"
Những Kẻ Văn Minh - Claude Farrère full mobi pdf epub azw3 [Tiểu Thuyết]
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Những Kẻ Văn Minh - Claude Farrère full mobi pdf epub azw3 [Tiểu Thuyết]
Ebooks
Nhóm Zalo
NHỮNG KẺ VĂN MINH Claude Farrère
Making Ebook Project
BOOKAHOLIC CLUB
Tên sách: NHỮNG KẺ VĂN MINH
Tác giả: Claude Farrère
Nguyên tác: Les Civilisés
Dịch giả: Bùi Hiển
Nhà xuất bản: Văn Học
Năm xuất bản: 1999
Số trang: 347
Khổ sách: 13 x 19 cm
Giá bìa: 25.000 đồng
Đánh máy: Minh Khuê, Minh Huy, Thu Hương, Minh Hạ, Thu Hằng Kiểm tra: Hồng Phượng
Chế bản ebook: Thảo Đoàn
Ngày thực hiện: 30/03/2012
Making Ebook Project #240 - www.BookaholicClub.com
Bạn đang đọc ebook NHỮNG KẺ VĂN MINH của tác giả Claude Farrère do Bookaholic Club chế bản theo Dự án chế bản Ebook (Making Ebook Project).
Mong rằng ebook này sẽ mang đến cho bạn một tác phẩm Văn học hay, giàu giá trị biểu cảm và nhân văn, với chất lượng cao. Chúng tôi luôn cố gắng mang đến những chế bản ebook tốt nhất, nếu trong quá trình chế bản có lỗi sai sót nào mong bạn góp ý và cho chúng tôi biết những ebook mà đang mong muốn.
Making Ebook Project của Bookaholic Club là một hoạt động phi lợi nhuận, nhằm mục đích mang đến những chế bản ebook hay, có giá trị với chất lượng tốt nhất mà chúng tôi có thể với Cộng đồng đọc - người Việt. Tuy nhiên, nếu bạn có khả năng xin hãy đọc tác phẩm này bằng sách trước hết vì lợi ích cho Nhà xuất bản, bản quyền tác giả và góp phần phát triển xây dựng nền Văn hóa đọc.
Hãy chỉ đọc chế bản này trong điều kiện bạn không thể tìm đến ấn phẩm sách.
MỤC LỤC
GIỚI THIỆU TÁC GIẢ 1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36
GIỚI THIỆU TÁC GIẢ
Claude Farrère, bút danh của Frédéric - Charles Bargone (1876 - 1957), là một tiểu thuyết gia người Pháp với những tác phẩm có bối cảnh ngoài nước Pháp như Istanbul, Sài Gòn và Nagasaki.
Một trong những tác phẩm của ông là Những kẻ văn minh (Les civilisés) đã đoạt giải Goncourt năm 1905. Ngày 26 tháng 3 năm 1935, ông được bầu vào Viện Hàn Lâm Pháp.
Ban đầu giống như cha mình, một đại tá bộ binh từng hoạt động tại các thuộc địa của Pháp, ông gia nhập học viện hải quân năm 1894, thăng chức trung úy vào năm 1906 và đại úy năm 1918. Vào năm 1919, ông từ chức để tập trung vào nghiệp viết văn.
Các tác phẩm của ông phần lớn không được chú ý, kể cả với độc giả Pháp. Tuy nhiên ông vẫn là một trong những tác giả lớn của nền văn học Đông Dương tại Pháp cùng với các tên tuổi như Malraux, Duras, Dorgelès, Viollis..
Cuốn sách này được xuất bản trong khuôn khổ của chương trình hợp tác xuất bản với sự giúp đỡ của Cơ quan Văn hóa và Hợp tác của Đại sứ quán Pháp tại nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam
“Cet ouvrage, publié dans le cadre du programme de participation à la publiction, bénéficie du soutien du Service Culturel et de Coopération de l’Ambassade de France en République Socialiste du Vietnam”
Dịch từ nguyên bản tiếng Pháp: “Les Civilisés” Nhà xuất bản Flammation – 1905
1
Trong khoảnh sân trồng những cây phượng lớn rùm ròa tỏa bóng, quãng giữa ngôi nhà và cổng của chấn song, hai anh phu Bắc Kỳ đưa xe ra, một chiếc xe kéo rất lịch sự, sơn then và ánh bạc. Họ xếp hàng dọc giữa hai càng xe đứng đợi ông chủ, lặng phắc như hai bức tượng quấn lụa. Xe và người làm thành một cỗ nom đỏm dáng, đẹp như tranh vẽ là đằng khác giữa Sài Gòn, nơi chỉ dân thường mới còn đi xe kéo. Nhưng bác sĩ Raymond Mévil vốn tính khá độc đáo, vả chăng anh ta có một chiếc xe ngựa mui trần và nhiều ngựa chạy hay. Thế nên mọi người bỏ qua cho anh ta cái thói ngông đi xe kéo và vi phạm mốt thời thượng – một cách xa hoa.
Lúc ấy bốn giờ chiều, giờ tỉnh giấc ngủ trưa. Bác sĩ không tiếp khách muộn hơn giờ này – cách thức kín đáo, ở cái xứ mà đường phố vắng vẻ cho đến lúc mặt trời lặn. Hôm ấy Raymond Mévil đi ra sớm, không phải cho cuộc đi dạo thường lệ trước bữa ăn tối, mà cho một vài thăm viếng không hẳn trong nghề nghiệp mà vả chăng anh ta cũng làm khá thưa thớt, vì chiến thuật của anh ta là ít khi xuất hiện.
Một cô “người ở”[1] búi tóc trơn mở cửa, ném vài câu bông đùa với hai anh phu xe, bất thình lình đứng lặng phắc, vẻ gái nhà lành: ông chủ vừa xuất hiện. Anh ta bước xuống bậc thềm, bước chân trẻ nhưng đã chậm, đưa ngón tay vuốt bầu vú cô gái qua lần áo lụa đen, và bước lên xe. Chiếc xe nhỏ bắt đầu lao nhanh, đám phu xe chạy vun vút để gió mạnh thổi mát mặt người phương Tây. Ở các cửa sổ, qua những khe cánh cửa chớp, những ánh mắt phụ nữ ngắm nhìn các bộ chế phục phu xe trắng toát viền vải điều, ngắm nhìn vẻ duyên dáng của vị khách, nom còn quyến rũ hơn cả cái vẻ xa hoa bao bọc anh ta. Bác sĩ Mévil được phụ nữ yêu, trước hết vì anh ta yêu thích phụ nữ, và chỉ yêu thích họ, thứ đến vì anh ta đẹp, một vẻ đẹp khiến tất cả họ đều bối rối, một vẻ đẹp khêu gợi ẻo lả tới mức sỗ sàng. Anh ta trắng trẻo, tóc màu hung, với cặp mắt xanh biếc quá dài, và cái miệng bé đỏ mọng. Mặc dù đã ngoài ba mươi, anh có vẻ thanh niên, và dáng người béo tốt như người ta hình dung anh. Bộ râu mép dài màu sáng, nom anh như một người Gaulois suy tàn, mà các thế kỷ đã làm cho tinh tế và thuần thục.
Cái giống nhau chỉ là tình cờ, Mévil khoe mình là dân khá văn minh mà mọi thứ máu của mọi thứ nguồn gốc đều trộn lẫn vào nhau trong huyết quản.
Chiếc xe tay chạy lon ton giữa các bóng cây ven đường, né tránh mặt trời xiên khoai vẫn hừng hực. Người chủ dùng đầu ba toong chỉ đường cho phu xe. Để dừng lại, anh ta thúc gậy vào vai họ, bảo: “Thôi!”. Xe đi vào một khu vườn có biệt thự. Dọc hàng rào, nhiều chiếc xe đang đợi, với những người phu giữ ngựa An Nam thấp tè nắm chặt hàm thiếc ngựa.
- À, ừ, Mévil nghĩ, hôm nay là ngày con bé tiếp khách, thế mà mình không nhớ ra.
Anh ta ngần ngừ giây lát rồi nhún vai, tìm trong túi chiếc ví đựng danh thiếp soát lại trong ấy – có mấy tờ bạc Đông Dương. Tiếp đó, Raymond Mévil quẳng chiếc ba toong cho một anh bồi vừa chạy ra, và đi vào nhà.
Ngôi nhà cũ kỹ rộng thênh, có dáng trăm phần trăm thuộc địa.
Hai phòng đợi dẫn tới chiếc phòng khách được xếp dồn ở cái chái tốt nhất, kéo dài bằng cả một hàng hiên rủ những bức mành mành tranh tối tranh sáng. Mọi cái đều to lớn thênh thang, cao như nhà thờ; các bức vách ngăn không chạm được tới trần, hơi nóng quẩn dưới rầm. Phía bên dưới không khí mát mẻ, các đồ đạc đều bằng gỗ mun chạm xà cừ, phảng phất tỏa một mùi bản xứ.
Trong tiền sảnh, Raymond Mévil vấp phải một người nào đi ra, một nhân vật trịnh trọng mặt mày nhẵn nhụi, da màu vàng chanh, cử chỉ nặng nề - ông chủ nhà này, Ariette, trạng sư ở Tòa Án. Hai người bắt tay nhau rất thân mật; gương mặt buồn tẻ của ông trạng sư thậm chí còn vặn vẹo thành một nụ cười niềm nở chắc hẳn không thường dùng để chào đón tất cả mọi vị khách.
- Nhà tôi có nhà, ông nói, và rất cảm ơn ông có nhã ý đến thăm. Đã khá lâu rồi tôi không có hân hạnh gặp ông tại nhà này.
- Xin ông bạn thân mến tin rằng chỉ là do tính tôi lười biếng, và ngôi nhà của ông đối với tôi là thân thiết nhất ở Sài Gòn.
Viên trạng sư tỏ ý hân hoan, dường như có vẻ cất được mối lo lắng.
- Tạm biệt ông nhé, ông bác sĩ. Ông biết là Tòa án đang gọi tôi, như mọi khi.
- Vụ kiện thú vị chứ?
- Ly dị thôi, dĩ nhiên. Chúng ta sống một thời điểm hết sức tồi tệ.
Ông ta bỏ đi, cặp ôm trong tay, bước chân khô khốc như người máy, dáng vẻ khắc khổ và nghiêm nghị. Raymond Mévil quay nhìn sau lưng ông ta, nhăn mặt cười mỉm.
Trong phòng khách, tám hoặc mười người phụ nữ đang ba hoa trò chuyện, vẻ vừa diêm dúa vừa chểnh mảng trong những chiếc áo dài kiểu Sài Gòn nom như những áo choàng sang trọng. Từ ngưỡng cửa, Mévil nhìn nhanh tất cả khắp lượt, rồi ung dung bước vào giữa đám để chào trước hết bà chủ nhà, một bà tóc nâu duyên dáng mắt trinh khiết, bà ta chìa tay cho anh ta hôn.
- Xin chào vị Đại học Y. Ngọn gió lành nào đưa ông đến đây vậy?
- Hôm nay, - người thầy thuốc đáp, - đơn giản là Đại học Y tới tỏ lòng kính trọng dưới chân đoàn Luật sư.
Anh ta cúi mình trước từng bà khách, nói những lời tình tứ bạo phổi, rồi ngồi xuống. Anh là trung tâm mọi ánh mắt nhìn. Đám phụ nữ tỏ ra ưa thích anh, và cái danh tiếng Don Juan[2]của anh thế là được xác lập.
Anh không hề bối rối và gẫu chuyện. Anh không thiếu dí dỏm và biết cách chứng tỏ là người được phụ nữ ưa thích. Vốn bản tính phù phiếm, anh chú tâm để tỏ ra càng phù phiếm hơn nữa, và sử dụng cái thói phù phiếm ấy như một vũ khí trong các trò quyến rũ tình ái; người ta thông cảm với anh
về thói lông bông hám gái và dễ dàng thổ lộ tâm tình với anh mà không hề đắn đo tự ái.
- À này, bà Ariette chợt nói, tôi đang định cho người sang mời ông đấy, ông thầy lang ạ.
- Bà ốm hả?
- Không, nhưng tôi nóng bức quá chừng. Cái tháng chạp mới tệ hại làm sao! Thế nhưng lại không thể đi ra đồng quê, thời buổi đang loạn lạc cả lên. Vậy ông phải giúp tôi đấy, bằng cách gì mặc.
- Dễ như bỡn.
- Thuốc viên hả? Nhưng tôi không còn đơn thuốc.
Anh ta đứng dậy rút ví ra.
- Thế nào, bác sĩ, một bà nào nói, ông chỉ huy được nhiệt kế hả? - Tất nhiên rồi, tôi viết đơn thuốc trên mặt sau danh thiếp, vậy thôi.
Anh ta cúi tựa trên chiếc bàn tròn trong góc, hí hoáy viết. Viết xong anh để lại tấm danh thiếp và quay lại.
- Đây… Bà phải uống trong mười lăm ngày – mười lăm ngày cứ như là ở Bắc cực vậy nếu bà thích.
- Ồ bác sĩ, một phụ nữ trẻ nói, cho tôi cái đơn với, lạy ơn Chúa!...
- Ơn Chúa cũng không đủ, Raymond đối đáp giọng giễu cợt. Bà hãy đến phòng khám của tôi, và mọi việc sẽ ổn thỏa thôi.
Anh ta không ngồi lại, bỏ đi, để lại nụ cười mỉm cho cả đám phụ nữ. Phút sau một bà tò mò đến nhìn đơn thuốc đặt trên bàn.
- A! bà ta nói, ông Mévil đã bỏ quên ví ở trên bàn.
- Ông Mévil bao giờ cũng bỏ quên cái gì đấy, bà Ariette lẩm bẩm và mỉm cười thản nhiên.
Raymond Mévil cũng mỉm cười khi trèo lên xe tay. Thấy bác phu xe quay nhìn, anh bảo ““Cạp tên”[3] Malais” và ngửa người trên nệm bọc da. Chiếc xe bắt đầu chạy.
Cạp tên Mais ở trong ngôi nhà sang trọng nhất Sài Gòn, ở góc đường Norodom và MacMahon, đối diện dinh toàn quyền. Ông ta là một nhà tài chính, - cái từ Cạp tên, trong tiếng bồi trọ trẹ của người An Nam chỉ có nghĩa nhà quý tộc và chẳng liên quan gì đến võ biền; - một nhà tài chính có thế lực bởi khoản tài sản hàng triệu và bởi cách dùng những bạc triệu ấy. Giám đốc ba ngân hàng, thành viên của tất cả mọi hội đồng quản trị và chủ thầu nhiều khoản thuế, ông ta là một quyền lực mà ai nấy phải tính đến. Ngoài ra, một con người thành đạt kiểu Mỹ, không dựa vào gia thế, mà tự tay làm nên – và là chồng một phụ nữ đẹp vốn chẳng phải kiều dân thuộc địa.
Raymond Mévil thấy bà này hợp ý mình và tìm mọi cơ hội đến gần.
Bà Malais ngồi đọc dưới hàng hiên, ông chồng ngồi cạnh. Hàng hiên là một phòng khách kiểu Louis XV tao nhã, màu xanh, với những bao lơn cẩm thạch trắng chạm trổ tỉ mỉ. Vẻ đẹp tinh tế của người phụ nữ trẻ, một vẻ đẹp quý phái với mái tóc hung và gương mặt tư lự, rực rỡ lên trong cái khung cảnh rất phù hợp với nàng.
Một anh hầu buồng người châu Âu – kiểu xa xỉ hiếm có ở Sài Gòn – cầm vào tấm danh thiếp của Mévil.
- Em gọi bác sĩ đến hả? Nhà tài chính hỏi.
Bà Malais đặt cuốn sách xuống, lắc đầu.
- Thế thì, ông chồng nói, anh ta đến để tán tỉnh em đấy. Để mặc cho hắn nói, em ạ; nhưng chớ có nhận thuốc của hắn…
Bà vợ đỏ ửng mặt. Da dẻ bà quá mịn màng, ửng đỏ lên mỗi khi xúc động dù nhỏ nhặt.
- Anh Henri, nàng nói, sao anh lại nghĩ thế?
Ông ta đặt chiếc hôn tin cậy lên trán vợ.
- Anh nghĩ… rằng em là một cô bé tuyệt vời đáng yêu… Thôi anh đi đây. – Chuyện thuế má mà. Em hãy ngồi với cái gã của em, và tống cổ hắn nếu hắn làm em bực mình. Dù sao cũng chẳng phải lỗi tại hắn, cái thằng đáng thương ấy, nếu hắn nhầm địa chỉ. Một người phụ nữ như em giữa đất Sài Gòn này, thật nghịch thường biết bao!
Ông ta giáp mặt Mévil trong cầu thang.
- Chào bác sĩ, ông nói bằng giọng ngắn ngủn thông thường, rất khác với cái giọng dịu dàng vừa rồi dùng vuốt ve vợ. Ông lên đi, nhà tôi đang đợi ông trên ấy. Thế nhưng, chớ có đùa đấy nhá! Tôi không muốn một viên cocain khỉ gió nào của ông lọt vào nhà tôi. Nhớ chứ?
Mévil phẩy tay phản đối.
- Vâng, thế là thỏa thuận nhé. Không một mi-li-gam nhỏ. Nhà tôi chưa phải loạn trí, và nếu như ông đồng ý, hãy cứ giữ cho bà ấy như thế. Chào ông, rất vui được gặp ông.
Ông ta bỏ đi, bước chân xoải dài nện cồm cộp trên các bậc đá hoa cương – ông đi không hề ngoái lại.
2
- Đến nhà Cạp tên Torral, lúc đi ra Mévil làu bàu bảo phu xe.
Cuộc thăm viếng diễn ra ngắn ngủi. Anh ta vừa vấp phải một người phụ nữ có thái độ tự vệ, đối đáp nhát gừng.
Cau có trong giây lát – các nếp nhăn chạy trên da mặt nhanh hơn ngọn gió gợn lăn tăn trên biển – anh ta ngồi thụt vào trong xe vừa kép sụp vành mũ bần che mắt. Nhưng có chiếc xe ngựa chạy qua, anh liền đứng lên để chào hai người phụ nữ ngồi trong xe. Và nhãng quên ngay nỗi thất vọng, anh lẩm bẩm một mình: Người ta đã đi dạo rồi đây, khéo mà mình không gặp Torral.
Torral là người đàn ông duy nhất anh giao du không ẩn ý hoặc tính toán: Torral không vợ, và khỏe mạnh – hai lý do để không hấp dẫn một viên thầy thuốc vốn ưa thích phụ nữ.
Ấy vậy mà, mặc dù mối tương phản sâu sắc giữa lối sống và sở thích của hai người, họ vun trồng với nhau một thứ tình bạn nào đấy.
Điều này khiến mọi người lấy làm lạ, Georges Torral dường như chẳng thích hợp để làm một người bạn thiết. Đó là một kỹ sư, một nhà toán học nhiễm đầy lô gích và chính xác – một con người kiên quyết, tàn nhẫn và khô khan, thích phô trương thói vị kỷ. Đám phụ nữ ghét cái đầu quá to của anh, cái thân hình cục mịch và vẻ mỉa mai ác độc trong cặp mắt long sòng sọc, đám đàn ông ghen tị với trí thông minh sáng láng và thái độ kẻ cả đầy vẻ xúc phạm của kiến thức và tài năng của anh. Bản thân anh ta nhất loạt khinh miệt phụ nữ cũng như nam giới, không hề giấu giếm sự thù ghét và khinh miệt. Rất độc lập trong nghề nghiệp, vì là cần thiết ở khắp nơi khi anh đi qua, anh ta sống cách biệt với mọi, vì kiêu căng, và ngụ cư xa khu phố tây, trong một phường phía nam Sài Gòn vốn là nơi đám phu phen bản xứ và gái nhà thổ ở. Các phu xe của Mévil, vốn lịch sự và không giao du với bọn bình dân, bao giờ cũng biểu lộ vẻ kinh tởm kín đáo trong lúc chạy
giữa những con đường bất hảo kia. Thế nhưng thực ra đó là những đường sạch sẽ, có trồng cây, như tất cả mọi đường phố Sài Gòn, và chẳng có gì làm chướng mắt cả.
Lúc này, hơi nóng ban ngày đã dịu bớt, và Torral, mi mắt nặng trĩu sau giấc ngủ trưa quá kéo dài, hoàn thành quấy quá một bài tính ở bảng đen. Anh làm việc trong một tiệm hút. Vì anh vốn nghiền a phiến, chừng mực thôi, như anh làm tất cả mọi việc, tự khoe mình là một con người cân đối hài hòa và điềm tĩnh.
Bức tường phía cuối ốp đá đen, trên đó những dãy dài phương trình bằng phấn trắng ghi xiên xẹo. Đứng thẳng, và cố rướn thân hình lên để viết cao hơn, viên kỹ sư ngoáy như điên, gộp tích phân, tính vi phân, đơn giản hóa, rồi chạy sang đầu mút bảng ghi kết quả bằng dấu ngoặc ôm. Cuối cùng, anh vung rộng tay xóa bảng, ném viên phấn, ngồi xuống chiếc ghế xếp cách bức từng vài ba bước, và vừa hút thuốc vừa ngắm nhìn cách giải.
Mévil bước vào, đi sau một chú bồi An Nam khoảng mười hai tuổi bước núng nính như phụ nữ.
- Cậu làm việc hả.
- Mình xong rồi, Torral đáp.
Hai người không cất tiếng chào cũng không bắt tay; kiểu biểu lộ này không nằm trong nghi thức tình bạn của họ.
- Có gì mới không? Viên kỹ sư xoay người trên ghế, hỏi.
Chiếc ghế xếp này là chỗ ngồi duy nhất trong phòng. Nhưng trên nền đất có rất nhiều chiếc chiếu Cao Miên và nệm rơm. Mévil nằm dài cạnh cây đèn dầu lạc.
- Cậu Fierce đêm nay về đến đây, anh nói. Cậu ấy điện cho tớ từ Vũng Tàu.
- Tốt, viên kỹ sư nói, chúng mình sẽ đón tiếp. Cậu đã chuẩn bị cái gì chưa?
- Có, Mévil nói. Chúng mình sẽ ăn tối ở câu lạc bộ, nên tớ đến mời cậu. Chỉ ba đứa chúng mình thôi, tất nhiên.
- Thế thì tuyệt… Làm một điếu chứ.
- Chịu thôi. Nhất là dạo này mình thấy chẳng ổn chút nào. - Thế hả? Torral giễu. Các cô bạn cậu sau đó phàn nàn cậu hả?
Một đặc tính tai hại của thuốc phiện như mọi người đều biết là làm nguội lạnh chuyện làm tình.
- Quả là họ có phàn nàn, viên bác sĩ trẻ đẹp nói giọng trầm ngâm. Và điều đáng buồn nhất là họ không sai. Chán mớ đời! Tớ đã ba mươi tuổi.
- Tớ cũng thế, Torral nói.
Viên bác sĩ đưa mắt thử nhìn bạn, rồi nhún vai.
- Chuyện này nó ít lộ trên da thịt, mà in dấu vào xương tủy cơ, anh ta kết luận. Ai mà chẳng già cỗi đi. Mà thôi kệ. Đời vẫn đáng sống.
- Vả chăng, các bà mẹ không hề hỏi chúng mình trước khi đẻ chúng mình ra… À này, cậu Fierce sao lại về đây nhỉ? Đã đến thời hạn đâu.
- Tuần dương hạm cậu ấy đến từ Nhật, chả ai biết tại sao, hiển nhiên là Fierce chẳng biết rõ gì hơn chúng ta, và cái lão đô đốc của hắn lại càng mù tịt.
- Quả là tột độ văn minh khi không biết mình đi đâu mà cũng chẳng cần quan tâm. Với điều kiện là không phải lao vào đánh nhau, bởi như thế thì kỳ cục quá – tớ cũng sẽ chấp nhận làm sĩ quan hải quân… mặc dù cái danh hiệu sĩ quan nghe ngốc nghếch thế nào ấy.
- Fierce theo nghề thủy thủ cũng như nghề khác thôi.
- Không đâu, viên kỹ sư nói. Hắn theo nghề thủy thủ là do di truyền. Trong đám cụ kỵ của hắn có hàng đống kẻ mang gươm và đeo ống kính viễn vọng, và điều này có ảnh hưởng đến hắn. Hắn chỉ càng đáng khen là không biến thành kẻ mọi rợ, cũng không hề khoác áo tu sĩ.
- Hẳn cái điều cậu vừa kể làm vui lòng bà mẹ hắn vừa qua đời đấy. Nghe đồn bà ta không hề đoán ra bố hắn là ai.
Bà ta có nhiều bạn trai cùng lúc hả?
- Bà ấy ngủ với tất cả thiên hạ.
- Một người đàn bà kiểu cậu ưa thích.
- Điều ấy làm bà ta khoái – mà tớ cũng khoái.
Hai người chia tay nhau. Torral quay về với bức tường ốp đá đen và ngắm nghía công thức đại số của mình như một họa sĩ ngắm nghía bức tranh vừa vẽ.
Mặt trời lặn ở chân trời, rơi thẳng xuống rất nhanh; ở Sài Gòn không có hoàng hôn. Mévil tính chẳng còn thời gian dạo mát liền bảo cho xe chạy ra phía sông, để gặp ở chỗ bến cảng các xe ngựa từ khu “Thanh tra” trở về. Hai phu xe chạy nước kiệu ven bờ con sông đào chen chúc thuyền bè rồi đi thong thả bước một dọc sông Đồng Nai. Chỗ bến tàu thủy dỡ hàng lên bờ còn đám cu ly phủ bạt lên các đống hòm và thùng tô nô nghe bốc lên mùi của hải cảng, bụi bặm, ngũ cốc và hắc ín; nhưng cái mùi vị Sài Gòn, hoa và đất ẩm vẫn bao vây chặt cái mùi giả tạo kia, thế nên thành phố, tận tới cái khu làm ăn rộn rịch này, vẫn in dậm dấu ấn của thành phố ăn chơi khoái lạc. Mặt trời xế nhuốm đỏ dòng sông. Cảnh chiều hôm đượm vẻ uể oải tình tứ và đẹp đẽ.
Mévil đang mải nhìn đoàn xe ngựa mui trần đẩy những phụ nữ xinh đẹp tươi cười, không nom thấy phía sau, về mạn hạ lưu, một chiếc tàu chiến lớn đi vào cảng, chiếc vỏ tàu dài và hẹp như lưỡi kiếm, bốn ống khói khổng lồ
phun khói đen như mực. Cái ấy trườn trên nước không gợn sóng, nó che lấp tia nắng chiều, khiến nom như một tấm ri đô đen mắc lên chân trời đỏ chói. Cái bến cảng dài, các gốc cây đầy hoa, các cỗ xe ngựa lộc cộc và các bộ váy áo rực rỡ bỗng dưng thôi lấp lánh.
3
Tại câu lạc bộ, bữa ăn tối đang kết thúc.
Bữa ăn của họ đặt ở đầu hàng hiên, giữa hai cây cột, và người ta đã cuốn mành mành cho hơi đêm lọt vào. Dưới các chùm đèn điện, đồ pha lê ánh lên màu ngũ sắc, lại có một lối đi đầy hoa phong lan và bông bụt. Những tấm quạt kéo chuyển động không khí trên đầu đám khách ăn; khí trời khá mát mẻ, và mặc dù, qua các cửa ra vào mở toang, thấy phòng ăn đầy ắp người ồn ĩ, ở chỗ góc hàng hiên này, có cảm giác thích thú nửa hiu quạnh nửa như tĩnh tâm.
Bữa ăn sắp xong. Các anh bồi An Nam, cử chỉ êm nhẹ, mang tới những giỏ mây các trái cây châu Á mà phương Tây không hề biết: những quả chuối lốm đốm như da báo, quả xoài màu hung như của Vernise, quả chôm chôm ánh màu bạc, quả măng cụt trắng tuyết đượm vị mật ong, và quả hồng đỏ mọng như máu.
Họ hầu như không nói trong khi ăn: cả ba đều không hay chuyện. Nhưng lúc này, rượu bắt đầu ngấm nơi đầu lưỡi, thế rồi Fierce kể về chuyến đi của mình. Hai anh bạn kia vừa nhìn vừa lắng nghe, với vẻ hiếu kỳ đối với kẻ đến từ xa và vắng mặt thời gian lâu.
Anh ta nói từng câu nhát gừng, thường hay ngừng lại nghĩ ngợi. Kiểu suy tư dường như là thói quen tiêu khiển của anh. Anh khá trẻ - hăm lăm hăm sáu tuổi – nhưng nom có vẻ trang nghiêm chua chát hơn nhiều ông già. Thế nhưng anh có cặp mắt đen tuyệt đẹp, khuôn mặt khá đều đặn, mái tóc mịn, nước da nâu sẫm, hàm răng đều đặn, vóc dáng cao ráo cân xứng, bàn tay dài, trán dô, cổ tay thanh mảnh, đủ tất cả mọi cái để làm thành một con người không có gì hằn học với cuộc đời. Thế nhưng anh có đấy. Anh là một thằng bạn kỳ quặc, đầy mâu thuẫn; người ta thấy anh trong cùng một lúc nghiêm chỉnh, hời hợt, diễu cợt, cau có, ngoan cố, buồn rầu, uể oải, kiên quyết, hay đổi ý – thế nhưng lại chân thật trong mỗi lời anh nói và không bao giờ thèm dối trá. Hai cậu bạn bỏ qua cho anh cái tính khí sặc sỡ, thường
là đen tối hơn là xám nhờ nhờ, vì rằng ngoài những trò lầm lỡ, Fierce vẫn có một đầu óc minh mẫn. Lý trí sống thoải mái trong bộ não của anh sạch sẽ rạch ròi, được quét sạch mọi thứ bụi bặm do di truyền; các thành kiến và ước lệ không hề dựng thành trì trong ấy, và cái lô gích dữ dằn nhất luôn tìm thấy trong đó một con đường đi thân thuộc, kéo dài nghiệt ngã tới vô tận.
Anh ta kết luận:
- Thế đấy, vì sao bọn tớ một lần nữa đã đánh đổi cái mùa đông nơi ấy lấy cái mùa hè ở đây. Xê xích nhau ba mươi độ. Tớ biết có những người phụ nữ sẽ chết vì cái trò phiêu lưu này.
- Những phụ nữ nào? Mévil hỏi.
- Những phụ nữ si tình và bị bỏ rơi, lúc này ở nơi ấy khóc ròng tiếc các trò hôn hít đã tiêu tan của chúng tớ. Buồn thật đấy.
- Cậu có một mousmé[4]ở Nagasaki hả?
- Tớ có tất cả các mousmé của Marouyama. Khi Marouyama, nói rõ cho cậu nào chưa biết, là cái xóm yên hoa của Nagasaki. Đó là một khu phố đứng đắn và đoan trang, như tất thảy mọi sự vật. Nhật Bản là vậy, nơi nhiều cô gái ăn mặc đỏm dáng đứng sau bức dậu tre mỉm cười với khách qua đường. Người ta có thể nhìn và sờ mó: mắt nhìn chẳng tốn kém gì, và sờ mó cũng không có gì đáng kể. Mọi chuyện đều ít tốn kém, mát mẻ và hầu dễ chịu.
- Cái nước Nhật chẳng thay đổi gì sất.
- Có chứ, rất nhiều, Fierce đáp. Phong tục, quần áo, cả thiên nhiên nữa, đều bắt chước theo mốt phương Tây. Nhưng giống nòi không hề chịu sự tạp giao, và bộ não Nhật vẫn còn giữ nguyên vẹn. Cái cơ chế cân não vẫn hoạt động y như cũ, và những ý tưởng mới nẩy sinh từ đó vẫn giữ nguyên hình dáng cái ý tưởng xưa cũ. Người Nhật Bản nghiệm thấy rằng nghề mại dâm của họ không giống như kiểu mại dâm châu Âu; nhưng họ chẳng quan tâm làm theo cho giống, vì phụ nữ của họ duy trì và sẽ còn duy trì lâu dài kiểu e
lệ riêng của giống nòi họ, và chối từ hợp lý cái cung cách giấu sau những cánh cửa con kín mít điều họ vẫn cho là hợp pháp và đáng tôn kính. Phải nói là họ nghĩ đúng.
- Tất nhiên, Torral tỏ ý đồng tình.
- Vậy nên tớ đã sắp đặt nếp sống của tớ theo những khả năng của địa phương, dĩ nhiên là không hào hứng, nhưng dù sao, lúc phải bỏ đi, kiểu đột ngột, hùng bạo – như bao giờ bỏ đi cũng vậy – điều này khiến tớ trái ý và gần như sầu não.
- Nhạy cảm quá đấy, Mévil nói.
- Quá trẻ, Torral nói.
- Vâng, Fierce công nhận. Tớ vốn mắc cái thói tật này. Tớ chẳng ưa những cuộc ra đi: cứ như bị rứt da rứt thịt tí chút vậy. Mà thôi! chúng ta đang ở Sài Gòn, vậy thì cứ sống trên đất Sài Gòn.
- Ở đây chẳng có chốn yên hoa kiểu Nhật đâu nhá, Mévil nói. Cậu phải có một cô nhân tình, đó là thú tiêu khiển duy nhất vào những giờ nghỉ trưa. Nếu cậu có thời gian, thì có thể tha hồ chọn nhưng với một khách du lịch thoắt đi như cậu, thế giới là một cái nhà thổ quá bừa bộn, khéo mà chờ đợi chọn lựa mấy vẫn không vừa ý. Cũng còn có bọn gái điếm chuyên nghiệp. Các cô da trắng quá đắt, lại cũng luống tuổi. Tớ chẳng khuyên cậu chuyện này. Trái lại cũng còn một lô xinh xẻo gái An Nam lai Nhật Bản và cả Trung Quốc; tất cả đều còn trẻ và tươi tắn, nếu không phải là xinh đẹp.
- Tớ sẽ cho chọn một cô An Nam, Fierce nói. Tớ đã nghiệm thấy không nên lạm dụng các sản phẩm xuất khẩu. Tớ sẽ chọn một cô An Nam, hoặc nhiều cô. Vả chăng chúng mình sẽ có dịp bàn thêm chuyện này, và tớ sẽ hỏi ý kiến cả hai cậu.
- Tớ thì không có ý kiến đâu nhé. Vấn đề phụ nữ nằm ngoài thẩm quyền của tớ.
- Thật vậy ư! Cậu không còn ở đấy à, tại cái khu phố dễ thương ở đường…?
- Đường Némésis[5] Tớ không sợ nhắc cái tên này, cả khi đang ngồi ở nơi sang trọng tại đây. Némésis, vốn xưa kia gọi là đường Ba mươi, kiểu như tượng trưng vậy. Ừ, thế nhưng tớ đã từ bỏ Satan rồi. Tớ đã nhận được ân huệ của Chúa!
Fierce ngạc nhiên nhìn anh ta. Mévil cười khẽ, mắt xảo trá, như anh ta thường cười với phụ nữ trong khi kể cho họ nghe những chuyện sỗ sàng. Torral giải thích giọng rành rọt:
- Tớ đã xén bớt hệ số ái tình khỏi phương trình của tớ rồi, vì nó cứ mỗi lúc lại làm rối loạn cái hài hòa của phép tính; các số hạng mà nó nhân lên tự dưng phình to quá đỗi, và toàn bộ cuộc sống đâm ra méo mó. Mặt khác, thật khó khăn lạ lùng, ngay cả với con người văn minh hơn cả, khi muốn xén bớt ái tình mà vẫn giữ lại con đàn bà! Đơn giản hơn cả là loại bỏ cả cái này lẫn cái kia. Tớ đã làm như vậy đó.
- Cậu nghiền ma túy hả?
- Không, tớ vẫn hút nhưng dùng thứ khác.
- Loại gì đấy?
- Ôi ông bạn thân yêu, Mévil nói bằng giọng rất dịu dàng, chớ nên thô lỗ mà hỏi vặn vẹo quá ư cặn kẽ. Các vị chắc hiểu rằng chúng ta hiện đang ở cái xứ Sodome[6]chứ?
Fierce, không hề nhíu mày, chọn một điếu xì gà, châm lửa và nhả khói thành từng vòng rất chi là thản nhiên. Thói trụy lạc đáng tởm của Sài Gòn không khiến anh phẫn nộ.
- Cũng là một phương tiện, anh nói. Nhưng tớ không thể nhá mãi cái thứ bánh mì ấy trong một bữa ăn. Thỉnh thoảng như món ăn thêm thì còn được.
- Người ta đều ăn thêm như thế ở đây.
- Tớ thì không đâu, Mévil lầm bầm. Tớ đã thử rồi; cái lý thuyết toán học của Torral đúng đấy; phụ nữ làm vướng víu cuộc sống – vướng víu cuộc sống của tớ, nhưng tớ không thể… tớ không thể không cần đến đàn bà…
Torral đứng dậy. Anh ta nói:
- Cả hai cậu vẫn chưa đạt tới cái điểm đỉnh của đường cong. Các cậu văn minh đấy, nhưng chưa tới mức: chẳng bằng tớ. Chà! được như các cậu cũng đã là khó rồi.
Cả ba cùng đi ra.
4
Một đêm Sài Gòn đầy sao lấp lánh, ấm nóng như một ngày hè phương Tây.
Họ bước đi không nói, theo sau là chiếc xe ngựa của Mévil. Đường phố nom như lối đi dạo trong vườn, do các cây cối giao nhau thành vòm và những bóng điện mắc trong cành lá; lại cũng do vẻ lặng lẽ cô quạnh; vì Sài Gòn, thứ thủ đô hạng xoàng, ban đêm chỉ huyên náo lên ở một số địa điểm khác kín đáo hơn, mà những người lương thiện coi như không hề biết.
Đường Catinat, là cảnh rộn rịp thượng lưu, chững chạc – thế nhưng lại tự do và trâng tráo một cách lạ lùng, vì cái luật lệ tối cao của đất nước và khí hậu vượt lên trên các thứ phong tục du nhập. Dưới ánh sáng sống sượng các cây đèn đường giữa những ngôi nhà có hàng hiên khuất lấp sau cành lá và vườn tược, một đám đông ồn ào sặc sỡ lại qua qua lại, chỉ chăm chắm tìm thú vui. Có đủ dân tứ xứ: dân châu Âu, nhất là Pháp, đi cạnh người bản xứ với vẻ ngạo nghễ đượm khoan dung của kẻ chinh phục; những phụ nữ Pháp bận váy áo chơi đêm, phô cánh vai trần dưới Hoa miền Bắc, to lớn nhẵn nhụi, mặc đồ lụa xanh lục, người Trung Hoa miền Nam, bé nhỏ, vàng nghệ và linh lợi; dân Malabar, tham lam và dịu dàng mơn trớn; dân Xiêm, Cao Miên, Mọi, Lào, Bắc Kỳ; cuối cùng là dân An Nam, đàn ông đàn bà giống hệt nhau đến mức thoạt đầu người ta tưởng lầm và tiếp ngay sau đó vờ như tưởng lầm.
Người ta dạo bước nhàn nhã, trò chuyện cười nói, với vẻ uể oải do nóng bức. Người ta chào và chạm nhẹ vào nhau, và đám phụ nữ chìa những bàn tay xâm xấp như lên cơn sốt. Mùi nước hoa nồng nặc toát từ những chiếc áo lót, các cây quạt giấy trộn lộn các thứ mùi ném vào lỗ mũi mỗi người. Một niềm khoái lạc chung khiến mọi con mắt dương to, và cùng một ý nghĩa khiến mỗi người phụ nữ đỏ mặt và mỉm cười, cái ý nghĩ là dưới lần vải mỏng của bộ smoking trắng, dưới lần lụa phong phanh váy áo màu nhạt, chẳng có gì hết, chẳng có váy, chẳng có áo nịt vú, chẳng có gi lê, chẳng có sơ mi – mọi người trần truồng, ai nấy đều trần truồng.
Torral, Mévil và Fierce đi xuôi dọc đường Catinat, tới ngồi trên sân hiên một tiệm cà phê từ trên đó nhìn xuống đám đông.
Mấy chú bồi lao tới chờ lệnh, tỏ một thái độ trọng vọng quá đáng đượm ranh mãnh.
- “Cầu vồng”, Fierce gọi.
Họ đem tới những chiếc cốc cao uống sâm banh và bảy chai rượu mùi khác nhau. Anh ta rót lần lượt mỗi chai trong từng cốc, anh rót từng giọt một, trước tiên là các thứ đậm đặc nhất, nên chúng không trộn lẫn vào nhau mà xếp thành từng lớp có màu khác nhau, nom như cầu vồng. Rót xong anh nốc liền một hơi, như một bợm rượu. Nhưng Torral bảo người uống sành là phải biết thưởng thức cùng một lúc tất cả mọi nốt của cuộc hòa âm rượu cũng như một nhạc sĩ biết thưởng thức đồng thời tất thảy mọi nhạc cụ một bản công xéc tô. Và anh ta uống như Fierce.
Mévil khoát rộng cánh tay bao trùm đám đông, nói:
- Cái này đây, là Sài Gòn. Fierce, hãy nhìn! Đây là những phụ nữ vàng, xanh lam, đen, xanh lá cây, lại có cả trắng. Cậu tưởng họ giống như đám phụ nữ nhiều màu sắc mà cậu từng gặp khắp mọi nơi trên quả đất tròn hả? Nhầm. Những phụ nữ này khác đám kia vì cái chất ở bên trong họ không giả đạo đức. Mọi bà đều để bán – cũng như ở Châu Âu – nhưng bán lấy tiền, chứ không phải để đổi lấy các thứ tiền tệ phiền phức và giả dối mà người ta gọi là thú vui, vinh quang, danh dự hoặc yêu thương. Ở đây là chợ trời với biểu giá định sẵn. Tất cả những cánh tay trần lóng lánh trong đêm trắng là những chiếc vòng khoái lạc sẵn sàng khép lại quanh cổ cậu: cậu có thể chọn, tớ thì tớ chọn mỗi lần tớ thích. Cả hôm nay nữa, tớ đã đặt cái giá thỏa thuận trên lò sưởi nhà cô nhân tình, và mỗi tháng tớ cứ bỏ quên đều đều ví tiền tại những ngôi nhà tớ thích. Thị trường phụ nữ, một thị trường rất dồi dào hàng hóa và xứng đáng lôi kéo những kẻ mua như chúng ta, những thằng đàn ông không tín ngưỡng, không lương tâm, không định kiến cũng không đạo lý, những tín đồ chân chính của cái tôn giáo nhục dục tuyệt vời, mà Sài Gòn là ngôi đền. Lúc nãy tớ đã ăn nói báng bổ: phụ nữ không hề làm bề bộn cuộc sống; họ bày biện trang hoàng cho cuộc sống khiến nó dễ sống cho những người lương thiện. Nhờ họ mà tớ cớ một căn nhà sang
trọng giường ghế lót nệm thích hợp với thói vị kỷ của tớ; và trong căn nhà này trừ những hôm nhức đầu và những đêm ác mộng, tớ bao giờ cũng ngủ yên giấc hơn là xưa kia nhà văn Montaigne trên chiếc gối hoài nghi của ông ta.
- Không đầy đủ, Torral nói.
Anh cũng vung rộng tay về phía cái đám đông dưới kia đang tiếp tục cuộc dạo chơi lừ đừ uể oải như một điệu nhảy van xơ chậm rãi.
Anh nói dõng dạc:
- Sài Gòn, thủ đô văn minh của thế giới, nhờ ân huệ của khí hậu thuận lợi và do bởi ý chí vô ý thức của tất thảy các chủng tộc đã đến gặp nhau ở nơi này. Fierce, cậu hiểu chứ: mỗi chủng tộc đem tới luật pháp, tôn giáo và thói e lệ của mình – và không có hai cái thói e lệ giống nhau, cũng như không có hai luật pháp, hai tôn giáo giống nhau. Một hôm nào đó các dân tộc đã nhận ra điều đó. Thế rồi họ đã bật lên cười ha hả vào mặt nhau; và tất cả mọi tín ngưỡng đã tan biến trong tiếng cười phá ấy. Sau đó, được giải thoát khỏi mọi kìm hãm hoặc tròng ách, họ bèn bắt đầu sống theo cái công thức thật hay ho: nỗ lực tối thiểu nhằm tối đa hưởng thụ. Nỗi e sợ dư luận không ngăn trở họ, vì mỗi người trong ý nghĩ riêng tự coi cao hơn những kẻ khác, do màu da khác nhau – và sống cứ như thể anh ta vốn từng sống độc có một mình vậy. Chẳng có kẻ nhìn trộm: sự phóng túng lan tràn khắp nơi, kèm theo sự phát triển tự nhiên và lô gích mọi bản năng mà một quy ước xã hội lẽ ra đã có thể ngăn chặn, chuyển hướng hoặc gạt bỏ. Tóm lại, một bước tiến không thể tượng tượng nổi của nền văn minh, và khả năng duy nhất còn những con người nói trên để riêng mình họ trên đời đạt tới hạnh phúc. Họ đã không đạt tới, vì thiếu thông minh. Chúng ta, sống bên lề những con người này, chúng ta sẽ đạt tới, - đang đạt tới. Vấn đề là chỉ làm theo ý muốn của mình, chẳng quan tâm đến bất cứ gì và bất cứ ai, chẳng cần quan tâm đến các trò ảo tưởng tai hại có tên là “thiện”, “ác”. Kẻ này chỉ ưa làm tình với phụ nữ ư? Mặc cho anh ta tự tạo một thiên đường bắp đùi ấm và môi ướt, bất cần chuyện chung thủy hoặc trung thực. Tớ thì đã chọn cho số phận bản thân vẻ huy hoàng của những con số hoàn toàn và những đường siêu việt, có phải không? Thế thì, tớ làm toán học, và cậu bồi thân tín lo giúp tớ chuyện giữ cho thần kinh ổn định để tớ chẳng cần lo nghĩ tới… Phần cậu thì
mình chẳng nghi ngờ gì là như hai đứa tớ, cậu cũng có niềm đam mê chính đáng hoặc ý thích riêng đứng đắn, và mình tin chắc là cậu sẽ đạt tới hạnh phúc tuyệt đối bằng cách lao vào để không ngần ngại.
- Thật là đẹp khi tin chắc một điều gì, Fierce nói.
Họ còn uống tiếp mấy chầu Rainbow nữa rồi kéo nhau đi xem hát.
5
- Cái Sài Gòn – Chức sắc đấy hả, Fierce nhìn các ghế lô trống một nửa, cất tiếng hỏi.
- Sài Gòn – Chức sắc đấy, Mévil đáp. Nhà hát này quá lớn đối với công chúng. Nhưng phải công nhận là khéo phối trí, đỡ nóng nực. Thường thì hầu như vắng khách. Nhưng đêm nay, họ đến dự buổi diễn đầu: một cô ca sĩ mới vào nghề, chắc hẳn hát tồi thôi như tất cả thường như vậy, nhưng cũng nên lịch sự đến xem mặt cô ta, nếu không phải là nghe hát.
Chẳng quan tâm đến màn vừa kéo lên và đến các diễn viên, Mévil ngả lưng trên phô tơi, nói: “Để tớ dẫn giải cho các cậu nghe nhá”, rồi đưa ngón tay chỉ về phía mỗi ghế lô một cách xấc xược, tiếp:
- Lô gần sân khấu phía bên phải, giữa những lá cờ tam tài là quan toàn quyền Đông Dương, - một công dân tầm thường bên mẫu quốc nhưng sang đây là vị quan đặc mệnh của nền Cộng hòa, và là phó vương. Vâng, cái lão già bé nhỏ có cái mõm như mõm cáo đấy. Ngồi cạnh là một ông cụ gương mặt thanh cao kiểu Tour de Nesles, tớ không biết là ai, đáng tiếc.
- Đấy là ông thủy sư đô đốc của tớ đấy, bố của d’Orvillier, Fierce nói.
- Mới đến hả, thế thì rõ. Tiếp tục nhá. Lô gần sân khấu, phía trái, đối diện với đám quan chức chính trị - quân sự là các vị quan chức kinh tế - tài chính, ổn định hơn; cái gã súc sinh đồ sộ, người vuông chằn chặn, có hàm răng chó sói và bàn tay nom khủng khiếp, là lão Malais, chủ thầu lúa gạo, chè và thuốc phiện, kẻ thù riêng của tớ đấy, bốn triệu bạc rủng rẻng chứ ít à, đều là của bớt xớ gian lận. Ngồi cạnh là bà vợ, chúng mình ngồi xa chứ thực ra nom cô ta tóc màu hung, nước da tươi hồng và thân hình mảnh dẻ, thế mà khốn thay, quá đắt với ví tiền của tớ; nếu không thì tớ đã bỏ quên ví tiền lên bàn uống nước dưới hiên cô ta rồi. Cho qua. Các lô trước mặt, nửa quan nửa dân; phía trái, cái mớ gấm lục, thêu lộng lẫy, và cái bàn tay màu
nâu bé xíu mà người ta đoán bên trong ống áo loe, cô Jeanne Nguyễn Học, con gái một của ông Đốc Phủ Chợ Lớn, một con vật kỳ quặc chẳng rõ bề ngoài ra dáng Âu châu hơn hay thực chất có vẻ dân châu Á hơn. Phía bên phải là ông phó toàn quyền Abel, vị chúa tể đang ngự bảnh chọe giữa cô con gái đầu và bà vợ kế, nom như hai chị em, một xinh đẹp còn người kia xấu xí…
- Cô bé xinh ơi là xinh, Fierce nhận xét: một pho tượng nhân sư trắng muốt với hai con mắt như hai hạt ngọc đen huyền…
- Cô này còn bé quá, còn bà mẹ ghẻ thì hơi thiếu thẩm mỹ. Chả có gì hay. Cậu hãy dạo mắt xa hơn nữa, nếu muốn tìm những vẻ đẹp kinh điển: chiếc áo váy hoa cà và chiếc mũ xám màu ngọc trai, ngồi cạnh cái con người luật pháp màu vàng chanh… Bà Ariette, vợ tay trạng sư xảo quyệt, cô vợ cũng xảo quyệt không kém.
- Cậu Mévil đã được trả tiền để biết điều này, Torral nói mà không quay lại.
- Tớ không được trả tiền, viên bác sĩ cải chính: chính tớ đã trả tiền… và vẫn còn đang trả. Ôi chà! Con quỷ cái này quả là xinh, và tớ thích thú ngắm cái vẻ mặt trinh khiết của cô ta giữa chiếc gối của tớ. Tớ đã nói hồi nãy rồi: ở đây tất cả phụ nữ đều có biểu giá cả đấy. Phải thế không?
Anh ta quay lại nhìn ra phía sân khấu.
Cô ca sĩ mới, chắc khản giọng, vừa ngừng bặt. Xấu hổ và bực bội, cô đứng hai tay buông thõng, bị kẹt giữa vẻ mỉa mai thích chí của các bạn diễn và vẻ chờ đợi giễu cợt của khán giả. Đó là một cô gái đẹp đẫy đà với mái tóc hung và cặp mắt tươi cười.
Có tiếng huýt sáo, tiếng cười rộ. Không, cô ca sĩ không khản tiếng mà chẳng qua cô không có giọng, chẳng có tí giọng nào; cô có cái khác, cánh tay mập tròn và mông nở nang, và chắc hẳn cô ta đến Sài Gòn với hy vọng coi ngần ấy là đủ. Nói thực ra thì Sài Gòn theo thói thường chẳng đòi hỏi gì hơn. Nhưng hôm nay một con mòng âm nhạc đã chích cử tọa, và mọi người vẻ như đòi hỏi cô ta hát cơ.
Vẻ dửng dưng, cô ca sĩ đành cam chịu và đi ngang qua sân khấu kéo lết váy. Đối mặt với khán giả cô dừng bước và hát lại cái câu bất trị. Nhịp lại cao quá, cô bướng bỉnh đổi giọng, bất chấp dàn nhạc; nhưng lại quá thấp. Lại có tiếng huýt sáo. Cô ta ngừng lần nữa, hai tay chống nạnh, rồi vẻ cao đạo phớt đời, bằng giọng nhẹ nhàng len lọt vào mọi lỗ tai thù nghịch, thốt lên: “Cứt” và quay phắt lưng lại.
Mọi người lặng đi, sửng sốt. Nhưng ngay tức thì, một kẻ nào đó vỗ tay cuồng nhiệt và cô ca sĩ, kinh ngạc hơn ai hết, quay nhìn, miệng há hốc. Cô thấy một chàng trai trẻ ăn mặc lịch sự đang vừa nhìn mình đắm đuối vừa bứt chiếc găng tay lụa, thế rồi cô ta vui sướng cúi chào và ném một nụ hôn.
Mévil, bị cái hôn kia quất vào như một nhát roi, rứt mạnh bông hoa trên ve áo ném lên dưới chân cô gái. Rồi cả hai nhìn nhau mỉm cười, cứ như thể đã thỏa thuận ngủ với nhau vậy.
Dù sao, tấn hài kịch hai nhân vật này cũng đáng giá như bất kỳ vở kịch vui nào, và công chúng thấy hay hay bật lên cười rồi vỗ tay. Đám đàn ông mắt sáng lên, thúc khuỷu tay nhau, đám phụ nữ, khinh khỉnh và ghen tị, cũng tung hoa lên cô nhân vật chính để người ta không nhận thấy là mình ghen tị. Âu cũng là một kiểu thành công trên sân khấu mà hai kẻ si tình có thể cùng nhau chia sẻ.
Trong lúc đó, Mévil cất tiếng hỏi:
- Cô này là ai vậy? Tên gì?
Một khán giả vội trả lời, vẻ vinh được dự phần vào câu chuyện:
- Cô ta tên là Hélène Liseron, thưa ông. Ông có muốn tôi chuyển cho ông chương trình không ạ?
Liseron, Fierce nói. Thế thì tôi có biết. Năm ngoái, cô ta là nhân tình một anh bạn tôi ở Constantinopla, và khi có tin anh ấy chết trong cái vụ mưu sát nổi tiếng rùm beng ở Bungari thì cô ta không ngần ngừ tự bắn ba phát súng lục vào ngực, may sao không viên nào trúng. Người ta chăm sóc
hai anh chị nằm cạnh nhau trong bệnh viện, và cả hai yêu nhau tha thiết tới mức người ta tiên đoán cặp này sẽ cưới nhau; các cô y tá thì cảm kích đến rơi nước mắt. Ba tuần sau hai anh chị mỗi người đi một nẻo, giận nhau đến chết, mà cũng chẳng ai rõ vì sao.
- Hay tuyệt, Torral nói.
Chẳng để tai, Mévil ngoáy bút trên một tấm danh thiếp, lẩm nhẩm đọc lại:
“Bác sĩ Raymond Mévil khẩn thiết mời cô Hélène Liseron tuyệt diệu vui lòng nhận lời đáp xe tôi để về nhà cô bằng con đường dài nhất”.
Anh nói:
- Giờ ta đi thôi. Mình mời các cậu, đặc biệt là Fierce: một đêm đầu tiên ở Sài Gòn, những con người như chúng ta có bao giờ lại ngủ nhỉ. Chúng mình kéo theo cô gái xinh đẹp này và trước hết vào Chợ Lớn, nơi thích hợp với cái kiểu vui chơi mà tớ trù tính. Sau Chợ Lớn thì đi đâu cũng được. Và theo gương những con người đức hạnh nhất, tớ muốn ngày mai chúng ta sẽ nom thấy bình minh.
Mọi người, đứng dậy. Fierce liếc mắt nhìn lại lần cuối các ghế lô – trạng sư Ariette, càng vàng hơn hồi nãy; bà vợ luôn luôn trinh khiết và thản nhiên một cách tuyệt vời sau vụ phụ bạc của anh chàng tình nhân mà mọi người đều rõ; gia đình Abel, vẻ lịch sự dõi trên sân khấu… Cô gái trẻ, nom như nhân sư, ngồi lặng phắc đến mức Fierce chợt nhớ lại bức tượng với cặp mắt đen huyền. Anh bảo Mévil đang sắp đi ra:
- Anh bạn thân mến ạ, cậu thật sai lầm đã coi thường cô bé kia. Cô ta xinh đẹp vượt hẳn các phụ nữ khác trong phòng.
- Con bé Abel hả? Mévil giễu. Cậu không đùa đấy chứ!
Vừa nói anh ta vừa liếc nhìn, vẻ coi thường.
Phải chăng anh ta chưa hề ngắm kỹ cô bé và bỗng kinh ngạc vì một vẻ đẹp hiếm có đập vào mắt? Hoặc giả, đúng hơn, như Mévil về sau giải thích, phải chăng anh bị lóa mắt đến sững sờ vì một ánh điện chợt lóe? Anh chàng như hóa đá. Toàn thân bất động. Bàn tay anh, mà Fierce nắm chặt, rũ xuống không cảm giác. Phải lay mạnh anh ta mới sực tỉnh.
Hai cậu bạn lo lắng nhìn Mévil. Anh cụp mắt ngơ ngác, nhòe lệ nhìn lại họ.
- Ngốc thật, Mévil thốt lên giọng thì thào.
Anh ta đưa tay vuốt trán và đi ra phía cửa không một lời.
Nhưng ra đến ngoài anh nói bằng giọng tự nhiên như không hề có gì xẩy ra.
- Ừ, đúng đấy. Con bé chẳng còn bé bỏng gì nữa. Nó sẽ thành một bà mệnh phụ rất xinh đẹp.
6
Bầy ngựa bản xứ, vóc chỉ bằng con lừa, linh lợi như con sóc, kéo chiếc xe ngựa mui trần chạy như bay. Bác xà ích thúc ngựa vì quãng đường này rộng, vắng vẻ lại sáng điện. Với thái độ khinh mạn đối với dân da trắng, bác ta cũng chẳng quay người trên ghế nhìn họ.
Mấy người này đã đứng chờ khá lâu ở cửa nhà hát, và Mévil, vẫn chưa tỉnh hẳn cơn choáng váng kỳ quặc, dận bước trên vỉa hè như người lên cơn sốt. Thế rồi khi cô ca sĩ đến, vẻ ngập ngừng và tinh nghịch, anh lao tới cô này vẻ háu đói và lôi cô đi như miếng mồi. Cả bốn người cùng trèo lên chiếc xe rất chật, và sau những lời giới thiệu ngắn, không ai nói năng gì nữa.
Mévil như người khát nước, liền chiếm lĩnh ngay lấy cặp môi người phụ nữ. Cô này, không hề đỏng đảnh, chầm bập đáp lại cái hôn. Hai người ôm chặt nhau, răng va vào nhau mỗi lần xe xóc – trong lúc Torral và Fierce, lạnh như tiền, nhìn họ.
Torral châm thuốc, thận trọng để không làm cháy áo ai, vì mọi người ngồi chen chúc. Fierce nom thấy một bàn tay của Hélène Liseron đang buông thõng, đam mê và mềm mại; anh nắm lấy bàn tay ấy vuốt ve và cuối người để áp môi mình lên mu bàn tay rồi buông ra, vẻ tư lự nhìn chăm chăm điếu thuốc của Torral nom như chiếc đèn pha màu đỏ be bé trong đêm.
Chiếc xe ngựa ra khỏi đường phố và đi vào khu vườn, - cái công viên có một không hai ở khắp ba châu lục. Cả bốn người chợt rùng mình: một mùi thơm châu Á, hoa, hạt tiêu, thú dữ và nhựa hương nâu, tràn như cơn thủy triều, nhận chìm mọi người. Không có gió, thế nhưng cành lá tre vẫn rì rào, nghe xào xạc như cái hôn của cặp tình nhân luôn gắn chặt vào nhau. Giữa các bờ bụi, sau những song sắt không nom thấy, những con hổ, báo, voi, tất cả các con thú bị nhốt, ngủ chập chờn trong cũi, khẽ giũ lông lúc cỗ xe đi
qua; có những hơi thở khàn khàn và những đồng tử lóe sáng xanh; mấy chú ngựa cất tiếng hý và phi nhanh hơn.
Tiếp đó đến con kênh bọc quanh công viên và chiếc cầu gạch màu hồng; nước chảy âm ỉ tối đen khiến vòm cầu như thể bắc trên hư vô. Phía ngoài kia là làng mạc bắt đầu, với những túp tranh thấp tè không thể nom thấy trong đêm.
Hélène rời miệng khỏi Raymond để lúng búng vài ba tiếng mà chẳng ai hiểu nói gì. Torral và Fierce giả bộ nhìn ra ngoài một phút, rồi Fierce cúi xuống mồi lửa ở điếu thuốc của Torral, cả hai cứ làm vẻ vô tình như không. Hélène, mà người ta nom thấy cánh tay ôm quanh cổ tình nhân, thân mình giật từng nhịp đều đều chậm rãi, miệng thốt tiếng thở dài thườn thượt và rầm rì… một chiếc xe chạy về phía họ và lướt nhanh đi. Lại tiếp những chiếc khác nữa. Đường rẽ sang trái và nối dài thành lối đi dạo trong vườn, hai bên viền xinh xắn những bãi cỏ và bụi cây. Đây là Sở Thanh tra trồng những cây keo của Sài Gòn, tục ở đây là dạo chơi ban đêm cũng như ban ngày. Nhiều chiếc đèn xe nhấp nhánh, tạo nên một thứ ánh sáng mờ mờ ảo ảo. Các cỗ xe ngựa đi bước một, thành hai hàng; và người ta nhận rõ mặt nhau, nhưng không chào nhau, để giữ vẻ kín đáo.
Rướn người và chống tay, Hélène ngồi thẳng dậy. Cô ta thở phào và phe phẩy tay qua mặt. Fierce lịch sự, đưa tay ra vuốt các nếp váy áo cô ta; trong động tác ấy, anh đụng vào cổ tay cô gái, và cô nắm chặt ngón tay anh như để thư giãn thần kinh đang căng thẳng. Mévil, đầu ngả ngật trong góc nệm gối, vẫn im phắc như cái xác chết.
Lát sau Hélène mới cất tiếng:
- Tệ thật. Bọn người kia đã nom thấy chúng mình.
Cô ta hất cằm chỉ nhưng chiếc xe đi ngược lại.
- Thì cô cũng tự nhìn thử xem, Torral nhún vai đáp.
Trong mỗi xe, có một đàn ông và một đàn bà – hoặc hai đàn bà – và đôi lúc một người đàn ông và một thằng bé trai. Và các cặp, không trừ một ai,
ôm chặt nhau như chưa từng làm trước lúc mặt trời lặn, tự cho phép mình các trò tự do mà bóng đêm chỉ che lấp ba phần tư.
- Cái thành phố mới đẹp làm sao, Hélène Liseron nói. Thật kinh tởm.
Không đúng thế đâu, Fierce nói giọng khinh thị chen khoan dung. Đơn giản là chuyện tự nhiên thôi, lại là gương tốt cho những kẻ đạo đức giả tự cho mình hay cả thẹn. Vả chăng, cô em ạ, cái thành kiến coi chuyện tình yêu và tình dục như điều bí ẩn là một thành kiến sai lầm. Thật tình, thoáng trông thấy cô hồi nãy, tôi hình dung là cô chẳng chia sẻ thành kiến ấy. Tôi và rất nhiều bạn tôi chẳng hề tế nhị quá đáng quanh chuyện này. À mà này, đừng nhìn ra ngoài kia nữa, nếu như cô cảm thấy khó coi, và hãy nghe tôi kể một chuyện cổ tích vốn là chuyện thật: cách đây mấy năm, do tình cờ và do hợp tính tình tôi bắt bạn với một cậu Radolphe Hefner nào đó, vốn là nhà ngoại giao và một con người hoàn hảo. Hồi ấy Hafner có một cô nhân tình xinh đẹp mà anh ta đánh giá cao và thích khoe với tôi. Anh ca ngợi cô ta không biết bao nhiều lần đến mức tôi cũng đâm si cô nàng. Hafner nhận ra điều đó, cứ làm như không biết và chơi khoảnh thằng bạn là tôi một vố điếng người. Một tối hắn mời tôi đến ăn cơm với hắn và cô nhân tình. Thế rồi, sau khi đã chuốc rượu cho hai người say mèm, hắn bỏ sang phòng hút thuốc và bắt đầu chơi dương cầm. Anh ta vốn mê âm nhạc, và tôi biết một khi đã vào cuộc, sấm sét cũng không rút được hắn khỏi ghế. Vậy là hắn chơi nhạc, lại là một bản tình ca nghe lả lướt tuyệt vời, lả lướt đến mức tôi và cô ta không nghe đến hết. Cuộc phiêu lưu này kết thúc trên một chiếc ghế dài bọc nệm Thổ Nhĩ Kỳ khá êm ái, và tôi nghĩ chiếc ghế này đã không được đặt ở đấy chỉ do tình cờ.
- Hẳn là thế, Torral nói. Nhưng cái tay Hafner của cậu là một gã ủng mục thói lịch sự lại nhét nhồi căng cứng trò lý tưởng. Nếu là một dân văn minh thuần túy, hắn chỉ cần nói toẹt ra không hoa hòe hoa sói: Cậu thích cô ấy à, thì đấy. Dạo tớ xây chiếc cầu cạn Sassennage ở Dauphine, có hai thằng bạn mà tới giờ nhớ đến vẫn thương tiếc: chúng chết trong một vụ đất sụt lở. Cả ba chúng tớ có một phụ nữ, một thôi nhé: chúng tớ đã góp tiền đưa cô ta từ Grenoble lên. Cô ta chẳng đáng gì mấy về mặt trí tuệ, Vì thế phải rèn cặp cho cô ấy thôi. Mỗi đêm, một trong ba đứa ngủ với cô ta, luân phiên như vậy. Các buổi tối, bốn chúng tớ cùng ngồi quanh bếp lửa, ở đấy trời lạnh hơn ở đây. Chúng tớ bàn luận về cơ khí và giải tích. Con bé ngồi nghe,
nhưng không được phép mở mồm. Nửa đêm, để đền bù cho cô ta, cậu tình nhân hôm trước mở một cuốn tiểu thuyết tình cảm đọc cô nghe một đoạn. Cũng chẳng lâu la gì lắm đâu, chữ nghĩa nhằng nhịt đã tác động lên cô bé như một liều thuốc kích dục: chưa đọc cho được hai trang cô nàng đã ngồi cưỡi lên người tình – anh tình nhân hôm nay. Mặc dù vậy xin các bạn cứ tin rằng chúng tớ vẫn thản nhiên đọc hết chương truyện. Quỷ quái thật! Tớ chẳng biết tại sao người ta thích thú chế tạo ra những đứa trẻ, lại càng không hiểu tại sao người ta phải giấu giếm khi làm cái việc ấy – hoặc cố làm ra vẻ giấu giếm.
Liseron ngồi thẳng dậy nhìn Torral:
- Các anh đến là tồi tệ, cô nói, rồi âu yếm quay về Raymond – có phải thế không, ông bạn.
Đúng, Mévil thì thào giọng tẻ nhạt - giọng của người đáp lại mà không nghe thấy. Anh ta vẫn ngồi lui ra sau, và người ta không nom thấy rõ mặt. Fierce nheo mắt thử nhìn, nhưng nghe tay kia vẫn thở thoải mái đều đều nên yên tâm.
- Chợ Lớn, Torral lệnh cho bác xà ích.
Cỗ xe đã rời lối dạo trong công viên. Đàn ngựa cất bước chạy nước kiệu. Con đường vòng quanh khoảnh rừng cây, giữa những hàng dậu loáng thoáng. Đột nhiên cái im lặng, vẻ quạnh hiu và bóng tối trùm lên. Xe chạy lát lâu giữa xóm làng đang chìm trong giấc ngủ và từ khu rừng đổ ra một cánh đồng rộng.
Mọi người im lặng khi chỉ còn một mình, tựa hồ như cảm thấy bị bóng đêm của rừng cây bịt miệng. Cánh đồng, mờ mờ tối dưới ánh sao, nom trơ trụi, chẳng có cây cối bờ bụi; thế nhưng cũng chẳng ai buồn trò chuyện giữa cánh đồng này – cánh đồng Tha ma. Ngút tầm mắt, mặt đất tứ phía nổi gồ lên những nấm mộ đều đặn giống hệt nhau và sít vào nhau như những nắm bụi, tất thảy đều cổ xưa kỳ lạ và vô danh, toát ra mùi quên lãng và hư vô. Chẳng có tấm đá, chẳng có bia. Rải rác cách rất xa nhau, một viên gạch vỡ vụn, một viên sỏi phủ rêu. Và mãi mãi tới vô tận, những nấm mộ giống hệt nhau, nhiều vô số và đơn điệu như sóng biển. Vô số người chết ở châu Á có
nơi an nghỉ cuối cùng vĩnh viễn; họ không bị đuổi đi khỏi, dù rằng sau nhiều thế kỷ; không bao giờ những xương cốt cũ nhường chỗ cho xương cốt mới; tất cả đều an nghỉ sát bên nhau và thật dài dằng dặc khi phải đi qua địa phận của họ.
Dọc đường, bác xà ích dừng lại, vì có cây đèn bị tắt. Từ một tiếng đồng hồ, tất cả bọn đều lặng phắc; cánh đồng tha ma đè nặng lên họ như một tấm vải liệm trên xác chết. Torral thoát khỏi trạng thái đờ đẫn, cúi nhìn ra ngoài. Cách một trăm bước, một vật gì xam xám in lên bầu trời đen, một khối xây không hình thù, đơn độc giữa các nấm mộ, bản thân nó cũng là nấm mộ: mộ phần đức giám mục d’Adran[7]. Torral xướng to lên, để có chuyện nói, để có tiếng người phá vỡ cái im lặng không chịu nổi. Nhưng không ai đáp lời và bác xà ích quất roi thúc đàn ngựa. Họ còn đi rất lâu, và Fierce trong cơn gà gật thích thú mường tượng ra là cả bọn đang đi lang thang trong mê cung nơi Âm phủ và không bao giờ có ai trở về cõi trần.
Đột nhiên họ trở về nơi trần thế, như một toa tàu vọt khỏi hầm. Chợ Lớn đột ngột hiện ra trong bóng tối và thật sự mọc vút lên quanh họ. Không hề có chuyển tiếp, họ thấy mình đang ở giữa một thành phố - một thành phố Tàu, ồn ào và đông lúc nhúc không tưởng tượng nổi, với những tiệm buôn nhộn nhịp, những chiếc đèn lồng to như quả bí ngô, những mặt hàng có khung mạ vàng, những nhà quét vôi xanh phảng phất mùi thuốc phiện và mùi ôi thối, những quán ngoài trời chiếu sáng bằng đèn khí bán đủ các thứ thức ăn chẳng đủ tên gọi. Đường phố đông nghịt đàn ông, đàn bà, trẻ con, cười cười nói nói, la hét, đầy vẻ nhộn nhịp huyên náo. Đàn ông đều đeo chiếc đôi sam đầu buộc giải lụa, đàn bà búi tóc trơn trang sức bằng hột cườm xanh lam – vì họ là người Tàu chứ không phải An Nam. Ở Chợ Lớn không có người An Nam, vì vậy cái chi điếm của Sài Gòn này không phải là một thành phố nâu, tinh tế và u buồn, mà là một thành phố màu vàng, sum xuê và bình dân, như những thị trấn miền nam của Quảng Đông, Quảng Tây vậy.
Bác xà ích quất roi để dẹp đám đông, trong lúc đàn ngựa giậm chân tại chỗ.
Torral chụm môi huýt sáo một bài hát và Fierce thúc chiếc can để gạt một thằng bé suýt lao vào bánh xe, mọi người bắt đầu vui tươi hồ hởi trở lại, nhẹ nhõm thoát khỏi cơn mê khi đi qua cánh đồng Tha Ma thầm lặng u trầm. Ai nấy chuyện trò cười nói. Mévil đột nhiên tỉnh táo, và hôn lên miệng cô bạn, với những kiểu cách mơn trớn mà cô ta coi như âu yếm. Họ đến cái tiệm ăn nổi tiếng sau khi vượt qua các đám ùn tắc. Và họ ăn tối, kê kích nhau cho thật là vui vẻ.
Torral nhắc là lúc này đã một giờ sáng, và cuộc đi chơi sẽ đâm vô duyên nếu cả bọn ở Chợ Lớn vào giờ này mà không say khướt, bằng rượu, bằng thuốc phiện hoặc bằng thứ khác. Fierce liền tức thì chọn các loại rượu mùi, trộn lẫn vào nhau và nốc, sau khi nêu ý kiến là nơi này không thích hợp với chuyện say thuốc phiện vốn đòi hỏi sự tĩnh tâm của tiệm hút thanh cảnh và suy tư, cũng như không thích hợp với sự say rượu, vốn ưa những hốc kê giường, những môi miệng si tình tòng phạm và những tấm nệm giường trùm kín đầu. Anh ta nốc liền một hơi, sau khi đã giơ cốc soi màu rượu lên ánh đèn, rồi đặt chiếc cốc rỗng ngắm nhìn mớ chai như họa sĩ nhắm nhìn bảng màu, đầu nghiêng sang trái, mày nhiu nhíu.
Torral, vốn không ưa các trò thái quá, nhún vai và gọi sâm banh không pha, thứ đồ uống tuyệt vời tạo những cơn vui nhộn tức khắc và chóng dịu. Mévil khẽ nói thầm vài tiếng với anh bồi, anh này chạy đi pha cho Hélène một cốc nước pha đá, ngòn ngọt và hiểm độc, uống như uống nước chẳng ngờ vực gì, còn cho anh ta, Mévil, một cốc lớn đựng thứ gì bẩn bẩn màu nâu đục hăng nồng vị hồ tiêu. Viên thầy thuốc bật ho hai tiếng trong khi uống cạn cốc này, nhưng ngay tức khắc anh ta đâm choáng, kiểu chếnh choáng hay ho nhất trần đời, nom nhanh nhẹn tỉnh táo khác hẳn vẻ cù rù củ rủ lúc ngồi trong xe; sau khi hưởng niềm lạc thú đầu tiên với cô bạn tình, anh ta huơ tay sờ mó cô gái trẻ, còn cô này, như có phép thần, cứ nhấp từng ngụm thì bao nhiêu nét e dè tan biến đi đâu hết.
Cả bọn đều say khướt, mỗi người một kiểu. Torral đánh vỡ cốc, còn Fierce giơ gậy vụt một tên bồi dám nhe răng cười nhìn anh.
Tất cả xô nhau leo lên xe trở về Sài Gòn và gân cổ hát ông ổng, phía trước là bóng dáng bác xà ích ngồi thản nhiên trên ghế, khinh khỉnh lạnh
như tiền. Họ về theo ngả đường trên, có nhiều mùi hương mộc lan tỏa ngát hơn cả.
7
Đến Sài Gòn, cả bọn xuống xe cũng chẳng biết vì sao và bước đi vu vơ miệng vẫn không thôi hát hống.
Torral ngừng hát giữa một đoạn cực kỳ tục tĩu, bình luận:
- Cái hay là không hề biết mình đang ở đâu. Đặc điểm con người văn minh là đóng vai người hiền ban ngày và thằng điên ban đêm. Cái gì cũng phải nếm tí chút.
Anh ta bắt đầu vào một bài hát khác, bài này, chắc hẳn để chống lại thứ văn chương tâm lý hiện đại, lời lẽ lại quá ư bộc tuệch nói trắng cả ra.
Trong tâm trạng cả bọn lúc này, cuộc dạo chơi đêm nay thật ra có một mục đích rõ rệt, và mục đích này đúng là hướng về cái khu phố Torral đang cư ngụ chứ chẳng phải nơi nào khác. Nhưng họ lại đi lạc, điều khiến họ ngạc nhiên một cách vô lý, và đi được một quãng dài, cả bọn đâm ra đường Catinat, lúc này hoàn toàn vắng vẻ. Mévil là người đầu tiên nhận ra sự nhầm lẫn.
- Chà chà! Anh ta kêu lên. Chúng mình đi không đúng đường rồi. Ừ mà tớ đếch cần. Tớ ở gần đây và tớ về nhà đây. Lúc này điều tớ cần là một cái giường.
Anh ta quàng tay ôm chặt cô nhân tình, và cả hai bước đi môi miệng dính vào nhau, nên không tránh được chệnh choạng.
- Cậu say mèm rồi, Torral nói. Không thể bỏ rơi cậu. Tất cả hãy theo tớ.
Anh ta tiến lên dẫn đầu; nhưng đáng lẽ đi xuôi, anh lại đi ngược phố. Một con mèo, hốt hoảng vì tiếng quát, vọt từ bóng tối một cánh cửa. Hélène bị nó lao qua người, thét lên một tiếng, và Fierce đi cuối cùng ném chiếc gậy vào con vật đang lao chạy. Con mèo ngã lăn quay, sống lưng gãy đôi,
và Torral quay lại lấy giầy dận mạnh kết liễu nó. Sau đó anh nắm đuôi con vật, quay một vòng và lớn tiếng tính toán vòng ném. Vừa lúc cả bọn đi đến trước nhà thờ và dừng lại, ngơ ngơ ngác ngác nhận thấy không ở cái nơi mình tưởng.
- Cái nhà của lão có tên là Chúa Trời có phải không? Torral nổi khùng như trước một câu đùa ngốc nghếch. Chán ơi là chán!
Anh ta quay tít con mèo và vung mạnh ném nó vào cánh cửa nhà thờ. Sau đó, bình tĩnh lại, anh lấy hướng và đi ngược trở lại, những người kia theo anh không phản đối. Và họ cũng chẳng quay nhìn hai cái chóp tháp đen sẫm, dáng kiêu kỳ, lẫn vào trong bóng tối phía sau lưng.
Lần này cả bọn đi đến nơi về đến chốn. Vả chăng cả thành phố đang ngủ; thế nhưng nơi đây, mỗi nhà vẫn để cửa mở toang hoác với ngọn đèn đỏ, và khắp chốn nổi lên những tiếng hát hò say rượu. Torral đắc thắng tuyên bố mình là hướng dẫn viên số một – và từ giờ này trở đi, thế giới khoái lạc mở ra cho mọi người, chỉ cần nói “Sésame, hãy mở”. Còn Fierce, càng thêm câm lặng do khí đêm làm tăng độ say, chỉ thốt một tiếng duy nhất và đòi phụ nữ Nhật Bản. Cả bọn xông vào một ngôi nhà nhỏ màu trắng vẻ như một biệt thự nông thôn, và ồn ào ngồi vào giữa một vòng tròn những cô bé gái – đồ chơi, mặc áo dài in hoa lớn, đang cười rúc rích vẻ rất lịch sự đoan trang.
Fierce, vốn thông thạo phụ nữ Nhật, chọn cô xinh nhất và theo cô vào một căn phòng sạch như li như lau khiến anh phải cởi giày ở cửa, điều mà cô cảm ơn như một thái độ lịch thiệp của người đàn ông đứng đắn, vì phong tục Nhật Bản là như vậy. Hai người trò chuyện. Cô ta lắng nghe rất nghiêm chỉnh, chú ý để nắm bắt lời anh nói giọng lè nhè, và luôn luôn giữ trên môi son cái nụ cười e dè đứng đắn.
Anh nói sõi tiếng Nhật, cô ta tỏ ý thán phục, cô nói tên: Otaké-San, cô Trúc; anh nghe ra là Otaki-San, cô Nguồn, khiến cô cười chảy nước mắt. Cô cũng nói với anh là cô mười ba tuổi. Cô sợ anh cho là trẻ quá, biết là ở châu Âu, phụ nữ đợi già hơn để không còn là “thuần khiết như ngọn núi Fouji tuyệt vời thuần khiết”. Nhưng anh giảng giải là ở Hồng Kông anh từng yêu thích các cô gái Tàu mười tuổi, bởi thế nên anh cho cô này đã là người lớn
rồi. Thế rồi cô ta đến ngồi trên đầu gối anh và cả hai làm vài ba cử chỉ; có nghĩa là anh làm mấy cử chỉ và cô ta cố bắt chước theo, như một cô bé ngoan ngoãn – cho đến lúc các cử chỉ nọ đi quá mức khiến cô hình dung những điều tồi tệ và tức tối phản kháng. Nhưng đến lượt mình anh bật cười ha hả, và thề với cô rằng mình chẳng hề “coi cô như một phụ nữ Pháp”. Bấy giờ cô bé mới chịu tham gia vào những trò chơi tự nhiên tuy kín đáo hơn, thậm chí cô còn cố gắng giả vờ, không phải là giả vờ một vẻ nồng nhiệt không lịch sự và khó tin, mà là một tư thái hờ hừng nhã nhặn không hề nhuốm ý mỉa mai.
Khi cả hai trở ra trong phòng lớn thì thấy đầy huyên náo. Mévil, bị ám ảnh vì những sáng kiến kỳ cục, lại càng say mèm vì cốc rượu bạc hà vừa uống, cứ khăng khăng buộc ghép đôi trong những tư thế trái khoáy cô bé Liseron tội nghiệp đang ngơ ngác khóc khóc mếu mếu với mấy cô gái Nhật vẻ kinh ngạc và công phẫn, Fierce liền can ngăn, tuy anh cũng bắt đầu bước xiêu xẹo và nom thấy hai Otaké-San chứ không phải một. Cuối cùng họ đi ra. Torral nãy giờ ngồi trên vỉa hè ngoài cửa đợi vì không thích con gái Nhật Bản. Anh đứng dậy đi theo họ; nhờ khoản sâm banh không pha, anh là người duy nhất còn tìm ra đường.
Cuối một ngõ tối, cả bọn đến trước một túp nhà ván mọt và lợp rạ mục nát, nom tồi tàn bi thảm, cửa chống bằng hai cây gậy vẻ như khép lại trên một vụ giết người. Vào nhà rồi, càng có ấn tượng như vậy, vì nền nhà, đất trống và nhão nhoẹt đầy những thân hình nằm sóng sượt; nhưng đó chỉ là những người say.
Bên trái bên phải, là những buồng kiểu chuồng chó cửa che phên thưa: đó là các buồng làm tình. Bọn đàn ông làm tình với những con gái say mềm nằm chuầy chòa trên đất, lúc đầu nom không rõ, vì cây đèn ám khói độc nhất cứ muốn tắt, nhưng liền sau đó thì nhận ra là những người đàn bà, trẻ có già có, già thì xấu xí hơn một chút nhưng lại giầu kinh nghiệm hơn. Tất cả đều uống rượu cất bằng gạo và chơi đùa với những thằng con trai nom già khằn tuy chưa dậy thì.
Hiện giờ, nơi này còn có một thú chơi khác, nhưng khoản này không ghi trong chương trình: ngồi đất, tựa lưng vào tường, có một người đàn ông phương Tây, dân Pháp. Họ nghe thấy anh ta cười hậc hậc cứ như con gà cục
tác. Anh ta không uống rượu, không hút a phiến; anh không có vợ con. Không, anh chỉ nhìn thôi, nhìn thẳng ra trước, bằng cặp mắt lờ đờ. Nơi này là nơi duy nhất trên đời anh ta cảm thấy dễ chịu. Anh nhìn và cười, vẻ ngờ nghệch.
Họ, những con người văn minh, nhận ra anh ta lúc bước vào – nhận ra anh là người đồng hương. Vì anh tên là Claude Rochet, từng là cây bút đả kích sừng sỏ nhất ở thuộc địa – nhiều chính phủ đã run sợ trước ngòi bút của anh. Giờ đây, già cỗi – bốn mươi tuổi! – cùn mòn, cạn kiện, chán đời, xuẩn ngốc, mặc dù vậy anh ta vẫn là một trong bốn nhân vật nổi tiếng ở Sài Gòn và Hà Nội, do quyền uy ghê gớm của các tờ báo mà anh vẫn chỉ huy. Và suốt đời anh đã từng khoe khoang và vẫn còn khoe, trong những giây lát tỉnh táo cuối cùng, là chẳng có Chúa, chẳng có thầy, chẳng có luật lệ nào hết thảy.
Chà! Anh ta đã sống thật trọn vẹn! – không định kiến, không quy ước, không tín điều, theo thói ngông riêng, tất thảy những thói ngông riêng – và ngay cả hôm nay, già gần kề miệng lỗ hoặc đang nằm ở an dưỡng đường, anh vẫn giữ nguyên tính dũng cảm và ý chí những ngày cũ, anh biết tìm thú vui của mình nơi anh tìm thấy, cho dù là cái quán bẩn thỉu tồi tàn - ở đây! Torral khi đi qua, cất tiếng chào. Rồi chui vào một ngăn buồng, sau khi đã dùng ngón tay ra hiệu gọi hai cậu bồi chạy vào; rồi chẳng thấy anh trở ra.
Hélène Liseron, quá say và quá mệt, gục ngủ trên vai tình nhân. Mévil vẫn đứng ngoài cửa. Một anh phu xe gọi anh từ ngoài đường. Như cái máy, anh quay người và lên xe trở về nhà cùng với cô ca sĩ, quên bẵng Fierce.
Fierce đứng trơ một mình, giữa cái vũng ô uế. Bốn ả bíu vào áo anh, kéo về chiếu của chúng.
Anh không nghĩ gì nhiều, cũng chẳng nghĩ gì thật rõ rệt. Thế nhưng vẫn có một ý tưởng nổi bồng bềnh, trong cơn chìm đắm của trí não – một ý tưởng ngu xuẩn nhưng dai dẳng như đau đầu… Cái tay Rochet này, mười năm trước, chắc hẳn là một con người trẻ, thông minh, tự hào… Thế mà giờ đây thế này, chán ơi là chán!...
Rochet cười hầng hậc, dãi dớt đầy mồm. Fierce nhún vai lẩm bẩm: “Thôi kệ!”.
Anh nhìn mấy con điếm: đồ khỉ cái, hẳn thôi! Anh chọn hai ả: một trẻ nhất và một già nhất. Rồi anh ngã vật trên chiếu, và gom hết nước bọt trong miệng để ra lệnh rành rọt, quyết liệt:
- Thuốc phiện.
8
Bảy giờ sáng. Trong buồng sĩ quan, trên tuần dương hạm Bazard, Fierce, Jacques – Raoul – Gaston de Cévadière, bá tước de Fierce – đang ngon giấc trên chiếc giường con.
Một căn buồng đẹp – buồng sĩ quan tùy tùng rất rộng, mười bộ chiều dài, tám chiều ngang, sáu chiều cao, được chiếu sáng một cách rực rỡ: hai cửa sổ thành tàu cỡ bằng hai chiếc khăn mùi soa, có thể mở lúc đẹp trời. Bốn bức vách tôn uốn, một chiếc tủ và một bàn giấy, bằng tôn dẹt; một bồn vệ sinh và một tủ ngăn bằng tôn vòm; một chiếc giường ghép bằng những ống thép thẳng. Vậy thôi, căn buồng chỉ có thế. Ở Pháp, tại Cherbourg hoặc Toulon, Fierce, vốn giàu có và khó tính, sẽ nhất thiết chẳng chịu sống trong một cái vỏ đồ hộp như vậy. Anh ta sẽ kiếm được ở một nơi nào đó trên đất liền, trong khu phố tử tế và kín đáo, một căn nhà nhỏ xinh xắn, hợp phong cách Paris, cần thiết cho cuộc sống lênh đênh theo hạm đội, sống trong đó có thể không đến nỗi luyến tiếc căn phòng độc thân ở đường Magdebourg. Ở đây, anh đành phải che rèm chiếc lồng của anh, vì chẳng thể sổng ra ngoài được. Rèm được trang hoàng đẹp đẽ, không còn nom thấy các chấn song. Các mảnh tôn đủ kiểu biến đi dưới lần vải kếp lụa màu xám ngọc trai, xen với lần nhung màu xám sắt: quá nhiều màu xám, nhưng đó là màu những ý nghĩ của người đang ngủ nơi đây – trên chiếc giường căng riđô bằng mút xơ lin xám.
Anh ngủ rất bình yên, vẻ yên lành của kẻ chưa bao giờ đi ngủ sau bình minh, say tuyệt vời những cơn say đáng chê trách nhất. Mi mắt quả có thâm quầng; nhưng các món tóc xoăn buông xõa một cách trong trắng quanh vầng trán, và ngực phập phồng êm ả tựa như bộ ngực dẹt của nữ tu sĩ thơ ngây trong chiếc giường nhà tu be bé.
Jacques – Raoul Gaston de Civadière, bá tước de Fierce – sinh ở Paris, ngày 3 tháng Chạp 18…, con trai một của ông bá tước Fred-Raoul de Civadière de Fierce, và vợ là Simone de Marroy, cả hai đều đã quá cố. Ít ra đó là bản lý lịch bảo đảm cho cuộc hợp tác kiểu vợ chồng này, thật ra cũng có phần khó tin: giòng họ Fierce vốn là những con người cao quý nên
không thể làm cái chuyện lố bịch là có một đứa con chung vào năm thứ tám sau ngày cưới. Chính thực ra, hai người là tình nhân của nhau trong bốn tháng – bốn tháng ở Tyrol và Hunggary, sau khi một vị hồng y giáo chủ bà con đã ban phép lành cho họ trong một cuộc lễ linh đình ở Saente – Clotilde, và tiếp sau đó là cặp vợ chồng không thể chê trách, chẳng có sự gần gũi nào không hợp lệ. Jacques de Fierce hẳn đã được sinh ra từ một trò ngông, trầm trọng thêm do một cơn đãng trí. Nhưng điều này chẳng quan hệ: Bà de Fierce biết tránh không để mất phẩm giá vì mọi ý thích thất thường; vậy nên kết quả là con trai bà thực thụ là quý tộc. Vả chăng anh ta tuyệt nhiên chẳng quan tâm đến điều này.
Jacques de Fierce lúc đầu mọc như cỏ hoang trong một khoảnh sân nhà tù - ở tầng tư lâu đài gia đình, bên cạnh một bà vú em người Đức luôn mồm răn dạy, nhiều đầy tớ và nhiều đồ chơi.
Như vậy cho đến sáu tuổi. Lên sáu, kỷ niệm đầu tiên đáng ghi nhớ: Một chiều đông – có tuyết rơi đọng ở chỗ bậu cửa sổ: tất cả mọi chi tiết còn in rõ trong trí óc trẻ thơ của anh: cậu Jacques sổng ra khỏi bà vú và chạy lon ton khắp nhà. Lúc ấy năm giờ: mẹ chắc đang uống trà, và có nhiều bánh ngon cùng với trà. Cậu Jacques leo xuống ba tầng gác và đi tới phòng mẹ, biết chắc mình đã đúng đường. Một cửa – hai cửa – ba cửa, đóng kín; một bức bình phong: cậu Jacques len lén lần vào như con chuột nhắt. Đây rồi: bà mẹ ngả người trên chiếc ghế bành thấp, đang ôm xiết một người đàn ông trong cánh tay; chỉ nom thấy lưng ông này và cánh tay mẹ; và chiếc ghế bành cứ rung chuyển từng đợt nhè nhẹ, nghe cọt kẹt như tiếng giát giường lò xo. Cậu Jacques, hết sức ngạc nhiên và lo lắng, bước quay lui và đi cật vấn bọn người ở. Bọn này cung cấp cho cậu bao nhiêu là tin tức thật dồi dào.
Bảy tuổi, cậu đã có gia sư đầu tiên, sau đó nhiều người nữa. Ông này là một cha cố, lương thiện và đạo đức. Ông nhanh chóng khắc sâu vào trí não cậu học trò một niềm kinh tởm bền vững về đức hạnh. Cậu Jacques, chẳng biết do kiểu di truyền bí ẩn nào, tỏ ra là một cậu bé đặc biệt trung thực và thẳng thắn; lại chẳng hề ngốc nghếch. Cậu nhận thấy sự trái ngược quá rõ giữa điều người ta dạy và điều cậu mục kích: Mọi cái đều là dối trá. Cậu Jacques bắt đầu nghi ngờ rất nhiều chuyện. Bằng những phương pháp giáo dục khác nhau và riêng biệt, các ông gia sư nối tiếp nhau hoàn thành việc
thuyết phục cậu ta rằng cuộc sống là một trò lừa phỉnh vĩ đại, và thế giới là một sân khấu được bài trí tốt cho những hí kịch.
Mười ba tuổi, cậu bé Fierce, học trò một trường dòng ở Bỉ, về nghỉ lễ phục sinh mười ba ngày ở Paris, tại nhà bố mẹ. Cậu đâm buồn chán quá chừng vì chỉ được phép giao du với thằng bạn học Troarn. Rất tự do và tính hay tò mò, hai cậu học sinh dẫn nhau đi khám phá Paris ngày 11 tháng ba – những chuyện này quả đáng ghi nhớ - Fierce và Troarn lần tới phố Moscou, vào nhà một bà tự xưng Bà d’Harteval mà tiếng tăm đã lọt đến tai hai cậu. Họ nom thấy một cô bé xinh xắn, ăn mặc cẩu thả, cô này lúc đầu tỏ vẻ bất bình chiếu lệ, rồi sau đó, khoan dung đồng ý với cái điều hai cậu muốn. Fierce nằm xuống hơi bối rối, sau đó ngồi dậy hơi thất vọng, và xấu hổ vì bộ dạng lúng túng của mình dưới cặp mắt giễu cợt của cô bé, chẳng biết làm gì cuối cùng bật lên cười. Vậy là xong. Mười tám tuổi Fierce chọn nghề thủy thủ như bạn bè chọn làm kỵ binh hoặc nhà ngoại giao. Trường Hải quân với anh là một nơi trú ẩn bất ngờ, nhưng quý báu và cấp thiết chống lại những mối hiểm nguy thuộc bản chất của anh, vốn có yêu cầu cao và không chấp nhận bất cứ kiểu thỏa hiệp nào. Fierce vừa sống ở Paris ba năm xuất sắc và mệt nhọc; xuất sắc bởi số lượng những cuộc tằng tịu do anh bắt mối; mệt nhọc, bởi những cuộc tình đơn điệu ấy đã hướng anh về những trò tiêu khiển đa dạng hơn và ít vô hại hơn. Vậy nên vào đúng lúc, Fierce thấy mình được giam hãm chặt chẽ tại một góc xứ Bretagne, trên một con tàu cũ kỹ, khắc khổ và lạnh lùng, xa những chiếc váy đĩ điếm hoặc sang trọng từng niềm nở chào đón anh mấy mùa đông qua, xa những cử chỉ vuốt ve mơn trớn đến phát bực của cô em họ nào đó mà anh đã tập cho bớt ngây thơ vào các vụ nghỉ hè trong lâu đài quê nhà, xa những phòng hậu cửa tiệm dành cho các nghị sĩ và những quán bar kiểu Ănglê dành cho các nhà ngoại giao nước ngoài, nơi tính ham thích bướng bỉnh muốn nếm những trò mới mẻ bị cấm đoán thường dẫn anh đến. De Fierce là sĩ quan hải quân, điều này làm liều thuốc tạm thời phòng ngừa các bệnh đáng buồn, đứng đầu bảng là chứng lẩm cẩm và chứng cử chỉ thác loạn.
Và giờ đây, Fierce đi chu du thiên hạ.
Cũng chẳng thú vị gì cho lắm. Tuy nhiên, cũng hơn là cảnh sống ở Paris; chiết trung hơn và bớt dối trá hơn. Kiểu trụy lạc ở Paris chẳng thua kém gì kiểu trụy lạc ở nơi khác về cơ bản; nhưng nó vướng víu giả đạo đức
bằng những cánh cửa khép kín và ánh đèn hạ thấp. Nơi khác, các cử chỉ khoái lạc không hề e ngại mặt trời. Mà Fierce thì vẫn tiếp tục yêu sự trung thực hơn tất thảy mọi cái.
Anh tự coi như nghĩa vụ là kiếm tìm cái trung thực ấy ở khắp nơi - ở Trung Quốc, ở Sumatra hoặc ở Antilles; trong các cuốn triết học bìa bọc nhung xám chất đầy chiếc tủ sách bằng sắt phía đầu giường; trên những làn môi nâu hoặc hồng của nhiều cô tình nhân hôn hít tình cờ dọc các chuyến đỗ lại hoặc ghé bến; trong đáy quá nhiều chai lọ, và giữa mọi thứ làn khói được biết của cõi đời ô trọc này – khói thuốc phiện, khói cần sa, mùi men rượu; trong các lý thuyết thực chứng chặt chẽ của một Torral, trong thói vị kỷ hưởng lạc của một Mévil, trong lối xử sự của cá nhân anh kiểu xung động và thờ ơ. Tất thảy mọi mầu chân lý được khám phá, tất thảy mọi mẩu màn che bị bứt tuột chẳng giúp được gì cho thái độ xử sự của anh. Anh đã nếm mùi tất cả và đã chán ngấy tất cả. Thế nhưng anh vẫn tiếp tục sống, và lạm dụng cuộc sống, mặc dầu thấy sống chỉ là vô vị.
Bố mẹ anh đều đã chết. Cái tang kép này để lại cho anh một chút bâng khuâng và không mấy buồn bã. Tự do và giầu có, anh vẫn đi tiếp con đường ấy, vì không có con đường nào hay hơn mà anh vẫn viển vông mong ước.
Một ông đô đốc già, duy tâm và hồn nhiên đâm mến anh do đã thoáng nom thấy anh qua một thứ lăng kính thanh lọc nào đó; ông ta yêu anh như con và coi anh như một người anh hùng; Fierce đền bù lại ông bằng một thứ tình bạn kiêu kỳ.
Fierce chu du khắp thiên hạ, và đem theo từ nơi này đến nơi nọ thói coi thường mọi luật lệ, thói mai mỉa mọi tôn giáo, thói thù ghét mọi dối trá, và niềm khao khát mọi thức dinh dưỡng mới mẻ kỳ diệu mà cuộc sống hứa hẹn nhưng vẫn chẳng ban cho.
9
Trong căn buồng im ắng, anh lính hầu của Fierce bước vào, một thủy thủ bé nhỏ chân trần, bận áo lót sọc cộc tay. Anh ta lau dọn rất sạch, cứ lặng lẽ như con chuột nhắt. Căn buồng khá lộn xộn: chắc hẳn ông chủ đã mò mẫm lần đến giường, quần áo giật tung ném bừa xuống đất, chiếc ghế bành duy nhất bị xô chổng ngược. Nhưng lát sau, trật tự đã được lập lại, Trên chiếc ghế dựng lại ngay ngắn, những bộ quần áo sạch bong trải dài; một chiếc áo vét tông mới vừa là gắn sẵn quân trang và bộ khuy mỏ neo. Vòi nước rửa mặt có nước chảy, bồn tắm đầy nước, bọt biển lấy ra khỏi túi lưới, các lọ nước thơm bày thành hàng. Chú thủy thủ, vẻ hồ hởi, nói bằng giọng vùng quê Bretagne:
- Thiếu úy! Bảy giờ rưỡi rồi ạ.
Cặp mi thâm quầng hấp háy, và đôi mắt sáng như hai cái đèn trong đêm tối. Ngay tức thì, Fierce tỉnh táo, đầu óc não minh mẫn: thuốc phiện là một phương thuốc khá để giải rượu; nó chống lại cái chếnh choáng trên đầu bằng cái giần giật ở tim. Liền tức thì, vẻ ngây thơ thanh thản biến khỏi gương mặt vừa tỉnh giấc, nom lúc này mệt mỏi và chưa đã thèm.
Chú thủy thủ bé nhỏ đã đi ra. Fierce đứng dậy, mặt hơi nhợt nhạt, hai bên thái dương râm rấp mồ hôi. Anh bắt một nửa bình cà phê dành sẵn. Rồi tim đập rõ hơn, anh cởi bỏ bộ quần áo ngủ màu trắng, bước vào bồn tắm. Sau đó, da dẻ nhẵn nhụi, khoan khoái, anh để cho ngọn gió ban mai thấm khô đôi vai và ngắm mình trong gương. Anh không đỏm dáng, nhưng đánh giá đúng đắn cái lợi thế của một thân hình cân đối và một gương mặt hòa nhã. Anh thích thú nhận xét là mặc dầu hai mươi sáu tuổi đời, từng trải qua một cuộc đời đủ mùi vị, bụng vẫn dẹt và vầng trán phẳng. Và anh ngồi xuống vẻ lười biếng.
Anh tựa gáy trên lưng ghế bành. Thuốc phiện vẫn còn khiến tay chân nặng chịch: có một vòng sắt xiết quanh trán, ngực trống rỗng như chẳng có tim có phổi. Đêm qua quả là anh đã ngồi dậy rời bỏ tiệm thuốc quá sớm –
chà chà, một tiệm hút đẹp đẽ, cánh cửa vô cùng thanh nhã chào mời và bước vào cõi mơ mộng thần tiên! Vâng, anh đã thức giấc quá sớm. Nhưng phải quay về cuộc đời thực, và đi ra ngoài để ra lệnh và nhận lệnh, múa may giữa trò múa may ngốc nghếch vô bổ của con người. Phải quên đi cái yên tĩnh tuyệt vời của đêm a phiến, tiếp theo cuộc truy hoan say mèm và dâm bôn, quên đi bộ cánh vàng rực đã đưa mình bay là là trên quả đất, quên những nụ hôn tuyệt vời mà một nàng tiên đã kính cẩn đặt bên chân người nghiện… thực ra, đó là cái con khỉ cái An Nam: nhưng quả con bé có những cử chỉ mềm mại như con mèo để len vào ngồi xổm giữa hai chân mình – kín đáo.
Hiển nhiên là dậy quá sớm. Thêm ngụm cà phê nữa, để thấm khô cái mồ hôi tệ hại này. Buồn quá thể, các buổi quay về tàu giống như cảnh quay về đêm qua, những chiếc xe tay lộc cộc lắc lư, những chiếc thuyền ẩm ướt sương mùi thối mục, và những cơn buồn nôn lắc qua lắc lại trong tim như thể cái đu…
Trước khi khoác chiếc vét tông bằng toan đính đồ trang phục vàng chóe, anh nhúng bàn tay vào nước và áp vào hông, có cảm giác mát mẻ như bàn tay mà hôm qua con bé Nhật Otaké – San ôm anh: anh bấm lần lượt các móng tay vào da – để làm kỷ niệm. Rồi anh khoác áo vét tông, luồn vào một chiếc cổ cồn và hai ống tay là như có sơ mi, để giảm bớt một lần vải. Hơi nóng bắt đầu tăng.
Anh bôi tí phấn vào mi mắt thâm quầng, và lấy bông xoa lên gò má. Nom anh lúc bấy giờ có vẻ thư thái, và anh ra khỏi buồng.
Trên boong, các lều đã dựng, rèm buông xuống và người ta đang cọ rửa ván lòng tàu. Đội nhạc đã tập hợp đông đủ. Trên đài chỉ huy một thủy thủ dõi nhìn đồng hồ la bàn. Tại các cửa tàu, lính gác nạp đạn chuẩn bị chào cờ buổi sáng.
Fierce nhìn giờ và đập ký hiệu ngọn lửa ba màu. Trong bến cảng có hai tuần dương hạm và toàn bộ sư đoàn pháo hạm nhỏ cùng với tàu tuần tra bờ biển của Sài Gòn. Từ tầu này sang tầu khác những tiếng kèn đồng vang lên. Cờ ký hiệu chuyền cho nhau đập phần phật trên đỉnh cột buồm.
Kim đồng hồ chỉ tám giờ. Theo hiệu của quan tùy tùng, các mệnh lệnh vang lên, trang trọng:
- Chuẩn bị chào cờ!
- Mở chốt tín hiệu!
- Đô đốc lệnh!
- Kéo cờ!
Ở các cửa tàu, những phát súng nở từng đụn khói xanh. Nhạc tấu bài chào cờ. Các thủy thủ bỏ mũ chào, và Fierce cất chiếc mũ cát bất cần những tia nắng luồn qua khe lều. Lá cờ nước Pháp chậm rãi kéo lên ở mạn đuôi tàu, ngạo nghễ như vào buổi chiều Austerlitz. Fierce nhìn lá cờ và lẩm bẩm lặp lại mấy từ đọc thấy trong một cuốn sách anh thích vì có vẻ trung thực. Xanh thổ tả, trắng màu chết đói, và đỏ màu máu tươi. Anh đội lại mũ và quay người đi xuống gặp ông đô đốc.
Ông d’Orvilliers, công tước và công khanh, phó đô đốc chỉ huy một hạm đội Trung Hoa, về thể chất nom như một thống chế thời Đệ nhất Đế chế, dáng cao gầy và quắc thước hơn những con người ngày nay, điểm bộ ria xám cứng còng và mái tóc bạc rậm: nhưng cặp mắt ông, có lẽ do vì không từng chứng kiến các trận đánh, trở thành những con mắt hiền hậu, luôn luôn nhìn thẳng với vẻ nhìn trung thực, hồn nhiên và phần nào ảo tưởng. Về mặt tinh thần, ông d’Orvilliers cũng giống như mắt của ông vậy.
Ông chìa tay cho viên sĩ quan tùy tùng và âu yếm nhìn anh, ngắm nghía với vẻ mến mộ nhận thấy anh đẹp, trẻ, tài trí thông minh hơn người – ông già tin chắc vậy, không thể chê trách trong mỗi cử chỉ và mỗi ý nghĩ. Fierce nắm tay ông, đáp lại bằng vài câu bâng quơ lời ông thăm hỏi ân cần đã làm gì chiều và đêm qua, rồi cắt đứt lời khuyên nhủ gìn giữ sức khỏe và cẩn trọng bằng cách xin mệnh lệnh cho hôm nay. Ông d’ Orvilliers ngay tức khắc sa sầm lại và nói qua cho viên sĩ quan tùy tùng biết rằng tình hình chính trị và hàng hải đang nghiêm trọng. Fierce chẳng hề quan tâm chuyện này, từ lâu đã biết rõ thói bi quan truyền thống của lão già. Ông d’ Orvilliers làm rõ vấn đề hơn, nói về Anh Quốc và Nhật Bản, lắc đầu khi nói về chính
sách nhún nhường của Pháp, và kết luận bằng tiên đoán chiến tranh là không tránh khỏi, sẽ bùng nổ trước ba tháng.
- Vào tháng ba? Fierce lơ đãng chêm vào. Lúc này là cuối tháng chạp.
- Vào tháng tư hoặc tháng năm, ông đô đốc khẳng định. Rồi ông thêm, vẫn giọng hiền hòa bình tĩnh, không hề khoa trương: “Chẳng ai ngăn cản chúng ta được trở về, chắc thế; nhưng ở tuổi tôi, cái chết là một quán trọ dù muốn dù không, người ta cũng có cái ăn trong bữa tối; vậy chẳng can hệ gì giờ ăn chính xác tối là vào lúc nào. Vì tôi sẽ có niềm vui lớn nhất, cũng ít xứng đáng nhất, nếu như tôi được chết như Brueys, Nelson và Ruyter đã chết…”
Kính cẩn và ưu tư, Fierce tính nhẩm đến ba mươi mốt, rồi trở lại vấn đề lúc đầu:
- Còn các mệnh hôm nay, thưa đô đốc?
Ông d’ Orvilliers cho mệnh lệnh. Phải có một xe ngựa lúc ba giờ. Fierce bảo lúc ấy trời còn nóng nực. Nhưng đô đốc bảo rằng mặt trời sẽ không ngăn cản ông đi trao đổi ý kiến với ông toàn quyền trước tiên, rồi đi bàn tính công việc với hội đồng quốc phòng và các chỉ huy hải quân và lục quân. Với lại các bức điện có thể về nhiều, viên sĩ quan tùy tùng sẽ mở xem trước khi lên bờ, nếu như anh ta thích đi dạo trước buổi trưa.
- Tuân lệnh, Fierce nói.
Trong buồng riêng, một bức điện đầu tiên đợi anh – bản tin thời tiết của Thượng Hải. Anh bật cười:
- Đây chắc hẳn là các cái triệu chứng hiếu chiến làm chúng ta lo lắng đây; bờ biển Đài Loan biển động; bão tràn qua Manille.
- Ái dà dà! Ông đô đốc của mình yên tâm nhé: chiến tranh của bọn Anh thôi mà…
Anh ngắm nhìn các đồ mỹ nghệ, sách vở, bức tượng Vệ nữ Syraouse bằng cẩm thạch màu hổ phách óng ánh trong góc.
- Một quả đạn đặt vào đây hả? Cũng là một kiểu bày biện đấy! Anh không nghĩ tới chuyện này nữa và cầm một cuốn sách.
- Nếu như các bức điện tới sớm, mình sẽ đi xem cảnh Mévil thức giấc. Chắc cô ta trên giường nom cũng hay hay đây, cái cô Hélène… Cốt nhất là lão già chiều nay thả cho mình được tự do, dù chỉ một giờ… Tám tháng rồi mà mình không có dịp đi dạo quanh đây, chỗ tòa Thanh tra…
Các bức điện tới. Chiếc tuần dương hạm được phái sang Trung Quốc vừa tới Djibouti, nhưng ông bộ trưởng lại lệnh cho quay về Pháp ngay tức khắc.
- Thế quái nào lại thế nhỉ?...
Từ Hồng Kông, một bức tiếp theo, bốn dòng toàn con số xin xít. Fierce thất vọng buông xuôi tay trên đầu gối; sau đó anh thu hết can đảm tìm cuốn tự điển mã số.
- Hẳn là một tuần dương hạm Anh đã đổi đường đi hoặc là con ngựa của ông toàn quyền bị trẹo gân…
Anh dùng bút chì chấm từng câu giải mã:
… Hạm đội… Dương Tử… tập trung… mười sáu tàu…
- Ái chà! Luân Đôn… Bulward… Vénérable Duncar… Corwalis… Exmouth… - sáu tàu bọc sắt sáu… Cressy… Aboukir… Hogue… Drake… King Afred… Africa… Kent… Essex… Bedford… - Chín tuần dương hạm bọc thép, mười lăm, tất cả mạnh hơn chúng ta, tất nhiên…
Anh đặt bút chì và lại đảo mắt nhìn quanh phòng:
- Một quả đạn vào đây. Đúng, thế mà lại hay cơ đấy.
Anh mang bức điện đến cho ông đốc. Ông này đọc không lấy làm ngạc nhiên hoặc lo lắng, vẻ mãn nguyện.
- Tôi đã nói mà.
Fierce đi ra hoàn toàn bình tĩnh, vốn dĩ theo thuyết định mệnh nên không có chuyện gì làm tổn thương được cái bản tính thanh thản, lại còn biết can đảm chấp nhận mọi sự một cách triết lý. Anh mỉm cười nghĩ về ông đô đốc.
“Một con người sống sót từ thế kỷ trước, đã bỏ lỡ cuộc đời mình mà không tự biết. Dưới thời Napoléon đã có thể thành một kiểu vĩ nhân rồi đấy. Bây giờ thì là một con người lố bịch. Nhưng tóm lại là dễ mến. Và mình yêu ông ta như ông vốn có, đồng thời cười giễu ông ta”.
Khoảng mười giờ, xong công việc, Fierce thấy mình đang đi dọc bến cảng, vẫn bận nguyên quân phục; anh không đủ thời giờ thay quần áo. May thay một luồng gió khá mát mẻ quét đi hơi nóng nực đường phố và anh thú vị dạo bước trong bóng râm.
Fierce đi về phía trước, chọn các gốc cây rậm rạp và các ngôi nhà có cửa tò vò. Xa Sài Gòn từ tám tháng nay, anh thích thú theo kiểu một du khách nhận biết lại mỗi góc thành phố; đồng thời, cái tương phản dữ dội giữa nắng hè Sài Gòn hôm nay với mùa đông Nhật Bản mà anh vừa rời bỏ gây một sự khó chịu hầu như đau đớn, nhưng anh lại thấy thích vì cho là cảm giác hiếm có. Tất cả những cái đó khiến cuộc đi dạo làm anh thích thú. Anh đến khu Vườn hoa mà không lấy làm bực bội vì bụi bặm và nắng. Anh bước trong những lối đi rải cát đỏ sẫm giữa những bãi cỏ và dòng kênh uốn khúc. Những con suối chảy quanh co, khuất hoàn toàn dưới đám lau sậy và dương xỉ bên bờ nên không nom thấy nước. Tất thảy các cây cối vùng nhiệt đới giao trộn nhau thành khu rừng kỳ diệu chẳng để ánh nắng lọt vào. Nhưng nét trang trí đẹp nhất khu vườn độc đáo này là những bụi tre trúc với những thân cây mảnh khảnh chen chúc thành khóm, xòa lá cành cao hơn các ngọn cau và me, nhìn xa mỗi khóm nom như một cái cây duy nhất, tán mỏng mảnh như tấm đăng ten đồ sộ.
Các lối đi màu đỏ sậm đều hoang vắng; trên con kênh, một chiếc thuyền trôi theo dòng, lặng lẽ dưới chiếc mui lợp bằng cọ.
Fierce lạc bước thích thú trong khu rừng xa lạ. Một lối mòn thu hút bước chân, vì các cành lá nhiều dáng vẻ giao nhau thành vòm, nom như một đường hầm màu xanh, và vì cái đường hầm khá quanh co ấy cứ mười bước lại dường như vướng phải một bụi cây và lâm vào ngõ cụt. Một chiếc cầu, bắc trên mặt ao tù đọng lấm tấm điểm hoa sen, bờ ao rào bằng hàng rào sắt dày nhọn lởm chởm: cái đầu dẹt của một chú cá sấu giữa ao, bất động như khúc gỗ. Fierce khịt mũi hít thở cái mùi hôi thối, chìm lần trong mùi thơm hắc của hoa mộc lan; xa hơn, anh đánh hơi thấy mùi gì như mùi lông ác thú.
Các cây mộc lan và cọ thưa dần. Một lần nữa con đường mòn rẽ vòng và cánh rừng chấm dứt. Một cái lồng lớn tựa lưng vào mấy gốc cây cuối cùng, có những người dân bản xứ, lính tráng, phụ nữ - ba chiếc dù màu sáng của đàn bà Âu - đứng nhìn.
Ðó là cái lồng nhốt hổ. Chỉ có hai con, nhưng nom to kinh khủng và oai vệ không thể tả. Con cái vờ như ngủ, nằm ngửa, đầu kẹp giữa hai chân; ngủ giả vờ thôi, kiểu làm dáng với con đực; các móng vuốt thò ra khỏi bàn chân đầy lông lá cắm sâu xuống đất một cách xảo trá, và những cơn run rẩy cứ nổi cuộn dưới lần da kẻ sọc.
Con đực nhìn nó, lặng phắc như chú hổ đá. Con này nom to cao và dài hơn bất cứ con sư tử nào. Bộ ức trắng như tuyết thở phồng căng rất dữ trong lúc nó đánh hơi ngửi con đang nằm.
Một chiếc dù màu hồng ghé nghiêng sang phía Fierce đang bước sào sạo trên sỏi.
- Ối, cô đấy à? Cô đến xem bầy thú to lớn làm các trò kinh hãi đấy hả?
Fierce nom thấy Hélène tươi tắn dưới làn mây phấn, mắt chỉ hơi có quầng.
- Cô đã làm gì với Raymond?
Anh cầm tay cô ta, xiết chặt, hôn lần lượt theo thói quen từng ngón một. Cô cười ẻo lả:
- Ông cứ hỏi xem anh ấy đã làm gì tôi thì hơn…
- Thế thì sao?
Cô cười to hơn và bĩu môi.
- Chẳng có gì lắm!
Con hổ đực bắt đầu gầm lên. Nó dừng lại ngó nhìn cái đám người còm nhom đang chăm chú theo dõi, rồi thong thả quay mõm khinh thường, bước tới con hổ cái. Nó húc đầu vào con kia; con này giả như chết, không động đậy. Nổi giận nó trở lại tấn công, húc con kia lăn tròn như chú mèo con. Con kia liền phát cáu, nhảy phắt lên giơ móng và lao tới con đực. Nhưng con đực không hề lùi, thế là con cái đâm sợ cái cặp mắt sáng lóe mở trừng trừng như hai cây đèn pha xanh. Nó oằn người nằm bẹp xuống, trở nên hiền lành. Còn con đực tàn nhẫn quơ chân tát, quất ngã ra và đè lên nó. Hai con vật giao cấu với nhau nằm bất động. Con hổ đực đắc thắng tiếp tục gầm.
Vừa bị kích thích vừa sợ hãi, Liseron xiết chặt tay Fierce và dõi nhìn hau háu, thở hổn hển. Mỗi tiếng rống khiến cô càng bấu chặt móng tay, và khi con hổ cái nhận được phần thưởng về sự e lệ của mình, gan bàn tay anh bị bấu chảy máu.
Fierce nhìn tay mình, rồi nhìn người đàn bà trẻ:
- Cô có lẽ cũng thích làm hổ cái đấy nhỉ?
Cô ta lấy quạt đập lên cánh tay anh:
- Ông im đi!
Trong cũi mọi chuyện đã xong. Con hổ đực ở cách chỗ con cái nằm ít bước, nhỏm ngồi dậy, lặng lẽ, kiêu hãnh, mắt nhìn thẳng về phía trước, lơ đãng.
- Cô đi bộ hả? Fierce hỏi.
- Ồ không! Xe tôi đang ở ngoài lối đi. Ông cũng đi xe chứ? - Không, tôi đến đây dạo chơi thôi.
- Chả lẽ nắng thế này mà ông cuốc bộ về à?
- Cũng đành vậy.
- Điên quá chừng! Khéo mà ngã gục mất thôi... Nếu ông không bận quân phục, tôi có thể dành một chỗ cho ông...
- Sao lại không nhỉ?
- Ô, mọi ngườì sẽ nom thấy.
- Rồi sao?
- Thật, ông không cho là phiền hả?
- Có mà điên!
Trong xe ngựa, anh chuồi cánh tay sau lưng Hélène để vuốt phẳng các nếp váy áo cô.
- Tôi cho đỗ ở đâu đây?
- Tại nhà cô. Cô về nhà Raymond hả?
- Không đâu, tôi về khách sạn của tôi, đường Catinat…
- Thế thì, đường Catinat…
Xe lại chạy.
- Anh chàng Raymond đã để cô biến đi như thế hả, sau bình minh? Cô ta lại bĩu môi.
- Anh ấy làm sao giữ tôi lại được cơ chứ. Cứ ngủ say như chết, chắc giờ này cũng chưa biết là tôi đã đi ra.
- Thế hả? Cô làm cho cậu ấy mệt đến thế cơ à?
- Hỏi lạ! Trước hết, việc đó có quan hệ gì đến ông.
Nhưng cô ta lại nhếch mép mỉm cười, và bàn tay của Fierce vuốt ve bả vai cô ta. Cả hai bật cười, cùng nghĩ đến những chuyện như nhau.
- Kỳ quặc thật, cô lẩm bẩm. Anh ấy trẻ, to lớn, khoẻ mạnh... và.. - Và chóng mệt.
Cô ta gật đầu và thẹn thùng nhìn xuống.
- Ôi trời, Fiere giảng giải, cậu ấy trẻ, đó là cô nói vậy. Chứ mà đã ba mươi rồi đấy.
- Thì sao?
- ... Ba mươi tuổi, vài ba cuộc phiêu lưu – tôi không nghĩ rằng tôi dập tắt các ảo tưởng của cô khi mách rằng cô không phải là tình yêu đầu tiên của cậu ta đâu nhé... Vậy thì vài ba cuộc phiêu lưu, chút ít gia vị đây đó... Cậu ấy chẳng còn mới mẻ gì đâu. Bày hàng quá nhiều, hàng đã cũ.
- Ở tuổi ba mươi!
- Buồn quá thể, tôi chỉ mới hăm bảy và cô hãy tin rằng tôi cũng đã trải qua những đêm vật vã…
- Ái dà, ái dà, ông đang vẽ chuyện cái gì đấy? Tôi cũng đã ba mươi tuổi, thưa ông... Đó là một cái tuổi có thể nói thẳng toẹt ra. Và xin ông tin rằng với ba chục tuổi ấy không hề đè nặng lên tôi hơn là nếu tôi chỉ mới đôi mươi.
- Điều này chẳng có liên quan gì với nhau.
- Và tôi biết những người đàn ông rất nghiêm chỉnh – cứ nói là đứng tuổi đi - những ông năm mươi tuổi! Mà thực ra đáng giá hơn anh bạn của ông đấy.
Fierce ra hiệu là cái việc này thì anh cũng chịu, và không đáp lời. Ừ, đúng là người ta già đi nhanh, khi sống kiểu sống mà tất cả họ đang sống, Mévil, Torral và chính anh. Trong ý nghĩ anh, hình ảnh suy sụp tệ hại của Rochet hiện lên nhàu nhò xấu xí; và để xua đuổi đi, anh xiết chặt vòng tay quanh vai cô bạn. Một sự thèm muốn mơ hồ len trong đường gân thớ thịt, và anh cảm thấy nhẹ nhõm nhận thấy là mình trẻ trung khoẻ mạnh trước người phụ nữ đẹp.
Chiếc xe dừng lại;
- Tôi đỗ cho ông xuống đây nhá? Hélène nói.
- Không được phép lên nhà với cô hay sao?
- Ồ, có chứ. Thế nhưng, nếu ông cho là có sự lộn xộn thì tôi tháo lui ngay, vậy thôi.
Căn phòng khách sạn không lấy gì làm tươm tất lắm. Tường trát vữa nhám sì trần trụi, nền gạch không trải thảm. Nhưng chiếc giường lớn mới và chắc chắn, có vẻ vững chãi dưới tấm màn tuyn buông kín, và trên chiếc ghế dài bằng mây thấy vứt ngổn ngang một mớ váy áo sang trọng.
- Xin phép ông nhé, Hélène Liseron nói.
Đứng thẳng, hai tay giơ cao, cô soi gương tháo ghim mũ. Anh ngồi nhìn cô. Mái tóc hung xõa bồng bềnh, chiếc gáy nõn nà óng ánh lông tơ như dưới một mạng lưới vàng ròng. Hai cánh tay rắn chắc tròn lẳn nở xòe nơi đầu ống áo ngắn, một màn sương ấm lóng lánh trên làn da. Các ngón tay lùa trong tóc khuấy động một mùi thơm hắc và tinh tế.
Trong gương, Fierce nom thấy một cặp mắt ranh mãnh, rồi một nụ cười mỉm kỳ quặc. Thế rồi, rất tự nhiên như không, anh đứng dậy đến sau lưng ôm choàng lấy cô. Cô ta sửng sốt hoặc làm ra vẻ.
- Này này, ông làm cái gì thế?
Anh tuyệt nhiên không đáp gì hết, vì đang hau háu cắn vào chiếc gáy vàng óng lông tơ. Anh rờ rẫm toàn bộ thân hình, từ khoeo chân và đầu gối, đến bả vai và bộ ngực. Cô kêu lên:
- Ông có bỏ ra không hả?
Anh làm điều ngược lại, bế bổng cô như con búp bê, một tay ôm ngang lưng và tay kia dưới bắp đùi. Anh đặt cô nằm ngửa trên chiếc ghế dài giữa đống váy áo sột soạt. Cô ta chống cự lấy lệ chút ít.
- Ông thôi đi chứ!
- Thì tôi đang thôi đây.
Quả thật là anh dừng lại - theo kiểu của mình – rồi anh đứng dậy, rất bình tĩnh, đứng đắn tức thời.
Không một lời, cô ta quay về soi gương và chải tóc. Rồi cười, như con gái nhà lành. Anh muốn đùa, tiến đến sau lưng để hôn từng chặp vào mái tóc thơm.
- Này này, cô đột nhiên nói. Thế còn Raymond?
- Sao, Raymond?
- Ông không hối hận sao?
Anh tỏ ra rất lịch sự:
- Cô xinh đẹp quá!
Cô ta bĩu môi vẻ thích thú và không tin, lại hỏi:
- Thế nhưng hai người là bạn thân, phải không nào?
- Thì đúng thế.
- Ừ, thế nhưng nhỡ anh ấy biết? Anh ấy nổi cáu cho mà xem.
Anh cố nén để khỏi bật cười. Ghen tuông chẳng phải là một tình cảm văn minh; mới lại quả tình, Mévil chẳng hề quan tâm mảy may đến bất cứ một cô nhân tình nào.
Cô ta âu yếm nhìn anh, chờ đợi một cái hôn. Hiển nhiên là cô nghiêm khắc đánh giá việc Fierce phản bội Raymond, và vẻ đen tối của cái tội lỗi này, vì cô mà anh mắc phải, vuốt ve lòng kiêu hãnh cô ta một cách dễ chịu. Anh hôn cô để chiều lòng mặc dù nhuốm chút mỉa mai. Giờ đây khi đã chiếm được cô ta, anh hoàn toàn dửng dưng đối với cô. Quỷ quái thật, thực ra, tại làm sao lúc nãy anh lại nhảy sổ lên cô ta thế kia chứ? Chà chà!
Ðến trưa anh trở về tàu ăn trưa. Người thủy thủ đài chỉ huy đón đợi anh để ký nhận vào một mệnh lệnh mới. Anh đọc:
“Phó đô đốc chỉ huy sư đoàn 2 Hạm đội Trung Hoa.
- Lệnh:
- Bắt đầu từ hôm nay, trường sơ cấp và trường thể dục ngừng hoạt động trên các tàu của sư đoàn.
- Thay vào, các chỉ huy cho tất thảy đoàn thủy thủ luân phiên tập các môn bình thường và tập bắn đại bác.
- Ngoài ra tất thảy mọi đêm, sau lệnh chuẩn bị chiến đấu sẽ tập ngắm mục tiêu ban đêm.
- Đô đốc nhấn mạnh tầm quan trọng cực kỳ của các cuộc tập luyện nói trên, và đặt lòng tin ở nhiệt tình và lòng yêu nước của tất cả để tăng cường nhanh chóng sức mạnh có hiệu quả của các tàu do Cộng hòa giao phó.
Làm trên tàu Bayard, ngày 27 tháng mười hai 19…
“D’Orvillers”
… Tốt! Fierce nghĩ, các cái trò ngu xuẩn bắt đầy rồi đây.
10
Cách đó tám hôm, buổi sáng Fierce thức giấc tì khuỷu tay lên bậu cửa tàu.
Do thời tiết thất thường, đêm qua có mưa, một trận mưa rào ngắn và xối xả, như thường xẩy mỗi tháng một lần giữa mùa khô. Không khí nhờ vậy được vẻ mát mẻ mùa xuân, tuy bầu trời đã cháy hừng dưới vầng dương bốc lửa. Fierce quan sát thấy bờ trái sông Đồng Nai, vùi dưới đám cây cối xanh um, xếp thành lớp lớp chồng lên nhau: thật thấp bên dưới, là đám lau sậy, chuối, cọ lùn, la đà trên dòng nước, dồn ép chen chúc không để hở một lỗ, một khe nào như hàng rào kín đặc. Phía trên là mộc lan, cây đa, keo, me xen kẽ với các bụi tre; các màu sắc hòa vào nhau duyên dáng; màu xám dịu thân tre, màu xanh bóng cành quýt, màu nâu kim loại cây phu danh lá tròn. Các bông hoa vô số điểm lấm chấm cành lá, - hoa trắng, hoa vàng, nhiều nhất là hoa đỏ - phượng đỏ thắm, bông bụt đỏ son. Cuối cùng cao hơn nữa là những cây cọ gồm nhiều giống loài đu đưa cành lá thanh mảnh, in bóng kỳ lạ rối rắm lên nền trời chói lóa. Các thân cau cao vút trộn lẫn tàu lá dài với các tàu cọ xòe như chiếc quạt và tàu dừa lua tua trĩu quả - mọi cái đó bay lượn trên khu rừng như những cụm đẹp tuyệt vời ở đầu các thân cây mảnh mai màu trắng nom giống những cây cột kiến trúc thời cổ đại.
Phía dưới chiếc cửa tuần dương hạm, làn nước màu vàng lướt qua thân tàu. Nó trôi nhanh, vội vã nom đáng sợ, cuốn theo những thân cây chìm một nửa, những cành lá, tấm ván, những mảnh vỡ đến từ xa, những vật trôi giạt chẳng còn ra hình thù của cái Châu Á mênh mông xa lạ. Mặt trời khoác lên mặt sông một tấm vải chói lói, tới mức không còn nom rõ các lỗ đen dòng xoáy nuốt chửng mọi cái vật vờ trôi qua.
- Hay lắm, cái cảnh tượng này, Fierce nói.
Anh cảm thấy tâm trạng lúc này vô cùng sảng khoái. Ðêm qua anh không hút thuốc phiện.
Tuần lễ vừa qua thật là thuận lợi. Nhanh hơn điều anh hy vọng, Sài Gòn đã tiếp đón anh bằng nơi ăn chốn ở hợp ý mình: nhà cửa tốt, bữa ăn vui vẻ - rồi là cái còn lại. Nhà ở chỉ là một căn phòng để nghỉ trưa, rộng, trần trụi, mát mẻ, chỉ kê một chiếc giường lót bông cỏ mắc sẵn màn và buộc một quạt kéo do thằng bé kéo.
Qua cửa sổ nom thấy một cây phượng mọc nghiêng lòa xòa cành lá với những chùm hoa lay động. Phía ngoài là khu phố cổ Tự Đức, gồm những đường phố nâu thơm tho đa số là người Hoa Kiều sinh sống, điểm những tiệm buôn và hiệu giặt là vui mắt. Có thể ngủ yên giấc trong sàn phòng thoáng đãng này, vào những giờ buổi trưa nóng như thiêu, khi mà các tấm tôn trên tuần dương hạm bị mặt trời hun nóng giãn nở đến mức sơn trắng nứt nẻ bong từng vẩy và hắc ín thì tan chảy nhỏ giọt.
Lúc bấy giờ Fierce cởi trần nằm dài trong màn, người ướt râm rấp sau nhiều lần đi tắm và mơ màng suy nghĩ về cảnh sống ở Sài Gòn, đồng thời chú ý không cựa quậy, vì chỉ cần thò tay ra thì tất cả cánh tay ướt đẫm mồ hôi.
Trong các bữa ăn tối, Mévill và Torral cùng dự. Với cả ba người, mỗi đêm cũng giống như cái đêm đầu tiên. Tình tiết có thay đổi. Nhưng dù ít hay dù nhiều thì bao giờ cũng là gái, thuốc phiện và rượu, xen những lúc tạm nghỉ để đi dạo chơi trong cảnh thôn dã ngủ im lìm vắng lặng.
“Cái còn lại”, cuối cùng, là do Hélène Lisere cung cấp. Chẳng phải Fierce đã coi cô ta như nhân tình chính thức, hoặc anh giữ lòng chung thủy với cô, như thế thì quả là buồn cười. Nhưng cuộc phiêu lưu đầu tiên giữa hai người đã khiến họ ưa thích nhau, và cả hai cứ tiếp tục dan díu vụng trộm. Fierce tìm thấy trong đó cái lợi giản dị hóa nếp sống của mình. Kể cũng tiện là làm nhân tình thứ hai của một phụ nữ mà người ta ưa thích tuy chẳng gắn bó. Còn khoản thêm nếu bắt buộc về các nhục giác xa lạ thì các bữa ăn tối ở Chợ Lớn, có nhiệm vụ cung cấp món gia vị Nhật Bản, An Nam hoặc Trung Quốc.
Hélène trong mọi việc này, để mặc cho số phận dẫn dắt và không hề coi nó là điềm rủi ro. Hai người tình nhân hào phóng vẫn hơn là chỉ một. Vả chăng, Fierce và Mévill lần lượt trả thù hộ cô người này qua người nọ.
Hélène cũng yêu cả hai bằng một thứ tình cảm khá mộc mạc nên không hề ghen. Cô đau khổ trong niềm tự ái và trong nhục cảm khi thấy họ yêu thương những người đàn bà khác. Vậy mà, Fierce chỉ giấu giếm rất ít các chuyện dan díu với người châu Á, còn Mévill thì phô trương phần lớn các trò ngủ nghê được tổ chức hoặc ngẫu nhiên. Vậy nên, Hélène bị lừa dối và biết mình bị lừa dối, thích thú có dịp đến lượt mình lừa dối, và mong ước có một ngày thú thực với mỗi tình nhân là mình vốn thích anh kia hơn. Trong thực tế, Mévill không hề biết có anh kia; Fierce, do vì nể Hélène, giữ kín điều bí mật, và vui vẻ chịu đựng là cô ta đôi lúc hù họa anh, do ghen tuông hoặc do bạo dâm gây đau, là sẽ “nói ra mọi chuyện”… Chỗ trú tốt, bữa ăn vui vẻ - và cái còn lại…
Trên tất cả mọi thứ, là vẻ mãn nguyện bề ngoài về một mục đích cuộc sống và con đường tiến tới mục đích ấy. Từ khá nhiều năm nay Fierce sống tuân theo nhục dục, và chẳng tìm kiếm gì ngoài chuyện thỏa mãn chúng một cách tốt nhất. Nhưng những ngày thân cận với Mévill và Torral khiến giờ đây anh nghĩ trên đời chẳng có cái gì tốt đẹp hơn, và cái tốt mà người ta từng ước vọng chỉ là ảo tưởng, cho nên rốt cuộc anh thấy nên khép mình vào cái công thức văn minh: Hưởng thụ tối đa với nỗ lực tối thiểu. Tính thẳng thắn khoa học của mệnh đề này quyến rũ anh.
Kiểu các bạn bè nhất nhất làm theo châm ngôn của họ cũng khiến anh thích thú không kém, Mévill, vốn tính duy nhất chỉ thích chuyện làm tình, chính thức có năm cô tình nhân, và không bỏ lỡ bất cứ một cuộc hành lạc nào do sự tình cờ tạo nên. Không một thành kiến nào quy định sự chọn lựa của anh; và bất cứ đôi môi nào cũng thu hút như nhau cái hôn hít của anh, chỉ cần cô ta trẻ và có vành môi uốn vòng cung. Một ca sĩ ôpêrét, một cô ăn chơi kiểu thượng lưu, vợ một trạng sư nổi tiếng, một “con gái” An Nam giúp việc, cô hầu – nô lệ hơn là cô hầu – tình nhân, một cô Nhật Bản nhà thổ, cứ thứ ba được vời đến cho cuộc làm tình hàng tuần, một cô gái có tiếng là ngây thơ, lén lút bê tha trụy lạc; tóm lại là năm phụ nữ - mà mỗi người nếu biết nhau sẽ khinh miệt bốn người kia, do vì số phận khác nhau – cả năm người đều thích được khen ngợi, vuốt ve và bị khinh rẻ như nhau bởi cái anh tình nhân chuyên nghiệp không bao giờ bối rối vì yêu thích riêng người nào. Và cái đó hiển nhiên là một cách sống khôn ngoan. Còn Torral, vốn chiết trung, cân đối các thú vui của mình theo toán học kiểu khoái lạc chủ nghĩa và khoe là mình biết biểu hiện bằng cách như vậy tất cả
hạnh phúc chứa đựng trong cuộc sống. Mục đích ấy cần phải đạt tới, vậy dư luận thiên hạ chẳng tồn tại trước mắt anh; và anh phô trương ngay trong đường phố các mối dây dợ đồng tính luyến ái của anh, dắt đi dạo giữa khu Thanh tra hai chú con trai thân thiết, Ba và Sao. Cái này lại cũng là đức khôn ngoan – được tôn lên bằng một thái độ trâng tráo hầu như dũng cảm.
Vậy nên, Fierce thích thú cái đời sống Sài Gòn của mình đồng thời, cũng thích thú coi như cách hưởng thụ ấy là có căn cứ vững vàng.
Anh đưa mắt nhìn một lần cuối dòng sông có cây rừng bao quanh. - Sài Gòn, một thành phố hay tuyệt.
Ngày hôm nay chủ nhật, mồng 2 tháng giêng; ông đô đốc lát nữa sẽ tổ chức bữa tiệc trưa thân mật. Fierce, vốn ghét các cuộc tiếp đón xã giao coi như lao dịch, nhưng anh nhận lời, vì có cô bé Abel sẽ đến dự, con gái ông phó toàn quyền, bức tượng bạch ngọc xinh đẹp có cặp mắt nhân sư, ngay hôm đầu tiên đã khiến anh mê mẩn và càng quyến rũ anh thêm qua mỗi lần gặp mặt. Cái cô bé kỳ lạ, anh nghĩ; một làn nước ao tù cứ khiến người ta muốn ném một hòn đá xuống xem cái gì sẽ nổi lên mặt nước. Tại bữa tiệc có mặt, ngoài gia đình Abel, ông bà toàn quyền vốn là bạn cũ của đô đốc d’ Orvillers, và một cô con nuôi được ông toàn quyền giám hộ, mẹ cô góa chồng và mù, sẽ không cùng đi đến chỗ tiếp tân. Fierce, trong phòng ăn đã được dọn sẵn, lo việc cắm hoa và tìm trên kệ các vách ngăn kiểu Nhật của đô đốc chỗ cắm hoa hồng và phong lan. Trong lúc đặt trên tờ thực đơn của phụ nữ những nhành hoa để cài lên áo, anh đọc các tên được viết nắn nót và dừng lại ở tên cô con nuôi ông toàn quyền, mơ hồ sực nhớ lại. Cô Sylva là ai nhỉ? Anh bèn hỏi ông đô đốc đang ngồi trong phòng giấy, gập lại các sơ đồ pháo binh.
- Sao, ông d’ Orvillers nói, anh không còn nhớ thật sao? Nhưng là lịch sử đấy!
Ông ta kể:
- Cô Sylva không phải ai khác là con gái đại tá Sylva lừng danh, chỉ huy đội kỵ binh Phi châu, bị chết trong trận El-Arar trong một cuộc xung kích
oai hùng nhất thế kỷ. Ông d’ Orvillers nói vậy, rồi kể tiếp về ông bố mà quên bẵng cô con, miêu tả chi tiết cho anh sĩ quan tùy tùng, lơ đãng một cách kính cẩn, nghe lịch sử chi ly trận đánh nói trên, và niềm vinh quang mà đội kỵ binh Phi châu đã giành được trong dịp này dưới quyền chỉ huy của vị anh hùng Sylva. Fierce, dù vui lòng hay miễn cưỡng, được biết rằng đây là một lữ đoàn bị phản bội và bao vây ở biên giới Maroc, lữ đoàn này ai nấy cũng đã tưởng bị tiêu diệt nhưng vì đã nhờ được hai đại đội phái đi trinh sát cứu thoát một cách thần kỳ. Đại tá Sylva vốn đã từng chỉ huy các đại đội này. Bản thân cũng bị bao vây bởi một vùng nổi dậy, ông đã thoát ra bằng một mũi đột kích kỳ diệu, và phóng ngựa ba ngày xuyên qua những đám quân địch dày đặc, không hề một lần tra gươm vào vỏ, vào chiều ngày thứ ba ông oai hùng xuất hiện phía sau quân Maroc đang nắm chặt phần thắng, và biến cuộc chiến thắng ấy thành chiến bại. Sau đó, mang theo bao nhiêu vết thương đến mức bộ áo nẹp xanh da trời nhuốm đỏ màu máu, ông đã dẫn đội kỵ binh chiến thắng về đến các lều trại Pháp, kêu to: “Dừng lại!” và ngã xuống tắt thở.
Fierce, nghệ sĩ, ngưỡng mộ cử chỉ này cùng là cảnh tượng huy hoàng sặc sỡ các đại đội quân phục xanh đỏ xông thẳng mở đường máu giữa đám áo choàng nâu. Rồi anh mỉm cười thương hại khi nghĩ đến cái điên rồ mọi sự. Còn lại cái gì nào? Những vợ góa, con côi, được dán nhãn hiệu một cách hoa mĩ: gia đình anh hùng, - thế rồi tha hồ chết đói giữa sự ngưỡng mộ chung. Anh hình dung ra cô bé Sylva: một cô gái gầy gò da bánh mật với khuôn mặt nhìn nghiêng đầy góc cạnh, vẻ kích động, sướt mướt, ngu đần đến tột bậc – kiểu gái già. Ông đô đốc, mắt nhìn xa xăm, mơ về những sự tích anh hùng; còn anh chàng sĩ quan tùy tùng thì nhún vai lẩm bẩm: “Những con người tội nghiệp – và con bé tội nghiệp!”
Lúc bấy giờ đúng mười một giờ, thủy thủ đài chỉ huy báo tin ông toàn quyền sắp đến, và viên sĩ quan trực ban gọi toán lính gác đến xếp hàng cạnh cửa tàu. Fierce leo xuống thang để giúp đỡ phụ nữ. Trong chiếc canô đang tới gần, những tấm bảng đồng bóng nhoáng phản chiếu ánh mặt trời, và không thể nom thấy gì giữa cái nhấp nha nhấp nhánh kia.
Ca nô áp mạn cửa tàu. Fierce trông thấy mái đầu bạc và gương mặt loắt choắt của ông toàn quyền, mái đầu hoa râm nghiêm nghị của ông Abel, và ba chiếc dù màu hồng, hoa cà và xanh lam. Chiếc dù hoa cà ngả xuống;
Fierce đỡ cánh tay bà Abel, bà nhảy lẹ làng lên các bậc đầu tiên: anh nom thấy bà như thường lệ, chẳng xinh đẹp tí nào nhưng tươi cười vẻ đôn hậu, nom dễ thương.
Cô Abel - dù màu hồng - bước lên tiếp. Cô vẫn giữ ánh mắt nhìn bí ẩn của nhân sư. Cô cầm tay anh và dựa lên rất ít. Những ngón tay thon mát không vịn chặt vào. Fierce ngưỡng mộ cái cổ tay thanh mảnh tròn trịa.
Cuối cùng chiếc dù xanh để lộ khuôn mặt cô Sylva.
Fierce ngạc nhiên, vì cô tuyệt nhiên không hề giống bức chân dung anh đã vẽ phác về cô.
Cô Sylva không hề gầy gò, da không nâu, cũng chẳng có vẻ bí ẩn quyến rũ, mà có cặp mắt màu xanh người ta chú ý thấy đầu tiên, vì mắt cô rất to và nhìn rất thẳng.
Cô nhảy lên bậc mà không đụng vào bàn tay chìa đón; cô nhảy một cách táo bạo; Fierce thấy dáng cô mềm mại và khỏe mạnh, tuy mảnh mai. Anh bước lên sau và khi lên đến boong anh đưa cánh tay dìu cô. Kèn thổi bài chào vị toàn quyền. Cô đứng dừng lại ngước mắt nhìn phù hiệu con tàu; Fierce nghe cô lẩm bẩm đọc cái khẩu hiệu: “Không sợ hãi và không thể chê trách”
Anh nhìn cô khi hai người sóng bước; cô có nước da sáng dịu, vầng trán trong trẻo, miệng kiêu kỳ ranh mãnh - và trùm lên tất cả là một nét quyến rũ tràn đầy vẻ thanh xuân, duyên dáng và trung thực. Anh nhận ra tức thì cô là tuyệt vời và quên khuấy cô Abel. Tuy nhiên lúc thấy hai cô ngồi cạnh nhau trong phòng khách phía đuôi tàu, anh phải thú nhận là bức tượng nhân sư bạch ngọc rõ ràng hơn hẳn bởi vẻ đẹp đều đặn và nét bí ẩn của cặp mắt sâu xa. Nhưng trong thâm tâm anh cảm thấy bực bội - như chịu một thất bại cá nhân - và sau đó mỉm cười thoáng vẻ tự hào khi nhận ra rằng, tuy không đẹp bằng, song Sylva vẫn xinh hơn, vì sinh động hơn, nữ tính hơn và ít pho tượng hơn.
Tại bàn tiệc hai người ngồi cạnh nhau. Phòng ăn của đô đốc thông thoáng nhờ hai cửa tàu sát góc dùng làm lỗ châu mai cho đại bác chặn hậu;
những khẩu đại bác này hơi vướng víu một tẹo; nhưng là những nét độc đáo dưới mắt các bà và Sylva đang ngắm nghía chúng; Fierce chiều lòng cung cấp vài điều giảng giải thú vị, thế là hai người hết ngỡ ngàng. Cô Sylva vốn tò mò và không giấu sự hiếu kỳ; các bức rèm bằng vải sợi amian, bộ bát đĩa gia đình in huy hiệu công tước, các vách ngăn kiểu Nhật Bản với chùm phong lan lần lượt gợi những câu hỏi mà Fierce cho là ngây thơ lại được thốt ra từ cái miệng không được quyến rũ lắm. Nhưng trái lại Fierce thích thú trả lời, và một cuộc trò chuyện bắt đầu, liền sau đó rất sôi nổi. Niềm vui thích hợp với cô Sylva, nụ cười của cô xinh đẹp nhất trên đời. Fierce tìm mọi dịp gợi nên cái tiếng cười ấy, và cô gái nhận thấy anh bạn trai thật đáng yêu.
Hai người chuyện trò vui vẻ. Fierce chẳng hiểu gì về các cô gái; vả chăng anh không tin có sự tồn tại của họ. Những sinh linh được mệnh danh như thế mà anh từng gặp đó đây, trong các chuyến đi hoặc lúc dừng chân ở Pháp, và trong bốn phòng khách ở Paris nơi thỉnh thoảng anh vẫn xuất hiện, đã để lại trong anh những kỷ niệm không hay; họ chỉ là những bản phác thảo phụ nữ, lại còn sa đọa và lừa dối hơn cả phụ nữ. Anh ngắm nhìn ở họ cái vẻ xinh xẻo như đồ mỹ nghệ tinh tế, màu mè và chưa hoàn bị; và anh nhìn họ thoạt đầu thì thích thú, rồi ghét bỏ họ khi họ mở miệng. Cô Sylva, ngược lại với tất cả cái đám trinh nữ bị khinh rẻ kia, dưới mắt anh có vẻ trung thực hồn nhiên, tóm lại là thiếu nữ, trong nghĩa cổ xưa của nó. Anh lấy làm ngạc nhiên và thỏa mãn, tuy lúc đầu có phần hoài nghi về cái vẻ hồn nhiên và trung thực nọ.
- Tôi thật may mắn thưa ông, cô Sylva vui vẻ nói: cho đến sáng nay, tôi cứ lo sẽ xẩy ra cái gì trở ngại và bữa tiệc này sẽ vẫn nằm trong mộng tưởng mà thôi.
- Cảm ơn cô về chuyện bữa tiệc, Fierce vừa nói vừa cười. Thế là, thưa cô, cô cũng thích chui mình vào cái lồng của chúng tôi đấy nhỉ?
- Cái lồng của các ông thật tuyệt vời… Phòng ăn này đẹp ơi là đẹp, vừa đơn sơ vừa rất thích hợp cho một nhân vật quan trọng đến vậy.
- Và chúng ta lại nhìn ra biển!
- Ông nói đùa, thế là rất không tốt. Thế nhưng quả thật, tôi vốn ước ao đến thăm chiếc Bayrad nổi tiếng này. Cả Sài Gòn chỉ nói về nó, báo chí toàn viết về các ông… Thế rồi một bữa tiệc kiểu quân nhân, quả thực là một ngày hội đối với một cô bé gái.
- Bé thế kia ư?
- Tôi vẫn đang chơi búp bê mà… Suỵt! chớ nên nói ra. Nhưng tôi yêu biết bao con tàu, và các thủy thủ, và mọi thứ…
Fierce ném một cái cười mỉm.
- Cô yêu các thủy thủ hả? Vì sao cô yêu thủy thủ?
- Vì là… Cô Sylva ngừng trong giây loát… - vì rằng họ không phải là người như các ông đàn ông khác.
- A… Rất hay.
- Không đâu… Họ không giống những người đàn ông như đám đàn ông bây giờ… Cả binh sĩ của ta cũng chẳng giống… Họ chu du khắp thế giới, họ đi đây đi đó và chiến đấu bất cứ đâu, chẳng quan tâm đấy là đất nước nào, quân địch nào… Và họ chẳng hề tính toán đến tiền bạc, vì nếu muốn thì họ đã có thể kiếm được những món tài sản lớn; nhưng họ chẳng muốn. Họ cứ thích vẫn là binh sĩ hoặc thủy thủ. Đó đúng là những con người thủa xưa…
Fierce ngẫm nghĩ…
- Và thế đấy, cô Sylva kết luận, vì sao tôi không hài lòng được có mặt ở đây, sau khi rất sợ là không tới được.
Fierce ra khỏi cơn mơ mộng.
- “Rất” sợ? Nói thật tình là chúng tôi đã suýt không được đón tiếp cô, có phải không?
- Tôi sẽ không đến nếu mẹ tôi ốm…
- Tôi nghĩ mẹ cô tuổi rất cao?
- Tuổi chưa cao lắm, nhưng yếu, nhất là vào lúc thời tiết nóng nực này. Bà cảm thấy rất trống trải khi tôi không ở cạnh bà, chắc ông đã biết bà bị mù từ ba năm nay?
- Tôi có biết. Cuộc sống với cô chắc không vui vẻ lắm, thưa cô.
- Vui chứ! Bao giờ ông gặp mẹ tôi – ông sẽ gặp – bà cụ là một bạn cũ của ông d’ Orvilliers – ông sẽ thấy là không thể buồn bên cạnh bà. Bà rất tốt và luôn luôn tươi cười, rất tuyệt vời, rất hoàn hảo…
- Cô yêu bà chứ?
- Ồ, rất yêu. Tôi lại còn nghĩ không thể yêu một người nào khác bằng như yêu mẹ tôi… Vả chăng chắc ông cũng nhận điều này là khá tự nhiên. Nhưng nếu như không phải con bà đẻ ra thì chắc chắn tôi cũng sẽ yêu bà như vậy và sẽ có niềm hạnh phúc bằng vậy được sống cạnh bà…
- Tôi không hề biết đô đốc vốn là bạn của mẹ cô.
- Hai người biết nhau từ lâu lắm, rồi không có dịp gặp nhau sau khi đã hết sức thân thiết. Tất thảy mọi điều này xẩy ra trước ngày tôi ra đời; về phần tôi chỉ mới thấy ông d’ Orvilliers hồi nãy là lần đầu… Nhưng tôi đã mến ông từ lâu: mẹ tôi đã bảo lần nói với tôi về ông. Tôi biết ông rất tốt, và nhân cách ông rất đẹp.
Fierce liếc nhìn ông đô đốc, ánh mắt ông nom hồn hậu tương phản với vẻ mặt nghiêm nghị khắc khổ.
- Cũng như cô vừa nói ấy, đó là một con người thời xưa.
- Vâng… thời xưa hay hơn thời bây giờ.
- Có thể, Fierce nói. Thế là, thưa cô, cô sống ở Sài Gòn hầu như là người hộ lý và cô vui vẻ với cuộc sống của mình. Cô không buồn bao giờ chứ?
- Không bao giờ! Tôi rất là bận rộn, thử nghĩ mà xem!
- Đúng vậy, cô có con búp bê của cô…
- Ông có im không đấy! Ông giữ kín các bí mật Quốc gia mà người ta trao cho ông như vậy đấy hả! Khéo mà tôi bị mất danh dự vì ông: ông có biết rằng sang tháng tôi đầy hai mươi tuổi? Hãy để “con gái tôi” yên. Tôi là mẹ chỉ để đùa thôi, còn tôi thật sự là chủ nhà đấy.
- Đúng thế.
- Và là chủ nhà giỏi giang đấy, xin ông tin như vậy. Trông nom nhà cửa, đọc sách, dạo chơi, đó là toàn bộ đời sống chúng tôi, rất đầy đặn và tuyệt nhiên không hề buồn chán… Thích biết bao ngồi bên ngọn lửa, cả khi lửa, như ở đây, là một huyền thoại.
- Đó là một hạnh phúc, Fierce, mà dân thủy thủ không phải bao giờ cũng biết đánh giá đúng. Nhưng tôi vẫn có thể hình dung được bằng tưởng tượng. Cô chẳng hề thích giao du?
- Có chứ, ông cứ tưởng! Ngồi bên ngọn lửa không hề ngăn cản sự giao du: Tôi rất thích các cuộc khiêu vũ, các dạ hội, các cuộc đi chơi, các bộ trang phục, nhất là quân phục. Và tôi khiêu vũ như điên. Thưa ông chúng ta sẽ cùng nhảy tám hôm nữa ở phủ toàn quyền. Ông giám hộ của tôi sẽ tổ chức tiếp tân đón mừng Bayrad, và tôi sẽ dành cho ông dòng đầu trong sổ tay của tôi.
- Tóm lại thế này nhé, và xin ngàn lần cảm ơn. Thưa cô, có có biết không cô là một cô gái trẻ rất chiết trung? Gia đình, cuộc sống khá giả, các bộ quân phục, các thủy thủ - gì nữa nhỉ? Cô yêu thích tất cả, không phân biệt.
- Phải thế thôi, hỡi ôi! Suy cho cùng thì cuộc sống chẳng có gì hay ho đến vậy… Phải làm cho nó vui lên chút ít… À này, tôi nghĩ đến chiếc tàu thủy đã đưa mẹ con tôi từ Pháp sang đây: ba mươi ngày lênh đênh trên sông nước, lúc đầu tôi cứ tưởng là dài dằng dặc và đơn điệu không tưởng tượng được; nhưng chuyến tàu đầy những con người thật dễ thương, và chúng tôi liền tổ chức các trò chơi, các buổi đọc sách, các bữa ăn nhẹ; chiều tối chúng tôi khiêu vũ trên boong thượng; sau bữa ăn trưa chúng tôi tập một vở hài kịch; cuối cùng chuyến đi biển đã diễn ra như trong cơn mơ. Cuộc sống cũng giống y thế thôi; một chuyến đáp tàu thủy; phải làm cho vui chuyến đi.
- Cô là nhà triết học hả?
- Hoàn toàn không! Tôi rất sợ những cái trò lý luận chẻ sợi tóc làm tư. Và tôi cho thật ngớ ngẩn và phi lý cứ cãi vã không thôi chuyện linh hồn, chuyện vĩnh cửu, chuyện cõi vô cùng vô tận mà chẳng đi đến cái gì thuộc lẽ thường… Đây là đầu đề tôi luôn luôn tranh cãi với Marthe.
- Marthe?
- Marthe Abel đấy. Ông không biết tên cô ấy là Marthe hả? À này, người ta lại còn hay gán cho chị ấy một tên đùa gì đấy.
- Cô nói đi.
- Cô là một người bạn thân kín đáo…
- Bạn thôi, dù thân hay sơ nhưng luôn luôn kín đáo.
- Ít ra cũng là bạn thân chứ?
- Bạn tôi. Tôi không có bạn gái trẻ. Mấy cô gái khiếp sợ tôi: hình như tôi là một đứa ngổ ngáo, vô giáo dục…
- Mà lại thế này à, thưa bà?
- Cam đoan với ông thế. Chả thấy ghi trên trán tôi đấy là gì. Tóm lại, tôi là con trọc trụi, con khốn nạn. Marthe chịu đựng tôi vừa phải, nhưng chúng
tôi không cùng chung ý tưởng…
- Thí dụ…
- Này nhé, bạn ấy sính triết lý. Bạn ấy lý luận, biện luận, đọc những pho sách Đức đồ sộ, đầy những lý thuyết trên trời dưới biển; bạn ấy không đi lễ, bạn ấy vô thần và tất cả mọi điều ấy khiến tôi bực mình ghê gớm…
Fierce, vẻ tò mò, liếc nhìn sang cô gái kỳ quặc nom giống như nhân sư. Cô Abel nãy giờ không hề mở miệng, cô lắng nghe và nhìn. Cặp mắt đen, sâu xa như mặt hồ, nom giống như những mảnh vải bạt có ánh xanh; thật không thể thăm dò cặp mắt kia và khám phá ra ý nghĩ nào đang xao động dưới cái làn nước im lìm. Cô Sylva nói tiếp:
- Tôi thì tôi không đọc Schopenhauer và tôi đi xưng tội.
Fierce quay lại nhìn cô bé trẻ xinh đẹp có mái tóc hoe vàng và cặp mắt màu thời gian, vẫn còn chơi búp bê.
- Sách giáo lý với cô là đủ hay sao?
- Với tôi là đủ hoàn toàn.
- Hẳn cô rất sùng đạo?
- Không phải là sùng đạo. Tôi không sống suốt ngày suốt tháng trong nhà thờ. Nhưng tôi là con chiên ngoan đạo, rất chăm đi lễ.
Fierce không nhún vai. Cô Sylva tiếp:
- Chắc hẳn ông là người theo đạo, thưa ông: tất cả các thủy thủ đều thế, phải điên khùng lắm mới phủ nhận Chúa… Nhưng đặc biệt tôi cho một phụ nữ mà vô thần là một thứ quái vật. Chẳng đẹp đẽ gì, cái chủ nghĩa vô thần; tôi nghĩ cái thứ chủ nghĩa này là dành cho mấy ông lão già, mấy anh thanh niên chưa vợ hay cằn nhằn, gàn dở, ngốc nghếch, hói đầu và đi đứng xiêu vẹo…
- Rất đúng, Fierce nói mà không nhịn được cười. Nhưng đó là một lý thuyết cũ mà cô vừa mới nhắc lại đấy cô ạ. Cô đã đọc Musset chưa?
- Có đọc một ít. Mẹ tôi xưa kia có găm lại nhiều trang, và từ ấy tôi không hề đọc các trang này. Tôi chờ đến khi lấy chồng.
- Việc này sẽ đến nhanh thôi.
- Tôi chẳng thích, xin ông tin như vậy, giờ đây tôi đang rất hạnh phúc, và chắc tôi không bao giờ hạnh phúc hơn…
Hai người trò chuyện thân mật, nhìn nhau và mỉm cười với nhau, không hề có ẩn ý. Họ bắt đầu thân mật, cô Sylva líu lo tâm sự, Fierce lắng nghe và không dám cắt lời. Cô Sylva coi người đối thoại là một bạn cũ, như đồng hương về chủng tộc và tâm hồn, hầu như người anh cả mà người ta biết là ý nghĩ, đức tin, lý tưởng giống hệt như đức tin của mình. Fierce suy đoán cái ảo tưởng cả tin của cô gái, và trong thâm tâm anh xấu hổ vì đã không làm tiêu tan đi mối ảo tưởng kia. Đôi khi, giữa hai câu hỏi, anh tự trách mình là sự im lặng này giống như một điều dối trá. Anh những muốn thẳng thắn – hoàn toàn thẳng thắn – nói “Tôi không phải người như cô tưởng đâu. Tôi chẳng có gì trong tim cũng như trong đầu để cô có thể yêu mến hoặc thông cảm. Và nếu như cô đoán thấy đáy lòng tôi, cô sẽ lấy làm kinh hãi. Tôi là một kẻ chán chường, hoài nghi và ngoại đạo, tôi chẳng tin cái thiện cũng chẳng tin cái ác, chẳng tin Chúa chẳng tin Quỷ sứ. Càng đi khắp mọi nơi, tôi càng dứt bỏ mọi thứ. Cô chồng chất lên con người tôi, do chiếu cố đến bộ quân phục tôi khoác, một lô một lốc những đức tính cổ lỗ không phải của tôi và tôn thờ cay đắng về cái chân lý trần trụi, sẽ khiến cô kinh hãi như một điều báng bổ. Chẳng có gì chung giữa cô và tôi cả.”
Nhưng anh lặng thinh chẳng nói ra mọi điều vì không đủ can đảm, - và đây là lần thứ ba người đầu bếp Nhật Bản mang cất đĩa thức ăn còn đầy của anh. Từ phía đầu bàn, đô đốc mỉm cười hướng về anh sĩ quan tùy tùng.
- Thưa ngài toàn quyền thân mến, tôi xin gửi tới ngài một lời khiếu nại chính thức: anh chàng Fierce của tôi quên cả ăn, để dễ bề tán tỉnh cô cháu giám hộ của ngài.
- Anh nhầm rồi, ông toàn quyền nói. Người ta chẳng ai dại dột đi tán tỉnh cô Sélysette, cô ta không phải là một thiếu nữ; đó là một anh con trai, và tôi thách thức cả Don Juan xem anh này có biết là cô ta mặc váy hay không; vả chẳng, ông de Fierce đang trò chuyện với cái cô bé rất máy móc hay chế giễu ghê gớm và tôi khuyên anh ta nên tránh xa thì hơn.
Cô Sylva cười ré tỏ ý phản kháng. Fierce thấy mặt cô ửng hồng lên: dòng máu nhậy cảm đỏ tươi hiện rõ dưới làn da quá mịn; anh nhớ lại ngày xưa lúc còn bé ti, anh hình dung các bà tiên là như vậy, trong những lâu đài bằng ngọc…
- Cô tên Sélysette hả? Tên đẹp và hơi lạ tai.
- Quá lạ tai! Nhưng cha tôi vốn thích cái tên này, và tuy có ba bốn tên để chọn, tôi bao giờ cũng mang cái tên mà cha đã đặt cho tôi.
Fierce lại bắt đầu mơ mộng – và anh không hề nghĩ tới cái điều đáng ngạc nhiên về niềm thú thích ngược đời mình đang nếm hưởng cạnh cô bé này, cô bé với những ý nghĩ nguyên thủy – anh, một kẻ văn minh, bạn của Mévil và Torral, bạn của Rochet.
Mọi người đã rời khỏi bàn ăn. Trong phòng khách, Fierce bỏ rơi cô bạn ngồi cạnh để mời khách uống trà – một thứ chè xanh của Tứ Xuyên, rót trong những chiếc chén không quai. Ông toàn quyền, vốn là tay hùng biện còn nhớ đến thời Nghị viện, thuyết dông dài về các phong tục của thuộc địa – phong tục bản xứ và phong tục du nhập.
- “Người Trung Quốc thì hay ăn cắp, người Nhật Bản hay giết người. Người An Nam thì cả hai.” Nói điều này rồi, tôi lớn tiếng công nhận là ba chủng tộc có những đức tính mà châu Âu không hề biết, và có những nền văn minh tiến bộ hơn các nền văn minh phương Tây chúng ta. Vậy chúng ta, những người làm thầy họ mà đáng lẽ họ phải làm thầy của chúng ta mới phải, chí ít ra nên hơn họ bằng nền đạo lý xã hội của ta. Chúng ta, những kẻ thực dân, lẽ ra không là kẻ giết người cũng không là kẻ ăn cắp. Nhưng điều này là một điều không tưởng.
"""