:
- Lạy Chúa! Như thế này không tuyệt hơn sao?
--------------------------------
1 Rommel: Thống chế D8ức trong quân đội của Hitler.
2 Samos: tên hòn đảo trên biển
3 Vathy: tên hòn đảo trên biển
SS (Viết tắt của chữ Schutz – Staffel): tên lực lượng cảnh sát đặc biệt của
4
chế độ phát xít Đức, thường quản lý các trại tạp trung và các lãnh thổ do Đức chiếm đóng
5 Prosit. Auf Wiedersehen: Uống mừng sức khỏe! Chào tạm biệt (tiếng Đức)
CHƯƠNG NĂM
ĐÊM THỨ HAI, RẠNG SÁNG THỨ BA
1g – 2g
Chín mươi phút sau, Mallory đã chèn thân mình vào một đường rãnh dọc tự nhiên của bề mặt vách núi. Chàng đóng đinh móc dưới chân để cho thân thể đau đớn và kiệt sức được đứng nghỉ ngơi một chút. Hai phút nghỉ, chàng tự nhủ, chỉ hai phút thôi, trong khi đó Andrea đang leo lên. Sợi dây rung động mạnh. Hai bên chàng gió rít liên hồi như muốn nhổ chàng ra khỏi chỗ đứng. Mallory nghe tiếng giầy của Andrea cọ sát vào vách khi anh đang cố gắng vượt lên đặt chân trên chỗ đá hơi nhô ra ngay bên dưới chàng. Đó là điểm tựa nguy hiểm nhưng phải chinh phục bằng mọi giá dù có phải rách nát hai bàn tay hay mệt lả toàn thân. Hai vai của Mallory đau nhói, hơi thở đứt quãng và chàng há miệng hít một hơi dài. Chàng cố quên đi những đau đớn của thể xác, quên đi nhu cầu nghỉ ngơi khẩn cấp, và chàng nghe lần này tiếng giầy có lót thép của Adnrea chạm hơi mạnh vào đá mặc dù tiếng gió lấn át… Phải nói với Andrea cẩn thận hơn khi leo sáu mét còn lại. "Về phần cá nhân tôi, Mallory nghĩ thầm, chẳng cần ai phải dặn dò đừng gây tiếng động". Bởi vì hai chân của chàng hiện thời không có khả năng gây tiếng động nhỏ nào. Chúng chỉ còn được quấn quanh bằng đôi vớ rách nát. Lúc nãy khi chàng mới leo lên chừng sáu mét đầu tiên thì chợt nhận ra rằng đôi giày leo núi khiến chàng mất hết cảm giác tiếp xúc với vách đá trong khi chàng cần phải dùng tay, dùng chân để sờ soạng, tìm ra bất cứ một điểm tựa nào dù nhỏ nhất nhưng hết sức cần thiết. Khó khăn lắm chàng mới lột được giày ra và buộc vào thắt lưng bằng chính sợi dây giày. Nhưng đang khi leo, chàng đã đánh rơi chúng xuống vực thẳm vì mặt vách sần sùi và sắc đã cứa đứt cả hai dây.
Thật là cơn ác mộng, một khổ hình khi chinh phục một đỉnh cao trong gió, mưa và bóng tối. Có lúc chàng phải đứng bằng đầu ngón chân và ngón tay để đóng hàng trăm đinh móc, cột dây vào đó rồi tiếp tục tiến lên trong bóng tối. Chàng chưa bao giờ làm thử điều đó và biết rằng sẽ không làm thử nữa trong cuộc đời, vì là sự điên rồ.
Công việc này đòi hỏi toàn bộ khéo léo, can đảm, sức lực. Chàng không ngờ rằng bản thân đã có những lực dự trữ vô giới hạn như vậy. Chàng cũng không ngờ đã leo tới điểm này, và từ đây lên đến đỉnh không còn khó khăn lắm. Động cơ nào đã thúc đẩy chàng? Không phải do lòng kiêu hãnh của vận động viên số một châu Âu có khả năng đạt chiến công đó, cũng không phải vì ý thức rằng giờ tận thế của hàng ngàn người ở Khéros sắp tới. Suốt thời gian chinh phục vách đứng, đầu óc chàng hoàn toàn trống rỗng, không chút nghĩ ngợi, không chút tình cảm và chỉ leo như một cái máy.
Dễ dàng, bằng hai tay, Andrea hít lên, qua khỏi điểm nhô ra, hai chân lủng lẳng. Người anh ta cuốn đầy những cuộn dây nặng, đeo đầy móc câu, như đang đóng vai hải tặc trong một vở kịch. Bằng động tác nhanh nhẹn, anh ta leo đến chỗ Mallory, lau mồ hôi trán và mỉm cười như thường lệ.
Mallory mỉm cười lại, vừa nghĩ rằng lẽ ra Stevens phải đứng đây thay vì Andrea. Nhưng Stevens đã mất máu nhiều, không thể để anh ta mạo hiểm. Dù sao Stevens là tay leo núi giỏi nên để anh ta đi sau để cuốn dây và rút móc không để lại chút dấu vết. Đã nhiều lần, trong suốt trò đùa với tử thần này, Mallory đã phải đứng trên lưng, trên vai, trên hai lòng bàn tay và có lúc cả trên đầu Andrea, điều mà Stevens không thể chịu nổi nhưng Andrea không hề lảo đảo, đuối sức hay thối lui vài phân. Thật là một con người bất khả chiến bại và rắn chắc như núi đá. Từ lúc hoàng hôn đến giờ, Andrea đã làm việc không ngừng, hoàn thành một công việc có thể làm hai người bình thường gục chết và ngay cả bây giờ, anh ta cũng không có vẻ mệt mỏi.
Đưa tay chỉ phía trên cao đường rãnh dọc, Mallory còn thở hổn hển, nghiêng đầu nói khẽ vào tai Andrea:
- Còn sáu mét không khó đâu. Ở phía tôi có một khe nứt có thể dẫn tới đỉnh.
Andrea im lặng gật đầu. Mallory nói tiếp:
- Tốt nhất anh phải tháo giầy, vào đóng móc sắt bằng tay để khỏi gây tiếng động.
- Đúng vậy, ngay cả trong đêm tối đen như thế này và ở chỗ hoang vu chỉ nghe tiếng gió mưa.
Andrea không hề hỏi chàng tại sao, anh ta luôn bổ sung thêm ý nghĩ của chàng. Cả hai đã từng sống bên nhau, hiểu nhau sâu đậm đến nỗi lời nói giữa họ với nhau thường là không cần thiết.
Mallory chờ đợi trong khi Andrea dùng tay đóng đinh vào vách, cột dây và thả xuống hàng trăm mét bên dưới nơi những người khác đứng trên mỏm đá lồi đầu tiên.
Ba mét kế tiếp khá dễ dàng. Hai lòng bàn tay và lưng áp sát vào một bên vách đường rãnh, hai chân đạp vách bên kia. Mallory nhoài người lên đến chỗ khoảng cách hai vách bắt đầu khá lớn. Chàng cẩn thận găm khá cao trên đỉnh đầu một móc sắt, với hai tay đu lên, đưa hai chân qua vách bên kia và thấy một khe hở đủ để các đầu ngón chân. Hai phút sau, bàn tay chàng bám vào bờ đất trên đỉnh vực, chàng cảm nhận đất bở ra dưới ngón tay.
Không một tiếng động, bằng những biện pháp phòng ngừa hết sức cẩn thận, chàng moi hết đất, cỏ và những hòn sỏi li ti bám trên bờ cho đến khi tay chàng đụng vào đá cứng và chắc. Chàng co đầu gối để tìm điểm tựa cuối cùng cho các ngón chân và cẩn thận ngóc đầu lên trên khỏi đỉnh vách đá, chậm chạp, từng li một. Khi đôi mắt chàng vượt lên trên bờ đất, chàng thôi cử động, soi mói đêm tối bằng thị giác lẫn thính giác. Trong suốt cuộc hành trình gian khổ này, lần đầu tiên và khác với mọi khi, chàng chợt có ý thức về sự nguy hiểm và bất lực của chàng, và chàng tự rủa thầm tại sao không mượn Miller khẩu súng có gắn ống hãm thanh.
Đường chân trời giới hạn bằng những ngọn núi cao, ở bóng tối không hoàn toàn tuyệt đối. Mallory có thể thấy được lờ mờ những hình thù, những góc, những chỗ cao, chỗ lõm và tất cả bỗng trở nên thân thiết lạ thường. Mallory nhận ra ngay cảnh vật mà ông già Vlachos đã vẽ trong bản đồ cho chàng: trước hết là dãy đất trống song song với bờ vực thẳm, kế đó là một mớ đá lớn hỗn độn, phía sau là những bờ dốc rải đầy đá nhỏ. Thật là may mắn! May mắn đầu tiên! Mallory vui mừng nghĩ. Họ đã tới thẳng đích, tới điểm cao nhất
của dãy núi đá phía nam đảo Navavone, nơi duy nhất mà quân Đức không đặt lính gác bởi vì chúng biết chắc không ai có thể leo lên được bốn trăm mét bức tường đá sừng sững này.
Một cảm giác phơi phới xâm chiếm người chàng và chàng nhấc nửa người lên trên bờ, hai cánh tay soải ra, hai lòng bàn tay úp lên trên đỉnh núi đá. Nhưng toàn thân chàng cứng lại như bị điện giật, và tim chàng bắt đầu nhịp đập đau đớn.
Một trong những hòn đá đã cử động. Cách chàng bảy hoặc tám mét, một bóng đen đang tách dần ra khỏi khối đá hỗn độn và tiến chậm đến bờ vực. Không phải là hòn đá như chàng tưởng! Chàng có thể thấy rõ đôi giầy bốt cao cổ, bộ quân phục Đức đằng sau tấm áo mưa, chiếc mũ sắt có vẽ hình chữ vạn! Quỷ bắt ông già Vlachos đi! Quỷ bắt đại tá Jensen đi! Ôi các "cha cố" trong Cơ quan Tình báo đã cung cấp những tin tức hết sức sai lầm và đưa nhóm chàng đến ngay miệng cọp! Và Mallory cũng không quên tự rủa mình đã quá dại dột, vì chàng cũng đã có linh tính trước về chuyện chẳng lành này.
Trong vài giây chàng nín thở bất động. Tên lính Đức vẫn bước tới, khẩu súng carabine sẵn sàng nhả đạn, đầu hơi nghiêng, tai nghe ngóng, hình như hắn đã nghe thấy tiếng động nào đấy giữa tiếng gió và tiếng rầm rì của biển cả.
Mallory hiểu rằng nếu cứ nhô lên thế này sẽ bị bắn ngay, chàng từ từ tụt xuống lại, nhích từng phân một. Ban đêm cái nhìn bên cạnh vẫn rõ hơn cái nhìn thẳng và tên lính có thể liếc thấy bất cứ một cử động nào của chàng.
Dần dần Mallory đã tuột xuống và chỉ còn để mấy đầu ngón tay bám trên bờ vực trong khi tên lính vẫn bước tới đều đặn. Mallory đụng vào thân hình to lớn của Andrea và nghe giọng anh ta thì thầm bên tai.
- Chuyện gì vậy?
- Một tên lính gác đã nghe thấy gì đó và đang truy tìm chúng ta.
Bất chợt, chàng đẩy Andrea nép qua một bên, cả hai cùng ép sát người vào vách núi. Một ánh đèn pin chói lòa làm mờ mắt cả hai đang quen với bóng tối. Ánh đèn xuất hiện phía trên đường rãnh. Theo góc độ của tia sáng, Mallory đoán rằng tên lính Đức đang bước cách bờ vực khoảng sáu mươi phân, bởi vì trong cơn cuồng phong dữ dội như thế này, hắn chẳng dại dột liều lĩnh đứng sát mí vực vì sợ sẩy chân rơi xuống hoặc là đất lở hoặc bất ngờ bị đánh lén.
Ánh đèn không biết thương xót đó từ từ tiến lại gần, dù ở độ nghiêng, nhưng sớm muộn gì cũng quét trúng hai người đang chơ vơ trên rãnh núi đá. Bằng một linh cảm chắc chắn, Mallory biết rằng tên lính không chỉ nghi ngờ một cách đơn giản, mà hắn còn biết ai đó đang hiện diện và hắn không ngừng tìm kiếm cho bằng được. Tình thế của họ tuyệt đối không có thuốc chữa.
- Một hòn đá, Andrea thì thầm, ném một hòn đá ra phía sau hắn.
Bàn tay phải của Mallory run run nhưng thận trọng sờ soạng trên bờ đỉnh. Đất, chỉ có đất, rẽ cỏ và những viên sỏi nhỏ hơn hòn bi. Nhưng, Andrea dúi vào tay chàng một vật gì đó cứng và trơn, cái móc sắt. Mallory chợt giật mình đã quẫn trí không nhớ rằng trong thắt lưng chàng còn đeo hai cái móc leo núi.
Bằng động tác co giật, chàng ném cái đinh móc vào màn đêm. Hai giây trôi qua, không nghe gì cả, chàng tưởng đã ném trượt, và tia sáng chỉ còn cách vài của Andrea vài phân, nhưng rồi, như một ân huệ, tiếng leng keng của móc sắt chạm vào một hòn đá vang lên. Ánh đèn chợt rung động, quét sáng bên trái, và chàng nghe bước chân tên lính chạy về phía có tiếng động. Hắn chưa đi xa khỏi mười mét thì Andrea đã lên lên tới đỉnh và như con mèo lớn im lặng đi tìm chỗ rình mồi sau tảng đá gần đấy.
Tên lính Đức đứng cách bờ vực khoảng mười sáu mét. Andrea dùng cán dao dập hai tiếng vào đá. Hắn quay lại đi trở lui, điên cuồng vung vẩy ánh đèn pin và Mallory kịp thấy vẻ mặt tái xanh, đôi mắt mở to sợ hãi tương phản lạ lùng với bộ quân phục và cái mũ sắt của đội quân nổi tiếng sắt đá. Chàng tưởng tượng tác dụng của
những tiếng lách cách nổi lên từ những phía khác nhau đã tạo nên sự run sợ cho người lính miễn cưỡng phải đứng gác một mình đơn độc trên mỏm núi đá trống trải, trong màn đêm đen tối, trong cơn bão tố. Mallory cảm thấy thương xót hắn, một người chồng, một người anh, người con yêu dấu, đang thi hành một nhiệm vụ nguy hiểm bởi vì hắn bị chỉ huy bởi những người đồng loại của hắn, và giờ đây, không đầy một phút nữa, hắn sẽ chết… Tính toán đúng thời gian và khoảng cách. Mallory ngẩng đầu kêu to:
- Cứu tôi! Cứu tôi với! Tôi sắp ngã!
Người lính chợt khựng lại, ánh đèn của hắn quét màn đêm trước khi dừng lại ngay đầu của Mallory. Hắn bất động một giây, đoạn tay trái bóp chặt gỗ che nòng súng, ngón tay trỏ đưa lên cò. Một tiếng hự khô khan lạnh lẽo vang đến tai Mallory và chàng hiểu mũi dao của Andrea đã đâm trúng sườn người lính.
Chàng nhìn xác chết, rồi nhìn khuôn mặt bình thản của Andrea đang chùi lưỡi dao trên bộ quân phục của người lính Đức. Anh ta chậm rãi đứng dậy, thở dài và đút dao vào trong bao.
- Thế đấy bạn Keith! Andrea chỉ gọi chàng bằng hai chữ "đại úy" khi có mặt người khác. Thế đấy, bây giờ tôi mới hiểu tại sao hải quân trung úy trẻ tuổi của chúng ta lo sợ.
- Phải, Mallory nói. Tôi cũng đã có linh cảm trước. Có quá nhiều sự trùng hợp: chiếc tàu tuần tra của Đức đến thị sát chúng ta, rồi tháp canh gây rắc rối, và bây giờ là người lính gác này.
Mallory không kềm được cơn giận, chửi đổng lên và kết luận:
- Tất cả do lỗi của đại úy Briggs ở Castelrosso. Đã tới ngày tàn cuộc đời binh nghiệp của hắn. Tôi cam nó sẽ bị lột lon nội trong tháng này. Đại tá Jensen sẽ "lo" cho hắn.
- Hắn đã thả tên gián điệp Nicolai?
- Còn ai khác có thể biết rằng chúng ta sẽ đổ bộ nơi đây, còn ai khác đã báo cho bọn Đức biết để truy cản chúng ta?
Mallory không đợi câu trả lời của Andrea. Chàng nắm cánh tay anh ta:
- Bọn Đức không cẩu thả chút nào hết. Mặc dầu cho rằng đổ bộ ở đây vào một đêm như thế này là hầu như không thể được, chúng có lẽ vẫn đặt ít nhất một tiểu đội lính gác dọc theo đỉnh núi này.
- Chắc chắn họ có phương tiện để liên lạc với nhau, hoặc là bằng hỏa pháo?
- Không, Mallory trả lời. Hỏa pháo sẽ làm lộ vị trí của chúng. Chắc chúng có đặt điện thoại, Anh không nhớ hàng chục cây số đường điện thoại chúng đã từng mắc ở đảo Crète sao?
Andrea gật đầu, cầm lấy đèn pin của kẻ chết và bắt đầu tìm kiếm. Chưa đầy một phút sau, anh ta trở lại.
- Điện thoại ở đằng kia, bên hốc đá.
- Nếu nó reo, có lẽ tôi phải trả lời, nếu không chúng sẽ kéo đến đây thật nhanh… Và chắc chắn sắp tới thế nào cũng có người đến thay phiên gác. Lạy Chúa, chúng ta phải làm gấp lên!
- Thế còn tên này? Andrea hỏi, chỉ tay về xác chết.
- Phải ném nó xuống biển. Chúng ta không được để lại dấu vết gì. Người ta có thể cho rằng hắn sa sẩy chân té từ trên đỉnh vực. Anh thử xem trên người hắn có giấy tờ gì có thể sử dụng được không?
- Không gì có ích bằng đôi giày bốt của hắn. Anh không thể đi xa được nếu không có giầy.
Năm phút sau, Mallory giật ba lần sợi dây căng dài xuống vực đến tận nhóm người của chàng ở bên dưới. Họ cũng trả lời bằng ba cái giật dây. Sau đó họ trục lên trên đỉnh thùng đựng chất nổ chung với quần áo và những đồ lặt vặt. Andrea nghiêng mình trên bờ vực, nhấc cái thùng nặng mấy chục ký lên nhẹ nhàng như kéo một con cá hương. Đợt tiếp theo là máy phát điện, vũ khí và một tấm lều vải. Lần thứ ba, sợi dây lại xuống trong bóng tối và màn mưa, và một lúc
"""