"
Những Kẻ Bày Mưu PDF EPUB
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Những Kẻ Bày Mưu PDF EPUB
Ebooks
Nhóm Zalo
KIM UN-SU
Thanh Phương dịch
—★—
NHỮNG KẺ BÀY MƯU
dựa theo bản in của
NHÃ NAM & NXB HÀ NỘI
ebook©vctvegroup
24-06-2020
Sự tiếp đãi ân cần
Ô
ng già đi ra sân.
Lai Sinh chỉnh lại tiêu điểm của ống ngắm viễn vọng và kéo khóa nòng súng ra sau. Tiếng nạp đạn rất to. Hắn nhìn ngó xung quanh. Chỉ có những cây thông cao lớn đứng sừng sững hướng lên trời. Một khu rừng yên tĩnh. Không thấy chim bay và cũng chẳng nghe thấy cả tiếng côn trùng. Ở khu rừng này tiếng súng sẽ vang đi rất xa. Nếu người ta nghe thấy tiếng súng mà đến thì sao? Ngay lập tức Lai Sinh nghĩ hắn chỉ lo hão. Tiếng súng thì có gì lạ. Làm gì có ai vào tít trong rừng sâu này chỉ để xác minh một tiếng súng cơ chứ. Họ sẽ cho là mấy tay săn trộm đi săn lợn rừng thôi. Lai Sinh nhìn lên ngọn núi phía Tây. Mặt trời đang lơ lửng cách đỉnh núi chừng một gang tay. Hắn vẫn còn thời gian.
Ông già đang dùng bình tưới nước cho vườn hoa. Với hoa này thì ông ta tưới nhiều hơn một chút, với hoa kia thì lại tưới ít đi một tẹo. Điệu bộ tưới nước của ông già hết sức chân thành, cứ như đang rót trà. Thỉnh thoảng ông ta lại khẽ lắc lư đầu và vai hệt đang múa rồi thậm chí còn nhẹ nhàng đưa tay chạm vào các cánh hoa. Ông già vừa huơ tay về phía những bông hoa vừa cười khà khà, như thể đang trò chuyện với chúng. Lai Sinh lại chỉnh tiêu điểm của ống ngắm và chăm chú quan sát những bông hoa mà ông già đang nói chuyện cùng. Trông chúng khá quen, hình như hắn từng nhiều lần nhìn thấy ở đâu nhưng không nhớ tên.
Lai Sinh điểm lại vài loài hoa nở vào tháng Mười. Cúc cánh bướm, tường vi, cúc vàng… nhưng vẫn không nảy ra được cái tên phù hợp với loài hoa mà hắn đang trông thấy. Tại sao lại không nhớ nhỉ? Lai Sinh nhíu mày, cố vắt óc nhớ ra một cái tên nhưng rồi ngay lập tức lắc đầu. Giờ đâu phải lúc ngồi đoán tên hoa.
Một con chó đen rất to chậm chạp đi từ góc vườn đến cọ đầu vào đùi ông già. Một con chó ngao thuần chủng, không lẫn vào đâu được. Giống chó Caesar đã mang theo khi xâm lược nước Anh. Cũng là giống chó người La Mã sử dụng để bắt ngựa hoang hoặc săn sư tử. Ông già vuốt ve đầu con chó đen, còn con chó vừa vẫy đuôi vừa luẩn quẩn quanh ông ta. Thấy con chó cứ liên tục quấy rầy mình tưới nước, ông già liền ném một quả bóng đá đã xì hơi về phía cuối vườn. Con chó liền vẫy đuôi chạy theo quả bóng. Khi con chó chạy đi, ông già lại tiếp tục tưới hoa rồi vẫy tay, chào hỏi và trò chuyện với những bông hoa như vừa nãy. Chẳng mấy chốc con chó đen đã ngoạm quả bóng chạy về. Lần này ông già ném quả bóng đi xa hơn. Con chó lại chạy vút đi đuổi theo quả bóng. Từng là loài chó săn sư tử lừng danh, thế mà bây giờ nó đã trở thành một con chó nhà ngốc nghếch. Nhưng trông ông già và con chó đen rất hợp nhau. Tuy liên tục lặp đi lặp lại một động tác nhưng cả hai đều có vẻ rất vui, không hề chán ngán. Cảnh tượng đó khá thú vị.
Tưới nước cho khu vườn xong, ông già đứng thẳng người, mỉm cười hài lòng. Rồi ông ta nhìn lên sườn núi, như thể biết Lai Sinh đang ở đó. Khuôn mặt cười của ông già lọt vào đường chữ thập của thấu kính. Ông có biết chỉ còn một gang tay thôi là mặt trời sẽ xuống núi không? Ông có biết mình sẽ chết trước khi
mặt trời lặn không? Biết rồi mà vẫn cười sao? Có thể không phải ông ta đang cười. Khuôn mặt của ông già giống như mặt nạ Hahoe* nên lúc nào trông cũng như đang cười. Có những người mang khuôn mặt như thế. Những kẻ hoàn toàn không để lộ nội tâm. Những kẻ luôn giữ vẻ cười cợt ngay cả lúc buồn bã hay giận dữ.
Có nên kéo cò súng bây giờ không? Nếu kéo cò bây giờ hắn sẽ quay về được thành phố trước nửa đêm. Rồi có thể vừa ngâm mình trong bồn tắm ngập nước nóng vừa uống bia lon tới khi nào say thì thôi, hoặc đặt đĩa than của The Beatles lên máy quay đĩa và vui vẻ suy tính xem sẽ làm gì với số tiền nhận được trong tài khoản. Có lẽ hắn sẽ có thể sống một cuộc đời khác sau phi vụ cuối cùng này. Mở một tiệm pizza trước cổng trường trung học nữ hay bán kẹo bông gòn trong công viên cũng không tệ. Lai Sinh tưởng tượng ra cảnh mình ngủ gà gật dưới ánh nắng, tay ôm một đống kẹo bông gòn cùng bong bóng để bán cho bọn trẻ. Liệu hắn thực sự có thể sống như thế không? Đột nhiên hắn cho rằng cuộc sống như thế khá hấp dẫn. Dù sao thì cuộc sống đó sẽ chỉ xảy ra sau khi hắn kéo cò súng. Còn bây giờ, ông già vẫn đang lành lặn và chưa có đồng nào được chuyển vào tài khoản của hắn.
Bóng núi đang đổ nhanh. Nếu muốn kéo cò súng thì phải kéo ngay bây giờ. Vì đã tưới nước cho khu vườn xong nên hẳn ông già sẽ vào trong nhà. Nếu vậy việc sẽ trở nên khó khăn hơn. Không cần phải suy nghĩ phức tạp làm gì. Kéo cò ngay bây giờ. Kéo cò xuống ngay lập tức!
Ông già vẫn cười, còn con chó đen đang ngoạm quả bóng xì hơi chạy đến. Khuôn mặt ông ta hiện lên rõ nét giữa chữ thập
của thấu kính. Có ba nếp nhăn hằn sâu trên trán ông già, một cái mụn cóc phía trên lông mày bên phải, vết đồi mồi bên má trái. Lai Sinh nhìn chằm chằm vào lồng ngực sắp bị đạn xuyên thủng của ông ta. Cái áo len trắng ông ta đang mặc hình như không phải là hàng dệt ở xưởng mà là áo đan tay. Nó sẽ ướt máu ngay thôi. Chỉ cần hắn kéo nhẹ cò súng là kim hỏa sẽ đập vào viên đạn 7.62 li, rồi thuốc nổ trong vỏ đạn phát nổ và viên đạn sẽ tách ra khỏi rãnh trên họng súng, xoáy tròn, lao thẳng về phía lồng ngực ông già. Với loại đạn 7.62 li vừa có tốc độ nhanh vừa có sức công phá tốt này thì nội tạng của ông ta sẽ hóa một mớ bùng nhùng tuôn ra sau bụng cùng với viên đạn. Ngay khi nảy ra những suy nghĩ đó, lông tơ trên khắp người Lai Sinh như dựng đứng hết cả lên. Hắn luôn có tâm trạng rất kỳ lạ mỗi khi sự sống và cái chết của một con người nằm trên đầu ngón tay mình. Kéo cò ngay bây giờ. Phải kéo cò ngay. Nhưng vì lý do gì đó thay vì kéo cò, Lai Sinh lại hạ khẩu súng xuống đất.
“Bây giờ không ổn.” Lai Sinh lẩm bẩm.
Chính hắn cũng không rõ tại sao bây giờ lại không ổn. Mọi việc đều cần thời điểm thích hợp, cũng như ăn kem hay hôn vậy. Nghe có vẻ buồn cười nhưng việc kéo cò súng và việc viên đạn găm vào lồng ngực cũng phải có thời điểm. Sao lại không chứ? Nếu may mắn bắt được khoảnh khắc thích hợp đó, viên đạn của Lai Sinh bay thẳng đến lồng ngực ông già là tuyệt nhất. Dĩ nhiên không phải hắn đang chờ đợi giây phút hoàn hảo ấy. Khoảnh khắc may mắn đó có thể sẽ chẳng bao giờ đến, và dù nó đến thì cũng có thể hắn lại bỏ lỡ mất. Lai Sinh nghĩ hắn chỉ không muốn kéo cò súng bây giờ. Dù không rõ lý do nhưng chẳng hiểu sao
hắn lại thấy thế. Lai Sinh đặt khẩu súng xuống rồi hút một điếu thuốc. Bóng núi đang bao trùm lên ngôi nhà của ông già. Ngay khi xung quanh tối sầm xuống, ông già liền dắt con chó vào nhà. Có vẻ nhà không có điện nên bên trong rất tối. Trong phòng khách có đốt nến nhưng Lai Sinh không thể quan sát phía trong bằng ống ngắm viễn vọng. Thỉnh thoảng bóng của ông già và con chó lại hiện lên rất to trên bức tường gạch đỏ rồi biến mất. Từ vị trí hiện tại có lẽ Lai Sinh chỉ có thể bắn trúng nếu ông già cầm nến đứng ở cửa sổ.
Mặt trời vừa khuất sau ngọn núi, chỉ trong tích tắc bóng tối đã bao trùm khắp khu rừng. Trời không trăng nên khó mà nhìn rõ mọi vật ngay cả trong khoảng cách rất ngắn. Chỉ có ánh lửa nhỏ xíu đang phát ra từ ngôi nhà. Màn đêm phủ xuống khu rừng dày đặc, ẩm ướt và lạnh lẽo. Lai Sinh ngồi giữa bóng tối bao vây bốn bề, suy nghĩ xem tại sao mình vẫn không ngừng do dự. Đợi trời sáng thôi. Khi ngày mới lên, như mọi lần, như bắn vào tấm bia gỗ vô cảm, hắn chỉ cần bắn một phát như thế rồi quay về là xong. Nhặt đầu lọc thuốc lá bỏ vào túi, Lai Sinh chui vào lều. Chẳng còn gì để làm ngoài việc giết thời gian nên hắn lôi một cái bánh quy ra ăn rồi trùm túi ngủ lên.
Lai Sinh tỉnh giấc sau đó khoảng hai tiếng đồng hồ. Có tiếng giẫm lên cỏ. Tiếng chân hướng thẳng về phía cái lều hắn nằm, không chút chần chừ. Âm thanh nghe nặng nề. Dăm ba tiếng bước chân bất cẩn. Tiếng cơ thể quét lên cỏ. Hoàn toàn không thể đoán được thứ gì đang tiến đến. Có thể là lợn rừng hay mèo rừng. Lai Sinh lập tức đẩy khóa nòng ra, nạp đạn rồi chĩa khẩu súng về phía bóng tối nơi tiếng động đang đến gần. Vẫn chưa được kéo cò. Những tay lính đánh thuê khi mai phục, vì sợ hãi,
thỉnh thoảng lại tùy tiện bắn vào bóng tối mà không thèm đợi để xác nhận xem thứ trong bóng tối đó là gì. Vậy nên rốt cuộc bọn họ thường giết phải hươu hay chó trinh sát, hoặc tệ hơn là chiến hữu bị lạc đường của mình. Rồi cũng chính những tay lính đánh thuê to con xăm trổ khắp người đó lại quỳ mọp xuống bên thi thể của chiến hữu bị mình bắn nhầm, vừa sụt sùi như một đứa trẻ vừa thanh minh với đội trưởng là “Không còn cách nào khác.” Với những kẻ to xác mà đầu đất như bọn chúng hiển nhiên cách giải quyết khả dĩ duy nhất chỉ là bắn bừa vào bóng tối rồi. Lai Sinh bình tĩnh đợi đến khi thứ đó lộ diện. Nhưng không ngờ người xuất hiện lại là ông già và con chó đen.
“Cậu làm gì ở đây thế?” Ông già hỏi.
Tình huống nực cười. Thật ngớ ngẩn khi chính tấm bia lại phăm phăm tiến đến hỏi hắn đang làm gì mà còn chưa bắn. “Chính cháu mới phải hỏi ông đang làm gì ở đây đấy. Suýt nữa thì cháu bắn ông rồi.” Lai Sinh trả lời với vẻ hơi kích động. “Suýt nữa thì bắn? Ha ha, đúng là vừa ăn cắp vừa la làng. Đây là đất tư hữu của ta. Vậy tức là cậu đã không những xâm nhập bất hợp pháp mà còn tùy tiện ngủ lại đấy.”
Ông già vừa cười vừa nói. Nụ cười rất ung dung tự tại. Tuy cảnh này khá lạ đời nhưng ông ta không có vẻ quá hoảng hốt. Ngược lại người bối rối là Lai Sinh.
“Cháu tưởng là thú dữ trên núi, làm sao mà không hoảng cho được.”
“Cậu là thợ săn à?” Ông già vừa nhìn khẩu súng của Lai Sinh vừa hỏi.
“Vâng.”
“Một khẩu Dragunov* kiểu cổ à? Ta cứ nghĩ thứ này chỉ có ở bảo tàng chiến tranh đấy. Dạo này dân săn trộm đi săn bằng súng thời chiến tranh Việt Nam à?”
“Chỉ cần săn được thú là được, súng thì quan trọng gì chứ?” Lai Sinh đáp bằng giọng hơi lãnh đạm.
“Cũng phải, chỉ cần săn được thú, còn súng thì quan trọng gì. Dẫu có săn bằng tăm xỉa răng hay đũa ăn cơm cũng được ấy chứ.”
Ông già vừa cười vừa nói. Con chó đen ngoan ngoãn ngồi cạnh ông ta. Trông nó to hơn nhiều so với lúc nhìn qua ống ngắm. Tư thế đứng của nó oai vệ khác hẳn lúc đuổi theo quả bóng xì hơi hồi chiều.
“Ông có con chó tốt.” Lai Sinh chuyển chủ đề. Ông già vừa nhìn xuống con chó vừa vuốt ve đầu nó.
“Chó tốt đúng không? Chính cậu chàng phát hiện ra cậu ở đây đấy. Nhưng bây giờ thì nó cũng giống ta, già rồi.” Con chó đen liên tục liếc nhìn Lai Sinh. Tuy gầm gừ nhưng nó không lộ vẻ thù địch và dường như cũng không tỏ ý thân thiện. Ông già vỗ đầu con chó.
“Nếu đêm nay cậu tính ngủ lại đây thì đừng chịu sương lạnh vô ích nữa, vào nhà ta mà ngủ.”
“Cảm ơn ông đã có lời, nhưng cháu không muốn làm phiền.” Lai Sinh đáp.
“Ta không phiền đâu.”
Nói xong ông già bắt đầu phăm phăm đi xuống núi. Con chó đen lập tức chạy theo sau. Dù không có đèn pin nhưng dường như ông ta chẳng gặp khó khăn gì khi đi trên con đường núi tối tăm. Lai Sinh hơi hoang mang trước tình huống này. Đạn đã lên nòng còn tấm bia đang cách hắn không quá năm mét ở phía trước. Lai Sinh nhìn theo dáng ông già liêu xiêu trong bóng tối. Một lát sau hắn vác khẩu súng lên vai rồi đi theo ông ta.
Bên trong ngôi nhà của ông già thật ấm áp. Ở một bên căn phòng xây tường gạch đỏ có lò sưởi đang cháy. Trong nhà gần như không có đồ nội thất hay trang trí. Tất cả đồ đạc chỉ gồm một cái bàn nhỏ và một tấm thảm đã bung sợi trải trước lò sưởi. Có vài bức ảnh đặt trên lò sưởi. Ông già trong những tấm ảnh đó luôn đứng hoặc ngồi ở chính giữa, còn những người xung quanh đều nở nụ cười cứng đờ như thể chụp hình với ông ta là một vinh dự. Hình như không có tấm ảnh gia đình nào trong xấp ảnh đó.
“Ông đã đốt lò sưởi rồi à?” Lai Sinh hỏi.
“Người già dễ bị lạnh lắm. Năm nay hình như ta còn nhạy cảm với cái lạnh hơn nữa.”
Ông già nhặt vài cành củi khô cho vào lò. Vì có thêm củi mới nên ngọn lửa hơi chập chờn. Lai Sinh trù trừ đặt khẩu súng trên vai xuống cạnh cửa. Ông già lén nhìn khẩu súng.
“Mà bây giờ là tháng Mười, không phải đang là thời điểm cấm săn bắn sao?”
Giọng ông ta pha chút đùa cợt. Ngay từ đầu ông già đã không dùng kính ngữ, như quen thân với hắn từ lâu. Nhưng Lai Sinh không thấy khó chịu trước sự thô lỗ đó.
“Cứ nhất nhất làm đúng theo luật thì cháu lấy gì mà ăn chú.” Lai Sinh đáp.
“Cũng đúng, đâu nhất thiết phải tuân theo mọi điều luật. Chỉ có bọn ngốc mới làm thế.”
Ông già nói như độc thoại rồi lật củi bằng que cời, lửa lập tức bùng lên. Những thanh củi vừa bỏ vào lò lúc nãy tuy đã chìm trong lửa nhưng vẫn chưa hoàn toàn bắt lửa.
“Ta có cả trà lẫn rượu đấy, cậu muốn uống gì?” Ông già hỏi. “Trà thì hơn ạ.” Lai Sinh đáp.
“Chắc cậu lạnh lắm rồi, không phải nên uống chút rượu sao?”
“Cháu không hay uống rượu lúc đi săn. Hơn nữa uống rượu rồi ngủ trong rừng nguy hiểm lắm.”
“Vậy thì hôm nay uống cũng được mà. Vì cậu sẽ không chết cóng trong nhà ta đâu.”
Ông già vừa cười vừa nói với Lai Sinh. Rồi ông ta đi vào bếp mang ra một chai whisky cùng hai cái cốc bằng thiếc. Sau khi cẩn thận nhấc cái ấm đặt trong lò ra bằng kẹp gắp, ông ta chậm rãi rót trà vào cốc. Động tác của ông già rất gọn gàng, không thừa thãi. Ông ta đưa cốc trà cho Lai Sinh rồi cũng rót trà vào cốc của mình và kỳ lạ thay, còn đổ thêm một ít whisky vào nữa.
“Nếu dãn gân dãn cốt rồi thì pha chút whisky vào hồng trà cũng được đấy. Đằng nào cũng phải đến sáng cậu mới đi săn được.”
“Pha whisky vào trong trà ấy ạ?” Lai Sinh hỏi.
“Thích pha thì cứ pha thôi. Có gì mà không được chứ?”
Ông già khẽ nhíu mày với vẻ khôi hài. Ông ta khá đẹp lão. Chắc chắn thời trẻ ông ta thường được khen là mĩ nam. Đường nét khuôn mặt rõ ràng và cứng rắn nhưng vẫn toát lên vẻ ấm áp. Có phải năm tháng đã mài mòn nét mạnh mẽ và khiến khuôn mặt ông ta dần trở nên dịu dàng hơn? Lai Sinh chìa cái cốc thiếc ra. Ông già rót một ít whisky vào cốc cho hắn. Hương whisky thơm nồng tỏa ra từ cốc hồng trà ấm nóng. Lúc đó con chó già ở cuối phòng khách bỗng tha thẩn tiến lại gần rồi nằm xuống cạnh đùi Lai Sinh.
“Cậu đúng là người tốt nhỉ.”
“Dạ?”
“Santa thích cậu còn gì. Chó già chỉ cần nhìn một lần là nhận ra được ngay ai là người tốt.”
Ông già vừa nói vừa trỏ ngón tay vào con chó đang ngoan ngoãn nằm bên cạnh Lai Sinh. Nhìn gần mới thấy nó có đôi mắt vô cùng hiền lành, chẳng hợp chút nào với thân hình đồ sộ.
“Chứ không phải vì chó rất ngốc sao?” Lai Sinh hỏi. “Làm gì có chuyện đó.”
Ông già thoáng lườm Lai Sinh. Khi ông ta uống chỗ hồng trà pha whisky, hắn cũng nhấp một ngụm.
“Mùi vị cũng được đấy ạ.”
“Bất ngờ đúng không? Pha với cà phê cũng ngon, nhưng hồng trà thì tốt hơn. Nó sưởi ấm cả cơ thể lẫn tinh thần cậu. Giống như đang ôm một người phụ nữ đẹp vậy.”
Ông già vừa nói vừa cười khúc khích như đứa trẻ.
“Ầy, so sánh thế khập khiễng quá ạ. Ôm một cô gái đẹp thích hơn hồng trà pha whisky nhiều chứ.” Lai Sinh đùa lại. “Cũng phải. Hồng trà làm sao bằng phụ nữ đẹp được nhỉ.” Ông già gật gù.
“Nhưng hương vị vẫn rất đặc biệt, xứng đáng đọng lại lâu dài trong ký ức.”
“Hồng trà mang đậm hơi thở của chủ nghĩa đế quốc. Nên mới ngọt ngào đến vậy. Bởi vì những thứ ngọt ngào thường bên trong chứa đựng rất nhiều giết chóc.”
“Lý luận thú vị thật.”
“Ta có khoai tây và thịt lợn đấy, cậu ăn một chút chứ?” “Được ạ.” Lai Sinh đáp.
Ông già ra khỏi nhà rồi mang vào một tảng thịt xông khói đen thui cùng vài củ khoai tây. Tảng thịt vẫn chưa được cạo hết lông, bề mặt bám đầy bụi nên trông rất bẩn thỉu, dường như nó còn đang bốc mùi ôi. Ông già cho miếng thịt lợn vào đống tro, phủ đầy tro lên rồi xiên nó bằng que sắt, treo trên ngọn lửa. Sau khi lật mấy thanh củi xuống bằng que cời lửa, ông ta cho khoai tây vào đống tro.
“Phương pháp nấu ăn này trông không hấp dẫn cho lắm nhỉ.” Lai Sinh bình luận.
“Ta từng sống ở Peru và học được cách này từ những người da đỏ ở đó. Tuy trông bẩn nhưng mùi vị cũng được lắm.” “Bề ngoài trông không được bắt mắt nhưng vì là bí quyết của người da đỏ nên chắc cũng sẽ ngon đây.”
Thế rồi ông già nhìn Lai Sinh khẽ cười.
“Mấy ngày trước ta đã phát hiện ra điểm chung giữa ta và người da đỏ.”
“Ông có điểm chung gì đặc biệt với họ ư?”
“Cả ta và họ đều không có tủ lạnh.”
Thỉnh thoảng ông già lại lật tảng thịt. Khuôn mặt phản chiếu ánh lửa của ông ta trông thật nghiêm nghị. Ông già chọc que sắt vào mấy củ khoai tây, lôi chúng ra để xem đã chín chưa, miệng lẩm bẩm “Có khách quý đến nên phải thật ngon đấy nhé.” Trong khi chờ thịt chín, ông già uống hết chỗ hồng trà pha whisky, sau đó chỉ rót mỗi whisky vào cốc, đoạn ông ta hỏi Lai Sinh có muốn uống nữa không. Hắn chìa cốc ra. Hương whisky cộc cằn trôi xuống họng rồi lan ra dịu dàng trong cái bụng rỗng của Lai Sinh. Hơi rượu tỏa khắp cơ thể làm tâm trạng hắn tốt hẳn lên. Đột nhiên hắn có cảm giác không thực. Tấm bia và tay lính bắn tỉa đang cùng ngồi trước lò sưởi, vờ vịt ra vẻ thân ái. Mỗi lần ông già lấy que lật tảng thịt, mùi thơm lại phả ra ngào ngạt. Con chó đen già mon men đến bên cái lò định hít hà nhưng không dám tiến tới quá gần vì sợ lửa, chỉ biết rên ư ử.
“Santa, ở yên đó đi. Đừng có lo, chú mày cũng có phần mà.” Ông già vừa vuốt ve gáy con chó vừa nói.
“Con chó tên là Santa ạ?”
“Vì ta gặp nó vào ngày Giáng sinh. Hôm đó nó mất chủ, còn ta thì mất một chân.”
Ông già hơi kéo quần lên cho hắn thấy chân trái. Chân trái của ông ta là chân giả.
“Con chó này đã cứu sống ta. Nó đã lôi ta đi suốt gần 5 ki lô mét đường tuyết đấy.”
“Quả là mối nhân duyên đặc biệt.”
“Nó là món quà Giáng sinh tuyệt vời nhất của ta.” Ông già vuốt ve đầu con chó.
“So với thân hình đồ sộ thì nó hiền nhỉ.”
“Không hẳn đâu. Trước kia cứ thấy người là nó tấn công, ta mà không nhốt nó lại thì không tài nào nuôi được, nhưng giờ già rồi nó thuần tính hơn hẳn. Ta thật không quen với điều đó. Động vật mà thân thiết với con người đều thật lạ.”
Mùi thịt chín tỏa ra từ lò sưởi. Ông già lấy que sắt chọc thử vào chỗ này chỗ kia trên tảng thịt rồi lôi nó ra, cắt thành miếng dày bằng một con dao có răng cưa. Ông ta đua cho Lai Sinh một miếng, giữ lại một miếng cho mình và cho Santa một miếng. Lai Sinh phủi tro khỏi miếng thịt rồi cắn thử.
“Mùi vị đặc biệt thật. Không giống thịt lợn gì cả.” “Ngon chứ?”
“Vâng, nhưng ông không có muối ạ?”
“Không có.”
“Ông sống mà không có tủ lạnh, cũng không có cả muối, đúng là tài thật đấy. Người da đỏ Peru cũng không có muối ạ?” “Không, cách đây không lâu ta vẫn có, nhưng giờ hết mất rồi.” Ông già nói với vẻ hơi ngượng nghịu.
“Ông đi săn ạ?”
“Trước đây thì có. Giờ ta không săn nữa. Khoảng một tháng trước ta phát hiện ra một con lợn rừng mắc bẫy của đám săn trộm. Lúc ta bắt gặp thì nó vẫn còn sống. Ta nhìn con lợn rừng đang thở phì phò và suy nghĩ một lúc. Nên giết nó, hay đợi đến khi nó chết đây? Nếu đợi đến khi nó chết thì giết con lợn là trách nhiệm của đám săn trộm đã đặt bẫy, nhưng nếu ta giết nó thì chẳng phải kẻ muốn giết con lợn lấy thịt lại chính là ta ư? Nếu là cậu thì cậu sẽ làm gì?”
Ông già nở nụ cười khó đoán. Xoay xoay cái cốc thiếc, Lai Sinh đáp.
“Để xem, cháu thấy việc ai giết đâu phải vấn đề quan trọng ạ?”
Nghe Lai Sinh nói, ông già chìm vào suy nghĩ. Một lúc sau ông ta mở miệng.
“Quả đúng thế thật. Ngẫm lại mới thấy ai giết cũng chẳng quan trọng. Dù sao thì bây giờ chúng ta cũng đang ăn thịt lợn rừng ngon lành như những người da đỏ còn gì.”
Dứt lời, ông già cười lớn. Lai Sinh cũng cười. Đó là một lời nói đùa chẳng buồn cười gì cho lắm nhưng ông già vẫn tiếp tục cười và Lai Sinh cũng vẫn cười hùa theo.
Dường như tâm trạng rất vui nên ông già rót whisky vào cốc của Lai Sinh lẫn cốc của mình đến đầy tràn, sau đó hai người cụng ly. Ông già và Lai Sinh uống cạn rượu cùng một lúc. Rồi ông già cầm que sắt lôi mấy củ khoai tây đang vùi trong tro ra. Ông ta cắn thử một miếng khoai tây, nói “Chín rồi.” Sau đó đưa cho Lai Sinh một củ. Hắn liền phủi sạch tro cắn thử một miếng, đoạn tiếp lời “Vâng, đúng là chín rồi.”
“Ta thường xuyên ăn khoai tây vào mùa đông. Không gì tốt bằng khoai tây vào mùa đông đâu.”
“Cứ nhìn khoai tây là cháu lại nhớ đến một người.” Ngọn lửa ấm áp từ lò sưởi và hơi rượu khiến mặt Lai Sinh ửng đỏ, hắn bắt đầu kể câu chuyện khoai tây như một thằng ngốc.
“Chưa nghe cũng đoán được ấy là một người đáng thương rồi.” Ông già nói.
“Đúng là một người đáng thương đấy ạ.”
“Người đó vẫn còn sống hay đã chết?”
“Chết rồi ạ. Hồi đó cháu đang ở châu Phi và bất ngờ vướng vào một tình huống khẩn cấp lúc nửa đêm. Khi cháu lái xe tải đến nơi thì một gã lính phiến quân đã trốn khỏi trại giam và bắt một bà lão làm con tin. Cậu ta còn rất trẻ, có lẽ chỉ mới mười bốn mười lăm tuổi. Theo cháu thấy thì tuy cậu ta đang khá kích động và hoảng loạn nhưng có vẻ không quá nguy hiểm. Trong lúc bị cậu thiếu niên chĩa khẩu Ak vào đầu, bà lão kia cứ liên tục nói gì đó với cậu ta. Còn cậu ta thì cầm một củ khoai tây bằng tay kia và ăn ngấu nghiến. Nhưng đó tuyệt đối không phải là giây phút nguy hiểm. Tất cả bọn cháu đều có thể thấy thế. Nhưng lúc đó lại có chỉ thị từ bộ đàm ra lệnh cho bọn cháu bắn chết cậu ta. Một lát sau, ai đó kéo cò súng. Bọn cháu chạy đến và thấy đầu của cậu thiếu niên đã bị thổi bay một nửa, trong miệng vẫn còn một miếng khoai tây đang nhai dở chưa nuốt hết.”
“Có lẽ cậu bé đó đã rất đói bụng.”
“Cháu nhìn vào trong miệng của cậu thiếu niên châu Phi bị bắn mất nửa đầu và có cảm giác rất kỳ lạ. Nếu bọn cháu đợi thêm 10 giây nữa thì sao? Vậy thì có lẽ cậu ta đã có thể nuốt miếng khoai rồi mới chết, cháu nghĩ vậy đấy.”
“Nuốt được miếng khoai thì đời cậu thiếu niên châu Phi tội nghiệp đó sẽ có gì khác à?”
“Ừm, cũng chẳng có gì khác cả đâu ạ. Nhưng dẫu vậy miếng khoai chưa nuốt trong miệng cậu ta vẫn làm cháu có cảm giác kỳ lạ.” Lai Sinh nói bằng giọng hơi xúc động.
Ông già uống hết chỗ whisky còn lại, rồi cầm que sắt bới đống tro xem còn sót củ khoai tây nào không. Có một củ nằm trong góc. Ông ta liền đưa nó cho Lai Sinh. Hắn thẫn thờ nhìn củ khoai tây một lúc rồi xua tay trịnh trọng từ chối. Ông già nhìn củ khoai với vẻ khó xử rồi lại ném nó vào trong lò. “Ta còn một chai whisky nữa đấy, uống luôn chứ?” Ông già nói.
Lai Sinh nghĩ một lát rồi hỏi lại “Được không ạ?” Ông già bèn đứng dậy mang một chai whisky từ trong bếp ra rót cho Lai Sinh. Hai người uống whisky một lúc rồi im lặng nhìn củi đang cháy trong lò sưởi. Một cảm giác vô cùng phi thực dâng lên theo hơi rượu. Ông già vẫn chỉ nhìn vào ánh lửa bên trong lò.
“Lửa đẹp thật.” Lai Sinh nói.
“Cậu mà hiểu rõ thì sẽ thấy tro đẹp hơn đấy.”
Ông già vừa xoay cái cốc thiếc vừa nói, mắt vẫn không rời khỏi ánh lửa. Thế rồi ông ta bỗng khẽ nhăn mặt như thể vừa nhớ ra câu chuyện thú vị nào đó.
“Ông nội ta là thợ săn cá voi. Đó là chuyện rất lâu rồi, từ trước khi săn cá voi bị cấm*. Dù xuất thân từ vùng Hamgyeongdo không có biển nhưng ông đã xuống Jangsaengpo và trở thành thợ săn cá voi. Trong một lần đi săn, ông nội ta đã bị cá voi kéo xuống rất sâu dưới biển. Ông bị lôi xuống biển vì bị sợi dây buộc trên cây lao cắm vào lưng một con cá nhà táng quấn lấy chân. Thật ra cá voi nhà táng đâu phải loại dễ dàng bị thu phục bởi một con thuyền săn cá voi nhỏ xíu cổ lỗ sĩ từ thời thuộc địa và mũi lao kém chất lượng ném bằng tay cơ chứ. Vì cá nhà táng đực dài đến mười tám mét và nặng hơn sáu mươi tấn. Cậu thử nghĩ mà xem, sáu mươi tấn tương đương với trọng lượng của mười lăm con voi châu Phi trưởng thành đấy. Nếu là ta ấy à, ta sẽ không đụng đến những thứ cỡ đó đâu, dù nó có là bong bóng cao su đi chăng nữa. Nhưng ông nội ta đã cắm lao vào con cá nhà táng khổng lồ ấy.”
“Chuyện sau đó thế nào ạ?” Lai Sinh hỏi.
“Đương nhiên là ông ấy gặp rắc rối to. Cú sốc lúc rơi từ mũi tàu xuống biển khiến ông nội ta choáng váng. Còn đang mơ màng nửa tỉnh nửa mê ông ấy đã bị con cá voi giận dữ kéo thẳng xuống lòng biển tối sâu thăm thẳm. Ông kể rằng giữa lúc bị lôi đi với tốc độ khủng khiếp như thế thì ông dần định thần lại và thứ đầu tiên ông nhìn thấy là ánh sáng xanh trên vây con cá. Lúc đó, hoàn toàn quên mất bản thân đang ở dưới biến, ông cứ thẫn thờ nhìn con cá voi đang phát ra ánh sáng xanh đó. Ông nội nói với ta rằng cảnh con cá voi khổng lồ dài mười tám mét phe phẩy ánh xanh đó bơi giữa biển đêm thật thần bí, tĩnh lặng và đẹp đẽ. Ông nội vừa hồi tưởng lại vừa rớm nước mắt, còn ta thì nhẹ nhàng giải thích với ông rằng cá voi không phải sinh vật phát sáng nên
vây của nó không thể phát ra ánh sáng xanh được. Ngay lập tức ông cầm cái bô ném vào đầu ta. Ha ha, ông nội ta cục tính lắm. Gặp ai ông cũng kể câu chuyện con cá nhà táng cho họ nghe, và lần nào ta cũng nói với ông rằng chính vì chi tiết cái vây xanh phát sáng chết tiệt đó nên bọn họ mới nghĩ trải nghiệm với cá voi của ông là bịa đặt đấy. Nghe ta nói thế ông liền đáp lại rằng tất cả những điều người ta bàn tán về cá voi mới là bịa đặt. Tất cả những chuyện đó đều là do con người đọc và cóp nhặt từ sách vở. Nhưng cá voi không sống trong sách mà sống dưới biển. Tóm lại là ông nội ta cứ thế bị con cá voi kéo xuống biển, rồi ông lại bất tỉnh lần nữa.”
Ông già rót whisky đầy khoảng nửa cái cốc thiếc rồi hớp một ngụm.
“Khi ông nội ta mở mắt thì trăng rằm đã mọc trên bầu trời đêm, còn sóng vỗ rì rào bên tai. Ông nghĩ rằng số mình vẫn còn may vì được sóng đánh mắc vào một rặng đá ngầm nhỏ. Nhưng đó không phải đá ngầm mà là phần trên đầu của con cá voi. Đúng là chuyện không thể tin được. Ông nội ta nằm nghiêng nhìn con cá voi đỡ lấy mình bằng đầu, mũi lao vẫn cắm trên lưng, dòng máu đỏ tươi của nó loang khắp biển, còn phao cứu sinh đang nổi trên mặt nước. Cậu nghĩ thử mà xem. Đó thật sự là một khung cảnh kỳ dị và khó mà tưởng tượng nổi. Hình như ta cũng từng được nghe ở đâu đó rằng những con cá voi đẩy đồng loại bị thương của mình hoặc những con cá voi sơ sinh lên trên mặt nước để giúp chúng thở dễ dàng hơn. Nhưng ông nội ta là con người, đâu phải đồng loại của nó, lại càng chẳng phải là một con cá voi con. Hơn nữa ông ấy chính là kẻ đã phóng mũi
lao vào lưng nó, thật khó mà hiểu được vì sao con cá voi ấy lại dùng đầu đỡ lấy ông nội ta suốt một lúc lâu như vậy.” “Vâng, chuyện này đúng là khó hiểu thật. Theo lẽ thường dù có cắn xé ông ấy nó cũng chẳng hả giận ấy chứ.” Lai Sinh uống whisky rồi nhận xét.
“Cả sau khi đã tỉnh lại rồi, ông nội ta vẫn nằm một lúc lâu trên đầu con cá. Tình thế đó quả thật kỳ quặc nhưng người ta còn có thể làm gì khi ở trên đầu một con cá voi như thế cơ chứ. Ông chỉ biết nằm đó với con cá voi vẫn bị cái lao cắm trên lưng có lẽ đã mất tới hơn mười thùng máu, dưới ánh trăng rằm lờ mờ chiếu xuống mặt biển đêm cùng những ngọn sóng đen kịt. Ông nội ta nói rằng dòng máu đỏ phản chiếu ánh trăng khiến ông cảm thấy có lỗi với con cá. Ừm, không chỉ có lỗi không thôi đâu. Ông còn muốn rút mũi lao cắm trên lưng nó ra, nhưng việc đó chẳng dễ dàng gì. Cũng như một người trót lầm lạc vậy, mũi lao khi đâm thì dễ dàng cắm sâu vào da thịt nhưng để rút ra lại khó vô cùng. Thế nên ông nội ta chỉ cắt đứt sợi dây buộc mũi lao bằng con dao giắt ở lưng quần. Ông vừa cắt dây xong, con cá voi liền lặn xuống nước, sau đó nó lập tức chụp lấy cái phao nổi trên mặt biển rồi tiến đến gần ông nội ta lúc ấy đang vẫy vùng. Ông nội ta kể rằng, bằng đôi mắt đen khổng lồ, con cá voi nhìn chằm chằm vào con người đáng thương đang bối rối vùng vẫy trong khi vẫn bị quấn vào sợi dây do chính tay mình ném. Theo lời ông nội thì con cá đến rất gần và nhìn ông bằng ánh mắt ngây thơ đầy vẻ tò mò như muốn nói ‘Hừm, sao một kẻ nhỏ bé và nhát gan thế này lại có thể cắm lao vào lưng ta được chứ? Khá khen cho lòng dũng cảm của ngươi.’ Thế rồi nó đẩy nhẹ ông bằng sống mũi một cách đùa cợt. Như muốn lên lớp ông nội ta rằng ‘Ê, anh
bạn nhỏ, đùa hơi quá trớn rồi đấy. Đừng làm mấy trò nguy hiểm như thế chứ.’ Mặt biển loang đầy máu của con cá nhưng dường như nó đã bỏ qua chuyện ông nội ta ném lao vào lưng nó. Mỗi lần kể đến đoạn này ông nội ta lại vỗ đầu gối đánh đét và hét lớn ‘Con cá đó có lòng cao thượng to lớn như tấm thân của nó vậy, hoàn toàn khác với những kẻ hẹp hòi chúng ta!’ Ông nội ta bảo ông và con cá voi đã trôi nổi trên biển như thế suốt cả đêm. Con cá đã ở bên bảo vệ ông nội ta cho đến tận khi nó lờ mờ trông thấy con thuyền săn cá voi đã lần theo cái phao cứu sinh để tìm ông. Khi con thuyền từ đằng xa dần tiến lại gần, con cá liền bơi một vòng quanh ông nội ta như thể chào từ biệt rồi từ từ biến mất vào lòng biển sâu thật sâu. Mũi lao khắc tên của ông nội ta vẫn cắm trên lưng nó. Câu chuyện kỳ lạ nhỉ?”
“Vâng, đúng là một câu chuyện kỳ dị.” Lai Sinh đáp. “Trở về nhà sau lần chết hụt trên biển đó, dường như bắt đầu hoài nghi nghề săn cá voi nên ông nội đã bảo bà nội ta rằng có lẽ ông phải bỏ nghề thôi. Thế là bà nội hiền hậu và giàu kiên nhẫn của ta liền ôm lấy ông và nói nếu ông không thích nghề săn cá voi thì không làm nữa cũng được. Ông nội ôm lấy bà, vừa khóc như một đứa trẻ vừa nói ‘Sợ lắm, tôi sợ lắm rồi.’ Và ông thật sự đã không đi săn cá voi trong suốt một thời gian dài. Nhưng những ngày tháng thiện lương yếu lòng đó của ông nội ta cũng chẳng kéo dài được lâu. Cuộc sống thì khó khăn mà ở nhà còn bao miệng đang há chờ ăn, từ khi sinh ra ông nội ta chỉ học được mỗi nghề săn cá voi nên để nuôi đàn con ríu rít đói ăn như chim sẻ ông chẳng có cách nào khác cả. Thế là ông lại ra biển và săn mọi loại cá voi lang thang ở biển Đông Hải cho đến khi nghỉ hưu năm bảy mươi tuổi. Nhưng có một chuyện thú vị là ông nội ta đã
gặp lại con cá voi năm xưa khi đang đi săn vào năm 1959. Hồi đó là ba mươi năm sau lần sống sót kỳ diệu trên biển của ông. Mũi lao mà ông phóng đi đã gỉ sét và vẫn cắm nguyên trên lưng con cá voi, nhưng con cá vẫn bơi lượn thoải mái và kiêu hãnh cứ như thể mũi lao vốn dĩ là một phần của cơ thể nó vậy. Thật ra việc một con cá voi đã trúng lao nhưng vẫn sống được lâu là chuyện khá bình thường. Người ta còn đồn rằng có một con cá voi từng bị ném lao vào người hồi thế kỷ 18 mà đến tận thế kỷ 19 mới bị bắt đấy. Dù sao thì con cá nhà táng đó cũng không chạy trốn dù đã trông thấy con thuyền săn, ngược lại nó còn đủng đỉnh bơi đến gần thuyền của ông nội với mũi lao trên lưng trông như cái kính tiềm vọng. Con cá bơi một vòng quanh con thuyền và hướng về phía ông nội ta cứ như đang nói ‘Ê ông bạn cũ, rốt cuộc đã bao lâu rồi ấy nhỉ, vui quá đi. Mà gì thế này, ngươi vẫn đi săn cá voi sao? Quá đáng thật đấy.’ Ha ha ha.”
“Hẳn là ông nội của ông đã thấy rất xấu hổ.” Lai Sinh nói. “Không chỉ thế thôi đâu. Theo lời những thủy thủ thì sau khi trông thấy con cá ông nội ta đột nhiên quỳ gối. Rồi ông ngồi phịch xuống boong tàu và khóc lóc ầm ĩ. Ông khóc một lúc lâu rồi hướng về phía con cá mà gào lên thế này. ‘Cá voi à, xin lỗi mày. Thật sự xin lỗi mày. Bao năm qua mang mũi lao trên lưng chắc mày khổ sở lắm phải không? Sau khi chia tay mày tao cũng đã rất muốn bỏ cái nghề săn cá voi này. Mày sống ở biển nên chắc không biết, chứ dạo này cuộc sống trong đất liền khó khăn lắm. Tao vẫn phải thuê nhà ở. Còn lũ trẻ thì ngốn không biết bao nhiêu tiền, không phải chuyện đùa đâu. Tao cũng chỉ vì cuộc sống quá cực nhọc xô đẩy thôi. Hãy tha lỗi cho tao. Lần sau gặp lại chúng ta hãy cùng làm chén rượu nhé. Tao sẽ mang rượu
đến, còn mày hãy bắt một con mực khổng lồ nhé. Chỉ cần nướng một con là đủ nhắm mười thùng rượu rồi. Cá voi à, xin lỗi mày. Xin lỗi đã phóng lao vào lưng mày. Thành thật xin lỗi mày vì tao là một kẻ xấu xa. Hức hức hức.’”
“Ông nội của ông đã gào lên như thế thật ạ?” Lai Sinh hỏi. “Người ta kể thế đấy.”
“Ông ấy quả là một người thú vị.”
“Đúng thế. Dù sao thì sau hôm đó ông nội ta đã bỏ hẳn nghề săn cá voi và rời vùng biển Jangsaengpo. Sau đó nữa thì ông lên Seoul và chỉ uống rượu suốt thôi. Ừm, hẳn ông đã rất bế tắc. Không thể ra biển, cũng không thể trở về quê hương vì vĩ tuyến 38* đã bị giăng hàng rào sắt. Vậy nên hễ rượu vào là ông lại tóm lấy người ta mà kể cái câu chuyện cá voi nhàm tai đó. Giờ thì hầu như ai biết chuyện cũng đã phải nghe đến lần thứ vài trăm rồi, và ông nội ta thì vẫn cứ kể mãi không chán dù chẳng ai muốn nghe nữa cả. Nhưng ông kể chuyện đó không phải là để khoe khoang lòng dũng cảm của mình. Ông nội ta tin rằng con người nên sống như cá voi. Gần đây con người ngày càng trở nên nhỏ mọn và ác độc như lũ chuột nên những dấu vết đẹp đẽ, to lớn và chậm rãi đều đã biến mất hết. Thế gian này đã không còn ai vĩ đại nữa rồi.”
Ông già nâng cái cốc thiếc lên uống rượu tiếp. Lai Sinh cũng rót whisky vào cái cốc rỗng của mình rồi uống một chút. “Cuối đời ông nội ta được chẩn đoán ung thư gan giai đoạn cuối. Ông làm thủy thủ từ năm mười lăm tuổi đến năm bảy mươi hai tuổi và ngày nào cũng nốc rượu nên bị như thế cũng đúng thôi. Nhưng ngay khi vừa từ bệnh viện trở về, ông lại tiếp
tục uống rượu triền miên như thể chẳng có chuyện gì xảy ra. Rồi ông tập hợp đám con cái lại và tuyên bố ‘Ta không vào bệnh viện đâu. Cá voi đến lúc phải chết thì cũng sẽ chết thôi.’ Và đúng là ông không nhập viện thật. Khoảng một tháng sau ông ăn mặc thật tươm tất rồi rồi khỏi nhà lên đường quay về vùng biển Jangsaengpo. Theo lời dân địa phương thì ông thuê một con thuyền nhỏ và thực sự đã chất mười thùng soju lên thuyền, sau đó ông cứ chèo mãi chèo mãi cho đến khi không trông thấy phía bên kia đường chân trời nữa. Và ông không trở về. Không tìm được thi thể ông. Có lẽ ông nội ta đã chèo thuyền đến tận nơi tỏa ra mùi của con cá nhà táng kia. Nếu gặp lại con cá ở đó, hẳn ông đã kể cho nó những chuyện không thể nói trong thời gian qua và uống hết mười thùng soju trong một đêm. Còn nếu không gặp được thì chắc ông đã lênh đênh trên biển và uống hết chỗ rượu ấy một mình cho đến lúc chết. Ừm, ông nội ta là người như thế mà.”
“Thật là một kết thúc vĩ đại.”
“Một cái chết đầy phẩm giá nhỉ. Ta nghĩ rằng làm đàn ông thì phải đủ sức quyết định cái chết cho mình một cách đầy tự trọng như vậy. Chỉ những người sống đúng với số phận của mình mới có thể định đoạt cái chết như thế mà thôi. Nhưng không phải ta. Vì ta đã sống một cuộc đời như con ốc sên nên không có tư cách được chết một cách đầy tôn nghiêm như vậy.”
Ông già nở nụ cười cay đắng. Lai Sinh ngậm miệng không nói gì. Ông ta đang trưng ra vẻ mặt bi quan nên hắn muốn nói câu gì đó để an ủi, nhưng thực sự chẳng có gì để nói. Ông già lại rót đầy rượu vào cốc của mình. Mỗi khi lửa tắt, Lai Sinh lại nhặt củi bỏ vào trong lò. Ngọn lửa bén vào thanh củi mới, kêu lách tách rồi
bùng lên mãnh liệt, biến thành hòn than đỏ rực rồi cuối cùng hóa thành tro trắng. Suốt thời gian đó, Lai Sinh và ông già vẫn im lặng uống hết rượu.
“Hôm nay ta nói quá nhiều chuyện vô ích rồi. Thế mà người ta bảo càng có tuổi thì miệng càng đóng chặt còn ví càng mở ra cơ đấy.”
“Không đâu ạ. Chuyện của ông rất thú vị mà.”
Ông già nhấc chai whisky lên rồi khẽ lắc. Rượu còn trong chai chắc rót được đầy một cốc. Ông ta nheo mắt nhìn vào trong cái chai.
“Ta uống nốt được chứ?”
“Dĩ nhiên rồi ạ.” Lai Sinh đáp.
Ông già rót nốt chỗ rượu cuối cùng vào cốc của mình rồi uống cạn.
“Hôm nay đến đây thôi, đi ngủ nào. Cậu đã mệt mỏi rồi mà ta còn quấy quả thế này nữa.”
“Không đâu ạ. Nhờ ông mà cháu mới có một buổi tối thú vị đấy chứ.”
Ông già nằm xuống bên phải cái lò. Santa đủng đỉnh tiến đến nằm bên cạnh ông ta. Lai Sinh nằm phía bên trái lò. Bóng của hai người đàn ông và con chó già giao nhau trên bức tường gạch đỏ phía đối diện. Lai Sinh nhìn chằm chằm vào khẩu súng của hắn để ở cửa.
“Ngày mai cậu ăn sáng rồi hãy đi. Đi sân với cái bụng rỗng thì mệt lắm.”
Nằm quay mặt sang bên kia, ông già nói. Lai Sinh chần chừ một lúc rồi mở miệng.
“Vâng, cháu sẽ ăn.”
Hắn chỉ nghe thấy tiếng thở đều đều rất to của con chó già cùng với tiếng củi cháy. Ông già không nói gì nữa. Lai Sinh lắng nghe tiếng thở của ông ta và con chó một lúc lâu rồi chìm vào giấc ngủ. Đó là một giấc ngủ rất yên bình.
Khi hắn thức dậy vào buổi sáng, ông già đang chuẩn bị bữa sáng gồm có canh đậu tương khoai tây, kim chi củ cải và cơm trắng. Ông già chẳng nói gì. Lai Sinh và ông ta im lặng ăn sáng. Hắn kết thúc bữa ăn rồi vội vàng đứng dậy. Lúc Lai Sinh rời khỏi nhà, ông già còn lấy vải bọc gói cho hắn sáu củ khoai tây luộc. Hắn trịnh trọng cúi chào ông ta và nhận lấy khoai tây. Những củ khoai tây thật ấm áp.
Khi Lai Sinh quay trở lại cái lều trên núi, ông già đang cầm bình tưới nước cho vườn hoa. Bộ dạng tưới nước của ông già vẫn chân thành hệt như rót trà. Ông ta cũng đang vẫy tay trò chuyện với cây cối hoa cỏ như mọi khi. Lai Sinh chỉnh lại ống ngắm trên thấu kính một chút. Những bông hoa mà hình như hắn đã nhìn thấy ở đâu đó hiện lên rõ nét rồi lập tức mờ đi. Hắn vẫn không biết tên của loài hoa đó. Đáng lẽ hắn nên hỏi ông già.
Đó là một khu vườn đẹp. Hai cây hồng đứng trong sân như thể giả bộ không liên quan gì tới phần còn lại, còn ở một góc vườn có mấy cây hoa đang yên lặng chờ đến mùa của mình. Con chó già Santa đi đến bên cạnh ông già rồi dụi đầu vào ông ta. Ông già liền vuốt ve đầu con chó. Trông ông già và con chó rất hợp nhau. Ông ta ném quả bóng đá xì hơi về phía cuối vườn, Santa
liền chạy theo bắt lấy quả bóng. Trong lúc đó thì ông già tưới nước cho hoa. Ông ta đang nói gì với mấy bông hoa vậy nhỉ? Nhìn kỹ thì đúng là chân trái của ông già hơi khập khiễng. Giá nghe được đầu đuôi câu chuyện về cái chân trái của ông ta lúc uống rượu đêm qua thì tốt. Nhưng Lai Sinh lại nghĩ dù không biết cũng chẳng sao. Santa đang ngoạm quả bóng chạy về. Lần này ông già ném quả bóng đi xa hơn một chút. Con chó già nhảy lên tại chỗ như thể hôm nay nó rất vui rồi chạy ra cuối vườn. Ông già đặt cái bình tưới xuống và cười vui vẻ, hình như ông ta đã tưới nước xong. Ông đang cười sao? Gương mặt tựa mặt nạ Hahoe đó đang cười sao? Lai Sinh hướng chữ thập của ống kính vào ngực ông già rồi kéo cò.
Đoàng!
Gót chân Achilles
L
ai Sinh được phát hiện trong thùng rác. Nói cách khác, hắn được sinh ra trong thùng rác.
Trong suốt hai mươi bảy năm qua, lão Chồn, người trên danh nghĩa là cha nuôi của Lai Sinh, hễ uống rượu vào lại rất thích mỉa mai xuất thân của hắn. “Người ta tìm thấy mày trong thùng rác phía trước tu viện. Bảo cái thùng rác đó là mẹ mày cũng chẳng sai. Nói kiểu nào cũng đều thảm hại như nhau cả thôi. Mà thực ra cũng may cho mày, cái thùng rác đó chỉ có các nữ tu sử dụng nên dù sao cũng sạch sẽ hơn những chỗ khác.” Nhưng Lai Sinh chẳng bận tâm đến những lời châm chọc của lão Chồn. Hắn nghĩ thà được sinh ra bởi một cái thùng rác sạch sẽ còn hơn là những người cha người mẹ vứt con vào thùng rác.
Lai Sinh sống ở cô nhi viện thuộc tu viện đến năm bốn tuổi, sau đó được thư viện của lão Chồn nhận nuôi. Nếu tiếp tục sống ở cô nhi viện dưới bàn tay ân cần chu đáo của các nữ tu thiện lành ấm áp như ánh nắng xuân thì có lẽ cuộc đời Lai Sinh đã khác. Nhưng hắn lại lớn lên ở thư viện của lão Chồn, nơi chỉ tụ họp những kẻ ám sát, đâm thuê chém mướn và thợ săn. Giống như cây cối bám rễ vào đất, mọi bi kịch trong đời đều khởi sự từ nơi ta đặt những bước chân đầu tiên. Và Lai Sinh thì quá non nớt để rời bỏ nơi mình đã bắt rễ.
Vào sinh nhật lần thứ chín, Lai Sinh ngồi lọt thỏm trong cái ghế bập bênh bằng mây của lão Chồn và đọc Truyện của Homer. Hắn đang đọc đến đoạn hoàng tử Paris ngu ngốc của thành Troy giương cung bắn vào gót chân của Achilles, vị anh hùng mà hắn rất thích. Đó là khoảnh khắc rất căng thẳng nên Lai Sinh hoàn toàn không hay biết lão Chồn đã đứng sau lưng nhìn hắn một lúc lâu. Khuôn mặt lão đầy giận dữ.
“Ai dạy chữ cho mày hả?”
Lão Chồn không cho Lai Sinh đi học. Mỗi lần hắn hỏi “Tại sao con không được đến trường như những đứa trẻ khác?” lão Chồn lại đáp với vẻ mặt lạnh nhạt “Bởi vì sống trên đời hoàn toàn không cần đến những thứ như trường học.” Câu trả lời lạnh lùng của lão không hề sai. Tuy chưa từng đến cái nơi gọi là trường học bao giờ nhưng Lai Sinh cũng chẳng gặp bất cứ chuyện gì bất tiện trong suốt ba mươi hai năm sống trên đời. Phiền phức ấy à, rốt cuộc thì hắn có thể gặp phiền phức vì chuyện gì được cơ chứ? Dù sao thì có vẻ như lão Chồn hơi ngạc nhiên vì Lai Sinh không đi học mà vẫn đọc được sách. Nói chính xác hơn thì dường như lão ta cảm thấy bị phản bội trước sự thật là Lai Sinh có thể đọc sách. Lai Sinh không đáp, chỉ nhìn lão Chồn chằm chằm. Lão ta liền hỏi lại thật rành rọt bằng giọng nói đặc biệt trầm thấp và đầy vẻ hăm dọa ngấm ngầm của mình.
“Tao, hỏi, ai, dạy, chữ, cho, mày, hả?”
Giọng lão Chồn cứng rắn và đáng sợ cứ như thể lão sẽ làm bất cứ điều gì nếu tóm được người đã dạy chữ cho Lai Sinh vậy. Lai Sinh đáp bằng giọng lí nhí và run rẩy rằng chẳng có ai dạy chữ cho hắn cả. Bởi lão Chồn vẫn đang nhìn với vẻ mặt hung tợn
như thể không tin lời hắn nên Lai Sinh liên tục lặp đi lặp lại rằng hắn tự học chữ nhờ đọc sách tranh. Lão Chồn ngay lập tức tát thật mạnh vào má Lai Sinh.
Lai Sinh cố kìm tiếng khóc sắp bật ra, khăng khăng nhắc lại hắn thực sự đã tự học được chữ nhờ đọc sách tranh. Sau khi tìm thấy những cuốn sách đáng đọc trong thư viện tối tăm lắt léo chứa đến 20.000 quyển sách của lão Chồn (hầu hết là truyện tranh cải biên với nhân vật là những nô lệ da màu ở Mỹ, tạp chí người lớn rẻ tiền, sách tranh nham nhở vẽ các loài động vật như tê giác hay hươu cao cổ), hắn vừa nhìn tranh đoán chữ vừa tự học quy tắc ghép chữ. Lai Sinh trỏ ngón tay vào những cuốn sách tranh mà hắn đã chất đầy một góc phòng đọc sách. Lão Chồn khập khiễng đi về phía đó rồi lật xem từng cuốn một. Lão lặng người đi như thể không ngờ nổi trong thư viện của mình lại chứa những cuốn sách kém chất lượng đến thế. Lão Chồn lại tập tễnh quay lại hằm hằm nhìn Lai Sinh vẫn bằng ánh mắt nghi ngờ không đổi rồi giật lấy cuốn Truyện của Homer bìa cứng mà Lai Sinh đang cầm trên tay. Suốt một lúc lâu lão hết nhìn cuốn sách lại nhìn sang Lai Sinh, cuối cùng lão mở miệng.
“Nếu đọc sách thì mày sẽ sống một cuộc đời đầy sợ hãi và xấu hổ. Dù vậy mày vẫn sẽ đọc sách à?”
Vì hoàn toàn không hiểu ý nghĩa của câu nói đó nên Lai Sinh chỉ biết ngây người nhìn lão. Hắn chẳng biết làm gì hơn. Cuộc đời đầy sợ hãi và xấu hổ ư, một thằng nhóc chín tuổi thì làm sao hiểu được đó là cuộc đời như thế nào chứ. Cuộc đời mà một thằng bé chín tuổi có thể nghĩ đến chỉ là những lời càu nhàu trước bản án đã được ai đó dọn sẵn, hoặc là những chuyện bực mình liên tục xảy ra như miếng hành tây cứ thò ra khỏi cái bánh
sandwich mà thôi. Vậy nên những lời mà lão Chồn nói với Lai Sinh không phải là lựa chọn mà nghe giống lời hăm dọa, nguyền rủa hay thần chú hơn. Giống như Chúa Trời hỏi Adam và Eva rằng: Dù ăn trái cấm này sẽ bị đuổi khỏi Vườn Địa Đàng, các ngươi vẫn sẽ ăn ư? Lai Sinh sợ hãi. Hắn hoàn toàn không hiểu được lựa chọn này có nghĩa gì. Nhưng lão Chồn vẫn đang trừng trừng ngó vào mặt hắn như đợi câu trả lời. Ngươi sẽ ăn quả táo hay là không?
Rốt cuộc, Lai Sinh ngẩng đầu lên, đột ngột nắm chặt hai tay lại rồi bình tĩnh nói với vẻ mặt cương quyết. “Con sẽ đọc sách. Ông trả lại sách cho con đi.” Lão Chồn nghiến răng nhìn chằm chằm một lúc lâu thằng nhóc chín tuổi đang cố kìm nước mắt trước mặt mình rồi đưa lại quyển truyện cho nó.
Khi ấy, Lai Sinh cứng giọng bảo lão Chồn trả sách cho mình không phải vì khao khát đọc sách của hắn quá mãnh liệt hay vì hắn muốn tỏ ra cứng đầu với lão, mà bởi hắn chẳng biết gì về cuộc sống đầy sợ hãi và xấu hổ cả.
Lão Chồn quay đi rồi, Lai Sinh mới lấy mu bàn tay chùi những giọt nước mắt đang bắt đầu lăn xuống rồi cuộn tròn người trong cái ghế bập bênh bằng mây. Hắn nhìn căn phòng đọc sách có cửa sổ trổ về hướng Tây Bắc nên thường xuyên tối tăm của lão Chồn, cùng cái mê cung được tạo thành bởi những giá sách bụi bặm với cơ man nào là sách chất cao đến tận trần nhà theo lối phân loại phức tạp hết sức khó hiểu. Rồi hắn nghĩ xem tại sao việc mình đọc sách lại khiến lão Chồn tức giận đến vậy. Dù bây giờ đã ba mươi hai tuổi nhưng mỗi khi nhớ lại Lai Sinh vẫn không thể hiểu nổi tại sao một kẻ gần như cả đời chỉ ngồi ở một góc thư viện đọc sách như lão Chồn lại tức giận khi
thấy hắn, khi ấy mới là một đứa trẻ chín tuổi, đọc sách. Theo cảm nhận của một cậu nhóc chín tuổi thì chuyện đó thật hèn hạ, chẳng khác nào một người đã đầy kẹo trong túi lại đi cướp một viên kẹo mà người khác đang ngậm trong miệng.
“Lão khọm già tham lam, rủa lão tiêu chảy chết đi!” Lai Sinh nguyền rủa lão Chồn rồi lại đưa mu bàn tay lên chùi nước mắt. Rồi hắn lại mở sách ra. Sao có thể không mở sách ra được chứ. Giờ đây, với hắn, việc đọc sách không chỉ còn là hoạt động giải trí đơn thuần nữa. Đó là quyền lợi vĩ đại vốn dĩ phải có của một đứa trẻ chín tuổi đã vất vả lắm mới giành được sau khi bị tát vào má đau điếng, bị nguyền rủa và uy hiếp rằng sẽ phải sống một cuộc đời đầy xấu hổ và khổ sở. Lai Sinh đọc cảnh hoàng tử Paris ngu ngốc của thành Troy kéo cung, cảnh mũi tên rời khỏi dây cung bay đến chỗ Achilles - vị anh hùng của lòng hắn, cảnh mũi tên chết tiệt ấy cắm vào gót chân của Achilles. Không như hắn tưởng, Achilles không nhẹ nhàng rút mũi tên cắm ở gót chân ra rồi chạy đến phóng mũi giáo vào trái tim Paris mà chỉ chảy máu đến chết trên đồi Hisarlik, cả người Lai Sinh run lên bần bật. Điều tuyệt đối không thể xảy ra đã xảy ra. Chuyện này là sao chứ. Con trai của thần linh sao có thể chết được. Vị anh hùng có thân thể bất tử, không thể bị mũi tên nào giết chết, cũng không thể bị mũi giáo nào xuyên thủng, vậy mà lại bị gã hoàng tử ngu ngốc giết chết, hơn nữa còn chết như một kẻ ngốc vì không thể che chắn điểm yếu duy nhất nhỏ hơn cả lòng bàn tay của mình. Lai Sinh đọc đi đọc lại đến mấy lần cảnh Achilles chết. Nhưng không có câu nào nói rằng anh ta đã sống lại.
“Trời ơi, Achilles thực sự đã chết vì mũi tên của thằng ngốc Paris rồi.”
Lai Sinh ngồi thẫn thờ tại chỗ đến tận khi bóng tối dày đặc bao trùm phòng đọc sách của lão Chồn. Hắn không thể gào thét, cũng không thể nhúc nhích. Thỉnh thoảng lại có tiếng kẽo kẹt phát ra từ cái ghế bập bênh bằng mây. Những cuốn sách thấm đẫm màn đêm còn các giá sách kêu loạt soạt tựa lá khô. Chỉ cần vươn tay ra hắn sẽ chạm đến công tắc, nhưng Lai Sinh không hề nghĩ đến việc bật đèn. Như đứa trẻ bị nhốt trong hang động lúc nhúc côn trùng, hắn cứ run rẩy mãi trong bóng tối. Cuộc đời thật vô lý. Lẽ ra Achilles đừng có mặc giáp ở những chỗ không cần thiết mà phải đeo giáp thật cứng cho gót chân trái, nơi có điểm yếu trí mạng của mình chứ. Đồ ngốc, chẳng lẽ anh ta lại không biết cái điều mà một đứa trẻ chín tuổi cũng biết đó sao. Lai Sinh tức giận trước việc Achilles không thể che chắn điểm yếu nhỏ đó, và vì vậy, hắn không thể tha thứ cho cái chết của Achilles.
Lai Sinh khóc suốt trong bóng tối. Trong từng trang từng trang bao la của những cuốn sách thuộc thư viện này mà hắn phải đọc hoặc có lẽ sẽ đọc đều có những con người đang sống, có cả những vị anh hùng lẫn những thiếu nữ xinh đẹp đáng yêu và nhất là vô số người đã vượt qua khó khăn, nghịch cảnh để đạt được mục đích sống, vậy mà cuối cùng lại trúng tên của một thằng ngốc và chết chỉ vì không thể che giấu điểm yếu nhỏ duy nhất của mình. Lai Sinh kinh ngạc trước sự thật không thể tin nổi này. Vị trí mà bản thân đạt được, thân thể bất tử đang có, những thành tựu vĩ đại đều có thể tan biến trong tích tắc chỉ vì một sai lầm nhỏ.
Khoảnh khắc đó, nỗi ngờ vực khôn cùng về cuộc sống đã ập xuống Lai Sinh. Rồi một ngày ta sẽ mắc vào những cái bẫy mà bất hạnh đã giăng sẵn khắp đây đó. Rốt cuộc, những bất hạnh đủ sức đảo lộn toàn bộ cuộc sống, những lo lắng sợ hãi dai dẳng không chịu buông tha dẫu ta có giãy giụa cỡ nào cũng sẽ ụp lấy cuộc đời yên bình của ta. Lai Sinh có cảm giác kỳ lạ và khác thường rằng, tới một thời điểm nào đó, tất cả mọi thứ mà bản thân cố gắng nắm giữ sẽ sụp đổ, một cách hết sức mau chóng và vô cùng thiếu kịch tính. Đó là cảm giác vừa trống rỗng lại vừa buồn bã và vô cùng cô độc. Tối hôm đó Lai Sinh đã ngồi rất lâu trong thư viện của lão Chồn. Hắn cứ khóc mãi đến khi ngủ thiếp đi trên chiếc ghế bập bênh.
Lò hỏa táng thú cưng của ông Râu Xồm
“D
ạo này chán lắm. Chẳng có mấy việc, thế nên tôi cứ thiêu mấy con chó suốt thôi.”
Ông Râu Xồm ném mẩu thuốc đang hút dở xuống đất. Ông ta nặng hơn một trăm kí lô nên mỗi khi ngồi sụp xuống đũng quần trông lại như sắp toạc ra đến nơi. Lai Sinh không đáp lại ông Râu Xồm mà chỉ rút găng tay trong túi ra đeo. Ông ta vừa dựng thân thể nặng nề của mình dậy vừa phủi mông.
“Thật tình, gần đây còn có cả những kẻ thiếu ý thức đi chôn xác trên núi nữa cơ đấy. Cậu xem, chẳng phải quá đáng lắm sao? Dù cái xác do chính mình ra tay chăng nữa thì cũng phải lo hậu sự cho tử tế chứ. Thời đại nào rồi mà còn chôn xác trên núi chứ hả. Dạo này người ta còn chẳng chôn chó trên núi nữa là. Thế nên cứ mang máy xúc lên núi xúc là ra một đống xác. Cuộc đời này còn có cái gọi là đạo đức không vậy. Lấy dao đâm người ta một phát rồi cứ thế bỏ đi thì là hạng ăn cướp chứ sát thủ cái nỗi gì. Mà dạo này chôn xác chết trên núi cũng chẳng dễ đâu. Lần trước có mấy thằng ở Incheon kéo va li lên núi rồi bị tóm hết cả bọn đấy.”
“Bị tóm?” Lai Sinh hỏi.
“Chứ sao, nửa đêm nửa hôm ba thằng thanh niên mỗi thằng một xẻng kéo cái va li to đùng lên núi thì ai nhìn cũng đoán ra
thôi. Chẳng lẽ dân làng trông thấy lại nghĩ ‘Mấy thằng này vượt núi di cư giữa đêm muộn thế này à?’ Đúng là lũ ngốc. Vậy nên ý tôi là, nếu đằng nào cũng chôn trên núi thì chi bằng tới lò hỏa táng của tôi có phải tốt hơn không? Vừa an toàn, sạch sẽ lại bảo vệ môi trường nữa. Vả lại tôi cũng đang sắp chết đói vì không làm ăn được đây.”
Ông Râu Xồm vừa đeo găng tay vừa phàn nàn. Ông ta rất hay phàn nàn. Nhưng cái sự phàn nàn của người đàn ông có thân hình đồ sộ ngang con đười ươi này lại dễ thương như chú gấu Pooh vậy. Có lẽ bởi vì ông Râu Xồm trông giống gấu Pooh, hoặc ngược lại. Ông Râu Xồm làm nghề hỏa táng thi thể bất hợp pháp. Dĩ nhiên trên danh nghĩa hợp pháp thì ông ta hỏa táng thú cưng. Tại lò hỏa táng thú cưng này, ông Râu Xồm thiêu chó mèo hợp pháp và thiêu xác người bất hợp pháp. Tại sao khuôn mặt của kẻ thiêu người chết trông lại dễ thương đến thế nhỉ?
“Trời ơi, mới cách đây không lâu còn có một đôi trẻ măng mang kỳ đà đến hỏa táng chứ. Tên nó là Andrea hay Andrew ấy nhỉ? Kỳ đà gì mà lại tên là Andrew chứ. Có đầy tên vừa hay vừa dễ gọi như Bobby gì đó cơ mà. Thế mà hai đứa đấy lại đi đặt cái tên như thế. Nhưng mỗi chuyện con kỳ đà chết thôi mà hai vợ chồng nhà nó cứ ôm chặt lấy nhau khóc than ‘Xin lỗi mày Andrew ơi, đáng lẽ phải cho mày ăn đúng giờ, Andrew à bọn tao có lỗi với mày’. Tôi đứng bên cạnh mà xấu hổ thay.”
Ông Râu Xồm liên tục kể chuyện phiếm. Lai Sinh vừa mở cửa kho vừa lơ đãng lắng nghe.
“Dùng xe kéo nào đây ạ?” Hắn hỏi.
Ông Râu Xồm ngó quanh rồi trỏ chiếc xe kéo ở phía trong.
“Cái này ạ?” Lai Sinh hỏi.
Ông Râu Xồm ước lượng bằng mắt rồi gật đầu.
“Ừm, chừng đó là đủ rồi. Có phải là di chuyển con bê đâu. Cậu đỗ xe ở chỗ nào?”
“Đằng sau lò hỏa táng.”
“Sao lại đỗ ở xa thế. Kéo được cái xác về đây cũng hết hơi.” Ông Râu Xồm lững thững kéo cái xe đi. Bước chân của ông ta lạc quan và chậm chạp. Lai Sinh vẫn luôn ghen tị với những bước chân không chút lo lắng hay tham lam của ông Râu Xồm. Ông ta không tham vọng, cũng không hành động hấp tấp dù có nhiều vụ làm ăn lớn. Ông ta chỉ vận hành lò hỏa táng thú cưng này và tích cóp từng chút tiền một. Nhờ nghề thiêu xác mà ông ta nuôi lớn hai cô con gái. Cô cả vừa mới vào đại học. “Ăn ít thì mới được lâu dài. Nếu muốn chăm lo cho bọn trẻ thì phải chịu đựng thêm vài năm nữa.” Ông Râu Xồm rất cẩn trọng. Dù kẹt tiền đến đâu ông ta cũng không bao giờ nhận những món hàng đáng ngờ. Vậy nên ông ta mới sống được lâu trong thế giới ngầm có tuổi thọ trung bình thấp đến phi lý này.
Lai Sinh mở cốp xe. Ông Râu Xồm nghiêng đầu nhìn hai cái túi chống thấm nước màu đen ở trong cốp và hỏi. “Sao lại có hai túi? Lão Chồn bảo chỉ có một thôi mà.” “Một người, một chó.” Lai Sinh đáp.
“Túi này là chó à?”
Ông Râu Xồm vừa hỏi vừa chỉ vào cái túi nhỏ.
“Đó là người. Túi to mói là chó.”
“Chó gì mà lại to hơn người chứ?”
Như thể không tin lời Lai Sinh, ông Râu Xồm mở cái túi ra. Bên trong là con chó già Santa. Giữa miệng khóa kéo hiện ra cái lưỡi thè dài rũ xuống của con chó.
“Chết tiệt, giờ cái quái gì cậu cũng mang tới đây cả. Sao cậu lại giết nó? Bộ nó cắn bi của cậu hay sao hả?”
“Tại cháu thấy nó đã quá già để được chủ mới nhận nuôi thôi.” Lai Sinh bình thản đáp.
“Cậu nhiều chuyện thật đấy. Thay vì lo cho con chó hãy lo cho thân mình đi. Chúng ta bây giờ không rảnh mà thương vay đến cả chó được đâu.” Ông Râu Xồm châm chọc.
Lai Sinh kéo khóa túi lại rồi lưỡng lự một lát. Tại sao hắn lại giết con chó nhỉ. Con chó đứng thẫn thờ bên cạnh ông chủ đã ngã gục. Lai Sinh nhìn con chó già, lưng quay về phía mặt trời. Nó cũng nhìn hắn trân trân. Ánh nắng tràn vào trong hai đồng tử màu nâu mờ đục của con chó. Nó không hề gầm gừ hắn, chỉ lấy làm lạ rằng tại sao chủ nhân của mình không cử động. Lai Sinh nhìn chằm chằm vào con chó đã quá già để học cách sinh tồn mới. Mặt trời cuối thu tỏa nắng ngay trên đỉnh đầu hắn. Giờ thì trong khu rừng xinh đẹp và yên tĩnh này sẽ chẳng còn ai cho ngươi ăn nữa. Mà ngươi cũng chẳng còn trẻ trung sung sức để chạy vào sâu trong núi kiếm ăn rồi. Có hiểu ta nói gì không? Con chó già chỉ thẫn thờ nhìn Lai Sinh bằng đôi mắt nâu mờ đục và buồn bã. Hắn vuốt ve gáy con chó rồi cầm súng lên bắn vào đầu nó.
“Ông già mà cũng nặng phết đấy.”
Ông Râu Xồm vừa nói vừa túm lấy một bên túi.
“Đã bảo túi này là chó. Túi kia mới là người.” Lai Sinh bực bội cãi.
Ông Râu Xồm nghiêng nghiêng đầu như thể vẫn nhầm lẫn. “À, chó với má, nặng thật.”
Khi đặt hai cái xác lên xe kéo, ông Râu Xồm lại nhìn ngó xung quanh theo thói quen. Lò hỏa táng thú cưng lúc hai giờ sáng thật yên tĩnh. Nghĩ lại thì yên tĩnh là chuyện đương nhiên. Chẳng có ai lại đi hỏa táng thú cưng vào lúc hai giờ sáng cả.
Ông Râu Xồm mở van ga rồi châm lửa. Ngọn lửa vừa lan tỏa bên trong lò, cái túi đen làm bằng ni lông lập tức bị tróc ra như rắn lột da. Bóng dáng ông già và con chó hiện ra ngay khi cái túi cháy hết. Ông già nằm thẳng còn con chó già đang gối đầu lên bụng ông ta. Khi khói lấp đầy bên trong lò, những thớ thịt bị kéo dãn và chỉ trong giây lát thi thể của ông già đã trở nên rúm ró. Cảnh tượng đó trông thật đau lòng, cứ như thể ông ta vẫn đang cố nắm lấy thứ gì đó trên trần gian này. Ông ta còn có thể nắm được thứ gì đây. Tất cả đã kết thúc rồi. Hai tiếng nữa ông ta sẽ chỉ còn là một đám bụi. Mà bụi thì chẳng thể nắm lấy cái gì cả.
Lai Sinh nhìn chằm chằm vào cái xác rúm ró của ông già. Hồi còn trong quân đội ông ta từng là một vị tướng. Ở hậu trường của quyền lực thì ông ta là người lên danh sách ám sát và cũng là người thuê sát thủ tại thư viện của lão Chồn bằng tiền thuế của nhân dân. Và bây giờ tên của chính ông ta cũng đã được đưa vào danh sách. Đời là thế mà. Một lúc nào đó những ngày tháng tươi đẹp cũng sẽ kết thúc và để sống sót, thế lực đã thất thế sẽ phải
dọn dẹp cặn bã cùng những thủ đoạn mình đã bày ra. Thời gian luôn xoay tròn và đâm sau lưng như thế.
Mặc quân phục chỉnh tề, ông già tìm đến thư viện của lão Chồn hồi Lai Sinh mới mười hai tuổi. Bộ quân phục của ông ta rất đẹp. Ông ta đã đến bên bắt chuyện với Lai Sinh. “Cháu đọc gì vậy?”
“Sophocles ạ.”
“Hay không?”
“Vì cháu không có bố nên hoàn toàn chẳng hiểu gì cả.” “Bố cháu đâu?”
“Cháu ở trong thùng rác trước tu viện ạ.”
Vị tướng có hai ngôi sao lấp lánh trên mũ mỉm cười xoa đầu Lai Sinh. Đó là chuyện của hơn hai mươi năm trước. Cậu bé Lai Sinh hồi đó vẫn còn nhớ khoảnh khắc ngắn ngủi ấy nhưng có lẽ ông già thì không.
Lai Sinh rút một điếu thuốc đưa lên miệng. Ông Râu Xồm châm lửa cho hắn rồi cũng lấy một điếu cho mình. Ông ta vừa nhả khói vừa huýt sáo nhại tiếng chim. Rồi ông ta đủng đỉnh đi ra ngoài lò hỏa táng, vừa đi vừa kiểm tra xung quanh lần nữa để chắc chắn không có ai đến. Lai Sinh vẫn dõi mắt nhìn thi thể ông già và con chó, giờ đây đã rúm lại chỉ còn là hai tảng thịt giữa ngọn lửa của lò hỏa táng.
Rất nhiều kẻ ngốc lầm tưởng rằng phải tự tay thiêu xác thì mới được coi là sát nhân hoàn hảo. Bọn họ xách một thùng xăng tới chỗ đồng không mông quạnh định trực tiếp thiêu cái xác. Nhưng thiêu xác đâu có đơn giản như họ tưởng. Vậy nên sau khi
châm lửa vào cái xác như một trò đùa, họ sẽ để lại trên cánh đồng tảng thịt biến dạng kinh khiếp bốc mùi hôi thối. Và từ tảng thịt đó các bác sĩ pháp y sẽ khám nghiệm ra tình trạng răng, ngoại hình, khuôn mặt, chiều cao, giới tính, tuổi của xác chết và tìm ra danh tính người đó. Muốn đốt cháy hoàn toàn một xác chết thì phải thiêu hơn hai tiếng đồng hồ ở nhiệt độ cao trên một nghìn ba trăm độ trong một cái lò được bịt thật kín. Rất khó tìm được nơi nào tỏa ra nhiệt lượng cao như vậy nếu không phải là lò hỏa táng, lò đốt than hoặc lò nung gốm, lò của nhà máy luyện kim. Bởi vậy mà lò hỏa táng của ông Râu Xồm mới kiếm ăn được. Việc nghiền nát xương cũng rất quan trọng. Bác sĩ pháp y hoàn toàn có thể suy ra phương pháp gây án cũng như chiều cao, giới tính, tuổi của cái xác chỉ bằng vài ba mảnh xương chậu. Cũng cần phải cẩn thận với răng và tro cốt. Bởi ở tro cốt đã bị nghiền vụn vẫn còn lưu rất nhiều manh mối và răng thì vẫn duy trì được những đặc tính vốn có ngay cả trong điều kiện khắc nghiệt như hỏa hoạn. Phải đập vỡ răng bằng búa và rải tro cốt một cách cẩn thận. Có như vậy thế gian mới không thể phát hiện ra cái chết của kẻ đó.
Lai Sinh lại rút ra một điếu thuốc nữa và nhìn đồng hồ. Hai giờ mười phút. Phải đến sáng hắn mới kết thúc công việc và có thể về nhà được. Cơn mệt mỏi đột ngột dội xuống vai và cổ hắn. Một đêm ở trên đường, một đêm ở nhà ông già, một đêm ở lò hỏa táng thú cưng của ông Râu Xồm. Hắn đã trải qua ba đêm ở ngoài. Hẳn là đồ ăn cho lũ mèo hết mất rồi… Lai Sinh nghĩ đến hai con mèo Xiêm đói bụng ở căn phòng tối tăm của hắn. Giá Đỡ Sách và Đèn Bàn. Đó là tên của lũ mèo. Hai con mèo giống tên của chúng một cách kỳ quặc. Giá Đỡ Sách thích cuộn người
thành hình ổ bánh mì và im lặng nhìn mẩu giấy vệ sinh trên sàn, còn Đèn Bàn thì thích nghển cổ nhìn ra ngoài cửa sổ. Ông Râu Xồm cho mấy củ khoai tây luộc vào giỏ rồi mang đến đưa cho Lai Sinh một củ. Thật tình cờ, lại là khoai tây. Sáu củ khoai ông già đưa cho hắn sáng hôm qua vẫn còn nguyên trên xe. Lai Sinh lắc đầu dù đang đói bụng. “Sao lại không ăn? Khoai tây vùng Kangwondo ngon lắm đấy.” Ông Râu Xồm vừa nghiêng đầu như thể không hiểu tại sao hắn không ăn món ngon nhường này vừa bỏ nguyên một củ khoai vào miệng nhồm nhoàm nhai. Rồi ông ta tu ừng ực hết nửa chai rượu mang theo. “Tôi đã thiêu lão già Kim cách đây không lâu.” Ông Râu Xồm vừa nói vừa đưa mu bàn tay lên chùi rượu dính ở mép. “Lão Kim đồ tể ấy ạ?” Lai Sinh hỏi.
“Ừ.”
“Là ai làm vậy?”
“Hình như Doo Ho dắt mấy đứa Việt Nam đến xử. Dạo này bọn nó hay thuê người Việt Nam, vì tiền công rẻ lắm. Mà đâu phải chỉ mỗi người Việt Nam. Có cả bọn Trung Quốc, rồi mấy thằng đào tẩu người Triều Tiên xuất thân từ lực lượng đặc biệt, cả mấy thằng người Philippines nữa. Thật sự, có đứa nhận giết người chỉ với 50.000 won thôi đấy. Dạo này giá thuê sát thủ rẻ như bèo nên tất cả đều cạnh tranh ghê gớm lắm. Lão Kim hồi làm phản chắc cũng đã biết mình sẽ chẳng cầm cự được bao lâu.”
Lai Sinh phả ra một hơi khói thuốc dài. Ông Râu Xồm chẳng cần phải than vãn về tiền công bèo bọt của sát thủ làm gì. Dù là do người Việt Nam hay người Philippines giết, càng có nhiều xác chết thì ông ta càng lời. Ông ta chỉ đang nịnh hót hắn thôi. Ông
Râu Xồm cắn một miếng khoai tây, nhấp một ngụm rượu, rồi thình lình ông ta cất tiếng như thể sực nhớ ra điều gì. “Mà có chuyện này kỳ lạ lắm. Lúc thiêu xác lão Kim xong tôi thấy còn sót lại những hạt lấp lánh như viên bi. Tôi xem thử thì hóa ra là hạt xá lợi. Có đến mười ba hạt nhỏ bằng hạt đậu ấy.” “Chú nói gì vô lý vậy? Sao trên người lão Kim lại có hạt xá lợi được?” Lai Sinh hỏi lại bằng giọng hồ nghi.
“Thật mà. Tôi cho cậu xem nhé?” Ông Râu Xồm nói với vẻ mặt ấm ức.
“Thôi khỏi ạ.” Lai Sinh phẩy tay ra điều phiền phức. “Thật mà. Lúc đầu tôi cũng không tin đâu. Biệt danh của lão Kim là gì chứ. Không phải là Kim Ô kê gì cũng ăn đấy sao. Lão ăn ở như nào mới chết thế chứ. Thế mà không hiểu sao từ người lão khốn ấy lại lòi ra hạt xá lợi, đã vậy còn… để xem… những mười ba hạt… Theo tôi thì hạt xá lợi chẳng liên quan gì đến việc sống điều độ, ăn chay hay tu hành đâu. Ai may thì có, hên xui như xổ số vậy thôi.”
“Thứ đó thực sự là hạt xá lợi à?” Lai Sinh hỏi, vẻ mặt vẫn ngờ vực.
“Đúng là xá lợi mà.” Ông Râu Xồm vừa nói lớn vừa lắc lư hai vai với điệu bộ phóng đại. “Tôi có cho sư Hyecho ở am Nguyệt Đinh trên kia xem, ông ta chắp tay sau lưng xem xét lâu lắm, thế này này. Thế rồi ông ấy chép miệng bảo tôi bán cho ông ta đi.”
“Tại sao sư Hyecho ở am Nguyệt Đinh lại cần hạt xá lợi của lão Kim chứ?”
“Thì lão sư đó lăng nhăng, thích cờ bạc, lại còn rượu chè suốt ngày mà. Đã thế lại còn tham. Ông ta đang ngấm ngầm lo lắng sau này làm lễ Trà tỳ mà xá lợi không xuất hiện thì mọi người sẽ xì xào bàn tán mất. Ông ta mà có sẵn xá lợi của lão Kim trong tay xem. Chẳng phải nếu nuốt chúng trước khi chết thì ít nhất sau khi thiêu cũng lòi ra được mười ba hạt xá lợi à?”
Lai Sinh phì cười. Ông Râu Xồm lại nhồm nhoàm nhai một củ khoai tây nữa, rồi lại nhấp một ngụm rượu. Ông ta chìa ra cho hắn một củ khoai, dường như thấy có lỗi vì ăn một mình. Lai Sinh nhìn củ khoai nằm trên bàn tay to lớn của ông Râu Xồm, trong một khoảnh khắc bỗng nhớ lại từng lời mà ông già đã nói, cả những củ khoai tây vùi trong tro, miếng thịt lợn trên củi đang cháy, con chó già và những bông hoa. “Có khách quý đến nên phải thật ngon đấy nhé.” Giọng ông già trầm thấp và đơn điệu. Lai Sinh nghĩ có lẽ vì ông ta cô độc. Hắn cố nghĩ đó là bởi cuộc đời của ông ta quá cô đơn, như cây mùa đông đã trụi lá, chỉ còn trơ lại những cành như mạch máu. Ông Râu Xồm vẫn đang chìa củ khoai tây ra. Đột nhiên hắn thấy đói bụng. Lai Sinh nhận lấy củ khoai rồi cắn một miếng. Hắn vừa trệu trạo nhai vừa im lặng nhìn ngọn lửa trong lò thiêu. Hai cái xác bị khói lửa bao trùm nên giờ đây không thể phân biệt đâu là ông già đâu là con chó nữa.
“Ngon chứ?” Ông Râu Xồm hỏi.
“Ngon ạ.” Lai Sinh vừa nhai vừa đáp.
“Mà này, sao học phí đại học lại đắt đỏ thế nhỉ? Con gái lớn nhà tôi vừa vào đại học, cậu cũng biết rồi đấy. Phải thiêu năm cái xác mới đủ tiền đóng học phí với tiền thuê nhà trọ đấy. Mà mùa
này thì kiếm đâu ra năm cái xác cơ chứ. Do kinh tế suy thoái hay do thế giới này ngày càng trở nên khỏe mạnh thế nhỉ. Thật sự là không được như xưa nữa. Cứ thế này thì người như tôi làm sao mà kiếm ăn đây.”
Ông Râu Xồm nhăn mặt như thể tức giận đến hết chịu nổi với cái thế giới quá khỏe mạnh này.
“Chú hãy nghĩ đến hai cô con gái xinh đẹp mà sống tử tế từ bây giờ đi. Chăm chỉ thiêu mấy con thú cưng một cách lành mạnh nữa.”
“Thú cưng đâu có hái ra tiền. Tiền hỏa táng thì nhận theo cân mà dạo này thú cưng càng ngày càng bé như chuột ấy. Ôi chao, thật cạn lời. Trừ tiền ga, tiền thuế, tiền điện, trừ hết khoản này khoản nọ thì để ra được bao nhiêu chứ? Giá mà thế giới này nuôi hươu cao cổ hay voi làm thú cưng thì tốt biết mấy. Vậy thì ông Râu Xồm này thành đại gia xừ rồi.”
Ông Râu Xồm lắc cái chai rồi nốc nốt chỗ rượu cạn dưới đáy. Rồi ông ta vươn vai với bộ mặt thực chán đời chết đi được. “Tôi bán nhé?” Ông Râu Xồm đột ngột hỏi.
“Gì cơ ạ?”
“Cậu thật là, hạt xá lợi của lão Kim chứ còn gì nữa.” “Chú cứ bán đi, giữ lại cũng có làm gì đâu.” Lai Sinh hơi khó chịu.
“Lão sư kia bảo trả tôi 30.000 won, nhưng chẳng hiểu sao tôi cứ có cảm giác bị lỗ. Dù sinh ra từ cơ thể rác rưởi của lão Kim nhưng trên danh nghĩa vẫn là hạt xá lợi mà.”
“Chú vẫn coi chúng là xá lợi à?” Lai Sinh giễu.
“Hay tôi bảo lão ta trả thêm 20.000 won nữa thành 50.000 won nhé?”
Lai Sinh không đáp nữa. Hắn đang mệt và không có tâm trạng tung hứng cợt nhả với ông Râu Xồm. Thấy Lai Sinh im lặng nhìn ngọn lửa, ông Râu Xồm gượng gạo lắc cái chai rỗng rồi đi lấy thêm một chai rượu nữa.
Khói trắng liên tục phun ra từ ống khói. Mỗi khi thiêu xác ở đây Lai Sinh lại có suy nghĩ vô lý rằng linh hồn của những người đã chết đang thoát ra qua cái ống khói kia. Rất nhiều kẻ giết thuê đã bị thiêu bằng cái lò đó. Nơi đây là nấm mồ của những sát thủ bị vứt bỏ. Những sát thủ phạm sai lầm, bị cảnh sát theo dõi, những sát thủ có tên trong danh sách vì lý do gì đó không ai biết và cả những sát thủ già cũng đều bị thiêu trong lò hỏa táng đó.
Đối với những kẻ bày mưu thì lính đánh thuê và sát thủ cũng giống như đồ dùng một lần. Thực ra thì bọn họ cần những sát thủ già làm gì cơ chứ. Đối với những kẻ bày mưu, đám sát thủ già chẳng khác nào những vết phồng rộp khó xử lý chứa đầy chứng cứ và thông tin không cần thiết. Kể ra thì đó cũng là chuyện đương nhiên thôi. Trên đời này làm gì có ai giữ gìn cẩn thận những cục pin dùng đã chai.
Lai Sinh từng thiêu xác Chu, bạn lâu năm của hắn ở lò hỏa táng này. Chu hơn hắn tám tuổi nhưng cả hai rất thân thiết. Từ sau khi thiêu Chu ở đây, Lai Sinh cảm thấy cuộc đời hắn có gì đó đã bắt đầu thay đổi. Những thứ quen thuộc bỗng một ngày đột ngột trở nên lạ lẫm. Hắn có cảm giác không tự nhiên về cái bàn, lọ hoa, chiếc xe hơi và cả tấm bằng lái giả của hắn. Sự lạ lẫm ấy vô cùng bất chợt. Lai Sinh đã từng có lần đích thân đi tìm người
đàn ông trong tấm bằng lái giả của mình. Nghe nói anh ta là một thợ hàn lành nghề và chăm chỉ, là ông bố chu đáo của ba đứa con, và đã mất tích tám năm trước. Có lẽ vì lý do gì đó mà tên anh ta đã xuất hiện trong danh sách của những kẻ bày mưu. Thi thể của người thợ hàn chu đáo đó hẳn đã bị chôn sâu trong núi hoặc bị nhét vào thùng phuy và quẳng xuống biển. Hoặc có khi đã bị thiêu ở lò hỏa táng này của ông Râu Xồm cũng nên. Đã tám năm trôi qua nhưng gia đình đó vẫn chờ đợi ông bố chu đáo ấy trở về. Lai Sinh vừa lái xe quay về vừa tự giễu bản thân “Vậy là một cái xác đang lái xe của mình đến tận bây giờ cơ đấy.” Cảm giác sống như xác chết, cảm giác mình đã trở thành thây ma. Thực sự mà nói, khá là lạ lẫm.
Chu chết hai năm trước. Chu cũng là sát thủ giống Lai Sinh, nhưng khác hắn ở chỗ anh ta không thuộc bất kỳ nơi nào mà vừa làm việc vừa phiêu bạt khắp chốn. Trong giới mafia có một câu cách ngôn rằng “Kẻ địch nguy hiểm nhất chính là thằng điên”. Kẻ nghĩ bản thân chẳng có gì để mất, kẻ không trông cậy vào người khác và cũng không đòi hỏi gì cho mình, kẻ có lối hành động khó hiểu theo lẽ thường, kẻ âm thầm sống theo những nguyên tắc kỳ lạ và cố chấp vừa khó hiểu vừa khó tin mà bản thân đặt ra chính là người dù phải đối mặt với một thế lực to lớn đến đâu cũng không dễ dàng sợ hãi. Chu chính là người như vậy.
Như câu cách ngôn vàng ngọc kia của giới mafia, không nên khơi mào xung đột với kẻ điên. Đôi co với kẻ cho rằng mình chẳng có gì để mất là việc rất khó khăn. Trái lại gây chuyện với những kẻ bị dồn vào đường cùng vì không muốn mất đi thứ gì đó lại dễ hơn nhiều. Bọn họ là con mồi ưa thích nhất của những
kẻ bày mưu. Vì một mực không chịu thừa nhận mình không thể giữ được điều mình muốn giữ mà kết cục bọn họ đều bỏ mạng. Nhưng Chu thì khác. Chu muốn chứng minh rằng khi bản thân không ham muốn bất kỳ thứ gì thì thế giới này dù hùng mạnh và cuồng bạo đến đâu cũng chẳng thể làm gì được anh ta.
Chu là người khó chịu nhưng phương pháp làm việc của anh ta gọn gàng và không thừa thãi nên lão Chồn thường giao cho anh ta những việc khó. Lão ta cũng muốn Chu làm việc cho thư viện của mình. “Sư tử mà rời khỏi bầy thì cũng thành mồi cho chó hoang thôi.” Lão từng bóng gió nói với Chu như thế. Ngay lập tức anh ta nhìn lão Chồn bằng vẻ mặt vô cùng giễu cợt và đáp lại rằng “Tôi không muốn sống lâu một cách thảm hại như ông đâu.” Chu là người như thế.
Dù không thuộc bất cứ nơi nào nhưng Chu đã làm sát thủ được hai mươi năm. Trong suốt hai mươi năm đó anh ta đã làm tất cả mọi việc dơ bẩn, phục vụ từ cơ quan nhà nước, công ty tới hội đâm thuê chém mướn hạng ba mà không hề kén chọn. Hai mươi năm, đối với một sát thủ thì anh ta đã sống được khá lâu.
Nhưng vào một ngày nọ bốn năm trước, động cơ tự động của Chu đã ngừng. Không ai biết tại sao chuyện đó lại xảy ra. Chu nói với Lai Sinh rằng thậm chí ngay chính anh ta cũng không hiểu tại sao việc đó lại xảy đến với mình, tại sao động cơ tự động đã chạy không ngừng nghỉ một giây nào suốt hai mươi năm qua lại dừng đột ngột vào đúng lúc đó. Chu đã cứu sống mục tiêu mình phải ám sát. Cô ta chỉ là một gái gọi cao cấp hai mươi mốt tuổi. Không lâu sau xuất hiện bài báo đưa tin nghị viên K nhảy từ sân thượng xuống tự sát sau khi bị dồn vào đường cùng vì quá
nhiều vụ tai tiếng như bê bối tình dục với nữ sinh trung học, nhận hối lộ, lợi dụng chức vụ.
Kẻ khốn nạn quan hệ với nữ sinh trung học ấy không lý nào lại tự sát để bảo toàn thứ danh dự vốn đã là rác rưởi của bản thân. Có lẽ tất cả những kẻ bày mưu khi đọc bài báo đó đều ngay lập tức nghĩ đến Chu. Anh ta không chỉ dừng lại ở đó mà còn định tìm giết cả kẻ bày mưu đã thuê người giết cô gái, nhưng thất bại trong việc truy tìm tung tích kẻ đó. Việc đó không hề dễ dàng ngay cả với người tài giỏi như Chu. Chưa kể khi ấy anh ta đã bị đuổi. Hơn nữa, so với việc lập kế hoạch ám sát, những kẻ bày mưu luôn dày công chuẩn bị sẵn một lối thoát hiểm cũng như một nơi ẩn náu bí mật và an toàn cho bản thân hơn.
Thế giới của những kẻ bày mưu là một cartel* khổng lồ. Bọn họ nhất định trừ khử Chu không phải vì tự tôn của bản thân. Những thứ như lòng tự trọng ngay từ đầu vốn đã không hề tồn tại trong thế giới này. Bọn họ tìm mọi cách giết Chu là để giữ khách. Giống như mọi xã hội khác, thế giới của những kẻ bày mưu cũng có quy tắc và trật tự nghiêm ngặt của riêng nó. Thị trường được hình thành dựa trên những quy tắc và trật tự đó, rồi khách hàng tìm đến. Nếu trật tự bị phá hủy thì thị trường cũng sụp đổ, và khi đó, sẽ chẳng còn khách hàng nào nữa. Chu cũng biết rõ. Việc anh ta quyết tâm cứu cô gái đó đồng nghĩa với tự sát. Nhưng Chu vẫn liều chết để cứu một gái điếm bất hạnh.
Chưa đầy hai tháng sau, đám tai mắt của hội đâm thuê chém mướn tìm được cô gái mà Chu đã cứu. Cô ta đang lẩn trốn ở một thành phố cảng. Gái gọi cao cấp từng chỉ tiếp khách VIP ở những khách sạn sang trọng này đang vừa lang thang quanh những khách sạn bốc mùi trước ga vừa bán thân cho những thủy thủ.
Nếu cô ta tới trốn ở nơi nào đó như nhà máy thay vì khu đèn đỏ thì có lẽ đã thoát khỏi sự theo dõi của bọn chúng lâu hơn một chút. Nhưng cuối cùng cô ta lại quay về nơi dơ bẩn và bốc mùi đó. Hẳn cô ta đã hết tiền. Vì không thể mang theo bất cứ thứ gì từ Seoul nên cô ta không có cả quần áo lẫn chỗ ngủ. Hơn nữa lại đang là mùa đông. Khi khổ sở vì cái lạnh và cơn đói con người sẽ trở nên vô cảm với nỗi sợ hãi trừu tượng. Chắc cô ta đã nghĩ không chết kiểu này thì cũng chết kiểu khác thôi. Chẳng biết có nên nói cô ta ngốc nghếch hay không. Cũng không thể nói rằng việc cô ta làm gái điếm rẻ tiền ở ngoại ô thành phố cảng là hay ho. Nhưng quả thực cô ta đã chẳng còn lựa chọn nào khác. Chỉ cần nhìn bàn tay cô ta là đủ hiểu. Bàn tay đẹp và mảnh mai. Có lẽ đôi bàn tay ấy chưa từng một lần tưởng tượng ra cuộc sống vặn đinh ốc mười tiếng đồng hồ liên tục ở trước băng chuyền xoay tròn hay thu hoạch hàu hoặc rong biển trên biển mùa đông. Nếu sinh ra trong gia đình khá giả thì chắc cô ta đã trở thành nghệ sĩ piano. Nhưng đáng tiếc cô ta đã không được sinh ra trong gia đình khá giả nào và đã phải làm gái điếm kiếm tiền từ năm mười lăm tuổi.
Cô gái cũng biết rõ nếu quay về khu phố đèn đỏ thì sẽ chẳng thể sống được lâu. Biết vậy nhưng cô ta vẫn quay lại. Cuối cùng thì ta vẫn không thể rời khỏi mảnh đất mà mình từng đặt chân, dù nó thật kinh tởm và dơ bẩn. Không tiền, không đường kiếm sống cũng là một nguyên nhân, tuy nhiên không phải là tất cả. Ta quay lại mảnh đất bẩn thỉu ấy bởi ta đã quen với sự bẩn thỉu. Bởi ta quen chịu đựng sự bẩn thỉu hơn là chịu đựng nỗi sợ hãi khi bị vứt lại một mình ngoài thế giới mênh mông hoang vắng kia với nỗi cô đơn sâu hoắm.
Ngay khi nhận được tài liệu từ kẻ bày mưu, lão Chồn liền gọi Lai Sinh. Bước vào phòng đọc sách của thư viện, Lai Sinh thấy lão Chồn đang ngồi đọc tài liệu ở bàn. Có lẽ đó là tập tài liệu chứa mọi thông tin cần thiết cho việc sát hại cô gái như ảnh chụp, địa chỉ, hành tung, sở thích, cân nặng, những người có quan hệ với cô cũng như cả phương pháp giết người và cách xử lý thi thể.
“Nghe nói cô ta nặng không quá ba mươi tám kí lô. Bẻ gãy cổ là được. Dễ như giẫm chết con ếch thôi. Việc cỏn con này mà cũng gọi là bày mưu.”
Lão Chồn nói mà không nhìn vào mắt Lai Sinh, đoạn lão chìa mà như quăng cho hắn một phong bì. Dễ như giẫm chết con ếch ư? Lai Sinh nghiêng đầu. Buông ra một lời bông đùa nhạt nhẽo là cách ăn nói mỗi khi muốn che giấu sự khó xử của lão Chồn. Không thể biết được lúc này lão thấy xấu hổ vì phải giết một cô gái hai mươi mốt tuổi nặng không quá ba mươi tám kí lô, hay là lão cảm thấy tổn thương lòng tự trọng vì dẫu thư viện đã sa sút thì phải nhận giết cả một ả điếm rẻ tiền thế này cũng thật lố bịch.
Lai Sinh đọc qua tài liệu. Cô gái trong ảnh nhìn giống một thần tượng Nhật Bản. Tuy hai mươi mốt tuổi nhưng trông cô trẻ như chưa đến mười lăm. Trước đó Lai Sinh chưa từng giết phụ nữ. Dĩ nhiên chẳng phải là hắn có nguyên tắc gì đó đại loại như không giết phụ nữ và trẻ em. Lai Sinh chưa giết người phụ nữ nào chẳng qua chỉ vì chưa đến lượt hắn phải giết. Đối với Lai Sinh thì chẳng có nguyên tắc nào cả. Không có nguyên tắc. Đó là nguyên tắc duy nhất của hắn.
“Làm gì với cái xác ạ?” Lai Sinh hỏi.
“Dĩ nhiên phải thiêu ở lò của ông Râu Xồm rồi. Chứ chẳng lẽ lại treo ở quảng trường Gwanghwamun?” Lão Chồn bực bội. “Khoảng cách từ thành phố M đến tận lò thiêu của ông Râu Xồm khá xa đấy. Nhét vào cốp xe mà bị kiểm tra thì…” Lai Sinh ngập ngừng.
“Không uống rượu và lái xe ngoan ngoãn như mèo thì cảnh sát nào thèm kiểm tra? Cái thế giới này bận rộn lắm.” Giọng lão Chồn lạnh nhạt. Lão thường tỏ ra lạnh lùng khi muốn che giấu sự tức giận của mình. Thấy Lai Sinh vẫn đứng ngây người, lão Chồn liền phẩy tay ý bảo hắn cút đi. Rồi lão đứng dậy, rút một quyển trong bộ Từ điển bách khoa Brockhaus bản in đầu từ trên giá sách xuống đặt lên giá đỡ sách. Lão bắt đầu lẩm bẩm đọc quyển từ điển bách khoa như thể chẳng thèm bận tâm đến Lai Sinh đang đứng lù lù trước mặt. Thứ tiếng Đức được phát âm nửa thành thục nửa gượng gạo vang khắp phòng đọc. Lai Sinh vừa mở cửa đi ra vừa lẩm bẩm “Người Đức không nghe hiểu được câu nào đâu.”
Bây giờ lão Chồn chỉ để tuyền từ điển trên giá sách của mình. Theo những gì Lai Sinh nhớ thì trong mười năm gần đây ngoài từ điển ra lão không đọc sách gì khác. “Từ điển là thứ rất tốt. Không ủy mị, không buồn bã cũng chẳng giáo điều và trên hết là không dung chứa sự kiêu ngạo tởm lợm của bọn nhà văn.” Đó là lý do Lão Chồn chỉ đọc từ điển bách khoa.
Thành phố cảng mà cô gái đang lẩn trốn tồi tàn như một con gà bị bệnh. Thành phố từng có thời rất thịnh vượng nhờ cung ứng quân nhu trong thời kỳ thuộc địa này dường như đang liên tục sa sút. Thậm chí giờ đây trông nó có vẻ không còn sức để ngăn chặn sự sa sút ấy nữa. Sau khi xuống xe buýt liên tỉnh, Lai Sinh đi thẳng đến bãi đỗ của bến xe. Rồi hắn tìm xe có biển số 2847. Đó là một chiếc Musso cũ nằm ở cuối bãi. Lai Sinh rút chìa khóa trong túi ra mở cửa rồi leo lên xe. Đèn báo xăng sáng lên ngay khi hắn khởi động xe.
“Ầy, thằng khốn này còn không thèm đổ xăng cho nữa.” Lai Sinh cười chán nản, không khỏi bực mình với kẻ bày mưu ngu ngốc mà hắn không biết đang ở đâu hay trông thế nào. Lai Sinh đỗ xe ở hầm đỗ xe của nhà trọ. Nơi đỗ xe mà kẻ bày mưu mong muốn là chỗ trống thứ ba ở phía trước cầu thang thoát hiểm, nhưng ở đó đã đậu sẵn một chiếc Sedan cao cấp dung tích 3000cc. Lai Sinh nhìn đồng hồ. Một giờ hai mươi phút chiều. Không rõ chủ của chiếc Sedan cao cấp này vào đây từ đêm qua và vẫn chưa ra hay là đã ăn một bữa trưa no nê và đang làm gì đó trái đạo đức. Chẳng còn cách nào khác, Lai Sinh đành đỗ xe gần tường của hầm đỗ xe. Hắn xuống xe rồi nhìn trần hầm và những bức tường. Không có thứ gì giống như CCTV ở hầm đỗ xe của nhà trọ cũ kỹ và lâu đời này. Lai Sinh mở cốp, lôi cái va li gắn bánh xe cùng túi chống thấm nước ra.
Quầy tiếp tân của nhà trọ chẳng có ai, giống như những gì viết trong tài liệu. Đồng hồ treo tường đang chỉ một giờ hai mươi tám phút chiều. Lai Sinh rút chìa khóa phòng 303 ra khỏi
hộp chìa khóa rồi đi lên tầng. Hắn đeo găng tay da rồi mở cửa phòng 303.
Đây là một nhà trọ cũ. Trên giường có một cái chăn bẩn thỉu mà nhìn thoáng qua cũng thấy có lẽ đã lâu chưa được giặt, trên kệ có cuộn giấy vệ sinh chỉ còn một nửa, một cái gạt tàn bằng sắt và một hộp diêm hình bát giác. Giấy dán tường đã phai màu đến độ không thể đoán định màu ban đầu, còn cái điều hòa có hình dạng như radio dùng đèn điện tử chân không kiểu Đức gắn ở cửa sổ thì trông cứ như cổ vật có tuổi thọ trên ba mươi năm. Lai Sinh bật điều hòa và một làn hơi rất kinh khủng phả ra. Có một cái bao cao su đã dùng nhét giữa tấm nệm và giường, và một sợi lông mu không biết của nam hay của nữ dính trên chỗ tinh dịch đã khô. Ánh sáng lờ mờ của đèn huỳnh quang phủ đầy bụi đen sì và xác côn trùng chết đã lâu dễ gây liên tưởng khung cảnh bên trong căn phòng với bối cảnh trong phim đen trắng hồi thập niên 30.
“Căn phòng đúng là thảm hại.”
Lai Sinh đặt cái cặp da mà hắn mang theo từ Seoul cùng cái va li lôi từ trong cốp ra vào một góc phòng rồi ngồi ở cuối giường. Cái giường bẩn đến mức có lẽ cả trăm triệu con vi khuẩn đang reo vang như thể vừa lên được thiên đường. Lai Sinh lấy một điếu thuốc đưa lên miệng ngậm rồi rút một que diêm trong hộp diêm bát giác ra châm lửa. “Giờ vẫn còn thứ này cơ đấy.” Hắn nhìn hộp diêm bát giác, nghiêng đầu.
Ngay khi đồng hồ chỉ đúng ba giờ, Lai Sinh gọi vào số điện thoại in trong tập tài liệu.
“Tôi đã vào rồi. Phòng 303.”
Người đàn ông ở đầu dây bên kia giữ điện thoại trong ba giây, không nói gì. Chỉ thấy vẳng lại tiếng thở không mấy thoải mái. Thế rồi điện thoại cụp cái rụp. Lai Sinh thẫn thờ nhìn điện thoại. “Thằng chó chết.” Hắn mở cửa sổ, vừa nhìn con hẻm chật hẹp hỗn loạn ở đằng sau tòa nhà vừa hút một điếu thuốc nữa. Con hẻm khu đèn đỏ tập trung rất nhiều cơ sở kinh doanh khá yên ắng vào lúc hai giờ chiều. Mãi hai tiếng sau cô gái mới về phòng. Lúc đi vào, cô ta chỉ liếc nhìn Lai Sinh với vẻ mặt không quan tâm rồi nói “Xin chào.” Lời chào ngạo mạn chẳng có chút thành ý thường thấy ở những cô gái tự tin với khuôn mặt xinh đẹp của mình. Khuôn mặt cô ta trông trẻ như chưa đến mười lăm tuổi, chỉ cao chừng mét sáu, trông rất đáng yêu, nhan sắc đủ để khiến đàn ông đi trên phố ngoái lại nhìn một lần, vẻ mặt phủ bóng u sầu và mong manh, ẩn chứa nhiều cảm xúc phức tạp làm Lai Sinh nhớ đến bức tranh vẽ lá ngân hạnh rơi trên lịch.
“Anh cởi quần áo ra đi.” Cô ta nói.
Cô gái ngay lập tức cởi quần áo. Vốn chỉ mặc độc một cái váy liền thân, áo ngực và quần lót nên chưa quá năm giây cô ta đã trần truồng đứng trước mặt hắn. Lai Sinh chỉ ngồi thần người ra ở một bên giường nhìn cô gái. Bộ ngực đặc biệt to trên thân thể gầy gò của cô gái mang lại cảm giác kỳ lạ, trông cô ta cứ như một thiếu nữ Nhật Bản xinh đẹp xuất hiện trong các bộ truyện tranh khiêu dâm. Dù đã làm gái gọi khá lâu nhưng cô gái vẫn có làn da mềm mại như em bé.
Không biết chính xác đã có chuyện gì trong phòng của nghị viên K. Nhưng chuyện gì xảy ra thì cũng đâu liên quan đến cô gái cơ chứ. Cô ta chỉ có một tội là chăm chỉ mút của quý mềm oặt
không cương nổi của mấy lão già tầm cỡ luôn tơ tưởng đến các thiếu nữ. Hơn nữa cô gái cũng chẳng kiếm được nhiều tiền. Mấy lão già chi khá nhiều tiền để ôm gái nhưng phần lớn số tiền boa ấy đều lọt vào tay bọn môi giới. Cô ta chỉ xui xẻo thôi. Nhưng sau tất cả thì vận xui cũng là một phần của cuộc sống.
“Anh không cởi quần áo à?” Cô gái nhìn Lai Sinh và hỏi. Hắn không nói gì mà chỉ nhìn cô ta. Thấy Lai Sinh không làm gì cả mà chỉ nhìn thân thể trần truồng của mình, cô gái hướng về phía hắn thở hắt ra rồi cười khẩy pha chút bực tức. “Nhanh lên đi chứ. Tôi bận lắm.”
Cô ta nói mà như dỗ dành hắn, nhưng nét mặt vẫn giữ nguyên vẻ khinh thường. Lai Sinh vừa không rời mắt khỏi cô gái vừa chậm rãi cho tay vào trong áo khoác da. Khẩu súng ngắn và con dao. Hắn phải lôi thứ gì ra mói khiến cô gái kinh ngạc mà không la hét hay làm ầm ĩ lên nhỉ? Theo thống kê thì mọi người đều cảm thấy sợ dao hơn là súng. Thật kỳ lạ. Nỗi sợ hãi lúc nào cũng phi lý. Lai Sinh quyết tâm lôi khẩu súng ra thay vì con dao. Nhưng ngay trước khi hắn kịp lôi thứ gì ra, cô gái nhìn hắn với vẻ mặt cứng đờ.
“Tôi mặc lại quần áo có được không?” Cô gái run rẩy hỏi. “Nghĩa là sao?” Lai Sinh lạnh lùng nói.
“Tôi không muốn chết mà không mặc quần áo.”
Cô gái nhìn thẳng vào mặt Lai Sinh. Không phải sự giận dữ, cũng chẳng phải nỗi căm thù, chỉ là đôi đồng tử mệt mỏi đã kịp nhận ra quá nhiều thứ về thế giới này trong khoảng thời gian
ngắn ngủi, đôi đồng tử giống như hai hang động trống rỗng, không còn muốn thấy gì nữa vì đã chìm sâu trong sợ hãi. “Cô sẽ không chết một cách lõa lồ đâu.” Lai Sinh nói. Nói vậy nhưng cô gái vẫn trần truồng đứng trước mặt hắn mà chẳng làm gì cả.
“Cô mặc quần áo vào đi.”
Lai Sinh đang thô lỗ bỗng dịu giọng.
Đến lúc đó cô gái mới nhặt từng món đồ rơi trên sàn lên và bắt đầu mặc vào. Bàn tay nhặt chiếc quần lót dễ thương in hình chuột Mickey của cô ta run lẩy bẩy. Ngay khi cô gái mặc quần áo xong, Lai Sinh đứng dậy khỏi cái giường, tóm lấy vai đẩy cô ta ngồi lên giường. Rồi hắn khóa cửa phòng. Cô gái rút một điếu Virginia mỏng manh từ trong túi xách tay ra ngậm và định châm lửa. Nhưng tay run nên cô ta mãi không bật được lửa. Lai Sinh châm lửa cho cô ta bằng cái bật lửa zippo lấy từ trong túi áo. Cô gái khẽ gật đầu cảm ơn hắn, rít thuốc thật sâu rồi phả ra một hơi như thể thở dài vào hư không. Cô gái cố gắng tỏ ra bình tĩnh như đã luyện tập nhiều lần cho việc rơi vào tình huống này, nhưng đôi vai gầy gò của cô ta đang run lên cầm cập.
“Tôi không thích để lại vết thương trên người. Anh có thể làm được vậy không?” Cô gái thấp giọng hỏi.
Cô ta không cầu xin hắn tha mạng, chỉ xin hắn giết mình mà không để lại thương tích trên người. Đột nhiên hắn nghĩ đến Chu. Điều gì ở cô gái này đã làm động cơ tự động của Chu ngừng lại? Cơ thể gầy gò của cô ta khiến Chu thương hại? Hay nhan sắc của cô ta làm Chu nghĩ đến những bộ phim khiêu dâm với các thiếu nữ Nhật Bản xinh đẹp? Vẻ u sầu không thể thấu trên
khuôn mặt cô gái khiến Chu cảm thấy tội lỗi? Không phải. Chuyện đó thật nực cười. Chu không phải người làm hỏng việc vì những thứ lãng mạn rẻ tiền đó.
“Tôi không thích để lại vết thương…”
Lai Sinh chậm rãi làm theo lời cô gái. Khoảnh khắc đó hai đồng tử của cô ta dao động một cách bất an. Khó mà tin được đó là cô gái vừa nói như thể ghét để lại thương tích trên người hơn là cái chết. Lai Sinh nhìn chằm chằm xuống sàn rồi từ từ ngẩng đầu lên.
“Tôi sẽ không để lại thương tích trên người cô đâu.” Hắn nói bằng giọng dễ chịu nhất có thể.
Cô gái tỏ vẻ ngạc nhiên trong chốc lát. Có lẽ đến lúc này cô ta mới nhìn thấy cái va li to gắn bánh xe đặt ở góc phòng. Giờ đây toàn thân cô gái đang run lẩy bẩy, dường như vì tưởng tượng ra thứ mà cái va li gợi lên.
“Anh sẽ nhét xác tôi vào cái va li kia à?”
Cô ta không lắp bắp nhưng giọng nói nghe thật bất an. Lai Sinh gật đầu.
“Xác tôi sẽ bị vứt ở đâu, bãi rác hay sâu trong núi?” “Có nên nói không nhỉ?” Lai Sinh nghĩ một lát. Không nhất thiết phải nói cả chuyện ấy cho cô ta. Nhưng có nói hay không thì cũng chẳng khác gì nhau.
“Xác cô sẽ không bị chôn trên núi hay vứt ở bãi rác mà được thiêu ở lò hỏa táng. Nhưng dĩ nhiên không phải bằng cách hợp pháp.”
“Vậy là sẽ không ai biết được sự thật rằng tôi đã chết. Cũng chẳng có lễ tang.”
Lai Sinh gật đầu. Cô ta bỗng bật khóc dù đã cố kìm nén đến tận bây giờ. Sắp chết đến nơi rồi thì chuyện xác mình sau đó sẽ trở thành thế nào có quan trọng gì nhỉ? Nhưng bây giờ cô gái lại đang lo lắng về vẻ bề ngoài của mình sau khi chết hơn là lo lắng về chính cái chết. Tại sao một cô gái hai mươi mốt tuổi lại suy nghĩ như vậy?
Cô gái cắn chặt răng, lấy mu bàn tay chùi nước mắt rồi nhìn Lai Sinh với vẻ mặt kiên quyết sẽ không xin tha mạng và cũng sẽ không để cho kẻ như hắn thấy những giọt nước mắt của mình nữa.
“Vậy bây giờ anh sẽ giết tôi như thế nào?”
Đã làm sát thủ mười lăm năm nhưng đây là lần đầu tiên nhận được câu hỏi như vậy nên Lai Sinh tỏ ra hơi lúng túng. “Cô đang hỏi tôi đấy à?” Lai Sinh hỏi.
“Vâng.” Cô gái uể oải đáp.
Kẻ bày mưu đã ra lệnh bẻ gãy cổ cô gái. Bẻ gãy cái cổ mảnh khảnh của cô gái nặng chưa đến ba mươi tám kí lô kia là chuyện dễ dàng. Chỉ cần cô ta không ồn ào chống cự thì chuyện sẽ kết thúc trong yên lặng và ít đau đớn. Nhưng nếu cô ta phản kháng quyết liệt thì phần xương cổ bị gãy có thể đâm lòi ra ngoài da. Cũng có trường hợp nạn nhân phải vùng vẫy trong đau đớn những vài phút đến tận khi tắt thở vì khí quản không lưu thông mà vẫn còn tỉnh táo.
“Cô muốn chết như thế nào?” Lai Sinh hỏi lại bằng giọng khô khốc.
Chính hắn cũng cảm thấy ngượng sau khi thốt ra câu đó. Muốn chết như thế nào ư, hắn đang nhận gọi món bít tết trong nhà hàng đấy chắc? Cô gái cúi đầu suy nghĩ một lát. Nhưng cô ta cũng không suy nghĩ gì lung lắm mà dường như chỉ đang nghĩ lại một lần nữa về quyết định mà bản thân đã đưa ra từ lâu.
“Tôi có thuốc.” Cô gái nói.
Tôi, có, thuốc. Vì không hiểu được ngay nên Lai Sinh nhẩm lại câu nói đó trong đầu. Cô ta đã nghĩ đến việc tự sát. Và cô ta chọn cách chết bằng thuốc. Cũng chẳng phải là việc gì quá bất ngờ. Nếu xem các thống kê liên quan đến tự sát thì đàn ông thích tự sát bằng súng lục hoặc nhảy lầu, còn phụ nữ lại thích uống thuốc độc hoặc treo cổ. Phần lớn phụ nữ đều không thích cái chết để lại thương tích trên thân thể mình. Nhưng trái với tưởng tượng, các loại thuốc như acid clohydric hay thuốc trừ sâu mà người bình thường có thể dễ dàng kiếm được thường gây ra rất nhiều đau đớn và mất nhiều thời gian, tỷ lệ thất bại cũng cao.
“Chỉ vậy thôi anh cũng không giúp được tôi sao?” Cô gái hỏi với ánh mắt tha thiết.
Lai Sinh nhẹ quay mặt đi trước ánh mắt của cô gái. Hắn phải bẻ cổ cô ta, cho cái xác vào va li rồi mang đến lò hỏa táng của ông Râu Xồm. Những kẻ bày mưu ghét việc sát thủ tùy tiện thay đổi kế hoạch hơn bất cứ điều gì. Đó không phải vì lòng tự tôn của chúng. Nếu kế hoạch bị thay đổi thì thời gian của những người đang chờ ở các chi nhánh khác cũng thay đổi và như vậy, cả đường dây sẽ rối loạn. Nếu nhiệm vụ thất bại hoặc để lại dấu vết
trí mạng vì đường dây bị rối loạn thì đôi khi sẽ phải giết thêm người khác nữa để xóa dấu vết. Điều đó có nghĩa người khác ấy rất có thể sẽ chính là bản thân mình. Vậy nên, thay đổi kế hoạch của những kẻ bày mưu không phải việc phức tạp nhưng nguy hiểm.
Lai Sinh ngẩng đầu nhìn cô gái. Cô ta vẫn đang nhìn hắn với ánh mắt tha thiết không đổi. Ánh mắt của cô gái đang nói, tôi đâu có xin tha mạng, chỉ vậy thôi mà anh cũng không giúp tôi được sao. Thực sự nếu chỉ có thế thì hắn cũng có thể giúp, hắn cũng nên giúp chứ, không phải ư? Lai Sinh nhíu mày.
Nếu uống thuốc thì thành phần chất độc vẫn lưu lại trong tro cốt kể cả sau khi hỏa táng. Nếu phát hiện được DNA trong xe hoặc quần áo và trích xuất được thành phần chất độc từ tro cốt thì chắc chắn chúng sẽ trở thành bằng chứng không thể chối cãi chứng minh cô gái đã bị sát hại dù cô ta có bị thiêu đi chăng nữa. Nhưng tình huống đó thường chỉ xuất hiện trong phim chứ hiếm khi xảy ra ngoài đời thực. Những kẻ bày mưu hành động kỹ lưỡng quá mức cần thiết không phải vì sự hoàn hảo mà là vì vênh váo. Uống thuốc hay làm gãy cổ thì cũng giống nhau cả thôi. Dù sao thì cô gái cũng sẽ bị thiêu và tro cốt cô ta cũng sẽ lặng lẽ lắng xuống đáy sông.
“Cô có thuốc gì?” Lai Sinh hỏi.
Cô gái lôi ra một gói thuốc từ trong túi xách tay. Lai Sinh chìa tay ra. Cô ta chần chừ rồi đưa cho hắn. Sau khi lắc nhẹ cái gói ni lông, Lai Sinh giơ nó hướng về phía cửa sổ. Thứ bột màu trắng đựng trong túi ni lông trông như potassium cyanide*.
“Là kali xyanua à?” Lai Sinh hỏi.
Cô gái lại nhìn vào mắt hắn và gật đầu.
“Cô biết gì về thứ thuốc này?”
Cô gái nghiêng đầu như thể không hiểu câu hỏi của hắn. “Tôi biết nếu uống thì nhất định sẽ chết. Chẳng phải chỉ cần biết thế là đủ rồi sao?”
Giọng nói của cô ta nửa bực bội nửa khiêu khích. “Cô mua ở đâu?”
“Tôi lấy trộm từ một chị mà tôi quen, chị ấy mang theo để tự tử.”
Lai Sinh mỉm cười với cô gái. Cô ta có thể nghĩ đó là cười nhạo, nhưng nụ cười đó gần với sự thương hại hơn. Khi Lai Sinh không biết phải nói gì thì cô gái lại mím môi theo thói quen.
“Nếu chị ta mua trên mạng hay của mấy thằng bán ma túy thì khả năng cao thứ này là đồ giả. Như vậy sẽ nảy sinh vấn đề hết sức đau đầu. Dù đây có là đồ thật đi nữa thì kali xyanua cũng không phải thứ thuốc lãng mạn như cô nghĩ đâu. Và nó cũng không phải thuốc khiến cô chết ngay trong vài giây. Loại thuốc mà cô đang nghĩ đến có vẻ là viên con nhộng uống vào chết ngay tức khắc mà các điệp viên hay dùng để tự tử, nhưng thứ đó là hydrogen cyanide* ở dạng lỏng chứ không phải là thể rắn như thế này.”
Lai Sinh ném gói ni lông đựng thứ bột trắng xuống sàn nhà như vứt mẩu thuốc lá. Cô gái vội vã cúi người nhặt cái gói bị vứt trên sàn cứ như nhặt một món đồ quan trọng. Rồi cô ta nhìn hắn với vẻ mặt hoàn toàn không thể tin nổi.
“Vậy là không thể chết bằng thứ này sao?”
“Thường thì sẽ chết nếu uống khoảng 250 miligram. Nhưng khá là đau đớn. Cơ bắp tê liệt, nội tạng tan chảy, họng và lưỡi bị đốt cháy, tới tận lúc chết vì ngạt thở cũng phải mất từ vài chục phút đến vài tiếng. Cũng có thể lâu hơn tùy mỗi người, thậm chí có người còn sống sót nữa. Vả lại bộ dạng sau khi chết cũng không phải là cảnh tượng đáng xem cho lắm đâu.”
Cô gái thõng hai vai xuống, khuôn mặt tràn ngập vẻ tuyệt vọng. Cô ta quay đầu về phía cửa sổ, không còn khóc lóc hay run rẩy nữa mà chỉ thẫn thờ nhìn bầu trời ngoài khung cửa bằng đôi mắt trống rỗng. Lai Sinh nhìn đồng hồ. Bốn giờ ba mươi phút. Hắn phải rời khỏi nhà trọ trước khi trời tối. Mặt trời lặn cũng sẽ là lúc con hẻm của khu đèn đỏ này đột ngột trở nên náo nhiệt với những gã đàn ông say rượu và khát tình cùng các cô gái điếm đã trang điểm kỹ lưỡng.
“Vừa hay tôi lại có thứ thuốc phù hợp trong cái túi kia.” Lai Sinh vừa nói vừa hướng mắt về cái cặp da màu đen. Cô gái khẽ liếc mắt về phía cái cặp.
“Thuốc rất dễ chịu, không đau đớn như thuốc chuột hay kali xyanua và cũng không làm cơ thể biến dạng xấu xí đâu. Chỉ giống như đi ngủ thôi. Barbiturate là thuốc được Adolf von Baeyer phát triển và điều chế ra vào giữa thế kỷ 19 từ thuốc an thần và thuốc ngủ. Ông ta đặt tên cho loại thuốc này theo tên của người bạn Barbera. Thực ra bây giờ nó vẫn được dùng làm thuốc ngủ. Nó cũng có hiệu quả thôi miên, an thần và gây ảo giác. Có thể coi nó là mẹ của các loại thuốc ngủ như Luminal* hay Barbital* đấy. Nó cũng là thứ thuốc được sử dụng rộng rãi trên toàn thế giới khi ban cho người ta cái chết nhân đạo.”
Cô gái vừa gật đầu vừa trưng ra vẻ mặt kỳ lạ trước bài giải thích dài dòng của Lai Sinh.
“Hãy trả lời tôi một câu rồi tôi sẽ đưa thuốc cho cô. Nếu thế thì cô có thể uống thuốc và chết một cách dễ chịu đúng như mong muốn.”
Cô gái ngẩng đầu nhìn hắn, vẻ mặt tỏ ý muốn hỏi thì hỏi đi. “Cô có nhớ người đàn ông cao lớn định giết cô không?” Cô gái gật đầu.
“Tại sao anh ta lại tha cho cô?”
Cô gái hơi lắc lư người qua lại trên giường. Cô ta khẽ chạm tay lên trán như thể đang hồi tưởng lại Chu. Ký ức về tình huống ngày hôm đó khiến gương mặt cô ta lúc thì nghi ngại, lúc lại tỏ ra khiếp sợ.
“Tôi không biết. Người đàn ông đó thẫn thờ nhìn tôi khoảng ba mươi phút rồi cứ thế bỏ đi.”
“Và anh ta không làm gì cả?”
“Vâng. Chỉ ngồi im lặng nhìn tôi.”
“Anh ta không nói gì cả à?”
“Anh ta chỉ bảo tôi đừng đi đến bất cứ nơi nào mà tôi biết. Nếu thực sự gặp may thì tôi sẽ có cơ sống sót.”
Lai Sinh gật đầu.
“Người đàn ông đó chết rồi à?” Cô gái hỏi.
“Vẫn còn sống. Nhưng có lẽ chẳng mấy nữa sẽ chết. Nếu lọt vào danh sách rồi thì khó sống sót lắm.”
“Vì tôi nên anh ta mới chết à?”
“Có lẽ. Nhưng không thể nói là chắc chắn tại cô được.” Lai Sinh nhìn đồng hồ rồi hướng về phía cô gái với ánh mắt hàm ý đã đến lúc. Cô ta chẳng có bất cứ phản ứng gì. Lai Sinh mở cái cặp ở góc phòng và lấy ra một lọ thuốc. Hắn cũng lấy ra cả một chai Jack Daniel. Cô gái yên lặng dõi theo động tác của hắn rồi cất tiếng.
“Nếu anh âm thầm mang xác tôi đi thiêu thì sẽ chẳng ai biết tôi đã chết đúng không? Mẹ tôi sẽ mãi chờ tôi mất.” Lai Sinh đang lấy thuốc từ trong lọ ra bỗng khựng lại một thoáng. Cô gái lặng lẽ khóc. Hắn nghĩ thật may là cô ta không khóc lóc ầm ĩ. Lai Sinh ngây người đứng đợi đến khi cô gái ngừng khóc. Động cơ tự động của Chu dừng lại có phải là vì tiếng khóc câm lặng này không? Hắn vẫn không hiểu nổi thứ gì đã khiến anh ta ngừng lại. Sau khoảng năm phút, Lai Sinh đặt nhẹ tay lên vai cô gái để thông báo rằng không còn thời gian trì hoãn thêm nữa. Cô gái bực bội gạt tay hắn ra như thể hắn không nói thì cô ta cũng biết vậy.
“Tôi viết một lá thư cho mẹ có được không?”
Lai Sinh tỏ ra bối rối.
“Dù anh không chuyển giúp tôi cũng không sao đâu.” Đôi mắt cô gái vẫn ầng ậng nước. Lai Sinh nhìn đồng hồ rồi gật đầu với cô ta. Cô gái lấy bút và quyển nhật ký từ trong túi xách tay ra rồi bắt đầu viết.
Mẹ ơi, con xin lỗi.
Con xin lỗi cả cha trên trời nữa.
Con muốn tích góp tiền để đi học rồi lấy chồng nhưng không được rồi.
Con xin lỗi vì đã đi trước mẹ.
Mẹ đừng lo cho con. Ra đi như thế này cũng không đến nỗi tệ đâu.
Bởi vì cuộc đời này thực sự rất khốn kiếp.
Nước mắt của cô gái rơi xuống làm nhòe mất chữ “đời”. Cô gái gấp tờ giấy lại rồi đưa cho Lai Sinh.
“Chữ đẹp đấy.” Lai Sinh nhìn tờ giấy và khen.
Chính hắn cũng không hiểu tại sao mình lại nói như thế. Cô gái cất lại quyển nhật ký vào trong túi xách. Lai Sinh nghĩ cô gái sẽ lấy khăn tay để lau nước mắt nhưng không ngờ cô ta lại lôi mỹ phẩm ra. Cô ta nhìn hắn bằng vẻ mặt như muốn hỏi hắn có thể cho mình thêm một chút thời gian nữa không. Lai Sinh khẽ đưa tay ra dấu bảo cứ làm đi. Hắn đứng thần người ra nhìn cô gái trang điểm kỹ lưỡng trong suốt hơn mười phút. Sao mà phù phiếm thế nhỉ? Lai Sinh nghiêng đầu. Cô gái hoàn tất việc trang điểm và cất mỹ phẩm vào trong túi. Túi xách đóng “cạch” một tiếng rất to.
“Anh có thể ở bên cạnh đến khi tôi ngừng thở không? Tôi hơi sợ.” Cô gái vừa mỉm cười vừa nói.
Lai Sinh gật đầu, mở lọ lấy thuốc ra. Cô gái nhìn viên thuốc trên lòng bàn tay của hắn khoảng ba giây rồi nhón ngón tay cầm nó lên bỏ vào miệng. Rồi cô ta uống một hơi hết nửa cốc rượu Jack Daniel mà Lai Sinh rót cho.
Lai Sinh định đặt cô gái nằm lên giường nhưng cô ta đẩy tay hắn ra rồi tự mình nằm thẳng trên giường. Cô gái đặt tay lên ngực, nhìn trần nhà bằng đôi đồng tử trống rỗng. Sau khoảng hai phút, dường như cô ta bị ảo giác.
“Tôi thấy cơn gió màu đỏ. Có cả những con sư tử màu xanh. Bên cạnh cũng có con gấu Bắc Cực dễ thương màu cầu vồng nữa. Đó là thiên đường phải không?”
“Ừ, nơi đó là thiên đường. Cô đang đi đến thiên đường đấy.” “Cảm ơn anh đã nói thế. Còn anh sẽ xuống địa ngục.” “Vậy thì chúng ta không thể gặp lại nhau rồi. Vì cô chắc chắn
sẽ lên thiên đường, còn tôi chắc chắn sẽ xuống địa ngục.” Cô gái nhìn hắn bật tiếng cười nhạt. Nước mắt chảy ra từ đôi mắt đang cười của cô ta.
S
au khi cô gái chết Chu vẫn sống thêm được khoảng hai năm. Đúng như một con chó rừng tài giỏi, đúng như gã điên rồ mà những kẻ bày mưu luôn khó chịu, anh ta đã chống lại được sự theo dõi dai dẳng và cuồng bạo. Người ta truyền tai nhau tin đồn rằng các sát thủ và kẻ bám đuôi Chu, những kẻ lóa mắt trước số tiền thưởng, đều đã bị anh ta giết. Thậm chí những tin này còn được thổi phồng, thêm mắm thêm muối gây ồn ào khắp Puju suốt một thời gian dài. Lai Sinh nghĩ chuyện đó là đương nhiên. Ngay từ đầu Chu đã ở chiếu trên so với những tay sát thủ hạng ba và những kẻ bám đuôi săn đuổi già nua chỉ biết truy đuổi lũ gái điếm bỏ trốn của Puju. Nhưng Lai Sinh cũng không rõ tất cả các tin đồn nổi lên như bong bóng ở Puju ấy có phải là sự thật hay
không. Cái chết của kẻ bám đuôi, cái chết của sát thủ, những cái chết của thế giới ấy hầu hết đều không nổi lên trên mặt nước. Mặc những tin đồn giống như bong bóng xà phòng ấy là giả hay thật thì Chu vẫn không bị bắt.
Có vẻ Chu đã thay đổi chiến lược sau khi cuộc săn đuổi bắt đầu được khoảng một năm. Anh ta chọn tấn công thay vì phòng thủ. Chu đích thân tìm đến một vài kẻ bày mưu và giết chúng, anh ta giết cả bọn môi giới và đám giết thuê. Có lần anh ta ung dung tiến vào giữa Puju và phá hủy toàn bộ một văn phòng nhận đâm thuê chém mướn. Tuy nhiên, những kẻ bày mưu mà Chu giết đều chẳng liên quan gì đến vụ cô gái điếm. Hơn nữa, so với những kẻ bày mưu chuyên nghiệp, chúng chỉ là mấy tay mơ được đám giết thuê tuyển tạm thời mà thôi. Không ai biết được Chu làm chuyện đó với mục đích gì. Nhưng anh ta vẫn chưa thể tiếp cận được những kẻ mình coi là mục tiêu chính, những kẻ hùng mạnh đủ sức dịch chuyển cả thế giới mưu đồ này.
Sau khi Chu biến một văn phòng ở Puju thành đống đổ nát và đánh cắp một quyển sổ có vẻ như hoàn toàn chẳng cần thiết với anh ta, các doanh nhân liền tìm đến thư viện của lão Chồn. Trong số đó có Han Ja, một gã bề ngoài là giám đốc công ty bảo vệ nhưng thực tế đang điều hành công ty giết thuê, không chê bất cứ nguồn thu nhập nào bất kể đến từ cơ quan nhà nước, doanh nghiệp hay thậm chí cả chợ đen. Han Ja nghĩ rằng đám giết thuê của Puju chỉ là bọn cướp làng, và việc cả hắn cũng tham gia cuộc họp này là ví dụ cho thấy rõ ràng Chu đã chọc những kẻ bày mưu tức giận đến mức nào. Han Ja ngồi thừ người trên ghế với vẻ mặt như thể vừa bốc một nắm phân cho vào miệng.
Ngay khi lão Chồn ngồi xuống ghế, những doanh nhân của Puju liền tranh nhau nói.
- Tôi đến phát điên mất thôi. Rốt cuộc cái thằng Chu ấy muốn gì chứ? Phải biết hắn muốn gì thì mới thử xoa dịu, nhử mồi hay làm gì đó được chứ.
- Tôi cũng định nói thế đấy. Tại sao cái thằng đó không nói gì cả? Bộ nó bị câm chắc? Nếu cần tiền thì nói cần tiền, có chuyện gì không hài lòng thì cứ bất mãn, có chuyện gì bực tức thì trút giận bằng cách này cách khác, nhưng ít ra phải nói cho người ta biết chứ. Cứ thế xông vào đâm một nhát rồi bỏ đi chẳng thèm nói một tiếng là cái kiểu gì?
- Vì thằng Chu đó mà tôi bị thiệt hại không nhỏ đâu. Đã có ba đứa bên tôi bị giết rồi, mà đâu chỉ có thế? Tôi còn tốn tiền xử lý xác của bọn nó nữa chứ. Thằng khốn đó chắc chỉ tha cho ông Râu Xồm thôi. Tiện thể cho hỏi tại sao nó chỉ nhằm vào tôi chứ? Ở đây còn khối người giàu hơn tôi cơ mà.
- Nhà chú mày không có gương hả? Ở đây có ai giàu hơn chú mày sao?
- Hay chú mày lại đưa hối phiếu cho thằng Chu đấy? Phải đưa tiền mặt, tiền mặt chứ! Hắn ghét hối phiếu lắm.
Lão Chồn ngồi ở giữa, vẻ mặt như đang muốn nói tình huống này thật thú vị. Rốt cuộc có gì hay ho mà lão lại làm bộ mặt như thế chứ? Nhất là giữa lúc Chu có thể xông vào thư viện và đâm dao vào bụng lão bất cứ khi nào như thế này.
“Trong giới học giả thời Joseon có một câu nói nổi tiếng thế này. ‘Chẳng ai biết Hưng Tuyên* và con ếch sẽ nhảy hướng nào’.
Cứ như đang nói về hoàn cảnh của chúng ta vậy nhỉ.” Lão Chồn vừa cười vừa nói.
“Nhưng theo ngài thì cái thằng Chu ấy có thể đang nghĩ gì ạ?”
Choi Hàng thịt, một kẻ chuyên dẫn những người di dân bất hợp pháp từ Triều Tiên và giết thuê giá rẻ hỏi lão Chồn. “Làm sao tôi biết thằng điên ấy nghĩ gì. Hắn có thể nhắm đến cái cổ của tôi, cũng có thể nhắm vào cổ của ông lắm chứ.” “Hay tăng tiền thưởng lên thành một trăm triệu nhỉ. Treo thưởng cho cả người cung cấp thông tin quyết định nữa. Chừng đó thì chắc sẽ có chuyển biến nhiều hơn. Bọn cảnh sát cũng sẽ nhúc nhích. Rồi sẽ bắt được sớm thôi.”
Han Ja nãy giờ ngồi im lặng trong góc bỗng lần đầu tiên lên tiếng.
“Tiền? Vậy chúng ta chia nhau trả tiền à?” Choi Hàng thịt hỏi.
“Ôi, quy mô công ty khác nhau mà, chia cái gì chứ. Lần này chỗ tôi làm cũng bị phá, thiệt hại không ít đâu.”
Park Cần Nước, kẻ bị Chu phá hủy văn phòng vừa liếc nhìn Han Ja vừa phàn nàn.
“Tôi sẽ trả.”
Không phải gã định khoe khoang hay vênh váo gì. Han Ja chỉ muốn kết thúc cuộc họp chán ngắt và thảm hại này thật nhanh. Đám doanh nhân tỏ ra khó chịu trước sự ngạo mạn của Han Ja nhưng trong thâm tâm cả bọn đều thở phào nhẹ nhõm.
“Quả đúng là Han Ja. Có ăn thì mới có của giúp người mà nhỉ.” Lão Chồn nhìn Han Ja với vẻ mặt giễu cợt.
“Bởi vì chúng tôi không kén chọn người và công việc như ngài. Chỉ cần ra lệnh là sẽ làm việc một cách chăm chỉ, âm thầm và trung thành.” Han Ja vừa nói vừa mỉm cười với lão Chồn.
Dù khá mỉa mai nhưng khi thời kỳ độc tài quân sự kết thúc thì ngành công nghiệp ám sát cũng tăng trưởng bùng nổ. Thời độc tài quân sự việc kinh doanh ám sát giống như một công tác bí mật được vận hành âm thầm bởi một số ít những kẻ bày mưu, những sát thủ được huấn luyện chuyên nghiệp trong quân đội hoặc cơ quan nhà nước, cả những kẻ giết thuê giàu kinh nghiệm và đáng tin cậy. Thực ra nó không lớn đến mức đáng được gọi là kinh doanh. Những người có liên quan hoặc biết về thế giới của mưu đồ rất ít và cũng không có nhiều việc làm. Quân lính nói chung đều không quan tâm lắm đến những kẻ bày mưu. Đó là thời kỳ đơn giản và dốt nát mà những người bị coi như cái gai trong mắt dễ dàng bị lôi lên xe jeep trước mắt cả gia đình, sau đó bị giam ở tầng hầm Namsan và bị đánh đến liệt nửa người rồi trả về mà không ai dám hó hé. Bọn họ chẳng việc gì cần đến những kẻ bày mưu cao cấp cả.
Thứ khiến ngành kinh doanh ám sát lớn mạnh chính là sự xuất hiện của một quyền lực mới muốn khoác ra ngoài chính phủ của mình một lớp áo đạo đức. Hẳn bọn họ nghĩ rằng có thể lừa bịp dân chúng bằng cách dán biểu ngữ “Xin quý vị hãy yên tâm. Chúng tôi không phải là quân nhân” lên trán. Tuy nhiên dù là theo khuynh hướng nào thì bản chất của quyền lực đều như nhau cả. Nếu nói theo cách của Đặng Tiểu Bình thì dù là
mèo đen hay mèo trắng thì rốt cuộc đều làm trò mèo mà thôi. Có một vấn đề mà thứ quyền lực muốn khoác áo đạo đức này gặp phải, đó là không thể sử dụng tầng hầm Namsan để đánh đập những kẻ xấc láo phát ngôn thẳng thắn như thời đại trước. Vậy nên bọn họ đã bắt tay với những kẻ giết thuê hòng thoát khỏi mũi dùi của ngôn luận và của nhân dân, khỏi những hệ thống mệnh lệnh phức tạp và dấu vết thực thi của cơ quan nhà nước, và khỏi những trách nhiệm sẽ ập xuống trong tương lai. Và thế là thời đại của đâm thuê chém mướn bắt đầu. So với việc cơ quan nhà nước tự tay hành động thì thuê ngoài vừa rẻ hơn, đơn giản hơn và trên hết là không để lại rắc rối về sau. Nếu chẳng may có chuyện gì vỡ lở thì cũng chẳng mấy nghiêm trọng. Trong khi những kẻ giết thuê bị lôi vào tù thì bọn họ chỉ cần trưng ra bộ mặt kinh ngạc và bàng hoàng trước những cái máy quay phim mà dư luận gí vào rồi ra vẻ ngây thơ vô tội “Chuyện này… quả thật là kinh khủng và đáng tiếc.”
Khi các doanh nghiệp bắt đầu học theo lối các cơ quan quốc gia thuê những kẻ bày mưu thì ngành kinh doanh ám sát cũng bùng nổ. So với các cơ quan quốc gia thì các doanh nghiệp có nhiều việc để làm hơn hẳn. Khách hàng chính của đám giết thuê đã chuyển từ cơ quan nhà nước sang doanh nghiệp tư nhân. Khi lượng công việc tăng lên, những công ty giết thuê quy mô nhỏ bắt đầu mọc lên như nấm, những sát thủ bỏ việc cùng bọn giang hồ, quân nhân về hưu, cảnh sát trọng án phải khốn đốn chuyển nghề vì đồng lương rẻ mạt liền đổ về Puju. Han Ja lặng lẽ rình rập như một con cá sấu, vừa quan sát kỹ lưỡng những thay đổi vừa chờ cơ hội. Suốt mười lăm năm qua, trong khi lão Chồn ngày một suy yếu và không còn nắm bắt được dòng chảy của thời
đại thì quý ông lịch lãm sở hữu bằng thạc sĩ kinh doanh của Đại học Stanford này đã bí mật chăm bẵm những kẻ bày mưu và lính đánh thuê trong công ty bảo vệ đầy hợp pháp của mình.
Nguyên lý của thị trường lúc nào cũng giống nhau, dù là khi mới hình thành thị trường hay bây giờ chăng nữa. Kẻ cung cấp dịch vụ tốt hơn với giá rẻ hơn sẽ thắng. Han Ja biết rõ điều đó. Trong khi lão Chồn giam mình trong thư viện vừa đọc từ điển bách khoa vừa hồi tưởng lại vị ngọt ngào của những viên kẹo lão được mớm cho dưới bóng mát của thời kỳ độc tài, trong khi các doanh nhân hạng ba của Puju làm ăn bừa bãi vì lóa mắt trước mấy đồng xu lẻ và cuối cùng bị tống giam thì Han Ja mở rộng giao lưu với những nhân vật trong giới chính trị và tài chính, tuyển dụng những chuyên gia của mỗi lĩnh vực và lãnh đạo những kẻ bày mưu cao cấp dưới trướng mình. Han Ja đã biến đổi thế giới mưu đồ đầy phức tạp và hỗn loạn như một trận hỗn chiến thành thế giới của thị trường quy mô, trật tự và thuận tiện - thế giới mà khi bước vào bạn như được các cô hướng dẫn viên xinh đẹp vẫy tay mời chào “Quý khách, xin mời vào. Ngài muốn giết người bằng cách nào?” rồi tư vấn đầy thân thiện. Các doanh nhân của Puju nhốn nháo cái gì chứ, bây giờ là thời đại của Han Ja.
Cuộc họp nhàm chán dài dòng với phương án duy nhất là tăng tiền thưởng vẫn cứ tiếp tục. Thay vì họp có lẽ nên gọi đây là diễn đàn tám chuyện về Chu thì hơn. Lai Sinh đứng dậy đi ra ngoài phòng đọc sách. Hắn vừa châm lửa vào điếu thuốc và rít một hơi thật sâu thì Han Ja mở cửa bước ra.
Lai Sinh đưa thuốc lá mời Han Ja.
“Anh bỏ thuốc rồi. Bây giờ anh không thích những thứ nặng mùi nữa.”
Lai Sinh nghiêng đầu như thể câu Han Ja nói thật thú vị. Han Ja lấy hộp danh thiếp mạ vàng trong túi áo vest ra rồi đưa cho Lai Sinh một tấm danh thiếp.
“Nhớ liên lạc đấy. Khi nào anh em cùng ăn một bữa. Hai ta vẫn là anh em mà, nhỉ.”
Lai Sinh nhìn bàn tay dài và trắng của Han Ja một lúc rồi nhận lấy tấm danh thiếp. Đưa danh thiếp cho Lai Sinh xong, Han Ja vẫn không quay lại phòng họp mà ngay lập tức rời khỏi thư viện. Lai Sinh chợt thấy khó hiểu, tại sao Han Ja lại gọi mình là anh em dù gã chẳng chung một giọt máu nào với hắn. Nếu có sợi dây nào nối giữa Lai Sinh và Han Ja thì chỉ là cả hai đều lớn lên trong thư viện của lão Chồn. Nhưng gã và hắn chưa bao giờ sống cùng nhau. Khi Lai Sinh đến thư viện này lần đầu tiên thì Han Ja đã sang Mỹ du học.
Dù tiền thưởng đã tăng lên nhưng Chu vẫn không bị bắt. Thỉnh thoảng những tin đồn vô căn cứ lại lơ lửng như lá bay giữa không trung rồi ngay lập tức biến mất. Lão Chồn không nhúng tay vào công cuộc săn lùng Chu, chỉ vùi mình trong phòng sách đọc từ điển bách khoa suốt ngày. Vì lão chẳng làm gì nên Lai Sinh cũng không hành động. Hắn nghĩ như thế là may mắn. Đối đầu với một người như Chu là việc mà chỉ tưởng tượng thôi đã thấy thật khủng khiếp. Thời điểm đó Lai Sinh thường hay mơ mình chạm trán với Chu trong một ngõ cụt. Trong giấc mơ hắn đang run rẩy. Chặn ngay đầu con ngõ chật hẹp gần như không có lối thoát là Chu, tay sát thủ đáng gờm. Dù trong mơ
hay ngoài hiện thực Lai Sinh cũng biết rõ hắn không thể thắng nổi Chu. Người như hắn mà muốn giết Chu thì chỉ có cách ném dao găm theo kiểu lén lút như tên hoàng tử ngu ngốc Paris thôi.
Mùa hè năm đó trời mưa suốt. Theo thói quen những ngày không có việc, từ sáng sớm Lai Sinh đã uống một lon bia, sau đó nghe nhạc, thẫn thờ nhìn ra ngoài cửa sổ, chơi với hai con mèo xiêm. Khi lũ mèo gối lên người nhau ngủ thì hắn nằm trên giường đọc sách. Đó là những cuốn sách về sự thăng trầm của đế quốc La Mã, về những hậu duệ của Thành Cát Tư Hãn dũng mãnh khi phiêu du trên thảo nguyên nhưng lại đột nhiên trở nên tầm thường khi bước chân vào thành, ngoài ra hắn còn đọc cả những sách liên quan đến lịch sử của cà phê, bệnh giang mai và máy đánh chữ. Khi chán lật những trang sách ẩm ướt nặng nề thì hắn ném sách sang một bên giường rồi uống một lon bia và ngủ. Mùa hè năm đó là một mùa hè như thế.
Vào ngày cuối cùng của tháng Chín, Chu gõ cửa phòng Lai Sinh. Bên ngoài trời đang đổ một cơn mưa rào.
Khi Lai Sinh mở cửa, Chu đang đứng bên ngoài và ướt sũng nước mưa. Vì anh ta cao khoảng một mét chín nên những giọt nước rơi từ chiếc mũ rộng vành chắc hẳn đã lơ lửng trong không khí một lúc. Chu đeo một cái ba lô tám mươi lít có treo túi ngủ, một tay anh ta cầm túi ni lông đựng rất nhiều chai rượu.
“Tôi muốn uống với cậu vài chén trước khi chết.” Chu nói. “Vào đi.”
Ngay khi Chu vừa nhỏ nước ròng ròng vừa bước vào phòng, Giá Đỡ Sách và Đèn Bàn giật mình leo vội lên nóc tháp mèo rồi cuộn người lại. Chu đã gầy đi nhiều. Vốn anh ta đã không phải
dạng người có da có thịt. Chu có cơ thể mảnh khảnh và khung xương to.
Lai Sinh đưa cho Chu hai cái khăn khô. Anh ta cởi mũ và đặt ba lô xuống sàn. Rồi Chu lau đầu và mặt bằng khăn Lai Sinh đưa cho, sau đó chùi nước đọng trên áo khoác da như thể giũ bụi. “Anh không có cả tiền mua ô à?” Lai Sinh hỏi.
“Tôi để quên trên tàu rồi đi xuống luôn. Mua mới thì tiếc lắm.” Chu đáp.
“Người sắp chết mà lại tiếc tiền mua ô sao?”
“Đúng vậy, dù sắp chết vẫn tiếc tiền mua ô chứ.”
Chu cười nhẹ.
“Tôi lấy quần áo cho anh thay nhé?”
“Không cần. Chút nữa là khô ngay. Vả lại cậu cũng đâu có quần áo vừa với tôi. Tay chân cậu ngắn tủn mà.”
“Chiều cao của tôi thuộc loại trung bình đấy nhé. Có mỗi anh là quá khổ thôi.”
Lai Sinh mang cái bếp điện đến trước mặt Chu và pha cà phê. Chu bật công tắc bếp điện rồi hơ lòng bàn tay trên lửa. Hai con mèo tò mò nhảy ra ngoài cái tháp mèo và liếc nhìn Chu. Anh ta vẫy tay với bọn mèo. Chúng để ý đến ngón tay đang cử động của Chu nhưng không đến gần anh ta.
“Chúng không đến với tôi.” Chu thất vọng.
“Vì tôi đã dạy chúng không được đến chỗ người xấu.” Lai Sinh đưa cà phê cho Chu. Anh ta nhận lấy cốc cà phê, uống một hơi hết sạch. Rồi Chu đặt cái khăn ướt xuống sàn, khê
rùng mình. Lai Sinh lại rót đầy cà phê vào cốc cho Chu. “Tôi được treo thưởng bao nhiêu rồi?” Chu hỏi.
“Một trăm triệu.”
“Mua được một chiếc Benz còn gì. Tôi đang tặng cho cậu một chiếc Benz đấy.”
Lai Sinh phì cười.
“Vinh dự quá. Giết anh thì ngoài tiền ra có thể còn thêm cả danh tiếng nữa. Giết được sát thủ giỏi nhất mà lại.” “Danh tiếng thì có ích lợi gì chứ. Tiền mặt mới quan trọng.” “Mà lặng lẽ chết một mình có lẽ cũng không tệ.”
Đang lấy chai rượu từ trong túi ni lông ra, Chu thoáng khựng lại.
“Tôi chết một mình làm gì chứ. Cả đống tiền đấy. Cậu lấy đi. Thời gian qua tôi có làm được gì tốt cho cậu đâu.” “Phải rồi. Đúng là anh chẳng làm được gì tốt cho tôi cả.” Lai Sinh vừa cười vừa nói.
“Nói vậy nhưng không phải tôi mới là người đãi cậu ăn nhiều hơn sao?” Chu nói với vẻ mặt hơi giận dỗi.
“Vậy à? Thế tại sao tôi chẳng nhớ đã từng được anh đãi bữa nào nhỉ?”
“Bất công quá.”
Lai Sinh mang thịt bò khô, hai cái ly và đá từ trong bếp ra. Ngay lập tức Chu lôi mấy chai rượu trong túi ni lông ra đặt lên bàn. Có hai lốc Heineken loại sáu lon, hai chai Jack Daniel, một chai Johnnie Walker Blue Label 750ml và năm chai soju.
“Kết hợp tài tình quá. Anh định uống hết đống này đấy à?” Lai Sinh hỏi.
“Thời gian qua tôi có uống được ly rượu nào đâu.” Chu sắp xếp mấy chai rượu và lon bia trên bàn lại cho gọn. “Tôi mà là anh thì chắc chỉ uống rượu suốt thôi. Lúc lẩn trốn thì có mấy chuyện để làm đâu.”
Chu chỉ mỉm cười không đáp. Anh ta rót đầy rượu Jack DanieLs vào ly rồi uống một hơi. Mỗi khi nuốt rượu ừng ực xuống họng, phần yết hầu lồi ra khác thường của anh ta lại rung lên dữ dội.
“Ngon. Quả thật rất ngon.”
Chu liếm môi, vẻ mặt xúc động như thể cảm kích vì được gặp lại người đã xa cách từ lâu. Lần này anh ta cho hai viên đá vào ly và rót Jack Daniel đầy nửa cốc. Đoạn anh ta cầm ly lên nhìn chằm chằm mấy viên đá đang nổi lên trên rượu một lúc rồi mỉm cười không rõ lý do.
“Tôi đã không dám uống vì sợ đấy.”
Khoảnh khắc đó đôi lông mày rậm của Chu khẽ run lên. “Tôi không ngờ người như anh mà cũng biết sợ cơ.” Lai Sinh vừa giật nắp một lon Heineken vừa nói.
“Say rượu ở nơi không có lấy một người bạn trông chừng cho mình nguy hiểm mà.” Chu thì thầm.
Anh ta uống một hơi hết ly rượu Jack Daniel và nhai luôn cả đá. Tiếng đá vỡ rôm rốp trong miệng Chu gợi cho Lai Sinh một cảm giác kỳ lạ. Thình lình Chu chìa ly của mình ra cho hắn. Lai Sinh bối rối đặt lon Heineken xuống rồi nhận lấy cái ly. Chu cầm
chai Jack Daniel đổ đầy chừng hai phần ba ly rồi nhón tay lấy hai viên đá bỏ vào khiến rượu trong ly sóng sánh mạnh. “Uống đi. Jack Daniel là rượu của đàn ông đích thực đấy.” Chu nhìn Lai Sinh. Không hiểu vì sao mà giọng điệu ra lệnh của anh ta thật khó chịu. Lai Sinh cảm thấy không muốn đồng tình với câu nói đó của Chu, hắn không muốn đồng tình với cả cái gọi là “đàn ông đích thực” lẫn thứ được coi là “rượu của đàn ông đích thực”.
“Rượu dành cho đàn ông đích thực là câu mà mấy tay nấu rượu chế ra để bán cho đàn ông không đích thực như anh đấy.” Chu không cười trước câu đùa đó. Anh ta vẫn đang nhìn Lai Sinh bằng vẻ mặt mong đợi hắn uống một hơi cạn ly rượu mà anh ta mời. Một vẻ mặt khá nghiêm trọng và nặng nề. Lai Sinh nhìn cái ly. Chỗ rượu hơi nhiều để uống cạn trong một hơi. Lai Sinh nhón lấy hai viên đá đang nổi lên trên rượu bỏ ra khay. Rồi hắn uống một hơi cạn ly.
Ngay khi Lai Sinh uống hết ly rượu, Chu tỏ vẻ hài lòng rồi đứng dậy. Anh ta nhìn quanh quất trong phòng rồi đi đến tháp mèo ngắm nhìn lũ mèo. Đèn Bàn nhút nhát nấp trong góc không nhúc nhích, nhưng Giá Đỡ Sách tò mò thì ngập ngừng tiến đến với Chu. Ngay khi anh ta đưa tay ra, Giá Đỡ Sách khịt mũi ngửi mùi của Chu. Anh ta vuốt ve đầu nó. Giá Đỡ Sách vừa cúi đầu xuống vừa rên gừ gừ, tâm trạng ra chiều vui vẻ.
Chu chơi với con mèo một lúc lâu rồi quay về bàn cầm ly rượu đến ngồi ở cuối giường. Rồi anh ta đọc qua loa vài cuốn trong đống sách Lai Sinh vứt bừa bãi trên giường.
"""