"
Những Kẻ Sát Nhân - Elia Kazan PDF EPUB
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Những Kẻ Sát Nhân - Elia Kazan PDF EPUB
Ebooks
Nhóm Zalo
Elia Kazan
NHỮNG KẺ SÁT NHÂN
Tiểu thuyết
NGUYỄN HỮU ĐÔNG dịch
Dịch theo bản tiếng Anh: THE ASSASSINS
Happer Collins Book xuất bản, London.
NHÀ XUẤT BẢN VĂN HỌC
ELIA KAZAN người gốc Hy Lạp, quê hương của các vị thần, tên thật là Elia Kazanjoglous, từng nổi tiếng nhờ công lao phát hiện tài tử lừng danh James Dean qua những bộ phim thượng thặng của ông như Phía đông vườn địa đàng, Boomeran, Trên bến tàu, Một người trong đám đông...
Ngoài điện ảnh, ông còn nhiều thành công vang dội ở lĩnh vực sân khấu, và nhất là văn học, với các cuốn tiểu thuyết gây tranh cãi ồn ào nhất, bán chạy nhất thế giới.
Đã một lần, tờ New York Times in ở trang nhất bài viết đại ý rằng: Một hai bộ phim gần đây của Elia Kazan không thành công như mong muốn khiến ông quyết định ngưng làm phim để cầm bút. Hãy nên cám ơn sự thất bại đó, bởi nhờ vậy chúng ta mới được đọc những cuốn tiểu thuyết khiến văn đàn xôn xao như The Arrangement, The Assassins.
Chương Một
1
Sáng mai họ sẽ bay đi xa, và thượng sĩ Cesario Flores muốn nói vài câu từ giã. Ông làm công việc này đúng cách, cũng như ông từng làm mọi việc, không nói quá nhiều, hay quá ít, không lôi một cá nhân nào ra để khen ngợi hay khiển trách. Ông bảo họ là những quân nhân giỏi, và nếu có hôm nào nghe tin họ làm tốt một nhiệm vụ thì ông sẽ chẳng hề ngạc nhiên. Ông nhắc nhở họ đến lần thứ một trăm rằng những người lái máy bay không thể làm giỏi hơn các toán cơ khí viên bảo trì dưới đất. Rồi ông nói “Từ giã các bạn,” dừng lại, có vẻ suy tư, đẩy kính lên một chút trên sống mũi. Câu đùa cuối cùng của ông đã được dùng nhiều lần: ông không mong nhận được tin tức cửa từng người một, nhưng nếu có nhận được, thì yêu cầu anh em tha cho ông những tấm hình con heo Đông phương, vì ông đã nhận được quá nhiều từ những khóa trước. Khi ông mỉm cười, người ta có thể biết chắc ông người gốc Mehico, giòng họ De Las Flores.
Các binh sĩ cười lớn, xì xầm, rồi nhận ra ông đang nhìn họ, chờ đợi. Lúc tất cả im ắng trở lại, ông nói:
- Các bạn đại diện cho một đại cường quốc, đừng bao giờ quên điều đó.
Ông có vẻ định nói thêm một câu chua chát nào đó, nhưng lại thôi. Đủ rồi. Ông bước về phía các khóa sinh, hai mươi bảy người, bắt tay từng người một, gọi họ bằng tên riêng, cấp bậc. Đây là cách mà thượng sĩ Flores dùng để chúc may cho họ.
Thân hình đồ sộ quay lui, đúng điệu. Viên thượng sĩ sửa lại mũ và đi ra khỏi xưởng, bước dọc theo hành lang ra cửa. Trên cửa, một tấm bảng dài viết: NHỮNG CƠ KHÍ VIÊN GIỎI NHẤT THỂ GIỚI ĐÃ BƯỚC QUA CÁNH CỬA NÀY rồi đến tấm bảng thứ hai, do chính viên thượng sĩ yêu cầu viết BẠN HÃY HÃNH DIỆN. Bây giờ ông bước đến bãi đậu xe tráng nhựa bên hông dãy nhà, có ghi rõ tên ông trên đó. Xe của ông là một chiếc
Dodge màu nâu, thuộc tài sản của không quân. Thượng sĩ Flores sửa lại kính chiếu hậu cho đúng cách, buộc dây an toàn, dù từ đây đến văn phòng chỉ huy trưởng chỉ có ba trăm mét.
Đại tá Francis Dowd, chỉ huy trưởng căn cứ và quân trường nhìn lên khi Flores bước vào trao cho ông bản báo cáo về toán khóa sinh sắp ra đi. Ông nói:
- Anh không phải vội vàng như vậy! Tôi cũng chưa cần đọc nó, ít nhất từ nay đến cuối tuần!
Thượng sĩ Flores mỉm cười, “Thưa đại tá, vâng.”
Ông khoái lão đại tá Dowd này. Mỗi lần gặp lão ta ông đều có cái vẻ đặc biệt của người gốc Latinh, như một chàng trai vừa từ vùng Sonora đến, nét mặt tươi cười nửa thèm thuồng, nửa châm biếm đối với du khách Hoa Kỳ giầu sang. Đại tá Dowd nhìn Flores với vẻ mặt nghiêm nghị. Đó là cái lối biểu diễn tình thân giữa hai người. Ông ta nói:
- Anh đúng là một thằng điên, anh biết không?
- Thưa đại tá, vâng.
Đại tá Dowd từng phục vụ ở nước ngoài, và nhiều lần ông nói với vợ rằng trong cả quân đội chỉ có một người lính duy nhất ý thức được hiện quốc gia này đang phải đương đầu với một cuộc chiến tranh lớn. vì vậy lúc nào hắn cũng làm việc hết sức mình. Ông nói với vợ: “Đó là một tên lính nhà nghề. Loại này không có được bao nhiêu. Những lính giỏi thường yểu tử, và chỉ có những thằng lính tồi mới dễ trở về.”
- Thượng sĩ Flores? - Đại tá Dowd nói như hét:
- Thưa đại tá? - Viên thượng sĩ đứng nghiêm.
- Anh hãy dẫn vợ con đi chơi, câu cá. Lớp khóa sinh tiếp thứ hai mới tập trung, như vậy có nghĩa là thứ ba, và đôi với anh, có nghĩa là anh không phải lo gì đến chúng nó, cho đến chừng nào xong các thủ tục, tức là thứ tư, vậy anh nên đi nghỉ vài ngày. Mệnh lệnh đấy.
- Thưa đại tá, tôi thích đời sống nơi căn cứ này..
Flores đáp.
Căn cứ không quân Collins thuộc tiểu bang New Mexico, về phía nam Albuquerque, sát với thành phố sa mạc. Đây là cả một thế giới. Đứng giữa vùng này, người ta chỉ thấy những cơ sở của không quân. Xung quanh, khắp các phía, là những dãy núi xa xôi, như những phông cảnh sân khấu. Một du khách dễ dàng có ngay cảm tưởng nơi đây, chỉ không quân là tồn tại.
Hiện thời, căn cứ có đủ mọi thứ: một sân túc cầu, một sân côn cầu, một rạp hát, một hiệu sách, một siêu thị, một tiệm thuốc, một trạm đổ xăng, hai chi nhánh ngân hàng, ba nhà thờ và một tiệm làm tóc. Không có lý do gì để phải đi ra ngoài. Thỉnh thoảng gia đình Flores lại vấp vào lầm lỗi là đi nghỉ mát ở đâu đó bên ngoài căn cứ. Song họ luôn luôn thấy khoan khoái khi trở về, đi qua cổng chính, qua tấm bảng có dòng chữ: HÒA BÌNH LÀ SỨ MẠNG CỦA CHÚNG TA. Đây là quê hương của họ.
Các hàng hóa bán trong căn cứ rẻ hơn ở ngoài một phần ba, và lại được chọn nhặt theo sở thích, ở đây, mọi người đều biết Flores chứ không phải bà vợ đi mua đồ ăn thức uống cho gia đình. Ông đi qua lượn lại các quầy hàng, trả giá, hỏi cách nấu nướng nữa. Nhờ không quân, Flores đã có thể biết làm món ăn Đức, Pháp, Bỉ và Panama, những nơi ông phục vụ một thời gian ngắn.
Khi thiên hạ hỏi Flores thích làm món ăn kiểu gì nhất, ông trả lời thích lối nấu nướng riêng của mình hơn cả. Sự thật là Flores thích ăn ngon, mà bà Flores, tức Elsa, thì ít nghĩ tới chuyện ăn. Bà chỉ thích uống bia, với chút đỉnh thức ăn cho có, và thích nhất là thêm được bà hàng xóm cùng uống và cùng nhấm nháp.
Bà Flores người Đức, nhũ danh Elsa Matz, Cesario (Flores) gặp bà sau ngày Chiến thắng, trong một buổi khiêu vũ của tổ chức USO tại Bad Tolz vùng Bavaria. Thời đó, nhiều cô gái Đức làm vợ lính Mỹ, tức GI, thật chớp nhoáng. Chỉ sau một lúc, Cesario đã tin Elsa yêu chàng vì giỏi vuốt ve trước khi làm tình, điều mà theo người ta nói, đàn ông Đức không quan tâm. Nhưng sự thật là Elsa chấp nhận chàng vì những lý do sinh tử.
Munich, thành phố Elsa chào đời, bị tổn thất nặng nề. Mẹ nàng, nữ ca sĩ giọng cao trong một nhà hát nhạc kịch, đã chết khi ngôi nhà cũ kỹ của bà
đổ sụp. Tai họa đến trong lúc chồng bà, Matz, quản lý khách sạn Vier Jahreszeiten đang làm việc, sáng hôm sau về nhà mới biết. Elsa, con gái họ, may mắn thoát chết.
Vì lo lắng cho con, Matz trở nên quá cưng chiều và làm Elsa thành hư hỏng. Ông xin được căn phòng trong khách sạn, và Elsa ngủ trên một chiếc giường nhỏ đặt cuối giường bố. Ông nhờ những cô hầu hằng ngày lo ăn, lo chải chuốt cho con gái. Trong cái xã hội những người bồi của khách sạn, Elsa được đối xử như khách hàng.
Đạo quân chiến thắng của Mỹ đặt một căn cứ lớn ở Bad Tolz, cách Munich một giờ xe về phía nam. Matz đã tính toán kỹ, khi ông thu xếp để Elsa, lúc đó vừa tròn mười tám, lứa tuổi nảy nở của con gái, đến nghỉ hè tại nhà một bà cô ở đó, ông đã thuộc bài học lịch sử: kẻ thất trận có thể sống sót, bằng cách lấy kẻ chiến thắng.
Khi luật lệ cấm thân thiện với dân Đức trở nên lỏng lẻo, những kẻ săn lùng niềm vui của cơ quan USO bèn đi tuyển lựa vũ nữ cho đội quân chiếm đóng ở khắp các thành phố lân cận, và khám phá ra Elsa. Nàng thật ngon lành với chiếc mũi hếch; mái tóc vàng, và nàng thừa hưởng của mẹ cái hào quang của một công chúa ở câu chuyện thần tiên trong các vở nhạc kịch. Nàng bận quần áo theo cách của mẹ; nàng có giọng cười của người mẹ, trong như pha lê vỡ, và lên cao dần.
Vào tuổi mười tám, bức tượng bằng sứ này chưa hề bị trầy trụa. Cesario tìm thấy ở Elsa tất cả những gì hy vọng thấy nơi một cô gái Mehico - no tròn ở những chỗ đáng no tròn, nhưng trắng nuột như sáp nhà thờ.
Elsa để ý thấy lính tráng cùng đơn vị Cesario đều nhìn lên chàng. Ở tuổi hai hai, chàng là một hạ sĩ quan, một lính nghề, hơn hẳn những gã lính mười chín đôi mươi dưới quyền. Chàng có màu da sạm nắng, điệu bộ kiểu cách, hát hay, nhất là bản Las Manantitas. Mỗi khi nghe chàng hát bản đó, nàng không khỏi chảy nước mắt. Chàng khiêu vũ giỏi nữa. Chỉ cần ở trong vòng tay chàng là đủ cho nàng cảm thấy yên ổn.
Ông Matz giao phó đứa con gái cho chàng như giao một gia tài, hoàn toàn tin tương nơi con rể mình.
Trong nhiều năm, họ không có con, mặc dù Cesario rất muốn, và cả hai đều đã nỗ lực. Elsa biện hộ cho sự thất bại của nàng. Không quân buộc họ
phải di chuyển khắp nơi, mà nàng lại luôn cần có một ngôi nhà. Như ở Triều Tiên, Okinawa thì không thể gọi là nhà được.
Rồi Cesario được trở lại Đức, căn cứ Wiesbaden. Chín tháng sau, Elsa sinh hạ một bé gái, Juana. Rồi họ lại thuyên chuyển đến California, và Cesario cho đây là giới hạn cuối cùng. Chàng xin ra khỏi lực lượng.
Những năm làm việc với tư cách cơ khí viên bảo trì cho một hãng hàng không lớn thật là sự khốn khổ cho Cesario, bởi thiếu lối sống trật tự của không quân, và chàng hay nổi cơn giận dữ, sinh ra uống rượu, gây gổ. Rồi họ có thêm một đứa con gái, Linda. Sự ra đời của nó không giúp cải thiện bầu không khí gia đình. Chàng muốn có một đứa con trai.
Chính Elsa khuyên chồng tái đăng, trở thành một quân nhân chuyên nghiệp. Ngay sau đó, Elsa thụ thai, và lần này cho ra đời một bé trai, Diego. Ngày đứa bé sinh, Cesario thề chừa rượu.
Ở đây - đất Mỹ - có mấy việc khiến Elsa ngơ ngác. Khi nàng lấy Cesario ở Bavaria thì chàng là người Mỹ. Nhưng bây giờ, tại chính nước Mỹ, chàng lại là người Mehico. Ở Bavaria chàng giầu sang, những người giúp việc giành nhau từng đồng đôla của chàng. Nhưng ở Mỹ thì gia đình chỉ đủ ăn đủ mặc là may, lấy đâu ra tiền mướn người giúp việc, ở Bavaria chàng là một anh hùng, ở Mỹ, chàng chẳng là gì cả.
Sự tôn thờ tan biến. Chẳng cần có một lý do nào khác. Những khám phá đó chỉ làm cho chuyện phải đến sẽ đến nhanh hơn mà thôi. Khi đã đạt được những mục đích cụ thể, Elsa không cần phải diễn nữa. Được sinh ra từ cái thể chế để tôn thờ sức mạnh, nàng không buồn giấu giếm nỗi thất vọng đối với người chồng bây giờ, dưới mắt nàng, tầm vóc đã nhỏ hẳn lại.
Như tất cả chúng ta, họ đánh mất những gì đã là lý do đem họ đến với nhau. Chẳng cần thêm gì khác.
Nàng quyết định con gái mình lớn lên phải thành giai nhân, khiến đám đàn ông có địa vị, quyền hành phải thèm muốn, để có tấm chồng khá hơn mẹ nó. Kiểu mẫu để nàng theo là đám ái nữ của các kỹ nghệ gia Đức mà nàng từng thấy trong Vier Jahreszeiten Hotel. Cái đám ấy không rửa chén đĩa mà cũng chẳng phải điều khiển máy giặt.
Hai ái nữ của nàng còn quyết tâm hơn cả mẹ.
Nàng nhớ lại, và áp dụng lề thói độc đoán của cha mình, ông Matz. Nàng lớn lên trong cơm bưng nước rót, bây giờ cái nền nếp đó phải trở lại, dù từ chồng nàng.
Những trò đàn bà đó Cesario chẳng coi ra gì, chấp nhận hết. Chàng khám phá ra, ở Mỹ, khi ta không thuê nổi đám giúp việc rẻ tiền thì bữa sáng sẽ toàn đồ làm sẵn, bữa trưa cũng bằng những thứ làm sẵn, còn bữa tối thì chờ người cha về làm.
Elsa đã ý thức sẵn về cái cung cách mà nàng và hai cô con gái phải như thế nào khi xuất hiện trước đám đông. Mỗi đầu mùa thời trang, nàng đi ra ngoài căn cứ để mua sắm những gì thích hợp, phần lớn là đồ diêm dúa và mỏng manh của phụ nữ tầng lớp quí phái. Song nàng không thật hài lòng với những thứ có thể ở cái địa phương này. Thế là nàng bèn đưa ra những kiểu y phục theo quan niệm thẩm mỹ riêng của nàng, nhờ bà vợ một cơ khí viên, vốn là thợ may khá, để bà ta cắt may cho, bằng những loại vải lụa mỏng, rẻ tiền và mau rách.
Vì vậy mỗi lần Elsa sắm bộ thì đúng là nàng phải ra đường. Còn lại, nàng nằm suốt ngày trong nhà, bận chiếc áo ngủ, và nom như “trái cà chua úa,” nói như trung sĩ Jack Jones, người hàng xóm. Elsa có hai lối để đương đầu với thế giới, lối thứ nhất là của “con mụ hàng thịt,” vẫn như trung sĩ hàng xóm kia nói.
Bây giờ, ở tuổi bốn mươi, Cesario và Elsa đã tìm ra cách thích ứng với thế giới, và với nhau. Nàng có thể càu nhàu với chàng hàng giờ, và chàng phản ứng bằng bộ mặt đăm chiêu, nhưng chẳng nghe gì. Vốn ít nói, chàng trở thành luôn ít nghe, hay đúng hơn chẳng nghe gì. Vả lại, những gì nàng nói bao giờ cũng như bao giờ, của kẻ luôn luôn chỉ nhìn thấy vết bẩn trên quần áo lót người khác. Thay vì nghe nàng liên miên nói về chuyện xấu thiên hạ, Cesano huýt gió và nấu bếp, hoặc mở tivi thật lớn, để át tiếng nói của Elsa, và cứ như thế cho đên giờ đi ngủ. Lúc đó, chàng có thể dùng nàng vào một việc chính đáng, và cũng có thể không cần dùng đến nàng. Quan trọng gì đâu.
Cesario có một đam mê, lớn hơn cả về công việc của chàng, đó là đứa con gái lớn: Juana. Trong lúc những đứa con khác giống như ông bố vợ, hay bà mẹ vợ cộng thêm chút ít nâu nhạt trên làn da thì Juana hoàn toàn mang giòng máu Aztec, một tộc người khởi thủy từ Mehico nay đã thành
dân tộc thiểu số, kiểu như dân da đỏ ở Mỹ. Juanna có đôi mắt tuyệt đẹp, gần như đen tuyền, tuy có hơi hẹp, nhưng chính thế mà khiến cho cái nhìn trở nên đắm đuối hơn. Nàng còn có chiếc mũi như đã được tạc trên những pho tượng đá ở kim tự tháp cổ tại Chichén Itzá. Trông nàng y hệt bà nội trong tấm ảnh chụp khi bà còn trẻ, đứng trước bức tường trắng.
Dĩ nhiên Elsa vẫn lại than phiền là chồng cưng chiều đến mức làm hư đứa con gái lớn của họ. Mười bảy tuổi, Juana vẫn ngồi trên đùi cha, được phép đòi hỏi bất cứ cái gì nàng muốn, như một nữ chúa lạc vào cái căn cứ không quân đặt giữa vùng sa mạc này.
Đối với Cesario thì Juana chính là di sản Mexico của ông còn lại, và ông không thể không cưng chiều nó. Ra phố, đôi khi ông chặn lại một người đàn bà lạ để hỏi đã mua ở hiệu nào chiếc áo hoặc váy đang mặc, hoặc món trang sức đang đeo. Thoạt tiên bà ta nghĩ ông trai lơ hoặc mưu toan gì song khi nhìn lên khuôn mặt băn khoăn, đôi mắt nặng trĩu lo âu của Cesario cộng vẻ chất phác của ông, bà ta bắt đầu nghe ông trình bày, rằng những thứ đó, nếu đứa con gái lớn của ông được dùng thì nó sẽ trỏ nên xinh đẹp biết bao... Khi ông về nhà, Juana chắc chắn sẽ có những món đồ ấy.
Dần dà, Juana trở thành đề tài tranh luận, và hơn thế, xích mích của bố mẹ nàng. Nhiều hôm vừa về đến nhà, Cesario đã thấy Elsa chờ sẵn để than phiền về cô con gái lớn. Trong lúc ông chồng vẫn không ngừng tay dọn dẹp bàn ăn bừa bãi, sau đó bày ra bữa chiều bằng những món ăn làm sẵn thì Elsa khai hỏa:
- Em có điều quan trọng cần nói, anh nghe không?
Cesario đang cọ cái chảo còn đầy vết trứng tráng từ sáng, cái đầu chẳng ra lắc hoặc gật. Elsa nói tiếp:
- Em bực bội quá nên không nghĩ đến việc rửa cái chảo đó. Cesrario, lần này anh phải nghe em đây. - Ông gật đầu, dùng mũi dao cạo lòng chảo đầy trứng. - Em không thể nói một chuyện quan trọng khi anh vừa nghe vừa cọ chảo như vậy.
Bà nhìn sang phòng khách, nơi có chiếc TV màu cỡ bự gần như không có phút giây ngơi nghỉ. Lúc này, một trong hai cô con gái, và bé trai Diego, đang ngồi xem.
- Anh tưởng mỗi ngày chúng chỉ được coi ti vi một giờ đồng hồ? Chúng làm bài ở nhà chưa? - Cesario nói.
Bà giật chiếc chảo ra, kéo chồng vào phòng riêng của con gái, đóng cửa lại:
- Chúng sẽ lập tức gây gổ nhau như quân thù, ngay khi em vừa tắt TV.
Bà nói, bước lại chiếc tủ đặt ở góc phòng, lục lọi, rồi lôi ra một chiếc quần đàn bà, giơ cao lên. Chiếc quần màu tím, và có vết trắng đục ở đáy.
- Mời anh nhìn đi.
- Quần của ai vậy?
- Anh dư biết của ai mà!
- Nó làm sao vậy?
Bà gí chiếc quần gần như sát mắt chàng:
- Anh không nhìn thấy sao?
Đũng quần, phía trước, có những vết trắng đục, giờ đã khô cứng. Những vết bẩn đúng như Cesario tưởng.
- Em đã bảo đừng để nó làm ở chỗ đó nữa nhưng anh đâu chịu nghe. Với anh, bất cứ chuyện gì con nhỏ muốn anh đều chiều hết. - Ý bà muốn nói việc Juana làm-đêm ở bãi đậu xe Big Boy Hamburger Joynt của lão Bennie. - Cesario, anh phải nghe em, ít ra từ bây giờ! - Ông vẫn không nói gì. - Nếu không, con gái anh sẽ thành con điếm mất. Khi đó thì đã muộn.
- Elsa, em đừng nói như vậy về con.
- Em cảnh cáo anh thôi. Có ngày, bà chúa của anh sẽ tênh hênh ra trên sàn thang máy kéo đồ với những thằng tài xế taxi...
- Nó là một đứa con gái ngoan.
- Bây giờ anh đến ngay chỗ đó mà kiếm con anh đi.
- Anh sẽ đến đó lúc hai giờ rưỡi. Con nó đã dặn thế.
Bennie, gã chủ quán Big Boy Hamburger Joynt bán đồ ăn nguội cho cánh lái xe đang đứng nói chuyện với một cảnh sát ngồi trên xe thì Cesario đến. Quán của gã vừa bị mất trộm mấy đêm trước, cảnh sát không tìm ra dấu vết gì để truy tìm thủ phạm nhưng hằng đêm vẫn ghé qua cho đủ lệ bộ, và Bennie luôn mau mắn đãi hạng khách này như thế một ly. Vả lại, chỗ này cũng rất tiện để ghé làm một ly, châm một điếu thuốc.
Sự có mặt của cảnh sát chẳng ảnh hưởng gì tối khách khứa. Vào hồi hai giờ ba mươi sáng, khu quán của Bennie là nơi ồn ào nhất trong vùng phía tây thành phố. Thấy Flores, Bennie chạy vội lại:
- Hi, thượng sĩ!
- Ê, Bennie, sao?
- Ờ, công việc làm ăn vẫn vậy. Vụ trộm hôm nọ làm khách, vì tò mò, lại kéo đến đông hơn. Nhưng tôi chẳng khoái đông khách theo kiểu đó. Này, nếu tôi có con gái lớn như anh thì tôi phải để ý đến nó hơn một chút.
Cesario thấy Juana đang trò chuyện với một người lái xe, quanh họ là đám con trai tóc dài. ông hỏi:
- Chúng nó là gì vậy? Sinh viên?
- Sinh viên, cựu sinh viên, bỏ học, ma cô, điếm đực, buôn ma túy... đủ thứ, sao kể hết được. Này, anh có đứa con gái xinh lắm đó, nếu nó là con gái tôi, nhất định tôi sẽ không cho nó lảng vảng ở chỗ này.
- Cám ơn.
Cesario đi lại phía đó. Tất cả những gã trai trẻ đều vây quanh nàng, trừ một tên đứng tựa cửa xe với vẻ bất cần đời. Song hắn lại là kẻ mà con gái ông để ý đến.
Cesario đi vào giữa đám đó, choàng tay qua vai con gái, trước khi nó kịp thấy ông.
- Đến giờ về rồi, con.
- Kìa, ba.
Nàng nhìn quanh, cả bọn im lặng. Juana không biết tên ai, hay không muốn giới thiệu ai với bố? Nàng chỉ vào người ngồi trong xe:
- Ba có biết anh Marvie không?
- Marvie, hân hạnh. Thôi, về con.
Nàng nhìn đám kia.
- Mấy anh ấy định đưa con về đó ba.
- Khỏi cần!
Thượng sĩ Flores run lên vì tức giận. Ai cũng thấy điều đó. Không ai dám nhìn ông. Không ai dám nói gì.
- Lên xe đi!
Ông nói nhỏ, gần như không ai ngoài cô con gái có thể nghe được. Juana im lặng bước về chiếc xe hơi.
Cesario đứng yên tại chỗ, xung quanh ông là những gã trai tóc dài. Rồi bỗng cơn giận dữ trong ông lắng xuống, và ông bỏ đi.
Lái xe về nhà, Cesario thấy mình như vừa làm một việc gì không được đúng lắm. Có phải vì Juana không nói chuyện với ông, hay là vì con gái ngồi xa ông quá, sát cửa xe bên kia và nhìn ta ngoài trời đêm?
Cơn giận dữ đến có thể giết người để lại cho ông dư vị là sự nhức đầu. Một lần, ông đã gần như không tự chủ được mình như thế, và suýt giết chết người bạn thân khi đập đầu gã nhiều lần xuống nền sân xi măng. Người ta phải lôi ông ra mới cứu được gã đó.
Cesario nhìn sang, ông sẽ chẳng để tâm gì khi vợ không chuyện trò với ông, nhưng ông không chịu nổi khi con gái ngậm miệng thế này. Có điều, chẳng thế nhượng bộ nó mãi được. Lần này phải để nó mở miệng trước. Nhưng rồi ông vẫn thua nó.
- Có phải tại ba gay gắt với mấy tên con trai kia? - Không một tiếng đáp. - Nếu phải vậy, cho ba xin đi. Chỉ tại ba lo lắng cho con quá thôi. - Im lặng đáp lại ông. - Juana, ba muốn nói... này, con có biết giữ mình không? - Vẫn không một tiếng trả lời. - Ba muốn nói là... con không nên tin vào một
đứa con trai nào cả. Hắn sẽ nói với con, em yên trí lớn, em đừng lo, để mọi việc cho anh, con hiểu ba muốn nói gì không? Đó là những lời mà đàn ông thường nói khi họ nổi hứng. Nhưng con đừng tin những lời đó, con có hiểu ba muốn nói gì không con?
- Có phải mẹ nghĩ như vậy không? - Câu nói đầu tiên là thế. - Mẹ con hơi cuống, bởi vì...
- Ba, con chưa đi đâu với ai cả! - Juana cười lớn.
- Được rồi. Tốt, Ba rất vui.
- Vậy ba cũng nghĩ như thế nữa sao? - Nàng cười lớn, mắt có cái vẻ đen láy của người Ấn Độ, màu mắt chỉ nàng với ông là có, nói tiếp. - Con để dành cho ba!
- Con đừng nói chuyện kiểu đó, Juanita. - Nhưng ông lại nắm cánh tay nàng, kéo lại sát với ông.
Họ im lặng cho đến khi về tới nhà, trong khu cư xá Winson.
Ông vừa nằm lên giường thì Juana kéo mạnh cửa phòng ngủ ra, đưa cao chiếc quần tím về phía Elsa:
- Ai xé chiếc quần này của tôi? Có phải bà không?
Elsa quay mặt lại. Juana nói như lên án.
- Đây là chiếc quần đẹp nhất của tôi!
Cesario nhỏ nhẹ:
- Để ba mua cho con chiếc khác y hệt.
Elsa gằn giọng:
- Đi về phòng ngủ. Ngay lập tức!
- Tôi không cần quần mới. Tôi muốn bà để quần áo tôi yên một chỗ. Elsa đã tỉnh táo hẳn:
Này, bao giờ mày còn sống trong nhà tao thì tao còn có quyền chăm sóc mày, đừng quên điều đó.
- Chăm sóc?
- Đúng vậy! Và đừng bao giờ vào phòng tao hò hét kiểu này, nghe chưa? - Quay sang chồng, bà hét. - Anh để nó ăn nói với tôi vậy à, Cesario?
Ông can ngăn vợ, nghĩ rằng một hạ sĩ quan cần phải biết tề gia. - Xxxì...
- Bao giờ mày mới đi học lại?
- Tôi sẽ đi học lại khi tôi muốn đi.
Elsa lại quay sang chồng:
- Anh nghe nó nói gì không? Anh tính làm gì đây? Cứ câm mồm vậy là con nó sẽ ngoan được à?
Juana gào lên:
- Tôi không muốn sống cùng bà nữa. Tôi không thể sống trong căn nhà này một giờ một phút nào nữa.
Elsa đứng lên, túm lấy con gái mà lắc và Cesario phải giằng hai người đàn bà ra, quàng tay qua vai con gái, đẩy nhẹ nó khỏi phòng:
- Thôi con. Dù sao mẹ con cũng là người mẹ tốt. Bà giận dữ như vậy chỉ vì lo lắng cho con đó thôi.
Cả hai nghe tiếng Elsa nói:
- Chúng nó hút hết đời sống của tôi, những con ranh đó. Tôi không thể nào khá khẩm lên gì được nữa. Nó là con gái anh, anh lo cho nó di.
Sáu tuần sau, thượng sĩ Cesario Flores vào gặp sĩ quan chỉ huy, đại tá Dowd để xin thuyên chuyển.
- Đi đâu? Đến đâu?
- Thưa đại tá, đâu cùng được hết. Tây Ban Nha, Đức. Nhật. Bất cứ nơi nào đang trống chỗ.
Đại tá Dowd nhìn về phía trung sĩ Jones, ngồi sau bàn giấy ở góc phòng và đang lắng nghe. Jones hiểu chuyện gì đang làm Flores khổ tâm. Đại tá Dowd hỏi:
- Ở đây anh có gì không hài lòng?
- Thưa đại tá. tôi không có gì phải than phiền cả.
- Vậy thì...
- Thưa đại tá, đây là một vấn đề gia đình.
Đại tá Dowd lại nhìn trung sĩ Jones. Flores nói:
- Đại tá chấp thuận? Xin cảm ơn đại tá.
- Chờ một chút. Anh không thể vào gặp tôi rồi xin thuyên chuyển theo kiểu đó được. Còn phải có những thủ tục nữa chứ. Mà này, tại sao anh lại nổi chứng bất tử vậy hả? - Cesario mím chặt môi. Đại tá Dowd muốn trì hoãn vụ này. Những thủ tục của không quân sẽ giúp ông làm việc đó. - Anh tới gặp hạ sĩ Fenton lấy mẫu đơn và điền vào. Rồi đem lên đây cho tôi ký đã.
- Xin cám ơn đại tá. - Flores đi ra.
- Này, nó có chuyện gì vậy? - Đại tá hỏi Jones.
- Thưa đại tá, tôi không rõ.
- Ê, đừng dại chơi trò đó với tôi. Trung sĩ Jones, lại đây. - Jones bước tới trước bàn đại tá Jack, - Tôi không muốn mất một anh em nào ở đây cả, hiểu không?
- Thưa, con gái ông ấy bỏ nhà đi ba tuần nay rồi.
- Bây giờ nó ở đâu?
- Ông ta không tìm được nó.
- Anh bảo hắn tôi cần gặp. Nhanh!
- Xin đại tá đừng cho ông ta biết là tôi nói...
- Sao lại không? Mặc tôi.
Lúc hai người bước lại vào văn phòng và Jones, nhân đứng khuất mắt vị đại tá, đã làm một cử chỉ xin lỗi với Cesario trước khi bỏ đi.
- Thượng sĩ, Jack vừa cho tôi biết là con gái lớn của anh bỏ nhà đi. - Thưa đại tá, vâng. - Flores cúi thấp đầu.
- Ờ, chuyện đó... xảy ra với nhiều người chứ đâu riêng gì anh! Flores, tôi đang nói chuyện với anh đây!
- Thưa đại tá, tôi muốn đổi đi nơi khác.
- Thượng sĩ Flores, nếu có vấn đề khó giải quyết, Không Quân sẵn sàng giúp đỡ anh.
- Thưa đại tá, vâng.
- Nếu tôi xen vào việc riêng của anh, là vì tôi coi trọng anh, và không muốn mất anh, anh hiểu không?
- Thưa đại tá, tôi hiểu.
- Nếu vậy, anh trả lời câu hỏi của tôi đây. Nếu nó bỏ nhà đi, thì tại sao anh lại xin thuyên chuyển đến Tây Ban Nha?
- Tôi muốn đưa nó đi khỏi chỗ này.
- Ở đâu cũng có con trai cả. Vậy là chuyện gì?
- Thưa, việc này không thuộc quyền của đại tá.
- Flores, tôi hỏi anh như một người bạn.
- Thưa tôi nghĩ rằng nó... hít... chắc đại tá hiểu?
- Thì ba phần tư bọn học trò dưới kia đều hít...
- Nhưng nó là con gái tôi. - Đoạn Flores quay sang phía Jones, lúc đó đã vào ngồi sau bàn làm việc. - Này, anh cười gì vậy?
- Hắn chỉ mỉm cười thông cảm với hoàn cảnh của anh. Cesario, anh làm sao vậy? Hắn muốn giúp anh.
- Đây là việc riêng của tôi.
- Cesario, tôi muốn được nghe mọi việc xảy ra.
- Một buổi sáng, cả nhà tôi thức dậy thì không thấy nó trên giường. - Làm sao anh biết nó hít?
- Tôi có nói chuyện với vài ba đứa, bọn sinh viên sinh viếc gì đó. Thưa đại tá, tôi làm phiền đại tá quá nhiều. Đáng lý tôi phải có bổn phận ổn định gia đình.
- Flores, tôi sẽ nhờ phòng tình báo của căn cứ tìm con gái giúp anh. Tôi sẽ...
- Mong đại tá không làm vậy. Tôi sẽ tự tìm nó.
Ông cúi thấp đầu, thở một cách khó khăn. Dưới mắt Dowd, ông ta có vẻ nặng nề hơn lên, và thẹn thùng, xấu hổ hết cỡ, và giọng thật nhỏ:
- Tôi sẽ đưa lên cho đại tá ký. - Rồi bỏ di.
Đại tá càu nhàu:
- Tôi không muốn mất người này. Có thể tìm đâu ra một chuyên viên bảo trì giỏi như hắn?
- Đại tá không mất hắn đâu.
- Gọi sĩ quan tình báo lên đây.
Hai mươi đêm đã trôi qua, kể từ hôm Juana bỏ nhà đi, Cesario chưa đêm nào ngon giấc. Đêm nay, không cần để đồng hồ báo thức, ông dậy lúc hai giờ kém mười lái xe ra khỏi căn cứ.
Ông dừng lại ở quán Bennie. Chủ quán biết vài ba chỗ tụ họp của bọn trẻ, gợi ý cho Cesario nên tìm những nơi nào, nhưng không tin ông sẽ có kết quả gì,
- Chúng nó như thú rừng, ngày ngủ, đêm mới sinh hoạt, có khi chỉ ở đây vài hôm, rồi biến sang Tuscon, hay Nogales, chặng đầu của đường dây buôn cần sa vào đây, hay đến Los Angeles để lấy bạch phiến. Bây giờ đang mùa hè, nên tôi đoán chừng chúng sang bên kia đèo Pathes Felipe, ở đó có vài chỗ trong sa mạc chúng thích ở lại. Chúng sống giữa trời, như thú vật. Không có cách gì tìm ra chúng, chỉ nên chờ đợi và hy vọng.
Bennie hứa sẽ giới thiệu ông với một người bạn gốc Ý của mình hy vọng hắn giúp được gì.
- Gia đình đó không ưa bọn xì ke ma túy. Họ sợ mang tiếng, Mãi không thấy gã người gốc Ý đến, Bennie hứa:
- Sợ hắn nghi anh là nhân viên bài trừ ma túy. Tôi sẽ nói chuyện với hắn. Vậy nhé. Tôi đóng cửa quán đây.
- Tôi ở lại đây một lúc, ngồi trong xe.
Bennie đưa cho ông ly cà phê, rót từ đáy bình nên rất đặc. Cesario ngồi uống chừng mười lăm, hai mươi phút. Rồi ông lặng lẽ lái xe qua những đường phố vắng, nhằm hướng đèo Father Felipe, cách thành phố năm dặm về phía bắc. Mặt trời bắt đầu lên, từ sau dãy núi.
Cesario về nhà thì trời đã sáng hắn.
Một lá thư của Juana chờ ông ở nhà, chỉ vài dòng, rằng nàng khỏe, đang sống với một người bạn, và có thể viết thư cho nàng, nếu ông muốn. Nàng cho biết địa chỉ cô bạn gái ở chung, xin lỗi đã làm gia đình buồn phiền, nhưng nàng muốn tìm lối sống riêng của mình.
Vừa cạo râu, ông vừa nhìn địa chỉ trên phong bì:
- Đó là nơi nào vậy?
- Khu nam thành phố. Nơi sinh sống của những con điếm gốc Mehico. - Bà vợ đáp.
- Chữ nó viết đẹp đó chứ?
Cạo râu xong, Cesario vào phòng ngủ bận chiếc áo dài của dân Mehico, rồi soi gương, Elsa mỉa mai:
- Anh muốn làm mọi da đỏ à? - Cesario lặng thinh, chải đầu cẩn thận. - Này, anh có biết nếu ba em ở vào trường hợp này ông sẽ làm gì không. Còn anh?
- Tôi làm theo cách của tôi. - Ông đi ra cổng.
- Cách của anh? Con nhỏ Elizabeth đã lây cách của anh rồi đó. Nó đòi nghỉ học! - Cesario gật đầu. - Anh gật đầu cái gì? Này, bỏ học là bước thứ nhất của chúng.
Trung sĩ Jones và vợ ngồi trước cổng. Flores nhắc.
- Này, họ đang nhìn chúng mình đó.
- Họ cần gì phải nhìn. Họ cười anh đó.
Ông lên xe, quay lại dặn vợ:
- Gọi điện thoại đến sơ nói sáng nay anh tới trễ.
- Anh có biết là cả căn cứ đang cười anh, chứ đâu riêng gì Jones. Cả căn cứ, nhớ không?
- Tôi biết thừa.
Trên kính trước, treo lủng lẳng hai chiếc giầy trẻ con tí hon màu trắng, một địa bàn tháo từ chiếc máy bay phế thải, và bức ảnh Đức Mẹ.
Ông khó khăn lắm, và mãi đến trưa, mới tìm được địa chỉ. Trước cửa nhà, một gã béo mập, mặt đỏ gấc, với những nét của dân gốc Ý, đang ngồi. Gã chính là chủ nhà. Trên bãi cỏ chồng chất những đồ đạc. Trong nhà, thợ sơn đang làm việc. Một xe chở rác vừa chạy tới.
Một cảnh sát đứng gác nói:
- Bọn chúng thiếu hai tháng tiền nhà. Rồi chúng bỏ đồ đạc lại, chuồn mất. Nhìn thử cái chơi. Tôi chưa bao giờ được thấy cái cảnh kỳ cục như vậy.
Dưới ánh nắng chói, trông những vật đó thật bệ rạc. Có chiếc bàn ba chân, tấm nệm lớn một góc bị cháy xém, hàng đống lon bia rỗng, những gói đồ khô ăn dở, những mẩu pho mát đã lên rêu, những tạp chí thể thao, một cuốn Sưu tập chuyện lạ thế giới rách bìa. Đàn ruồi bu lại trên đống vải có vẻ là những chiếc tã trẻ con.
- Chúng nó dọn đi đâu vậy? - Cesario hỏi:
- Ai mà biết được? Trong thành phố, thiếu gì chỗ thế này. Đã tìm thấy cả cần sa, lọ ma túy rỗng. Chúng nó không những hít mà còn buôn. - Viên cảnh sát đáp.
- Vậy sao các ông không có biện pháp gì?
Người chủ nhà nghe được câu chuyện, chen vào:
- Chúng nó phá hoại căn nhà của tôi! Bắt buộc phải sơn quét lại hết. Những con mèo chết dưới gầm giường. Hôi thối kinh khủng. Buôn thuốc phiện lậu. Tại sao mấy thầy không tống cổ chúng nó ra khỏi thành phố giùm một chút? Cảnh sát? Đồ ăn hại!
Người cảnh sát không có vẻ giận khi bị chửi.
- Mấy bạn tôi tháng trước bắt được một tên. Phòng trọ của chúng còn tệ hơn đây nhiều. Hắn lại là con trai ông Nghị sĩ! Chẳng ai dám lãnh những chuyện phiền phức đó vào mình. Chúng nó đều là sinh viên đại học và chúng đem thuốc vào lớp bán. Có giáo sư không hiểu tại sao lớp học của ông mỗi ngày lại đông học trò, té ra...
Người cảnh sát chợt, nhận ra Cesario không buồn nghe bèn nhìn ông, tò mò.
- Ông tìm ai sao?
- Không, tìm ai đâu.
Hôm sau là thứ bảy, Cesario ở nhà. ông không nói gì với bất cứ ai, và không cử động - ngoại trừ một lần. Elsa nói một lời ông không thích, bèn cho bà cái tát. Rồi cả nhà không ai dám chạm đến ông. Ông bỏ bữa tối, không nấu thức ăn cho vợ con.
Sáng chủ nhật, ông dậy trước cả mặt trời, pha cà phê. Ngồi trong bếp, ông chậm rãi uống hết bình cà phê đựng sáu ly. Sau đó, ông cạo râu cẩn thận, bận quân phục diễu hành, và khi mặt trời vừa nhú, ông ra cổng, ngồi im lặng trên ghế, như kẻ sắp vĩnh biệt đê đi xa.
Lúc thức dậy, Elsa nhìn thấy cảnh đó. hỏi:
- Anh đi đâu vậy?
- Nhà thờ.
- Làm gì có lễ lúc sáu giờ sáng? Này, anh nhìn mắt em coi! Bây giờ trông đẹp chưa?
Ông không nhìn lại.
Elsa đánh thức hai con dậy, lấy quần áo đẹp nhất cho chúng mặc. Những ai thấy thượng sĩ Flores và gia đình bước vào nhà thờ sáng hôm đó đều tỏ ra nể trọng họ. Tấm mạng mỏng che vết sưng trên mắt Elsa.
Lúc đến bàn quì, Elsa để ý thấy Cesario không làm dấu thánh giá như mọi ngày. Bài thánh ca đầu tiên là:
Xin Chúa hãy cứu linh hồn con
Và ban cho con sức mạnh
Dân Chúa nguyện cầu Chúa đoái thương
Và ban cho sự sống đời đời
Giữa những khoảng ngắt nghỉ, Elsa nghe chồng lẩm bẩm gì đó. Hình như ông nói tiếng Tây Ban Nha, hay tiếng dân bản địa Mehico gì đó, bà không chắc.
Cesario như kẻ mộng du hay xuất thần gì đó. Những người ngồi quanh bắt đầu chú ý. Elsa với tay qua cô bé Elizabeth lay vai chồng, khẽ nhắc. “Xxxxì...”
- Anh xin lỗi.
Ông đứng lên, đi qua cô bé Elizabeth, qua Elsa, qua lối đi giữa hai hàng ghế. Lúc đó, dàn đồng ca nhà thờ đang hát:
Một đám nhân chứng đứng vây quanh.
Theo dõi các việc làm của bạn
Hãy quên đi những bước đã qua
Và tiến thêm những bước mới
Đến cửa, Cesario chợt thấy tay vẫn cầm cuốn sách lễ. Ông đặt nó lên hộp tiền nơi cửa, rồi ra khỏi nhà thờ.
Ông lên xe và lái về hướng nam, qua bãi để máy bay phế thải, qua xóm nhà nghèo nàn dành riêng cho dân bản địa phía bên kia hàng rào. Ông chạy thật chậm, dừng lại thật lâu ở những ngã tư. Ông muốn có thêm thì giờ suy nghĩ.
Hôm nay ông không cần tôn giáo, mà cần phép lạ.
Khu phố Chicano của đám dân gốc Mehico nằm vể phía nam. Trong khung cảnh này, cái khung cảnh thời thơ ấu của ông, Cesario thấy như về với quê hương. Mặc dầu mới chỉ đến đây một lần ông cũng dễ dàng tìm được nơi muốn tìm.
Ngôi thánh đường cổ, ngoài một khung đặt tượng nhỏ và một bàn thờ, hoàn toàn trống trải. Và cũng chẳng thấy ai ngoài hai bà già mặc đồ đen đến đây tưởng niệm những kẻ quá cố. Cesario bước chậm rãi về phía khung để tượng Đức Mẹ, quì xuống, và bằng thứ tiếng Tây Ban Nha của vùng Sonora, ông khấn nguyện,
Ông khấn với Đức Mẹ rằng; nếu Đức Mẹ giúp ông trong cơn nguy khốn này, và ông biết Đức Mẹ sẽ giúp, nếu Đức Mẹ dẫn ông đến nơi con gái lớn của ông đang ở, và ông biết Đức Mẹ đủ quyền năng để làm việc đó, và nếu Đức Mẹ thương xót ông, cầu xin với Chúa, dùng quyền uy của Đức Mẹ để giúp đỡ ông đưa con gái trở về với gia đình, thì ông sẽ đền ơn Mẹ bằng một cách chứng minh đức tin của ông khiến tất cả những ai nhìn thấy, hay nghe nói đến đều phải kinh ngạc, nghĩa là ông sẽ quỳ gối rồi lết bằng hai đầu gối từ căn cứ, qua khu phố nghèo, đến tận dưới chân tượng Đức Mẹ, nơi ông đang quỳ đây. Đó là cách ông tạ ơn Đức Mẹ, và tuyên dương lòng tin mới tìm lại được của ông.
Lúc ông về đến nhà thì đại tá Dowd đang chờ trước cửa. Đây là một vinh dự cho ông và gia đình.
Đại tá Dowd đã quyết định kể ra mọi chuyện với người trưởng ban bảo trì của ông, nghĩ rằng nếu một vấn đề được giải quyết sớm bao giờ cũng bớt khó khăn hơn. Khi không gặp Cesario ở nhà, ông đã tính về, khi nhớ lại những mô tả của trung sĩ Jones về bà vợ hàng xóm. Nhưng Elsa khẩn khoản mời ông dùng cà phê, dẫn con vẫn mặc quần áo đẹp ra chào, cả bé Diego nữa.
Cậu bé đưa tay chào, như ba cậu đã dạy, cả nhà đứng trước mặt ông, người bưng cà phê, kẻ bưng đường, bưng bánh, với một vẻ săn đón mà ông không tìm được trong gia đình mình. Bà Flores thành khẩn:
- Cesario là người rất tốt. Một tâm hồn lớn. Lúc tôi mới gặp thì trông ông ta hơi man dại một chút. Nhưng chúng tôi đã sửa chữa dần, đã chế ngự được. Bây giờ thì tôi hơi lo. Chỉ một người là có thể... - Bà nhìn đại tá Dowd với vẻ bối rối. - Anh ấy kính phục đại tá vô cùng!
- Tôi nghĩ có thể giúp ông ấy được...
Cesario cùng đại tá dạo bộ một quãng. Lúc lên xe, hai người nhìn thấy Jones đứng trước cửa nhà. Trong cổng ngôi nhà bên cạnh, cả vợ chồng lẫn bà mẹ vợ đều thắc mắc không biết vì sao mà Chỉ huy trưởng căn cứ lại đến đây, và không hiểu ông ta nói chuyện gì.
Đại tá Dowd nhận xét:
- Dân chúng cả cư xá Winson sẽ có cái để bàn tán trong bữa ăn chiều chủ nhật này. À, anh đi đâu về vậy?
- Nhà thờ.
- Tôi không đi lễ. Dành chuyện đó cho vợ tôi.
- Thưa đại tá, vâng.
- Đôi lúc, sáng chủ nhật, tôi đọc những cuốn sách ưa thích. Sáng nay tôi đọc lại một tác phẩm của Jack London, và nó làm cho tôi nhớ đến anh.
- Cám ơn đại tá. Thưa, Jack London là ai, đại tá?
- Tôi không nghĩ lớp trẻ bầy giờ thích ông nhà văn này. Dân Nga thì rất ưa ông ta. Cũng dễ hiểu, vì họ là một dân tộc thực tế, Jack London nhìn vào xã hội loài sói. và nhờ đó mà hiểu xã hội loài người,
- Ý kiến có vẻ hay.
- Ông ta đưa ra cái tư tưởng này. Đời sống con người có khi lên cao, có khi xuống thấp, và nếu bạn không biết tự vệ, dù bạn là người hay là một quốc gia đi nữa. thì rồi một ngày bạn sẽ nhận ra mình xuống thấp hơn là mình muốn. Bạn phải biết bảo vệ những gì của mình. Loài sói làm việc đó bằng nanh vuốt của chúng. Người và sói giống nhau ở cái nguyên tắc: nếu bạn không làm gì để giữ gìn thì kẻ thù của bạn chắc chắn sẽ giật nó khỏi tay bạn,
- Tôi không hiểu những gì đại tá nói.
- London còn mô tả những con sói đực trẻ trung sống ngoài đàn sói. Thỉnh thoảng chúng nhào vào đàn và lôi một con đi.
- Một con gì?
- Một con sói cái. Tôi ám chỉ đến con gái anh, song không có ý châm biếm nào cả,
- Tôi hiểu mà.
- Này, anh có thấy bạn anh là Jack Jones đứng trước cửa, và cả những người khác trong cư xá không?
- Kệ xác chúng nó. Xin lỗi đại tá,
- Họ đang phán đoán anh đó. Sự thật là, dù nền văn minh làm mọi cách để che đậy chuyện đó. thì mọi người cũng vẫn bị phán xét thường xuyên, Những người Mehico đã xây dựng cả một nền văn hóa trên một định đề căn bản, cho rằng mỗi người tùy thuộc vào khả năng tình dục của họ. Đúng vậy không?
- Cesario cười lớn.
- Đại tá đã hiểu rất đúng.
Đại tá Dowd lấy từ túi quần ra một mảnh giấy gấp nhỏ, được giữ lại bằng mảnh băng keo trong suốt.
- Đây là lần đầu tiên Phòng Nhì của tôi làm việc có vẻ khá. Con gái anh đang ở đây này. - Cesario cầm lấy mẩu giấy. - Theo tôi nghĩ, anh quá dè dặt. Mọi người trong căn cứ đều nghĩ vậy.
Họ dừng lại bên chiếc xe. Dowd chìa tay ra, nói:
- Này, anh biết không, tôi mến vợ anh. Và mấy đứa con anh nữa. - ông lái xe đi.
Cesario mở tờ giấy. Ngôi nhà ở đường Nữ Vương.
Cesario có bức hình mà ông ưa thích nhất, hình chụp ông ở thủ đô Panama, hai mươi sáu năm trước, do nhiếp ảnh gia của Bộ Tư lệnh. Bức hình đã lên trang nhất tờ nhật báo của căn cứ, cho người ta thấy kẻ chiến thắng trong trận so tài đêm đó, một đêm thứ sáu, không phải trên, mà là ngoài vũ đài. Trong bức hình, kẻ chiến thắng đang được bốn quân cảnh giữ chặt hai tay, khuôn mặt có một lỗ hổng lớn, là miệng hắn đang cười gằn, và từ đó, dòng máu đặc chảy xuống như xốt cà chua. Cesario đã chiến thắng trong trận so tài, cùng như ông đã chiến thắng trong tất cả những dịp khác, bằng cách chịu đựng tất cả những ngón đòn của đối thủ trong năm sáu hiệp đầu, cho đến lúc đối thủ tưởng chỉ cần đưa ra một quả đấm thi ân là hạ ông đo ván.
Đó là điều ông lấy làm hãnh diện nhất hồi đó, cái tài chịu đòn của mình. Lúc đối thủ đã trở nên kiệt sức vì ra đòn, không nhấc tay nổi nữa thì Cesario mới bắt đầu đánh trả. Và gã kia đã ăn đòn nhừ tử, như chưa từng ăn đòn bao giờ, lảo đảo như người say, và nhận lại gấp mấy lần số vốn hắn xuất ra trước đó ít phút. Bạn bè, cùng đứa em song sinh của gã từng hò reo khích lệ, chỉ cho gã đánh phải thế này thế kia thì nay chính gã phải chịu những cú đánh đúng thế kia thế này.
Thực ra, tình cảm của những người vây quanh võ đài trận này không phải do vấn đề chủng tộc xui khiến, mà chỉ là vì số khán giả này đã quá tin
tưởng vào tên “Loco,” đối thủ của Cesario và cá vào gã những số tiền đáng kể, giờ thì đang chứng kiến tiền của họ “ra đi.”
Cesario khoái nhất hiệp cuối, khi đã làm đối thủ loạng choạng nghiêng bên này ngả bên kia tùy theo ý ông muốn, một mắt gã sưng và híp lại, mắt kia chỉ còn hấp háy. Mỗi lần đối thủ sắp đo ván Cesano lại nhẹ tay đòn, chờ hắn tỉnh táo lại đôi chút để có thể tiếp tục trừng trị. Màn kết trận đấu thật tuyệt hảo, và bây giờ, khi đang lái xe đến đường Nữ Vương, ông nhớ lại thật rõ ràng. Khi hồi chuông cuối reo lên, “Loco” ngã sấp xuống và xỉu luôn. Lập tức, những kẻ ủng hộ gã nhào lên võ đài định trả thù cho gà của mình, nhưng họ cũng chẳng cần nhọc công đến thế, vì Cesario đã xông tới...
Phải đến bốn quân cảnh mới vãn hồi được trật tự. Lúc họ lôi chàng ra, cũng là lúc bức hình được chụp.
Khi đi tới đường Nữ Vương, Cesario mong có dịp tái diễn trận đánh lộn đó, mình ông chống cả đám khốn kiếp mà ông đã thấy chúng vây quanh Juana đêm nào.
Ngôi nhà một tầng, với nhiều cửa sổ mở ra bãi cỏ, và những hàng cây cảnh, trông cũng không tệ lắm.
Ông gõ vào cánh cửa. Không ai trả lời. Ông đập mạnh rồi nghe có tiếng nhạc bên trong, nhưng vẫn không ai ra mở. ông thử vặn nắm đấm. Không khóa. Ông kéo hé ra chút, gọi vào trong. “Có ai ở nhà không?”
Điệu nhạc vang vang, loại nhạc Juana ưa thích.
Rồi cũng có người đi ra. Cánh cửa mở rộng thêm, một nhóc chưa quá mười lăm nhìn ông và bộ quân phục của ông, như dò xét. Cesario nói:
- Tôi tìm cô Juana.
- Michael, có người tìm Juana. - Nó gọi vọng vào.
Bên trong có tiếng đáp song Cesario không nghe rõ. Cậu bé nói: - Cô ấy không có đây.
- Chắc vậy không?
Cậu bé lại gọi vào trong:
- Ông ta muốn biết có chắc vậy không?
Hắn lại nghe tiếng trả lời gì đó, quay lại nói với Cesario. “Chắc chắn!” Rồi đóng cửa lại.
Cesario không đến đây để nhận những câu trả lời ấm ớ như vậy, ông bước vào trong.
Căn nhà tối om. Ánh sáng duy nhất là từ khuôn mặt cô đào xinê Joan Crawford trên TV toát ra. Cesario nhìn thấy Garfield và Crawford mấp máy môi, nhưng âm thanh mà ông nghe được lại là nhạc rock. Lúc cuốn phim đến đoạn chuyển từ cảnh đêm sang cảnh bình minh, Cesario nhìn thấy hai người, một cô gái nằm trên nền nhà, không nhìn lên truyền hình, những nút quần trên cùng mở ra, và lưng quần được buộc bằng một sợi dây vải. Có thai?
Kẻ thứ hai là một gã trai gần hai mươi tuổi, nằm trên chiếc ghế dài, cởi trần, người gầy gò đến nỗi từng chiếc xương sườn lòi hẳn lên. Gã mỉm cười với Cesario, một nụ cười dễ thương chào mời, rồi quay lại xem TV.
Cả hai đang hút chung điếu thuốc quấn tay, và Cesario biết đó là loại thuốc gì. Gã trai hít một hơi, chuyển cho cô gái nằm dưới chân. Cô ta hít một hơi rồi trả lại gã. Việc trao đổi chậm chạp, lặng lẽ, thành thạo.
Điệu nhạc lên đến cao trào, dồn dập, rồi đứt. Gã trai gầy gò lại nhìn lên và mỉm cười với Cesario. Cái vẻ chào mời của gã có gì đó làm ông mất tự nhiên.
Chẳng còn ai khác. Chú nhóc ra mở cửa cũng biến đâu mất, Cesario nói. “Tôi là cha Juana.”
Cô gái ngẩng nhìn, rồi lại ngả đầu xuống nền nhà. Cesario lặp lại. “Tôi là cha Juana. Nó đâu rồi?”
- Ngoài sa mạc.
Gã trai đáp. Trên TV, Garfield bắt đầu chơi vĩ cầm, nhưng âm thanh mà họ nghe được lại là tiếng hát của Jim Morrison. Gã trai gầy gò gật đầu theo điệu nhạc.
- Ở đâu vậy? Anh có thể cho tôi biết? - Cesario hỏi.
- Dĩ nhiên. Song hơi khó chỉ. Một vùng đồi núi phía sau nhà dòng Thánh Issacio, ông biết chỗ đó không? Gần cuối khu dành riêng cho dân da đỏ đó mà. Ông có biết đèo Father Felipe ở đâu không?
- Biết. Gần đây.
- Phía sau một chút, nhưng không nằm bên đường đâu. - Cesario cho rằng gã cố tình nói mập mờ. Song gã lại nói tiếp. - Chúng tôi sắp đến đó. Nếu muốn, ông có thể đi theo.
Vẻ mặt gã có cái gì khiến cơn giận dữ của Cesario dịu xuống. Gã mỉm cười với ông, không có gì là mỉa mai cả. Đôi kính cận gọng kim khí càng làm cho gã có cái vẻ ngây thơ và đáng tin. Cesano hỏi:
- Bao giờ anh đi?
- Do con nhỏ này. Tôi muốn nó đi theo, và nó đang đắn đo. – Gã chỉ vào cô gái. Tay gã cầm chiếc ống píp bằng đồng, gã nhét những vụn thuốc vào, bật lửa, hít hai hơi, rồi đưa mời Cesario. - Thử coi.
- Tôi tưởng Juana ở đây? - Cesario từ chối hút thử.
- Nó ở đây. Nhưng đôi khi nó đi ra ngoài đó.
- Thằng bạn trai của nó đâu?
- Vinnie? Hắn phải đi San Francisco. Vì vậy khi có mấy đứa quyết định ra sa mạc, Juana bèn đi theo.
- Lúc ở đây, thì nó ở phòng nào?
- Ông muốn xem không?
- Tiện không?
Theo tôi, - Gã đứng lên. - ông thực sự không muốn thử thứ này à? - Gã lại mời. - Khá lắm. Thử đi.
- Không. Cám ơn. Dù sao cũng cám ơn anh.
Cesario theo gã đi qua hành lang đến cuối ngôi nhà. Một người đàn ông trần truồng từ đằng kia đi lại. Hắn nhìn Cesario với vẻ thản nhiên, bước đến chiếc tủ lạnh, mở ra, và than phiền:
- Michael, không còn hộp bia nào sao?
- Vừa cạn.
Đoạn gã bấm nhẹ vào cùi chỏ Cesario, kéo ông tới chỗ hai căn phòng đối diện nhau qua hành lang. Trong một căn, chú nhóc ra mở cửa cho Cesario đang bận rộn gì đó. Michael chỉ vào phòng đối diện.
Cả căn phòng được choán hết bởi hai tấm nệm dầy trải lên nền, chẳng tấm nào có ga phủ. Vo thành đống ở đầu nệm là chiếc áo khoác vải sọc mà Cesario thấy lần đầu tiên trong một hiệu buôn đã mua về tặng Juana.
Ông nhìn sang chiếc nệm kề bên. Ai đó đang ngủ, chẳng rõ trai hay gái, vì chăn trùm kín. Gã trai hỏi bia trở lại, lật chăn lên, nằm xuống cạnh người đang ngủ.
Cesario quay nhìn Michael nhưng không thấy gã đâu nữa. Những người nằm trong chăn trở mình, cong lại như con tôm, rồi im lìm, Ông trở ra ngoài.
Mắt ông bây giờ đã quen với thứ ánh sáng mập mờ, nhận ra cậu bé ở phòng bên kia đang làm gì, Nó đang xé cọng những chiếc lá khô, rồi chồng những tầu lá lên nhau, cho vào con dao cắt. Cậu bé buôn cần sa mười lăm tuổi ngẩng nhìn ông, nhấc một chân lên, đạp cửa cho đóng sập lại. Ông về căn phòng lúc đầu.
Michael đang cười, cúi sát cô gái, thì thầm gì đó.
Cesario nghe cô gái nói:
- Được. Được rồi. Em không chiếm giữ hắn ta đâu.
Michael đứng lên. “Ông Flores, chúng ta đi.”
Cô gái đóng lại chiếc túi bằng da có vẻ như tự may:
- Em để cái này lại đây.
- Hai người đi bằng gì? - Cesario hỏi:
Michael như không nghe thấy, vẫn nói với cô gái,
- Ra ngoài đó, em không cần thứ này. – Gã khoác lên thân hình trơ xương chiếc sơ mi trắng, rồi trả lời Cesario, - Chúng tôi xin quá giang. Chờ một lúc là có.
- Tôi có xe ngoài kia.
- Vậy chúng ta có thể mang theo vài thứ. – Michael mỉm cười, quay sang cô gái. - Em còn tiền không?
Cô gái lắc đầu. Michael gật gù, làm như đó là điều mà gã đã biết trước, rồi nói với Cesario:
- Đây là Rosalie. Trước nó cặp với thằng Vinnie, khi chưa có Juana.
Lúc rời khỏi thành phố, Cesario dừng lại trước một siêu thị, hỏi Michael:
- Ngoài đó có bao nhiêu người?
- Tôi không biết, cần nhiều bia, bánh mặn, bánh mì, pho mát, đại để vậy đó, cả nước ngọt nữa. – Nhìn cô gái nằm dài trên ghế sau, gã bảo. - Nó ngủ rồi.
- Đứa con trong bụng nó là của ai vậy?
- Tôi không hỏi, nhưng đoán là của Vinnie.
Sự kinh ngạc khiến Cesario nhớ đến mục đích của chuyến phiêu lưu hôm nay. Ông vừa thú vị vì những gì đang trải qua vừa hồi hộp, vừa nôn nóng.
Ông vào cửa hiệu, chờ đến lúc hoàn toàn bình tĩnh, mua đồ ăn đủ cho trên mười người, tự nhủ phải đóng vai trò thân thiện cho đến khi gặp được Juana.
Khi bước ra, mỗi tay ông ôm một túi giấy tổ bố, lại còn giữ trước ngực gói thứ ba, và ông thấy một cảnh sát đang cúi đầu vào xe, hỏi gì Michael. Gã nhìn người cảnh sát với vẻ mặt thật hiền lành. Cesario bước lại.
- Cám ơn hạ sĩ. Không có gì đâu.
Viên hạ sĩ cảnh sát đứng thẳng lên nhìn viên thượng sĩ không quân, rồi nhìn lại vào gã trai đang nhìn ông ta mỉm cười. Cesario chợt hiểu ra – lúc
này ông đã trở lại với xã hội bình thường, – cái cảnh Michael ngồi ở băng trước một chiếc xe không quân, với mái tóc dài phủ chấm vai, gầy gò đến nỗi xương mặt như muốn đội lớp da trắng xanh lên, và bộ râu viền quanh chiếc miệng đang mở rộng để cười với cảnh sát, quả thật là một hình ảnh trái khoáy. Lần đầu tiên, Cesario nhìn thấy một viên ngọc thạch trên tai gã. Và gã nói.
- Ông ta muốn biết chiếc xe của ai? của ai vậy?
- Của không quân Hoa Kỳ. Tôi là thượng sĩ Flores. Có cần xem căn cước không?
Ông cảm thấy ngạc nhiên vì mình vừa tỏ thái độ che chở đối với Michael. Viên cảnh sát lắc đầu. “Khỏi.”
Lúc xe chạy, Cesario hỏi tiếp chuyện cô gái:
- Tên hắn là Vinnie? Hắn không biết cô gái đang mang thai con hắn ư?
Cesario nói như thì thầm, nhưng quả thực chẳng cần phải thế, vì Rosalie vẫn ngủ say cả lúc người cảnh sát đến xét hỏi.
- Không ai biết những gì Vinnie biết.
- Nếu biết, có thể hắn không bỏ rơi cô ta thế này.
- Thực ra hắn đâu muốn bỏ rơi. Này, ông biết con gái mình thuộc típ phụ nữ ưa tấn công không? Nó quyết định giành Vinnie khỏi... – Gã chỉ vào cô gái phía sau. - Và nó làm được. Rosalie nói với Vinnie lúc nào muốn đi thì cứ việc, nhưng trong lòng không khỏi không buồn phiền. Vì vậy nó không muốn trở lại nữa.
- Tôi không tin cái chuyện Juana ưa tấn công.
- Tùy ông. - Michael cười lớn.
- Nó chưa bao giờ gần gũi một người đàn ông nào.
- Được rồi. - Michael tiếp tục cười.
- Anh cười gì vậy?
- Nếu ông nói vậy thì chắc phải như vậy. Dù sao, tôi cũng không có ý nói xấu,
- Nó hoàn toàn chưa. Anh có tin tôi không?
- Nếu ông muốn tôi tin, thì dĩ nhiên là tôi tin.
Cesario sắp nôi sùng, nhưng dằn xuống được.
Chiếc xe đã qua những hàng phố cuối cùng, trước khi lên con dốc vào đèo Father Felipe. Cesario dừng xe trước một quán rượu, và bước vào. Michael can:
- Thứ đó không lợi lộc gì, nó chỉ làm ông thối ruột.
Cesario không đáp. Ông nghĩ, hắn vậy mà dám khuyên ai đó chừa rượu, trời đất! ông cảm thấy dễ chịu hơn khi cầm theo nguyên một chai lên xe.
2
Cesario lái xe lên con đường dốc ngoăn ngoèo dẫn tới đỉnh đèo. Ông thay đổi đề tài, và Michael sẵn sàng nói về mình.
- Trước tôi theo ban hóa học, ông tin không? Đại học Pennsylvania. Tôi từng mơ ước trở thành kỹ nghệ gia khai thác rồi chế biến ra những hóa chất, hợp chất mới. Trong một thời gian, tôi học khá lắm. Luôn luôn hạng ưu. Nhưng rồi tôi hiểu ra hầu hết những hóa chất mà chúng ta chế tạo được đều dùng để giết chóc - giết côn trùng và người, hoặc đất đai, hoặc giết bất cứ thứ gì miễn là có lợi. Vì vậy có lúc tôi ngồi lặng đi suốt cả buổi học. Thiên hạ tưởng tôi mất trí, khùng điên. Có lúc tôi nói chuyện một mình. Bởi vì tôi tự hỏi phải chăng tôi muốn trở thành một kẻ như thế? Như những người kia? Vì vậy tôi bắt đầu đọc sách, không phải những cuốn sách mà giáo sư bảo đọc, mà là những tài liệu lịch sử bí mật. Tôi khám phá ra rằng thế giới không phải luôn luôn như thế này. Tình trạng chúng ta đang sống chỉ mới được tạo ra gần đây thôi. Tôi muốn tìm hiểu thêm vê lối sống khác,
của những kẻ khác. Vì vậy tôi đến đây, ghi tên vào đại học này, khoa Nhân chủng học, môn học nổi tiếng nhất của Trường, ở đây, họ có di tích lịch sử của người da đỏ ở khắp nơi. Nhưng các giáo sư đều coi thường, thậm chí khinh miệt những di tích xưa nhất, gọi chúng là man rợ, chế nhạo rằng muốn vào bên trong phải chui qua ông khói, hoặc những câu tương tự. Song những người dân còn theo tập tục cũ đối với tôi không có vẻ gì man rợ cả, chẳng qua họ sống theo lối sống của họ thôi, khi mà lối sống của đám văn minh chúng ta thì chỉ là tiền, tiền, phải không? Vậy là tôi bỏ học luôn. Kể ra thì tôi đã bỏ học nhiều lần quá rồi, - hắn cười, - bây giờ tôi quyết định thực sự ngồi yên, sống với lòng mình, sống trong lòng mình, thay vì sống trong một căn nhà, ông có hiểu tôi muốn nói gì không? Không hả? Vậy là tôi bán hết sách vở, kể cả quần áo, để mặc cho tóc mọc dài, có ý như muốn nói rằng tôi không còn là món hàng đem rao bán nữa, và từ đây tôi bắt đầu đi tìm lôi sống của tôi. Tôi không làm bất cứ việc gì mà tôi không đặt tin tưởng vào, có nghĩa là tôi chẳng làm gì nhiều, đúng vậy không?
- Thế cha anh nói sao?
- Tôi không bao giờ tìm được cách gì để nói chuyện với ông, đành viết cho ông lá thư, đại khái nói cám ơn ba, giã từ ba, vậy thôi. Hết.
- Còn đối với vấn đề quân dịch thì sao?
Michael cười lớn:
- Đây mới là chuyện khôi hài nặng. Khi họ tìm ra được nơi tôi ở, họ gọi lên. Tôi lên. Họ nhìn tôi một lượt, rất kỹ lưỡng, tôi có giọng nói the thé, mặc dù chẳng điên khùng gì cả, và tôi cũng chẳng cần quan tâm đến điều gì. Tóm lại, họ nhìn tôi kỹ lưỡng, và họ đành phải tin rằng tôi nói thật. Tôi nói với họ là sẽ không bao giờ cầm súng bắn vào bất cứ thứ gì – người, vật, chim chóc, cái gì cũng không bắn. Tôi nói là nếu họ gửi tôi sang đó, tôi sẽ ngồi xuống giữa hai đạo quân để tập hít thở theo phép Yoga, và tham thiền. Họ hỏi tôi việc đó như thế nào. Tôi bèn ngồi xuống nền nhà, trồng chuối, đầu cắm xuống đất, – gã cười vãi ra, vì vậy, những tiếng nói của gã đứt quãng, – và tất cả bọn trong phòng nhìn tôi, rồi gọi những người lính ở các phòng khác sang nhìn. Tôi giải thích cho họ biết rằng đây là một cách dưỡng thần, tôi có thể giữ cử động đó mười, mười lăm phút, hai mươi phút. Họ bèn bảo tôi không cần làm tiếp, rồi họ sẽ liên lạc lại, nhưng đến nay tôi chưa được gặp lại họ.
Michael cười mãi, và cuối cùng Cesario nhịn không nổi, cũng cười theo. Michael hỏi:
- Ông gốc Mehico, bộ lạc Chicano, đúng không?
- Người Mỹ gốc Mehico, dân tộc Chicano.
- Lai da đỏ đôi chút?
- Ai mà không có ít da đỏ trong người?
- Vậy sao ông không đến ở với chúng tôi?
- Anh đùa hay thật đó?
- Biết đâu ông chẳng có một lối sống như chúng tôi, làm sao ông biết được?
Cesario nhìn gã khinh bỉ:
- Anh đùa đấy chứ? Tôi sinh ra ở Sonora, nhưng chúng tôi đã rời khỏi nơi đó. Có bao giờ anh nghe nói đến McAllen thuộc tiểu bang Texas không?
- Không. Tôi muốn mình là người Mehico. Ông có biết bài hát này không?
Hắn bắt dầu hát bằng một giọng thanh tao.
- Biết chứ. Cha tôi hay hát bài đó lắm. Bài Adelita.
Hai người hát với nhau trên đoạn đường lên đến đỉnh đèo. Rồi những bài hát khác nữa, những bài mà lần đầu tiên Cesario hát kể từ khi lấy vợ.
Nơi được gọi là đèo Father Felipe giống như chiếc yên ngựa. Giữa hai ngọn đồi, hay hai mô đá đó, là con đường đèo, do một vị linh mục gan dạ khám phá ra, và từ đó những đoàn xe qua lại liên tục. Bây giờ thì đây thành một chỗ dừng xe ngắm cảnh sa mạc phía dưới.
- Ông ngờ được không, đây ngày xưa vốn là một cái hồ, và dưới kia là đáy hồ. - Michael nói.
- Cái hồ? Bao giờ?
- Khoảng chừng hai trăm triệu năm trước.
- Lúc đó, đây là một cái hồ?
- Ông biết vùng Kansas không? Nơi đó vốn là biển!
Họ đi bộ lên đỉnh đồi, và nằm xuống đất. Michael nói cho Cesario biết về đời sống trên địa cầu này vào thời xa xưa, về những quái thú như khủng điều, khủng long cao bằng tòa nhà ba tầng gặm những thực vật, chúng to lớn đến nỗi phải ăn suốt ngày mối sống nổi. Rồi hắn nói về loài chúa của những quái thú đó, mà các nhà bác học đặt cho cái tên Tyrannosaurus Rex, được sinh để ăn bớt các giống quái thú. Gã bỗng trầm ngâm:
- Ông có nghe sự im lặng này không, của một cái gì đó đã mất đi vĩnh viễn? Chúng đã sống ở đây và đã biến mất ở đây, để bây giờ chỉ còn im lặng.
Cesario để ý đến ánh mắt gã, nó thật hiền lành, dịu dàng, và ông cứ nhìn cho đến khi gã phải hỏi:
- Sao ông nhìn tôi nhiều vậy?
Cesario đã mang theo chai rượu số năm, giờ ông mở nút ra, uống một hơi dài, và chẳng vì lý do nào cả, ông nghĩ, vợ tôi đang tìm cách giết tôi. Cái ý nghĩ đó làm ông thấy gần gũi với Michael hơn, và nó làm ông sững sờ. Ông mà lại thích gã trai này được?
Họ đi qua đám cây gai, xương rồng, Michael nói:
- Những thứ này đầy nước ở trong, còn thứ này thì... có trái ăn khá ngon. Người ta có thể sống ở đây mà không cần mang theo thực phẩm và nước uống, nếu bị bắt buộc.
Rosalie thức dậy, đặt tay lên vai Michael, và gã quay lại hôn lên tay cô gái. Cesario không nhớ nổi lần cuối ông được âu yếm như vậy. Ngoại trừ với Juana, trước khi câu chuyện này xảy ra. Michael nói:
- Ông nên mua tặng cô ấy một món quà.
Cesario giật mình. Gã có biết ông đang nghĩ đến ai không? Rosalie lên tiếng:
- Ông có biết cô ta thích thứ gì không? Một con thỏ!
Xe chạy thêm vài dặm nữa, Michael bảo ông quẹo xe theo một tấm bảng viết Mc Ivers, đi vào giữa những cây thông đến một ngôi nhà nhỏ có chuồng súc vật lớn, và ở đó họ mua một con thỏ nhỏ lông trắng mượt. Trong lúc Cesario trả tiền, thì Michael rửa mặt cho Rosalie, khoát nước từ đầu một ống dẫn. Thơ mộng ra phết.
Cesario không biết cầm con vật cách nào, vì vậy cô gái ôm giùm.
Lúc họ lên xe, hai máy bay chiến đấu cặp sát nhau vút qua thật thấp trên đầu. Họ nhìn theo đến khi chúng biến khỏi rồi mới vào xe. Michael nói:
- Ông có thấy, vì nền văn minh của chúng ta sai lầm nên chúng ta đi tìm một mẫu mực khác.
- Ai bảo nó sai lầm?
- Tất cả chúng ta đều biết điều đó. Cả ông nữa.
Gã lấy từ túi quần ra một vật bằng đất nhỏ.
- Tôi muốn tặng ông vật này.
Cesario cầm lấy, lật qua lại trong tay.“Cái gì vậy?”
- Tôi thấy nó ở nơi chúng ta sắp đến – một cái còi của dân da đỏ. Ông thổi vào đây này.
Gã cầm chiếc còi đất nung, thổi vào đầu lỗ. Một âm thanh rền rĩ và thánh thót thoát ra. Cesario nói:
- Dưới mái nhà tôi ngày xưa, nơi tôi ra đời, chim thường đến làm tổ.
Họ bỏ đường cái để rẽ vào đường đất. Rồi đường đất cũng đến chỗ tận cùng, và gã bảo ông dừng lại ở nơi có chiếc Chevy cũ không mui đang đậu. Michael ra khỏi xe, dỡ đồ, đỡ cô gái xuống rồi nói:
- Ta phải đi bộ từ đây. Nó ở phía bên kia ngọn đồi.
Trời đã oi bức, Michael cởi áo ra. Cesario tính làm theo nhưng lại thôi. Ông đã bắt đầu béo bụng, trông không còn gọn gàng như ông muốn thiên hạ tưởng.
Còn khoảng hai giờ nữa thì trời tối, và đây là lúc nóng nhất trong ngày. Gió gần như im hẳn. Michael ôm hai gói đồ đi đầu, rồi đến Rosalie, và sau rốt là Cesario ôm gói bia lạnh, song đã trở nên nóng như mới hâm.
Khi lên tới đỉnh đồi thì họ nhìn thấy ngôi nhà. Nó mọc lên dần dần, trước hết là cái lều bằng đá, rồi được nối thêm chái, rồi lại thêm một gian bằng gỗ. Phía nhà hướng về ngọn đồi chìm trong bóng tối nên thoạt đầu họ không nhìn thấy cô gái, ngồi ở một góc, trên chiếc ghế trước lấy ra từ chiếc xe hơi nào đó. Michael đặt hai gói đồ xuống đất, gọi “Sandy!” Cô gái có vẻ không nghe thấy, cứ nhìn mông lung về phía sau gã, tay chìa ra đằng trước. Lúc Michael nắm tay nàng thì nàng siết chặt lại, vẫn không nói gì.
Từ đâu đó, họ nghe có tiếng súng rời rạc.
Cesario đặt gói bia xuống. Bây giờ thì ông đã nhìn rõ hơn, nhưng cũng chẳng có gì nhiều để nhìn. Một tấm vỉ sắt gác trên bếp lửa, vài chiếc soong, bình cà phê lớn.
Tiếng súng dứt, và họ có thể nghe tiếng cãi lộn vẳng đến. Cesario bước ra ngoài nắng, lát sau Michael đi ra theo, đứng cạnh ông. Cesario hỏi:
- Juana đâu?
- Chúng tôi sẽ tìm cô ta.
Michael đi về phía có tiếng súng (bây giờ lại vang lên). Cesario đi theo, mồ hôi nhễ nhại. Gã hỏi ông:
- Sao không cởi áo ra?
Đến chỗ trũng thấp, họ thấy bốn gã trai đang bắn vào những hộp bia rỗng. Một tên mang giầy trận vẫy tay chào Michael, rồi nhìn Cesario, cái
nhìn như thể nhận ra ông.
Cesario chưa từng gặp người này. Hắn da đen, tóc xoăn tít, mang kính trắng. Lúc Michael đến gần thì hắn quay lưng lại Cesario và thì thầm gì đó với gã. Những người kia cười giòn không để ý gì.
Rosalie bây giờ đã thay quần cộc, đến gần Cesario. Ông hỏi cô ta. - Họ làm gì vậy?
- Tập bắn súng.
- Ở đây làm gì có thú dữ, phải không?
Michael trở lại:
- Nào, chúng ta đi tìm Juana. Ở đây rất tuyệt, hả?
Họ men theo sườn đồi, lên đến đỉnh cao cuối cùng họ thấy một người toàn thân phủ kín bằng tấm chăn dầy, mỗi cái đầu thò ra qua một lỗ hổng giữa chăn. Hắn đang nhìn thẳng về phía mặt trời lặn, chẳng để ý đến ai và cũng chẳng ai nói gì với hắn. Những tiếng súng lại vang lên. Cesario, có lẽ vì thấy Michael luôn trả lời ngay thẳng mọi câu hỏi ông nêu ra, quyết định hỏi hắn:
- Họ làm gì vậy?
- Tập bắn bia. Chúng nghĩ là có lúc cần đến.
- Để làm gì?
- Tự vệ. - Michael mỉm cười và gật đầu.
Họ đi đến một cây xương rồng khổng lồ, cao đến hai mươi hai lăm bộ. Michael nói:
- Vài cây có chứa đến hai tấn nước. Rễ chúng nhiều lúc thọc sâu xuống đất tới nửa dặm. Một cây lớn thế này có thể hút hết nước và hơi ẩm quanh đây. Ông thấy còn cây nào khác sống nổi không? Đó là luật sinh tồn trong rừng thực vật.
Rosalie chỉ chiếc xú chiêng và quần dài treo gần đó.
- Ê, có lẽ Juana đó. - Cô ta gọi lớn. - Juanie!
Juana đứng lên. Nàng hoàn toàn trần truồng, chắc đang tắm nắng. Rosalie chạy lại ôm chầm lấy nàng:
- Ba mày đến đó.
Cesario nghĩ cô ta đang nói với con gái ông là mọi việc không có gì đáng ngại, rồi tự hỏi bọn người gì đây?
Sau loạt thì thầm ôm ấp nhau, Juana nhìn lên, vẫy tay chào Cesario. Nàng mặc quần vào, quay lưng lại phía ông. Michael đứng ngay phía trên nàng, Juana cầm chiếc áo áp trước ngực chạy lại phía cha và ôm hôn ông. Cesario chưa bao giờ ôm hôn con gái vú vê như thế, kể từ khi nó lớn.
Im lặng, ông và Juana đi ra xa, Rosalie gọi theo:
- Ba mày mua cho bọn tao ít thức ăn.
Juana nắm tay ông và nhìn lên. Ông nghĩ, nó quả thực vui khi gặp ông. - Ba đầy mồ hôi. Sao không cởi bớt quần áo ra?
Nó dẫn ông lên một triền dốc. Ông ngồi trong bóng mát. Nó đứng ngoài nắng, Mặt trời bắt đầu lặn. Nó hỏi:
- Ở đây đẹp quá, phải không ba?
- Nơi đây của ai vậy?
- Con nghĩ chẳng thuộc về ai. Michael nói là có một người mua cả khu đất này, vì tin rằng thành phố sẽ nới rộng ra đến đây. Nhưng rồi chuyện đó không xảy ra, vì vậy ông ta đành quên nó luôn. Michael lợp mái lên, và bây giờ, cả mùa mưa chúng nó cũng ra đây.
- Ba không thấy có dây điện đâu cả.
- Đây không có điện. Dùng nến,
- Nấu ăn bằng cách gì?
- Có cái bếp lửa đó, do bọn con làm ra. Mấy em ra sao hả ba? - Khỏe. Chúng nó nhớ con.
- Con cũng nhớ chúng nó. Nhưng những người này... họ cũng giống như một gia đình. Ba, ba có thích họ không? Michael ấy?
- Ba khoái hắn.
Cesario kinh ngạc với chính mình khi đáp vậy.
- Còn Rosalie?
- Nó có thai... con biết việc đó không?
- Con biết... Tuyệt diệu!
Cesario quyết định đặt thành vấn đề lớn:
Nó có thai với thằng bồ của con đó. - Juana nằm dài, nhìn lên trời. Không một thứ tiếng động nào. Xa xa, Cesario thấy đám tập bắn giờ đang chậm rãi lên đồi, rồi bước xuống trũng thấp khuất nắng, đi về phía ngôi nhà, và biến mất. Ông ân hận vì đã nói ra, nhất là nói một cách đột ngột như vậy. - Con không biết ư?
- Không. Con bất cần.
Bên trong nghĩ như thế nào thì không rõ, nhưng Juana không để lộ chút gì ra bên ngoài. Cesario chẳng tìm ra điều gì để nói thêm. Ông nhìn mặt trời xuổng.
Một người mặc áo khoác nhưng trong không có sơ mi, đi lại phía họ. Cesario nhìn hắn. Juana chắc đã nghe tiếng chân hắn, nhưng vẫn không cử động gì. Cesario thấy đó là một người da đỏ. Hắn mang vật gì đó gói trong tờ giấy báo, vấy máu:
- Ê, Vinnie đâu? - Hắn hỏi trống không.
Juana hé mắt liếc về hắn:
- Ồ, Arthur.
Nàng vẫn nằm dài ra. Hắn quì xuống cạnh nàng:
- Hôm qua chúng tôi bắn được con nai, và tôi đem cho nó một đùi thịt. Nai tơ, thịt mềm lắm. - Juana vẫn không nói gì. Hắn kia hỏi. - Vinnie đâu?
- Hắn phải đi đâu đó.
- Tôi biết hắn thích thịt rừng. Hắn sắp về rồi chứ?
- Hắn đi khỏi thành phố này.
- Không nói đi đâu sao?
- Không.
- Tôi còn mang cho hắn thứ này nữa. - Hắn đưa ra một túi giấy nhỏ màu nâu, loại dùng để đựng kẹo, hay những vật cứng, thường dùng trong các hiệu buôn. Juana cầm lấy. - Cô sắp gặp hắn chứ?
- Dĩ nhiên.
- Nhớ đưa cái này. Hắn biết trong đó đựng gì.
- Juana gật đầu. Hắn làm một cử chỉ, rồi đi. Juana đưa tay che mắt, nói: - Vinnie vậy đó.
- Michael nói là hắn đi San Francisco. - Ông bố nói.
- Lâu lâu hắn phải đến đó một lần.
- Con biết hắn buôn ma túy không? - Juana im lặng. - Juana? - vẫn im lặng. - Hắn sống bằng cách đó.
- Con bất cần. - Nàng đứng lên. - Mình vào nhà đi. Ngoài này mau lạnh lắm, mà ba thì đang chảy mồ hôi.
- Hết rồi. Chúng ta có thể ngồi đây thêm một lúc. Nàng nhìn bố đăm đắm.
- Ba, ba thật là một ông bố dễ thương.
Cesario giữ nàng trong vòng tay:
- Ba không thể để kẻ nào làm tổn thương đến con.
- Hắn không hề làm con bị tổn thương, ba sao vậy? Hắn giúp đỡ con. Trước khi biết hắn, con không biết gì cả. Hắn dạy con hiểu con là ai, ba à. Đi nào, ba.
Cesario không để nàng rời khỏi vòng tay ông.
- Ba sẽ giết nó, nếu nó làm tổn thương con gái ba!
- Đừng nói vậy, ba!
- Ba nói thật đó!
- Con biết ba nói thật. Ba là một người hung dữ.
Nàng nhìn ông với nét mặt mà ông yêu thích nhất. Ông nghĩ đến tượng Đức Mẹ trong ngôi nhà thờ cổ, và thầm cám ơn Người. Juana nói tiếp:
- Ba thấy không, ba giống như những người ở đây, nhưng ba đã quên mất con người thật của mình, con người Mehico chính cống và không phải sinh ra để luôn luôn đóng vai một tên lính Mỹ!
- Con biết gì về những điều đó?
Nhưng thật ra, nàng đã nói lên những ý nghĩ thầm kín của ông.
3
Mọi người trong ngôi nhà đều hút cần sa. Từ máy thu thanh xách tay, vang lên điệu nhạc Rolling Stones, ngoài ra không có gì khác, và tất cả đều lắng nghe nó.
Cesario cũng lắng nghe, và đã uống đến nửa chai rượu số năm, để nhớ lại những ngày thơ ấu ở Sonora, trước khi gia đình ông bị chính phủ Mehico đuổi đi. Ông nói, “Bọn Mehico trời đánh!”
Juana đang đứng, tay giang rộng. Ông lấy làm hãnh diện về con gái ông, trong dáng điệu chờ đón:
- Ba, đứng lên đi ba.
Ông làm theo, ôm chặt con gái vào lòng, cử động theo điệu nhạc. Từ bao năm nay ông chưa được khiêu vũ thế này, chưa bao giờ, từ khi ông ở Panama, khi ông còn dồi dào sức sống, đã sống mãnh liệt, và vẫn còn thèm khát. Bây giờ ông ôm chặt con gái nàng vào lòng và chuyển động, không quá nhiều, không quá nhanh, gần như cử động tại chỗ, như con gấu trong một nhịp điệu nặng nề. Ai nấy đều nhìn, cả gã da đen ngồi khuất trong góc.
- Ba, trong không quân, họ dạy ba khiêu vũ thế này ư? Ba học ở đó...? - Không, không.
Ông cúi xuống trên mặt con gái, cười, ôm nó chặt hơn, và bước ngang, rồi tới, rồi ngang, rồi lùi lại, rồi...
Sandy, cô gái ông gặp đầu tiên lúc đến đây, đang khóc thổn thức. Tất cả đều nhìn về nơi đó, nhưng chẳng ai có thể làm gì đổi với nỗi đau đớn của nàng, chỉ có mỗi Rosalie bước đến gần. Cesario hỏi con gái:
- Nó làm sao vậy?
- Nó hít chút ma túy, đang phê.
Michael đến bên Sandy, và cô gái đứng lên ôm chầm lấy hắn, khóc dữ hơn, rên rỉ. “Michael! Michael!”
Cesario không muốn nhìn thêm, cảnh đó làm ông khiếp sợ, không phải chỉ vì ông nghĩ Juana cũng có thể như vậy, một ngày nào đó, mà còn vì nỗi đau đớn của cô gái có vẻ khủng khiếp quá, dữ dội quá.
Ra đến ngoài, ông quì xuống, cầu nguyện.
- Ông đến đây làm gì? - Cesario ngẩng đầu lên- Gã da đen mang giầy trận nói tiếp. - Ông là mật vụ, hay thứ gì?
- Không.
Michael bước ra nói:
- Ông ta là ba Juana, cũng là bạn tao nữa.
Gã da đen làm cử chỉ đe dọa:
- Tao muốn nói, nếu hắn là mật vụ, hay thứ gì như vậy, thì cũng không qua mặt được tao đâu, có thể hắn bịp được mày, nhưng không bịp được tao đâu.
Hắn quay vào nhà. Michael quì xuống bên Cesario:
- Đừng để ý đến, nó trốn ở đây năm tuần rồi, và nó hoảng hốt khi thấy bộ quân phục của ông,
- Nó chẳng làm tôi ngán. - Cesario đáp. - Cô gái kia ra sao, cái cô bị thuốc hành đó?
- Nó hít quá độ, phải một lúc lâu mới hết phê.
- Cô ta là ai vậy?
- Ông có nghe nói đến...? - Hắn ngập ngừng, rồi tiếp. - Ồ, việc quái gì phải giấu giếm! Nó là con gái của ông... - Hắn lại ngừng. - vả lại, chẳng quan trọng gì. Nó giầu. Gia đình nó giầu thì đúng hơn. Ông thấy tài sản đó giúp ích gì được cho nó đâu. Nó đến đây một mình như tất cả mọi người. - Hắn cười lớn. - ông nội nó tuy không hiểu ra, nhưng hiện đang hỗ trợ phong trào cách mạng trong xứ này, chẳng hạn bằng những khẩu súng kia đó. Và lão ta luôn sẵn sàng nộp tiền ký quỹ để xin tại ngoại hầu tra. Chỉ cần gọi Sandy để có tiền ký quỷ, cũng như súng đạn vậy. Còn cái này, - hắn chỉ vào cấp hiệu may trên tay áo Cesario, – cần phải vứt bỏ đi, vứt bỏ hết, để rồi mọi vật trở về với im lặng. Như thứ im lặng mà chúng ta đã nghe được trên đèo Father Felipe khi nãy, để rồi một cái gì mới sẽ đến. Nhưng đối với tôi, những gì xảy ra bên ngoài, thì tôi chỉ nhìn. Tôi đã quyết định khám phá những gì trong tôi, cái không gian nội tâm của tôi. Như vụ tập bắn kia. Tôi từng dự vào đó, nhưng bây giờ thì tôi nhìn mọi vật một lối khác. Tôi cần phải đến một đâu đó để nghe được chính mình. Ông hiểu không? Thay vì thù hận kẻ khác, tôi cần phải thương yêu mình. Đó có phải một cuộc cách mạng không? Ông có thấy khác lạ không? Không à? Ờ, rồi ông sẽ hiểu. Tôi muốn nói với ông một điều. – Cesario gật đầu. - Về Juana. Ông nên đem nó ra khỏi Vinnie. Hắn không bao giờ gắn bó với ai hết. Chưa bao giờ. Hắn luôn luôn đứng ngoài, đơn độc, chỉ xoay quanh quĩ đạo của hắn, và đó là lối của hắn, không thay đổi...
- Đồ ăn. Ba. Ba muốn dùng gì không?
Juana gào lên, Tiếng khóc của Sandy vẫn nghe rõ.
Thịt con thú rừng non, và khá nhiều, vì Michael và một người lớn tuổi đang ở thời kỳ tham thiền, không ăn thịt. Phần nhiều là những khúc xương, gân, nhưng những miếng thịt xung quanh thật ngon, và Cesario ăn một cách thú vị. Hơn nữa, ông có thể biết trước chuyện sắp xảy ra: Juana sẽ về nhà với ông. Ông gậm miếng sườn, mút những miếng thịt giữa hai mảnh xương, và nhấp nháp với phần rượu còn lại, không buồn quan tâm đến gã da đen (Hắn là ai? Đào ngũ?) đang đứng nhìn. Cuối cùng, ông hỏi. “Ê, mày nhìn gì vậy?”
Hắn không đáp, vẫn nhìn, ông hỏi tiếp, cười lớn:
- Mày nhìn cái quái gì vậy?
Ông nghĩ mình sắp có cơ hội đánh lộn với tên da đen này. Ông thấy mình như hồi trẻ, trước khi gia nhập không quân, khí còn là binh nhất, đóng ở Panama, và thích đánh lộn vì không có món giải trí nào khác, giống như trước khi ông cưới vợ, và học tự kiềm chế. Ông có thể cảm thấy những thớ thịt duỗi ra, thoải mái khi nói:
- Ê, tên da đen chó đẻ kia, mày nhìn gì vậy?
Rồi ông cầm chiếc xương bỏ lên đĩa của hắn.
- Ba, đừng làm vậy. - Juana can.
- Tại hắn cứ chòng chọc nhìn ba, chẳng lịch sự tí nào. Muốn làm tao ăn hết ngon phải không? Tao đang thưởng thức món ăn. Vậy mày nhìn cái quái gì vậy?
- Tao đang nhìn thằng chó đẻ về hùa với KẺ KHỐN NẠN giết loài người.
- Loài người?
- Còn muốn giết loài gì nữa?
- Ê, bạn, tao là dân Mỹ!
- Chó đẻ, mày là tên giết người!
Michael chen vào:
- Thôi, các bạn bình tĩnh lại đi.
- Bình tĩnh cái gì chứ? Tao nói với hắn là tao không thích ăn chung với một tên giết người.
Juana nắm tay ông. Ông mỉm cười với nó, nghĩ bây giờ con gái ông đang bên ông, và ông không thiết gây lộn với gã da đen này nữa. Vì vậy, ông nói:
- Thôi được. Nếu mày không thích ăn chung với tao, thì mày đừng ăn chung, có sao đâu.
Hắn bước đến nằm xuống bên Sandy. Nàng nắm tay hắn đặt lên ngực mình, mắt nàng lồi ra như mắt ếch. Và hắn vẫn rủa sả không thôi. Sandy lẩm bẩm, gượng ngồi lên mà không nổi. “Hay. Hay lắm.”
Cesario đang thấy rất khoái đánh lộn song Juana nắm rất chặt cánh tay ông, và ông cố gắng nói những điều phải nói bằng giọng bình tĩnh:
- Mày có thể nói những điều đó về không quân, hải quân, Washington, bởi bọn tao đang bảo vệ cho chúng mày. Chúng tao bảo vệ cho mày, để mày yên ổn chửi rủa chúng tao và làm bộ tập bắn bia. Mày có thể buôn heroin, cần sa, và sống thế này trong nhà của kẻ khác, và ăn, và uống bia do kẻ khác mua bởi vì mày biết hễ gặp rắc rối thì luôn luôn có ông nội sẵn sàng chạy đến nộp tiền ký quỹ để lôi mày ra khỏi tù. Cách mạng gì mày? Chúng mày chẳng bao giờ bắn được ai cả, vì xứ này đủ mạnh để cho chúng mày chơi cái trò này, vậy cứ việc chơi tiếp đi!
Cesario đi lại phía gã da đen đang nằm đặt tay lên ngực cô gái, nói:
- Thằng trốn lính, đừng lo gì hết, tao không thèm tố cáo mày đâu, bởi chẳng ai buồn để ý đến mày, nghe rõ chưa, chẳng ai thèm sợ một tên mọi đen cả...
Tên da đen nhảy dựng lên. Hắn nhào vô, múa may nặng nề. Cesario làm dấu thánh giá thật nhanh, như vẫn thường làm trước mỗi trận đấu, rồi cười lớn xông lên, khoái trá hết sức khi nhận vài quả đấm, rồi tránh ra bên, rồi lao vào, rồi lùi lại, cứ thế, làm những quả đấm của gã da đen chỉ lướt quanh mình, vô hại, còn ông thì cười lớn, cười mãi, càng làm cho gã kia điên tiết thêm. Cesario cảm thấy mình trẻ lại, vào cái thời mà ông tin rằng
nếu luyện thêm chút xíu, có thể trở thành võ sĩ chuyên nghiệp, ông có một năng khiếu nào đó, và thật giỏi chịu đòn, làm cho những người hiểu biết về quyền Anh dám cả quyết có ngày ông sẽ trở nên vô địch. Chúa ơi, khoái ơi là khoái. Ông nắm chặt tay, đưa vai đỡ đòn, gạt đòn, tránh né, và khi ông đến gần, thì gã da đen đấm đá ông khắp nơi, trừ những nơi đáng ra phải đánh vào. Cesario không thèm ra đòn, bởi ông biết có thể hạ gã bất cứ lúc nào ông muốn, nhưng ông khoái chờ hắn kiệt sức đã. Khi hắn bắt đầu vung không nổi tay để đấm, Cesario quyết định kết thúc trận đấu theo một cách khác. Lúc xáp vào gần hắn, ông bảo:
- Tên mọi đen, chịu thua đi, kẻo sẽ hối hận đấy!
Nhưng gã đã hết tự chủ, thấy mình cần phải giết người, hay bị người giết, và đó là cách duy nhất để có thể chấm dứt trận đấu. Cesario dứ tay, gã kia nhảy lui lại, mất thăng bằng, và Cesario đưa chân phải gạt phía sau chân trái rồi dùng một tay ẩy nhẹ, để hắn ta ngã ngửa ra, đập đầu xuống nền đất, ngất xỉu luôn.
Cesario nhìn xuống gã, rồi nhìn quanh, nói.
- Mấy người không đủ sức hạ tôi, một kẻ lớn hơn hai chục tuổi ư? Muốn hạ được, chắc cần tất cả, không, không phải tất cả một lúc, có cần thí nghiệm không?
Michael ngồi tựa lưng vào vách, vuốt ve con thỏ mà Cesario mua tặng Juana. Hắn đưa con thỏ lên và nói:
- Này, ông thượng sĩ Flores, ông thử nhìn đây, đến gần đây, mời ông, và nhìn vào con vật này. Bởi vì tôi đang tự hỏi một việc.
Vì một lý do nào đó chính ông cũng không hiểu nổi, Cesario làm theo. Michael đặt con thỏ vào tay ông.
- Hãy nhìn vào mặt nó đi. Ông có thể giết chết nó không? Vậy làm sao ông có thể giết người được? Bởi vì ông không phải nhìn vào mặt họ, phải vậy không?
- Con thỏ cử động, và Cesario phải nhìn vào mặt nó.
Ông nói đúng, về việc xứ này mạnh, vậy thì chúng ta phải sợ gì ai? Và ông cũng nói đúng, về việc một số trong chúng tôi sinh ra từ tiền bạc nên có
đủ mọi thứ, nhưng chúng tôi lại không thích điều đó.
- Tất cả các người đều bệnh hoạn! – Cesario nói.
- Có thể. Nhưng nếu ông lành mạnh, làm ơn trả lời điều này. Từ ngày đức Jesus Christ chết, có năm nào, trên phần đất nào, mà những người theo đạo Chúa này đã không dùng tất cả sự hiểu biết giỏi giang nhất của họ để giết hại những người theo đạo Chúa khác? Và bây giờ, chúng ta đã xúc tiến cái nghệ thuật giết chóc đó đến độ tinh vi, không cần phải nhìn vào những kẻ ta giết, chỉ cần nhấn nút mà thôi. Như ông vậy, Ông có thể nhìn thẳng vào đôi mắt con thỏ đó không? Này, người tín đồ Thiên chúa giáo ngoan đạo, hãy làm dấu thánh giá, như tôi nhìn thấy ông làm trước khi đấm, rồi vặn cổ nó đi. Vặn cổ nó bằng đôi tay của ông, vừa nhìn vào nó. Ông có thể làm vậy không?
Cesario không thể nhìn vào con vật.
Tiếng Michael thấp dần xuống, Juana phải đến sát bên cha mới nghe được.
- Thượng sĩ, ngày mai, hãy vào sa mạc và ngồi suy tư như những thánh nhân, những thánh nhân đã bắt đầu từ những tên giết người. Hãy đến nơi không có gì xung quanh ông, ngoài xương rồng cùng rắn, và hãy tự hỏi, “Này, thượng sĩ Flores, mi có phải tên giết người như hắn nói không?”
Juana đáp ngay:
- Không. Ba tôi không như vậy. Tôi biết ba tôi.
- Được rồi, Juana. - Michael nói.
- Ông là ba tôi. Đừng nói với ông như vậy.
- Được rồi. Được rồi mà, Juana.
Đó là lúc Cesario biết chắc Juana sẽ về theo ông.
Trong sa mạc, những ngôi sao vẫn sáng. Hai cha con nằm trên cát, bên nhau, cùng nghe tiếng chó hoang tru. Gió thuận chiều, và con vật gầy gò đi qua phía trên họ, nhìn xuống ngôi nhà, đánh hơi mùi khói, và mùi thịt trong mùi khói.
Cesario nắm chặt tay Juana để nàng không cử động và không khiếp sợ, và hai người nhìn con vật qua lại, do dự, bước lại gần ngôi nhà vài bước, rồi đổi ý, nằm xuống, rồi đứng lên và đi mất vào bóng đêm.
- Ba đã xin thuyên chuyển. Sang Tây Ban Nha. Có lẽ vậy. - Tây Ban Nha?
- Con đã lớn, con có thể làm những gì con muốn, nhưng ba mong con đi theo gia đình.
- Con thương ba. Ba đừng quan tâm đến những điều Michael nói.
- Ba muốn nói đến những chuyện giữa con và... Vinnie. Có thể con đã làm một việc lầm lẫn, song đó cũng chỉ là việc thường tình trong đời sống. - Juana im lặng. - Ba biết cái gì làm con khó chịu. Má con. - Juana gật đầu. - Đó chỉ là một người đàn bà hay lo lắng, và dễ hoảng sợ. Con có thể trách cứ mẹ con, song ba không muốn con trở thành như cô gái trong kia, Ba muốn con có con. Ba muốn làm một ông ngoại bình thường, như vậy có gì sai không?
- Không.
- Vậy, hãy thử đi. Rồi... sẽ làm những gì con thích.
- Được rồi, ba.
- Con đồng ý phải không? - Juana gật đầu. - Tốt. Nếu vậy sáng mai chúng ta sẽ về, đồng ý chứ?
- Đồng ý. Nhưng ba phải nói với bà ta, rằng...
- Ba biết nên nói gì. Bây giờ hãy kiếm chỗ ngủ đi.
Ông đứng lên. Họ vào nhà. Juana chọn được một chỗ trên nền đất. Ông cuốn chiếc áo ngoài lại, dùng làm gối đầu. Juana thì gối lên vai ông ngủ. Cesario sung sướng, như chưa bao giờ được sung sướng vậy.
Khoảng nửa đêm, ông thức giấc bởi tiếng động nhịp nhàng gần bên, – bèn quay đầu nhìn. Michael trần truồng nằm ngửa, với Rosalie trần truồng ngồi trên.
Ngực nàng đụng ngực gã, bụng nàng thót lại. Và nàng cứ nhấp nhô, nhấp nhô, cứ ư ử, ư ử...
Cesario quay mặt đi, nhớ lại lúc ông làm tình với Elsa, trước ngày cưới. Quá lâu rồi, và chẳng còn gì.
Rồi ông thấy bụng Juana căng lên, đụng vào hông ông, rồi xẹp xuống, như do hít thở quá mạnh vậy. Rồi ông thấy họ cử động nhanh hơn. Đúng hơn là Rosalie cử động, còn Michael chỉ siết chặt bằng những cử chỉ mà Cesario từng đã làm với Elsa. Rồi, xong, và Rosalie nằm xuống, yên, trên người Michael, rồi cùng bất động.
Bây giờ thì Cesario nhìn mà chẳng thấy ngượng gì.
Ông nhìn Michael, và có một cái gì làm ông biết gã vẫn có thể tiếp tục, với Juana chẳng hạn.
Cesario nói với mình: tao không phải kẻ sát nhân. Nhưng tao cần những cái gì tên sát nhân có, tao cần có cái đó, bởi nếu không thì...
Sức sống vẫn còn mãnh liệt trong ông, và ông cảm thấy nó dữ dội hơn bao giờ hết, và ông phải quay khỏi Juana, để nàng không nhận ra cái ông đang có.
Ông nhìn thẳng vào Michael, thẳng vào mắt gã. Cái mà ông gặp là một ánh mắt thân thiện, thậm chí hơn thế nữa, mời mọc.
Nhưng đã quá chậm. Và cũng quá sớm. Cesario, bây giờ, khi nhìn Michael chỉ có thể nghĩ đến mỗi một điều – đó là Michael và gã con trai kia, Vinnie, đã đem con gái ông đi.
Vì vậy, ông nhìn đăm đăm vào mắt Michael, không nhượng bộ, ánh mắt ông nói rõ: Tôi phải đem nó về.
4
Hạ cánh xuống San Francisco, Vinnie đi thẳng từ phi trường đến hiệu thuốc tây mà hắn quen biết. Hắn đủ tiền để tậu hai trăm viên thuốc trắng. Tên chủ hiệu nói phải chờ vài hôm mới gom đủ hàng, và Vinnie làm một cử chỉ tỏ dấu “thôi, bỏ.” Rồi hắn đi.
Hắn dạo phố đầu hơi nghiêng theo một vẻ kiểu cách, như kẻ nhàn nhã và không vướng bận chút trách nhiệm nào. Mái tóc hắn uốn thật cong, xõa xuống vai, theo kiểu tự nhiên. Bộ râu hắn trông oai nghiêm, vương giả. Mọi con đường hắn đi qua đều được coi thuộc quyền sở hữu của hắn, một thượng khách từ một thời đại cao xa nào đến, một nhà quí tộc của thế kỷ XVIII, một bậc vương tôn gì đó.
Mặc dầu túi chỉ có hai đôla, thêm ít xu lẻ, cùng vé bay khứ hồi, song hắn không thèm tìm ân huệ, nương nhờ, hay đón tiếp, và cũng chẳng cần bạn bè. Hắn chỉ gật đầu chào người quen song không dừng lại với ai, và ai muốn nói chuyện đều phải đi theo hắn. Thậm chí hắn không thèm bước chậm lại.
Từ một phòng điện thoại công cộng bên đường, hắn gọi cho một người. Cô gái bên kia đầu dây hỏi:
- Em phải nói sao với chồng em?
Hắn không biết ả đã lấy chồng, nhưng chẳng ngạc nhiên gì. Nàng bảo, năm tháng trước nàng chợt nghĩ đã đến lúc phải lo cho đời mình, chứ không thể trông mong gì ở hắn. Nàng hy vọng hắn sẽ tức tối, nhưng hắn thậm chí không buồn hỏi ả lấy ai làm chồng. Thực ra, nàng có cảm tưởng hắn rất muốn vậy, miễn là mỗi lần hắn gọi điện thoại thì nàng phải đến với hắn.
Ả còn đủ can đảm để than phiền rằng hắn đã vài lần đến thành phố mà không gọi ả. Vinnie bảo vì lần trước hắn đi chơi với một vũ nữ mà hắn gặp trên phi cơ, còn lần trước nữa thì hắn đi chơi với con nào đó mà hắn không sao nhớ nổi.
Vinnie chờ đợi, đặt điện thoại xuống bàn, nhìn ra ngoài đường. Ả suy nghĩ, nhưng với cái im lặng thúc giục trong điện thoại thế này, bố ai nghĩ gì được nữa? Ả thấy mình đang bị thử thách, chẳng biết thử thách để làm gì, song lại không muốn mình thất bại.
Cuối cùng ả nói, “Vinnie.” Và hắn đưa điện thoại lên tai. Ả nói không thể gặp nhau ở chỗ thường gặp trước đây, vì dễ bị người quen bắt gặp, vậy sao không thuê một phòng khách sạn? Hắn bảo ả cứ việc thuê, rồi báo hắn biết địa điểm, và nên đem tiền theo, vì hắn đã trao hết tiền cho gã chủ hiệu thuốc tây.
Ả không bao giờ cho hắn biết mình giải thích thế nào với chồng về sự vắng mặt, và hắn cũng chẳng thèm hỏi. Đó là vấn đề của ả.
Sau vài chầu, hắn bực mình vì cái tật sờ soạng của ả. Ả sờ hắn luôn luôn. Lúc làm tình thì cái tật đó không có gì khó chịu, nhưng sau đó, hắn có cảm giác những ngón tay cứ như con vật gì bò lổm ngổm trên da thịt hắn, và hắn buộc phải bảo ả thôi đi. Lúc ả ra vể, cũng đã khuya, hắn không tỏ ra nuối tiếc gì cả. Sáng hôm sau ả trở lại với cà phê và đồ ăn sáng.
Tháng này ở San Francisco trời lạnh và ẩm ướt. Vinnie không có nổi chiếc áo rét, vì vậy ả mua tặng hắn chiếc áo mưa hai lớp khá đẹp. Họ không bao giờ đi phố với nhau. Ả chẳng dám mạo hiểm đến thế. Lúc một mình, hắn thích ở trong phòng và xem ti vi.
Hắn nghĩ nhiều đến một giấc mơ như điềm báo trước, rằng Juana bỏ hắn, và mặc dù hắn năn nỉ như chưa từng bao giờ năn nỉ với ai, nàng vẫn không trỏ lại.
Hắn bật đèn và viết thư cho Juana. Hắn chưa từng viết thư cho gái. Nay hắn muốn nàng biết hắn rất nhớ nàng, thấy trống rỗng khi xa nàng, và nghĩ rằng chỉ cần viết thư là nàng hiểu hắn muốn có nàng ở bên, lúc này. Chữ hắn viết như chữ đứa bé lên tám vậy.
Việc làm tình từ lâu đối với Vinnie đã thành một phần tự nhiên của cuộc sống, như hít thở, như đại tiểu tiện vậy. Hắn có thể đi vào bất kỳ phụ nữ nào, vào bất cứ lúc nào, ở bất kỳ đâu. Hắn đã ngủ với mọi đứa con gái đến ngôi nhà ở đường Nữ Vương, nhưng hắn khổng thể nói được đứa nào hay lúc nào, hay trong trường hợp nào, do đâu mà hắn ngủ... tức là hắn chẳng nhớ gì hết, song hắn biết chắc mình đã chơi con Sandy – vả lại, ai mà không chơi con đó. Nó đã vào phòng hắn, vào cái đêm chẳng rõ Rosalie có mặt trong phòng hay không, hoặc là ở phòng đối diện? Và không hiểu Rosalie có biết chuyện đó không? Có hay không thì cũng thế thôi.
Với Juana, hắn không coi thường bởi đã tấn công hắn trước. Với nàng, hắn thích kiểu đó. Vậy, hắn tự hỏi, tại sao bây giờ hắn lại ngồi trong căn phòng lạnh lẽo này để viết thư cho nàng. A, con nhỏ đó có cái gì nhỉ?
Chắc chắn không phải nhan sắc. Vinnie khó nhớ nổi mặt mũi Juana để mô tả. Phải, nàng no tròn, gọn ghẽ. Còn gì nữa không? Quả thực nàng có bộ ngực tuyệt đẹp, mà nhiều cô gái không có được. Và còn gì? Mắt nàng thật nồng nàn. Nhưng màu mắt nàng là gì? Đen. Không ai có màu mắt đen như mắt nàng. Không ai. Gì nữa nhỉ? Tại sao hắn lại nhớ nàng như thế này?
Cũng không phải việc họ làm tình theo cách nào. Hắn và Juana luôn chỉ có một kiểu, cái kiểu hắn thích. Và càng không phải vì những gì nàng làm cho hắn.
À, đúng rồi. Chính vì những gì hắn làm cho nàng.
Trước hết, lúc khởi đầu, Juana nhìn hắn, làm như nàng khiếp sợ, hoặc là vì nàng không thể tin được một chuyện như thế lại xảy ra với nàng. Hắn không thể nhớ một cô gái nào đã nhìn hắn như nàng.
Rồi đến cái phút tuyệt vời đó, phần đông con gái hoặc làm bộ, hoặc quá ồn ào để mô tả, nhưng Juana thì chẳng làm gì hết, mà lại làm tất cả. Toàn thân nó run lên, vú rắn như cẩm thạch, còn mắt thì đắm chìm vào mắt hắn cho đến giây phút chót, rồi đóng lại, miệng thốt ra Chúa ôi! Nó làm như vừa thoát hiểm, và bắt lại được liên lạc với cuộc sống.
Juana không tỉnh lại ngay, không ồn ào rửa ráy. Nàng nằm yên chờ đợi hắn, cả thân thể nàng truyền cho hắn thông điệp Nữa đi! Juana quá khờ khạo, đâu biết là hắn lấy lại sức ngay sao nổi.
Xưa nay, Vinnie thường đi xa khỏi cô gái sau lần đầu tiên làm tình. Đó là một tuyên bố đủ để cô ta hiểu hắn không lệ thuộc vào ai cả. Lần này, với Juana, hắn cũng đã bỏ đi San Francisco không một lời giải thích, và nàng chắc hiểu không thể trông mong ở hắn điều gì, song chính hắn, lạ thay, giờ lại lo sợ mất nàng. Vì vậy, hắn đã bật đèn lên để viết thư cho nàng bằng nét chữ trẻ con, bịa đặt rằng gã chủ hiệu thuốc tây khốn nạn giữ hắn lại, và hứa sẽ về nhà ngay, còn ám chỉ cả việc làm tình nữa với hai tiếng kết thư Chờ nhau!
Nhưng hắn biết là ngày nay con gái cũng như con trai, chẳng còn mấy ai chờ đợi.
Sáng hôm sau, hắn đến lấy thuốc, rồi để lại chiếc áo mưa trong phòng khách sạn, và thay vì một vài chữ nhắn nhe, hắn để lại mấy điếu cần sa.
Hắn không gọi điện hỏi phi trường về giờ bay. Hắn biết thế nào cũng có một chuyến chờ sẵn.
Vinnie bước vào ngôi nhà ở đường Nữ Vương. Vật đầu tiên đập vào mắt hắn là lá thư hắn gửi Juana đã không được mở ra.
Juana không có trong phòng nàng. Cũng chẳng có ở bất cứ đâu trong nhà. Sandy, như thường lệ, chẳng nghe gì, chẳng thấy gì. Rosalie, từ phòng Michael đi ra, song Vinnie không thèm để ý, hắn khoái Michael, hắn thích Rosalie, như một người, và hắn không tin đàn bà có thể trung thành, tuy nhiên...
- Juana đi đâu vậy?
Rosalie kể cho Vinnie nghe những gì đã xảy ra, nhưng hắn bảo ỉa vào nghe những thứ đó, bảo nàng nên câm mồm đi thì hơn. Rồi hắn ngồi xuống, đốt một điếu cần sa, nghe những bản nhạc của Doors.
Hắn đã gây ra cơ sự này, vậy thì chỉ nên tự trách mình. Đàn bà không phải loài giống trung thành lâu bền. Hắn ra đời đã biết điều đó. Không thể để đàn bà sống một mình. Thôi, kệ thây Juana!
Đĩa nhạc Doors sang bài Chuyện tình cuối, bản nhạc hắn rất mê, vậy mà đến đoạn hay nhất thì loa lại cứ phát ra những tiếng tích... rrrèèè, tích... Vinnie hét.
- Khốn nạn! Thằng chó đẻ nào để đầu kim rơi mạnh lên đĩa nhạc của tao? Thằng ăn mày nào phá đĩa nhạc của tao? Nghe thử đi. Rosalie! Lại đây! Nghe đi! Thằng nào phá đĩa của tao vậy? Tao không muốn bất cứ đứa nào xài đĩa nhạc của tao hết.
Hắn xới tung chồng đĩa, chọn Doors và Stones để riêng ra, vứt những đĩa nhạc còn lại xuống sàn nhà, rồi cầm những đĩa nhạc của mình đem về phòng, cất lên nóc kệ. Hắn nằm dài ra, đạp chân đóng cửa phòng.
Michael về, thấy Vinnie đang cơn giận dữ bèn kể ra những điều mà gã biết sẽ làm Vinnie nổi sung thêm, thí dụ việc gã và Rosalie ngồi trên xe của bố Juana. Vinnie hét lên, nhưng rồi gắng nghe hết câu chuyện, vì hắn biết Michael là bạn hắn.
Đêm đó, Vinnie ngồi ở góc phòng, sát với máy quay đĩa, đặt ba đĩa nhạc của hắn chồng lên nhau, nghe chúng, không chuyện trò với ai. Hắn có kiểu ngồi khác ngươi, nửa thân trên quay một ngả, nửa dưới quay một đằng, tạo nên hình chữ s, ngón trỏ của bàn chân xếp bên dưới chĩa lên một cách tự nhiên, và đầu thì ngả ra sau. Hắn không mời ai hút điếu cần sa của mình,
Cái đại gia đình có mặt trong căn nhà đêm đó, còn có thêm nhiều đứa từ xa đến, nhiều nhất là sinh viên. Chúng đến dự cuộc náo loạn dự định vào thứ bảy, tại sân Thể dục Đại học đường, để phản đối, theo Vinnie biết, một đội không chịu cho đội kia chơi, hay về học bổng, hay cái gì đó. Chúng tranh luận về chiến thuật, và vì không chịu nhau, đành hỏi Michael. Vinnie thấy chúng nó có vẻ trọng nể gã bạn mình, mặc dù gã không hề theo học trường đó, và cũng không tham dự bất cứ trò chính trị nào. Bọn kia chăm chú nghe gã, thúc giục gã nói, và gã bèn đặt kế hoạch, bày cho chúng lúc nào nên xông lên, lúc nào nên tràn vào sân, chiếm bóng, rồi nên ngồi xuống, tay khoác tay, hô khẩu hiệu, Michael đã mô tả từng hành động, từng hiệu lệnh cụ thể.
Tên mập Freddie Povich, kẻ từ xa đến, bỗng gây gổ với Michael. Freddie tóc đỏ, nhưng nhiều râu hơn tóc, mặc chiếc áo vải dài và cũ, đi đôi giầy há mõm. Không ai có thể biết chiếc quần nó mặc nguyên là màu gì, hay vải gì, Vinnie ước hắn nặng cả tạ, và mọi người đều biết hắn có một tiểu sử đánh lộn nổi tiếng đâm ra cũng đôi phần nể sợ hắn - trừ Michael.
Freddie thì muốn trong lúc cuộc náo loạn diễn ra tại nhà thể dục, thì toán bên ngoài ném đá vào, nhưng Michael bác bỏ việc đó.
- Mày khiếp hả? - Giọng hắn không có vẻ gì thù ghét. Người ta có thể thấy hắn quí Michael.
- Cần giữ tất cả sinh viên và giáo sư ở bên trong với chúng ta, chứ không phải đuổi họ ra ngoài. - Michael nói. Freddie chắc chắn thấy rõ các thanh niên đều ngả theo ý Michael, bèn bĩu môi. “Mày khiếp rồi!”
Vinnie im lặng, cho đến khi một tên từ thành phố đến hỏi hắn có dự được không, Hắn bảo “Giỡn?” Rồi thấy dù sao cũng đã nói, hắn bèn thêm rằng không bõ quan tâm đến những trò hoạt động xã hội chó đẻ đó, và bây giờ hắn thích nghe nhạc, còn ai muốn gây gổ thì nên cút đi chỗ khác mà gây.
Giữa cuộc tranh luận, Michael đến khuyên Vinnie nên viết thư cho Juana, bảo nàng là muốn nói chuyện, và hẹn nàng một chỗ nào phía trong hàng rào căn cứ.
Vinnie y lời. Michael và hắn, sáng hôm sau đến phòng quân bưu của căn cứ bỏ lá thư vào thùng.
Hôm sau, Vinnie bán một số ma túy lấy tiền bỏ túi.
Buổi chiều, hắn mượn chiếc xe của đứa bạn từ xa đến tham dự vụ phản kháng, lái đến căn cứ, về góc tây nam. Nơi này choán ra một vùng sa mạc rộng lớn, và được dùng dể chứa phi cơ phế thải, có cả những kiểu chỉ mới ra đời ba, hay bốn năm nay.
Vinnie tìm được một chỗ ở hàng rào có thể đứng nhìn vào một dãy dài những máy bay chiến đấu sắp thành hai hàng, ở giữa chừa một lối đi, và hắn đứng đó chờ. Vào giờ hẹn, Juana đi về phía hắn. Bây giờ thì hắn nhớ lại được vóc dáng nàng.
Hắn không có thì giờ trách mắng, chỉ bảo nàng đi ra cổng, nơi hắn có sẵn chiếc xe chờ bên ngoài.
Nàng có vẻ khiếp sợ, nói rằng đến ngày mai hãy đi.
- Tại sao phải ngày mai? - Nàng không trả lời. – Tối nay em hẹn gặp mấy gã vịt đực trong đó rồi à?
- Vinnie, em chẳng hẹn ai cả.
- Vậy tại sao em lại nói là ngày mai?
- Bây giờ em chẳng có quần áo gì trên người hết.
- Quần áo? Để làm cái thá gì, quần áo? Anh sẽ đi mua cho em ngay. - Em chẳng muốn thứ gì rắc rối cả, chỉ cần...
- Em lê gót ra ngoài cổng ngay bây giờ, bằng không anh sẽ trèo qua hàng rào xách cổ em đi, tin anh đi.
- Em tin anh.
- Vậy anh ra trước cổng chờ em.
Hắn quay đi, đến bên chiếc xe của hắn.
Lúc Juana bước tới, hắn thấy nàng đã thoát khỏi sợ hãi và do dự. Nàng nhún nhẩy theo nhịp điệu vốn có của nàng, mình mẩy uốn éo, vú lắc bên này, rồi bên kia, mông luân phiên phồng lên từng phía một. Hắn tưởng chừng có thể cảm nhận được những cái đó. Nàng đi ngang qua đám lính gác và mỉm cười với họ, rồi không nhìn hắn, bước lên xe.
Xe mới chạy được một đoạn thì nàng đã nhích sát lại. Hắn kéo váy nàng lên, đưa tay mở đôi đùi nàng ra, và chỉ nói mỗi câu. "Anh cứ tưởng em là của anh?”
Nàng chẳng thèm phản đôi.
Khi về đến ngôi nhà ở đường Nữ Vương, nàng biết chuyện gì sẽ xảy ra. Hắn vào phòng, nàng đi theo, và hắn đóng ập cửa lại. Rồi hắn phá tan tất cả mọi sự chống cự của nàng. Song nàng đâu có ý chống cự. Nàng chỉ cố gắng để không thét lên, không vỡ vụn ra.
Ở phòng ngoài, mọi người biết thừa chuyện gì đang xảy ra. Xong xuôi, Vinnie thấy dễ chịu hẳn.
- Em là của anh, khi anh đi đâu em vẫn sẽ phải ở đây. Anh đi một tuần em phải chờ một tuần, anh đi một tháng em cũng phải chờ một tháng .
Hắn bắt nàng thề đi rồi thề lại, và cuối cùng hắn bảo không hề tin nàng.
Đêm đó, chẳng ai vào phòng họ. Vinnie lại đòi làm tình. Mệt mỏi, hắn đặt cả hai tay lên bụng nàng, gối đầu vào vú nàng, và để nàng vuốt ve, trong khi hắn nói với nàng những điều chưa bao giờ nói với ai, cuốn nàng vào
cuộc đấu tranh của đời hắn. Juana hiểu ra tại sao nàng lại sống trên mặt đất này.
Vinnie không biết cha đẻ hắn là ai, hắn nói vậy với nàng, nhưng hắn biết mẹ hắn tên là Irene, người đã đem hắn cho một bà chị nuôi giùm, từ năm hắn lên bẩy, chỉ vì muốn được rảnh nợ khi bà ta dẫn tình nhân về nhà. Không người đàn ông nào muốn thấy con của nhân tình cứ luẩn quẩn quanh mình. Lúc đó Vinnie có hỏi bao giờ lại được về sống với mẹ, thì bà trả lời, “Chi ít hôm thôi, không lâu đâu, Vinnie con.” Hắn hỏi bà bác câu đó, bà này làm bộ ngây thơ không biết gì. Những ông chồng bà ta thì nói toạc ra. “Hãy quên con mẹ này đi, nó không muốn mày làm quẩn chân nó.”
Sáu năm sau, vừa qua ngày sinh nhật thứ mười ba Vinnie bỏ nhà đi. Chẳng ai có ý định tìm kiếm hắn.
Mẹ hắn sống ngay ở thành phố này, hắn nói với Juana, bà trông coi quầy bar trong một khách sạn. Hắn có đến đó, một lần, song chỉ đứng từ xa nhìn. Hắn học được từ mẹ bài học không thể tin vào một người đàn bà nào. Hắn nói, “Anh đã bắt đầu tin em, nhưng giờ thì anh tỉnh ngộ rồi.”
Nghe hắn mỉa mai, nàng nói mình chẳng khá hơn gì ai, nàng cũng chỉ như mọi đứa con gái khác, song hắn đã ngủ thiếp đi trong vòng tay nàng.
5
Sáng hôm sau, thứ bảy, Vinnie ngủ đến trưa.
Juana dậy trước và ra ngoài nói chuyện với Rosalie, rồi cùng nó pha cà phê và làm thức ăn sáng.
Juana nói về lời hứa của cha, là đời sống trong gia đình sẽ đổi khác. Nàng tin ông đã cố gắng hết sức, song mỗi khi ở bên Elsa, ông lại biến thành một người khác. Chỉ vài hôm sau, mẹ nàng đã trở lại bản tính cũ, coi
nàng như một con bé mười hai tuổi, luôn la mắng và dạy dỗ phải thế này thế nọ. Juana nói với Rosalie.
- Tao chán quá, bèn đọc sách suốt đêm, ngày ngủ, để khỏi phải lôi thôi gì đến bà ta. Rồi một đêm, tao nghe thấy hai ông bà nói chuyện. Bà hét tướng lên, còn ông ta thì chỉ ấp a ấp úng, “Phải, Elsa, em nói đúng…” đại khái vậy. Ông bố tao là một người tốt, nhưng đã đầu hàng vợ vô điều kiện.
Vinnie ra uống chút cà phê, làm bộ không nghe câu chuyện của họ, nói. “Kiếm tao hộp bia.”
Nàng đi luôn. Nàng thích được chăm sóc hắn.
Nàng vào phòng tắm, pha nước thật nóng đầy bồn, rồi nằm vào. Nàng đã quyết định không thèm nhìn về tương lai, lo âu, hay đặt vấn đề về bất cứ việc gì. Nàng chỉ biết sống với Vinnie, chỉ vậy mà thôi. Đủ rồi. Nàng đưa tay xuống dưới, xoa nhẹ, làm dịu sự đau mỏi ở đùi, rồi nằm dài ra, để tóc xõa trên mặt nước, nhắm mắt lại. Cuối cùng nàng trần truồng bước vào phòng, nói:
- Em chẳng có quần áo gì cả.
Nàng đưa chiếc áo mẹ mua cho ra đằng trước:
- Em không thích mặc cái áo này tí nào nữa.
- Mặc tạm đi. Lát nữa, chúng ta sẽ đi kiếm.
Rồi Vinnie nói với mấy cô gái những gì phải làm. Rosalie mặc chiếc áo trắng cổ viền xanh. Sandy trông tươi đẹp, quí phái trong chiếc váy đen, dài còn Juana thì xinh xắn như mẹ nàng mong muốn lúc bà ta thuê thợ may cắt áo cho nàng.
Buổi chiều mùa xuân đó, họ theo đường Nữ Vương để quẹo trái ra đường Piermont qua khu đại học, đến nhà thể dục của Đại học đường. Thâm tâm. Rosalie lo lắng nhiều cho Michael. Nàng chỉ vào hai chiếc xe buýt nhỏ màu đen với những ô cửa sô có song sắt, hỏi Vinnie.
- Chắc đã có ai báo cho cảnh sát. Anh nghĩ là em có nên đi kiếm Michael để cho anh ấy biết vụ này không?
- Mày chẳng biết gì cả. Chúng muốn cảnh sát đến mà. Chúng muốn có vài đứa bị bắt. - Hắn mắng.
Họ nghe những tiếng náo loạn từ trong nhà thể dục cùng lúc với cảnh sát. Họ nhào ra từ những chiếc xe buýt đen. Bọn con gái nhìn, nhưng Vinnie thản nhiên. Với hắn, những trò này thật vớ vấn. Hắn phát ra âm thanh gì đó, và mấy cô gái quay đi.
Đây là lúc thuận tiện nhất cho việc hắn dự tính làm. Trước hết, cần có một chiếc xe hơi sang trọng, và hắn đã có, sẵn cả chìa khóa. Họ ngồi vào xe, chạy đến cuối thành phố. Dọc đường, họ gặp chiếc xe thùng chở cảnh sát chạy ngược chiều.
Vinnie khoái trá, trở nên nói nhiều, trái với thường lệ. Trên đường, hắn giải thích cho các cô biết những hiệu buôn lớn, như Connally, thường chấp nhận bị mất cắp chút đỉnh hơn là mang tiếng đầy những mật thám kè kè khách hàng. Bởi khách hàng, khi biết một cửa hiệu có quá nhiều mật thám dòm ngó họ, thì hết khoái đi mua sắm ở nơi đó nữa. Vậy thà rằng chịu mất cắp tý chút còn hơn là mang cái tiếng kia.
Và nếu khách hàng là một phụ nữ da trắng ăn mặc sang trọng, có vẻ quí phái, thì càng nhiều yếu tố thành công nữa. Một người đàn bà có thai? Không gì bằng,
Màu da hơi sẫm của Juana không có lợi cho nàng lắm, nhưng nàng đang đi với những người đàng hoàng, và chiếc áo Elsa may cho nàng rất hợp.
Vinnie bày cách cho mấy cô gái, trước hết nên mua và trả tiền vài món hàng thật rẻ. Làm vậy, một mặt sẽ khiến những kẻ canh chừng đỡ nghi ngờ, mặt khác, họ có những chiếc túi mang nhãn cửa hiệu.
Công việc giản dị và phải nói là khá thích thú. Ừ, Juana tự hỏi, tại sao lại phải trả tiền để có một món đồ gì đó. Và nàng nghĩ tới đôi quần tuyệt đẹp.
Đêm đó, trong ngôi nhà đường Nữ Vương có tiệc mừng. Những cầu thủ đã nhào vào, hò hét. Cảnh sát hùng hổ xông lên. Trong ba sinh viên thuộc ban đại diện, thì một là chủ tịch. Kẻ thứ hai là con gái một nhà buôn tiếng tăm, và cô ta bị hành hung hơi quá. Tên thứ ba, một tên lớp dự bị, thì bị đánh ngất xỉu. Như vậy, báo chí ngày mai cứ gọi là ngập ngụa hình ảnh về cuộc náo loạn ở Đại học đường.
Có một gã không thấy vui thích chút nào: Michael.
Michael đang cằn nhằn ba tên. Freddie Povich, bạn gã là tên đào ngũ da đen Jeff Wilson và Lennie Well, mang biệt hiệu là Che, vì dáng điệu và bộ râu của hắn. Michael nói với cả ba.
- Đã nhất trí là không ném đá qua cửa sổ rồi mà.
- Hắn đã thay đổi ý kiến. - Tên Che nói.
Tên mập Freddie đang hít điếu cần sa bự, thét.
- Phải. Tao đã thay đổi đấy.
Michael thêm.
- Và lại có thằng nào báo trước cho cảnh sát.
Che cảm thấy bị nhục mạ thay cho Freddie:
- Michael đừng có vậy, tao tẩn nhừ xương bây giờ.
Freddie đấm Che một quả, nhìn Michael, cười lớn:
- Mày cho là tao làm việc đó phải không?
- Tao nghĩ là mày biết thằng nào làm việc đó.
Freddie ôm choàng lấy Michael.
- Tao rất khoái mày. Mày giống như thằng bầu của võ sĩ. Jeff, tao thương thằng này lắm đấy.
- Hắn vẫn chưa dám nhập cuộc. - Jeff nói.
Vinnie không thích mấy tên vớ vẩn dở trò đàn anh với thằng bạn thân nhất của hắn, chen vào.
- Freddie, dẹp mày đi. Michael, chuyện qua rồi thì cho qua luôn.
Chưa qua đâu, - Freddie nói, - chưa thể qua nổi đâu. Rồi tất cả những ông bố giầu sụ kia sẽ trả tiền ký quỹ lôi con trai chúng ra tù. Và khi những cậu ấm kia về nhà rồi thì họ sẽ bàn luận với nhau kỹ lưỡng về toàn bộ vấn đề này, và đó là lúc mà các cậu ấm của họ khám phá ra ông bố chúng đứng vể phe nào. Vì vậy, tao nói là mọi chuyện chỉ mới bắt đầu thôi. Nguyên do thất bại trong vụ hôm nay là vì chưa đủ đô. Michael, mày chỉ giỏi khoác lác!
Michael và Rosalie nằm chung giường. Vinnie và Juana nằm giường kia. Hai cô gái đang ngủ. Vinnie nói với Michael:
- Tao nghĩ là mày không nên dính vào những vụ lộn xộn chó đẻ ấy làm gì. - Qua cánh cửa họ nghe tiếng tên mập cười lớn. - Thằng chó đẻ! - Vinnie rủa.
- Tao khoái hắn. - Michael nói.
- Thằng ngốc...
- Không đâu! Hắn chịu đọc lắm, cả những cuốn sách nhức đầu. Và cái thuyết xung đột kia có thể đúng.
Juana quay sang Vinnie, mắt nàng vẫn nhắm.
- Ngủ đi anh.
Hai gã im lặng một lúc. Rồi Michael lên tiếng:
- Vinnie! Mày có từng nghĩ chúng ta không bắt buộc phải sống ở đây? Ý tao là mình có thể tách ra.
Juana mở mắt.
Bốn giờ sáng, những viên gạch vỡ ném qua cửa sổ, rơi vào tất cả các phòng trong ngôi nhà ở đường Nữ Vương. Cái xã hội bảo thủ đang phản công.
Sáng sớm, đạo quân đi xe đạp, sáu tên, đã có mặt. Chẳng ai gọi chúng, nhưng ai cũng biết chúng đến đây để làm gì. Chúng là lực lượng của xã hội này, hoạt động lúc chúng thích hoạt động, để thừa hành những luật lệ không thành văn riêng của nó. Người ta có thể thấy chúng ngồi như dàn trận trước ngôi nhà, trên những chiếc xe hai bánh của chúng. Buổi chiều, chúng quyết định di chuyến vào sa mạc. Chiều tối, chúng trở về với xác ba mươi con thỏ bắn hạ được, ném hết ra đường, phía trước ngôi nhà, rồi ngồi nhìn phản ứng của xe cộ và khách bộ hành.
Sự việc mau chóng loan khắp thành phố. Ngôi nhà ở đường Nữ Vương đang được canh phòng.
6
Sáng hôm sau, thượng sĩ Cesario Flores được lệnh mang theo vợ lên văn phòng chỉ huy trưởng.
Lúc người đàn ông đau khổ và Elsa bước vào văn phòng, họ thấy cảnh sát trưởng Burns đã có mặt tại đó.
Những lời giới thiệu được nói bằng giọng đưa đám. Chỉ lúc đó, Cesario mới để ý thấy viên cảnh sát trưởng cầm trên tay một phong bì hồ sơ dày.
Đại tá Dowd nói:
- Cho hắn xem qua đi.
Elsa nghiêng người sang để nhìn trước.
Những bức ảnh đen trắng được chụp bằng máy quay phim giấu trong cửa hàng Connally.
Elsa nhìn nhanh sang chồng, cảnh sát trưởng nói:
- Thượng sĩ Flores, cô này là con gái lớn của ông phải không? Cesario gật đầu. Burns quay sang đại tá Dowd:
- Tôi buộc phải xử lý vụ này, tất nhiên. Thực ra, cả những bà nội trợ khả kính lâu lâu cũng chơi trò này, khi mà họ dư dả tiền bạc để trả những món đồ mà họ muốn có. Nhưng bây giờ, khi nó không còn là trò chơi nữa, thì cửa hàng Connally đã hết chịu đựng nổi.
- Tôi chẳng muốn trách gì họ. - Đại tá Dowd gật gù.
Quay sang Cesario đang ngồi cúi đầu thật thấp, ông vừa định nói gì đó nhưng Elsa đã chêm vào:
- Đại tá đừng mong ông nhà tôi làm bất cứ việc gì.
- Xin cảm ơn bà. Tôi nghĩ bây giờ chúng tôi không cần nhờ bà gì nữa. - Đại tá trả lời.
Elsa đứng lên, nhìn chồng:
- Bây giờ anh tính sao? Không làm gì cả hay sao? - Bà quay lại đại tá Dowd. - Ngài thấy không?
Đại tá Dowd ra hiệu cho trung sĩ Jones tiễn bà ta.
- Xin cảm ơn bà, bà Flores.
Trung sĩ Jones đưa tay mời. Bước ra, bà bật khóc.
Đại tá Dowd chờ cho sự im ắng trở lại. Ông nhìn xuống người đàn ông chỉ mấy tháng trước đây còn là niềm hãnh diện của đơn vị, rồi nói với cảnh sát trưởng.
- Tôi muốn nói với anh điều này. Con gái của thượng sĩ đây, Juana, cô gái đang cầm chiếc quần đó, tôi đã nhìn nó lớn lên trong căn cứ này. Nó là đứa con gái hiền lành, nết na và dịu dàng nhất. Tôi sẽ lấy làm hãnh diện nếu trước đây con trai tôi cưới nó làm vợ.
Ông ngừng nói và quay nhìn Cesario, vẫn đang nhìn xuống sàn nhà, tưởng như nơi đó đang phát ra những chỉ thị. Đại tá Dowd hỏi:
- Anh muốn nói thêm gì không?
Cảnh sát trưởng Burns nhíu mày vì sự kiên nhẫn đến mức khả ái của vị sĩ quan chỉ huy căn cứ. Cesario ngẩng đầu nhìn đại tá Dowd, mắt mờ nhòa, mặt sưng vù và đỏ ửng, nom như mập lên mười ký. Đại tá Dowd nói:
- Bạn Burns, hãy xếp những tấm ảnh này lại, trong một thời gian, được chứ? ông có thể tin lời tôi, là thế nào rồi cũng có một vụ đền bù.
- Được chứ. - Burns đứng lên. - Nhưng tôi cần nói qua với chủ hiệu và viên phụ trách an ninh ở đó. Hắn trước có làm việc dưới quyền tôi nên có thể nhờ nó xếp vụ này lại ít lâu, song không chắc là bao lâu.
- Tôi bảo đảm với anh là sẽ không có vụ nào như vậy tái diễn. - Đại tá Dowd cả quyết.
Burns gật đầu với vẻ hoài nghi, rồi nói với trung sĩ Jones khi được ông ta dẫn ra cửa:
- Xứ này đang trên đà hỗn loạn, cảnh sát bị giết như ngóe. Trung sĩ Jones trở vào, nói luôn.
- Thưa đại tá, tôi muốn xuống trại dẫn mười anh em đến ngôi nhà ở đường Nữ Vương phá tanh bành cả ra. Đại tá cho phép?
- Jones, ra khỏi đây, và đóng cửa lại. - Câu đáp là vậy. Rồi ông đặt tay lên lưng viên thượng sĩ.
Cesario nói bằng giọng nghẹn ngào:
Thưa đại tá, xin cho phép tôi nói. - Dowd ngồi gần lại. - Đại tá còn nhớ không? Lần trước, khi Juana bỏ đi, và khi không tìm thấy nó, tôi đến viếng Đức Mẹ, trong nhà thờ nhỏ của người Mehico, và tôi nguyền với Đức Mẹ là tôi sẽ làm một việc, nếu Mẹ giúp tôi tìm lại được con gái và đem nó về nhà.
- Sao, anh nói gì?
Thừa, Đức Mẹ đã giúp tôi tìm lại được Juana và đem được nó về nhà, nhưng tôi đã không làm theo lời nguyện với Đức Mẹ...
- Lời nguyện như thế nào?
- Tôi không thể nói được. Nhưng thưa đại tá, khi Juana trở về, tôi thấy lời nguyện ấy có vẻ kỳ cục.
- Cái gì kỳ cục?
- Việc tôi nguyện sẽ làm. Nên tôi không làm nữa. Vì vậy bây giờ nó...
Đại tá Dowd đã hiểu câu chuyện, nói:
- Đó chính là lý do khiến tôi khó mà tin được vào đạo Công giáo. Anh miễn thứ cho tôi điều đó. Cha tôi rất mộ đạo, nhưng ông không bao giờ đến nhà thờ. Ông dạy chúng tôi hiểu rằng Chúa Trời chỉ giúp đỡ những ai biết tự giúp mình. Anh hiểu điều đó không?
- Tôi sẽ chứng tỏ đại tá thấy. Tôi quyết định rồi.
- Tôi sẽ tin anh, khi nào thấy được việc anh làm.
- Rồi đại tá sẽ tin. - Cesario đứng lên.
- Flores, tôi từng dự trận ở sông Dương Tử, và tôi nói cho anh biết: sức mạnh! Nhiều lúc phải cần đến sức mạnh. Nền văn minh chỉ có thể tồn tại nhờ nó. Dĩ nhiên, cần phải có một vài thay đổi, trên phương diện xã hội, tiến bộ. Đúng thế. Phản kháng, biểu tình, cũng được đi. Nhưng khi đi đến hỗn loạn thì bắt buộc phải suy nghĩ: Chúng ta có thể nhượng bộ đến mức nào? Nếu để nó quá đà thì có thể một cái gì căn bản sẽ bị hủy hoại. Lúc đó chúng ta mới nổi giận ư? Có là quá chậm không? Song trật tự vẫn được tái lập. Tôi đã nhìn thấy những điều đó, và tôi biết rõ những điều tôi nói ra. Chính sự giận dữ đúng lúc mới cứu thoát chúng ta...
Đại tá Dowd đứng lên. Ông đang sống với những tình cảm mà từ lâu ông dồn nén. Đột ngột, ông quát:
- Cút ngay khỏi nơi này!
Cesario bước tới với vẻ hoan hỉ, nếu không phải vì lời nói của đại tá Dowd thì chính là vì niềm xúc động của ông. Đại tá nói như ra lệnh:
- Thượng sĩ Flores, tôi không muốn nghe một lời nào về vụ này nữa. Tôi không có thì giờ để nghe nữa đâu. - Cesario chìa tay. Dowd không bắt. - Những điều tôi vừa nói với, anh phải quên là tôi đã nói với anh như vậy, hiểu không?
- Đại tá có chịu bắt tay tôi không?
- Tôi bắt tay anh, chỉ vì tôi nhớ đã có lúc tôi rất trọng nể anh. Cesario vẫn chìa tay ra:
- Rồi đại tá có thể trọng nể tôi như vậy. Xin đại tá.
Đại tá Dowd bắt tay Cesario.
Cesario thức dậy với cảm tưởng của một người vừa thoát khỏi cơn bệnh ngặt nghèo, nhờ phép lạ. Đây là lần đầu tiên sau một thời gian dài ông thức dậy giữa đêm mà không thấy phải vội vàng lái xe đến quán lão Bennie, và cũng là lần đầu tiên từ khi Juana bỏ đi ông đã không thức giấc giữa cơn ác mộng, và còn là lần đầu tiên ông tỉnh dậy mà quần áo không đẫm ướt mồ hôi.
Ông nằm yên trên giường, nghe những tiếng động của một buổi sáng chủ nhật trong nhà ông, và sự im lặng trong căn cứ. Sau khi đã quyết định dứt khoát, Cesario không cảm thấy cần phải vội vã gì nữa.
Hôm nay là ngày trọng đại của gia đình – lễ sinh nhật của hai đứa con, Elizabeth và Diego. Chúng sinh cách nhau bảy năm một ngày nhưng gia đình đã có thói quen mừng sinh nhật vào cùng ngày cho cả hai.
Cũng trọng đại nữa, là lễ Giáng sinh, mà Elsa cảm thấy có bổn phận làm món ăn sở trường của bà: bánh khoai đút lò. Bà làm món đó một cách trịnh trọng, và ngon đúng như mong muốn, nhờ làm theo những chỉ dẫn của bà ngoại. Bà chẳng bao giờ chịu bày lại cho ai, hoặc là bày không hoàn toàn đúng.
Elsa cũng góp tay làm những bánh ngọt ưa thích của hai đứa nhỏ. Chiếc bánh sinh nhật của Elizabeth sẽ được thắp bằng mười lăm ngọn nến trắng. Bánh của Diego là sáu ngọn nến cắm xa nhau, để thử thách sức thổi của nó.
Hai giờ chiều, mọi thứ đã sẵn sàng cả. Diego bỗng đòi đi kiếm Juana về, Cesario nói chị cả chúng không thể về được. Nhưng khi thấy vẻ thất vọng trên nét mặt đứa bé, ông bảo nên cắt đôi hai chiếc bánh, rồi mang cho chị chúng một phần.
Elizabeth dẫn thằng em vào trong căn nhà ở đường Nữ Vương, còn Cesario thì ngồi trên xe chờ. Khi hút đến điếu xì gà thứ hai, ông ngạc nhiên
khi thấy Juana đi ra, với hai em nó, và hỏi có được phép về nhà dùng cơm tối cùng gia đình không? Ông gật đầu và hôn nó.
Juana trở vào, và lúc ra, có một gã đi theo, song gã dừng lại trong bóng tối của cánh cửa. Juana gọi với lại là nàng sẽ trở về ngay sau khi dùng xong bữa tối.
Gã kia không nói gì.
Juana ngồi băng sau xe với Diego, và hai chị em chuyện trò liên miên cho đến khi tới nhà. Cesario thấy nó soạn một gói quần áo, chắc là lúc đi sẽ mang theo.
Lúc đọc kinh cảm tạ, ông đọc đúng kiểu cách, cám ơn vị Chúa Trời của giống dân da trắng đã giúp gia đình ông đoàn tụ. Ông chẳng cầu xin gì cả. Bữa ăn thật hòa thuận. Không ai để ý thấy Cesario chẳng chú ý gì đến những câu nói trong bữa ăn. ông ngồi giữa vợ và con gái lớn, thưởng thức những tiếng vọng mà cuộc vui xum họp đem đến, thưởng thức toàn bộ cái hạnh phúc đang có. Ông biết cái hạnh phúc này đáng cho ông hy sinh mạng sống của mình để đánh đổi.
Juana bỗng nói hớ, bảo món thịt bò chiên là món Vinnie thích. Nhưng không ai để ý, kể cả Cesario.
Ăn xong, tất cả đứng lên dọn dẹp. Trong vài phút, chỉ có mình Cesario ở trong phòng ăn. Ông nghe tiếng cười nói của đám con như từ xa xăm vọng tới, lúc chúng đốt nến trên các bánh sinh nhật, và nặn ra đầy một chiểc đĩa lớn nhất toàn kem là kem, lạnh ngắt. Trên môi ông lúc này, một nụ cười nhẹ cô đọng lại, y hệt nụ cười của những tượng đá trong các di tích lịch sử ở Mehico.
Ông đang sống trong cái thế giới tự kỷ ám thị của những phù thủy trước giờ hành lễ.
Cesario nhìn lên bức tượng Đức Mẹ gắn trên tường, bức tượng mà ông đã lấy từ phòng ngủ của mẹ ông, vào buổi sáng bà qua đời ở Sonora. Ông làm dấu thánh giá.
Elizabeth và Diego trở lại ghế ngồi của chúng trong phòng ăn. Rồi Elsa bưng chiếc bánh của Elizabeth vào, chiếc bánh có mười lăm cây nến đang
cháy. Juana đi theo, bưng chiếc bánh của Diego sáng rực.
Cesario bảo Elizabeth hãy ước một điều, và cô bé lim dim mắt nói thầm điều ước của nó. Chị, em hỏi nó ước gì. Nó cười và nhìn về phía Juana, làm như chỉ mỗi mình nàng là hiểu nổi ước mơ của nó. Rồi nó thổi tắt hết nến bằng một hơi. Cả gia đình vỗ tay.
Đến lượt Diego. Cậu bé nói:
- Tôi ước sao chị Juana của tôi không bỏ nhà đi.
Cesario nói ngay:
- Con đừng lo. Chị con không bao giờ đi nữa đâu.
Diego thổi tắt sáu ngọn nến của nó rồi mỉm cười với Juana. Mọi người đều nhìn nàng. Nàng nói:
- Diego, bây giờ chị ở nơi khác, nhưng bất cứ lúc nào em muốn gặp chị, là chị đến với em liền.
Diego vừa cắt bánh vừa nói:
- Em muốn chị ở mãi đây cơ.
- Chị sẽ còn ở đây. - Cesario thản nhiên
Im lặng!
Điện thoại reo. Cesario nhấc lên bằng một cử chí tự nhiên mà trịnh trọng, tưởng chừng việc này cũng nằm trong nghi lễ sinh nhật, cả nhà có thể nghe loáng thoáng một giọng nói đàn ông trong ông nghe vang ra. Cesario cúp máy. Rồi ông nhận ra Juana đang nhìn mình thăm dò, và ông nói:
- Juana, cả gia đình luôn thương yêu con, dù có bất cứ chuyện gì xảy ra, con cũng phải nhớ kỹ điều đó.
Ông nhìn nàng bằng ánh mắt của một người biết rằng chẳng ai hiểu mình muốn gì, và tiếp:
- Nội hôm nay, con sẽ hiểu cha thương con đến thế nào. Cha sẽ chứng tỏ cho con, ngay trong hôm nay.
Lần đầu tiên, Juana linh cảm cha nàng đã chịu hết nổi. Nàng nhìn điện thoại, cầu mong nó dừng reo nữa.
Lúc cả nhà ăn hết lượt bánh thứ hai, Cesario đã quyết định xong, đứng lên ra lệnh. “Dọn bàn đi.”
Ông không cần che giấu gì nữa, bước tới chiếc TV, rút dây điện ra, rồi đẩy nó vào phòng ngủ của mấy đứa nhỏ. “Các con xem trong đó. Đêm nay cho thả giàn.”
Chúng đều cảm thấy có chuyện gì kỳ lạ ngoan ngoãn làm theo. Elsa sắp các đĩa vào chậu rửa, Juana muốn phụ giúp nhưng bị bà khoát tay đuổi đi, nói cứ ngồi chơi. Cesario đến bên ghế nàng, cúi xuống hỏi:
- Chỉ mình hắn là bồ con thôi, phải không?
Juana gật đầu. Giọng Cesario khẩn thiết:
- Chúa nhân từ xin hãy ban cho chúng con một đời sống mới, vì chúng con van xin Chúa, bằng lòng ăn năn chân thành. Chúng con sẵn sàng hy sinh mạng sống mình nếu cần, như Chúa đã hy sinh cho chúng con.
Trong TV, tiếng la hét giận dữ vọng ra. Juana nhìn ông chăm chú. Ông bỏ cặp kính trắng ra, thay bằng kính màu. Ông hỏi:
- Con thỏ của con ra sao?
- Nó chết rồi.
Nàng thấy môi ông mấp máy, và nghe ông nói:
- Còn Michael, nó sao?
- Thường.
Cesario biết ông phải nói chuyện như thế, không nên nhìn thẳng mặt kẻ đối thoại. Chuông điện thoại lại reo. Cesario hất đầu ra hiệu cho Juana đến nghe.
Juana chậm rãi bước đến chỗ đặt điện thoại.
Đứng cạnh chậu rửa, Elsa ngừng tay. Tiếng Juana:
- Hello. Không, không có. Chắc ông gọi nhầm máy.
Mọi người có thể nghe một giọng đàn ông giận dữ từ bên kia đầu dây. Rồi Juana nói:
- Phải. Em đây. Đừng, đừng đến. Em sẽ trở ra, độ một giờ nữa. Nhưng anh đừng đến...
Juana chỉ có thể nói đến đó, vì Cesario đã giật điện thoại khỏi tay nàng, và nói vào máy bằng giọng nghiêm nghị mà chỉ có trọn đời sống trong quân ngũ mới có nổi.
- Không. Nó không trở ra ngôi nhà đó nữa. Đó là lệnh của tôi. Hôm nay cũng không. Mai cũng không. Không bao giờ. Nghe rõ chưa?
Juana khóc, cố giằng điện thoại khỏi tay bố. Trước khi gác máy, ông tát nàng, rất đau. Nàng ngồi xuống chiếc ghế cạnh bàn điện thoại, xoa xoa má. Elsa nói.
- Tốt! Đáng đời mày nhé.
Cesario quay sang vợ:
- Câm mồm. Rửa bát đĩa và câm mồm đi!
Bây giờ, cả hai người đàn bà đều có thể thấy dấu hiệu sát nhân trên mặt ông. Rồi ông ngồi xuống, thật gần với Juana và nói bằng giọng dịu dàng hơn, nhưng đầy cứng rắn:
- Con có thai không?
Không. - Juana không nhìn ông, đáp.
- Con không đến đó nữa, nghe không, nếu không muốn cha giết thằng khốn nạn đó. Ba không thể cứ ngồi nhìn hắn làm hại con.
- Hắn không làm hại con. - Nàng lí nhí.
- Con hãy coi hắn đã biến con thành hạng người gì. Hãy coi hắn đã làm gì con! – Ông đóng chặt cửa phòng mấy đứa nhỏ để chúng không nghe được. Đôi mắt ông là mắt con thú ban đêm bị dồn vào đường cùng, biết nếu muốn sống thì phải giết kẻ thù. – Hắn sẽ không bao giờ được phép đụng chạm đến thân thể con nữa, thằng bẩn thỉu, khốn nạn đó!
Từ bên kia cánh cửa đóng kín, từ trong căn phòng đặt TV, Juana có thể nghe được tiếng la hét của những tên tù chạy trốn, và tiếng súng của lính gác. Vậy mà tiếng thở hổn hển của cha nàng có vẻ còn lớn hơn những âm thanh đó. Ông nói:
- Cha đã quyết định rồi. Chúa biết cứu cánh dời sống của cha. Chúa biết cha có bổn phận gì.
Chuông điện thoại lại reo. Người này chờ người kia nhấc máy. Chuông reo mãi. Cesario cầm lên, hầm hừ.
- Cứ việc. Tao đã đến chỗ mày, vậy bây giờ mày hãy đến đây.
Juana đột ngột hành động, giằng máy khỏi tay cha, quì xuống, ôm điện thoại vào ngực, và nói vào nó như nói với chính thân xác mình, van nài:
- Vinnie, anh nghe em đi, Vinnie, đừng có làm theo lời cha em, đừng đến nhà em, đừng đến...
Cesario dùng cả hai tay nắm cô nàng lắc mạnh, cho đến khi nàng để rơi máy xuống sàn, vẫn oang oang.
- Juanie, Juanie, hắn làm gì em vậy? Làm gì vậy?
Cesario cầm điện thoại lên, giọng thật quyến rũ:
- Này, chú nhóc tính sao, dám đến đây để chúng ta nói chuyện với nhau không?
Bên kia đầu dây, trong ngôi nhà đường Nữ Vương, Michael nói:
- Mày định đến gây gổ với lão già đó à? - Điện thoại trong tay Vinnie giờ đã im bặt. - Đi xi nê với bọn tao đi. Lúc về, tao chắc nó đã có mặt ở đây.
Vinnie đặt điện thoại xuống, đi vào phòng ngủ. Lúc trở ra hắn đã khoác chiếc áo nhà binh.
- Jeff, tao mượn xế của mày một lát được không?
- Mời cứ tự nhiên.
Jeff không để ý đến dấu hiệu của Michael. Vinnie đóng cửa phòng lại. Michael biết gã không còn mấy cơ hội để ngăn cản chuyện sắp xảy ra. Lúc
gã mở cửa, thì Vinnie đang cúi nhìn xuống gầm tủ.
- Đóng cửa lại đi. - Vinnie nói.
Hắn lôi đống quần áo bẩn tháng nay chưa giặt ra khỏi đó, rồi thọc tay xuống dưới lôi khẩu cácbin lên, lẩm bẩm là nên đem theo để tự vệ, nếu cần.
Michael đóng cửa lại. Vinnie lôi chiếc quần dài kẻ sọc trên móc xuống, đút khẩu súng vào một ông quần, dùng ông kia cuốn xung quanh. Michael làm bộ thản nhiên nằm xuống cạnh Rosalie, nàng đang không hiểu chuyện gì cả, gối đầu lên bụng nàng, nói:
- Hôm nay là ngày dài nhất. Anh buồn ngủ quá chừng. Mày có muốn tao đi cùng không?
Vinnie nhìn về Rosalie. Michael bảo nàng hãy ra khỏi phòng, rồi nói:
- Này, Vinnie, mày muốn tạo cho chúng nó một lý do sao? Thực ra chúng chẳng cần có lý do nào cả, nhưng nếu mày muốn cho chúng nó một lý do cụ thể, thì đừng nên đưa ra lý do tốt nhất.
- Hắn nói là tao không đủ can đảm đến đó gặp hắn. Hắn dám nói vậy!
- Mày biết, và tao biết mày thừa can đảm đến bất cứ đâu, bất cứ lúc nào, gặp bất cứ ai. Nhưng nếu mày đến với khẩu súng kia, chúng sẽ bắn mày nát óc.
- Nếu tao không đến đó, hắn sẽ cho là...
- Tao không ngăn mày đến. Và tao sẽ đi với mày. Và chúng ta sẽ cùng nghe những điều hắn nói, trả lời với hắn bằng cái lối thưa ông, vâng, ông nói đúng lắm, đại khái vậy, rồi về, và hôm sau, nàng sẽ ra đây...
- Tao không tin nó nữa, còn mày, có tin nó không?
- Ờ thì...
- Tao thừa biết đầu óc con nhỏ đó nghĩ gì. Cái căn cứ khốn nạn đó đầy dẫy những gã phi công vịt đực trông bảnh chọe như tài tử xi nê cả, ngực đầy huy chương, và túi đầy tiền, vì vậy nên ông bố nó mới đem nó đi diễu hành khắp...
- Nếu vậy thì việc gì mày phải quan tâm đến nó?
- Tao tin nó như tin một đứa bé lên hai. Tao có thể mường tượng ra nó đang cười cợt.
- Bỏ qua hết đi, Vinnie. Thôi đi.
Vinnie quay nhìn bạn, gật đầu.
- Được. Tao làm theo mày. Tao đến đó, ngồi nghe.
- Chỉ nghe thôi. Nghe xong rồi ra về. Chỉ có vậy.
- Được rồi.
Vinnie thở dài lôi khẩu súng ra, giấu lại chỗ cũ. Michael giúp hắn đậy những tấm ván sàn lên, rồi cả hai ngồi trên sàn phòng, như hai đứa trẻ không có đồ chơi. Sau một lúc, Vinnie nói:
- Cám ơn mày...
- Cám ơn chuyện gì?
Mày là người bạn tốt nhất của tao.
- Này, nếu vậy, tại sao chúng mình không ngồi nhà với nhau, sáng mai là đón nó trở về chứ gì.
- Michael, tao phải đến đó. Mày hiểu cho.
- Thôi cũng đành.
Michael dẫn Rosalie bụng chửa đi theo để tạo vẻ khả kính, cả Freddie nữa, vì chỉ hắn mới đủ sức kìm giữ Vinnie, nếu cần, lại có cả Jeff, vì chỉ nó mới bảo đảm cho chiếc Chevy ọc ạch này đi đến nơi về đến chốn.
7
Lúc Cesario bảo Juana sang phòng ngủ xem TV với lũ em, nàng vâng lời ngay, nhưng xem không nổi. Nàng cần phải tìm cách gì để ngăn Vinnie
vào đây, và phải thật nhanh mới kịp. Cha nàng sẽ không cho nàng đi ra ngoài. Chắc chắn.
Vì vậy, nàng ngồi sát bên Elizabeth, thì thầm bảo nó ra ngoài tìm cách chặn Vinnie lại, bảo hắn đừng nên vào nhà. Elizabeth đi ra, không thấy bố đâu cả. Nó đến trước phòng ngủ của cha mẹ thì thấy ông ngồi trước tủ nhỏ đầu giường, tay cầm súng ngắn. Elizabeth nói:
- Ba cho phép con sang chơi nhà con Marjorie.
Marjorie là đứa con gái mười lăm tuổi của trung sĩ Jones. Cesario gật đầu. Elizabeth đi ra, còn nghe ông bố nói theo:
- Con chơi trong nhà thôi nhé, đừng ra ngoài. Và đừng về nhà vội. Ba đang bận nhiều công việc.
Cesario đóng cửa lại, nạp đạn vào khẩu súng lục cỡ hai hai. Đây là khẩu ông thường dùng tập bắn bia. Ông đút khẩu súng vào lưng quần kéo vạt áo khoác che phủ báng, theo kiểu mang súng của dân Nam Mỹ.
Ông bước lại bồn, rửa tay thật chậm rãi, xoa mạnh tay vào nhau nhiều lần. Ông nhìn vào gương, và quyết định phải rửa đôi mắt kính màu xanh như đang bám sương. Ông nhúng nó vào nước nóng rồi dùng giấy mềm lau khô nhiều lần.
Sau đó, ông bước đến trước bức bức tranh sơn dầu vẽ hình Đức Mẹ trên gỗ bằng nét bút ngây thơ, vụng về, và áp đầu sát vách, dưới nó. Ông nhớ lại căn phòng trong nhà cha mẹ ông, nơi đã treo bức tranh Đức Mẹ đen này, tưởng chừng có thể ngửi được mùi nến từng thắp ngày đêm trong đó. Ông còn nhớ được cái phép lạ: những giọt nước mắt hiện ra trên tấm gỗ, ngay trong mắt Đức Mẹ. Nhiều người từ những làng lân cận đã đến chiêm bái phép lạ đó. Đúng rồi, đây là một bức tranh tượng linh thiêng chứ không phải thứ tượng ảnh trên kính ở nhà thờ trong căn cứ, lạnh lùng và vô tri. Đức Mẹ trong tượng này có nước da màu đen, như nước da ông vậy, và ông biết nó có sự sống. Đức Mẹ đã từng khóc một lần, nếu lời cầu nguyện của ông được Đức Mẹ chấp nhận, thì bà sẽ khóc lần nữa, vì thương xót cho ông. Ông có thể cảm thấy tình thương yêu của Đức Mẹ chuyển đến ông. Bây giờ đây, ông sắp sửa trả ơn cho Mẹ, không phải bằng cách quì gối đi từ căn cứ đến nhà thờ cổ trong khu Chicano, mà bằng món quà lớn nhất mà ông có thể.
Từ đường Nữ Vương đến căn cứ mất hơn nửa tiếng. Như vậy ông đủ thì giờ. Cesario ngồi xuống ghế, khoan khoái được có một mình, chỉ nghe những tiếng động từ cuộn phim trên TV từ phòng bên vọng sang. Juana, cũng như những đứa con gái kia, suốt đời sẽ không quên nổi cha chúng đã thương yêu chúng đến mức nào.
Ông cầm một cuốn truyện tranh lên và bắt đầu đọc, quên thời gian và cảnh ngộ, trong cuộc phiêu lưu của Người Nhện, và lúc điện thoại reo, ông không nhảy dựng lên vì kinh ngạc. Khi trả lời, giọng ông bình thản lắm. Ông chẳng có cảm giác gì cả, ông hãnh diện nhận thấy điều đó, ngoại trừ một chút chờ đợi mà một hạ sĩ quan nhiều kinh nghiệm cảm thấy trước một trường hợp gay cấn: hoàn toàn tự chủ.
Đó là chuông điện thoại từ ngoài cổng gọi vào.
- Ông có thẻ vào cổng không?
Gã quân cảnh nơi cổng chính chỉ cần nhìn Jeff và những người ngồi trên xe cũng đủ biết câu trả lời rồi.
Michael nói là có người đang chờ họ vào. Gã quân cảnh gọi điện thoại hỏi cấp trên, nhưng đường dây đó bận. Michael thấy biết ơn đối với chút trì hoãn đó, trở lại chiếc xe và nói với Vinme rằng họ đang được báo cáo vào trong. “Chắc phải một lúc nữa.” Gã nói thêm.
Vinnie nhảy khỏi xe, đi về bót gác, Michael bám theo. Gã biết, chỉ một điều vụn vặt cũng đủ làm bạn gã mất tự chủ. Và một khi họ nhốt hắn, thì việc chứng minh rằng hắn buôn ma túy sẽ không khó khăn gì cả.
Song Michael ngạc nhiên thấy Vinnie quay lưng lại với bót gác, và choàng tay qua vai Michael.
- Gì này? - Michael hỏi.
- Tao đã nghĩ về chuyện mày nói...
- Ờ... Sao? - Michael khuyến khích hắn.
- Này, ở Mehico, có cây cối nhiều không mày?
- Tao không biết. Nhưng tao nghĩ là có.
- Nếu chúng ta có thể kiếm được một miếng đất trong sa mạc, một chỗ nào đó có núi, có cây cối, và tao có thể nuôi một ít súc vật, như tên da đỏ kia đó, Arthur, mày nhớ không? Hắn chẳng có gì cả. Tao cũng không có nhiều nhu cầu hơn hắn. Tao cũng không thấy cần phải ở gần một thành phố nào. Còn ở đây tao đến điên mất. Và buôn ma túy không phải là một lối sống lâu bền! Sống với ánh nắng mặt trời, người da đỏ nói vậy đó. Tao đã nói chuyện đó với Juana, một lần, và nó nói là nó thích sống như vậy. Tao thích khí hậu lạnh, vậy thì Mehico chắc hợp với tao.
Hắn nhìn Michael, như tìm một bảo đảm nào đó.
- Được chứ. Chúng ta sẽ kiếm một ít tiền và…
- Tao có một thứ có giá trị hơn tiền nữa kia. Một lọ lớn đầy chất trắng giấu dưới tủ trong phòng tao. Đó là tất cả những gì tao tiết kiệm được, cho đến lúc này. Cả ngàn đô đấy. Thứ tốt nhất mà...
- Chỗ mình ở trong sa mạc, sao mày không thích?
- Tao muốn đi xa hơn, có thể là Mehico.
- Được. Được lắm. Mai tao sẽ đi với mày, Vinnie.
Vinnie chậm rãi gật đầu:
- Tao chỉ mong có thế thôi.
Michael sung sướng:
- Vậy ta sẽ thực hiện điều đó. Chắc chắn nhé?
Michael thấy Vinnie nhìn hắn, và cười với hắn, bằng nụ cười cởi mở nhất, ít giữ ý nhất, và Vinnie nói bằng một giọng mà hắn chưa bao giờ nói với ai:
- Michael, tao khoái mày nhất!
Michael nhân cơ hội muốn ngăn cản bạn:
- Vinnie, chúng ta hãy bắt đầu ngay từ bây giờ đi. Từ phút này. Hãy đi khỏi nơi này ngay thôi. Tao sợ rồi vào trong, mày sẽ gập một cảnh chẳng hay gì.
- Mày muốn nói là mình không vào trong đó nữa?
Michael gật. Vinnie nhìn bạn, mắt hơi nheo lại:
- Tao đếch sợ thằng nào. Nhưng mày muốn thật sự phải không? Về chuyện ngày mai mình làm gì đó. Mày không nói láo vậy để tao...
- Tao nói thật. Mày thừa biết mày chẳng sợ thằng nào cả. - Michael lo sợ vì sự thay đổi nơi bạn. Vinnie im lặng nghe. - Vinnie, tao không muốn mày vào trong đó.
Giữa hai người, khoảng cách bỗng như giãn rộng thêm. Gã quân cảnh từ trong bót gác đi ra, gọi lớn:
- Một trong các anh tên là Vinnie gì đó phải không?
Vinnie đưa tay ra hiệu, rồi quay lại Michael:
- Được rồi. Những điều tao nói là đúng với lòng tao. Và mày cũng thế. Ngày mai. Ngay khi chúng ta thức dậy. Đây là ngày cuối cùng của tao ở đây.
Jeff khó khăn lắm mói cho xe nổ máy được, và gã quân cảnh vẫy tay cho chiếc xe chạy vào căn cứ.
8
Trung sĩ Jones và vợ đang xem TV. Trận đấu giữa hai đội Khổng Lồ và Chó Sói trên sân Chavez Ravine đang hồi quyết liệt. Jones khoái đội Khổng Lồ reo lên:
- Thằng chó đẻ đó chắc chắn sẽ tung lưới!
Bà Jones đầu quấn khăn bông, bụng buộc áo tắm, thách thức chồng: - Cá với ông là chúng không làm ăn gì được.
- Chấp.
Một luồng ánh sáng chiếu vào phòng. Jones nhìn ra, thấy Cesario mở công chính nhà mình làm cho ánh đèn đường phản chiếu vào. Cesario nói nhỏ với con gái.
- Elizabeth, vào nhà ngay, con.
Cô bé đang đứng trước cổng nói chuyện với con gái trung sĩ Jones, và nghe có tiếng xe chạy tới. Gã trai mà nó biết là Vinnie ngồi ở băng sau, cùng một đôi nam nữ. Trên băng trước, một gã da đen bật lửa đốt thuốc, và nó biết đó là thuốc gì.
Đây là lúc cần phải bảo cho Vinnie biết.
Michael hỏi:
- Mày có muốn tao theo mày vào trong không?
Vinnie lắc đầu.
Nơi cửa ngôi nhà mà xe vừa dừng, có vài người, và họ thấy một cô gái như đang cố gắng đi về phía họ, nhưng bị một người đàn ông giữ lại, và cuối cùng kéo cô ta vào trong, rồi họ không thấy gì được nữa. Rồi tất cả im lìm. Người đàn ông đứng trước cửa, ngay trước luồng ánh sáng, bất động, và có thể nhìn thấy khuôn mặt ông ta. Tiếng cô gái đứng trong cửa sổ như muốn nói gì với họ bị tiếng hò reo ủng hộ hai đội bóng át hết đi.
Bây giờ thì không còn gì phải nôn nóng nữa, tim Cesario đập nhịp chậm, và ông đứng nhìn chiếc xe Chevy cùng những cử động bên trong. Chiếc xe đó, ông biết, đang chở gã trai mà ông chưa bao giờ thấy, nhưng nó là kẻ đã dụ dỗ và làm hư đứa con gái ông yêu quý nhất đời, yêu hơn cả chính ông nữa. Cesario biết mình không thế tránh được đụng độ này.
Giây phút kết thúc đã đến. Trên TV, hầu hết tù nhân đều đã gia nhập cuộc nổi loạn, trong một hành động tỏ tình đoàn kết với ba người tù vượt ngục đầu tiên đang trèo lên bờ tường,. Elsa nằm sát vào Juana, vuốt mái tóc
dầy màu nâu của nàng, thủ thỉ những lời âu yếm rằng bà và Cesario thương yêu nàng ghê gớm.
Juana không nói gì. Nàng thề trong bụng sẽ không ở lại trong ngôi nhà này thêm một đêm nào nữa. Nàng chống tay ngồi lên nhìn vào màn hình, khi những hồi còi hụ vang lên. Tốp lính gác nhào vào đám tù vượt ngục. Xem ra đám từ chẳng hy vọng gì nhiều. Nhà Flores đang học cái bài học thông thường, rằng tội ác khó thoát khỏi lưới trời.
Tên mập Freddie nhoài người ra sau, tay cầm chiếc kìm thợ điện có kẹp cục đá lạnh. Vinnie giật lấy, mút mấy miếng, trao cho Michael, rồi xuống xe, đi về phía ngôi nhà có cha của Juana đang chờ hắn.
Đây là cơ hội cuối cùng để Elizabeth gặp Vinnie. Nhưng khi nó tính đi ra thì trung sĩ Jones đã đứng chắn cửa ra vào, nói với vợ:
- Không hiểu sao ông Horace Stoneham lại tin rằng một người như tên Clyde King có thể thành một ông bầu thể thao hạng gộc được?
Lúc nói, mắt ông vẫn không rời bóng Vinnie đang bước vào sân nhà người hàng xóm. Ông bảo Elizabeth:
- Trong tủ lạnh có coca đó cháu.
Lúc Vinnie bước lên thểm, Cesario quay mặt đi để khỏi nhìn thẳng vào mắt hắn. Nhưng ông vẫn kịp để ý rằng tên chó đẻ này có nước da trắng quá. Và một chi tiết khác nữa: trên khuôn mặt hắn hình như thiếu một cái gì. Ông liếc nhanh để tìm biết cái thiếu đó, và nhận ra đôi mắt gã trai khuất hẳn sau đôi kính đen. Ông vẫn nhìn sang chỗ khác, lên tiếng:
- Anh là Vinnie phải không? - Rồi nghe Vinnie đáp.
- Chính tôi.
"""