"
Những Hoạt Động Phá Hoại Và Lật Đổ Của CIA ở Việt Nam PDF EPUB
🔙 Quay lại trang tải sách pdf ebook Những Hoạt Động Phá Hoại Và Lật Đổ Của CIA ở Việt Nam PDF EPUB
Ebooks
Nhóm Zalo
DƯƠNG THÔNG - LÊ KIM
Những hoạt động
PHÁ HOẠI
VÀ LẬT ĐỒ CỦA CIA
ở Việt Nam
NHÀ XUẤT BẢN CÔNG AN NHÂN DÂN HÀ NỘI
Những hoạt động phá hoại và lật đổ của CIA ở Việt Nam Tác giả: Dương Thông, Lê Kim
NXB Công an nhân dân
Năm xuất bản: Khoảng năm 1990
Scan ebook: fb: Nguyễn Tuấn Đức
chuyển text ebook: fb: Cao Trung Hiếu
Nguồn: quansuvn.net
Epub (02/2019): @lamtam, tve-4u.org
LỜI NHÀ XUẤT BẢN
Cho tới nay trên thể giới đã xuất bản rất nhiều sách viết về Cục tình báo trung ương Mỹ, gọi tắt là CIA: “CIA chống Cuba”, “CIA lũng đoạn lục địa Mỹ La tinh”, “CIA trên đất Thụy Sĩ ", “CIA trong cuộc chiến tranh thể giới thứ hai” … Có thể nói, trên khắp các lục địa của trái đất này, đều có CIA hoạt động. Nước sở tại tố cáo các hành vì tội ác của CIA đã đành, ngay cả nhiều quan chức cấp cao đã từng một thời hoạt động trong hàng ngũ CIA cũng viết nhiều cuốn sách có tính chất hồi ký, phanh phui trước ánh sáng dư luận nhiều mưu đồ và hoạt động đen tối của CIA. Không phải ai khác mà chính người Mỹ đã gọi CIA là “con quái vật”, là “bộ máy gián điệp khổng lồ ngốn nhiều tiền của nhất của nước Mỹ”, là “một chính phủ vô hình” trùm lên chính quyền Mỹ, lũng đoạn cả Nhà Trắng lẫn Lầu năm góc.
Tuy nhiên, cũng cho mãi tới nay, sách báo viết về các hoạt động của CIA tại Việt Nam hãy còn rất ít và quá sơ lược. Trong khi đó, liên tục suốt mấy thập kỷ qua, những tội ác của CIA ở cả hai miền Nam Bắc Việt Nam lại rất nhiều. Nếu cuộc chiến tranh xâm lược của đề quốc Mỹ tại miền Nam Việt Nam được nhiều nhà sử học Hoa Kỳ đánh gía là một cuộc chiến tranh “kéo dài nhất, đẫm máu nhất. tốn kém nhất” và “thất bại thảm hại nhất, toàn diện nhất” trong lịch sử viễn chinh của đế quốc Mỹ, thì các hoạt động đen tối của CIA ở cả hai miền Nam Bắc Việt Nam cũng "được coi là những hoạt động điên cuồng nhất, đa dạng nhất, dai dẳng nhất” và cũng đã từng chuốc lấy “những thất bại cay đắng nhất” kể từ ngày thành lập.
Lịch sử đã chứng minh, trước khi những binh lính vũ trang của Mỹ kéo vào miền Nam Việt Nam thì Các điệp viên CIA đã từng thâm nhập vào miền Bằc Việt Nam. CIA không chỉ dọn đường cho đế quốc Mỹ xâm lược Việt Nam mà ngay cả khi tên lính Mỹ cuối cùng đã rút khỏi sân bay Tân Sơn Nhất CIA còn đề lại một kế hoạch “hậu chiến” đã được chuẫn bị sẵn, ấp ủ nhiều mưu đồ phá hoại lâu dài đất nước Việt Nam. Nhưng lịch sử cũng đã chứng minh, tất cả mưu đồ nham hiểm lâu dài đó của CIA đều đã bị phá sản thảm hại.
Cuộc đấu tranh chống các hoạt dộng phá hoại của CIA ở Việt Nam
là một cuộc đấu tranh rất lâu dài và vô cùng gay go, phức tạp. Thắng lợi của cuộc đấu tranh muôn hình muôn vẻ, không có ranh giới, không có mặt trận này, trước hết là thắng lợi của tinh thần yêu nước và truyền thống bất khuất của toàn dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản quang vinh và Chủ tịch Hồ Chi Minh muôn đời bất diệt. Trong chiến công chói lọi của các tầng lớp nhân dân hai miền NamBắc Việt Nam có phân dóng góp xứng đáng của các lực lượng chiến đâu trên mặt trận thầm lặng trong dó có cán bộ và chiến sĩ trong lực lượng an ninh nhân dân Việt Nam.
Nhân dịp kỷ niệm những ngày lễ lớn của Việt Nam trong năm 1990: kỷ niệm 45 năm ngày thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa sau đổi thành Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, kỷ niệm 43 năm ra đời lực lượng công an nhân dân Việt Nam, Nhà xuất bản Công an nhân dân cho xuất bản cuốn “Những hoạt động phá hoại và lật đổ của CIA ở Việt Nam”.
Đây chưa phãi là cuốn sách tổng kết toàn bộ hoạt động của CIA ở Việt Nam nhưng qua những tư liệu thực giúp bạn đọc hiểu được tổng quát âm mưu, tội ác của CIA đối với nước ta qua từng giai đoạn cách mạng. Những sự kiện ghi lại trong cuốn sách này đều là “việc thật, người thật”. Nguồn tư liệu để viết cuốn sách này rút từ những văn bản do chính các nhân viên cấp cao của CIA tiết lộ, cùng với những chuyện kể của các cán bộ phản gián và cả những lời khai của một số người trước kia cộng tác với CIA nay đã hối cải. Một số tài lỉệu tịch thu được của Mỹ ngụy sau khi giải phóng miền Nam Việt Nam cũng được tận dụng.
Vì bản thân các hoạt động của CIA ở Việt Nam, tự nó đã nói lên sự thật, cho nên người viết không phải bình luận phê phán dài dòng mà chỉ ghi lại trung thực những sự việc cần nêu. Dĩ nhiên do khuôn khổ có hạn, cuốn sách này chưa thể thuật lại đầy đủ toàn bộ các hoạt động của CIA ờ Việt Nam với tất cả các chi tiêt cụ thể. Nhưng dù sao cũng mong rằng những mẫu chuyện dưới đây sẽ góp phần lưu ý bạn đọc ở trong và ngoài nước về những hoạt động của CIA, không phải chỉ riêng ở trên đất Việt Nam mà còn ở nhiều nơi khác trên thế giới: những hoạt động này không phải đã chấm dứt mà nhất định còn tiếp diễn ở nhiều nơi cũng như ở Việt Nam trong hoàn cảnh mới.
Nhà xuất bản cũng như người viết mong nhận được những ý kiến
phê bình, nhận xét của bạn đọc.
NHÀ XUẤT BẢN CÔNG AN NHÂN DÂN
1. CỤC TÌNH BÁO TRUNG ƯƠNG MỸ RA ĐỜI
Sau đại chiến thể giới lần thứ hai, tổng thống Mỹ Toruman trình bày trước quốc hội đề án thành lập một cơ quan mang tên Cục tình báo Trung ương Mỹ, gọi tắt là CIA, nhiều nghị sỹ Mỹ hồi đó cũng mới chỉ quan niệm một cách đơn giản, đây là một bộ máy cần thiết nhằm “tìm hiểu một số nước mà chính phủ Mỹ coi là đối tượng nghiên cứu, đề phục vụ lợi ích an ninh của nước Mỹ” Chính vì vậy, kế hoạch thành lập Cục tình báo CIA đã được quốc hội Mỹ thông qua rất nhanh chóng. Cùng với việc phê chuẩn đạo luật an ninh quốc gia 1917, quốc hội Mỹ cũng tán thành cho CIA ngay từ khi mới bắt đầu thành lập, được hưởng một số điều khoản “miễn trừ” như miễn báo cáo trước quốc hội về toàn bộ danh sách các nhân viên được tuyển mộ, về tài chính, về phương thức hoạt động của CIA ở nước ngoài, dựa trên lý do “cần phải giữ bí mật triệt để". Đến năm 1949 quốc hội Mỹ laij thông qua một đạo luật đặc biệt về các cơ quan tình báo, mở rộng thêm nhiều điều khoản “miễn trừ” cho CIA, thậm chí còn đặc cách cho CIA không phải đặt dưới sự kiểm tra của quốc hội mà trực tiếp do Tổng thống hoặc người được Tổng thống đặc biệt ủy nhiệm chỉ đạo.
Không phải ai khác mà chính một nhân viên cấp cao của CIA là Vichto Masétti đã tố cáo chính những đạo luật “cơ bản” này đã tạo điều kiện thuận lợi cho CIA trở thành một cơ quan lộng hành, một chính phủ “siêu hình” không ai có thể kiểm soát được. Trên thực tế, CIA không phải là một cơ quan tình báo thông thường như các nước khác trên thể giới. Bởi vì CIA của Mỹ không phải chỉ làm nhiệm vụ thu thập tin tức, nghiên cứu, phân tích, tìm hiều đối phương mà còn trắng trợn can thiệp vào tình hình nội bộ của các nước khác. CIA thành lập các đài phát thanh, hàng ngày, hàng giờ tuyên truyền chiến tranh tâm lý, gieo rắc mầm mống chống đối, bạo loạn tại các nước Mỹ coi là thù địch. CIA còn là một tổ chức buôn lậu, vũ khí lớn nhất thể giới và những vũ khí này chủ yếu dùng đề tiến hành các hoạt động phá hoạt và lật đổ. CIA, với nguồn tài chính bất minh bằng con đường buôn lậu ma túy và vũ khí, đã bỏ tiền ra tuyền mộ những tên lính đánh thuê nhằm ,tồ chức những toán thổ phỉ, biệt kích, thậm chí cả những đạo
quân nhỏ dùng vào việc phá hoại và lật đổ. Cũng vẫn những “đồng đôla bẩn thỉu” này, CIA có thể “mua” một số nghị sĩ, bộ trưởng, thậm chí cả Tổng thống mà Mỹ cần lôi kéo hoặc lật đổ một Tổng thống hay cả một chính phủ mà Mỹ không ưa thích.
Mới đầu, mục tiêu chủ yếu của CIA là nhằm vào Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu. Liền sau đó, trước sự lơn mạnh vượt bậc của hệ thống xã hội chủ nghĩa trên thế giới, cộng với cao trào giải phóng dân tộc dâng lên như vũ bão trên phạm vi toàn thế giới mục tiêu của CIA cũng mở rộng không ngửng ngay từ những năm 50 của thế kỷ này. Tức là mới chỉ vẻn vẹn chưa đầy 3 năm sau khi thành lập. CIA đã hầu như “ôm” lấy toàn bộ thể giới: CIA không chỉ dò xét các nước cộng sản mà còn tiến hành các hoại động tình báo, phá hoại, lật đổ tại tất cả các nước xã hội chủ nghĩa, tất cả các nước dân tộc chủ nghĩa, thậm chí còn “nắm trong tay” vận mệnh của các nước chư hầu và các nước tư bản đồng minh của Mỹ nữa. CIA thực sự trở thành một cơ quan tình báo và một trung tâm phá hoại, lật đổ lớn nhất thể giới, đồng thời cũng tàn bạo nhất thể giớị. Dựa vào cái thế là một cơ quan tình báo “Trung ương“, CIA thâu tóm trong tay và khống chế tất cả bộ máy tỉnh báo khổng lồ của nước Mỹ, toàn bộ các cơ quan quân báo của Lầu năm góc, các cơ quan tình báo của bộ ngoại giao, của Sở thông tin, của viện năng lượng nguyên tử Hoa Kỳ... và có thể nói là bất Cứ Bộ nào, Cục nào, vụ, viện nào của Mỹ có bộ máy tỉnh báo núp dưới danh nghĩa “cơ quan nghiên cứu” đều phải phụ thuộc vào CIA.
Sự phát triền nhanh chóng của hệ thống xã hội chủ nghĩa trên thế giới cộng với cao trào giải phóng dân tộc ngày càng dâng cao trên các lục địa Á, Phi rồi Mỹ la tinh càng làm cho chính phủ Mỹ phải tang cường thêm nhiều biện pháp tạo điều kiện thuận lợi cho CIA hoạt động nhằm “ngăn chặn làn sóng đỏ” theo kiểu nói của cơ quan tuyên chuyền “chiến tranh tâm lý” Mỹ. Đặc biệt ở châu Á, tình hình diễn biến theo chiều hướng bất lợi cho chủ nghĩa thực dân cũ và mới càng làm cho đế quốc Mỹ cuống cuồng tìm cách đối phó. Tháng 10 năm 1949 nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa thành lập trên lục địa rộng lớn, bọn Quốc đân đảng thân Mỹ bị đánh bật ra đảo Đài Loan là một sự kiện được Nhà trắng coi là “nghiêm trọng nhất” kể từ khi kết thúc chiến tranh thể giới thứ hai. Bước vào năm 1950 sự lớn mạnh vượt bậc của quân đội nhân dân Việt Nam, đánh dấu bằng những thắng lợi
to lớn trong chiến dịch biên giới làm cho đế quốc Mỹ càng thêm lo lắng.
Theo các tài liệu mật của Lầu năm góc, ngay sau khi lục địa Trung Hoa rơi vào tay những người cộng sản Trung Quốc, chính quyền Mỹ đã “tìm cách bắt liên lạc với cựu hoàng Bảo Đại và cung cấp viện trợ quân sự cho Pháp chống lại Việt Minh”. Cũng vẫn theo các tài liệu mật của Lầu năm góc, đường lối chính sách này của Mỹ đã được Tổng thống Mỹ Tơruman giải thích là nhằm “ngăn chặn sự bành trướng thêm nữa của cộng sản ở châu Á”. Đầu năm 1952, Hội đồng an ninh Mỹ đã họp phiên đặc biệt và sau đó đã ra một bản “tuyên bố về chính sách của Mỹ đối với Đông Nam Á”. Toàn bộ bản tuyên bố này đã được lưu trữ trong đống hồ sơ “tuyệt mật” của Lầu năm góc, nhưng đến năm 1971 đã bị phanh phui, dư luận rộng rãi trên thế giới đã được biết đến cái gọi là “đường lối chính sách” của Mỹ ghi trên giấy trắng mực đen như sau:
Việc cộng sản kiểm soát được Đông Nam Á, sẽ làm cho vị trí Mỹ ở mắt xích Thái Bình Dương trở nên dễ vỡ và sẽ phá hoại nghiêm trọng lợi ich an ninh cơ bản của Mỹ tại Viễn Đông... Việc bảo vệ dược Bắc Kỳ là điều quan trọng đối với nhiệm vụ giữ cho lục địa Đông Nam Á khỏi rơi vào tay cộng sản... Vì vậy, đối với Đông Nam Á nước Mỹ phải... tăng cường các “hoạt động bí mật nhằm giúp đỡ việc thực hiện các mục tiêu ở Đông Nam Á. Đối với Đông Dương, Mỹ phải tiếp tục sự giúp đỡ đối với ba quốc gia liên kết, tiếp tục bảo đảm với Pháp và Mỹ coi cố gắng của Pháp ở Đông Dương là có ý nghĩa quan trọng to lớn về chiến lược, không phải chỉ đối với lợi ich thuần túy của Pháp mà còn cần thiết cho cầ thể giới tự do”.
Tuy nhiên, mặc dù từ năm 1950 chính quyền Mỹ đã bắt đầu viện trợ quân sự cho Pháp tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược trở lại ba nước Đông Dương, quân đội viễn chinh của thực dân Pháp vẫn liên tiếp bị đánh bại nhất là trên chiến trường miền bắc Việt Nam. Đầu tháng 4 năm 1954, giữa lúc các đơn vị tính nhuệ của Pháp đang bị khốn đốn ở Điện Biên, hội đồng an ninh quốc gia của Mỹ đã lại tiến hành một phiên họp đặc biệt dưới sự chủ tọa của tổng thông Mỹ Aixenhao. Ngày 5 tháng 4 năm 1954, một ủy ban đặc biệt được thành lập theo chỉ thị của hội đồng an ninh quốc gia đã soạn thảo một 1 “bị vong lục” bao gồm nhiều chỉ thị tuyệt mật dành cho các cơ quan quân
sự, ngoại giao vào Cục tình báo trung ương Mỹ. Bản bị vong lục nhân mạnh: “Chính sách của Mỹ ở Đông Dương trong lúc này là không chấp nhận một điều gì khác ngoài chiến thắng quân sự ở Đông Dương; lập trường của Mỹ là tranh thủ sự ủng hộ của Pháp đối với quyết tâm này của Mỹ và nếu không được như vậy thì Mỹ kiên quyết phản đối mọi giải pháp thương lượng về vấn đề Đông Dương tại hội nghị Giơnevơ”. Bả vị vong lục còn vạch rõ: “Nếu giữ được Dông Dương thì hành động này sẽ tăng thêm sức mạnh cho việc chống cộng sản ở khu vực, nếu như không giữ được Đông Dương thì đường lối hành động cần thiết là: làm chậm càng lâu càng tốt sự mở rộng quyền lực cộng sản tại khu vực Viễn Đông, kết hợp với các hoạt động phản công nhằm giành lại Đông Dương từ tay cộng sản”.
Trong những “hoạt động phản công” nhằm giành lại Đông Dương”, chính quyền Mỹ cũng đã tính đến chuyện đưa quân đội Mỹ đổ bộ vào Đông Dương cứu nguy cho Pháp. Thế nhưng, sau khi cân nhắc kỹ, tổng thống Mỹ Aixenhao thấy rằng hành động phiêu lưu này bất lợi về mặt chính trị và cũng không bảo đảm thắng lợi về quân sự bởi vì Mỹ cũng đã đưa quân vào Triều Tiên nhưng đến năm 1953 lại phải ký hiệp định đình chiến và lui quân về phía nam vĩ tuyến 38. Vì vậy “hoạt động phản công” được coi như phù hợp nhất trong tình hình Đông Dương lúc này là phá hoại lật đồ chính quyền cộng sản. Việc này giao cho CIA.
Qua những tài liệu văn bản ghi trong tập hồ sơ mật của Lầu năm góc bị tiết lộ trước ánh sáng, mọi người đều thấy rõ, ngay từ khi thực dân Pháp còn đang bị bao vây Điện Biên và hiệp nghị Giơnevơ về Đông Dương chưa ký kết, chính quyền Mỹ đã dự kiến trước kế hoạch “thay chân Pháp” đồng thời “phá hoại và lật đổ chính quyền Việt Minh cộng sản” trong trường hợp Pháp buộc phải rút khỏi khu vực này. CIA là cơ quan chủ yế được giao nhiệm vụ “chặn đứng cộng sản” và “dọn đường cho Mỹ thâm nhập vào Việt Nam” lập tức tuyển mộ ngay một loạt sĩ quan quân báo trước kia đã từng hoạt động trong Sở tình báo chiến lược OSS nhất là những sĩ quan tình báo đã từng hoạt động tại khu vực châu Á, trở lại làm điệp viên của CIA. Trong số những điệp viên cấp cao đầu tiên được cử vào Việt Nam có Etuốt Lênxđên.
Không phải ngẫu nhiên mà Lênxđên lại được tuyển chọn để trao cho “sứ mệnh” này. Theo báo chí Mỹ tiết lộ, trong chiến tranh thế giới
thứ hai Lênxđên đã từng là một sĩ quan quân báo hoạt động tại khu vực Viễn Đông. Khi chiến tranh kết thúc, Sở tình báo chiến lược OSS giải thể, Lênxđên đã được chuyển công tác sang ngành không quân với cấp bậc đại tá. Nhưng liền sau đó chính quyền Mắcxayxaydo Mỹ lập ra ở Philippin đang đứng trước sự uy hiếp của Đảng cộng sản Philippin là một chính đảng đã từng giữ vai trò chủ chốt trong cuộc kháng chiến chống bọn quân phiệt Nhật Bản. đã từng lập ra một đội quân giải phóng và đang đấu tranh giậnh độc lập thật sự cho Philippin. Cục tình báo Trung ương Mỹ đã tìm đến Lênxđên, bí mật tuyển mộ Lênxđên vào hàng ngũ CIA rồi giới thiệu Lênxđên với Nhà trắng đề cử Lênxđên sang Philippin giúp chính quyền Mắcxayxay “dẹp loạn cộng sản”.
Đúng là trong suốt 5 năm làm cố vấn cho tổng thống Philippin Macxayxay, Lênxđên đã đem tất cả “nhiệt tình chống cộng cùng với kinh nghiệm chống du kích” để giúp Mắcxayxay chống lại đội quân “giải phóng nhân dân” Hukhalahap do Đảng cộng sản Philippin thành lập. Do những thành tích đó Lênxđên đã được cục tình báo Trung ương Mỹ “đánh giá cao”. Đầu năm 1954, CIA đã giới thiệu Lênxđên với chính quyền Mỹ và Lênxđên lại được cử sang làm trưởng phái đoàn quân sự Mỹ tại Sài Gòn rồi làm cố vấn cho tổng thống bù nhìn Ngô Đình Diệm cho tới hết năm 1956 mới trở về nước.
Qua những tài liệu văn bản ghi trong tập hồ sơ mật của Lầu năm góc bị tiết lộ, mọi người đều thấy rõ ngay từ khi chưa ký kết hiệp nghị Giơnevơ 1954 về Đông Dương, chính quyền Mỹ đã dự kiến trước một kế hoạch phá hoại và lật đổ tại miền Bắc Việt Nam trong trường hợp thực dân Pháp phải rút khỏi khu vực này. CIA là cơ quan chủ yếu được trao nhiệm vụ này đã lập tức tuyển mộ ngay những cựu sĩ quan quân báo trước kia đã từng hoạt động tại sở tình báo chiến lược Mỹ OSS nhất là những sĩ quan đã từng hoạt động tại khu vực châu Á, làm điệp viên cho CIA. Đại tá Etuốt Lênxđên là nhân viên CIA đầu tiên được chính tổng thống Mỹ Aixenhao cử tới SàiGòn, trực tiếp chỉ đạo các hoạt động “ngăn chặn cộng sản”, như chỉ thị của hội đồng an ninh quốc gia Mỹ đã đề ra từ đầu tháng 1 năm 1954.
Theo chính Lêuxđên tự khoe trong cuốn hồi ký xuất bản năm 1972, nhan đề: “Giữa hai cuộc chiến tranh”, thế giới thứ hai, 1939-1955, ông ta đã từng phục vụ trong lực lượng tình báo chiến lược OSS và sau
khi chiến tranh chấm dứt đã được chuyển sang lực lượng không quân mà ông ta tự coi là “đoạn tuyệt hẳn với nghề quân báo”. Nhưng đến năm 1950 lại được CIA tuyển mộ.
Năm 1963, Lênxđên nghỉ hưu với cấp bậc trung tướng và đến năm 1965 lại trở lại Việt Nam giữ chức vụ trợ tá cho đại sứ Mỹ tại Sài Gòn, mãi đến năm 1968 mới về nước hẳn. Năm 1972 Lênxđên cho xuất bản cuốn hồi ký nhan đề “Giữa hai cuộc chiên tranh” , kể lại khá tỉ mỉ các hoạt động của mình tại miền Nam Việt Nam, đồng thời cũng tiết tộ những âm mưu phá hoại “chính quyền Việt Minh cộng sản” tại miền Bắc Việt Nam.
Lênxdên đặt chân tới SàiGòn hồi cuối tháng 5 năm 1954. Lúc này quân đội thực dân Pháp đã gặp một thất bại “chưa từng thấy” trên chiến trường Điện Biên và hội nghị Giơnevơ về Đông Dương đã bắt đâu họp. Ở Việt Nam, từ ngày 5 tháng 6 năm 1948 Pháp đã ký với Bảo Đại cái gọi là “thỏa hiệp vịnh Hạ Long” và đến ngày 8 tháng 3 năm 1949 đã dựng lên một chính quyền bù nhìn thân Pháp do Bảo Đại làm quốc trưởng. Đến ngày 3 tháng 7 năm 1953 Pháp lại ra tuyên bố nhấn mạnh “đã trao trả độc lập cho Việt Nam” nhưng trên thực tế, chính quyền Bảo Đại chỉ là một chính quyền tay sai của Pháp và“không có thực quyền; Pháp vẫn nắm quân đội, ngoại giao, tài chính, vẫn phát hành và kiểm soát tiền, cũng như vẫn điều hành cái gọi là “ngân hàng quốc gia” Việt Nam. Về phía Mỹ, từ năm 1953 đã thành lập một phái đoàn cố vấn và viện trợ quân sự của Mỹ cho Pháp tại Việt Nam, gọi tắt là MAAG do trung tướng Mỹ Ô Đanieu đứng đầu. Đến năm 1954 lại có thêm một trung tướng Mỹ nữa là Giêm Laotôn Côlon được cử làm đại sứ Mỹ bên cạnh chính quyền Bảo Đại.
Như vậy là trước khi Lênxđên đặt chân tới Sài Gòn, tại đây đã có một tòa đại sứ Mỹ và một cơ quan quân sự Mỹ, Lênxđên đóng vai một nhân viên dân sự làm việc trong tòa đại sứ Mỹ tại Sài Gòn hay vẫn mang quân hàm đại tá không quân làm việc tại phái đoàn MAAG? Để bảo đảm “tuyệt đối bí mật” đồng thời trao cho Lênxđên “toàn quyền hành động”, báo cáo thẳng về Mỹ chứ không phải qua đại sứ hoặc trưởng phái đoàn MAAG. CIA kiến nghị nên lập ra một phái đoàn quân sự nữa, gọi là phái đoàn quân sự Sài Gòn viết tắt là SMM đề Lênxđên và nhóm nhân viên tỉnh báo dưới quyền Lênxđên có cơ sở hoạt động. Báo chí Mỹ cho biết ngay từ hồi đó rất nhiều người Pháp
và cả người Mỹ ở Sài Gòn cũng thắc mắc, không hiểu sao Mỹ đã có mội phái đoàn quân sự MAAG đặt tại Sài Gòn rồi, lại nặn thêm ra một phái đoàn quân sự Sài Gòn nữa, gọi tắt là SMM. Cũng ngay từ hồi đó một số người Mỹ đã mỉa mai châm biếm, cái SMM không phải là phái đoàn quân sự Sài Gòn (Sài Gòn Military mission) mà có lẽ là phái đoàn quân sự bí mật (Secret military mission).
Chính người cầm đầu phái đoàn SMM của Mỹ là đại tá Lênxđên cũng thừa nhận trong hồi ký, khi bắt đầu được trao nhiệm vụ làm trưởng phái đoàn SMM, ông ta đã là một nhân viên cấp cao của cục tình báo CIA. Toàn bộ phái đoàn SMM do Lênxđên phụ trách gồm vẻn vẹn có 18 người, tất cả đều là điệp viên CIA, trong đó một phần là cựu sĩ quan quân báo OSS. Một trợ tá đắc lực cho Lênxđên đồng thời là phó trưởng phái đoàn SMM không phải ai khác mà chính là trung tá Luyxiêng Cônen, cựu sĩ quan quân báo OSS, trong cuộc chiến tranh thế giới thứ hai đã hoạt động tại khu vực biên giới Trung Việt và đã từng thâm nhập vào chiến khu của Việt Minh trong vùng núi rừng Việt Bắc để “giúp đỡ Việt Minh kháng chiến chống phát xít Nhật Bản”. Lênxđên cũng nói rõ, phái đoàn SMM “được lệnh vào Vệt Nam một cách bí mật để giúp người Việt Nam (chỉ bọn ngụy) chống cộng sản chứ không phải đề giúp Pháp” (như phái đoàn MAAG). Về mặt công khai, Lênxđên đóng vai phó tùy viên không quân Mỹ trực thuộc sứ quán Mỹ tại Sài Gòn nhưng lại sinh hoạt tại cơ quan MAAG và đặc biệt là “liên lạc thằng vớí Oasingtơn thông qua chi nhánh CIA tại Sài Gòn!”.
Lênxđên kể lại, ông ta là người đầu tiên trong phái đoàn SMM đã bay thẳng từ Philippin tới Sài Gòn trong chuyến bay sớm nhất kề từ khi nhận được lệnh từ Oasinhtơn và đã tới Sài Gòn bằng một chiếc thủy phi cơ thuộc đội máy bay cấp cứu của Mỹ tại Philippin. Ngay sáng đầu tiên ở Sài Gòn, Lênxđên đã giật mình tỉnh dậy vì những tiếng nổ long trời lở đất do “đặc công Việt Minh tiên đánh một kho đạn của Pháp ở gần sân bay Tân Sơn Nhất”.
Và cũng trong những buổi đầu tiên đó, trong đầu óc Lênxđên đã phác họa một kế hoạch cần phải dựng lên ở SàiGòn một chính quyền triệt đề chống cộng và đặc biệt thân Mỹ, đi đôi với việc làm suy yếu chính quyền “Việt Minh cộng sản”.
Dựa trên kế hoạch rất phù hợp với chỉ thị của chính quyền
Aixenhao này, Lênxđên đã trực tiếp chỉ đạo việc dựng lên một chính quyền “triệt để chống cộng và đặc biệt thân Mỹ” ở miền Nam Việt Nam. Đồng thời sau khi hiệp nghị Giơnevơ được ký kết, Lênxđên đã trao cho phó của mình là Luyxiêng Cônen đặc trách việc phá hoại chính quyền Việt Minh cộng sản tại miền Bắc Việt Nam.
Lênxđên và Cônen đã tiến hành các hoạt động này như thế nào?
2. TÌNH BÁO MỸ THÂM NHẬP
VIỆT NAM TỪ BAO GIỜ?
Vào những năm đầu tiên của thể kỳ này, khi thực dân Pháp đầy mạnh việc bòn rút các tài nguyên Đông Dương đưa về chính quốc, hầu như toàn bộ công cuộc kinh doanh khai thác trên dải đất thuộc địa này đều nằm trong tay các công ty tư bản người Pháp. Tuy nhiên, một số các nhà kinh doanh Anh, Mỹ, Hà Lan,…cũng vẫn cố len vào được, chiếm lĩnh những lĩnh vực mà tư bản Pháp không thể vươn tới. Lúc này, các công ty dầu mỏ Shell, Callex, Standard Oli đang đẩy mạnh việc khai thác dầu mỏ ở Inđônêxia, hồi đó còn gọi là Nam Dương và cũng đang ráo riết tìm thị trường tiêu thụ. Từ Nam Dương, dầu mỏ đã được đưa bằng đường biển tới Hải Phòng và Sài Gòn để rồi từ đó lại phân phối đi tất cả cơ sở của chính quyền thực dân Pháp trên toàn cõi Đông Dương, đồng thời bán lẻ cho cả nhân dân Việt Nam, Lào, Campuchia dùng vào việc thắp sáng. Chính trong những năm này, chiếc đèn thắp bằng dầu mỏ do Mỹ chế tạo, với tên gọi phổ biến là “đèn dầu Hoa Kỳ” đã tuần tự thay thế những ngọn đèn thắp bằng đầu lạc cồ xưa của Việt Nam. Với mặt hàng kinh doanh hầu như độc quyền này, các công ty lũng đoạn Mỹ đã kiếm được khá nhiều lợi nhuận.
Cho tới trước khi bùng nổ chiến tranh thế giới thứ hai, thậm chí ngay cải khi quân đội Nhật Bản đã kéo vào Đông Dương hồi tháng 9 năm 1940 rồi phải đến cuộc chiến tranh Thái Bình Dương ngày 7 tháng 12 năm 1941, các đại lý dầu mỏ của Mỹ, Anh, Hà Lan đặt tại các cửa biển Hãi Phòng, Sài Gòn, Đà Nẵng (hồi đó còn gọi là Tuaran hoặc Cửa Hàn) vẫn tiếp tục làm ăn phát đạt. Giám đốc chi nhánh công ty dầu mỏ Slandarde Oil của Mỹ đặt tại Hải Phòng trong khoảng thời gian này là Aontin Glatxơ, một người Mỹ nói tiếng Pháp khá thạo, giao thiệp rộng. Từ Hải Phòng, công ty Standard Oli của Mỹ có cả một hệ thống đại lý suốt dọc đường 5 tới Hà Nội, ,rồi từ Hà Nội lại trải dài theo con đường thuộc địa số 1qua các thành phố, tỉnh lị, thị trấn tới tận Sài Gòn. Phụ trách các đại lý dầu mỏ này đều là người Việt Nam hoặc người Hoa do Aontin Glatxơ tuyển mộ, trả lương tháng hoặc cho
hưởng hoa hồng, thanh toán sau khi tiêu thụ hết hàng. Vốn là một nhà kinh doanh cần cù, năng nổ, ông Aontin Glatxơ thường tận dụng con đường “xuyên suốt Đông Dương” để đi thăm các đại lý đặt rải rác ở khắp các địa phương rất chăm chỉ, đều đặn. Mỗi chuyến đi như vậy ông thường kết hợp cả việc du ngoạn thưởng thức phong cảnh, quan tâm đến cả phong tục tập quán của các dân tộc.
Chi nhánh Standard Oil do Aontin Glatxơ đứng đầu cũng có những quan hệ chặt chẽ với các chi nhánh bạn, nhất là với hãng Callex (tên gọi một công ty dầu mỏ Mỹ kết hợp giữa các nhóm thuộc bang Caliphonia và bang Têchxớt). Đứng đầu chi nhánh dầu mỏ Caltex là Laorenxơ Gođơn, một người Anh ra đời ở Canada và làm việc cho công ty dầu mỏ Mỹ. Năm 1940 khi quân dội Nhật Bản đổ bộ lên Hải Phòng được ít ngày. Người ta thấy ông Gođơn trở về Mỹ báo cáo công việc kinh doanh với ban giám đốc, đặt trụ sở tại thành phố Caliphonia. Cuối năm 1941, Ông Gođon đang chuẩn bị lên đường trở lại Hải Phòng thì đột nhiên Nhật Bản mở cuộc tiến công vào hàng loạt các vị trí chiến lược của Mỹ, Anh, Hà Lan trong khu vực Châu Á và Thái Bình Dương. Gođon không đi Đông Dương nữa nhưng cũng không ở lại Caliphonia mà lại đi Ấn Độ và dừng lại Niuđêli khá lâu.
Chỉ sau khi chiến tranh kết thúc, mọi người mới được biết, trong chặng dừng chân ở Ấn Độ (lúc đó còn là thuộc địa của Anh) nhà kinh doanh dầu mỏ Gođon đẫ được “bí mật phong quân hàm đại úy” và nhận nhiệm vụ của cơ quan tình báo chiến lược Anh. Từ NiuĐêli, Gođơn đã đáp máy bay quân sự của Anh tới Trùng Khánh, nơi đặt cơ quan chính phủ của Tưởng Giới Thạch, đồng thời cũng là nơi đặt trụ sở của bộ chỉ huy quân sự Mỹ khu vực Hoa Nam và các sứ quan Mỹ, Anh. Tại Trùng Khánh, Gođon đã gặp lại người bạn cũ hồi cùng nhau đảm nhiệm công việc kinh doanh ở Hải Phòng. Đó là Aontin Glatxơ lúc này đã là thiếu tá quân bào. làm việc trong sở công lác chiến lược Hoa Kỳ, gọi tắt là OSS, Aontin Glatxơ đã đình chỉ hẳn công việc “bán dầu” ở Đông Dương và chuyển sang việc “mua tin tinh báo” và thu lượm các tin tình báo từ miền Bắc Việt Nam, bí mật chuyền tới Trùng Khánh cho cơ quan OSS. Lúc này OSS đang cần có một mạng lưới điệp viên ở Việt Nam. Theo sự giới thiệu của cơ quan tình báo chiến lược Anh, tướng Uyliam Đônôvan chỉ huy sở công lác chiến lược
OSS của Mỹ đã “kết nạp” luôn Gođơn làm “cộng tác viên” cho OSS. Từ tháng 4 năm 1944, Godơn trở thành một gián điệp kép, vừa phục vụ cho tình báo Anh, vừa phục vụ cho tình báo Mỹ. Trên thực tế, Gođơn làm việc cho Mỹ nhiều hơn vì những mục tiêu của Mỹ ở Đông Dương hồi đó cũng nhiều hơn của Anh. Việc trước mắt mà sở công tác chiến lược OSS của Mỹ giao cho Gođơn là điều tra xem có bao nhiêu phi công Mỹ lái máy bay tới ném bom các vị trí quân sự của Nhật Bản và bị Nhật Bản bắn rơi đang bị giam giữ ở những nơi nào.
Cùng hoạt động Với Gođơn trong thời kỳ`này, còn 2 cựu nhân viên hãng Caltex, người thứ nhất là Phrencơ Tân, một người Mỹ gốc Hoa sống lâu năm ở Hải Phòng, người thứ hai là Hari Bônat, đã từng làm đại lý cho hang Caltex tại Sài Gòn và thường được nhân dân địa phương gọi theo tên Pháp là ông Becna. Tổ ba người này trong các báo cáo mật gửi tới rụ sở OSS tại Trùng Khánh thường ký tắt là GBT tức là Gođơn, Bônat, Tân. Nhóm GBT đã bí mật tuyển mộ một số người Hoa và người Việt Nam làm cộng tác viên trong việc dò xét phi công Mỹ bị bắn rơi và bị quân đội Nhật Bản giam giữ.
Tháng 10 năm 1944, đại úy Akênidici Path. Phụ trách mạng lưới tình báo của ORS ở khu vực Địa Trung Hải, được thăng cấp thiếu tá rồi được thuyên chuyển tới Hoa Nam, đặc trách về vấn đề Đông Dương dưới quyền tướng Risơt Hepnơ, chỉ huy trưởng cơ quan OSS khu vực Hoa Nam, đặt trụ sở tại Côn Minh. Nhiệm vụ của sở công tác chiến lược OSS lúc này không chỉ đơn giản trong việc đó xét các khu vực có giam giữ phi công Mỹ bị bắn rơi ở Đông Dương rồi tìm cách giải thoát mà còn phải điều tra nghiên cứu toàn bộ hệ thống đóng quân của Nhật Bản ở Đông Dương. Lúc này các lực lượng đồng minh ở khu vực Thái Bình Dương đang dồn dập phản công quân đội Nhật Bản. Trong các phương án tác chiến của Bộ Tư lệnh quân đội Mỹ khu vực Thái Bình Dương có dự kiến cả việc đổ bộ vào Đông Dương khi có thời cơ và điều kiện. Cơ quan tình báo chiến lược của Mỹ ở Hoa Nam có nhiệm vụ điều tra mọi hoạt động quân sự của Nhật Bản trên đất Đông Dương, từ việc bố trí quân, điều động quân đến các thành phần bình lực.
Patti vừa tới Côn Minh được vài tháng thì vào ngày 9 tháng 3 năm 1945 quân đội Nhật Bản đóng tại Đông Dương tiến hành đảo chính quân sự lật đổ chính quyền thực dân Pháp. Chỉ trong vài giờ, toàn bộ
hệ thống cai trị của thực dân Pháp thiết lập hàng thế kỷ trên đất Đông Dương bị xóa sạch. Tất cả cá đơn vị vũ trang của Pháp, trừ một vài đơn vị kịp chạy trốn sang Trung Quốc, số còn lại đều bị Nhật Bản tước vũ khí và bắt giam trong các trại tập trung. Hơn thế nữa, nếu như trước kia cơ quan tình báo chiến lược của Mỹ thường dựa vào tổ chức kháng chiến bí mật của Pháp (gồm những người thuộc phái Đờ Gôn) để thu thập tin tức về Nhật Bản, thì sau ngày đảo chính toàn bộ hệ thống kháng chiến bí mật của phái Đờ Gôn trên đất Đông Dương cũng bị tan rã hết, không sao hồi phục lại được. Tất cả các cơ sở tình báo của Aontin Glatxơ cũng như của nhóm GBT mới chỉ cung cấp cho OSS được một bản danh sách gồm họ tên của 9 phi công Mỹ bị bắn rơi còn sống sót và nơi giam giữ họ từ nay cũng bị Nhật Bản quét sạch.
Sau này, theo chính Patti kề lại trong cuốn hồi ký “Tại sao Việt Nam?” xuất bản năm 1980 cho biết, tại Côn Minh lúc này tập trung rất nhiều cơ quan tình báo của Mỹ, Anh, Pháp, Trung Quốc, nhưng tất cả đều bị “bật gốc” không có được một chút “chân rết” nào ở Việt Nam. Patti cũng đã tiếp xúc với một loại nhân vật tự xưng là lãnh tụ các phong trào cach mạng đang bị truy nã, phải chạy trốn sang Trung Quốc như Việt Nam quốc đân Đảng, Đại Việt, Việt Nam phục quốc hội nhưng không một phong trào nào trên đây có được thực lực ở Việt Nam.
Vẫn theo lời Patti kể lại, ngay từ khi còn ở Oasinhtơn, trong lúc nghiên cứu các hồ sơ về những phong trào cách mạng ở Việt Nam, lần đầu tiên Patti phát hiện được một bức điện từ đại sứ quán Mỹ ở Trùng Khánh về nước, đề ngày 31 tháng 11 năm 1942, trong đó đại sứ Mỹ báo tin có một phong trào của người Việt Nam đề nghị chính phủ Mỹ dùng ảnh hưởng của mình vận động chính quyền Tưởng Giới Thạch trả tự do cho ông Hồ Chí Sĩ bị bắt vì một sự hiểu lầm tại Liễu Châu ngày 2 tháng 9 năm 1942.
Lúc đó, Patti cứ tưởng Chí Sĩ là tên vị lãnh tụ đứng đầu mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh hội và là đại diện của Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức tới Hoa Nam tìm gặp các lực lượng đồng minh để yêu cầu giúp đỡ, cùng chống đế quốc Nhật Bản. Khi tới Côn Minh, Patti mới rõ thêm. Hồ Chí Sĩ tức là lãnh tụ Hồ Chí Minh. Sau khi tìm gặp, Aoxtin Glatxơ để hỏi thêm Hồ Chí Minh là ai, Patti mới lại được
biết rõ Cụ Hồ là một nhân vật rất có uy tín lãnh đạo phong trào cộng sản ở Việt Nam.
Vào thời gian này, tướng Trương Phát Khuê tư lệnh đệ tứ chiến khu của Tường Giới Thạch ở Hoa Nam đã buộc phải trả lại tự do cho Cụ Hồ. Từ Liễu Châu, Cụ Hồ đã về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng nhưng đầu năm 1945 Cụ lại đến Côn Minh và một buổi chiều tháng 4 năm 1945, Patti đã được gặp Cụ. Patti thừa nhận, ngay trong cuộc tiếp xúc đầu tiên này, Cụ Hồ Chí Minh đã gây được một ấn tượng mạnh đối với Patti, mội điệp viên tình báo nhà nghề lão luyện của Mỹ. Từ lời nói, cử chỉ, thái độ của Cụ Hồ đều tỏ rõ Cụ là một nhà hoạt động cách mạng lão thành, một nhà yêu nước chân chính, kiên cường chống chủ nghĩa thực dân và đế quốc. Patti cũng thừa nhận, mặt trận Việt Minh là phong trào cách mạng duy nhất có thực lực ở Việt Nam. Mặt trận Việt Minh có căn cứ địa vững chắc, có vùng giải phóng xuyên suốt 6 tỉnh ở vùng thượng du Bắc Bộ, có lực lượng vũ trang đang tiến hành chiến tranh du kích chống lại Nhật Bản. Patti nhận định. muốn có được những tin về hoạt động quân sự của Nhật Bản ở Dông Dưong thì nhất định phải dựa vào Việt Minh, bởi vì chỉ có Mặt trận Việt Minh là có cơ sở cách mạng rộng khắp trong nước. Patti cũng nhận định, sau nàỳ nếu lực lượng đồng minh đổ bộ vào Đông Dương thì nhất định cũng phải dựa vào Việt Minh là lực lượng duy nhất có thể đánh vào phía sau quân đội Nhật Bản.
Lúc này, giữa đại sự quán Mỹ và cơ quan tình báo chíến lược Mỹ ở Hoa Nam có hai luồng ý kiến trái ngược nhau. Sứ quán Mỹ không muốn giúp đỡ Việt Minh vì “đây là một phong trào có khuynh hướng cộng sản và nhất là trong mặt trận Việt Minh có đang có đảng Cộng sản làm nóng cốt”. Nhưng cơ quan tình báo chiến lược OSS, trên tinh thần thực tế và thực dụng lại chủ trương phải có quan hệ tốt với Việt Minh vì “Đây là phong trào cách mạng duy nhất có thực lực đang chống lại Nhật Bản một cách có hiệu quả ở Đông Dương“. Những người thuộc phái này lập luận, tại sao Mỹ đã bắt tay với Liên Xô đề cùng chống phát xít mà lại không hợp tác được với những người Cộng sản Việt Nam đề cùng chống “Nhật Bản”? Theo Patti, ngay từ cuối năm 1942, ban tham mưu của cơ quan tình báo chiến lược OSS được sự tán thành của Hội đồng tham mưu trưởng liên quân JCS đã vạch kế hoạch sử dụng các lực lượng kháng chiến của Cộng sản Trung Quốc. Triều Tiên, Việt Nam đề chống lại Nhật Bản và đã được
Bộ Ngoại giao Mỹ đồng ý trên nguyên tắc. Riêng tại Đông Dương, từ năm 1944 các báo cáo của nhóm tình báo GBT gửi về OSS đều khẳng định sở dĩ giải thoát được một số phi công Mỹ bị bắn rơi “là nhờ sự cộng lác có hiệu quả của những người Việt Nam thuộc một phong trào chính trị vững mạnh đấu tranh cho độc lập”. Phong trào này Nhật Bản, Pháp và Trung Quốc (Tưởng Giới Thạch) đều gọi là “phong trào cộng sản” nhưng các báo cáo của cơ quan tình báo chiến lược Mỹ lại gọi là “phong trào chống thực dân, chống đế quốc Nhật Bản và thân đồng minh”.
Trên cơ sở của những lý lẽ đó, cơ quan tình báo chiến lược OSS của Mỹ ở Hoa Nam tiếp tục quan hệ với Mặt trận Việt Minh. Bộ tư lệnh quân đội Mỹ ở Hoa Nam cũng đồng ý cử một số sĩ quan tới giúp đỡ các lực lượng vũ trang của Việt Minh về quân sự. Patti kề lại, trong những ngày trung tuần tháng 8 năm 1945, cơ quan OSS ở Hoa Nam đã theo dõi chặt chẽ những cuộc hành quân của bộ đội Việt Minh, có một số sĩ quan OSS cũng phối hợp, trên bước đường từ chiến khu Việt Bắc tiến về Hà Nội. Mãi tới ngày 23 tháng 8 năm 1945 Patti mớí đáp máy bay hạ cánh được xuống sân bay Gia Lâm đề chuẫn bị cho việc giải giáp quân đội Nhật Bản ở Đông Dương thì Việt Minh đã giành được chính quyền ở Hà Nội ngày 19 tháng 8 và đến ngày 23 tháng 8 thì giành được chính quyền trong cả nước.
Patti đã gặp lại Cụ Hồ Chí Minh, đã dự lễ mừng độc lập ngày 2 tháng 9 năm l945 tại quảng trường Ba Đình, trong dó Cụ Hồ Chí Minh trên cương vị Chủ tich nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa long trọng tuyên bố trước nhân dân Việt Nam và toàn thế giới “Việt Nam là một nước độc lập và trên thực tế đã trở thành một nước độc lập”.
Patti đã ghi lại trên giấy trắng mực đen trong sách sự nhiệt liệt ủng hộ của toàn dân Việt Nam đối với Mặt trận Việt Minh, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong phần cuối cuốn sách dày 612 trang, Patti trân trọng ghi lại buổi lưu luyến chia tay với Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Hà Nội và những lời Chủ tịch Hồ Chí Minh mong muốn xây dựng một nước Việt Nam độc lập, thống nhất, hòa bình, có quan hệ hữu nghị và quan hệ kinh tế với các nước trong đó có Mỹ.
Những lời thừa nhận của Patti, người đặc trách vấn đề Đông Dương trong cơ quan tình báo chiến lược OSS của Mỹ đã khẳng định, trước khi thành lập Cục tình báo Trung ương Hoa Kỳ CIA thì tình
báo Mỹ đã thâm nhập Việt Nam. Họ đã phát hiện được những gì? Họ đã tìm thấy ở Việt Nam một dân tộc yêu nước chuộng hòa bình, độc lập, tự do, kiên cường chống chủ nghĩa thực dân và chủ nghĩa đề quốc. Họ đã tìm thấy ở nhân dân Việt Nam, qua mặt trận Việt Minh, một lực lượng kháng chiến trên thực tế đã giúp đỡ Đồng Mình, nhất là giúp đỡ Mỹ trong cuộc chiến đấu chung chống đế quốc Nhật Bản xâm lược. Sẽ không xảy ra cuộc dụng đầu lịch sử giữa Mỹ và Việt Nam nếu ngay từ ngày đó chính quyền Mỹ duy trì những quan hệ tốt với Việt Nam.
Thế nhưng sự thật đã trái ngược hẳn. Ngay từ khi lao vào cuộc “chíẽn tranh lạnh” trên quy mô toàn thế giới Mỹ đã lại tiến hành các hoạt động phá hoại chống Việt Nam (do CIA đảm nhiệm).
3. BAO NHIÊU ĐIỆP VIÊN CIA ĐÃ
HOẠT ĐỘNG Ở VIỆT NAM?
Ngày 1 tháng 5 năm l976, nhân kỷ niệm một năm chế độ tay sai Mỹ ở Sài Gòn hoàn sụp đổ, hãng tin Mỹ UPI đã truyền đi toàn thể giới một mẩu tin “giật gân” như sau:
“Một nhà phân tích chiểm lược của Mỹ, trước kia đã từng làm việc tại sứ quán Mỹ ở Sàị Gòn cho biết: Khi Sài Gòn sụp đồ, nhiều tài liệu tình báo tối mật đã bị cộng sản tịch thu. Những tài liệu này có thể tiết lộ phần lớn những hoạt động tình báo của Mỹ và tên tuổi của bất cử người nào đã cộng tác với cục tình báo TW Mỹ,dù ở mức độ ít nhất”.
Tiếp đó, tờ Bưu điện Oasinhtơn số ra ngày 31 tháng 5 năm 1976, cho biết thêm chi tiết.
“…Ông Phranco Xnép là một quan chức Mỹ rời Sài Gòn trong ngày cuối cùng kể lại với bản báo rằng các hồ sơ mật của Nguyễn Văn Thiệu đã bị bỏ lại Sài Gòn, không mang theo được khi di tản. Xnép coi đây là một tấn bi kịch và cho rằng các hồ sơ này có thề tiết lộ rất nhiều về hoạt động tình báo của Mỹ và cho phép cộng sản phát giác được các nhân vật tình báo Mỹ cũng như bất cứ người Việt Nam nào đã giúp tình báo Mỹ ở mức độ nhỏ nhất. Xnép tin là cộng sản có một điệp viên đã nắm được những tin quan trọng nhất của chính phủ Thiệu, trong khi dó giám đốc CIA ở Sài Gòn là Tônét Pôngar và đại sứ Mỹ Graham Matin lại bị mắc lừa do những “màn khói” cộng sản tung ra ...”
Trước khi trích dẫn một số tài liệu “mật“, “tối mật” và “Tuyệt mật” tịch thu được của Mỹ ngụy khi quân ta tiến vào Sài Gòn, xin giới thiệu với bạn đọc một tài liệu công khai viết về CIA ở Việt Nam và trên thế giới. Đó là cuốn WHO'S WHO IN CIA do Giuliút Mađơ chủ biên, với sự cộng tác của Môhamet Ap dennabi ở Li Băng, Ambanlan Bhát ở Ấn Độ. Phecnandô Gamma ở Mêhicô và Xôgiô Ôhasi ở Nhật Bản. Đây là một cuốn sách đầy tới 605 trang ghi danh sách và lý lịch vắn tắt của 3000 quan chức tình báo Mỹ hoạt động ở 120 nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Trong những trang đầu của cuốn sách, sau lời tựa là ảnh chụp bức thư của thượng nghị Sĩ Giôdep Clac ủy
viên ủy ban đối ngoại thượng nghị Viện Hoa Kỳ, ngỏ lời hoan nghênh nhóm biên soạn đã giúp đỡ thượng nghị viện Mỹ trong cuộc đấu tranh chống sự lộng hành của cục tình báo Trung ương Mỹ CIA. Tiếp đó là một loạt dài dằng dặc họ tên các quan chức tình báo Mỹ xếp theo thứ tự A,B,C,…kèm theo ngày sinh, nơi sinh và những nơi đã hoạt động gián điệp.
Một điều rất đáng chú ý là, cuốn sách điểm mặt 3000 gián điệp Mỹ hoạt động ở 120 nước trên thế giới, nhưng riêng tại hai miền nam bắc Việt Nam đã có tới 133 nhân viên tỉnh báo Mỹ, nhiều gấp bội so với số nhân viên Mỹ đã hoạt động ở Nam Triều Tiên (85 tên), nhiều hơn cả số nhân viên tình báo Mỹ làm việc tại Nhật Bản (122 tên). Chỉ riêng điều đó cũng đủ nói lên tầm chiến lược của Việt Nam đối với Mỹ quan trọng biết chừng nào, và dải dất miền Nam Việt Nam dưới thời kỳ còn chế độ Mỹ-ngụy đã được cục tính báo Trung ương Hoa Kỳ chú trọng tới như thể nào.
Cũng cần nhấn mạnh thêm, cụm từ “Whós Who” thường chỉ dùng để viết về những người “có tên tuổi” trong cuốn “Vhss Who in CIA” và Giuliút Mađơ dày công sưu tầm tài liệu, cũng mới chỉ thu thập được khoảng 3000 điệp viên thuộc loại “quan chức” trong bộ máy gián điệp của Mỹ phần lớn đều đã lộ mặt. Còn bao nhiêu người nữa đang hoạt động bí mật thì đến quốc hội Mỹ cũng không sao biết được.
Dĩ nhiên, con số điệp viên CIA ghi trong cuốn “danh bạ” này chưa thể nào đây đủ bởi vì nhóm biên soạn của Giuliút Mađơ không thể nào biết được hết những điệp viên CIA đang còn hoạt động bí mật, chưa bị lộ mặt. Vả lại, cuốn sách này xuất bản từ năm 1958, khi kết thúc nhiệm kỳ của tổng thống Mỹ Linđơn Ben Giônxơn, vào thời điềm cả hai viện trong quốc hội Mỹ đang đòi phải đặt cơ quan CIA dưới sự kiểm soát của Quốc hội. Vậy thì, từ năm 1969 đến năm 1975 là khi chế độ ngụy Sài Gòn sụp đổ, các vị tổng thống Risớt Nícxơn và Giêrôn Pho còn ném sang Việt Nam bao nhiên điệp viên CIA nữa ?
Một điều thú vì là cuõn “danh sách kèm theo lý lịch” 3000 điệp viên CIA này ta đã thu được trong đống hồ sơ tài liệu chất đầy cơ quan tồng nha cảnh sát ngụy ở Sài Gòn: Rõ ràng cơ quan mật vụ của ngụy vẫn chăm chủ nghiên cứu tìm hiều các hoạt động của quan thầy. Trong số các nhân viên cảnh sát ngụy bị mắc kẹt không di tản được lần lượt ra thú tội với cách mạng có Nguyễn Thị Thanh Thủy, thiểu tá,
chỉ huy lực lượng cảnh sát đặc nhiệm trực thuộc tồng nha cảnh sát thường được gọi dưới cái tên quen thuộc là “biệt đội Thiên nga Trung ương”. Khi được hỏi liệu cơ quan mật vụ ngụy có ước lượng được bao nhiêu điệp viên CIA đã được phái tới hoạt động trên dải đất miền Nam Việt Nam này không? Thủy lắc đầu, phát biều:
- Thưa ông, có trời mà biết được họ đã sang đây tới bao nhiều người bao nhiêu lần và đã hoạt động trong các lĩnh vực nào. Cán bộ ta hỏi gặng:
- Nhưng ít nhất, cô cũng biết được có những nhân viên nào đã tới đây làm “cố vấn” cho tổng nha cảnh sát chứ? Ít nhất, riêng cô cũng biết hoặc cũng quen thân với những nữ nhân viên CIA nào đã tới đây trong khoảng thời gian từ 1969 đến 1975 trên cương vị chỉ đạo hoạt động cho cái biệt động Thiên Nga của cô chứ?
Không cần nghĩ ngợi lâu. Thủy trả lời ngay:
- Dạ, thưa quý ông, điều này thì em rất rành.
Nói rồi, Thủy cầm bút bi, ghi ngay trên trang giấy cuốn sổ tay của cán bộ ta, vừa ghi vừa nói:
- Thưa quý ông, em còn nhớ năm 1965 có nữ thiếu tá Catholin Oaicơ. Năm 1966 có nữ trung tá Bennét. Nãm 1967- 1968 có nữ trung tá Sapphin. 1969 - 1970 có nữ trung tá Rôtxi. 1970 - 1971 có nữ trung tá An Xmit. Biệt đội Thiên Nga trung ương của chúng em được thành lập hồi tháng 8 năm 1968. Liền đó, trong khoảng thời gian 1968 - 1969 có nữ thiếu tá Hanlơ huấn luyện nghiệp vụ cho chúng em. Tiếp đó, trong khoảng thời gian 1969 - 1970 có nữ đại úy Rôđơmari Ly Đêvit. Bà này, do quen thân nên đến nay em vẫn còn nhớ rõ họ tên, gương mặt, tánh nết. Khoâng 1970 - 1972 có nữ đại úy Bragiơcôvich. Đó là bà cố vấn cuối cùng của chúng em, vì bước sang năm 1973 theo hiệp định Pari, quân nhân Mỹ phãi rút khỏi miền Nam Việt Nam, ở Sài Gòn lúc đó chỉ còn có nhân viên CIA trong một số ngành dân sự...
Nguyễn Thị Thanh Thủy đã dành hẳn ba ngày, viết báo cáo kế lại với cán bộ ta những hoạt động của “bìệt dội Thiên Nga Trung ương”, cũng như các hoạt động của tổng nha cảnh sát ngụy và nhất là các hoạt động của CIA trên đất Việt Nam mà Thủy và các cấp trên của Thủy biết được.
Qua những lời cung khai trên giấy trắng mực đen của Nguyễn Thị Thanh Thủy và đồng bọn cộng với những tài liệu trên giấy tờ văn bản đã thu lượm được ở Sài Gòn sau ngày giải phóng, các hoạt động của CIA trên đất Việt Nam quả là muôn hình muôn vẻ. Những nhân viên CIA được cử tới Việt Nam cũng rất phong phú. Trong số này, có những tên “cáo già” mà ngay đến cả nhiều nhân vật tai to mặt lớn trong hàng ngũ ngụy quân ngụy quyền khi nghe nhắc đến tên hằn, cũng rất gờm, cảm thấy “ớn lạnh sống lưng”. Ví dụ như Luyxiêng Cônen.
Theo kế lại, Luyxiêug Cônen vốn là dân Pháp, đẻ ở Paris. Khi mới 5 tuổi, Cônen đã sớm mồ côi cha. Mẹ muốn đi bước nữa đã gửi Cônen cho chị gái nuôi dậy. Chị Cônen lấy chồng Mỹ. sống ở thành phố Kenxớt. Ít lâu sau Cônen gia nhập quốc tịch Mỹ và trở thành công dân Mỹ. Khi chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, nước Pháp thua trận bị phát xít Đức chiếm đóng. Cônen tình nguyện phục vụ trong sở công tác chiến lược (OSS) tức là cơ quan tình báo chiến lược, tiền thân của CIA. Theo lệnh của OSS, Cônen đã bí mật nhẩy dù xuống đất Pháp, bắt liên lạc với đội du kích kháng chiến của Pháp để tiến hành do thám các lực lượng quân Đức chiếm đóng nước Pháp, nhằm phục vụ cho cuộc đổ bộ quy mô lớn của lực lượng đồng minh Mỹ, Anh, Canađa lên đất Pháp năm 1944. Khi chiến tranh ở châu Âu kết thúc, Cônen lại được OSS cử sang châu Á, hoạt động trong một đội biệt kích chống phát xít Nhật Bản và đã tiến hành nhiều cuộc hành quân trinh sát trong khu vực biên giới Việt -Trung.
Cuộc đời của Luyxiêng Cônen cho tới khi kết thúc cuộc chiến tranh thế giới thứ hai, có thề nói là đáng ca ngợi. Đó là một thanh niên yêu nước, một sĩ quan mưu trí dũng cảm, một tình bảo viên gan dạ, trung thành với sự nghiệp chống chủ nghĩa phát xít. Nhưng cũng trong lúc Luyxiêng Cônen leo lên tới đỉnh cao của tài năng và phầm chất thì cũng là lúc anh ta trượt dài trên sườn dốc của một nhân Vật phản động tàn bạo phục vụ cho những mưu đồ phi chính nghĩa.
Sau khi chiến tranh thể giới thứ hai kẽt thúc, sở công tác chiến lược của Mỹ giải tán, Luyxiêng Cônen và nhiều đồng nghiệp đã giải ngũ trở về tổ quốc sống một cuộc sống thanh bình và lương thiện. Nhưng rồi Cục tình báo trung ương Hoa Kỳ được thành lập vào năm 1947. Luyxiêng Cônen và một sỏ cựu sĩ quan của tổ chức OSS lại
tình nguyện phục vụ cho CIA. Dưới sự chỉ đạo qủa quan thầy mới, suốt trong những năm 50 của thể kỷ này Luyxiêng Cônen đã tiến hành hàng loạthành động phá hoại lật đổ, chống lại phong trào giải phóng dân tộc và chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc Việt Nam, Iran, Hunggari,… Khi quay trở lại miền Nam Việt Nam hồi đầu năm 1962, Luyxiêng Cônen đã leo tới cấp bậc trung tá và trở thành một 1 chuyên gia lão luyện về các hoạt động tình báo, gián điệp, chống cộng sản, chống phong trào giải phóng dân tộc. Với những thành tích như vậy, đồng thời lại nổi tiếng là một tình báo viên sành sỏi về các vấn đề châu Á trung tá Luyxíêug Cônen đã được mời giữ chức “cố vấn đặc biệt” cho Bộ Nội Vụ ngụy Sài Gòn. Theo lời nhiều nhân viên mật vụ cũ của ngụy quyền Sài Gòn kể lại, chính Luyxiêng Cônen đã là “giảng sư” chuyên “lên lớp nghiệp vụ” cho nhiều nhân vật cấp cao thuộc Bộ Nội Vụ ngụy. Luyxiêng Cônen cũng có nhiều quan hệ mật thiết với Tổng thống Ngô Đình Diệm, với ông cố vấn Ngô Đình Nhu, bà đệ nhất phu nhân Trần Lệ Xuân, với bác sĩ Trần Kim Tuyến trùm mật vụ Sài Gòn vá với hàng loạt tướng ngụy như Trần Văn Đôn, Mai Hữu Xuân, Tôn Thất Đính,… Nhưng rồi cũng chính ngài trung tá Luyxiêng Cônen đã trở thành một đạo diễn chủ chốt trong vụ đảo chính giết hại cả hai anh em Diệm, Nhu hồi đầu tháng 11 năm 1963.
Cho tới "sự kiện” này, bộ mặt tàn ác ghê tởm của CIA nói chung và của trung tá tình báo Luyxiêng Cônen nói riêng càng rõ nét hơn bao giờ hết, gây một sự “choáng váng kinh hoàng” cho bọn tay sai, cũng là một trong nhiều lý do khiến cho bọn ngụy Sài Gòn phải “chăm chú nghiên cứu tìm hiểu” các quan thầy CIA tới “dậy dỗ”, huấn luyện và “trợ giúp”. Cuốn “danh bạ” 3000 điệp viên CIA hoạt động ở 120 nước trên thế giới được lưu trữ trong các tủ sách của nhiều cơ quan mật vụ thuộc ngụy quân ngụy quyền ở miền Nam Việt Nam là một chứng cớ cụ thề.
Vẫn theo lời bọn ngụy kể lại, các điệp viên CIA ùn ùn kéo tới Miền Nam Việt Nam theo nhiều giai đoạn và gồm nhiều lớp người. Thoạt tiên, hầu hết đều là quân nhân như trung tá Iuyxiêng Cônen, đại tá Etuốt Lênxdên ... phần lớn đều đã được phục vụ trong sở công tác chiến lược OSS. Dần dá về sau, số điệp viên khỏng phải là quân nhân ngày càng tăng và hoạt động hầu khắp các cơ quan dân sự của Mỹ ngụy ở miền Nam Việt Nam.
Cũng trong thời kỳ đầu, CIA đã cử tới Sài Gòn những điệp viên CIA nói rất thạo tiếng Pháp bởi vì trong thời kỳ này từ Diệm, Nhu đến toàn bộ các nhân viên cao cấp, sĩ quan cao cấp của ngụy quyền ngụy quân đều chỉ biết có một ngoại ngữ là tiếng Pháp, thậm chí có những tướng ngụy như Nguyễn Văn Hinh, Trần Văn Đôn... nói tiếng Pháp còn thạo hon cả tiếng Việt Nam. Nhưng từ nửa cuối những năm 60 và đặc biệt là những năm đầu tiên của thập niên 70 có nhiều điệp viên CIA trẻ tuổi nói thạo cả tiếng Việt. Từ những năm 60 trở đi, số điệp viên CIA biết nhiều sinh ngữ, đồng thời cũng gồm nhiều quốc tịch hoạt động ở miền Nam Việt Nam ngày càng nhiều. Những nhân viên ngụy quyền được hỏi chuyện còn nhớ “như in trong óc” nhiều hình ảnh của các quan chức CIA đã gây cho họ “ấn tượng mạnh”. Ví dụ như ngài tiến sĩ Philip Hapíp đã từng học lâu năm ở Pari, nói tiếng Pháp thông thạo không kém gì tiếng Anh, năm 1946 còn là đại úy trong quân đội, đến năm 1949 chuyển sang Bộ Ngoại giao rồi trở thành một điệp Viên CIA “loại cỡ”. Ngài Hapíp đặt chân tới Sài Gòn với cương vị tham tán thuộc tòa đại sứ Mỹ, đã được cả Phủ Tổng thống lẫn Bộ Ngoại giao và cục tình báo Trung ương Hoa Kỳ đánh giá cao, trở thành một cố vấn quan trọng cho ngài tiến sĩ Henri Kitxingiơ trong cuộc hòa đàm ở Pari. Hoặc như ngài tiến sĩ Giôn Texcan Bennét cũng nói tiếng Pháp rất thạo, đã từng là quan chức cơ quan viện trợ Mỹ AID ở miền Nam Việt Nam, tiếp đó là bí thư thứ hai trong tòa đại sứ Mỹ ở Sài Gòn.
Số điệp viên CIA biết tiếng Việt Nam phần lớn đều trẻ hơn lớp trước. Ví dụ như Đêvit Enghen, sinh năm 1938 giữ chức bí thư thứ hai trong sứ quán Mỹ ở Sài Gòn, nói thạo tiếng Pháp, Việt Nam. Gioocgiơ Phơnét, sinh năm 1936, ngoài tiếng mẹ đẻ còn nắm vững hai tiếng Pháp và Việt Nam đề làm cái “cầu giao tiếp” trong khi giữ chức tùy viên văn hóa tòa đại sứ Mỹ ở Sài Gòn. Hoặc như Đăcglơt Ranxây, sinh năm 1934, năm 1960 trở thành điệp viên CIA, năm 1965 tới Sài Gòn với chức vụ cố vấn cũng nói rất thạo cả tiếng Pháp lẫn tiếng Việt Nam.
CIA còn phải tới miền Nam Việt Nam nhiều điệp viên thông thạo tiếng Trung Quốc, hẳn là để có những mối giao tiếp thuận lợi với số đông người Hoa sống tại khu vực Chợ Lớn ở Sài Gòn. Trong số này, phải kề tới ngài tùy viên văn hóa Etuôt Cômingham, sinh năm 1930, nói thông thạo tiếng Trung Quốc, Việt Nam. Năm 1951, Cômingham đã từng làm quân báo Bộ Hải quân Mỹ, đến năm 1955 thì giải ngũ để
giữ chức giám đốc cơ quan nghiên cứu về châu Á. Năm 1958, Cômingham được CIA tuyền mộ, trở thành một quan chức của cục thông tin Hoa Kỳ viết tắt là USIS, đã từng hoạt động ở Đài Loan, Băng Cốc, Hăng gun, Cuala Lămpơ trước khi tới Sài Gòn trong vai trò tủy viên văn hóa tòa đại sứ Mỹ. Risớt Lý Kiên, một người Mỹ gốc Hoa, khi tới Sài Gòn làm cố vấn trong cơ quan viện trợ Mỹ cũng là một điệp viên CIA nói thông thạo tiếng Anh, tiếng Pháp ngoài tiếng mẹ đẻ là tiếng Trung Quôc. Norit Xmít, một cựu sĩ quan không quản, cũng là một quan chức cấp cao của CIA, nói thạo tiếng Trung Quốc, đã lửng hoạt động ở Đài Loan, Lào, Thái Lan trước khi tới Sài Gòn với danh nghĩa tùy viên báo chí.
Có nhiều nhân viên CIA tuy trên danh nghĩa là công dân Mỹ mang quốc tịch Mỹ nhưng xuất thân lại không phải là gốc Mỹ. Ví dụ như Gioocgiơ Tôsiô Nacamura là quan chức cơ quan viện trợ Mỹ ở Sài Gòn, chính là một người Mỹ gốc Nhật Bản, nói thông thạo cả ba thứ tiếng Nhật Bản, Trung Quốc, Anh. Elidabet Laudao vốn là dòng dõi một gia đình quý tộc Nga, năm 1938 sang Đức học, năm 1914 di cư sang Mỹ, đến năm 1961 trở thành một nữ điệp viên CIA hoạt động ở Sài Gòn, nói thòng thạo ba thứ tiếng Nga, Đức, Anh. Tuy nhiên thông thạo nhiều ngoại ngữ nhất có lẽ là ngài bí thư thứ nhất tòa đại sứ Mỹ ở Sải Gòn, tiến sĩ Letxli Tihant, một người Mỹ gốc Hung, ra đời trên đất Hunggari. Năm 1939, đang học đại học ở Na Uy thì chiên tranh bùng nổ, năm 1940 sang Mỹ phục vụ trong cơ quan OSS ròi trở thành một nhân viên cao cấp của CIA, biết thông thạo các thứ tiếng Hunggari, Na Uy, Phần Lan, Đức, Pháp, Anh...
Có nhiều nhân viên CIA trước khi tới Việt Nam đã từng hoạt động ở nhiều khu vực khác trên thế giới, tận dụng những kinh nghiệm tích luỹ được ở những nơi này đề phục vụ cho công tác ở Việt Nam. Đồng thời cũng cỏ nhiều điệp viên CIA hoạt động lâu năm và “có thành tích” ở Việt Nam lại được tiếp lục cử đi hoạt động tại nhiều khu vực nóng bỏng khác, leo lên những nấc thang cao nhất trong ngành tỉnh báo Mỹ. Cơttơ phôn, một điệp viên CIA khoác áo quan chức cơ quan viện trợ Mỹ đã hoạt động ở Thượng Hãi, Xơun, Carasỉ, Têhêran rồi mới tới Sài Gòn. Claidơ Haixơ là một điệp viên CIA “nhẵn mặt quen tên” ở Batđa, Khat tum, Niu Dêli, Carasi, trước khi tới Sài Gòn với danh nghĩa là một quan chức trong cơ quan thông tin Mỹ. Rô bớt Mác Clintôc, nói tiếng Anh, Pháp, Tây Ban Nha rất thạo, đã từng hoạt động
tỉnh báo ở Phần Lan từ năm 1942, năm 1954 khoác áo đại sứ Mỹ ở Campuchia, năm 1957 đại sứ ở Li băng, năm 1957 đại sứ ở Apganixtan rôi “bí mặt công tác” ở Sài Gòn, Viên Chăn đến năm 1964 mới trở về Mỹ làm cố vấn tình báo cho học viện hải quân Mỹ. Henri Lôi Thonen trước chiến tranh lả giám đốc một ngân hàng tư nhân ở Mỹ, từ năm 1940 đến năm l916 phục vụ trong quân đội Mỹ tới cấp bậc đại tá, năm 1918 “chuyển ngành” sang Bộ Ngoại giao đồng thời là nhân viên CIA đã từng giữ chức vụ trưởng vụ Cận Đông, vụ trưởng vụ Đông Nam Á, vụ trưởng vụ Tổng hợp tin tình báo thuộc Bộ Ngoại giao trước khi tới Sài Gòn khoác áo tham tán tòa đại sứ Hoa Kỳ. Uyliam Cônbai, một điệp viên CIA khét tiếng tàn ác đã từng chỉ đạo “Chiến dịch Phượng hoàng” giết hại rất nhiều người yêu nước và cả những người dân thường bị tình nghi và đã leo lên đến nấc thang tột đỉnh của ngành tình báo Hoa Kỳ, tức là Giám đốc Cục tình báo trung ương.
Điệp viên CIA ở Việt Nam đúng là “nhiều vô kể” và có mặt hoặc công khai hoặc bí mật ở hầu hết các cơ quan quân sự, dân sự của Mỹ ở miền Nam Việt Nam. Mới đầu, khi quân đội thực dân Pháp còn đóng trên dải đất miền nam Việt Nam, các nhân viên tình báo CIA thưởng là các sĩ quan, hoạt động trong phái đoàn quân sự Mỹ ở Sài Gòn gọi tắt là SMM, như trung tá Luyxiêng Cônen và đại tá Etuôt Lênxđên. Sau khi Mỹ đã hoàn toàn hất cẳng thực dân Pháp, cơ quan CIA ngang nhiên hoạt động công khai bên cạnh tòa đại Sứ Mỹ ở Sài Gòn. Trong thời kỳ Ngô Đình Diệm, gíam đốc CIA ở Sài Gòn là Giỏn Risácsơn, Công khai in danh thiếp ghi bằng chữ nổi họ, tên và chức vụ là người đứng đầu cơ quan tính bảo trung ương Hoa Kỳ tại Sài Gòn!
Đến thời kỳ Nguyễn Văn Thiệu, chi nhánh CIA ở Sài Gòn. Tômêt Pôngar phụ trách đã phát triền thành một cơ quan tình báo rất bề thế, gồm 11 ban, 1 đội hành động đặc biệt và 4 đội công tác tại 4 vùng chiến thuật, tứ 4 quân khu của ngụy.
Theo lời khai báo của những nhân viên đã từng hoạt động cho CIA ở miền nam Việt Nam thì 11 ban nói trên là:
1-Ban Tổng hợp tin tức tình báo có nhiệm vụ tổng hợp và phân tích những tin tình báo có được từ tất cả các nguồn đề báo cáo về cơ quan tình báo trung ương ở Mỹ.
2 - Ban Chính trị, chuyên trách về các vấn đề có liên quan đến tình hình chính trị ở miền nam Việt Nam.
3 - Ban An ninh, chuyên trách các vấn đề liên quan đến an ninh chính trị của Mỹ ngụy ở miền Nam Việt Nam.
4 - Banh Hành chính.
5 - Ban Nhân sự.
6 - Ban Hậu cần.
7 - Ban cố vấn, phụ trách lực lượng điệp vìên CIA trong hàng ngũ cố vấn Mỹ ở miền nam Việt Nam.
8 - Ban Vỉệt Cộng. chuyên trách theo dõi phong trào cách mạng ở miền Nam Việt Nam.
9 - Ban Bắc Việt, phụ các vấn đề liên quan tớl việc thu thập tin tình báo của miền Bắc Việt Nam, đồng thời chỉ đạo các hoạt động, do thám, phá hoại và lật đổ ở miền Bắc Việt Nam.
10 - Ban Hoa kiều, dặc trách theo dõi và thu lượm tin tình báo từ người Hoa ở miền Nam Việt Nam.
11 - Ban Kiều dân nước ngoài, đặc trách theo dõi các kiểu dân nước ngoài như Pháp, Anh. Ấn Độ... và cả kiều dân Mỹ ở miền Nam Việt Nam.
Cơ quan CIA ở miền Nam Việt Nam còn có những quan hệ rất chặt chẽ với các cơ quan tình báo quân sự thuộc các lực lượng lục quân, không quản, hải quân và lính thùy đánh bộ của Mỹ ở miền Nam Việt Nam vào cuối nhiệm kỳ của tổng thông Mỹ Giôn xơn. Khi quân đội viễn chinh Mỹ ùn ủn kéo vào miền Nam tới mức cao nhất thì các cơ quan do thám của Mỹ ở miền Nam Việt Nam cũng phát triền mạnh nhất và trung tâm vẫn là chi nhánh CIA bên cạnh tòa đại sứ Mỹ ở Sài Gòn.
Bẻn cạnh những nhân viên tình báo, những sĩ quan quân bảo và những tủy viên quân sự mà thực chất cũng là điệp viên của Mỹ ở Sài Gòn, hoạt động công khai hoặc nửa công khai, cục tình báo trung ương Hoa Kỳ còn liên tục cưe tới miền Nam Việt Nam rất nhiều điệp viên hoạt động bí mật trong tòa đại sứ Mỹ (thường giữ chức bí thư thứ hai hoặc tủy viên) trong các cơ quan viện trợ quân sự, dân sự, cơ quan thông tin. Rất nhiều nhà báo, nhà nghiên cửu, nhà hoạt động xã hội, nhà kinh doanh cùng với nhiều khách du lịch đã liên tiếp tới miền
Nam Việt Nam trong đó không ít là điệp viên của CIA. Ngoài những quan chức CIA chuyên nghiệp, ăn lương tháng,CIA còn có một mạng lưới cộng tác viên rất rộng rãi, rất linh hoạt, hoạt động có tính chất “nghiệp dư” tức là bán tin tình báo đã thu lượm được cho CIA.
Vậy quả là không tài nào “đếm xuể” có bao nhiéu nhân viên CIA đã hoạt động tại miền Nam Việt Nam, có bao nhiêu lượt điệp viên đã được cử tới Việt Nam, có bao nhiêu người đã công tác dài hạn và ngắn hạn với CIA Mỹ ở Việt Nam, có bao nhiều người đã bán tin thu lượm được ở Việt Nam, nhất là ở miền Bắc Việt Nam cho CIA.
4. CIA VÀ CON BÀI NGÔ ĐÌNH DIỆM
Vẫn theo chính Lênxđên tiết lộ trong hồi ký, Lênxđên bắt đầu đặt chân tới Sài Gòn ngày 1 tháng 6 năm 1954, nhưng mãi đến tháng 8 toàn bộ nhân viên phái đoàn SMM mới tập trung đầy đủ. Vì vậy, phái đoàn SMM do Lêuxđên chỉ huy chỉ “thật sự bắt tay vào việc” từ tháng 8 năm 1954.
Lúc này, hiệp định Giơnevơ về Đông Dương được ký từ ngày 21 tháng 7 năm 1954. Theo các điều khoản ghi rõ trong hiệp định: phía Pháp phải long trọng công nhận Việt Nam là một nước độc lập, có chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ. Hiệp định Giơnevơ cũng ghi rõ trong năm 1955 hai miền Nam Bắc của Việt Nam sẽ tổ chức hiệp thương và đến năm 1956 sẽ tổ chức tổng tuyển cử để thành lập một chính quyền thống nhất trong cả nước. Trong khi chờ đợi, các lực lượng vũ trang và cán bộ của Việt Nam dân chủ cộng hòa từ miền Nam sẽ tập kết ra Bắc, ngược lại tất cả các lực lượng vũ trang của Pháp cùng với các nhân viên chính quyền và quân đội của Bảo Đại ở Miền Bắc cũng phải rút hết vào Nam. Vĩ tuyến 17 được chọn là đường ranh giới tạm thời phân chia hai miền, dọc theo vĩ tuyến là khu phi quân sự nhằm cách ly các lực lượng vũ trang của hai phía.
Ngày 21 tháng 7 năm 1954, chỉ trừ có đại biểu Mỹ là người duy nhất vắng mặt, còn tất cả đại biểu các nước tham dự hội nghị Giơnevơ đều ký và bản “tuyên bố cuối cùng về vấn đề lập lại hòa bình ở Đông Dương”.Trước đó 3 hôm, tức là ngày 18 tháng 7 năm 1954 phía Mỹ đã tuyên bố: “chính phủ Mỹ không sẵn sàng ký vào bản tuyên bố chung này”.
Không phải ngẫu nhiên chính quyền Mỹ bộc lộ thái độ như vậy. Những tài liệu mật của Lầu năm góc sau này tiết lộ. Cục tình báo CIA đã dự kiến, nếu tổ chức tổng tuyển cử trong cả nước Việt Nam thì nhất định Cụ Hồ Chí Minh sẽ thắng phiếu và toàn bộ nước Việt Nam “sẽ rơi vào vòng ảnh hưởng của cộng sản”. Do đó, Mỹ đã không ký vào bản tuyên bố chung để rảnh tay phá hoại hiệp định Giơnevơ 1954 về Đông Dương.
Hơn thế nữa, hiệp định Giơnevơ 1954 về Đông Dương chưa được
kí, Mỹ đã có kế hoạch thay chân Pháp độc chiếm lấy miền Nam Việt Nam, hòng dùng lãnh thổ miền Nam Việt Nam làm bàn đạp quân sự, vừa ngăn chặn “làn sóng đỏ tràn xuống khu vực Đông Nam Á” và chuẩn bị tiến công chiếm đóng miền Bắc Việt Nam khi có thời cơ và điều kiện. Chính quyền Bảo Đại bị CIA đánh giá là “quá thân Pháp”, không thể tin cậy lâu dài. CIA kiến nghị với chính phủ Mỹ nên tìm một nhân vật khác gắn bó với Mỹ hơn để thay thế Bảo Đại. Con bài mới này chính là Ngô Đình Diệm. Theo nhận xét của CIA, Ngô Đình Diệm tuy trước kia có làm quan trong triều đình Huế nhưng đã ít nhiều tỏ thái độ “chống Pháp và chống cộng sản”, khác hẳn với Bảo Đại là một ông vua bù nhìn do thực dân Pháp nuôi dậy rồi sau đó lại “hợp tác với Việt Minh cộng sản trong vai trò cố vấn tối cao”. CIA còn đặc biệt nhấn mạnh, Ngô Đình Diệm còn là một tín đồ thiên chúa giáo, mà đạo Crixtô lại chống chủ nghĩa cộng sản vô thần, cho nên dứt khoát Ngô Đình Diệm sẽ “chống cộng đến cùng”. Hơn thế nữa, Ngô Đình Diệm lại sống lưu vong nhiều năm ở Mỹ được Hồng y giáo chủ Xpenman tin cậy, cho nên cũng dứt khoát “thân Mỹ và trung thành gắn bó với Mỹ hơn Bảo Đại”
Từ tháng 6 năm 1954, Mỹ đã liên tục gây sức ép với cả Pháp lẫn Bảo Đại, đòi Pháp phải chấp nhận để Ngô Đình Diệm về nước làm “thủ tướng cho Quốc trưởng Bảo Đại“. Mỹ cũng mồi chài Bảo Đại, hứa sẽ trực tiếp viện trợ cho chính quyền Bảo Đại, không qua trung gian là Pháp như trước nữa. Dĩ nhiên, cả Pháp lẫn Bảo Đại đều phải nhượng bộ và ngày 16 tháng 6 năm 1954 Ngô Đình Diệm đã nhận được thư của Bảo Đại “khẩn thiết mời về nước giữ chức thủ tướng”.
Lúc này, Etuôt Lênxđên đã có mặt tại Sài Gòn. Trong hồi ký Lênxđên thừa nhận: “tại Sài Gòn, tôi đã nhận được một bản tiểu sử Ngô Đình Diệm từ Mỹ gửi tới, củng cố thêm cho tôi nhiều tài liệu cụ thể. Qua bản tiểu sử này, tôi được biết ông Ngô Đình Diệm và toàn thể gia đình ông đều theo đạo Thiên chúa, là tôn giáo đối lập sâu sắc ý thức hệ với chủ nghĩa cộng sản. Anh rột Diệm là Ngô Đình Khôi đã bị Việt Minh kết án tử hình năm 1945 về tội chống phá cách mạng. Chính Diệm cũng đã bị Việt Minh bắt giam một thời gian, sau đó đã được ông Hồ Chí Minh ra lệnh tha. Ông Hồ Chí Minh mời ông Ngô Đình Diệm tham gia chính phủ, nhưng ông Diệm từ chối. Năm l950, Diệm rời bỏ tổ quốc đi di tản ra nước ngoài, thoạt đầu tới Nhật Bản rồi sang Mỹ, sống nhiều tháng tại Niu Giơđi, trong một nhà tu thuộc dòng
Marichnon ở Likcớut.
Như vậy. Ngô Đình Diệm đã hội tụ được tất cả những tiêu chuẩn lý tưởng của một con bài mà Mỹ mong muốn: “chống cộng sản về ý thức hệ, thù Việt Minh về chuyện gia đình, rất thân Mỹ vì đã sống lưu vong ở Mỹ, nhờ cậy Mỹ và tu ở Mỹ”.
Lênxđên viết tiếp trong, hồi ký:
“Buổi sáng ngày 16 tháng 6 năm 1954, khi nghe tin ông Diệm về nước, tôi đã lần mò ra sân bay để xem mặt mũi nhân vật này. Từ đằng xa có tiếng còi hụ và tiếng xe mô tô. Dân chúng đứng hai bên đường chen lấn nhau để quan sát. Những chiếc xe của cảnh sát chạy thành hai hàng và nối đuôi nhau, hú còi chạy vút qua rồi đến chiếc xe Limuđin màu đen, mũi xe cắm cờ, cửa xe đóng kín, không thể nhìn thấy rõ người ngồi bên trong. Vèo một cái cả chiếc xe lẫn đoàn mô tô hộ tống đều vút qua rất nhanh.Mọi người chưng hửng nhìn nhau bàn tán: có phải “ông ấy” không? “Ông ấy” cũng chẳng thèm ngó nhìn ai cả. Thế là đám đông giải tán.”
Trở về sứ quán Mỹ, Lênxđên thuật lại với đại sứ Mỹ Dôren Hit về thái độ phản ứng của dân chúng đối với Ngô Đình Diệm. Theo nhận xét của Lênxđên, Ngô Đình Diệm đã rời bỏ Tổ quốc quá lâu, cần phải sự giúp đỡ kèm cặp của Mỹ. Lên xđên tình nguyện làm “cố vấn” cho Ngô Đình Diệm và khẩn khoản nhờ đại sứ Mỹ giới thiệu. Sau đó ít hôm, Lênxđên được dẫn tới “dinh thủ tướng”, nơi làm việc của Ngô Đình Diệm. Lênxđên thuật lại trong hồi ký:
“Mới thoạt nhìn, Ông Diệm không có vẻ gì đáng để ý lắm. Đó là một con người béo lùn, mặc âu phục, ngồi trên ghế bành thõng chân xuống nhưng bàn chân không chạm tới đất. Tôi nghĩ bụng, có lẽ chân ông ta rất ngắn. Tóc ông Diệm đen và dày, chải gọn ghẽ, khuôn mặt đẫy đà có những múi thịt nổi cộm trên má như lúc nào cũng cười. Tôi tự giới thiệu rồi đi ngay vào đề. Sau đó tôi và Ông Diệm gặp nhau thường xuyên hơn trong những tuần kế tiếp. Đến những tháng sau, hai chúng tôi đã có thói quen gặp nhau hằng ngày. Tôi còn được ông liên tục mời đến ăn cơm cùng toàn bộ gia đình, trong đó có tổng giám mục Ngô Đình Thục là anh ông Diệm, vợ chồng ông Ngô Định Nhu, vợ chồng ông Ngô Đình Luyện là các em ông Diệm. Chỉ có ông Ngô Đình Cần, em út của ông Diệm là tôi chưa hề gặp, vì ông này sống với bà cụ thân sinh ở Huế”.
Như vậy là, ngay cả trước khi toàn bộ phải đoàn quân sự SMM của Mỹ kịp tới Sài Gòn. Lênxđên đã rất nhanh chóng trở thành cố vấn của Ngô Đình Diệm. Trên cương vị này, Lênxđên đã trực tiếp “bồi dưỡng” cho Diệm cung cách tổ chức guồng máy chính phủ, có nghĩa là gạt những phần tử thân Pháp, thân Bảo Đại ra ngoài và đưa những người thân Mỹ vào nắm các cương vị chủ chốt. Vấn đề này quả là không đơn giản. Cả Pháp lẫn Bảo Đại tuy đã chịu để cho Diệm trở về giữ chức thủ tướng nhưng vẫn còn “cài” lại nhiều nhân vật rất trung thành gắn bó với Pháp và Bảo Đại. Quân đội Pháp lúc này vẫn chưa bắt đầu rút khỏi miền Nam Việt Nam. Cái gọi là “quân lực quốc gia Việt Nam” trên danh nghĩa là lực lượng vũ trang chính quy của quốc trưởng Bảo Đại nhưng vẫn do chính phủ Pháp trả lương. Tổng tham mưu trưởng quân lực là tướng Nguyễn Văn Hinh, lấy vợ Pháp, nói tiếng Pháp thạo hơn tiếng Việt Nam. Cầm đầu lực lượng cảnh sát là Bẩy Viễn cũng là một phần tử thân Pháp, có nhiều quyền lợi vật chất gắn bó với Pháp, ngoài ra, tại Sài Gòn hồi đó còn có những giáo phái Cao đài, Hòa hảo tuy ít nhiều có chống Pháp chống thủ tướng mới Ngô Đình Diệm. Hai giáo phái này đều có lực lượng vũ trang riêng.
Vẫn theo Lênxđên tiết lộ trong những khó khăn lớn để Lênxđên củng cố nội các Ngô Đình Diệm là “cái gai Nguyễn Văn Hinh”. Theo nhận xét của Lênxđên, Hinh là một sĩ quan chuyên nghiệp của Pháp do Pháp đặt vào cương vị chỉ huy quân lực của Bảo Đại, vì vậy không thể nào có uy tín một khi quân đội Pháp rời khỏi miền Nam Việt Nam.
Lênxđên nhấn mạnh, sau khi người Pháp bị đánh bại ở Diện Biên Phủ thì ngay đến các nhà lãnh đạo quân sự của Pháp cũng chẳng còn được kính nể nữa huống chi đây lại là Nguyễn Văn Hinh. Vì vậy, ngay từ khi mới đặt chân tới Sài Gòn, Lênxđêm tiếp xúc với đại tá Lê Văn Kim, thiếu tá Trần Văn Đôn, trung tá Dương Văn Minh. Nhưng tất cả những sĩ quan trẻ mà Lênxđên tìm cách làm quen đều do Pháp đào tạo, cần phải có thời gian để ở “lái” họ vào quỹ đạo của Mỹ. Trong khi đó, Nguyễn Văn Hinh đánh hơi thấy địa vị bấp bênh của mình đã công khai tuyên bố “sẽ làm đảo chính quân sự lật đổ Ngô Đình Diệm” và có lần huy động quân đội diễu võ giương oai trước dinh Tổng thống nhằm uy hiếp Ngô Đình Diệm và phô truơng sức mạnh của mình. Hinh còn sử dụng đài “phát thanh quân đội” để liên tục công kích Ngô Đình Diệm.
Trước tình hình đó, Lênxđên đã nẩy ra một âm mưu thân dộc. Sau khi nắm được nguồn tin Nguyễn Văn Hinh dự định tiến hành đảo chính lật Ngô Đình Diệm vào ngày 12-9-1954, Lêmxđêm cấp tốc “mượn” tướng Ô Đamien một chiếc máy bay quân sự bay ngay sang Philippin bàn với Tổng thống Macxayxay gửi điện mời một phái đoàn quân sự Việt Nam sang thăm Philippin. Kế hạch đảo chính của Nguyễn Văn Hinh bị phá sản vì các sĩ quan thân cận bị “cuốn vào chuyển viếng thăm Philippin”. Tiếp đó, Lênxđên lại kiến nghị với tướng LaotơnCôlin (vừa mới tới Sài Gòn, là đại sứ thay Đônan Mit) gây sức ép với Pháp để “buộc Nguyễn Văn Hinh phải sang Pháp nghỉ, trao lại chức vụ cho tướng Nguyễn Văn Vỹ làm tổng tham mưu truởng quân lực Việt Nam”, Nguyễn Văn Vỹ cũng là một sĩ quan do Pháp dào tạo, nhưng sau ngày Nhật bản làm đảo chính lật Pháp ở Đông Dương (9-3-1945) Nguyễn Văn Vỹ đã kịp chạy theo dám tàn quân Pháp rút sang Trung Quốc. Từ Trung Quốc, Vỹ lại dược Pháp cử di dẫn đường cho một nhóm sĩ quan tình báo chiến lược OSS của Mỹ thâm nhập vủng biên giới miền Bắc Việt Nam. Chính trong cuộc hành trình bí mật này, Nguyễn Văn Vỹ đã tiếp xúc với Luyxiêng Cônen, hiện là phó cho Lênxđên trong phái đoàn SMM của Mỹ ở Sài Gòn.
Như vậy là, sau khi đã loại trừ được Nguyễn Văn Hinh, Lênxđên đã “cài” được một sĩ quan từng làm tình báo cho cơ quan OSS của Mỹ nắm giữa chức vụ tổng tham mưu trưởng quân lực quốc gia Việt Nam mà nhân dân miền Nam Việt Nam lúc đó vẫn gọi tắt là “lính Bảo Đại”. Tiến thêm một bước nữa, Lênxđên xúc tiến kế hoạch thủ tiêu các lực lượng vũ trang của Bẩy Viễn và các giáo phái. Thoạt đầu, Lênxđên đưa ra cհủ trương thuyết phục Trịnh Minh Thế chỉ huy các lực lượng vũ trang của giáo phái Cao Đài trở về hợp tác νόi Ngô Đình Diệm, Kế hoạch này được tướng O Đanien ủng hộ và được chính phủ Mỹ chấp thuận. Lúc này dội ngū “du kích” của Trịnh Minh Thế gồm khoảng 2.000 binh lính đang bị quân đội Pháp vây đánh (năm 1951 Trịnh Minh Thế đã cầm đầu việc ám sát tướng Săngsông, tư lệnh quân đội Pháp ở Nam Bộ). Nếu đưa được lực lượng của Trịnh Minh Thế về với Ngô Đình Diệm sẽ có một lực lượng “nòng cốt” vừa chống cộng lại vừa chống Pháp. Ngay giữa lúc Nguyễn Văn Hinh đang “hục hặc” với Ngô Đình Diệm, Lênxđên đích thân tìm gặp Trịnh Minh Thế tại một căn cứ của giáo phái Cao Đài ở chân núi Bà Đen. Ngay cuộc tiếp xúc
dầu tiên này, Trịnh Minh Thế tỏ vẻ “khâm phục” một người Mỹ (là Lênxđên) đã “dám” mạo hiển vượt qua vòng vây của Pháp đến tận “căn cứ địa” của Cao Đài làm nhiệm vụ “thuyết khách” cho Thủ tướng Ngô Đình Diệm. Đến lần tiếp xúc thứ hai, Trịnh Minh Thế đã tin cậy tới mức bộc lộ với Lênxđên, lực lượng của Cao Ðài ngoài việc bị Pháp bao vây còn bị cả lực lượng của Hòa Hảo (trước kia đã liên minh với Cao Đài) đang tiến công vào lực lượng Cao Đài từ phía sau lưng. Trịnh Minh Thế còn ngỏ ý nhờ Lênxđên đứng ra là trung gian dàn xếp mâu thuẫn nội bộ giữa hai phái Cao Đài và Hòa Hảo. Cuối cùng, ngày 13 tháng 2 năm 1955, Lênxđên đã “hoàn thành nhiệm vụ” tổ chức cho 2.500 quân Cao Dài về Sài Gòn sáp nhập với quân đội “quốc gia Việt Nam”.
Bước vào năm 1955, tiếp theo 2.500 quân của Trịnh Minh Thế lại đến 8.300 quân (cũng thuộc giáo phái Cao Đài) của Nguyễn Thành Chương rồi cuối cùng là gần 10.000 quân Hòa Hảo thuộc lực lượng Ba Cụt cũng trở về Sài Gòn “hợp tác với thủ tướng Ngô Đình Diệm”. Theo “sáng kiến” của Lênxđên một “mặt trận giáo phái thống nhất được thành lập tại Sài Gòn. Giáo chủ Cao Đài Phạm Công Tắc được cử làm thống soái tối cao. Ba Cụt được chỉ định làm tổng chỉ huy. Bẩy Viễn chỉ huy lực lượng Bình Xuyên cũng “chấp nhận trên nguyên tắc” “sẽ đặt lực lượng quân sự Bình Xuyên dưới sự chỉ huy chung của mặt trận giáo phái thống nhất khi tình hình trở nên khẩn cấp”.
Tuy nhiên, vẫn theo lời kể của Lênxđên lúc này Bảo Đại đang “nghỉ ngơi tại Pháp” vẫn “chỉ đạo từ xa” cho lực lượng Bình Xuyên của Bẩy Viễn chống lại Ngô Đình Diệm. Tình hình Sài Gòn trở nên "cực kỳ rối loạn " vì các lực lượng giáo phái và Bình Xuyên lại đánh lộn nhau và không chịu phục tùng mệnh lệnh của thủ tướng Ngô Dình Diệm. Đại sứ Mỹ Laotơn Côlin nhận được điện khẩn phải trở về Oasinhtơn trực tiếp báo cáo tình hình cụ thể với tổng thông Mỹ Aixenhao. Sau khi nghe báo cáo, chính Tông thống Aixenhao dã gợi ý nên thành lập một “chính phủ liên hiệp” tại Sài Gòn, cụ thể là tìm cách điều hòa những mâu thuẫn giữa Bảo Đại và Ngô Đình Diệm, tạm thời nhân nhượng Pháp, nhường vài ghế trong “chính phủ” cho một số bộ trưởng thân Pháp.
Lênxđên khăng khăng bám giữ ý kiến, đây là thời cơ tốt để loại trừ các phần tử thân Pháp, tiến tới loại trừ cả Bảo Đại đồng thời kiến nghị
giúp đỡ Ngô Đình Diệm. Lên xdên cử hai sĩ quan thân cận là Côben và Alen thuyết phục Nguyễn Văn Vỹ, cuối cùng Nguyễn Văn Vỹ đã chống lại lệnh của Bảo Đại, để cùng với Dương Văn Minh, Lê Văn Kim... tiêu diệt lực lượng Bình Xuyên của Bẩy Viễn. Đến ngày 9 tháng 5 năm 1955, lực lượng Bình Xuyên bị đánh bật khỏi Sài Gòn. Đám tàn quân rút về “Rừng Sát” cố thủ vài ngày, cuối cùng phải xin hàng. Bẩy Viễn kịp chạy trốn sang Pháp, toàn bộ “gia sản” gồm khá nhiều khách sạn, tiệm nhảy, sòng bạc, hộp đêm tại Sài Gòn bị Ngô Đình Diệm tịch thu. Tiếp đó, Trịnh Minh Thế cũng bị ám sát, Ba Cụt bị bắt rồi bị xử tử. Nối gót Bình Xuyên, các lực lượng vũ trang của Cao Đài, Hòa Hảo lần lượt bị tiêu diệt nốt.
Ngày 10 tháng 5 năm 1955 khi Gioocgiơ Phridirich Renhát tới Sài Gòn thay tướng Laotơn CôLin làm đại sứ Mỹ ở miền Nam Việt Nam thì tình hình Sài Gòn thật sự trở lại yên tĩnh. Được sự giúp đỡ tận tình của cố vấn CIA Lênxđên, Ngô Đình Diệm đã loại trừ được toàn bộ các lực lượng trống đối. 28 năm sau khi nhắc lại “thành tích to lớn” của Lênxđên, trong giai đoạn 1954-1955 tại miền nam Việt Nam, một điệp viên cấp cao của CIA là Ráp Mácghi đã kể lại trong cuốn hồi ký nhan đề “Sự lừa dối khủng khiếp - 25 năm hoạt động của tôi trong hàng ngũ CIA “xuất bản Ở Niu Yooc-Mỹ năm 1983, Mácghi viết:
“Mãi tới giữa năm 1954, Ngô Đình Diệm mới trở về Việt Nam, nơi ông được đại tá Etuốt Lênxđên người chỉ huy tình báo trong phái đoàn quân sự Mỹ ở Sài Gòn, đích thân đi đón. Lúc này, gần như tất cả các tầng lớp xã hội ở miền Nam Việt Nam đều chống lại vị thủ tướng mà người Mỹ áp đặt cho họ. Chống tại Diệm lúc này không phải chỉ có những người ủng hộ vua Bảo Đại, mà tất cả các giáo phái có tư tưởng thân Pháp, những người theo đạo Phật, những người còn sót lại của các tổ chức theo chủ nghĩa quốc gia và dĩ nhiên là cả những người ủng hộ cụ Hồ Chí Minh. Lúc đầu, Ngô Đình Diệm không có quân đội, không có cảnh sát, không có chính phủ, nói tóm lại là không có gì có thể giúp ông ta xây dựng chính quyền của mình. Nhưng ông ta lại dược sự ủng hộ vô điều kiện của dại tá Lênxđên, người đã cung cấp cho vị thủ lĩnh mới được Mỹ đào tạo, đôla Mỹ, vũ khí Mỹ, cố vấn Mỹ, nhân viên tuyên truyền tâm lý Mỹ, nói gọn lại là được cung cấp tất cả những gì mà CIA có thể tiến hành các hoạt động phá hoại của mình.
Thanh toán được lực lương vũ trang của các giáo phái và các phần tử đối lập có nghĩa đã củng cố được thế lực cho Ngô Đình Diệm một cách cơ bản. Với hơn 4 năm công tác tại Philippin, Lênxđên đã tích lũy được khá nhiều kinh nghiệm trong việc tung đôla để mua chuộc, dùng vũ lực để uy hiếp, dùng miệng lưỡi để lôi kéo, từng bước chia rẽ phá hoại lực lượng kháng chiến Hukbalahap và củng cổ thế lực cho tổng thống Macxayxay. Những thủ thuật đó nay lại được Lênxđên tái diễn ở miền Nam Việt Nam nhằm củng cố vị trí cho Ngô Đình Diệm.
Bước vào cuối năm 1955, quân đội Pháp xúc tiến việc chuẩn bị rút hết khỏi miền Nam Việt Nam, Bảo Đại và các thể lực thân Pháp rõ ràng đứng trước nguy cơ mất hẳn một chỗ dựa trong cuộc đọ sức với các lực lượng thân Mỹ do Ngô Đình Diệm cầm dầu. Viện trợ quân sự của Mỹ đã trực tiếp trao cho Ngô Đình Diệm, không qua khâu trung gian là Pháp. Các cố vấn quân sự Mỹ cũng bắt đầu kéo tới Sài Gòn mỗi ngày một đông, nắm giữ việc huấn luyện đồng thời kiểm soát chặt chẽ quân đội ngụy. Nhiều sĩ quan trẻ được cử sang Mỹ học tập lại các trường cao đẳng quân sự. Những sĩ quan cấp cao trước kia do Pháp đào tạo, nay cũng lần lượt được đưa sang Mỹ, bổ túc nghiệp vụ. Kẻ nào nhậy bén trước thời cơ, ngả hẳn vào quỹ đạo Mỹ lập tức dược “trọng dụng và nâng đỡ”, bố trí vào các chức vụ then chốt trong quân đội. Kẻ nào lừng khừng, vẫn còn vấn vương đầu óc thân Pháp tất nhiên sẽ tuần tự bị loại trừ. Chi nhánh CIA của Mỹ tại Sài Gòn không chỉ đảm dương việc dò xét lí lịch các sĩ quan ngụy mà còn trực tiếp lôi kéo những phần tử “thích nghi với thời đại”, lìa bỏ Pháp để quay sang Mỹ, cũng có nghĩa là bỏ rơi Bảo Đại dê phục vụ Ngô Đình Diệm.
Một trong những công cụ mà Lênxđên khoe góp phần đắc lực “trong việc lôi kéo những phần tử” trước kia do Pháp đào tạo, ngày do Mỹ bồi dưỡng là “các lớp truyền bá tiếng Anh dành cho các sĩ quan người Việt và cả vợ con họ”. Những cơ quan gọi là “phòng thông tin Mỹ” cũng được khai trương tại Sài Gòn và các thành phố đông dân ở miền Nam Việt Nam, tuyên truyền sức mạnh của Mỹ, Sự giàu có của Mỹ và nhất là “lối sống Mỹ”. Tại miền Nam Việt Nam trong cái buổi gọi là “giao thời” đó, Pháp chưa đi hết nhưng Mỹ đã vào.
Tình hình như vậy mà Quốc trưởng Bảo Đại vẫn còn la cà ở Pháp chưa chịu về nước. Dù sao, cả thế và lực của Đảo Đại ở miền Nam
Việt Nam đã xuống lắm rồi.
Từ tháng 8 năm 1955, sau khi trắng trợn cự tuyệt nhằm hiệp thương để chuẩn bị cho tổng tuyển cử thống nhất đất nước, Ngô Đình Diệm đã tính đến chuyện thanh toán nốt Bảo Đại Trong đầu óc Ngô Đình Diệm, việc gạt bỏ Bảo Đại vào thời điểm này không có gì khó khăn lắm bởi vì thực dân Pháp đang trong thời kỳ “rã đám” chẳng quan tâm gì tới việc tranh chấp giữa Ngô Đình Diệm và Bảo Đại. Mặt khác, Ngô Đình Diệm cũng đã nắm chắc được hai lực lượng cảnh sát và quân đội bằng cách thuyên chuyển những phần tử thân cận với Bảo Đại đi nơi khác hoặc cho về hưu và bố trí những “người của Diệm” vào các chức vụ then chốt. Cách thức truất phế Bảo Đại cũng rất đơn giản, chỉ cần vin vào bất cứ một lý do nào đó, trong vô vàn mâu thuẫn giữa quốc trưởng và thủ tướng, rồi thủ tướng họp nội các, gây sức ép với các bộ trưởng ra một bản tuyên bố cách chức Bảo Đại khỏi nhiệm vụ đứng đầu nhà nước là xong. Đi đôi với bản tuyên bố này sẽ huy động quần chúng nhân dân tổ chức mít tinh, biểu tình, hô vang các, khẩu hiệu “Đả đảo Bảo Đại” và “Ủng hộ Ngô Thủ tướng” là sẽ tạo được bầu không khí sôi động. Lúc này Ngô Đình Nhu cũng đã tổ chức xong cái gọi là “ Phong trào cách mạng Quốc gia”, tập hợp được một số thanh niên, sinh viên và học sinh đô thị. Sử dụng cái phong trào cách mạng Quốc gia này để hậu thuẫn cho hành động thủ tướng Ngô Đình Diệm truất phế Quốc trưởng Bảo Đại là rất chắc tay.
Tuy nhiên, khi Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu cao hứng trình bày “kế hoạch đảo chính” này với cố vấn Lênxđên thì không phải ai khác mà lại chính là Lênxđên không vừa ý, hoặc “chỉ dồng ý về nội dung, không hài lòng về hình thức truất phế Bảo Đại”. Ngô Đình Diệm nói rằng: nếu nhân dân chọn Ngô Đình Diệm thì Ngô Đình Diệm sẽ “phục tùng ý dân, tiếp tục gánh vác công việc quốc gia bằng cách dảm đương nhiệm vụ tổng thống của một chế độ Cộng hòa. Nếu nhân dân chọn Bảo Đại thì Bảo Đại sẽ tiếp tục giữ ghế Quốc trưởng, còn Ngô Dinh Diệm xin tiếp tục... đi tu để trọn đạo thờ chúa!”
Đúng là, chỉ mới nghe Ngô Thủ tướng tâm sự như vậy, những người nhẹ dạ cả tin đã vội cho ngay Ngô Đình Diệm là bậc chân tu, biết thuận theo ý dân, ý chúa. Số người “thương cảm” Ngô Đình Diệm và oán trách Bảo Đại không phải ít. Để chuẩn bị cho cuộc ở trưng cầu ý dân, hàng chục vạn ấn phẩm giới thiệu tiểu sử Ngô Đình Diệm và
Bảo Đại được phát hành rộng rãi, gần như cho không. Bản tiểu sử Ngô Đình Diệm trân trọng: Ngô Chí Sĩ là một nhà yêu nước vĩ đại liên tục chống triều đình phong kiến, chống thực dân Pháp đô hộ và chống Việt Minh cộng sản nhiều năm “bôn ba hải ngoại” thờ chúa trọng dân, gặp lúc nước nhà hoạn nạn, phải dấn thân, liều mình đảm đương trọng trách để an dân, dựng nước. Bản tiểu sử của Bảo Đại cũng không cần thêm bớt điều gì mà chỉ thuật lại “đúng như in” rằng: Ngài Vĩnh Thụy là dòng dõi triều Nguyễn Gia Long, thuở nhỏ dược sang Pháp du học, rồi lên ngôi vua, thời kỳ Nhật Bản đảo chính Pháp, đã bỏ Pháp theo Nhật, thời kỳ Nhật bại lại bỏ Nhật theo Việt Minh làm cố vấn tối cao cho Việt Minh rồi lại quay trở về với Pháp và hiện nay vẫn... đang sống cùng với vợ con ở Pháp. Bên cạnh những bản tiểu sử này, còn có những cuốn sách nhỏ giải thích chế độ “tổng thống” là một chế độ cực kỳ dân chủ, văn minh tân tiến, giống như chế độ tổng thống ở... Mỹ, còn chế độ Quốc trưởng là một chế độ độc tài, độc đoán giống như chế độ... phát xít với Quốc trưởng Hítle!
Trong hồi ký, Lênxđên còn khoe, chính Lênxđên đã gợi ý cho Ngô Đình Diệm nên in hai loại phiếu “trưng cầu dân ý”. Loại phiếu có hình Ngô Đình Diệm được in trên nền mầu đỏ thắm, tượng trưng cho hạnh phúc và vận may. Loại phiếu có hình Bảo Đại thì in trên nên xanh sám, tượng trưng cho sự rủi ro và, xúi quầy.
Ngày 26 tháng 10 năm 1955, cuộc trưng cầu ý dân dược tiến hành rất rầm rộ tại Sài Gòn và các tỉnh miền Nam dưới sự có mặt của Ngô Đình Diệm và vắng mặt của Bảo Đại. Dĩ nhiên, Ngô Đình Diệm đắc thắng với một tỷ lệ áp dảo. Lênxđên nhận xét, sở dĩ Ngბ Đình Diệm thắng phiếu, chủ yếu là vì, dân miền Nam “đổ xô vào chọn những tờ bia mầu đỏ thắm bỏ vào thùng phiếu”. Lênxđên khẳng định một cách tự mãn: kết quả này xuất phát từ tâm lý người dân mà CIA đã diều tra dược.
Thật ra, bất kể số phiếu thu được là bao nhiêu thì Ngô Đình Diệm vẫn cứ thắng vì tất cả các cơ quan tổ chức bỏ phiếu và kiểm phiếu, từ đô thị đến nông thôn đều là tay chân của Ngô Đình Diệm. Hơn thế nữa Bảo Đại lúc này đâu có là đối thủ của Ngô Đình Diệm! Cũng từ đó, ngày 26 tháng 10 được Ngô Đình Diệm chọn là “Quốc khánh”. Miền Nam Việt Nam lọt hẳn vào quỹ đạo của Mỹ với cái gọi là “chế độ cộng hòa” do Ngô Đình Diệm là tổng thống.
Dù sao, thắng lợi vẫn chưa đủ làm cho Lênxđên yên tâm. Tình báo Mỹ nhận định, muốn “bảo vệ” được cái chế độ thân Mỹ ở miền Nam Việt Nam thì phải đồng thời phá hoại tiến tới lật đổ chế độ Việt Minh cộng sản ở miền Bắc. Vấn đề này, Lênxdên cũng đã từng nghĩ tới ngay từ khi mới đặt chân tới Sài Gòn, tức là từ tháng 6 năm 1954, trước khi ký hiệp dịnh Giơnevơ về Đông Dương!
5. CIA TRONG CÁC HOẠT ĐỘNG PHÁ
HOẠI MIỀN BẮC VIỆT NAM
Theo qui định của hiệp nghị Giơnevơ về Đông Dương, phía ta bắt đầu tiếp quản thành phố Hà Nội ngày 10 tháng 10 năm 1954 và thành phố Hải Phòng ngày 16 tháng 5 năm 1955. Những thế lực phản động trong hàng ngũ Pháp lợi dụng luôn quãng thời gian chuẩn bị cho việc tập kết lực lượng và bàn giao chính quyền để xúc tiến các mưu đồ phá hoại, sau khi buộc phải rút hoàn toàn khỏi miền Bắc Việt Nam. Cục tinh báo trung ương Mỹ cũng chớp luôn thời cơ để thực hiện các mưu đồ phá hoại của Mỹ.
Tháng 8 năm 1954, Lênxđên từ Sài Gòn đáp may bay ra Hà Nội tiếp xúc với một số giám mục đạo Thiên chúa và một số “lãnh tụ” đảng Đại Việt, vừa để tìm hiểu tình hình, vừa để bàn bạc âm mưu chống phá “Việt Minh cộng sản”. Dựa vào lực lượng Công giáo để chống lại cộng sản vô thần vẫn là chủ trương nhất quán của CIA. Về lực lượng Đại Việt, CIA thừa hiểu dây chỉ là một nhóm phần tử cơ hội, khi Nhật Bản thắng thế thì dựa vào Nhật Bản để làm chỗ dựa “chống Pháp”, đến khi Nhật Bản bại trận thì lại tìm cách “bắt liên lạc” với Mỹ để có quan thầy mới. Không phải ai khác mà chính Patti là cựu sĩ quan OSS, khi tới Vân Nam, hồi đầu năm 1954 đã nhận xét, Đại Việt cũng như Quốc dân đảng đều không có lực lượng ở trong nước. Nhưng trong lúc Mỹ đang cần tập hợp các lực lượng phản động để chống lại Việt Minh cộng sản thì chẳng có một “đảng phái chính trị” nào khác ngoài những tàn dư của đảng Đại Việt mà tiêu biểu là một số “nhà trí thức” cơ hội chủ nghĩa, đang sống trong khu vực Hà Nội, tạm thời bị Pháp chiếm đóng. Vì vậy, Lênxđên dã tìm đến bọn chúng nhằm lôi kéo chúng làm tay sai cho Mỹ.
Lênxđên chỉ ở lại Hà Nội vài ngày rồi lại đáp máy bay vào Sài Gòn. Liền sau đó, phó của Lênxđên là Cônen, lúc này đeo lon thiếu tá, lại bay ra Hà Nội cùng với một nhóm 6 sĩ quan SMM. Cônen đặt trụ sở chính thức tại Hà Nội, tiếp đó lại lập thêm một “chi nhánh” nữa tại Hải Phòng. Trong buổi họp báo công khai tại Hà Nội, Cônen tự giới thiệu là người cầm đầu phái đoàn Mỹ, trông nom việc giúp đỡ những người
Việt Nam “lánh nạn cộng sản” từ miền Bắc di cư vào Nam. Cônen chính thức báo tin chính phủ Mỹ đã huy động một số tàu vận tải quân sự và cả máy bay quân sự để dưa những người Việt Nann di cư từ Hà Nội,Hải Phòng vào Sài Gòn.
Lênxđên khoe, trong nhóm sĩ quan SMM được cử ra Hà Nội, Hải Phòng hoạt động. Có cả chuyên gia về “chiến tranh tâm lý” rất thành thạo môn “tuyên truyền rỉ tai”, tức là phao tin đồn nhằm để kích động nhiều người di cư vào Nam. Đúng là trong thời kỳ này, CIA đã hoạt động rất tích cực và được sự hỗ trợ rất “hào phóng” của chính quyền Mỹ. Từ Oasinhtơn qua Sài Gòn đến Hải Phòng, Hà Nội, các sĩ quan CIA rất thành thạo về khoa tuyên truyền kích động, đã phối hợp với nhau, hoạt động trên một qui mô rộng lớn. Tại các vùng công giáo ở miền Bắc Việt Nam hồi đó, người ta thấy khá nhiều cha cố, liên miên tổ chức những buổi giảng đạo để rồi cuối cùng kết luận bằng một câu: “chúa đã vào Nam, các con chiên ngoan đạo nên đi theo chúa”. Dĩ nhiên, phần lớn những người quá mê tín đều tưởng thật, vội vàng thu xếp di cư. Tuy nhiên cũng còn có những người phân vân do dự, phần vì tin chắc chính phủ Cụ Hồ không khi nào lại ngược đãi giáo dân, ngăn cấm tự do tín ngưỡng, một phần nữa còn vì đã bao năm gắn bó với quê cha đất tổ không lẽ trong chốc lát có thể rời bỏ ruộng vườn làng mạc, dấn thân vào nơi vô định. Lập tức, tại một số nhà thờ, người ta thấy có hiện tượng “chúa chảy nước mắt thương khóc con chiên” Trò ảo thuật này rất đơn giản. Trước khi làm lễ, chỉ cần một linh mục nào dó, đã được tay chân của CIA lôi kéo, nhỏ một ít glyxêrin vào mặt pho tượng Đức bà đồng trinh hoặc tượng Đức chúa Giêxu. Lúc cha cố giảng đạo. Các con chiên đều cúi đầu chăm chú nghe đọc thánh kinh, hầu như không ai “phân tán tư tưởng” để ý đến sự việc diễn ra chung quanh. Khi đọc kinh xong, linh mục quay lên lấy nước thánh, lúc đó mới giả vờ thốt lên một tiếng kêu kinh ngac làm như bất chợt vừa mới phát hiện ra “chúa chảy nước mắt...” thế là, một đồn mười, mười lại đồn trăm, trong số dân công giáo ở miền Bắc hồi đó loan truyền rất nhanh chóng hiện tượng kỳ lạ này.
Tại Sài Gòn, Lênxđêm “tăng viện” thêm cho Cônen bằng cách “móc nối” với một tên “thầy tướng” người Việt gốc Hoa tên là Triệu Dinh, có biệt tài sáng tác những câu ca dao, hò, vè “ngụy trang bằng danh từ “sấm truyền”. Những câu “sấm truyền” do Triệu Dinh sáng tác “tiên đoán” sau khi chúa vào Nam, miền Bắc sẽ gặp nhiều tai họa như
động đất, sóng thân “mười phần chết bảy còn ba, phần ba còn lại chẳng ra hồn người” hoặc “mười phần chết bảy còn ba, phần ba còn lại nửa ma nửa người”, hoặc “mười phần chết bảy còn ba, phần ba ngắc ngoải kêu mà ai thương”. Được Lênxđên cho tiền, Triệu Dinh còn biên soạn cuốn lịch năm mới (tức năm Ất Mùi 1955) giấy tốt, chữ đẹp và lẫn vào nhiều tờ lịch là những câu “sấm truyền” nói bóng gió đến những “thảm họa” mà miền Bắc Việt Nam sẽ phải gánh chịu trong năm 1955. Tay chân của Lênxđên và Cônen còn phao tin, chờ đến khi quân đội Pháp từ miền Bắc rút hết vào Nam, lúc đó Mỹ sẽ “ném bom nguyên tử”, biến Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định, Ninh Bình... thành tro bụi. Thời kỳ cuối năm 1954 dầu năm 1955 quả là CIA đã gây ra rất nhiều tai họa cho hàng triệu gia đình giáo dân miền Bắc. Có những vùng công giáo toàn tòng, nhân dân từ bao đời nay vẫn bảm chặt thửa ruộng mảnh vườn quanh ngôi nhà thờ cổ kính, nay dột nhiên tất cả mọi người bỏ vào Nam hết, không phải chỉ có toàn bộ gia đình, mà là toàn thể chỏm xóm. Những người do dự chưa muốn rời quê cha đất tổ đã bị các cha cố, các trùm trưởng “thuyết phục”, thực tế là hăm dọa. Rõ ràng, đây là những vụ “cưỡng ép di cư” rất trắng trợn, mà chính một số thành viên trong Uy ban giám sát và kiểm soát đình chiến ở Việt Nam hồi đó cũng phải thừa nhận.
Cũng không phải chỉ có nhiều giáo dân từ miền Bắc di cư vào Nam để Ngô Đình Diệm kiếm được nhiều là phiếu ủng hộ trong cuộc tranh giành quyền binh Với Bảo Đại “như một số báo chỉ xuất bản ở các nước phương Tây, hồi đó đã nhận định. Mưu đồ của CIA, và cũng là mưu đồ của chính quyền Mỹ hồi đó, còn sâu xa hơn nhiều. Bởi vì, không phải chỉ có nhiều giáo dân thuộc vùng đồng bằng sông Hồng “theo Chúa vào Nam” mà hàng loạt gia đình vợ con binh lính người Nùng đóng tại khu vực biên giới như Lạng Sơn, Đình Lập, Tiên Yên, Móng Cái cũng bỏ vào Nam sinh sống. CIA đã dự kiến trước sau thực dân Pháp, cũng phải rút khỏi nước Việt Nam. Những người lính thuộc dân tộc Nùng ở vùng rừng núi miền Bắc Việt Nam này sẽ thoát ly sự ràng buộc của Pháp để lại rơi vào vòng ảnh hưởng của Mỹ. Những người “lính miền núi” này và cả con cháu của họ nữa sẽ có thể trở thành những “mũi xung kích” khi cần thiết tổ chức “Bắc tiến”, tiến công Việt Minh cộng sản. Trong trường hợp chưa có thời cơ và điều kiện phát động chiến tranh, những “người miền núi” này, sau khi được tuyển mộ vào hàng ngũ điệp viên CIA, sẽ trở thành những tên gián
điệp, biệt kích phục vụ cho các hoạt động lật đổ của CIA . Trong bản “tổng kết công tác” thời kỳ hoạt động tại miền Bắc Việt Nam trong khoảng “thời gian 300 ngày” từ giữa năm 1954 đến giữa năm 1955 (tức thời gian các lực lượng vũ trang của Pháp thực hiện tập kết để chuyển dần vào miền Nam Việt Nam). CIA khoe đã “lôi kéo được hơn 1 triệu người, hầu hết là tín đồ đạo Thiên chúa, từ miền Bắc di cư vào Nam. Đúng là với số đôla khá lớn tung ra cộng với tất cả các mánh khỏe tuyên truyền rỉ tai, phao tin đồn nhảm, dùng thần quyền để thuyết phục, dụ dỗ, lôi kéo kết hợp với hăm dọa và cưỡng ép. CIA đã có “thành tích lớn” trong việc tạo ra đợt “di dân ồ ạt kể từ sau chiēn tranh thể giới thứ hai”. Suốt mấy triều đại tổng thống Mỹ đều “hài lòng về thành tích vĩ đại” đó. Chỉ sau khi chiến tranh Việt Nam kết thúc, quân đội Mỹ hoàn toàn rút khỏi Việt Nam, chế độ ngụy quân ngụy quyền sụp đổ thảm hại, sau một loại thất bại liên tiếp, cả Nhà trắng lẫn cơ quan CIA “ngã ngửa người ra” khi được biết trong số những giáo dân di cư vào Nam có khá nhiều cán bộ cộng sản hoạt động bí mật đã tận dụng cơ hội do CIA tạo ra để lọt vào hàng ngũ ngụy quân, ngụy quyền, tạo thành một mạng lưới không chỉ thu thập tin tình báo mà còn góp phần không nhỏ vào việc làm cho ngụy quân, ngụy quyền sụp đổ.
Về phía Mỹ, cơ quan CIA cũng không quên các hoạt động phá hoại và lật đổ tại miền Bắc Việt Nam, một công việc mà các diệp viên CIA đã tích lũy được rất nhiều kinh nghiệm và thành thạo tới mức nhiệm vụ này trở thành chức năng chủ yếu của CIA. Không phải ai khác mà chính nhiều quan chức cấp cao CIA, trong những cuốn hồi ký của mình, đã công khai tiết lộ “chức năng chủ yếu của cơ quan tình báo Trung ương Hoa kỳ không phải chỉ nhằm thu thập tin tình báo, mà chính là phá hoại lật đổ”.
Từ tháng 7 năm 1951, ngay trong chuyến đi đầu tiên từ Sài Gòn ra Hà Nội. Lênxđên đã nhờ “phòng nhì” của Pháp giới thiệu để làm quen với các “lãnh tụ” đảng Đại Việt như Đặng Văn Sung, Cao Xuân Tuyên, … bàn kế hoạch tổ chức một nhóm vũ trang bí mật cài lại miền Bắc Việt Nam hoạt dông “phá hoại và lật đổ” khi Việt Nam tiếp quản. Việc cần kíp trước mắt là phải tuyển lựa cấp tốc khoảng “vài chục” thanh niên “trung thành và dũng cảm” bí mật đưa đi huấn luyện về quân sự rồi sau đó lại bí mật quay trở về miền Bắc Việt Nam “thực thi công vụ”.
Lúc này, bọn “lãnh tụ”, Đại Việt cũng đang có âm mưu cài lại một số đảng viên chưa bị lộ mặt của chúng tại các thành phố đông dân như Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định... nhằm tiến hành các hoạt động chống phá cách mạng. Được Lênxđên tìm gặp, bọn này rất vui mừng phấn khởi. Đối với bọn cầm đầu Đại Việt, việc tìm kiếm những đảng viên chưa bị lộ mặt để cadi lại miền Bắc Việt Nam không khó lắm, bởi vì chúng vừa mới tiến hành một đợt “kết nạp đảng viên mới”, trước khi theo chân Pháp rút chạy vào miền Nam Việt Nam. Cái khó là phải chọn lọc trong số này những tên “trung thành”, có sức khỏe, thích phiêu lưu mạo hiểm, có tinh thần chống “Việt Minh cộng sản”.
Từ năm 1952, khi còn đeo lon đại úy trong đội quân do Pháp chỉ huy đông lại huyện Giao Thủy, Nam Định, Cao Xuân Tuyên đã tuyển lựa được một tên lính hầu, gọi là “gác-đờ-co”... Vừa làm nhiệm vụ bảo vệ, vừa làm nhiệm vụ phục dịch. Do là tên Trần Minh Châu tức Trần Văn Cập, một tín đồ đạo Thiên chúa, sau khi cách mạng tháng 8-1945 bùng nổ đã làm xã đội trưởng dân quân rồi làm chủ tịch xã. Sau khi thực dân Pháp quay trở lại xâm lược Việt Nam, Cập đã bị quân đội Pháp bắt trong một trận càn quét hồi năm 1949 và đã nhanh chóng phản bội cách mạng, phản bội Tổ quốc, phản bội nhân dân, ngoan ngoãn làm tay sai cho địch. Qua cặp mắt sành sỏi của Cao Xuản Tuyên, tên phản bội Trần Văn Châu sau khi trải qua một vài thử thách, dược Tuyên rất tin dùng, Tuyên thường huyênh hoang nói với đồng họn: “sử dụng những tên phản cách mạng để chống lại cách mạng là thượng sách nhất, cao tay nhất. Bởi vì, những tên này đã trót phản bội Việt Minh thì chỉ còn một cách lao vào chống Việt Minh cộng sản tới cùng”. Dĩ nhiên, tên Trần Văn Cập có một điểm yếu là đã hoạt động trong hàng ngũ Việt Minh, nghĩa là đã lộ mặt. Nhưng dù sao, Cập mới chỉ làm tới chức Chủ tịch và đội trưởng dân quân trong một xã. Nếu tạo được một lý lịch giả mạo cho Cập, để Cập đổi họ, đổi tên, rồi đưa Cập lên tận Hà Nội hoạt động trong một thành phố đông dân thì nhất định vần có thể sử dụng dược.
Và thế là, sau cuộc “hội đàm” giữa trưởng phái đoàn Mỹ SMM là Lênxđên với các lãnh tụ cầm đầu đảng Đại Việt, Trần Văn Cập đã được " đảng" bố trí đưa lên Hà Nội. Tại Hà Nội, Trần Văn Cập lại ”bắt nối” được với Nguyễn Kim Xuyến cũng là một thanh niên công giáo quê ở huyện Ý Yên, Nam Định. Từ tháng 3 năm 1951, Xuyên đã từng bỏ làng quê lên Nam Định xin theo học lớp đào tạo hạ sĩ quan tại
thành phố Nam Định nhưng không trúng tuyển. Buồn bực, chán nản, Xuyến lên Hà Nội, lại nhà một người quen là Nhượng Tống, một tên văn sĩ phản động lúc này đang là một “đảng viên cao cấp” của đảng Đại Việt. Nhượng Tống dã kết nạp Nguyễn Kim Xuyến vào đảng Đại Việt, giới thiệu Xuyến theo học một lớp “chính trị vỡ lòng” của đảng Đại Việt, tổ chức tại bệnh viện tư của bác sĩ Đặng Vũ Lạc rồi sau đó lại giới thiệu Xuyến vào làm việc tại tòa soạn báo Gió Mới. Từ tòa soạn của tờ báo này, Nguyễn Kim Xuyến được dịp làm quen với Cao Xuân Tuyên và Đặng Văn Dương là em trai Đặng Văn Sung, đồng thời được các lãnh tụ Đại Việt đánh giá là một thanh niên hăng hái, gan dạ, có đầu óc quốc gia và tinh thần chống cộng.
Trần Văn Cập và Nguyễn Kim Xuyến trở thành hai nhân mối tích cực, có nhiệm vụ bí mật móc nối, tuyển lựa những thanh niên “đồng tâm đồng chí” đi “du học quân sự” tại Mỹ. Nhưng mãi đến cuối tháng 8 năm 1954 là hết thời hạn cuối cùng, bọn chúng cũng mới chỉ “kết nạp” được 14 tên. Nếu cộng cả Cập và Xuyến thì cũng chỉ có 16 tên, không thể nào “tròn con số hai chục”.
Tháng 9 năm 1954, toàn bộ 16 “du học sinh“ này được đưa từ Hà Nội xuống Hải Phòng, đặt dưới sự chỉ huy của trung úy Andriu, một điệp viên CIA, đồng thời là một thành viên trong phái đoàn SMM của Mỹ.
Đô đốc Xalen, chỉ huy trưởng đội đặc nhiệm 98 thuộc hạm đội 7 của Mỹ đã được lệnh của bộ tư lệnh hải quân khu vực Thái Bình Dương của Mỹ, bố trí một chuyến tàu “há mồm” đưa “sinh viên quân sự” ra khơi. Trái với điều bọn Tần Văn Cập mơ ιrớc, chúng không dược dưa tới Mỹ tham quan các thành phố Niu Yoóc, Sicagô, Oasinhtơn mà chỉ được tới một hòn đảo thuộc Mỹ ở Thái Bình Dương, cách xa bờ biển nước Mỹ hàng ngàn hải lý. Ngay khi vừa cập bến, tất cả bọn này được xe vận tải quân sự phủ vải bạt kín, đưa tới một doanh trại mà chính bọn chúng cũng không biết là trại lính gì và cũng không dược phép hỏi. Công việc đầu tiên là kiểm tra lại sức khỏe, có 3 tên không đủ tiêu chuẩn phải quay trở lại Việt Nam. Còn lại 13 lên. Tất cả đều được gán cho những cái tên Pháp hoặc Mỹ, coi đó là “bí danh” trong thời kỳ học tập, đồng thời cũng để cho các huấn luyện viên Mỹ dễ diểm danh.
Sau những bài “quân sự thường thức, và những môn bắt buộc như
bơi lặn, chèo thuyền, chạy bộ, trèo tường, võ Giuđô, cách phát tín hiệu liên lạc với máy bay... bọn chúng chia thành 3 tổp theo học các khoa chuyên môn“, có các chuyên gia giảng dạy bằng tiếng Anh, một tên Mỹ dịch sang tiếng Pháp, rồi một tên trong bọn lại dịch sang tiếng Việt cho cả tổp cùng hiểu.
Lớp quân sự gồm có Cập tức Lexli, Địch tức Philip, Ðức tức Lơ Roa, Hào tức Ăngđrê, học các môn sử dụng súng ngắn, tiểu liên, trung liên, đại liên, súng cối, ném lựu đạn, đặt mìn và mìn hẹn giờ. Sau dó là các chiến thuật phục kích, tập kích và phản kích khi bị đánh úp bất ngờ.
Lớp tình báo gồm có Thanh tức Pie, Chấn tức Vanhxăng, Minh tức Capê, Sản tức Rudi, Nguyên tức Rôbe học cách thức thăm dò tin tức, thu thập tình báo, đánh cắp tài liệu, sử dụng các máy ảnh đặc biệt.
Lớp vô tuyến điện gồm có Xuyến tức Sáchơmanhơ, Long tức Anbe, Đàm tức Xiranô học cách sử dụng và sửa chữa radio, truyền tin bằng mật mã, cách giải mã.
Sau hơn bốn tháng học tập cật lực là cuộc thi “tốt nghiệp” cuối cùng, từng tên một được dẫn vào phòng “thầm vấn”. Một tên Mỹ, đóng vai công an Bắc Việt đề ra hàng trăm câu hỏi lắt léo, từng tên phải trả lời rành rọt theo những điều đã được quan thầy hướng dẫn. Một thiết bị, gọi là “máy kiểm tra nói dối”, kiểm tra từng nhịp dập trái tim, hơi thở, sự tuần hoàn của não để đi tới kết luận những “sinh viên” này có thật sự gan dạ, bình tĩnh và nhất là có “trung thành với sự nghiệp” mà quan thầy Mỹ trao cho không.
Ngày 8 tháng 2 năm 1955, tên Minh tức Capê bị giữ lại vì máy “kiểm tra nói dối” phát hiện có sự dao động trong nội tâm, 12 tên còn gọi lại được tàu chiến Mỹ đưa về Sài Gòn trao cho Cao Xuân Tuyên lúc này đã đeo lon trung tá, phụ trách toàn thể nhóm phá hoại và lật đổ. Hào, Cập, Đức là 3 tên học tập, xuất sắc trong bọn được phong trung úy. Những tên còn lại được phong cấp từ thiếu úy đến thượng sĩ. Đầu tháng 3 năm 1955 cả bọn lại được tàu Mỹ đưa ra Hải Phòng.
Trong chuyến đi này, Cao Xuân Tuyên cũng ra Hải Phòng. Hắn ở lại đây một thời gian dể bố trí sắp sếp nhân mối tổ chức các “mạng lưới”, cho tới khi quân đội Pháp rút hết mới quay trở lại Sài Gòn. Cùng ở lại Hải Phòng với Cao Xuản Tuyên có Phạm Việt Đức, Nguyễn Văn
Tiêm và Nguyễn Kim Xuyến. Tổ thứ hai gồm có Phạm Đăng Hào. Nguyễn Đình Long, Vũ Đình Địch về Nam Định, Trần Văn Cập và số còn lại lên Hà Nội.
Lúc này, tất cả bọn chúng đã vứt bỏ hết những tên Mỹ, tên Anh, tên Pháp và thay bằng những “bí số” để bí mật liên lạc với với nhau cũng như liên lạc với “trung ương”. Ngoài ra, trong cuộc sống ngụy trang ngoài xã hội, mỗi tên lại có vải lên gọi khác nhau, làm nhiều nghề khác nhau. Sau một thời gian ngắn, chúng lại đổi chỗ ở đồng thời đổi cả tên và đổi cả nghề. Ví dụ như Trần Văn Cập còn có một “chứng minh thư“ thứ hai ghi tên Trần Minh Châu và có lúc lại dược gọi bằng cái tên ngắn gọn là “bác Nguyên chữa xe đạp”. Chỗ ở của hắn cũng luôn luôn thay đổi, lúc thì ở Hàng Rươi, lúc thì về Quán Thánh, lúc thi lại dọn nhà ra tận bờ sông.
Tháng 5 năm 1955, khi quân đội Pháp rút hết khỏi Hải Phòng, đồng thời cũng là rút hết khỏi miền Bắc Việt Nam, nhóm phái đoàn quân sự SMM do Cônen chỉ huy cũng quay trở lại Sài gòn. Cônen có vẻ không thỏa mãn vì lực lượng bán quân sự do CIA tổ chức, mới đầu dự định có 20 tên, nhưng khi đưa đi đào tạo chỉ tuyển mộ dược có 16 tên và lúc “tốt nghiệp” chỉ còn lại vẻn vẹn 12 tên. Nhưng Lênxđên nói: “lúc này là 12 tên rồi sẽ phát triển lên 120 tên. Và 120 tên này sẽ tiến hành 1200 vụ phá hoại ở miền Bắc Việt Nam”.
Trong bản báo cáo gửi về Oasinhtơn (toàn văn đã bị phanh phui trước ảnh sáng dư luận trong vụ tiết lộ các tài liệu mật của Lầu năm góc) phái đoàn SMM của Lênxđên khoe:
“Phái đoàn SMM ở miền Bắc Việt Nam dưới sự chỉ huy của Cônen đã tổ chức dược một nhóm bán quân sự (mà chúng tôi ngụy trang bằng cái tên Việt Nam là Bình) thông qua đảng Đại Việt, nhóm này đã được bí mật đưa vào miền Bắc qua cảng Hải Phòng dưới sự chỉ huy của trung úy Anđriu và được một chiếc tàu của Hải quân Mỹ chở đến khu vực huấn luyện, một nhóm nữa được tổ chức ở miền Nam và được ngụy trang dưới cái tên là nhóm Hào.
Vũ khí và trang bị dùng cho đội công tác bán quân sự của nhóm Bình được cất giấu ở miền Bắc, tại các khu vực chưa bị Việt Minh kiểm soát. Chúng tôi đã chuyển bí mật vào Việt Nam khoảng 8 tấn rưỡi đồ tiếp tế cho nhóm Hào để rồi Hào lại chuyển cho nhóm Bình ở miền Bắc. Số hàng này gồm có 14 máy vô tuyến điện, 300 súng các-
bin, 90.000 viên đạn các-bin, 50 súng ngắn, 10.000 viên đạn súng ngắn và 150 tạ chất nổ, 2 tấn rưỡi đã được chuyển đến tay nhóm Bình ở Bắc kỳ. Số còn lại được SMM cất giấu dọc sông Hồng. Ngày 16 tháng 5 năm 1955 Việt Minh tiếp quản Hải Phong, các nhóm Bình và Hào của chúng tôi lúc này đều đã có mặt ở miền Bắc và đều đã được trang bị đầy đủ. Đã phải làm việc rất căng như phải lựa chọn người, đưa ra ngoài huấn luyện rồi lại đưa về thâm nhập trở lại, trang bị cho họ, bố trí họ tại những địa điểm đã ấn định. Toàn bộ công việc này phải tiến hành hết sức bí mật, không để cho Việt Minh, Ủy ban Quốc tế biết. Thậm chí cả những ngựời Pháp và những người Việt Nam bạn bè thân Mỹ cũng không được biết…“.
Từ Sài Gòn, Lênxđên và Cônen hý hửng ngóng chờ tin về các ”hoạt động” của nhóm bán quân sự. Chi nhánh CIA ở Sài Gòn đã vạch kế hoạch tỉ mỉ cho bọn tay chân của chúng ở Hà Nội, Hải Phòng và Nam Định tích cực phát triển nhân mối, tổ chức những vụ ám sát các cán bộ cấp cao của Việt Minh, đặt chất nổ phá hoại các trạm biến thế điện, đặt mìn (chế tạo giống như những viên than) phá hoại các dầu máy xe lửa giữa lúc tàu đang chạy, đổ axit vào các thiết bị trong nhà máy, cho cát vào bình xăng xe ô tô.
Tuy nhiên cho tới khi kết thúc năm 1955 rồi qua năm 1956, thậm chí mãi tận những năm 1957, 1958 bọn tay chân của Lênxđên vẫn không gây ra được một vụ nổ nào tại các thành phố lớn ở miền Bắc Việt Nam. Nguyễn Kim Xuyên đã lĩnh tới 6 khẩu súng có thiết bị giảm thanh nhưng không gây dược vụ ám sát nào. Bản báo cáo dầu tiên của Trần Văn Cập gửi về “trung ương” cho biết dã “kết nạp” được 2 nhân mối, bắt liên lạc được với Trần Văn Tước là đảng viên Đại Việt ở phố Lò Đúc, Trần Duy Hinh là tài xế cũ lái xe cho Đặng Văn Sung... nhưng cho tới lần báo cáo thứ 8 vẫn chỉ nhai lại diệp khúc “tình hình có nhiều khó khăn. Việt Minh quản lý hộ khầu rất chắc. Chưa hoạt động được vì sợ lộ cơ sở”.
Tháng 8 năm 1956 Cao Xuân Tuyên quá sốt ruột, phải ra lệnh gọi một tên trong nhóm phá hoại vào tận trong Nam, trực tiếp báo cáo tình hình cụ thể. Từ Hà Nội, bọn đàn em của Tuyên gửi điện mật vào cho biết, Phạm Đăng Hào, tức Hùng, bí số HG sẽ đích thân vào Sài Gòn gặp trung ương. Ngày 6 tháng 9 năm 1965, Hào tới Sài Gòn được đưa ngày tới gặp một| “Cố vấn Mỹ” và được xét hỏi suốt 48 giờ
trong đó có 14 lần thẩm tra qua “máy kiểm tra nói dối”. Sau dó, Hào được đưa về nhà Đặng Văn Sung ở 378 phố Phan Thanh Giản rồi lại đưa về “trụ sở” tại 217 đường Công Lý. Tại dây, Hào nhận được chỉ thị cố gắng gây ra một vụ nổ “cốt để có tiếng vang”. Ngày 15 tháng 9 năm 1956, Hào lại vượt tuyến ra miền Bắc, đem theo một số hàng hóa bán đi dược 14 triệu đồng (tiền Ngân hàng Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa) đem chia cho đồng bọn, gọi là “chút quà của cấp trên ủng hộ, động viên toàn nhóm cố gắng thực thi công vụ”.
Từ nửa cuối năm 1958, mọi liên lạc điện đài tử Bắc vào Nam đều im bặt, Cao Xuân Tuyên đứng ngôi không yên, dự đoán “có chuyện chẳng lành đã xảy ra”. Ngày 5 tháng 5 năm 1959 tòa án Hà Nội xử công khai bọn gián điệp, phá hoại. Lúc này cả Lênxđên va Cônen đều đã trở về Mỹ. Mãi một thời gian dài sau đó, sau khi đã tốn khá nhiều công sức tiền của đề nghiên cứu xem tại sao toàn thể bọn phá hoại đều bị công an Bắc Việt bắt sống, CIA Mỹ cũng chỉ “mang máng” biết rằng: trong một buổi kiểm tra “hàng tồn kho” của một số tư sản gian thương tại Hải Phòng công an đã phát hiện thấy ba quả mìn làm giống như những viên than dùng để chạy đầu máy xe lửa. Tuy nhiên, những viên than giả này có “điểm yếu” là nhẵn bóng hơn những vên than thông thường và đưa lên mũi ngửi có mùi tanh. Những người chủ nhà có mìn cất giấu bị gọi lên đồn công an xét hỏi nhưng không đủ bằng chứng buộc tội, lại được tha về. Cuối cùng “vụ phát hiện được mìn” cũng chìm trong quên lãng. Có пgười còn nhận xét: đâỷ là mìn của Pháp để lại và Pháp cùng bọn tay chân đã rút hết vào Nam. Cái nhóm “Bình và Hào” của Mỹ lại tiếp tục hoạt động vì không thấy theo dõi. Thế nhưng, chính trong lúc chúng đinh ոinh “không bị theo dõi” thì Công an Bắc Việt đã “cài” được người vào trong nhóm của chúng theo dõi chúng tử “trong gan ruột” chứ không phải chỉ từ bên ngoài. Trong 8 chuyến liên lạc điện đài của chúng thì chỉ có 2 chuyến đầu là thật, 6 chuyến sau đều tiến hành theo sự bố trí của công an “Đặc phải viên” của nhóm được “cử vào Nam trực tiếp báo cáo với Trung ương” cũng đã bị công an khống chế.
Một lần nữa, CIA lại bị thua dau.
Tiếp theo vụ án Trần Minh Châu tức Cập, hàng loạt tên gián diệp nữa cũng lần lượt bị bắt gọn và đưa ra tòa án công khai xét xử trước đông đảo nhân dân. Trong số này có vụ tên Nguyễn Tiến Thành và
đồng bọn, hoạt dộng trên một địa bàn khá rộng, từ Hải Phòng đến tận Vĩnh Phú.
Trước tòa, Nguyễn Tiến Thành và đồng bọn đã cúi đầu nhận tội và cung khai tất cả những âm mưu phá hoại và lật đổ của chúng. Thành báo cáo, cuối năm 1954 hắn đã được Nghiêm Kế Tổ là một “lãnh tụ” Việt Nam quốc dân đảng kết nạp vào “đảng” rồi bố trí cho di “du học quân sự tại nước ngoài”. Từ Hải Phòng, Thành cùng 5 tên nữa đáp tàu biển của Pháp vào Sài Gòn. Tại đây, sau khi được CIA thẩm tra lý lịch và thử thách, trắc nghiệm. Thành cùng với hơn 10 tên nữa lại được đưa xuống tàu biển của Mỹ tới đảo Guyam giữa Thái Bình Dương. Chương trình học tập cũng tương tự như hai nhóm Bình và Hảo. Lênxđên đã khoe trong bản báo cáo về “thành tích” của phái đoàn quản sự SMM do hắn chỉ huy.
Tuy nhiên nhóm Nguyễn Tiến Thành không do CIA trực tiếp tuyển mộ mà là do bọn Nghiêm Kế Tổ, Hoàng Công Măng, Vũ Hán Khuông trong tổ chức phản động mệnh danh là Việt Nam quốc dân đảng tự động tổ chức rồi nhờ CIA hỗ trợ. Dĩ nhiên CIA sốt sắng nhận lời ngay. Như báo cáo của SMM đã ghi nhận, trong thời kỳ ra Hà Nội bắt liên lạc với các tổ chức phản động. Lênxđên cũng như Cônen chỉ tiếp xúc với nhóm Đại Việt, chứ không tìm gặp bọn đứng đầu Việt Nam Quốc dân đảng. Nay Việt Nam Quốc dân đảng lại tự đóng góp thêm cho CIA một nhóm phá hoại nữa để chống lại Việt Minh cộng sản ở miền Bắc Việt Nam, đúng là một “dịp may bất ngờ” đối với CIA.
Sau khi đã được huấn luyện kỹ các kỹ thuật phá hoại, ám sát, thu thập tin tình báo, ngày 16 tháng 4 năm 1955 bọn Thành lại được đưa trở lại Hải Phòng trước khi quân dội Pháp rút khỏi thành phố cửa biển này. Từ Hải Phòng, bọn Thanh tách ra thành 4 tổ, chia nhau hoạt động ở các thành phố và thị xã Hải Phòng. Hà Nội, Sơn Tây, Hà Đông,
Theo đúng kế hoạch đã bàn bạc kỹ từ trước, từng tên trong bọn phá hoại do Thành cầm đầu tự dộng kiếm lấy một nghề “làm ăn lương thiện” cố gắng im hơi lặng tiếng một thời gian hòng giữ bí mật, tránh khỏi cặp mắt nghi ngờ của các chiến sĩ an ninh và nhân dân chung quanh. Mãi tới 16 giờ ngày 16 tháng 6 năm 1955 Thanh mới cho một điện đài bắt liên lạc với “Trung ương” ở Sài Gòn để nhận chỉ thị hoạt động. Thế nhưng, suốt trong hai tháng 6 và 7 năm 1955, bọn Thành
đã 6 lần mở đài bắt liên lạc với cấp trên nhưng đều không nhận được tín hiệu trả lời. Hơn nữa, trong bọn cùng đi học Ô Quan về, còn có 9 tên nữa đã trở lại Hải Phòng nhưng sau đó, Thành đã tốn công tìm kiếm vẫn “mất tích” không biết đang bí mật ẩn náu ở đâu hoặc đã ra đầu thú hay đã bị công an bắt.
Trước tình hình đó, đầu tháng 8 năm 1955. Thành phải cử hai “đặc phái viên” là Văn và Song vượt tuyến vào Nam để bắt liên lạc và trực tiếp báo cáo tình hình với cấp trên. Nhưng mới đi tới Nghệ An, hai tên Văn và Song đã “cảm thấy có người theo dõi” vì vậy “thần hồn nát thần tính” bọn chúng lại hốt hoảng quay trở lại, không dám tiếp tục cuộc hành trình vượt tuyến nữa.
Làm thế nào để “bắt liên lạc với Trung ương” bây giờ? Số tiền trợ cấp đã hết. Kho vũ khí, kho điện dài vẫn đang cất giấu. Bọn Thành bàn với nhau, rút lên vùng trung du Phú Thọ, vừa lao động sản xuất trong một số cơ sở nông nghiệp để kiếm ăn vừa hoạt động phá hoại, cổt “gây được một tếng vang lớn”, trấn động tới trong Nam, như vậy sẽ đến tai “trung ương Quốc dân đảng” liền đó, Thành và đồng bọn tiến hành “gây cơ sở”, bằng cách làm quen với một số phần tử xấu ở địa phương, kết nạp bọn này vào tổ chức phản động do Thành cầm đầu. “Cương lĩnh hoạt động” của bọn Thành là tiến hành “cách mạng tư sản dân quyền” để chống lại “Việt Minh cộng sản”. Phú Thọ sẽ là “căn cứ địa” của bọn chúng. Sau khi đã “giải phóng” được vùng trung du này sẽ “đánh loang ra các vùng lân cận rồi cướp chính quyền tại Hà Nội (1)
Thế nhưng, giữa lúc “các nhà cách mạng tư sản dân quyền” của cái tàn dư Việt Nam Quốc dân đảng đang tỉ tê rỉ tai tuyên truyền về “cương līnh hoạt động” thì mạng lưới an ninh của nhân dân đã bủa vây rồi dần dần xiết chặt. Cuối cùng toàn bộ 11 tên trong nhóm phản cách mạng này đều sa lưới pháp luật. Từ Phú Thọ những tên bị bắt giữ đã cúi đầu nhận tội khai báo tất cả những địa điểm chôn cất điện đài cũng như vũ khí của bọn chúng tại Hải Phòng. Căn cứ vào những lời khai báo này ta đã tịch thu toàn bộ 4 điện đài ở nhà số 7 Ngô Thuận Thái, Hải Phòng Vốn là “trụ sở bí mật” của Hoàng Công Măng, tiếp đó lại thu thêm nhiều hòm vũ khí và chất nổ do CIA cung cấp cho bọn chúng, trong đó có tới 113 súng các bin báng gập.
Như vậy là từ vụ án Trần Minh Châu đến vụ án Nguyễn Tiến
Thành, ta đã lần lượt phá 6 vụ án phá hoại và lật đổ của CIA cài lại miền Bắc, trước khi bọn chúng chưa kịp gây tội ác. Sau khi toàn bộ các nhóm phá hoại của CIA bố trí trên lãnh thổ miền Bắc Việt Nam bị bắt giữ và xét xử, một luồng không khí hoang mang dao động nhanh chóng lan rộng trong hàng ngũ bọn tay sai của thực dân đế quốc. Cả những tên do Pháp cài lại cũng hoảng hốt tự động ra đầu thú để được hưởng lượng khoan hồng. Một số đồng bào công giáo yêu nước đã tin gặp chính quyền, tố cáo nհữոց hoạt động của tên gián điệp Mỹ đội lốt thầy tu mang tên Đu lây, tổng giám mục tại Nhà thờ lớn Hà Nội có nhà riêng tại số 41 phố Lý Quốc Sư đang lén lút tuyên truyền dụ dỗ lôi kéo giáo dân chống lại chính quyền và thu thập tin tức cho Mỹ Trước những chứng cớ cụ thể, một phần do chính đồng bào công giáo cung cấp, một phần do các chiến sĩ an ninh của ta phát hiện. Chính phủ ta đã ra lệnh trục xuất Đu Lây. Tiếp đó, tòa lãnh sự Mỹ ở số 11 phố Hai Bà Trưng và các cơ sở cuối cùng của Mỹ đặt tại số 5 Bà Huyện Thanh Quan, số 36 phố Hoàng Diệu cũng bị đóng cửa. Các tổ chức như Hội bảo hiểm nhân thọ, tổ chức đại chúng học vụ, tổ chức y tế lưu động do Mỹ đỡ đầu, thực tế là do CIA ẩn núp bên trong cũng ngưng hoạt động. Từ đó trở đi. CIA bị chặt nốt những “chân rết” cuối cùng còn cố bám dai tại Hà Nội.
6. BÊN TRONG
“SỞ LIÊN LẠC PHỦ TỔNG THỐNG”
Mặc dù một loạt hành động phá hoại của bọn gián điệp cài lại miền Bắc Việt Nam đã liên tiếp bị triệt tiêu, bọn Mỹ-Diệm vẫn không chịu từ bỏ những âm mưu đen tối của chúng. Với chức vụ “cố vấn đặc biệt” của tổng thống, Lênxđên đã hướng dẫn cho Ngô Đình Diệm tổ chức ra một thứ “Cục tình báo trung ương” tại miền Nam Việt Nam với chức năng: vừa làm nhiệm vụ phản gián, vừa làm nhiệm vụ thu thập tin tình báo, chống lại phong trào cách mạng đang dâng cao ở miền Nam và tiếp tục phá hoại miền Bắc Việt Nam.
Lúc này, Cao Xuân Tuyên đã bị thất sủng sau khi hai nhóm phá hoại Bình và Hảo bị thanh toán gọn. Tên Lê Xuân Tung (cấp bậc trung lá, tương đương với Cao Xuân Tuyên) lại dược Mỹ-Diệm chọn lựa đứng đầu cái “cục tình báo Trung ương” được ngụy trang bằng cái tên rất mơ hồ là “sở lện lạc phủ tổng thống”. Theo lời khai của những tên gián điệp biệt kích bị ta bắt giữ, cái “sở liên lạc phủ tổng thống” này gồm 7 phòng, mỗi phòng có một “bí số” riêng.
- Phòng thứ nhất, bí số P.35, phụ trách việc tuyển mộ đào tạo bọn gián điệp biệt kích. Lực lượng gián điệp biệt kích này, lúc đầu thấy tên là “Liên đoàn biệt động”, sau đó thấy danh từ “biệt động” quá lộ liễu, các cố vấn Mỹ lại khuyên Ngô Đình Diệm đổi tên là “Liên đoàn quan sát”.
- Phòng thứ hai, bí số P.45 phụ trách hướng dẫn, chỉ đạo, theo dõi việc tập trung lực lượng gián điệp biệt kích ra hoạt động phá hoại tại miền Bắc Việt Nam.
- Phòng thứ ba, bi số P.55, phụ trách hướng dẫn, chỉ dạo, theo dõi hoạt động của bọn gián diệp biệt kích tại miền Nam Việt Nam. Lực lượng này cũng được đào tạo như bọn gián điệp biệt kích hoạt động tại miền Bắc, nhưng sử dụng vào việc tiêu diệt các cơ sở cách mạng ở miền Nam Việt Nam. Nhiệm vụ của bọn chúng dò xét những người bị tình nghi là “cán bộ cộng sản nằm vùng” và tổ chức vây ráp, ruồng bố những khu vực tình nghi là có cơ sở cách mạng đang bí mật hoạt động.
- Phòng thứ tư bí số P.65, phụ trách vấn đề “an ninh nội bộ”, tức là dò xét ngay cả công nhân, viên chức, sinh viên, tri thức, sĩ quan, hạ sĩ quan trong hàng ngũ ngụy quân, ngụy quyền. Tổ chức của phòng này giống hệt sở mật thám Pháp và Cục điều tra Liên bang FBI của Mỹ.
- Phòng thứ năm, bí số P.75, phụ trách việc thu thập sưu tầm, dịch thuật, phân tích những tài liệu, tin tức tình báo thu nhận được từ nhiều nguồn khác nhau.
- Phòng thứ sáu, bí số P.85 phụ trách các công việc hành chính, quản trị, hậu cần.
- Phòng thứ bảy, bí số P.95, phụ trách mạng lưới thông tin liên lạc bằng các phương tiện thông thường và các kỹ thuật mật của ngành tình báo.
Như vậy là, ngay từ khi thành lập cái gọi là “sở liên lạc phủ tổng thống”, lực lượng gián điệp biệt kích trực thuộc “sở liên lạc” này đã có nhiệm vụ hoạt động ở cả hai miền Nam Bắc Việt Nam, “cố vấn đặc biệt” Lênxđên đã chỉ dẫn cho Ngô Đình Diệm, không phải chỉ có việc tổ chức một bộ máy gián điệp theo kiểu CIA mà còn xây dựng cả một hệ thống khủng bố đàn áp kiểu FBI. Tất cả những “tinh hoa” trong ngành tình báo, gián điệp, biệt kích, mật thám, cảnh sát của Hoa kỳ đều được quy tụ trong cái “sở liên lạc phủ tổng thống” của Ngô Đình Diệm.
Trong việc tuyển chọn gián điệp biệt kích, mới đầu bọn Mỹ - Diệm rút từ các lực lượng bộ binh hoặc biệt động những tên có sức khỏe và năng lực, đưa đi “đào tạo chuyên môn” bằng cách cho theo học những khóa huấn luyện biệt kích ở Nha Trang hoặc ở nước ngoài, tại các căn cứ quân sự của Mỹ ở Philippin, Nhật Bản hoặc trên đảo Guyam. Từ năm 1950 trở đi, do yêu cầu “tăng thêm số lượng”, các nhân viên CIA đã đến thẳng các trại “tiếp cư”, tức là những khu tập trung gồm nhiều dãy nhà vách làm bằng gỗ, mái lợp bằng tôn do Mỹ dựng lên nhằm “tiếp đón” ոhững người từ miền Bắc di cư vào Nam, để trực tiếp tuyển mộ. Bọn chúng thường nhằm vào đoàn thanh nіên công giáo hoặc con cái gia đình phản động chống đối “chế độ cộng sản” coi đó là những người “có lòng căm thù và ý chí”, có thể tạo thành đám tay sai trung thành của Mỹ. Sau khi đã hoàn tất các thủ tục giấy tờ về lý lịch, giấy cam kết tình nguyện phục vụ, bọn này còn phải trải qua một loạt thử thách bằng cách dứng hàng giờ trước những
thiết bị “trắc nghiệm tâm lý” trả lời hàng trăm câu hỏi để máy thầm tra xem có thật sự trung thành với lý tưởng “chống cộng” hay không có “quyết tâm” lọt vào tận cơ sở của “Việt Cộng”, ở trong Nam hoặc xung phong “Bắc tiến” hay không, có sẵn sàng “chịu đựng gian khổ, hy sinh phấn đấu” không... Sau mới được cử di học về kỹ thuật, chiến tranh chiến thuật, chiến tranh tâm lý, điều tra tình báo... lại phải thử thách qua máy “trắc nghiệm tåm lý” để khẳng định xem, quá trình học tập rèn lսyện gian khổ, có hoang mang dao động, ngã lòng nản trí hay không, rồi mới được chính thức công nhận là “thành viên của liên đoàn quan sát”, được cử đi hoạt động tại một khu vực nào đó ở miền Nam hoặc miền Bắc.
Tại miền Nam Việt Nam, đi đôi với việc tung lực lượng gián điệp biệt kích hoạt động tại các khu vực nghi là “căn cứ Việt cộng” tháng 10 năm 1959 CIA còn “mách nước” cho Ngô Đình Diệm ban hành đạo luật “chống cộng, tố cộng, diệt cộng”, gọi tắt là luật 10-59, buộc các gia đình từ bố mẹ, con cái, vợ chồng đến anh chị em và họ hàng thân thuộc phải tố giác lẫn nhau giết hại lẫn nhau. Lênxđên còn hướng dẫn cho Ngô Đinh Diệm tổ chức các trại trập trung theo những kinh, nghiệm dã tích lũy được từ thời kỳ còn hoạt động ở Philippin. Những trại tập trung này được Ngô Đình Diệm gọi bằng những cái tên rất mỹ miều như “khu trù mật”, “khu dinh điền” hoặc “ấp chiến lược”.
Với sự chỉ đạo trực tiếp của các cố vấn CIA. Ngô Đình Diệm hy vọng sẽ thực hiện được “chiến lược dồn làng gom dân” trên toàn bộ lãnh thổ miền Nam Việt Nam, kiểm soát dược từng người dân và tách rời từng cán bộ “Việt cộng” ra khỏi đám dân thường, thực hiện khầu hiệu “tát cạn nước để bắt cá” CIA cũng giúp Ngô Đình Diệm xây dựng một loạt nhà tù không lồ để giam giữ những người cộng sản, những người kháng chiến cũ, những người có cảm tình với cộng sản, và tất cả những người chống lại Ngô Đình Diệm, kể cả các tín đồ đạo Phật cũng như công nhân, nông dân, trí thức, sinh viên, những nhà buôn lớn nhỏ. Tại miền Nam Việt Nam, dựa vào “đạo luật 10-59”. Ngô Đình Diệm còn tổ chức nhiều “tòa án quân sự lưu động” kéo theo máy chém, lần lượt đi khắp các vùng hành quân càn quét trên lãnh thổ miền Nam Việt Nam, chặt đầu những người chống đối hòng khủng bố, uy hiếp, đe dọa những người khác.
Thế nhưng, Ngô Đình Diệm càng đàn áp khủng bố thì phong trào
cách mạng ở miền Nam Việt Nam càng dâng cao. Việc ra đời của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, cùng với hàng loạt vụ nổi dậy ở Mỏ Cày, Bến Tre... vào thời gian cuối 1960 đầս năm 1961 đã làm cho cả Ngô Đình Diệm lẫn quan thầy Mỹ hoang mang lo sợ.
Bước vào năm 1961, đế quốc Mỹ đã phải thực hiện chiến lược “chiến tranh đặc biệt” ở miền Nam Việt Nam, với công thức cố vấn Mỹ + hỏa lực và bộ binh ngụy, thật sự mở những cuộc hành quân tác chiến vào khu căn cứ cách mạng đang ngày càng phát triển ở miền Nam Việt Nam. Những đơn vị đầu tiên của Mỹ kéo vào miền Nam Việt Nam để hỗ trợ cho ngụy là những đơn vị “lực lượng đặc biệt”, tổ chức theo kiểu “biệt động quân”. Nhiều sĩ quan thuộc “lực lượng đặc biệt” Mỹ vừa làm nhiệm vụ chiến đấu, vừa làm nhiệm vụ huấn luyện cho các lực lượng biệt động của ngụy. Mặt khác, lực lượng biệt động của ngụy trong thời kỳ này cũng đã vượt ra quá khuôn khổ phụ trách của CIA, và thật sự trở thành một lực lượng do cả CIA lẫn lầu năm góc của Mỹ “đỡ đầu”, có nghĩa là vừa được cố vấn CIA tuyển mộ, chỉ dẫn, vừa được các sĩ quan của Lầu năm góc huấn luyện, đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của bộ tổng tham mưu quân đội ngụy.
Trên cơ sở cái gọi là “liên đoàn quan sát 1” thành lập từ năm 1957, đến cuối năm 1960 Ngô Đình Diệm đã phải ký sắc lệnh tổ chức hai liên đoàn, đặt tên là liên đoàn 77 và liên đoàn 31. Thiếu tá Phạm Văn Phú (sau này là trung tướng) được cử làm liên đoàn trưởng liên đoàn 77 và thiếu tá Phạm Duy Tất (sau này là đại tá) được cử làm liên đoàn trưởng liên đoàn 31. Nhiệm vụ của 2 liên đoàn này đều tương tự như nhau, tức là “thu thập và phối kiểm những tin tình báo cùng với phòng nhì thuộc bộ tổng tham mưu ngụy, nhằm tổ chức các cuộc hành quân đột kích vào các vùng căn cứ cách mạng và khu vực giải phóng tại miền Nam Việt Nam, tập kích vào các tuyến đường Trường Sơn từ Bắc vào Nam, kiểm soát các khu vực rừng núi biển phòng không để cho các lực lượng từ miền Bắc thâm nhập vào miền Nam có thể tỏa xuống vùng đồng bằng tạo lực cho phong trào cách mạng đang phát triển.
Đến năm 1964, khi chiến lược “chiến tranh đặc biệt” của Mỹ đã hoàn toàn tỏ ra bất lực, không đàn áp nổi cao trào cách mạng miền Nam Việt Nam, phải chuyển sang chiến lược “chiến tranh cục bộ đưa lính chiến dấu Mỹ vào trực tiếp tiến hành chiến tranh xâm lược miền
Nam Việt Nam, hai liên đoàn 77 và 31 sau khi đổi phiên hiệu thành liên đoàn 111 và 301 lại được sát nhập lại thành một đơn vị lớn, đặt dưới sự chỉ huy của “Bộ tư lệnh lực lượng đặc biệt” do tên thiếu tướng nguy Lê Văn Nghiêm chỉ huy, trực thuộc Bộ tư lệnh lực lượng đặc biệt này còn có các bộ phận như tiểu đoàn biệt kích 91 và các toán biệt kích “Lôi phong”,”Lôi vũ”, “Lôi hổ”.
Trụ sở Bộ tư lệnh lực lượng đặc biệt được chuyển từ Sài Gòn về Nha Trang. Bộ tham mưu của nó thật sự là một cơ quan chiến dấu bao gồm 7 phòng, 5 ban Phòng 1 phụ trách các vấn đề quân số. Phòng 2 chịu trách nhiệm đặc biệt về thu thập tin tức tình báo. Phòng 3 đảm nhiệm các kế hoạch hành quân tác chiến và là một phòng lớn nhất, có 5 ban trực thuộc mang tên: ban hành quân, ban huấn luyện, ban nghi lễ, ban binh thư, ban phiên dịch. Phòng 4 chịu trách nhiêm về hậu cần, Phòng 5 chuyên trách về các vấn đề giáo dục chính trị, quan hệ xã hội, chiến tranh tâm lý. Cuối củng là 2 phòng an ninh và quân y.
Các cố vấn tình báo CIA, có thêm các sĩ quаn quân báo DIA, tiếp tục hoạt động trong bộ tư lệnh lực lượng đặc biệt Mỹ CIA chuyên trách về các mặt chiến tranh tâm lý, an ninh và hoạt động xã hội của bộ tư lệnh lực lượng đặc biệt ngụy. CIA cũng đảm nhiệm thu thập tin tình báo từ miền Bắc Việt Nam đề cung cấp cho Mỹ và ngụy, trong đó có bộ tư lệnh lực lượng đặc biệt. Các cố vấn tình báo CIA, được hỗ trợ thêm bằng các phương tiện quan sát suốt dọc tuyến đường Trường Sơn, nhanh chóng phát hiện ra, miền Bắc Việt Nam không chỉ liên tục chi viện cho cách mạng miền Nam nhưng cán bộ đã từ miền Nam tập kết ra Bắc, mà còn đưa cả một số đơn vị chiến đấu từ miền Bắc vào Nam sau khi Mỹ đã đưa quân vào tham chiến tại miền Nam Việt Nam. CIA nhận định phải lập lại kế hoạch phá hoại miền Bắc Việt Nam và nếu những toán gián điệp cài lại miền Bắc đã bị thủ tiêu thì phải “cấy lại” bằng những toán mới, thâm nhập vào miền Bắc bằng mọi cách, để tiến hành các hoạt động phá hoạt và lật đổ.
7. NHỮNG CON THIÊU THÂN LAO VÀO LƯỚI CỦA MIỀN BẮC VIỆT NAM
Những tài liệu tịch thu của Mỹ ngụy sau khi miền Nam hoàn toàn giải phóng, cộng với lời khai của những tên gián điệp xin đầu thú, cho biết: “từ năm 1957 các cố vấn CIA đã gợi ý cho Ngô Đình Diệm cần phải tăng cường việc tung gián điệp trở lại miền Bắc hoạt động không phải chỉ bằng cách vượt qua giới tuyến quân sự bằng đường bộ mà phải tận dụng đường không và đường biển”. Đến năm 1960, nhu cầu “Bắc tiến” không phải chỉ bao gồm những tên gián điệp thu thập tin tức mà cả những toán biệt kích có vũ trang, vừa thu thập tin, vừa tập kích phá hoại các cơ sở kinh tế, quốc phòng ở miền Bắc Việt Nam.
“Sở phòng vệ duyên hải” ra đời là một bộ phận của Nha kỹ thuật trực thuộc Bộ tổng tham mưu ngụy, chuyên tổ chức hoạt động tình báo gián điệp, phá hoại và quấy rối vùng ven biển và các đảo ở miền Bắc, đồng thời trinh sát và tìm cách ngăn chặn luồng chi viện bằng đường biển từ miền Bắc vào miền Nam. Những hoạt động của “sở phòng vệ duyên hải” kết hợp chặt chẽ với những hoạt động của “liên đoàn quan sát” “trực thuộc” sở liên lạc phủ tổng thống gồm những toán gián điệp biệt kích nhảy dù xuống những vùng hẻo lánh ở miền Bắc Việt Nam sẽ tạo thành một mạng lưới bao gồm cả “mũi dao và lá chắn”, vừa ngăn chặn luồng chi viện bằng dường bộ và đường biển từ miền Bắc vào miền Nam, vừa thân nhập vào miền Bắc bằng đường không và đường biển để tiến hành các hoạt động phá hoại.
Thật ra, ngay từ khi thành lập cái gọi là “Sở liên lạc phủ tổng thống”, Ngô Đình Diệm cũng dã chuần y cho thành lập một “khối hải vận” trực thuộc phòng P.45, tức là phòng chuyên trách việc tung gián điệp biệt kích ra miền Bắc hoạt động. Nhưng trong thời gian dầu việc thâm nhập bằng đường biển của bọn gián điệp biệt kích đã gặp rất nhiều khó khăn do mạng lưới an ninh bảo vệ vùng bờ biển của chúng ta tổ chức chặt chẽ, nhiều toán gián điệp biệt kích bị phát hiện ngay từ khi chưa kịp đổ bộ lên bờ, chưa kịp hoạt động. Một số ít tuy đã đổ bộ được hoặc mới đổ bộ lên bờ, tiến hành được vài hoạt dộng phá hoại lẻ tẻ, nhưng lập tức lại bị sa lưới. Vì vậy, dến cuối năm 1963 Mỹ ngụy
đã phải tạm ngừng hoạt động để “chấn chỉnh tổ chức, củng cố lực lượng” đến năm 1964 mới lại hoạt động với qui mô lớn hơn. Lúc này, hạm đội 7 của Mỹ đã tiến hành nhiều hoạt động sát vùng bờ biển của ta vừa để khiêu khích, thăm dò phản ứng, vừa để hỗ trợ cho ngụy. Ngày 1 tháng 4 năm 1964 khối “Hải vận” của ngụy được chính thức đổi tên thành “sở phòng vệ duyên hải” tăng thêm số quân và trang bị. Một lực lượng “người nhái” gọi là “lực lượng biệt hải” (tức biệt kích đường biển) được cấp tốc thành lập, các cố vấn hải quân của Mỹ đảm nhiệm việc huấn luyện bơi, lặn và bơi đường dài cho bọn gián điệp biệt kích ngụy.
Mới đầu, khi còn gọi là “khối hải vận” lực lượng biệt kích đường biển của ngụy bao gồm có 2 chi cục:
- Chi cục thứ nhất, mang tên Ătlăngtích (Đại Tây Dương) phụ trách chỉ đạo bọn gián điệp biệt kích bơi qua sông Bến Hải hoặc dùng thuyền đưa gián điệp thâm nhập vào miền Bắc. Phạm vi hoạt động của bọn này được giới hạn từ Bến Hải tới Hà Tĩnh.
- Chi cục thứ hai, mang tên Paxiphíc (Thái Bình dương) chuyên dùng thuyền lớn đi sâu, vào miền Bắc để thả gián diệp, biệt kích người nhái đi hoạt động trong phạm vi từ Hà Tĩnh dến tận Quảng Ninh.
Năm 1964, khi “khối hải vận” được chuyển thành “sở phòng vệ duyên hải” do tên đại tá Ngô Thế Linh làm chỉ huy trưởng và tên trung tá Đỗ Văn Tiên làm chỉ huy phó, cơ quan này đã thật sự chuyển thành một bộ máy tác chiến, bao gồm một cơ quan tham mưu (trong đó có 4 ban: nhân viên, an ninh, tiếp vận, thông tin liên lạc) và 2 lực lượng:
- Lực lượng hải tuần gồm 13 tàu biển và thuyền máy cό tốc độ nhanh, trang bị hỏa lực đầy đủ.
- Lực lượng biệt hải người nhái gồm một đại đội chia thành 7 toán nhỏ, đặt dưới sự điều khiển của một ban chỉ huy.
Một loạt chuyên gia hải quân Mỹ đã được cử tới cùng phối hợp với các nhân viện CIA làm “cố vấn” cho lực lượng biệt kích đường biển của ngụy. Trong đống hồ sơ lưu trữ tịch thu được sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng còn ghi rõ họ tên và lý lịch tóm tắt của nhiều cố vấn Mỹ, như trung tá hải quản Bôpphê, cố vấn trưởng trung tá Haorănxơ, cố vấn phó, thiếu tá Gugenman, cố vấn bộ phận hành
chính tiếp vận, đại úy Đơnlop, phụ trách tổ chức hành quân, đại úy Mêtdaoxơ, phụ trách huấn luyện người nhái.
Mặc dù vậy, hoạt động của bọn gián điệp biệt kích người nhái cũng rất hạn chế, tin thu lượm lược “không nhiều và rất ít bảo đảm chính xác”. Vì vậy cố vấn Mỹ lại phải chỉ đạo cho ngụy tiến hành bất cóc nhiều người dân đánh cá ở miền Bắc Việt Nam đang làm ăn ở ngoài khơi, đưa về tận cù lao Chàm ở Hội An để khai thác. Tại đây các “chuyên gia” của CIA đã trực tiếp tiến hành nhiều thủ đoạn mua chuộc, dụ dỗ rồi khống chế, cưỡng bức, dọa nạt, cố “khai thác những tin tình báo ở miền Bắc” thế nhưng, như chính các hồ sơ lưu trữ của Mỹ ngụy đã thừa nhận, những người dân đánh cá này chỉ chăm lo công việc làm ăn, suốt ngày đi khơi, đi lộng, không biết gì mấy về những hoạt động quân sự của Bắc Việt trên đất liền. Hơn nữa, hầu hết những người dân đánh cá bị bắt cóc đều căm phẫn, kịch lịệt phản đối Mỹ ngụy, đòi chúng phải lâp tức trả lại tự do và đưa trở về miền Bắc vì vậy công việc khai thác tin tình báo càng khó đạt được kết quả.
Những báo cáo “tổng kết kinh nghiệm hoạt động” của CIA cũng thừa nhận những hoạt động của bọn gián điêp biệt kích thâm nhập vào miền Bắc Việt Nam “gặp nhiều khó khăn và đạt rất ít kết quả. Vì vậy, CIA chủ trương, nên bù lại bằng cách đầy mạnh các hoạt động của bọn gián diệp biệt kích đồ bộ xuống miền Bắc Việt Nam băng đường không, CIA nhận định, miền Bắc Việt Nam có nhiều khu vực hẻo lánh, thưa dân, nhất là tại khu vực miền núi. Tổ chức cho gián điệp biệt kích nhảy dù xuống các khu vực rừng núi hẻo lánh ở miền Bắc Việt Nam trong đêm tối là công việc “dễ dàng hơn đổ bộ bằng dường biển rất nhiều” bọn gián điệp biệt kích sau khi tiến hành các hoạt động phá hoại hoặc gây cơ sở vẫn có thể “tận dụng đường rừng trở lại miền Nam Việt Nam”.
Có điều, Mỹ, ngụy đã chủ quan, không lường được hết sự lớn mạnh nhanh chóng của nước Việt Namn dân chủ cộng hòa sau khi đánh thắng thực dân Pháp xâm lược. Chỉ một thời gian ngắn sau khi toàn bộ miền Bắc được giải phóng hoàn toàn, ngày 3 tháng 3 năm 1959 lực lượng công an nhân dân vũ trang dã chính thức được thành lập. Đồng thời mạng lưới phòng không của các lực lượng vũ trang nhân dân ta, từ Bắc, Đông Bắc đều được kiện toàn với đầy đủ hệ thống ra đa và các cỡ pháo cao xạ phòng không có thể chiến đấu
trong mọi thời tiết, cả ban ngày lẫn ban đêm.
Căn cứ vào những chỉ thị kịp thời nhậy bén của Ban chấp hành trung ương Đảng, và Bác Hồ, Bộ Công an (nay là Bộ Nội vụ) đã chủ động vạch kế hoạch cụ thể “đề ra nhiều phương án toàn diện dựa vào phong trào quần chúng, sự phối hợp và hiệp đồng chặt chẽ với các lực lượng võ trang, tập trung chỉ đạo các đơn vị, các địa phương triển khai công tác đón đánh gián diệp biệt kích địch, bất kể chúng thâm nhập bằng đường bộ, đường không hay đường biển.
Đêm 27-5-1961, một máy bay hai động cơ của Mỹ-Diệm cất cánh từ Đà Nẵng theo hướng biển, bay ra ngang vùng trời Ninh Bình rồi hạ thấp độ cao vòng lên Mai Châu (Tây Bắc). Hồi 20g 30 phút, chúng thả dù 4 tên gián điệp biệt kích xuống mỏm đồi thuộc khu vực Phù Yên. Dân quân địa phương đã kịp thời phát hiện bao vây theo dõi. Các lực lượng Công an nhân dân ta tiếp tục truy lùng và bắt gọn, thu điện đài võ khí. Chúng đều là những tên đã vào Nam theo địch từ 1951, nay được lệnh CIA quay trở lại miền Bắc hoạt động phá hoại theo kế hoạch mang tên Castor. Đó là những lên biệt kích đầu tiên thâm nhập bằng đường không bị bắt gọn.
Tiếp đó, đến đêm 27 tháng 6 năm 1961, ta lại bắt gọn một toán biệt kích mang tên Ares thâm nhập vùng bờ biển Tiền An, Yên Hưng, tỉnh Quảng Ninh. Từ những vụ biệt kích đầu tiên thâm nhập bằng đường không và đường biển bị sa lưới pháp luật này, lực lượng an ninh ta đã nhanh chóng khai thác, khống chế và khuất phục được những tên bị bắt, buộc chúng bí mật làm việc cho ta. Trong khi đó, bọn chỉ huy của chúng ở miền Nam cứ đinh ninh rằng chúng đã đổ bộ thành công vào miền Bắc. Với nhóm biệt kích đường biển (Ares) với trò chơi nghiệp vụ ta đã bắt thêm được 2 toán 16 tên. Trong kế hoạch Castor của chúng ta đã nhử được 8 toán 39 tên trong đó có chiếc máy bay C76, định ra tiếp tế cho đồng bọn mà CIA không hề biết là đã lọt vào tay lực lượng an ninh nhân dân ta, bị bắn rơi lúc 1 giờ 15 phút đêm 2 tháng 7 năm 1961 trên vùng trời Ninh Bình. Máy bay bị bốc cháy rơi xuống một cánh đồng thuộc xã Tô Hiệu, huyện Kim Sơn. Trên máy bay có 10 tên ngụy, 2 tên bị cháy thui, 1 tên bị chết sau khi máy bay rơi, 7 tên còn lại đều bị thương đã được các lực lượng công an, tự vệ đưa vào bệnh viện cứu chữa nhưng sau đó 3 tên vì bị thương quá nặng cũng dã bị chết, chỉ còn lại 4 tên.
Ngày 15 tháng 11 năm 1961, trừ tên Trần Phúc Lộc bị thương nặng dang còn tiếp tục điều trị 3 tên còn lại là Phan Thanh Vân, Phạm Văn Đăng, Đinh Như Khoa đã bị dưa ra xét xử công khai.
Trước tòa án, tên trung úy Phạm Thanh Vân khai hắn đi lính cho Pháp, được học lái máy bay tử năm 1952, do “có tay nghề”, lái máy bay thành thạo, cho nên khi Mỹ thay chân Pháp hắn đã được bọn ngụy cử làm nhiệm vụ huấn luyện viên hoa tiêu rồi làm trưởng ban hành quân của một phi đoàn máy bay chiến đấu đã từng phục vụ nhiều chuyến thả dù bọn biệt động xuống những khu vực hành quân càn quét, ngoài ra còn nhiều lần thực hiện những chuyến bay dài tới Philippin, Đài Loan, Nhật Bản. Đầu năm 1961 CIA đã tổ chức cho Phan Thanh Vân tập bay thấp, bay đêm để chuẩn bị cho chuyến bay thả gián điệp biệt kích xuống hoạt động phá hoại tại miền Bắc Việt Nam. Trong chuyến bay đêm 1 tháng 7 năm 1961 Phan Thanh Vân được cử làm hoa tiêu trưởng phi cơ.
Phan Thanh Vân kể lại:
“Chiều ngày 1 tháng 7, tôi được lệnh của trung tá Nguyễn Cao Kỳ là chỉ huy trưởng liên phi đoàn vận tải hàng không quân sự miền Nam, báo cho biết đẳng 15 giờ có mặt tại căn cứ không quân. Lúc vào phòng họp, tôi thấy có 3 cố vấn Mỹ, trong trong dó có một người lên là Tôni nói thạo tiếng Pháp. Tôni trao nhiệm vụ cho tôi ngay trong đêm hôm đó phải lái chiếc C47 ra miền bắc thả dù người và vật liệu xuống điểm H đã ghi sẵn trên bản đồ bay. Tiếp đó, đại úy Linh trao cho mỗi nguời chúng tôi một bộ quần áo nâu và dặn chúng tôi phải mặc vào người, phòng khi máy bay gặp tai nan thì để trốn chạy. Đại úy Linh còn trao cho tổ 300 đôla và dặn, nếu gặp tai nạn hỏng hỏc, máy bay buộc phải đáp xuống miền Bắc thì cứ khai đây là máy bay đi buôn thuốc phiện lậu ở Lào. Số tiền 300 đôla là tiền đặt cọc trước, khi về chủ sẽ trả thêm. Ngoài ra còn có bản chỉ dẫn “cách phá hủy máy bay sau khi chạm đất. Trước hết phải tắt công tắc điện, sau đó dùng búa đập vỡ những ống chứa xăng cho chảy hết ra ngoài rồi dùng lửa thiêu hủy máy bay cùng toàn bộ tang vật”.
Tóm lại, cấp trên của chúng đã chuẩn bị chu đáo, chọn tay lái giỏi và căn dặn kỹ cách xử sự khi máy bay rơi. Nhưng sau khi trúng đạn, cả Phan Thanh Vân lẫn những tên còn sống sót không tên nào nghĩ đến chuyện thiêu hủy máy bay để phi tang. Chính vì vậy, ta đã thu
được toàn bộ tang vật gồm có các loại súng trường hai nòng báng gập, loại súng trường một nòng báng rút do công ty chế tạo vũ khi Harintơn và Risácsơn ở Mỹ sản xuất, máy thu phát vô tuyến điện BN2 kiểu RT3, máy phát diện quay tay GN.58, hai điện đài URC4 cùng đầy đủ thuốc chữa bệnh, chữa vết thương, lương khô, gạo sấy và các loại thuốc lá Bông lúa, Hoàn Kiếm, Thăng Long sản xuất lại miền Bắc Việt Nam.
Tên Phạm Văn Đăng, thợ máy, cho biết thêm:
“Sau khi đã nghe phổ biến nhiệm vụ xong, tôi được dẫn vào một phòng nhỏ. Ở đây có một người Mỹ và một người Việt Nam. Người Mỹ bảo tôi đưa cho họ xem bản lý lịch đã được dịch sang tiếng Anh. Sau đó, anh ta dẫn tôi đến trước một cái máy, bắt tôi quay mặt vào phía tường, không được nhìn máy rồi đưa tay trái ra, cho máy đo áp lực áp vào mạch máu tay trái của tôi. Họ dồn dập hỏi tôi nhiều câu, và dặn tôi chỉ được trả lời, hoặc là “có” hoặc là “không” rất nhanh, những câu hỏi rất đột ngột và khác nhau. Đang hỏi tôi “có yêu vợ không” lại hỏi tiếp “có liên lạc với Việt Minh cộng sản không ?” rồi lại quay sang hỏi “có ăn cắp không”, “có thương con không”, “có đọc báo nhân dân ở miền Bắc không”. Hỏi rất nhiều đến mãi 6 giờ chiều mới xong”.
Phạm Văn Dũng còn tiết lộ: “chiếc máy bay này không sơn số hiệu và cờ hiệu. Bên trong có gắn thêm thùng xăng phụ và trang bị 2 động cơ để có thêm sức mạnh, bay được lâu hơn”
Tên Đinh Như Khoa, trung sĩ nhất thuộc Liên đội quan sát 1, kể lại cả một quãng đời “đầy biến động” của hắn. Khoa nói: “Thưa quý tòa, khi cách mạng tháng Tám năm 1945 bùng nổ tôi là một thanh niên đã tham gia cướp chính quyền tại quê tôi ở huyện Quảng Trạch, tỉnh Quảng Bình. Sau đó tôi còn được di học lớp huấn luyện cán bộ quân sự sơ cấp ở Ba Đồn. Nhưng đến năm 1947 do lời dụ dỗ của các cha cố, cụ thể là cha Quang, phó xứ Hòa Ninh, tôi đã phạm sai lầm là thôi không tham gia kháng chiến nữa rồi đền năm 1949 đã đi lính cho Pháp rồi được tuyển chọn làm gián điệp biệt kích tung ra miền Bắc hoạt động. Tôi rầt cảm động và biết ơn vì được tòa cho phép tôi gặp lại ông bố đẻ ra tôi vẫn còn ở lại miền Bắc. Tôi thấy bố tôi béo tốt khỏe mạnh, quần áo sạch sẽ lành lặn chứ không lam lũ như hồi trước. Từ đó tôi càng thấy rõ sai lầm của mình. Cùng trong lúc xử án, chính quyền ta đã cho trưng bầy toàn bộ các
tang vật thu được trên chiếc máy bay C17 bị bắn rơi mà bọn gián điệp biệt kích chưa kip phá hủy hoặc đã cưỡng lại cấp trên, không chịu phá hủy.
Đó là những chiếc súng ngắn có ổ đạn quay cỡ 38 có thể bắn xa 10 mét xuyên qua 7 centimét gỗ thông, những khầu súng ngắn nòng dài cùng cỡ đạn và ổ đạn chuyên dùng của cảnh sát Mỹ; súng trường một nòng báng rút, sung, trường hai nòng báng gập, những chiếc dao đi rừng chuôi gập, dao găm loại lớn, dao găm loại nhỏ; 5 loại đạn dùng cho các loại súng trường, súng ngắn kể trên, 2 loại pháo hiệu. Tất cả các loại vũ khí này, trừ một loại pháo hiện sản xuất tại Nhật Bản, còn tất cả đều sản xuất tại Mỹ. Phần lớn các loại đạn dều có đầu chì khi bằn vào người sẽ nát vụn thành nhiều mảnh nhỏ, rất khó gắp để chữa chạy.
Bên cạnh những cây súng là máy phát diện quay tay, máy phát tín hiệu (moóc-xơ) hai bộ máy thu phát vô tuyến diện chạy pin, 3 loại gương phản chiếu dùng để báo hiệu cho máy bay, 4 loại pháo hiệu.
Ngoài ra, còn có 29 loại thuốc đóng gói dưới сáс dạng bột, viên, nước dùng để chữa nhiều loại bệnh, 16 loại băng để băng bó các vết thương ở đầu, bụng, chân tay, 1 dao chích và 1 bơm hút máu khi bị rắn độc cắn, tất cả đều chế tạo ở Mỹ.
Bọn gián điệp biệt kích này còn mang theo đầy đủ nhiều loại lương khô, gạo sấy, thịt khô, lạp sườn, đường, kẹo, muối, dụng cụ chế biến nước mặn nước ngọt và lưới đánh cá, lưỡi câu cá... để có thể tạo điều kiện cho chúng hoạt động dài ngày không cần tiếp tế.
Tất cả nhân chứng, vật chứng này đã tố cáo đầy đủ mọi mưu đồ phá hoại của CIA và thất bại thảm hại của chúng.
Tính đến cuối năm 1963, được sự giúp đỡ tận tình của nhân dân các lực lượng dân quân tự vệ, bộ đội biên phòng, quân đội nhân dân, các lực lượng an ninh đã phối hợp và hiệp đồng chặt chẽ bắt gọn 12 toán gián diệp biệt kích thâm nhập bằng đường biển và đường không trong các khu vực Tây Bắc, Đông Bắc, Quảng Bình. Ta còn khám phá hàng chục vụ gián đệp ẩn nấp tại nhiều khu vực, cùng với hàng chục tổ chức phản động trong đó có một số tên phản động trong tôn giáo và trong dân tộc miền núi.
Bước sang năm 1962, công tác phòng chống gián điệp biệt kích
càng được đầy mạnh với nhiều kinh nghiệm, phong trào quần chúng trở thành thiên la địa võng, tính tới ngày 5-8-1964 là thời điểm đế quốc Mỹ trắng trợn ném bom Miền Bắc, ta đã tiêu diệt và bắt sống trên 60 toán với gần 500 tên, gồm đủ các toán thâm nhập bằng đường biển, đường không và đường bộ. Nếu tổng hợp cả loại gián điệp con thoi qua đường biên giới thì gồm hai trăm toán với trên 2000 tên, làm phá sản hoàn toàn âm mưu rất thâm độc của Cục tình báo TW. Mỹ và tay sai ở miền Nam Việt Nam là nhằm tạo dựng lên lực lượng chống cộng trong lòng Cộng sản ở miền Bắc để hòng phá hoại chủ trương chi viện cho chiến trường miền Nam.
8. BÀN TAY VẤY MÁU CỦA CIA TRONG
HÀNH ĐỘNG THÍ BỎ NGÔ ĐÌNH DIỆM
Cuối năm 1956, Étuôt Lênxdên quay trở về Mỹ làm việc tại “tổng hành dinh” của cơ quan CIA, chuyên trách về các vấn đề Viễn đông và vẫn thường xuyên theo dõi tình hình diễn biến ở Việt Nam. Những bản báo cáo đầu tiên từ Sài Gòn gửi về Oasinhtơn, đối với Étuốt Lênxđên quả là “rất đáng vui mừng phấn khởi”: chính quyền Ngô Đình Diệm do “bàn tay ma” của Lênxđên góp phần quyết định trong việc dựng lên, rõ ràng “đang được củng cố”. Với chế độ “gia đình trị”, bố trí các tay chân thân tín nắm giữ các cơ quan then chốt trong chính phủ, lại có cả lực lượng cảnh sát và nhất là lực lượng quân đội ngày càng được nắm bởi các tướng tá do Mỹ đào tạo. Lênxđên đinh ninh “đây là một chính quyền vững chắc nhất thế giới”. Mặc dù từ năm 1961 cao trào nổi dậy của nhân dân miền Nam Việt Nam đang ngày càng phát triển, nhưng Lênxđên tin chắc rằng, với chiến lược “chiến tranh đặc biệt” do Lầu năm góc tiến hành ở miền Nam Việt Nam, cộng với các “chiến dịch” liên tục tiến công miền Bắc bằng các hoạt động phá hoại do CIA phụ trách, Lênxđên hy vọng “trong tương lai không xa tình hình miền Nam Việt Nam sẽ trở lại ổn định” như chính Lênxđên đã nhiều lần công khai tuyến bố với các nhà báo, cũng như đã nhiều lần khẳng định với Tổng thống Mỹ.
Từ năm 1958, sau khi trở về Mỹ làm việc tại cơ quan trung ương của CIA, Lênxđên đã được phong quân hàm chuẩn tướng và đến năm 1963 lại được phong quân hàm thiếu tướng trước khi nghỉ hưu. Thế nhưng, cũng đúng cái năm 1963 này, cơ đồ Ngô Đình Diệm tại miền Nam Việt Nam lại đổ ụp !
Như chính các tài liệu mật của Lầu năm góc đã ghi nhận, ngay từ năm 1961 tức là khi bắt đầu “thí nghiệm” cuộc chiến tranh can thiệp của Mỹ vào miền Nam Việt Nam với công thức: “bộ binh ngụy + cố vấn và hỏa lực Mỹ” chính quyền Kennơđi đã bắt đầu “đánh dấu hỏi” về năng lực của Ngô Đình Diệm, một con bài do Lênxđên góp phần dựng lên và ra sức bảo vệ. Sau cuộc đảo chính không thành công của Nguyễn Chánh Thi, giữa Bộ Ngoại giao Mỹ và Cục Tình báo trung
ương CIA đã có nhiều tranh cãi xoay quanh vấn đề “nên” thay ngựa giữa dòng bằng cách gạt bỏ Diệm hay nên củng cố thế lực cho Diệm hơn nữa nhằm giúp Diệm thanh trừng tận gốc các lực lượng chống đối. Bộ Ngoại giao Mỹ chủ trương, nếu không gạt bỏ Diệm thì ít nhất cũng phải gây sức ép đòi Diệm phải “mở rộng chính phủ” thực hiện một vài chính sách có tính chất “mị dân” gọi là phương pháp “vặn đầu van nhằm xì bớt hơi” các thế lực chống dối. Lúc đầu CIA chủ trương nên bám giữ con bài Ngô Đình Diệm đến cùng, nhưng sau đó cũng lại nghiêng theo ý kiến: dù chưa gạt bỏ Ngô Đình Diệm thì ít nhất cũng phải loại trừ Ngô Đình Nhu, hủy bỏ chế độ “gia đình trị” của Diệm bằng cách buộc Diệm phải “mở rộng chính phủ”.
Vận mạng của Ngô Đình Diệm đã được quyết định bởi một báo cáo mật của Râugiơ Hinxman, Vụ trưởng Vụ điều tra và nghiên cứu thuộc Bộ Ngoại giao, đề ngày 3-12-1962 trong đó nhấn mạnh:
... “Tổng thống Ngô Đình Diệm cũng như nhiều quan chức Mỹ tại Nam Việt Nam cho rằng hiện nay đã xuất hiện nhân tố chiến thắng trong cuộc chiến đấu chống nổi loạn của Việt cộng. Mức độ lạc quan đó là quá sớm”. Bản báo cáo này cũng vạch rõ: “Tình hình chính trị nội bộ khó đánh giá hơn nhiều. Diệm đã tăng cường kiểm soát bộ máy hành chính và quân sự. Tuy không có nhiều tin về tình trạng bất mãn đối với sự lãnh đạo của Diệm trong giới thượng lưu và các quan chức chính quyền nhưng vẫn còn có nhiều dấu hiệu dáng lo ngại, nhất là sự chỉ đạo của Diệm đối với các nỗ lực chống nổi loạn. Cũng có những tin tình báo cho biết, các quan chức quân sự và dân sự trọng yếu vẫn đang tiếp tục tham gia vào các âm mưu đảo chính chống Diệm”.
Bản báo cáo kết luận: “Cuộc đảo chính lật Diệm có thể xảy ra bất cứ lúc nào và sẽ dễ dàng bùng nổ nếu như cuộc chiến đấu chống Cộng sản không thuận lợi, nếu Việt cộng tiến hành có kết quả một loạt cuộc hành quân quan trọng và nổi bật, hoặc nếu thương vong của quân đội Việt Nam cộng hòa tăng lên nhiều. Hy vọng thành công nhất có thể sẽ là một cuộc đảo chính do những người không cộng sản lãnh đạo, bao gồm các quan chức quân sự và dân sự trung, cao cấp”.
Như vậy là, chính quyền Mỹ đã tính đến chuyện phải ủng hộ một cuộc đảo chính lật Diệm. Tốt nhất là một cuộc đảo chính do chính các tướng tá của Ngô Đình Diệm tiến hành, những người đã được Mỹ đào
tạo qua những lớp “bổ túc quân sự”, được coi là những phần tử “thân Mỹ”. Nếu không, nhân dần miền Nam chẳng chóng thì chày sẽ hoàn thành công cuộc cách mạng lật đổ Ngô Đình Diệm, hoặc sẽ xảy ra một cuộc đảo chính quân sự do các “thế lực thân cộng sản gây га”.
Đầu năm 1963, LuyXiêng Cônen được lệnh của CIA “tăng cường thâm nhập vào các giới quân sự, dân sự cao cấp ở miền Nam Việt Nam” và để điều tra, thăm dò khả năng đảo chính, “vừa để chuẩn bị nắm lấy” những con bài mới trong âm mưu lật Diệm, không để lọt vào tay cộng sản. Như mọi người còn nhớ, Luy xiêng Cônen chính là viên trung tá tình báo người Mỹ gốc Pháp đã từng làm phó cho Êtuốt Lênxdên trong phái đoàn quân sự SMM của Mỹ, đồng thời cũng là người trực tiếp chỉ đạo các hoạt động phá hoại của CIA tại miền Bắc Việt Nam trong giai đoạn 1951 - 1956.
Theo chính lời Nguyễn Văn Vỹ, nguyên trung tướng, cựu tổng trưởng quốc phòng ngụy tiết lộ với cán bộ ta khi ra trình diện trước chính quyền cách mạng 7-5-1975 thì chính Vỹ là tướng ngụy đầu tiên được Cônen “móc ngoặc” ngay từ năm 1955, khi Lênxdiên và Cônen mới đặt chân tới miền Nam Việt Nam. Lý do chủ yếu là vì từ năm 1945, sau khi bị Nhật Bản đảo chính, Nguyễn Văn Vỹ lúc dó là một trung úy trong quân đội Pháp đã theo đám tàn quân do trung tá Pháp Lơcốc đóng ở Móng Cái chỉ huy, rút chạy sang Trung Quốc, Nguyễn Văn Vỹ trở thành một gián điệp hoạt động dưới sự chỉ huy của đại tá tình báo Pháp Cácbonen trong khu vực vịnh Hạ Long. Chính trong thời gian hoạt động thám báo ở khu vực Hoa Nam tiếp giáp với Việt Nam này, Nguyễn Văn Vỹ đã “bắt liên lạc” được với Cônen rồi quen thân với Cônen từ đó.
Sau chuyến gặp lại Nguyễn Văn Vỹ tại Sài Gòn năm 1955, Cô-nen đã dùng Vỹ làm chiếc “cầu nổi” để “kết bạn” với Dương Văn Minh. Lê Văn Kim, Trần Văn Đôn, Tôn Thất Đính. Tất cả những viên tướng ngụy này đều đo Pháp đào tạo nhưng từ năm 1956, sau khi quân đội Pháp buộc phải rút hết khỏi Việt Nam, đã lại ngả luôn vào quỹ đạo thân Mỹ. Cônen dược CIA coi như “một nhân vật quan trọng bậc nhất” trong việc lôi kéo những tướng ngụy này. Vốn là một người Mỹ gốc Pháp, Cônen không có khó khăn gì trong việc “kết bạn và chơi thân” với những viên tướng ngụy đã sống lâu năm ở Pháp, nói tiếng Pháp thạo hơn tiêng Việt.
Trong khi chưa kịp “đào tạo và bồi dưỡng” những sĩ quan được cử sang Mỹ học, CIA coi việc “lôi cuốn” những viên tướng nắm giữ các “trọng trách” trong quân đội ngụy Nguyễn Văn Vỹ, Dương Văn Minh, Lê Văn Kim, Trần Văn Dôn, Tôn Thất Đính... là một công việc quan trọng hàng dầu. Tuy nhiên, sau khi phế truất Bảo Đại hồi cuối năm 1966, Ngô Đình Diệm cũng gạt luôn một số tướng ngụy quá thân Pháp như Nguyễn Văn Hinh, Nguyễn Văn Vỹ, buộc họ phải sống lưu vong tại Pháp (1). Cônen lập tức tìm cách “nắm chặt” Dương Văn Minh, Trần Văn Đôn. Là một người rầt ham mê môn quần vợt, hầu như ngày nào Dương Văn Minh cũng tới câu lạc bộ thể thao tại Sài Gòn. Tại đây, Dương Văn Minh không những chỉ “gặp gỡ thân mật” với Cônen, mà còn “có nhiều quan hệ mật thiết” với cả đại sứ Mỹ tại Sài Gòn Hăngrê Cabốt Lốt.
Điều vô cùng bất hạnh cho Ngô Đình Diệm là trong lúc trưởng phái đoàn viện trợ quân sự Mỹ, tại Sài Gòn là tướng Pao Hakin chủ trương “chỉ nên cải tổ chính phủ của Diệm” thì đại sứ Mỹ Cabốt Lốt lại nhấn mạnh đến sự cản thiết “phải lật đổ Ngô Đình Diệm”. Những tài liệu mật của Lầu năm góc tiết lộ: “Đại sứ Cabốt Lốt nhanh chóng trở thành một người tham gia âm mưu đảo chính lật Diệm, trong khi đó tướng Hakim lại chủ trương ngược lại. Trong một bức diện gửi về Mỹ cho tướng Mácxen Taylo lúc đó là chủ tịch hội đồng tham mưu trưởng liên quân, để ngày 30-10-1963, tức 48 giờ trước khi xảy ra đảo chính, tướng Hakim đã viết: “ tôi muốn gợi ý là chúng ta đừng thay ngựa quá nhanh. Suy cho cùng thì dù đúng hay sai chúng ta cũng đã ủng hộ Diệm suốt 8 năm nay, Mỹ đã là nguời mẹ tuyệt diệu và người bố ân tình của Diệm. Từ khi lên cầm quyền, Diệm vẫn trông cậy rất nhiều ở chúng ta. Theo tôi, lúc này mà truất phế Diệm, gạt bỏ Diệm đi là điều không nên”.
Nhưng hỡi ôi, dù Ngô Đình Diệm có rất trung thành với quan thầy Mỹ, dù Ngô Đình Diệm có là “đứa con đầu long” do chính CIA Mỹ đẻ ra, thì đến nay, với chính sách thực dụng của Nhà trắng, Ngô Đình Diệm vẫn cứ phải thanh toán. Từ Tổng thống Mỹ Giôn Kennơđi đến cục trưởng Cục tình báo trung ương Mỹ ở Oasinhtơn là Giôn Muccon và giám đốc chi nhánh CIA ở Sài Gòn là Rivácsơn đều đồng ý đi nước cờ “thí Diệm”, tức là chấp nhận chủ trương của đại sứ Mỹ Cabốt Lốt tại Sài Gòn.
Những tài liệu mật của Lầu năm góc tiết lộ:
“Từ nhiều tuần trước khi bùng nổ cuộc đảo chính, phái đoàn Mỹ ở Sài Gòn đã duy trì nhiều cuộc tiếp xúc bí mật với các viên tướng âm mưu làm đảo chính thông qua một trong những nhân vật có kinh nghiệm nhất, tháo vát nhất của Cục tình báo Trung ương, một cựu chiến binh đã hoạt động tại Đông Dương là trung tá Luyxiêng Cônen. Trung tá Cônen được các tướng “ngụy” Việt Nam tin cậy đến mức, trong khi họ làm đảo chính, Cônen cũng có mặt với họ ngay trụ sở Bộ Tổng tham mưu quân lực Cộng hòa. Ngày 25-10 tức một tuần trước khi xảy ra đảo chính, trong một bức điện gửi về Hội đồng an ninh quốc gia Mỹ, đại sứ Cabốt Lốt đã mô tả Cônen là một nhân vật không thể thiếu được của CIA trong mưu đồ đảo chính này. Cabốt Lốt đã nhấn mạnh trong bức điện:
“Chi nhánh CIA (tại Sài Gòn) đã thực hiện chu đáo những chỉ thị của tôi. Mọi cuộc gặp giữa tướng Trần Văn Đôn và Cônen đều được đích thân tôi thông qua. Như chúng ta đã biết, Cônen là bạn thân từ 18 năm nay của tướng Đôn và tướng Đôn dā tỏ ra không muốn giao dịch với bất cứ ai ngoài Cônen. Tôi không tin rằng, một người Mỹ nào khác đang liên hệ chặt chẽ với các tướng (ngụy) lại có thể đem lại kết quả được hơn Cônen. Chúng ta không nên ngăn cản một cuộc đảo chính quân sự vì hai lý do. Truớc hết, hình như ít nhất mọi nguời đều tin rằng chính phủ sau này sẽ không tồi tệ và chao đảo như chính phủ hiện nay. Hai là, sẽ cực kỳ không khôn ngoan nếu chúng ta dội một giáo nước lạnh vào âm mưu làm đảo chính. Chúng ta cần nhớ rằng, đây là con đường duy nhất để có được một sự thay đổi chính phủ ở Nam Việt Nam”.
Ngày 30 tháng 10 năm 1963, Cabốt Lốt lại gửi một bức diện nữa cho Hội đồng an ninh quốc gia ở Hoa kỳ, vạch rõ:
“Chi nhánh CIA tại Sài Gòn từ lâu nay đã phân tích kỹ những lực lượng tiềm tàng dự định làm đảo chính và đã nhận dịnh, các tướng lĩnh có lẽ đã tính toán khá sít sao triển vọng thành công của họ. Có thể, họ cũng đã dự kiến, một khi họ đã bắt dầu hành động thì không phải chỉ có những đơn vị đã dự tính trong kế hoạch mà còn có nhiều đơn vị khác nữa cũng sẽ đi theo họ.
Chúng tôi đã dự kiến, Cônen sẽ gặp Đôn vào đêm 30-10, hoặc Sáng sớm 31-10. Chúng tôi cũng đã dự kiến, khi cuộc đảo chính bắt
đầu bùng nổ, chính phủ Diệm sẽ yêu cầu tôi hoặc tuớng Hakin dùng ảnh hưởng của mình để giập tắt cuộc đảo chính đó đi. Lúc đó, chúng tôi sẽ trả lời, ảnh hưởng của chúng ta nhất định không thể lớn hơn tổng thống kiêm tổng tư lệnh quân đội cộng hòa Việt Nam. Nếu tổng thống cộng hòa Việt Nam cũng không trừ bỏ được cuộc đảo chính, thì nhất định chúng ta cũng sẽ không làm được điều đó.
Lúc cuộc đảo chính bùng nổ, chính phủ Diệm có thể sẽ xin Mỹ cung cấp cho máy bay lên thẳng để di tản những nhân vật chủ chốt đi nơi khác. Vấn đề này sẽ cần phải nghiên cứu rất sát, nhưng nhất định chúng tôi sẽ không đưa máy bay và phi công của chúng ta bay vào giữa hai luồng lửa đạn của các lực lượng đối địch. Tốt hơn hết là chúng ta sẽ tổ chức một cuộc ngừng bắn rồi mới đưa những nhân vật đó sang một nước láng giềng hoặc tốt hơn cả là đưa bọn họ đi Saipan (2) Nếu các nhân vật cao cấp và gia đình họ xin cư trú tại sứ quán Mỹ hoặc tại các cơ sở khác của Mỹ thì có lẽ chúng ta sẽ chấp nhận lời yêu cầu đó.
Về phần các tướng lĩnh, rất có thể họ cần tiền. Trong phạm vi những số tiền đó có thể trao tay một cách kín đáo. Tôi cho rằng chúng ta nên cung cấp cho họ miễn là chúng ta tin chắc cuộc đảo chính sẽ được tổ chức tốt để có nhiều triển vọng thành công”.
Tòa đại sứ Mỹ ở Sài Gòn cũng dãdự kiến trước nhiều khả năng có thể sảy ra sau khi bùng nổ đảo chính. Những khả năng này đã đưuọc tính toán kỹ trong nhiều cuộc họp mặt bí mật giữa đại sứ Mỹ. Cabốt Lốt, giám đốc chi nhánh CIA tại Sài Gòn, Risacson và “kiến trúc sư” của cuộc đảo chính là điệp viên CIA Luyxiêng Cônen, lúc này đã được phong cấp quân hàm từ trung tá lên đại tá. Bức diện của đại sứ Mỹ Cabốt Lốt từ Sài Gòn gửi về Oasinhton ghi nhận:
“Trong trường hợp cuộc đảo chính thành công, chắc chắn các tướng lĩnh làm đảo chính sẽ yêu cầu chúng ta nhanh chóng công nhận họ kèm theo một sự bảo đảm nào đó, ví dụ như tiếp tục sự viện trợ quân sự và kinh tế. Chúng ta cần chuẩn bị trước để kịp thời đưa ra những lời tuyên bố, một khi tình hình đã trở nên rõ ràng. Trong những bản tuyên bố này, chúng ta khẳng định lập trường của chúng ta là tiếp tục cuộc chiến tranh chống Việt cộng cho đến thắng lợi cuối cùng. Đài tiếng nói Hoa Kỳ có thể là một phương tiện quan trọng để loan báo những lời tuyên bố này.
Nếu cuộc đảo chính thất bại, chúng ta sẽ cố gắng thu nhặt những mảnh vỡ nát. Từ hồi tháng 8, chúng ta đã cam kết với các tướng lĩnh là sẽ giúp đỡ cho gia đình họ di tản nếu âm mưu đảo chính không thành công. Chúng ta cần tôn trọng cái đó, nếu diều kiện cho phép. Nhất định, nếu cuộc đảo chính thất bại thì sự đồng lõa của Mỹ vào cuộc đảo chính này sẽ bị lên án. Chúng ta cần dự kiến truớc và phải chuẩn bị những biệp pháp đối phó, với tất cả khả năng của chúng ta.
Nếu cuộc đảo chính tỏ ra nhùng nhằng không phân thắng bại và xảy ra một tình thế xung đột kéo dài thì chúng ta phải đứng ra làm trung gian hòa giải nhằm giải quyết vấn đề này, vì lợi ích của cuộc chiến tranh chống Việt cộng. Điều đó có thể đem lại một số lợi thế nào đó, khiến cho chính phủ Diệm phải nhượng bộ. Dĩ nhiên, chúng ta sẽ chuốc lấy sự nhục nhã tử cả hai phía, vì cả hai phía đều oán trách vai trò “trung gian hòa giải” của chúng ta. Thế nhưng, dù sao sự nhục nhã này cũng ít ghê tởm hơn so với tình trạng bế tắc mở cửa cho Việt cộng thu được thắng lợi. Chúng ta coi một sự bế tắc như vậy là khả năng ít xảy ra nhất.
Tôi không biết có thể còn có những bằng chứng nào nữa về quyết tâm của những người làm đảo chính. Sự thật đã rõ ràng là những nhân vật này sẵn sàng liều mạng. Nếu tôi là một quan tòa xét đoán lòng người thì ngay buổi sáng hôm qua, khi nói chuyện với Đôn tôi đã nhìn thấy rõ trên nét mặt của Đôn thể hiện sự chân thành và quyết tâm.
Tất nhiên, một sự tính toán sai có thể phá hoại vị trí của chúng ta ở Đông Nam Á. Nhưng chúng ta cũng sẽ vấp phải những hiểm họa ghê gớm nếu như không hành động gì cả. Lẽ dĩ nhiên nếu chúng ta tin chắc là cuộc đảo chính sẽ thất bại thì chúng ta sẽ làm tất cả mọi việc để ngăn không cho nó bùng nổ”.
Rất rõ ràng, những câu chữ được ghi bằng giấy trắng mực đen trong tập hồ sơ mật của Lầu năm góc đã tố cáo cụ thể, cuộc đảo chính ngày 1 tháng 12 năm 1963 lật đổ tên tay sai Ngô Đình Diệm là một mưu đồ thâm độc có bàn tay của quan thầy Mỹ nhúng vào. Cả CIA lần sứ quán Mỹ ở Sài Gòn đều đã chuẩn bị rất kỹ, tính toán rất chi ly cho từng khả năng có thể xảy ra khi cuộc đảo chính bùng nổ. Hiển nhiên, đây là một mưu đồ “có cân nhắc và tính toán trước” của Mỹ.
Vẫn theo những tài liệu của Mỹ ngụy để lại, từ ngày 5 thắng 10
năm 1963 đã có cuộc tiếp xúc bí mật giữa điệp viên CIA Cônen và tướng ngụy Dương Văn Minh. Cuộc đối thoại tiến hành bằng tiếng Pháp là ngôn ngữ mà cả Minh lẫn Cônen đều rất thông thạo. Minh yêu cầu Mỹ ủng hộ cuộc đảo chính một cách cụ thể, tức là sau khi lật được Diệm rồi Mỹ vẫn duy trì kế hoạch viện trợ cho chính quyền ngụy ở mức trên 500 triệu đôla một năm. Minh cho biết, trong số các tướng ngụy “quyết tâm lật đổ Diệm” có Trần Văn Đôn và Lê Văn Kim là những nցười hăng hái nhất, còn Trần Thiện Khiêm thì trong lúc này hãy còn lừng chừng, chưa dứt khoát. Minh cho biết, mục tiêu của cuộc đảo chính là thủ tiêu Ngô Đình Nhu và Ngô Đình Cẩn là hai nhân vật bị nhân dân căm ghét nhất, nhưng vẫn duy trì Ngô Đình Diệm làm “bù nhìn” để tránh một sự xáo trộn lớn. Cônen đồng ý νới kế hoạch của Dương Văn Minh và báo cáo về trung tâm CIA. Đến lượt CIA báo cáo với Nhà Trắng, được đích thân Tổng thống Mỹ Kennơđi phê chuẩn.
Ngày 11 tháng 10, Cônen lại gặp Dương Văn Minh báo tin cho Minh rõ “Tổng thống Mỹ đã bật đèn xanh” Dương Văn Minh liền cử Trần Văn Đôn từ giờ phút đó liên lạc thường xuyên với Cônen, đều dặn báo cáo với Cônen từng chi tiết trong những bước ráo riết chuẩn bị đảo chính lật đổ Ngô Đình Diệm. Có nghĩa là, từ ngày 12 tháng 10 trở đi, ClA trực tiếp theo dõi và chỉ đạo sit sao cuộc đảo chính này.
Trong thời gian này tòa đại sứ đứng đầu là Henri Cabốt Lốt hoàn toàn ủng hộ ClA trong mưu đồ đảo chính. Nhưng tướng Pao Hakin tư lệnh Bộ chỉ huy viên trợ quân sự Mỹ vẫn chưa tán thành triệt dê. Tôi 22 tháng 10, trong khi tới dự chiếu đãi tại sứ quân Anh tại Sài Gòn, tướng Mỹ Pao Hokin đã gặp tướng ngụy Trần Văn Đôn cùng tới dự tiệc. Hakin đã gọi riêng Đôn ra một nơi và rỉ tai: “Lật Diệm trong lúc này sẽ là một sai lầm lớn”. Ngày hôm sau, Đôn tức tốc đi gặp Cônen, xin ý kiến. Cônen nói: “Cứ vững tâm tiến bước không nên dẫm chân tại chỗ”. Hai người cùng quyết định chọn 26 tháng 10 làm ngày đảo chính. Sở dĩ chọn ngày này là vì đó là ngày Quốc khánh do Diệm đặt ra kỷ niệm ngày lật đổ Bảo Đại. Ngày hôm đó các đơn vị tiến hành đảo chính có thể kéo về Sài Gòn mà không bị nghi ngờ, vì mọi người sẽ nghĩ là về dự lễ duyệt binh.
Nhưng trong thời gian này, tướng Hakin cũng gửi điện về Mỹ cho Mácxoen Taylo, yêu cầu Taylo “gây áp lực với tổng thống Kennơdi
đừng để xảy ra cuộc đảo chính mà Hakin dự kiện sẽ gây mất ổn định đem lại nhiều hậu quả không có lợi cho Mỹ”. Mặt khác, Hakin tiếp tục khuyên Trần Văn Đôn không nên làm đảo chính. Do đó ngày 26 tháng 10 đã trôi qua nhưng Diệm vẫn tồn tại.
Sáng 28 tháng 10, Ngô Đình Diệm tiếp các phái đoàn ngoại giao tại Sài Gòn, Trần Văn Đôn cũng tham dự. Đôn đã kéo đại sứ Mỹ Cabốtlốt ra một nơi, xin ý kiến. Lốt trả lời vắn tắt: “Hãy nghe Cônen, đừng nghe Hakin!” Thế là rõ ràng CIA đã thắng Lầu năm góc trong chủ trương lật Ngô Đình Diệm,
Ngày 29 tháng 10; đại sứ Cabốtlốt gửi điện mật báo cáo với tổng thống Mỹ Kennơđi: “các tướng Sài Gòn nhất quyết lật Diệm, không ai ngăn được họ” Lúc này chi nhánh CIA tại Sài Gòn, chủ yếu là Cônen đã lôi kéo được Tôn Thất Đính là tư lệnh biệt khu Sài Gòn đứng về phía đảo chính. Tập hồ sơ lý lịch các tướng ngụy do CIA nắm giữ ghi rõ, lúc này Đính mới 37 tuổi, thuộc vào loại tướng trẻ của Ngô Đình Diệm. Đính là một sĩ quan được Pháp đào tạo và được Ngô Đình Cẩn che chở, đỡ đầu. Thông thường, một sĩ quan như vậy rất trung thành với triều đại nhà Ngô. Chính vì vậy Tôn Thất Đính đã được coi như một sĩ quan “cận vệ” của Ngô Đình Diệm, được Diệm trao cho giữ chức Tư lệnh biệt kհu thủ đô, nắm giữ lực lượng bảo vệ Sài Gòn, trong đó có dinh tổng thống của Ngô Đình Diệm.
Tuy nhiên, Tôn Thất Đính cũng có khá nhiều điểm yếu như mọi sĩ quan ngụy. Đó là tham tiền, tham danh vọng địa vị, cơ hội chủ nghĩa, dễ trở cờ, thay thầy đổi chủ. Chỉ qua lần tiếp xúc với Cônen, Tôn Thất Đính đã từ phía một viên tư lệnh có trọng trách bảo vệ Sài Gòn và dinh tổng thống trở thành một viên tướng tay sai của CIA, ngấm ngầm liên minh với bọn đảo chính lật Diệm.
Điều bất hạnh cho gia đình họ Ngô là cho mãi tới khi bùng nổ cuộc đảo chính, cả Ngô Đình Diệm, Ngô Định Nhu lẫn Ngô Đình Cần đền không hay biết gì về sự phản trắc của Tôn Thất Đính. Hơn thế nữa, sau khi được mật báo về “nhiều tin đồn sẽ bùng nổ đảo chính” Ngô Đình Nhu vẫn còn tin cậy vào Tôn Thất Đính, trao cho Đính soạn thảo các phương án “chống đảo chính”, thậm chí còn đặt lực lượng biệt động quân ở Sài Gòn cũng như quân đoàn 4 của tướng Huỳnh Văn Cao ở vùng đông bằng sông Cửu Long dưới sự điều động của Tôn Thất Đính. Với quyết định này, chính Ngô Đình Nhu đã tự tước bỏ mất
lực lượng chống đảo chính, đồng thời còn tăng cường sức mạnh cho phe đảo chính lật Diệm.
Từ trụ sở CIA tại Sài Gòn ngay sát nách dinh tổng thống ngụy, trùm tình báo Cônen theo dõi từng ngày từng giờ những bước đi của bọn tướng ngụy tay sai trong mưu đồ lật đổ Ngô Đình Diệm. Cuốn nhật ký của CIA trong ngày 1 tháng 11 năm 1963 ghi rõ: Đúng 10 giờ sáng đại sứ Cabốt Lốt thân hành đưa đô đốc Hari Phen tư lệnh các lực lượng Mỹ ở Thái Bình Dương qua thăm Sài Gòn đến chào xã giao Tổng thống Ngô Đình Diệm. Buổi nói chuyện diễn ra một cách tẻ nhạt. Nửa chừng câu chuyện Ngô Đình Diệm đánh bài ngửa, nói thẳng trước mặt Lốt và Phen là Diệm đã nắm được nguồn tin chính xác sẽ xảy ra đảo chính, nhưng Diệm dã có kế hoạch đối phó. Cabốt Lối và Hari Phen gượng gạo nói vài lời không đầu không đuôi rồi cáo từ. Cabốt Lốt trở về sứ quán bình thản ăn cơm rồi đi ngủ trưa như thường lệ. Hari Phen ra sân bay Tân Sơn Nhất, cùng di có Hakin và Trần Văn Đôn.
Trong lúc này, tại một biệt thự của Trần Văn Đôn được dùng là “đại bản doanh chỉ huy cuộc đảo chính” Cônen đã có mặt, mang theo một chiếc cặp da đựng 3 triệu đồng tiền ngụy, tương đương với 40.000 đôla sẵn sàng, chi “vào những việc cần thiết” khi bọn tướng ngụy làm đảo chính yêu cầu. Nhóm đảo chính mời Cônen đến ngồi ở một chiếc bàn có máy diện thoại, một máy nối liền với chi nhánh CIA ở Sài Gòn, một máy nối liền với nhà riêng có vợ con Сônen. Một trung đội lính “ mũ nồi xanh” của Mỹ đúng 15 phút trước khi bùng nổ cuộc đảo chính đã có mặt ở nhà riêng của Cônen, sẵn sàng bảo vệ vợ con Cônen khi có giao tranh giữa lực lượng đảo chính với số quân hiện còn trung thành với Ngô Đình Diệm.
Đúng giờ đã định, cuộc đảo chính bùng nổ dưới sự chỉ đạo của Cônen, chính xác như một chiếc đồng hồ điện tử. Do không gặp sức cản ở vùng ngoại vi bảo vệ Sài Gòn, những đơn vị tiến hành đảo chính nhanh chóng tiến vào khu trung tâm bao vây dinh tổng thống, trụ sở tổng nha cảnh sát và đánh chiếm đài phát thanh. Trần Văn Đôn đi tiễn Hari Phen từ sân bay đã trở về trung tâm thành phố, trực tiếp tới dài phát thanh dọc bản “hiệu triệu Quốc dân” và loan báo cuộc đảo chính lật đổ Ngô Đình Diệm đã bùng nổ.
Trong lúc này hai anh em Diệm, Nhu đã chủ động di chuyển xuống
hầm cố thủ được xây dựng bí mật trong dinh tổng thống, có đường giao thông ngầm thoát ra ngoài. Chờ mãi không thấy tiến hành kế hoạch “phản đảo chính” Diệm sốt ruột quay máy điện thoại trực tiếp nói chuyện với Trần Văn Đôn. Toàn bộ cuộc nói chuyện diện thoại giữa Điệm và Đôn đều được CIA ghi âm và lưu trữ.
Dưới đây là những lời trao đổi cuối cùng giữa Trần Văn Đôn và Ngô Đình Diệm.
Diệm: Tướng Đôn đấy à? Các ông đang làm trò gì thế? Đôn: Kính thưa Tổng thống chúng tôi đã nhiều lần yêu cầu Tổng thống sửa đổi chính sách thể theo nguyện vọng của Quốc dân nhưng không dược đáp ứng. Bây giờ quân đội phải ra tay, thể theo ý nguyện của dân chúng. Kính mong Tổng thống thông cảm.
Diệm: Tại Sao các ông không thảo luận với tôi? Tại sao chúng ta không thương lượng được với nhau để sửa chính sách, hoàn thiện đường lối?
Một lát sau, Diệm lại quay máy điện thoại gọi cho các tỉnh trưởng, quận trưởng nhưng không có ai trả lời: Tướng Huỳnh Văn Cao tư lệnh quân đoàn 4, nguồn hy vọng cuối cùng của Ngô Đình Diệm lúc này cũng đang bị “vít chặt” tại sở chỉ huy ở Vùng 4 chiến thuật, trong khu vực đồng bằng sông Cửu Long, không còn một lực lượng nào có thể giải vây ứng cứu cho Ngô Đình Diệm được nữa.
Chờ đến 8 giờ tối. Diệm và Nhu theo đường hầm bí mật lẻn ra ngoài dinh tổng thống tới nhà một lái buôn người Hoa là Mã Tuyển ở Chợ Lớn. Chuyến đi trót lọt. 6 giờ sáng hôm sau, 2 tháng 11 Diệm gọi điện thoại cho Dương Văn Minh, chấp nhận từ chức với điều kiện chức Tổng thống phải trao lại cho phó Tổng thống đương nhiệm hoặc chủ tịch hạ viện. Minh không đồng ý. Nửa giờ sau Diệm lại gọi điện thoại cho Trần Văn Đôn.
Diệm: Tôi là Tổng thống. Tôi sẵn sàng từ chức, sẵn sàng di tản ra nước ngoài nhưng việc này phải tiến hành công khai đúng với các nghi thức dành cho một vị nguyên thủ quốc gia.
Đôn: (ngừng một lát, trao đổi ý kiến với đồng bọn rồi trả lời): Thưa ngài, tôi thành thật nói rằng chúng không thể nào chiều ý ngài được. Diệm: Không sao, cảm ơn.
Một lát sau, Diệm lại gọi dây nói cho Đôn. Mãi tới lúc này Diệm mới
báo cho nhóm đảo chính biết đang trú ẩn tại nhà thờ thánh FrăngXoa Xaviê ở chợ Lớn và yêu cầu cho xe đến đón Diệm Nhu về để ra sân bay di tản. Nhóm đảo chính cử tưởng Mai Hữu Xuân cùng đi với thiếu tá Dương Hữu Nghĩa và đại úy Nguyễn Văn Nhung trên chiếc xe bọc thép M113 đi tìm Diệm Nhu. Trên đường về, cả Diệm và Nhu đều bị giết chết bằng những nhát dao băm vằm trên mặt.
Lúc này Cônen vẫn ngồi lại trong “đại bản doanh” của nhóm đảo chính. Không thấy đưa Diệm Nhu về, Cônen hỏi Minh: - Họ đâu rồi?
Minh trả lời:
- Tự sát rồi!
Cônen hỏi tiếp
- Ở đâu?
Minh đáp:
- Ở nhà thờ. Ông có muốn xem không?
Cônen:
- Không!
Thế là chấm dứt tấn bi kịch đảo chính lật đổ Ngô Đình Diệm rồi giết chết cả hai anh em Diệm Nhu. Toàn bộ cuộc đảo chính này, từ lúc mới nhen nhóm chuẩn bị đến khi kết thúc đều được ghi trên giấy trắng mực đen và ghi âm trên những cuốn băng từ tố cáo hành động tàn ác của CIA.
Khi những tài liệu này bị phanh phui ra ảnh sảng, nhiều tờ báo xuất bản ở Mỹ đã cùng nhận xét: trong toàn bộ lịch sử hoạt động của CIA ở Việt Nam, chỉ có một thành công dáng ghi nhớ nhất, một hành động tiến hành trót lọt nhất, đó là cuộc đảo chính lật đổ Ngô Đình Diệm. Nhưng mỉa mai thay, đây lại là một nuớc cờ thí xe, một cuộc thanh trừng bằng cách giết hại cả Diệm lẫn Nhu, những tên tay sai vào loại trung thành nhất của Mỹ, do chính CIA dựng lên rồi lại quật đổ. Đó cũng là bài học đau đớn và nhục nhã cho tất cả những tên tay sai phản động ôm chân quan thầy Mỹ
(1) Sau khi Dương Văn Minh lật đổ Ngô Đình Diệm cuối năm 1963, Nguyễn Văn Vỹ mới trở về nước
(2) Một hòn đảo của Mỹ ở trung tâm Thái Bình Dương
"""